|
Post by Can Tho on Dec 11, 2010 8:02:34 GMT 9
Dân Việt :
Ai là dân Việt? Phải chăng đó là tộc người duy nhất trong hàng trăm tộc Việt (Bách Việt) xưa kia sống ở phía nam sông Dương Tử còn giữ lại được bản sắc mà chưa bị đồng hoá như chín mươi chín tộc Việt kia? Phải chăng vì sự cứng đầu này mà đất Việt luôn luôn là con mồi trong tâm thức Bắc triều? Ngoài các lý do về nhu cầu bờbiển với các hải cảng, nhu cầu khoáng sản, còn một nhu cầu thầm kín nữa mà quan lại phương Bắc không nói ra, đó là nhu cầu đồng hoá nốt cái phần còn lại của Bách Việt. Niềm kiêu hãnh Đại quốc là ở đó. Mối bực mình của Đại quốc cũng là ở đó. Một khi họ đã thâu tóm, đã chiếm lĩnh, đã áp đặt nền văn hoá và chữ Hán lên chín mươi chín tộc Việt kia, lẽ nào còn cái tộc cuối cùng họ phải chịu thua?Ở thế thượng phong mà mấy ngàn năm nay chưa nuốt trọn hòn xôi Việt Nam, mảnh đất cỏn con, dường như là một “vết thương lòng, một sự tự ái” mà vua chúa Trung Hoa không chịu được. Cách đây vài năm, ai đó từng nói với tôi rằng “Mao Trạch Đông và Tưởng Giới Thạch là địch thủ, nhưng về chính sách đối với Việt Nam thì bọn họ sẽ ngồi cùng một bàn”. Đó là một nhận định sáng suốt. Năm trước, ông bộ trưởng bộ quốc phòng Trung Quốc tiến hành cuộc điều tra dư luận xem bao nhiêu phần trăm dân chúngủng hộ xâm chiếm Việt Nam. Theo công bố của ông ta thì con số này lên đến trên 90%. Cứ cho rằng Trung Quốc là một nước cộng sản nên dân chúng còn sợ hãi, họ phải tuân theo thượng cấp nên có thể trừ đi 20 phần trăm, phần còn lại vẫn là trên 70 phần trăm. Và điều này là sự thật không ai có thể chối bỏ. Năm nay đã là năm 2010, thế kỉ21, Trung Quốc không còn sống dưới vương triều họ Mao, không còn phải đổi xác người thân cho nhau để chén thịt. Kinh tế phát triển, các phương tiện kĩ thuật phát triển, trình độ văn hoá được nâng cấp, sách báo lan tràn trong các đô thị, không thể cho rằng dân Trung Quốc hoàn toàn bị dắt mũi bởi họ ngu dốt, bởi thiếu thông tin, bởi sợ hãi nhà cầm quyền, ngược lại, họ đang dương dương tự đắc vì là dân của Cường quốc số 2 trên thế giới. Vậy thì, cái “hòn xôi Việt Nam chưa nuốt được” kia không chỉlàm ngáng họng đám cầm quyền mà cũng còn làm ngứa ngáy cổhọng vô số dân đen phương Bắc, một mặc cảm có mẫu số chung. Vì lý do nào mà bộ trưởng bộquốc phòng Trung Quốc làm cuộc điều tra này? Đó là một trò chơi ngẫu nhiên hay là sự thăm dò có chủ định? Vì lý do nào mà trên các site internet Trung Quốc tung ra hàng loạt bài chửi bởi, nhục mạ “lũ chó Việt Nam, phải đánh bọn chúng. Lũ chó Việt Nam, lần này chúng ta sẽ thanh toán lịch sử”, và công bố một cách chi tiết chương trình thôn tính Việt Nam trong ba mươi mốt ngày, phần còn lại của bán đảo được quy định là một tuần, tóm lại là chương trình con hổ Trung Quốc nuốt trọn con dê Đông Dương? Liệu nhà cầm quyền phương Bắc có thể ngang ngược làm những điều ấy chăng nếu như chính quyền Hà Nội còn là một chính quyền độc lập mà không tựnguyện biến mình thành đám gia nô cho vương triều Đại Hán? Tôi dành những câu hỏi ấy cho bạn đọc trả lời. Tôi chỉ xin nhắc họ rằng, chúng ta là tộc người cuối cùng sống sót mà không bị đồng hoá thành người Hán. Tổ tiên chúng ta đã đấu tranh không mệt mỏi đểchống lại sự áp đặt của Bắc triều, bởi họ đã nhìn thấy sự đánh mất bản diện, sự lụi tàn của 99 tộc Việt kia. Để tồn tại và được là chính mình, tổ tiên ta vừa chống chọi vừa lùi xuống phương Nam. Lịch sử của dân tộc Việt tóm gọn trong câu này: “Nam tiến”! Nam tiến, nam tiến và nam tiến! Cuộc Nam tiến thứ nhất khởi sựdưới triều Lê, từ năm 1428 đến năm 1527. Kể từ đây, cuộc khai khẩn và chinh phạt tiếp tục không ngưng nghỉ. Từ Thăng Long các đoàn quân xưa vượt qua đèo Ngang, sau lưng họ là những đoàn nông dân và thợ thủ công vào phá rừng, bạt núi, kiến tạo ruộng đồng và lập làng xây ấp. Rồi tiến đến châu Ô, châu Rí. Rồi, từ đèo Ngang vượt qua đèo Hải Vân là chặng đường thứ hai. Cứ thế mà hành trình này tiếp tục cho đến mũi Cà Mau. Nam tiến, đó là sự nghiệp dựng nước của tổ tiên ta. Bây giờ, chúng ta không còn cơhội để tiếp tục sự nghiệp của họ. Chúng ta không thể Nam tiến. Trước mặt chúng ta đã là biển. Chúng ta tiến đi đâu? Người Việt chỉ còn cách tồn tại cuối cùng là giữ lấy đất đai, đất đai ấy là xương máu của cha ông ngàn đời tích tụ lại, đất đai ấy là nơi cắt rốn chôn rau nhưng cũng là thành luỹ mà họ có thể nương tựa vào để duy trì cuộc sống cho mình và cho các thế hệ mai sau. Để giữ được non sông, để có thểlà người Việt mà không trở thành đám thiểu số khiếp nhược của một vương quốc khác, chúng ta không thể tiếp tục dung dưỡng một chính quyền bán nước, mộtchính quyền đã ngang nhiên cắt đất, cắt biển cống cho phương Bắc, đã nhục nhã biến ngọn cờThăng Long ngàn năm thành một mảnh vải vụn xén ra từ cái váy hồng Bắc Kinh. Chúng ta không thể bảo vệ được Tổ quốc nếu tiếp tục nuôi giữa lòng dân tộc mình một con rắn độc, cũng như Vua An Dương Vương xưa đánh mất non sông vì trót đẻ ra và trót yêu thương đứa con gái phản tặc có tên là Mỵ Châu. Với tất cả các hành vi nhục nhã mà họ đã làm, chế độ Hà Nội giờ đây đã chính thức trở thành một thứ Mỵ Châu. Tuy nhiên, Mỵ Châu xưa là một người đàn bà xinh đẹp nhưng ngu dốt, kẻ luỵ tình nông nổi nên tội bán nước của cô ta còn được người đời khoan dung. Tại đền thờ Cổ Loa có hai tượng đá, tượng đá ngoài sân là biểu tượng Mỵ Châu nằm gục mặt xuống đất mà bất cứ ai đi qua cũng phải đạp một cái lên lưng và nhổ một bãi nước bọt để trừng phạt “con Mỵ Châu bán nước”. Còn tượng đá trong đền, tựa như một người đàn bà cụt cổ phủ vải đỏ thì lại được hương khói do lòng đồng cảm với “Mỵ Châu khờ dại và lụy tình”. Dân Việt vốn không cuồng tín, họ phân biệt rõ ràng mọi sự, bên kia chữ lý còn đọng chữ tình. Nhưng nàng Mỵ Châu ngây thơ, khờ dại đã chết từ mấy ngàn năm trước, còn chính quyền Mỵ Châu bây giờ không một chút khờ dại mà cũng chẳng luỵ tình ai, nó chỉluỵ cái túi tiền của chính nó. Mọi tính toán của nó chỉ nhằm tu tạo, xây đắp quyền lợi bản thân, cũng như con thú chỉ có một đam mê duy nhất là liếm cho mượt bộlông của chính nó mà thôi. Mỵ Châu ngày nay là một con đĩ già trơ trẽn, trần truồng nằm dạng háng sẵn cho phương Bắc. Người dân Việt phải chém cụt đầu con đĩ ấy, trước khi nó kịp trao hết nỏ thần vào tay giặc nếu chúng ta không muốn lặp lại sốphận bi thảm của An Dương Vương. Dân tộc Việt không thể làm được điều ấy, nếu quân đội khôngđứng lên cùng với họ. Quân đội, những người lính của nhân dân, các anh còn ngủ đến bao giờ? DƯƠNG THU HƯƠNG
Tổng Thống Nga Vladimir Putin: Kẻ nào tin những gì Cộng Sản nói, là không có cái đầu. Kẻ nào làm theo lời của Cộng Sản, là không có trái tim.
Tổng Thống Nga Boris Yeltsin: Cộng Sản không thể nào sửa chửa, mà cần phải đào thải nó.
Bí Thư Đảng Cộng Sản Nam Tư Milovan Djilas:
20 tuổi mà không theo Cộng Sản, là không có trái tim, 40 tuổi mà không từ bỏ Cộng Sản, là không có cái đầu.
Tổng Bí Thư đảng Cộng Sản Liên xô Mr. Mikhail Gorbachev:
Tôi đã bỏ một nửa cuộc đời cho lý tưởng Cộng Sản. Ngày hôm nay tôi phải đau buồn mà nói rằng: Đảng Cộng Sản chỉ biết tuyên truyền và dối trá.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 23, 2011 5:11:24 GMT 9
Nằm xuống vì đất nước? Trần Khải Tình báo Nga có một chữ để gọi các nữ gián điệp tuyệt sắc gài vào Hoa Kỳ và thế giới Tây Phương: "chim én". Mỹ nhân kế là chuyện tưởng như chỉ còn trong thời Chiến Tranh Lạnh, nhưng gần đây mới lộ ra thêm nhiều mạng lưới gián điệp hải ngoạị của Nga (và hãy tin là có các kiểu tương tự của Trung Quốc, Việt Nam) hoạt động y hệt như trong các truyện Z-28 và phim James Bond 007. Đơn giản vì các phản ứng văn hóa dị biệt nhau: trong khi các sở tình báo Mỹ kêu gọi phụ nữ Mỹ lên đường phục vụ bằng lời mời gọi “hãy đứng lên vì đất nước”, thì các sở tình báo Nga kêu gọi phụ nữ Nga chiến đấu cho chính phủ Nga bằng lời mời gọi “hãy nằm xuống vì đất nước”. Bởi vì, các lãnh tụ Nga (và các lãnh tụ cộng sản khác) tin rằng người Mỹ và Châu Âu lúc nào cũng bị ám ảnh bởi sex. Chỉ có những người đã sống ở Mỹ-Âu nhiều thập niên mới thấy không phảỉ thế, nhưng đúng là có nhiều trường hợp các nhà ngoại giao quốc tế đã sụp bẫy vì các nữ gián điệp Nga, Trung Quốc. Báo Vancouver Sun hôm 11/12/2010 kể rằng, các nữ điệp viên Nga còn có tên gọi là “chim én”. Đó là trường hợp cô Katia Zatuliveter, 25 tuổi, người Nga, được gài vào làm việc ở Hạ Viện Anh Quốc. Báo này mô tả rằng cô đẹp, thông minh, ưa mặc váy ngắn, đã mau chóng lọt vào mắt Dân biểu Anh Mike Hanthingy thuộc Đảng Dân Chủ Cấp Tiến, người đưa cô vào làm phụ tá. Cô Katia Zatuliveter gặp Dân biểu Mike Hanthingy không tình cờ tí nào Tuy nhiên, Sở Phản Gián MI-5 tin rằng cô gặp Dân biểu Mike Hanthingy không tình cờ tí nào, mà là đã được Sở Tình Báo Hải Ngoại Nga (SVR) sắp xếp. Báo này ghi lời Nevena Marjanovic, 26 tuổi, nguyên là bạn cùng trong văn phòng của Dân biểu Hanthingy, nói: “Cô Zatuliveter cực kỳ quyến rũ, và cô đang dùng nhan sắc để chiêu dụ, cứ mặc váy ngắn hoài thôi”. Ngôn ngữ báo chí Tây Phương còn gọi cô bằng kiểu truyền thống là “nồi mật”, hay là “bẫy mật”. Tất nhiên, các cô phải là mật ngọt trần gian mới được SVR tuyển mộ và tung ra hải ngoại. Hãy hình dung thế này: Sở Tình Báo Mỹ CIA mời gọi một nữ gián điệp Mỹ hãy dùng nhan sắc gạ gẫm Lê Công Phụng, hay Hồ Cẩm Đào... Chưa chắc CIA đã dám ra chỉ thị trực tiếp như thế, bởi vì các cô người Mỹ có thể kiện CIA ra tòa, và níu áo các dân biểu Mỹ nói rằng nữ quyền của các cô bị CIA lạm dụng và xâm phạm.... thế là rách việc, vừa hỏng kế hoạch gài bẫy, vừa có thể phải bồi thường danh dự các cô nhiều triệu đô la. Bởi vậy mới có câu ở Mỹ là, mời các cô đứng dậy vì đất nước. Hoàn toàn trái nghịch với Nga... Cô Anna Chapman gián điệp Nga bị bắt ở New York Trường hợp cô Katia Zatuliveter mới lộ mấy tuần qua ở London, trong lúc người ta chưa quên chuyện cô gián điệp tuyệt sắc Anna Chapman, 28 tuổi, bị Mỹ bắt trong đường dây gián điệp Nga ở New York. Báo Vancouver Sun kể lại lời của Sir Christopher Meyer, cựu đaị sứ Anh tại Washington DC, nói trên chương trình truyền hình Today tuần qua, “Có nhiều lần, các bẫy mật ngọt trải nằm ra trước tôi. Nhưng tôi đã cưỡng lại sự cám dỗ của các gián điệp Xô Viết, khi họ kềm chế sự giận dữ khi thấy tôi cưỡng lại cả những gợi dục hiến thân từ cả nữ gián điệp cho tới cả bẫy đồng tính của các nam gián điệp. Bẫy mật lúc nào cũng có trong thời Xô viết. Đó là một quốc gia rất truyền thống, kể cả hệ thống tình báo của họ, cho nên tôi không ngạc nhiên khi thấy có chuyện nữ gián điệp Nga ở Hạ Viện Anh”. Giles Whittell, tác giả cuốn “Bridge of Spies” (Chiếc Cầu Gián Điệp), tác phẩm mới về những thời hoàng kim của người di dân bất hợp pháp Nga, nói rằng có nhiều dân Nga không giấy tờ tại Mỹ, và “trong đó có một gián điệp mà tôi được thông báo rằng cô này đã quyến rũ tất cả các thám tử FBI được cử ra để dò bắt cô”. Năm 1955, John Vassall, một nhân viên đồng tính làm việc trong tòa đại sứ Anh ở Moscow, bị quyến rũ vào một tiệc rượu. Say quá đã, anh sau đó được cho xem mấy tấm hình do Sở KGB (thời Xô Viết) chụp, Sở này đã đưa ra các nam điệp viên ra chiêu dụ anh. Trong khi họ gọi các cô là “chim én,” thì các chàng đẹp trai này được gọi là “chim quạ.” Thế là, trong 8 năm kế tiếp, Vassall bị bắt chẹt để do thám cho Liên Xô. Cùng lúc đó, Sở Tình Báo Stasi của Đông Đức cũng tung ra các chàng đẹp trai – gọi là “Romeo Spies” (điệp viên tình nhân Romeo) – để quyến rũ các cô thư ký làm việc trong các cơ quan chính phủ Tây Đức. Có hơn 40 phụ nữ sau đó bị truy tố ra tòa về tội đưa tàì liệu mật cho tình nhân, mà không nhận ra các chàng là gián điệp Đông Đức. Hồi tháng 07/2009, một nhà ngoaị giao Anh, James Hudson, bị bí mật quay phim bởi Sở FSB (hậu thân của KGB), đang vui chơi trong một phòng khách sạn với 2 cô gái điếm Nga. Thế là James Hudson từ chức. Và trong một phái đoàn thương mại tới Trung Quốc năm ngoái, một phụ tá cao cấp của Gordon Brown vào một quán nhạc khách sạn ở Thượng Hải và nằm một đêm với một thiếu nữ Trung Quốc tuyệt sắc. Sáng hôm sau, anh báo cáo rằng máy BlackBerry (điện thoại tinh khôn đặc biệt) của chính phủ cấp cho anh sử dụng đã mất trộm. Trang web Sở MI-5 nói rằng: “Anh Quốc là mục tiêu gián điệp ưu tiên cao, và nhiều nước đang ra sức tìm các thông tin và vật liệu từ Anh để thăng tiến các chương trình quân sự, kỹ thuật, chính trị và kinh tế của họ. Chúng tôi ước tính có ít nhất 20 sở gián điệp nước ngoài đang hoạt động nhắm vào quyền lợi Anh Quốc. Ở mức độ lớn nhất là người Nga và Trung Quốc. Số lượng điệp viên Nga tại London không hể giảm kể từ thời Xô Viết”. Trước đây, nhiều năm trước,chúng ta nghe tin có cô Trương Mỹ Vân của Sở Tình Báo Trung Quốc đã chinh phục Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu và có một con với ông già họ Lê này. Không rõ tin này có chính xác hay không. Nhưng điều chắc chắn rằng, các nữ gián điệp Trung Quốc không chỉ ở Bắc Kinh hay Thượng Hải, mà cũng còn đang bay lượn ở Hà Nội, Sài Gòn... Cũng hệt như các cô Anna Chapman bay lượn ở New York, và cô Katia Zatuliveter bay lượn ở London. Hãy lắng nghe chỉ thị từ Bắc Kinh nhắn các cô, rằng “hãy nằm xuống” vì đất nước Đại Hán vĩ đại... Thế là, Việt Nam rồi sẽ mất rừng, mất biển, và gánh trên vai quả bom nổ chậm bùn đỏ bauxite... Không phải sao? Có thời nào mà đất nước Việt Nam mất nhiều tới như thế? Trần Khải
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 5:14:15 GMT 9
Trách nhiệm lịch sử*
Nguyễn Trung Hà Nội
Kính dâng Tổ quốc nhân dịp 1000 năm Thăng Long I. Tình hình đã chín muồi II. Bàn thêm về chữ “nếu” III. Đảng đang tự “diễn biến hòa bình” IV. Trách nhiệm lịch sử. V. Thay lời kết: Bàn về đa nguyên, đa đảng Tài liệu tham khảo *Bài này nên đọc cùng với bài “Việt Nam trong thế giới thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” Thời Đại Mới, số 18, tháng 3/2010 I. Tình hình đã chin muồi Lịch sử đầy máu và nước mắt của nước ta trong thế kỷ 20, đặc biệt trong nửa sau của thế kỷ này cho thấy sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đòi hỏi phải có tầm nhìn thấu đáo cục diện và xu thế của thế giới hiện tại - với lý tưởng lợi ích quốc gia là duy nhất và trên hết, để có đủ trí tuệ và bản lĩnh tạo ra cho đất nước bên trong là sự đồng thuận không gì phá vỡ được, bên ngoài là một bối cảnh hòa bình tối ưu cho phép – bao gồm những mối quan hệ quốc tế thuận lợi có thể tranh thủ được. Đòi hỏi này ngày nay rất cấp bách, vì đất nước đang cần có mọi điều kiện thuận lợi nhất để chuyển sang một giai đoạn phát triển mới - trong một thế giới đang có nhiều bất trắc mới vì những biến đổi sâu sắc cả về kinh tế và chính trị đang diễn ra. Bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, thế giới tiếp tục đi sâu vào cục diện đa cực. Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất, song đang xuống dốc nhanh. Trung Quốc đang ngoi lên nhanh trên con đường trở thành siêu cường. Điểm lại, trong thời kỳ hậu chiến tranh lạnh Mỹ chiếm được vị thế quốc tế mạnh nhất trong lịch sử của nó, song cũng là thời kỳ Mỹ chịu nhiều thất bại và tổn thất nhất, là thời kỳ quyền lực và ảnh hưởng của Mỹ sa sút nhanh nhất so với mọi thời kỳ từ sau chiến tranh thế giới II đến nay. Nguyên do là “tham vọng và gánh nặng đế chế” quá lớn và sự đổ vỡ thảm hại của chủ nghĩa tân tự do trong kinh tế! Tình hình nghiêm trọng đến mức trong khi tranh cử và kể cả sau khi thắng cử Obama chủ trương phải thay đổi cấu trúc kinh tế Mỹ, từ bỏ học thuyết Bush trong chiến lược toàn cầu, Mỹ phải tìm cách tiếp cận mới để không thu hút mọi gánh nặng toàn cầu vào Mỹ - thực chất là chấp nhận một bước lùi chiến lược. Thất bại của Mỹ kéo theo vị thế toàn cầu của cả phương Tây xuống thấp. Trong bối cảnh như thế, người ta càng bị ấn tượng sâu sắc là Trung Quốc đang đi nhanh quá trên con đường trở thành siêu cường - gần như với bất kỳ giá nào: khai thác lao động rẻ trong nước, chấp nhận môi trường trong nước bị ô nhiễm tệ hại, thẳng tay trong các vụ Tây Tạng, Tân Cương, chủ nghĩa thực dân mới kiểu mới ồ ạt ở mọi nơi trên thế giới liên quan đến thu hút tài nguyên, ráo riết vũ trang, uy hiếp Biển Đông… Trung Quốc 2009 có trong tay 2100 tỷ USD để giữ vai chủ nợ lớn nhất thế giới và sẽ còn tăng nữa (hiện nay là 2400 tỷ USD). Chưa bao giờ như hiện nay sách báo và các phương tiện truyền thông Mỹ lại đầy dẫy các nhận định, đánh giá, về Hiện tượng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc trở thành chủ nghĩa tư bản toàn trị đặc sắc Khổng giáo, về Sự giới hạn của quyền lực Mỹ, về Chiến lược toàn cầu của Washington đang hủy hoại nước Mỹ, về Triển vọng chẳng lấy gì làm sáng sủa của Obamanomics, về Sự cáo chung của đế chế Mỹ, vân vân, - và về …Các chủ thuyết và mô hình phát triển hiện có xuất hiện nhiều vấn đề phải xem lại. Thế giới trong thập kỷ tới này phải chăng đang nghiêng về phương Đông?!.. Đang manh nha một trật tự thế giới mới... [1] Thật rất khó thờ ơ trước những ý kiến hay nhận định như vậy. Tình hình này liên quan đến mọi quốc gia, trong đó có lẽ đặc biệt là Việt Nam – vì nước ta ở sát nách cái “công xưởng thế giới” và nằm ngang con đường độc đạo thuận lợi nhất cho siêu cường tương lai Trung Quốc vươn ra Thái Bình Dương. Cường quốc quân sự lớn nhất này trong khu vực đang hàng ngày có nhiều hành động trực tiếp uy hiếp nước ta trên Biển Đông – mặc dù lãnh đạo Trung Quốc vẫn khẳng định quan hệ 16 chữ với Việt Nam. Trên thế giới đã thấp thoáng các mối lo: Một khi do Mỹ ngày càng suy yếu và vì thế có thể xuất hiện khả năng Mỹ -Trung Quốc thoả hiệp tay đôi chi phối thế giới, tình hình sẽ ra sao? Lác đác đã có dự báo về một khả năng lúc nào đó sẽ tái hiện trở lại “mối quan hệ các quốc gia triều cống” dưới dạng mới nào đó và Trung Quốc sẽ có một số nước chư hầu thời hiện đại!.. Nếu lại thêm tình hình một nền kinh tế lớn nào đó – ví dụ Trung Quốc – nổ bong bóng, hay các nền kinh tế phương Tây chưa có lối ra – ví dụ như căn bệnh “Hy Lạp”[2]… sẽ chấn động đến nước ta như thế nào? Nếu hai đồng tiền USD và Nhân dân tệ sẽ “đánh nhau” hay “bắt tay nhau” (vấn đề tỷ giá và phá giá đồng tiền)?..