|
Post by Huu Le on Sept 27, 2007 3:17:07 GMT 9
Y đức - Điều thiêng liêng đang khóc Thứ sáu, 21/9/2007, 08:19 GMT+7 Bí mật lớn ngành y Tại sao Y đức - một giá trị truyền thống thiêng liêng lại trở nên mong manh đối với các giá trị hiện đại như vậy? Không chỉ ở Việt Nam, Y đức bị đe dọa ở nhiều nơi trên thế giới. “Nỗi đau Trung Quốc – bí mật lớn trong ngành y” do Nhà xuất bản Phát thanh Truyền hình Quốc tế Trung Quốc phát hành tháng 01/2007, kể về những nỗi đe dọa buồn bã ấy… Tác giả của nó là “ông nghị” đa sự Tằng Đức Cường, người có chân trong Thường vụ Hội đồng nhân dân thành phố An Khang, Trung Quốc. Xuất phát từ những điều tai nghe mắt thấy và nỗi trăn trở của một người đi sâu đi sát và đại diện cho tiếng nói của quần chúng, Tằng Đức Cường thâm nhập tìm hiểu và mở rộng điều tra, để nhận chân bóng đen trong giới y bác sĩ Trung Quốc, vạch ra được thực trạng mà những người dân muốn biết nhưng không hề dễ dàng, nói hộ những lời họ muốn nói mà không nói ra được. Những con chữ mực đen giấy trắng ấy đã cộng hưởng một cách mãnh liệt với suy nghĩ và nguyện vọng của đông đảo độc giả. Bìa cuốn sách “Nỗi đau Trung Quốc- Bí mật lớn trong ngành y” Nỗi bất an và khủng hoảng này đến từ chuyện một người già đã tiêu tốn hàng chục triệu tệ (tương đương 20 tỷ VNĐ) cho 82 ngày nằm viện; chuyện một phụ nữ nông dân vì không đủ sức để trả tiền điều trị quá cao đã bị người nhà cho vào đài hóa thân hỏa thiêu; chuyện một sản phụ khó đẻ vì không có tiền đến viện phải tự mổ bụng lấy con; chuyện một người lao động vì không trả nổi viện phí mà bị từ chối, phải chết đau đớn ngoài hành lang bệnh viện; chuyện một đôi vợ chồng nông dân vì không tiền chữa bệnh mà cả hai đã nhảy sông tự vẫn; chuyện vô số người dân quê không thể đi khám phải nằm nhà chờ chết… Cuốn sách có tên Nỗi đau Trung Quốc vốn là một tập sách, đưa số phận các nhân vật phải chịu những thảm kịch thương tâm, bày ra chân thực trước mắt độc giả, khiến người đọc không khỏi gai người. Những người dân thường phải khám bệnh với giá đắt đỏ, phải chịu nhiều khó dễ không phải là nỗi đau của riêng ai. Những bi kịch thực tế ấy không chỉ của thiểu số, mà đã khúc xạ thành nỗi bi ai của toàn xã hội, của thời đại. “Nỗi đau Trung Quốc” với sức xuyên thấu của nó, giúp chúng ta thấy được tính cấp bách và quan trọng của việc phải đổi mới thể chế và củng cố y đức. Vì sao chúng ta phải khó khăn đến thế để được khám bệnh? Tác giả cuốn sách đã nói với chúng ta sự thực: căn nguyên của việc khó được khám bệnh là vì giá khám cao, mà nguyên nhân chính đến từ những hủ bại trong ngành y tế. Tất cả những ngành nghề liên quan tới y tế liên kết với nhau bằng chuỗi lợi ích các bên cùng có lợi, từ các hãng - công ty – xí nghiệp sản xuất dược phẩm tới các cửa hàng bán thuốc, từ bệnh viện nhà nước tới bệnh viện tư nhân, từ bác sĩ, y tá tới người quản lý. Đứng trước lợi ích, họ vứt bỏ lòng nhân đạo và y đức. Họ bòn rút tiền của người bệnh bằng mọi cách có thể, độ to của gan, độ cao của thủ đoạn, độ đen của trái tim là những thứ mà những người sẵn sàng hãm hại bệnh nhân không thiếu. Trong những ngành nghề liên quan tới y tế, tồn tại một “hang đen”, một “ổ đen”, một “đường dây đen”, một cuốn “sổ thanh toán đen”, một trang “mạng đen”, ai cũng có thể sờ thấy, nhìn thấy, nhưng ai nấy đều ngầm hiểu, anh đen tôi cũng đen. Giữa cái mạng lưới đen liên kết chằng chịt ấy, bệnh nhân đương nhiên trở thành những nạn nhân không lối thoát. Những ai từng bị bệnh, từng đi bệnh viện đều có cảm giác bị xử ép trước giá tiền khám quá cao, nhưng rất ít người biết vì sao lại như vậy. Trong mắt của khá nhiều bệnh nhân, bệnh viện là do nhà nước lập ra, nhà nước không ăn hiếp dân, lại càng không bắt nạt người bệnh. Vì vậy, bất kể chi phí y tế có cao thế nào, họ đều cho rằng hợp lý. Xuất phát từ sự hiểu lầm ấy, một số người không đủ tiền đến viện phải nằm nhà chờ chết nhưng không hề oán hận bệnh viện thu phí cao, chỉ tự trách mình ít tiền. Cuốn sách này còn giúp bạn đọc hiểu rằng, khám bệnh khó không phải là vì họ có quá ít tiền, mà là khó ở chỗ viện phí quá đắt. Giá thuốc cũng không phải là do nhà nước quy định, mà những người dựa trên danh nghĩa nhà nước đã thao túng giá, mưu lợi cá nhân. Một loại dược phẩm hoặc thiết bị muốn vào được bệnh viện, muốn bán được cho bệnh viện phải có “hoa hồng” cho giám đốc, trưởng khoa, bác sĩ và các nhân viên liên quan khác. Một loại dược phẩm hoặc thiết bị muốn vào được bệnh viện, muốn bán được cho bệnh viện phải có “hoa hồng” cho giám đốc, trưởng khoa, bác sĩ và các nhân viên liên quan khác. Hãng nào có mức “hoa hồng” cao, hãng đó mới có khả năng đi được qua cổng bệnh viện, thuốc của hãng đó mới xuất hiện nhiều hơn trên đơn thuốc cho bệnh nhân. Mức “hoa hồng” được chiết khấu từ mức giá bán lẻ, giá một loại dược phẩm càng cao thì “hoa hồng” cho những người liên quan càng nhiều. Vậy là các hãng dược phẩm thi nhau nâng giá để thỏa mãn lòng tham của những người được lợi. Rốt cuộc, những người bỏ tiền ra để trả cho khoản “hoa hồng” đó không phải là các nhà cung cấp dược phẩm, mà là những bệnh nhân không biết chút gì về tình cảnh bị bóc lột của mình. “Chữa trị quá độ” là một danh từ mới lạ đối với rất nhiều người, nghe thì rất trung tính, lại còn có vẻ ôn hòa. Nhưng sau khi mổ xẻ nó, chúng ta không thể không kinh hãi. Ví dụ, bệnh nhân kể bộ phận sinh dục của mình bị ngứa, bác sĩ kiểm tra xong biết đó chỉ là một bệnh thông thường như viêm âm đạo chẳng hạn nhưng ông ta sẽ nhỏ nhẻ nói với bạn, cổ tử cung bị thối rữa rồi, là bệnh về giới tính; bệnh nhân chỉ bị viêm nhiễm, bác sĩ sẽ bảo chưa thể chẩn đoán chính xác được, có khả năng là ác tính; khi những thiết bị đơn giản như ống nghe hoàn toàn có thể xác định căn bệnh, bác sĩ lại yêu cầu bạn sử dụng những máy móc tân tiến để chẩn đoán; khi chỉ cẩn kiểm tra một hai chỉ số là có thể biết được những bệnh thông thường, bác sĩ lại lập một hạng mục dài bắt bệnh nhân kiểm tra các bộ phận cơ thể; uống vài viên thuốc giá vài tệ là có thể chữa khỏi cảm mạo vặt rồi, bác sĩ lại kê đơn bắt bạn mua ít nhất ba loại tân dược đặc trị ở nơi nào đó, lại thêm một số loại thuốc viên, xirô ngọt lịm để uống, đồng thời còn muốn bạn uống kháng sinh ba ngày liên tục… Những thủ đoạn lừa đảo kiểu đó, bệnh nhân bình thường không biết. Còn bác sĩ thì lợi dụng sự thiếu hiểu biết và lo lắng về bệnh tật của bệnh nhân, lợi dụng lòng tin và sự lệ thuộc của bệnh nhân vào mình để “phóng đại” bệnh tình, bệnh nhẹ mà chữa nhiều; hoặc không bệnh mà thành có. Tóm lại là tận dụng mọi khả năng để bòn rút tiền của bệnh nhận. Đó là bản chất của cụm từ “chữa trị quá độ”. Ngành y vốn sinh ra vì sứ mệnh làm giảm nỗi đau khổ của nhân loại, phục vụ sức khỏe của con người. Nhưng hiện nay, nó đã xa rời tôn chỉ của chủ nghĩa nhân đạo. Hiển nhiên, tự thân ngành này đã nhiễm sâu căn bệnh trầm kha, cơ thể đang mục rữa, chức năng đã rối loạn. “Nỗi đau Trung Quốc” là tiếng chuông cảnh báo chúng ta. Có lẽ xuất phát từ lý do thị trường, nhà xuất bản đã đề thêm dòng tít phụ trên trang bìa cuốn sách “Bí mật lớn trong ngành y”. Kỳ thực, giá trị của cuốn sách không đơn giản dừng lại ở việc “bật mí”. 1/3 cuốn sách 280.000 chữ này được dành để nhìn lại và suy ngẫm về lịch trình 20 năm cải cách y tế vừa qua của Trung Quốc, phân tích một cách sâu sắc nguyên nhân khiến 19 lần chính phủ lần lượt hạ giá thuốc mà người dân vẫn chưa được hưởng lợi một chút nào. Theo tôi, thay vì nói đây là cuốn sách về bí mật lớn của ngành y thì nên nói: Đây là bản báo cáo bệnh án của ngành y Trung Quốc, nó ghi lại một cách chính xác toàn bộ lịch sử căn bệnh của ngành, các biểu hiện của bệnh, các biện pháp chữa trị đã được tiến hành… Điều đặc biệt đáng quý là cuốn sách đã khảo sát lại từ đầu các phương án chữa trị trước đây, phân tích một cách biện chứng nguyên nhân chữa trị mà không thuyên giảm, để công chúng tham gia hội chẩn, cung cấp những căn cứ có ích và những hướng suy nghĩ có tính xây dựng. Ý nghĩa của cuốn sách là ở chỗ, thông qua việc vạch ra một vấn đề, phân tích vấn đề, suy ngẫm về vấn đề để thu hút mọi người tìm kiếm một kế sách tốt, tìm ra biện pháp chữa trị căn bệnh trầm kha đã “ăn” rất sâu vào cơ thể , sau đó sẽ kê thuốc, diệt trừ bệnh tận gốc. Nhuệ Anh (Theo Báo Đọc sách Trung Hoa, số 10 ra ngày 18/04/2007)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 15, 2010 7:24:04 GMT 9
Mô hình kinh tế chính trị Trung quốc
Nguyễn Trường 21/03/2010 KỶ NGUYÊN TÂN TRUNG QUỐC
Tại trung tâm Trùng Khánh, ở miền Tây Trung Quốc trên bờ Sông Dương Tử, một tháp tưởng niệm sáu tầng đã được xây cất dành cho những người đã hy sinh trong cuộc chiến chống Nhật. Sau khi ngưởi Nhật phát động cuộc chiến xâm lăng vào năm 1937, chính quyền TQ đã phải di chuyển thủ đô từ Nam Kinh lên Trùng Khánh. Quyết định dời đô đã lôi kéo theo chiến dịch oanh tạc của Nhật, và Trùng Khánh đã bị tàn phá trong chiến tranh.
Một năm sau ngày thành lập Tân Trung Quốc (1949), Chủ Tịch Mao Trạch Đông đã chính thức khai trương Tháp Tưởng Niệm Nhân Dân Giải Phóng (People's Liberation Memorial Tower). Cách đây 20 năm, Tháp Tưởng Niệm là kiến trúc cao nhất thành phố. Ngày nay, ngôi tháp bị bao che bởi ít nhất cũng ba tòa nhà chọc trời khổng lồ trong khu trung tâm thương mãi. Tọa lạc tại góc một khu phố dành cho du khách tản bộ, tòa tháp nhìn chẳng khác một tiệm hotdog ở Manhattan.
Sáu thập kỷ vừa qua đã được đánh dấu bằng hai giai đoạn: giai đoạn I (1949-1978), dưới thời Mao, giai đoạn đói kém và cách mạng văn hóa; giai đoạn II, cũng kéo dài ba thập kỷ, dưới thời Đặng Tiểu Bình, giai đoạn cải cách và mở cửa, như người TQ thường gọi.
Tuy vậy, sau sáu thập kỷ, TQ vẫn còn là một xứ tương đối nghèo nàn. Theo IMF, TQ đứng thứ 100 trên thế giới dựa trên lợi tức theo đầu người (per capita income). Yang Jiemian, chủ tịch các Viện Nghiên Cứu Quốc Tế ở Thượng Hải, đã gián tiếp nhắc đến tiềm năng bất ổn trong quá trình phát triển của TQ. Ông nói: "Thiểu số thượng lưu cầm quyền đã đồng thuận, TQ cần phải giữ đúng hướng: ba mươi năm qua đã đem lại nhiều thành tựu trong mọi mặt. Chúng tôi hy vọng trong cùng đường lối, nhưng với trọng tâm hơi khác, TQ có thể tiếp tục như thế 30 năm nữa"[1].
Nhưng liệu TQ còn có thể có thêm một giai đoạn 30 năm giống ba thập kỷ vừa qua hay không? Giai đoạn 30 năm thứ ba của Tân Trung Quốc bắt đầu, khi cuộc khủng hoảng tài chánh thế giới phơi bày những nhược điểm quan trọng của chủ nghĩa tư bản tân tự do toàn cầu, khi nguồn cung nhiên liệu hóa thạch tiệm giảm, hiện tượng rối loạn khí hậu tiệm tăng, và sự cạnh tranh kiểm soát các tài nguyên chiến lược ngày một tăng tốc.
Trong khi đó, TQ đang trong giai đoạn thực thi một chương trình kỹ nghệ hóa và đô thị hóa lớn nhất trong lịch sử nhân loại, một đề án đòi hỏi những ngạch số đầu tư và nhiên liệu hóa thạch khổng lồ. Chẳng khác gì chúng ta đang chứng kiến một cuộc đua xe đường núi khi băng tuyết từ đỉnh sụp đổ, đang tuôn tràn xuống trước đoàn xe.
Trong một dịp tiếp đón du khách tham quan nhà máy sản xuất xe hơi ở Trùng Khánh, hướng dẫn viên của hãng Chang'an Motors, chỉ các minivans hình hộp đang tuôn ra từ dây chuyền lắp ráp, đã hãnh diện tuyên bố: "có khoảng 800 triệu dân quê cần những xe như thế!"[2].
Đã hẳn, anh ta nói đúng. Như Yu Qingtai, đại diện thương thuyết đặc biệt về thay đổi khí hậu, đã có dịp nói: "Không nên chờ đợi TQ mãi mãi là một vương quốc xe đạp"[3]. Nhưng thử tưởng tượng 800 triệu xe hơi mới!
Những gì đang diễn ra ở TQ thật lớn lao và gây 'sốc'. Sự pha trộn giữa hoạch định và thị trường, giữa độc đoán và phân quyền, giữa kỷ năng và tham nhũng, vừa củng cố vừa bài bác mọi luận cứ về mô hình kinh tế chính trị. Vì vậy, sau nhiều lần viếng thăm ngắn hạn một xứ 1,4 tỉ dân, người ta rất dễ đi đến những kết luận sai lầm.
Nguy cơ sai lầm càng tăng khi khách tham quan thường được tháp tùng bởi những hướng dẫn viên có thể là đảng viên đảng Cộng sản hoặc các cựu quan chức nhà nước.
Điều cần ghi nhớ, ở TQ, giới thượng lưu có rất nhiều ảnh hưởng. Thực vậy, họ thường là mẫu người Leninist tiên phong với phong cách trí thức kiểu Mỹ (meritocracy). Như Xu Kuangdi, nguyên thị trưởng Thượng Hải và đương kim chủ tịch Viện Hàn Lâm Kỷ Sư TQ (Chinese Academy of Engineering) đã nói, " Cho phép tôi nói một cách gẩy gọn, hầu hết các doanh nhân thành công hay học giã hay kỹ sư - họ đều đã trở thành đảng viên Đảng Cộng Sản Trung Quốc (CPC)"[4]. QUAN HỆ GIỮA CHÍNH QUYỀN VÀ NGƯỜI DÂN
Trong thực tế, một khế ước xã hội bất thành văn chi phối quan hệ giữa cấp lãnh đạo và quảng đại quần chúng. Theo đó, chính quyền bảo đảm đem lại một tỉ suất tăng trưởng từ 8 đến 10% GDP, và 24 triệu việc làm mới mỗi năm. Để đổi lại, người dân sẽ không đặt nặng vấn đề chính đáng của CPC.
Đây không phải một khế ước dễ thực hiện đối với chính quyền, thực ra, cũng đã có nhiều dấu hiệu rắc rối. Thực vậy, năm 2007 khoảng 80.000 vụ biểu tình phản đối đã được ghi nhận ở TQ, và mạng Internet đã đem lại một diễn đàn phê bình ngày một ồn ào các chính sách của nhà nước. Đề tài nóng bỏng nhất là nạn tham nhũng , đã được công luận chú ý nhiều tiếp theo sau cuộc động đất ở Tứ Xuyên năm 2008, khi theo nhiều người, chính tham nhũng đã là nguyên nhân và phải chịu trách nhiệm về sự sụp đổ của các trường ốc được xây cất không theo đúng luật lệ. Một vài quan chức nhà nước đã phải thú nhận, đe dọa lớn nhất đối với Đảng là nạn tham nhũng, một đe dọa từ bên trong. Mặc dù đã có vài vụ truy tố các viên chức cao cấp, chẳng hạn, vụ án liên quan đến 9.000 nghi can đang tiếp diễn ở Trùng Khánh, một cuộc thăm dò của Cơ Quan Thông Tấn TQ (China News Agency) cho biết: tham nhũng là đề tài quan tâm số một của người TQ.
Ngoài tham nhũng, còn phải nói đến nhiều thách thức kinh tế thuần túy như duy trì tỉ suất tăng trưởng cao, đặc biệt trong tình trạng suy thoái toàn cầu; xuất khẩu, chiếm 35% GDP của TQ, trong năm 2009, đã sụt giảm 25%; sáu triệu sinh viên tốt nghiệp đại học đang cần tìm kiếm việc làm. Được hỏi liệu điều gì sẽ xẩy ra nếu tỉ suất thất nghiệp ở TQ tăng lên mức 10%? Một viên chức chính quyền địa phương gần Đập Tam Hợp (Three Gorges Dam), đã quả quyết: điều đó sẽ không thể xẩy ra trong hệ thống hiện nay. Các quan chức TQ luôn tỏ ra tin tưởng ở tình trạng ổn định. Tuy nhiên, đôi khi các nhà quan sát vẫn có thể bất chợt bắt gặp dấu hiệu những bất trắc và đe dọa đối với trật tự công cộng. Wen Tianping, phát ngôn viên của chính quyền Trùng Khánh, đã tiết lộ, "các quan chức chính quyền TQ đang đối đầu với rất nhiều áp lực. Chúng tôi làm việc dưới nhiều áp lực nặng nề và chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn"[5].
Khó khăn lớn nhất là vấn đề di trú. Nếu các xứ phát triển như Hoa Kỳ và thành viên Liên Hiệp Âu châu luôn đối diện với dân nhập cư từ thế giới đang phát triển, TQ cũng ở trong hoàn cảnh tương tự. Điểm khác biệt là TQ luôn đối diện với cả hai thế giới, phát triển và đang phát triển, ngay bên trong biên giới của chính mình.
Phương cách đối phó với dòng nhập cư của TQ cũng không mấy khác các quốc gia phát triển. Giấy phép cư trú hay chế độ "hộ khẩu" ràng buộc người dân với quê quán, qua hình thức buộc chặt các dịch vụ xã hội - y tế, hưu bổng, và quan trọng hơn cả, trường học - vào nơi cư trú. Nếu những tường rào cản và luật lệ khó lòng chận đứng dòng di dân từ Mexico đến Hoa Kỳ vì động lực kinh tế quá chênh lệch, những quy luật nội bộ của TQ cũng không ngăn chặn được dòng chảy di dân từ nông thôn ra thành thị.
Như Paul Mak, một doanh nhân Mỹ gốc Hoa, làm việc cho công ty Mary Kay Hoa Kỳ ở Thượng Hải 12 năm qua, đã nói: "những di dân nầy mãi mãi vẫn là nhân công du cư. Một nhân công du cư không thể trở thành một thường trú nhân ở Thượng Hải. Ngày nay, nếu có bằng đại học, bạn có thể đến, bằng thiếu học vấn, bạn vô phương. Bạn thuộc tầng lớp vô danh bất định"[6].
Lớp người đông đảo sống bên lề xã hội đã khiến chính quyền TQ luôn trăn trở, bởi lẽ nhà cầm quyền muốn tránh kinh nghiệm của nhiều xứ đang phát triển, từ Brazil đến Ấn Độ, từng trải nghiệm sự lan tràn của những khu nhà ổ chuột, chen chúc, nghèo khổ, và khó lòng kiểm soát, trong những thành phố lớn của họ.
Wen, phát ngôn nhân Thành Phố Thượng Hải, đã nói, "Chúng tôi đã học được nhiều bài học từ các xứ khác, kể cả cái gọi là bẩy sập của các xứ Mỹ La Tinh trong quá trình đô thị hóa. Chính quyền các xứ nầy đã không suy nghĩ chính chắn về chương trình đô thị hóa. Đông đảo dân quê đổ ra thành thị và đã không thể kiếm được việc làm. Chính vì vậy, nhiều khu nhà ổ chuột đã xuất hiện ở các xứ nầy"[7].
Như một thú nhận đã không thể kiểm soát dòng nhân công du cư, chính quyền Thượng Hải gần đây đã loan báo những cải cách, cho phép các nhân công du cư gửi con đến các trường công lập trong thành phố nơi họ làm việc. Dù ngăn chặn các nhân công nhập cư trái phép là vấn đề rất quan trọng, nhưng tạo một tầng lớp lao động thấp kém từ các con em thiếu học cũng là một hậu quả nhà cầm quyền Thượng Hải quyết định phải cố tránh bằng mọi giá.
Bên cạnh hố cách biệt thành thị-thôn quê còn có một hố cách biệt giữa các tầng lớp xã hội. Dân nông thôn là tầng lớp cách mạng nguyên thủy của TQ. Trong khi hàng trăm triệu thôn dân còn bị buộc chặt vào cuộc sống thiếu thốn tiền kỹ nghệ, các tầng lớp thiểu số cầm quyền ở Thượng Hải và Bắc Kinh đang sống cuộc đời vương giả, còn hơn cả các ngân hàng gia Goldman Sachs. Một món khai vị, ở nhà hàng ăn toàn bằng kính, trên lầu thượng bảo tàng viện mỹ nghệ, giá 40 USD, trong khi lợi tức theo đầu người của khoảng 800 triệu nông dân TQ vào năm 2007 chỉ 50 USD mỗi tháng. Quản lý dòng chảy nhân công và định cư các di dân từ nông thôn ra thành thị cũng là phương tiện quản lý một cội nguồn căng thẳng xã hội rất dễ bùng nổ. TRÙNG KHÁNH - THÍ ĐIỂM ĐẦY THAM VỌNG
Trùng Khánh là một TQ thu hẹp. Với một diện tích bằng bang Maine ở Hoa Kỳ, Trùng Khánh có một dân số 31 triệu, với môt thị trấn lớn 5 triệu dân và một số thành phố vệ tinh. Trên phương diện hành chánh, năm 1997, Trùng khánh đã được nâng cấp thành tỉnh thí điểm. Và chính quyền địa phương đã tập trung nổ lực giải quyết vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị ngay trong phạm vi lãnh thổ tỉnh. Chính quyền tỉnh hy vọng dùng Trùng Khánh làm mô hình thí điểm để tìm giải pháp cho các vấn đề TQ đang phải đối phó.
Trong nhãn quan chính quyền Trùng Khánh, hoạch định là yếu tố then chốt. Theo Qian Lee, nhân viên Phòng Kinh Tế Đối Ngoại, "Chúng tôi có sẵn trong đầu kế hoạch, thời khóa biểu , và mục tiêu mỗi khi làm bất cứ việc gì"[8].
Wen nói: "Chúng tôi, chính quyền cấp tỉnh, hướng dẫn và giúp phân loại những ai có thể đến các thành phố. Di dân được xếp vào vài tầng lớp. Nhóm đầu tiên sẽ đến trung tâm thành phố. Nhóm thứ hai đến sáu trung tâm cấp khu vực chúng tôi đang xây cất. Và nhóm thứ ba sẽ đến những khu phố kế cận làng quê của họ, như các thành phố nhỏ ...Chúng tôi có 31 khu trung tâm và 103 thành phố nhỏ"[9]. Đối với mỗi nhóm - trung tâm Trùng Khánh, sáu thành phố vệ tinh, và 31 khu trung tâm - chính quyền quyết định mức dân số hằng năm cho ba năm sắp tới.
Trùng Khánh, rất tự hào với viễn kiến hoạch định của chính mình, đã xây một phòng triển lãm 50 triệu USD trên bờ sông Dương Tử, để trưng bày mô hình quá khứ, hiện tại, và tương lai của tỉnh. Trọng tâm của phòng triễn lãm là mô hình thành phố rộng 892 thước vuông. Nhân viên hướng dẫn bấm nút đầu, màn ảnh buông xuống mô hình, các con sông với mầu xanh da trời chói sáng; bấm một nút khác, các khu phố bật sáng cho thấy những công trình xây cất sẽ hoàn thành trong 5 năm tới, rồi 10 năm tới. Cuối cùng, hướng dẫn viên bật tất cả đèn, một Trùng Khánh tương lai thu nhỏ đầy ánh sáng xuất hiện. Sau hết, nhân viên hướng dẫn đưa tới một phòng với màn hình 360 độ, kiểm soát bởi hệ thống vi tính, chiếu toàn cảnh đô thị tương lai. Không giống Trùng Khánh bên ngoài, luôn ảm đạm và mù sương, Trùng Khánh trong mô hình ngập đầy ánh sáng mặt trời, và có lẽ do sơ suất của tác giã mô hình, không một bóng người trong thế giới Trùng Khánh mới - với các căn hộ chung cư dọc bờ sông đắt tiền, vận động trường lộ thiên, và các hành lang trong các tòa cao ốc - là người Trung Quốc.
Những nét đặc trưng sống động dọc các hành lang trong khu triễn lãm, phản ảnh một niềm tin cao độ vào hoạch định khoa học tiến bộ, đem lại cho du khách một cảm nhận khác xa bộ mặt chán chường buồn tẻ của nước Mỹ năm 2009. Không có gì phản ảnh niềm tin sinh động tốt hơn là Đập Tam Hợp. TQ đã bỏ ra 15 năm và 30 tỉ USD để xây dựng công trình, ước lượng sẽ cung cấp 4% điện lực TQ, tương đương với 500 nhà máy nhiệt điện. Và 1,25 triệu cư dân dọc bờ sông Dương Tử đã phải giải tỏa, 1.500 địa điểm cổ kính, kể cả đền chùa, đã bị nhận chìm.
Đối với thiểu số quyền lực ở TQ, tương lai là tất cả. Mặc dù văn minh TQ đã trải dài trên 5000 năm, chằng ai buồn để ý đến những gì đã xẩy ra trước năm 1978. Chủ nghĩa tương lai cực đoan đó rất dễ trở thành đề tài diểu cợt, nhưng hình như đây là thế giới quan duy nhất người ta có thể bám víu trước những thử thách các nhà hoạch định TQ đang phải khống chế. Thử chọn bất cứ thành phố lớn nào ở Hoa Kỳ và bắt đầu nhận thêm 500.000 người mỗi năm. Không lâu, thành phố đó sẽ sụp đổ. Không dễ gì thiết kế một hệ thống cống rảnh cho một thành phố tăng trưởng theo nhịp đó. Thử hỏi 10 triệu cư dân trong các khu ổ chuột ở Mumbai, đời sống của họ chìm đắm trong rác thải hôi hám chỉ vì không ai có thể tiếp cận một hệ thống cống rãnh. Vì vậy, mô hình Trùng Khánh đang đem lại hy vọng, ít ra trên bình diện kỹ thuật, và là viễn kiến xem như đã đạt trình độ tuyệt tác đầy ấn tượng, đang được theo đuổi và thực hiện. CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VỚI NHỮNG NÉT ĐẶC TRƯNG TRUNG QUỐC
Thái độ luôn bị ám ảnh bởi hoạch định đô thị của người TQ dính liền với niềm tin ở tính ưu việt của hoạch định kinh tế. Theo diễn giải của Phái Tân Tự Do Hoa Kỳ, mô hình TQ chứng tỏ chủ nghĩa tư bản đã giúp giải phóng hàng triệu người dân khỏi đói rách: những cải cách thị trường đã đưa đến tăng trưởng và thịnh vượng qua sự cởi bỏ các xiềng xích can thiệp của nhà nước.
Lối giải thích "câu chuyện ngụ ngôn TQ" trên đây có quá nhiều thiếu sót: các định chế nòng cốt của kinh tế như viễn thông, năng lượng, vận tải, nhất là tài chánh, đều do nhà nước kiểm soát. Chẳng hạn, bốn ngân hàng quốc doanh lớn nhất ở TQ đã chiếm tới 80% thị phần.
Hoạch định như chính quyền TQ thực thi được người Mỹ xem như một đường lối lỗi thời tai họa và mất hết uy tín, chẳng khác gì sở khí tượng quốc gia hoàn toàn dựa vào chiêm tinh.
Trong thực tế, tạm quên các nhược điểm của sự can thiệp của chính quyền, khu vực tài chánh phần lớn do chính quyền kiểm soát đã giúp TQ tránh khỏi chẳng những các hệ lụy tai họa của khủng hoảng tài chánh 2008, mà còn các sai lầm tệ hại trong sự phân phối tài nguyên như hệ thống tài chánh toàn cầu đã gây ra ở các quốc gia Tây phương trong mười năm qua. Do đó, Qian Lee, một quan chức chính quyền Trùng Khánh, đã không ngăn được vui mừng trước những thành quả ngoạn mục của đường lối TQ: "Điều nầy đã được giới sử dụng Internet ở TQ thảo luận và họ gợi ý: khi đến TQ, Obama nên thảo luận với Hồ Cẩm Đào về tầm quan trọng của các kế hoạch. Đây là điều tôi nghĩ chúng ta có thể trình bày với người bạn Mỹ của chúng ta"[10].
Để đối phó với hậu quả của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chính quyền TQ đã tập trung nổ lực duy trì tỉ suất tăng trưởng cao và ngăn ngừa tỉ suất thất nghiệp gia tăng. Chính quyền trung ương đã chấp thuận một gói kích cầu 4.000 tỉ nhân dân tệ - 70% ngân sách hàng năm, và các ngân hàng quốc doanh được chỉ thị không được sa thải nhân viên. Kết quả: hầu hết tỉ suất tăng trưởng của TQ trong năm rồi là do đầu tư công của Nhà Nước. Chịu ảnh hưởng nặng nề của suy thoái kinh tế toàn cầu và sự sụp đổ trong thị trường tiêu thụ Hoa Kỳ kể từ khi TQ bắt đầu các cải cách, chính quyền TQ đã thành công duy trì tỉ suất tăng trưởng 8,7% GDP, giữ được phần cam kết của mình trong khế ước xã hội bất thành văn. Đây là một thành công không nhỏ. Tuy nhiên, liệu TQ có thể duy trì tỉ suất tăng trưởng trong năm tới, nếu số cầu toàn cầu tiếp tục suy giảm, là một vấn đề chưa ai có giải đáp.
Trong mọi trường hợp, kinh tế TQ, tuy là một nền kinh tế khổng lồ và phồn thịnh, vẫn không phải không có nhiều nhược điểm. Sự thiếu vắng đáng phiền trách một mạng lưới an sinh xã hội, mặc dù đã giúp đem lại một tỉ suất tiết kiệm cao, theo nhiều kinh tế gia, cũng là vật cản lớn nhất trên đường chuyển tiếp cần thiết đến một nền kinh tế lấy tiêu thụ quốc nội làm đầu tàu (đó là chưa kể công bằng và an sinh căn bản đối với hàng trăm triệu công dân). Điều nầy nối kết với vấn đề phân phối lợi tức quan trọng hơn nhiều, một vấn đề kinh tế chính trị đầy thử thách, mặc dù cả hai có một quan hệ kỳ lạ, đôi khi bí ẩn. Yang Jeimian, Viện Nghiên Cứu Quốc Tế Thượng Hải, thú nhận: "Chúng tôi cũng âu lo về vấn đề bình đẳng. Chúng tôi cũng cần chú ý đến các vấn đề phân phối, phân phối quyền hạn, thuế, bệnh viện, săn sóc y tế"[11].
Khi được hỏi về đề tài phân phối lợi tức, các quan chức TQ xác nhận họ đang có vấn đề, nhưng họ luôn cảnh cáo: thành đạt một xã hội công bằng hơn sẽ đòi hỏi thời gian. Xu Kuangdi, nguyên thị trưởng Thượng Hải và người có uy tín trong CPC, chỉ là một trong số vài người luôn nhắc đến lời khuyên các đảng viên của Đặng Tiểu Bình khi họ Đặng phát động phong trào cải cách: "Cứ để vài người làm giàu trước"[12].
Ở đây một vấn đề cần được đặt ra: bao nhiêu là "vài", bao nhiêu tài sản mới gọi là "giàu", và kéo dài bao lâu mới gọi là "trước"?
Đã hẳn, TQ đã đạt nhiều tiến bộ trong các địa hạt nầy: cải thiện dịch vụ y tế ở nông thôn, bỏ nhiều loại thuế đối với nông dân, và ban hành luật lao động ấn định lương tối thiểu, giờ phụ trội, và nhiều biện pháp bảo vệ khác (phải nói rõ trước sự chống đối của Phòng Thương Mãi Hoa Kỳ). Nhưng trong khi mọi việc về phía doanh thương ở TQ đều tiến rất nhanh, dự án đem lại bình đẳng, công lý và an sinh xã hội lại diễn tiến chậm hơn rất nhiều.
Theo Xu, tất cả đều trong kế hoạch: "Hãy nhìn các xứ láng giềng ở Á châu của chúng tôi. Nam Hàn: tỉ suất phát triển cao nhất đã diễn ra dưới chế độ quân phiệt...Indonesia đã thành công dưới thời Suharto, nhưng gần đây đang gặp trì trệ và khó khăn"[13]. Lý do : dân chủ là một trở ngại cho tiến bộ kinh tế, người nghèo muốn chia tài sản của người giàu... Xu nói "Nếu người TQ chúng tôi, bắt chước bầu cử trực tiếp ngay bây giờ, dân chúng sẽ nói, tôi muốn mọi người đều có việc làm tốt. Vài người khác sẽ nói, tôi sẽ chia tài sản của người giàu cho người nghèo, và anh ta sẽ đắc cử. Tất cả đều vô ích: bình đẳng sẽ không giải quyết vấn đề phát triển kinh tế. Vì vậy, chúng tôi đang theo chính sách cải cách tiệm tiến, từng bước một. Như ông Đặng đã nói,chúng ta sẽ vượt qua sông bằng cách lần bước trên các tảng đá. Chúng tôi sẽ không bị chết đuối, và chúng tôi sẽ qua được bên kia sông"[14].
Trong khi Xu, một lãnh tụ đảng, có đủ quyền hạn để phát biểu rõ ràng, hầu như không một ai khác có thể thảo luận chính trị một cách thẳng thắn như thế. Ở TQ, kinh tế đã thay thế chính trị - đem lại chất lượng cho các cuộc tranh luận công cộng. Bạn không thể đòi hỏi bầu cử hay một Tây Tạng tự do, nhưng bạn có thể phổ biến các cuộc bút chiến nóng bỏng về các quyết định của chính quyền tiếp tục mua trái phiếu ngân khố của Mỹ. ĐÔNG VÀ TÂY
Nhưng Wang Hui, nhân vật bất đồng chính kiến đơn độc, lại nói, các cố gắng của chính quyền duy trì một ranh giới rõ rệt - giữa những chỉ trích chính đáng quá trình làm chính sách kinh tế và các chỉ trích không chính đáng nền tảng của quá trình nầy - sẽ không luôn thành công. Wang lập luận, xu hướng xã hội chủ nghĩa, trên danh nghĩa, đã đem lại cho người dân ngôn từ để chỉ trích chính quyền. Tình trạng nghịch lý là nhiều người dân có thể dùng chũ nghĩa Mác-Lê để bảo vệ quyền lợi của chính mình, bởi lẽ có một mâu thuẩn thực sự giữa chủ trương lý thuyết và những gì xẩy ra trong thực tế.
Rõ ràng thảo luận chính trị là một điều cấm kỵ. Nhưng theo Wang, nếu một đề tài được quần chúng quan tâm, chính quyền ngày nay cảm thấy buộc lòng phải đáp ứng. Vấn đề là chúng ta cần phải có đủ khả năng và bản lĩnh tạo ra một không gian cho các tranh luận công cộng.
Người Mỹ có khuynh hướng xem TQ như đang theo đuổi một mô hình thay thế mang tính đe dọa cho tương lai, một mô hình vừa quyến rủ vừa ghê tởm, đáng thèm muốn và đáng khinh.
TQ đang trong giai đoạn chuyển tiếp từ một quốc gia độc tài, chuyên quyền, nghèo đói, đến một tập đoàn lãnh đạo kỹ nghệ (industrial, corporatist oligarchy) chấp nhận thảo luận sôi nổi, gay gắt, trong khi vẫn nổ lực bám lấy quyền hành. Có lẽ, một cách nào đó, người Mỹ cũng đang di chuyển về cùng một điểm, từ hướng dân chủ, thảo luận công cộng ồn ào, và phân cực chính trị, che mờ một thực tế quyền hành và tiền bạc tiếp tục tập trung trong tay một thiểu số thượng lưu cầm quyền (Corporate America) luôn cảm thấy đang bị bao vây bởi một quần chúng khó kiểm soát và cũng chẳng biết tri ân.
Một bên, một Nhà Nước với đất đai và tài nguyên thiên nhiên được tái xã hội hóa.
Bên kia, một chính quyền" dân chủ, tự do, đa nguyên đa đảng, tư hữu trên nguyên tắc", trong khi quyền hành thực sự nằm trong tay tập đoàn quân sự kỹ nghệ thiểu số.
Xét cho cùng, thật khó lòng thẩm định chính xác mô hình nào ưu việt hơn, hữu hiệu và hoàn hảo hơn mô hình nào.
GS Ngyễn Trường
Irvine, CA 92606, U.S.A.
23-02-2010
[1] It has become the consensus of the elites that China should stay on the right track: the past thirty years have resulted in remarkable achievements in all aspects of China. We hope that in the same vein, but in different emphasis, China could have another thirty years.
[2] There are 800 million Chinese peasants who need these cars!
[3] [China] should not be expected to stay forever as a bicycle kingdom.
[4] Let me put it simply. Most successful businessmen or scholars or engineers - they have become party members of the CPC.
[5] Chinese government officials face a lot of pressures. We work under extreme pressures and we have a lot of difficulties.
[6] They can be migrant workers forever. A migrant worker cannot become a resident of Shanghai. Now if you have a college degree you can come but not without education. You have a class of people in this limbo.
[7] We have learned many lessons from other countries, including the so-called Latin American trap during the urbanization process. The government didn't think throughly about urbanization. Huge numbers of villagers cà to the cities and they couldn't find a job. That's why they are so many slums.
[8] We have plans, timetables and goals in our minds whenever we do anything.
[9] We as a government give guidance and sort of categorize those who want to come to the cities. There are several tiers... The first group of villagers will go to the downtown center. The second group will go to six regional centers we are building. And the third group will go to the urban places that are closest to their home villages, such as the country towns and townships...We have thirty-one district centers and 103 towns.
[10] This has been discussed by Internet users in China who say, when Obama comes to China, that he can discuss with Hu Jintao about the importance of plans. This is something I think we can present to our American friend.
[11] We do worry about equality. We do need to focus on distribution, allocation of rights, taxes, hospitals, healthcare.
[12] Let some people get rich first.
[13] Let's look at our neighboring Asian countries. South Korea: its peak developing speed was reached using military rule...Indonesia was successful during the reign of Suharto but recently it faces stalemate and difficulties.
[14] If we Chinese copied the directly elected situation today, people will say, 'I want everyone to have a good job'. Someone will say, 'I will devide the property of the rich people to the poor people', and he will be elected. It is useless: parity will not solve the problem of economic development. That is why we are taking a gradual and step-by-step approach in reform. As Mr. Deng said, we will cross the river by touching the stones. We will not get ourselves drowned, and we will cross the river.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2010 4:59:48 GMT 9
Đằng sau sự tăng trưởng thần kỳ của Trung Quốc 26/04/2010 - Nhiều năm qua, mặc dù gặt hái nhiều thành tựu to lớn, nhiều dự đoán cho rằng kinh tế Trung Quốc sắp vượt qua Nhật Bản để đứng thứ hai thế giới, tuy nhiên, đằng sau bức tranh kinh tế - xã hội của đất nước có diện tích khổng lồ này đã bộc lộ những khiếm khuyết đe dọa đến sự phát triển bền vững của chính họ. Dưới đây là 4 vấn đề lớn mà Trung Quốc sẽ phải giải quyết trong tương lai nếu muốn duy trì và phát triển một nền kinh tế bền vững. Thứ nhất, mất cân đối vĩ mô nghiêm trọngKinh tế Trung Quốc phát triển quá nhanh gây mất cân đối vĩ mô (ảnh minh hoạ). So với các nước đang phát triển cũng có ảnh hưởng tương đối lớn như Ấn Độ và Brazil, Trung Quốc có tỉ lệ công nghiệp trong GDP cao hơn nhưng lại có tỉ lệ dịch vụ trong GDP nhỏ hơn rất nhiều. Để thúc đẩy cho sự tăng trưởng ồ ạt của thành phần công nghiệp, Trung Quốc đã đưa ra những chính sách hỗ trợ không những làm méo mó sự phân bổ tài nguyên kinh tế mà còn kìm hãm khả năng phát triển của nhu cầu tiêu thụ nội địa (ví dụ, sự hạn chế mức tăng trưởng tiền lương sẽ giúp các nhà sản xuất nhưng lại cản trở khả năng tăng thu nhập của công nhân để họ có thể tăng mức tiêu thụ). Chủ tịch Ngân hàng xây dựng Trung Quốc, ngân hàng lớn thứ hai cả nước xếp về tổng giá trị tài sản mới đây đã đưa ra cảnh báo về những hiểm họa mà sự tăng trưởng kinh tế quá nhanh có thể gây ra cho Trung Quốc. Đó là sự bùng nổ tín dụng của năm 2009 khi mà các ngân hàng, dưới dự bảo trợ từ gói kích thích kinh tế khổng lồ của chính phủ đã "vung tay" cho vay, đưa tổng dư nợ tín dụng mới của nước này trong năm 2009 lên tới con số kỷ lục 9600 tỷ NDT, tương đương với 1400 tỷ đôla Mỹ, tăng gấp đôi so với năm 2008. Trong khi đó, thị trường bất động sản sôi động đã dẫn đến mức tăng mạnh về doanh thu bán đất trong năm 2009 ở Trung Quốc, khiến sự kỳ vọng giá nhà sẽ còn tăng cao hơn nữa. Nhiều công ty, đặc biệt là các tập đoàn quốc doanh với quỹ dồi dào, có xu hướng đầu tư vào bất động sản để kiếm lợi nhuận nhanh chóng. Bản thân chính quyền địa phương còn “dựa dẫm” vào chuyện bán đất để có nguồn thu tài chính, họ cũng không muốn kiềm chế tình trạng giá tăng chóng mặt. Ở khía cạnh khác, Trung Quốc còn phải đối mặt với gánh nặng nợ nần của các địa phương. Nhận định của nhóm các chuyên gia tài chính, đứng đầu là Giáo sư Kenneth Rogoff của Đại học Harvard cho rằng, bong bóng khổng lồ tạo nên bởi gói kích thích kinh tế cùng với kỷ lục cho vay 1.400 tỉ đô la Mỹ riêng năm 2009 của chính quyền các địa phương đã khiến lạm phát trở nên khó kiểm soát và tạo nên “bong bóng nợ” (debt-fueled bubble). Ngân hàng Trung ương Trung Quốc có thể gặp nguy hiểm nếu các cơ quan tài chính do chính quyền ở các địa phương thành lập để đầu tư vào địa ốc và hạ tầng cơ sở không thể trả nổi món nợ quá cao. Ðiều này có thể đưa đến các rủi ro, vì một số cơ sở có sự hậu thuẫn tài chính của chính quyền địa phương, nhưng nhiều chính quyền địa phương rất khó khăn trong việc cân bằng cán cân ngân sách của họ. Theo giới truyền thông Trung Quốc, các công ty tài chính trực thuộc chính quyền địa phương đã vay khoảng 6 ngàn tỉ NDT ( tương đương 880 tỉ USD). Tuy nhiên, một nhà nghiên cứu ở Mỹ, ông Victor Shih tại trường Đại học Northwestern Univesity, ước lượng rằng con số các chính quyền địa phương Trung Quốc vay mượn từ năm 2004 đến 2009 lên đến 12 ngàn tỉ NDT (khoảng 1,6 ngàn tỉ USD). Không chỉ dừng lại ở phạm vi trong nước, sự tăng trưởng mất cân đối của Trung Quốc cũng đang gây ra những khó khăn trên trường quốc tế. Trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu, vấn đề thường hay được nhắc đến là chính sách tỉ giá của Trung Quốc. Từ nhiều năm, nhiều nước đã chỉ trích việc Trung Quốc cố giữ đồng NDT (NDT) yếu so với đồng đô la nhằm thúc đẩy xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Ngoài ra, những chính sách hỗ trợ công nghiệp đã duy trì sự tồn tại của các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả và dẫn đến hiện tượng dư thừa công sức không những gây ra lãng phí mà còn tạo sức ép bán rẻ sang các nước khác. Hơn nữa, sự tập trung vào các ngành công nghiệp nặng, tiêu thụ nhiều năng lượng (chẳng hạn như thép, nhôm, và hóa chất) buộc Trung Quốc phải tìm kiếm không ngừng nghỉ các nguồn cung cấp năng lượng trong nước cũng như khắp nơi trên thế giới. Điều này làm quá trình tăng trưởng thiếu tính chất bền vững và không hài hòa với bối cảnh kinh tế toàn cầu. Ô nhiễm môi trường nghiêm trọng do rác thải sinh hoạt và công nghiệp tại Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc từ lâu đã khiến các nước khác thèm muốn, nhưng việc mở rộng phát triển công nghiệp trong 3 thập kỷ qua cũng đang dần biến họ thành một trong những nước “độc hại” nhất thế giới. Vô số thành phố đang bị bao phủ bởi khói bụi trong khi hàng trăm triệu người không có cơ hội tiếp cận với nước sạch sinh hoạt. Sự phát triển ồ ạt của các ngành công nghiệp đã gây ra sự tàn phá môi trường ở phạm vi rộng lớn. Trong 30 thành phố ô nhiễm nhất thế giới thì 20 là ở Trung Quốc. Và Trung Quốc hiện nay đã vượt qua Mỹ để trở thành nước xả khí thải cacbon lớn nhất thế giới. Bên cạnh đó, với 70% hệ thống sông hồ bị ô nhiễm và hơn 300 triệu dân không có nước sạch để uống, sức khỏe của nhiều người dân, đặc biệt là dân nghèo, đã bị ảnh hưởng nặng nề. Tình trạng này đã gây ra làn sóng khiếu nại và phản đối mạnh mẽ trong quần chúng, có khả năng làm mất ổn định xã hội nếu nạn ô nhiễm môi trường không được khắc phục tốt. Theo báo cáo năm 2007 của Ngân hàng thế giới, mỗi năm có 750.000 người Trung Quốc chết sớm do không khí và nước bị ô nhiễm. Tuy nhiên, chính quyền Trung Quốc vẫn lưỡng lự không muốn công bố, do lo ngại có thể gây bất ổn xã hội. Ngoài ra, Trung Quốc hiện nay cũng là một trong những trở lực lớn trong quá trình giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường. Trước nỗ lực chống biến đổi khí hậu toàn cầu, việc Trung Quốc từ chối các cam kết về mức độ cắt giảm khí thải CO2 cũng như sự giám sát của quốc tế trong quá trình thực hiện cắt giảm, đã góp phần ngăn cản các nước đi đến một hiệp định chung có tính pháp lý ràng buộc tại hội nghị về biến đổi khí hậu ở Copenhagen vừa qua. Thứ ba, khoảng cách giàu nghèo ngày càng rộngKhoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn ở Trung Quốc ngày càng lớn. Hệ số Gini (một thước đo về mức độ bất bình đẳng thu thập; hệ số này đi từ 0 đến 1, với con số càng cao thì mức độ bất bình đẳng càng cao) của Trung Quốc đã tăng liên tục trong nhiều năm qua, từ 0.257 trong năm 1990 lên đến 0.473 trong năm 2007. So sánh với các nước khác, Trung Quốc có hệ số Gini cao hơn Ấn Độ và các nước trong khu vực, ngoại trừ Sri Lanka. Giữa các thành phần trong xã hội, sự cách biệt nghiêm trọng nhất là giữa thành thị và nông thôn. Trung Quốc càng tăng trưởng thì khoảng cách về thu nhập giữa hai khu vực này càng rộng ra. Hiện nay, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị cao hơn gấp ba lần khu vực nông thôn. Với hơn 700 triệu dân vẫn ở các vùng thôn quê, sự cách biệt này đã và đang tạo ra hàng loạt các vấn đề nhức nhối trong phạm vi toàn xã hội. Theo thông báo của Cơ quan thống kê Quốc gia Trung Quốc, thu nhập bình quân đầu người ở khu vực thành thị của nước này trong năm 2009 là 17.175 NDT (2.500 USD), trong khi ở nông thôn chỉ là 5.153 NDT. Tuy chiếm có 10% dân số Trung Quốc, song tầng lớp trung và thượng lưu hiện kiểm soát tới 45% thu nhập toàn quốc. Thứ tư, sự lão hóa dân sốDù là quốc gia đông dân nhất thế giới nhưng Trung Quốc vẫn có thể sẽ phải đối mặt với thiếu hụt nguồn lao động do ảnh hưởng của chính sách một con vẫn đang được áp dụng. Trung Quốc đã áp dụng chính sách một con để giảm áp lực của gia tăng dân số nhưng hệ quả là dân số lao động mỗi năm giảm 10 triệu từ năm 2005, và dân số trẻ từ 20-24 tuổi sẽ giảm 25% trong thập niên tới. Trong khi lực lượng lao động trẻ giảm xuống, số người cao niên tăng theo nhịp điệu lũy tiến: năm 2008, Trung Quốc có 169 triệu người trên 60 tuổi (13% dân số), dự kiến sẽ tăng lên 250 triệu trong 10 năm nữa và đến năm 2050, cứ 3 người dân thì có 1 người già. Vấn đề càng nghiêm trọng hơn là số người già sống đến 80 tuổi càng ngày càng đông, cứ 5 người già thì có 1 người già 80 tuổi vào năm 2050. Việc săn sóc và vấn đề an sinh người già là vấn đề trọng đại cho quốc gia và gia đình. Ngoài việc gồng gánh gia đình, người trẻ tuổi trong tuổi lao động hôm nay còn phải đóng góp quỹ hưu bỗng càng lúc càng nặng để nuôi người già càng lúc càng tăng. Năm 1980, 13 người làm việc để nuôi 1 người già, tỷ lệ này giảm xuống còn 3/1 năm 2003, và đến năm 2050, cứ 2 người làm việc để nuôi 1 người già. Đó là một viễn ảnh kinh tế đen tối mà chính phủ Trung Quốc phải đối diện. Trung Quốc hiện nay có 41 000 nhà dưỡng lão, như vậy cứ 1000 người chỉ có thể đáp ứng được 11 chỗ nghĩ dưỡng trong khi đó tỷ lệ này ở các quốc gia phát triển là từ 50 đến 70 chỗ nghỉ. Bình Nguyên – Lê Dũng (Tổng hợp)
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2010 8:23:49 GMT 9
Sự liên quan giữa Giáo dục - Kinh tế Trung Quốc và ảnh hưởng của nó đến Việt Nam. Một số đề xuất thực hiện. Vietsciences- Phạm Quang Phi 06/01/2010
I. Giáo dục (du học 2 chiều) và kinh tế (sản xuất hàng loạt) của Trung Quốc:
“Đào tạo du học” là ngành công nghiệp khói trắng cuả các quốc gia có thế mạnh về tiềm năng. Nó được coi là công nghiệp không sử dụng đến tài nguyên, không gây ô nhiễm đến môi trường. Mà lợi nhuận, nó không những đem lại học phí cho ngành giáo dục mà nguồn hoạt phí khá lớn cuả lưu học sinh đem đến. Đó là lý do mà “Đào tạo du học” được coi trọng ở một số nước có nền giáo dục phát triển.
Học sinh, sinh viên du học không những phải đóng khoản học phí nhiều hơn sinh viên bản điạ, mà sinh hoạt cuả họ hàng ngày cũng là nguồn chi tiêu rất lớn, góp phần nâng cao đời sống xung quanh cho dân bản điạ.
Đi đầu cho “đào tạo du học” ở những năm đầu, giữa thế kỷ XX đến nay là các nước: Mỹ, Anh, Pháp, Canada, Úc, Nhật…
Mới đây, Trung Quốc với điều kiện: có nền “văn hoá huyền bí – lâu đời”, “nền kinh tế trỗi dậy”, “xã hội dần đi vào ổn định”. Dựa vào những lợi thế đó mà kế hoạch, chiến lược cho giáo dục đi kèm song song với các lợi thế trên. Đặc biệt là, “đào tạo du học” theo sát với thương mại, mậu dịch kinh tế.
Thành quả cuả giáo dục, đào tạo du học đã và đang là tiềm năng chiến lược: “Đưa con người đi trước – thương mại hàng hoá theo sau” đang được phát huy có hiệu quả.
Là một nền kinh tế mới trỗi dậy – chưa có chiều sâu. Xong, họ rất biết cách chinh phục, khai thác tiềm năng từ các quốc gia khác. Đặc biệt là các nước “đang, mới đi lên phát triển và kém phát triển”. Lợi dụng những điểm yếu kém, lúng túng cuả các quốc gia này để xuất khẩu trình độ văn hoá, lao động phổ thông; là hậu thuẫn, được điều phối bởi số lượng du học sinh, doanh nghiệp, nhà khoa học có tầm ảnh hưởng lớn được đào tạo từ trong nước hoặc được đào tạo ở các nước có nền khoa học kỹ thuật phát triển mà họ có chế độ phù hợp.
Để làm được những điều này, ngành giáo dục đặc biệt là chính sách “đào tạo du học 2 chiều” cuả họ gắn liền với công nghiệp phát triển hàng hoá là đi đầu.
Dựa vào những mục tiêu, lợi thế cuả Trung Quốc đối với Việt Nam và kinh nghiệm cuả họ đã làm thành công với các nước khác mà họ đã và đang thực hiện mục đích tại Việt Nam.
Trung Quốc đưa người thông qua giáo dục và hàng hoá thông qua những hiệp ước, quan hệ, thương mại đến Việt Nam:
* Quan niệm giáo dục với “Du học 2 chiều” cuả TQ đối với VN:
Là một quốc gia có lợi thế hơn hẳn ta về mọi mặt. Giáo dục cuả họ đã đi sâu vào tiềm thức cuả Việt Nam cả về lịch sử và hiện đại. Ảnh hưởng văn hoá cổ đại cuả họ và trên nghìn năm đô hộ cuả Trung Quốc đã đi sâu vào giáo dục cuả ta.
Hơn thế, những thập niên gần đây, họ lại khẳng định được mình đối với thế giới về nhiều mặt.
Chính sách giáo dục cuả Trung Quốc đối với Việt Nam theo 3 hình thức: Du học toàn phần, Liên kết đào tạo (1+3, 2+2, 3+1), trao đổi sinh viên.
Quan niệm cuả Trung quốc đối với sinh viên theo học 3 chương trình: Mục tiêu mà họ có 3 hình thức đó, là chỉ để đưa ngôn ngữ, kinh tế thương mại, du lịch cuả Việt Nam nhằm đưa con người đi trước, thương mại hàng hoá theo sau. Và chiếm lĩnh thị trường, có tầm ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế Việt Nam. Đặc biệt, là xuất khẩu được số lượng kiến thức lao động phổ thông sang nước ngoài có mức lương cao hơn trong nước họ.
Điều này, được chứng tỏ thành công ở các nước như: Singapore, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines và đang thực hiện ở các nước Châu Phi, Lào, Cambodia và đặc biệt là Việt Nam.
* Lợi thế về tiềm năng kinh tế:
Hậu thuẫn cho giáo dục mà mục tiêu cuả họ chính là bành trướng kinh tế. Lợi thế cuả Trung Quốc về tiềm năng kinh tế giúp ngành giáo dục phát triển, đặc biệt là “đào tạo du học 2 chiều” để đưa hàng hoá, phổ biến ngôn ngữ, xuất khẩu lao động.
Từ khi TQ áp dụng chính sách mở cửa theo tiêu chí: Hỗ trợ doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư và sản xuất hàng loạt. Theo định hướng phát triển kinh tế ven đường bờ biển để thuận tiện cho đưa hàng hoá xuất khẩu ( vận tải đường biển thuận tiện và rẻ hơn so với các vận tải khác). Họ còn lấy lại được hai thành phố Hồng Kông, Ma Cao; là hai trung tâm thành phố mậu dịch phát triển vào loại hàng đầu thế giới từ các nước thực dân cũ.
Đến nay, chính sách sản xuất hàng loạt cuả TQ đang thực sự phát huy và có hiệu quả to lớn, có tầm ảnh hưởng đến kinh tế thế giới:
Dựa vào đặc thù cuả 3 loại túi tiền trên thế giới mà họ đã sản xuất 3 chủng loại hàng hoá phù hợp:
+ Loại 1: Theo tiêu chuẩn, kiểm nghiệm, nghiên cứu công nghệ chuẩn cuả hãng.
Đây là loại sản phẩm đánh vào túi tiền cuả các “đại gia”. Đặc biệt là những sản phẩm công nghệ, những sản phẩm theo tiêu chuẩn cuả hãng được phục vụ những người có nhiều tiền. Hàng loại này, chủ yếu được tiêu thụ ở các nước phát triển đặc biệt như: Mỹ, Nhật, Châu Âu.
+ Loại 2: Theo tiêu chuẩn cuả công ty:
Sản xuất theo tiêu chuẩn kiểm nghiệm sản phẩm cuả hãng hoặc mua lại công nghệ, ủy quyền qua hãng.
Những sản phẩm do công ty sản xuất ra, chủ yếu phục vụ những người tiêu dùng hạng trung. Những nước đang phát triển sử dụng những mặt hàng do các công ty sản xuất ra theo số lượng đông. Những mặt hàng này, thị trường tiêu thụ rộng nhất.
+ Loại 3: Loại sản phẩm mà không thông qua hãng kiểm nghiệm (hàng điạ phương, ĐNA).
Loại mặt hàng này sản xuất ra với mục đích cung cấp cho những người có thu nhập thấp, không có đủ túi tiền để sử dụng 2 loại mặt hàng trên. Thị trường lớn cho loại sản phẩm này là những nước chuẩn bị đi lên đang phát triển, kém phát triển, đời sống nhân dân còn nghèo. Mà do nhu cầu thiết yếu chạy theo.
Sản phẩm này, đòi hỏi cần có nhân lực rẻ, nguyên liệu dựa vào công nghệ tái chế, tinh chế cao. II. Kinh nghiệm từ các nước, Việt Nam đang thuộc vào nhóm mục tiêu số một cuả Trung Quốc:
+ Nước ta là một nước láng giềng sát vách cuả họ.
+ Là một nước, nền công nghiệp vẫn còn non yếu mà tài nguyên khá dồi dào.
+ Bắt đầu mở cửa gia nhập WTO, cần cả con người lẫn hàng hoá.
+ Trung Quốc đang có tham vọng lớn cả về kinh tế lẫn quốc phòng.
+ Dễ đưa người và hàng hoá bằng nhiều hình thức sang Việt Nam nhất.
Đẩy mạnh hợp tác đối ngoại, giáo dục, đào tạo thương mại, mậu dịch, ngoại ngữ, du lịch…
Từ lâu, kinh nghiệm đưa người sang các nước đang phát triển, bắt đầu hội nhập quốc tế đã gặt hái cho TQ rất nhiều thành công, với chiến lược: Người đi trước – hàng hoá theo sau.
* Mục tiêu, những việc TQ đang làm đối với Kinh tế VN:
Trung Quốc đã, đang xâm nhập thị trường VN cả về người và hàng hoá như thế nào?:
Trên thực tế, số lượng doanh nghiệp, tập đoàn lớn đến VN qua những mối quan hệ hợp tác từ Chính phủ hai nước và dựa trên luật thương mại khi chúng ta gia nhập WTO, hiệp ước ASEAN 10+. Những ngành kinh tế mũi nhọn trong nước còn non yếu, nên đã bị TQ chiếm lĩnh (Giao thông, Thủy điện, Khai khoáng...).
Các doanh nghiệp lớn, tập đoàn TQ đến VN, đã tạo bước đà cho rất nhiều các doanh nghiệp vừa và nhỏ của TQ kéo sang (chủ yếu là dịch vụ…). Trong 3, 4 năm gần đây, Sài Gòn đã là nguồn gốc; thì các tỉnh miền Bắc Việt Nam đang bắt đầu du nhập hàng loạt doanh nghệp cá nhân vừa và nhỏ của TQ thành lập ra. Có cả hợp pháp lẫn bất hợp pháp. Sản phẩm mà họ mang đến chủ yếu là được vận chuyển từ các xưởng ở nội điạ trong nước họ mang sang qua nhiều hình thức. Số lượng các doanh nghiệp kiểu này, sang Việt Nam rất đông. Doanh nghiệp nhỏ TQ sang tham khảo thị trường, khởi nghiệp đó thất bại về nước nhiều, xong ở lại cũng không ít.
Còn các doanh nghiệp nhỏ cuả Việt Nam lại là các nhà tiêu thụ lớn, dịch vụ cấp 3 cuả các doanh nghiệp Trung Quốc đối với thị trường Việt Nam.
“Các tay chèo lái (doanh nghiệp) cho con thuyền Việt Nam chịu ảnh hưởng, phụ thuộc vào các doanh nghiệp Trung Quốc”:
Đã từ lâu, ngành công nghiệp chế tạo, công nghiệp nặng, khai khoáng… cuả Việt nam đã chịu ảnh huởng, tác động rất lớn cuả các tập đoàn, doanh nghiệp lớn trên thế giới. Nhà nước chỉ kêu gọi thông qua hợp tác kinh tế đối ngoại.
Các doanh nghiệp được bảo hộ cuả nhà nước ta hiện nay, do chuyển đổi cơ chế sang cổ phần nhà nước hay bán cổ phần tư nhân, đã bị ảnh hưởng từ lối mòn cũ, dần dần lao vào suy sụp. Do quản lý yếu kém, kỹ thuật, công nghệ lạc hậu. Đây cũng chính là tạo điều kiện cho các tập đoàn, doanh nghiệp lớn thế chân.
Vì giáo dục, nghiên cứu, sản xuất ta còn quá yếu mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ cuả Việt Nam chỉ dừng ở dịch vụ, đại lý - nằm chờ đợi, phụ thuộc.
Đó là sức ỳ mà “các tay chèo lái cho con thuyền Việt Nam chịu ảnh hưởng, phụ thuộc vào các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là Trung Quốc mới đây”.
Trong khi đó, nguồn chất xám của Việt Nam lại được xếp vào tốp hàng đầu thế giới. Bằng chứng là Việt Nam có không ít các nhà khoa học tầm cỡ thế giới; hay các cuộc thi quốc tế cuả học sinh, sinh viên ở lĩnh vực nào chúng ta cũng đạt kết quả cao.
Đó là cọ sát về trí tuệ. Còn sản phẩm ứng dụng thực tiễn ta lại chỉ dám phục vụ trong nước mà không dám đưa ra thị trường thế giới.