[3] Nếu quan hệ Mỹ - Trung nóng lên cũng rất phiền toái cho nhiều nước, trước hết là Việt Nam, vân vân… Tóm lại, thế giới vừa bước vào một thời kỳ mới của khủng hoảng mô hình phát triển kinh tế - đến mức phải nhìn lại nhiều vấn đề của các chủ thuyết,[4] vừa có nhiều thay đổi lớn trong các mối tương quan chính trị, phía trước có nhiều chuyện khó lường. Tất cả đặt nước ta đứng trước nhiều thách thức mới. Nhìn xa thêm chút nữa, hiện nay Việt Nam là một trong nhóm 11 quốc gia sẽ chịu ảnh hưởng tàn phá nặng nề nhất của biến đổi khí hậu toàn cầu, thời gian không còn nhiều để chuẩn bị đối phó với những nguy cơ đang đến gần – ví dụ khoảng gần cuối thế kỷ này có thể mất tới 20% diện tích trồng trọt vì mất ruộng và vì ngập mặn trong khi dân số nước ta vào khoảng thời gian ấy sẽ tăng gấp đôi hiện nay. Thậm chí ngay từ năm 2020 sự gia tăng của nhiệt độ và biến đổi khí hậu sẽ tác động nghiêm trọng đến nông nghiệp nước ta…[5] Ngay trước mắt thiên tai ngày càng nhiều và lớn, nước và năng lượng ngày càng trở nên khan hiếm, v.v. Đó là những vấn đề nóng bỏng của phát triển của nước ta, đòi hỏi phải được xử lý ngay từ hôm nay, không thể tiếp tục mô hình phát triển cũ. Thế hệ hôm nay không có quyền sống nước đến chân mới nhảy, không có quyền để lại mọi gánh nặng cho các thế hệ sau, càng không được phép đời cha ăn ốc, đời con đổ vỏ! Trên hết cả, sau chặng đường 25 năm đầu tiên của đổi mới, mô hình phát triển theo chiều rộng[6] đã làm xong chức năng của nó, đất nước ta nhất thiết phải chuyển sang một giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi phải có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Tình hình cấp bách đến mức có thể nói: Vì đã đi tới cái ngưỡng của nó, mô hình phát triển theo chiều rộng ngày càng phát sinh những yếu kém nội tại; nổi bật là càng tăng trưởng kinh tế như hiện nay càng có nhiều ách tắc, thể chế chính trị đang tích tụ ngày càng nhiều bất cập, trở thành trở lực chính kìm hãm đất nước ta phát triển, đang làm tê liệt khả năng của nước ta đối phó với thách thức cũng như tranh thủ cơ hội mới. Chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu – mô hình phát triển dựa trên phát huy sức mạnh của nguồn lực con người, thực chất cũng là phát huy sức mạnh của dân chủ - ngày nay trở thành đòi hỏi khách quan của nước ta trong tình hình mới.[7] Chính thực tế vừa trình bày trên xác định nhiệm vụ chính yếu đặt ra cho nước ta trong thập kỷ tới là phải cơ bản khắc phục mọi yếu kém, để mở đường cho đất nước đi vào một giai đoạn phát triển mới, xử lý thành công mọi thách thức phía trước trong một thế giới nhiều biến động mới.[8] Muốn thế, trước hết cần dũng cảm và nghiêm túc nhìn lại cả chặng đường dân tộc ta đã trải qua từ khi Thế Chiến II kết thúc cho đến nay. Đơn giản vì lẽ: Có dân tộc nào muốn thành công trên con đường trở thành một quốc gia phát triển và văn minh mà không phải nghiêm khắc nhìn lại mình? Lịch sử không làm lại được, nhưng bài học thì phải rút ra. Câu hỏi nên đặt ra là: Vì sao một dân tộc có bề dày lịch sử và văn hóa như dân tộc ta, vào thời đại ngày nay đã hoàn thành sự nghiệp giành lại độc lập và thống nhất đất nước trong bối cảnh quốc tế khốc liệt, song lại vẫn là một quốc gia phát triển lạc hậu sau 35 năm nỗ lực kiến thiết đất nước? Cái gì là những yếu kém của tự thân nước ta, cái gì là do nguyên nhân cản trở hay kìm hãm từ bên ngoài? Đối với mọi người Việt Nam quan tâm đến vận mệnh đất nước, câu hỏi này sẽ nhức nhối hơn nếu so sánh mức độ phát triển mọi mặt nước ta đạt được hôm nay với những hy sinh, mất mát dân tộc phải chịu đựng trong những thập kỷ kháng chiến, và sau này là công sức đã bỏ ra cho 35 năm xây dựng và bảo vệ đất nước, so sánh với các nước cùng điều kiện tương tự nhưng đi nhanh hơn nước ta!.. Nói đơn giản, nhìn lại 35 năm qua, GDP tính theo đầu người của nước ta hôm nay tăng khoảng 10-12 lần so với sau khi ra khỏi chiến tranh, trong khoảng thời gian này Trung Quốc tăng gần 20 lần, Hàn Quốc và Đài Loan tăng khoảng 40 lần, v.v… Tụt hậu là tụt hậu, cạnh tranh là cạnh tranh, trong thế giới của hội nhập toàn cầu hoá không có sự chiếu cố “tại vì nước ta thế này, tại vì nước ta thế nọ…”, cạnh tranh với Trung Quốc càng không có chuyện chiếu cố “tại vì…” này nọ!.. Những thành tựu đạt được có thể mở ra một triển vọng tốt đẹp cho đất nước, nhưng đồng thời thực trạng hiện nay cũng đang thai nghén những hiểm họa khôn lường. Triển vọng, hay hiểm họa nặng nhẹ hơn nhau như thế nào? Cái nào sẽ lấn át cái nào?.. Tình hình mọi mặt của đất nước hôm nay đang đặt ra nhiều điều lo âu. Tất cả nói lên: Đất nước chí ít từ Đại hội IX đã đứng trước ngã ba đường: hoặc là dấn thân đi vào hướng phát triển phồn vinh của dân chủ tự do, hay sẽ ngoặt vào đổ vỡ - do sự tham nhũng độc tài bên trong và do sự o ép từ bên ngoài![9] Thành tựu đạt được dù to lớn đến đâu cũng chưa thể nói là vững chắc, nguy cơ kiếm củi ba năm thiêu một giờ hoặc rơi vào khốn quẫn luôn luôn cận kề. Nguy cơ này đang gia tăng. Trong nhiều năm qua khắp nơi trong nước không lúc nào ngớt tiếng nói nặng lòng với đất nước, với Đảng, đã nêu lên những cảnh báo nghiêm khắc. Có đảng viên đã chiến đấu gần hết cuộc đời trong hàng ngũ Đảng phải thốt lên: Đảng trong tim tôi và Đảng ngày nay là hai Đảng khác nhau mất rồi! Có đảng viên đã lên tiếng cảnh báo về mối nguy của “nội xâm”[10] và “ngoại xâm”. Nếu tổng hợp những ý kiến đóng góp với thiện chí, một mặt chẳng những sẽ thấy rõ thực trạng đất nước hiện nay nguy hiểm đến mức nào, mặt khác cũng thấy rõ ràng lối ra sáng sủa của đất nước nếu quyết tâm lựa chọn. Không một sự quy chụp hay xuyên tạc nào có thể bác bỏ những ý kiến phân tích thấu đáo và thiện chí như vậy. Chỉ riêng việc những người tâm huyết này đặt vấn đề Đảng phải chủ động tự đổi mới để đất nước thoát tụt hậu và tránh nguy cơ sụp đổ của Đảng, cũng là tránh nguy cơ tổn thất và đổ máu cho đất nước, đã đủ nói lên ý thức trách nhiệm của họ. Còn bạn bè xa gần đã lên tiếng cảnh báo Việt Nam cần rút ra các bài học trên thế giới để tránh bằng được rơi vào cái bẫy các nước có thu nhập trung bình – nghĩa là đi dần đến chỗ bế tắc và không thể trở thành một nước công nghiệp hóa hay một nước phát triển – với triển vọng cuối cùng là sẽ đi tới hỗn loạn và sụp đổ - như đang lặp đi lặp lại năm này qua năm khác ở hàng chục nước đang phát triển khắp nơi trên thế giới. Ngay cạnh nách ta là tình trạng bế tắc của Thái Lan, Myanma[11]… Giả sử đặt ra một cuộc thăm dò ý kiến trong các tầng lớp nhân dân thế hệ đã tham gia kháng chiến với câu hỏi: Nếu biết cái đích đi tới được sau 35 năm độc lập thống nhất là thực trạng mọi mặt đất nước như hôm nay, liệu dân tộc ta trước đây có dám hy sinh chiến đấu hết thế hệ này đến thế hệ khác như vậy dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam hay không? Câu chuyện có lẽ sẽ còn trầm trọng hơn nhiều nếu tổ chức thăm dò ý kiến nhân dân về thực trạng hiện nay của đất nước và lòng tin của dân đối với chế độ. Tuy rằng chưa có cuộc thăm dò ý kiến với chữ “nếu” như thế này, song ngày càng nhiều tiếng nói của những đảng viên chân chính bầy tỏ sự thất vọng về nhiều vấn đề trong thực tại cuộc sống hiện thời. Trong số những người ấy, có không ít là đảng viên thuộc bậc khai quốc công thần, lão thành cách mạng... Có những bà mẹ từng mang đơn đi kiện cơ quan chính quyền các tội tham nhũng đã phải thốt lên: Biết các người hư hỏng như hôm nay, chắc chắn ta đã không che chở cho các người trong những khi bị địch bố ráp năm nào! II. Bàn thêm về chữ “nếu” Dù chưa có hay không có những cuộc thăm dò ý kiến rất đáng làm như nói trên, trong tư duy chúng ta không thể tránh né các chữ “nếu” để có thể nhìn hết mọi chiều cạnh của sự vật. Xin đơn cử hai trường hợp cụ thể: - Một là: Cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã từng nói chiến thắng giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước là chiến thắng của toàn dân tộc. Giả thiết rằng với tinh thần như vậy, ngay sau chiến thắng 30 Tháng Tư, nếu Đảng giương cao ngọn cờ dân chủ và thống nhất dân tộc, thu nhân tâm về một mối, không phân biệt bên này bên kia, kêu gọi mọi người một lòng đem hết tài sức ra hàn gắn vết thương chiến tranh và phát triển đất nước… Nếu làm được như vậy, cái bẫy vấn đề Campuchia liệu có tác dụng ghê gớm đến thế không? Kẻ thù trong, ngoài nào sẽ làm gì được Việt Nam? Tổn thất mới nào sẽ tránh được, thương đau nào sẽ dịu bớt? Và ngày hôm nay Việt Nam sẽ đứng ở đâu trong hàng ngũ các quốc gia trên thế giới?.. - Hai là: Mùa đông 1990-1991 Liên Xô tan rã, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của phe (hệ thống) xã hội chủ nghĩa, chiến tranh lạnh kết thúc; trong khi đó Trung Quốc sau khi tiến hành cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam tháng 2-1979 chưa ra khỏi chấn động Thiên An Môn (1989); Mỹ đang bận rộn với chiến tranh vùng Vịnh trừng phạt Iraq xâm lược Kuwait trong một cục diện quốc tế đã thay đổi (Mỹ chú trọng những mục tiêu chiến lược toàn cầu khác ngoài khu vực Đông Dương). Giả thiết rằng trong bối cảnh không còn hai phe như vậy, nếu Việt nam giương cao ngọn cờ độc lập tự chủ, về đối nội thì phát huy đoàn kết, hòa hợp và hòa giải dân tộc xây dựng đất nước (mà như vậy cũng có nghĩa là phát huy dân chủ xây dựng đất nước), về đối ngoại bang giao và hợp tác với mọi quốc gia vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, Việt Nam có cần phải tìm kiếm liên minh ý thức hệ không[12]? Việt Nam có cần chấp nhận những nhân nhượng không đáng có và liệu có rơi vào tình thế bị bao vây cấm vận kéo dài đến tận giữa thập kỷ 1990 hay không? Lựa chọn phương án này, ai làm gì được Việt Nam? Lựa chọn phương án này, Viêt Nam đương nhiên chẳng phải dựa vào ai, và ngày hôm nay Việt Nam sẽ đứng ở đâu trong bàn cờ thế giới, trong ASEAN?.. Trên thực tế Đảng đã lựa chọn quyết sách gì vào hai thời điểm lịch sử nêu trên? Xin gợi ra đôi điều. ■ Về trường hợp chữ “nếu” thứ nhất: Sau khi giành lại được đất nước, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước cực kỳ quan trọng. Nhằm mục tiêu này, sau chiến thắng 30 Tháng Tư 1975, Đảng đã lựa chọn con đường đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, với niềm tin sâu sắc đó là con đường mở ra tương lai cho Việt Nam và giành lấy vị thế quốc tế xứng đáng. Về căn bản, đấy là sự lựa chọn của duy ý chí và lòng yêu nước trên nền tảng ý thức hệ mà Đảng hằng nuôi dưỡng và theo đuổi. Sự lựa chọn này phải chăng đã bỏ qua thực tế cuộc kháng chiến chống Mỹ mang trong nó 5 hay 6 cuộc chiến tranh khác nhau: (1) Cuộc chiến tranh của nhân dân ta chống Mỹ xâm lược, (2) cuộc chiến tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa đế quốc mà Việt Nam là tiền đồn – nói khác đi, đó là một cuộc chiến tranh nóng trong thời kỳ chiến tranh lạnh trực tiếp giữa 2 “phe” diễn ra trên đất Việt Nam, (3) cuộc chiến tranh trá hình (proxy war) giữa Liên Xô và Mỹ trên đất Việt Nam, (4) cuộc chiến tranh trá hình giữa Trung Quốc và Mỹ trên đất Việt Nam, (5) cuộc giành giật ảnh hưởng toàn cầu giữa Liên Xô và Trung Quốc trên đất Việt Nam, và (6) trên hết cả, và đau lòng hơn tất cả - do nhiều nguyên nhân chính trị, lịch sử và do bối cảnh quốc tế rất phức tạp (nhất là những hệ quả của chính sách chia để trị và chủ nghĩa thực dân mới đang rất thịnh hành hồi đó, những hệ quả của ba dòng thác cách mạng[13] cuốn hút hầu như toàn bộ thế giới thứ ba trong thời kỳ này, của 2 phe 4 mâu thuẫn, sự xô đẩy của các trào lưu trên thế giới...) - cuộc chiến tranh này còn mang tính chất nội chiến Bắc-Nam kéo dài, rất đẫm máu và sâu sắc, bắt nguồn rất sớm từ thời kỳ nước ta mới bước vào cuộc kháng chiến chống Pháp, và đấy cũng là tình huống nước ta bị xô đẩy vào, là bi kịch dân tộc, là cái giá bắt buộc phải trả vô cùng đau xót cho thống nhất đất nước[14]. Nhìn lại có thể nói: Khi cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược kết thúc, mọi vấn đề thời hậu chiến đặt ra từ 6 cuộc chiến tranh này không được nhìn nhận thấu đáo, không được xử lý thỏa đáng. Về đối nội không làm tốt được hòa giải, dung dưỡng sức dân, thu nhân tâm về một mối và tạo ra sinh lực mới của đất nước để giữ cho trong ấm. Về đối ngoại là thực hiện không tốt bài học của cha ông: đánh giặc xong còn phải lo trải chiếu hoa mời giặc về để giữ cho được ngoài êm. Mọi nỗ lực sau khi kháng chiến kết thúc chủ yếu chỉ được dành cho quan điểm thừa thắng xông lên giành chiến thắng cho xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mọi sai lầm chủ quan và duy ý chí bắt đầu từ đây. Sự lựa chọn nói trên của Đảng sau 30 Tháng Tư 1975 còn dựa trên lòng tin chủ nghĩa xã hội là xu thế tất yếu và đang chiến thắng của thời đại (mặc dù chủ nghĩa xã hội cho đến nay còn nhiều vấn đề chưa được làm rõ). Suy nghĩ chủ quan này không nhìn nhận đúng thực tế tình hình thế giới lúc đó là: Lợi ích quốc gia và lợi ích chiến lược toàn cầu cũng như thực lực của từng bên hữu quan giữ vai trò chủ chốt trên bàn cờ thế giới lúc đó. Những bên hữu quan ấy là Mỹ và phe cánh, Trung Quốc và phe cánh, Liên Xô và phe cánh… Chính ba thế lực này mới là các nhân tố chủ yếu chi phối trực tiếp tình hình thế giới thời kỳ này – nhất là tại khu vực nước ta, chứ không phải là chủ nghĩa xã hội với tính cách là xu thế tất yếu của thời đại như những người cộng sản Việt Nam thời đó tin tưởng[15]. Chính sự lựa chọn nói trên của Đảng có lẽ cắt nghĩa được vì sao ngay sau 30 Tháng Tư 1975 Việt Nam mau chóng rơi vào cái bẫy “Campuchia” do Trung Quốc sắp đặt[16], bị cô lập trên thế giới cả một thập kỷ sau đó, để cho Trung Quốc và Mỹ tha hồ khai thác tình trạng cô lập này và cố “gỡ” lại những gì họ đã mất![17] Trong khi đó duy ý chí đã khiến cho đường lối phát triển đất nước của Đảng đi vào ngõ cụt, dẫn đến khủng hoảng trầm trọng,[18] chế độ chính trị của đất nước đến gần miệng hố sụp đổ, các vết thương chiến tranh và các vết thương trầm trọng khác trong lòng dân tộc chẳng những không được nỗ lực hàn gắn mà có những mặt còn bị những chính sách sai lầm khoét sâu thêm. Nói rốt ráo, có thể coi đấy là sự lựa chọn của chủ quan duy ý chí cho chiến thắng và vinh quang của Đảng sau khi đã hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, mặc dù - và xin nhấn mạnh - sự lựa chọn này dựa trên chủ nghĩa yêu nước với niềm tin sâu sắc của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Tình trạng này gây nên bị động chiến lược nguy hiểm cho đất nước, kéo dài cả một thập kỷ với nhiều hệ quả lâu dài về sau. Đặt lại vấn đề như thế, riêng về đối nội, liệu có thể nói: Với sự lựa chọn nêu trên, Đảng đã đánh mất cơ hội là người duy nhất lúc ấy có khả năng và uy tín lớn nhất thực hiện sự nghiệp thống nhất dân tộc một cách bền vững và mãi mãi trên nền tảng của dân chủ cho một đất nước đã từng mấy thập kỷ bị nước ngoài xâu xé và xô đẩy vào trạng thái nội chiến đẫm máu. Phải chăng là như vậy? Xin lưu ý, sau giải phóng miền Nam ngày 30-04-1975, với tư cách là người chiến thắng, quan trọng hơn nữa là với tư cách là lực lượng duy nhất lãnh đạo dân tộc trong thời kỳ hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam là người có tính chính đáng và có thực lực nhất, thậm chí có nghĩa vụ cao cả và nặng nề nhất, thực hiện sự nghiệp thống nhất dân tộc - chẳng những để vĩnh viễn khép lại quá khứ đau thương của dân tộc mà còn vì tương lai lâu bền của đất nước. Sự nghiệp độc lập thống nhất của quốc gia sẽ là gì nếu chưa hoàn thành sự nghiệp thống nhất dân tộc? Nắm quyền lãnh đạo, Đảng không thể thoái thác nhiệm vụ lịch sử trọng đại này. Bởi vì sau khi có độc lập thống nhất quốc gia, sự nghiệp thống nhất dân tộc như thế là bảo đảm vĩnh viễn tính bất khả xâm phạm của non sông đất nước, là nguồn gốc sức mạnh phục hồi đất nước và xây dựng một Việt Nam cường thịnh, hạnh phúc, là làm cho đất nước trở nên mãi mãi bất khả kháng trong tương lai. Thực hiện được sự nghiệp thống nhất dân tộc như thế sẽ có thể là con đường ngắn nhất để Việt Nam mau chóng có đủ lực trở thành một đối tác bình đẳng trong cộng đồng quốc tế hôm nay! Có phải như vậy không? Trên đây là bàn lại về lịch sử.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 6:31:21 GMT 9
Nhìn vào hiện tại, cần nhấn mạnh trong 25 năm đổi mới đã có nhiều chính sách khắc phục những yếu kém vấp phải, và đã tăng cường đáng kể khối đoàn kết thống nhất dân tộc. Kết quả của những chính sách đúng này đã góp phần vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh, vết thương dân tộc, và tăng cường khối đoàn kết toàn dân. Chính những thành quả này đã đảo ngược tình thế hiểm nguy của đất nước, phát triển đất nước về nhiều mặt 25 năm qua, khẳng định tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết thống nhất dân tộc. Nếu so tình hình hôm nay với 10 năm đầu sau khi hoàn thành thống nhất đất nước rõ ràng đã đạt được một bước tiến bộ trong việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Điểm lại, cốt lõi của sự chuyển biến quan trọng này là những việc đã làm được trong thực thi dân chủ trên nhiều phương diện. Thực tế đã diễn ra cho thấy: Dân chủ được thực hiện tới đâu, khối đại đoàn kết thống nhất dân tộc trở thành hiện thực đến đấy, chỗ nào là dân chủ hình thức thì chỉ có đại đoàn kết thống nhất dân tộc hình thức – và đây là điều cần rút ra cho tương lai để đi tiếp.
Tuy nhiên cũng cần thẳng thắn nhận xét: Con đường phải đi còn rất dài cho việc thực hiện sự thống nhất dân tộc có khả năng tạo ra hào khí mới cho đất nước mà sự nghiệp xây dựng nước đất nước dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh không thể thiếu. Đó là sự thống nhất dân tộc với tính chất là:
(a) làm nền tảng cho quyền làm chủ của nhân dân – nghĩa là nền tảng cho quyền lực của dân,
(b) bảo đảm gìn giữ kỷ cương nhất thiết phải có của thể chế chính trị dân chủ và
(c) trở thành cội nguồn sức mạnh của đất nước.
Thống nhất dân tộc với chức năng như thế sẽ không thể là một sự thống nhất “tả-pí-lù”, thống nhất của “bầy đàn” có người chăn dắt. Đấy phải là sự thống nhất của nhân dân, được xây dựng trên sự giác ngộ của nhân dân về quyền và nghĩa vụ của mình, có ý thức cùng hợp nhất lại để tạo ra sức mạnh cho dân tộc, cho quốc gia. Đấy chính là sự thống nhất dựa trên sự giác ngộ sâu sắc của dân về dân chủ.
Tạo ra thống nhất dân tộc trên cơ sở phát huy trí tuệ và quyền năng của nhân dân như thế, tạo ra sự thống nhất dân tộc với ba chức năng cụ thể nêu trên như thế, nhất thiết đòi hỏi phải có sự lãnh đạo để thực hiện, phải giác ngộ từng người dân để thực hiện. Xin nhấn mạnh: Cốt lõi của sự thống nhất dân tộc với nội dung và chức năng như thế chính là dân chủ. Từng người dân giác ngộ quyền và nhiệm vụ của mình đối với đất nước sẽ chỉ giống như “một cây làm chẳng nên non”, nhưng toàn dân thống nhất được như thế về quyền và nhiệm vụ đối với đất nước trên cơ sở giác ngộ về dân chủ, với ý thức hợp nhất lại với nhau, sẽ là tiền đề tất yếu làm cho quyền lực của dân thuộc về dân và được thực hiện, không thế lực nào tước đoạt được.
Sự thống nhất dân tộc như thế sẽ là tiền đề tất yếu của một Việt Nam hưng thịnh, về bên trong thì đủ khả năng trấn áp bất kỳ “nội xâm” nào và có sức phát triển năng động, về bên ngoài thì đủ mạnh để tạo ra được chỗ đứng phải có cho đất nước và để trở nên bất khả kháng đối với bất kỳ thứ “ngoại xâm” nào. Thống nhất dân tộc với chức năng như thế vẫn là cái đích quan trọng phía trước, nhất thiết phải hướng tới.