* Ảnh hưởng cuả “Du học 2 chiều” đối với Việt Nam:
Quan niệm cuả Phụ huynh và sinh viên:
Du học, có 3 hình thức: Do chính phủ đài thọ, do trường trong nước hoặc tổ chức khác đài thọ và tự túc.
Xong, chủ yếu trên 90% lưu học sinh cuả Việt Nam đến Trung Quốc du học là do tự túc.
Từ nhận thức, sự ảnh hưởng cuả kinh tế, văn hoá Trung Quốc đến Việt Nam ngày càng lớn. Việt Nam bắt đầu ra nhập WTO, ASEAN mở cửa, đã tạo lòng tin cho học sinh, sinh viên, đặc biệt là các phụ huynh họ nhận thức để yên tâm gửi gắm con cái sang TQ học tập với mức học phí, sinh hoạt rẻ nhất so với những nước đào tạo du học khác.
Đó chính là yếu tố tạo nên làn sóng du học sinh Việt Nam đến Trung Quốc lưu học. Đã góp phần thổi mạnh hơn cho hai cơn bão “Trung Quốc xâm nhập thị trường Việt Nam” và “Các tay chèo lái doanh nghiệp Việt Nam chịu ảnh hưởng, phụ thuộc vào các doanh nghiệp Trung Quốc”.
Giáo dục với hình thức Du học toàn phần, liên kết, ký gửi chính là những hình thức mà TQ đã, đang áp dụng đối với VN chỉ là vỏ bọc bên ngoài.
Kinh nghiệm từ: Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines… Và đặc biệt đang là Việt Nam, CHDCND Triều Tiên, Lào, Cambodia, các nước châu Phi.
Đối với tổ chức quốc tế ASEAN vừa có “Hiệp ước ASEAN 10+ ”, nhưng theo kinh nghiệm, và những việc làm cuả Trung Quốc lại chính là “Trung Quốc +10”.
Ảnh hưởng cuả giáo dục, kinh tế TQ đến Việt Nam, đòi hỏi yêu cầu cấp thiết cho Việt Nam là xây dựng hệ thống nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu, hỗ trợ ứng dụng, cầu nối chia sẻ tài liệu cho các cá nhân, doanh nghiệp có tầm ảnh hưởng cuả Trung Quốc.
III. Một số đề xuất thực hiện:
Việt Nam cần có sự cân bằng về cái nhìn để tránh tình trạng bị bao phủ tầm nhìn, ảnh hưởng đến lâu dài. Và theo sát vòng xoáy mà Trung Quốc đã tạo ra cần:
Thành lập nhóm nghiên cứu, hệ thống kiểm soát, tác động đến các yếu tố trên.
“Nghiên cứu 2 nhóm, người Việt Nam biết tiếng Trung và người Trung Quốc biết tiếng Việt” cho 4 đối tượng:
Nhóm 1: Người Trung biết tiếng Việt
+ Những lưu học sinh Trung Quốc tại Việt Nam học tiếng việt, các ngành khác.
+ Những doanh nghiệp TQ sang Việt Nam kinh doanh.
Nhóm 2: Người Việt Nam biết tiếng Trung
+ Những lưu học sinh, học sinh tại Việt Nam học tiếng Trung
+ Những doanh nghiệp Việt Nam liên kết với doanh nghiệp Trung Quốc.
Nâng cao vai trò cầu nối thông tin, nghiên cứu ở nhiều vị trí:
Các trường đại học trong nước có số lượng lưu học sinh Trung Quốc rất đông.
Các trường Đại học tại Trung Quốc có số lượng sinh viên Việt Nam chiếm đa số: Đại học Sư phạm Quế Lâm (trên 500 người), ĐH Dân tộc Quảng Tây (trên 500 người), ĐH Vũ Hán (trên 500 người), Chưa kể Tứ Xuyên, Nam Kinh, Bắc Kinh, Vân Nam… mỗi trường cũng xấp xỉ 500 người.
Quang Phi
Chủ nhiệm. TT Nghiên cứu ICQ
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:26:13 GMT 9
Vài nét về “sự kiện Thiên An Môn” hay sự kiện “4-6” TRIEU TU DUONG
Ngày 15 tháng 4 năm 1989, Hồ Diệu Bang (Hu Yao Bang) nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc tạ thế. Bắt đầu từ ngày 16 tháng 4, trước Đài liệt sĩ tại quảng trường Thiên An Môn (Bắc Kinh) có người đến đặt vòng hoa, câu đối v.v.. tưởng niệm. Số người đến tham dự ngày càng đông (trong đó tuyệt đại đa số là học sinh và sinh viên). Ngoài những lời viếng, điếu… thông thường, dần dần xuất hiện một số khẩu hiệu công kích tệ nạn tham nhũng và một số người lãnh đạo đương thời, trở thành một phong trào lớn (ngày 27 tháng 4 có tới hàng chục vạn học sinh xuống phố diễu hành). Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc không nhất trí trong việc đánh giá phong trào học sinh này. Có người cho rằng đó là một phong trào chống chủ nghĩa xã hội, chống đảng cộng sản có cương lĩnh, có kế hoạch, có tổ chức. Có người, như Triệu Tử Dương (lúc ấy là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc), không cho là như vậy. Cuối cùng, ngày 4-6-1989, hàng chục vạn quân đội đã được huy động để giải tán những học sinh, sinh viên đang tuyệt thực tại quảng trường. Theo số liệu chính thức của Trung Quốc thì có khoảng hơn 6.000 sĩ quan và chiến sĩ quân đội, cảnh sát vũ trang, công an, bị thương, hàng chục người bị chết. Có hơn 3.000 người không phải là quân nhân bị thương và khoảng 200 người bị chết.
Sau sự kiện này, Triệu Tử Dương mất chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc và theo cuốn “Triệu Tử Dương nhuyễn cấm trung đích đàm thoại” do nhà xuất bản Khai Phóng, Hồng Kông phát hành tháng 3 năm 2007 thì Triệu Tử Dương bị giam lỏng từ đó đến khi chết (đầu năm 2005)
Sau đây là bản dịch “Phát ngôn của tôi” của Triệu Tử Dương liên quan đến sự kiện này.
Dương Danh Dy (người dịch)
♦
Phát ngôn của tôi
Phát biểu của Tổng Bí thư Triệu Tử Dương (Zhao Zi Yang) tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII Đảng Cộng sản Trung Quốc ngày 23 tháng 6 năm 1989
Hội nghị trung ương (Trung ương) lần thứ 4 khóa XIII sẽ đưa ra xử lý vấn đề của tôi, tôi hoan nghênh các đồng chí phê bình tôi. Mấy năm nay, công tác của tôi có không ít khuyết điểm, sai lầm, thiếu sót và những chỗ không được việc, không xứng với kỳ vọng của đảng, nhân dân và các đồng chí già. Bây giờ tôi xin thuyết minh và tự phê bình về một số sự thực sai lầm mà tôi đã phạm phải.
I
Tôi xin nói trước một số sự thực về phong trào học sinh và động loạn[1] từ khi phát sinh đến nay cũng như tình hình tư tưởng của tôi lúc đó.
Từ tháng tư đến nay, học sinh tuần hành càng phát triển càng lớn, tôi và mọi người đều nghĩ là phải làm thế nào nhanh chóng dẹp yên sự việc. Tôi đã nói, chúng ta xưa nay không tán thành những học sinh không tuân theo qui định của pháp luật chưa xin phép đã xuống đường tuần hành thị uy, và càng không tán thành bãi khóa, tuyệt thực. Tôi luôn luôn kêu gọi phải giải quyết vấn đề trên quỹ đạo dân chủ và pháp luật. Tôi còn nói, cho dù theo luật pháp có thể phê chuẩn tuần hành, thì những người lãnh đạo và tổ chức đảng[2] nhà trường vẫn nên tích cực tiến hành công tác thuyết phục, ngăn cản, hết sức hướng dẫn học sinh thông qua con đường bình thường dùng phương thức khác biểu đạt ý kiến. Thái độ này của tôi là luôn luôn rất rõ ràng.
Thế nhưng tôi cũng nhìn thấy hai đặc điểm rất đáng chú ý của phong trào học sinh lần này: một là học sinh đã đưa ra các khẩu hiệu như ủng hộ hiến pháp, thúc đẩy dân chủ, phản đối hủ bại v.v... Những yêu cầu này về cơ bản nhất trí với chủ trương của đảng và chính phủ, chúng ta không thể từ chối; hai là người tham gia tuần hành và người ủng hộ bọn họ nhiều vô cùng, nhân sĩ các giới đều có, Bắc Kinh trở thành biển người. Trong tình hình ấy, lúc đó tôi đã nẩy ra một cách nghĩ, tức là muốn dẹp yên sự việc thì trước tiên phải nhìn vào đa số, khẳng định chủ mưu của số đông người. Nhiệt tình của học sinh yêu cầu cải cách, phản đối hủ bại là đáng quí, là nên được khẳng dịnh đầy đủ. Đồng thời còn cần phải tiếp thu những ý kiến hợp lý của quần chúng, áp dụng những biện pháp chỉnh đốn, sửa chữa tích cực. Làm như vậy sẽ khiến cho tâm tình của số đông người dịu đi. Khiến đa số quần chúng hiểu được và ủng hộ cách làm của đảng và chính phủ, sau đó mới giải quyết tốt vấn đề của một số ít kẻ xấu.
Liên hệ cách nghĩ này với đương thời, tôi cảm thấy xã luận ngày 26 tháng 4 là có vấn đề, đó là không khẳng định chủ lưu của đa số người, mà từ chỉnh thể đã đưa ra định tính có tính chất mâu thuẫn địch ta một cách chung chung mà đa số người khó chấp nhận, mặc dù khẳng định là có một số cực ít người phản đối bốn nguyên tắc cơ bản, đục nước béo cò. Thế nhưng hành vi của mấy chục vạn người, mà chỉ dùng sự thao túng của số ít người là rất khó giải thích cho thông được. Các học sinh cho rằng xã luận ngày 26 tháng 4 đã chụp cho họ một chiếc mũ, nên tâm tư đã trở nên dữ dội. Vì thế lúc đó tôi chủ trương sửa đổi xã luận đôi chút, làm nhẹ đi một tý. Cách nhìn này của tôi, chỉ nói trong Hội nghị thường vụ Trung ương, chỉ trao đổi ý kiến với một số ít đồng chí lãnh đạo Trung ương. Suy nghĩ của tôi lúc đó là, cách nghĩ đó của tôi có đúng hay không là một vấn đề; và tại hội nghị đảng có nêu ra hay không lại là vấn đề khác. Tôi cảm thấy, dù thế nào đi nữa, cách nghĩ của tôi đều có thể đưa ra trong Hội nghị Thường vụ, đề xuất ra là không nên có vấn đề nữa. Tất nhiên sau này mọi người đều ý thức được vấn đề này. Trên thực tế khẩu khí ăn nói, cách nêu, cũng từng bước thay đổi, cũng đều nói những lời khẳng định nhiệt tình yêu nước của đông đảo học sinh. Tôi cảm thấy nếu ngay từ đầu đã viết những lời nói đó vào trong xã luận ngày 26 tháng 4 mà không định tính là mâu thuẫn địch ta về chỉnh thể, thì có khả năng đa số người không bị chọc giận đến như vậy, cộng thêm các việc làm khác của chúng ta, có khả năng sự việc không đến nỗi ghê gớm như vậy. Đó là cách suy nghĩ của tôi lúc đó.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:27:36 GMT 9
II
Tôi đã suy nghĩ tỉ mỉ về những ngày có phong trào học sinh và phát sinh động loạn tới nay, tôi đã làm như thế nào, những chỗ nào làm tốt, những chỗ nào làm không tốt hoặc không thỏa đáng.
Trước lễ truy điệu đồng chí Hồ Diệu Bang, nội bộ Thường vụ không có bất đồng gì, chí ít thì cũng không có bất đồng lớn nào. Hàng ngàn hàng vạn học sinh tụ tập tại quảng trường Thiên An Môn, tâm tình mọi người đúng là có căng thẳng và lo lắng. Lúc đó tôi phân tích, sợ rằng có ba loại người: tuyệt đại đa số người là xuất phát từ tình cảm thương nhớ đồng chí Hồ Diệu Bang; một bộ phận bất mãn với công tác của chúng ta, muốn mượn cớ phát huy; số ít kẻ phản đối đảng và chủ nghĩa xã hội, cố tình muốn làm lớn sự việc. Tôi nói Trung ương đảng đang tổ chức lễ truy điệu, các học sinh cũng muốn tỏ lòng thương tiếc, chúng ta không thể không cho phép bọn họ thương tiếc. Vì thế tôi chủ trương, trừ những hành vi phi pháp như đánh người, đập phá, cướp, đốt, chống đối, phải xử lý theo pháp luật, nói chung nên dùng thái độ hòa dịu. Tôi nhớ là lúc đó không có ai đề xuất ý kiến phản đối. Trước lễ truy điệu, có một việc duy nhất là đêm ngày 19 tháng 4, đồng chí Lý Bằng (Li Peng) gọi điện thoại cho tôi, nói học sinh [đang ở] tại phố Tân Hoa Môn sao vẫn chưa áp dụng biện pháp? Tôi nói đồng chí Kiều Thạch ở tuyến một đã chuẩn bị các loại dự án, đồng chí ấy sẽ tùy cơ xử trí. Ngoài ra không nghe thấy Thường vụ có ý kiến bất đồng gì khác.
Sau khi lễ truy điệu kết thúc, tôi nêu ra ba ý kiến: (1) Hoạt động truy điệu đã kết thúc. Đời sống xã hội nên trở về quỹ đạo bình thường, phải kiên quyết khuyên can ngăn cản học sinh tuần hành, phải để cho bọn họ quay lại học tập. (2) Áp dụng phương châm khai thông đối với học sinh, nên triển khai đối thoại nhiều tầng nấc, nhiều con đường và các loại hình thức, thông cảm lẫn nhau, tăng thêm hiểu biết. (3) Bất kể như thế nào đều phải tránh đổ máu. Nếu xuất hiện các hành vi trái pháp luật như đánh người, đập phá, cướp, đốt thì phải trừng trị theo pháp luật. Đồng chí Lý Bằng và các đồng chí khác trong Thường vụ đều đồng ý. Sau khi sự việc xảy ra nghe nói, đồng chí Lý Bằng đã báo cáo ba ý kiến này lên đồng chí Tiểu Bình. Đồng chí Tiểu Bình cũng biểu thị đồng ý. Chiều ngày 23 tháng 4 tôi rời Bắc Kinh đi thăm Triều Tiên, khi tiễn tôi tại ga xe lửa, đồng chí Lý Bằng còn hỏi còn có ý kiến gì không, tôi nói là ba ý kiến đó thôi.
Từ ngày 24 đến sáng sớm ngày 30 tháng 4 tôi không ở Bắc Kinh, không hiểu rõ tình hình đoạn thời gian này lắm. Sáng sớm ngày 26 tháng 4 tôi ở Triều Tiên được xem bức điện gửi từ nhà tới về bài nói của đồng chí Tiểu Bình và kỷ yếu hội nghị Thường vụ (Xã luận của “Nhân dân nhật báo” ngày 26 tháng 4 chưa điện tới). Tôi lập tức điện trả lời biểu thị “tôi hoàn toàn đồng ý quyết sách do đồng chí Tiểu Bình đưa ra nhằm đối phó với vấn đề động loạn trước mắt.” Tôi hiểu là tinh thần chung của quyết sách của đồng chí Tiểu Bình là muốn ổn định, không muốn động loạn, Điểm này quan trọng vô cùng đối với đất nước chúng ta, bây giờ và trong tương lai, chúng ta đều phải mang hết sức ra để làm được việc này.
Bài nói của tôi tại đại hội kỷ niệm “Ngũ tứ”[3] tại Bắc kinh ngày 3 tháng 5, trước đó đã được các đồng chí trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư thẩm duyệt. Khi xét duyệt không ít đồng chí đã đề xuất một số ý kiến sửa chữa, căn cứ vào những ý kiến này chúng tôi đã sửa chữa nhiều chỗ trong bản thảo. Theo trí nhớ của tôi thì chỉ có hai đồng chí đề xuất phải thêm, phản đối tự do hóa tư sản vào. Lúc đó suy tính tới việc trong dự thảo đã trình bày tương đối đầy đủ phải kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản rồi, còn khái niệm tự do hóa tư sản chỉ việc phủ định kiên trì bốn nguyên tắc. Vì suy nghĩ như vậy nên không thêm vào cũng có thể được. Ngoài ra, suy tính từ mặt kỹ thuật, toàn bộ bản thảo là trực tiếp kỷ niệm “Ngũ tứ”, ý kiến của hai đồng chí đó đưa vào đoạn nào cũng cảm thấy không thuận lắm về câu chữ. Vì thế không tiếp thu. Xưa nay chúng ta thảo luận sửa chữa bản thảo đều không thể tiếp thu đưa vào hết mỗi ý kiến cá nhân.
Bài nói của tôi khi hội kiến đại biểu hội nghị hàng năm Hội đồng quản trị Ngân hàng châu Á với ý định vốn có là muốn thúc đẩy dẹp yên phong trào học sinh, đồng thời cũng muốn làm cho người đầu tư nuớc ngoài tăng cường niềm tin vào sự ổn định của Trung Quốc. Sau khi bài nói được phát biểu, ban đầu nghe được đều là một số phản ánh tốt, lúc đó tôi cũng không ý thức được là có vấn đề gì, đồng chí Lý Bằng cũng nói với tôi, nói bài nói rất hay, khi đồng chí hội kiến Hội đồng quản trị cũng sẽ phối hợp chặt chẽ. Giọng điệu của bài nói lần này tương đối ôn hòa, lúc đó tôi không hề cảm thấy có mâu thuẫn gì cả. Do khi tôi thăm Triều Tiên chưa về nước, đồng chí Lý Bằng công bố bài xã luận thứ hai của “Nhân dân nhật báo” (ngày 29 tháng 4), giọng điệu đã dịu đi, nên sau này tại cuộc đối thoại được Quốc Vụ viện ủy quyền tiến hành, người phát ngôn đã biểu thị rõ ràng là bài xã luận thứ nhất (26 tháng 4) không nhằm vào đông đảo học sinh, khẳng định nhiều lần 99,9% học sinh là tốt, một số yêu cầu do học sinh đề xuất cũng là cái chính phủ đang muốn giải quyết. Bài nói của tôi ngày 4 tháng 5 đã đặc biệt chú ý tới những tình huống đó, về đại thể giữ được sự nhất trí với giọng điệu trên. Ngoài ra có một số lời (như vấn đề phản đối động loạn) trong bài nói ngày 3 tháng 5 tôi đã nói không ít. Cảm thấy có thể không cần lặp lại nữa. Bài nói lần đó của tôi chỉ có hai điểm nội dung mới: một là tôi đã phân tích tình trạng quần chúng đối với đảng và chính phủ vừa hài lòng lại vừa không hài lòng. Tôi vẫn cho rằng phân tích đó phù hợp với tình hình thực tế đương thời. Hai là, tôi đề xuất phải trong không khí bình tĩnh tỉnh táo, lý trí, kiềm chế, trật tự, trên quỹ đạo dân chủ và pháp trị giải quyết vấn đề, tôi nghĩ sau này gặp phải một số vấn đề như vậy vẫn cần phải tranh thủ giải quyết trên quỹ đạo này. Bài nói lần đó của tôi, từ phản ánh của các mặt lúc đó thấy hiệu quả vẫn khả dĩ. Sau này, các đồng chí phê bình bài nói của tôi chưa được Thường vụ thảo luận, đó là sự thực, thế nhưng bài nói của các vị đồng chí lãnh đạo Trung ương khi tiếp khách nước ngoài (trừ phương án hội đàm chính thức ra) xưa nay không hề đưa ra cho Thường vụ thảo luận, nói chung đều căn cứ vào phương châm của Trung ương, tự mình chuẩn bị. Ngày hôm sau (ngày 5 tháng 5), bài nói của đồng chí Lý Bằng khi hội kiến đại biểu hội nghị hàng năm của Ngân hàng châu Á cũng không qua thảo luận tại Thường vụ, mà giọng điệu cũng không khác gì với bài nói của tôi.
Mặc dù có những tình huống trên, nhưng bài nói của tôi vẫn dẫn tới một số phỏng đoán, đó là điều tôi không liệu trước. Nếu như tôi thận trọng một chút, suy tính tới tình hình đó sớm, thì lúc đó có thể không nói những câu đó.
Về Hội nghị Thường vụ ngày 8 tháng 5 và Hội nghị Bộ Chính trị ngày 10 tháng 5. Sau buổi tuần hành lớn ngày 27 tháng 4, các học sinh kiên trì yêu cầu chúng ta thay đổi định tính của bài xã luận ngày 26 tháng 4, tôi vô cùng khó xử. Suy nghĩ của tôi lúc đó là hãy vòng qua vấn đề khó này trước đã, làm mấy việc tốt về mặt xây dựng liêm chính và dân chủ, khiến quần chúng nhìn thấy chúng ta đang thực sự có những cố gắng, sự tình rồi cũng có thể từng bước yên ắng đi, đợi đến khi mọi người đều trở lại bình tĩnh có thể sẽ tương đối dễ đạt được ý kiến thống nhất hơn. Vì thế tại hai hội nghị trên, tôi đã đề xuất báo cáo với Ủy ban Thường vụ quốc hội tình hình thanh lý công ty, công bố thu nhập và thân thế của cán bộ cao cấp, hủy bỏ việc cung cấp đặc biệt cho người lãnh đạo dưới tám mươi tuổi (hoặc bẩy nhăm tuổi), do Ủy ban Thường vụ quốc hội căn cứ vào pháp luật, tổ chức các Ủy ban chuyên môn tiến hành điều tra độc lập các vụ án được báo cáo liên quan đến cán bộ cấp cao và gia đình (đồng chí Vạn Lý suy tính chu đáo hơn tôi, đồng chí kiến nghị do Quốc hội thành lập Ủy ban liêm chính có quyền uy), trên cơ sở thảo luận rộng rãi chế định các đạo luật báo chí và luật tuần hành thị uy v.v... Những kiến nghị này của tôi, chỉ nêu lên một chút trong Hội nghị Thường vụ và Hội nghị Bộ Chính trị, sau đó còn chuẩn bị thảo luận nữa và cũng chưa chính thức có quyết định. Suy nghĩ cơ bản của tôi là, coi liêm chính là một việc lớn của cải cách thể chế chính trị để nắm, đồng thời kết hợp chặt chẽ liêm chính với dân chủ, pháp chế, tính công khai, minh bạch, quần chúng giám sát, quần chúng tham dự v.v.. Sáng ngày 13 tháng 5, khi tôi và đồng chí Thượng Côn báo cáo tại nơi ở của đồng chí Tiểu Bình, đã báo cáo với đồng chí Tiểu Bình những suy nghĩ này. Đồng chí Tiểu Bình tán thành, nói, phải nắm chắc thời cơ này giải quyết cho tốt vấn đề hủ bại một chút, phải gia tăng độ minh bạch.
Về vấn đề tôi hội đàm với M. Gorbachov. Từ sau Đại hội 13, khi tôi tiếp người lãnh đạo chủ yếu của các đảng nước ngoài, đã từng nhiều lần thông báo với họ, hội nghị Trung ương lần thứ nhất khóa 13 có một quyết định, vị trí của đồng chí Tiểu Bình với tư cách là người quyết sách chủ yếu của đảng ta không thay đổi. Mục đích của tôi là để trên thế giới càng biết rõ hơn rằng địa vị của đồng chí Tiểu Bình trong đảng ta không vì việc rút khỏi Thường vụ mà phát sinh thay đổi, về tổ chức là hợp pháp. Chuyến thăm Triều Tiên lần này, tôi cũng đã nói vấn đề này với Chủ tịch Kim Nhật Thành. Tôi nói với Gorbachov, vấn đề này trên thực tế là thông lệ. Vấn đề là ở chỗ đã đưa tin công khai. Sau khi tôi từ Triều Tiên trở về, nghe nói bài nói của đồng chí Tiểu Bình về phong trào học sinh ngày 25 tháng 4 được truyền đạt rộng rãi, khiến trên xã hội có nhiều bàn luận, nói “Thường vụ báo cáo với đồng chí Tiểu Bình không phù hợp nguyên tắc” còn có một số lời rất khó nghe. Tôi cảm thấy tôi cần phải tiến hành làm rõ và thuyết minh.
Hai ngày trước khi Gorbachov đến thăm, khi tôi cùng công nhân và cán bộ công đoàn tọa đàm đối thoại, trong hội nghị cũng có người đề xuất vấn đề như vậy, lúc đó căn cứ vào quyết định của Hội nghị Trung ương lần thứ nhất khóa 13, tôi đã nói rõ, hiệu quả rất tốt. Họ nói trước đây họ không hiểu, bây giờ biết rồi, thế là tốt (các đồng chí Kiều Thạch, Hồ Khởi Lập, Diêm Minh Phục v.v.. đều có mặt). Trước đó, đồng chí Trần Hy Đồng, nhằm thẳng vào bàn luận sai lầm của người ta về việc “buông rèm coi việc nước” đã có những giải thích với các đồng chí công tác tại các trường đại học, cao đẳng, chuyên nghiệp, thuyết minh tình hình các quyết định có liên quan của Hội nghị Trung ương đảng lần thứ nhất khóa 13, hiệu quả cũng tốt. Vì thế tôi nghĩ là nếu thông qua việc đưa tin công khai, cho quần chúng biết tình hình, có thể có ích cho việc giảm bớt bàn tán. Nội dung tôi thông báo cho Gorbachov lúc đó là: Hội nghị Trung ương lần thứ nhất khóa 13 đã trịnh trọng đưa ra quyết định, trong những vấn đề nghiêm trọng nhất, vẫn cần đồng chí Tiểu Bình cầm lái. Từ Đại hội 13 đến nay khi chúng tôi xử lý những vấn đề trọng đại nhất, nói chung đều thông báo cho đồng chí Tiểu Bình và xin ý kiến dồng chí (tôi đã có ý thức khi không nói, có thể triệu tập hội nghị do đồng chí quyết định), nói chung đồng chí Đặng Tiểu Bình cũng hết sức ủng hộ công tác của chúng tôi, ủng hộ quyết sách do tập thể chúng tôi đưa ra. Theo lý mà nói, những câu nói có nội dung như vậy, không nên để cho người ta có ấn tượng rằng, mọi việc đều do Tiểu Bình (quyết) định. Quả thật tôi không nghĩ là, làm như vậy, ngược lại đã làm tổn thương đồng chí Tiểu Bình, tôi xin nhận hết trách nhiệm về việc này.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:28:49 GMT 9
Về Hội nghị Thường vụ đêm ngày 16 tháng 5. Sau khi tôi từ Triều Tiên trở về, nghe được các mặt phản ứng rât mạnh đối với bài xã luận 26 tháng 4, đã trở thành một cái nút ảnh hưởng tới tâm tình của học sinh. Lúc đó tôi đã từng nghĩ liệu có thể tìm được phương thức thích đáng cởi cái nút này, nhằm làm dịu tâm tư của học sinh. Ngày 4 tháng 5 tôi nói với đồng chí Lý Bằng ý kiến của tôi về bài xã luận đó. Đồng chí Lý Bằng biểu thị phản đối. Vì vậy tôi cảm thấy muốn suy nghĩ lại là rất khó, rất khó. Tôi lại cùng thương lượng với đồng chí Thượng Côn, và đã tính tới chuyện trước tiên hãy đi vòng qua vấn đề này, làm nhạt đi tính chất vấn đề, rồi từng bước quay lại. Lúc đó đồng chí Tiểu Bình đang tập trung tinh lực suy nghĩ tới việc gặp Gorbachov, chúng tôi không tiện làm phiền, nên đã nói ý kiến trên với các đồng chí công tác tại chỗ đồng chí Tiểu Bình, và cũng dùng phương thức trao đổi ý kiến cá nhân lần lượt nói chuyện với mấy đồng chí trong Thường vụ, muốn từ từ vượt qua khúc quanh này. Thế nhưng đến ngày 13 tháng 5, mấy trăm học sinh tuyên bố tuyệt thực, trong đó có một yêu cầu chủ yếu là thay đổi định tính của bài xã luận nói trên. Tôi cảm thấy sự tình vô cùng nghiêm trọng, vấn đề này đã không thế đi vòng được nữa. Vì vậy trong Hội nghị Thường vụ tối ngày 16 tháng 5 mới nêu sự kiện này (đây là lần đầu tiên đề xuất tại hội nghị chính thức). Đồng chí Lý Bằng nói, câu “đây là một cuộc âm mưu có kế hoạch, là một lần động loạn, mà thực chất là về căn bản phủ định sự lãnh đạo của đảng cộng sản Trung Quốc, phủ định chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là một cuộc đấu tranh chính trị nghiêm trọng bầy ra trước mặt toàn đảng và nhân dân cả nước” là nguyên văn lời nói của đồng chí Tiểu Bình, không thể động tới được. Lúc đó tôi không đồng ý cách nói đó, vì tôi cho rằng, xã luận được viết theo tinh thần chủ yếu của Hội nghị Thường vụ ngày 24 tháng 4, câu nói của đồng chí Tiểu Bình là sau khi đã căn cứ vào báo cáo của Hội nghị Thường vụ do đồng chí Lý Bằng chủ trì mới nói ra. Thái độ của đồng chí Tiểu Bình là luôn luôn ủng hộ công tác của Thường vụ, chỉ cần là quyết định do tập thể Thường vụ đưa ra bao giờ đồng chí cũng ủng hộ. Vì vậy trách nhiệm phải do chúng ta chịu. Tại Hội nghị Thường vụ tối ngày 16 tháng 5 tôi biểu thị, từ Triều Tiên tôi đã gửi điện về tán thành quyết sách của đồng chí Tiểu Bình, vì thế tôi cũng phải chịu trách nhiệm về bài xã luận ngày 26 tháng 4. Lúc đó tôi chỉ nêu vấn đề, đề nghị Thường vụ suy nghĩ, không yêu cầu đưa ra quyết định, hơn nữa đêm đã khuya, nên không bàn tiếp.
Ngày 17 tháng 5, hội nghị Thường vụ họp ở chỗ đồng chí Tiểu Bình, đồng chí Lý Bằng, Diêu Y Lâm phê bình tôi, qui kết toàn bộ trách nhiệm phong trào học sinh leo thang vào bài nói ngày 4 tháng 5 tại Hội nghị hàng năm của Ngân hàng châu Á, với mức độ gay gắt khiến tôi không ngờ. Hội nghị Thường vụ lần này một lần nữa khẳng định định tính của bài xã luận ngày 26 tháng 4, đồng thời đưa ra quyết sách điều quân đội vào Bắc Kinh thiết quân luật. Tôi biểu thị: có quyết sách tốt hơn là không có, nhưng tôi vô cùng lo lắng nó sẽ mang lại hậu quả nghiêm trọng, để tôi chấp hành quyết sách đó rất khó đắc lực được. Tại hội nghị đảng tôi đã thẳng thắn nói ra mối lo của mình. Sau cuộc họp, tôi lại suy nghĩ kỹ thêm, rất sợ là do trình độ nhận thức và trạng thái tư tưởng của tôi sẽ ảnh hưởng và làm lỡ việc kiên quyết quán triệt chấp hành quyết sách này. Trong tâm tư tương đối nóng vội và dưới tình huống xúc động đó đã nghĩ tới việc từ chức, sau khi biết, đồng chí Thượng Côn lập tức khuyên tôi, nói nếu tôi từ chức sẽ có tác dụng kích động trong quần chúng, và nói, nội bộ Thường vụ vẫn còn có thể tiếp tục cộng sự. Tôi đã suy nghĩ đi suy nghĩ lại về lời nói trung thực của đồng chí Thượng Côn, cảm thấy lời nói của đồng chí là chính xác. Trong tình hình lúc đó, dù thể nào tôi cũng không được làm cho đảng khó khăn. Vì thế tin từ chức không lọt ra. Nhưng sự phát triển của tình hình vẫn khiến tôi lo nghĩ trùng trùng. Ngày 18 tháng 5, tôi lại viết thư gửi đồng chí Tiểu Bình, yêu cầu đồng chí xem xét lại ý kiến của tôi một lần nữa, và gọi điện thoại cho đồng chí Thượng Côn, đề nghị đồng chí ấy nói thêm một lần nữa với đồng chí Tiểu Bình. Tôi cảm thấy dù thế nào, nêu cách nhìn bất đồng của mình trong đảng là được phép, nếu là Tổng Bí thư mà có ý kiến bất đồng lại không nêu ra sẽ không phải là một thái độ có trách nhiệm. Bây giờ nhớ lại, tin từ chức tuy không lọt ra nhưng lúc ấy mà có ý nghĩ đó, xét từ toàn cục, là rất không thỏa đáng.
Về việc sáng sớm ngày 19 tháng 5 đến quảng trường Thiên An Môn thăm học sinh tuyệt thực. Lúc đầu sau khi học sinh tuyệt thực ba ngày, tôi đã chuẩn bị tới thăm họ, sau nay tôi lại mấy lần đề xuất phải đi, nhưng do hàng loạt nguyên nhân nên chưa thành. Ngày 19 tháng 5 học sinh tuyệt thực bước vào ngày thứ bẩy, có nguy cơ chết người, đã tới bước ngoặt khẩn cấp. Tiếng kêu gọi của nhân sĩ các giới trong ngoài đảng, yêu cầu tôi và đồng chí Lý Bằng tới quảng trường Thiên An Môn khuyên giải, thuyết phục học sinh tuyệt thực như cơn mưa tuyết bay tới, nhân dân quần chúng cũng bất mãn dữ dội trước việc chúng tôi cứ lần lữa không tới công tác. Có đồng chí nói nếu như Thủ tướng Chu còn sống, ông đã đến với quần chúng từ lâu rồi. Tôi cảm thấy nếu chúng tôi không tới thì bất kỳ thế nào cũng không thể ăn nói với nhân dân được. Mặc dù lúc đó sức khỏe của tôi đã cảm thấy không thích hợp, nhưng tôi vẫn hạ quyết tâm, nhất định phải đi. Do các học sinh đã tuyệt thực bẩy ngày, trong tình hình như vậy sau khi tôi đi, ngoài việc làm cảm động, khuyên giải họ ngừng tuyệt thực ra, liệu còn nói được gì? Sau khi chúng tôi đi thăm, ngay trong ngày tâm tình học sinh tuyệt thực có dịu đi đồng thời 9 giờ tối hôm đó tuyên bố ngừng tuyệt thực. Tôi không thể nói bài nói của tôi đã có tác dụng rất lớn về mặt này, nhưng chí ít cũng không có phản tác dụng. Sau khi thăm xong học sinh trở về, tự tôi đã thấy bệnh tình của mình nặng thêm.
Về vấn đề tôi không tham dự hội nghị triệu tập tối ngày 19 tháng 5. Tôi phải thuyết minh, ngày hôm đó do bị ốm nên tôi đã xin phép Thường vụ được nghỉ. Tại hội nghị, đồng chí Kiều Thạch cũng tuyên bố như vậy. Thư xin nghỉ của tôi được gửi đi trước khi nhận được thông báo họp. Xin nghỉ phép trước, nhận được thông báo họp sau. Ban đầu tôi chóng mặt, nhức đầu, đứng không vững, đến đêm thì bệnh tim phát tác. Thực tình là như vậy. Tôi xin phép nghỉ ốm ba ngày, sau khi hết hạn, tôi không còn công tác để làm, và cũng không để cho tôi tham gia bất kỳ hội nghị nào, tôi cũng chẳng biết tình hình gì nữa.
Từ những điều trên có thể thấy, trong khi xử lý phong trào học sinh và vấn đề động loạn, cách nghĩ đương thời của tôi là phải tìm cách làm dịu sự đối lập của học sinh, tranh thủ số đông trong học sinh khiến phong trào học sinh từng bước yên tĩnh dần. Tôi vô cùng lo lắng, trong tình huống mâu thuẫn với đa số người còn chưa dịu đi mà đã áp dụng thủ đoạn cứng rắn, đặc biệt là sử dụng vũ lực, sẽ khó tránh khỏi phát sinh xung đột và đổ máu. Làm như vậy sẽ làm cho sự tình càng mở rộng. Cho dù dẹp yên được phong trào học sinh cũng sẽ để lại hậu di chứng rất lớn. Bây giờ nhớ lại thấy định tính của xã luận “26-4” lỏng lẻo, và cũng không nhất định có thể làm dịu mâu thuẫn mà có khả năng làm cái nẩy xẩy cái ung, nêu ra những vấn đề khó mới, cuối cùng cũng không có cách gì loại bỏ được mâu thuẫn gay gắt thêm.
Gần đây đồng chí Tiểu Bình phát biểu bài nói vô cùng quan trọng, khiến tôi được giáo dục rất nhiều. Đồng chí nói, cơn sóng gió này đến không thể dùng ý chí con người để di chuyển được, là kết quả tất yếu của sự kết hợp ảnh hưởng giữa tình hình lớn quốc tế với tình hình nhỏ trong nước. Còn nói, đến bây giờ tốt hơn so với đến chậm. Nếu như từ tầm cao đó quan sát vấn đề, một số suy nghĩ vốn có của tôi tất nhiên sẽ trở thành không cần thiết. Đúng là lúc đó tôi chưa nhận thức đến tầm cao đó và độ sâu đó, tôi nguyện kết hợp học tập bài nói của đồng chí Tiểu Bình suy nghĩ hơn nữa vấn đề này.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:29:42 GMT 9
III
Về vấn đề khuyết điểm, sai sót cũng như trách nhiệm trong công tác kinh tế, đồng chí Tiểu Bình đã nói, đồng chí Lý Bằng cũng đã nói.
Thái độ của tôi là, kể từ sau khi tôi đến công tác tại Quốc Vụ viện cho đến trước Đại hội 13, những sai sót trong công tác kinh tế chủ yếu là do tôi chịu trách nhiệm. Báo cáo của đồng chí Lý Bằng trước Quốc hội năm 1989, trước khi Hội nghị Bộ Chính trị thảo luận đã gửi riêng cho tôi để trưng cầu ý kiến. Vì trong bản thảo đầu tiên khi nói đến nguyên nhân sai sót đã liên tục dùng mấy cái “nhiều năm nay”, tôi kiến nghị đối với vấn đề của mấy năm qua cần phải áp dụng thái độ phân tích. Như qui mô xây dựng cơ bản trong dự toán, sau năm 85 đã được khống chế, cái không khống chế được là bộ phận ngoài kế hoạch; nói một cách chung chung là cải cách muốn thành công gấp, cũng không phù hợp tình hình thực tế. Sau khi nghe xong đồng chí Lý Bằng nói, thế thì tập trung nói vấn đề của năm 88. Tôi nghe xong không biểu thị dị nghị. Có đồng chí phê bình tôi không để cho đồng chí Lý Bằng nói đến sai sót trong mấy năm qua, trút sai sót trong mấy năm đã qua ấy lên đầu đồng chí Lý Bằng. Tôi cần phải thuyết minh, không có chuyện đó, xưa nay tôi cũng không hề có cách suy nghĩ đó.
Trước năm 1987, nói chung tình hình kinh tế nước ta là tốt, là tràn đầy sức sống. Đó là kết quả của cải cách, mở cửa. Mấy năm nay kinh tế thu được thành tích rất lớn, nhưng cũng có không ít khuyết điểm và sai sót. Với tư cách là người phụ trách chủ yếu công tác tuyến một, tôi phải chịu trách nhiệm về những sai sót đó. Năm nào cũng ép qui mô xây dựng cơ bản, nhưng năm nào cũng khống chế không nổi, cũng vẫn chưa tìm được biện pháp khống chế có hiệu quả đối với xây dựng cơ bản ngoài kế hoạch và quỹ tiêu dùng tăng trưởng quá nhanh. Các đồng chí Tiểu Bình, đồng chí Trần Vân, đồng chí Tiên Niệm, đồng chí Bành Chân v.v.. đều đã nhắc nhở tới vấn đề nông nghiệp. Thế nhưng mãi đến trước hội nghị nông nghiệp năm ngoái, trong một thời gian dài chúng tôi vẫn không áp dụng biện pháp tương đối thích hợp. Những sai sót đó, là trách nhiệm của tôi.
Trước năm 1988, nước ta chưa có lạm phát rõ ràng. Tất nhiên cũng đã tích lũy một số nhân tố có thể làm gay gắt lạm phát. Nguyên nhân trực tiếp gây ra lạm phát rõ rệt năm ngoái là, do đánh giá tình hình kinh tế năm trước quá lạc quan, trong tình hình vật giá đã bắt đầu không ổn định, lại chuẩn bị tăng nhanh bước đi cải cách giá cả và công khai tuyên bố cải cách giá cả, tuyên truyền mở cửa giá cả, dẫn tới mọi người hoảng sợ, tạo ra tâm lý đề phòng dữ dội của quần chúng đối với vật giá leo thang. Phàm là các nước làm kinh tế hàng hóa đều vô cùng coi trọng vấn đề này, nhưng lúc đó chúng ta lại không hiểu lắm. Tâm lý đề phòng tăng giá của mọi người quá cao, chúng ta lại không kịp thời tăng thêm lãi suất tiết kiệm, giải quyết vấn đề bảo vệ giá trị gửi tiền tiết kiệm, vì thế đã phát sinh việc đổ xô đi mua hàng, quan trọng nhất là đã tạo thành lãi suất tiết kiệm giảm với mức độ lớn, khiến ngân hàng thiếu tiền, buộc phải phát hành nhiều tiền mặt. Chú trọng nói rõ một số việc phát sinh trong năm 1988 là để phân tích chính xác nguyên nhân xuất hiện vấn đề, chứ không hề có ý muốn đùn đẩy trách nhiệm nào. Bởi vì những sai sót lớn của năm 1988 cũng do tôi chịu trách nhiệm chủ yếu.
Tiện đây nói thêm một chút, trong báo cáo của đồng chí Lý Bằng, đại biểu 4 vị Thường vụ đã phê bình tôi không phân tích, không tính tới điều kiện đã cổ vũ cơ quan Đảng, chính và đơn vị sự nghiệp tự mình “tạo nguồn thu”. Điều này không phù hợp với sự thực. Nửa đầu năm ngoái, tôi đã gọi riêng điện thoại cho đồng chí Giang Trạch Dân, yêu cầu Thượng Hải uốn nắn vấn đề cơ quan Đảng, chính thành lập công ty tạo nguồn thu. Trong báo cáo còn phê bình tôi “luôn luôn tuyên dương” hiện tượng hủ bại tại giai đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội là “không thể tránh khỏi”. Tôi không nhớ là đã nói câu đó ở đâu. Từ đầu năm ngoái tôi đề xuất “cơ quan Đảng, chính phải liêm khiết” ở Quảng Đông đến nay, tôi bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề ngặn chặn hủ bại, giải quyết liêm khiết. Từ thời gian đó trở đi, tôi đã nói không ít lần về vấn đề ngăn chặn hủ bại và vấn đề liêm khiết. Tôi đã nói, xem xét kinh nghiệm từ nhiều nước thấy, trong thời kỳ đầu của phát triển kinh tế hàng hóa, dễ phát sinh hiện tượng hủ bại. Nhưng chúng ta là nước xã hội chủ nghiã, nên và hơn nữa có thể hạn chế hiện tượng hủ bại ở mức thấp nhất, đề xuất “kinh tế phải phồn vinh, cơ quan Đáng, chính phải liêm khiết”. Tất nhiên, làm thế nào ngăn chặn được hủ bại, duy trì được liêm khiết là một vấn đề phức tạp, tuy vậy hội nghị Ban Bí thư đã chuyên nghiên cứu rồi và còn có một số hội nghị tọa đàm, cũng đã tổng kết kinh nghiệm của một số vùng, nhưng đến nay, trong điều kiện cải cách mở cửa vẫn chưa tìm được những biện pháp hoàn chỉnh để làm thế nào chỉnh đốn xử lý một cách có hiệu quả hiện tượng hủ bại, nhưng nếu như muốn nói đến trách nhiệm, thì cũng do tôi chịu.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:30:31 GMT 9
IV
Các đồng chí đã đề xuất nhiều ý kiến phê bình tôi về vấn đề phản đối tự do hóa của giai cấp tư sản, tôi nghĩ, nhân việc này muốn trình bầy với mọi người tình hình tư tưởng của tôi.
Tử mở cửa đến nay trào lưu tư tưởng nghi ngờ tính ưu việt của chủ nghiã xã hội, ý đồ làm theo chế độ dân chủ phương Tây trong phần tử trí thức nào đó, nhất là trong một số thanh niên giáo viên, thanh niên học sinh đúng là đã có sinh sôi nẩy nở. Lần này phong trào học sinh làm lớn đến như vậy, là không tách rời khỏi ảnh hưởng của loại trào lưu tư tưởng đó. Mấy năm nay, nắm việc phản đối tự do hóa của giai cấp tư sản còn chưa đủ lực, hiệu quả không lớn, buông lỏng công tác xây dựng Đảng và chính trị tư tưởng, để tồn tại những vấn đề đó, tôi đều có trách nhiệm quan trọng.
Tôi thường xuyên suy nghĩ tới vấn đề đó, cảm thấy rất không đơn giản, rốt cuộc làm thế nào mới có thể ngăn chặn và phản đối được loại trào lưu tư tưởng này? Đúng là một vấn đề, cần nghiêm túc nghiên cứu và giải quyết. Phản đối trào lưu tư tưởng tự do hóa tư sản, tăng cường giáo dục về bốn nguyên tắc cơ bản, tăng cường công tác chính trị tư tưởng là vô cùng quan trọng về mặt này, trước đây tôi vẫn thường xuyên nhấn mạnh, đặc biệt là từ năm nay, trong các mặt như tăng cường xây dựng Đảng, tăng cường công tác chính trị tư tưởng, tăng cường giáo dục tình hình, tăng cường nghiên cứu lý luận v.v.. tôi đều đã nói một số lời. Tôi còn căn cứ vào tinh thần nhiều lần nói chuyện của đồng chí Tiểu Bình, đề xuất phải kiên trì hai tay nắm, tức một tay nắm phát triển kinh tế hàng hóa có kế hoạch xã hội chủ nghĩa, một tay nắm tăng cường công tác trên lĩnh vực tư tưởng và chính trị. Tất nhiên, nói tóm lại là nắm vẫn chưa đủ, đặc biệt là rất không quán triệt. Đúng như là đồng chí Tiểu Bình đã đề xuất: một tay rắn, một tay mềm. Tôi xin chịu trách nhiệm chủ yếu đối với việc này.
Trong thời gian này tôi cảm thấy một vấn đề tương đối phức tạp, đó là tiến hành công tác tư tưởng chính trị như thế nào mới có thể thu được hiệu quả tốt. Tôi thường nghe được một số phản ảnh, chỉ dùng những biện pháp vốn có tiến hành giáo dục, hiệu quả thường không rõ rệt, thậm chí dẫn tới tâm lý chống lại, về mặt này tôi suy nghĩ tương đối nhiều, thế nhưng vẫn chưa giải quyết vấn đề được thật tốt. Đồng thời tôi cũng cảm thấy chỉ dựa vào giáo dục tư tưởng không thôi là không đủ, muốn từ tư tưởng của người ta giải quyết vấn đề chủ nghĩa xã hội ưu việt hay là chủ nghĩa tư bản ưu việt, suy cho cùng vẫn phải dựa vào việc người ta từ trong thực tiễn của mình cảm thụ thiết thực được tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội. Điều này tất nhiên là phải làm tốt cuộc cải cách của chúng ta, phát triển một cách tốt đẹp chủ nghĩa xã hội dân chủ thích hợp với tình hình đất nước chúng ta. Từ sau tháng 4 năm 1987, đồng chí Tiểu Bình nhiều lần nói tới ý tứ như thế này: phản đối tự do hóa tư sản là một cuộc đấu tranh lâu dài, và cũng là một quá trình giáo dục lâu dài, không thể làm phong trào, phải dựa vào cải cách để làm tốt, phát triển kinh tế lên, hiển thị ra tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, dùng thực tiễn thuyết phục một số người nghi ngờ chế độ xã hội chủ nghĩa. Tôi vô cùng tán thành những quan điểm đó của đồng chí Tiểu Bình.
Cải cách bao gồm cải cách thể chế kinh tế và cải cách thể chế chính trị, hai mặt này ảnh hưởng lẫn nhau. Bây giờ xem ra, ngoài việc cải cách thể chế kinh tế, phát triển kinh tế ra, chủ nghĩa xã hội cũng phải hiển thị được tính ưu việt của mình trên thể chế chính trị, trên vấn đề dân chủ. Trong thực tiễn, tôi càng ngày càng cảm thấy, cải cách thể chế chính trị vừa không được vượt trước, nhưng cũng không được lạc hậu hơn cải cách thể chế kinh tế, mà về đại thể nên tiến hành đồng bộ. Nếu như quá chậm hơn thì cải cách thể chế kinh tế sẽ khó có thể tiếp tục được, hơn nữa còn sản sinh ra các loại mâu thuẫn xã hội, chính trị. Tôi vốn từng nghĩ là, chỉ cần làm tốt cải cách thể chế kinh tế, phát triển kinh tế lên, mức sống mọi người được nâng cao, thì mọi người sẽ vừa ý, xã hội sẽ ổn định. Nhưng sau này phát hiện tình hình không hoàn toàn như vậy. Sau khi mức sống, trình độ văn hóa của nhân dân được nâng cao thì ý thức tham gia chính trị, ý thức dân chủ sẽ được tăng cường. Nếu như giáo dục tư tưởng theo không kịp, xây dựng dân chủ và pháp chế theo không kịp thì xã hội vẫn không ổn định. Tháng 12 năm ngoái, tôi đã nói tại hội nghị của quân đội, tình hình của nhiều nước đều thuyết minh, phát triển kinh tế thường thường và không thể mang lại sự thỏa mãn, vừa ý cho mọi người và sự ổn định xã hội. Tôi thấy là điều này đã nêu ra với chúng ta hai vấn đề, một là phải kiên trì nắm cả hai tay, không thể xem thường công tác trong lĩnh vực tư tưởng chính trị; hai là cải cách thể chế chính trị phải theo kịp, chủ yếu là xây dựng dân chủ và pháp chế xã hội chủ nghĩa phải theo kịp. Trong công tác thực tế, tôi còn cảm thấy sâu sắc rằng, thời đại đã khác rồi, xã hội và quan niệm tư tưởng của người ta cũng phát sinh thay đổi. Dân chủ đã trở thành trào lưu thế giới (tất nhiên trên thế giới đúng là có một dòng nước ngược chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội, bọn chúng cũng luôn luôn giương ngọn cờ dân chủ, nhân quyền, cần phải chú ý đến tình huống phức tạp trung gian này), quan niệm dân chủ của mọi người đã phổ biến tăng cường, nhiều vấn đề xã hội nếu hoàn toàn dùng biện pháp vốn có rất khó giải quyết. Ở nước ta, kiên trì sự lãnh đạo của đảng cộng sản, không làm chế độ đa đảng phương Tây, nguyên tắc cơ bản này quyết không được dao động. Thế nhưng một đảng lãnh đạo phải giải quyết được vấn đề dân chủ, giải quyết được những vấn đề tiêu cực, không lành mạnh trong nội bộ đảng và nhà nước cho đến việc giám sát đôn đốc có hiệu quả hiện tượng hủ bại nào đó thì lãnh đạo một đảng mới có thể tăng cường được sức sống. Vì vậy tôi nghĩ, đảng chúng ta phải thích ứng với thời đại mới, tình hình mới, học được cách dùng biện pháp mới như dân chủ và pháp chế v.v.. để giải quyết vấn đề mới. Ví dụ như, phải tăng cường độ minh bạch trong đời sống chính trị, phát huy đầy đủ tác dụng của Quốc hội, tăng cường và hoàn thiện chế độ hợp tác và chế độ hiệp thương nhiều đảng dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, hoàn thiện và cải tiến chế độ bầu cử, tăng cường sự giám sát đôn đốc của nhân dân quần chúng đối với đảng và chính phủ, dùng luật pháp cụ thể để bảo đảm và qui phạm tự do ngôn luận, cho phép tuần hành qua xin phép và phê chuẩn hợp pháp v.v..Tóm lại phải làm cho nhân dân thiết thân cảm thụ được rằng, dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản, dưới chế độ xã hội chủ nghĩa có thể hưởng thụ được dân chủ và tự do chân chính mà thiết thực. Như vậy, chủ nghĩa xã hội mới có thể tăng cường sức hấp dẫn, sức ngưng tụ đối với nhân dân, tính ưu việt của nó mới càng hiển thị ra được. Do vậy cơ quan lãnh đạo và người lãnh đạo các cấp của chúng ta phải tiến hành công tác và sinh hoạt trong điều kiện thích ứng với dân chủ và pháp chế. Thực hiện dân chủ, ý kiến rối rắm, bề ngoài có một số “loạn”. Thế nhưng, có những “phiền phức” nhỏ, bình thường trong phạm vi dân chủ và pháp chế mới có thể tránh được loạn lớn. Quốc gia mới có thể ổn định lâu dài. Tuy vậy trung gian còn có một vấn đề tương đối phức tạp đó là phải khu biệt giữa yêu cầu dân chủ bình thường, thi hành quyền lợi dân chủ bình thường với những tự do hóa của giai cấp tư sản. Chúng ta không cho phép giương ngọn cờ dân chủ để thực hiện tự do hóa tư sản; đồng thời trong khi phản đối tự do hóa tư sản, chúng ta cũng không ngần ngại phát huy dân chủ. Điều này đòi hỏi phải từng bước vạch rõ một số giới hạn chính sách trong thực tiễn, và cuối cùng điều này cũng phải được giải quyết trên quỹ đạo pháp chế, thống nhất một cách tốt đẹp hai điều đó lại. Từ nay trở đi, mặt quan trọng của vai trò lãnh đạo của đảng phải thể hiện ở chỗ tích cực lãnh đạo nhân dân tiến hành xây dựng dâm chủ và pháp chế, làm cho nhà nước xã hội chủ nghĩa nước ta trở thành quốc gia pháp trị chân chính. Hơn nữa nếu đảng ta không giương cao ngọn cờ dân chủ, sẽ bị người khác đoạt lấy. Tôi cảm thấy, sớm hay muộn chúng ta vẫn phải đi con đường này. Đi một cách bị động, không bằng tự giác, chủ động mà đi, bởi vì tôi nhìn thấy, có nước xã hội chủ nghĩa khi mâu thuẫn xã hội tương đối gay gắt, địa vị của đảng đã suy yếu lớn mà làm cải cách chính trị, thì rất khó khống chế tình hình. Tôi nghĩ chúng ta nên chủ động xây dựng dân chủ khi địa vị lãnh đạo của đảng còn tương đối vững chắc. Như vậy dưới sự lãnh đạo của đảng ta có thể phát triển một cách có kế hoạch, có bước đi, có trật tự một loại chế độ xã hội chủ nghĩa kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản, thích hợp với tình hình đất nước ta. Đương nhiên nếu làm như vậy, trong quá trình xây dựng dân chủ và pháp chế vẫn có một số đau đớn, ma sát, thậm chí chấn động, nhưng những cái đó quyết không phải là chủ nghĩa xã hội phát sinh khủng hoảng. Sau khi đảng ta đã trải qua một cuộc tự mình điều chỉnh, tự mình hoàn thiện, càng thêm thích ứng với yêu cầu của thời đại mới, sẽ có một bộ mặt mạo mới, hăng hái phấn chấn lãnh đạo nhân dân cả nước tiến lên. Chủ quan tôi cho rằng, đó chính là sự suy nghĩ chân chính cho tiền đồ của đảng và đất nước. Nhiều năm nay, trong cải cách kinh tế chúng ta đã tích cực, mạnh bạo, nhưng trên cải cách chính trị, chúng ta luôn luôn giữ thái độ thận trọng. Tôi cũng đã từng tự xưng là “nhà cải cách về kinh tế, nhà bảo thủ về chính trị”; mấy năm gần đây, tư tưởng tôi có sự thay đổi, cảm thấy nếu không đưa được cải cách chính trị vào chương trình làm việc quan trọng hàng ngày, thì không chỉ những vấn đề khó trong cải cách kinh tế rất khó giải quyết, mà các loại mâu thuẫn xã hội, chính trị cũng sẽ ngày càng gay gắt hơn. Cách suy nghĩ đó của tôi, đã ảnh hưởng tới tôi khi quan sát và xử lý một số vấn đề cụ thể. Tôi cảm thấy, trong hội nghị đảng hôm nay, tôi nên nói rõ một số lời tự đáy lòng, tâm sự với các đồng chí. Rất có thể là loại suy nghĩ đó là sai lầm, hy vọng các đồng chí phê bình, giúp đỡ.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:31:44 GMT 9
V
Tôi không có ý kiến gì về việc trong báo cáo của mình đồng chí Lý Bằng kiến nghị tước bỏ hết mọi chức vụ lãnh đạo của tôi, nhưng đối với việc đề xuất hai chỉ trích tôi: “ủng hộ động loạn” và “chia rẽ đảng”, tôi bảo lưu ý kiến.
Đối với việc xử lý như thế nào phong trào học sinh và động loạn, đúng là tôi đã căn cứ vào phạm vi cho phép của điều lệ đảng, đã nêu ra những ý kiến bất đồng của mình trong hội nghị đảng. Cho dù là những ý kiến đó có thể thực hiện được và có hiệu quả hay không, nhưng đều là những ý kiến về việc làm thế nào dẹp yên được động loạn, trước sau tôi chưa bao giờ đề xuất ý kiến ủng hộ động loạn.
Xem xét lại tình hình thực tế thấy, việc phong trào học sinh và động loạn mở rộng cũng không thể nói là do tôi ủng hộ. Trên thực tế, trong đoạn thời gian từ ngày 23 tháng 4 đến cuối tháng, phong trào học sinh và động loạn mở rộng rất nhanh, nhưng thời gian đó tôi không ở trong nước. Trong báo cáo đồng chí Lý Bằng nói, bài nói của tôi tại hội nghị hàng năm của Ngân hàng châu Á đã khiến động loạn leo thang, trên thực tế, sau khi tôi nói chuyện, tình hình các trường đại học lũ lượt mở lại lớp học cho thấy sự phê bình đó không phù hợp sự thực, các báo thủ đô lúc đó đều đưa tin. Điều này chí ít có thể thuyết minh, lần nói chuyện đó của tôi không dẫn đến việc phong trào học sinh leo thang. Từ sau ngày 19 tháng 5 thực hành thiết quân luật, tôi không còn công tác, tất nhiên cũng không phát biểu thêm bài nói nào, sau đó động loạn leo thang, càng không có lý do để nói tôi là nguyên nhân. Nếu như nói vì tôi xin nghỉ ốm không thể tham gia hội nghị ngày 19 tháng 5, nên sự phát triển của tình hình sau đó chủ yếu là do nguyên nhân của tôi dẫn tới, thì giải thích như thế nào cũng đều không xuôi.
Về vấn đề “chia rẽ đảng”, thế nào mới là hành động chia rẽ đảng? Trong lịch sử đảng đã có những vụ án làm ví dụ. Trong “Về một số chuẩn tắc trong sinh hoạt chính trị trong đảng” cũng đã có qui định. Xưa nay đảng ta chưa bao giờ coi việc đề xuất ý kiến bất đồng trong đảng, thậm chí bảo lưu ý kiến thì bị gọi là chia rẽ đảng.
Giữa những người lãnh đạo, trong những bài nói công khai về trọng điểm có lúc có một số bất đồng, cách xử lý cũng không nhất trí lắm, người ta có thể nói thế này thế nọ trong trung gian, những sự việc như thế không ngừng xuất hiện. Không thể vì thế mà gọi là chia rẽ đảng. Như trong báo cáo của mình, đồng chí Lý Bằng chỉ trích tôi trong bài nói tại hội nghị hàng năm Ngân hàng châu Á không đề cập tới xã luận ngày 26 tháng 4, còn chỉ trích tôi trong tình hình đã xuất hiện động loạn mà trong bài nói vẫn nói “Trung Quốc sẽ không xuất hiện động loạn lớn”. Thế nhưng ngay ngày hôm sau, khi phát biểu tại hội nghị hàng năm Ngân hàng châu Á, đồng chí Lý Bằng cũng không đề cập tới bài xã luận ngày 26 tháng 4, hơn nữa còn nói Trung Quốc cần cố gắng “tránh động loạn”. Tôi cho rằng trong một số bài nói như vậy tại các trường hợp bất đồng, thời gian bất đồng mà trọng điểm lại bất đồng, thậm chí cách xử lý lại rất không nhất trí, có một số là không thích hợp, thậm chí là sai lầm nữa đều không thể dao to búa lớn nói là “chia rẽ đảng”. Càng không thể coi việc tôi xin nghỉ ốm mà không thể tham dự hội nghị ngày 19 tháng 5 là hành động “chia rẽ đảng”.
Ngoài ra, nói một số đơn vị là “túi khôn”, “nhóm túi khôn” của tôi, do đó những đơn vị này có người xuống đường tuần hành diễn thuyết dường như là có quan hệ gì đó với tôi. Tôi cần thuyết minh, không tồn tại việc có “túi khôn” và “nhóm túi khôn” gì đó. Khi tôi công tác tại Quốc Vụ viện, có lúc nhân một số vấn đề lý luận kinh tế tìm người tọa đàm. Những người tham gia tọa đàm thường đến từ nhiều đơn vị, có khi cũng có người ở đơn vị này nọ. Ngoài ra tôi và các đơn vị đó không có liên hệ gì. Những đơn vị này cũng không hề do tôi trực tiếp quản, giữa họ có quan hệ lệ thuộc của mình. Nói bọn họ thành “túi khôn” của tôi vừa không đúng sự thực, và cũng không cần thiết làm cho những đơn vị này phải mang thêm ba lô.
Mặc dù điều lệ đảng qui định đảng viên có quyền tiến hành biện bạch về những ý kiến xử lý mình, điều 4 chương một trong “Điều lệ đảng” qui định “khi tổ chức đảng thảo luận, quyết định xử lý kỷ luật đảng hoặc đưa ra giám định đối với đảng viên, người đó có quyền tham gia và tiến hành biện bạch,... tổ chức đảng bất kỳ cấp nào cho đến Trung ương đều không có quyền tước đoạt quyền lợi nói trên của đảng viên.”
Hôm nay tôi chỉ chú trọng đưa ra biện bạch về hai chỉ trích nói trên, hy vọng được suy xét tới.
Người dịch: Dương Danh Dy
Trích dịch từ: Tôn Phượng Minh (宗鳳鳴/Zong Fengming), “Những câu chuyện của Triệu Tử Dương khi bị giam lỏng”, (趙紫陽軟禁中的談話/ Triệu Tử Dương nhuyễn cấm trung đích đàm thoại/ Zhao Ziyang: captive conversations. ISBN: 9789627934219), NXB “Khai phóng” (Kai fang chu ban she), Hongkong
Chú thích
[1] Chỉ Phong trào mồng 4 tháng 6 (1989) tại Trung Quốc kết thúc bằng vụ thảm sát tại quảng trường Thiên An Môn (Bắc Kinh).
[2] Đảng Cộng sản Trung quốc.