Đã có nhiều ý kiến tâm huyết nhấn mạnh:
Cho đến nay Đảng vẫn chưa làm xong nhiệm vụ lãnh đạo nhân dân hoàn thành sự nghiệp thống nhất dân tộc đúng với tinh thần (a) hàn gắn vết thương quá khứ, (b) thu phục nhân tâm về một mối, (c) thống nhất ý chí vì một Việt Nam dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh và con đường (xin nhấn mạnh: sự thống nhất về con đường) thành đạt mục tiêu này.[19] Chưa có thể nói đã tạo ra được sự thống nhất dân tộc với tinh thần hòa hợp hòa giải, nhằm tạo ra sự đồng thuận lớn nhất làm động lực xây dựng và bảo vệ đất nước. Nhìn lại càng chưa thể nói Đảng đã mở ra được một trang sử mới cho đất nước trên con đường xây dựng một chế độ chính trị gồm những giá trị khiến người dân cảm nhận được chế độ chính trị ấy của đất nước gắn bó với mình gần như đồng nghĩa với Tổ Quốc. Mọi việc còn đang ở phía trước![20]
Ba mươi lăm năm qua tình trạng thiếu vắng sự thống nhất dân tộc ở tầm cao như thế một mặt đã kìm hãm nghiêm trọng sự phát triển của đất nước, mặt khác không tạo ra được sức mạnh cần thiết kiểm soát sự tha hoá của hệ thống chính trị. Tình hình và nhiệm vụ mới đặt ra cho đất nước ở bước ngoặt hiện nay lại càng đòi hỏi thực hiện thống nhất dân tộc với nội dung và chức năng như vậy. Nhận về mình sứ mệnh lãnh đạo, chẳng lẽ một sự nghiệp thống nhất dân tộc như thế không đáng ghi vào Cương lĩnh của Đảng để toàn Đảng phấn đấu, không đáng để cho Đảng mang hết ý chí, nghị lực và tâm huyết lãnh đạo nhân dân xây dựng?
Xin nói thêm:
Vết thương dân tộc của quá khứ ngày nay phải được hàn gắn không phải chỉ có chuyện Bắc - Nam, mà còn bao gồm tất cả mọi tổn thất, sai lầm và yếu kém khác của đảng cầm quyền, bao gồm hệ quả của biết bao đoạn trường quanh co rất đau lòng của đất nước đã xảy ra vì bất kỳ lý do gì sau khi thống nhất đất nước mà ngày nay không lấy lại được.
Xem xét vết thương quá khứ còn có nghĩa phải xem xét rất nhiều các vết thương khác chia rẽ dân tộc xuất hiện trong các thời kỳ lịch sử khác nhau của đất nước, kể cả những thời kỳ trong lịch sử Việt Nam cận đại từ khi Pháp đô hộ nước ta cho đến nay – bao gồm cả chia rẽ chính trị, chia rẽ các đảng phái, chia rẽ tôn giáo đang để lại nhiều tàn dư tiêu cực… Khép lại vết thương của quá khứ còn đòi hỏi có cái tâm và trí tuệ gạt bỏ mọi tư duy cũ, thành kiến hay định kiến cũ, để trân trọng từng hy sinh, mất mát – dù trong hoàn cảnh nào, máu nào đổ cũng là máu Việt Nam, để bao dung, vị tha với nhau, để cùng động viên nhau vắt óc tìm đường đi lên cho đất nước.
Cho đến hôm nay vẫn chưa xây dựng nên được cho đất nước một chế độ chính trị gắn bó toàn dân tộc gần như đồng nghĩa với Tổ quốc, nguyên do chủ yếu là lãnh đạo Đảng và Nhà nước chưa thiết kế và chưa xây dựng được cho đất nước một thể chế dân chủ đích thực: Người dân là chủ của chính mình và là chủ của đất nước, không có độc quyền yêu nước, nước Việt Nam là của mọi người Việt Nam yêu nước dù chính kiến, tôn giáo, địa vị xã hội hay giai cấp nào, tất cả đều bình đẳng và không phân biệt quá khứ bên này bên kia, giá trị cao nhất – và cũng là lý tưởng cao nhất – để xác định, đánh giá và tôn vinh vị trí của mỗi người là sự cống hiến cho một nước Việt Nam cường thịnh… Nói cách khác, giải phóng xong đất nước, nhưng cho đến nay vẫn chưa hoàn thành được nhiệm vụ giải phóng đích thực: Mỗi người dân có quyền sống vì mình và vì đất nước, để từ quyền này xây dựng sự đồng thuận tối đa và bất khả xâm phạm của toàn dân tộc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc;[21] nghĩa là người dân chưa thực sự có tự do dân chủ, chưa phải là chủ của chế độ chính trị cai quản đất nước. Không có gì quý hơn độc lập tự do cần được hiểu là cho đất nước và cho cả từng công dân của nó. Sự thật là có cái này thì phải có cái kia, mới có được cái kia: Làm sao một nước có thể độc lập tự do mà dân của nó không được độc lập tự do, và ngược lại cũng thế.
Hơn nữa, để hàn gắn vết thương dân tộc, mỗi người còn nên khép lại quá khứ với chính mình - vì một bước tiến mới cho bản thân mình, cho đất nước, và vì một điều tốt đẹp gì đó đáng mong đợi cho mình trong tương lai, để không thỏa mãn ngồi xổm trên vinh quang của quá khứ, hoặc cũng không ủ dột với những vấp váp, và càng không nên để cho quá khứ nuôi dưỡng thù hận riêng mà làm yếu sơn hà xã tắc. Khép lại quá khứ như thế là mỗi người tự mở ra cho chính mình một thế giới mới, trước hết là vì sự tiến bộ và hoài bão chính đáng của chính mình, và cùng nhau đóng góp chung vào sự tiến bộ của đất nước...
Khép lại quá khứ, hướng về tương lai với tinh thần nêu trên là việc nên làm của từng người Việt Nam, để tất cả bắt tay nhau mở ra một trang sử mới cho Tổ quốc, dốc lòng làm rạng rỡ đất nước mình, coi đấy là báo đáp tổ tiên và phấn đấu hết mình cho tương lai của bản thân mình và con cháu.
Thu giang san về một mối thực chất là như vậy. Là nhiệm vụ của lực lượng lãnh đạo đất nước và nhiệm vụ của từng người!
Có gì ngăn cấm mỗi người Việt Nam chúng ta ước mơ sống như vậy và quyết tâm sống như vậy? Suy nghĩ và sống như vậy là không yêu nước? là trái với định hướng xã hội chủ nghĩa? là phi giai cấp? Là ảo tưởng? Hay là nghĩ như vậy mới rõ ai là ai? Không dám suy nghĩ như vậy mới là thấp kém? Nước ta đã khép lại quá khứ với tất cả các nước đã xâm lược ta, để bình thường hóa quan hệ, để hũu nghị và hợp tác; vậy giữa người Việt chúng ta với nhau và trong từng người tại sao không?
Thực tế thiếu vắng sự thống nhất dân tộc ở tầm cao trên nền tảng của dân chủ như vậy khiến cho trong 35 năm qua đã mắc bao nhiêu sai lầm; lãng phí biết bao nhiêu trí tuệ, nhân tài và tiềm năng to lớn của dân tộc; bỏ lỡ biết bao nhiêu cơ hội lớn; đã thế còn gây thêm biết bao nhiêu khó khăn và đau thương không đáng có; quá khứ đầy máu và nước mắt của dân tộc vì thế cho đến hôm nay vẫn chưa sao khép lại được; nguy cơ rạn nứt vẫn tiềm tàng. Đấy là chưa nói đến ngay trong nội bộ Đảng vẫn chưa sao loại bỏ được hết sự phân chia vùng, miền, tính công thần, cục bộ địa phương nặng nề... Trong lương tri người dân nặng lòng với đất nước riết róng những câu hỏi rớm máu: Người Việt ta sao không lo chung lưng đấu cật vươn lên và đối mặt với cả thế giới mà cứ lo cào xé, ghen tị, đố kỵ nhau? Việt Nam hôm nay sẽ đứng ở đâu trên thế giới này nếu đã hoàn thành được sự nghiệp thống nhất dân tộc với nội dung và chức năng như thế? Nếu thống nhất dân tộc như thế trở thành một trong những giá trị cao cả nhất của lẽ sống của mỗi người Việt Nam chúng ta!..
Nhiệm vụ thống nhất dân tộc này đến hôm nay chưa thể nói là đã hoàn thành, không phải chỉ vì còn những vấn đề của quá khứ chưa được giải quyết thỏa đáng, mà còn vì các nguyên nhân trong hiện tại:
(a) chưa tạo ra được ý chí thống nhất của toàn dân tộc về con đường phát triển đất nước,
(b) tệ nạn quan liêu tham nhũng đang tích tụ những bất công mới và huỷ hoại ghê gớm mọi nỗ lực cho sự thống nhất này,
(c) đang xảy ra những phân hóa và chia rẽ mới trong nội bộ các tầng lớp nhân dân với nhau và giữa nhân dân với chính quyền.
Trong thực tế cuộc sống vẫn tồn tại không ít quan điểm, chính sách, cách cư xử không dung nạp sự thống nhất dân tộc đáng mong muốn này, khiến cho lời nói và việc làm khác nhau. Trên hết cả, nguyên nhân chủ yếu vẫn là thiếu hẳn một thể chế dân chủ thực hiện được đại đoàn kết dân tộc, hòa hợp và hòa giải dân tộc - nhằm một mặt là khép lại quá khứ, mặt khác là đẩy lùi tham nhũng tiêu cực, tất cả nhằm tạo dựng đồng thuận và khơi dậy sức mạnh cả nước.[22] Chính vì thiếu vắng sự thống nhất dân tộc ở tầm cao như vậy trên nền tảng dân chủ, nên các quyền của dân được ghi trong Hiến pháp không thực hiện được, thiếu vắng sức mạnh cần thiết của nhân dân gìn gữ sự trong sạch của chế độ chính trị, không đủ sức đẩy lùi được sự tha hoá của hệ thống chính trị đang ngày càng tự diễn biến thành bộ máy cai trị.
Tổ quốc chúng ta đang đứng trước những hiểm nguy và thách thức lớn, chẳng lẽ điều này không đáng để mỗi người Việt Nam chúng ta vươn lên đứng ở tầm quốc gia của mình, để suy nghĩ, để tự giác ngộ và giành lấy quyền của chính mình, để phấn đấu và hành động xây dựng sự thống nhất dân tộc trên nền tảng dân chủ như vậy hay sao? Tự nhận lấy vai trò tiền phong chiến đấu, thiết nghĩ người đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam phải là công dân đầu tiên trả lời câu hỏi này! Để cho đất nước còn phải chịu nhiều trở lực của tha hoá và tham nhũng trong hệ thống chính trị như hôm nay, có phần còn thiếu sự giác ngộ và phấn đấu nêu trên của từng người dân, từng công dân. Cần thừa nhận là đang tồn tại thực tế này, để mỗi người dân hiểu rõ và chủ động tìm cách thực hiện quyền và trách nhiệm của chính mình, bởi vì quyền lực không biết làm từ thiện.
Đảng cầm quyền muốn xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân mà không dành mọi nỗ lực xây dựng bằng được quyền lực của nhân dân dựa trên nền tảng thống nhất của dân chủ như vậy, nhà nước định xây dựng nên sẽ chỉ còn là khẩu hiệu, trong thực trạng này bản thân đảng cầm quyền cũng tự tha hoá dần thành đảng cai trị.
■ Về trường hợp chữ “nếu” thứ hai:
Trước khi trình bày, xin nhắc lại một điểm: Tinh thần độc lập tự chủ và ý chí đặt lợi ích quốc gia trên hết là một trong những yếu tố quyết định của Đảng lãnh đạo làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước! Rồi đây lịch sử có lẽ sẽ công bố cho mọi người biết cuộc kháng chiến này đã phải vượt qua những tác động gay go hay kiềm chế từ bên ngoài như thế nào, lúc thì sợ kháng chiến của ta loang thành chiến tranh lớn, lúc thì cần Viêt Nam ta đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng, lúc thì muốn ta hòa hoãn, với lý do chổi ngắn không quét được rác xa, thống nhất đất nước (Việt Nam) là sự nghiệp hàng trăm năm!.. Những sự can thiệp như thế diễn ra trong tình hình cuộc kháng chiến của ta phải dựa vào nguồn chi viện rất lớn của các nước bạn! Có lúc ta đã phải nói thẳng với bạn: Không giúp, người Việt Nam chúng tôi cũng chiến đấu chống Mỹ xâm lược đến cùng!
Câu hỏi đặt ra là: Tinh thần, ý chí độc lập tự chủ và Tổ quốc trên hết ấy của Đảng trước tình hình sụp đổ của các nước Liên Xô Đông Âu cuối thập kỷ 1980 như thế nào?
Thay vì khôi phục quan hệ bình thường, hữu nghị và hợp tác với Trung Quốc trên cơ sở độc lập tự chủ và lợi ích quốc gia trên hết, lãnh đạo Đảng lúc ấy đã lựa chọn liên minh ý thức hệ với Trung Quốc. Thậm chí lúc ấy hy vọng có thể cùng với Trung Quốc xây dựng liên minh còn lại cuối cùng của chủ nghĩa xã hội trên thế giới, bảo vệ chủ nghĩa xã hội!
Quá trình đi tìm liên minh này mở đầu từ hội nghị Thành Đô năm 1990, trong bổi cảnh Trung Quốc đã tiến hành cuộc chiến tranh biên giới tháng 2-1979 và tiếp tục kéo dài xung đột vũ trang lấn chiếm biên gới nước ta đến năm 1989, trong thế yếu của ta trước sức ép mọi mặt của Trung Quốc. Kết quả là chỉ được Trung Quốc công nhận là đồng minh, chứ không phải là đồng chí – trước hết vì chính Trung Quốc cũng không muốn giương cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội trước thế giới, sau nữa Trung Quốc chỉ muốn coi ta là một đối tác có nhiều khác biệt với Trung Quốc. Xem những gì được viết trong các sách báo chính thống của Trung Quốc ngày nay, còn phải kết luận: Trong thâm tâm những người lãnh đạo Trung Quốc từ đó đến nay đặt nước ta ở vị trí thấp hơn nữa trong chính sách đối ngoại của họ.
Hồi ấy trong lãnh đạo Đảng có những ý kiến không tán thành quyết sách đi tìm liên minh kiểu như thế này, nhưng đã bị gạt đi.[23]
Rất nên đặt ra câu hỏi: Phải chăng sự lựa chọn như vậy của lãnh đạo Đảng nói lên sự hoang mang dao động trước bước ngoặt lịch sử của thế giới: Chiến tranh lạnh kết thúc với sự sụp đổ của các nước Liên Xô Đông Âu!?
Nếu là như vậy, phải chăng thực chất và trước tiên sự lựa chọn này hầu như chỉ nhằm bảo vệ quyền lực và chế độ chính trị của Đảng, nhân danh bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trong nước, nhân danh bảo vệ trào lưu và con đường của chủ nghĩa xã hội trên thế giới?
Trong các thời kỳ cách mạng trước, quan điểm độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội được gắn kết với lợi ích quốc gia, với chủ nghĩa yêu nước theo quan điểm ý thức hệ của Đảng. Nhưng bước vào thời kỳ này trở đi, với cách đi tìm liên minh như vậy, phải chăng quan điểm này ngày càng được nhấn mạnh, trở thành tiêu chí và kim chỉ nam cho mọi đường lối chính sách và hành động của Đảng trong đối nội cũng như đối ngoại – nhưng lại với mục đích tối thượng là bảo vệ chế độ chính trị của Đảng; lợi ích quốc gia bị đánh đồng với mục đích tối thượng này và trên thực tế tụt xuống vị trí thứ hai?
Đặt ưu tiên như vậy, phải chăng có nghĩa quyền lợi quốc gia chỉ được thực hiện trong phạm vi không thách thức quyền lực của Đảng?
Cứ giả định rằng bảo vệ chế độ chính trị trong tình hình các nước LXĐÂ sụp đổ như vậy cũng hoàn toàn xuất phát từ lập trường bảo vệ lợi ích quốc gia, nghĩa là không mảy may có vấn đề đặt lợi ích quốc gia xuống hạng hai, thì chí ít cũng phải kết luận: Ý thức hệ và tầm nhìn lúc ấy đã ngăn cản lãnh đạo Đảng đi tới một nhận định khác có lẽ đúng hơn, cần rút ra để lựa chọn quyết định tối ưu nhất cho đất nước: Việt Nam trong tình hình này cần đứng lên giữa thế giới với tính cách là một quốc gia - với tất cả tinh thần độc lập tự chủ, hòa bình và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, tự tìm ra con đường phát triển cho nước mình, không cần đi theo ai hoặc dựa vào ai! Nếu chọn con đường như vậy, ai sẽ làm gì được ta? Hay là: Nếu chọn con đường như vậy, nước ta sẽ bước lên một vị thế mới chưa từng có, sẽ là phương thức duy nhất hữu hiệu gìn gữ được quan hệ hợp tác hữu nghị đời đời với Trung Quốc trên cơ sở 5 nguyên tắc chung sống hòa bình mà chính Trung Quốc đề xướng[24]?.. Chọn con đường như vậy, cả dân tộc ta sẽ vùng đứng lên như thế nào cho một Việt Nam mới?!..
Đương nhiên, nói gì bây giờ cũng chỉ là nói hậu. Nhưng xin nhấn mạnh: Lịch sử không làm lại được, nhưng bài học thì phải rút ra. Rất đáng nghĩ lại lắm! Vì cuộc sống của nước ta phía trước đang rất cần một Việt Nam hiểu biết sâu sắc thế giới và có bản lĩnh như thế! Chọn con đường như vậy, có lẽ không có một sức ép hay sự ngăn cản nào từ bên ngoài nước ta không thể vượt qua được. Nhưng nếu chọn con đường như vậy, chắc chắn Đảng phải vượt qua trở ngại lớn nhất của chính mình: Phải thực hiện dân chủ!
Cần nói thêm, vào thời điểm này:
· Mỹ bận tâm với các mối quan hệ chiến lược toàn cầu ở Trung Đông và Đông Âu (khi các nước xã hội chủ nghĩa ở đây khủng hoảng và đi vào quá trình sụp đổ).
· Trung Quốc sau khi thất bại trong chiến tranh biên giới đánh Việt Nam đang chưa ra khỏi chấn động của sự kiện Thiên An Môn năm 1989, chiến tranh biên giới Việt-Trung đi dần vào thời kỳ kết thúc hẳn.
· Trên mặt trận phía Tây Nam vấn đề Khmer đỏ ở Campuchia cơ bản đã giải quyết xong: Ta đã hoàn thành tốt nghĩa vụ cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng do bè lũ Pol Pot gây ra. Ngoại trừ Trung Quốc bảo vệ Khmer đỏ nên ngoan cố đòi “giải pháp đỏ cho vấn đề Campuchia”[25], toàn thế giới còn lại – trước hết là các cường quốc phương Tây có liên quan - đều lên án Khmer đỏ, những điều kiện cho giải quyết hòa bình vấn đề Campuchia đã hội đủ và chín muồi, đồng thời qua việc giải quyết hòa bình vấn đề Campuchia như vậy sẽ mở ra cho ta nhiều thuận lợi bình thường hóa quan hệ với Mỹ và Trung Quốc.
Nghĩa là tình hình lúc ấy không thể hay rất khó có thể xảy ra một cuộc chiến tranh ngoại xâm mới bất kỳ từ đâu tới chống lại Việt Nam. Trung Quốc lúc này chỉ có thể tiếp tục cuộc chiến tranh biên giới chống ta đang tàn lụi dần, chứ không thể mở rộng thêm hay tiến hành một cuộc chiến tranh mới chống ta; chính bản thân Trung Quốc lúc này cũng lúng túng vì có nhiều chuyện khác phải lo – nhất là lo ảnh hưởng của Liên Xô sụp đổ tác động vào nội tại Trung Quốc và các dư chấn sâu sắc khác. Còn về phía nước ta, sau những thành công đầu tiên của đổi mới (được tiến hành từ Đại hội VI, 1986) kinh tế bắt đầu khởi sắc, kể từ 1987-1988 trở đi chế độ chính trị nước ta đã được củng cố vững chắc, hầu như lúc ấy không có một sự uy hiếp đáng kể nào từ bên trong.
Nghĩa là vào thời điểm các nước Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, tình hình nội trị bên trong của nước ta cũng như bối cảnh quốc tế bên ngoài lúc ấy không nhất thiết buộc lãnh đạo Đảng phải đi tìm liên minh ý thức hệ bằng cách thỏa hiệp với Trung Quốc, với kết cục từ đấy trở đi chính sách o ép, lũng đoạn Việt Nam của Trung Quốc cho đến hôm nay ngày càng leo thang, cái giá phải trả là tình hình hôm nay! Có phải như vậy không? Trong khi đó các bài học khác cho ta về Trung Quốc ở Hội nghị Geneva 1954, về cuộc gặp Mỹ-Trung ở Thượng Hải 1972, về hải quân Trung Quốc tấn công đẫm máu chiếm Hoàng Sa 1974 và chiếm thêm một số đảo nữa ở Trường Sa 1988… còn nóng bỏng! Hay là ấn tượng của chiến tranh Campuchia và chiến tranh “dạy cho Việt Nam bài học” tháng 2-1979 quá sâu sắc?
Phải chăng đặt ra những câu hỏi như vậy sẽ thấy rõ được nhiều điều cay đắng!?[26]
Sau khi kháng chiến chống Mỹ xâm lược kết thúc, sự việc diễn ra là:
(1) đất nước rất sớm rơi vào cái bẫy của “vấn đề Campuchia”,
(2) để cho Trung Quốc trở thành thế lực đối kháng thù địch đến mức ghi vào Hiến pháp, rồi sau đó lại phải tìm đường liên minh ý thức hệ với Trung quốc ở hội nghị Thành Đô năm 1990, với kết quả hôm nay không đúng như mong đợi,
(3) kháng chiến kết thúc 20 năm mới bình thường hóa được quan hệ với Mỹ (1994-95),
(4) sau kháng chiến 35 năm vị thế quốc tế của Việt Nam và ảnh hưởng của nó đối với thế giới bên ngoài không đáp ứng thỏa đáng đòi hỏi của xây dựng và bảo vệ tổ quốc –
Bốn điểm nổi bật này nói lên sự lạc lõng của nước ta trong bối cảnh hậu chiến, được sách báo nước ngoài, kể cả ở Trung Quốc, từ niều năm nay tổng hợp lại và phân tích khá sâu sắc, đương nhiên mỗi bên hữu quan ra sức khai thác theo những cách khác nhau cho lợi ích riêng của mình[27].
Ngày nay khoảng cách thời gian đã đủ để đánh giá bốn điểm này là những thất bại nghiêm trọng của nền ngoại giao Việt Nam mang nặng tính ý thức hệ trong thời bình, vì nó (a) không đủ sức tránh cho quốc gia những đòn hiểm độc của bên ngoài, (b) không tạo ra được bối cảnh bên ngoài thuận lợi cho quốc gia sau khi vừa mới bước ra khỏi chiến tranh tàn khốc kéo dài[28]! Đường lối đối ngoại như thế vẫn còn nhiều dấu ấn nặng nề trong hiện tại, nhất thiết phải được thay đổi, dựa trên thay đổi nhìn nhận về thế giới, và trước hết là phải dựa trên thay đổi đường lối đối nội và phát triển đất nước. Bởi vì ngoại giao nào cũng phải xuất phát từ đối nội.
Thực tế nêu trên càng khẳng định cần thấm nhuần bài học của cha ông ta: Phải có đủ trí tuệ và bản lĩnh để trải chiếu hoa mời giặc về sau khi đánh bại chúng, và trong hòa bình phải xác lập ý chí thực hiện nền ngoại giao dấn thân đi với cả thiên hạ - vì mình, mình vì người, và từ đó tạo ra tình thế mọi người vì mình[29].
Rõ ràng là phải mất bao nhiêu hy sinh xương máu và thời gian trong các cuộc kháng chiến mới hoàn thành được giải phóng và thống nhất đất nước, rồi lại phải chờ đến lúc xảy ra biến cố lịch sử rất quan trọng của thế giới là sự kết thúc chiến tranh lạnh, rồi còn phải nhờ cả hai điều quan trọng này hội tụ với nhau về thời gian nên mới tạo ra được cho nước ta hai cơ hội lớn: (a) cơ hội thực hiện sự thống nhất dân tộc ở tầm cao của trí tuệ và ý chí dựa trên dân chủ, (b) cơ hội bức phá đứng lên là một quốc gia độc lập tự chủ đi với cả thế giới . Nhưng rút cuộc cả hai cơ hội lớn này không được tận dụng! Hơn nữa, sau đó đất nước bị đẩy vào một chặng đường không mong đợi, lận đận mất mấy thập kỷ về nhiều mặt cho đến hôm nay. Ngoài ra trong suốt 35 năm thời bình đầu tiên còn biết bao nhiêu cơ hội và lợi thế khác của đất nước không khai thác được:
· vị thế “cầu nối” của Việt Nam trong địa kinh tế, trong địa chính trị của khu vực và trên thế giới,
· vai trò của Việt Nam trong ASEAN,
· vai trò của Việt Nam 2 năm là ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc,
· vân... vân...