[3] phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc chống đế quốc và phong kiến. Mở đầu bằng cuộc biểu tình ngày 4.5.1919 của thanh niên học sinh, sinh viên Bắc Kinh phản đối quyết định của Hội nghị Hoà bình Pari chuyển tỉnh Sơn Đông (Shandong) từ thuộc địa của Đức thành thuộc địa của Nhật.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:58:21 GMT 9
Nhận thức đương đại của Trung quốc về âu Châu Vietsciences- Nguyễn Trường Chuyển ngữ (Contemporary Chinese Views of Europe by Karine Lisbonne-de Vergeron) Lời Mở ĐầuSau gần hai mươi năm tê liệt, quá trình hội nhập Âu châu đã được tái khởi động với Hiệp Định mới về định chế Liên Hiệp Âu Châu (EU), đạt được vào ngày 19-10-2007 tại Lisbon. Nicolas Sarkozy, Tổng Thống Pháp, mới đây, đã lên tiếng kêu gọi 27 nước thành viên hãy ủng hộ quá trình sáng lập một Ủy Ban Các Thức Giã cao cấp (a high level Committee of Wise Men) để xem xét tương lai của Âu châu và khuyến nghị một viễn kiến minh bạch nhằm phát triển Liên Hiệp cho hai mươi năm sắp tới. Sứ mệnh của Ủy ban là thẩm định khả năng của Liên Hiệp Âu Châu trước những thách đố của toàn cầu hóa và tác động của một Trung Quốc đang trổi dậy. Trong những năm gần đây, người ta đã thấy vô số những nghiên cứu về vấn đề nầy. Tuy nhiên, phần lớn đều do các tác giả nước ngoài, nhất là Âu châu. Rất ít công trình chú tâm đến những gì người Trung Quốc nghĩ về thế giới bên ngoài nơi đó Trung Quốc đang chiếm một vị trí ngày một ưu thế. Hơn nữa, người ta chưa từng gặp một công trình nghiên cứu mang tính hệ thống để tìm hiểu người Trung Quốc đã nhận thức như thế nào về Liên Hiệp Âu Châu nói riêng và châu Âu nói chung. Đã hẵn đây là một đề tài "tuy hai mà một", không thể nghiên cứu riêng rẽ mà không đánh mất ý nghĩa. Đã hẵn, một cuộc nghiên cứu phản ảnh quan điểm của giới thức giã Trung Quốc - tự nó đã mang tính phiến diện - nhưng một phần nào vẫn có thể giúp giới lãnh đạo Âu châu điều chỉnh cái mà một bình luận gia Trung hoa gọi là xu thế hướng nội ngày một gia tăng đang ám ảnh người Âu và phương hại đến khả năng Âu châu giữ vai trò lãnh đạo trong sinh hoạt thế giới. Ngày nay, Trung Quốc hình như đang cực lực hướng ngoại. Nền kinh tế hiện đang phát triển với tốc độ 11.5% mỗi năm. Nhiều người tin vào khoảng năm 2030, và có lẽ còn sớm hơn, kinh tế Trung Quốc sẽ vượt lên vị trí số 1 của thế giới. Trong quá trình phát triển, dĩ nhiên Trung Quốc luôn đặc biệt quan tâm đến vai trò của Liên Hiệp Âu Châu. Kể từ năm 2004, Liên Hiệp Âu Châu đã là đối tác thương mãi hàng đầu, và tầm quan trọng của thị trường Âu châu ngày một gia tăng nhanh chóng đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, mặc dù một số bình luận gia đã nói nhiều về một đối tác chiến lược , và một số đối thoại và khung hợp tác đã được thảo luận trong hai thập kỷ qua, người ta phải đợi đến cuộc họp thượng đỉnh Liên Hiệp Âu Châu- Trung Quốc năm 2006 ở Helsinki, các cuộc thảo luận về một Thỏa Ước Đối Tác và Hợp Tác mới (New Partnership and Cooperation Agreement - PCA), mới được khởi động. Điều nầy trái hẵn với hàng loạt thỏa ước "đối tác chiến lược" với Hoa Kỳ. Từ đó, tiến độ cũng chẳng mấy chóng vánh. Những cuộc thảo luận dự liệu diễn ra trong hội nghị thượng đỉnh thứ 10 tại Bắc Kinh ngày 28-11-2007 và tiếp tục trong suốt nhiệm kỳ chủ tịch Liên Hiệp Âu Châu của Pháp vào hậu bán niên 2008 (trong khoảng thời gian phiên họp thượng đỉnh thứ 11 dự liệu được triệu tập). Công trình nghiên cứu nầy đặc biệt nhằm nêu rõ: . Người Trung Quốc (TQ) cảm thấy Âu châu thiếu một viễn kiến chiến lược, và nội bộ còn lủng củng, những nhược điểm ảnh hưởng đến uy tín trong sinh hoạt thế giới. Âu châu không hiện diện như một trung tâm quyền lực chính trị, nhất là khi sánh với Hoa Kỳ. . TQ muốn thấy một tiếng nói Âu châu thống nhất, như một thành tố trong quan niệm của người Hoa về một trật tự thế giới đa cực tương lai . . TQ có một cách tiếp cận tinh tế đối với Âu châu, bao gồm một sự am hiểu thấu đáo về Liên Hiệp Âu Châu (EU) trong hai khía cạnh định chế và các xứ thành viên chính, cũng như nền văn minh Âu châu nói chung. . Quan hệ kinh tế và chính trị giữa Âu châu và TQ hiện hạn chế trong khuôn khổ song phương với từng quốc gia thành viên riêng lẻ. Tuy nhiên, EU như một thực thể ngày một quan trọng hơn đối với TQ về thương mãi và về nhiều khía cạnh kinh tế khác. Trong vòng 20 năm sắp tới, xét cho cùng, chỉ có EU như một thực thể mới có thể duy trì một vị thế thương nghị đứng đắn với TQ trong những địa hạt vừa kể. . Người TQ xem sự ra đời của đồng Euro như một thành tựu rất ấn tượng. Họ tin vị trí của Âu châu trong tương lai sẽ tùy thuộc, trên hết, ở khả năng xây dựng một bản sắc quốc phòng và an ninh chung chặt chẻ hơn và tăng cường khu vực Eurozone - đặc biệt là với sự gia nhập của Vương quốc Anh. . TQ xem kinh nghiệm Âu châu như một nguồn cảm hứng, tiếp sức cho sự hợp tác kinh tế cấp khu vực ở Á châu, nhất là trong tương quan với Nhật Bản. . Âu châu vẫn còn rất hấp dẫn về văn hóa và, trong căn bản, không thoái bộ (trái với suy đoán của một số người Ấn và người Mỹ). Mặc dù người TQ cảm nhận Âu châu và Hoa Kỳ cuối cùng rồi cũng thắt chặt với nhau, họ vẫn luôn xem Âu châu và TQ như hai nền văn minh nòng cốt của thế giới, và từ góc cạnh nầy, xem Hoa Kỳ chỉ ở bên lề (marginal). Nhận thức nầy đem lại một căn bản chung đặc thù cho sự hiểu biết và cảm thông giữa người Âu châu và người Hoa. Người TQ nhìn Âu châu trong ý niệm EU là một tập thể căn bản và mong muốn được thấy EU mở rộng hơn nữa. Tuy nhiên, họ vẫn còn chưa nhất trí xem Nga trên căn bản là một cường quốc Âu châu. KINH TẾ ÂU CHÂU: NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC 1. Liên Hiệp Âu Châu: Quan hệ kinh tế then chốt của Trung Quốc Người Trung quốc hiện nay rất quan tâm đến quan hệ kinh tế với Âu châu và Liên hiệp Âu châu (EU). Từ 2004, EU luôn là đối tác thương mãi đầu tiên của Trung quốc, chiếm 15% ngạch số ngoại thương năm 2006, với thương mãi song phương gia tăng 25% so với 2005. Nhìn chung, mậu dịch song phương giữa Trung quốc và EU đã gia tăng gấp 6 lần từ 1978, lên đến 255 tỉ Euro vào năm 2006. Ngược lại, Trung quốc hiện là đối tác thương mãi lớn thứ nhì của EU, chỉ sau Hoa Kỳ, và năm 2006 đã là nguồn nhập khẩu lớn nhất của EU, với ngạch số lên đến khoảng 192 tỉ euros, hay 14,4% tổng số nhập khẩu của EU, và gia tăng 21% so với năm 2005. Trong cùng khoảng thời gian, số xuất khẩu của EU qua Trung quốc đã gia tăng 23%, đạt ngạch số 63 tỉ euros (xem Bảng 1 đính hậu). Sau đây là một số sự kiện đáng lưu ý: (1) Năm 2005, Trung quốc là nước hưởng ưu đải lớn thứ hai trong chương trình Generalized System of Preferences -GSP (Hệ Thống Ưu Đải Tổng Quát Hóa), lên tới 10,3% tổng số nhập khẩu trong năm. (2) Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2006, tổng số giao dịch thương mãi giữa EU (25 thành viên) và Trung quốc đã lên đến 231,4 tỉ euros. Trong số nầy, 178 tỉ (77%) từ Eurozone (khu vực Euro,12 thành viên). Điều nầy có nghĩa là thành viên của Eurozone chiếm đến 70% ngạch số khuy khiếm của EU với Trung quốc. (3) EU là nguồn cung cấp lớn nhất cho Trung quốc các trang bị phẩm kỷ thuật cao và tư bản phẩm nói chung. Trung quốc đã tiếp nhận trên 40% tổng số nhập khẩu các sản phẩm loại nầy từ EU (so với 23% từ Nhật và 19% từ Hoa Kỳ trong năm 2006). Trong năm 2006, Trung quốc đã có đến 2.500 hợp đồng nhập khẩu máy móc trang bị từ EU, với trị giá trên 8,6 tỉ Euro. (4) Đầu tư trực tiếp (Foreign direct investment - FDI) từ EU vào Trung quốc đã lên đến 3,7 tỉ Euro năm 2006. Trong những năm gần đây, các công ty EU đã gia tăng đầu tư vào Trung quốc, đem tổng số FDI của EU (với 25 thành viên) lên trên 31,4 tỉ Euro vào cuối năm 2005 (từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2007, 2,5 tỉ FDI từ Nhật và 1,8 tỉ từ Hoa Kỳ ). (5) FDI Trung quốc đến Âu châu, trong khoảng từ tháng 1 đến tháng 9, 2005, lên tới 130 triệu Euro, gia tăng 68% so với cùng kỳ trong năm 2004. 2. Phần lớn thương mãi là với các quốc gia thành viên riêng rẻ Theo một số người Trung quốc được phỏng vấn, EU là một khối có khả năng đặt chuẩn mực và quy luật có ảnh hưởng toàn cầu, chẳng hạn như WTO. Tuy nhiên, trong mục tiêu kinh tế thực dụng, họ cảm nhận Trung quốc thà làm việc trực tiếp song phương với từng quốc gia Âu châu riêng rẻ hơn là với một Âu châu như một tập thể. Theo lời một doanh nhân Âu châu thường trú ở Trung quốc, Âu châu không có một đội túc cầu và người ta cũng không thấy hiện diện một đội ngủ doanh nhân Âu châu thống nhất khả dĩ lợi dụng tối đa các cơ hội do quá trình phát triển kinh tế ngoạn mục của Trung quốc đem lại. Các công ty Âu châu cạnh tranh gay gắt với nhau, phương hại đến hình ành của tập thể. Trạng huống đó đã cho phép Trung quốc lợi dụng trong chiến lược hạ thấp lợi nhuận với toàn bộ Âu châu. Một ví dụ điển hình là hợp đồng xây tuyến đường hỏa xa cao tốc nối liền với phi cảng Thượng Hải. Một tập đoàn do công ty Siemens dẫn đầu đã trúng thầu, nhưng trong những điều kiện bất lợi hơn nhiều, vì phải cạnh tranh không những với một công ty Nhật mà còn cả với một nhà thầu Pháp. Trong các xứ thành viên EU, Đức là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung quốc, chiếm 29% tổng số EU trong năm 2006. Mậu dịch đã gia tăng 25% từ 2005 đến 2006 với nhịp gia tăng trung bình 20-28% mỗi năm kể từ 1998. Trung quốc là đối tác số 10 đối với hàng xuất khẩu của Đức. Theo sự đánh giá của các doanh nhân Trung quốc, Đức được xem có nhiều ngành kỹ nghệ rất hiệu quả, với những công ty then chốt hoạt động trong các ngành kỹ nghệ xe hơi, hóa học (BASF và Bayer) và điện tử. Ngược lại, Anh quốc đứng thứ ba trong EU, với một thị phần 11% - sau cả Hòa Lan, xứ có nhập siêu lớn nhất Âu châu. Mậu dịch của Anh với Trung quốc đã gia tăng 25% từ 2005 và Anh là xứ có mức FDI lớn nhất EU ở Trung quốc. Các công ty Anh thành công nhất ở Trung quốc gồm HSBC (với 8% cổ phần trong Bank of Shanghai) và Royal Bank of Scotland (6% cổ phần trong Bank of China) trong khu vực tài chánh, và BG Group trong kỹ nghệ hơi đốt. Pháp đứng hàng thứ tư trong EU (9%) với 1.400 công ty hoạt động ở Trung quốc. Một số thành công lớn như bán 150 máy bay Airbus vào tháng 12-2005, trị giá 8,3 tỉ Euro, thỏa ước sản xuất liên doanh một phi cơ lên thẳng dân sự, loại 175, trị giá 300 triệu Euro, và thỏa thuận cung cấp hai lò phản ứng hạt nhân EPR 1.600 MW do công ty Areva của Pháp vào mùa đông 2007. Đối với vị giám đốc một công ty Âu châu lớn người Anh ở Thượng Hải, điều rõ ràng là "ba năm trước đây, CEO của công ty có thể dễ dàng gặp những bộ trưởng hàng đầu trong chính quyền Trung quốc", nhưng "giờ đây, với tư thế một quốc gia thành viên (EU), thật khó lòng có đủ uy tín bằng tư thế chung với các chính quyền Âu châu khác". Một nhận xét tương tự:"Tôi đã trở thành người Âu châu khi đặt chân đến đây". Trong những dự án lớn, người Âu nên hợp tác với nhau thay vì cạnh tranh."Nói chung, Âu châu sẽ cần những tập đoàn vô địch nếu muốn đối đầu với thách đố do Trung quốc và cách làm ăn của người Hoa đem lại". Đã hẵn, với một dân số 490 triệu, và tiềm năng mở rộng hơn nữa, EU, như một định chế, một thực thể, đương nhiên có thể là một "đối tác tự nhiên" với Trung quốc hơn là những thành viên riêng rẻ. Như một chuyên viên Trung quốc hàng đầu thổ lộ, mặc dù chúng tôi thủ lợi trước tình trạng phân tán chia rẻ, chúng tôi tiên liệu người Âu ngày một ý thức rõ chỉ khi nào họ đoàn kết hay thống nhất, họ mới có thể giữ được vị trí cạnh tranh hữu hiệu với Trung quốc". 3. Liệu Âu châu có giữ được vị trí của mình? Hầu hết chuyên viên kinh tế Trung quốc đồng ý, trong đoản kỳ, EU cần tiếp tục giữ vai trò đối tác thương mãi lớn nhất của Trung quốc. Tuy nhiên, một số tiên đoán, năm mươi năm sau, Trung quốc sẽ là cường quốc kinh tế số một của thế giới, kế đến là Ấn độ, rồi mới tới Hoa Kỳ và Nhật bản, mặc dù 'điều nầy có thể đến sớm hơn nhiều'. Điều không ai nghi ngờ là 'không một quốc gia Âu châu riêng lẽ nào sẽ lọt vào bốn nước đầu bảng'. Mặc dù 'Âu châu nói chung vẫn sẽ là một trong những nền kinh tế lớn nhất của thế giới', địa vị tương đối của Âu châu 'hiện nay thật bấp bênh'. 'Rất có thể kinh tế Âu châu sẽ quan trọng hơn Á châu, ngoài Trung quốc và Ấn Độ, và cũng vượt cả Bắc Mỹ'. Dù sao, có lẽ phải đợi khoảng một thập kỷ sau 'mới có thể xét đoán dễ dàng'. Một sử gia Trung quốc đã nêu rõ, 'điều nầy có nghĩa một sự trở lại trạng huống hay mô hình kinh tế vào cuối thế kỷ thứ 18, khi Trung quốc chiếm giữ gần 30% thương mãi toàn cầu, với Ấn Độ đứng thứ hai với 15% - dĩ nhiên vào thời điểm châu Mỹ tiền-Columbus còn cô lập - kéo dài trong suốt phần lớn thời kỳ lịch sử đã được ghi chép'.Trong ba thập kỷ sắp đến, người Trung quốc đặc biệt quan tâm ba yếu tố mang tính quyết định nhận thức kinh tế của họ về Âu châu. Theo thứ tự quan trọng tiệm tăng, đó là diễn biến trong quan hệ thương mãi của họ với Hoa Kỳ, tăng trưởng trong trình độ hội nhập với các nền kinh tế lớn khác ở Á châu, và biến chuyển trong nền kinh tế quốc nội. 4. Âu châu, đồng đô la và khuy khiếm Các quan sát viên Trung quốc, đã hẵn, rất e ngại trước áp lực ngày một gia tăng từ phía Hoa Kỳ , và cố nhiên, cả từ phía Âu châu, đòi hỏi Trung quốc tái định giá đồng nhân dân tệ (renmimbi), giảm bớt mức thặng dư trong cân thương mãi (hiện gia tăng 85% với thế giới bên ngoài trong 6 tháng đầu năm 2007), và mở cửa kinh tế tiếp nhận đầu tư của nước ngoài nhiều hơn. Một chuyên gia quen thưộc với những chuyển biến gần đây ở Hoa Thịnh Đốn nghĩ, nguy cơ 'chiến tranh thương mãi thực sự hiện hữu'. Mối lo càng gia tăng với viễn tượng một Tổng Thống phe Dân chủ có nhiều cơ may lọt vào Tòa Bạch Ốc vào tháng 1-2009. Bởi lẽ Trung quốc không thể xem quan hệ với Hoa Kỳ là 'thuần túy kinh tế như chúng ta đang mong muốn'. Tuy nhiên, các chuyên gia Trung quốc vẫn tin tưởng 'quyền lợi của đôi bên đòi hỏi phải duy trì ổn định và phát triển, và tránh những bất trắc, nguy cơ của chủ nghĩa bảo vệ mậu dịch'. Đối với người Âu châu, điều đặc biệt quan trọng trong địa hạt nầy, chính là việc người Trung quốc rõ ràng âu lo lập trường của EU sẽ ngày một gần gũi và đồng điệu với Hoa Kỳ trong những cuộc thương thảo trong tương lai hơn là từ trước đến nay. Người Trung quốc nghĩ 'người Âu hiện nay hình như đang tha thiết với tự do mậu dịch hơn là người Mỹ'. Nhưng điều quan trọng là 'Âu châu chắc chắn sẽ đi theo đường lối của Hoa Kỳ' trong vấn đề nầy. 'Chúng tôi không nghĩ là EU sẽ sửa đổi chính sách thương mãi với Trung quốc một cách đáng kể độc lập với Mỹ. Tuy nhiên, nếu Hoa Kỳ quyết định đi theo đường lối bảo vệ nhiều hơn, chúng tôi tin EU cũng hành động tương tự'. Một vài bình luận gia lấy làm ngạc nhiên về điều nầy. Xét cho cùng, 'trên bình diện thuần túy kinh tế, Âu châu hiện đang có nhiều quyền lợi ở Trung quốc hơn là Hoa Kỳ'. Theo một nghiên cứu gần đây, rào cản của Trung quốc đối với xuất khẩu từ EU đã đánh mất 20 tỉ Euro mỗi năm, hay 30% tổng số. Ngạch số khuy khiếm trong thương mãi hai chiều lớn nhất của EU (lúc đó mới có 25 thành viên) là với Trung quốc. Con số nầy lên đến gần 128 tỉ Euro vào năm 2006, tăng 57% so với 2003. Trong chín tháng đầu năm 2007, ngạch số xuất khẩu của Trung quốc qua EU gia tăng 37% . Với Hoa Kỳ, con số nầy chỉ tới 16% - một phần phản ảnh sự lên giá của đồng Euro đối với tiền Trung quốc trong những quảng thời gian đó, trong khi đồng đô la lại bị mất giá. Đôi khi, các quan sát viên Trung Hoa xem đây như một dấu hiệu của 'sự suy yếu và rời rạc bất nhất' của Âu châu. Mặc dù đôi khi họ phóng đại thái quá trình độ và ý nghĩa của những lủng củng nội bộ EU về mậu dịch và chính sách hối đoái, nhưng chắc chắn nay họ rất mong muốn giao dịch với EU, giống như 'chúng ta đang làm với Hoa Kỳ về các vấn đề tiền tệ và mậu dịch'. 5. Hướng tới một đối thoại chiến lược kinh tế vĩ mô Vào tháng 6-2007, Nhóm High-Level Group (Nhóm Cấp Cao) về mất quân bình trong cân thương mãi EU-Trung quốc được thiết lập với mục tiêu soạn thảo một phúc trình sơ bộ cho cuộc họp thượng đỉnh Bắc kinh về các phương cách giải quyết tình trạng khuy khiếm ngày một gia tăng trong mậu dịch song phương. Đây là nổ lực bổ túc cho Đối Thoại Kinh Tế Tài Chánh thường niên nhằm tăng cường hiểu biết đôi bên. Cuộc họp thứ ba vào ngày 5-7-2007 đã trao đổi rộng rãi quan điểm về sự tương tác trong các chính sách thuế khóa và tiền tệ của Trung quốc và EU cũng như các cải tổ trong khu vực tài chánh Trung quốc. Đúng như một chuyên viên Âu châu nhận xét, nổ lực nầy 'đúng ra phải đưa đến một cuộc đối thoại song phương về chiến lược kinh tế vĩ mô giữa Âu châu và Trung quốc tương tự như những cuộc đối thoại với Hoa Kỳ vào tháng 12-2006 và Nhật vào tháng 4-2007'. Tuy nhiên, phía EU rõ rệt có một vấn đề: sự thiếu nhất trí giữa Ủy Hội EU đại diện cho tất cả 27 thành viên và 13 xứ trong khu vực Eurozone. Trung quốc không thấy ai thực sự đại diện cho đồng Euro. Phải chăng đó là Ngân Hàng Trung Ương Âu châu (European Central Bank -ECB)? Quan hệ giữa Jean-Claude Trichet, Chủ Tịch ECB, và Joaquín Almunia, Ủy Viên Tiền Tệ và Kinh Tế (Economic and Monetary Affairs Cơmmissioner) hay với Jean-Claude Juncker, Chủ Tịch Nhóm Eurogroup như thế nào? Còn vai trò của Fernando Teixeira dos Santos, Bộ Trưởng Tài Chánh Bồ Đào Nha là gì? Lập trường sẽ ra sao khi chức vụ Chủ Tịch EU do một nước thành viên không ở trong khu vực Eurozone nắm giữ? Sự tương phản với việc đối thoại với Bộ trưởng Ngân khố Mỹ Henry Paulson và với Thống Đốc Ngân hàng Dự trử Liên Bang Ben Bernanke là rất rõ rệt. 6. Vai trò Khu Vực Eurozone Tuy nhiên, các nhà bình luận tài chánh Trung quốc nhìn nhận sự sáng lập và phát triển của đồng Euro có lẽ là thành công về định chế lớn lao nhất của EU. Họ tin rằng với sự ra đời của đồng Euro, mặc dù quá trình hội nhập chính trị Âu châu vẫn còn gặp nhiều gai gốc, hội nhập kinh tế Âu châu ngày nay không còn có thể đảo ngược. Họ cũng xác nhận đồng Euro là thành tố quan trọng nhất trong thế lực đối ngoại của Âu châu vì đồng Euro đã trở thành 'một ngoại tệ dự trử có thể thay thế đồng mỹ kim', một thứ tiền đem lại 'nhiều lợi ích lớn lao như giảm phí tổn cho các xứ thành viên cũng như cho chúng ta'. Đối với nhiều người Trung quốc, một Eurozone mạnh mẽ hơn sẽ lôi kéo theo một thế giới ổn định hơn.Trong khi Trung quốc tiếp tục nắm giữ một số ngoại tệ dự trử khổng lồ và gia tăng nhanh chóng bằng đô la, một số người chờ đợi một sự thay đổi, mặc dù chỉ trong phương cách'phù hợp với chính sách tỉ suất hối đoái của chúng tôi'. Họ tin chắc là một sự tái định giá đơn vị tiền tệ đáng kể chỉ có thể xẩy ra cùng lúc với một cải cách hệ thống ngân hàng của mình. Họ tin quản lý quá trình điều chỉnh cần thiết đối với đồng Euro'có thể khó khăn hơn là với đồng đô la, bởi lẽ đồng Euro cũng gia tăng giá trị trên toàn cầu'. Họ tiên liệu đồng Euro sẽ trở thành một ngoại tệ dự trử và trong vòng 30 năm tới , thế giới sẽ chỉ có ba đơn vị tiền dự trử: nhân dân tệ, đô la và euro. Các chuyên gia Trung quốc rất lấy làm ấn tượng về cách xử lý thành công vụ khủng hoảng trên thị trường tín dụng gần đây của Ngân hàng Trung Ương Âu châu (ECB). Họ cũng rất thán phục khi thấy Ủy Hội EU, ECB, và các xứ thành viên riêng rẽ đã đạt đồng thuận về tính minh bạch chờ đợi từ quỷ tài khoản tối thượng mới của Trung quốc - tập đoàn China Investment Corporation (Tập đoàn Đầu Tư Trung Quốc) thiết lập vào cuối tháng 9-2007 với tổng số vốn lên tới 200 tỉ mỹ kim. Cùng lúc, họ vẫn xem 'đồng euro còn quá yếu như một định chế để có thể phát huy đầy đủ tiềm lực trên toàn cầu'. Như lời một chuyên gia Trung quốc, khu vực Eurozone sẽ không thể hoạt động hữu hiệu nếu không sớm giải quyết nhu cầu hội nhập sâu xa hơn nữa chính sách thuế khóa giữa các xứ thành viên. Hơn nữa, bất cứ một sự nới rộng khu vực Eurozone nào, nhất là đến các xứ thành viên mới , trong hiện trạng, quả thật là khá khó khăn. Ngược lại, sự khả dĩ gia nhập khu vực Eurozone của Anh quốc, nếu thật sự xẩy ra, sẽ là một khích lệ lớn lao gia tăng sức mạnh của đồng euro, và là điều Trung quốc rất hoan nghênh. 7. Hội nhập kinh tế Á châu: Quyền lợi của Âu châu và Trung quốc Trong bối cảnh các cuộc thương nghị thương mãi và tiền tệ đầy cam go với Hoa Kỳ và Âu châu, các nhà nghiên cứu chiến lược Trung quốc muốn nói rõ , đối với họ, mậu dịch trong khu vực Á châu ngày một quan trọng hơn và Trung quốc sẽ là đầu tàu của sự phú cường của phương Đông, cũng như Âu châu có thể sẽ là đầu tàu của sự thịnh vượng Tây phương. Trung quốc và Âu châu đều giữ vị trí trung tâm. Trung quốc nhiều lợi thế hơn Ấn Độ vì có một vị trí địa lý thiết yếu giữa Bắc và Nam Á. Âu châu có lợi thế hơn Bắc Mỹ vì Âu châu là một bộ phận của Âu-Á hay Eurasia. Hơn nữa, Âu châu có sẵn một chương trình hành động nhằm bành trướng mà Hoa kỳ thì không. Năm 2006, theo thống kê Trung quốc, 66% số nhập khẩu của TQ đến từ Á châu, và châu Á cũng là thị trường thu hút 47% số xuất khẩu của TQ (xem bảng 2 và 3). Mậu dịch với ASEAN+Nhật, Hàn quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Ấn Độ, chiếm 45% tổng số ngoại thương. Theo một nhà ngoại giao hàng đầu Trung quốc, con số nầy sẽ tăng gấp đôi trong vòng 5 năm tới.Yếu tố quyết định là sự tăng trưởng trong các quan hệ kinh tế với Nhật. Năm 2006, Trung quốc đã trở thành đối tác thương mãi hàng đầu của Nhật, vượt qua Hoa Kỳ. Nhật chiếm 17,2% ngoại thương Trung quốc trong khi FDI Nhật chiếm khoảng 10% trong tổng số FDI đầu tư vào Trung quốc trong cùng năm. Kim ngạch xuất khẩu của Nhật qua Trung quốc gia tăng 15,6%, trong khi nhập khẩuTrung quốc từ Nhật gia tăng 9%. Cho đến nay, khỏang 20.000 công ty Nhật đang hoạt động ở Trung quốc. Những khu vực quan trọng nhất là sản xuất xe hơi và điện tử. Sự tăng trưởng trong mậu dịch song phương Trung quốc-Ấn Độ cũng rất quan trọng: năm 2006 , đạt 22 tỉ đô la (tăng 22% so với 2005, và so với 260 triệu đôla năm 1990). Trong 4 tháng đầu năm 2007, ngạch số thương mãi hai chiều lên đến 11,4 tỉ, gia tăng 57% so với năm trước. Thương nghị một thỏa ước mậu dịch tự do đã là ưu tiên hàng đầu. Lần trao đổi Trung quốc-Ấn Độ thứ 5 vào ngày 25-26 tháng 9 năm 2007 ở Bắc Kinh hình như đã vượt qua giai đoạn nghiên cứu khả thi và dọn đường cho sự hình thành một thỏa ước khởi động từ tháng 4-2005. Ít ra đối với một số chuyên gia về chính sách thương mãi Trung quốc, trong trường kỳ, lô gic của những diễn biến vừa nói phải đưa đến sự trổi dậy của một xu hướng mới ở Á châu, tương đương với quá trình hội nhập kinh tế mà EU đã giúp hình thành ở Âu châu. Một cộng đồng Á châu đa phương nhằm gặt hái những lợi ích của một nổ lực hợp tác thương mãi được tăng cường, có thể bao gồm sự tạo dựng một đơn vị tiền tệ Á châu dựa trên kinh nghiệm của EU. Xu hướng nầy có thể dẫn đến một liên hiệp tiền tệ Đông Á và cũng có thể rộng lớn hơn. Âu châu đã phải mất gần 20 năm mới thiết lập được đồng Euro khởi đi từ một đơn vị tiền tệ chung cho Âu châu. Để thể hiện một hình thức Euro, Á châu chắc chắn phải mất một thời gian lâu dài hơn. Tuy nhiên, nhiều quan sát viên tỏ ý nghi ngờ về khả năng nầy, tin rằng Nhật chưa sẵn sàng cộng tác với Trung quốc nhằm xây dựng một mô hình kiểu EU với một đơn vị tiền tệ duy nhất. Hơn nữa, với những khác biệt trong nhịp độ phát triển kinh tế trong vùng, chắc chắn còn nhiều trở ngại lớn lao trước khi đạt được đồng thuận.Tháng 1-2007, các xứ ASEAN ký thỏa ước mở cửa đón nhận thương mãi dịch vụ với Trung quốc, năm năm sau ngày đón nhận thương mãi hàng hóa. Khối ASEAN cũng đồng ý thiết lập một khu vực mậu dịch tự do có cả Triung quốc tham dự vào năm 2015. Khu vực mậu dịch tự do Trung quốc-ASEAN sẽ có một tổng dân số khoảng 1,8 tỉ, và sẽ trở thành một khối mậu dịch toàn cầu lớn thứ ba sau EU và Khu Vực Mậu Dịch Tự Do Bắc Mỹ. Những suy diễn và vận động viễn kiến trên đây rõ ràng cho chúng ta thấy rõ tham vọng của Trung quốc ở Á châu nhiều hơn là sự lượng định của Trung quốc về Âu châu và EU. Tuy nhiên, các chiến lược gia Trung quốc chắc chắn đang xem những thành tựu của EU như một nguồn cảm hứng lớn lao đầy ý nghĩa cho sáng kiến hợp tác cấp vùng.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 3:59:26 GMT 9
8. Âu châu và sự trổi dậy của Trung quốc như một siêu cường kinh tế
8.1. Tham vọng kỷ thuật của Trung quốc
Theo dự phóng của người Hoa, Trung quốc có tiềm năng phát triển trung bình 7%/năm trong vòng 20 năm tới (11,5%/năm trong 6 tháng đầu năm 2007).Trung quốc quyết chí trở thành một nền kinh tế kỹ thuật cao giống như Hoa Kỳ, khác với Ấn Độ chỉ mạnh về dịch vụ. Tham vọng nầy được thể hiện, đặc biệt nhờ ở sự phát triển của các kỹ nghệ mới về sinh học - loại kỹ nghệ nền tảng của cuộc cách mạng kỹ nghệ sắp tới do Trung quốc dẫn đầu - cũng như Âu châu và Mỹ châu đã dẫn đầu các kỹ nghệ mới về vật lý và hóa học vào đầu thế kỷ 20. Ngày nay, Trung quốc đang dẫn đầu trong ngành sản xuất táo (apples), và trên đường trở thành một trong những xứ sản xuất dâu xanh (blue berries), chè trái cây (jam), và các sản phẩm đông lạnh liên hệ, qui mô nhất. Bí quyết là sự quyết tâm theo đuổi công nghệ di truyền. Gạo biến đổi theo công nghệ di truyền chiếm 10% ngân sách dành cho ngành nghiên cứu công nghệ sinh học, trong khi Trung quốc có đến 3,5 triệu hectares trong tổng số toàn thế giới 102 triệu hectares đất dành trồng giống được sửa đổi theo kỷ thuật di truyền.
Người Trung quốc tin khoa học là cốt lỏi của ý niệm về chính quốc gia mình. Họ tin văn hóa của Trung quốc gần gũi và cởi mở đối với ngành nghiên cứu di truyền, nhất là y khoa, hơn là Tây phương. Họ chỉ trích thái độ chống đối các ngành canh tác dựa trên công nghệ di truyền của Âu châu. Họ e rằng trong tương lai Âu châu có thể thiếu khả năng cải tiến so với Hoa Kỳ, nếu Liên Hiệp Âu châu không mặn mà hơn với các dự án nghiên cứu lớn về sinh học và khoa học không gian. Hầu hết các khoa học gia Trung quốc trong những ngành nầy đều xem EU còn cần phải cạnh tranh nhiều hơn trong ngành giáo dục. Vào năm 2020, Trung quốc sẽ có 4 triệu sinh viên mới, gần gấp đôi con số nầy ở Hoa Kỳ và Âu châu. Hơn nữa, "Âu châu không hề có một Đại học nào tương đương với Massachusetts Institưte of Technology" và cũng không đánh giá đủ cao "tầm quan trọng chiến lược của một nền giáo dục tuyệt hảo". Tuy nhiên, người Trung quốc biểu lộ những điều lo ngại nầy là vì họ xem Âu châu, với tiềm lực nghiên cứu khoa học lớn lao và một văn hóa khoa học phi chính trị và thế tục, như một đối tác trong quá trình phát triển khoa học của Trung quốc, có lẽ còn quan trọng hơn cả Hoa Kỳ. Như lời một chuyên gia TQ: "Trung quốc sẽ xét đoán EU theo khả năng như một trung tâm giàu khả năng khoa học và nguồn cung cấp công nghệ cao chính yếu, cũng như theo trình độ cởi mở trong việc theo đuổi những chương trình nghiên cứu chung với Trung quốc".
8.2. Giai đoạn thương thảo kế tiếp với Âu châu
Một khía cạnh quan trọng khác trong viễn kiến phát triển kinh tế của Trung quốc sẽ là sự chuyển tiếp kỹ nghệ chế biến từ quốc nội ra nước ngoài, theo con đường trước đây người Nhật, ngưới Đại Hàn, và các cường quốc kinh tế đang lên đã trải nghiệm. Bên cạnh Châu Mỹ La Linh, Âu châu, đặc biệt là Trung và Đông Âu, các thành viên của EU là những trường hợp thật sự đáng lưu ý. Trong chiều hướng nầy, sự giao dịch của Trung quốc với Hungary hiện quan trọng nhất, với thương mãi hai chiều lên đến 4,6 tỉ vào năm 2006. Xuất khẩu Trung quốc qua Hungary tăng gấp bốn kể từ 2003, lên đến 3,8 tỉ năm 2006. Hungary cũng là nước chủ nhà của hơn 3.000 xí nghiệp Trung quốc. Chẳng hạn, Lenovo, một trong những doanh nghiệp máy vi tính lớn của Trung quốc, đã sản xuất chiếc máy vi tính để bàn PC thứ một triệu ở Hung vào năm 2007. "Hungary là cửa ngõ vào thị trường EU cho thương mãi, tài chánh, và du lịch Trung quốc.Trong chuyến công du ngày 4-9-2007 đến Trung quốc của bộ trưởng thương mãi Hung, một thỏa ước đã được ký kết theo đó Trung quốc sẽ thiết lập một Trung Tâm Thương Hiệu Trung quốc tại Budapest với một số đầu tư 250 triệu euro, để bán ở Âu châu các loại hàng sản xuất từ Trung quốc . Người Trung quốc cũng không chỉ giới hạn quyền lợi tại Trung Âu như một căn cứ chế biến tiềm năng các loại đồ điện, hay vải vóc. Họ còn tìm thấy ở đây nhiều cơ hội tốt cho các dịch vụ, khởi đầu với dịch vụ xây cất. Chẳng hạn, tháng 9-2007, công ty China International Industry Commerce Co Ltd - CIIC - đã ký một thư cam kết (letter of intent) xây một tòa nhà thương mãi 40 tầng ở Roumania và một thỏa ước đối tác thương mãi tham dự chương trình canh tân các phương tiện vận tải đường bộ.
8.3. Âu châu như một mô hình xã hội
Mặc dù với 'sự lạc quan cơ bản không bờ bến' về triển vọng kinh tế xứ sở, người Trung quốc cũng không choáng ngợp đến nổi không thấy những trở ngại vô cùng khó khăn họ đang đối diện trong quá trình hoàn thành mục tiêu trong những năm sắp tới. Để nuôi sống một dân số 1,3 tỉ , TQ tiên liệu, cho đến năm 2020, sẽ tiêu thụ 2/5 trên 55% số gia tăng tiêu thụ thịt trên thế giới. Với hơn 1.000 xe hơi mới đăng ký mỗi ngày chỉ trong phạm vi thành phố Bắc kinh mở rộng, nhiều đoạn đường chính trong hệ thống xa lộ gần như luôn luôn bị ùn tắc. Với 70% các thành phố bị ô nhiểm, phí tổn để duy trì không khí trong lành và nước sạch, ước tính lên đến gần 100 tỉ mỗi năm (hay 5,8% GDP), và bệnh đường hô hấp và nhiều bệnh khác gia tăng nhanh chóng. Đây là 4 mối lo chính của TQ:
(1) Nhiều công ty quốc nội không đem lại lợi nhuận thích ứng (do đó rất dễ bị thương tổn khi có biến động bất lợi trong các thị trường chính).
(2) Bất bình đẳng trong xã hội ngày một gia tăng; và hố cách biệt giữa những vùng phát triển và những vùng thiếu phát triển trong nước (với 11 vùng cực Tây chỉ dành được 13% GDP, trong khi 10 vùng ven biển lại chiếm đến 58%).
(3) Sự lệ thuộc ngày một tăng vào những tài nguyên năng lượng từ bên ngoài. Trung quốc hiện đã là nước tiêu thụ năng lượng lớn thứ hai trên thế giới, nhưng số cầu vẫn tiếp tục gia tăng, 135% đối với dầu hỏa và 260% với hơi đốt từ nay cho đến năm 2025. (Vào năm 2020, 25% nhu cầu phải được đáp ứng bằng dầu lửa, 10% bằng hơi đốt, và 4% bằng năng lượng nguyên tử).
(4) Sự xuống cấp nhanh chóng của đất canh tác và nguồn nước (90% nguồn cung cấp nước ở đô thị và 62% sông ngòi bị ô nhiễm, trong khi tổng phí tổn cung cấp nước lên khoảng 1% GDP).
Người Trung quốc vững tin, hầu hết những vấn đề trên đều có thể giải quyết nhờ ở sáng tạo kỷ thuật. Về điểm nầy,'chúng ta rõ ràng có nhiều lòng tin hơn Tây phương'. Tuy nhiên, họ cũng thấy cần thực hiện nhiều điều chỉnh xã hội và hành chánh và 'phát triển vừa phải và công bình', một việc làm 'rất khó khăn nhưng thiết yếu'. Trong bối cảnh đó, nhiều lúc họ tỏ ra băn khoăn còn nhiều điều phải học hỏi từ Âu châu, chứ không phải chỉ phương cách xây dựng những nhà máy năng lượng hạt nhân tốt nhất. Như di sản của biện chứng Marxist, một trí thức Thượng Hải nhìn Âu châu như một xã hội trung lưu nhiều hơn là Hơa Kỳ (căn cứ trên tiêu chí lợi tức được phân phối bình đẳng hơn). Lịch sử Âu châu 'được định hình bởi sự nổi trội của tầng lớp trung lưu giống như những gì Trung quốc đang trải nghiệm hiện nay. Chúng tôi đặt nhiều hy vọng ở một sự tăng trưởng theo chiều hướng nầy'. Vài nhà bình luận đã nêu rõ sự gặp gở giữa 'sự khôn ngoan của chiến lược năm quân bình' trong Kế Hoạch Ngũ Niên thứ 11 (2006-10) và 'ý tưởng của Âu châu tìm kiếm một thế quân bình giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội, cũng như giữa nhu cầu của nền kinh tế và xã hội và môi trường'.
Nếu những ý tưởng nầy được sớm phát biểu cụ thể, có lẽ là nhờ một số chuyên gia Trung quốc quan tâm học hỏi các cơ chế điều hành thị trường nội bộ của EU và quản trị các quỹ cơ cấu. Như một chuyên gia ở Bắc Kinh đã phát biễu: 'về nhiều phương diện, Trung quốc cũng đa dạng và tản quyền (diverse and decentralized) như Âu châu' và với tầm cở của mình, 'có thể tìm thấy ở Ủy Hội Âu châu một nguồn cảm hứng và kinh nghiệm tiềm năng'. Tháng 10-2006, một Bản Ghi Nhớ (Memorandum of Understanding) đã được ký kết giữa Ủy Hội Âu châu và Ủy Hội Cải Cách và Phát Triển Quốc Gia của Trung quốc (Chinese National Development and Reform Commission), khởi động một cuộc nghiên cứu toàn bộ các vùng ở Trung quốc.Trung quốc và Âu châu cũng đàm luận về những thách thức đặt ra cho một dân số già cỗi. Trung quốc đối diện với một dân số bất lợi không mấy khác với Âu châu. Dân số Trung quốc sẽ lên tới 1,44 tỉ vào nặm 2025, sau đó sẽ bắt đầu sụt giảm, xuống lối 1,39 tỉ vào năm 2050. Tháng 9-2006, Trung quốc và Âu châu tham dự một hội nghị bàn tròn đầu tiên về an sinh xã hội và khởi động Dự Án hợp tác EU-Trung quốc về Cải Cách An Sinh Xã Hội, nhằm nghiên cứu các áp lực ngân sách liên quan đến hệ thống hưu bổng và các hệ thống y tế và giúp phát triển một hệ thống an sinh xã hội khả thi rất thiết yếu cho Trung quốc. Đây là một địa hạt có thể trao đổi rộng rãi và có thể đưa tới một sự tham gia lớn lao hơn của Âu châu trong các khu vực y tế của Trung quốc.
9. Sự đánh giá của Trung quốc về kinh tế Âu châu
Như vậy, người Trung quốc lạc quan hay bi quan về tương lai kinh tế của Âu châu? Câu trả lời là cả hai. Họ sẵn sàng công nhận tiềm lực lớn lao của EU hơn những nhà quan sát Mỹ và Ấn Độ . Họ thán phục cơ sở thương mãi và khoa học đặc trưng của các quốc gia thành viên EU. Trong phạm vi đồng Euro và viễn ảnh tiếp tục quá trình mở rộng EU, họ tin tưởng Âu châu có sẵn những công cụ đặc trưng để sửa chữa sai lầm và nâng cao thịnh vượng, cũng như thích ứng với những nguy cơ tiềm tàng trong kinh tế thế giới như sự lan tràn chủ nghĩa bảo vệ mậu dịch. Nhưng họ nghi ngờ khả năng của EU trong nổ lực thống nhất về chính trị thiết yếu cho sự duy trì và tăng cường những ưu điểm vừa nói. Theo họ, Âu châu còn có nhiều nhược điểm ngày một nghiêm trọng hơn - nhất là trong hệ thống giáo dục, đặc biệt là cấp đại học, và thiếu tham vọng trong địa hạt khoa học và kỷ thuật, những nhược điểm đưa đến tình trạng thiếu quyết đoán, đôi khi dị ứng hoặc chống đối các công nghệ mới quan trọng về thương mãi. Điều đó là nguyên nhân đưa đến tình trạng thiếu tinh thần kinh doanh và sẵn sàng chấp nhận chủ nghĩa bảo vệ mậu dịch. Tóm lại, vị thế kinh tế khách quan chung của EU rõ ràng là hùng mạnh trong căn bản. Các khó khăn của Âu châu phần lớn có thể tìm thấy trong phạm trù chính trị và văn hóa.
NHẬN THỨC CỦA TRUNG QUỐC VỀ CHÍNH TRỊ ÂU CHÂU 1. Đối tác Trung quốc-Âu châu: hướng tới một khung hợp tác mới
Tháng 5-2005, TQ và EU đã cử hành kỹ niệm thứ 30 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao. Đây là một dấu mốc rất ít ý nghĩa, bởi lẽ quan hệ song phương đúng nghĩa chỉ thực sự bắt đầu với cuộc họp thượng đỉnh EU-Trung quốc đầu tiên vào năm 1998, một phần lớn do người Âu châu đang có nhu cầu nâng cao uy tín của đồng Euro sắp ra đời. Từ đó, họp thượng đỉnh đã trở thành một sự kiện hàng năm. Năm 2003, thỏa ước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược được ký kết, tiếp theo sau việc Trung quốc chỉ định đại sứ đầu tiên bên cạnh EU vào năm trước. Văn kiện chính sách 2003 của Ủy Hội Âu châu đính kèm thỏa ước nêu rõ kế hoạch hành động đầu tiên nhằm khởi động đối thoại chính trị , bao gồm việc duyệt xét các cơ chế hiện hữu và quản trị cấp vùng và toàn cầu cũng như các vấn đề an ninh. Trước đó, hai bên cũng đã có trao đổi bán chính thức các văn kiện vào năm 1994 và 2002 và nhiều thảo luận kế tiếp liên quan nhiều vấn đề như các cuộc họp cơ cấu với các ngoại trưởng các quốc gia thành viên EU (nhất là Bộ ba EU - EU Troika), với các trưởng phái bộ và các chuyên viên kỷ thuật. Ngoài ra cũng có các cuộc Đối thoại về Nhân quyền năm 1995, và hợp tác khoa học năm 1998. Quan hệ EU-TQ cũng đã được quy định trước đó trong thỏa ước ký năm 1985, chủ yếu về thương mãi nói chung và vài đề mục kinh tế, mặc dù vẫn là khung pháp lý chính hiện nay.Tuy nhiên, kể từ năm 2003, và sau khi hợp tác kinh tế song phương ngày một gia tăng, tiến bộ phần nào đã nhanh chóng hơn.
Đặc biệt đáng chú ý là những tiến triển sau:
. Tuyên bố chung về các vấn đề môi trường đạt được sau phiên họp thượng đỉnh EU-TQ tháng 9-2005, khởi động một đối tác nhằm đối phó với hiện tượng thay đổi khí hậu qua sự hợp tác thiết thực và thành đạt một số kết quả cụ thể. Bản tuyên bố chung nầy được xem như bổ túc cho Thỏa Ước Khung LHQ về Thay Đổi Khí Hậu và Hiệp Nghị Thư Kyoto.
. Thỏa thuận hợp tác của TQ trong chương trình vệ tinh vận tải hàng hải Galileo của EU, ký kết vào tháng 10 -2003, và được khai triển thành đối thoại về khoa học và kỷ thuật không gian vào tháng 7-2006.
. Thỏa ước 8-12-2004: tuyên bố chung về vấn đề kiểm soát và cấm phổ biến vũ khí.
. Thỏa ước 2005, tăng cường trao đổi về giáo dục trong khuôn khổ chương trình Erasmus-Mundus và hội thoại TQ-EU.
. Khởi động thương nghị Thỏa ước Đối Tác và Hợp Tác mới vào ngày 18-01-2007 ở Bắc Kinh, nhằm thay thế Thỏa Ước Thương Mãi và Hợp Tác Kinh Tế EEC-TQ 1985. Hiệp định khung nầy dự liệu bao gồm 22 khu vực và chuyên đề, kể cả năng lượng, môi trường, thương mãi, nhân quyền, và phản ảnh sự tiến bộ trong quan hệ song phương từ kinh tế đến chính trị.
2. Tại sao nhịp tiến triển lại chậm ?
Thành tích khiêm tốn nầy là do TQ thiếu hiểu biết sâu xa về bản chất của EU. Một vài bình luận gia Âu châu nêu rõ sự kiện không có một định nghĩa chính thức cho cụm từ "đối tác chiến lược" trong thỏa ước được đề nghị, như tượng trưng cho sự thiếu hiểu biết nầy. Một nhà quan sát khác lại cho rằng người TQ thường thích nhấn mạnh những điểm tương đồng hơn là những vấn đề gây tranh cải, vì vậy, rất khó thương thuyết đúng vấn đề. Trong thực tế, người TQ thường khá thoải mái với áp lực nhẹ nhàng hiện nay từ phía người Âu về nhân quyền, một đề tài tranh cải cổ điển. Đối thoại EU-TQ về nhân quyền, chẳng hạn, vẫn tiếp tục mặc dù đối thoại với Hoa kỳ đã đình chỉ từ năm 2001-02. TQ cũng chẳng xem sự căng thẳng thương mãi là một vấn đề, mặc dù điều nầy đang thay đổi. Người TQ giải thích những vấn đề nầy chủ yếu là do EU chưa sẵn sàng thay đổi giai đoạn 15 năm áp đặt, khi TQ gia nhập WTO vào năm 2001, trong thời gian nầy TQ được xem như một nền kinh tế phi-thị-trường. Nhưng vài nhà bình luận Âu châu có khuynh hướng xem đây như một vấn đề kỹ thuật liên kết với những lo ngại ngày một gia tăng về quyền sở hữu trí tuệ, hơn là một chướng ngại quan trọng đối với thỏa ước chiến lược.
Nếu người ta muốn nhận chân một đề tài quan trọng trong nhãn quan người TQ, đó chính là vấn đề cấm vận vũ khí do Tây phương áp đặt sau vụ đàn áp phong trào đòi dân chủ ở Bắc Kinh và vài noi khác ở TQ năm 1989. Đối với các quan sát viên TQ, việc EU chưa đáp ứng được điều kiện tháo gở cấm vận chứng tỏ trong tư duy chiến lược, người Âu châu không cảm thấy thoải mái với TQ. Điều đó cũng xác nhận hai cảm nhận căn bản của người TQ. Trước hết, nó phản ảnh những quan hệ chiến lược chặt chẻ giữa EU và Hoa Kỳ. Như một chuyên gia TQ nhận xét: 'Chúng tôi nghĩ sau chiến tranh lạnh, quan hệ nầy đáng lẽ đã phải chuyển biến theo chiều hướng tách bạch rõ ràng hơn giữa chính sách đôi bên, nhưng trong thực tế, điều nầy đã không xẩy ra'. Cảm nhận thứ hai còn quan trọng hơn. Nó chứng tỏ sự vướng mắc, khó khăn trong thương nghị với EU hoặc trực tiếp như một thực thể, qua 'Ủy Hội hay Hội Đồng, hoặc qua các phiên họp thượng đỉnh thường niên, hoặc gián tiếp qua thương nghị với từng thành viên quan trọng riêng lẻ'. TQ đã chờ đợi thái độ chống đối cấm vận của Tổng Thống Pháp Chirac, chẳng hạn, đã có thể đem lại một sự thay đổi chính sách. Vả chăng, người TQ cảm thấy 'nếu họ đã không thành công trong thương nghị với tất cả các quốc gia Âu châu về vấn đề cấm vận vũ khí và không hiểu rõ quá trình quyết định tập thể của Âu châu về vấn đề nầy, thì đó chính là do EU như một thực thể, chứ không phải TQ, đã thiếu ý chí phát huy sự hợp tác và đối thoại chính trị đứng đắn'. Họ cũng lập luận tháo gở cấm vận sẽ giúp thu hẹp ngạch số khuy khiếm thương mãi vì Âu châu có thể bán cho TQ các công nghệ phi-quốc-phòng TQ đang cần, nhưng hiện nay, bị ngăn cản vì những lý do chính trị hơn là lý do an ninh.
3. Trường hợp công nghệ
Nhiều người TQ quả thật rất ca ngợi khả năng kỹ thuật của Âu châu. Họ tin hợp tác trong địa hạt nầy là đáng theo đuổi và ít rắc rối hơn là với người Mỹ.
Môi trường
Địa hạt nổi trội nhất chính là môi trường. Người TQ công nhận vai trò quán quân và lãnh đạo thế giới của Âu châu trong nổ lực đối phó với vấn đề thay đổi khí hậu và ô nhiễm. Năm 2005, Đối Tác Thay Đổi Khí Hậu TQ-EU được khởi động, bao gồm hợp tác trong việc phát triển, dàn trải và chuyển giao công nghệ 'low carbon', như kỹ thuật tiền tiến đốt than không gây ô nhiễm, kiểm soát nắm bắt và tồn trử carbon (advanced near-zero emissions coal burning and carbon capture and storage). Thỏa ước còn dự liệu thăm dò tiềm năng năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, vài bình luận gia TQ thấy cần phân biệt rõ ràng giữa các sáng kiến khoa học và kỹ nghệ vừa nói với sự tranh cãi rộng lớn hơn về vị trí của TQ trong việc đối phó với hiện tượng hâm nóng toàn cầu và ô nhiễm. Họ công nhận đường lối phát triển đất nước trong tương lai phải hiệu quả về năng lượng, và tình trạng ô nhiễm ở TQ chắc chắn sẽ gia tăng và phải được kiểm soát chặt chẻ. Những âu lo về chất lượng không khí trong thời gianThế Vận Hội, tổ chức vào tháng 8-2008, đã thúc đẩy TQ đề xuất, trong tháng 6-2007, chiến lược quốc gia đầu tiên về hiện tượng hâm nóng toàn cầu. Chiến lược dự liệu sẽ cắt giảm 50 triệu tấn lượng khí thải carbon dioxide vào năm 2010. TQ ước lượng sẽ vượt qua Hoa Kỳ về lượng khí thải vào năm 2008. Tuy nhiên, những biện pháp cứu chữa không thể phương hại đến tiến độ phát triển của nền kinh tế TQ. Như Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đã tuyên bố trong dịp thủ Tướng Đức Angela Merkel viếng thăm, tháng 8-2007: 'TQ đã chịu một phần trách nhiệm trong hiện tượng thay đổi khí hậu từ 30 năm nay, trong khi các xứ kỹ nghệ khác đã phát triển nhanh trong 200 năm qua'. Một nhà ngoại giao kỳ cựu cũng nhận xét: 'TQ đang ở trong một vị thế tương tự như vị thế của Âu châu trong hai thập kỷ 1960s và 1970s, và sẽ phải tìm giải pháp để đối phó với những vấn đề ô nhiễm. Đây là lãnh vực trong đó EU và TQ có nhiều tiềm năng hợp tác chặt chẻ và rộng lớn, cũng như để đối đầu. Chúng ta phải ra sức xây đắp tiềm năng thứ nhất và tránh tai vạ thứ hai'.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 4:01:00 GMT 9
Năng lượng hạt nhân
Một địa hạt, trong đó người TQ rất phấn khởi trước sự tiến bộ trong chương trình hợp tác với Âu châu, là năng lượng hạt nhân(thermonuclear fusion). Quyết định của TQ tham gia vào dự án Lò Phản ứng Nguyên Tử Thực Nghiệm Quốc Tế (International Thermonuclear Experimental Reactor - ITER) năm 2003 (góp một tỉ mỹ kim trong khi EU tài trợ 50% trong tổng số 12,8 tỉ quỷ tài trợ dự án) cho thấy ưu tiên ngày một cao TQ dành cho an ninh năng lượng và tác động của tình trạng lệ thuộc vào nhiên liệu than dầu (fossil fuels) trên môi trường . Tháng 8-2007, TQ là thành viên cuối cùng đã chuẩn y thỏa ước thành lập tổ chức ITER. Vài người Âu châu tỏ ý lo ngại TQ có thể dùng tổ chức nầy để chính thức hóa chương trình hạt nhân riêng của mình.Tuy nhiên, các bình luận gia TQ đã nói rõ, TQ được đón nhận vì thành quả nghiên cứu của chính mình trong địa hạt nầy. Tháng 9-2006, dự án EAST superconducting Tokamak thuộc Viện Vật Lý Plasma, Hàn Lâm Viện Khoa Học ở tỉnh Hefei, đã thí nghiệm thành công 'plasma discharge' lần đầu. Các nhà bình luận cũng nhấn mạnh khía cạnh môi trường của chương trình nghiên cứu hạt nhân chỉ là một phần trong quyết định của TQ hợp tác với Âu châu về môi trường.
Không Gian
Tháng 10-2003, TQ đồng ý gia nhập chương trình hệ thống vệ tinh vận tải Galileo, dự trù sẽ đi vào hoạt động năm 2013. (TQ là nước ngoài EU đầu tiên tham gia, tiếp đó còn có Israel, Ukraine, Ấn Độ, Nam Hàn và Morocco). TQ cam kết 200 triệu euro vào dự án, bằng phần đóng góp của các thành viên EU chính. Điều nầy đã đưa đến một loạt các dự án hợp tác giữa EU và TQ trong chương trình không gian và các địa hạt liên hệ. Một lần nữa, các bình luận gia Âu châu lên tiếng báo động điều nầy có thể giúp TQ phát triển hệ thống vệ tinh vận tải độc lập riêng của họ (hệ thống Beidou, lên đến 30 vệ tinh với quỹ đạo trung bình quanh địa cầu, và như vậy, đủ khả năng cạnh tranh thương mãi với hệ thống EU). Người TQ giải thích những e ngại đó (theo họ là thiếu cơ sở) chỉ phản ảnh những bất đồng quan điểm giữa người Âu châu với nhau về vấn đề tài trợ chương trình Galileo. Họ cũng cho biết TQ đã dành nhiều tài nguyên cho chương trình nghiên cứu không gian, một lãnh vực họ tin Âu châu cũng nên quan tâm đầy đủ hơn. Từ lần phóng vệ tinh có người lái vào năm 2003, TQ đã khai triển một chương trình tham vọng hơn. Chương trình bao gồm nhiều chuyến thám hiểm không-phi-hành-gia lên mặt trăng , để thăm dò đá giàu hàm lượng khí helium-3, một tiềm năng nhiên liệu cần thiết trong các lò phản ứng hạt nhân, và một chuyến gửi phi hành gia đổ bộ lên mặt trăng trong vòng 15 năm sắp tới (ngày 24-10-2007, tàu vũ trụ Chang'e I với quỹ đạo quanh mặt trăng đã được phóng trên hỏa tiển cải tiến Long March 3-A từ giàn phóng vệ tinh Xichang Satellite Launch Center), cũng như các kế hoạch xây dựng một cảng không gian qui mô mới ở phía Nam đảo Hainan. Cảng không gian nầy còn là một hệ thống phòng thủ không gian, như đã chứng tỏ qua vụ thử nghiệm hỏa tiển chống vệ tinh vào tháng 1-2007.
Trường hợp quốc phòng
Mặc dù cấm vận vũ khí, TQ vẫn tranh thủ sự hợp tác của Âu châu trong một số địa hạt liên hệ đến quốc phòng. Đặc biệt quan trọng là vấn đề kiểm soát nạn lan tràn vũ khí. Năm 2004, EU và TQ đã đưa ra một tuyên bố chung. Một đề án tiếp theo vào năm 2006 nhằm huấn luyện các viên chức quan thuế trong việc nhận diện và truy tầm các hàng hóa và vật liệu nhạy cảm cũng như trao đổi kinh nghiệm thực tế trong việc thực thi các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và khuyến cáo xem xét các sáng kiến chung EU-Á châu qua sự tham gia của diễn đàn ASEAN. Ngoài ra còn có sự trao đổi khiêm tốn về quân trang, quân dụng ngoài vũ khí (bị cấm vận). Tổng giá trị các giấy phép thuộc loại nầy lên đến 340 triệu euro năm 2004 - quan trọng nhất là 169 triệu với Pháp, 148 triệu với Anh. Ngân sách quân sự chính thức của TQ đã gia tăng từ 15 tỉ năm 2000 đến 46,4 tỉ năm 2007, với một tỷ lệ gia tăng 17,8% từ 2006, mặc dù vài nhà quan sát xem những con số trên đã loại ra ngoài những chi tiêu liên hệ đến quốc phòng như những tạo mãi từ nước ngoài.
Hơn nữa, sự quan tâm ngày một gia tăng của TQ, từ một cường quốc trên bộ đến một cường quốc trên biển, đã đưa đến những trao đổi với hải quân một số quốc gia Âu châu. Như một nhà bình luận giải thích, TQ rất tò mò về các truyền thống hàng hải và kinh nghiệm chiến lược của Âu châu, vì lẽ như một xứ lệ thuộc vào giao thương hàng hải để phát triển, TQ phải đối đầu với sự đe dọa lớn lao nhất cho sự trường tồn từ những khu vực bên ngoài biên giới của mình, và vì vậy, cần có một hải quân hùng mạnh để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Hải quân TQ có một trọng tải 790.000 tấn so với 475.000 tấn của Anh, và 308.000 tấn của Pháp. Mùa hè 2007, các tàu chiến TQ đã có một cuộc du hành kéo dài 87 ngày, kể cả thăm viếng Liên Bang Nga, Anh quốc, Pháp, và Tây Ban Nha. Các tàu hải quân TQ đã cùng hải quân hoàng gia Anh tổ chức một cuộc diễn tập đầu tiên với sự tham dự của một hàng không mẩu hạm, và là cuộc tập trận chung đầu tiên ở Đại Tây Dương. Sau đó, hải quân TQ còn có tập trận chung lần đầu tiên ở Địa Trung Hải với hải quân Pháp, lấy tên Hữu Nghị TQ-Pháp 2007. ( Năm 2006, Hải quân TQ cũng đã tham gia những cuộc diễn tập tìm kiếm và cứu nạn chung với hải quân Hoa Kỳ ở ngoài hải phận Hawaii vào tháng 9 và Nam Hải tháng 11).
Vài chuyên gia ngoại giao TQ nói rõ là, trong hiện tình, sự quan tâm của TQ với Âu châu trong địa hạt quân sự sẽ theo mẩu mực với Hoa Kỳ, bởi lẽ trên phương diện chiến lược, họ không có đủ lý do để phân biệt giữa Âu châu và Mỹ. Một ví dụ điển hình là sự hổ trợ rõ rệt của Anh và Pháp đối với sự quan tâm của Hoa Kỳ trước những tham vọng hạt nhân của Bắc Hàn và Iran. Hai quốc gia hạt nhân của Âu châu đều hùa theo giọng điệu của Hoa Kỳ cả trong hai trường hợp: vai trò của Bắc Kinh đối với Bình Nhưỡng, và giọng điệu gay gắt của Hoa Kỳ đối với quan hệ của chính quyền TQ với Tehran . Âu châu rất có thể chuyển biến theo chiều hướng thống nhất và có một lực lượng quân sự hùng hậu hơn, lúc đó TQ mới xét lại quan hệ của mình. Đó là điều đương nhiên. Tuy nhiên, họ tin điều nầy khó thể sớm xẩy ra. Hậu quả của sự khả dĩ nầy có lẽ sẽ giảm bớt gánh nặng an ninh cho Hoa Kỳ, bởi lẽ người TQ không thể tưởng tượng trong một trạng huống nào đó, Âu châu sẽ đi ngược lại người Mỹ. Thực vậy, một chuyên gia Bắc Kinh còn nghĩ rằng TQ không nên loại bỏ một sự khả dĩ theo đó quan hệ an ninh hiện nay giữa Hoa Kỳ và các nước thành viên của NATO một ngày đẹp trời nào đó có thể biến dạng đến trìnhđộ Âu châu có thể giữ vai trò đàn anh.
5. Trường hợp thế lực mềm
Sự quan tâm rõ rệt và ngày một gia tăng cuả TQ đến 'thế lực cứng' đã thuyết phục các nhà quan sát Âu châu là TQ có rất ít thì giờ để nghĩ đến 'thế lực mềm', thứ thế lực chính của Âu châu trong sinh hoạt thế giới. Thực vậy, rất nhiều người chỉ trích thành tích của Âu châu trong vùng Balkan và Trung Đông. Như một bình luận gia đã nói, 'ít ra cho đến nay, EU hoặc hoàn toàn vô hiệu, hoặc phải được người Mỹ tiếp sức, hoặc phục tùng người Mỹ'. Người ta cũng có thể nghĩ như vậy về sự xét đoán của người TQ đối với sự quan tâm của Âu châu về khủng hoảng Dafur. 'Phê bình TQ, một gương mặt mới đến từ phía bên kia của thế giới - về sự thất bại của chính Âu châu trong một vùng kế cận mình, ở đó Âu châu đã giữ một vai trò áp đảo trong nhiều thế kỷ - là một điều sai lầm. Và cũng là một sai lầm khi Âu châu mong đợi Hoa Kỳ quan tâm hay nhảy vào hợp tác xuyên-Phi châu'.
Điều nầy càng khiến Âu châu âu lo hơn , nhất là quyền lợi kinh tế TQ, gia tăng nhanh ở Phi châu nói chung, đặc biệt ở vùng sub-Sahara, đang giúp duy trì các chế độ thối nát toàn trị phương hại cho nhân quyền và dân chủ. Bên cạnh việc TQ đang tài trợ và xây 1.500 cây số ống dẫn dầu đến cảng Marsa-el-Bashair ở Sudan, TQ còn đầu tư đáng kể, hoặc mua hoặc cho vay để dành quyền khai thác, các tài nguyên thiên nhiên ở Gabon, ở Cộng Hòa Dân Chủ Congo và Zambabwe. Một vài chuyên gia TQ sẵn sàng giải thích sự kiện nầy như là 'đạo đức giả của Âu châu'. Nhưng một phản ứng phổ thông khác là nhấn mạnh sự kiện TQ luôn duy trì nguyên tắc không can thiệp vào nội tình các xứ khác, 'ở châu Phi, điều đó không có nghĩa là thờ ơ, nhất là đối với khủng hoảng nhân đạo hoặc các điều kiện chính trị thuận lợi cho khủng bố'.