Trong 35 năm qua nước ta có không ít nỗ lực và sáng kiến ngoại giao, nhưng đường lối đối ngoại và thực lực nội trị như vậy khiến cho kết quả đạt được còn xa mong đợi, nhiều sáng kiến thiếu sức sống, chưa kể là có không ít những bước đi trống đánh xuôi kèn thổi ngược (ngoại giao đi một đằng, nội trị đi một nẻo).
Nếu kết luận được là đã bỏ lỡ mất 2 cơ hội lớn như vừa trình bày trên (*thực hiện sự thống dân tộc ở tầm cao, *trở thành một nước độc lập tự chủ đi với cả thế giới), sẽ có thể kết luận tiếp là nước ta hiện nay vẫn đang còn hội đủ điều kiện đẩy mạnh việc hoàn thiện sự nghiệp thống nhất dân tộc ở tầm cao của ý chí và trí tuệ trên nền tảng dân chủ, và đủ điều kiên dấn thân độc lập tự chủ hợp tác với cả thế giới để đi vào giai đoạn phát triển mới, để sớm trở thành một nước phát triển và giành lấy vị thế quốc tế xứng đáng với nước ta. Đương nhiên việc chậm trễ mất hai, ba thập kỷ như vậy gây ra những khó khăn mới nhất định và phải trả giá, nhưng điều quan trọng là vẫn còn điều kiện tìm cách nắm lại 2 cơ hội lớn này. Cần nói ngay: Tình hình và nhiệm vụ trước mắt đặt ra cho nước ta đang đòi hỏi phải khẩn trương dốc toàn lực và trí tuệ chuyển sang giai đoạn phát triển mới này, những bài học như vậy rút ra từ lịch sử còn nguyên giá trị.
Nói riêng về Đảng, để mất hai cơ hội lớn như vừa nêu trên còn là hậu quả của bảo thủ trì trệ, của sự thiếu vắng phát huy trí tuệ trong Đảng, tình trạng mất dân chủ trong Đảng. Tính tiền phong chiến đấu của lãnh đạo và của từng đảng viên sa sút cũng góp phần quan trọng gây ra tình trạng này. Vì vậy, toàn Đảng phải chịu trách nhiệm trước đất nước. Phải nhấn mạnh điều này, vì đây là kinh nghiệm xương máu cho lãnh đạo và cho toàn thể đảng viên đối với sự nghiệp của Đảng và của đất nước từ nay về sau. Cần nhấn mạnh: Để cho Đảng có nhiều vấp váp lớn, đất nước có nhiều vấn đề nghiêm trọng như ngày nay, không một đảng viên nào được phép đứng ngoài phủi tay, rồi nói là mình vô can!
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 6:32:20 GMT 9
■ Xin nêu thêm một chữ “nếu” lớn khác thứ ba không kém phần quan trọng:
Nếu đem vấn đề cải tạo tư sản hôm qua, nhất là đợt cải tạo tư sản ở miền Nam sau 30 Tháng Tư, đặt bên cạnh những việc đã làm trong 25 năm đổi mới để suy nghĩ... Nếu đem thực trạng của “giai cấp tư sản” bị cải tạo lúc đó ở miền Nam ra so sánh với tình hình phân bổ - tích tụ của cải, và tình hình các hình thái và quy mô các doanh nghiệp các thành phần kinh tế, các loại hình tích tụ sở hữu, các hình thái kinh tế đang có trong nền kinh tế nước ta hôm nay... Nếu làm như vậy, sẽ không tránh được phải tự hỏi: Phải chăng với cuộc cải tạo tư sản ở phía Nam, sau những năm đổi mới kinh tế đất nước đã đi trọn một vòng tròn để trở lại đúng điểm xuất phát, và giờ đây đất nước đang tìm cách xuất phát / cất cánh từ điểm đã xuất phát ấy cách đây 35 năm? Phải chăng cải tạo tư sản như thế hiển nhiên là thừa và sai, với biết bao nhiêu hệ lụy đến hôm nay chưa khắc phục xong? Tệ hại hơn nữa là cải tạo tư sản ở miền Nam đã bỏ qua tất cả những sai lầm đã vấp phải khi tiến hành cải tạo công thương ở miền Bắc…[30]
Song quan trọng hơn thế, cho đến hôm nay đường lối phát triển kinh tế của Đảng vẫn chưa tự giác và chưa giải quyết thành công vấn đề sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân trong kinh tế, mối quan hệ tối ưu giữa hai thành phần kinh tế này cần tạo ra cho quốc gia (chứ không phải cho cái nhân danh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa). Hiện nay Đảng vẫn nhấn mạnh kinh tế quốc doanh là chủ đạo với nội dung không rõ ràng, luật pháp và thể chế cho quốc doanh còn nhiều sơ hở. Đảng vẫn giải thích đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta là dựa trên công hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu…
Trên thực tế là: Nhân danh độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, nhân danh giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa và nhân danh kinh tế quốc doanh là chủ đạo với nội dung nêu trên, quyền lực trong Đảng đang tiếp tục duy trì những phân biệt đối xử giữa kinh tế quốc doanh và kinh tế tư nhân, với kết quả là tình trạng độc quyền của khu vực kinh tế quốc doanh – nhất là của các tập đoàn nhà nước – vẫn tiếp tục gây thiệt hại lớn cho nền kinh tế, dẫn tới hiệu quả kinh tế thấp; vốn liếng thuộc sở nhà nước, đất đai và tài nguyên bị thất thoát lớn; môi trường kinh tế bị bóp méo, môi trường tự nhiên bị hủy hoại trầm trọng. Tất cả cái nhân danh này muốn nhằm vào mục đích cuối cùng là bảo vệ vai trò và quyền lãnh đạo của Đảng, nhưng kết quả cuối cùng đạt được lại là: Chính bản thân Đảng đang bị quyền lực kinh tế này lũng đoạn, sẽ còn tiếp tục bị lũng đoạn! Đây là mối nguy hàng ngày và trực tiếp đối với Đảng.
Nước ta đang đứng trước thực tế: So sánh tổng cái thu về với tổng cái vốn bỏ ra (kể cả những cái “mất”) cho kinh tế quốc doanh với cái vai trò chủ đạo Đảng biệt đãi nó, ta sẽ chỉ thu được một hiệu số âm. Tình trạng này đang bị căn bệnh nan y làm trầm trọng thêm, đó là sự câu kết tự nhiên giữa “tập đoàn kinh tế quốc doanh + nền kinh tế GDP tỉnh + tư tưởng nhiệm kỳ”. Bộ ba này được thiết kế với mục đích làm cấu trúc nền tảng cho duy trì quyền lực của Đảng. Nhưng bản chất tự nhiên của từng yếu tố này tự nó lại tạo ra sự liên kết 3 trong 1 và 1 trong 3 , cái này có trong cái kia; thậm chí tự nó phát triển theo hướng cái này tạo ra cái kia, cái này muốn tồn tại phải dựa vào cái kia… Kết cục cấu trúc này tạo ra sự câu kết giữa cả 3 yếu tố với nhau. Chính câu kết bộ 3 này tự nó tạo ra - thực chất là tự nó tha hoá thành một thứ quyền lực trong Đảng, ngày càng vượt ra ngoài sự kiểm soát của Đảng. Đó cũng là cấu trúc điển hình của câu kết giữa quyền lực chính trị và quyền lực kinh tế, trở nên bất khả kháng, thậm chí đang ngày càng ngấm ngầm đối kháng đối với Hiến pháp và Điều lệ Đảng.
Câu kết giữa quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị luôn xảy ra trong bất kỳ hình thái xã hội nào ở bất kỳ quốc gia nào, bắt buộc đặt ra cho nhà nước pháp quyền nhiệm vụ phải kiểm soát và tìm cách vô hiệu hóa sự câu kết này. Ở nước ta sự câu kết của bộ 3 nêu trên, đang vận động theo xu hướng tự nó trở thành một thứ quyền lực riêng cho chính nó, đang tìm cách lũng đoạn Đảng và toàn bộ đời sống mọi mặt của đất nước. Thực tế này thể hiện rõ nhất qua sự hình thành các nhóm lợi ích, không hình không bóng, hoặc đôi khi rất ngang nhiên dưới những “chính danh” nào đó[31] đang chi phối đất nước… Thực tế này là nguồn gốc hình thành những quyết sách và quyết định kinh tế mà lẽ phải không sao giải thích nổi, quan liêu và tham nhũng trở thành quốc nạn ngày càng khó kiểm soát. Không thể không đặt ra câu hỏi vai trò các nhóm lợi ích này tác động tới đâu trong việc hình thành những quyết định về bauxite Tây Nguyên, sáp nhập Hà Tây vào Thủ đô, phá nhà Quốc Hội Ba Đình, việc Trung Quốc lần lượt thắng thầu liên tiếp nhiều công trình kinh tế lớn quan trọng tầm quốc gia, vân vân…
Hiện nay dư luận cả nước đang nhức nhối việc từ mấy năm nay 10 tỉnh cho nước ngoài – chủ yếu là Trung Quốc – thuê rừng, đến nay đã lên tới khoảng trên 30 vạn hecta – trong đó có nhiều địa điểm xung yếu của quốc gia (dù mới chỉ thực hiện được một phần)… Hiện tượng này cho thấy các nhóm lợi ích đang từng bước làm tê liệt và làm mục ruỗng chế độ chính trị của đất nước, xâm hại nghiêm trọng an ninh và lợi ích quốc gia. Vấn đề cho thuê rừng còn trở nên rất nghiêm trọng ở chỗ việc làm này chưa được nhìn nhận là một tội lỗi không thể tha thứ của “sự câu kết bộ 3” này: bán rẻ lợi ích và an ninh quốc gia mà không ý thức được hoặc cố tình không ý thức được là bán rẻ[32]. Nói theo ngôn ngữ của Marx và Engels: Sự câu kết “bộ 3” này đang từng giờ, từng ngày vô hiệu hoá Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng, cản trở thực thi luật pháp của nhà nước, đang trực tiếp gây ra cho Đảng những thách thức hiểm nghèo không một lực lượng chống đối nào có thể làm được! Đó cũng là những thách thức nguy hiểm cho đất nước.
Xin lưu ý, sở hữu nhà nước nói chung và đặc biệt là các tập đoàn kinh tế nhà nước đang là vấn đề tồn tại lớn chưa có lời giải. Hiệu quả kinh tế thấp và khả năng lũng đọan lớn là hai tác động chính kìm hãm sự phát triển mọi mặt của đất nước.
Đại hội XI đứng trước thực tế: Nhìn chung mức thành tựu nước ta đạt được là cao nếu so ta hôm nay với ta hôm qua, song lại là rất thấp so với cái giá phải trả và so với nhiều nước chung quanh. Ta có rất nhiều công trình kinh tế lớn giá xây dựng đắt (có khi đắt gấp đôi, gấp ba), công nghệ thấp, không bền, không đẹp bằng, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp, tuổi thọ kém... Cuối năm 2008 dự trữ ngoại tệ của nước ta ước khoảng 23 tỷ USD, cuối 2009 còn khoảng 15 tỷ USD (thấp nhất kể từ 1994 tính theo khối lượng nhập khẩu/tháng và hiện nay có chiều hướng còn giảm nữa – theo đánh giá của Fitch), trong vòng 3 tháng (từ 11-2009 đến 1-2010) đồng tiền Việt Nam phá giá hai đợt tổng cộng là -8,4%, thâm hụt ngân sách quốc gia hiện vượt quá mức Luật cho phép, lãi suất tín dụng cao ngất ngưởng chưa từng có trong 25 năm đổi mới vì mối lo lạm phát cao... Chỉ số ICOR nước ta những năm gần đây đã vượt con số 6, cao nhất trong khu châu Á – Thái Bình Dương và ngày càng cao, kinh tế quốc doanh chiếm tới 2/3 vốn liếng toàn xã hội và được dành cho nhiều đặc quyền lớn nhưng chỉ làm ra non nửa của cải cho xã hội, những vụ việc tiêu cực ngày càng khó kiểm soát, quyền lực và ảnh hưởng chi phối của các tập đoàn quốc doanh ngày càng lớn. Đời sống kinh tế văn hóa của một bộ phận đông đảo dân cư lao động còn thấp và bấp bênh, nhu cầu về việc làm gay gắt; đời sống và tiền đồ của thanh niên có nhiều vấn đề rất đáng lo; bất công trong xã hội còn nhiều, v.v. Ngay trước mắt, triển vọng tình hình cho thấy sau 45 năm (1975-2020) xây dựng đất nước trong hòa bình, có lẽ hầu như không thể hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước vào năm 2020.[33]
Quan điểm kinh tế quốc doanh là chủ đạo đang ngăn cản những cải cách rất cần thiết đối với chính bản thân kinh tế quốc doanh. Hơn nữa, bản thân vấn đề cải cách khu vực kinh tế quốc doanh và vấn đề sở hữu nhà nước là việc khó, đến nay chưa được nghiên cứu nghiêm túc để tìm ra giải pháp nào là tối ưu nhất cho nước ta với tính cách là một quốc gia có xuất phát điểm rất thấp và rất cần vận dụng hợp lý các hình thái tích tụ vốn khác nhau mà nền kinh tế hiện có. Tình hình phức tạp đến mức các Đại hội Đảng vừa qua tiếp tục khẳng định kinh tế quốc doanh là chủ đạo, song chưa làm sao đưa ra được một định nghĩa nhất quán thế nào “chủ đạo”. Hiện nay định hướng xã hội chủ nghĩa được nhấn mạnh một cách khiên cưỡng ở chỗ nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu![34] Chủ trương phát huy tất cả các thành phần kinh tế trên cơ sở bình đẳng trước pháp luật vì thế không thực hiện được như đã ghi trong các nghị quyết của Đảng.
Vân vân…
Nhìn vào mọi lĩnh vực chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước hiện nay, cũng thấy việc thực hiện các quan điểm kinh tế quốc doanh là chủ đạo, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội… có nhiều hiện tượng mang nội dung nhân danh như vậy. Tình trạng này đang ngày càng trầm trọng thêm do hiện tượng “đảng hóa” toàn bộ hệ thống chính trị, nhà nước và xã hội cũng như việc thiết kế các chính sách và phương thức thực hiện.
Tóm lại, thời kỳ ban đầu chỉ có những hạn chế của ý thức hệ gây ra những khó khăn và sai lầm của Đảng. Song càng về sau, nhất là trong những năm gần đây, những hạn chế về tư duy, về tầm nhìn, cùng với sự tha hóa ngày càng gia tăng, đã làm cho những yếu kém và sai lầm này ngày càng trở nên trầm trọng hơn, nhất là trong khi đó tình hình mọi mặt của đất nước ngày càng đề ra những đòi hỏi khó khăn phức tạp hơn trước rất nhiều.
Điều đặc biệt nguy hiểm là quá trình “đảng hóa” đang được coi là phương thức lãnh đạo toàn diện và tối ưu, song kết quả đạt được lại là cản trở nghiêm trọng việc xây dựng nhà nước pháp quyền, làm cho cả Đảng và hệ thống chính trị ngày càng cồng kềnh, yếu kém, ngày càng bất cập và quan liêu hơn, cũng có nghĩa là sự quan liêu ăn bám của toàn bộ hệ thống chính trị đang gia tăng (sẽ bàn sâu thêm ở phần sau);[35] đất nước ngày càng gặp nhiều khó khăn, đời sống văn hóa - xã hội xuống cấp. Mong rằng rồi đây sẽ có những công trình nghiên cứu đánh giá khách quan và chuẩn xác đoạn đường 35 năm đầu tiên nước ta đã trải qua sau khi giành được độc lập thống nhất.
Nói thêm về văn hóa: Nếu nhìn nhận văn hóa là nguồn lực gìn giữ những giá trị truyền thống, tạo ra những giá trị mới để làm nên tố chất và đạo đức con người và đúc kết thành bản lĩnh của một dân tộc, nếu nhìn nhận văn hóa được kết tinh thành ý chí tự lực tự cường của một dân tộc dám vươn lên sánh vai với thiên hạ.., có lẽ có thể nói văn hóa nước ta hiện đang ở thời kỳ sa sút nhất kể từ Cách mạng Tháng Tám đến nay – thậm chí có những mặt sa đọa đến thảm hại.
Chỉ cần lướt qua các tội ác hình sự, các đổ vỡ và biết bao nhiêu bê bối, tệ hại khác được đăng tải trên các trang báo giấy và báo mạng hàng ngày, nạn “đạo văn” và bằng giả, hội hè liên miên mọi miền đất nước, đọc các thông tin bị cắt xén, các tin tức có định hướng một cách sai lệch, các bài chính luận vô hồn... cũng đủ thấy đau buồn về đời sống văn hóa – xã hội của đất nước. Đời sống văn hóa – xã hội của giới trẻ nước ta càng nhiều vấn đề nan giải. Bên cạnh một số thành tựu nhất định đạt được trong lĩnh vực văn hóa – xã hội 25 năm qua (đáng nói nhất có lẽ là việc giảm tỷ lệ đói nghèo), nhìn chung sự sa sút văn hóa là một hiện tượng trầm trọng, trước hết do hai nguyên nhân chủ yếu gây ra: (a) Sự băng hoại kỷ cương quốc gia từ thượng tầng kiến trúc, (b) nghèo đói và mọi tha hóa khác đến từ tình trạng bất bình đẳng và bất công trong kinh tế.
Nếu coi suy đồi về văn hoá là tấm gương phản chiếu suy vong của đất nước, có lẽ sẽ còn đau lòng hơn nhiều!
Tình trạng sa sút về văn hóa nguy hiểm tới mức dối trá trong không ít trường hợp gần như vừa là phương tiện vừa là cứu cánh trong hành xử của con người cũng như của những bộ phận dân cư nhất định trong xã hội. Có lẽ nên coi đây là yếu kém trầm trọng nhất trong đời sống văn hóa – xã hội nước ta, là yếu kém gốc đẻ ra mọi tha hóa trong xã hội, bởi vì nó đảo lộn hoặc vô hiệu hóa nhiều giá trị, luật pháp, thước đo và chuẩn mực. Sự sa sút về văn hoá đang gây ra nhiều tác động có tính tàn phá, để lại hệ quả lâu dài, thậm chí nó có thể đánh cắp hoặc hủy hoại niềm tin. Có thể thấy rõ sự tàn phá này trong lĩnh vực giáo dục, trong thực thi pháp luật, trong phẩm chất và tính chất tin cậy được của con người cũng như bộ máy của hệ thống chính trị đất nước, vân vân...
Nhiều hiện tượng tiêu cực phổ biến gần như trở thành một loại văn hóa sống của không ít người trong hàng ngũ chức sắc đã tới mức gây nhức nhối trầm trọng trong xã hội, có thể khái quát như sau:
Cơ hội tranh thủ vơ vét
Tài nguyên tranh thủ khai thác
Đất đai tranh thủ chia chác
Thi nhau phô trương địa vị, bằng cấp (chất lượng thấp, giả và rởm)
Việc khó đùn cho tương lai hoặc cho người khác
Giả vờ đạo đức và giả vờ yêu nước...
Vì sa sút văn hóa nói chung, nên chất lượng con người, chất lượng cuộc sống, chất lượng xã hội – suy rộng ra nữa là chất lượng của dân tộc – đang đặt ra nhiều vấn đề mới nghiêm trọng, trí tuệ và nhuệ khí của dân tộc đang bị kìm hãm, mê tín dị đoan phát triển.
Trong đời sống kinh tế - xã hội nước ta, tiêu cực và các mặt xuống cấp đang tạo ra một sức ỳ nguy hiểm, tổng hợp nhiều tính xã hội sâu sắc: thờ ơ, thất vọng, trần tục... Sức ỳ này hủy hoại vốn xã hội, nuôi dưỡng tâm lý thờ ơ hay chịu khuất phục trước mọi sai trái, tạo thuận lợi cho lối sống tạm bợ, chụp giựt (vô luật pháp) hay ngu dân… Trong cuộc sống, ngày càng nhiều tội ác hình sự rùng rợn chưa từng có, các tội ác kinh tế gây nhiều thiệt hại lớn, các hiện tượng không nghiêm minh trong luật pháp ngày càng trầm trọng… Song điều vô cùng đáng lo là sự phản ứng trong xã hội vô cùng yếu ớt, hoặc thậm chí nhiều khi trở nên vô cảm. Đó là cách phản ứng của xã hội? Hay là tình trạng mất dân chủ, tình trạng bất minh, bưng bít thông tin và những sai trái khác của hệ thống chính trị nhân danh là “giữ lề phải”, giữ vững “định hướng” đã làm tê liệt mọi phản ứng lành mạnh lẽ ra cần phải có của xã hội để hậu thuẫn cho kỷ cương quốc gia và thực thi pháp luật? Đảng cầm quyền rất cần lo lắng thực trạng này, bởi vì nó phản ánh lòng dân không yên. Bên cạnh hiện tượng tham nhũng tiêu cực trong hệ thống chính trị, sức ỳ này trên thực tế là tăng thêm mất ổn định xã hội, tác động nghiêm trọng vào sức đề kháng của dân tộc, cản trở ý chí dân tộc phải vươn lên trên con đường hiện đại hóa đất nước.
Xin đừng quên, sự đổ vỡ của các triều đại hiển hách trong lịch sử nước ta thường bắt đầu từ tha hoá, sa đoạ về văn hoá và đạo đức. Điển hình gần đây nhất là sự đổ vỡ thời Lê mạt, dẫn đến Trịnh – Nguyễn phân tranh và nhiều hệ quả lâu dài về sau.[36] Giữ ổn định xã hội nhân danh “giữ lề phải” như đang làm, muốn hay không là đang trực tiếp hay gián tiếp nuôi dưỡng tha hoá về văn hoá và đạo đức, kìm hãm ý chí xả thân vì những giá trị cao đẹp, đồng thời làm tê liệt khả năng đề kháng của dân tộc chống lại xâm lăng văn hoá đang diễn ra không ít quyết liệt!
Như một lẽ tự nhiên của phát triển, cuộc sống mọi mặt của đất nước ở thời kỳ ban đầu này không thể tránh được những hiện tượng thực chất là thuộc về thời kỳ phát triển hoang dã của giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, nhất là hiện tượng bất công xã hội và phân hóa giàu nghèo diễn ra gay gắt. Song lẽ ra cần nhìn nhận nghiêm túc thực tế này để tìm ra đối sách xử lý, thì lại đơn thuần đổ lỗi cho cơ chế thị trường. Thậm chí thực tế này bị xuyên tạc, che đậy, lạm dụng, thỏa hiệp, ru ngủ… Thêm vào đó là tình trạng bưng bít thông tin và sự thiếu công khai minh bạch là thủ phạm chính của tình trạng dân trí thấp, khiến cho sự xuống cấp về văn hóa trầm trọng thêm. Mặt khác lại duy ý chí nhận định nước ta đang phát triển, đang xây dựng theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện hoặc cho phép thực hiện nhiều hoạt động văn hóa thực chất là giả tạo, hình thức, không mang tính thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thậm chí không hiếm những hoạt động văn hóa trên thực tế là khuyến khích, nuôi dưỡng cái lạc hậu, cái ngoại lai, cái ngu dân: văn hoá phong bì, văn hoá “quan hệ”, văn hoá hàng mã (của giả, cái giả), văn hoá lễ hội, văn hoá hội thi hội thảo, văn hoá “cái loa”, văn hoá “chăn dắt”… Có thể nói, không tiền bạc, của cải, công sức nào đổ ra cho những chủ trương hay hoạt động văn hoá lạc hậu, hình thức, giả dối… như thế có thể làm nên cái tốt, cái đẹp và sự vững chãi của đất nước, mà chỉ nuôi dưỡng cái xấu, cái ác và chuẩn bị thêm cho thảm hoạ mới mà thôi. Trong khi đó hầu như hiếm có một nỗ lực văn hoá nào đem lại hiệu quả mong muốn, ngõ hầu cổ suý hay làm chỗ dựa tinh thần cho những giá trị một quốc gia như nước ta nhất thiết phải hun đúc – ví dụ như ý chí và đạo đức không gì quý hơn độc lập tự do của từng người dân và của cả quốc gia, pháp luật là tối thượng, sống và làm việc theo pháp luật, sự thật và lẽ phải là trên hết, tôn vinh trí tuệ, ý chí bảo vệ nền kinh tế quốc gia, ý thức và đạo đức sống vì tương lai của đất nước và các thế hệ con cháu, vân vân… Song làm sao có được những nỗ lực này nếu thiếu dân chủ và bưng bít thông tin? Và trên hết cả là thượng bất chính hạ tắc loạn, trong tình hình như thế làm sao có được sự thôi thúc tạo ra những nỗ lực này? Nguy hiểm hơn nữa, trong khi hầu hết các nước lớn nhỏ trên toàn cầu đang hừng hực những nỗ lực trên mặt trận văn hoá, tuyên chiến quyết liệt với những yếu kém của chính nước mình, thúc đẩy tinh thần dân tộc, để có sức đối phó với tình hình thế giới đang biến đổi sâu sắc, để nước mình đua tranh thắng lợi và không chịu thua kém ai (thậm chí nhiều khi rất “sô-vanh” – chỉ cần ngó sang Trung Quốc là thấy ngay điều này; ngay ở Mỹ hiện nay có không ít những sách báo của giới trí thức nổi tiếng theo tinh thần Phải lấy lại nước Mỹ đang bị đánh mất!…[37]).., thế nhưng mặt trận văn hoá nước ta do Đảng lãnh đạo đang cổ suý cho cái gì? - Cho giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa? - Cho gì nữa?
Trên góc độ dân tộc, phải chăng có thể nói chưa bao giờ chúng ta đang tự đánh mất mình như ngày nay, ươn hèn như ngày nay: Trước cái sai trái hàng ngày trong đời sống, dân không dám đối mặt. Trước cái nghèo hèn lạc hậu, lương tri đất nước không biết tủi hổ. Trước sự o ép và uy lực của bên ngoài, thể diện và danh dự đất nước không giữ được tự tôn tự trọng… Mâu thuẫn giữa đường lối văn hóa bất cập hiện hành và thực tế cuộc sống đang diễn ra tự nó đang góp phần mình vào quá trình tàn phá văn hóa trong hiện tại.
Hơn nữa, trên thực tế vẫn đang thiếu vắng hẳn một mặt trận hay là một cuộc sống văn hóa có sức sống năng động, mang tính giáo dục, phát huy các giá trị truyền thống, cổ xúy cho dân chủ tự do, khơi dậy hào khí của dân tộc, hướng dân tộc đi vào giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó văn hóa theo lề phải dù được đổ tiền của và công sức như nước cũng không tạo ra sức sống cho đất nước, nếu chưa muốn nói là nuôi dưỡng độc hại mới. Tình hình đã chín muồi phải khẩn thiết đặt ra vấn đề chấn hưng văn hóa, rất đáng được cả nước quan tâm. Rất không nên để cho những thành tựu nhất định đạt được trong lĩnh vực văn hóa – xã hội che lấp thực tế nguy hiểm được nói tới trên đây. Đứng trước yêu cầu chuyển đất nước sang một giai đoạn phát triển mới, có thể nói đòi hỏi về chấn hưng văn hóa bức xúc không kém các đòi hỏi về làm lành mạnh kinh tế và hệ thống chính trị quốc gia. Chấn hưng văn hóa để có lẽ sống chân chính và để có nhuệ khí càng là đòi hỏi bức xúc của thế hệ trẻ nước ta!
Không phải là trăm dâu đổ đầu tằm, nhưng vấn đề hệ trọng đến mức không thể nói khác được: Đảng phải đổi mới triệt để, mới hy vọng đề ra được đường lối văn hóa mới. Không thể có một nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc làm linh hồn cho chủ nghĩa yêu nước chân chính trong một thể chế chính trị lạc hậu! Đại hội XI nên có ý kiến.
Cũng xin nói thêm, những thất bại trọng trong nền giáo dục hiện tại đang để lại nhiều hậu quả lâu dài có thể xem như một hoạ lớn cho sự rèn luyện của nhiều thế hệ tới, thậm chí còn trở thành một di sản văn hoá tai hại không biết đến bao giờ mới khắc phục được. Vấn đề giáo dục tự nó luôn luôn là một vấn đề hóc búa đối với mọi quốc gia. Song ở nước ta, lỗi của giáo dục không chỉ đơn thuần do sự bất cập của ngành này, mà trước hết do hệ thống chính trị của đất nước trên thực tế là đề kháng đối với những giá trị mà một nền giáo dục chân chính nhất thiết phải theo đuổi. Nói đơn giản: Dạy và học tốt làm sao được nếu bằng giả và nhiều thứ hàng giả khác còn đắc dụng, thậm chí chiếm ưu thế?
Chỉ có văn hoá và giáo dục dục mới có thể làm nên diện mạo một nước Việt Nam mới, sau đó mới đến công nghiệp hoá –hiện đại hoá! Có văn hoá, có giáo dục, mới có thể công nghiệp hoá đất nước theo hướng hiện đại.
III. Đảng đang tự “diễn biến hòa bình”
Từ những điều đã trình bày trong các phần I và II, phải chăng có thể kết luận: Sau 30 Tháng Tư 1975 quyền lực trong Đảng dần dần và lúc này lúc khác không còn lựa chọn nhiệm vụ phục vụ lợi ích quốc gia là mục tiêu hàng đầu và tối thượng nữa, mà đang ngày càng chuyển hẳn sang ưu tiên lựa chọn yêu cầu duy trì quyền lực của Đảng? Xin nói ngay, quyền lực trong Đảng như vậy và quyền chính đáng của một đảng lãnh đạo là hai thứ khác nhau.
Qua tiếp xúc, có lẽ có thể nói từng người trong lãnh đạo Đảng hình như đều nhận thức rõ được thực trạng đất nước, thực trạng của Đảng hiện nay. Có ý kiến còn cho rằng những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước còn biết nhiều hơn những gì được viết ra ở đây! Song tại sao “biết” như thế nhưng cái quyền chính đáng của đảng lãnh đạo không đảo ngược được cái quyền lực trong Đảng? Tại bất cập? Tại không muốn đảo ngược? Tại sao cái quyền chính đáng của đảng lãnh đạo cứ để cho cái quyền lực trong Đảng lựa chọn chính nó là chính chứ không phải lựa chọn đất nước? Phải chăng vì những lẽ này ưu tiên đất nước bị đẩy xuống hạng hai? Tính tiền phong chiến đấu trong toàn Đảng bị đẩy lùi từng bước và hôm nay đang bị tha hóa lấn át?.. Sự lựa chọn này của quyền lực trong Đảng thực chất là sự giảm sút chất lượng chính trị của Đảng, nói lên Đảng đang tự diễn biến hoà bình!
Lúc này Đảng đứng trên đỉnh cao nhất của quyền lực, song cũng là lúc Đảng yếu nhất, có nhiều yếu kém hư hỏng nhất về mọi mặt, giữa lúc chưa bao giờ công sức và thời gian được bỏ ra cho xây dựng Đảng nhiều như ngày nay! Nói một cách khác: Đảng, trước hết là các đảng viên chân chính, đang phải bước vào một cuộc chiến đấu khó nhất kể từ khi thành lập – cuộc chiến đấu để chiến thắng chính mình, để trở lại đặt ưu tiên đất nước lên hàng đầu, để mãi mãi đi với dân tộc, chỉ vì dân tộc[38]: cuộc chiến đấu của mọi đảng viên chân chính bảo vệ phẩm chất và quyền chính đáng của đảng lãnh đạo!
Thực trạng của đất nước và của Đảng trình bày trong các phần I và II cho thấy lý tưởng của Đảng đã không chiến thắng được chính mình. Tệ hại hơn nữa là quyền lực trong Đảng đang nhân danh bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, biện minh cho gia tăng việc nắm quyền, qua đó nhiệm vụ lãnh đạo ngày càng teo dần, công việc cai trị tăng lên.
Những cái được và mất, những cái làm nên và thất bại của 35 năm đầu tiên trong hòa bình xây dựng và bảo vệ đất nước cho thấy: Hầu như mọi việc bám lấy ý thức hệ và nhằm nâng cao quyền lực trong Đảng – trên thực tế là nhân danh Đảng và nhân danh bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng – đều không kết quả, hoặc chỉ mang lại thành tích giả tạo, thậm chí nhiều khi vấp phải thất bại nặng nề, đất nước phải trả giá đắt và bị kéo lùi. Cứ so sánh những phát biểu hàng ngày của lãnh đạo với thực trạng của đất nước và của Đảng sẽ rõ. Việc nào gắn với hoặc phù hợp với lợi ích dân tộc với dân chủ đều thành công, thúc đẩy đất nước phát triển. Đời sống mọi mặt của đất nước cũng đang chứng minh: Nhiều điều cốt yếu ghi trong Cương lĩnh và Điều lệ của Đảng đã bị cuộc sống đất nước vượt qua, hoặc bị quyền lực trong Đảng vô hiệu hoá trên thực tế. Hiện nay chủ nghĩa hình thức và sự giả dối không buông tha sự thiêng liêng nào và đang tiếp tục bành trướng trên chính trường của Đảng.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đất nước đang chứng kiến tình hình: Qua mỗi kỳ Đại hội toàn quốc của Đảng, chất lượng của Đảng thêm một sa sút – Đại hội sau thấp hơn Đại hội trước – về năng lực lãnh đạo cũng như về phẩm chất. Nhiều báo cáo của Đảng và nhiều tin tức trên các phương tiện truyền thông cho thấy: Cứ gần đến kỳ Đại hội Đảng, các vụ khiếu kiện giữa các đảng viên với nhau, giữa người dân và các đảng viên, lại đột biến gia tăng, những vấn đề phải xử lý trong Đảng cũng ngày một nhiều và nghiêm trọng hơn, các tội phạm và tính chất các tội phạm đảng viên mắc phải có xu hướng ngày càng nghiêm trọng, trong khi đó nhiệm vụ của Đảng đối với đất nước ngày một khó khăn phức tạp hơn. Chất lượng đảng viên nói chung đáng lo ngại – thể hiện qua trình độ và ý thức trách nhiệm đối với đất nước và đối với Đảng nói chung thấp, không dám bảo vệ lẽ phải và đấu tranh chống mọi sai trái (vấn đề “đấu tranh – tránh đâu?” ngày càng tinh vi hơn, trầm trọng hơn).
Xin lưu ý, vai trò lãnh đạo hiện nay của Đảng là do hoàn cảnh lịch sử xác lập nên. Nói thế hàm nghĩa là vai trò và ảnh hưởng của Đảng ngày nay chủ yếu sống nhờ vào vốn liếng các thế hệ trước của Đảng để lại. Nghĩa là Đảng đang ăn vào vốn lịch sử của mình! Thực tế này cùng với việc đặt ưu tiên duy trì quyền lực của Đảng lên trên lợi ích quốc gia là những nguyên nhân trực tiếp nhất gia tăng tốc độ tha hóa của Đảng.
Nếu coi Đại hội VI là điểm sáng mang tính bước ngoặt có tính cách mạng về đường lối (chủ yếu là đường lối kinh tế), các Đại hội tiếp theo là những bước đi dè dặt chứ không phải thận trọng, thậm chí có mặt tụt hậu, và nhìn chung là đã không phát huy được bước tiến đột phá quan trọng của Đại hội VI. Nhất là phẩm chất và sức chiến đấu của Đảng hiện nay đang tụt xa so với Đại hội VI, ít nhất là không dám nhìn thẳng vào sự thật, không dám từ bỏ những tư duy lỗi thời, không dám đối mặt quyết liệt với các thói xấu... Nói một cách khác, giữa một bên là phẩm chất, bản lĩnh và năng lực của Đảng, và một bên là những đòi hỏi phát triển ngày càng cao của đất nước, khoảng cách bất cập này đang ngày càng rộng ra, làm giảm sút nghiêm trọng ảnh hưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Chiều hướng của Đảng từ Đại hội VI đến nay là: Những yếu kém của Đảng đang kéo theo sự suy yếu toàn bộ hệ thống chính trị đất nước.
Đảng nói chung từ người yêu nước, lãnh đạo thành công dân tộc giải phóng đất nước, giành lại độc lập thống nhất, ngày nay đang bị tha hóa thành người nắm quyền. Khái niệm “đảng cầm quyền” bị hiểu rất sai lệch thành nắm quyền, đang bị lạm dụng, và trên thực tế biến Đảng trở thành ông chủ cai trị đất nước. Sự nắm quyền này đã phát triển thành một hệ thống chằng chịt trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, xuyên xuốt từ cơ sở thấp nhất lên đến thượng tầng cao nhất trong toàn bộ hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa của quốc gia. Đó chính là hiện tượng “đảng hóa” toàn diện. Làm như vậy, bao nhiêu lý lẽ, chủ thuyết, chủ nghĩa Đảng đề ra và tôn thờ cuối cùng vẫn không đủ sức chiến thắng được quán tính lịch sử muôn đời: cái quán tính người chiến thắng trở thành kẻ cai trị! Cái quán tính ngày xưa dân gian gọi là: Được làm vua,…[39] Chính cái quán tính này đang lấy đi mất tính tiền phong chiến đấu của Đảng và đang kìm hãm nghiêm trọng khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền.
Hiện nay đã vậy, từ Đại hội XI trở đi sẽ ngày càng ít đảng viên giữ cương vị lãnh đạo có quá khứ tham gia cách mạng đầy thử thách. Điều này có nghĩa đội ngũ lãnh đạo của Đảng từ nay trở đi chủ yếu là do cơ cấu quyền lực và chính sách cán bộ của Đảng tạo thành – thực chất đấy là một dạng biến tướng nào đó của hình thái cha truyền con nối. Bởi vì Đảng đang ngày đêm tạo ra, vun đắp, gìn giữ cho mình hệ thống chính trị và môi trường tồn tại như thế - để duy trì quyền lực, duy trì vai trò lãnh đạo và vai trò nắm quyền của mình:
Khác với thời chiến, ngày nay trong thời bình Đảng không lựa chọn con đường phấn đấu đứng mũi chịu sào đối với mọi thử thách quốc gia đang đối mặt để thử thách chính mình, Đảng không thông qua sự lựa chọn của nhân dân để xây dựng, bảo vệ và duy trì vai trò lãnh đạo của mình, để phát triển chính mình. Trên thực tế, ngày nay trong thời bình Đảng lựa chọn con đường của cơ chế và cơ cấu để duy trì quyền lực của mình. Vì thế, tính ủy thác của nhân dân với tính cách là yếu tố làm nên vai trò lãnh đạo của Đảng trở thành vấn đề, trên thực tế là dần dần không còn.
Thực tế trình bày trên đòi hỏi Đảng càng phải phấn đấu nghiêm khắc hơn nữa với chính mình để vươn lên giữ lấy bằng được cho mình khả năng và vai trò lãnh đạo đất nước, chứ không phải là để củng cố sức mạnh nắm chặt hơn nữa trong tay quyền lực để cai trị đất nước. Tiếc rằng toàn bộ sức mạnh của hệ thống chính trị và quyền lực chuyên chính hiện nay của Đảng lại được ưu tiên huy động cho việc phục vụ mục đích sau, và đây là nguyên nhân trực tiếp nhất dẫn tới thỏa hiệp và nuôi dưỡng tha hóa trong Đảng, tiếp tục hủy hoại tính tiền phong chiến đấu của Đảng.
Hơn thế nữa, là lực lượng chính trị duy nhất nắm trọn vẹn quyền lực đất nước, không chịu sự cọ sát hay giám sát nào, Đảng ngày nay trở thành một thứ nhà nước siêu quyền lực, trong khi đó nhà nước của dân, do dân vì dân thông qua hiện tượng “đảng hóa” trên thực tế chỉ còn lại là một công cụ của Đảng. Tình hình này “đương nhiên” đến mức được chính đại biểu Quốc hội nói lên công khai trước báo chí: Bộ Chính trị và BCHTƯ Đảng là cấp trên của Quốc hội! Thậm chí sự gò ép các quyết định quan trọng, cùng với thái độ thiếu lễ độ và ngôn từ không nghiêm túc đôi khi xảy ra tại họp Quốc hội của một vài người có trọng trách trong chính phủ nhưng có cương vị cao trong Đảng.., có thể được xem là những biểu hiện rõ nét của thực trạng này.
Xin lưu ý: Nhân dân ta thế hệ này đến thế hệ khác hy sinh chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng là để xóa bỏ áp bức thống trị của nước ngoài, để tự giải phóng chính mình và giành quyền làm chủ đất nước, chứ không phải là để thiết lập nên một hệ thống của người trong nước cai trị lại chính mình. Sự tha hóa đang diễn ra trong Đảng đang từng giờ từng ngày đẩy lùi Đảng từ vị trí đảng lãnh đạo xuống vị trí đảng cai trị như thế[40].
Ngay cả lúc này lúc khác xử một số vụ án chính trị với tội danh chống đối hay lật đổ chế độ, tình hình của đất nước cũng cho thấy không một lực lượng chính trị nào dù là ở trong nước hay ở nước ngoài có thể đủ sức lật đổ quyền lực của Đảng. Song diễn tiến của tha hóa và bất cập đang làm suy yếu Đảng nhanh nhất và toàn diện nhất, đang là nguy cơ lớn nhất trực tiếp đe dọa vai trò lãnh đạo và sự tồn tại của Đảng. Không phải ngẫu nhiên đã có nhận xét: Chỉ có sự tự sụp đổ do tha hóa mới có thể lật đổ Đảng mà thôi! Đảng, trước hết là những người lãnh đạo, cần nhận rõ thực trạng này, kiên quyết đấu tranh cho sự trong sạch vững mạnh của Đảng, và nhất thiết đừng để cho một ngày nào đó những mâu thuẫn này diễn biến hòa bình Đảng thành đối kháng dân tộc.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 6:33:04 GMT 9
Cần nói rõ thêm: Sự câu kết bộ 3 như đã nói trong phần II, quyền lực trong Đảng (trong nhiều trường hợp, tên gọi đầy đủ của nó phải là quyền lực nhân danh Đảng), tình trạng quan liêu và những yếu kém khác đang tha hóa con người và tha hóa bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị của đất nước, hình thành ra một hiện tượng quan liêu ăn bám. Sự quan liêu ăn bám này thiên hình vạn trạng, - đó có thể là những con người cụ thể nào đó trong những trường hợp nhất định và trong những mối tương quan nào đó, có khi xuất hiện như một bộ máy, có khi hiện hình như một cơ chế, thậm chí có khi như một tác phong làm việc hay một tập quán kinh niên... Sự câu kết bộ 3 này đang ra sức bảo vệ quyền lực trong Đảng[41] nhân danh bảo vệ Đảng và bảo vệ chế độ, nhân danh nhiều thứ khác nữa... Điển hình nhất của sự quan liêu ăn bám này là một thứ cơ chế không thành văn “giữ quyền quyết định tất cả nhưng không chịu trách nhiệm, khi xẩy ra sự cố thì rất khó bề truy cứu”, đang diễn ra ở nhiều nơi trong cả nước và trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống – lộ liễu và dễ nhận biết nhất ở các vụ tham nhũng lớn..
Có thể nói sự quan liêu ăn bám này đang ngày càng vô cảm hoặc quay lưng lại với sự thật, chỉ quan tâm theo đuổi những mục đích của quyền lực. Sự quan liêu ăn bám này thậm chí không hiếm trường hợp biện minh những sai trái, nói dối hay hù dọa Đảng, trấn áp lẽ phải, che đậy hay làm nhẹ nguy cơ diễn biến lớn nhất đối với Đảng là sự tha hóa trong Đảng, nhưng lại nhấn mạnh một chiều nguy cơ diễn biến hòa bình do bên ngoài can thiệp vào là nghiêm trọng nhất đối với Đảng, vân vân... Đây là sự chệch hướng của mọi chệch hướng, Đảng dứt khoát cần làm rõ và ngăn chặn.
Tệ hại vô cùng là ở chỗ sự chệch hướng này đang diễn ra giữa lúc: (a) Đảng ở đỉnh cao của quyền lực, ảnh hưởng và quyền lực của Đảng đang là lực lượng chính trị duy nhất và mạnh nhất trong nước, (b) trên dưới 70% tài sản vốn liếng cả nước là sở hữu quốc doanh, (c) cả nước có nguyện vọng nóng bỏng muốn vươn lên con đường phát triển văn minh hiện đại và (d) yêu cầu bảo vệ tổ quốc đòi hỏi phải sớm kiện toàn đất nước mọi mặt. Hơn thế nữa sự chệch hướng này đang diễn ra giữa lúc Đảng có trong tay mọi điều kiện tốt nhất để tự giác chủ xướng một cuộc cải cách chính trị đã trở nên vô cùng cấp thiết, đưa đất nước chuyển sang giai đoạn phát triển mới và để chiến thắng mọi uy hiếp từ bên ngoài. Cách đây 25 năm khi phải tiến hành đổi mới, Đảng thậm chí lúc đó không có nhiều thuận lợi như ngày nay để tiến hành cuộc cải cách này. Nói ngắn gọn: Chính sự chệch hướng này đang ngày đêm làm tê liệt Đảng, cướp đi vai trò và khả năng của Đảng là đảng lãnh đạo.
Thoạt kỳ thủy, quan liêu chỉ là một yếu kém, một thứ bệnh không một hệ thống chính trị nào có thể miễn nhiễm nếu không có một thể chế pháp quyền kiểm soát hữu hiệu căn bệnh này. Sự yếu kém của Đảng dần dà biến thứ bệnh quan liêu này (tự giác) hoặc để cho thứ bệnh này (không tự giác) tự nó phát triển thành một cơ chế. Như đã nói, hiện nay cơ chế quan liêu đã trở thành một thứ quyền lực, thành công cụ đắc lực cho thứ quyền lực trong Đảng nhân danh Đảng. Càng có nhiều khó khăn và yếu kém, Đảng càng bị chính sự quan liêu ăn bám này của mình diễn biến. Vì sự tồn tại của chính nó, sự quan liêu ăn bám này đang lăm le biến quyền lực chính thống của Đảng được ghi trong Điều lệ Đảng thành một thứ của sở hữu riêng cho nó và vì nó.
Cùng với thời gian, sự quan liêu ăn bám này và sự câu kết bộ 3 ngày càng thâm nhập vào nhau, nuôi dưỡng nhau – trước hết và chủ yếu thông qua chính sách tổ chức cán bộ, nhất là chính sách cơ cấu – để dần dà phát triển quyền lực trong Đảng thành một thứ quyền lực nhân danh Đảng. Chết nỗi, đấy chính là thứ quyền lực thực tế cao nhất trong Đảng, nó không thành văn, không được ghi trong Điều lệ Đảng và vì thế thật ra nó không có tính pháp lý ngay cả đối với Đảng.
Ví dụ, những quy định không thành văn trong nhiều lĩnh vực của cuộc sống được toàn Đảng tuân thủ đến mức trở thành thông lệ từ Đại hội này đến Đại hội khác: Quyền lực cao nhất của Đảng là Đại hội Đảng toàn quốc, trên thực tế chỉ còn lại là hình thức; những tập quán, những phương thức không thành văn chuẩn bị và tiến hành Đại hội Đảng các cấp; những quy định mang tính tiền lệ như không là ủy viên Trung ương Đảng không thể là Bộ trưởng; tổng giám đốc tập đoàn quốc doanh cần bố trí vào BCHTƯ Đảng; không phải tỉnh ủy viên thì không thể làm giám đốc Sở... Việc áp dụng những “tiêu chuẩn chính trị”, những cái “nhãn mác về chức vụ Đảng” như vậy không có trong Điều lệ Đảng, trong Hiến pháp, hầu như đứng trên mọi tiêu chuẩn thiết yếu khác, khiến cho toàn bộ hệ thống chính trị và bộ máy quản lý nhà nước trở nên yếu kém, với những hệ quả nghiêm trọng. Với cách bố trí người và sắp xếp tổ chức, bộ máy như thế, với phương thức hoạt động hiện nay, trên thực tế trong toàn bộ hệ thống đảng, nhà nước, kinh tế xã hội... đã và đang hình thành một nếp vận động mang tính một hệ thống bị đảng hoá, tạo thành một kiểu bộ máy vận hành theo hoặc vận hành trong cơ chế “đảng hóa”, hoặc bị “đảng hóa” chi phối. Đó chính là con đường “đảng hóa” toàn diện.