Cuộc họp thượng đỉnh EU-TQ tháng 9-2006 khuyến cáo thiết lập một đối thoại định kỳ cấp cao về Phi châu. Từ đó, vài chuyên gia đã cho thấy cũng có tiềm năng 'trao đổi về các dự án hỗn hợp, như các chương trình hạ tầng cơ sở quan trọng'. Các nhà quan sát TQ rất muốn nêu rõ 'TQ có kinh nghiệm có lợi cho các quốc gia đang phát triển', và điều quan trọng là phải dành ưu tiên tuyệt đối cho phát triển kinh tế. Những thẩm định gần đây của TQ về Palestine, Iraq, Bắc Hàn, Iran, Sudan và Burma, đều nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết các vấn đề chung về nghèo đói và thiếu phát triển như là điều kiện tiên quyết cho bất cứ mục tiêu chính trị nào khác. Chẳng hạn, 'đầu tư của TQ ở Phi châu đã có thể đem lại nhiều phát triển kinh tế trong thập kỷ qua hơn tất cả các số viện trợ của Tây phương'. Thực vậy, cơ sở của ý niệm nầy là lòng tin của TQ rằng 'mọi phát triển kinh tế bất cứ ở đâu cũng giúp cho phát triển và tiến bộ của chính TQ', nhất là trong những xứ gần TQ hoặc TQ có nhiều quyền lợi thương mãi. Mặc dù cách tiếp cận nầy 'hoàn toàn loại bỏ phương cách thay đổi chế độ như Hoa KỲ đã áp dụng ở Iraq', đây chính là phương cách 'đã cho phép TQ tham dự nhiều hơn trong các công tác gìn giữ hòa bình'. Khoảng 1.000 quân nhân TQ đã được gửi tới Lebanon. Quan hệ của các quân nhân nầy với các đối tác người Âu đã được mô tả là 'rất hữu ích'. Vài nhà bình luận TQ hình như nghĩ rằng tất cả những điều nầy đã tạo nên sự xuất hiện một thứ chủ thuyết 'thế lực mềm của TQ' và một sự gặp gở trong chủ thuyết chính sách ngoại giao giữa EU và TQ. Theo một nhà phân tích hàng đầu TQ: 'người Âu cũng đặt nặng tầm quan trọng của phát triển kinh tế và thương mãi như một khí cụ cơ bản của ảnh hưởng của họ và cũng chia sẻ cách nhìn của chúng tôi về tầm quan trọng của trao đổi văn hóa và duy trì sự đa dạng văn hóa'. Điểm nầy có thể tạo 'một căn bản cho sự hiểu biết thông cảm sâu xa hơn'.
6. Vai trò của Âu châu ở Tây phương
Những cảm nghĩ vừa nói thường dễ tìm thấy trong nhiều phát biểu của người TQ, 'cũng giống như các đối tác EU, các nhà tư duy chiến lược TQ nghĩ về quan hệ quốc tế tương lai trong khuôn khổ đa cực' - 'một khuôn khổ duy nhất, theo họ, sẽ có thể bảo đảm sự ổn định và tính khả dĩ tiên liệu' cần thiết cho TQ 'trổi dậy trong hòa bình' với tới 'địa vị thích hợp' giữa các cường quốc hay các khu vực trong thế kỷ 21. Tuy nhiên, trong thực tế, Weltanschauung của TQ trong cốt lỏi là luỡng cực. Như một nhà phân tích chính sách đối ngoại TQ nhận xét: 'tay chơi duy nhất thật sự quan trọng đối với TQ là Hoa KỲ. Chúng tôi cũng muốn thấy một Âu châu hùng mạnh hơn trên thế giới'. Âu châu có thể trở thành một trong những cực của một trật tự đa cực nào đó, nhưng 'yếu tố Hoa kỳ đang là một chướng ngại ngoại lai lâu dài làm vướng víu bất cứ một đối tác chiến lược nào giữa EU-TQ'. Những khoảnh khắc Âu châu tách khỏi Hoa kỳ như trường hợp đa số các thành viên EU trong vụ xâm chiếm Iraq luôn được hoan nghênh. Hy vọng nhiều khi được bộc lộ, hoặc ít ra hiểu ngầm, một thái độ tương tự có thể xẩy ra trước một khủng hoảng ,ví dụ, ở Taiwan. Trong mọi trường hợp, 'Âu châu không được xem như có thể là một đối trọng, hoặc một thay thế, của Hoa Kỳ'.
Trạng huống nầy bắt nguồn từ EU thiếu cả hội nhập nội bộ lẫn thế lực đối ngoại. Âu châu hiện diện như 'một ý tưởng hơn là một thế lực'. Với những giới hạn như vậy, quả thật rất khó lòng để xem Âu châu như một lực lượng thống nhất và chặt chẽ trên thế giới. Lý do là TQ hiện vẫn duy trì 27 chính sách riêng rẽ bên sau đối tác chiến lược Âu châu đang theo đuổi với TQ. Điều quan trọng hơn đối với TQ là xây đắp quan hệ song phương với từng quốc gia Âu châu, mỗi xứ có những phương cách làm việc riêng với chính quyền TQ. Theo Kishore Mahbubani, khoa trưởng trường Đại Học Lý Quang Diệu ở Singapore, TQ đã 'nổi dậy như một tay chơi địa chính trị hết sức khôn lanh trên thế giới', trong khi 'EU chỉ là một diễn viên địa chính trị với một cơ cấu khập khiểng què quặt'. Nhiều chuyên gia TQ xem Âu châu 'quá thủ thân, hướng nội và dành quá nhiều năng lực vào việc giải quyết những vấn đề nội bộ' thay vì 'hướng ngoại tham dự vào những sinh hoạt toàn cầu', là 'phương cách tốt nhất để vượt qua những khó khăn vừa nói'. Yếu tố căn bản là 'người Âu châu phải hoàn toàn thức tỉnh trước sự trổi dậy của Á châu nói chung, và TQ nói riêng'. Tuy nhiên, rõ ràng là Âu châu không có lợi lộc căn bản nào để hành động cạnh tranh với Hoa Kỳ vì cả hai đều là thành tố của Tây phương. Như một người TQ đã nói: 'Xét cho cùng, trong nhiều khía cạnh, chúng tôi, người TQ, không phân biệt người Âu và người Mỹ về phương diện văn hóa, cũng như về văn hóa, người Âu cũng không phân biệt người TQ với người Nhật'.
Nhận xét trên có nghĩa, người TQ vững tin, sự sắp hàng của Nhật với Hoa KỲ hiện nay (một việc làm, nói theo từ ngữ thời chiến tranh lạnh, đã biến Nhật thành một bộ phận của 'Tây phương'), khi có thời cơ, sẽ được thay thế bởi 'một tình hữu nghị thắm thiết và hòa bình' với TQ (một biến chuyển một lần nữa giúp Nhật trở về cương vị một phần của 'Đông phương'). Điều nầy cho thấy có thể có một sự song hành trong sự chuyển biến khả dĩ (possible evolution) trong quan hệ Nhật-Mỹ và Hoa-Nhật. Từ năm 1945, và có lẽ sớm hơn thế, Nhật đã vượt qua TQ, cũng như Hoa Kỳ đã vượt qua châu Âu. Tuy nhiên, ngày nay, TQ đã lấy lại 'vị trí lãnh đạo truyền thống về văn hóa, kinh tế và chính trị'. Liệu một điều tương tự có thể đến với Âu châu hay không? Đã hẵn là có thể, khi so sánh giữa mặc cảm tự ti và tự tôn lẫn lộn trong sự xét đoán hổ tương Hoa-Nhật và Âu châu-Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nếu điều nầy xẩy ra, sự hồi sinh của Âu châu so với Hoa Kỳ, ít ra trong phạm vi chính trị, có lẽ phải mất một thời gian lâu dài hơn trong quan hệ Hoa-Nhật. 'Trong hiện tình, tất cả những gì TQ có thể hy vọng là tạo một không gian đồng thuận đủ để giúp EU tỉnh táo không hành động trái với quyền lợi của chính mình, nhờ đó, có thể ảnh hưởng tốt đến chính sách của Hoa Kỳ'.
7. Nhận thức thay đổi của Âu châu và Trung quốc về Đông và Tây
Một số bình luận gia cho TQ đã có một định nghĩa quá uyển chuyển về Đông và Tây. Họ giải thích điều nầy như 'quyết tâm của TQ không để cho các khu vực quan trọng khác trên thế giới vô tình trôi dạt vào quỹ đạo ảnh hưởng của Hoa Kỳ'. Một chuyên gia khác lại cho đây là một dạng hiện đại của ý thức hệ Maoist 'Hổ Trợ của Phương Nam' (a modernized version of the Maoist 'South Solidarity' ideology) của thập kỷ 1960s và 1970s. Sự giao hảo của TQ với Phi châu sub-Sahara đã được ghi nhận. Quan hệ với Bắc Phi và vùng Trung Đông cũng khá quan trọng. Ngoài những sáng kiến đã được bàn đến trước đây, ở Sudan và Lebanon, công ty Thăm Dò Dầu Khí Quốc Gia TQ đã đầu tư vào nhà máy khai thác dầu Zarzaitine ở Algeria, với khả năng sản xuất 1,3 -2,5 triệu tấn dầu mỗi năm, và sẽ khởi công xây nhà máy lọc dầu gần Adrar. TQ cũng có sự hiện diện đáng kể ở Libya, lắp đặt một đường ống dẫn dầu và hơi đốt dài 500 cây số. Ngoài ra, từ lâu TQ đã có nhiều trao đổi , đầu tư và quyền lợi quan trọng về dầu khí, cả về bán vũ khí cho Saudi Arabia, và trên hết, với Iran.
Âu châu và Hồi giáo, cả hai đều được người TQ hiểu như những thành tố của thế giới địa lý và tôn giáo của văn minh Tây phương, vì vậy, Bắc Phi và Trung Đông là những phân bộ trong quỷ đạo chiến lược của Âu châu. Tuy nhiên, hậu quả đặc trưng của tình trạng nầy là gì thì chưa rõ ràng. Có lẽ, như một quan sát viên ở Singapore đã nói thẳng thắn: 'Hồi giáo là một vấn đề của Âu-Mỹ'. Tuy nhiên, một cái nhìn như vậy hình như đã quên bẳng không những kinh nghiệm của Ấn Độ mà cả kinh nghiệm dài lâu và cực kỳ quan trọng của TQ về thiểu số Hồi giáo, chưa nói gì đến Malaysia và Indonesia - những kinh nghiệm rõ ràng vô cùng quan trọng đối với quyền lợi của TQ.
Sự kiện TQ sẵn sàng tin tưởng Tây phương đang thay đổi có lẽ đã được chứng minh một cách rõ ràng nhất qua quan hệ với Nam Mỹ. So với Phi châu, quan hệ nầy sâu xa hơn rất nhiều, mặc dù châu Mỹ La Tinh rõ rệt là gần gũi với văn hóa Âu châu hơn hẵn Phi châu sub-Sahara. Gần 50% FDI của TQ tập trung ở Nam MỸ và nhiều người tiên liệu thương mãi hai chiều sẽ đạt 100 tỉ trong vòng 5 năm tới. TQ cũng hoan nghênh ảnh hưởng gia tăng của Á châu ở Nam Mỹ nói chung ( chẳng hạn, tháng 9-2007, Nhật đã ký một thỏa ước đối tác kinh tế chiến lược và thương mãi tự do với Chile, thỏa ước đầu tiên loại nầy trong vùng, trong khi Brazil là xứ thứ 11 cho đầu tư trực tiếp của Nhật), như một 'báo hiệu cho những gì sẽ xẩy ra trong trường kỳ, ngay cả ở Bắc Mỹ' với 'những hậu quả địa chính trị vô cùng quan trọng'.
Điều TQ quan tâm hơn cả là sự hội nhập và liên kết chặt chẻ của Á châu, nhất là Đông Á. Vài người xem đây là cách giải quyết chính sách bao vây họ cảm nhận qua quan hệ ngày một gần gủi hơn giữa Nhật và Ấn Độ. Một số khác giải thích theo chiều hướng ý thức hệ, như một sự thức tỉnh của tinh thần liên đới Á châu.Theo Wu Jianmin, viện trưởng Viện Đại Học Ngoại Giao Trung Quốc, quan hệ Hoa-Nhật cần được un đúc trong tinh thần 2.000 năm lịch sử giao thương giữa hai nước. Suốt thời gian đó, bang giao giữa hai quốc gia xét chung khá tốt. TQ nên đi theo dòng suối hòa bình với Nhật. Khi làm như vậy, gương thành công lớn lao của EU - đã làm cho chiến tranh ở Âu châu không thể xẩy ra, đặc biệt là giữa Pháp và Đức - được xem như rất đáng noi theo.Theo một chuyên gia khác, sự chấm dứt chiến tranh lạnh ở Âu châu, và sự tái thống nhất của Đức cũng là những kinh nghiệm điển hình khác cho bán đảo Triều Tiên, và quan hệ của Triều Tiên với TQ và Nhật. Như vậy, kinh nghiệm dùng hội nhập kinh tế như một phương tiện giải quyết những thù nghịch chính trị và bất ổn là một nguồn cảm hứng để theo đuổi một sự hợp tác chặt chẻ hơn giữa TQ và Nhật Bản, cũng như ý tưởng hội nhập lớn lao hơn cho phần còn lại của Á châu.
8. Sự bánh trướng của EU
Chính vì lý do nêu trên, các chuyên gia TQ rất quan tâm đến cơ chế mở rộng EU. Một số xem đây như lợi thế chính trị và kinh tế lớn nhất của EU đối với Hoa Kỳ. Họ còn thấy con đường mở rộng Âu châu hơn nữa là yếu tố quyết định cho qui chế tương lai như một thực thể hùng cường có ảnh hưởng toàn cầu. Tuy nhiên, một số khác lúc đầu lại băn khoăn trước sự gia nhập của các quốc gia cộng sản Đông Âu trước đây (bởi lẽ điều nầy phương hại đến nhận thức của họ về EU như một câu lạc bộ của các nước giàu). Mặc dù ngại ngùng còn dai dẳng, hiện nay, ngày một nhiều người hơn công nhận diễn tiến mở rộng là một thành công và viễn ành quá trình mở rộng tiếp tục là một biểu lộ tiềm lực lớn lao của Âu châu. Vài chuyên gia còn hăm hở trước triễn vọng gia nhập EU của Thổ Nhi Kỳ, xem đó như một diễn tiến tự nhiên. Một số khác lại nhấn mạnh có lẽ TQ còn hiểu rõ hơn Âu châu: 'Thổ Nhị Kỳ không chỉ là một cầu nối với Trung Đông mà cả với Trung Á'. Cùng một cảm nghĩ và mong mỏi cũng được bày tỏ về mối quan hệ gần gũi hơn của Âu châu với các xứ trong vùng Maghreb, Tây Bắc Phi châu, và có lẽ với nhiều xứ khác ở Trung Đông. Một nhà quan sát TQ còn muốn EU nên cố gắng nhiều hơn để giao hảo với cả Israel song song với các xứ Hồi giáo, để cân bằng ảnh hưởng với Hoa Kỳ. Nhưng điều quan trọng hơn là liệu EU rồi ra có mở rộng đến tất cả các xứ Đông Âu, Belarus và Ukraine và, lâm thời, có lẽ cả Liên Bang Nga?
Như vậy, phải chăng TQ xem Nga như Âu châu? Nga luôn là đối tác truyền thống của TQ, xứ cung cấp vũ khí và năng lượng quan trọng hơn cả. Nga đã cung cấp 80% vũ khí nhập khẩu của TQ và là nước cung cấp dầu lớn thứ năm trong năm 2006. Trong năm 2005, TQ và Nga đã có cuộc tập trận chung lớn đầu tiên kể từ khi Mao Trạch Đông cắt đứt quan hệ với Liên Bang Xô Viết. Nhiều người nghĩ,'trong mắt người Nga, mối lợi bán vũ khí cho TQ chưa chắc đã tương xứng với nỗi lo âu về quyền kiểm soát Siberia trong tương lai - mối lo âu ngày một gia tăng với sự hiện diện ngày một đông đảo người Hoa trên lãnh thổ Nga, nhất là Vladivostok, Khabarovsk, Irkutsk, và ngay cả Moscow. Phía TQ cũng có nhiều e ngại. Mặc dù có nhiều thỏa ước quan trọng với Nga trong những năm gần đây, chẳng hạn thỏa ước năm 2006 thiết lập một đường ống dẫn 80 tỉ thước khối hơi đốt mỗi năm nội trong 5 năm, Bắc Kinh cũng khá dè dặt khi lệ thuộc quá nhiều vào số năng lượng do Nga cung cấp. Quan hệ của TQ đối với Nga liên kết chặt chẻ với quan hệ với Trung Á . TQ rất tin tưởng sự liên kết nầy trong Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải (Shanghai Cooperation Organization - SCO). Tuy nhiên, như một bình luận gia Âu châu nhận xét, từ khi thành lập vào năm 2001, SCO đã phát triển được rất ít sự hợp tác tăng cường nầy.
Vài chuyên gia TQ hình như tin nền kinh tế Liên Bang Nga vẫn ở trong tình rạng mất thăng bằng, lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất năng lượng và rất dễ tổn thương trước những hậu quả bất lợi của một dân số sụt giảm. Giới thức giả Nga cũng bị đánh giá là bất cập trước những thách thức hồi sinh của một quốc gia vĩ đại. Những nhược điểm nầy, mặc dù gây nghi ngờ về khả năng duy trì địa vị một đại cường, vẫn chưa phải là chỉ dấu cho thấy trong tương lai Nga sẽ hướng nhiều hơn về Tây phương hay Đông phương. Các chuyên gia thường trú ở Bắc Kinh nghiêng về giả thuyết của TQ - Nga là Âu châu. Điều nầy có nghĩa là sau Ukraine, Nga rất có thể trở thành một đối tác thân cận , ngay cả một thành viên của EU. Đã hẵn, một khi Nga gia nhập EU, nếu điều đó thực sự xẩy ra, đó sẽ là một thành tựu lớn và tích cực của Âu châu. Tuy nhiên, các nhà quan sát thường trú ở Thượng Hải, có lẽ chú tâm về kinh tế nhiều hơn là xu hướng chính trị hay văn hóa, tin tưởng Nga đã thất bại như là một quốc gia dân chủ kiểu Tây phương. Mặc dù Nga có thể tự xem là Âu châu hay chưa có quyết định, Nga chắc chắn đang chuyển dịch về hướng Á châu.
9. Triển vọng của EU
Nhu cầu một viễn kiến chiến lược mạch lạc cho Âu châu
Những phân tích trên đây hình như chỉ đưa đến một nhận thức chính trị thiếu mạch lạc về Âu châu, một nhận định cùng lúc rất bi quan và cũng rất lạc quan. Nói chung, các chiến lược gia TQ cảm nhận một Âu châu thống nhất hơn có thể thích ứng dễ dàng vào quan niệm một thế giới hài hòa của TQ. Mặc dù duy trì những quan hệ song phương với từng nước thành viên riêng lẻ có nhiều điều lợi, nhiều người TQ vẫn nghĩ cuối cùng họ thà giao hảo với một Âu châu thống nhất, một Âu châu có chung một tiếng nói. Một số đồng ý với các bình luận gia Âu châu, theo đó, nếu Âu châu không muốn bị lép vế bởi Hoa Kỳ trong những giao dịch với TQ, Âu châu phải đủ sức thay đổi đường lối đơn thuần kỷ thuật để bao trùm cả khía cạnh chính trị , nhưng điều nầy chỉ thực hiện được khi khai triển được một tiếng nói chung về chính sách ngoại giao mạnh mẻ hơn cho Âu châu. Nói chung, thỏa ước cải cách định chế mới là một bước tiến đáng kể theo chiều hướng nầy. Với sự giải quyết các vấn đề thủ tục gặp phải trong quá trình mở rộng Liên Hiệp, điều đó sẽ cho phép Liên Hiệp điều hành nội bộ một cách hiệu quả hơn. Thỏa ước dự liệu nhiệm kỳ chủ tịch EU là hai năm rưởi, tối đa hai nhiệm kỳ, và một quan chức đại diện chính sách ngoại giao cao cấp với quyền hạn gia tăng, sẽ đem lại cho Âu châu thêm một cơ chế quan trọng cần thiết trong lãnh vực đối ngoại.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 4:01:53 GMT 9
Quốc phòng, đồng Euro, và mở rộng Liên Hiệp
Ba địa hạt chính sách đặc biệt sau đây sẽ quyết định uy tín của EU trong những năm tới:
(1) Tiến bộ trong việc hình thành chính sách an ninh và ngoại giao chung cho Âu châu. TQ sẽ đặc biệt quan tâm đến chiều hướng biến chuyển thuận lợi cho Âu châu trong cán cân quyền lực giữa người Âu và người Mỹ bên trong NATO , với một thành tố Âu châu hùng mạnh hơn, và vai trò những định chế EU trong việc hoạch định và thi hành một chính sách thống nhất và mạch lạc về ngoại giao và an ninh chung . Điều nầy đòi hỏi trước hết những quan hệ chặt chẻ hơn giữa Anh quốc và Pháp.
(2) Tiến bộ của đồng Euro như một phương tiện dự trử toàn cầu ( nhiều chuyên gia xem đây như là một tiến bộ chính trị cũng như kinh tế).
(3) Nhịp độ và kích thước mở rộng Liên Hiệp. TQ mong muốn được thấy tiến trình mở rộng sẽ diễn tiến theo chiều hướng gia tăng thay vì giảm bớt trình độ kết hợp nội bộ và mục tiêu đối ngoại mạch lạc và rõ ràng. Trong trung hạn, một xứ đặc biệt quan trọng là Ukraine, như một bước tiến tới một quan hệ EU-Nga chặt chẻ hơn.
Tưởng cũng cần nhắc lại là nhiều nhà quan sát TQ vẫn nghi ngờ EU có đủ khả năng vượt qua các nhược điểm vừa nói. Âu châu rất chia rẽ và đang gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn chuyển tiếp. Tuy nhiên, nhiều người tin với thời gian, những khó khăn nầy có thể được khắc phục. Vì vậy, mặc dù không ai có thể tiên đoán thời gian chuyển tiếp sẽ kéo dài bao lâu, nhưng cuối cùng, tương lai của Âu châu vẫn luôn sáng sủa.
NHẬN THỨC CỦA TRUNG QUỐC VỀ VĂN HÓA ÂU CHÂU 1. Tha hóa hay Di thất văn hóa (Cultural estrangement)
Một sự kiện rõ ràng là mặc dù rất quí mến người Âu, người Hoa từ lâu đã tích lũy một số cảm nghĩ khó chịu mang tính lịch sử - một di thất hay tha hóa văn hóa nhuốm màu sắc nghi ngờ. Cảm nghĩ khó chịu nầy đôi khi được bộc lộ dưới hình thức giận dữ trước sự đưa tin của các cơ quan truyền thông Âu châu về một số vấn đề như nhân quyền, sản phẩm nhái, tình báo kỹ nghệ, hay ô nhiễm môi trường . Họ tin, đối với các cơ quan truyền thông Âu châu, 'TQ chẳng bao giờ làm được điều gì đúng'.Người Hoa đặc biệt có cảm nhận các nhà bình luận Âu châu về TQ 'thường không mấy quan tâm đến văn hóa hoặc lịch sử TQ' và 'càng ít quan tâm hơn đến những khía cạnh phức tạp và mâu thuẩn trong quá trình phát triển của TQ hiện nay'. Như một chuyên gia đối ngoại TQ đã nói, 'thái độ cao ngạo đó được xem như quá tầm thường và nhàm chán'. Ngược lại, người ta rất ưa thích những nổ lực của Âu châu giao lưu với văn hóa TQ đương đại, như 'Năm Trung Quốc' ở Pháp vào các năm 2003-04, tiếp theo đó là những chương trình tương tự ở Ý năm 2006 và Liên Bang Nga năm 2007. Như Kerry Brown, một chuyên gia Âu châu về TQ, đã gợi ý, 'một Năm Âu châu ở Trung Quốc cũng cần được cổ súy'.
Mặc dù những sáng kiến vừa nói trong từng quốc gia là đáng trân quí, nhiều người TQ nghĩ 'có nhiều địa hạt và cơ hội để hợp tác chân thành giữa EU và TQ trong lãnh vực văn hóa'. Như một sử gia TQ đã phát biểu:' Chúng tôi cảm thấy phần lớn sự ngộ nhận hiện nay giữa chúng ta và người Âu bắt nguồn từ chỗ Âu Châu gặp khó khăn nắm bắt tầm cở những gì chúng ta đang làm để hiện đại hóa đất nước, và từ đó, tầm cở những trở lực chúng ta phải vượt qua. Điều nầy hình như không phải là một vấn đề đối với người Mỹ'. Nếu người Âu hiểu được 'tầm cở dự án to lớn hội nhập toàn lục địa của họ', nếu họ dấn thân nhiều hơn vào dự án của họ ở cấp quần chúng, ngay cả ở cấp thức giã, 'họ sẽ có thể thấu hiểu được nhiều hơn về TQ'. Trong hiện tình, nhiều người nghĩ sự ngộ nhận được hiểu đang làm cho Tây phương - và một lần nữa, đặc biệt là Âu châu - e ngại sự trổi dậy của TQ'. Và sợ hải không phải là 'một cơ sở tốt cho giao lưu văn hóa rộng sâu hơn'.
2. Trung Quốc và Liên Hiệp Âu châu: âm và dương của văn minh thế giới
Cơ sở của cái gọi là Weltanschauung 'luỡng cực' của TQ là ý niệm có hai thành tố căn bản của văn minh nhân loại, thành tố Đông phương do TQ đại diện và thành tố Tây phương do văn hóa Âu châu đại diện. Cả hai đều cần thiết và bổ túc cho nhau. Toàn cầu hóa đã đưa đến giao lưu văn hóa, nhưng đồng thời cũng làm gia tăng ý nghĩa của dị biệt văn hóa.Theo một nhà quan sát TQ, hậu quả văn hóa chính của sự trổi dậy cuả TQ là phá vở huyền thoại (myth) của cái gọi là "chung điểm của lịch sử"(end of history) như là một 'trường phái chủ thắng nông cạn của Tây phương' (superficial Western triumphalism). Trong mọi trường hợp, nhiều người Hoa tin, kể từ ngày kỷ nguyên thuộc địa cáo chung, đa số người Âu, trái với một số người Mỹ, đã từ bỏ sự bất bình thường nầy. Họ xem EU, một phần, đã được xây dựng trên nguyên tắc bảo vệ sự đa dạng văn hóa và là một phản ứng chống lại quá khứ đế quốc của Âu châu, một quá khứ chỉ đưa đến thảm họa, ngay chính bên trong châu Âu.
Nét đặc trưng của văn minh Âu châu được nhận diện qua cội nguồn tôn giáo của nó . Người Âu đánh giá thay đổi (tiến bộ) cao hơn là ổn định, bởi lẽ họ tin tưởng ở ý nghĩa thiêng liêng mang tính định mệnh của lịch sử (a divinely determined meaning to history). Điều nầy trái ngược với người Hoa luôn trân trọng giá trị của ổn định (hài hòa) hơn là thay đổi. Nền tảng của văn minh TQ là ở triết lý. Văn hóa Âu châu hiện có chiều hướng bớt tin vào 'thay đổi' và đánh giá 'ổn định' cao hơn - điều nầy khá nguy hiểm, bởi lẽ, mặc dù Âu châu ngày nay về hình thức là thế tục, các giá trị vốn bắt nguồn từ tôn giáo có thể tái khẳng định, như trường hợp quan tâm của Âu châu đến khoa học hiện đang sụt giảm. Trái lại, TQ có thể trở nên quá thiết tha với thay đổi , và lơ là với ổn định - đây cũng là điều khá nguy hiểm, vì thiếu những giá trị vốn bắt nguồn từ triết lý, những giá trị có thể tự tái khẳng định và bào mòn tính nhất trí của xã hội. Như vậy, cả hai nền văn minh cần trở về cội nguồn nhiều hơn. Nói một cách khác, Âu châu và TQ cần giao lưu trao đổi văn hóa nhiều hơn. Được vậy, người Âu có thể thấu hiểu những ý niệm của người Hoa phân biệt rạch ròi giữa ổn định đơn thuần với hài hòa; và người Hoa cũng có thể hiểu rõ những ý niệm của người Âu phân biệt giữa thay đổi đơn thuần với tiến bộ.
3. Giao lưu văn hóa giữa Âu châu và Trung Quốc
Về phía TQ, phương tiện chuyển tải sự khả dĩ hiểu biết lẫn nhau là phát huy tư tưởng của nhà triết học quốc gia lỗi lạc người Hoa - Khổng Phu Tử. Sau khi tố cáo cuộc Cách Mạng Văn Hóa trong thập kỷ 1960s, học thuyết Khổng Tử (Confusianism) đã dần dà hồi phục được địa vị một cách bình lặng và hiện được xem như một học thuyết triết lý quốc gia. Vào ngày 28-9-2007, sinh nhật thứ 2557 của Khổng Tử đã được chính thức cử hành lần đầu tiên kể từ ngày đảng Cộng Sản lên cầm quyền. Riêng buổi lễ tại Qufu, nơi sinh của ngài, đã được cử hành một cách trang trọng với sự hiện diện của các hậu duệ của chính vị sư tổ. Sự kiện nầy bắt nguồn từ việc chính quyền ngày một âu lo TQ đương đại cần một ý niệm mới để phát huy các giá trị căn bản chung và đem lại sự đoàn kết quốc nội kể từ ngày chủ nghĩa Maoism tan loảng thành Chủ Nghĩa Xã Hội với Những Nét Đặc Thù của TQ (Socialism with Chinese Characteristics). TQ vô cùng hãnh diện với lịch sử thống nhất dài lâu độc nhất vô nhị của mình. Nhưng sự đa dạng của TQ cũng rất đáng chú ý và ngày nay, trong nhiều phương diện, với sự cách biệt giàu nghèo ngày một gia tăng và ảnh hưởng của công cuộc hiện đại hóa giữa các vùng, còn lớn hơn cả EU.Thật là một điều đáng ngạc nhiên khi các chuyên gia TQ luôn dò hỏi: 'ý niệm đoàn kết của Âu châu là cái gì? Phải chăng đó là giấc mơ của các nhà lập Liên Hiệp Âu Châu - EU?'.
Người TQ đã khai triển một mạng lưới các Viện Khổng Học (Confucius Institưtes), bắt đầu ở bên trong TQ, và từ năm 2004, ở hải ngoại. Nguồn hứng khởi cho sáng kiến nầy đến từ sự quan sát các phong trào tương tự ở Anh quốc, Pháp và Đức, với tới nhiều quốc gia trên khắp thế giới - như British Council, Alliance Francaise, Goethe-Institut. Cho đến năm 2007, tất cả có đến 190 Viện Khổng Học đã mở cửa trên thế giới , kể cả 10 ở Anh và 5 ở Pháp. TQ dự định thành lập trên 1.000 Viện như thế vào năm 2020. Vài nhà bình luận tin những viện như thế được xem như một phương tiện để nâng cao 'thế lực mềm' văn hóa TQ trên thế giới. Người TQ rất quan tâm đến việc tìm kiếm những phương cách tốt hơn , chẳng hạn, để phổ biến phim ảnh, sách báo ,nhất là ở Âu châu, và khuyến khích nhiều du khách Âu châu đến thăm viếng xứ sở của họ. Trong những năm gần đây, TQ chỉ xuất khẩu một số lượng hạn chế phim ảnh , trong khi sách báo chỉ vào khoảng chưa đến 1% con số của Hoa Kỳ và Âu châu vào năm 2004. Ngược lại, theo Tổ Chức Du Lịch Thế Giới, TQ sẽ trở thành điểm đến lớn thứ hai của thế giới vào năm 2010, trên cả Tây Ban Nha, và thứ nhất vào năm 2020, nếu không sớm hơn, vượt qua Pháp. Cũng như các tổ chức tương tự của Âu châu, ngày nay, vai trò chính của các Viện Khổng Học bên ngoài TQ là dạy tiếng Hoa. (Chính vì điểm nhấn nầy, các quốc gia Âu châu đã không thể phối hợp những hoạt động văn hóa của họ một cách chặt chẻ ở TQ). Tuy nhiên, theo các nhà bình luận TQ và Âu châu, các mạng lưới đại diện văn hóa nầy có thể tạo thành hạ tầng cơ sở cho một sự tương tác sâu xa hơn giữa TQ và EU.
Một phương cách để làm được việc nầy có thể là đi theo gương của Trường Thương Mãi Quốc Tế TQ-Âu châu ở Thượng Hải (được thành lập năm 2004 và tài trợ bởi Ủy Hội Âu châu và chính quyền TQ). Tháng 1-2007, hai bên đã đồng ý thành lập thêm Trường Luật Khoa Âu châu-TQ (với 23,5 triệu tài trợ từ EU). Một phương cách khác là nới rộng sáng kiến gần đây (9-2007) của Charles de Gaulle Foundation, bảo trợ những quan hệ văn hóa giữa những nhà lãnh đạo trẻ Pháp-Hoa thành một sự giao lưu cho toàn khối EU. Phần lớn các nhà nghiên cứu TQ đều đồng ý, địa hạt quan trọng nhất cho sự hợp tác Âu châu-TQ là nhu cầu bảo vệ sự đa dạng văn hóa trong một thế giới toàn cầu hóa. Một nhu cầu khác là trao đổi văn hóa rộng lớn hơn. Jean-Pierre Raffarin, nguyên thủ tướng Pháp, đề nghị EU nên thiết lập một Chương Trình Khổng Học với TQ, theo mẩu Chương Trình Eramus, nhằm bảo trợ những quan hệ trong giới đại học trong toàn bộ Âu châu.
4. Trung Quốc đánh giá cao văn hóa Âu châu
Mặc dù phần lớn được đại diện bởi người Anh, người Pháp và người Đức, Âu châu có một ảnh hưởng văn hóa sâu rộng, chí ít là trong giới kinh doanh thượng lưu TQ. Các tỉ phú TQ xây những biệt thự theo kiểu Điện Versailles. Giai cấp trung lưu mới bị ám ảnh bởi những sản phẩm xa hoa Âu châu và đi nghỉ thư giản ở Âu châu. Như một nhà quan sát TQ nhận định, người Hoa gần gũi với ý tưởng về lối sống Âu châu hơn là lối sống Mỹ. Tuy nhiên, vì những lý do thực tế, năm 2005 Hoa Kỳ đã là nơi được các sinh viên TQ lựa chọn đến du học. Số sinh viên TQ du học ở Âu châu trong thực tế đã sụt giảm. Các nhà bình luận TQ thường hay tỏ ý mong muốn Âu châu cải tiến chế độ phân chia số hộ chiếu giữa các xứ thành viên để xử lý song phương. Họ đặc biệt thích mở rộng khu vực các thỏa ước Schengen (ký kết năm 1985 và 1990 tại Schengen, Luxembourg). Nếu khu vực nầy bao gốm cả Anh quốc, đó sẽ là một cải tổ mang tính rất tích cực đối với sinh viên, nhân công, và du khách TQ.
Đã hẵn vẫn còn rất nhiều nghi vấn về chiều rộng cũng như chiều sâu của mối giao lưu văn hóa thực sự của TQ với Âu châu. Chẳng hạn, khi được hỏi họ ước mơ gì cho tương lai xứ sở của họ, nhiều người Hoa rất sẵn sàng cho biết họ muốn có dân chủ hơn. Nhưng khi đi sâu vào vấn đề, ước mơ đó khác xa với các quan niệm của người Âu về chính quyền đại diện và phổ thông đầu phiếu, cũng như pháp trị. Nếu những phương tiện để thành đạt ước mơ thường bị hiểu lầm, thì ngược lại, cứu cánh - lối sống Âu châu - họ lại nhận thức rõ ràng và ưa thích. Như một vị thức giả ở Bắc Kinh giải thích: 'Mô hình Âu châu với chúng tôi là mô hình công bằng xã hội và sự quân bình giữa chất lượng môi trường và hiệu quả kinh tế. Mô hình nầy khác với Hoa Kỳ và gần gủi với lý tưởng của chúng tôi vế một trật tự hài hòa'. Điều nầy cho thấy lịch sử về các nhận thức văn hóa hình như đã hoàn tất một tiến trình vòng tròn. Trước đây một số người Âu hâm mộ TQ, như Ruggieri, Leibniz, Montesquieu và Voltaire, tin họ tìm thấy nhiều giá trị và nguyên tắc của TQ rất gần với lý tưởng của họ hơn là ngay ở Âu châu. Ngày nay, các trí thức TQ hình như đang khen đáp lễ. Liệu điều nầy có đem lại cho người Hoa những kết quả chất lượng như Âu châu trước đây, chúng ta phải chờ xem.
5. Những nền văn minh lớn bị thương tổn nhưng không bao giờ mai một
Chẳng bao lâu sự khâm phục và hâm mộ của người Âu đối với TQ vào thế kỷ 18 đã phải nhường chỗ cho sự khinh thường hay thương hại vào thế kỷ 19. Nhiều người TQ ngày nay tự hỏi Âu châu đương đại phải chăng 'là một lâu đài của lịch sử hay của tương lai'. Với họ, Âu châu tỏ ra thụ động, hướng nội, thoái hóa,và mệt mỏi, còn quá trù phú để mạo hiểm, quá êm ấm để chấp nhận đổi thay, một lục địa đã đánh mất tham vọng và vị trí của mình trên thế giới'. Hay như một nhà phân tích chính sách ngoại giao đã nhận xét: 'Thật đáng buồn khi thấy Âu châu gặp khó khăn vì chia rẽ nội bộ. Chỉ ở cấp EU, các quốc gia thành viên mới có thể có ảnh hưởng và một chỗ đứng trong trật tự thế giới tương lai, cả về mặt kinh tế lẫn địa chính trị, và có đủ sức mạnh cần thiết để trở thành một đối tác chiến lược với TQ'. Nhiều nhà bình luận TQ cảm thấy Âu châu đang đối diện với một nhu cầu khẩn thiết phải hồi sinh, một quá trình đòi hỏi phải tự tái khẳng định bản sắc của mình trong đó di sản và giá trị cơ đốc kế thừa từ Thời Đại Khai Sáng là một thành tố quan trọng'. Xét cho cùng, 'đó chính là chất keo văn hóa của Âu châu , một yếu tố quyết định khả năng duy trì uy thế một đại cường trên thế giới'.
Những cảm nghĩ đó cũng không mấy khác sự thẩm định bi quan, hay thực tế, của các nhà quan sát ngoài Âu châu về EU và Âu châu như một tập thể. Đó cũng là thẫm định thường gặp ở Hoa Kỳ, Ấn Độ, Nhật, châu Mỹ La Tinh và Đông Nam Á. Nhưng chỉ có nhận định của TQ là đặc biệt và độc nhất về phương diện sau: ngay cả nếu Âu châu, trong đoản kỳ hay trung hạn, không thành đạt được một sự đoàn kết chặt chẻ hơn và một tham vọng thiết yếu cho một đại cường trên thế giới, 'điều đó cũng chưa phải là chung cuộc'. Chính TQ trước đây cũng trong cùng tình cảnh: Một nền văn minh lớn, đã một lần bị mờ nhạt, nhưng bây giờ 'đã tìm lại được sức mạnh bẩm sinh của mình', bừng dậy một lần nữa 'lên đúng vị trí nổi trội tự nhiên của mình'. Âu châu là nền văn minh duy nhất TQ công nhận có thể sánh vai với chính mình. Đến một thời điểm nào đó, sự kiện nầy sẽ trở thành quyết định trong sinh hoạt của thế giới.
Appendix
1. EU-25-China trade
Year Exports(billion) %
change Imports
(billion) % of
change EU-25 Trade deficit with China(billion) 2002 34.9 89.6 -54.7 2003 41.2 18 105.4 18 -64.2 2004 48.2 17 127.5 21 -79.3 2005 51.6 7 158.5 24 -106.9 2006 63.5 23 191.8 21 -128.3
Source: Eurostat ( September 2007) 2. Mainland China’s imports with major trading partners
Largest trading Partners 2006 (billion $) % growth % of total 2006 Japan 115.7 15 15 EU(then 25) 90.3 23 11 Korea 89.8 17 11 Asean10 89.5 19 11 Taiwan 87.1 17 11 USA 59.2 22 7 Latin America 34.2 28 4 Africa 28.8 37 4 Hong Kong 10.8 -12 1
Source: Customs General Administration of the People’s Republic of China (December 2006)
3. Mainland China’s exports with major trading partners Largest trading Partners 2006(billion $) % growth % of total 2006 USA 203.5 25 21 EU(then 25) 182.0 27 19 Hong Kong 155.4 25 16 Japan 91.6 9 9 Asean10 71.3 29 7 Korea 44.5 27 5 Latin America 36.0 52 4 Africa 26.7 43 3 Taiwan 20.7 25 2
© GS Nguyễn Trường
Irvine, CA, USA
25-9-2008
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 4:02:45 GMT 9
Chú thích:Karine Lisbonne-de Vergeron tốt nghiệp Đại Học London School of Economics, HEC-Paris và Bocconi University Milan, chuyên về quan hệ quốc tế và chính trị Âu châu, nhất là khía cạnh bản sắc văn hóa. Phúc trình nầy là kết quả một công trình nghiên cứu từ tháng 5 đến tháng 9 năm 2007 sau 22 cuộc phỏng vấn, mỗi lần dài 2 giờ, ở Trung Quốc, phần lớn với các nhà làm chính sách, các học giả và các vị lănh đạo doanh nghiệp. Phúc trình đồng thời được xuất bản Ở Anh, năm 2007, bằng Anh ngữ, bởi Royal Institưte of International Affairs Chatham House, 10 St James's Square, London SW1Y4LE; và ở Pháp, năm 2007, bằng Pháp ngữ, bởi Fondation Robert Schuman, 29, boulevard Raspail - 75007 Paris, France. NOTES 1 Hubert Védrine, Rapport pour le président de la République sur la France et la mondialisation, Fayard, October 2007. 2 According to the International Monetary Fund, October 2007 forecast. It is expected that its GDP growth will slow between 10.5% and 10% in 2008. 3 Measured at purchasing power parity, according to the Economist Intelligence Unit. Other experts estimate that China will have increased its current GDP by three times by 2025, and will become second then behind the United States. (Le Monde en 2025, directed by Nicole Gnesotto and Giovanni Grevi, Robert Laffont, October 2007.) 1 Chinese economic views of Europe 1 According to Chinese estimates (Customs General Administration of the People’s Republic of China, Mainland China, Statistics with the World), from January to September 2004, bilateral trade amounted to $128 billion, above the $122 billion for China’s trade with the United States over the same period. 2 Eurostat.http://ec.europa.eu/trade/issues/bilateral/countries/china/index_en.htm. Chinese statistics are consistently lower than US and European sources on account of the exclusions of re-exports through Hong Kong. 3 The GSP scheme allows the EU to grant autonomous trade preferences to imports from a list of beneficiary developing countries. 4 The European Commission’s delegation in China, trade statistics. www.delchn.cec.eu.int/en/. 5 Xinhua.net, 10 January 2007. 6 The European Union Chamber of Commerce in China, China’s Position Paper 2007-2008, October 2007. 7 Eurostat, EU-25 Foreign Direct Investment in Brazil, Russia, India, and China, No. 111-2007, 13 September 2007. 8 Statistics from Invest in China, www.fdi.gov.cn/. 9 French economic mission in China, Les investissements chinois en France et en Europe, 18 October 2006. 10 According to Chinese statistics (Customs General Administration of the People’s Republic of China, Mainland China, Trade Statistics with the EU (then 25)). 11 Statistics from the German embassy in China. 12 Le Monde, 5 December 2005. 13 ‘EPR chinois: la commande finalisée prochainement’, Challenges, 20 September 2007. 14 Already, China is set to replace Germany as the third-largest national economy in the world by the end of 2007, having overtaken Britain as the fourth-largest in 2005. In the next 10-15 years or so, most analysts predict that it will surpass Japan to achieve second place and by 2020 will have matched the US and the EU, finally overtaking the United States a decade later on a purchasing power parity basis, when it will also have the largest technology sector in the world. 15 Kishore Mahbubani, in ‘Charting a new course’, Survival, IISS Quarterly, Vol. 49, No. 3, Autumn 2007, p. 203. 16 The US Congress has legislation pending penalizing China for its currency controls. 17 China is currently running both an external commercial and financial surplus. 18 Whilst China has accumulated in excess of $750 billion of FDI, important sectors still remain restricted, notably the limitations on investment in certain industries such as automotive telecoms, petrochemicals and energy, and finance. In the latter, foreign companies are limited to a 20% shareholding or up to 25% through an international consortium. Technical barriers are still placed in the way of foreign companies and there is an emerging trend towards unequal treatment by some Chinese regulatory bodies. (The European Union Chamber of Commerce in China, China’s Position Paper 2007-2008, October 2007.) 19 On 18 October 2007, the G7 called for the revaluation of the Chinese currency. 20 In speech delivered by Peter Mandelson, EU Commissioner for external trade, at the European Parliament in Strasbourg on 10 July 2007. 21 From January to May 2007, the EU deficit with China increased by nearly 53% (primarily due to a 138% increase to reach €61.1 billion. Eurostat, in External and Intra-European Union Trade, monthly update, Monthly statistics, Issue number 9/2007 and French economic mission in China in ‘Note de conjonctưre Chine’, Economic Review, August 2007. 22 Since 2002, it has depreciated by 30% against the euro, with a deprecion of 1.8% from January to August 2007. By contrast, it has steadily appreciated against the dollar since July 2005 by around 8.8%. 23 For example, a few experts wondered whether Peter Mandelson’s influence as Commissioner for external trade had diminished since the departưre of Tony Blair from the office of British Prime Minister. Or they would analyse the dispute between France and Germany over the monetary policy of the European Central Bank as the critical determinate of the euro/dollar exchange rate. 24 In 2006, China displaced Japan as the largest foreign exchange reserves in the world, estimated to $1.43 trillion in September 2007, a 5% growth from June 2007 (then estimated at $1.33 trillion). It is believed that over 70^ of these are held in US dollars, mostly in Treasury bonds. 25 While it is obvious that full convertibility of the renminbi would require further improvements in China’s banking sector, most European experts do not see this as being a prerequisite for a managed revaluation of 10% or 20%. There is even less sympathy for the other two arguments for inactivity, which the Chinese sometimes advance: that they resisted Western calls for a devaluation during the 1998-99 Asian financial crisis and were vindicated, and that the successful US campaign to force the revaluation of the yen in the 1970s led to the Japanese asset bubble of the 1990s. Neither case really bears comparison with China’s current circumstances. 26 Such predictions assume the disappearance certainly of sterling and probably also of the yen. 27 This follows a spectacular rise in Chinese strategic investments abroad – for example, in May 2007, $3 billion in the American private equity group Blackstone and in July 2007 a 3.1% in the British Barclays Group for €2.2 billion. 28 On 28 September 2007, Joaquín Almunia, the European Commissioner for economic and monetary affairs, indicated that sovereign wealth funds investment will be restricted in Europe unless they are more transparent. 29 How this squares with Chinese assessments of the modalities of a potential Asian currency union is unclear. 30 This would be ‘the modern geopolitical meaning for China of “the Middle Kingdom”’. 31 The Association of South East Asian Nations currently comprises Brunei, Cambodia, Vietnam, Thailand, Singapore, Philippines, Burma, Malaysia, Laos and Indonesia. 32 Given the scale of China’s requirements, some analysts expect these to be overtaken by joint energy projects. Important recent agreements include that signed during the Sino-Japanese Energy Forum held in April 2007 by Nippon Oil and China National Petroleum Corporation for joint oil and gas exploration production and supply both in China and overseas; and that between Japan’s Sumitomo Corporation and Kyushu Electric Power Corporation the China Datang Corporation to build and operate wind power generators in Inner Mongolia. 33 Garteh Price, China and India: Cooperation and Competition, Asia Programme Briefing Paper, Chatham House, May 2007. 34 See also Jaram Ramesh, Making Sense of Chindia, India Research Press 2005. 35 There is also the redevelopment of the old Stilwell Road connecting China and India through Burma, currently being restored as a highway to boost bilateral trade. China and also India, are expected to help rebuild the Burmese Section (Financial Times, 19 October 2007). 36 To date, the most considered proposal has come from the Asian Development Bank, which mooted an Asian Currency Unit (ACU) based on a weighted index of the currencies of ASEAN + 3 countries i.e. included Japan, South Korea and China. 37 ‘New attempt at East Asia financial cooperation’, People’s Daily, 6 February 2006. 38 ‘Asean deal with China paves way for free-trade zone’, The Times, 15 January 2007. 39 ‘New free-trade harbor area approved for trade with ASEAN’, China Daily, 11 October 2007. 40 French economic mission in China, in ‘Note de conjunctưre Chine’, Economic Review, August 2007. 41 In 2004, research and development amounted to 1.93% of the EU’s GDP against 2.59% for the United States. By contrast, 1.44% of the Chinese GDP is devoted to research amounting for nearly €20 billion in 2006, a sharp increase from respectively 1.31% of GDP in 2004 and 0.6% of GDP in 1996. China now ranks 5th worldwide among scientific publications, behind the United States (30.5%), Japan (8.9%), the United Kingdom (8.5%) and German (8.1%). It is also qualifying over 300,000 new engineers a year. By contrast, there were some 30,000 new engineers qualified in Britain and 28,000 in France in 2006. 42 According to Chinese statistics, in 1999, China already allocated 9% of its national crop research budget to biotechnologies (Shanghai Daily, 7 September 2007). 43 Investment in high technology has been reasserted in the wake of the 17th Congress of the National Communist Party of China in October 2007 as the key priority for China’s development with the concept of’a scientific view of development’ to be enshrined into the Chinese party’s constitưtion. 44 There is particular emphasis on the positive achievements of the French-Chinese Scientific House in Beijing created in 2001. 45 ‘Hungary: gateway to Europe for Chinese business’, China Daily, 3 September 2007. 46 ‘Chinese firm, Polish road’, China Daily, 12 September 2007. 47 As embodied in the traditional Chinese saying, ‘everybody is responsible for the rise or fall of the country’. 48 For example, the admission of the serious problem of corruption in the opening address of the Chinese president to the 17th Congress of the National Communist Party of China on 15 October 2007 (Le Monde, 16 October 2007). 49 Food Policy Report, Foresight 2020, International Food Policy Research Institưte, October 1999. 50 Sixteen out of the twenty most polluted cities in the world are Chinese. 51 World Bank, Statement on the ‘Cost of Pollution in China’ Report, 11 July 2007. www.worldbank.org/. 52 ‘China must come clean about its poisonous environment, Financial Times, 3 July 2007. 53 It is also expected that the urbanization rate will increase from 41% in 2007 to 57% by 2025 with an overall 824 million people living in the cities. 54 The 11th Five-Year Plan has set targets to reduce energy consumption and to meet 10% of China’s energy needs from renewable sources by 2010. It has also pledged to reduce total discharge of major pollutants by 10% by 2010. See Changing Climates: Interdependencies on Energy and Climate Security for China and Europe, Chatham House Report (November 2007). 55 The Chinese middle class will comprise some 300 million by 2011 (out of a total of 1.3 billion) and 520 million by 2025, according to McKinsey estimates, June 2006. www.mckinseyquarterly.com. Also some 35% of multinational companies’ senior management teams are made up of mainland-born executives. 56 One element of the 11th Five-Year Plan is to set out the need to achieve five balances: between rural and urban development, interior and coastal development, economic and social development, people and natưre, and domestic and international development. 57 European Commission, IP/06/1502, 31 October 2006, europa.eu/rapid/. 58 The retired population of China will rise from 7% in 2007 to 20% in 2025, with a dependency rate of 25 young people to 24 elderly by 2030, against respectively 26 and 13 in 2015. By contrast, by 2050, the EU will have lost 48 million people of working age and the over-65 population would have increased by 77%, when there will be approximately one inactive person for every two of working age against one inactive for every four in 2004. (Le Monde en 2025, directed by Nicole Gnesotto and Giovanni Grevi, Robert Laffont, October 2007.) 59 Projections by the United Nations. India will have overtaken China by 2030 with estimate of 1.59 billion in 2050. One of the principal reason for this has been China’s ‘one child policy’ which has also led a growing gender imbalance. A ‘bride shortage’ of some 30 million is expected within the next 15 years or so. 2 Chinese political views of Europe 1 European Commission, A Matưring Partnership – Shared Interests and Challenges in EU-China Relations, Brussels COM (2003) 533 final, 10 September 2003. 2 Joint Statement of the 8th EU-China Summit, Beijing, IP/05/478, 5 September 2005. ec.europa.eu/external_relations/. 3 Galileo has been developed jointly with the European Space Agency as an alternative Global Navigation Satellite System. Unlike the current American GPS, it will be administered and controlled by civilians. 4 Jean-Pierre Cabestan, in European Union-China Relations and the United States: Asian Perspective, Vol. 30, No. 4, 2006, p.15. 5 The Joint Dialogue on Human Rights has continued to be held regularly twice a year even though China has yet to ratify the International Covenant on Civil and Political Rights, which it signed in 1998. 6 Stephen Green, ‘China’s quest for Market Economy Statưs’, Briefing Note, Chatham House, May 2004. 7 For example, in August 2007 the US government requested the initiation of the WTO dispute settlement proceedings against China over deficiencies in the Chinese legal regime for protecting and enforcing copyright and over its barriers to trade in cultưral goods. 8 Jean-Pierre Cabestan, op. cit., p. 26. 9 It is worth noting that the latest EU position on the matter highlighted that ‘the EU has agreed to continue to work towards lifting the embargo’. Communication from the Commission to the Council, and the European Parliament, EU-China: Closer partners, growing responsibilities, COM(2006) 632 final, 24 October 2006. 10 The near-Zero Emissions Coal (nZEC) project has been developed around a threefold process beginning with a three-year feasibility stưdy, examining the viability of different technology options for the captưre of carbon dioxide emissions from power generation, leading towards a demonstration project between 2010 and 2015. Britain is leading the first phase of this project, with a £3.5 million funding. www.defra.gov.uk/environment/climatechange/internat/devcountry/china.htm. 11 ‘China admits Three Gorges dam danger’, Financial Times, 26 September 2007. 12 ‘Merkel presses China on climate change’, Reuters, 27 August 2007. On 9 September 2007, China signed, along with the United States and the members of the Asia-Pacific Economic Cooperation (APEC), the APEC leaders’ declaration on climate change, energy security and clean development (setting an ‘aspirational goal’ to increase energy efficiency by a quarter by 2030). 13 The ITER agreement signed on 26 November 2006, came into force on 24 October 2007. The agreement aims to show the feasibility of fusion as an energy source. The first session of the ITER Council is planned on 27 and 28 November 2007. ITER currently comprises seven members: the European Union, China, India, Japan, South Korea, the United States and Russia. 14 ‘China to play major role in ITER’, China Daily, 30 November 2006. 15 www.iter.org/newsline/issues/06-10-18/ITERnewsline.htm. 16 The European Commission recently proposed a regulation providing that the deployment phase of Galileo would be fully funded by the European Community acting on its own. The budgetary resources required for funding the last phases of development for the period running from 1 January 2007 to 31 December 2013 for Galileo have been set at €3.4 billion (European Commission, IP/07/1358, 19 September 2007.) 17 ‘China launches navigation satellite’, Financial Times, 4 February 2007. 18 Stéphane Marchand, Quand la Chine veut vaincre, Fayard, October 2007. 19 NewScientistSpace, 3 February 2007. 20 Communication from the Commission to the Council and the European Parliament, 24 October 2006, op. cit. 21 Seventh Annual Report of the EU Code of Conduct on Arms Exports, Council of the European Union, December 2005. The currect EU Code of Conduct on Arms Exports (adopted in 1998) is based on the principle of sharing information with other member states when a country denies an export license to a company. 22 ‘Major step in military opening’, China Daily, 3 September 2007. 23 On 2 September 2007, China eventưally agreed to participate in the United Nations Military Transparency Mechanism and to consume providing data on trade in conventional weapons to the United Nations register on an annual basis, stopped since 1996. There is still concern, however, over the accuracy and transparency of China’s military statistics. According to US estimates and the International Institưte for Strategic Stưdies, China’s annual military spending in 2006 was between $80 billion and $122 billion, an increase of up to 18.4% over the previous year (in Military Balance 2007, January 2007). 24 The recent Chinese documentary broadcast twice in winter 2006 on the Chinese CCTV, ‘The Rise of Great Nations’, emphasized how historically Japan, the United States and European countries, in particular Britain, became dominant by sea power. 25 Stéphane Marchand, Quand la Chine veut vaincre, op. cit. 26 China Daily, 29 September 2007. On 19 September 2007, the Chinese Navy held a similar exercise with the Spanish navy in the Atlantic. 27 ‘Coming over the horizon’, The Economist, 6 January 2007. 28 The EU is currently Africa’s largest trading partner, with trade totaling more than €200 billion in 2006. China ranked third the same year, with trade amounting to €43 billion. However, China’s share is growing over three times faster than that of Europe. 29 Recently, China granted a $5 billion loan to the Democratic Republic of Congo to develop its infrastructưre network. 30 ‘L’heure de la Chine’, Le Monde, 2 October 2007. 31 For example, on 24 April 2007, the attack of the Ogaden National Liberation Front in Ehtiopia’s Somali region at an oil field in Abole, in which nine Chinese oil workers from China petroleum and Chemical Corporation were killed. 32 China recently granted a $200 million loan to the Sudanese government for compensation payment to the Darfur region. 33 There is, however, deep skepticism by European observers about such an exposition. 34 Pang Zhongying, ‘On Sino-European strategic partnership’, International Review, Shanghai Institưte for International Stưdies, Vol. 46, Spring 2007. 35 Though it is felt that the European position on Taiwan is very similar to that of the United States. While recognizing the ‘One China Policy’’, the EU has taken ‘a significant stake in the maintenance of peace and stability’. (Communication from the Commission to the Council and the European Parliament, 24 October 2006, op. cit.) 36 Though this Chinese commentator added: ‘We Chinese have a great respect for the power of ideas.’ 37 Kishore Mahbubani, in ‘Charting a new course’, Survival, op. cit. 38 Information report No. 400, Central Asia, Foreign Affairs Committee of the French Senate, 15 June 2006. www.senat.fr/noticerap/2005/r05-400-notice.html. 39 Marcin Zaborowski, ‘US-China relations running on two tracks’, in Facing China’s Rise: Guidelines for an EU Strategy, Chaillot Paper No. 94, December 2006. 40 This has led some Western observers to question the reliability of China in addressing the problem of terrorism in the Middle East and more widely, which Beijing, of course, strenươusly denies. 41 The Chinese commentator who compared Europe and America to China and Japan also drew a parallel between Europe’s relationship to the Middle East and China’s relationship to India. China is indebted cultưrally and ethically to India, above all as the home of Buddhism, ‘like Europe’s debt to the ancient cultưres of Mesopotamia and Egypt to the Middle Eastern monotheism’. 42 In 2004, China announced a $100 billion investment in Latin America by 2014. 43 Japan Ministry of Foreign Affairs. www.mofa.go.jp/. 44 There is some wariness about the new initiative in the form of a ‘quadrilateral’ grouping to discuss security issues in Asia between the United States, japan, India and Australia, termed by some critics the core of ‘an Asian NATO’. This followed the four respective foreign ministers’ meeting in the margins of the ASEAN Regional Forum held in Manila in May 2007. In May 2007, India participated in military exercises with the United States and Japan, not far from China’s eastern coast. 45 Wu Jianmin, ‘A broad perspective on common interests’, excerpt of a speech given during the Third Beijing-Tokyo Forum, China Daily, 30 August 2007. 46 The Chinese are proud of the huge influence their ceramics have had on Ottoman art. They are also very interested in Tưrkey’s post-Ottoman history and especially very recent developments, both economic and political, where they see issues of modernization in some ways comparable to those they face themselves. 47 Information Report No. 400, Foreign Affairs Committee of the French Affairs Committee of the French Senate, op. cit., p. 15. 48 François Godement, ‘Neither hedgemon nor soft power: China’s rise at the gates of the West’, in Facing China’s Rise: Guidelines for an EU Strategy, Chaillot Paper No. 94, December 2006, p. 53. 49 There is also the potential negotiation to build a $11.5 billion pipeline from Anagarsk in Russia’s Siberia to the Pacific Ocean, with a connection to the Daqing oil fields in eastern China, a very contentious issue for Japan. ‘Russia signs gas deal with China’, BBC, 21 March 2006. 50 For example, in August 2007, a large-scale exercise was conducted in the Ural mountains, with some 6,000 Chinese and Russian troops taking part, together with smaller contingents from all the other SCO States. The SCO was created in 2001 (as a successor to the Shanghai Five grouping formed in 1996) as an intergovernmental organization between Russia, China, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan and a sixth new member, Uzbekistan. It is primarily centred around security-related concerns in the region, and particularly counterterrorism and drug trafficking. Mongolia, since 2004, as well as Iran, Pakistan, and India, since 2005, have been granted an observer statưs. 51 The United Nations estimates Russia’s population of about 140 million in 2005 could fall by a third by 2050. 3 Chinese cultưral views of Europe 1 In China Daily, 7 June 2007. 2 As the Chinese Premier, Wen Jiabao, put it: ‘Our unique 5,000-year-long, uninterrupted civilization is the source of pride of every Chinese.’ Tưrning your eyes to China, Speech delivered at Harvard University, 10 December 2003. 3 Although this commentator notes: ‘The end of history is a very Asian idea as we would perhaps expect from M. Fukuyama’. 4 As one commentator explained: ‘Chinese do not believe in original sin but in cultivated virtưe as the fundamental human characteristic’. 5 To many Europeans, however, the Chinese seem particularly superstitious, as evidenced, for example, in the fact that the site of the Olympics has been chosen in alignment of two of the greatest Chinese cultưral centres, the Temple of Heaven and the Forbidden City, and that the opening has been scheduled at 8:08 pm on 8 August 2008. 6 It is possible that this exposition is highly coloured by current Chinese concerns about Buddhism, especially groups such as Falun Gong, which are presented as fostering selfish and anti-social values in contrast to the much more officially favoured Confucianism. 7 ‘Party Chief admits that what Confucius says … is good for the nation’, The Times, 29 September 2007. 8 One Chinese commentator suggested that one of the best ways to understand China was to imagine Europe if the Roman Empire had not fallen. ‘Our wall worked’. 9 ‘Confucius Institưtes Taking Chinese to the World’, China-gate, 24 march 2007. 10 Estimates from the office of the Chinese Language Council International. 11 Gong Yidong, ‘China featưres’, Chinese embassy in the United Kingdom, 29 September 2006. 12 There were some 21.5 million visitors to China for the first five months of 2007 a 10% increase over 2006, which saw 3 million visitors from Japan and Korea. According to the latest estimate of the World Tourist Organization, China could even become the first destination as early as 2014. 13 According to the Chinese Ministry of Education, in 2006 there were 30 million foreigners stưdying Chinese worldwide. Some 2,500 colleges and universities offer Chinese courses in more than a hundred countries, while the number of foreign stưdents stưdying in China has increased from 8,000 in the mid-1980s to 110,800 in 2005. 14 The Chinese have a great reverence for General de Gaulle, not least because he ensured that France was the first Western power to recognize the People’s Republic of China. 15 Jean-Pierre Raffarin, ‘Pour un programme euro-chinois’, Les Echos, 18 April 2006. 16 There was extensive media coverage, for example, on 19 October 2007, for a Fendi fashion show held on the Great Wall. 17 China Daily, 16 July 2005. 18 According to Britain’s university admissions body (UCAS) acceptances from China for undergraduate degrees for the 2006 academic year were down by 21.3% from 2005, from 4,4401 to 3,464. This fall was considered by some to be mainly due to visa constraints. 19 One common formulation is that democracy is ‘the apparent process of legitimization of good governance’. 20 It is, however, plainly of considerable significance that the new 7th most senior member of the ruling politburo of the Chinese Communist Party and the man seen by some as likely to be the next premier, Li Keqiang, translated the British jurist Lord Denning’s The Due Process of law.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 25, 2010 4:14:23 GMT 9