Thứ quyền lực nhân danh Đảng như thế đứng trên Hiến pháp và Điều lệ Đảng, thường thể hiện muôn hình vạn trạng bên trong các hình thái mang tải nó. Trong từng trường hợp cụ thể, thứ quyền lực này có các tên gọi khác nhau: “sự lãnh đạo”, “sự chỉ đạo”, “quán triệt”, “học tập”, “tinh thần chỉ thị...”, “tập trung dân chủ”… Thứ quyền lực này thực chất là kết quả sự vận động qua lại giữa các “mối quan hệ” (mối quan hệ này dẫn tới quyết định này, mối quan hệ kia dẫn đến quyết sách kia…).
Thứ quyền lực nhân danh Đảng như thế và sự ràng buộc của nó không hiếm trường hợp vô hiệu hóa trực tiếp người được Đảng giao trách nhiệm – (Ví dụ: Lúc sinh thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có lúc phải kêu lên “Tôi không làm sao cách chức nổi lấy một chủ tịch xã!”.. Nhiều đoàn kiểm tra, thanh tra của Đảng và Nhà nước khi đi thực tế để điều tra thường bị ém nhẹm hay bưng bít thông tin, vân vân...). Không ít quyết định quan trọng đối với vận mệnh đất nước và của Đảng hình thành thông qua sự vận động qua lại giữa những “mối quan hệ” như thế - nghĩa là do thứ quyền lực nhân danh Đảng quyết định, chi phối.
Thứ quyền lực nhân danh Đảng như thế rất tiện lợi cho việc cầm quyền, nắm quyền, song tự nó tước bỏ hay đối nghịch với nhiệm vụ lãnh đạo của một đảng chính trị.
Xin nhắc lại, thứ quyền lực nhân danh Đảng như thế do bản chất và lợi ích sống còn của chính nó, luôn luôn có xu hướng muốn biến Đảng thành công cụ cho nó. Vì thế không phải ngẫu nhiên từ lâu nhiều ý kiến tâm huyết cảnh báo: Đảng đang trở thành đối tượng của tham nhũng![42] Thứ quyền lực nhân danh Đảng như thế đang tồn tại song song với hoặc lồng vào bên trong quyền lực chính thống của Đảng (quyền lực được Điều lệ Đảng quy định – ví dụ: Quyền của các Đại hội toàn quốc và các cấp, quyền của Ban Chấp hành trung ương Đảng, quyền và trách nhiệm của các tổ chức Đảng và các tổ chức cơ sở Đảng, quyền và nghĩa vụ của các đảng viên…). Song vấn đề nóng bỏng đối với vận mệnh của Đảng – cũng nóng bỏng như thế đối với đất nước – là: Thứ quyền lực nhân danh Đảng như thế đang vi phạm dân chủ trong Đảng, đang nhân danh tăng cường sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đẩy mạnh vấn đề “đảng hóa” – mà trên thực tế là chuyển hóa Đảng ngày càng mạnh sang xu hướng nắm quyền, với nguy cơ tha hóa Đảng từng bước trở thành đảng cai trị... Chính diễn biến hòa bình này, chứ không phải hành động chống đối hay lật đổ nào từ bên ngoài Đảng, mới là mối nguy lớn nhất đối với sự tồn tại của Đảng và tương lai quốc gia.
Mặt khác, sự đầu hàng, tránh né hay thái độ bàng quan của không ít đảng viên trong Đảng trước thực tế nêu trên đang gián tiếp hay trực tiếp hậu thuẫn cho sự diễn biến hòa bình Đảng như vậy. Không phải ngẫu nhiên người đời đã nói: Sự im lặng của lương tri nuôi dưỡng bạo hành của quyền lực!
Với tư cách là đảng cách mạng, Đảng phải tuyên chiến với diễn biến hòa bình này và mọi hành động phụ họa nó – đây là một trong các nhiệm vụ cụ thể của đổi mới Đảng, rất đáng đặt ra tại Đại hội XI[43]. Điều trước tiên là toàn Đảng không có một ngoại lệ nào phải nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp, Cương lĩnh và Điều lệ Đảng hiện hành. Điều gì trong Hiến pháp, trong Cương lĩnh và Điều lệ không còn đáp ứng đòi hỏi phát triển của đất nước thì phải thay đổi.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 6:33:45 GMT 9
IV. Trách nhiệm lịch sử
Không lâu sau chiến thắng 30 Tháng Tư, đã có trí thức kiến nghị: Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, sự nghiệp vinh quang nhất của Đảng là xây dựng nên cho đất nước một thể chế dân chủ làm giường cột cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước lâu dài, phát huy sức mạnh của toàn thể dân tộc cho sự nghiệp này, chuyển đất nước đi vào một kỷ nguyên lịch sử mới: Từ một quốc gia phong kiến lạc hậu, thậm chí là một thuộc địa, sang kỷ nguyên của một quốc gia dân chủ phù hợp với văn minh tiên tiến của nhân loại ngày nay.
Từ đó đến nay, nhất là từ khi đất nước lâm vào khủng hoảng và phải tiến hành đổi mới, rồi đến sự sụp đổ của các nước Liên xô Đông Âu, ngày càng có nhiều ý kiến của những người có tâm huyết với đất nước, - trong Đảng và ngoài Đảng, kể cả những ý kiến của một số đảng viên lão thành - yêu cầu Đảng rút ra những bài học của thực tế này cũng như khai thác các giá trị của văn minh nhân loại, để xây dựng nên một thể chế dân chủ của Việt Nam, cho Việt Nam, để sớm đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, xây dựng được đất nước dân chủ, giàu mạnh, công bằng, văn minh.
Trong những kiến nghị giàu tâm huyết và trí tuệ được nói tới trong bài này hầu như chưa có ý kiến nào đặt vấn đề phải làm ngay đa nguyên đa đảng. Trong kiến nghị này cũng không ai đòi phế bỏ vai trò lãnh đạo Đảng đang nắm giữ. Song những kiến nghị này thống nhất đòi hỏi Đảng phải vươn lên trau giồi phẩm chất và năng lực lãnh đạo, thực hiện đúng và thực hiện tốt lãnh đạo, chứ không phải nắm quyền hay cai trị như đang làm. Lẽ đơn giản là yêu cầu phát triển của đất nước đòi hỏi nhất thiết phải có sự lãnh đạo đúng đắn. Nghĩa là: Đảng phải thực hiện các quyền tự do dân chủ của toàn thể nhân dân, xóa bỏ những định kiến giai cấp, những định kiến các thành phần kinh tế, xây dựng thể chế dân chủ để đảm bảo thực hiện… Những đề nghị này đặt sang một bên mọi thứ “chủ nghĩa”, “học thuyết”, “mô hình” hay ý thức hệ theo kiểu chủ nghĩa, để lấy việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của công dân, việc thực hiện lý tưởng độc lập tự do hạnh phúc, việc thực hiện lợi ích quốc gia và sự nghiệp phát triển đất nước làm trung tâm. Có thể khẳng định dứt khoát:
Chỉ có một ý thức hệ duy nhất của toàn thể dân tộc ta, cũng là cho Đảng, đó là Tất cả cho xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng!
Ai không tán thành? Ai không muốn?
Trong một thể chế dân chủ như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng hoặc các cá nhân đảng viên tùy thuộc vào sự phấn đấu của Đảng và những đảng viên của mình trở thành lực lượng tinh hoa của dân tộc, trở thành đảng của dân tộc.
Những ý kiến vừa nêu trên đặt vấn đề Đảng phải chủ xướng, phải huy động trí tuệ cả nước thiết kế và xây dựng nên một thể chế dân chủ thực sự và của dân thực sự như thế, trong đó quyền lực của dân và lợi ích quốc gia là tối thượng, Đảng phải là người gương mẫu đi đầu trong việc xây dựng một thể chế như thế, và phải hoạt động trong khung khổ thể chế ấy.
Đặt vấn đề như thế chính là thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, giao cho Đảng trách nhiệm lịch sử lãnh đạo đất nước xây dựng nên một thể chế chính trị dân chủ - nhiệm vụ hàng đầu và cũng có thể nói là nhiệm vụ duy nhất và thường trực của Đảng trong thời bình xây dựng và bảo vệ đất nước, sau khi Đảng đã làm xong nhiệm vụ lãnh đạo kháng chiến giành lại độc lập thống nhất – đúng với tinh thần cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, xây dựng và bảo vệ đất nước là sự nghiệp của toàn thể dân tộc.
Đặt vấn đề như thế cũng có nghĩa mọi quyền lực đều là của dân, đại diện là nhà nước do nhân dân xây dựng nên và của toàn dân. Quyền lực nhà nước như thế là tối thượng, không một cá nhân hay đảng phái chính trị nào có thể đứng ngoài hoặc đứng trên hiến pháp, luật pháp. Lãnh đạo là như vậy.
Cần phải nói thêm: Trong điều kiện Đảng giữ độc quyền chân lý và trong khung khổ hệ thống được gọi là chuyên chính vô sản, những ý kiến tâm huyết như vừa nêu trên đã không được lắng nghe, mà còn bị quy chụp, bị xử lý, không hiếm trường hợp bị xử lý nặng nề.
Những tha hóa và bất cập đang gây ra nhiều hệ quả nghiêm trọng, trực tiếp cản trở sự phát triển của đất nước, đặt đất nước trước ngã ba đường nguy hiểm. Không ít người đã lên tiếng yêu cầu Đảng với tính cách là đảng duy nhất cầm quyền phải đẩy mạnh cải cách chính trị, coi đây là chìa khóa của mọi giải pháp và là tiền đề quyết định chuyển đất nước đi vào một giai đoạn phát triển mới, để dứt khoát không bị đẩy sang ngả đường đi vào lệ thuộc và lạc hậu.
Tựu trung lại, những ý kiến này đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách với nội dung xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự cho Việt Nam, trên cơ sở phát huy trí tuệ và nghị lực Việt Nam, tận dụng lợi thế nước đi sau, và khai thác những thành quả của văn minh nhân loại. Những khái niệm kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự nói lên thì đơn giản, nhưng thiết kế và thực hiện nó là cả triệu triệu công việc, là cả một quá trình phấn đấu, xây dựng lâu dài và vô cùng gian khổ, là trường học rèn luyện và là môi trường phát triển cho từng người và cho mọi người. Chung cuộc đó là con đường từng bước tạo ra sự phát triển bền vững, năng động, và sẽ đưa nước ta trở thành nước phát triển.
Xin đừng quên con đường xây dựng một thế chế dân chủ ở nước ta cho đến nay về nhiều mặt mới chỉ là một ý tưởng, một nguyện vọng, cho dù là nóng bỏng đến đâu đi nữa cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ một đòi hỏi, chưa thể nói chúng ta đã có đầy đủ những hiểu biết xác đáng về thực trạng của đất nước và đặt trúng được những vấn đề phải cải cách để làm căn cứ cho việc thiết kế, thực thi thể chế dân chủ đáng mong muốn ấy. Vì không đặt ra một mục tiêu như thế, nước ta đang thiếu hẳn những khảo cứu khoa học của chính mình, những ý tưởng có căn cứ vững chãi, vận dụng thành tựu văn minh nhân loại, chứ không vay mượn của bất kỳ học thuyết nào, để thiết kế một chiến lược và các bước đi cho việc xây dựng, hoàn thiện tòa nhà dân chủ đó như thế nào là phù hợp nhất và khả thi cho nước ta.
Câu hỏi lớn đặt ra là một nước có bối cảnh lịch sử như nước ta trong thế giới ngày nay, do một đảng lãnh đạo, lại trong quá trình chuyển đổi, thể chế chính trị dân chủ cần được thiết kế và xây dựng như thế nào nhằm đảm bảo tạo ra sự phát triển tốt nhất cho kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự - ba thành tố không thể thiếu để giải phóng được mọi tiềm năng của đất nước, để sớm trở thành một nước phát triển. Ngay trước mắt, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá cũng đòi hỏi đất nước phải phát huy ba thành tố này. Quan trọng hơn, những đòi hỏi bức bách của hội nhập toàn cầu, những thách thức trực tiếp đối với an ninh quốc gia, và yêu cầu tập hợp lực lượng trong bàn cờ quốc tế đặt ra cho nước ta trong cục diện thế giới mới đang đòi hỏi gay gắt Việt Nam phải sớm trở thành một nước phát triển. Đấy là đòi hỏi để tồn tại, để phát triển! Nói riêng về Đảng, toàn bộ yêu cầu mới này đặt ra cho Đảng hai vấn đề lớn: (a) Làm thế nào lãnh đạo đất nước xây dựng thành công một thể chế chính trị dân chủ như vậy, (b) Đảng phải đổi mới như thế nào và lựa chọn chỗ đứng nào trong một thể chế chính trị dân chủ đích thực như vậy của một nhà nước pháp quyền. Đảng muốn giữ quyền lãnh đạo thì phải trả lời những câu hỏi này.
Đảng hiện nay chưa có câu trả lời nào, thậm chí không muốn nghĩ tới, mà đang nghĩ theo hướng củng cố cầm quyền và nắm quyền.
Chắc chắn tòa nhà dân chủ phải xây dựng nên này không thể là thể chế định hướng xã hội chủ nghĩa như Đảng đang xây. Thậm chí có thể nói cho đến ngày hôm nay xây dựng thể chế dân chủ ở nước ta mới chỉ dừng lại ở các ý tưởng mang tính khai sáng được Phan Châu Trinh nêu lên và được dựng lên lần đầu tiên trong Hiến pháp 1946, nhưng chưa có điều kiện thực hiện. Sau đó Hiến pháp 1946 đã bị thay thế bằng các Hiến pháp khác.
Ngày nay việc thực hiện các khái niệm chưa Đại hội Đảng nào làm rõ được như thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền định hướng xã hội chủ nghĩa... đang được coi là thực hiện dân chủ. Gần đây còn có ý kiến nêu lên xây dựng xã hội dân sự định hướng xã hội chủ nghĩa! Song cuộc sống cho thấy không thể cứ gắn thêm cái đuôi “định hướng xã hội chủ nghĩa” là mọi việc đã được giải quyết cho việc xây dựng một thể chế dân chủ.
Trong khi đó quan điểm chính thống hiện nay trong Đảng vẫn cho rằng thể chế dân chủ cần xây dựng cho đất nước để chuyển sang giai đoạn phát triển mới như được đề cập bên trên là thứ dân chủ tư sản, là mưu đồ đi vào tam quyền phân lập với chủ định loại bỏ sự lãnh đạo thống nhất, tập trung và toàn diện của Đảng.., là phi giai cấp... Đảng vẫn đang cho rằng thể chế chính trị hiện nay của nước ta còn vạn lần dân chủ hơn!.. Xin dành cho các nghiên cứu khoa học đánh giá. Trong khi đó dân chủ, dù mới chỉ được thực hiện ở mức đô khiêm tốn, chưa thể nói được là tự giác, và chủ yếu là trong lĩnh vực kinh tế, là nhân tố hàng đầu làm nên những thành tựu của 25 năm đổi mới vừa qua thì lại chưa được tổng kết, phát triển, để đi tiếp, thậm chí có lúc còn bị coi là nguyên nhân của nguy cơ diễn biến hòa bình.
Chắc chắn con đường xây dựng một thiết chế dân chủ ở nước ta đòi hòi phải phát huy truyền thống dân tộc và nhiều giá trị văn hóa của đất nước, đồng thời phải khắc phục rất nhiều trở ngại do hoàn cảnh lịch sử rất đặc thù và khắc nghiệt của nước ta, nhất là hoàn cảnh lịch sử cận đại.
Nói một cách khái quát, con đường xây dựng một thể chế dân chủ ở nước ta là con đường chuyển đất nước từ một thể chế kinh tế, chính trị, văn hóa còn mang nặng nhiều di sản của một nền kinh tế manh mún, chậm phát triển, có nhiều tàn dư phong kiến lạc hậu, dân trí thấp, sang một thể chế hiện đại mà văn minh nhân loại hôm nay đã thiết kế được. Trong những tàn dư và hệ quả phải khắc phục còn phải kể đến mặt trái của tình hình đất nước hiện tại, đó là ảnh hưởng của tư duy ý thức hệ, những hệ quả kinh tế - chính trị - xã hội - văn hóa của hệ thống chính trị một đảng, những hiện tượng “đảng trị”, những tác động của khoảng cách giàu nghèo quá lớn, những tác hại khác của nhiều điều không đúng khác do tình trạng tha hóa của thể chế chính trị hiện nay gây ra...
Xây dựng thể chế dân chủ cho đất nước cần đặc biệt cải cách sâu sắc hệ thống giáo dục hiện nay của đất nước và thực hiện công khai minh bạch để nâng cao dân trí - đây là hai việc đầu tiên phải làm trong các việc đầu tiên phải làm ngay từ bây giờ. Xây dựng một thể chế dân chủ như thế đòi hỏi phải duy trì và phát huy những giá trị chân chính đang bị những tha hóa trong cuộc sống hiện tại mai một hoặc hủy hoại.
Chắc chắn con đường đáng mong muốn nhất để xây dựng một thể chế dân chủ như thế phải có sự phát triển kinh tế bền vững, năng động là nền tảng, làm động lực – nghĩa là phải trên cơ sở phát huy những ưu điểm, những thành quả đã đạt được trong 25 năm đổi mới, trong hội nhập kinh tế, trong hội nhập thế giới, tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế hiện nay với ý thức thúc đẩy mạnh mẽ cải cách chính trị theo kịp đòi hỏi phát triển của đất nước. Đúng là tình hình bức xúc hiện nay đòi hỏi phải đẩy mạnh cải cách chính trị đã quá tụt hậu so với tình hình phát triển của kinh tế, song tuyệt đối không được lấy kinh tế hay lấy đất nước ra làm thí nghiệm cho cải cách chính trị - như trong suốt thời kỳ nền kinh tế chỉ huy và bao cấp đã từng gò ép kinh tế và đất nước vào các khung khổ duy ý chí để chứng minh cho chủ nghĩa xã hội!
Tóm lại, trước sau vẫn phải kiên định phương châm phát triển kinh tế là nền tảng trong đẩy mạnh xây dựng thể chế dân chủ, mặc dù bây giờ là lúc phải đẩy mạnh cải cách chính trị, phải lấy cải cách chính trị làm đòn bẩy thúc đẩy sự tiến bộ mọi mặt của đất nước. Nói dân dã: Có no và có học mới có hy vọng cải cách được.
Xin đặc biệt lưu ý một thể chế dân chủ đáng mong muốn cho đất nước đòi hỏi phải có sự thống nhất dân tộc cao độ, để luôn luôn có được sự đồng thuận dân tộc tối ưu cho mọi quyết định và bước đi vô cùng khó khăn trong việc xây dựng thể chế này. Nếu hiểu rõ lịch sử và tình hình đất nước, hiểu rõ những mặt còn yếu kém của dân tộc ta, đòi hỏi này là rất cao – nhất là lâu nay thông tin bị bó hẹp, thiên lệch, hoặc thậm chí bị bưng bít... Đã thế cái tai chúng ta chỉ quen nghe đến mức nghiện những tiếng nói một chiều về truyền thống tuyệt vời của dân tộc Việt Nam ta, về những điều cũng tuyệt vời như thế của con người Việt Nam, vân vân...
Thực ra về phương diện phát triển đất nước thời hiện đại, phải thẳng thắn thừa nhận tri thức và ý thức dân tộc ta, tố chất con người Việt Nam chúng ta... còn nhiều vấn đề, còn tồn tại nhiều yếu kém - thậm chí đã có ý kiến than vãn: Hình như ý thức dân tộc Việt nam ta chỉ trỗi dậy khi mất nước!.. Làm được một việc nhỏ con con đã coi trời bằng vung!.. Chủ nghĩa “makeno” trong hàng ngũ cán bộ đang là một căn bệnh xã hội nguy hiểm!... Trong khi đó chưa thể nói Đảng đã ý thức đầy đủ thực trạng đất nước trong bối cảnh thế giới hiện nay, mũ ni che tai trước nhiều điều sai trái!.. Trong hàng ngũ đảng viên chưa nhức nhối quyết liệt gì trước tình hình đất nước đang biến thành đất nước cho thuê, người dân chúng ta đang biến thành kẻ làm thuê theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Chưa có thể nói người Việt chúng ta đã đủ lòng tự trọng đến mất ăn mất ngủ vì cái nhục độc lập xây dựng đất nước trên ba thập kỷ rồi mà nay quốc gia vẫn còn thua kém nhiều mặt! Càng đuổi thiên hạ, càng bị thiên hạ bỏ xa, càng bị chèn ép!.. Vẫn đầy dẫy các chợ vợ cho người nước ngoài, các chợ bằng giả và biết bao điều ê chề khác về phẩm giá con người, về thể diện quốc gia bao lần bị đánh vỗ mặt!..
Cần thức tỉnh trong cả nước nỗi nhục nghèo hèn và những mối nguy trước mắt, để quyết tâm tạo ra thống nhất dân tộc với tri thức và ý thức rất cao, đồng tâm gắng sức vượt qua mọi yếu kém để mở mày mở mặt cho đất nước. Cần tạo ra thống nhất dân tộc với tri thức và ý thức rất cao như vậy để kiên quyết chống lại tham nhũng tiêu cực, đồng thời có thể tránh hoặc giảm xuống mức thấp nhất mọi đổ vỡ trong quá trình tìm đường đi lên cho đất nước. Như vậy, sự thống nhất có trí tuệ và ý chí này sẽ thúc đẩy sự nghiệp xây dựng thể chế dân chủ phát triển, mang lại sức sống mới cho đất nước.
Đứng trước những khó khăn lớn về đối ngoại, lại càng phải lấy sự thống nhất dân tộc làm sức mạnh, làm hậu thuẫn cho thế và lực để bảo vệ đất nước, dứt khoát không được bỏ sang một bên sức mạnh này của đất nước trong bất kỳ bước đi đối ngoại nào.
Xây dựng thể chế dân chủ cho đất nước như thế là con đường xây dựng một quốc gia mạnh về đối nội để có thể vững vàng trước mọi can thiệp bất kể màu sắc chính trị nào từ bên ngoài. Nếu nhìn vào bản đồ thế giới, nhất là bản đồ khu vực nước ta, nhìn vào mối nguy của các loại quyền lực mềm từ bên ngoài tác động vào, yếu tố đối nội này rất quan trọng. Ai không muốn một Việt Nam giàu mạnh và độc lập tự chủ, đều không muốn Việt Nam lựa chọn con đường dân chủ dựa trên sức mạnh thống nhất dân tộc như thế?
Mặt khác, nếu Việt Nam thành công trên con đường phát triển dân chủ và trở nên giàu mạnh, sẽ có sự hoan nghênh, hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ, sẽ là một nhân tố mới trong xu thế tiến bộ của thế giới. Thử hình dung, một nước đang phát triển là Việt Nam tìm được con đường xây dựng thành công thể chế dân tộc và dân chủ như vậy để phát triển, các nước đang phát triển trên thế giới sẽ hân hoan chào đón và cổ vũ như thế nào. Ngược lại 180 độ là những thế lực không muốn Việt Nam độc lập tự chủ và giàu mạnh sẽ tìm mọi cách ngăn cản Việt Nam tiến lên trên con đường dân chủ như thế, vì muốn kìm hãm nước ta để dễ bề chi phối, song cũng vì dân chủ là chỗ yếu, là nỗi sợ, là mối nguy, và là kẻ thù của chính họ.
Cái mới của cục diện thế giới ngày nay trực tiếp liên quan đến nước ta là sát nách nước ta bây giờ không phải là một quốc gia bình thường, mà là “cái công xưởng thế giới” đang vươn lên thành siêu cường. Điều này diễn ra trong một thế giới đầy những thách thức chính trị mới bất định, gắn liền như hình với bóng một cuộc khủng hoảng mới trên thế giới về mô hình phát triển[44]. Nước ta nằm án ngữ ngay trên con đường đi xuống phía Nam Thái Bình Dương của siêu cường đang lên này. Có thể nói tác động của toàn bộ cục diện quốc tế và nhất là của cục diện khu vực Đông Nam Á như vậy rất nhậy cảm đối với Việt Nam[45]. Đấy không phải là điều nước ta tự lựa chọn cho mình, mà là biến động của cục diện mới trên thế giới và trong khu vực từ đầu thế kỷ 21 áp đặt nước ta vào tình huống như vậy, chỉ cho phép nước ta lựa chọn cách ứng xử nào mà thôi. Trong khi đó bản thân Việt Nam cũng đang đứng trước yêu cầu phải chuyển sang mô hình phát triển theo chiều sâu trên cơ sở phát huy lợi thế hàng đầu là nguồn lực con người. Chìa khoá để xoay chuyển mọi nguy cơ nội – ngoại hiện đang uy hiếp đất nước, thành thời cơ bứt phá đi lên thành một quốc gia dân chủ, giàu mạnh, văn minh, là thiết lập bằng được cho đất nước một thể chế chính trị dân chủ. Đó là con đường hiện thực nhất tạo ra cho Việt Nam có chất, có lực và có thế để trở thành láng giềng tốt, đối tác tốt và được tôn trọng của Trung Quốc; mà như thế cũng là tranh thủ được cả thế giới và được cả thế giới tôn trọng. Một Việt Nam èo uột, không có dân chủ, sẽ không phát triển, không có trong ấm ngoài êm, dù có quỳ xuống cũng sẽ chẳng đối tác được với bất kỳ ai, và cũng không giữ được độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Đã đến lúc dân tộc ta cần xác định: Sau khi giành được độc lập thống nhất đất nước, dân tộc ta phải bước vào cuộc đấu tranh mới sống còn thiết lập cho quốc gia mình một thể chế chính trị dân chủ làm nền tảng cho sự phát triển trường tồn của đất nước trong thế giới đương đại ngày nay. Cuộc sống hiện tại và tương lai của đất nước trong thế giới này khách quan đặt ra cho dân tộc ta chiến trường mới như thế, cả nước phải thực hiện hoà hợp, hoà giải, đại đoàn kết dân tộc để dấn thân bước vào chiến trường mới này. Nhận về mình sứ mệnh lãnh đạo đất nước, nhất thiết Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày nay phải lựa chọn chiến trường mới này của dân tộc, đi tiên phong trong chiến trường mới này của dân tộc, Đảng không có quyền lựa chọn chiến trường riêng cho mình. Hiển nhiên con đường đi tới một thể chế dân chủ đáng mong muốn như thế ở nước ta sẽ vô cùng gian truân, phải chia ra làm nhiều chặng trong một lộ trình được cân nhắc thấu đáo, và phải luôn luôn tranh thủ được sự đồng thuận tối đa của toàn thể nhân dân. Chắc chắn đấy sẽ phải là con đường tự học hỏi và tự dậy lại chính mình và dậy lẫn nhau của từng người dân và của toàn dân – vừa là để khắc phục những thành kiến và di sản văn hóa cũ cũng như những yếu kém do tình trạng tha hóa hiện nay, vừa là xây dựng và nâng cao nhận thức mới về quyền, về trách nhiệm, về khả năng và kỹ năng của từng công dân xây dựng cuộc sống hạnh phúc của chính mình cũng như thực hiện nghĩa vụ đối với cộng đồng, đối với quốc gia.
Xây dựng một thể chế chính trị dân chủ của học hỏi, của phát triển như thế chưa có dự án, chưa có lộ trình và cũng chưa ai nói được quá trình này sẽ kéo dài bao lâu – mươi mười lăm năm, một thế hệ? Hay có thể ngắn hơn? Nhưng sự nghiệp nào cũng phải có sự bắt đầu, càng không được để muộn.
Đảng cầm quyền phải là người đi học, học lại tất cả, là người học trước tiên.
Bất chấp mọi tha hóa, trong Đảng vẫn còn đội ngũ đông đảo các đảng viên ở tất cả các cấp có hiểu biết tường tận và trung thành với sự nghiệp của đất nước. Trí tuệ và tâm huyết trong Đảng và trong nhân dân nếu được khơi dậy hoàn toàn cho phép xây dựng thành công một thể chế trong đó mọi quyền lực là của dân như thế - đúng với tên gọi là nhà nước của dân, do dân, vì dân, phát huy khả năng và quyền năng của từng công dân. Chỉ riêng những kinh nghiệm được rút ra từ thành và bại của đất nước trong 35 năm qua, chỉ riêng trí tuệ của đất nước đã tích lũy được hoàn toàn cho phép xây dựng nên một thể chế dân chủ như thế, chưa kể đến kinh nghiệm phong phú của văn minh nhân loại. Vấn đề còn lại là ý chí và sự lựa chọn của Đảng lãnh đạo.
Sự phát triển năng động hiện nay của đất nước đang bị sự tụt hậu của cải cách chính trị kìm hãm. Khả năng phát triển năng động hiện nay của đất nước vừa cho phép, vừa đòi hỏi xây dựng thành công một thể chế chính trị dân chủ như thế, bắt đầu từ nhiệm vụ đổi mới Đảng: Tổ chức học lại, nhìn nhận lại tất cả, với tinh thần cởi mở và phê phán. Hơn bao giờ hết người đảng viên cần tự giải phóng mình khỏi mọi ràng buộc giáo lý hoặc ý thức hệ, nâng cao trí tuệ, tiếp thu những thành quả ngày nay của văn minh nhân loại, vắt óc tìm đường đưa đất nước đi lên với tất cả nhiệt tình yêu nước và tính tiền phong chiến đấu của người đảng viên. Người cộng sản xin đừng quên một điều đã từng làm nên chính mình khi bước chân vào con đường cách mạng: Có cả gan giải phóng được chính mình, mới kỳ vọng giải phóng được giai cấp, giải phóng được dân tộc! Khi được bồi dưỡng để kết nạp vào Đảng thời trai trẻ tôi đã được học, đã tin và đã phấn đấu như thế! Ngày nay mọi đảng viên đều phải tự giải phóng mình như thế khỏi cái “hôm qua”.
Từ nhận thức mới về thực trạng hiện nay của Đảng và của đất nước, về tình hình và nhiệm vụ, cần phát huy dân chủ trong Đảng, để thống nhất ý chí: Đưa đất nước chuyển lên một giai đoạn phát triển mới trong một thế giới đang thay đổi, lấy xây dựng một thể chế dân chủ làm giường cột và động lực cho giai đoạn phát triển mới này của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Xin coi đây là mục tiêu phấn đấu thiêng liêng nhất và duy nhất của Đảng. Đừng đẩy Tổ quốc xuống hạng hai!
Tình hình đòi hỏi phải phát huy trí tuệ toàn Đảng và lắng nghe trí tuệ của cả nước để xây dựng được một chương trình hành động đúng và thiết kế được các bước đi phù hợp, tạo ra sự thống nhất cao nhất (không thể trông đợi có sự thống nhất hoàn toàn) trong toàn Đảng và cả nước cho việc thực hiện chương trình này.
- Trước mắt cần đẩy mạnh thực hiện công khai minh bạch để làm rõ các thuận lợi và khó khăn, thực hiện tốt luật pháp và những chính sách đúng đắn đã xây dựng được[46], phát huy những tiến bộ mọi mặt đã đạt được của đổi mới, đẩy lùi quan liêu tham nhũng và cách làm ăn thiếu trách nhiệm, chạy theo số lượng.., tất cả nhằm sớm đưa kinh tế ra khỏi khủng hoảng hiện nay.
- Trên cơ sở đẩy mạnh dân chủ hóa và công khai minh bạch, cần tập trung sức, từng bước khắc phục tình trạng “đảng hóa” và lấy đó làm nền tảng tiếp tục cải cách hệ thống chính trị, trước mắt nhằm đẩy mạnh việc thực thi pháp luật, nâng cao quyền lực và năng lực của bộ máy nhà nước.
- Báo chí không có “lề phải”, không có “lề trái”, mà chỉ tuân thủ lẽ phải, cổ vũ cho xây dựng thể chế dân chủ, nâng cao sức chiến đấu của cả nước cho một Việt Nam cường thịnh.
- Sự lãnh đạo của Đảng cần bảo đảm thực hiện bằng được những bước đi đầu tiên nói trên, nhằm kế tục các thành tích đã đạt được trong 25 năm đổi mới, tạo ra tình hình thuận lợi, sao cho trong vòng vài năm tới BCHTƯ khoá XI có thể huy động trí tuệ toàn Đảng và cả nước xây dựng nên môt chiến lược phát triển có hai vế gắn bó hữu cơ với nhau: (a) cải cách hệ thống chính trị của đất nước, (b) phát triển kinh tế theo hướng đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới (phát triển theo chiều sâu); lộ trình thực hiện chiến lược này. Đảng viên phải gương mẫu và là người đi đầu thực hiện các bước đi này.
Trên đây mới chỉ là những bước đi đầu tiên tạo mọi điều kiện cho việc hình thành được một chiến lược chuyển đất nước sang thời kỳ phát triển trong thể chế dân chủ. Một chiến lược phát triển như thế, nhất thiết phải là thành quả lao động trí tuệ của toàn Đảng và toàn dân, đạt được sự đồng thuận cao nhất của toàn Đảng và toàn dân, để sẽ được thực hiện với quyết tâm cao nhất của toàn Đảng và toàn dân.
Một chiến lược như thế nhất thiết không phải là, và dứt khoát không được phép là “một cuộc cách mạng xóa đi tất cả và làm lại từ đầu!”
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 6:34:58 GMT 9
V. Thay lời kết: Bàn về đa nguyên, đa đảng
Cốt lõi của cải cách thể chế chính trị, của đường lối phát triển đất nước trong giai đoạn phát triển mới là giương cao ngọn cờ dân tộc, dân chủ. Những thành tựu đạt được trong đổi mới – nhất là trong kinh tế - chính là và trước hết là thành quả của phát huy yếu tố dân tộc và dân chủ.[47] Những tiến bộ đạt được trong chính trị cũng xác nhận như vậy. Suy cho cùng, dân chủ là phương thức phát triển, phát huy khả năng, bản lĩnh và vai trò của từng cá nhân cho lợi ích của chính mình và lợi ích của đất nước. Sớm muộn phương thức này tất yếu sẽ dẫn tới đa nguyên, đa đảng.
Cần nhìn thẳng vào sự vật: dân chủ là nguồn gốc của hệ thống kinh tế, chính trị, xã hội đa nguyên, đa đảng. Nước ta đang đi những bước đầu tiên của chặng đường đa nguyên này. Ở chặng đường này, cái mà ngôn ngữ chính thống gọi là định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về nhiều mặt thực chất đang là một dạng tích tụ tư bản sơ khai ban đầu của chủ nghĩa tư bản trong chế độ chính trị một đảng. Xem xét trên các phương diện thể chế chính trị, văn hoá, xã hội và so sánh với các nước phát triển cũng có thể nhận định như vậy. Vấn đề còn để ngỏ không phải là tình hình quá độ lên chủ nghĩa xã hội sẽ ra sao, vì cho đến nay chưa một đầu óc vĩ cuồng nào có gan nói rõ ra được nó là cái gì, sẽ kết thúc vào thế kỷ nào...
Vấn đề còn để ngỏ rất hiện thực là từ nay cho đến khoảng giữa thế kỷ 21 này, con đường nước ta đang đi sẽ dẫn tới một đa nguyên của dân chủ, của phát triển, Việt Nam sẽ trở thành một nước phát triển?
Hay là con đường nước ta đang đi, sớm muộn sẽ dẫn tới một đa nguyên của máu, nước mắt, hỗn loạn.., mà thực chất là tạo ra một dạng chuyên quyền mới như đã phân tích bên trên – với kịch bản A đa đảng sẽ là một Thái Lan náo loạn như vừa qua – nếu xảy ra ở nước ta sẽ vô cùng đẫm máu, hay với kịch bản B một đảng sẽ là thêm một Myanma mới? Tiếp tục con đường định hướng xã hội chủ nghĩa như đang diễn ra hiện nay, rất có thể sẽ dẫn đến một trong hai kịch bản A hoặc B như vậy.
Dân chủ giả tạo khỏi cần bàn ở đây.
Xoay đi xoay lại, lại đụng phải vào câu hỏi: Lựa chọn hệ thống đa nguyên và đa đảng nào? Đầy hỗn loạn như ở một số nước đang phát triển, hay là một thể chế vững chắc và ngày càng phát triển như ở các nước công nghiệp tiên tiến?
Hiển nhiên, giữa hai mô hình này là cả một giai đoạn phát triển – song như đã nói ở trên: …Giai đoạn phát triển này sẽ là mươi mười lăm năm hay một thế hệ? Hay có thể ngắn hơn? Ai nói trước được giai đoạn này sẽ dài bao lâu? Rồi còn phải xây dựng tiếp, hoàn thiện tiếp...
Vậy vấn đề đặt ra là lựa chọn dân chủ nào, lựa chọn như thế nào, chứ không phải vì sợ đa nguyên đa đảng mà vứt dân chủ.
Nên, thậm chí nhất thiết nên loại ngay từ đầu phải thông qua con đường dân chủ đa nguyên hỗn loạn tìm đường đi lên thể chế dân chủ của phát triển. Thiết nghĩ nước ta ngày nay hội đủ các điều kiện lựa chọn con đường dân chủ của học hỏi và phát triển, với điều kiện tiên quyết Đảng nhận thức được và lựa chọn cho mình nhiệm vụ chính trị này, nguyện phấn đấu hết mình thực hiện nó.
Điều kiện tiên quyết này là không tưởng?
Xây dựng một thể chế dân chủ của học hỏi và phát triển, nhất thiết phải có lãnh đạo của lực lương tinh hoa của đất nước. Rất đáng Đảng vận dụng mọi vốn liếng truyền thống lịch sử kiên cường của mình, tuyên chiến với mọi tha hoá của mình, ráng tự rèn luyện để trở thành lực lượng tinh hoa như thế và khơi dậy tinh hoa của cả nước. Tiền phong chiến đấu và lãnh đạo chính là như vậy. Tại sao không?[48] Trừ phi Đảng muốn tự mình tước bỏ trách nhiệm lịch sử của mình.
Mặt khác, không thể có một Đảng Cộng Sản Việt Nam tồn tại vĩnh viễn, dù là một đảng trong sạch vững mạnh. Hơn nữa, vấn đề là trong hệ thống chính trị một đảng không có các thách đố, cọ sát sống còn, không tuân theo các quy luật của phát triển và đào thải.., thì làm sao có được đảng trong sạch vững mạnh? Đây chính là điều chúng ta đang thấy trong đời sống nước ta và tại mọi nơi khác trên thế giới. Như vậy sự tồn tại của Đảng trong chế độ một đảng là hữu hạn, và dứt khóat đảng viên cũng như người ngoài đảng có ý thức trách nhiệm với đất nước không thể lựa chọn cách sống được tới đâu hay tới đó, rồi sẽ liệu… Ngày nay không thể có chuyện nước đến chân mới nhảy như khi tiến hành đổi mới năm 1986.
Hơn nữa quan liêu tham nhũng đang tích tụ những ách tắc mới, nhiệm kỳ khoá Đại hội X trầm trọng hơn các khoá trước. Cố gò ép, hay buông thả nhờ trời được tới đâu hay tới đó – kiên trì chế độ một đảng như thế (và hiện nay đang diễn ra như thế) chẳng khác gì khuyến khích chụp giựt, khuyến khích quan liêu tham nhũng, khuyến khích tư tưởng nhiệm kỳ, tư tưởng “múc” được đến đâu hay đến đấy... – thực tế đấy là khuyến khích sống gấp, là hy sinh tương lai một cách ghê sợ, là tích tụ ngày một nhiều các mâu thuẫn nội tại – như bao nhiêu quyết định kinh tế sai lầm và những yếu kém khác đã chứng minh. Bản thân các nhóm lợi ích và sự thao túng luật pháp của chúng cũng dẫn đến băng hoại các thiết chế quốc gia, chia rẽ nội bộ, phân hoá hệ thống chính trị một đảng. Trong tình hình này, kinh tế càng phát triển sự thao túng của các nhóm lợi ích sẽ càng gia tăng... Mà tiếp tục trạng thái hiện nay như thế, càng muốn ổn định sẽ càng phải mất dân chủ, càng phải trấn áp, tới một lúc nào đó sẽ khó tránh khỏi đổ vỡ – như đã diễn ra tại các nước Liên Xô và Đông Âu cũ... Để xảy ra như thế ở nước ta, sẽ là hiểm họa nồi da xáo thịt, đất nước sẽ lai rơi vào vòng luẩn quẩn của ách nô dịch mới – của ngoại bang hay do chính mình dựng nên.
Xin đừng quên bài học Thái Lan: Chừng nào các nhóm “dưa hấu” (xanh vỏ đỏ lòng), “cà chua” (trong đỏ ngoài đỏ, nát bét), “dưa gang” (ngoài vàng trong trắng)… – người dân Thái hài hước đặt các tên như vậy cho các phe nhóm đặc quyền khác nhau của nước họ – từ nhiều thập kỷ nay giữ vai trò thao túng Thái Lan còn đứng trên luật pháp, hoặc luật pháp không thể đụng tới họ, phân biệt giàu nghèo tiếp tục gia tăng, tham nhũng nẩy nở.., đừng nói tới dân chủ của phát triển. Tất cả những gì Thái Lan đạt được cho đến hôm nay, mặc dù đã có những bước đi khá xa so với nước ta, song vẫn là một nền dân chủ dang dở, là thứ đa nguyên “xanh, đỏ, vàng”[49] đứng trên và đứng ngoài luật pháp, câu chuyện vài năm đảo chính một lần ở quốc gia này là không tránh khỏi. Tình hình Thái Lan hiện nay càng không phải là kết quả của dân chủ đa nguyên, mà là hệ quả tất yếu của xâm phạm dân chủ![50]
Lúc này lúc khác đã có người nói đến chế độ một đảng độc tài sáng suốt – có thể là như thế trong hội thảo hàn lâm, trong trí tưởng tượng… Song ở đây chúng ta đang bàn chuyện sống còn của nước ta, tìm lối đi và giải pháp cho nước ta - trước một bước ngoặt lịch sử do tình hình trong nước và bên ngoài đã hoàn toàn thay đổi, trên một chiến trường mới đất nước ta phải chấp nhận bước vào, chứ không phải ngồi bàn chuyện phiếm trong phòng trà!
Đảng cần xem xét mọi khía cạnh như trên cho hết nhẽ, để lựa chọn con đường tự giác lãnh đạo cả nước dốc sức xây dựng một thể chế chính trị dân chủ như tình hình đất nước trong thế giới ngày nay đòi hỏi. Quỹ thời gian, thực lực và vốn chính trị Đảng đang có trong tay hoàn toàn đáp ứng yêu cầu đổi mới Đảng thành Đảng của dân tộc, để Đảng có phẩm chất thực hiện thành công sự nghiệp vinh quang này. Cách mạng là như vậy. Nhất quyết Đảng không thể chỉ vì sự hù dọa nào đó về đa nguyên đa đảng mà theo đuổi dân chủ nửa vời, dân chủ giả hiệu, hay thậm chí vứt bỏ dân chủ. Chỉ những kẻ yếu bóng vía, quen ăn bám mới có thể cho phép mình hoang phí quỹ thời gian, thực lực và vốn chính trị vô cùng quý báu Đảng hiện đang có trong tay, lẩn tránh lý tưởng phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước mà Đảng đã ghi trên lá cờ của mình.
Lựa chọn xây dựng một thể chế chính trị dân chủ là kết quả bền vững của học hỏi và phát triển có nghĩa là lựa chọn và xây dựng một thể chế để cho trí tụê và dân chủ dẫn dắt đất nước, chứ không phải là lựa chọn dân chủ với hệ quả chỉ đem lại đa nguyên đa đảng của đổ vỡ. Lựa chon một thể chế chính trị của trí tuệ và dân chủ như thế còn là phương thức sàng lọc hiền tài đảm đương công việc quốc gia. Mặt khác, việc loại bỏ những kẻ quan liêu ăn bám, đắc dụng được người tài cũng sẽ thúc đẩy mạnh mẽ quá trình xây dựng thể chế chính trị dân chủ. Bia trong Quốc Tử Giám ghi: Người tài là nguyên khí của quốc gia. Điều này cần được hiểu cả theo nghĩa: một thể chế chính trị, một quốc gia đề kháng, thải loại hiền tài và chỉ còn đất dụng võ cho giả dối và vô đạo đức, thì suy tàn là tất yếu. Lịch sừ hàng nghìn năm của nước ta cũng nói lên như vậy.
Nếu phải đặt một tên gọi chung cho tất cả các nhiệm vụ cải cách phải thực hiện, để từng bước xây dựng nên một thể chế chính trị cho sự nghiệp phát triển đất nước như đã trình bày trên, thì cái tên chung đó sẽ là: quá trình dân chủ hóa![51]- phải thực hiện trước tiên từ trong Đảng.
Trở lại vấn đề cốt lõi của mọi vấn đề là dân chủ và thực thi dân chủ.
Đó sẽ là dân chủ của bầy đàn, của đám đông, của hỗn lọan, mà thực chất là mất dân chủ hoặc là một thứ lũng đoạn nào đấy của quyền lực? Hay là dân chủ dựa trên nền tảng của giáo dục và trí tuệ, của phát triển, trong một thể chế được thiết kế khúc chiết, minh bạch, có sự kiểm soát lẫn nhau và ngày càng phát triển cùng với sự phát triển mọi mặt của đất nước?
Cuộc sống sòng phẳng một cách lạnh lùng: Cho đến nay chưa một nền dân chủ giả hiệu nào thành công trên bất kỳ quốc gia nào của hành tinh này! Mặt khác dân chủ đích thực tới đâu, thành tựu đạt được tới đấy. Dân chủ bền vững thành quả cũng bền vững. Dân chủ bị ăn bớt, thành quả cũng sẽ bị ăn bớt, kể cả vấn đề tam quyền phân lập.
Cuộc sống thừa nhận văn minh nhân loại ngày nay mang lại cho các quốc gia trên thế giới nhiều con đường và giá trị dẫn tới một thể chế dân chủ của học hỏi và phát triển. Song cũng là sự thật là nhiều quốc gia độc lập, có chế độ đa nguyên đa đảng, mà từ nhiều thập kỷ nay chưa làm sao thành công được trên con đường phát triển của dân chủ, thậm chí có những nước đang rơi vào hỗn loạn. Vấn đề còn lại là đội ngũ tinh hoa và các tầng lớp dân cư của mỗi quốc gia có khả năng lựa chọn, thiết kế, xây dựng và phát triển con đường nào, thế chế dân chủ kiểu nào cho quốc gia mình. Trước sau chân lý vẫn là: Chuẩn bị tiền đề ra sao, sản phẩm dân chủ sẽ là thế nấy, gieo gì gặt nấy. Lịch sử chẳng cho không dân tộc nào bất kể thứ gì, cũng chẳng để cho một quy luật nào có thể ăn bớt!
Dân chủ và chất lượng dân chủ còn tùy huộc vào mối tương quan được kiểm soát hay không được kiểm soát của các mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa giữa các nhóm quyền lực hay các tầng lớp dân cư, các địa phương, nghĩa là rất tùy thuộc vào thiết chế hữu hiệu được xây dựng nên để điều tiết các mối tương quan này. Không thể có dân chủ nếu còn duy trì các loại hình đặc quyền, đặc lợi.
Dân chủ của học hỏi và phát triển như vừa trình bày là cả một quá trình phấn đấu, xây dựng và phát triển. Quá trình này dài, ngắn thế nào trước hết tùy thuộc vào ý chí, văn hóa, những điều kiện kinh tế, hoàn cảnh lịch sử… của quốc gia đó, tùy thuộc vào đội ngũ tinh hoa và tình hình dân trí của quốc gia đó... Dù quá trình này dài, ngắn thế nào, cũng bắt buộc phải có sự khởi đầu, có dự kiến, thiết kế, và lộ trình triển khai nó – nghĩa là cũng phải có lãnh đạo – trước hết là sự lãnh đạo của trí tuệ và ý chí, của tinh thần yêu nước bất khuất và sự giác ngộ sâu sắc lợi ích quốc gia trên hết! Theo tinh thần này, yêu nước không phải là “độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội!” một cách mơ hồ. Theo tinh thần này, đứng trước những thách thức mới của đất nước, yêu nước là xây đựng bằng được cho nước ta một thể chế chính trị dân chủ có khả năng phát huy tối đa mọi tiềm năng của dân tộc phấn đấu cho một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh! Trong trường hợp của nước ta hiện nay, đấy chính là sự lãnh đạo mà Đảng Cộng sản Việt Nam phải cố phấn đấu đạt lấy.