Tác giả:Tom Mahnken –
Canh chừng Trung Quốc kỹ hơn
Hồ Kim Sơn dịch Cuối tuần qua, tờ Thời báo Đài Bắc đăng tin cho hay Hoa Kỳ sẽ sớm đưa vào hoạt động những khí cụ không gian không người lái (Unmanned Aerial Vehicles – UAVs) với tên hiệu là Diều Hâu Hoàn Cầu RQ-4 có thời gian vận hành dài (36 giờ đồng hồ) và ở cao độ lớn (ngưỡng trần xấp xỉ 20 km) được phóng đi từ căn cứ trên đảo Guam. Khi hoạt động, những con ong bắp cày này sẽ theo dõi các lực lượng của Trung Quốc đồn trú phía bên kia Eo biển Đài Loan. Chính xác là, chúng sẽ thay thế các loại máy bay U-2 và RC-135 đang làm nhiệm vụ dọ thám khu vực phía tây Thái Bình Dương. Chính phủ Obama xứng đáng được tuyên dương cho những nỗ lực như vậy nhằm theo dõi sát hơn công cuộc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc. Mặc dù thuật ngữ “chuyển hóa” không còn ưa thích ở Washington, nhưng ở Bắc Kinh nó vẫn còn rất được mến mộ. Trung Quốc đang triển khai một loạt những khả năng nhằm làm suy yếu sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ, bao gồm tên lửa đạn đạo chống tàu chiến DF-21D, thuộc loại tên lửa đạn đạo lớn có gắn bộ phận điều khiển chính xác, những vũ khí chống vệ tinh, cùng những khả năng chiến tranh không gian mạng. Như Jacqueline Newmyer viết trong một bài báo dễ gây tranh cãi đăng trên số mới nhất của Tạp chí Nghiên cứu Chiến lược, những chiến lược gia Trung Quốc tin tưởng rằng cái mệnh danh là “cuộc cách mạng trong quân sự vụ” tạo cho Bắc Kinh cơ hội lịch sử để làm thay đổi cán cân quân sự với Hoa Kỳ. Sau nhiều năm che giấu công việc xây dựng quân đội, nay giới lãnh đạo Trung Quốc càng ngày càng trở nên công khai và hùng hổ khi thảo luận những khả năng có thể gây tổn hại cho những lực lượng Hoa Kỳ. Việc triển khai những chiếc Diều Hâu Hoàn Cầu đến đảo Guam tạo cơ hội không chỉ để theo dõi sự triển khai quân sự của Trung Quốc, mà còn mở ra nhiều khả năng cho những phương pháp mới trong việc củng cố an ninh và tăng cường khả năng ngăn chặn ở châu Á – một khả năng rất đáng hấp dẫn đối với một chính quyền luôn thiên về những giải pháp đa phương. Tất cả các đồng minh châu Á của Hoa Kỳ đều rất quan ngại về công cuộc hiện đại hóa quân đội của Trung Quốc, và về sức mạnh hiện tồn của Hoa Kỳ đối mặt với một Trung Quốc đang nổi lên. Những quốc gia đồng minh cũng muốn đặt mua hoặc phát triển những khí cụ không gian không người lái có thời gian vận hành dài và ở cao độ lớn giống như những chiếc Diều Hâu Hoàn Cầu. Do vậy, cánh cửa dường như đã mở ra cho hành động táo bạo hơn: Điều gì sẽ xảy đến nếu Hoa Kỳ tiên phong mở ra một chiến dịch đa quốc gia bao phủ vùng trời với những chiếc khí cụ không gian không người lái UAVs và chia sẻ dữ liệu do chúng thu thập được, rồi từ đó thiết dựng nên bức tranh tổng thể của khu vực tây Thái Bình Dương? Với viễn kiến kiến và hành động táo bạo, những con ong bắp cày này của Hoa Kỳ có thể trở thành hạt nhân của liên minh hệ thống dọ thám không trung của châu Á. Một hệ thống như thế có thể giúp gia tăng tính minh bạch trong khu vực. Có nhiều con mắt cùng canh chừng một khu vực cũng có thể tạo nên sức mạnh ngăn chặn hùng hậu đối lại với hành động hung hăng của Trung Quốc, cho dù ở phía bên kia Eo biển Đài Loan hay ở trên vùng biển Nam Trung Hoa [Biển Đông Việt Nam] đi chăng nữa. Việc triển khai những chiếc UAVs đến đảo Guam là một động thái tích cực. Với một chút táo bạo và sự sáng tạo, việc triển khai này có thể thu đạt nhiều kết quả khả quan hơn nữa.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2010 6:55:20 GMT 9
TRUNG HOA CỘNG SẢN
HIỂM HỌA
cho HÒA BÌNH của NHÂN LOẠI
Song Nguyễn Lời người viết: Bài viết này được hình thành trong niềm đau sót nhìn quê hương đang bị mất dần, viết trong nỗi nghẹn ngào của kiếp sống ly hương. Bài viết là một tổng hợp các tài liệu liên quan đến hiểm họa Trung Cộng, một hiểm họa cấp thời (imminent )đe dọa hòa bình của toàn thể nhân lọai. Năm 1991, chế độ Cộng Sản tan rã ở Nga Sô và ở Đông Âu sau khi đã tàn hại nhân loại trong gần một thế kỷ. Trên thế giới chỉ còn 4 quốc gia mà đảng cầm quyền vẫn sắt máu áp đặt chế độ Cộng Sản lên dân tộc của họ; đó là Trung Hoa, Bắc Hàn, Việt Nam và Cuba. Chiến tranh lạnh đã chấm dứt. Các ám ảnh của 1 cuộc chiến tranh thế giới thứ 3 - một cuộc chiến tranh nguyên tử hủy diệt toàn thể nhân loại-đã chìm sâu vào dĩ vãng. Người ta đặt hy vọng vào 1 kỷ nguyên mới cho nhân loại, đó sẽ là kỷ nguyên của hòa bình, hợp tác và thịnh vượng. Nhưng những lạc quan đó không kéo dài quá 1 thập kỷ. Nhân loại lại bị đe dọa bởi 1 cuộc chiến tranh giữa Trung Cộng và thế giới tự do vì những tham vọng bệnh hoạn làm bá chủ thế giới của các nhà lãnh đạo của Trung Cộng. Quả thực Trung Cộng đang có tham vọng thôn tính thế giới. Truyền thống xâm lược của người Tầu : xưa và nay Vì luôn luôn tự tôn rằng Hán tộc là cái rốn của vũ trụ, có thiên mệnh làm bá chủ thế giới nên từ ngàn xưa, người Tầu đã không ngớt xâm lấn khắp nơi khi có cơ hội. Chính sách đồng hóa thâm độc của Trung Cộng vẫn không thay đổi, từ ngàn năm nay: đó là di dân ào ạt vào các nước chiếm được, hạn chế sinh đẻ áp đặt lên người bản xứ, reo rắc chết chóc lầm than, hủy diệt văn hóa, văn tự chữ nghĩa như họ đang thực hiện ở Tây Tạng… Khởi thủy, đất đai của người Tầu được gọi là Trung Nguyên, chỉ gồm có 18 tỉnh là: Hà Bắc, Hà Nam, Sơn Đông, Sơn Tây, Thiểm Tây, Cam Túc, An Huy, Giang Tô, Giang Tây, Chiết Giang, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam, Phúc Kiến, Quí Châu, Vân Nam, Quảng Tây, Quảng Đông. Người Tầu tự coi họ là văn minh, các sắc dân khác được họ gọi là Rợ, Man Di vv…. Các vua Tầu như các Hoàng Đế Khang Hy, Càn Long đời nhà Thanh đã đem lãnh thổ Mãn Châu sáp nhập vào nước Tầu. Họ chiếm thêm Ngoại Mông và Hồi Cương để lập thêm các tỉnh mới như Thanh Hải, Tây Khang, Tây Hạ, Sáp Cát Nhĩ, Liêu Ninh, Thẩm Dương và Hắc Long Giang. Ngày 15 tháng 10 năm 1951, Trung Cộng kéo quân vào chiếm Tây Tạng, chiếm đóng xứ này cho tới ngày nay. Họ cố tình đồng hóa Tây Tạng, hủy diệt nền văn minh bàng bạc chất Phật Gíáo của quốc gia cổ kính này. Hàng ngàn ngôi chùa bị phá hủy, hàng vạn, vạn tăng lữ bị thủ tiêu. Để đồng hóa dân Tây Tạng, TC đã di dân vào sinh sống ở Tây Tạng. Khoảng 7,5 triệu người Tầu đã được đưa sang lập nghiệp ở Tây Tạng, vượt xa dân số Tây Tạng. Người Tây Tạng trở thành dân thiểu số ngay trên chính quê hương của họ. Ngôn ngữ chính thức ở Tây Tạng bây giờ là tiếng Trung Hoa, ngôn ngữ Tây Tạng chỉ là ngôn ngữ địa phương. Năm 1950, hơn 50 Sư đoàn quân đội Trung Cộng - dưới sự chỉ huy của Lâm Bưu và Bành Đức Hoài - vượt sông Áp Lục, tiến như vũ bão xâm lăng Triều Tiên, đẩy lùi Quân Đội Nam Hàn và Đồng Minh xuống mãi tận cực Nam của bán đảo Triều Tiên. Chiến tranh Cao ly chấm dứt tháng 7 năm 1953. Hậu quả là Triều Tiên bị chia đôi ở vỹ tuyến thứ 38. Năm 1962, Trung Cộng gây chiến với Ấn Độ, tiến sâu vào lãnh thổ nước này 20 km rồi rút ra. Các đại cường Mỹ, Nga Sô đã phải can thiệp để chấm dứt cuộc chiến. Kết quả là Ấn Độ đã phải nhường Trung Cộng 1 giải đất rộng 3 300 km2 ở vùng Aksai Chin, tức là vùng biên giới Hy Mã Lạp Sơn và Trung Quốc. Trung Cộng và Nga Sô có chung chiều dài biên giới khoảng 4 300km. Năm 1969 TC đã xua quân chiếm vùng sông Amur của Nga Sô. Chiến tranh đẫm máu đã xẩy ra giữa 2 nước ‘’xã hội chủ nghĩa anh em’’. Nga Sô đã phải dùng đến hỏa tiễn để tiêu diệt quân Trung Cộng. Năm 1977, TC và Nga Sô ký hiệp định về biên giới. Mặc dù đã ký hiệp định với Liên Sô, nhưng các nhà lãnh đạo TC như Mao Trạch Đông, Đặng Tiểu Bình vẫn khẳng định rằng vùng đất Vladivostok và Khabarovsk vẫn là của Trung Hoa. Trong các trường học, học sinh Tầu vẫn tiếp tục được dậy rằng Liên Sô đã dùng bạo lực chiếm những vùng đất trên của Trung Hoa. Khi Liên Sô xin gia nhập vào cơ quan Mậu dịch Quốc tế (WTO), TC chỉ đặt có một điều kiện duy nhứt để hỗ trợ Liên Sô. Điều kiện đó là cho phép người lao động Trung Quốc được vào làm việc ở Liên Sô mà không cần phải có chiếu khán nhập cảnh. Gần đây, nhà cầm quyền Hà Nội đã quyết định miễn chiếu khán nhập cảnh cho du khách người Tầu khi vào Việt Nam. Đây là quyết định đầy bất trắc cho tương lai dân tộc Việt Nam. Phải chăng nhà cầm quyền Hà Nội cố tình quên đi chiến thuật đồng hóa cố hữu của người Tầu là di dân lập nghiệp càng nhiều càng tốt. Trung Cộng, nhờ những cuộc xâm lăng, chiếm đất, đã trở thành nước có diện tích lớn hàng thứ 3 trên thế giới, sau Nga Sô và Gia Nã Đại. Tuy vậy với dân số hơn 1 tỷ 300 triệu người, đất đai của Trung Hoa lục địa đã trở nên chật hẹp. Các nhà lãnh đạo Trung Cộng đã và đang nói tới sự cần thiết của khoảng không gian sinh sống ngoài lục địa cho người Tầu. Việt Nam và các nước ở biển Đông: nạn nhân của Trung Hoa Tổ tiên của chúng ta- các nhóm Bách Việt- đã phải di cư xuống phía Nam, định cư ở Châu thổ sông Hồng Hà, để tránh bị người Tầu đồng hóa diệt vong. Từ miền Châu thổ của sông Hồng, tổ tiên của ta đã tiến xuống phía Nam để lập ra 1 giải sơn hà gấm vóc hình chữ S, trải dài từ Ải Nam Quan đến mũi Cà Mâu. Trong lịch sử, Việt Nam đã từng bị Tầu cai trị cả ngàn năm, qua nhiều thời kỳ lịch sử. Nhưng Tổ tiên của chúng ta rất anh hùng, đầy khôn ngoan cho nên dân Việt tránh được họa bị đồng hóa. Nay đất đai do tổ tiên để lại bị mất dần về tay người Tầu kể từ ngày Cộng Sản Việt Nam chiếm được một nửa đất nước vào năm 1954. Năm 1956, Chánh phủ Việt Nam Cộng hòa - với những chứng cớ của lịch sử- đã xác nhận chủ quyền không thể chối cãi được của Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 8 năm đó, Quân đội Việt Nam Cộng hòa được gửi ra trấn đóng ở Hoàng Sa, nơi đã có 1 đài khí tượng của Việt Nam được thiết lập từ thời Pháp thuộc. Năm 1957, Quân đội Việt Nam Cộng hòa được gửi ra đóng tại nhiều hòn đảo ở Trường Sa. Tháng 6 năm 1958, Thứ trưởng Ngoại giao của Cộng Sản miền Bắc Ung Văn Khiêm đã nói với người xử lý thường vụ của Tòa Đại sứ Trung Quốc tại Hà nội, Li Zhimin rằng: theo các tài liệu của Việt Nam thì các quần đảo Tây Sa (ta gọi là Hoàng Sa) và Nam Sa ta gọi là Trường Sa) theo lịch sử là thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Nhật báo Nhân Dân, cơ quan chánh thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, số ra ngày 6 tháng 9 năm 1956, đã đăng 1 bài đầy đủ chi tiết bản tuyên bố của Chánh phủ Trung Hoa Cộng Sản phát hành 2 ngày trước đó. Chúng ta nên biết rằng như trong bất kỳ một chế độ Cộng Sản nào, khí cơ quan chánh thức của đảng Cộng Sản Việt Nam đã đăng bài này tức là họ công nhận các ý kiến của Trung Quốc. Hoàng Tùng. Trưởng Ban Tư tưởng Văn hóa Trung uơng Đảng Cộng Sản Việt Nam, nguyên Tổng Biên Tập (Rédacteur en Chef) báo Nhân dân, cũng đã tuyên bố: Thà giao Hoàng Sa, Trường Sa cho Trung quốc, cùng phe Xã Hội Chủ nghĩa anh em còn hơn để tụi Ngụy Sàigòn quản lý. Ngày 4 tháng 9 năm 1958, Trung Cộng ban hành quyết định tự ý nới rộng hải phận Trung quốc là 12 hải lý thay vì 3 hải lý. Theo quyết định này thì lãnh hải của Trung Cộng bao gồm cả Hoàng Sa và Trường Sa. Ngày 14 tháng 9 năm 1958 (10 ngày sau khi Trung Cộng ban hành quyết định) Thủ tướng Việt Nam Cộng Sản, Phạm Văn Đồng, gửi thư cho Thủ tướng Trung Cộng, Châu Ân Lai, tán thành hoàn toàn quyết định của Trung Cộng: …..Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận Trung Quốc.( phụ bản 1) Sách giáo khoa môn Địa lý do nhà nước Cộng Sản Việt Nam in ra năm 1974 có ghi rõ …các hòn đảo từ quần đảo Nam Sa, Tây Sa, qua Hải Nam, Đài Loan, là một bức trường thành bảo vệ Trung Quốc. Cộng với lá thư của Phạm Văn Đồng, các điều này giúp Cộng Sản Trung Quốc cả tiếng xác nhận chính Chánh phủ của Việt Nam Cộng Sản đã xác định chủ quyền của Trung Hoa trên các quần đảo nói trên, ở Biển Đông. Ngày 19 tháng 1 năm 1974, Hải Quân Trung Cộng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa. Dù chênh lệch về hỏa lực và quân số, Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đã chống trả mãnh liệt để bảo vệ mảnh đất quê hương- chống trả trong sự thờ ơ của Hải quân Hoa Kỳ đang hiện diện trong vùng-Nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam đã hoàn toàn im lặng về sự chiếm đóng này. Có lẽ họ sợ há miệng mắc quai. Vì lá thư của Phạm Văn Đồng gửi Châu Ân Lai năm 1958. Hành động bán nước này do Phạm Văn Đồng ký nhưng Hô Chí Minh và đám cận thần trong Bộ Chính Trị như Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu…phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Từ 17 tháng 2 cho đến ngày 16 tháng 3 năm 1979, quân đội của Trung Cộng với hơn 170 000 quân, đã xâm chiếm, tàn phá rất nặng nề các tỉnh phía Bắc, giáp giới với nước Tầu, như Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Kay… Cuộc tiến quân này được Trung Cộng gọi là để dậy cho “đứa em bất nghĩa Việt Nam một bài học”. Chiến cuộc kéo dài đúng 1 tháng và chỉ chấm dứt khi Trung Cộng kéo quân về nước. Phía Trung Cộng có 26 000 binh sĩ thiệt mạng, 37 000 bị thương. Phía Việt Nam Cộng Sản có 30 000 thiệt mạng, 32 000 bị thương. Khi kéo quân vào Việt Nam, Trung Cộng đã cố ý dời các mốc biên giới vào sâu trong nội địa Việt Nam khoảng 20 km. Việt Nam đã để mất về tay Trung Cộng một gỉải đất ráp ranh hai nước, mất nhiều di tích lịch sử như Ải Nam Quan, Thác Bản Giốc… Năm 1985, Hải Quân Trung Cộng đã xả súng bắn, giết ngư dân Việt Nam đang đánh cá ở ngoài khơi Thái Bình Dương, viện cớ là họ vi phạm hải phận của TC. Tháng Giêng năm 1987, đụng độ tại biên giới Việt- Hoa khiến hàng trăm binh sĩ của 2 nước bị thiệt mạng. Ngày 14 tháng 3 năm 1988, Hải Quân Trung Cộng chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa sau khi đánh đuổi, gây thiệt hại nặng nề cho Hải Quân của Việt Nam Cộng sản. Một tháng sau, Trung Cộng tuyên bố sát nhập 2 miền Hoàng Sa và Trường sa vào tỉnh Hải Nam. Năm 1988, Trung Cộng lại tự ý vẽ lại bản đồ, nới rộng lãnh hải, tuyên bố chủ quyền 85% trên biển Đông Hải. Tháng 3 năm 1988, Trung Cộng dùng võ lực chiếm 7 hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa thuộc Việt Nam. Họ ngang nhiên cho lập Đài quan sát (Marine Observatory) và lập căn cứ quân sự trên các đảo còn đang trong vòng tranh chấp chủ quyền. Tháng 2 năm 1992, Trung Cộng, bất chấp Công Pháp quốc tế, ngang nhiên tới khoan tìm dầu hỏa tại Wanan Reef thuộc hải phận của Việt Nam. Họ cũng ngang nhiên tới khoan giếng dầu tại Reed Bank (thuộc Phi Luật Tân), James Shoal (thuộc Mã Lai). Chưa hết, sau khi công khai chiếm lãnh thổ của các nước khác, Trung Cộng còn đe dọa dùng võ lực để cảnh cáo các nhà thầu khoan dầu Tây phương. Từ năm 1988 đến năm 1993, Trung Cộng đã xây xong 1 căn cứ Hải quân lớn, với 1 phi trường có phi đạo dài trên 2500m, đủ sức tiếp nhận các phản lực cơ quân sự. Trong phi trường luôn luôn có sự hiện diện của 10 chiếc phản lực cơ loại F7. Tháng 2 năm 1995, Trung Cộng lại chiếm đảo Mischief, thuộc Phi Luật tân, nằm ở phía Tây đảo Palawan. Họ cho xây nhiều căn cứ quân sự trên đảo bất chấp những phản kháng dữ dội của chính phủ Phi. Sự bất can thiệp của Hải Quân Nga, của Hải Quân Mỹ trong vùng càng khuyến khích Trung Cộng coi thường những phản kháng của Phi Luật Tân, tiếp tục chiếm đóng và xây cất. Năm 1992, Trung Cộng lại tuyên bố, xác định lại vùng lãnh hải Trung Hoa (Chinese Territorial Water Laws). Theo đó, Đài Loan, quần đảo Senkaku, Pescadore, Prasta, Macclesfiel Bank, Hoàng Sa và Trường sa đều thuộc về Trung Hoa. Như vậy, biển Trung Hoa rộng hơn 3 triệu km2, chiếm phần lớn Thái Bình Dương. (phụ bản 2) Mới đây, Trung Cộng tranh chấp với Nhựt trên quần đảo Điếu Ngự Đài (Senkaku). Ngày 21 tháng 8 năm 2007, Trung Cộng công khai tuyên bố họ sẽ khởi sự khai thác các tiềm năng kinh tế tại vùng biển quanh quần đảo Hoàng Sa kể cả ở Vịnh Bắc Việt. Đây là 1 biến cố quan trọng, xâm phạm chủ quyền của Việt Nam. Đồng thời Trung Cộng thông báo sẽ tổ chức các chuyến du lịch bằng tầu lớn để du khách có dịp thưởng ngoạn hết vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa mà họ nhận là thuộc về họ dựa theo Thông cáo của Phạm Văn Đồng gửi Châu Ân Lai vào năm 1958. Gần đây nhứt, tháng 11 năm 2007, Trung Cộng cho Hạm Đội Nam Hải tập trận ở vùng biển Hoàng Sa. Việt Nam chỉ phản đối cho có lệ, phản đối chỉ được đưa ra vào ngày chót khi cuộc thao diễn đã hoàn tất. Đồng thời Bắc Kinh lập ra một huyện mới thuộc tỉnh Hải nam, lấy tên là Tam Sa. Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam được Trung Cộng tuyên bố thuộc huyện này. Nhà cầm quyền Cộng Sản Việt Nam cho một số dân biểu tình trước Tòa Đại Sứ Trung Cộng ở Hà Nội để phản đối. Bộ Ngoại Giao của Trung Cộng đã phản đối, cảnh cáo chính phủ Cộng sản Việt Nam về việc để biểu tình làm phương hại đến mối giao hảo của 2 nước (?), khiến phát ngôn nhân của Cộng Sản Việt Nam phải dịu giọng không dám gọi đó là các cuộc biểu tình mà chỉ dám gọi là các cuộc tập họp. Ôi đâu còn tình nghĩa “trước là đồng chí sau là anh em “ như các đồng chí ở Bắc Bộ Phủ, Hà Nội thường ca tụng. Tại các nước ở vùng Đông Nam Á- Việt Nam, Lào, Cao Mên, Thái Lan và Miến Điện- sông Cửu Long là huyết mạch, là bầu sữa cho triệu, triệu dân chúng. Với 14 cái đập xây dựng tại thượng nguồn của sông, nằm sâu trong nước Tầu, TC có thể thay đổi mực nước, lưu lượng của sông, ảnh hưởng đến đời sống của dân các nước trên. Sự sống (ecology) sẽ thay đổi trên vùng đất để biến vùng này thành đất chết nếu sông Cửu Long cạn dòng, hết nước (xin đọc tác phẩm nghiên cứu của nhà văn Ngô Thế Vinh: Cửu Long cạn dòng, biển Đông dậy sóng ). Ủy Ban Sông Cửu Long đã họp nhiều lần nhưng không bao giờ có mặt Trung Cộng dù nước này là 1 hội viên. Nguồn gốc của thái độ và những hành động xâm lấn của Trung Cộng Sở dĩ Trung Hoa Cộng Sản xâm lấn các nước láng giềng, bất chấp dư luận quốc tế vì lý do họ đã trở thành 1 cường quốc về kinh tế và về quân sự. * Trung Cộng là một cường quốc về quân sự Quân đội nhân dân Trung Cộng được thành lập từ năm 1927 tại Nam Xương do sự kết hợp từ những cánh quân du kích của Chu Đức, Bành Đức Hoài, Lâm Bưu và Mao Trạch Đông. Sau khi Mao chiếm được toàn thể Hoa Lục, các nhóm quân này thống nhứt, thành quân đội của cả nước Trung Hoa Cộng Sản. Quân đội Trung Cộng là đạo quân đông nhứt thế giới gồm quân chánh qui (hơn 4 triệu người), dân quân (7 triệu người). Cả nước có 7 Quân khu với nhiều quân đoàn trong đó quân đoàn 27 thuộc quân khu Bắc kinh. Quân đoàn này đã trách nhiệm đàn áp sinh viên ở Thiên An Môn ngày 4 tháng 6 năm 1989. Ngoài quân khu Bắc Kinh, những quân khu khác là: Thẩm Dương, Thành Đô, Quảng Châu, Tế Nam, Lan Châu và Nan Kinh. . Về không quân, TC có 22 Sư Đoàn chiến đấu và 12 Sư Đoàn oanh tạc. Nhiều Sư Đoàn được phối hợp thành Quân Đoàn KQ như QĐ/KQ Thượng Hải, QĐ/KQ Hàng Châu. Sau cuộc chiến biên giới Việt Hoa năm 1979, nhận thấy Không Quân của họ còn non kém, TC đã nhờ Tây Phương trợ giúp kỹ thuật để chế tạo các phi cơ chiến đấu F8, Tây An A có gắn hỏa tiễn không- không để thay thế các loại phi cơ kiểu Liên Sô như Mig17, Mig15, Mig19 đã lỗi thời. . Hải Quân TC hiện đứng thứ 3 trên thế giới với 1900 tầu chiến các loại gồm 70 tầu ngầm, 63 khu trục hạm, 100 tầu đổ bộ, 540 phi cơ và 2 lữ đoàn Thủy quân lục chiến. Hải Quân TC gồm đủ loại tầu chiến, kể cả các tầu ngầm mua lại của Liên Sô, các khu trục hạm, hộ tống hạm chống võ khí nguyên tử.. Kể từ năm 1980, Hải Quân TC được phát triển để có khả năng vừa phòng ngự trong nước vừa có thể chiến đấu độc lập tại các khu vực xa lục địa. Theo các tài liệu được phổ biến, các chiến hạm TC bây giờ hầu hết đều có trang bị trực thăng và hệ thống viễn thông với kỹ thuật cao. TC có 3 Hạm đội: Bắc Hải, Nam Hải và Đông Hải. Hạm đội Nam Hải phụ trách biển Đông, từ eo biển Đài Loan cho đến biên giới lãnh hải của Việt Nam. Các căn cứ của Hạm đội này gồm: Trường Giang là căn cứ chính với các đơn vị tác chiến, các đơn vị Thủy quân lục chiến. Quảng Đông: căn cứ của các khu trục hạm Vũ Linh ở đảo Hải Nam: căn cứ của các tầu ngầm. Tóm lại TC đang xây dựng 1 lực lượng Hải Quân lớn mạnh để chiếm hết biển Đông và đuổi Hải quân Mỹ về bên kia bờ của Thái Bình Dương như lời tuyên bố không úp mở của Bộ Trưởng Hải quân TC Liu Huaquing. Nhưng biển Đông là hải lộ huyết mạch của Hoa Kỳ, Nhật, Nam Hàn và Đài Loan nhứt là đối với Nhật Bản. Mỗi năm có hơn 1 tỷ tấn hàng trong đó có dầu lửa Trung Đông từ eo biển Malacca qua biển Đông để vào Nhật. Việc Nhật, với sự đồng thuận của Hoa Kỳ, đã tái lập Hải quân, gọi tắt là Lực Lượng Tự Vệ Biển phải chăng có mục đích đối đầu với Hải Quân Trung Cộng ở biển Đông. Lực lượng này có trách nhiệm coi chừng Trung Cộng và Bắc Hàn trong vùng Biển Bắc Á tới ranh giới Bắc eo biển Đài Loan. Trung Cộng còn thua xa Mỹ về vũ khí hạch tâm (200 so với Hoa Kỳ có 10 000) và hỏa tiễn liên lục địa (200 so với Hoa Ký có 830). Đến cuối năm 2006, Trung Cộng đã chế tạo được 60 hỏa tiễn xuyên lục địa Deng Feng 32, có thể bắn tới Âu Châu và lục địa Mỹ không kể các loại hỏa tiễn tầm xa LRBM ( Long Range Balistic Missiles ). Trung Cộng cũng có các vũ khí có đầu đạn nguyên tử có thể bắn xa 1000 dặm gọi là MARV (Maneuvrable Re-Entry Vehicle ). Trong lãnh vực khoa học không gian, tháng 1 năm 2007, Trung Quốc đã thành công trong việc phóng hỏa tiễn chống vệ tinh, đe dọa trực tiếp các vệ tinh gián điệp của Hoa Kỳ. Hỏa tiễn Trung Cộng SC-19 đã bắn trúng 1 vệ tinh của Mỹ ở cao độ 760 km. Điều này làm Hoa Kỳ lo ngại; với hỏa tiễn có tầm như thế Nhật Bổn và Đài Loan bị trực tiếp đe dọa, không còn là tiền đồn của Mỹ nữa. Nhiều năm trước đó, ngày 24 tháng 1 năm 1970, TC đã phóng 1 vệ tinh được đặt tên là Đông Phương Hồng lên quĩ đạo, tại sa mạc Gobi, thuộc tỉnh Cam Túc ở miền Tây Bắc Trung Hoa. Từ đó đến nay, TC đã phóng vào quĩ đạo trái đất hơn 50 vệ tinh từ các căn cứ Tây Xương (thuộc tỉnh Tứ Xuyên), Thái Nguyên (thuộc tỉnh Sơn Tây), Tửu Tuyền (thuộc tỉnh Cam Túc) và đảo Hải Nam. Người chịu trách nhiệm chương trình không gian, hỏa tiễn của Trung Cộng là 1 người Mỹ gốc Trung Hoa, có tên là Qian Xuesen. Tiến sĩ Qian nguyên là 1 Đại tá Không Quân Hoa ký, một bác học Mỹ gốc Trung Hoa lừng danh quốc tế từ thập niên 1940-1950. Qian được Mao giao cho trọng trách điều khiển chương trình không gian và hỏa tiễn của Trung Cộng. TC đã dành phần lớn ngân sách Quốc gia để canh tân quân đội Năm 2006, ngân sách Bộ quốc phòng lên tới hơn 30 tỷ dollars (USA). Từ năm 1996, Ngân Sách Quốc phòng của Trung Quốc tăng mỗi năm độ 15%, chủ yếu để phát triển các vũ khí chiến lược. Đầu tháng 8 năm 2007, tại Quốc Hội, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, trong khi trình bầy Ngân Sách quốc Phòng, đã tuyên bố: ‘’..chúng ta sẽ tăng Ngân sách quốc phòng liên tục trên tăng trưởng Kinh tế của quốc gia để canh tân quân lực hầu thỏa mãn nhu cầu bảo vệ quốc gia và phục vụ quyền lợi của đất nước…Thế giới hiện nay có những đổi thay, Trung quốc phải đề cao cảnh giác để đối phó với những hiểm nguy..’’ Theo CIA, con số chánh thức về chi phí quân sự của TC lên đến từ 60 đến 70 tỷ dollars USA. Chủ tịch của Quân ủy Trung Ương hiện nay là Tổng Bí Thư Hố Cẩm Đào với 3 Phó Chủ tịch là Quách Bá Hùng, Tào Cường Xuyên và Từ Tài Hậu.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 15, 2010 7:00:14 GMT 9
TRUNG HOA CỘNG SẢN
HIỂM HỌA (T T) * Trung Cộng : 1 cường quốc kinh tế Đặng Tiểu Bình là người có công trong việc biến Trung Quốc- từ 1 quốc gia lạc hậu, chậm tiến và bị cô lập - thành 1 quốc gia kỹ nghệ. Trung Cộng, hiện nay, là nước kỹ nghệ đứng vào hàng thứ 4, chỉ sau Hoa kỳ, Đức và Nhật. TC cũng là nước thứ 2 về dự trữ ngoại tệ, chỉ sau có Hoa Kỳ. Dự trữ ngoại tệ của TC lên đến 1000 tỷ Mỹ kim. Lợi tức quốc gia PIB ( Produit Intérieur Brut ) nhảy từ 47 tỷ Mỷ Kim năm 1978 lên đến 8800 tỷ năm 2005. (Hình bên: Đặng Tiểu Bình & Jimmy Carter) Trong công cuộc xây dựng hạ tầng, TC đã thực hiện rất nhiều công trình rất đáng kể. Xin đơn kể vài thí dụ: - chỉ trong năm 2004, Thành phố Thượng Hải đã xây một số nhà chọc trời bằng cả số nhà chọc trời của thành phố Nữu Ước gộp lại. - chỉ trong 2 năm 2003-2004, TC đã thiết lập 192,000 km xa lộ - năm 2005, TC có thêm 13 000 km đường hỏa xa, đặc biệt đường nối liền Tần Hải với Lhassa (thủ đô Tây Tạng). - một công trình vĩ đại sắp được hoàn thành vào năm 2009 là Đập thủy điện Tam Hiệp (Trois-Gorges); sau khi hoàn thành, đập này sẽ là đập thủy điện lớn nhứt thế giới. Đúng trên mặt trăng có thể nhìn thấy đập này như Vạn Lý Trường thành cũng được nhìn thấy từ mặt trăng. CUỘC XÂM LĂNG CỦA TRUNG CỘNG Quả thực từ trên dưới 10 năm nay, thế giới tự do mà đứng đầu là Hoa Kỳ đang phải đối đầu với tham vọng bá quyền của Trung Cộng trong cuộc chiến mới, một cuộc chiến rất phức tạp. Vài sự kiện đáng chú ý 1 - Ngày 7 tháng 9 năm 1999, một phi cơ B-52 của Mỹ đã ném 5 trái bom xuống Tòa Đại sứ của TC ở Belgrade. Tuy Mỹ viện dẫn lý do trở ngại kỹ thuật (dù rằng phi cơ được hướng dẫn bằng GPS cực kỳ chính xác) nhưng theo các nhà quan sát chính trị, Mỹ muốn cảnh cáo TC vì TC đã phản đối sự can thiệp của OTAN vào Kosovo, Hơn nữa Mỹ nghi ngờ TC đã chuyển giao các tin tức tình báo cho phe Serbe mà lãnh tụ là Slobodan Milosevic. Bộ Trưởng Quốc phòng của TC Trì Hạo Điền tuyên bố là chiến tranh với Mỹ sẽ không thể nào tránh được vì Mỹ dùng sức mạnh để áp đặt quan điểm của Mỹ trên toàn thế giới. 2 - Tháng 7 năm 2000, tại Hội nghí ASEAN ở Singapore, Ngoại trưởng Hoa Kỳ là Bà Madeleine Albright đã tuyên bố: Hoa Kỳ sẽ không ngồi yên để TC lộng hành trong vùng. 3- Ngày 1 tháng 4 năm 2001, 1 máy bay gián điệp E-3 của Mỹ rơi xuống đảo Hải Nam sau khi bắn cháy 1 phi cơ F-8 của TC bay lên chận bắt. TC cho rằng E-3 đã xâm phạm không phận của TC trong khi Mỹ thì quả quyết E-3 bay trong hải phận quốc tế cách hải phận của TC 32 hải lý. 3 - Từ năm 2004, Hồ Cẩm Đào đã công du thế giới nhiều lần, trái với Chủ tịch Mao Trạch Đông gần như không khi nào ra khỏi nước Tầu trừ 1 lần sang Nga. Nơi nào TC cũng vung tiền để mua chuộc qua chiến thuật viện trợ nhân đạo, huấn luyện chuyên gia, cấp học bổng cho các sinh viên…nhờ thế TC đã chiếm được hơn 28% lượng dầu khí tại lục địa Phi Châu. TC đã tung hàng tỉ dollars để đầu tư vào Á Căn Đình, Ba Tây, Chili, Perou, Venezuella. Năm 2005, 5 nước này đã trải thảm đỏ đón tiếp Chủ tịch TC Hồ Cẩm Đào, ông này tuyên bố sẽ đầu tư vào khu vực nầy 100 tỉ Mỹ Kim cho 10 năm sắp tới. Thủ tướng Trung Cộng là Ôn Gia Bảo đã du hành trên 15 nước vào năm 2006. Từ 1995 tới năm 2003, TC đã ký 18 hiệp định với nhiều nước Phi Châu để vơ vét tài nguyên của những nước này. Ngoài ra TC còn bầy trò xóa nợ 1,2 tỷ dollars USA cho Angola nên được nước này cung cấp một số lương dầu khí lớn lao (300.000 thùng / 1 ngày). Tháng 11 năm 2006, TC đã trải thảm đỏ để đón tiếp 40 lãnh tụ các quốc gia Phi Châu, xác nhận chánh sách hữu nghị hợp tác với các quốc gia (53 nước) Phi Châu với dân số hơn 800 triệu. Với chánh sách cho vay không lấy lời, chỉ trong năm 2006, TC đã đầu tư hay tài trợ 10 tỉ Mỹ Kim cho các nước Nigeria, Angola, Mozambique, Ghana. 4 - Tháng 1 năm 2005, 1 phái đoàn Quốc Hội Hoa Kỳ, gồm cả các nhân vật Dân chủ lẫn Cộng hòa sau khi từ Trung Quốc về, đã cảnh báo hiểm họa nước Tầu. Đài Loan hiện nay là khu vực nguy hiểm nhứt trên thế giới. Chiến tranh có thể xẩy ra bất kỳ lúc nào. Khi đề cập đến sự can thiệp của Mỹ vào 1 cuộc chiến do TC phát động để chiếm cứ Đài Loan, Đại tướng TC Hùng Quang Giai ( Xiong Guang Kai )- xếp sòng tình báo của TC- đã tuyên bố không dấu diếm là TC sẽ bỏ bom nguyên tử hủy diệt thành phố Los Angeles nếu Hoa Kỳ can thiệp để bảo vệ Đài Loan. Mặt khác, Hoa Kỳ càng ngày càng cảm nhận là TC có 1 thời khóa biểu trong việc chiếm lãnh Đài Loan trong khoảng 10 năm tới. 6- Tháng 9 năm 2007, các nôi cho trẻ con mang nhãn hiệu Simplicity và Graco sản xuất tại TC được thu hồi vì gây ra cái chết cho 2 trẻ sơ sinh tại Hoa Kỳ. Ngoài ra các độc tố cũng được tìm thấy trên hầu hết các món hàng do TC sản xuất như Hải Sâm nhân tạo (lươn cua, ốc, sò ….) đều có chứa ít nhiều hóa chất gây ung thư. Các sản phẩm như thuốc đánh răng, đồ ăn cho chó mèo, đồ chơi cho trẻ em, vật dụng nhà bếp, áo quần, mỹ phẩm …đều có chứa nhiều chất độc có hại cho sức khỏe hoặc làm chết người hoặc gây ra bệnh Ung thư như chất chì, Malachite Green và Nitrofurans. Formaldehyde (chất được dùng trong việc ướp xác người) được dùng để giữ các thực phẩm được lâu dài. Chúng ta được thấy ở Việt Nam, Formaldehyde đã được dùng để ướp bánh phở. Chỉ riêng tại Mỹ, Tầu bị thiệt hại hơn 2,26 tỷ dollars USA vì các hàng hóa bị trả lại. Tại Tân Tây Lan, quần áo do Tầu sản xuất bị điều tra vì bị nghi là có chứa nhiều chất Formol. Ngày 19 tháng 8 năm 2007, Cơ quan giám sát thuốc và thực phẩm của Nam Dương- tương đương với cơ quan Foods and Drugs Administration (FDA) của Hoa Kỳ- đã công bố danh sách 49 loại kẹo bánh do Tầu sản xuất có chứa chất Formol. Đồng lúc Nam Dương cấm nhập cảng 26 loại mỹ phẩm do Tầu sản xuất. Thái Lan ra lệnh cấm nhập cảng hàng hóa từ TC tới vì các loại hàng này có chứa chất độc.Các nước Bắc Âu và Ý cũng ra lệnh lập hàng rào kiểm soát chặt chẽ các hàng hóa nhập cảng từ TC. Ngày 16 tháng 8 năm 2007, Chánh phủ Anh ra lệnh tịch thu 115.000 chai nước uống dành cho trẻ em vì thiếu độ an toàn. Tại Nicaragua, 1 nước ở Trung Mỹ, cả trăm người đã thiệt mạng vì dùng kem đánh răng nhập cảng từ Tầu. Lý do là các kem đánh răng hiệu Excel, Mr Cool do Tầu sản xuất có quá nhiều chất độc diethylene glycol. Để làm dịu những phản ứng bất lợi từ mọi phía, TC đã cho xử tử Zeng Xiaoyu để làm con dê tế thần. Zeng Xiaoyu là người cầm đầu cơ quan quản trị thuốc men và thực phẩm cho cả nước Tầu, một loại FDA của Tầu. Thông Tấn Xã của Việt Nam Cộng sản vừa đăng lại 1 bản tin quốc tế liên quan đến các hàng hóa có chất độc của TC đã bị TC cảnh cáo nên Việt Nam đành im tiếng, không dám đụng đến đàn Anh Tầu. Thực ra các sự kiện vừa nêu trên chỉ là 1 phần nhỏ các âm mưu phá hoại của TC- a tip of the iceberg - như phần nổi trên mặt nước của tảng băng khổng lồ trôi trên đại dương. Cuộc thư hùng giữa TC và thế giới tự do- đứng đầu là Hoa Kỳ - rất phức tạp và rất to lớn quan trọng hơn là ta tưởng. Hoa kỳ đang phải đối đầu với 1 kẻ thù trên nhiều mặt trận, nhiều lãnh vực. Trung Cộng đang xâm lần chiếm đất, biển Như đã nói ở đoạn trên, Trung Cộng đang chiếm đất, biển của Việt Nam, của các nước ở biển Đông. Với những qui đinh mới về lãnh hải do họ tự đặt ra, bất chấp công pháp quốc tế, TC đang kiểm soát con đường từ Thái Bình Dương qua các nước ở Đông Nam Á để vào Ấn Độ Dương. Dân số của Tầu quá đông (1 tỷ 300 triệu người), đất đai Trung Hoa sẽ trở nên chật hẹp. Dù cho có hạn chế sanh đẻ gắt gao, dân số của Trung Hoa vẫn tăng trưởng rất nhanh. Thập niên 50, dân số của Tầu là 800 triệu, nay con số này lên gần gấp đôi. Cách đây 3 năm, Đại tướng Trung Cộng Trì Hạo Điền (lúc đó đang làm Bộ Trưởng Quốc phòng kiêm Phó Chủ tịch Quân Ủy Trung Ương), đã đọc 1 bài diễn văn có tựa đề là Chiến tranh không xa chúng ta, Bài này đã được đăng trên các mạng điện tử www.peacehall.com và www.boxun.com ngày 24 tháng 3 năm 2005. Bài này đáng được đọc vì người ta tin rằng nó trình bầy chiến lược của Đảng Cộng Sản Trung Quốc trong việc phát triển nước Tầu. Bài viết nhấn mạnh đến quan niệm mà họ gọi là không gian sinh sống của 1 tỉ 300 triệu dân Tầu đang và sẽ đi vào chỗ nghẹt vì thiếu đất đai. Bài này biện minh những lý lẽ cần thiết cho Tầu dùng cuộc chiến tranh sinh học để tiêu diệt dân Hoa Kỳ và chuẩn bị cho Tầu chiếm nhiều thuộc địa lớn trong tương lai. Chuyện Tầu tuyên bố chủ quyền từ Tam Sa (đảo Hải Nam) trên quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam, có tính cách hoàn toàn thời sự. Đối với tham vọng to lớn của Tầu, đó chỉ là một hạt cát trong Đại dương, tham vọng của Tầu vĩ đại hơn, không dừng ở Trường Sa, Hoàng Sa. Bài diễn văn cũng nói tới ‘’...chúng ta phải dẫn dắt người Tầu chúng ta khỏi nước Tầu để họ có thể phát triển bên ngoài nước Tầu....việc phát triển của chúng ta nói tới sự phục hưng mạnh mẽ của nước Tầu, mà dĩ nhiên không giới hạn trong vùng đất của chúng ta đang có nhưng còn bao gồm toàn thể thế giới nữa.’’ (Hình trên: Trì Hạo Điền)TC đang khống chế biển Đông. Tháng 6 năm 2006, Việt Nam ký giao kèo cho phép Công ty Ấn Độ ONGC (Oil and Natural Gaz Corporation ) khai thác dầu, khí đốt ở ngoài khơi Việt Nam.Tháng 11 cùng năm, TC đã cảnh cáo không cho Công ty Ấn Độ khai thác, viện cớ đó là thuộc hải phận của TC. Công ty này phải chấm dứt hoạt động sau khi đã tiêu hơn 100 triệu dollars USA. Gián điệp Trung Cộng tràn ngập Mọi người ai cũng biết gián điệp Trung Cộng hiện diện đông như kiến tại các nước Hoa Ký, Anh Pháp, Đức, Úc..Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, các gián điệp Trung Cộng trọng tâm vào các lãnh vực kỹ thuật, kỹ nghệ, kỹ nghệ điện tử, khoa học không gian...hơn là các lãnh vực quân sự, quốc phòng. Người Tầu hiện có mặt rất đông tại khắp mọi nơi trên thế giới. Hang cùng ngõ hẻm của bất cứ một nước nào cũng có mặt họ. Đạo quân thứ 5 đó đích thực là môi trường ẩn náu để hoạt động cho các gián điệp của Trung Cộng. Mới đây, Chen Yonglin, 37 tuổi, tham vụ chánh trị tại Tòa Lãnh Sự của Trung Cộng ở Sydney đã cùng vợ con bỏ trốn và xin tị nạn chánh tại Úc. Chen đã lên tiếng tố cáo Trung Cộng đã có trên 1000 diệp viên đang hoạt động tại Úc. Ngày 8 tháng 3 năm 1999, cả nước Mỹ rúng động vì một điệp viên của Trung Cộng có tên là Wen Lee Ho, đang làm việc tại Trung Tâm Nguyên tử Quốc gia tại Los Alamos, California. Trung tâm này được thành lập một cách rất bí mật vào năm 1943. Hai quả bom nguyên tử, được thả xuống Quảng Đảo, Trường Kỳ, chấm dứt thế chiến thứ 2 đã được chế tạo tại đây. Hoa Kỳ đã chánh thức lên tiếng cáo buộc TC đã cài điệp viên Wen Lee Ho vào làm việc tại căn cứ nguyên tử Los Alamo. Ho đã đánh cắp nhiều tài liệu tối mật của Mỹ, gửi cho Tầu. Ngoài vụ Ho ở căn cứ Los Alamo, tại các căn cứ nguyên tử khác của Mỹ ở Sandia (New Mexico), Lawrence và Livermore ở California các bí mật nguyên tử cũng bị tiết lộ ra ngoài. Mỗi năm có hàng ngàn sinh viên, kỹ thuật gia Tầu đến Mỹ để học tập Trong số đó chắc chắn có nhiều gián điệp. Họ đến Mỹ với mục đích ăn cắp kỹ thuật. Sự ăn cắp, bắt chước rất đa dạng và tinh vi đến nỗi cơ quan FBI đã khuyến cáo chánh phủ Mỹ về sự hiện diện của các điệp viên TC, đủ mọi cấp, đủ mọi ngành, trong nhóm người này. Quỹ ứng cử của Tổng Thống Bill Clinton năm 1996 có lẽ đã có một phần đóng góp của Trung quốc. Tin tặc từ Trung Quốc Điện toán đã thành 1 phần của đời sống hàng ngày của chúng ta trên khắp mọi lãnh vực. Trên lãnh vực quân sự, điện toán được dùng trên mọi khía cạnh: từ điều quân, oanh tạc cho đến ngay cả việc điều quân trên bộ. Điện toán đã xuống đến các đơn vị cấp nhỏ. Trong chiến tranh hiện đại, làm tê liệt hệ thống điện toán của đối phương là điều kiện tiên quyết để đi đến chiến thắng. Đối phương sẽ bị tê liệt vì hệ thống điện toán bị hủy diệt ngay từ đầu của chiến cuộc, mất hết khả năng quân sự, tài chính, kinh tế, hệ thống thông tin. Nếu chiến tranh xẩy ra giữa TC và Mỹ, chắc chắn TC sẽ tìm cách phá hoại hệ thống điện tử của Mỹ để làm nước này tê liệt. Hệ thống điện toán của các cường quốc trong thế giới tự do đã bị TC thăm dò, tấn công (espionnage et attaques életroniques). Tháng 6 năm 2007, Hacker Quân đội Nhân dân Trung quốc đã xâm nhập hệ thống điện toán của Ngũ Giác Đài Hoa Kỳ, đánh cắp một số tài liệu và làm cho hệ thống điện toán của một cố vấn cao cấp của Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Gates phải tạm đóng lại như 1 biện pháp đề phòng. Được biết, xâm nhập với ý đồ phá hoại hệ thống điện toán từ Trung Cộng được ghi nhận từ năm 2005. Ngày 5 tháng 8, tờ báo Guardian cho hay, tin tặc TC đã tấn công hệ thống điện toán của Chánh phủ Anh. Tháng 8 năm 2007, hệ thống điện toán của Thủ tướng Đức cùng hệ thống điện toán của các bộ Ngoại giao, Kinh Tế bị nhiễm virus và bị ăn cắp dữ kiện. Cơ quan tình báo thuộc Bộ Nội Vụ Đức quốc tin rằng tin tặc xuất phát từ Quân Đội Nhân dân Trung Quốc. Ngày 10 tháng 9 năm 2007, Tổng Thư Ký Bộ Quốc Phòng của Pháp đã Lên tiếng tố cáo hệ thống điện toán của Pháp bị một nhóm tin tặc có liên quan đến Trung Quốc xâm nhập. Cũng trong tháng 9, báo The Age ở Úc cho hay hệ thống điện toán của Tân Tây Lan cũng bị xâm nhập. Cuộc chiến trên lãnh vực kinh tế Xin mời bạn đọc đi thăm một vòng các cửa hàng bách hóa ở Bắc Mỹ, bạn sẽ thấy hàng hóa made in China tràn ngập khắp nơi, bán với giá rẻ mạt so với các hàng hóa sản xuất tại các nước tư bản. Xin đơn cử 1 thí dụ điển hình: xe hơi sản xuất tại TC được bán ra ngoài với giá khoảng 10 000 dollars trong khi 1 xe cùng kích thước sản xuất tại Nhật Bản hay tại USA …được bán với giá trên 20 000 dollars. Xuất cảng của TC vượt xa nhập cảng, đem lại một số thặng dư ngoại tệ khổng lồ mỗi năm cho TC. Chắc chắn điều đó là nhờ lực lượng công nhân lao động xã hội chủ nghĩa khổng lồ mà không một nước nào có thể so sánh được. Không có một nước nào trên thế giới có thể sản xuất được một khối lượng hàng hóa khổng lố trong một thời gian ngắn với một giá rẻ kỷ lục như TC. Như đã nói ở đoạn trên, TC đã bỏ tiền mua nhiều đại công ty trên thế giới. Công ty chế tạo xe hơi của Tầu Dongfeng Motor đã ký thỏa hiệp với 5 công ty khác nhau để sản xuất xe hơi ngay trên đất Tầu: với nhóm PSA của Pháp để sản xuất xe Citroen, xe Peugeot 307, với Renault của Pháp, với Honda, với Nissan của Nhựt, với Hyundai của Nam Hàn để làm xe KIA,Guangzhou Automotive hợp tác sản xuất với Honda va Toyota. Việc dọn các công ty sang Trung Hoa, hay chỉ một phần của công ty, đã làm nhiều người bị mất việc, tạo ra nhiều xáo trộn về kinh tế và xã hội tại nhiều quốc gia. Tại Mexique, trong 5 năm gần đây, đã có 230 000 nhân công bị thất nghiệp. Trong lãnh vực quần áo, hàng vải, hàng hóa TC đã khiến 50% kỹ nghệ này ở Hoa Kỳ, Canada, và Tây Âu bị phá sản. Kỹ nghệ đóng giầy ở Nam dương bị phá sản. Ở Âu châu, 50 000 thợ đóng giầy mất việc. Kỹ nghệ làm giầy ở Canada thì chỉ còn sản xuất bottes cho thợ thuyền và quân đội. Trong năm 2005, TC đã cung cấp cho thị trường thế giới: 90% DVD, 85% đồ chơi, 85% máy cày, 85% đồng hồ, 70% máy in, 55% máy điện toán cầm tay, 50% quạt máy, 40% lò micro-ondes. 36% Tv, 30% máy lạnh, 25% máy giặt, máy sấy, 20% tủ lạnh. Trung Hoa Cộng Sản, dưới sự cai trị của Mao Trạch Đông, là một nước cô lập với các nước bên ngoài. Các cuộc cải cách vĩ đại gần như không tưởng và rất tàn bạo như Bước tiến nhẩy vọt, Cải cách ruộng đất, Phong trào tam phản….đã đưa Trung Hoa vào hàng ngũ các nước nghèo nhứt thế giới. Đặng Tiểu Bình đã thay đổi nền kinh tế của Hoa Lục, để rồi chỉ trong hơn hai thập niên, Trung Hoa trở thành 1 cường quốc kinh tế. Trung Quốc không còn là 1 nước đóng cửa nữa, Trung Quốc đã du nhập kỹ thuật Tây phương, đã mở cửa cho Tư bản ngoại quốc vào đầu tư. Thí dụ điển hình nhứt là Công ty bách hóa Wal-Mart của USA. Công ty này đã cộng thác chặt chẽ với Trung Quốc. 80% các hàng hóa của Walt-Mart được sản xuất ở Trung Quốc. Walt-Mart và các người bạn mới Trung Quốc đã xóa tên nhiều đại công ty lâu đời trên thế giới như K-Mart, Woolco, FAO Schwartz… Một số lớn các đại công ty kỹ nghệ đã dời sang Trung Cộng để lợi dụng tình trạng nhân công rẻ như bèo ở xứ này.Thí dụ, hãng đóng tầu bay, xe lửa …..của Gia Nã Đại Bombardier đã dọn một phần của công ty sang Trung Hoa. Trong lãnh vực phát triển kỹ nghệ, từ nhiều năm nay, TC đã dùng số ngoại tệ sở hữu khổng lồ để thiết lập các nhà máy kỹ nghệ, không những ở trong nội địa Trung Hoa mà còn cả ở các nước ngoại quốc nữa. Thí dụ: - Công ty Trung quốc Lenovo Computer đã mua toàn thể bộ phận sản xuất máy vi tính của IBM. - Các công ty của Đức, anh, Mỹ, Pháp ….đều được các Công Ty TC mua lại. - v.v… Tính đến cuối năm 2005, Trung Quốc đã thiết lập được 1500 công ty tại 180 nước trên thế giới. Trong thị trường thế giới, hàng hóa sản xuất từ TC đã đầy tràn khắp mọi nơi. TC chiếm nhiều ưu thế: Ưu thế trong các hàng hóa gia dụng nhưng yếu kém về kỹ nghệ nặng, Ưu thế nhờ nhân công rẻ mạt và đầu tư ngoại quốc. Với một dân số 1tỷ 300 triệu dân, TC có một đội ngũ nhân công rẻ mạt nhưng cũng rất chuyên cần và khéo tay. Hiện nay, theo Thống Kê, Trung Quốc có 500 000 công ty có vốn đầu tư của ngoại quốc. Năm 1990, số ngoại quốc đầu tư là 50 tỷ Nhân dân tệ, đến năm 2002 con số này lên đến 3377 tỷ Nhân dân tệ (1 dollar =8 Nhân dân tệ vào lúc đó). Bên cạnh 500 000 xí nghiệp có vốn của Ngoại quốc, Trung Hoa còn có 300 000 xí nghiệp trong đó có 12 000 đại xí nghiệp quốc doanh với hơn nửa tỷ công nhân cần mẫn. Nhiều nhà quan sát quốc tế, và mới đây ngày 11-5-2006, tuần báo Christian Science Monotor, đã cảnh cáo Hoa Kỳ về hiểm họa Trung Cộng. Quả vậy Uncle Sam đâu có ngồi yên nhìn TC tung hoành. Có lẽ người Mỹ đã bắt đầu thức tỉnh nên TC đã không mua được hãng Maytag của Mỹ. TC đã không mua được hãng dầu Unocal của Mỹ khi Quốc Hội Hoa Kỳ can thiệp can thiệp để ngăn chặn công Ty dầu khí của TC CNOOC (Chinese National Offshore Oil Corporation) không mua được công ty Unocal dù TC đã trả với giá 18,5 tỷ Mỹ Kim. Cuộc chiến tiền tệ giữa TC và thề giới tự do trong đó có USA Đồng Nhân dân tệ được Mao Trạch Đông chánh thức thiết lập năm 1948, sau khi đã chiếm được toàn thể nước Tầu. Lúc đó hối xuất của Nhân dân tệ là 1 MK= 400 Nhân dân tệ. Từ năm 1952 đến năm 1973, hối xuất là 1MK=2,42 Nhân dân tệ. Nhưng vì TC không có ngoại thương với các nước Tây Phương nên hối xuất này không có mảy may ảnh hưởng gì. Thập niên 80, 90, tình trạng kinh tế của TC có tiến triển, hối xuất được thay đổi, 1 dollar = 5,9 nhân dân tệ (NDT). Từ sau 1994, đồng NDT, theo đúng lệnh của Đảng CS Trung Quốc qui định, được thả nổi lên xuống trong khoảng 8,2 – 8,3 NDT = 1 dollar. Dựa vào sự chao đảo của đồng dollar USA theo hối xuất quốc tế, hàng hóa xuất cảng của TC có giá thấp nên chiếm được thị trường. Trong công cuộc buôn bán với Mỹ, TC tìm cách kềm hãm đồng NDT ở 1 hối xuất thấp để giữ giá hàng rẻ. Quốc tế, đứng đầu là Mỹ, gây áp lực bắt TC phải nâng giá đồng NDT để tạo sự ổn định của nền kinh tế thế giới. Ta có thể suy diễn để hiểu một cách dễ dàng là khi đồng NDT tăng gíá so với US dollar, hàng hóa của TC cũng tăng giá theo đồng tiền, ưu thế của hàng hóa của TC là giá rẻ sẽ bị hóa giải, kéo theo sự giảm dần ưu thế kinh tế của nước này. Từ năm 2003, ngoài Mỹ, các nước ở Âu Châu, Nhật, các nước ở Nam Mỹ cũng như Quĩ Tiền Tệ Quốc tế (IMF) đều áp lực, bắt TC tăng gíá đồng NDT. Cuộc chiến kéo dài tới tháng 9 năm 2003 thì hầu hết giới chủ ngân hàng trên thế giới nhập cuộc, bắt TC phải tăng hối xuất của đồng NDT từ 20 đến 40%. Nếu không đồng NDT sẽ không được chấp nhận như 1 Bản vị khi luân lưu thương mại. Ngày 21 tháng 7 năm 2005, TC quyết định hủy bỏ hối xuất cố định của đồng NDT, thả nổi đồng NDT, chấp nhận các thiệt hại do việc phá giá này. Xin nhắc lại phá giá đồng NDT từ 8,277= 1 dollar xuống 8,11 NDT = 1 dollar ( tăng 2,1% ) khiến nhà nước TC thiệt hại 10 tỷ dollar. Năm 2006, dưới áp lực của Mỹ, TC lại phải điều chỉnh hối xuất, 1 Mỹ Kim= 8,06 NDT. Hậu quả là mội sự tăng giá đồng NDTsẽ làm tăng vật giá nhập khẩu, gia tăng lạm phát. TC sau khi phá giá đồng NDT, đã cảnh cáo Mỹ là những áp lực cứng rắn của Mỹ về hối đoái sẽ đưa TC đi đến quyết định bán 600 tỷ công khố phiếu của Mỹ mà hiện giờ TC đang nắm giữ. Việc này có thể đưa đến một cuộc khủng hoảng tài chánh giữa hai nước và cả thế giới như cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929. Từ một nước đóng kín, yếu kém về kinh tế, thương mại nhứt là thương mại quốc tế, TC hiện nay là chủ nợ của Hoa Kỳ, muốn Hoa Kỳ và các nước Tây phương tiêu thụ nhiều hơn các hàng hóa rẻ mạt từ TC. Càng tiêu càng mắc nợ nhiều hơn. Từ vài tháng gần đây, đồng dollar của Gia Nã Đại đột nhiên tăng giá so với đồng dollar USA. Xin độc giả đừng tưởng là tiền của Gia Nã Đại đang tăng. Sự thực không phải như vậy. Mỹ đang phá giá đồng dollar của họ đó. Tiền Mỹ mất giá sẽ nâng các ngoại tệ khác như đồng Euro, đồng Yen, đồng nhân dân tệ (của TC) lên cao. Điều này đã kịp thời cứu sống nền kinh tế của Mỹ bị lung kay từ mấy năm nay, có thể đưa đến chỗ sụp đổ vì thâm thủng mậu dịch với TC. Đồng dollar giảm giá sẽ nâng cao đồng Nhân Dân Tệ theo hối xuất thả nổi hiện nay, khiến cho hàng hóa xuất cảng của TC sẽ không còn giá rẻ như trước nữa. Như thế hàng hóa của TC sẽ khó có thể cạnh tranh với hàng hóa của các nước Âu Mỹ. Cuộc chiến trên lãnh vực năng lượng Thế giới hiện nay đang lên cơn sốt về dầu hỏa. Khi quí bạn đọc những dòng này, giá cả 1 thùng dầu thô có lẽ đã vượt con số định mạng: 100 $ 1 thùng dầu thô. Bảo vệ nguồn dầu hỏa đến từ các nước Ả rập ở Trung Đông là một vấn đề sinh tử đối với Mỹ. Với TC, năng lượng (dầu hỏa và khí đốt) vô cùng quan trọng. Năng lượng giữ vai trò chi phối trong sự tăng trưởng của nền kinh tế Hoa Lục, tạo điều kiện hiện đại hóa quân sự trong tham vọng bá quyền. Do sự tăng trưởng kinh tế nên mấy năm qua, TC đã tiêu thụ một số năng lượng khổng lồ, chỉ thua Mỹ nhưng hơn hẳn Nhật, Âu Châu. Ngoài ra TC phụ thuộc hoàn toàn vào năng lượng nhập cảng từ các nước ngoài. Trong nỗ lực tìm nguồn tiếp liệu dầu hỏa, bành trướng kinh tế, TC đã không ngần ngại tìm đến các nước ở Phi Châu, ở Nam Mỹ. Như vậy TC đã đụng độ với Mỹ ở những vùng ảnh hưởng của Mỹ. Cuộc đụng độ với Mỹ ở Darfour, ngay sát nách Tchad, một quốc gia Phi Châu được TC tài trợ, chỉ là một thí dụ điển hình về cuộc chiến về năng lượng giữa Mỹ và TC. Mỗi ngày TC tiêu thụ 6,7 triệu barils, hạng nhì sau Hoa Kỳ. Các quốc gia đang cung cấp dầu hỏa cho TC là : - Angola, Arabie Seoudite, Soudan mỗi nước độ 0,5 triệu barils mỗi ngày. - Nga, Oman : mỗi nước độ 300 000barils mỗi ngày. - Congo, Yemen, Equateur, Venezuella : mỗi nước độ 150 000 barils mỗi ngày. Với Kazathstan, TC đã thiết lập một ống dẫn dầu từ năm 2006, đưa dầu từ miền Trung Á về Trung Quốc, khỏi cần chuyên chở bằng tầu. Chiến tranh tại Irak đã khiến TC mất một nguồn năng lượng đáng kể. Phải chăng yếu tố dầu hỏa là quyết định chánh trong việc Hoa Kỳ đổ bộ vào Irak ? Mặt khác TC chỉ có khả năng chuyên chở 15% dầu nhập cảng bằng tầu Trung quốc. Việc vận chuyển dầu phải đi qua các hải phận do Anh, Mỹ kiểm soát (kinh đào Suez, eo biển Ormuz trên vịnh Ba Tư, eo Malacca…) Khi có cuộc khủng hoảng, con đường tiếp tế dầu này dễ bị phong tỏa. TC cũng dư biết điều đó nên TC đã nối lại bang giao mật thiết với Nga Sô sau nhiều năm lạnh nhạt vì vấn đề biên giới. Hồ Cẩm Đào và Putin đã gập nhau 3 lần để bàn thảo về chiến lược liên minh xây dựng một ống dẫn dầu, khí của Nga từ Tây Bá Lợi Á về trung tâm năng lượng Đại Khánh của TC. Ngoài ra TC đã ký kết với Ba Tư một hợp đồng lên tới 70 tỷ US dollars để mua dầu và khí đốt của nước này. Vì vậy mà Nga Sô và TC đã ra mặt bênh vực Ba Tư, Sudan khi 2 nước này bị Hội Đồng Bảo An của Liên Hiệp Quốc đòi trừng phạt kinh tế vì chương trình nguyên tử (Ba Tư) và sự tàn ác tại Darfur. Công ty quốc doanh CNPC (China National Petrolum Corporation) đã thiết lập 1 đường ống dẫn dầu dài 1500km, dẫn dầu đến Port-Soudan trên Hồng Hải để từ đó chuyển về TC. Sự có mặt của TC trong vùng biển này làm Mỹ và Do Thái lo ngại. Ngoài ra TC còn có nhiều dự án khoan dầu tại Guinée, Congo, Malt. Kết luận Thế giới đã trải qua 2 cuộc chiến tàn khốc. Cuộc thế chiến thứ 3 đang đe dọa tàn phá nhân loại. Đó là cuộc chiến chống khủng bố, cuộc chiến chống tham vọng bá quyền và tham vọng bành trướng của TC.. Đó là một cuộc chiến liên quan đến mọi lãnh vực. TC trở thành 1 cường quốc như ngày nay, một phần là do lỗi ở các nước trong thế giới tự do, nhứt là Hoa Kỳ, dưới thời các Tổng Thống Jimmy Carter và Bill Clinton. TÀI LIỆU THAM KHẢO : Ngoại ngữ: - Red Dragon rising: .C.Triplett III & E. Timperlake Regenery Publishing - Armée populaire de liberation : Wikipédia - La puissance de l’armée chinoise Laurent Zecchini - La menace chinoise : Presse universitaire U de M - L’Économie chinoise et le monde : Francoise Lemoine. Presse universitaire. U de M - Chinese military ‘ hacked ‘ to Pentagone. Laura Clout Tiếng Việt : - Chiến tranh không xa chúng ta : Trì Hạo Điền - Trần Đông Quân dịch - Bốn tội phản quốc của đảng CSVN : LS Nguyễn hữu Thống - Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam : Ngô Nhân Dụng - Hà Nội trước song gió Hoàng-Trường Sa : Nguễn Văn Tạo - Một bước đần xin chịu tội : Ngô Nhân Dụng - Khi Trung Quốc là nhà máy khổng lồ của thế giới: Lâm Văn Bé - Khi Trung Quốc làm thay đổi thế giới ; Lâm Văn Bé - Tin tặc từ Trung Quốc Quốc Gia số 112/2007 - Trung Cộng, cơn ác mộng của Nhân loại trong thế kỷ XXI ; Mường Giang - Sự đối đầu giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng ; Mường Giang - Tương quan lực lượng quân sự giữa Hoa Kỳ và TC trong cuộc chiến sắp tới; Mường Giang. - TẦU CỘNG : chính sách di dân và lấn chiếm biên giới: TS Nguyễn Ngọc Sảng Phụ bản 1: Thư bán nước của Phạm Văn Đồng gửi Chu Ân Lai năm 1958 Phụ bản 2: Tất cả biển Đông do TC tự ý chiếm đoạt Song Nguyễn
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 4, 2010 2:25:21 GMT 9
Sự thật về mô hình phát triển của Trung Quốc dưới góc nhìn từ hai ký giả người Âu Vietsciences- Văn Ngọc Trong khi dư luận quần chúng, cùng các kênh thông tin và truyền thông ở phương Tây lại không ngớt lời ca ngợi những cái hay, cái giỏi của đất nước này về mọi mặt thì hai tác giả Pierre Cohen và Luc Richard xuất thân là nhà báo và nhà văn đã từng sống ở Trung Quốc và biết tiếng quan thoại, hiểu biết rộng về kinh tế, với cặp mắt quan sát sắc sảo của mình, họ đã đi vào từng ngóc ngách của đời sống xã hội Trung Quốc để tìm hiểu một thực tế vô cùng tế nhị và phức tạp để viết một cuốn «La Chine sera-t-elle notre cauchemar?» (Ed. Mille et Une Nuit – Paris 2005, tái bản 5-2008) đầy ắp thông tin và dày công phân tích nhằm chỉ ra những khuyết tật trong mô hình phát triển hiện nay của Trung Quốc. Người ta có thể nghĩ rằng, trước hết hai tác giả này muốn nói lên một sự thật, một thực tế, mà trong nhiều năm ở phương Tây, báo chí, cùng các cơ quan truyền thông và một số người có chức quyền vẫn cố tình che giấu, hoặc tô hồng, vì dẫu sao, người ta cũng cần cái thị trường khổng lồ này trong một nền kinh tế toàn cầu hoá. Cũng có thể, do một bản năng tự nhiên, hay một tinh thần dân tộc chủ nghĩa nào đó, các tác giả muốn vạch ra những yếu kém của mô hình phát triển kinh tế và xã hội của Trung Quốc, để cảnh báo các xã hội phương Tây. Cũng có thể, họ còn có một tầm nhìn rộng hơn nữa, một tầm nhìn có tính chất chiến lược, ở qui mô toàn cầu. Nhưng cũng có thể, đó chỉ là do một sự thôi thúc nội tâm có tính chất đạo lý, vì sự thật, vì hạnh phúc của con người, và tương lai chung của cả loài người? Tác phẩm được viết như một thiên phóng sự, một nhân chứng. Nó không chỉ nêu lên những hoàn cảnh cụ thể, có thật, nói lên những điều mà những con số thống kê không thể nói lên hết được, mà còn truyền được tới người đọc một dòng suy nghĩ, một nỗi lo âu, một lời cảnh báo. 1/ Nạn thất nghiệp ở thành thị Từ những năm 90 của thế kỷ trước, với những bước đầu của quá trình toàn cầu hoá, hàng loạt các xí nghiệp quốc doanh TQ bị dẹp bỏ, nhường chỗ cho các xí nghiệp tư nhân. Hàng triệu công nhân bị sa thải. Năm 1998, chỉ riêng trong khâu dệt may, có 660.000 người bị rơi vào hoàn cảnh này; trong lãnh vực dầu khí, 1 triệu người. Các nhà máy cũ nhường chỗ cho các nhà máy mới do nước ngoài đầu tư xây dựng. Công nhân quá 35 tuổi không được nhận vào xưởng làm việc nữa. Một ngày công không phải là 8, 9 giờ, mà là 11, 12 giờ. Công nhân bị sa thải được gọi là xiagang (“hạ cương”, từ được tạo ra để làm nhẹ bớt cái ý bị đuổi việc – cương đây là cương vị). Chủ trương dẹp bỏ các xí nghiệp quốc doanh thực ra đã bắt đầu được thực hiện ngay từ những năm 80 và do chính quyền địa phương chịu trách nhiệm quản lý. Sự kiện này diễn ra cùng một lúc với việc Đặng Tiểu Bình cho thực hiện chính sách phân quyền về các địa phương. Cũng là một công đôi việc, tránh cho Trung ương khỏi mang tiếng! Nhưng cũng từ đó, nạn tham nhũng lan tràn về các địa phương. Theo một cuộc điều tra gần đây của Nhà nước, thu nhập bình quân của những người giàu có nhất ở thành thị, lớn hơn gấp 12 lần thu nhập của những người nghèo; 10% nhà có của ở thành thị, chiếm 45% tổng số tài sản, trong khi 10% những người nghèo nhất chỉ chiếm có 1,4% số tài sản này. Ở các thành phố lớn vùng đông-bắc, nạn thất nghiệp chiếm từ 20 % tới 30% dân số. Ở Phong Đô, một thành phố mới được xây dựng lại một cách rất hoành tráng ở bờ nam sông Dương Tử, gần đập thuỷ điện Tam Hiệp, tỷ lệ này lên tới 60, 70%, vì trên thực tế, đây là một thành phố chết, hoàn toàn thiếu vắng mọi hoạt động kinh tế. 50 năm sau “Bước nhảy vọt” (1958) – một sai lầm về đường lối công nghiệp hoá, đã khiến hàng mấy chục triệu nông dân bị chết oan (nạn đói những năm 1959-1961) – các nhà lãnh đạo địa phương Trung Quốc vẫn còn nghĩ rằng, chỉ cần hô hào, động viên bằng lời nói, là có ngay những người hăng hái đầu tư. Điều nghịch lý, là một đất nước có nhiều người thất nghiệp nhất, lại là nơi có nhiều khách nước ngoài đầu tư nhất, và cũng là nơi mà các doanh nghiệp phương Tây chịu di dời cơ sở sản xuất của họ đến nhất. Lý do đơn giản, là vì ở đây họ tìm được nhân công rẻ nhất [Tiền công lao động của một người thợ máy Trung Quốc (0,6USD/giờ) rẻ gấp 23 lần tiền công của một người thợ máy Pháp (17USD), và gấp 40 lần một người thợ Đức (24USD)] ! Vấn đề thất nghiệp được tóm gọn lại trong một phương trình đơn giản: năm 2004, số người thất nghiệp là 14 triệu, thêm vào đó là 10 triệu người từ nông thôn đổ ra thành thị kiếm sống hàng năm (năm 2005, con số này lên đến 13 triệu người). Để đáp ứng nhu cầu, phải cung cấp 24 triệu công ăn việc làm cho những người này, điều mà cho đến nay các giới hữu trách mới chỉ bảo đảm được có một phần ba mà thôi. Điều nghịch lý, là một đất nước có nhiều người thất nghiệp nhất, lại là nơi có nhiều khách nước ngoài đầu tư nhất, và cũng là nơi mà các doanh nghiệp phương tây chịu di dời cơ sở sản xuất của họ đến nhất. Lý do đơn giản, là vì ở đây họ tìm được nhân công rẻ nhất 2/ Nạn thất nghiệp ở nông thôn (mingong = “dân công”, từ mới để chỉ những người thất nghiệp từ nông thôn đổ lên thành thị kiếm sống, và thường tụ tập ở các chợ lao động (“chợ người”), hay ngay trên hè phố – từ này khác với từ dân công trong tiếng Việt, được dùng trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam): Hiện nay, Trung Quốc có dân số trên 1,3 tỷ người, mà hai phần ba là nông dân, tức là số nông dân có tới 900 triệu người, trong số đó 600 triệu sống bằng nghề trồng trọt, trên những mảnh ruộng nhỏ li ti. Năm 1978, Trung Quốc phát động phong trào hiện đại hoá nông thôn, bãi bỏ chính sách tập thể hoá. Người nông dân được phát ruộng, phát đất để trồng trọt, được đem nông phẩm ra chợ bán tự do. Ngay từ năm 1980, đời sống của người nông dân có những bước biến chuyển. Nhưng đến khoảng năm 1990, không thấy người ta bàn bạc, đả động gì đến nông thôn nữa, mà chỉ chú trọng đến sự phát triển của các đô thị, của các mặt hàng công nghiệp xuất khẩu, và đương nhiên là đến quá trình toàn cầu hoá. Năm 2004, người ta được thống kê cho biết rằng số dân nghèo đến mức tối đa (tính theo tiêu chuẩn: dưới 75USD/người/năm), lần đầu tiên đã tăng lên sau 25 năm, và đa số những người này là nông dân. Một vài thí dụ cho thấy sự nghèo khổ tột cùng của họ. Một cậu học sinh trung học ở một huyện lị kia, vì không có tiền để trả tiền học, đã lao mình xuống gầm xe lửa tự tử. Trước đó một hôm, ông đốc trường đã không cho phép cậu thi lên lớp, và bảo rằng: “Không có tiền, không được học”. Vào mùa xuân năm 2005, đã nổ ra những vụ tranh giành đất đai giữa nông dân và các quan chức địa phương, cũng như đã có những cuộc biểu tình của nông dân chống việc các nhà hữu trách đã để cho các chất thải công nghiệp làm ô nhiễm môi trường của mình. Như vậy, là sau một thời gian ngắn ngủi, làm ăn bắt đầu khấm khá trở lại vào những năm 80, tình hình nông thôn lại một lần nữa xuống cấp: thuế má ngày càng nhiều, chi phí sản xuất tăng, học phí cho con cái tăng, các dịch vụ y tế thiếu thốn, môi trường bị ô nhiễm, nạn thất nghiệp tràn lan. Nếu kể cả những dịch vụ mà người dân đô thị còn được hưởng thêm, thì thu nhập của người dân đô thị bằng sáu lần thu nhập của người dân nông thôn. Khoảng hơn 10% nông dân sống với non 625 nhân dân tệ mỗi năm Hố sâu giữa đô thị và nông thôn ngày càng lớn. Nếu kể cả những dịch vụ mà người dân đô thị còn được hưởng thêm, thì thu nhập của người dân đô thị bằng sáu lần thu nhập của người dân nông thôn. Khoảng hơn 10% nông dân sống với non 625 nhân dân tệ mỗi năm (62Euro/năm). Mức sống này còn kém hơn cả mức sống bần cùng nhất, theo tiêu chuẩn quốc tế. 11% dân số Trung Quốc thiếu ăn, trong số đó đa số là nông dân. Nếu tính theo tiêu chuẩn đầu người, mỗi nông dân phải có được 0,66 ha đất nông nghiệp mới có thể làm ăn sinh sống được ở nông thôn. Con tính đơn giản này cho thấy nông thôn Trung Quốc thừa 170 triệu người. Thừa người ở nông thôn, thì người ta chỉ còn cách kéo nhau lên thành thị làm dân công. Dân công không phải là một người vừa là nông dân, vừa là công nhân. Họ không là gì cụ thể cả. Họ không phải là nông dân, mà cũng không phải là công nhân. Họ làm công nhật, không có hợp đồng, không có bảo hiểm xã hội, hôm trước hôm sau có thể bị đuổi, mà không kêu ca được với ai. Họ bị cấm không được phép làm một số nghề (danh sách các nghề bị cấm năm 1996, tại Bắc Kinh, là 15 nghề, đến năm 2000 con số này lên tới hơn 100). Một ngày lao động của họ có khi là 10, 12 tiếng, có khi là 15 tiếng. Họ không có quyền hưởng luật lao động. Một dân công muốn có được một chỗ làm việc, phải « mua » các giấy tờ, thủ tục hành chính, với giá 640 nhân dân tệ, bằng 2 tháng lương. Chế độ « hộ khẩu » được áp dụng chặt chẽ đối với họ. Mặc dầu vậy, với giá nhân công rẻ mạt, họ đã « được » khai thác có hiệu quả trong các ngành công nghệ xuất khẩu, nơi mà TQ phá kỷ lục về giá thành sản phẩm. Dân công là những người bị đánh thuế nhiều nhất và cũng là những người bị khinh rẻ nhất ở các đô thị. Một cặp vợ chồng dân công, lương tháng mỗi người khoảng 800 nhân dân tệ (80Eu ro), phải trả mỗi tam cá nguyệt 400 nhân dân tệ (40Euro) cho trường học của đứa con, nhiều hơn cả những người dân thành phố cư ngụ tại chỗ. Nhà nước TQ dự kiến, trong vòng 20 năm, giảm số nông dân xuống chỉ còn 30% số người lao động của cả nước. Dự kiến này xem ra không thực tế lắm, vì nếu như vậy thì phải chấp nhận hàng năm sẽ có tới 26 triệu nông dân kéo nhau lên thành thị sinh sống, trong khi lúc này chỉ có từ 10 đến 13 triệu. Dẫu sao, dòng thác dân công – mà người ta ước lượng khoảng từ 150 đến 200 triệu – vẫn sẽ đổ vào các thành thị, và giá nhân công nhờ đó sẽ giữ được ngày một rẻ. Không những nông thôn thiếu đất trồng trọt, mà diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp lại bởi những xí nghiệp, nhà máy, được di dời về đây. Trung Quốc trở thành một trong những quốc gia ô nhiễm nhất thế giới. 190 triệu nông dân sống trong một môi trường không lành mạnh, nước sông, nước hồ phần lớn đều bị ô nhiễm. 3/ Số phận của những người nữ dân công Ở Trung Quốc, những nơi phải sắp xếp, tổ chức lại các xí nghiệp quốc doanh bị dẹp bỏ, phụ nữ là những người đầu tiên bị sa thải hoặc di chuyển. Trong các ngành kỹ nghệ, điều kiện làm việc của những người nữ dân công còn tồi tệ hơn là của nam dân công nhiều. Không lấy gì làm lạ, là sau một thời gian, một số không nhỏ các nữ dân công đã phải bỏ đi làm gái điếm. Hiện tượng mãi dâm của các cô gái từ nông thôn lên thành thị, từ hơn 20 năm nay, đã trở nên một hiện tượng bình thường dưới mắt mọi người. Phần lớn các cô này đều đã trải qua một thời kỳ làm dân công. Quan hệ tình dục đã trở thành hàng hoá trao đổi, hoàn toàn phù hợp với tâm thức coi đồng tiền là quyền lực tối cao, coi cuộc đời là tiêu xài, hưởng thụ, con người là hoàn toàn vô trách nhiệm đối với xã hội. Nhiều người – trong đó có những khách du lịch rất nhiệt tình và hồ hởi – khi được viếng thăm các thành phố Trung Quốc, theo các tuyến “tua”, cứ ngỡ rằng những biến đổi về mặt xã hội ở những nơi này cũng là những biến đổi chung cho cả đất nước Trung Hoa. Thật ra, không phải thế. Đó chỉ là cái mặt tiền. Cuộc sống ở đô thị có thay đổi thật, người phụ nữ có được nhiều điều kiện thuận lợi hơn để học hành và làm việc, nhưng Trung Quốc chủ yếu vẫn là một nước nông nghiệp. Ở những vùng trung tâm, như Hồ Nam, An Huy, v.v., nông thôn vẫn không mấy thay đổi. Vẫn những cuộc hôn nhân sắp đặt sẵn, cô dâu về nhà chồng rồi, liền bị cắt đứt liên hệ với gia đình nhà mình. Vẫn những vụ buôn bán phụ nữ, trẻ em giữa vùng này và vùng khác. Vẫn cái truyền thống “trọng con trai, khinh con gái”. Chính sách giới hạn “một con” của Nhà nước, khiến cho các cặp vợ chồng phải chọn lựa. Trên 7 triệu trường hợp phá thai mỗi năm, 70% là thai con gái. Vai trò của người mẹ, người vợ, trong nhiều gia đình nông dân đôi khi chỉ dừng lại ở vai trò của người hầu, người ở. Từ những năm 80, sau khi chế độ hợp tác xã bị dẹp bỏ, trở lại phương thức canh tác kiểu gia đình, vai trò của người phụ nữ lại càng bị chèn ép. Bắt đầu từ năm 1990, sự xuống cấp của các khâu giáo dục và y tế ở nông thôn càng làm cho họ bị thiệt thòi. Do sự phân biệt chọn lựa vì quyền lợi kinh tế giữa con trai và con gái, tỷ lệ thất học về phía nữ là 23% năm 1997 (49% năm 1982); về phía nam là 9% (21% năm 1982). Chính sách kinh tế của Nhà nước đối với nông thôn, cộng với các hủ tục còn tồn tại ở đây đối với người phụ nữ, khiến cho họ lâm vào một hoàn cảnh tuyệt vọng. Hiện nay, tỷ lệ tự tử của phụ nữ Trung Hoa thuộc vào hàng cao nhất thế giới. Chính sách kinh tế của Nhà nước đối với nông thôn, cộng với các hủ tục còn tồn tại ở đây đối với người phụ nữ, khiến cho họ lâm vào một hoàn cảnh tuyệt vọng. Hiện nay, tỷ lệ tự tử của phụ nữ Trung Hoa thuộc vào hàng cao nhất thế giới. 4/ Giáo dục bị “hy sinh” cho kinh tế Ở thời đại ngày nay, biết đọc, biết viết không đủ, còn phải biết đôi chút khái niệm khoa học kỹ thuật, phải biết sinh ngữ, để có thể tiếp thu được những công nghệ nhập từ nước ngoài, v.v. Trên thực tế, nhà nước Trung Quốc đã không thực sự quan tâm đến vấn đề này. Năm 2003, ngân quỹ dành cho giáo dục chỉ chiếm có 3,8% tổng sản lượng công nghiệp. Ngay từ 1999, tại một Hội nghị của Bộ Giáo dục, một chủ trương đă được đề ra, là khuyến khích các gia đình tăng thêm ngân quỹ cho việc giáo dục con cái. Ý đồ là đi đến việc tư lập hoá các trường học. Ở các vùng nông thôn nghèo, các khoản chi phí cho việc học của con cái đối với các bậc cha mẹ lại càng lớn. Cũng bởi vì chỉ có 23% ngân sách giáo dục của nhà nước dành cho nông thôn, nơi có 2/3 dân số của cả nước, cho nên gánh nặng về mặt tài chính đổ cả lên đầu các bậc cha mẹ, mà đại bộ phận là nông dân nghèo khổ. Chỉ có 23% ngân sách giáo dục của Nhà nước dành cho nông thôn, nơi có 2/3 dân số của cả nước, cho nên gánh nặng về mặt tài chính đổ cả lên đầu các bậc cha mẹ, mà đại bộ phận là nông dân nghèo khổ. Trong một công trình nghiên cứu về gia đình người nông dân, Isabelle Attané, thuộc Trung tâm nghiên cứu dân số, viết: “Trong một hệ thống giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế nhiều hơn là nhu cầu xã hội, thì những người dân nghèo khổ nhất, những người không được hưởng thụ những thành quả của sự phát triển, phải trả giá đắt nhất”. Chính sách của Nhà nước về giáo dục như vậy đã ảnh hưởng trực tiếp đến khoảng cách về trình độ văn hoá ngày càng xa giữa thành thị và nông thôn (mức sống ở thành thị hiện nay cao gấp 6 lần mức sống ở nông thôn), cũng như giữa con trai và con gái (nạn thất học chiếm 6,6% giới trẻ ở nông thôn, trong đó có 3,6% là con trai, 10% là con gái). Điều đáng lo ngại nhất, là giáo dục vốn được coi là một công cụ có khả năng đưa tầng lớp nông dân thoát khỏi nạn nghèo đói, thì nay lại không tới được với họ nữa. Theo Philippe Cohen và Luc Richard, họ vẫn chỉ là một kho dự trữ nhân công rẻ tiền – một yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc tạo ra những sản phẩm mới, rẻ, dễ cạnh tranh, dễ kiếm lời trên thị trường toàn cầu hoá. 5/ Khó khăn trong việc áp dụng luật pháp Điều mà các nhà lãnh đạo TQ phải lo thực hiện trước tiên, là làm sao áp dụng được luật pháp, nói chung, trên đất nước mình ! Trong mọi lãnh vực, từ kinh tế, lao động, đến môi trường, có luật pháp là một chuyện (mặc dầu đôi khi luật pháp cũng còn rất mù mờ), nhưng áp dụng nó lại là một chuyện khác. Chỉ cần lấy một thí dụ: công nghệ làm hàng lậu quy mô quốc tế, chẳng hạn. Người ta cho rằng hiện tượng này chỉ có thể xảy ra với sự tham gia trực tiếp hay gián tiếp của những quan chức địa phương mà thôi. Các luật lao động thông thường cũng không áp dụng được giữa chủ và thợ, vì luôn luôn có sự can thiệp của chính quyền địa phương bênh vực quyền lợi của ngườI chủ, kẻ có tiền. Lương lậu của thợ thuyền, đặc biệt là của những người dân công, luôn luôn bị trả chậm. Nhìn chung, ít nhất một nửa số nhân công làm việc trong các xí nghiệp ở quy mô quốc gia, không được hưởng luật pháp. Tại sao lại có tình trạng như vậy? Đơn giản chỉ vì, nếu tất cả các xí nghiệp áp dụng luật lao động, thì Trung Quốc sẽ mất đi con chủ bài (nhân công rẻ) để cạnh tranh trên thị trường. Trong lãnh vực môi trường cũng vậy. Sự áp dụng khe khắt các luật lệ về môi trường sẽ động chạm đến các quyền lợi kinh tế. Do đó, luật pháp trong lãnh vực này cũng được để lỏng lẻo, và tuỳ ở các cơ quan hữu trách địa phương có muốn áp dụng hay không. Trường hợp ô nhiễm ở sông Hoài, vùng Hồ Nam, An Huy, là một thí dụ điển hình. Năm 1994, chính quyền Trung ương hạ lệnh làm sạch con sông này, vì cả một vùng dân cư gồm 160 triệu dân bị ô nhiễm. Trên giấy tờ, hàng nghìn xưởng máy bị đóng cửa, di chuyển, hoặc cải tạo theo đúng các tiêu chuẩn, quy phạm. 60 tỉ nhân dân tệ đã được chi ra cho công việc này, nhưng cho đến nay con sông Hoài vẫn bị ô nhiễm hơn bao giờ hết. Đối với chính quyền, thì vấn đề như vậy là đã giải quyết xong rồi: sổ tiền 60 tỉ nhân dân tệ (6 tỉ Euro) đã được chi ra, và vấn đề đã được xoá sổ. *** Tác phẩm của Philippe Cohen và Luc Richard còn đề cập đến nhiều vấn đề khác nữa, liên quan đến tác hại của mô hình phát triển của Trung Quốc lên nền kinh tế toàn cầu. Song vì giới hạn của bài viết, chúng tôi đã chỉ tập trung trình bày những nhân chứng và nhận xét của các tác giả trên những vấn đề mà chúng tôi cho là liên quan trực tiếp đến Việt Nam, để chúng ta cùng suy nghĩ. V. N. Nguồn: Tiasang
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 5:36:53 GMT 9
Cánh Tả Hoa Kỳ và Trung Quốc Vietsciences-Nguyễn Trường Sau nhiều lần thăm viếng Trung Quốc (TQ) kể từ năm 2002, Andy Stern - nguyên chủ tịch SEIU[1], hồi tưởng những cuộc thảo luận với cấp lãnh đạo ACFTU[2] phải công nhận TQ là xứ cạnh tranh kinh tế đầu tiên thực sự đe dọa địa vị siêu cường toàn cầu duy nhất của Hoa Kỳ"[3].SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ HỆ QUẢ Ít ai có thể chối cãi sự trỗi dậy của TQ mang ý nghĩa thay đổi thế giới. Tuy nhiên, trong nội bộ phe tả ở Mỹ, người ta ghi nhận nhiều dị biệt sâu sắc mang tính nguyên tắc về hai vấn đề: phản ứng thích hợp trước sự trỗi dậy của TQ như một siêu cường và sự trỗi dậy báo hiệu nhiều viễn tượng tốt đẹp hay chỉ là triệu chứng chẳng lành. Ngay cả những chuyến viếng thăm TQ của Stern trong thập kỷ vừa qua cũng đã bị cấp lãnh đạo lao động chỉ trích nặng nề. Chẳng hạn, giới hoạt động nhân quyền và toàn cầu hóa lên án ACFTU là khí cụ đàn áp công nhân lao động của Đảng Cộng Sản cầm quyền ở TQ. Sophie Richardson , giám đốc Human Rights Watch phân bộ Á châu, đặt câu hỏi: "Andy Stern hình như nghĩ, ông ta có thể tìm thấy những thành phần cấp tiến trong nội bộ ACFTU. Và SEIU cũng đồng ý?"[4]. Jeffrey Fiedler, một nhà hoạt động lâu năm về TQ, một quan chức IUOE[5], và một thành viên ESRC[6], còn gay gắt hơn: "Andy Stern đã bất chấp mọi nguyên tắc và đã khởi sự thương nghị với ACFTU. Người cầm đầu ACFTU là thành viên của Bộ Chính Trị dơ bẩn! Hắn là một tên đạo tặc"[7]. Đã hẳn, nhiều người trong giới lao động đã bị chế nhiễu khi tin các công xưởng sản xuất hàng xuất khẩu ở TQ, thường do các công ty đa quốc gia Mỹ sở hữu và quản trị, đang giành mất việc làm trong khu vực kỹ nghệ chế biến. Họ xem TQ, như tay chơi lớn nhất trong cơn sốt quốc tế khởi động bởi các đại công ty đa quốc gia, lợi dụng lao động rẻ tiền và pháp chế lỏng lẻo trong phần lớn thế giới đang phát triển trong quá trình sản xuất và cung cấp hàng nhập khẩu tràn ngâp các cữa hàng trong các khu thương mãi Hoa Kỳ. Theo Robert Borosage, đồng giám đốc Chiến Dịch Vận Động Cho Tương Lai Hoa Kỳ[8], " những mất thăng bằng toàn cầu nói chung - với Đức, Nhật, TQ, Hàn quốc, và nhiều xứ khác, chuyên chú vào mô hình xuất khẩu và gắn bó với mô hình nầy, không mấy quan tâm chuyển dịch đến một thị trường quân bình hơn - có tác động gây mất ổn định trong kinh tế toàn cầu, nhất là kinh tế Mỹ, và không thể bền lâu. Vì vậy, Hoa Kỳ phải đối đầu với một loạt các xô xát và thử thách, không chỉ với người TQ"[9]. Hệ quả sự trỗi dậy của TQ còn sâu rộng hơn nhiều. TQ đã nhanh chóng trở thành một nền kinh tế khổng lồ, đi từ những nhà máy lắp ráp thô sơ và các xưởng may hực nóng đến các sản phẩm cao cấp và nhiều cách tiếp cận sáng tạo các kỹ thuật xanh, kể cả các tuốc-bin chạy bằng gió, các pa-nô năng lượng mặt trời, và các xe hơi chạy bằng điện. Mặc dù chỉ là một mô hình kinh tế tư bản "mang tính Viễn Tây", không bị trói buộc, nhưng đối với các nền kinh tế đang phát triển, sự kết hợp chặt chẽ giữa guồng máy kiểm soát chính trị từ trung ương và tăng trưởng kỹ nghệ do nhà nước chỉ đạo, tượng trưng một thách thức rõ rệt đối với mô hình tăng trưởng áp đảo kiểu Mỹ trong thời hậu chiến. Và mô hình TQ đã được xem như mô hình quyến rũ đối với nhiều giới. Carolyn Bartholomew, phó chủ tịch ESRC và nguyên trợ tá của Nancy Pelosi, chủ tịch Hạ Viện, đã lên tiếng: "Tôi quan ngại, ở nhiều nơi trên thế giới, hình thức tư bản độc tài của TQ đang bám trụ. Hãy nhìn phương cách dấn thân của TQ ở Phi châu"[10]. Orville Schell, giám đốc Trung Tâm Quan Hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc thuộc Hội Á Châu[11], cũng ghi nhận: "Chẳng khác gì các địa tầng chính trị toàn cầu đang chuyển dịch dưới chân mọi người. Chúng ta bất thần đối mặt một mô hình tư bản độc tài khác rất thành công , và thậm chí đang trở thành một thách thức về kinh tế, chính trị, và ngay cả đối với lòng tin ở hệ thống quản trị dân chủ của chúng ta là hệ thống tốt nhất có thể đem lại một đời sống tốt đẹp"[12]. Một hệ quả không thể tránh là sớm muộn gì TQ, một cường quốc kinh tế ngày một lớn mạnh, cũng trỗi dậy như một cường quốc chính trị và quân sự với ảnh hưởng từ Đông Á đến Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Trung Đông, Phi Châu và xa hơn nữa. CÁNH TẢ HOA KỲ THIẾU NHẤT QUÁN Trong nội bộ, phe cấp tiến hình như không đồng thuận về phản ứng đối với sự trỗi dậy của TQ. Theo John Feffer, đồng giám đốc Chính Sách Đối Ngoại Trọng Tâm thuộc Viện Nghiên Cứu Chính Sách IPS tả phái[13] "điều nầy đã chia rẽ cộng đồng cấp tiến"[14]. Với ý thức chính sách TQ của Hoa Kỳ chịu sự chi phối chặt chẽ của các đại công ty đa quốc gia, các ngân hàng đầu tư vào TQ, và tập đoàn quân sự-kỹ nghệ luôn xem TQ là đối thủ và địch thủ tiềm năng, giới cấp tiến hiểu rõ họ khó thể ảnh hưởng đến quá trình định hình chính sách quốc gia. Tuy vậy, họ vẫn tham gia thảo luận các lựa chọn khả dĩ: đối đầu hay thỏa hiệp với một TQ đang lên? Áp đặt thuế quan và các biện pháp chế tài hay mở cữa đón nhận các xí nghiệp quốc doanh ngày một bành trướng - đầu tư chứng khoán vào các công ty Mỹ và đầu tư trực tiếp qua việc xây dựng những công xưởng ở Hoa Kỳ? Cộng tác hay tránh xa ACFTU và các định chế khác của TQ? Ngoài ra còn có các vấn đề nhân quyền, kể cả quyền công nhân, quyền tự do tôn giáo, và quyền các dân tộc thiểu số như người Tây Tạng và người Hồi giáo Uighur ở miền Tây TQ? Liệu nạn thiếu nhân công lao động, đã đưa đến làn sóng đình công và phản kháng gần đây, sẽ khiến TQ dành nhiều tự do hơn cho công nhân như quyền tổ chức, quyền tranh đấu đòi tăng lương và nâng cao mực sống? Sau nhiều lần phỏng vấn một số các nhà phân tích chính sách cấp tiến, các kinh tế gia, các nhà hoạt động môi trường, nhân quyền, lao động, các viên chức chính quyền, và các chuyên gia TQ trong giới đại học, Robert Dreyfuss cho biết, hầu hết đều đồng ý: muốn cạnh tranh với TQ, Hoa Kỳ phải chấp nhận một số chính sách kỹ nghệ rõ ràng, đầu tư vào hạ tầng cơ sở, tạo công ăn việc làm, giáo dục và huấn nghệ, kỹ nghệ chế biến công nghệ cao, nghiên cứu và phát triển, đặc biệt là trong kỹ thuật xanh. Theo Schell, ưu tiên hàng đầu là củng cố nội bộ. Nhưng ngay cả về điểm nầy, các nhà hoạt động cánh tả cũng ghi nhận nhiều ý kiến bất đồng, bởi lẽ: thật khó lòng đề xướng một chính sách kỹ nghệ của Hoa Kỳ - đánh thuế giới nhà giàu, trợ cấp các kỹ nghệ cốt lỏi, chi tiêu nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng và huấn nghệ - mà không cùng lúc đề cập vấn đề ý thức hệ tân bảo thủ áp đảo về toàn cầu hóa và mậu dịch tự do, và điều đó gồm cả vấn đề TQ. Thực vậy, người ta không thể nói đến một chính sách kỹ nghệ quốc nội mà không đề cập đến chế độ mậu dịch. Đối với nhiều người trong phong trào lao động Mỹ, không ai nghi ngờ TQ là một đe dọa trầm trọng, ít ra, đối với công ăn việc làm và sự phồn vinh của người Mỹ. Tại trụ sở AFL-CIO, Viện Chính Sách Kinh Tế -EPI [15] và Liên Minh Kỹ Nghệ Chế Biến Hoa Kỳ- AAM[16], một dự án được nghiệp đoàn United Steelworkers ủng hộ, trong phúc trình về TQ, đã ghi nhận: Đó là một cường quốc hù dọa, trọng thương, cạnh tranh bất chính với các nước khác bằng cách nhào nặn giá trị đơn vị tiền tệ, đàn áp giới lao động, chà đạp các chuẩn mực môi sinh, và bóc lột thế hệ nhân công du cư để sản xuất hàng xuất khẩu rẽ tiền...Phúc trình còn cho biết: TQ lợi dụng sự hăm hở của các công ty đa quốc gia đang nôn nóng xây dựng những cơ xưởng ít bị giám sát trong những khu kỹ nghệ ven biễn Nam TQ, đồng thời bắt chẹt các công ty nầy san sẻ bí quyết thương mãi và kỷ thuật như cái giá phải trả để được phép kinh doanh. Đó là một sự lên án bao quát, và giải pháp đề nghị là một hổn hợp các thuế quan mang tính trừng phạt - lối 25% cho nhiều loại sản phẩm nhập khẩu từ TQ - cùng với các chế tài và biện pháp buộc TQ phải tái định giá đồng nhân dân tệ lên 40% hay cao hơn. Nhóm nầy không tin sẽ có đụng độ hay chiến tranh thương mãi với TQ, và trong thực tế, họ nhấn mạnh nếu Hoa Kỳ đợi càng lâu trước khi trực tiếp đương đầu với TQ, vấn đề sẽ ngày một khó khăn thêm. Kuttner nói: "Tôi có thể nói với người TQ, 'chúng tôi sẽ không cho phép tự do tiếp cận hàng TQ, chừng nào quý vị còn lấy trộm kỷ thuật, đòi hỏi các công ty Mỹ chỉ có thể sản xuất hàng hóa ở TQ để xuất khẩu và không để bán trên thị trường TQ, đòi hỏi các thỏa ước chuyển giao công nghệ mang tính cưởng ép, và nhào nặn giá trị đơn vị tiền tệ của quý vị'. Lúc đó mỡ đã ở trên lữa, và người TQ sẽ phải quyết định họ sẽ làm được gì trong tình trạng đó. Điều nầy rất có thể đưa đến xung đột. Nếu chúng ta có phản ứng cứng rắn đối với chủ nghĩa trọng thương của TQ, điều đó có thể trở nên rất tồi tệ, khả ố trong ngắn hạn"[17]. Robert Scott, kinh tế gia của EPI - tác giã một nghiên cứu xuất bản trong tháng 3-2010 - đã kết luận, trong khoảng 2001- 2008, gần 2,5 triệu việc làm của Mỹ đã thất thoát qua TQ, kể cả hơn 600.000 chỉ riêng trong ngành vi tính và điện tử. Giống như nhiều người trong quỹ đạo AFL-CIO, Scott đứng trên lập trường quốc gia để bảo vệ các biện pháp tái lập quân bình cân thương mãi Hoa Kỳ-Trung Quốc hiện đang khuy khiếm. Trong cuộc phỏng vấn tại trụ sở, Scott tuyên bố, "Chính quyền Hoa Kỳ có trách nhiệm đối với công nhân Mỹ, phải khai triển các chính sách trong quyền lợi quốc gia của chúng ta"[18]. Khi có người nêu rõ trong ba thập kỷ vừa qua TQ đã giải phóng hàng trăm triệu người khỏi nghèo đói, và thái độ của Scott có thể bị một số người xem như bài ngoại. Scott gật đầu đồng ý: "Đúng. Tôi xem công việc của tôi là phải quan tâm đến mực sống của công nhân Mỹ"[19]. Và ông nhấn mạnh chỉ động thái đe dọa đóng cữa thị trường Hoa Kỳ đối với hàng nhập khẩu từ TQ mới mong đủ sức thuyết phục Bắc Kinh phải lưu ý. Người ta có thể dễ dàng kết luận sự thành công cuả TQ trong chương trình xóa đói giảm nghèo cho trên dưới 400 triệu người là sự kiện quan trọng nhất trên thế giới trong 1/4 thế kỷ vừa qua. Đã hẳn, phần lớn tăng trưởng của TQ từ cuối thập kỷ 1970s đã được trả giá với ô nhiễm môi trường và điều kiện lao động tồi tệ của nhân công. Nhưng những người chủ trương cần có lập trường cứng rắn đối với TQ chối bỏ hiện tượng cải thiện lớn lao trong mực sống ở TQ hay nghi ngờ sự hiện hữu của hiện tượng nầy. Họ lập luận TQ đã thành đạt tăng trưởng kỷ lục đáng kinh ngạc, trung bình khoảng 10% /năm kể từ 1979, qua sự bóc lột giai cấp công nhân, với rất ít hay không có lợi ích vật chất dành cho người dân bình thường. Scott Paul - giám đốc sáng lập Liên Minh AAM, nhà vận động hành lang cho giới lao động và nguyên trợ tá cho David Bonio, nguyên dân biểu Michigan - lập luận: công nhân TQ thường không được thù đáp tương xứng và lao động trong một môi trường thiếu an toàn. Qua áp lực buộc TQ tái định giá đồng nhân dân tệ, theo Paul và phe nhóm, Hoa Kỳ có thể buộc TQ phải tăng lương và cải thiện mức tiêu thụ và đời sống của giới lao động. Scott Paul nói tiếp:"Điều nầy sẽ cho phép người TQ hưởng thụ thành quả tăng trưởng"[20]. Thea Lee, phụ tá giám đốc chính sách công AFL-CIO, cũng không sẵn sàng công nhận sự tăng trưởng ở TQ mang lại lợi ích lớn lao cho người dân. Lee, một phụ nữ gốc Hoa, rất am tường chính sách TQ của Hoa Kỳ, một chính sách, theo bà, quá thỏa hiệp và chịu ảnh hưởng các công ty Mỹ đang có quyền lợi làm ăn ở TQ. Lee nói: "Tôi không gọi tình trạng nầy là một thành công đối với dân lao động. Đây là một ô nhục. Hệ thống điều hành tương tự một Miền Tây Man Rợ, và chẳng ai quan tâm. Các bạn chứng kiến các tai họa: tàn phá môi trường dài hạn, lao động vị thành niên, lao động cưởng bách, lạm dụng sức khỏe công nhân"[21]. Đối với ACFTU, với gần 200 triệu đoàn viên, giống như Fiedler, Lee nói: "Chúng tôi không công nhận ACFTU như một công đoàn thực sự. Tôi xem họ như chính quyền. Họ là giới quản trị"[22]. Ngay cả các viên chức và các nhà hoạt động bên trong phong trào lao động và đồng minh của họ cũng kêu gọi đối đầu với những gì họ xem như những xảo thuật mậu dịch cướp đoạt của TQ, đôi khi họ dùng cả ngôn từ thời chiến tranh lạnh. Chẳng hạn, Paul của AAM cũng bày tỏ sự quan ngại sâu xa trước các nổ lực tăng cường quân lực của TQ. Paul đặt câu hỏi: "Thặng dư mậu dịch đang được TQ sử dụng để tăng cường quân lực. Họ muốn tăng cường hải quân trong vùng Thái Bình Dương, phát triển vũ khí hạt nhân tiền tiến, các vũ khí hủy diệt vệ tinh. Những việc đó nói lên điều gì về hòa bình? Mục tiêu họ theo đuổi là sự hiện diện trong vùng duyên hải Thái Bình Dương và thách thức bá quyền của Hoa Kỳ trên Thái Bình Dương. Điều đó mang nhiều ẩn ý lớn lao"[23]. Và trên danh sách những bước cần thiết để chứng tỏ với TQ Hoa Kỳ đang xử sự rất nghiêm chỉnh, Fiedler liệt kê: giảm tốc độ hay ngưng các quan hệ quân sự Hoa Kỳ-TQ và hạn chế tối đa số du học sinh TQ đến Mỹ. Fiedler còn dùng cả từ "phát xít" khi nói về TQ, và còn nói thêm: "Tôi còn muốn tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan"[24]. Đã hẳn, cũng có một số người có quan điểm trái ngược. Thực vậy, vài người lập luận, tìm cách thu hút việc làm từ TQ trở về Mỹ là việc làm thiếu thực tế, và trong mọi trường hợp, Hoa Kỳ cũng phải dành không gian cho Bắc Kinh trỗi dậy như một đại cường. Đối với những nhà phân tích nầy, những luận điệu tăng cường phản ứng quân sự của Mỹ đối với TQ là điều thật sự rất đáng lo ngại. Chẳng hạn, James Galbraith, kinh tế gia "dị giáo hay phi chính thống" và giáo sư Đại Học Texas, nhân vật thuộc phe tự do nhưng không được giới lao động và đồng minh ưa thích, thường chỉ trích nghiêm khắc những ai nghĩ có thể khuyến dụ và thu hút việc làm từ TQ qua một phối hợp các chiến thuật gây sức ép. Những nhân vật như Galbraith thường bị gạt bỏ một cách thô lỗ và động lực của họ bị nghi ngờ. Galbraith đại diện cho một quan điểm hoàn toàn trái ngược với các tổ chức AFL-CIO/EPI/AAM, và quan điểm của ông được chia sẻ bởi những nhân vật như Joseph Stiglitz ở Đại Học Columbia, Alice Amsden ở MIT, và nhiều người khác. Galbraith gạt bỏ luận cứ tăng trưởng kinh tế ở TQ đã không đem lại lợi ích vật chất lớn lao cho hàng trăm triệu người trong một thời gian ngắn. Rõ ràng là một thế hệ quần chúng đông đảo đã thoát khỏi nghèo đói - với một cuộc sống mới, họ hiểu rất rõ, tốt hơn trước rất nhiều. Ông lập luận, một số lớn những sản phẩm biến chế ở TQ đã được sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường quốc nội, công xá và điều kiện làm việc được cải thiện, nhất là trong khu vực xuất khẩu, và ép buộc TQ tái định giá trị đơn vị tiền tệ ở một mức cao sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến việc tạo công ăn việc làm ở Mỹ. Một luận cứ chính yếu trong giới viên chức lao động và đồng minh của họ là không những giữ hối suất đơn vị tiền tệ ở mức thấp, TQ đồng thời cũng kìm hảm mức tiêu thụ quốc nội quá khe khắt. Và, họ lập luận, tỉ suất tiết kiệm ở TQ cao nhất thế giới, trên 40% hàng năm - so với Hoa Kỳ luôn lên xuống trong khoảng từ số không đến 5% mỗi năm - chỉ đạt được bằng cách dìm nén mức sống của 1,3 tỉ dân. Vì vậy, theo họ, khi buộc TQ tái định tỉ suất hối đoái đơn vị tiền tệ ở một mức cao và lèo lái tài hóa trở lại thị trường nội địa, họ chỉ làm những gì tốt nhất cho TQ - và đồng thời giúp tạo thêm nhu cầu của người Hoa đối với hàng hóa Mỹ. Galbraith diễu cợt ý tưởng người Mỹ biết những gì tốt cho TQ hơn là người TQ. Ông nói: "Ý niệm TQ có thể gia tăng tiêu thụ quốc nội một cách nào đó có lợi cho công nhân Mỹ về phương diện vật chất là điều không hợp lý. Trước hết, tiêu thụ ở TQ đã gia tăng nhanh chóng trong nhiều thập kỷ. Thứ hai, nâng cao mức tiêu thụ hơn nữa có ý nghĩa gì? Phải chăng có thêm nhiều xe hơi và ít đường sá để lái xe đi lại? Từ quan điểm phát triển, điều nầy không có ý nghĩa gì hết. Tại sao người TQ nên giảm tốc độ xây cất hạ tầng cơ sở tương đối với việc tăng sức mua tiêu thụ phẩm? Tại sao họ nên xây ít nhà máy phát điện hơn và mua thêm máy móc để gây nạn thiếu điện?"[25]. Giống như Galbraith, một vài người - nghi ngờ lập trường chống TQ không lay chuyển của giới lao động - không e ngại lên án những người to tiếng chỉ trích TQ là bài ngoại, phân biệt chủng tộc, là gieo rắc ý niệm Họa Da Vàng - Yellow Peril-style alarmism, một đồng vọng của chiến dịch gây hoang mang về một đe dọa tưởng tượng đối với sự thịnh vượng và công ăn việc làm ở Hoa Kỳ của người Nhật hai thập kỷ trước đây. Các nhà phân tích cấp tiến, chỉ trích chính sách chống TQ của AFL-CIO, thường đưa ra hai luận cứ: TQ xứng đáng được tán thưởng về thành tích và uy tín đã giúp hàng trăm triệu người tiếp cận một đời sống thành thị phồn vinh, và Hoa Kỳ đã thực sự sai lầm khi xúc phạm TQ với mục đích đánh lạc hướng công luận về lịch sử lãnh đạo kinh tế sai lầm của chính mình trong nhiều thập kỷ. Feffer của IPS nói: "Chúng ta đang bàn về một xứ có tiềm năng liên tục giải phóng một số dân khổng lồ khỏi nghèo đói. Tôi không nghĩ quốc gia liên hệ có thể làm được việc nầy bằng cách cạnh tranh 'công bằng' theo đúng quy luật của chính sách quốc tế"[26]. So với công nhân ở TQ, chưa nói gì đến thợ thuyền trong các nhà máy sắt thép ở Nigeria hay nhân công may mặc ở Ba Tây, công nhân Hoa Kỳ tương đối khá giả hơn nhiều. Theo Doug Henwood, biên tập viên nhà xuất bản Left Business Observer, " luận bàn về Họa Da Vàng đã có từ lâu ở Hoa Kỳ, và khá nhiều luận bàn dễ dàng hòa nhập vào loại nầy . Vâng, họ rất cạnh tranh, nhưng ...lịch sử 'Họa Da Vàng' làm cho đề tài đầy vẻ tai họa và độc địa. Chỉ trích TQ luôn dễ dàng hơn là nhìn xem những gì sai trái với Hoa Kỳ. Đây là một thứ quốc gia chủ nghĩa quá gần gũi với bài ngoại, đã thêm dầu vào lữa, và các thành phần mị dân cánh tả cũng như cánh hữu đều dễ đồng tình trong tâm thức không ưa thích TQ"[27]. Khuynh hướng nầy càng đáng tiếc hơn vì đã tăng cường luận điệu hiếu chiến từ cánh hữu. Trong nhiều năm gần đây, Ngũ Giác Đài luôn phổ biến những cảnh báo ngày một nghiêm trọng hơn về sự trỗi dậy của TQ như một thách thức chiến lược đối với Hoa Kỳ, và kể từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt, phái tân bảo thủ và cánh ủng hộ giới quân sự hữu phái đã dùng 'bóng ma TQ để hù dọa ' khả dĩ lấp lỗ hổng "hội chứng thiếu kẻ thù"(enemy deprivation syndrome), như Charles Freeman, một quan chức ngoại giao cao cấp nói được tiếng Quang Thoại, trước đây thích gọi. Selig Harrison, một nhà báo và giám đốc Chương Trình Á Châu thuộc Trung Tâm Chính Sách Quốc Tế - CIP [28], đã gợi ý: giới cấp tiến cần làm quen với ý niệm quyền lợi quốc gia chính đáng của TQ trong khu vực. Harrison nói: "Ý tưởng chúng ta nên chấp nhận quyền lợi của TQ trong vùng Đông Á, theo tôi nghĩ, phải được phe tự do sẵn sàng đón nhận. Thực tế TQ sắp có một hải quân có tầm với dài, sẽ là một siêu cường, giống như Ấn Độ, và Hoa Kỳ phải tự điều chỉnh"[29]. Nhưng nước Mỹ đã không tự điều chỉnh tốt và kịp thời. Thật khó lòng tưởng tượng một chính trị gia Mỹ bênh vực lập trường: Hoa Thịnh Đốn nên rút khỏi hiện tình dàn trải quá mỏng ở Á châu và Thái Bình Dương hoặc nhường chỗ cho một sự hiện diện rộng lớn của TQ. Mới đây, trong mùa hè vừa qua, chính quyền Obama đã đặt viên gạch đầu tiên xây Bức Trường Thành Ngăn Bờ chung quanh TQ, qua động thái hàn gắn quan hệ với lực lượng đặc biệt tàn bạo của Indonesia, và tham gia vào hàng ngũ chống đối TQ trong vụ tranh giành có tiềm năng nguy hiểm khi TQ đòi quyền sở hữu một chuổi các hải đảo trong khu vực Biển Đông. Michael Klare - tác giả cuốn Các Cường Quốc Đang Lên , Hành Tinh Co Rút - Rising Powers, Shrinking Planet - nói: "Thật là một tai họa khi giới cấp tiến cung cấp cỏ khô cho mồi lữa tập đoàn quân-sự-kỹ-nghệ qua việc bêu xấu hay chụp mũ TQ. Nhiều nhóm lợi ích hùng mạnh ở Hoa Thịnh Đốn muốn xô đẩy chúng ta vào con đường xung đột"[30]. Vấn đề Đài Loan là một điểm nóng đặc biệt, và nếu quan hệ giữa Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn tuột dốc, một đại họa giữa hai cường quốc nguyên tử rất dễ xẩy ra vì hải đảo nầy. Theo Harrison, sự chấm dứt hậu thuẩn quân sự cho Đài Loan phải là khởi điểm cho mọi nổ lực cải thiện quan hệ Hoa Kỳ-TQ, kể cả quan hệ kinh tế. Harrison nói: "Chúng ta sẽ không bao giờ có thể buộc TQ ứng xử phải chăng trên bình diện kinh tế, về các vấn đề then chốt như tỉ suất hối đoái và lập trường tương lai về việc nắm giữ các trái phiếu ngân khố của chúng ta, nếu chúng ta tiếp tục gây rối về vấn đề Đài Loan"[31]. Lập trường của chúng ta đối với TQ một phần tùy thuộc vào thái độ: liệu chúng ta có đủ niềm tin TQ có thể chuyển biến từ một hệ thống độc tài qua một hệ thống tự do, dân chủ hơn, và nếu vậy, phải chờ đợi bao lâu? Thánh kinh của những kẻ tin TQ sẽ không thay đổi là tác phẩm 2007 của James Mann, "The China Fantasy" (Trung Quốc Hoang tưởng). Nguyên phóng viên báo Los Angeles Times và hiện công tác ở Johns Hopkins School for Advanced International Studies, Mann lập luận: TQ rất có thể không tan rã hay dân chủ hóa. Thay vào đó, rất có thể sau nhiều thập kỷ, TQ sẽ cực giàu và không dân chủ, và những ai tin ở khả năng dân chủ hóa của TQ là hết sức sai lầm. Mann nói, TQ "vẫn còn là một chế độ Leninist, do Đảng Cộng Sản lãnh đạo theo những vòng tròn cấp bậc từ dưới lên, với một Ủy Ban Trung Ương Đảng, một Bộ Chính Trị, và một Ủy Ban Thường Trực của Bộ Chính Trị". Đã hẳn trong những thập kỷ sắp tới, hệ thống chính trị TQ có thể có nhiều lựa chọn đường hướng thay đổi.Tuy nhiên, nếu có thay đổi, động lực thúc đẩy chắc sẽ đến từ tầng lớp lao động, và gần đây có nhiều dấu hiệu giới công nhân đã bắt đầu chứng tỏ thực lực của chính mình. Trong những năm vừa qua, họ đã phô trương một chuổi các hành động ngày một tăng tốc, đình công và phản kháng, với cao điểm khi báo chí đưa tin các xưởng lắp ráp Honda đã phải đóng cửa trong tháng 5-2010. Và trái với nhiều người quen nhìn TQ theo nhãn quan trắng đen rõ rệt - một tầng lớp lao động bị một chế độ thuần nhất và một công đoàn tay chân, ACFTU, áp bức - những động thái gần đây của giới lao động đã phơi bày một hình ảnh với nhiều sắc thái tế nhị khác xa. Ít nhất, làn sóng đình công gần đây là dấu hiệu tất cả các tay chơi - công nhân, chính quyền cấp tỉnh và địa phương, ACFTU, chế độ ở Bắc Kinh - đang công diễn một vũ điệu phức tạp. Đáng ngạc nhiên nhất là trong nhiều nơi ở TQ, công nhân, chính quyền trung ương và nhà cầm quyền cấp tỉnh, khá sáng suốt, đã đoàn kết nhất trí trong nổ lực tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc. Theo Geoffrey Crothall, người phát ngôn của China Labour Bulletin (CLB), một nhóm các nhà hoạt động lao động ở Hong Kong, "hơn 20 tỉnh đã thể hiện tăng lương tối thiểu khoảng 20%. Sau khi đình công xẩy ra , nhiều chính quyền địa phương đã can thiệp và tìm cách giúp giới quản trị và công nhân thương thảo"[32]. Crothall nói, rõ ràng chính quyền trung ương muốn tăng lương và góp phần vào ổn định xã hội. Và cũng có nhiều yếu tố khác giúp nâng cao lương bổng: chẳng hạn, TQ đang cần một lực lượng lao động với chất lượng và kỷ năng cao khi đang chuyển qua giai đoạn biến chế các sản phẩm cao cấp, trong lúc sớm có dấu hiệu khan hiếm nhân công lao động vì tăng trưởng dân số chậm , chính sách một con và sự kiện nhiều triệu dân đã rời nông thôn ra thành thị tìm việc làm trong các xưởng máy. ACFTU từ lâu được xem như tổ chức bảo vệ Đảng và một công đoàn với đặc trưng TQ, hiện đang bị áp lực phải thay đổi từ dưới lên bởi các công nhân đình công và từ trên xuống bởi chính quyền trung ương ở Bắc Kinh. Crothall, tổ chức của ông đã được Han Dongfang sáng lập, là người thành lập nghiệp đoàn độc lập đầu tiên của TQ trong thời gian biến động ở Quảng Trường Thiên An Môn năm 1989. Ông nhắc lại tình hình sôi động ở Quảng Đông, nơi tọa lạc của hầu hết các cơ sở biến chế quan trọng nhất của TQ. Ông nói, "ACFTU hiện đang tiến hóa và không phải một khối nhất trí. Đó là một định chế của chính quyền. Tuy nhiên, ở Quảng Đông, công đoàn khá cấp tiến và thực tiển. Và cũng ở Quảng Đông, theo CLB, chính quyền tỉnh đang thử nghiệm nhiều quy luật mới có thể dành cho công nhân quyền thương nghị tập thể".
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 5, 2010 5:38:39 GMT 9
Chính vì vậy, những nổ lực của Andy Stern ở TQ, mặc dù thường mang tính chỉ trích, hình như rất được trân quý. Stern nói: "Tôi không nhất trí với lời kêu gọi của Glenn Beck, 'Công nhân toàn thế giới hãy đoàn kết lại!'. Đây không chỉ là một chiêu bài"[33]. Stern còn thêm, đây là điều thực sự quan trọng khi công nhân Hoa Kỳ và công nhân TQ xem nhau như đồng minh, và Stern lập luận, những nổ lực của những người như ông có thể giúp ACFTU chuyển hướng mang tính đại diện nhiều hơn của hàng trăm triệu đoàn viên. Stern cũng nói: "Hiện có một tiến hóa lớn lao đang tiếp diễn. Và đối với tôi, vấn đề là: Cuối cùng công đoàn sẽ đi đến đâu, không phải đã khởi hành từ đâu"[34]. Giống như Crothall, Stern nhấn mạnh không phải chỉ công nhân mới muốn ACFTU thay đổi phương thức hoạt động, "chính quyền cũng đang thúc đẩy các công đoàn phải chuyển hóa"[35].
Katie Quan - một lãnh tụ nghiệp đoàn trước đây và hiện là phó chủ tịch Trung Tâm Lao Động, Đại Học California, Berkeley[36] - hậu thuẩn cho nổ lực của Stern nhằm đối thoại với ACFTU. Bà nói: "Chính sách tẩy chay TQ của AFL-CIO, và không muốn dính dáng gì đến TQ, đã chỉ khiến giai cấp lao động tụt hậu"[37]. Katie Quan đề nghị một cách tiếp cận ba mặt đối với TQ và ACFTU: đối thoại giữa nghiệp đoàn và nghiệp đoàn, trao đổi giữa công nhân và công nhân, và thảo luận giữa các học giả. Trong những năm gần đây, theo bà, TQ đã có nhiều thay đổi lớn lao trong chính sách lao động, khởi đầu với pháp chế lao động về hợp đồng, ban hành vào tháng 1-2008. Những đổi thay nầy đã giúp công nhân ý thức đầy đủ quyền lợi của mình và trong thực tế đã giúp khởi động các cuộc đình công bột phát. Và nhiều cải cách tương lai đang được xúc tiến, kể cả pháp chế thương lượng hay mặc cả tập thể.
Một phúc trình gần đây của CLB, "Tự Quyết Định: Phong Trào Công Nhân Ở Trung Quốc, 2007-2008"[38], đã kết luận: bất kể lịch sử ACFTU ra sao, không thể có biện pháp thay thế nhằm tìm cách tái định hình liên hiệp nghiệp đoàn. Phúc trình nêu rõ: "Điều thiết yếu là quyền tổ chức chính thức của ACFTU một cách nào đó phải được hội nhập với sức mạnh và hậu thuẩn của công nhân. Cả hai phía sẽ phải tìm cách đến với nhau"[39].
Đã hẳn, chúng ta có lý do để tìm hiểu những đổi thay đó có đến đủ nhanh hay không. Ralph Nader - người đã đem lại cảm hứng cho một thế hệ các nhà hoạt động đòi hỏi công bình toàn cầu và cũng là người nhiều năm vận động chống lại chế độ mậu dịch chi phối bởi các quy luật do các đại ngân hàng và các đại công ty áp đặt - chủ trương đối đầu với TQ và các xứ xuất khẩu có phí lao động thấp, như Ấn Độ, với một thứ quan thuế xã hội được thiết kế nhằm trung hòa hóa tình trạng thiếu quyền mặc cả tập thể, mức lương tối thiểu tương đối phải chăng, và sự thiếu vắng các quy luật đứng đắn. Nader công nhận cuối cùng rồi TQ cũng có thể thay đổi, nhất là phong trào canh tân đã dẫn đến tình trạng công nhân đòi hỏi quyền lợi nhiều hơn và tầng lớp trung lưu tăng thêm áp lực đòi hỏi phát huy dân chủ. Nhưng Nader không sẵn sàng nhẫn nại. Ông nói: "Nếu chúng ta đợi đủ lâu, chừng 35 năm sau, mức lương và điều kiện làm việc và những thứ đó có thể lên bằng nhau. Nhưng trong lúc giao thời, hãy nhìn các cộng đồng rổng ruột ở Hoa Kỳ"[40].
Tuy nhiên, cuối cùng Hoa Kỳ cũng chẳng làm được gì nhiều để thay đổi lộ trình hay quỹ đạo của TQ. Rất ít, nếu có, các biện pháp kinh tế đã được đề nghị, có thể buộc TQ phải thay đổi. Những biện pháp nầy chẳng những thiếu hữu hiệu, mà còn phản tác dụng, gây đổ vỡ lớn hơn cho Hoa Kỳ.
Henwood từ Left Business Observer nói: "Bất cứ biện pháp cứng rắn nào đối với TQ cũng đem lại phản tác dụng tai hại cho chính chúng ta"[41]. Nếu chiến tranh thương mãi xảy ra, TQ có thể, trong nhiều lựa chọn, dùng số mỹ kim dự trữ và các công khố phiếu của Hoa Kỳ như một thứ khí giới và có thể nhập khẩu hàng từ nhiều xứ khác hơn là Hoa Kỳ.
Sophie Richardson của Human Rights Watch nói, Hoa Kỳ phải đặt nặng vấn đề dân chủ hóa và nhân quyền hơn nữa trong nghị trình, ngay cả trong các cuộc họp về các đề tài khác , không phải e ngại làm phật lòng TQ: "Có rất nhiều cách để diễn đạt các đòi hỏi ấy trong các phiên họp giữa hai quốc gia mà không phải quá nặng lời giữa cuộc họp"[42]. Cho đến nay, T T Obama hình như luôn tránh né không nhắc đến vấn đề nhân quyền.
Hoa Kỳ có thể có rất ít lựa chọn , ngoài việc phải làm quen với sự kiện: TQ sẽ tự mình chuyển hóa. Dù vậy, Hoa Kỳ vẫn có thể dùng sự thách thức của TQ để nhanh chóng thay đổi phương thức làm việc trong quốc nội. Orville Schell nói: "Đây không phải chỉ là sự kiện TQ trỗi dậy như một địa chấn, nhưng chính sự sụp đổ tài chánh, kinh tế và văn hóa của chính chúng ta đã là nguyên nhân còn đáng kinh ngạc hơn. Chúng ta cần tìm cách để thích nghi với TQ, và để gây ảnh hưởng với TQ. Và đây không phải một kết luận tất yếu là vấn đề sẽ dễ dàng, hay ngay cả hòa dịu"[43]. QUAN HỆ HOA KỲ-TRUNG QUỐC: HỢP TÁC VÀ THÙ NGHỊCH
Chính quyền Obama, trong quan hệ đối nghịch với TQ về tỉ giá hối đoái, mậu dịch, và an ninh, đã trở nên ngày một cứng rắn hơn trong phương cách tiếp cận với Bắc Kinh. Hoa Thịnh Đốn hiện đang tìm kiếm đồng minh để đối đầu với siêu cường đang lên và đang tự khẳng định, cũng như chẳng mấy sẵn sàng hợp tác với Hoa Kỳ.
Trong một thay đổi từ quá trình ve vản tay đôi kiên trì, Obama đang cố gắng vận động thành lập những liên minh - trong số các đồng minh và đối tác thương mãi xa gần - với lập trường thống nhất đối với TQ về các vấn đề gai gốc như tỉ giá hối đoái và tranh giành quyền sở hữu các hải đảo trong vùng Biển Đông.
Những lợi điểm và giới hạn của cách tiếp cận mới nầy đã phơi bày rõ nét trong phiên họp giữa các nền kinh tế lớn nhất ở Hàn Quốc tuần trước. Hoa Kỳ đã giành được sự ủng hộ về một cam kết giảm thiểu các mất quân bình mậu dịch, một cam kết giúp tăng cường sức ép đối với TQ trong vấn đề tái định giá đồng nhân dân tệ với một tỉ suất cao hơn.
Tuy nhiên, Đức, Ý và Liên Bang Nga chống lại đề nghị của Hoa Kỳ ấn định những giới hạn bằng con số (numerical limits) trên số mất quân bình, một động thái lẽ ra đã có thể cô lập hóa Bắc Kinh nhiều hơn nữa. Điều nầy đã buộc bộ trưởng Ngân Khố, Timothy F. Geithner, trên đường về từ Nam Hàn, đã phải dừng chân ở TQ , trái với dự liệu , để thảo luận với quan chức tài chánh cao cấp Zhang Guobao, về tình hình lúc một căng thẳng liên quan đến vấn đề tỉ giá hối đoái.
Các quan chức chính quyền đã tiết lộ trình độ mất tin tưởng đáng lo ngại giữa TQ và Hoa Kỳ trong hai năm qua, buộc họ phải giảm thiểu hy vọng hợp tác với TQ trong nổ lực đối phó với những thách thức quan trọng như biến đổi khí hậu, cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, và một trật tự kinh tế toàn cầu mới.
Một nguyên nhân căng thẳng mới là TQ vừa quyết định ngưng chuyển tải số khoáng sản đất-quí-hiếm xuất khẩu qua Hoa Kỳ: "neodymium" cần thiết trong việc sản xuất hỏa tiễn điều khiển từ xa, các turbines gió, xe hơi chạy bằng xăng và điện, Apple iPhones...; hay "lanthanum" cần cho máy xúc tác catalytic converters làm sạch hệ thống thoát hơi trong xe chạy bằng xăng dầu... Các quan chức Hoa Thịnh Đốn đang âu lo - tự hỏi động lực bên sau động thái nầy mang tính chiến lược hay kinh tế. Tuy nhiên, tin tức mới nhất (29-10-2010) cho biết TQ đã cho phép tái tục việc chuyển tải trước ngày ngoại trưởng Clinton đến Bắc Kinh.
Theo David Shambaugh, giám đốc chương trình Chính Sách TQ tại Đại Học George Washington, "chính quyền Obama bắt đầu nhiệm kỳ với một ý tưởng quan yếu: biến đổi TQ thành một đối tác toàn cầu cùng chung sức đối phó với các thách thức toàn cầu. TQ đã từ chối bước tới và đảm nhận vai trò của mình. Nay họ hiểu, họ đang đối mặt với một xứ ngày một nhỏ nhen, ích kỷ, hung hăng, quốc gia cực đoan và hùng cường"[44].
Để chống lại điều Hoa Thịnh Đốn xem như sự trỗi dậy của chủ nghĩa thủ thắng TQ[45], Hoa Kỳ đang cố gắng vực dậy các đồng minh thời chiến tranh lạnh, như Nhật và Nam Hàn, và tăng cường sự hiện diện của mình ở vài nơi khác ở Á châu. Trong tuần nầy, ngoại trưởng Hillary Rodham Clinton sẽ viếng thăm Việt Nam lần thứ hai trong vòng 4 tháng, để tham dự hội nghị thượng đỉnh Đông Á, rất có thể với các vấn đề TQ giữ vai trò lấn át.
Tháng 11 tới, T T Obama có chương trình thăm viếng Nhật, Indonesia, Ấn và Nam Hàn, và bỏ qua TQ. Hành trình, trên nguyên tắc, không mang ý nghĩa một động thái nhằm làm mất mặt TQ. Trước đây, T T Obama đã một lần công du đến Bắc Kinh, và chuyến viếng thăm Indonesia cũng đã bị trì hoản khá lâu. Nhưng tính tượng trưng của hành trình vẫn lẩn quất trong đầu óc các quan chức Hoa Thịnh Đốn.
Jeffrey A. Bader, cố vấn cao cấp về chính sách TQ tại tòa Bạch Ốc, cho biết, sự kiện TQ khẳng định quyền lực của mình đã trở thành đặc biệt rõ nét tiếp theo sau khủng hoảng kinh tế 2008, một phần vì sự hồi phục chóng vánh của Bắc Kinh đã đưa đến phán xét khá phổ biến: Hoa Kỳ là một siêu cường đang tuột dốc và TQ một siêu cường đang lên.
Nhưng Bader nói tiếp, chính quyền Obama cương quyết trung hòa hóa ấn tượng nầy qua nổ lực tái khẳng định vai trò lãnh đạo của Mỹ.
Các yếu tố chính trị quốc nội cũng đã góp phần vào lập trường cứng rắn của chính quyền Obama. Với kinh tế còn khập khiểng và tỉ lệ thất nghiệp cao ở Mỹ, Bắc kinh đã trở thành mục tiêu trong mọi trạng huống. Trong mùa bầu cử Quốc Hội giữa kỳ, ứng viên, ít ra trong 30 đơn vị bầu cử, đã cảnh báo: TQ là một đe dọa đối với công ăn việc làm của người Mỹ.
Vào một thời điểm Quốc Hội bị tê liệt vì chính trị đảng phái, nỗi ấm ức về việc nhào nặn giá trị đồng nhân dân tệ của TQ đã trở thành một trong số ít đề mục giành được đồng thuận lưỡng đảng. Trình độ đồng thuận đã lên đỉnh điểm trong tháng 9-2010 khi đa số dân biểu Hạ Viện đã bỏ phiếu đe dọa áp đặt thuế quan lên hàng xuất khẩu TQ, nếu Bắc Kinh không cho phép đồng nhân dân tệ tăng giá theo luật cung cầu trên thị trường.
Điều rắc rối là chính trị nội bộ TQ đã đặt Bắc Kinh vào vị thế không thể làm gì khác. Với đảng Cộng Sản đang trong quá trình chuyển tiếp từ Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào qua người kế nhiệm chuẩn bị từ trước, Xi Jinping, cấp lãnh đạo TQ luôn cảnh giác đối với mọi đổi thay có thể phương hại đến tỉ suất tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, tình trạng chia rẽ giữa các lãnh đạo dân sự TQ và các thành phần lãnh đạo trong Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân đang ngày một sâu sắc. Nhiều sĩ quan TQ giữ thái độ công khai thù nghịch đối với Hoa Kỳ, vì họ tin chắc những cuộc tập trận của Hải Quân Mỹ gần đây trong vùng Hoàng Hải là một phần trong chính sách bao vây TQ.
Ngay cả nổ lực của chính quyền Hoa Kỳ hợp tác với TQ trong vấn đề biến đổi khí hậu và cấm phổ biến vũ khí hạt nhân cũng đã bị một số lãnh đạo ở Bắc Kinh nghi ngờ.
Các phụ tá của T T Obama, đa số là cựu quan chức dưới thời T T Clinton, đều hiểu rõ: trong quan hệ kinh tế, người ta luôn thấy có nhiều bước chiến thuật cận kề vực thẳm (brinkmanship), hàm ngụ gay cấn nhiều hơn trong thực tế.
Tuy nhiên, Tòa Bạch Ốc cũng có đủ lý do để quan ngại, và vì vậy, trong tháng 9-2010, đã gửi một phái đoàn cao cấp đến Bắc Kinh, gồm cả Bader, Lawrence H. Summers - nguyên giám đốc Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia, và Thomas E. Donilon, người vừa được cử giữ chức vụ cố vấn an ninh quốc gia.
Summers nói: "Chúng tôi rất ấn tượng với thái độ nghiêm chỉnh họ chia sẻ sự cam kết của chúng tôi về phương cách xử lý các dị biệt và công nhận hai quốc gia chúng tôi sẽ có tác động rất lớn trên kinh tế toàn cầu"[46].
Ngay trước cuộc họp mặt, TQ đã bắt đầu cho phép đồng nhân dân tệ tăng giá với một tỉ suất ít nhiều nhanh hơn, mặc dù tổng giá trị gia tăng, kể từ khi Bắc Kinh loan báo trong tháng 6-2010 họ sẽ buông lỏng các biện pháp kiểm soát hối đoái, vẫn chưa đến 3%. Các kinh tế gia ước tính đồng nhân dân tệ đã được đánh giá thấp khoảng 20%.
Trong lúc đó, căng thẳng mậu dịch giữa hai xứ lại một lần nữa bùng phát. Hoa Thịnh Đốn mới đây đã đồng ý điều tra vụ nghiệp đoàn United Steelworkers lên án TQ vi phạm quy chế Tổ Chức Thương Mãi Quốc Tế - WTO, qua các biện pháp hổ trợ của nhà nước dành cho các kỹ thuật năng lượng sạch. Động thái nầy đã khiến Zhang Guobao, quan chức năng lượng hàng đầu TQ, tố cáo chính quyền Mỹ đang tìm cách kiếm phiếu - một lối nói chua cay gây căm phẫn trong các quan chức Bạch Ốc.
Theo Summers, việc TQ ngưng chuyển tải các khoáng sản đất-quí-hiếm xuất khẩu qua Hoa Kỳ đang đặt ra nhiều vấn đề quan trọng trong cả hai địa hạt kinh tế và chiến lược, đòi hỏi một nghiên cứu cẩn mật trong nội bộ chính quyền Mỹ.
Trước đây, Bắc Kinh cũng đã ngưng chuyển tải loại khoáng sản nầy đến Nhật Bản, sau vụ tranh cãi khi tàu đánh cá TQ đụng vào hai tàu tuần tiểu Nhật gần những hải đảo đang tranh chấp.
Đây là một trong vài động thái khiêu khích gần đây của Bắc Kinh đối với các xứ láng giềng - kể cả một vụ đã khiến chính quyền Obama phải nhập cuộc.
Tháng 7 vừa qua, tại Hà Nội, ngoại trưởng Hillary R. Clinton đã tuyên bố: Hoa Kỳ sẽ giúp làm dễ dàng các cuộc thương thảo giữa Bắc Kinh và các xứ láng giềng về vấn đề tranh chấp hải đảo ở Biển Đông. Các viên chức TQ rất căm giận khi Hoa Kỳ rõ ràng đã thuyết phục được 12 xứ ủng hộ lập trường của mình.
Với chuyến viếng thăm Hoa Thịnh Đốn sắp tới của chủ tịch Hồ Cẩm Đào vào đầu năm 2011, các quan chức Hoa Thịnh Đốn cho biết bà Clinton sẽ có bài phát biểu hòa dịu hơn ở Á châu vào tuần nầy. Và hiện nay, người Mỹ cảm thấy lập trường của họ đối với TQ cũng đã được làm sáng tỏ.
Shambaugh nói, "tín hiệu gửi đến Bắc Kinh cần phải rõ ràng. Hoa Kỳ hiện có nhiều bạn bè gần gũi và thâm giao khác trong khu vực".[47]
Trong mọi trường hợp, tưởng cũng nên nhắc lại ở đây lối cảnh giác của dân gian: trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan!
© GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
29-10-2010
[1] SEIU: Service Employees International Union: Liên Hiệp Công Nhân Ngành Dịch Vụ Thế Giới
[2] ACFTU: All-China Federation of Trade Unions: Liên Hiệp Các Nghiệp Đoàn Trung Quốc.
[3] We have to recognize that China is the first real economic competitor that has ever threatened America's standing as the global economic superpower.
[4] Andy Stern seems to think he can find progressive elements within the ACFTU. And the SEIU is OK with that?
[5] IUOE: International Union of Operating Engineers: Liên Hiệp Quốc Tế các Kỹ Sư Đang Hành Nghề
[6] ESRC: Congressionally mandated US-China Economic and Security Review Commission: Ủy Hội Thẩm Định Kinh Tế và An Ninh Hoa-Mỹ do Quốc Hội sáng lập.
[7] Andy Stern threw away all principle and started dealing with the ACFTU. The head of the ACFTU is on the f**king Politburo!. He's a thug.
[8] Campaign for America's Future.
[9] The global imbalances generally - with Germany, Japan, China, Korea and others focused on an export model and relentlessly wedded to it without concern for moving to a more balanced marketplace - have a direct destabilizing effect on the global economy, and on this economy in particular, and can't be sustained. And so the United States has to move into a series of much more fraught confrontations and challenges, not just with the Chinese.
[10] I am concerned that there are other places in the world where China's form of authoritarian capitalism is taking hold. Look at how China is engaging in Africa.
[11] Asia Society's Center on U.S.-China Relations
[12] It's almost as if the continental plates of global politics are shifting beneath our feet. We suddenly have this other model of authoritarian capitalism that is proving remarkably successful, and it is even posing a challenge, not just economically but politically, to our belief that our system of democratic governance is the one that's best able to deliver a good life.
[13] Foreign Policy in Focus, Institute for Policy Studies (IPS).
[14] This drives a wedge right through the progressive community.
[15] Economic Policy Institute - EPI
[16] Alliance for American Manufacturing -AAM
[17] I would say to the Chinese, 'We are not going to allow the free access of Chinese goods, as long as you are pirating technology, requiring American companies to produce in China only for export and not for the Chinese market, extracting technology transfer agreements that are plainly coercive, and manipulating your currency.' Then the fat would be in the fire, and the Chinese would have to decide what they are going to do about it. It might lead to some conflict. If we took a harder line on Chinese mercantilism, it might get kind of ugly in the short term.
[18] The US government has an obligation to US workers to develop policies that are in our national interests.
[19] It does. I view my job as being concerned with the living standards of American workers.
[20] This will allow China to enjoy the fruits of its growth.
[21] I don't call it a success for working people. It's a disgrace. The regulatory system is like the Wild West, and nobody cares. You have long-term environmental damage, you have child labor, you have forced labor, the destruction of workers' health.
[22] We don't recognize the ACFTU as a real union. I consider them to be the government. They're management.
[23] The trade surplus is being used by China to build up a military. They want to build a blue-water navy in the Pacific, to develop sophisticated nuclear weapons, satellite-killing weapons. What does that say about peace? Their stated goal is, they want to have a presence in the Pacific Rim and challenge US supremacy in the Pacific. That has enormous implications.
[24] I would continue to sell arms to Taiwan.
[25] The notion that China could somehow increase its consumption in ways that would materially benefit American workers is not plausible. First, consumption in China has been rising rapidly for dacades. Second, raising it more rapidly means what? Having more cars and fewer roads to drive on? It doen't make any sense from a development standpoint. Why should they want to slow the pace at which they build infrastructure relative to the purchase of consumer goods? Why would they build fewer power plants and have more appliances in order to have brownouts?
[26] We're talking about a country that has the continuing potential to pull a huge number of people out of poverty. I don't think it can do that by competing fairly according to the rules of international policy.
[27] There is this longstanding Yellow Peril discourse in the United States, and a lot of this stuff fits into it comfortably. Yeah, they're competitive, but ... that history of Yellow Peril-ism makes it seem sinister and virulent. It's a lot easier to blame China than it is to look at what's wrong with the United States. There 's a kind of natioalism that is a little too close to xenophobia that fuels this sort of thing, and populists on the left and right can agree on not liking China.
[28] Center for International Policy - CIP
[29] The idea that we should accept China's interests in East Asia, I would think, should be readily understood by liberals. The fact that China is going to have a navy with a long reach, that it's going to be a superpower, just as India is, well, America has to adjust.
[30] It would be disastrous for progressives to provide foffer for the military-industrial complex by demonising China. There are very powerful interests in Washington who want to set us on a path of confrontation.
[31] We'll never get China to behave economically on key issues like the currency peg and their position in the future on holding our securities if we continue to f**k them on Taiwan.
[32] More than twenty provinces have introduced increases in the minimum wage of around 20%. When strikes have braken out, many local governments have interceded and tried to get management and workers to negotiate.
[33] I get in trouble on Glenn Beck saying, 'Workers of the world unite!'. It's not just a slogan.
[34] There's a big evolution going on. And to me, the question is, "Where does the union end up, not where it started".
[35] The government is pushing them to transform, too.
[36] Labor Center, University of California, Berkeley - UC Berkeley.
[37] The policy of the AFL-CIO to boycott China, to have nothing to do with China, has only kept the working class behind.
[38] Going It Alone: The Workers Movement in China, 2007-2008.
[39] It is essential that the formal organizing power of the ACFTU somehow be integrated with the strength and support of the workers. The two sides will have to find a way of coming together.
[40] If we wait long enough, in thirty-five years wages and working conditions and all that may equal out. But look at the hollowed-out communities in the United States in the meantime.
[41] Any attempt to get tough with the Chinese would also bite us in the ass.
[42] There are all sorts of ways of saying it in meetings between the two countries without it being a giant f**k you! in the middle of the meeting.
[43] It isn't just China's rise, which is tectonic, but it's our own financial, political and cultural collapse that is cause for even more consternation. We need to find ways to accommodate China, and to influence it. And it's not a foregone conclusion that it will be easy, or even peaceable.
[44] This administration came in with one dominant idea: make China a global partner in facing global challenges. China failed to step up and play that role. Now, they realize they're dealing with an increasingly narrow-minded, self-interested, truculent, hyper-nationalist and powerful country.
[45] Chinese triumphalism.
[46] We were struck by the seriousness with which they shared our commitment to managing differences and recognizing that our two countries were going to have a very large effect on the global economy.
[47] The signal to Beijing ought to be clear. The U.S. has other closer,deeper friends in the region.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 8:07:33 GMT 9
Alan Charles Kors Có “Hậu chủ nghĩa xã hội” chăng? Ðông Hiến hiệu đính Lê K. Hiển dịch Không có “hậu chủ nghĩa xã hội”. Trong đời chúng ta, hoặc đời con chúng ta, sẽ không có cái gọi là “hậu chủ nghĩa xã hội”. Ngay sau Đại nạn Diệt chủng Do Thái (Holocaust) và sự sụp đổ của chủ nghĩa Quốc xã, chủ nghĩa kỳ thị người Do Thái đã phần nào im hơi lặng tiếng, hổ thẹn vì đã chường ra bộ mặt xấu xa nhất, thể hiện dưới hình thức quyền lực nhà nước thực sự. Ngay sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, vốn dĩ là cơ hội hiện thực nhất để chủ nghĩa xã hội thử nghiệm quyền lực toàn diện, chủ nghĩa xã hội cũng phải im hơi lặng tiếng, nhưng chỉ trong chốc lát. Tuy nhiên, những nguyên cớ dẫn đến chủ nghĩa xã hội ở Tây phương vẫn còn mãi với chúng ta, đó là sản phẩm của sự hội tụ hai thành tựu xuất sắc: một hệ thống kinh doanh tự do cởi mở và một thể chế chính trị dân chủ. Thành tựu thứ nhất tạo ra của cải vật chất làm thay đổi hoàn toàn những giới hạn của con người, nhưng đồng thời cũng làm nảy sinh tính ghen tỵ đặc biệt sâu sắc. Thành tựu thứ hai thì lại tạo ra cho những người có tham vọng một con đường để đạt được quyền lực, dưới hình thức kêu gọi nhà nước dân chủ phải nhân danh công bằng xã hội mà thâu tóm và tái phân phối của cải. Như Friedrich Hayek và Ludwig von Mises đã từng hiểu một cách toàn vẹn, của cải dồi dào do hệ thống kinh doanh tự do cởi mở mang lại đã làm cho những thành phần vô tích sự tin rằng những của cải ấy vốn sẵn có, là “của trời cho”, ai lấy cũng được. Chủ nghĩa xã hội có nghĩa là bãi bỏ tư hữu, tư lợi, và bãi bỏ trao đổi tự nguyện giữa các cá nhân với nhau. Điều đó có nghĩa là việc tổ chức sản xuất và phân phối hàng hoá và dịch vụ - tức là những thành quả của phát minh, sáng kiến, tư duy, sự can đảm, tài năng, và sức lao động của con người - sẽ được thực hiện dưới bàn tay của các nhà hoạch định chính trị, những người được cho rằng vừa nắm vững nguyện vọng của quần chúng, vừa biết cách đáp ứng những nguyện vọng đó. Chủ nghĩa xã hội cũng có nghĩa là tài sản riêng sẽ bị quốc hữu hoá và của cải sẽ được phân phối bởi những người làm kế hoạch dựa trên những tiêu chuẩn do chính những người nầy xác định. Chủ nghĩa xã hội là một chủ nghĩa mà bất kỳ đứa bé con nào cũng hiểu. Đó chính là việc lấy đồ của người khác. Đó cũng chính là câu chuyện giết con gà đẻ trứng vàng một cách hồ đồ và ngu tối. Câu chuyện này sở dĩ đã đi vào văn học dân gian và mang tính trường cửu chính là vì nó đã phản ánh một cái gì thật sâu xa trong bản chất của con người. Vì thế, trên thực tế, ta chỉ có thể nói đến “hậu chủ nghĩa xã hội” một khi đã loại bỏ được lòng thèm muốn, sự oán giận, bạo lực, sự thiếu lý trí, và tham vọng chính trị trong các công việc của chúng ta. Điều này, tuy nhiên, chỉ có thể có được trong một thế giới khác. Sẽ không khó khăn, - thật ra ngay bây giờ cũng không khó khăn gì lắm – để cho chủ nghĩa xã hội, khi cần thiết, tự đổi cái tên xưa xưa là lạ đó một chút trong khi vẫn hun đúc lòng tị hiềm, tham vọng, vọng tưởng, và cơn cuồng vọng muốn kế hoạch hoá cuộc sống của người khác thành một chương trình hành động đầy sức mạnh về chính trị, kinh tế, và cuối cùng là văn hoá. Giờ đây, toàn bộ giấc mơ và niềm xác tín thiên niên của chủ nghĩa xã hội thời thế kỷ thứ mười chín có lẽ không còn hiệu nghiệm để sách động đám đông, các đầu lĩnh, hay những kẻ muốn tử vì đạo, nhưng các giá trị và nguyên động lực nền tảng của chủ nghĩa xã hội vẫn còn mạnh mẽ và năng động. Vào giai đoạn này, một giai đoạn “hậu chủ nghĩa xã hội”, các nhà chính trị, những kẻ mỵ dân,vẫn và sẽ thành công trong việc kêu gọi chống lại quyền tư sản, lợi nhuận, tự do kinh tế, và “thị trường”. Chính nhờ “hậu chủ nghĩa xã hội”, mà Lionel Jospin và Đảng Xã hội của ông ta đã nắm được chính quyền tại Pháp, trên chiêu bài tạo thêm công ăn việc làm bằng cách khống chế số giờ được làm việc mỗi tuần trong khi vẫn giữ nguyên mức lương. Chính nhờ “hậu chủ nghĩa xã hội”, mà học thuyết “Con đường thứ Ba” đã giành được uy tín và ảnh hưởng, trong khi một trong những “con đường” bị bỏ quên lại là con đường dựa trên tự do kinh tế trao đổi tự nguyện. Cũng chính do “Hậu chủ nghĩa xã hội” mà chúng ta chứng kiến một đất nước tự do nhất trên thế giới lại bị cuốn vào tình trạng kế hoạch hoá tập trung các dịch vụ bảo vệ sức khoẻ và phân phối dược phẩm. Cũng chính do “hậu chủ nghĩa xã hội” mà chúng ta thấy quyền kiểm soát đời sống kinh tế ngày càng được phó thác nhiều hơn cho những hội đồng quốc tế gồm những người được mệnh danh là chuyên gia. Những sự kiện trên lại xảy ra lúc mà ai cũng nghĩ rằng hệ thống tự do kinh doanh đã đắc thắng, trong khi các nền kinh tế tập trung đã thất bại thê thảm. Do đó, sẽ là ngu muội nếu tin rằng trong tương lai con người sẽ ít bị mê hoặc hơn bây giờ bởi những học thuyết mị dân, bởi lòng ghen tỵ, và bởi huyền thoại kế hoạch hoá. Không có cách gì để nhận định chắc chắn tương lai sẽ thuộc về ai. Ta phải lưu ý đến bài tựa Mises viết cho ấn bản lần thứ nhì (1951) của tác phẩm kinh điển của ông về chủ nghĩa xã hội, Die Gemeinwirtschaft: Untersuchungen über den Sozialismus (1922). Mises đã cảnh cáo chúng ta đừng lầm lẫn giữa những “sự kình địch giữa các phong trào toàn trị khác nhau” - cuộc đối đầu giữa các nhà chống cộng sản trên sách vở (ví dụ như những người theo Vận hội Mới (New Dealers) và những người theo chủ nghĩa xã hội ở Tây Âu) và những người cộng sản - với một cuộc tranh chấp sâu sắc hơn, “cuộc tranh chấp ý thức hệ lớn của thời đại của chúng ta”, - tức là cuộc đụng đầu giữa những người ủng hộ “kinh tế thị trường” và những người ủng hộ “quyền lực nhà nước toàn trị.” [1] Mises đã lầm lẫn, ngay trong bối cảnh lịch sử thời bấy giờ, khi ông coi nhẹ các tranh chấp giữa một bên là những người New Dealers và những người theo chủ nghĩa xã hội ở Tây Âu với bên kia là những người Bôn-sê-vic; lầm lẫn bởi vì có giành được tự do cá nhân cho con người hay không, là tuỳ thuộc vào việc chủ nghĩa cộng sản có bị đánh bại hay không. Ông cũng đã sai lầm khi - đối diện với một chủ nghĩa cộng sản trong đó con người chỉ là phương tiện để đạt đến cứu cánh - lý luận rằng để cho một tập đoàn kỹ sư kinh tế này hay một một tập đoàn kỹ sư kinh tế nọ kiểm soát cỗ máy kế hoạch của nhà nước thì cũng vậy thôi, không có khác biệt gì đáng kể. Dường như Mises không bao giờ hiểu một cách toàn vẹn - nếu ông có hiểu đi nữa - tính bất khả phân giữa quyền tư hữu trên mọi lãnh vực và sự tự do về kinh tế. Tuy nhiên, xét chung cuộc, ông đã đúng khi cho rằng, rốt cuộc tự do vẫn tuỳ thuộc vào kết quả của cuộc chiến đấu giữa một bên là quyền tư hữu, tư doanh, sản xuất và trao đổi tự nguyện, và một bên là kế hoạch hoá tập trung. Hayek và Mises đã gặp nhau ở chỗ họ tin tưởng rằng sự kế hoạch hoá từ trung ương có một lô-gích kinh tế, xã hội, ý thức hệ, văn hoá, và tối hậu là toàn trị hoá. Về mặt lý thuyết kinh tế cơ bản, cả hai đã hiểu được tính chất quá ư hiển nhiên của một điều mà nhiều nhà trí thức Tây phương đương đại vẫn xem như một ý nghĩ ngờ nghệch: đó là, một xã hội và kinh tế càng phức tạp thì việc kế hoạch hoá tập trung càng trở nên bất khả thi và không ăn khớp. Một khi không có cơ chế giá cả để phản ánh các lựa chọn của cá nhân thì xã hội sẽ không có biện pháp hữu hiệu để phát hiện và phân phối các kiến thức về kinh tế, hoặc để phối hợp các hoạt động của nhiều tác nhân riêng lẻ, hướng tới sự thoả mãn những nhu cầu của con người. Sâu sắc hơn nữa, cả Hayek lẫn Mises - khi nói về những hậu quả sâu sắc nhất đối với đời sống và xã hội - đều đã hiểu rằng sự hoạch định từ trung ương đã đặt chúng ta, theo lời của Hayek, vào Con đường đến chế độ nông nô. Vào những năm cuối của thập niên 1920, những người cộng sản bắt đầu phân biệt giữa “chủ nghĩa xã hội” và “chủ nghĩa cộng sản.” Chia tay với Marx, người có vẻ đã dùng chung hai khái niệm trên một cách không phân biệt, Đảng Cộng sản Liên Xô – và do đó, phong trào cộng sản quốc tế - đã lập luận rằng “chủ nghĩa xã hội” là một thời kỳ quá độ giữa chủ nghĩa tư bản và “chủ nghĩa cộng sản” tối hậu. Trong chừng mực nào đó, tác phẩm của Hayek, Con đường đến chế độ nông nô (1944) - thật ra tác phẩm này còn tải rất, rất nhiều ý khác nữa – có thể được xem như là một luận cứ đã được khẳng định, theo đó, dù có chủ ý hay không, “chủ nghĩa xã hội dân chủ” chỉ có thể là một thời kỳ quá độ đến một cái gì khác. [2] Tuy nhiên, cái gì khác đó không phải là một thế giới không tưởng, nhưng lại là một cái gì tương tự như chủ nghĩa cộng sản Sô Viết, một chủ nghĩa toàn trị ra đời sau khi tự do kinh tế và xã hội đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Cốt lõi của luận cứ trên nằm trong chương “Tại sao những kẻ tồi tệ nhất lại ngoi lên được những địa vị cao nhất,” một chương có thể làm lạnh gáy người đọc, có tính quy nạp hoàn chỉnh, và, vì khả năng dự phóng của nó, còn có tính tiên tri. Trong chương này, Hayek lập luận rằng đây không phải là một sự ngẫu nhiên về thời gian hay không gian, như trong trường hợp chủ nghĩa quốc xã hoặc chủ nghĩa Bôn-Sê-Víc, khi một xã hội tổ chức theo mô hình kinh tế kế hoạch hoá và trung ương tập quyền, sẽ dung nạp và ban thưởng cho những kẻ khiếm khuyết nhất về đạo đức. Những kẻ có quan điểm, cá tính, và hành vi như thế nào mới khả dĩ thu được thành công chính trị trong một hệ thống tập thể? Theo ý Hayek, chúng phải là những người mạnh bạo và hung hãn. Chúng phải là những kẻ ít băn khoăn nhất khi chọn lựa thủ đoạn hoặc phương tiện. Chúng là những kẻ có khả năng tập hợp được những đối tượng vừa dễ bảo, vừa nhẫn tâm. Chúng phải là những kẻ mị dân biết vận động được những người ngoan ngoãn, nhẹ dạ, và thụ động. Chúng phải là những nhà lãnh đạo biết cách khéo léo chia xã hội thành “phe ta” và bên kia là “bọn địch” nham hiểm, đồng thời cũng phải là những kẻ đã kết nối thành công chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa dân tộc cực đoan nhưng được lòng đại chúng, và với chủ nghĩa cục bộ địa phương. Và trên hết, chúng là những kẻ nắm lấy và xem quyền lực không phải là một liều thuốc đắng bất đắc dĩ mới cần dùng đến, mà chính là mục tiêu tối hậu. [3] Hayek lý luận rằng trong một xã hội mang tính cạnh tranh, quyền lực chính trị và kinh tế được tách rời ra, và không ai có thể giành được nhiều hơn là một phần rất nhỏ nếu so sánh với khối quyền lực thống trị khổng lồ nằm trong tầm tay các nhà làm kế hoạch ở một xã hội mà toàn bộ đời sống kinh tế, xã hội, giáo dục, và văn hoá đều nằm trong vòng kế hoạch hoá. Một khi quyền lực kinh tế bao trùm toàn bộ đời sống của người khác được tập trung lại thành quyền lực chính trị, thì nó sẽ tạo nên một xã hội gồm toàn những người gần như nô lệ theo nghĩa bóng. Đó chính là cách các chủ nô cai trị nô lệ, khi trong một xã hội mà các quyết định của người cầm quyền về “những điều có lợi cho tập thể” có sức nặng hơn những quy định pháp luật và nguyên tắc đạo đức cá nhân. Trong một xã hội như vậy, những người có lý tưởng xác tín về đúng sai sẽ tìm cách thoát khỏi guồng máy phục vụ của những chủ nô. Trong một xã hội như vậy, những kẻ “dám làm mọi chuyện, theo nghĩa đen”, theo đúng từ của Hayek, sẽ leo lên được những chức vụ cao cấp, chỉ dưới người cầm quyền cao nhất, một con người mà niềm say mê chủ yếu trong đời là ham muốn được người khác tuân phục. Vấn đề ở đây không phải chỉ là những người rộng lượng, có đạo đức, và biết kiềm chế sẽ không có cơ hội giành được quyền lực trong một xã hội tập thể, mà còn ở chỗ, sẽ chỉ có những kẻ xấu xa nhất mới có thể thành công được trong xã hội đó. Cho dù lý tưởng, mục đích ban đầu, và những nguyên nhân tạo dựng được niềm tin từ buổi sơ khai vào chủ nghĩa xã hội có là gì chăng nữa, vẫn có nhiều lý do nội tại về mặt tâm lý và tổ chức, mang tính hệ thống khiến cho chủ nghĩa xã hội sẽ luôn luôn dẫn đến chế độ nông nô và sự hy sinh số đông. [4] Phân tích của Hayek chưa bao giờ là quan điểm chung tại Tây phương, và lại càng không là quan điểm chung trong các giới trí thức chuyên về chính trị tại Âu Châu và Hoa Kỳ. Sự sụp đổ của các chế độ cộng sản tại Âu Châu sẽ chỉ dẫn đến ảo giác về bản chất của chủ nghĩa xã hội được đội lốt các danh xưng khác, nếu các khái niệm này, theo quan điểm Tây phương, có liên hệ với quá khứ kinh hoàng của chủ nghĩa xã hội. Chưa có bằng chứng để tin rằng nguy cơ nói trên đã xảy ra. Chúng ta hãy xem xét, để đối chiếu, cơn sóng vỡ mộng đầu tiên tràn qua Âu Châu và Tây phương vào thập niên 1930 khi thấy các “việc làm quá tay” của chủ nghĩa Stalin, hay đúng hơn là, khi nhận thấy chủ nghĩa này đã thực sự thất bại, không thực hiện được giấc mơ Bôn-Sê-Víc. Hãy lưu ý, để hiểu rõ tính chất của phong trào trí thức chống Stalin, khác với trường hợp chủ nghĩa phát xít, không có trước tác nào đáng kể nói về sự “vỡ mộng” khi chủ nghĩa dân xã thất bại vì không thực hiện được lý tưởng của chính nó, tức là bộ lạc chủ nghĩa, chủ nghĩa dân tộc độc chiếm và bành trướng, nhà nước đoàn thể, và nguyên lý lãnh tụ (Furher). Nói chung, ngay cả các bài viết chống cộng hấp dẫn nhất đối với các nhà trí thức Tây phương vào những thập niên 1940 và 1950 cũng chỉ đi đến kết luận là chủ nghĩa cộng sản đã thất bại trong việc thực thi những lý tưởng chính đáng của chủ nghĩa xã hội. Dẫu rằng nhiều trước tác đã đạt tới mức độ được công nhận chính thống, bất khả tư nghị vì được viết dựa trên những kinh nghiệm cá nhân, chưa có tác giả nào viết với tư cách đại diện cho một xã hội tự do kiểu mẫuvới các thành tố cốt lõi, tức là một hệ thống bao gồm quyền sở hữu tư nhân, tự do kinh doanh, trao đổi tự nguyện, và các quyền cá nhân. Trong tác phẩm Ca ngợi Catalonia (Homage to Catalonia, 1938), Geoge Orwell đã tuyên dương chủ nghĩa vô chính phủ-công đoàn lên trên hết tất cả, xem nó như là một phản đề của chủ nghĩa cộng sản. Orwell nhận định rằng trong hàng ngũ cánh tả Tây Ban Nha, chủ nghĩa vô chính phủ-công đoàn là tầng lớp chống chủ nghĩa cởi mở roõ rệt nhất, trong khi chủ nghĩa cộng sản thì lại sặc mùi “tư sản.” Trong cuốn 1984 (1949), một tác phẩm bất hủ, Orwell có đề cập đến tự do cá nhân trong cuộc sống riêng tư và đời sống tinh thần, nhưng đã không bàn đến tự do về kinh tế, thực chất là người bạn gần gũi nhất của cuộc sống riêng tư và cuộc sống tinh thần. Trong tác phẩm xuất sắc của ông, Trại súc vật (Animal Farm, 1945), ông mô tả thảm kịch cuối cùng là việc ban lãnh đạo của cuộc cách mạng đã biến thành y hệt như giai cấp tư sản. Tác phẩm Đêm gi ữa ban ngày (Darkness At Noon, 1940) của Arthur Koestler- một tác phẩm sâu sắc nhất, cảm động nhất, và có tính thuyết phục cao nhất trong tất cả các tác phẩm phân tích và phê bình về lô-gích đạo lý của chủ nghĩa cộng sản do phái tả viết - lại là giấc mơ về một ngày mai khi cuộc tranh đấu của những người xã hội chủ nghĩa chống lại “tai ương kinh tế” sẽ được kết nối với ý thức đại đồng về lòng nhân đạo và luân thường đạo lý tuyệt đối. Ít có tác phẩm chống cộng nào gây được nhiều ảnh hưởng và ăn khách lâu như cuốn Vị thượng đế đã thất bại (The God That Failed, 1949), được chính Richard Crossman, nhà xã hội chủ nghĩa đồng thời là Nghị viên Đảng Lao động Anh, biên tập. [5] Những tiểu luận về sự vỡ mộng chính trị trong tuyển tập này là những bài viết làm người đọc choáng váng. Chúng giải thích một cách thuyết phục và đầy lòng cảm thông về sự hấp dẫn của chủ nghĩa cộng sản đối với các tín đồ trí thức của nó hơn tất cả các tác phẩm khác. Chúng mô tả sống động và xác thực về những trải nghiệm kinh hoàng mà những người tham gia vào (hoặc chỉ đồng hành với) phong trào cộng sản đã phải trải qua trong thời kỳ giữa hai cuộc thế chiến, cũng như sự oái oăm về nhận thức, khi họ vẫn tiếp tục tham gia vào phong trào cộng sản một thời gian dài sau khi đã thấy rõ các lý tưởng đã bị phản bội, rồi quyết định ly khai là một trải nghiệm đau đớn nhưng hợp đạo lý như thế nào. Nhưng tất cả mọi bài tiểu luận trong tuyển tập đều tiếp tục chối bỏ một xã hội tự do, và, trên hết, một nền kinh tế tự do. Bài dẫn nhập của Crossman đã đề cập thẳng rằng sự hấp dẫn của chủ nghĩa Mác nằm ở chỗ nó “đã bóc trần các ý kiến nguỵ biện của các phe cởi mở - những sai lầm thật sự.” Ông mô tả nền tảng trí tuệ của nền kinh doanh tự do là niềm tin vào “thuyết tự Tiến bộ” và việc phủ nhận quan niệm “chu kỳ phát triển và suy thoái là đặc thù của chủ nghĩa tư bản.” Ông xác định rằng “không có người thông minh nào sau năm 1917” lại có thể chọn lựa các “Tín điều” của thuyết cởi mở, và nếu chỉ có hai lựa chọn, thì bất cứ đầu óc lương thiện nào cũng sẽ phải chọn chủ nghĩa cộng sản. Tuy thế, may mắn thay, Crossman đã đề xuất ý kiến là “hai cuộc thế chiến và hai cuộc cách mạng toàn trị” đã dạy các nước dân chủ Tây phương rằng họ cần phải “đề xuất một giải pháp khác cho cách mạng toàn cầu bằng cách hoạch định sự cộng tác giữa những người tự do.” [6] Trong tiểu luận của mình trong tuyển tập Vị thượng đế đã thất bại, Koestler so sánh thời gian ông ở trong Đảng Cộng sản với sự việc Jacob phải ở với Leah, chứ không phải với Rachel yêu dấu và xinh đẹp. [7] Ông khẳng định rằng những gì đã xuất hiện không phải là chủ nghĩa cộng sản mà chỉ là những thứ đội lốt chủ nghĩa cộng sản. Ông hy vọng rằng, cũng như Jacob, sau một thời gian làm việc lao khổ, ông sẽ được ban cho Rachel. [8] Ignazio Silone nói “niềm tin về chủ nghĩa xã hội” còn “sống động hơn bao giờ hết trong tôi”. Ông kết luận rằng các lý thuyết xã hội chủ nghĩa chỉ mang tính tạm bợ và không có gì quan trọng. [9] Trong khi đó, các giá trị xã hội chủ nghĩa thì lại “trường cửu,” và trên cơ sở những giá trị đó, “người ta có thể tạo dựng một nền văn hoá, một nền văn minh, một đường lối mới cho con người sống chung với nhau.” Richard Wright thì kết luận như sau về những người cộng sản: “Họ bị mù loà… Họ bị mù loà vì kẻ thù của họ đã áp bức họ quá mức.” Tuy vậy, ông tự nhủ “Tôi sẽ vì họ, cho dù họ không vì tôi.” [10] André Gide, người có bài viết trong tuyển tập của Crossman, trích từ các tác phẩm Trở về từ Liên Xô (Retour de l’U.R.S.S) (1836) và Chỉnh lý cho tác phẩm Trở về từ Liên Xô (Retouches à mon retour de l’U.R.S.S) (1937), đã vỡ mộng với chủ nghĩa cộng sản, một mặt vì chủ nghĩa đó chà đạp tính độc lập của nghệ thuật và, trên hết, vì ông ta đã thấy tại Liên Xô, “các đặc quyền, đặc lợi trong khi mong mỏi tìm thấy sự công bằng.” “Người lao động Sô Viết,” ông ghi nhận, “không còn bị bóc lột bởi các nhà tư bản nắm các cổ phần, nhưng dù sao, họ vẫn bị bóc lột” và “các thói hư tật xấu của giai cấp tư sản vẫn còn im lìm nằm đó, mặc dù Cách mạng đã thành công.” “Nước Nga của Stalin,” theo Gide, “vẫn là cái xã hội tư bản của ngày xưa.” [11] Trong bài tiểu luận của mình, Louis Fischer hướng tới Gandhi, chứ không chọn chủ nghĩa xã hội dân chủ Âu Châu, và vận động “Chối bỏ cả hai thứ,” cả hệ thống xã hội tự do cạnh tranh lẫn hệ thống Cộng Sản. [12] Bằng phong cách riêng của mình, Stephen Spender cũng nhấn mạnh rằng phải chối bỏ cả hai. Mặc dù ông tuyên bố không còn chút hy vọng gì cho chủ nghĩa cộng sản, ông cảm nhận rằng “nếu nó (chủ nghĩa cộng sản) có thể tiến tới được chủ nghĩa quốc tế và xã hội hoá được các phương tiện sản xuất, thì nó có thể thiết lập được một thế giới không bị chế ngự bởi những mâu thuẫn kinh tế tự thân”. Ông khẳng định với độc giả rằng “không có lời phê bình nào hướng về những người cộng sản có thể giảm nhẹ được những chỉ trích đối với chủ nghĩa tư bản.” Thật ra, ông còn lý luận là “Hoa Kỳ, nước tư bản lớn nhất, hình như không đưa ra một giải pháp nào khác để thay thế cho chiến tranh, bóc lột, và sự tàn phá các tài nguyên của thế giới.” [13] Thực ra, hầu như chưa có ai căn cứ trên thực tế của thời những người cộng sản cầm quyền để phán xét chủ nghĩa xã hội trong vai trò một đích đến và một thang giá trị. Tuy nhiên, cũng như những nhà Mác-xít, Hayek đã xử sự đúng khi ông yêu cầu thế kỷ của ông hãy phán xét các hình thái xã hội không phải trên cơ sở các lý tưởng trừu tượng, mà phải dựa trên cơ sở những biểu hiện có thật và sinh động của chúng. Chúng ta hãy làm việc này. Mục đích của chủ nghĩa xã hội trước hết là gặt hái những thành quả về văn hoá, khoa học, sáng tạo, và tính tập thể một khi đã xoá bỏ được chế độ tư hữu và thị trường tự do, tiến tới chấm dứt tình trạng người bóc lột người. Với công cụ quyền lực nhà nước, chủ nghĩa cộng sản đã tìm cách tạo dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa như thế. Nhưng trên thực tế, điều xảy ra là một nhúm người chuyên quyền độc đoán đã chiếm đoạt được quyền lực: Lê-nin, Stalin, Mao Trạch Đông, Kim Nhật Thành, Hồ Chí Minh, Pol Pot, Castro, Mengistu, Ceaucescu, Hoxha, vân vân và vân vân. Nhìn chung, tất cả các nhân vật chuyên quyền bạo ngược đó đã cai trị (và một số vẫn còn cai trị, đích thân cá nhân họ hoặc qua con cháu của họ y như trong một triều đại) cho đến già. Ai cũng biết các xã hội truyền thống là những xã hội biết tôn trọng người già cả, nhưng các xã hội cách mạng ngày nay lại dạy chúng ta những bài học ngoài sức tưởng tượng về chế độ lão trị. Vào năm 1944, Hayek chưa chứng kiến được một nửa hiện tượng này: “Những kẻ tồi tệ nhất” yêu và cố bám lấy quyền lực bằng mọi giá và không một chút nhân nhượng. Và giờ đây, chúng ta được mời đến để luận bàn về những gì sẽ xảy ra sau các nhà độc tài đó, về những bài học nào chúng ta đã học được từ chế độ độc tài, và về thế giới nào sẽ xuất hiện sau khi niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản đã mất đi. Tuy nhiên, vẫn tồn tại một vấn đề: những xác chết. Quanh chúng ta đầy rẫy xác chết của những người vô tội bị giết hại với quy mô chưa từng thấy. Đây không phải là vài ngàn người bị giết trong thời kỳ Toà án Dị giáo; đây không phải hàng ngàn người Mỹ da đen bị đám đông da trắng treo cổ mà không cần xét xử. Đây không phải là sáu triệu người chết vì bị Đức quốc xã tiêu diệt. Những khảo cứu đứng đắn nhất đưa ra những con số mà phải cố gắng lắm, trí tuệ chúng ta mới có thể hiểu: hàng chục, và hàng chục, và hàng chục, và hàng chục triệu xác chết. Ngay quanh chúng ta. [14] Và nếu chúng ta kể thêm số người đã chết đói khi người cộng sản thí nghiệm với các quan hệ giữa người và người – hai mươi đến bốn mươi triệu người trong vòng ba năm chỉ riêng tại Trung Quốc [15] – chúng ta có thể cộng thêm hàng chục triệu nữa. Chết vì bị bắn, chết vì lạnh, chết vì đói, và bị giết chết trong những trại tù, những trại cải tạo lao động mà người cộng sản đã dựng lên để bòn rút đến tận cùng sức lao động của những con người ở trong đó và sau đó đem họ ra giết. Và cùng khắp quanh chúng ta, là những người đàn bà goá chồng, những người đàn ông goá vợ, và những đứa trẻ mồ côi. Trong suốt lịch sử nhân loại, chưa từng có một giai đoạn nào sản xuất ra nhiều nhà độc tài khát máu, nhiều kẻ vô tội bị tàn sát, và nhiều trẻ mồ côi như chủ nghĩa xã hội khi nắm quyền lực nhà nước. So với tất cả các chế độ sản xuất khác, cặp bài trùng “chủ nghĩa xã hội và quyền lực” này đã vượt trội, tính theo cấp số nhân, về sản lượng xác chết đã sản sinh ra. Những xác chết đó đầy rẫy quanh chúng ta. Và vấn đề là ở chỗ này: Không một ai nói đến họ. Không một ai tôn vinh họ. Không một ai hối hận vì (đã giết) họ. Không một ai tự sát vì đã trót bênh vực và biện minh cho những kẻ đã giết họ. Không một ai trả giá vì (đã giết) họ. Không một ai bị truy cứu trách nhiệm vì những việc đã làm đối với họ. Đúng như Solzhenitsyn đã tiên liệu trong Quần đảo ngục tù (The Gulag Archipelago): “Không, sẽ không có một ai cần phải trả lời. Sẽ không có ai bị soi xét vì chuyện này.” [16] Mà chừng nào những chuyện đó xảy ra, sẽ không có “hậu chủ nghĩa xã hội.”
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 8:09:23 GMT 9
Tây phương chấp nhận một tiêu chuẩn đạo lý nước đôi, có tầm vóc lịch sử, quái đản và không thể tha thứ được. Hầu như hàng ngày, chúng ta đều ôn lại những tội ác của chế độ quốc xã, chúng ta dạy cho con cái chúng ta biết về những tội ác đó, và chúng ta làm chứng nhân cho từng nạn nhân một. Trong khi đó, trừ một thiểu số ngoại lệ, chúng ta hầu như hoàn toàn im hơi lặng tiếng về những tội ác của chủ nghĩa cộng sản. Và do đó, những xác chết cứ nằm giữa chúng ta khắp mọi nơi, không ai để ý tới. Chúng ta đòi hỏi phải “Giải độc chủ nghĩa quốc xã”, và chúng ta lên án những kẻ đã dám nhân danh những lực lượng chính trị mới hay đang hình thành để nhẹ tay với quy trình tẩy rửa ấy. Trong khi đó, chưa hề có, và sẽ không bao giờ có, một quy trình “Giải độc chủ nghĩa cộng sản” tương tự, mặc dù mức độ tàn sát những người vô tội lớn hơn gấp nhiều lần, mặc dù những nhân vật ký các lệnh và quản lý các trại tập trung vẫn còn sống sờ sờ ra đó. Trong trường hợp chủ nghĩa quốc xã, chúng ta truy lùng những đối tượng đã già trên chín mươi tuổi vì “nắm xương khô của những nạn nhân vẫn đang kêu gào” đòi công lý. Đối với chủ nghĩa cộng sản, chúng ta lại đòi đừng diễn lại màn “săn lùng phù thuỷ” - hãy để người đã chết chôn người đang sống. Nhưng mà, người chết đâu có thể chôn cất được ai.
Các nghệ sĩ của chúng ta có lý khi họ bị ám ảnh bởi Đại nạn diệt chủng Do Thái, một biến cố kéo dài vài năm và, tuy nhỏ hơn về quy mô nhưng vẫn lớn tới mức độ không thể đo lường được.Và khi chúng ta xem những phim Đêm và sương mù (Night and Fog), Tai hoạ (Shoah), Danh sách của Schindler (Schinder’s List), chúng ta khóc lóc, chúng ta than thở, và chúng ta chia sẻ những tình cảm đầy nhân đạo từ đáy lòng. Trong khi đó, đại nạn lớn hơn do cộng sản gây ra, kéo dài từ thập niên này sang thập niên khác, thì không sản sinh ra được những trước tác nghệ thuật tầm cỡ như thế. Một cuốn phim khiêm tốn, tế nhị, Một ngày trong đời lvan Denisovich dựa trên một tiểu thuyết của Solzhenitsyn, hầu như chưa bao giờ được chiếu lại và không thể tìm mua được trên thị trường. Đáng lý ra, đại nạn do cộng sản gây nên phải mang lại một mùa khai hoa của nghệ thuật Tây phương, và chứng nhân, và lòng thương cảm. Đáng lý ra biến cố đó phải khơi ra một biển nước mắt tuôn trào. Ngược lại, nó chỉ đúc ra được một tảng băng lãnh đạm. Những kẻ vào thập niên 1960 mặt còn búng ra sữa đã treo ảnh Mao và Ché trên tường ký túc xá - tức là một hành động tinh thần tương đương như treo hình Hitler, Goebbels, hoặc Horst Wessel tại phòng của mình ở nhà trọ tập thể - bây giờ lại giảng dạy con cái chúng ta về đạo đức hơn người của thế hệ chính trị của họ. Cuốn sách giáo khoa về lịch sử nào cũng đào đi xới lại về những tội ác của chủ nghĩa quốc xã, cũng đi tìm nguồn gốc những tội ác ấy, và cũng thông báo những bài học cần phải rút ra. Ai ai cũng biết con số “sáu triệu” nạn nhân quốc xã Đức. Trong khi đó, những sách đó chỉ nhắc tới những “sai lầm” của chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa Stalin (nhắc đi nhắc lại, lần này lần khác, từ “sai lầm”.) Hãy hỏi các sinh viên đại học năm thứ nhất bao nhiêu người đã chết dưới chế độ của Stalin và, đến tận bây giờ, những cô cử cậu cử này sẽ trả lời, “Vài ngàn? Vài chục ngàn?” Điều này tương đương với việc tin rằng Hitler chỉ giết có “vài trăm” người Do Thái. Thảm cảnh dốt nát này không bắt nguồn từ quyển sách giáo khoa này hay quyển sách giáo khoa nọ, mà từ một nền văn hoá trí thức tự bịt mắt chính mình để khỏi phải thấy những tai hoạ đã xảy ra ở những nơi chúng ta đã trót đặt phần nào cảm tình. Chi Lê cho Erich Honecker quyền trú ẩn và tỵ nạn, dù y chính là nhà độc tài Đông Đức đã đòi mang chiến xa vào các đường phố - ai cũng nói đã đến lúc phải chôn vùi quá khứ mà không oán hận - nhưng hiện đang kêu gọi “công lý” cho những nạn nhân của Augusto Pinochet. Chính trong ngày Tây Ban Nha tuyên bố truy tố Pinochet của Chi Lê, nước này lại nghênh đón, với đủ lệ bộ lễ nghi, ngài Castro của Cu Ba, trong khi đó ở Cu Ba những người phê phán hay nói xấu Castro - hoặc thuộc bất cứ nhóm nào làm Castro bực mình khó chịu, ví dụ như những người đồng tính luyến ái - thì đang nằm chết, mục rã trong nhà tù, hoặc đang tìm cách phục hồi sức khoẻ sau khi trở về từ những trại lao động chết người mà y đã gởi họ đến. Hầu hết các nước Âu Châu đã đặt các đối tượng quốc xã mới ra ngoài vòng pháp luật, nhưng đảng Cộng sản Pháp, từ 1999 đến 2002, luôn là một thành viên của chính quyền đang điều hành nước Pháp. Người ta không được phép treo cờ chữ Vạn, nhưng người ta có quyền trương lên ngọn cờ búa liềm trong những lễ hội do nhà nước tổ chức. Tại đa số các nước Âu Châu, hành vi phủ nhận rằng Hitler đã chết, hoặc việc giảm thiểu quy mô của Đại nạn diệt chủng Do Thái là một tội hình sự theo nghĩa đen. Ngược lại, việc phủ nhận hoặc giảm thiểu các tội ác của chủ nghĩa cộng sản thì lại là một hình thái nghệ thuật và chính trị. Một ví dụ gần đây nhất về tội ác giết người hàng loạt của cộng sản là Pol Pot và Khmer Đỏ, đã từng nô lệ hoá cả một dân tộc và tàn sát từ một phần năm đến một phần tư dân số của cả nước Cam Pu Chia (tương đương với việc một chế độ ở Mỹ giết hại từ năm mươi sáu đến bảy mươi triệu dân.) Pol Pot đã học chính trị tại Paris từ cánh tả Pháp, và được ủng hộ nhiều, nhất là từ các ông chủ cộng sản Trung Quốc của y. Tuy thế, ngày nay đa số đồng thuận cho rằng Pol Pot là một sản phẩm biến dị của những cuộc bỏ bom nhân danh chủ thuyết chống cộng tại Đông Dương của Hoa Kỳ, chứ không phải từ các niềm tin, các giá trị, và các đồng minh của y. Những bộ xương khô ở Cam Pu Chia và hàng triệu người liều chết chạy trốn cộng sản Việt Nam và Lào để hướng về một cuộc sống bất định ở bất cứ nơi nào khác, dù không là chỉ dấu của sự thông thái và già dặn về mặt chiến thuật, cũng đã cho chúng ta thấy được giá trị của công cuộc chống cộng tại những nơi đó. Trong khi “chống phát xít” là một cụm từ để tôn vinh, cụm từ “chống cộng” lại được dùng để nhạo báng và lạm dụng. Vì thế cho nên, những người chết nằm lẫn với chúng ta, không được ai đếm xỉa đến, và bất kỳ ai có nhãn quan đạo lý đều thấy được họ, thấy được sự vắng bóng của họ trong lương tri của chúng ta, thấy họ bị phô ra không mảnh vải che thân trên các màn hình vô tuyến và màn ảnh chiếu phim, thấy họ co rúm vì sợ hãi trong các lớp học của chúng ta, và thấy họ nằm ngang ngửa, không được chôn cất, la liệt trong các sinh hoạt chính trị và trong nền văn hoá của chúng ta. Những người đã chết đang ngồi cạnh chúng ta trong các hội nghị. Đã không thể có được một thời đại “hậu chủ nghĩa quốc xã” nếu chúng ta đã không công nhận các tội ác của chủ nghĩa quốc xã là có thật, tiến hành thống kê, xét xử theo công lý, và tưởng nhớ lại. Cho nên, chừng nào chúng ta còn chưa giải quyết vấn đề những người đã bị chế độ cộng sản sát hại, sẽ chưa thể có một thời đại “hậu xã hội chủ nghĩa.”
Thực tế còn rành rành ra đó. Ở bất kỳ nơi nào mà chủ nghĩa xã hội thực sự có cơ hội và phương tiện để kế hoạch hoá xã hội, ngõ hầu theo đuổi một cách hữu hiệu ước mơ tiêu diệt tư sản, xoá bỏ bất bình đẳng kinh tế, và loại bỏ phương thức phân phối vốn và tài sản theo thị trường tự do, hậu quả luôn dẫn đến sự đè nén quyền tự do cá nhân, tự do kinh tế, tự do tín ngưỡng, tự do lập hội, và tự do chính trị. Chỉ riêng việc tập thể hoá nông nghiệp cũng đã đưa đến những hậu quả khôn lường với những nỗi khổ đau, những sự thiếu thốn, và thái độ coi thường tài sản, vốn dĩ là thành quả của sức lao động. Có thể ví chủ nghĩa xã hội, với khả năng tối ưu, có thể huy động sự sợ hãi và thuần phục của con người để xây dựng lên một lần cho xong một công trình như thành phố Gary, Indiana, không cần vật liệu tốt, nhưng cũng không có khả năng duy trì công trình đó. Khi nắm được chính quyền, chủ nghĩa xã hội đã đẻ ra tình trạng nghèo khổ so với chung quanh, hiện tượng năng suất thấp đến chết người, sự bất công tuỳ tiện, nạn bè phái, nạn nô lệ hoá, các trại tập trung, tra tấn, khủng bố, sự tiêu vong của xã hội dân sự, thảm hoạ môi sinh, lực lượng công an chìm tàn bạo, và sự chuyên chế bạo ngược có tính hệ thống. Ở bất kỳ nơi nào chủ nghĩa xã hội đã đặt ách cai trị, luôn có những người, bị biệt giam, bị ép thức trắng đêm, phải chịu các nhục hình dã man, thậm chí là cái chết bất ngờ hay từ từ, vì họ đã dám nói “Không”, vì họ đã phê phán người cầm quyền, vì họ đã từ chối không tố cáo các bạn bè và đồng nghiệp của họ, và, đơn giản hơn thế nữa, vì họ với một lý do nào đó - thậm chí chỉ một câu nói đùa - đã làm bực mình một người cộng sản đang cầm quyền. Lòng can đảm và sự chịu đựng của những người này vượt quá khả năng cảm nhận của chúng ta. Chừng nào chúng ta chưa đối thoại với những tội ác này và những nạn nhân này, thì sẽ chưa thể có “hậu chủ nghĩa xã hội.” Để làm người có đạo lý, chúng ta phải ghi nhận một cách thích đáng là những sự việc tồi tệ đó có thật, và làm chứng nhân tố cáo những kẻ đã có trách nhiệm gây nên những thời kỳ thảm khốc nhất của lịch sử nhân loại. Chừng nào chủ nghĩa xã hội chưa phải đối mặt - cũng như chủ nghĩa quốc xã hoặc chủ nghĩa phát xít khi phải đối diện với các trại giết người tập trung, và tội ác tàn sát người vô tội - với thực tại sống động của nó, một thực tại đầy rẫy những sự tàn khốc và giết chóc lớn nhất trong sử sách của loài người, thì chừng đó chúng ta sẽ chưa được sống trong thời đại “hậu chủ nghĩa xã hội.”
Điều đó sẽ không xảy ra. Căn bệnh của các nhà trí thức Tây phương đã trói buộc họ vào một quan hệ đối kháng với nền văn hoá của họ - tức là thị trường tự do và các quyền tự do cá nhân - một nền văn hoá đã giảm thiểu tối đa những nỗi khổ ải của con người, đã giải phóng tối đa con người ra khỏi sự thiếu thốn, sự ngu dốt, và mê tín dị đoan, và đã gia tăng tối đa của cải và cơ hội của con người trong suốt lịch sử nhân loại. Chưa ai giải thích được một cách đầy đủ nguyên nhân của căn bệnh này, dù biết nó chính là một trong những thiếu sót và bi kịch lớn nhất của những xã hội được xây dựng trên nền tảng thị trường tự do và các quyền cá nhân, những xã hội được xem như là những nền văn minh cấp tiến nhất từ trước đến nay trên hành tinh này. Đây là một thứ bệnh lý mà trong những thập niên qua, càng ngày càng trở nên thô thiển hơn và càng đi chệch khỏi những nguyên tắc của thực tế.
Bệnh lý này cho phép các nhà trí thức Tây phương đi vòng để tránh những xác chết của các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản đang chất cao như núi Everest mà không phải rơi một giọt nước mắt, buông một lời hối tiếc, làm một hành động hối hận, hay phát sinh nhu cầu tái thẩm định bản ngã, linh hồn, và ý thức. Trong tiểu luận “Vị thượng đế đã thất bại”, Spender nhận định rằng, nói chung chúng ta đã thất bại trên phương diện đạo lý khi chúng ta có thái độ bất nhất, đối xử một cách hoàn toàn khác biệt đối với những nạn nhân trong các giai đoạn khác nhau của lịch sử. Ông muốn dùng nhận định trên để nói tới tất cả những người đang theo đuổi một ý thức hệ và phe phái chính trị, và ý đó hoàn toàn đúng. Nhưng nhận định của ông lại góp một lời giải thích thiết yếu rằng tại sao muôn vàn xác chết là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản - gấp ít nhất mười lần số nạn nhân của Đại nạn diệt chủng Do Thái - vẫn còn ở với chúng ta. Spender viết, khi con người theo đuổi một sự nghiệp chính trị thì những người đứng chung hàng ngũ với họ trở thành “sinh động và có thật... là những con người bằng da bằng thịt và có tình cảm như chính bản thân mình vậy.” Ngược lại, những người nào cản đường họ thì lại trở thành “những sự trừu tượng… những đề thuyết rắc rối, phi lý, không cần thiết, những kẻ có cuộc sống gồm toàn những lập ngôn sai lầm.” Đối với trường hợp thứ nhất (đồng đội), họ thấy những “thân thể”, trong trường hợp sau, họ thấy những “con chữ.” [17] Chúng ta và con cái chúng ta được giáo dục, tiêu khiển, hướng dẫn, thông tin, và hưởng thụ nghệ thuật từ những kẻ không thấy được những xác người chất thành từng đống, mà chỉ nhìn thấy những “con chữ” về những sinh mạng đó. Thái độ phản ứng của các nhà trí thức Tây phương khi xử sự với một bên là các thành tựu của xã hội của họ, và bên kia là lý tưởng xã hội chủ nghĩa rồi đến thực tế chủ nghĩa xã hội, làm chúng ta choáng váng. Ngay giữa xã hội Tây phương, nơi con người có cơ hội thăng tiến không đâu sánh được, họ gào lên “phân biệt giai cấp.” Trong một xã hội ngập tràn hàng hoá và dịch vụ, họ gào lên, lúc thì “nghèo khó” lúc thì “chủ nghĩa tiêu thụ.” Trong một xã hội ngày càng giàu có hơn, đa diện hơn, có năng suất cao hơn, tự chủ và có đời sống thoả mãn hơn, họ gào lên “bị bỏ rơi.” Trong một xã hội đã giải phóng được phụ nữ, các sắc tộc thiểu số, các tôn giáo thiểu số, và cả những người đồng tính luyến ái cả hai phái ở mức độ mà chỉ năm mươi năm về trước không ai có thể mơ tới được, họ gào lên “áp bức.” Trong một xã hội có những tổ chức từ thiện tư nhân rộng rãi đến vô biên, họ gào lên “keo kiệt.” Trong một xã hội mà hàng trăm triệu người đã thụ huởng miễn phí trên sự rủi ro, kiến thức, và đồng vốn của những kẻ khác, họ gào lên là những người thụ hưởng miễn phí nầy đã bị “bóc lột.” Trong một xã hội đã thay thế được phương thức cha truyền con nối bất tận bằng sự thăng tiến chỉ dựa trên tài năng cá nhân, thì họ lại gào lên “bất công.” Nhân danh những thế giới mộng tưởng và sự hoàn hảo chỉ có trong huyền thoại, họ đã tự bịt mắt và không chịu nhìn thấy những gì mà chúng ta xem là những phép lạ do chế độ cởi mở Tây phương mang đến: đó là tự do cá nhân, trách nhiệm cá nhân, tài năng cá nhân, và sự thoả mãn con người. Cũng như Marx, họ đã bỏ những từ như “tự do” vào trong ngoặc kép khi dùng các từ ấy để bàn về Tây phương. Dĩ nhiên, ở đây, chúng ta cần lưu ý một điểm là, trong trường hợp có một kẻ thù thực sự căm hận các nhà trí thức Tây phương xuất hiện – như chủ nghĩa phát xít và quốc xã – và khi việc đánh bại kẻ thù đó tuỳ thuộc vào lòng tự tin của Tây phương, thì những nhà trí thức Tây phương này lại chẳng có khó khăn gì trong việc phân định đâu là thiện và đâu là ác, và cả trong việc lôi cuốn quần chúng vào trong cuộc tỉ thí giữa thiện và ác.
Hành vi trí thức này là một bệnh lý với triệu chứng lục tìm, lựa chọn những giai đoạn trong lịch sử sao cho phù hợp với các mục tiêu của mình, rồi khư khư ôm lấy thời khắc đã đóng băng đó như một khuôn mẫu bất di bất dịch. Với những nhà trí thức mang căn bệnh trên, những đổ vỡ đầu tiên của công cuộc kỹ nghệ hoá tư bản bị định kiến như là mô hình của một xã hội tư bản tương lai sẽ xuất hiện từ các vận động đó, cứ y như là người ta không cần phải đếm xỉa đến tiến trình đã giúp được vô số người có được một cuộc sống tự do và được tôn trọng, và mang lại cho con người một khả năng vô tiền khoáng hậu để chống chọi lại những nguy cơ từ thiên nhiên và con người. Dưới góc nhìn bệnh lý này, nước Nga mãi mãi nằm trong thời kỳ từ 1914 đến 1917 và lối thoát duy nhất khỏi chủ nghĩa Stalin là chiến tranh và Rasputin, cứ y như là biểu đồ phát triển kinh tế và xã hội của nước Nga vào đầu thế kỷ thứ hai mươi chưa từng hướng về một sự thay đổi đầy năng lực và hứa hẹn. Một khi những người cộng sản đã huy động được những đám đông thật lớn vào bất cứ một thời điểm nào, họ đã giành được quyền lực một cách tuyệt đối và vĩnh viễn, cứ y như là Đảng Cộng hoà vào năm 1920, một đảng ít ra đã cũng thắng cử một cách lương thiện, đã thủ đắc được quyền cai trị nước Mỹ vĩnh viễn và có quyền chọn người kế vị trong nội bộ đảng. Căn bệnh này cũng cho phép người ta có thể chối bỏ lịch sử và cứ việc tuỳ tiện thay đổi lập trường của mình mà không một chút vướng bận hay có trách nhiệm gì đối với quá khứ. Ca bệnh đầu tiên là Stalin, sau đó là Castro, sau đó là Hồ Chí Minh và bè lũ Khmer Đỏ, và sau đó là những người Sandanista ở Nicaragua, danh sách những bệnh nhân còn kéo dài đến độ gây buồn nôn.
Triệu chứng tinh thần của căn bệnh này, trong cả quá khứ và hiện tại, vẫn là một sự hoang tưởng tập thể, vô cảm với lịch sử và phong tục. Đó là niềm tin rằng trong các quan hệ giữa người với người, thiện tâm, trật tự ổn định, công lý, hoà bình, bình đẳng trước luật pháp, tương kính tương nhượng, và vị tha, là bản chất, còn sự nham hiểm, vô trật tự, bạo hành, ép buộc, bất bình đẳng trước luật pháp, cố chấp, và lòng ác độc là những điều lệch lạc khác thường cần được giải thích theo hoàn cảnh lịch sử. Vì đã sai lầm hiển nhiên và có hệ thống khi định nghĩa đâu là trạng thái bình thường, các nhà trí thức Tây phương đã không thể hiểu và trân trọng hình thái xã hội đã cho chúng ta khả năng biến cải các trạng thái đó. Bệnh lý này cũng chính là niềm tin điên khùng rằng ở những xã hội đã tiến hoá thành công, các nhà trí thức khi nắm quyền lực có thể tuỳ tiện sắp xếp lại mọi thứ, và rằng những nền văn hoá có năng suất cao nhất của nhân loại lại là những nền văn hoá hầu như bị trục trặc tổng thể.
Rousseau và tất cả các nhà trí thức Mác-xít hoá, những người đã phủ bóng tối của họ lên suốt một trăm năm qua và lâu hơn thế nữa, đã nhìn ngược mọi thứ trong lãnh vực này. Con người vốn dĩ đố kỵ, điều này không cần một lời giải thích về hoàn cảnh lịch sử, vì bản tính của con người là ác cảm với sự khác biệt. Ngược lại, chính khả năng - tuy không hoàn chỉnh nhưng cũng đủ để làm người ta kinh ngạc - mà một xã hội tư do có thể tạo ra và vận dụng để vượt qua chủ nghĩa bộ tộc và chủ nghĩa đố kỵ mới cần được làm sáng tỏ, trên tất cả những hiện tượng khác đã góp phần tạo dựng nên một kỳ tích có một không hai là nước Mỹ. Tương tự, hiện tượng độc tài và lạm quyền cũng là một bản tính tự nhiên của con người. Ngược lại, chính hiện tượng hạn chế được quyền lực và mang lại tự do cá nhân mới cần được giải thích về mặt lịch sử. Chế độ nô lệ, tự nó, không làm ai giật mình, bởi vì tự cổ chí kim, chế độ nô lệ là một trong những hình thái phổ biến nhất trong lịch sử loài người. Thật ra, chính quan niệm con người có quyền tự làm chủ lấy mình, con người phải có tự do, con người có quyền lao động theo ý muốn mình, mới cần phải được giải thích về mặt lịch sử. Chính sự kiện Tây phương đã có được những thang giá trị và những cơ chế có khả năng nhận diện và đánh giá được chế độ nô lệ là một tội ác, và tiến hành công cuộc xoá bỏ chế độ đó, mới là một điều phải làm cho chúng ta kinh ngạc. Khi các nhà trí thức Tây phương viết về sự nghèo khổ, họ viết như viết một bi kịch, cứ y như là sự nghèo khổ tương đối tại vài vùng biệt lập ở Tây phương phải làm chúng ta sững sờ, trong khi trên thực tế, danh từ mà mãi đến gần đây vẫn còn được dùng một cách đơn giản hoá, để mô tả những tình trạng nghèo khổ tuyệt đối, còn tệ hại khủng khiếp hơn những gì họ viết ra, chính là danh từ “đời sống.” Điều mà các đa số các nhà trí thức thế tục của chúng ta vẫn chưa đề cập tới là câu hỏi xem các giá trị, định chế, kiến thức, hành vi, tình thế, và quyền tự do nào đã cho phép Tây phương tạo dựng nên một mặt bằng chung thịnh vượng đến nỗi chúng ta phát hiện ngay được những tình trạng nghèo nàn tương đối đó, chưa nói đến việc chúng ta tin tưởng rằng có thể xoá bỏ sự nghèo nàn đó tận gốc. Quả là một thảm kịch khi chính những nỗ lực lật đổ hệ thống và thang giá trị tiến bộ của Tây phương lại sản sinh ra những ví dụ cực đoan nhất trong lịch sử về sự nhẫn tâm, tình trạng vô trật tự, bạo hành, đàn áp, bất bình đẳng pháp lý, thù hằn, và sự độc ác.
Mỉa mai thay, các trường phái chính thống của cả chủ nghĩa xã hội lẫn chủ nghĩa cộng sản đều tự nhận là phát xuất từ chủ nghĩa Mác, và những người Mác-xít thì đã nói một điều rất đúng: đó là, chung cục, chúng ta phải đánh giá các hệ thống xã hội không phải qua các lý thuyết và mô hình trừu tượng, mà qua thực tế và lịch sử. Nhưng thật là một sự bội tín không bút nào kể xiết khi những người Mác-xít chỉ áp dụng nguyên tắc ấy vào những sự việc khác, trừ những sự việc dường như là quan trọng nhất đối với họ. Trên khắp cả địa cầu, những nhà trí thức Mác-xít, những nhà tuyên truyền, các giáo sư, và những người biện hộ cho Mác-xít không bao giờ đem thực tại “thế giới xã hội chủ nghĩa” hiện có ra so sánh với những xã hội tự do của Tây Âu và Bắc Mỹ. Trái lại, họ chỉ đem một xã hội hoàn hảo trong trí tưởng tượng nhưng chưa từng tồn tại ra so sánh với một xã hội hiện có, một xã hội không toàn hảo nhưng đã thực sự đạt được những thành quả kỳ diệu. Những người Mác-xít thích phê phán những lối lý luận phi thực tiễn trên là “lý luận lý tưởng hoá” khi họ lên án lối triết lý đó ở những người khác. Tuy nhiên, chính họ mới là những kẻ cố tình thêu dệt ra một thế giới lý tưởng - chính họ mới là những kẻ phi thực tế nhiều hơn ai hết. Chẳng có gì lạ khi giờ đây, khi lịch sử đã lấy đi tất cả những gì chủ nghĩa Mác đã có, thì những người kế thừa của chủ nghĩa đó - những người hậu hiện đại chống Tây phương trong giới văn trí cánh tả – lại thu nhận chủ nghĩa phi thực tế một cách lộ liễu và lấy đó làm khuôn tư duy.
Khoảng cách giữa kết quả thẩm định sát thực và hợp lý về giấc mơ xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ thứ hai mươi và thực tiễn xã hội chủ nghĩa là quá lớn và nhìn chung chưa được mấy ai để ý đến. Trong suốt ba thế hệ đã qua, chắc phải có nhiều cuộc thẩm định như thế này, và những ai đã thực sự hoàn thành tốt công trình thẩm định này đáng lý phải được ghi nhận với tư cách những nhà trí thức hàng đầu. Nhưng thực tế là, những người đã làm được việc này – trừ một thiểu số cá biệt được tuyên dương lẻ tẻ – lại là những người đã bị coi thường và cho ra rìa nhiều nhất. Cái hố sâu giữa kết quả thực tế của chế độ kế hoạch hoá tập trung và của xã hội tự do cộng với kinh tế tư nhân đáng lẽ phải là đề tài được khảo cứu nhiều nhất trong thời đại của chúng ta, vì cuộc đọ sức giữa hai quan điểm này đã cuốn hút biết bao tâm huyết trong cả hai lĩnh vực tri thức lẫn đạo đức. Thế mà nay chúng ta lại phải đi tìm một cách vô vọng tài liệu về kết quả của những công trình nghiên cứu đó - thậm chí chính bản thân nghiên cứu đó - trong các sách giáo khoa, trong các trường trung học, các trường cao đẳng, và các trường đại học, trong cả hai loại nghiên cứu do quỹ liên bang tài trợ và do các các quỹ nhân ái tài trợ. Những kinh tế gia có khả năng hiểu những chuyện này thì lại hiếm khi chịu viết về lịch sử kinh tế, mặc dù nếu làm được như vậy họ sẽ dùng được những trải nghiệm thực tế sâu đậm nhất của con người để soi sáng nhiều lãnh vực lý thuyết. Các sử gia nghiên cứu cái gọi là lịch sử kinh tế và xã hội của chủ nghĩa tư bản thì vẫn dạy về lịch sử của công cuộc giải phóng và nâng cấp đời sống con người lớn lao nhất thế giới như là lịch sử của sự áp bức (một cách khách quan và chủ quan), bè phái hoá, huyền bí hoá, suy đồi, và lãng phí. Ngay trong lòng những xã hội đã mang lại nhiều tự do, lựa chọn, và của cải cho nhân loại hơn bao giờ hết trong lịch sử, thì những ngành khoa học nhân văn nhìn chung đã trở thành những trường lớp dạy về “sự áp bức”. Người nào ưu tư về vấn đề trên chỉ cần dành một buổi chiều tản bộ giữa các kệ chứa sách chỉ định cho sinh viên trong một tiệm sách của trường đại học, hay đọc qua các giáo án đại học. Họ sẽ thấy thực tế còn tệ hơn mức tưởng tượng, ngay cả đối với một người bi quan.
Vậy thì điều gì đáng lý phải xảy ra “sau chủ nghĩa xã hội”? Hãy đơn cử trường hợp của Hoa Kỳ. Suốt gần năm mươi năm, Hoa Kỳ đã hy sinh tài sản và, có lúc, tính mạng của những công dân trẻ tuổi, để ngăn chặn quân đội vũ trang của chủ nghĩa cộng sản. Các phi công gan dạ của Hoa Kỳ đã liều mạng lái máy bay rà sát những ngọn đồi ở Tây Âu (và nhất là ở Tây Đức) - việc tập luyện đầy nguy hiểm như vậy là điều kiện tiên quyết của bất kỳ biện pháp ngăn chặnvà phòng thủ nào - lại khiến cho những người đang vui chơi dưới mặt đất rất khó chịu, dù rằng những người này có được tự do là nhờ tinh thần chịu đựng hiểm nguy và nhiều khi, cả sự hy sinh của các phi công Hoa Kỳ. Các thuỷ thủ tàu lặn Hoa Kỳ đã bỏ lại tiện nghi, gia đình, và bè bạn trên đất liền để thực thi chiến lược ngăn chặn toàn diện. Hoa Kỳ đã làm bất cứ những gì có thể làm được để không cho những lực lượng vũ trang Bôn- Sê-Víc chiếm ưu thế chiến thuật và chiến lược. Đó là chủ trương chống cộng mà ta không được lầm lẫn, như bây giờ người ta đang lầm lẫn, với lịch sử các quan hệ ngoại giao bình thường và dài hạn giữa Hoa Kỳ và Nga. Hoa kỳ đã phải gánh chịu những khoản nợ quá sức để có thể đối phó với những bước chạy đua võ trang nước rút của nhà nước Sô Viết. Hoa Kỳ đã cương quyết duy trì chính sách, ngay cả khi giới trẻ, đội ngũ nghệ sĩ, giáo sư, văn sĩ, những nhà làm phim trong nước phản đối những nỗ lực bị coi là điên rồ đó. Hoa Kỳ đã bị ám ảnh bởi chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa chống cộng sản, bởi bom và hoả tiễn của cả hai phe, mình và kẻ thù, và bởi chiến lược quốc phòng “đảm bảo cả hai bên đều bị tiêu diệt.” Đây là gánh nặng Hoa Kỳ đã tự chuốc lấy, và rồi, như có một phép lạ, những yếu điểm chết người của chế độ chuyên chế, kế hoạch hoá tập trung và phản tự do đã khiến khối cộng sản Ðông Âu sụp đổ. Giờ đây, Hoa Kỳ có thể tiến hành kết toán thực tế xem mình đã chiến đấu để bảo vệ những gì và ngăn chặn những gì.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 8:09:59 GMT 9
Ít nhất cũng phải nói rằng, chưa có ai và sẽ chẳng có ai đổ xô đi làm việc tổng kết nói trên – mà đáng lý phải là công việc cấp bách nhất và đáng làm nhất ở một nước Mỹ đột nhiên không còn phải cáng đáng vai trò anh hùng dài hạn, và không còn bị ám ảnh bởi nỗi sợ hãi trầm trọng nhất. Một người lạc quan có thể mong đợi gì? Danh sách này rất dài: Sự khải huyền của chủ nghĩa chống cộng. Một lễ hội ăn mừng. Một mùa khai hoa của các công trình so sánh phe địch và phe ta. Một cuộc tổng kết tính sổ đầy đủ về hiện thực của chủ nghĩa cộng sản - trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, luân lý, môi sinh, xã hội, văn hoá, vân vân (Còn điều gì mà người ta lại không muốn biết không?) Một sự tái khẳng định niềm tin của chúng ta vào các nguyên lý nền tảng phe ta —những nguyên lý đã cấu thành những khác biệt giữa ta và địch. Một tập hợp những lời nhận lỗi sâu đậm, đầy khổ não, đầy ân hận day dứt từ những người, tuy không ác ý, nhng đã trót sai lầm thảm hại. Một sự cảnh giác cao độ với bản chất và các chính sách của những chế độ cộng sản còn lại. Một đợt cải cách giáo trình. Một sự công nhận đối với giá trị vô song của một chế độ tự do với bộ máy nhà nuớc tinh giản.
Nhưng nếu xét cụ thể bất kỳ nội dung nào trong danh sách những nguyện vọng hoàn toàn hợp lý kể trên, chúng ta sẽ rất nản lòng. Những người đang dạy, bình luận, hay viết về những điều ấy hiểu ra - chứ chưa nói đến thấu đáo tường tận - những chuyện đã xâảy ra không? Họ có tìm đọc Mises hoặc Hayek, hoặc các nhà đối kháng, hoặc số ít các sử gia hiếm hoi đã nói lên sự thật trong suốt thời gian qua, để nghiền ngẫm quan điểm của những người đã hiểu rất đúng và rất sâu sắc về chủ nghĩa cộng sản không? Thậm chí họ đã bao giờ thấy mối liên hệ giữa Marx, Lenin, Stalin, Mao, và Castro không? Đâu rồi những lễ hội, những niềm vui tuôn trào, khi mà nền văn minh tự do đã chiến thắng? Leonard Bernstein đã chơi Bài Giao hưởng số 9 của Beethoven ở Berlin, duới bóng Bức Tường, và đã dùng từ Freiheit (Tự do) thay cho từ Freude (Niềm vui). Ở đâu có những sự kiện tầm cỡ tương tự như thế? Và tại sao lại không có? Những tiếng kêu than về chuyện gọi là “thế giới đơn cực” đang bị trôi dạt về một nơi vô định đã lấn át tiếng reo vui ăn mừng khi lực lượng đại diện cho cái ác và sự áp bức được vũ trang với vũ khí nguyên tử bị thua trận. Thế nên khi Ronald Reagan thốt ra cụm từ gây tai tiếng “đế chế tàn ác” để mô tả Liên Xô thì lại bị hầu hết tất cả các nhà bình luận chế nhạo và không mấy ai hưởng ứng.
Hãy thử tưởng tượng nếu Đại chiến thứ Hai kết thúc với phe quốc xã Châu Âu thành lập một đế quốc trải dài từ rặng U-ran đến eo biển Măng-sơ, và chẳng mấy chốc bắt đầu sản xuất được vũ khí nguyên tử, đối đầu trong thế một mất một còn với Hoa Kỳ, và hoà bình thế giới chỉ là kết quả của sự ngăn ngừa lẫn nhau. Hãy tưởng tượng Albert Speer lên nối nghiệp Hitler. Liệu khi đó, con cái của những người cánh tả có còn muốn bắt nhịp cho người ta hát các lời ca như “Chúng tôi chỉ mưốn nói một điều, là cho hòa bình một cơ hội” khi họ đứng dưới các biểu tượng của phong trào đòi đơn phương giải giáp các vũ khí hạt nhân? Thử hỏi, khi ấy Hoa Kỳ có bị lên án vì chống ảnh hưởng của quốc xã trên toàn thế giới, chưa nói đến việc chống quốc xã thiết lập những căn cứ trên Tây Bán cầu, và bị ngay người trong nước chụp mũ là đế quốc “sen đầm quốc tế” hay không? Thử hỏi, khi đó các nhà trí thức của chúng ta sẽ nhạo báng hay hoan hô cụm từ “đế chế tàn ác”? Điều gì khác sẽ xảy ra? Chết chóc? Những trại tập trung? Sự ly tán của phần xác và phần hồn? Còn điều này nữa, nếu chưa có lời giải đáp thoả đáng thì những xác chết vẫn chưa được yên nghỉ. Hãy nhớ là chúng ta đã ăn mừng ngày sụp đổ của chủ nghĩa quốc xã và bắn sập biểu tượng chữ Vạn tưng bừng như thế nào. Ngược lại, chúng ta đã câm nín như thế nào vào năm 1989, trong khi lẽ ra ít nhất chúng ta đã phải, và vẫn phải, kỷ niệm một cách trang trọng sự sụp đổ của bộ Búa Liềm hùng mạnh nhất thế giới, một biểu tượng của sự tàn sát triệt để. Nếu biểu tượng bị sụp đổ sau hai thế hệ chiến tranh lạnh là chữ vạn của Đức quốc xã (chứ không phải là búa liềm cộng sản-ND) thì chắc hẳn niềm vui sướng và xúc động sẽ thắp sáng những thành phố trên khắp nơi. Thử hỏi các nhà trí thức, các chính trị gia, và các giảng viên của chúng ta, họ tin hay không tin điều mà Solzhenitsyn đã phát biểu trực diện về chính quyền Sô Viết:
“Không có chế độ nào trên trái đất này có thể so sánh được với nó về số nhân mạng đã bị đưa vào cõi chết, về sự thô bạo, về tầm vóc của các tham vọng, về tính toàn trị triệt để không nhân nhượng - không, ngay cả chế độ của tên học trò của nó là Hitler cũng không thể sánh kịp.” [1]
Sau nhiều thế hệ tranh chấp giữa hai hệ thống, bây giờ có ai còn hứng thú khảo cứu đối chiếu hai hệ thống này không? Lịch sử giờ đây đã mở ra cho các kinh tế gia, các nhà khoa học xã hội về phái tính và tình dục học, cho tới các nhà môi sinh học, v.v… một vùng đất rộng lớn để nghiên cứu thực tế về những khác biệt giữa tư hữu và công hữu, giữa thị trường và kế hoạch, và giữa quyền cá nhân và quyền lợi tập thể. Liệu những người trong Phong trào Xanh, khi họ viết những bài khảo cứu đầy bức xức về nạn ô nhiễm không khí và nguồn nước do kế hoạch hoá từ trung ương, họ có phát hiện ra được “thảm kịch cánh đồng chung” (Tragedy of the commons) không? Các sử gia, họ đã có thay đổi gì khi giảng dạy học trò của họ về những hậu quả của những thị trường tự do trên đời sống con người, trong một thế giới có thật của những hiện tượng có thể so sánh được? Và những người theo Foucault và những người hậu hiện đại của chúng ta, liệu họ đã xét lại những tiền đề của họ sau khi đã tham khảo các công trình nghiên cứu sâu rộng về phái tính và tình dục sau bức Màn Sắt, hoặc, gần đây hơn, ngay tại Cu Ba không? Thật là một điều bất thường khi chúng ta không có được những thống kê về mặt tri thức, luân lý, và nhất là, lịch sử, để xem xét ai đúng ai sai, và tại sao như vậy, trong các công trình phân tích về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội sau khi nắm quyền. Chúng ta đang sống với một sự nguỵ tín đáng kinh sợ.
Sự ganh đua về phương thức tổ chức xã hội và tầm nhìn giữa phe dân chủ tự do và phe xã hội chủ nghĩa đã từng là điều kiện định dạng cho đời sống và tranh luận ở Tây phương, vậy mà bây giờ chẳng có ai cất công làm một việc tính sổ lại về thực tiễn và đạo lý? Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản chỉ gây được ảnh hưởng tại Pháp (dẫu rằng, không lâu lắm sau khi cuốn sách này được xuất bản, một loạt các dân biểu và bộ trưởng thuộc Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản Pháp vẫn đắc cử) Còn nơi nào nữa? Tại sao nó không bao giờ xâm nhập đời sống nước Mỹ - hay chí ít là các tiệm sách đại học - khi nó có lời giải đáp cho câu hỏi đáng lý phải được đặt ra trước tiên trong tâm trí chúng ta? Chúng ta sẽ dạy con cái những gì? Ví dụ, chiến thuật ngăn cản, có đáng bỏ công áp dụng hay không? Ngay sau khi Bức tường Berlin sụp đổ, trường trung học của các con tôi, trong một học khu bảo thủ - và đây không phải là một trường hợp ngoại lệ - bỏ một tuần ra để học về chiến tranh lạnh. Tài liệu độc nhất để bổ sung vào việc thảo luận của học sinh là cuốn phim phê phán đường lối quốc phòng Tuyệt đối không có sự cố (Fail-Safe). Một năm sau, bắt đầu có sách giáo khoa dạy cho các cháu biết là ông Gorbachev thánh thiện đã dìu dắt ông “cao-bồi” Reagan vào con đường đi đến hoà bình như thế nào. Tệ, tệ hại hơn thế nhiều nữa, là con cái chúng ta không biết những gì đã xảy ra, trong bất kỳ lãnh vực nào, trong các chế độ nhà nước xã hội chủ nghĩa. Những người phụ thuộc vào thông tin từ các phương tiện truyền thông đại chúng và phim ảnh của chúng ta chắc hẳn không biết được những điều đó. Nền văn minh của chúng ta sẽ tiếp tục tồn tại, thịnh vượng và hùng mạnh theo bất cứ tiêu chuẩn lịch sử nào, nhờ vào sức mạnh của một hệ thống kinh doanh tự do, dù chỉ ở mức tương đối, và một chính quyền có quyền hành bị giới hạn, dù cũng chỉ ở mức tương đối. Tuy nhiên nền văn minh đó tồn tại mà không có niềm tin vào chính mình, mà không thấu hiểu ý nghĩa tinh thần của chỗ đứng của mình trong cái bi kịch của lịch sử đời sống có tổ chức của loài người, và không có một sự tính sổ đối với cả hai hạng mục - một bên là hàng chục triệu người đã bỏ mạng và một bên là những chế độ và đức tin đã đẩy họ vào chỗ chết.
Không thấy sự phục sinh của những nguyên lý đã phân biệt chúng ta với những nhà nước xã hội chủ nghĩa. Câu nói “Các anh đặt quyền tư hữu cao hơn con người” vẫn còn là một lời nguyền rủa cực mạnh, cứ như là chúng ta chưa hề học đủ bài học rằng, chính “quyền tư hữu” là cơ sở cho sự phồn thịnh, tự do, phẩm giá, và đời sống của “con người” vậy. Câu “Các anh để lợi nhuận lên trên người dân” vẫn còn có một sức mạnh tương tự như câu trước, cứ như thể chúng ta chưa học đủ bài học rằng lợi nhuận chính là phương tiện để thoả mãn các nhu cầu và ham muốn của người dân. Thật ra, chính vì muốn tránh khơi sống lại các nguyên lý tự do cổ điển nên các thầy giáo, các giáo sư, đội ngũ truyền thông, và các nhà làm phim đã lờ tịt đi nhu cầu khảo cứu đối chiếu mà thời đại này đang cấp thiết đòi hỏi.
Thật vậy, người ta sẽ không sửa đổi giáo trình chính là vì người ta không muốn dạy những bài học mà tri thức và sự thật sẽ dạy. Ít ra là trong suốt một thế hệ, sự dị ứng của giới trí thức đối với mô hình xã hội cởi mở - như một nền văn minh, một tập hợp các định chế, một giải ngân hà của tư tưởng - luôn được đúc làm cốt lõi của khoa học nhân văn và các ngành xã hội học mềm. Tình trạng này, không hề giảm đi mà còn mỗi ngày một trầm trọng hơn, mặc dù bây giờ, trên bình diện tri thức, không còn có lý do nào nữa để biện minh cho thái độ bỏ qua những sự thật hiển nhiên. Chúng ta biết sự trao đổi tự nguyện giữa các cá nhân một cách có trách nhiệm về mặt đạo lý, và phù hợp với quy định của pháp luật đã mang đến cho con người cả sự sung túc lẫn cơ hội chọn lựa đa dạng chưa từng có. Mô hình xã hội cởi mở còn là một điều kiện tiên quyết của trách nhiệm và quyền tự do cá nhân. Ngược lại, các chế độ kế hoạch hoá tập trung đã tạo nên sự nghèo khó và dẫn đến sự hình thành và phát triển tất yếu của chủ nghĩa toàn trị và những hình thái lạm quyền ghê gớm nhất. Những xã hội có thị trường tự do, năng động, với nền tảng là chủ nghĩa cá nhân thực quyền, đã thay đổi toàn bộ quan niệm của con người về tự do và phẩm giá của những nhóm người mà trước đây đã bị xã hội bỏ ngoài rìa. Ngược lại, toàn bộ cuộc “thí nghiệm xã hội chủ nghĩa”, đã chấm dứt trong bế tắc, xung đột sắc tộc, sự thiếu vắng của những tiền đề tối thiểu cho sự khôi phục kinh tế, xã hội, và chính trị, và sự đè nén tuyệt đối đối với cả việc phát triển cá nhân lẫn quyền lợi của các nhóm thiểu số. Con cái chúng ta không biết sự khác biệt thực tế này.
Khi các nhà lãnh đạo chính trị và truyền thông của chúng ta xem xét các chế độ cộng sản đương đại – Trung Quốc, Bắc Hàn, Cu Ba, Việt Nam, Lào, và Cam Pu Chia – dù những chế độ đó có thay đổi đến mức nào đi nữa và những tính chất nói trên có khi hiện hữu, có khi không, nhưng trong nhận thức, họ phải ý thức được về thực tế lịch sử mà chúng ta đã biết, và về những xác người mà chúng ta cố tình lờ đi không muốn biết. Lại một lần nữa, chúng ta phải nghĩ về cái lối phán xét lịch sử nước đôi, bất nhất đó. Khi nhân vật phái hữu Joerg Haider vừa gặt hái được thành công chính trị tại nước Áo – bằng con đường dân chủ thực sự – các chính quyền Tây Âu đã coi ông ta như một nhân vật hạ đẳng hay như một kẻ sống ngoài vòng pháp luật vì hai thế hệ về trước, ông ta đã có những lời phát biểu hay những biểu hiện có dính dáng đến Hitler. Thế cũng được đi. Nhưng đối với những lãnh đạo cộng sản là những người kế thừa của Stalin và Mao hiện vẫn đang nắm quyền thì sao? Về mặt chết chóc và đày ải, các trại lao cải Trung Quốc phải tai tiếng hơn là những trại tập trung ở Đức và ở những nơi Đức xâm chiếm, và, thật ra, một điều bất thường hơn là những trại lao cải đó vẫn đang tồn tại song song với chúng ta. Theo những tính toán nghiêm túc nhất, có khoảng năm mươi triệu người đã phải trải qua các trại cải tạo đó. [2] Những nghiên cứu có chất lượng ước tính rằng vào những thập niên 1950 và 1960, khoảng 10 phần trăm những tù nhân là người Tây Tạng không bao giờ trở về từ các trại tù, và quá trình đàn áp chính trị và tiêu huỷ một trong những nền văn minh đáng chú ý của thế giới vẫn được tiến hành không chút suy giảm. [3] Cu Ba, với dân số mười một triệu, nay có hai triệu người đang sống ở nước ngoài, và chúng ta sẽ không bao giờ có những thống kê đầy đủ về con số rất lớn những người đã mất mạng khi tìm cách đào thoát. [4] Trên thực tế, tại tất cả các nước theo chế độ cộng sản, quyền di trú – nói một cách dân dã nhất là “thương thì ở, ghét thì đi” mặc dù thực tế còn khắc nghiệt hơn hàm ý đó nhiều lần, thực sự vẫn bị coi là một tội hình. Tại Bắc Hàn, một quốc gia đang chế tạo vũ khí hạt nhân, cả một dân tộc đang đói vì sự điên khùng của những kẻ lập kế hoạch nhà nước, trong khi đó, bên kia biên giới, Nam Hàn đã phát triển một cách nhân bản và hiệu quả về cả hai lĩnh vực kinh tế và chính trị chỉ trong một thế hệ ngắn ngủi. Đồng ý rằng, hoà bình thế giới, ổn định toàn cầu, thậm chí một chiến lược nhằm thay đổi các xã hội bị áp bức, rất có thể sẽ kêu gọi chúng ta nên bình thường hoá quan hệ với tất cả các chế độ sát nhân kia. Tuy nhiên, chúng ta phải làm việc đó với nhãn quan tỉnh táo, và phải làm tối đa những gì có thể làm được cho các nạn nhân. Thêm vào đó, phải xác định rõ những lằn ranh đạo lý mà dứt khoát chúng ta không được vượt qua.
Chúng ta vẫn đang chờ đợi một cách vô vọng những lời hối lỗi, nhưng đa số vẫn tuyên bố là họ không biết, hay chọn cách bưng mắt bịt tai không chịu biết. Khi Eisehnower nghe được rằng những cư dân Đức tại một thị trấn lớn ngay gần một trại giết người tập trung, gần đến độ mùi xác thối thế nào cũng đã bay tới tận mũi, nói rằng họ “không biết” về trại này, ông bắt những thị dân này ăn mặc chỉnh tề, xếp hàng đi ngang qua những xác người đang thối rữa, và bắt họ giúp thu dọn những xác chết đó. Nay chúng ta thiếu uy quyền như của ông. Milan Kundera, nhà văn đối kháng Tiệp trong thời kỳ cộng sản, dùng bi kịch - thể loại văn chương duy nhất phù hợp, để viết về thực trạng đạo đức. Hãy lấy ví dụ cực đoan nhất, ông đề nghị. Thế những người có thiện ý, sẽ ra sao đây? Ông hỏi trong tác phẩm Kiếp người như lông hồng mà mang nặng tựa Thái Sơn (The Unbearable Lightness of Being.) Thế thì với những người vô tri, những người đã vô tình hành động với niềm xác tín, phải làm sao đây? Kundera đã viết như thế này về Oedipus:
“Y không biết người đàn ông y đã giết trên núi là cha của y, và người đàn bà y đã cùng chăn gối là mẹ của y. Cùng trong lúc ấy, định mệnh đã mang tai hoạ đến các thần dân của y, và đầy đoạ họ bằng những trận dịch hạch lan rộng. Một khi Oedipus nhận thức được chính y là cội nguồn của những nỗi khổ đau của họ, y tự móc mắt mình, và trở thành một người mù lang thang rời xa khỏi thành Thebes… Không thể nào chịu đựng nổi cảnh tượng của những điều bất hạnh y đã gây nên “vì không biết”, y tự móc lấy mắt, và trở thành một người mù lang thang rời xa khỏi thành Thebes…” [5]
Ai đọc câu chuyện trên mà chẳng cảm thấy ám ảnh? Về phần tôi, tôi xin mở một con đường xá tội. Hãy để những người theo chủ nghĩa xã hội, những người đồng hành của họ, những kẻ biện minh cho họ, những kẻ xét lại, công nhận những sự chết chóc, hãy để họ chôn cất những người đã chết, dạy cho những người khác những gì họ đã học được, và ăn năn hối lỗi với những nạn nhân đã chết. Nhược bằng, với mức độ kinh hoàng của những tai hoạ đã xảy ra, hãy để họ tự tìm cách chuộc tội sau khi đã tự móc lấy mắt, và trở thành những người mù lang thang rời xa khỏi Mát-xcơ-va, Bắc Kinh, hay thành Thebes. Hãy để các nhà trí thức Tây phương nhắc lại những câu thơ trong tập Requiem, một tác phẩm được Anna Akhmatova, nhà thơ vĩ đại nhất nước Nga trong thế kỷ hai mươi sáng tác trong giai đoạn khủng bố dưới thời Stalin:
Mọi lúc và mọi nơi, Tôi luôn nhớ về họ Dù vật đổi sao dời Tôi không thể quên họ. [6]
Những xác người đang đòi một cuộc thống kê, một lời xin lỗi, và một lời ăn năn. Không có những việc này, sẽ không có thời đại “hậu chủ nghĩa xã hội”.
Bản tiếng Việt © 2008 talawas
[1]Solzhenitsyn, Quần đảo ngục tù (The Gulag Archipelago), 3:28. 14. [2]Xem Courtois et al., Cuốn sách đen về chủ nghĩa cộng sản (The Black Book of Communism), 498–507 và các ghi chú tham khảo ở trong đó. [3]Sđd, 542-46 và các chú thích ở trong. [4]Sđd, 663-65. [5]Milan Kundera, Kiếp người nhẹ như lông hồng mà mang nặng tựa Thái sơn (The Unbearable Lightness of Being), dịch giả, Michael Henry Heim (New York: Harper Perennial, 1991), 175–77. [6]Anna Akhmatova, Tuyển tập thơ của Anna Akhmatova, chủ bút Roberta Reeder, dịch Judith Hemschemeyer (Brookline, MA: Zephyr, 2000), 151. Nguồn: Alan Charles Kors, “Can there be an “after socialism”? Social Philosophy and Policy 20 (01): pp.1-17 (2003). Bản dịch này được hoàn thành với sự chấp thuận của tác giả, Giáo sư Alan Charles Kors, Đại học Pennsyslvania, USA, và định chế sở hữu bản quyền văn bản, Cambridge University Press, the Edingburg Building. Shaftestbury Road, Cambridge CB2 8RU UK.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 11, 2010 7:59:09 GMT 9
Lột Trần Chế Độ Cộng Sản - Dương Thu Hương Đối với thế giới, uy tín của chính quyền cộng sản Việt Nam đã mất từ lâu, mất một phần khi xảy ra cuộc chiếm đóng Cambodia, mất toàn phần khi làn sóng thuyền nhân tràn lên các đại dương và xác chết của họ trôi khắp bãi bờ các quốc gia khác. Với dân chúng trong nước, giờ đây họ thôi là nhà cầm quyền vĩ đại. Bởi sự thoát đồng đã xảy ra từ rất lâu, họ thôi là thượng đế và dân chúng thôi là những con nộm bị điều khiển bằng thứ tôn giáo do kẻ cầm quyền sáng tác. Dân chúng đã nhìn rõ bản mặt của họ: những con vật đi bằng hai chân, những con vật tham tàn, những con vật đang run sợ vì sự tham tàn của chúng không còn được bóng tối che đậy. Nhà cầm quyền Hà Nội lúc này chỉ còn tin vào nòng súng. Nhưng bất kì kẻ cầm súng nào cũng có lúc chết vì chính thứ vũ khí mà họ sử dụng. Bởi vì, chẳng có thứ vũ khí nào tự động nhả đạn. Vũ khí nào cũng cần bàn tay của con người, dù là bàn tay bấm nút chiến tranh hạt nhân hay bàn tay cầm dao găm, súng lục. Khi con người đã nhìn rõ sự thật, khi họ không còn bị huyễn hoặc bởi các trò mị dân, khi họ hiểu họ là ai và họ có thể làm chủ số phận của họ bằng cách nào, lúc ấy, các nòng súng sẽ đổi hướng. Tiếng nhạc ầm ĩ trong ngày hội “Ngàn năm Thăng Long” hẳn đã át đi tiếng nức nở của trên năm mươi gia đình nạn nhân chết vì bão lụt ở miền Trung. Các quan chức Hà Nội không bỏ ra một nửa giây để tưởng niệm những kẻ xấu số. Họ quên. Cũng như họ đã từng quên những người dân đánh cá tỉnh Thanh bị giặc Tầu giết ngoài khơi, như họ quên các chiến sĩ đã bỏ mình trên biên giới vào cuộc chiến tranh năm 1979. . . Họ quên và họ quên. Vậy họ nhớ điều gì? Khi con gái họ có nhu cầu mua một chiếc váy cưới xấp xỉ 200. 000 euros tại đại lộ Champs Elysées thì họ phải nghĩ cách làm đầy thêm các ngân khoản ở ngân hàng ngoại quốc. Khi nhân tình của họ cần chiếc xe hơi sang trọng như xe của cô Hồ Thu Hồng thì họ phải nghĩ cách để kiếm cho bằng được chiếc xe ấy, để nàng khỏi tủi thân vì kém chị kém em. Khi ngôi lầu của họ chỉ đáng giá hai triệu đô la mà của kẻ khác giá gấp đôi thì họ phải tìm cách đuổi kịp và vượt hắn. Đó là mối quan tâm cốt lõi của giai cấp tư sản đỏ Việt Nam giờ đây, cái guồng quay cũ kĩ của đám mới giầu. Ai đó từng nói câu này: “Trong giai đoạn tích luỹ tư bản, giai cấp tư sản có thể giết chết cha đẻ của họ để có tiền”. Giai cấp tư sản đỏ Việt Nam cũng có chung một trạng thái tâm lý đó: khát tiền, làm mọi thứ để có tiền, bất kể phương tiện nào, dù đó là tội ác. Nhưng tư sản đỏ Việt Nam không cần giết bố, bởi họ có một đối tượng khác dễ giết hơn nhiều: dân đen. Họ không cần đốn ngã kẻ sinh thành bởi có thể hút máu dân đen một cách thoả thuê, vừa thoả mãn cơn khát tiền lại vừa yên ổn lương tâm vì không mắc tội giết cha. Lấy ví dụ về tập đoàn Vinashin. Mua một vỏ tầu cũ nát, đáy nứt, không thể vận hành, lấy sơn quét lên rồi rút hàng triệu đô la trong công quỹ. Hàng triệu đô la ấy quan lớn bỏ túi, còn con tầu “bãi rác” sơn bóng loáng kia được đặt trên đất liền để làm “hiện vật bảo tàng”. Nghe tưởng như chuyện đùa. Nghe như tiếu lâm. Thứ tiếu lâm cười ra nước mắt. Chỉ có ở Việt Nam, nơi kẻ cầm quyền coi dân là lũ trâu bò, mới dám làm điều ngang ngược đó. Chỉ có ở xứ Việt Nam, khi tất cả các cuộc kí kết, thương thuyết của chính phủ đều diễn ra trong bóng đêm và dân chúng không được quyền biết đến mới có thể xảy ra hiện tượng này. Lấy ví dụ thứ hai: các vụ buôn người. Dưới chế độ độc đảng, độc tài, ai có thể làm được điều này nếu không là chính các thành viên trong chế độ ấy. Tại sao lại buôn người? Vì buôn người thu lời nhanh nhất, mà vốn đầu tư coi như zero nếu có quyền hành. Cho nên, buôn người là nghề mới của đảng cộng sản Việt Nam, đảng thừa thãi quyền hành vì không có đối trọng. Đã là lái buôn, ắt phải tham. Lòng tham mà không bị điều tiết bởi các điều luật thì nó sẽ phát triển vô cùng tận. Do đó, món hàng hoá có tên gọi là “dân đen”của các quan chức Việt Nam sẽ được khai thác tối đa để làm đầy túi các bậc trị vì dân. Khi đã coi dân chúng là hàng hoá, ắt người cộng sản phải tìm mọi cách để đám dân đen trở thành vật vô tri, tức là các công cụ, thứ công cụ này có chức năng sản xuất nhưng phải câm và phải điếc. Khi mà các công cụ dân đen không chịu nổi đàn áp, buộc mở mồm thì lập tức họ có cách để bắt nó phải câm. Vũ khí đó có tên gọi “chuyên chính”, bộ máy đàn áp trứ danh lâu nay. Hãy đọc báo Công an nhân dân đưa tin về vụ xử ba thanh niên sáng lập công đoàn Tự do ngày 27 tháng 10 năm nay: “Được Trần Ngọc Thành, kẻ cầm đầu Uỷ ban bảo vệ người lao động Việt Nam đưa Hùng, Hạnh sang Malaysia đào tạo, huấn luyện, rồi từ ngày 28/1 đến ngày 9/2/10, Trần Ngọc Thành đã chỉ đạo Nguyễn Hoàng Quốc Hùng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Đoàn Huy Chương thực hiện các vụ kích động biểu tình, rải truyền đơn ở Trà Vinh, Đồng Nai, Tp HCM, nội dung kêu gọi người dân chống lại Đảng, Nhà nước, kêu gọi đấu tranh để đòi dân chủ; lợi dụng các vấn đề còn thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân ở một số khu công nghiệp để tổ chức tuyên truyền, kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp. . . ” Thứ nhất, tác giả bài báo này quên rằng “Kích động công nhân đình công, biểu tình, phá hoại máy móc, nhà xưởng, tài sản của doanh nghiệp” là đích xác các hành động của người cộng sản Việt Nam những năm trước cách mạng. Các hành động này cũng đã từng xảy ra ở nhiều quốc gia trên thế giới, khi giai cấp lao động không chịu nổi sự áp bức và bóc lột của đám chủ nhân. Các phản ứng tiêu cực này chỉ xảy ra khi sự thoả thuận giữa người làm công với kẻ trả công bị vi phạm và cuộc sống của người lao động bị đe doạ. Phải chăng tác giả bài báo này cho rằng chỉ riêng đảng cộng sản vĩ đại của ông ta là được quyền sử dụng chiêu thức ấy còn những người khác thì bị cấm vì họ không được là người mà chỉ là thứ phẩm của người, tức “dưới người”, nói cách khác: “người vượn Néandertal”? Thứ hai, câu “lợi dụng các vấn đề thiếu sót trong chế độ lao động, tiền lương của công nhân. . . ” chỉ là lối mỹ từ hoá sự vật. Nói một cách xác thực và dân giã, hiện nay các quan lớn cộng sản Việt Nam đang thực thi chính sách “bòn nơi khố quạnh, đãi nơi quần hồng”. Tại sao lại “bòn nơi khố quạnh”? Vì ngu, vì tham, vì trước ngoại nhân thì dốt nát và khiếp nhược nên các quan lớn chỉ có lối kiếm tiền dễ nhất là bóc lột đồng bào mình, những người không có phương tiện để tự bảo vệ, những kẻ bị hà hiếp, bị tê liệt cùng một lần vì đói nghèo và sợhãi. Tại sao lại “đãi nơi quần hồng”? Vì người cộng sản lúc này thôi còn là cộng sản, họ đã trở thành đám tư sản dù vẫn giữ vẻ mặt ngô nghê và bộ điệu lố bịch của kẻ cách đây chưa lâu còn lo le sợi dây giong lợn giống hoặc lúc lắc cái ống bơ đựng xu lẻ ăn mày. Khi đã đổi vai thì họ phải bám vào cái giai cấp tương lai của họ, giai cấp mới này chính là đám quần hồng, thế nên họ phải đãi đám quần hồng để còn kiếm chác phần đường mật trong đũng cái quần hồng ấy. Sự thật đơn giản, nếu người ta nhìn thẳng vào nó. Đám cầm quyền hôm nay đã rơi từ đỉnh cao của sự “kiêu ngạo cộng sản” xuống vũng bùn của“các con lợn truỵ lạc phương Tây” mà trước đây họ thường sa sả chửi rủa, họ đang sống xả láng trong cảnh phồn vinh mà trước đây họ mỏi mồm lên án. Nói tóm lại, họ đang là thứ “khỉ khoác quần áo”, thứ “nhặt cái đuôi của bọn tiểu tư sản cắm vào lỗ mồm” như ông tổ hói đầu Lenin của họ từng cảnh báo trước đây. Trong cuộc sống tối tăm, nhục nhằn của người nô lệ, các anh hùng đánh đuổi ngoại xâm chính là các bậc thánh sống, được tôn trọng, thần phục, ngưỡng mộ, và có toàn quyền trở thành các nhà sáng lập triều đình. Nhìn lại lịch sử, ta dễ dàng chiêm nghiệm điều đó. Phải chăng triều Lý, triều Trần, triều Lê, triều Tây Sơn Nguyễn Huệ đều được khởi dựng sau các chiến thắng lẫy lừng chống kẻ xâm lăng? Ngoại trừ Đinh Bộ Lĩnh là viên tướng phất cờ khởi nghĩa dẹp loạn sứ quân, thống nhất đất nước, nói một cách dễ hiểu là viên tướng duy nhất xây dựng triều đình khi chiến thắng các cuộc nội chiến phân quyền, còn lại, những gương mặt sáng chói trong lịch sử đất Việt đều là những anhhùng chống Tầu và chống Nguyên – Mông. Các triều vua này từng tuyên bố “Sông núi nước Nam vua Nam ở”. Và cuộc sống mái của họ là giành mục đích người Việt Nam là người Việt Nam, dẫu áo vải quần thâm nhưng đàn ông nhất quyết không cạo trọc, tết sam như gã A. Q, đàn bà không bó chân nhưcác mợ Tầu. Tuân theo logic ấy, triều cộng sản được hình thành là nhờ nó có công trong cuộc cách mạng chống giặc Tây. Và người ta còn khoan dung cho nó là vì tính đến cái công ấy, cái công “dành độc lập dân tộc”, cái khả năng nốitiếp truyền thống của các Vua nước Nam nhất thiết phải ở đất nước Nam, coi sự tồn tại của non sông quý hơn tròng mắt của chính họ. Cái tinh thần bất khuất ấy, còn hay chăng? Còn hay chăng, tinh thần dân tộc của những người đã đổ máu đểcắm ngọn cờ hồng lên thành Hà Nội sáu mươi lăm năm trước, những cảm tử quân đã ôm bom ba càng vào mùa đông năm 1946 với lời thề “Quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”? Nếu những anh hùng vô danh ấy có linh hồn, hẳn các linh hồn ấy giờ đây đang nức nở. Nếu những hiển linh của các vua xưa có thể cất lời, thì lời đầu tiên họ nói sẽ là “Lũ người này đã phản bội lại dân tộc, bọn sâu bọnày đã bôi nhọ mặt chúng ta!” Ngày Hội Ngàn năm Thăng Long diễn ra vào đúng ngày 1 tháng 10, thằng mù cũng biết đó chính là ngày Quốc khánh Trung Quốc. Tại sao lại là con số này? Tại sao có sự lựa chọn này? Vô ý chăng? Nhầm nhỡ chăng? Mất trí nhớ chăng? Cứ coi như Bộ trưởng Bộ Văn hoá dốt nát thì trên đầu ông ta còn mười một người trong bộchính trị. Không lẽ cả mười một người này mắc chứng mất trí nhớ? Không lẽ cả mười một người này mắc bệnh thiểu năng? Nếu để cho mười một kẻ thiểu năng đứng trên đầu trên cổ mình thì dân Việt xứng đáng là các bệnh nhân của trại tâm thần, một trại tâm thần khổng lồ chưa từng thấy mà trong đó các con bệnh bịtiêm thuốc ngủ liều cao liên miên nên đờ đẫn, không còn khả năng nhận thức sự vật xung quanh. Nếu không, họ đã bị bán đứng cho Tầu, và tương lai của họ, một tương lai không tránh được sẽ là bản sao lại sầu thảm của những người dân Tây Tạng hoặc Tân Cương một khi họ bó tay trước lũ bán nước. Chọn ngày Quốc Khánh Trung Quốc để mở hội Ngàn năm Thăng Long là một biểu tượng hai mặt. 1. Với triều đình Bắc Kinh chính phủ Hà Nội đã làm bản tuyên bố: Thành Thăng Long cũng chỉ là một bộ phận trong lịch sử mẫu quốc, nó phải được treo đèn kết hoa cùng một lần với đèn hoa của thủ phủ đại triều. Một khi thủ đô của một quốc gia đã định vị nhưvậy, có nghĩa quốc gia ấy tự xác nhận danh tính chư hầu một cách công khai. Sự kiện này là bản giao kèo bộc lộ lòng trung thành vô hạn và vô điều kiện của đám hàng thần Hà Nội. 2. Với dân chúng, đây cũng là lời tuyên bố thẳng thừng: Chúng tao bất chấp lịch sử, chúng tao có toàn quyền định đoạt vận mệnh đất nước. Kẻ nào chống lại, kẻ đó sẽ bị tiêu diệt. Chọn ngày quốc khánh Trung Hoa để mở hội Ngàn năm Thăng Long là bằng chứng hiển nhiên để mảnh vải rách cuối cùng che thân chế độ cộng sản rơi xuống. Họ đã trở thành kẻ bán nước, công khai hoá hành vi bán nước của mình. Nếu như năm 1945, cha anh họlà các anh hùng giải phóng dân tộc thì giờ đây, trái lại, họ là những tên phản tặc, sỉ nhục của tổ tiên, chẳng những cắt đất, cắt biển dâng cho giặc mà còn đương nhiên ném bùn lên lịch sử. Người Việt Nam ta có câu “hổ phụ sinh cẩu tử”. Mà bọn người này, không những là những con “cẩu tử” mà còn là “cẩu ghẻ”, “cẩu sida”. Những người cầm quyền Hà Nội thừa thông minh để hiểu rằng họlà những con cẩu ghẻ. Rằng trong dòng máu của bất cứ người Việt nào cũng lưu cữu một thành tố có tên gọi “chống ngoại xâm”, mà thứ ngoại xâm thống trị lâu dài nhất, tàn độc nhất, để lại các kinh nghiệm đau thương sâu đậm nhất trong kí ức là “giặc phương Bắc”. Cuộc thực dân hoá của Pháp 100 năm chỉ là cơn bão chóng qua so với thời kì bắc thuộc của giặc Tầu. Họ biết rằng bất cứ kẻ nào phản lại truyền thống đấu tranh dân tộc, kẻ đó mất chỗ đứng trong lòng dân chúng. Ngày hôm trước còn được tung hô hoàng đế, hôm sau đã biến thành “Thằng chó săn, thằng phản tặc, phường bán nước”. Đó là trường hợp vua Lê Chiêu Thống đã phải chịu do hành vi bán nước của ông ta. Còn câu ca “Nguyễn Ánh cõng rắn về cắn gà nhà” mãi mãi là bài học lịch sử tố cáo tội ác của kẻ đặt lợi ích dòng họ trên quyền lợi dân tộc. Giờ đây, nhà cầm quyền Hà Nội biết rằng họ đã bị đẩy sang bên kia đường biên, họ rơi vào cùng một bè lũ với Lê Chiêu Thống và Nguyễn Ánh. Để đặt tên cho họ một cách rõ ràng và chính xác, tôi xin nhại lại câu “cõng rắn về cắn gà nhà” của các cụ xưa mà rằng nhà cầm quyền Hà Nội giờ đây là bọn “dẫn hổ về thịt dê nhà” DẪN HỔ VỀ THỊT DÊ NHÀ. Tại sao lại là hổ và dê? Hổ, vì vương triều phương Bắc bây giờ mạnh hơn thực dân Pháp năm xưa nhiều lần, để so sánh một cách chính xác thì phải dùng hình ảnh con hổ chứ không thể là con rắn. Dê, vì nhìn lại bản đồ, bạn đọc sẽthấy rằng toàn bộ bán đảo Đông Dương có thể ví như một con dê mà Tây nguyên chính là phầnsống lưng con dê đó. Một khi con hổ Trung Hoa cắm được móng vuốt lên chính giữa lưng con dê này, coi như số mạng con dê đã nằm trong hai hàm răng của nó. Đế quốc Trung Hoa sẽ trải rộng khắp châu Á. Việt, Miên, Lào sẽ trở thành các tỉnh thành khác nhau của Trung Hoa, “công đầu” này thuộc về ai nếu không là nhà cầm quyền Hà Nội, kẻdựng lên công trình bauxite Tây nguyên? Bauxite ư? Trò lừa đảo! Thiếu gì các quặng bauxite rải rác khắp miền Bắc Việt Nam, tại sao không là Lào Cai, Yên Bái hay Cao Bằng mà lại là Tây Nguyên? Vả chăng, khai thác bauxite để làm gì? Kiếm tiền chăng? Dối trá! Biết bao bài báo đã phân tích chán chê lợi hại về khai thác bauxite, kể cả các tài liệu trên thếgiới cũng công bố rộng rãi tác hại của nó, mà vụ gần đây nhất là Vùng bùn đỏ Hungaria. Còn có thể nói thêm được điều gì khi mà sự bán nước hiển nhiên đã bầy ra trước mặt dân chúng, giữa thanh thiên bạch nhật? Nhà cầm quyền Hà Nội hoàn toàn có ý thức về hành vi bán nước của họ, bởi con tính của họlà trở thành một thứ “Thái thú Tô Định hiện đại”, được hưởng đủ phần xôi thịt của Bắc triều. Còn Việt Nam biến thành một tỉnh nào đó của Trung Quốc, mang tên Quảng Việt, Quảng Nam, Quảng Lạc. . . họ không cần quan tâm. Họ biết rõ rằng hành động của họ là đi ngược lại lợi ích của nhân dân, biết rằng không người Việt nào cam tâm làm nô lệ cho Tầu, rằng kinh nghiệm đau đớn của tổ tiên luôn luôn sống trong ý thức lẫn vô thức dân tộc, thế nên họ chủ trương đàn áp dân chúng, họ chủ trương dùng bàn tay sắt để bóp nghẹt cổ những ai muốn nói lời phản kháng. Không phải ngẫu nhiên mà năm 2009, thứ trưởng bộ nội vụ Nguyễn Văn Hưởng tức Trần đã công khai dọa nạt những người trí thức Việt Nam vào dịp viện IDS của tiến sĩ Nguyễn Quang A tuyên bố giải tán. Ông nghị Trần nói rằng “Ở Việt Nam đảng độc quyền lãnh đạo nên không thể có phản biện. Phản biện tức là phản động. Các anh muốn phản biện hả? Nhà tù đang còn nhiều chỗ lắm. Nhưng chúng tôi cũng không cần đến nhà tù, chúng tôi có các phương tiện hữu hiệu hơn. Tai nạn xe cộbây giờ tổ chức rất dễ dàng. Còn một biện pháp rẻ hơn và nhàn nhã hơn: đầu độc. Các anh uống cà phê rồi khi về đến nhà thì cứng đơ ra mà chết. Những bài bản này thế giới sử dụng đã lâu, chúng tôi cũng không thua kém họ. . . ” Những lời lẽ này nói lên điều gì nếu chẳng phải sự công khai triệt để của tính tội phạm và tư cách chó? Một chính thể không còn lý do chính đáng để tồn tại thì chỉ có thể duy trì bằng bạo lực, chỉ có thể sử dụng bọn tội phạm, bọn sát nhân, bọn cặn bã xã hội, tóm lại, bọn chó giữ nhà. Không còn lý tưởng, không còn đạo đức, ngập chìm trong tham lam, truỵ lạc, con người trượt từ chữ NGƯỜI sang chữ CON. Bác chúng em Vào những năm 1989, 1990, tôi có vinh hạnh làm quen và gặp gỡ ông Lê Giản, người công an đầu tiên của Việt Nam, người lãnh đạo bộ máy cảnh sát từ những năm đầu cách mạng. Ông Lê Giản đích thực là “Người công an nhân dân, từ nhân dân mà ra, do dân và vì dân”. Tôi hiểu vì sao cuộc kháng chiến thành công. Kháng chiến thành công vì có những người như ông Lê Giản. Nhưng ông Lê Giản đã chết và“Người công an nhân dân”cũng đã chết theo. Cái chết này xảy ra từ từ với thời gian, một cái chết âm thầm, nhưng không phải là vô hình vô ảnh. Tôi chứng minh: Cách đây ngót ba thập kỉ, khi những lượt hoa quả đầu tiên từphương bắc tràn vào nước ta, các phòng phân tích thuộc Bộ Nội vụđã báo cáo lên bộ chính trị rằng các thứ hoa quả này đều tẩm formaldéhyde (thuốc ướp xác chết) vô cùng độc hại cho người tiêu dùng vì nó phá huỷ mô liên kết của các tế bào và là tác nhân gây ra bệnh ung thư. Bộ chính trị ra lệnh cấm phổ biến sự thực trên vì “sợ mất lòng nước bạn”. Các sĩ quan công an chỉ có thể ngăn cấm chính vợ con họ và rỉ tai những người thân cận nhất (anh em ruột, cha mẹ vợchẳng hạn), đối với người ngoài, họ tuyệt đối tuân thủ mệnh lệnh cấp trên. Tuyệt đối im lặng. Tuyệt đối thản nhiên nhìn đồng bào mình ăn thứ đồ ăn nhiễm độc, biết chắc chắn rằng ngày một ngày hai họ sẽ ung thư và sẽ chết vì bệnh đó. Tính kỉ luật của đám sĩ quan này mới cao thượng làm sao(!) Và cao thượng làm sao, những kẻngồi quanh bàn họp bộ chính trị, những bậc lương đống của triều đình, chịu trách nhiệm chăn dắt dân đen, đàng hoàng ra lệnh cấm rò rỉ sự thật vào tai dân chúng, bỏmặc mấy chục triệu người bị đầu độc và chết dần chết mòn! Đối với tôi, con đường bán mình cho giặc của chế độ Hà Nội đã khởi sự từ ngày ấy. Và ngày ấy cũng là cái mốc đánh dấu sựchuyển biến chất lượng này: từ người công an nhân dân, công an đã trở thành kẻ quay lưng lại với nhân dân. Ba thập kỉ đã qua, những kẻ quay lưng lại với nhân dân đã trượt không ngừng trên con dốc, để trởthành kẻ thù của nhân dân. Bây giờ, gương mặt nào là gương mặt đích thực của công an? Người hùng bảo vệ dân hay đám chó giữ nhà cắn cổ dân để bảo vệông chủ của nó? Hãy xem lại các hình ảnh đưa lên internet năm 2008 về vụ nông dân bị cướp đất biểu tình ở Sài Gòn. Những người dân cầy gầy gò xơ xác, đa phần là người già và phụ nữ, từ các tỉnh Tiền Giang, An Giang, Bến Tre, Long An, Bình Thuận đổ đến trước văn phòng Quốc hội 2 với các khẩu hiệu “Trả đất cho dân”, “Chống cửa quyền, tham nhũng”. Những người dân ấy đã bị đám công an và dân phòng béo múp vì bia rượu, mặt hằm hằm sát khí đối xử ra sao? Mấy thế kỉđã qua nhưng hình ảnh bọn người này vẫn là bản sao chính xác bọn nha lại mà Nguyễn Du đã mô tả trong Truyện Kiều:“Đầy nhà một lũ ruồi xanh” và“Đầu trâu mặt ngựa ào ào nhưsôi”. Gần đây nhất, hãy nhìn hình ảnh anh Nguyễn Ngọc Quang, một giáo dân ở Định Quán, tỉnh Đồng Nai vì tham gia đấu tranh cho dân chủ mà bị công an Đà Lạt ba lần tổ chức tai nạn xe cộ để kẹp suýt chết. Tôi tự hỏi, có lúc nào những người công an này tự vấn lương tâm? Tại sao họ không dùng sức lực, dùng khả năng hung bạo mà họ sẵn có để giết những tên giặc Tầu, lũ dã nhân tàn sát những người dân đánh cá Thanh Hoá? Nếu là những người mà nghề nghiệp đặt trên bạo lực, bản năng hiếu chiến mạnh mẽ, tại sao họkhông dùng khả năng đó để tiêu diệt ngoại xâm mà lại đi đàn áp những sinh viên yêu nước biểu tình đòi Trường Sa, Hoàng Sa trước sứ quán Tầu? Tại sao? Vì họ thiếu trí khôn hay vì họ là những kẻ mù loà, óc não bị khô cứng trong một cuộc sống mà ngoài việc tuân theo mệnh lệnh cấp trên không còn khả năng nghĩ đến điều gì khác ? Vì chưa từng là công an, nên tôi dành những câu hỏi ấy cho họ trảlời. Tôi chỉ nêu lên nhận xét thứhai, nhận xét khi tôi nhìn tấm ảnh đoàn biểu tình đòi mạng người xảy ra tại thị xã Bắc Giang ngày 25 tháng 7 năm nay. Nhiều người biết rằng, ngày 23 tháng 7, hai công an huyện Tân Yên tỉnh Bắc Giang đã đánh chết anh Nguyễn Văn Khương, 21 tuổi, quê quán tại huyện Việt Yên vì tội danh không đội mũ bảo hiểm. Ngày 25 tháng 7, gia đình anh Khương đã chở xác chàng trai này lên thị xã Bắc Giang đòi đền mạng. Dân chúng xông lên ủng hộ gia đình nạn nhân, con số lên đến hàng ngàn người, làm thành một cuộc biểu tình rầm rộchưa từng có trong lịch sử tỉnh Bắc Giang, mà theo bài phỏng vấn, các cụ già đã nói rằng còn đông hơn ngày theo Việt Minh cướp chính quyền năm Ất dậu. Trong sự kiện này, tôi chú ý đến một chi tiết: công an đưa xe cứu hoả mang vòi rồng đến trấn áp dân chúng, nhưng trước khí thế căm hờn của đám đông, công an bỏ chạy, hàng chục người dân trèo lên xe đứng. Hiện tượng đó chứng tỏ không phải lúc nào công an cũng tê liệt vì mù loà, luôn hành động như đám robot hoặc lũ chó berger. Trong lúc nguy khốn, họ đã tính toán và đã chọn con đường bỏ chạy để thoát thân. Có lẽ, con tính của họ cũng đơn giản thôi. Không phải công an nào cũng phú quý vinh hoa nhưông nghị Nguyễn Văn Hưởng. Đa phần những người lính quèn chỉ đủ sức nuôi một vợ thôi mà để nuôi cô vợ này với hai, ba đứa con kèm theo cuộc sống của họcũng không phải là “thiên đường nơi hạ giới”. Nếu máu đổ ra mà chỉ để bảo đảm cuộc sống ấy thì đó là một cuộc đổi chác ngu xuẩn. Thêm nữa, lớp lính bây giờtương đối trẻ, họ biết chữ nên không hoàn toàn bị bưng bít thông tin, họ hiểu được số phận của đám công an ra sao khi các cuộc cách mạng dân chủ xảy ra ởNga, ở Tiệp, ở Hung, ở Đức, và ở Ukraina mới rồi. Thêm nữa, dù hổ thẹn hay cố tình bưng bít lương tâm, nơi thầm kín nhất của con tim, họ cũng hiểu rằng chết vì một lý tưởng cao cảthì đó là cái chết xứng đáng không làm hổ thẹn cho con cháu, chết chỉ vì miếng cơm thì đó là cái chết của con chó gác sân mà khi dân chúng nổi lên, họ sẽ lấy bắp cầy phang vỡ sọ hoặc dùng câu liêm cắt cổ. Khi lòng dũng cảm và tinh thần hào hiệp không còn nữa, cái còn lại là sự tính toán vị kỉ của mỗicon người. Sự vị kỉ này cũng có mặt tốt của nó, nó là rào cản đểchủ nghĩa cuồng tín không thểđặt chân vào mảnh sân của mỗi căn nhà. Một người công an, nếu chưa mất toàn bộ sự sáng suốt, ắt phải biết tính toán họ được bao nhiêu và mất bao nhiêu, liệu số lương bổng họ được có trang trải nổi phần tiêu phí cho đám tang của họ và nuôi nổi cô vợ với lũ con còn lại, hay sự hy sinh của họ chỉđể làm nặng thêm túi tiền các quan lớn, khiến các quan thêm rửng mỡ để đi hiếp trẻ con (nhưông chủ tịch kiêm phó bí thư tỉnh Hà Giang tên Nguyễn Trường Tộvà các ông khác chưa bị lộ mặt), hay máu họ đổ xuống chỉ để đổi lấy các hộp kem đắt tiền nhằm bổdưỡng làn da mịn màng cho các mỹ nhân của quan lớn (như đám mèo cái đang vờn quanh rốn ông nghị Nguyễn Văn Hưởng)? Vân vân và vân vân. . . Sự tính toán luôn có lợi cho con người. Bởi thánh nhân thường hiếm mà kẻ trục lợi thường nhiều nên không thể đòi hỏi tất cả mọi người đều xả thân vì đất nước. Tuy nhiên, nếu không là thánh nhân thì họ cũng là dân Việt. Là dân Việt, họ phải hiểu rằng truyền thống chống Tầu là dòng máu sôi sục liên tục chảy trong tim dân tộc này. Bất cứ kẻ bán nước nào, sớm hay muộn, trước hay sau cũng sẽ nằm trước mũi súng của nhân dân.
|
|