Những điều trình bày trên cho thấy sẽ là sai lầm nếu muốn trong một đêm nhảy phắt sang chế độ đa nguyên đa đảng với hy vọng để có dân chủ. Và càng sai lầm hơn nếu để cho tình hình rối loạn, dẫn đến đổ vỡ rồi mới đi tìm đường xây dựng dân chủ theo kiểu hụt hơi, đụng đâu làm đấy, với cái màn kết chung cuộc sẽ là chỉ hình thành được một đa nguyên hỗn loạn – mà thực chất và cuối cùng là hình thành một loại hình quyền lực độc đoán mới, với đủ mọi loại mafia mới đầy sức thao túng nguy hiểm.
Vậy chỉ còn lại con đường tự giác thực hiên quá trình dân chủ hoá, đưa đất nước tiến lên kinh qua con đường dân chủ của học hỏi và phát triển.
Đối với nước ta, một quốc gia còn ở trình độ kém phát triển, vừa mới trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt và phức tạp, nếu để tình hình xảy ra đổ vỡ dẫn đến đa nguyên của hỗn loạn sẽ rơi vào tình cảnh không thể tưởng tượng nổi! Mặt khác cũng sẽ là sai lầm tệ hại không kém, nếu cứ vin vào điều này để duy trì mãi mãi chế độ toàn trị một đảng với ưu tiên đặt bảo vệ quyền lực của Đảng lên trên lợi ích quốc gia.
Xin lưu ý, kinh nghiệm “shock therapy” (cải cách theo liệu pháp “sốc”) của Nga và các cuộc “cách mạng da cam, da quýt” tại một số nước trong Liên bang Xô viết cũ là những bài học cay đắng cho các quốc gia này. Mười năm sau cải cách, Nga và tất cả các nước Đông Âu cũ (không kể Công Hòa Dân Chủ Đức cũ đã thống nhất vào nước Đức) vẫn chưa lấy lại được mức sống trước đó và gặp nhiều khó khăn lớn trong thời kỳ này. Đó là những kinh nghiệm phải trả giá của những quốc gia này. Cho đến nay đã 20 năm trôi qua, song mấy năm gần đây một số trong các nước này mới bắt đầu có đà phát triển. Nước ta sau khi chịu đựng gần nửa thế kỷ chiến tranh khốc liệt (1940-1989), lại kém phát triển rất xa so với những quốc gia này, không thể bắt chước họ để chịu đựng thêm một cuộc bể dâu mới nào nữa[52]. Một số phong trào cánh tả đang thắng thế trong bầu cử ở một số nước châu Mỹ Latinh, đang giương cao các khẩu hiệu xã hội chủ nghĩa, thực hiện một số chính sách tạm gọi là “đốt cháy giai đoạn” của chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam đã từng thực hiện trước thời đổi mới..; hiển nhiên những bước đi này mang đầy tính toán của những trò chơi chính trị của đảng thắng cử. Dứt khoát đấy không thể là kinh nghiệm cho Việt Nam trong xây dựng thể chế dân chủ. Càng không nên tự đánh lừa mình như một số báo chí và phát ngôn đang làm, nói liều rằng đây là sự trỗi dậy trở lại của chủ nghĩa xã hội theo cách tư duy của ý thức hệ.[53] Đúng ra phải nói: Việt Nam tự mình đã có quá đủ các bài học cay đắng về con đường xã hội chủ nghĩa này, những bài học cho hôm nay tìm đường xây dựng một thể chế dân chủ đích thực của nước ta và cho nước ta.
Đã thôi duy ý chí xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì cũng xin đừng duy ý chí đi tìm hay áp đặt dân chủ, mà phải kiên định xây dân chủ trên cơ sở của học hỏi và phát triển!
Có thể sẽ có ý kiến phản biện: Trung Quốc một đảng toàn trị mà phát triển nhanh, trong khi đó tại sao Ấn Độ có dân chủ mà phát triển chậm? Xin cứ thảo luận cho hết lẽ. Chỉ xin đừng quên thể chế một đảng toàn trị của Trung Quốc đã huy động được toàn lực của nước đông dân nhất thế giới cho phát triển chủ nghĩa tư bản gần như với bất kỳ giá nào – từ cách mạng văn hóa với hàng chục triệu sinh mạng, đến Thiên An Môn, Tây Tạng, Tân Cương, chiến tranh biên giới đánh Việt Nam, chủ nghĩa thực dân mới “made by China”,[54] v.v... Sự phát triển hiện nay của Trung Qụốc còn dựa trên huy động rất quyết liệt (hay bóc lột?) công sức của khoảng 800 triệu dân tầng lớp lao động Trung Quốc với mức sống nghèo khổ và chịu tác động nặng nề của ô nhiễm môi trường, để có sức tập trung vào phát triển bứt phá các trọng điểm. Tình hình kinh tế Trung Quốc tiềm tàng nhiều vấn đề nghiêm trọng. Tuy nhiên, phải thừa nhận chính sách quốc gia khôn ngoan đến tàn bạo của Trung Quốc đã làm được nhiều việc lớn và lợi dụng được triệt để bối cảnh thế giới ngày nay, không hiếm trường hợp trên cơ sở hy sinh lợi ích các nước khác. Chính trị là như vậy. Ấn Độ vì nhiều lý do nội tại, trước hết vì phân biệt đẳng cấp và tôn giáo trong xã hội – không làm được như vậy.
Việt Nam không phải là Trung Quốc hay Ấn Độ. Vậy Đảng Cộng Sản Việt Nam với tư cách là đảng duy nhất lãnh đạo và nắm trọn quyền lực của đất nước lựa chọn con đường nào?
Hiển nhiên đó chỉ có thể là con đường dân chủ của tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển mọi mặt của đất nước mà công cuộc đổi mới từ Đại hội VI đã lát viên gạch đầu tiên, con đường của học hỏi và tiếp tục phát triển. Nói ngắn gọn đó là con đường cải cách của quá trình dân chủ hoá. Nó nhất thiết không thể là con đường “định hướng xã hội chủ nghĩa” chung chung như hiện nay, hoặc là con đường bỏ ngỏ cho mọi thử nghiệm của những suy nghĩ nôn nóng.
Kết quả thành hay bại trong việc mở ra con đường dân chủ của học hỏi và phát triển cho đất nước hoàn toàn tùy thuộc vào việc Đảng lựa chọn và duy trì một chế độ chính trị phục vụ ưu tiên số một là bảo vệ sự tồn tại và quyền lực của Đảng, hay là ngay từ bây giờ Đảng bắt tay vào xây dựng một hệ thống kinh tế - chính trị - xã hội – văn hóa của đất nước phục vụ yêu cầu phát triển đất nước là tối thượng, và coi đấy là môi trường thử thách sự phấn đấu của Đảng - để trở thành lực lượng tinh hoa của dân tộc, thành đảng của dân tộc, để lãnh đạo dân tộc.
Mở ra cho đất nước con đường phát triển của dân chủ như thế để có sức mạnh bên trong thì yên ấm và bên ngoài thì bảo vệ được bờ cõi là nhiệm vụ bức bách của đất nước. Đấy là trách nhiệm Đảng không thể thoái thác. Nói cách khác, thực hiện trách nhiệm không thể thoái thác này là cách Đảng trang trải món nợ lịch sử của mình đối với dân tộc – người đã thế hệ này tiếp theo thế hệ khác không từ hy sinh nào chiến đấu dưới lá cờ của Đảng cho sự nghiệp độc lập thống nhất đất nước, người đã nuôi dưỡng, xây dựng và bảo vệ Đảng trong mọi hiểm nguy, và hôm nay vẫn bao dung giữ mối quan hệ ruột thịt coi Đảng là con đẻ của mình, người đã tạo dựng ra cho Đảng vị thế hôm nay trong cộng đồng dân tộc.
Xin đặc biệt lưu ý, trong xã hội nước ta, Đảng Cộng Sản Việt Nam với tính cách là đảng cầm quyền có vị thế cao nhất và có ảnh hưởng rất lớn. Nếu Đảng – trước hết là cấp lãnh đạo cao nhất – tận dụng được thực tế này để trở thành người chủ xướng, người đi đầu trong việc xây dựng thể chế dân chủ, chắc chắn đấy là con đường thuận lợi nhất, an toàn và đỡ tổn thất nhất cho đất nước, đồng thời cũng hứa hẹn thành công nhất. Đặt vấn đề như vậy có nghĩa là: Đảng ngày nay, trước hết là cấp lãnh đạo cao nhất, có dám tận dụng ưu thế tuyệt đối của mình trong xã hội phấn đấu thực hiện một cuộc cải cách chính trị triệt để hay không?
Thực chất cuộc cải cách chính trị này sẽ là một cuộc cách mạng dân chủ từ trên xuống, một cuộc cách mạng hòa bình. Đây cũng là phương án chiến lược tối ưu nhất cho việc đổi mới xây dựng Đảng, tối ưu nhất cho việc bảo vệ Đảng. Đối với đất nước, đây cũng là con đường tối ưu tiết kiệm xương máu của nhân dân: con đường dân chủ của học hỏi và phát triển.
Như đã nói trong phần bàn về chữ “nếu” thứ nhất (trang 8), quyền lực không biết làm từ thiện, song nói về trách nhiệm đạo lý của Đảng đối với dân tộc, những người lãnh đạo Đảng, nếu còn nặng lòng với đất nước, nhất thiết phải tính đến và tìm đường thực hiện cho đất nước một cuộc cải cách chính trị mang tính chất một cuộc cách mạng dân chủ từ trên xuống như vừa nêu trên. Lựa chọn như vậy cho đất nước, chắc chắn những người lãnh đạo Đảng ngày nay phải chấp nhận chiến đấu vô cùng trí tuệ và dũng cảm chống lại thứ quyền lực trong Đảng[55] - về nhiều mặt cũng là chống lại quyền lực riêng của chính mình, để xác lập quyền lực của nhân dân trong một chính thể dân chủ (quyền lực của một nhà nước của dân, do dân, vì dân), để từ đó xác lập quyền lực mới của Đảng chỉ là một bộ phận trong quyền lực của nhân dân và chỉ có lý do tồn tại nếu giữ được phẩm chất lãnh đạo (nghĩa là xác lập quyền lực chính đáng của một đảng lãnh đạo). Điều này là không tưởng? Hay là thực hiện mục đích thiêng liêng PHỤC VỤ TỔ QUỐC như đã ghi trên lá cờ của Đảng thì phải làm như vậy? Nói học tập đạo đức và tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nhất thiết càng phải làm như vậy, nếu không là nói suông, nói dối.
Xin lưu ý, đổi mới ở nước ta xuất phát từ cuộc sống, trở thành một đòi hỏi, một sự vận động bất khả kháng, cuối cùng trở thành một sự vận động có tính cách mạng từ dưới lên. Đại hội VI chấp nhận thực tế này và đã đưa thực tế này vào đường lối của Đảng, biến thành quan điểm chiến lược làm cơ sở cho việc thực hiện những cải cách tiếp theo – làm như thế, về nhiều mặt trên thực tế Đảng đã tiến hành một cuộc cải cách từ trên xuống – mặc dù mới ở mức độ cải cách kinh tế là chủ yếu. Thực tế này không còn xa lạ đối với Đảng nữa, câu hỏi đặt ra bây giờ là: Đảng có gan dấn thêm một bước nữa hay không? – Để làm cuộc cách mạng dân chủ của thể chế chính trị từ trên xuống và từ trong Đảng ra – cuộc cải cách của quá trình dân chủ hoá – như đã trình bày trên. Đại hội VI đã dám làm và thành công, còn lần này? Tình hình hiện nay thúc bách quyết liệt không kém khi tiến hành Đại hội VI, nếu không muốn nói là có một số vấn đề phức tạp hơn; tuy nhiên những điều kiện cho phép tiến hành một cuộc cải cách chính trị triệt để phong phú hơn nhiều; duy nhất chỉ có sự tha hoá trong Đảng ngày nay trầm trọng hơn so với thời kỳ đó, chất lượng bộ máy quản trị quốc gia cũng ngày càng sa sút hơn, với hệ quả kinh tế - xã hội lớn hơn.[56]
Có thể nói, so sánh nước ta với tất cả các nước thành viên ASEAN (trừ Singapore là ngoại lệ với tính cách là quốc gia thành phố) cũng như so sánh với nhiều nước đang phát triển khác trên thế giới, dù sao Việt Nam trong hoàn cảnh chính trị - kinh tế - xã hội hiện tại vẫn là nước có điều kiện thuận lợi nhất để tiến hành một cuôc cách mạng dân chủ từ trên xuống như thế do Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng, mở ra một tiền đồ phát triển tươi sáng cho đất nước. Trong bối cảnh quốc tế ngày nay, con đường phát triển của dân chủ như thế là tiềm năng, là sức mạnh quyết định nhất bảo vệ bất khả kháng độc lập chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, và tạo ra cho Việt Nam vị thế quốc tế xứng đáng. Kẻ thù của Việt Nam không sợ lực lượng vật chất của Việt Nam đâu, nhưng rất sợ những gì có thể được tạo ra từ sức mạnh tinh thần của một dân tộc thực hiện được dân chủ cho mình, rất sợ ảnh hưởng lan tỏa của sức mạnh tinh thần ấy vào cộng đồng thế giới.
Đảng xưa nay có một thuận lợi: Đấy là truyền thống một khi cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng chuyển động, toàn Đảng sẽ chuyển động, nhờ đó sẽ vận động được cả nước chuyển động và hậu thuẫn, không lực nào cản nổi. Làm được như thế, chắc chắn đấy sẽ là điều may mắn và phúc lớn của dân tộc ta, của đất nước ta. Truyền thống này còn không? Đảng ngày nay không thể, không được phép bỏ phí thuận lợi có một không hai này!
Vâng phải nói đến mức là phúc lớn, có thể do hồn thiêng sông núi và vận nước tác thành, song thực ra là do cái tâm cao cả nhất và tình yêu thiêng liêng dành cho Tổ quốc của mọi người Việt Nam yêu nước có thể làm nên. Những người lãnh đạo Đảng ngày nay có cái tâm và tình yêu thiêng liêng như thế dành cho Tổ quốc? Làm được như vậy, cũng sẽ chắc chắn không kém Đảng chỉ mất mọi đặc quyền đặc lợi không nên giữ (và cũng không đáng giữ), nhưng đổi lại Đảng sẽ trở thành đảng chân chính của dân tộc. Hiện nay tình hình vừa là đã chín muồi, đồng thời cũng là lúc thuận lợi nhất để Đảng thực hiện cuộc cải cách chính trị với nội dung dân chủ hóa như thế. Một cuộc cách mạng hòa bình như thế đang hoàn toàn trong tầm tay của Đảng. Và làm được, sẽ gắn kết lịch sử của Đảng với lịch sử vinh quang của dân tộc. Không làm được, sau này sẽ là một vết nhơ về Đảng trong lịch sử dân tộc.
Đảng phải lựa chọn. Phải khép lại quá khứ của chính mình để lựa chọn.
Tới đây Đảng lại phải tự hỏi: Có dám không? Có làm nổi không? Cái gì bó tay Đảng? Đất nước trên hết hay Đảng trên hết?.. Nếu Đảng lựa chọn mình, thì không thể chờ đợi nhân dân chọn Đảng.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 6:35:50 GMT 9
Xin lưu ý, “perestroika” thất bại, không phải vì “perestroika”, hay Gorbachov, hay Yeltsin là phản bội; càng không phải là các đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô và quân đội Liên Xô tê liệt, vô cảm hay hữu khuynh… như một số người muốn giải thích. Đừng nghĩ rằng chúng ta yêu nước Nga, hiểu nước Nga và trí tuệ hơn người Nga!.. Và cũng xin đừng quên nước Nga (hay Liên Xô cũ) có trình độ phát triển mọi mặt cao hơn nước ta rất nhiều! Đổ vỡ đã xảy ra vì tình hình Liên Xô lúc ấy không thể cứu vãn được nữa, không còn khả năng cải cách nữa! Vì “perestroika” không thành công toàn diện! Nhất là “perestroika” đã không thành công trong cải cách chính trị! Do đó “perestroika” chỉ đi tới được cái việc nó không chủ định làm: Làm Liên Xô sụp đổ hẳn. Cái kết cục không muốn mà tới này đã bắt nước Nga phải trả cái giá ngày hôm nay có lẽ chưa thể nói là đã trả xong, nếu rơi vào Việt Nam chắc sẽ không chịu đựng nổi. Hiển nhiên, ngày nay sẽ không phải điều gì khác mà là nạn tham nhũng và sự hoành hành nghiêm trọng của mafia nếu không bị đẩy lùi, sẽ có thể lại chôn chân nước Nga! Con đường dân chủ của nước Nga vẫn còn dài ở phía trước. Cho nên đa nguyên / đa đảng với bất kỳ giá nào rõ ràng không phải là bài thuốc tiên cho phép có ngay dân chủ. Sự lựa chọn tối ưu gian khổ hơn, đòi hỏi trí tuệ và ý chí nhiều hơn, đó chỉ có thể là: dân chủ của học hỏi và phát triển.
Trước sau, vấn đề sống còn của nước ta là tạo ra được một thể chế dân chủ cho phát triển, mọi bước phát triển tiếp theo – kể cả trong một tương lai nào đó sẽ dẫn tới tình huống đa nguyên đa đảng – đều phải là thành quả với tính chất là các hệ quả tất yếu của phát triển, và phải dựa trên nền tảng của con đường này – con đường dân chủ của học hỏi và phát triển. Mà như thế, đa nguyên đa đảng không phải là con ngoáo ộp.
Nhưng bây giờ ĐCSVN đứng trước tình thế: Trong khi phải lấy kinh tế làm nền tảng, phải kế thừa các thành tựu đạt được để phát triển, ĐCSVN phải lấy đẩy mạnh cải cách chính trị làm tiền đề giải phóng kinh tế và đưa đất nước vào giai đoạn phát triển mới không thể né tránh! Cải cách chính trị với nội dung dân chủ hóa như thế và là đòn bẩy của phát triển, sẽ không sai nếu muốn gọi đó là “cửa tử” rất quyết liệt, Đảng bắt buộc phải đi qua. Nếu không còn sự né tránh nào thì chỉ có con đường duy nhất là vận dụng trí tuệ và ý chí để đi qua. “Cửa tử” như thế là cửa của bản lĩnh. Chắc chắn trí tuệ và ý chí có thể đi qua được “cửa tử” này, nhất là một khi giành được hậu thuẫn của cả nước! Một lần nữa càng rõ trí tuệ và dân chủ là đi với dân tộc, là chìa khóa giải quyết những vấn đề sống còn của Đảng!
Xin đặc biệt nhấn mạnh, để quá trình dân chủ hóa được thực thi có kết quả, tiết kiệm xương máu và dứt khoát không dẫn đến đổ vỡ, trước hết đòi hỏi phải có trí tuệ và kỷ cương rất cao với tinh thần dám hy sinh mọi lợi ích riêng, dám vượt lên mọi yếu kém riêng, hoàn toàn một lòng vì dân vì nước của đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước. Có tinh thần và ý chí như vậy trước hết của đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, sẽ phát huy được trí tuệ, ý chí và nghị lực trong Đảng và của cả nước để hoàn thành nhiệm vụ cực kỳ khó khăn này. Kinh nghiệm đớn đau dầy dạn của dân tộc ta trên con đường phát triển của mình, kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới, trí tuệ của văn minh và tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày nay đủ sức giúp chúng ta giải được bài toán dân chủ hóa hóc búa này cho đất nước! Đảng đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, cho nên đội ngũ lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước mang trên vai mình trách nhiệm không thể thoái thác về thành / bại của quá trình dân chủ hóa này.
Sẽ có câu hỏi thẳng thắn: Chất lượng lãnh đạo của Đảng và Nhà nước kể từ Đại hội VI đến nay có tình trạng Đại hội sau thấp hơn Đại hội trước, trong tình hình như vậy mà không chờ xuất hiện một minh quân, đội ngũ lãnh đạo cao nhất hiện nay của Đảng và Nhà nước làm sao có thể hoàn thành được nhiệm vụ không thể thoái thác nói trên?
Tiếc rằng cuộc sống không biết chờ đợi, thiết nghĩ toàn Đảng và cả nước phải vắt óc tìm câu trả lời.
Ngày xưa thường nói tam ngu thành hiền. Nói thế có lẽ chỉ để khuyến khích mọi chuyện nên được bàn bạc cho vỡ lẽ mà thôi. Ngày nay trí tuệ và quyết định đúng đắn không thể đơn thuần đến từ sự bàn bạc chay như vậy. Trong những vấn đề sinh tử của đất nước, thiếu thông tin hay trí tuệ càng bàn bạc có khi càng nguy hiểm hơn, hoàn toàn không thể có tam ngu thành hiền, không thể có một sự sáng suốt nào bẩm sinh hay trời cho nào cả!
Cho nên trước sau hướng của câu trả lời chỉ có thể dựa vào cái tâm và ý chí thực hiện dân chủ của tập thể những người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, để từ đó huy động được, phát huy được tốt nhất trí tuệ và ý chí của toàn Đảng và của cả nước. Tóm lại trước sau vẫn là vấn đề phát huy dân chủ. Tất cả cho việc thực hiện cải cách chính trị với nội dung dân chủ hóa. Tất cả trước hết với ý chí: Việt Nam không quỳ gối trước nghèo hèn! Từ ý chí với định hướng như thế mà tìm lối ra, thiết kế đường đi, thiết kế lộ trình cho cải cách chính trị thành công. Trí tuệ Việt Nam sẽ làm được việc này, hoàn toàn có thể làm được việc này. Tất cả thông qua sự sàng lọc của mọi thử thách trong cuộc sống, để quyết định, để tuyển chọn; tất cả với tinh thần thượng tôn pháp luật; kiên quyết gạt bỏ mọi tập quán của “chỉ đạo và quán triệt” đứng trên luật pháp; xóa bỏ mọi hủ tục theo kiểu “đến hẹn lại lên”, “sống lâu lên lão làng”, “cơ cấu”...
Ý chí không chịu để đất nước quỳ gối, ý chí thực hiện công khai minh bạch và dân chủ với tinh thần nêu trên có lẽ sẽ giúp tập thể lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước hoàn thành trọng trách không thể thoái thác này của mình. Hình như các nước phát triển nhất trên thế giới cũng phải làm như vậy!
Xin nói thêm: Cải cách chính trị ở các nước phát triển nhất cũng muôn vàn khó khăn và không hiếm thất bại, ngay cả ở nước Mỹ hiện nay! Sự xuống dốc nhanh chóng hiện nay của nước Mỹ có nguyên nhân từ những thất bại trong cải cách những mặt yếu kém. Từ hai chục năm nay chính phủ Mỹ bị các giới nghiên cứu khác nhau trong nước phê phán gay gắt, đến mức coi Washington D. C. (Chính quyền Mỹ - kể cả 2 Viện và Chính phủ) là kẻ phá hoại giấc mơ Mỹ từ A đến Z; chính sách của chính quyền đang biến nước Mỹ thành con nợ lớn nhất thế giới – năm 2010 nợ quốc gia sẽ là 9 nghìn tỷ USD, năm 2019 sẽ lên tới 23 nghìn tỷ USD; Mỹ đang tụt hậu về hệ thống bảo hiểm xã hội và cả trong giáo dục; chính quyền Mỹ có thể cắt giảm 20% biên chế dư thừa mà đến nay không chịu làm; chính sách “outsourcing” (đưa các nguồn lực ra khai thác và phát triển bên ngoài nước Mỹ) đang hút máu sinh lực Mỹ và chỉ đem lại hệ quả cuối cùng là “5/1” – nghĩa là về tổng thể Mỹ phải nhập khẩu tới 5 USD mới xuất khẩu được 1 USD, rõ nhất là trong buôn bán với Trung Quốc, thương mại tự do trở thành thương mại sai lầm; tất cả khiến cho nước Mỹ bây giờ phải hạ mình, phải cúi đầu, phải ve vãn thiên hạ, chính quyền Obama đang tiếp tục với đôi chút cải biên chứ không phải là đảo ngược chiều hướng nước Mỹ đang đi; ... “và Washington D. C. đang là trung tâm của tham nhũng đến tê liệt về mặt trí tuệ của nước Mỹ (America’s nucleus of anguish and intellectual corruption – M L Gross “National Suicide” tr. 324)”…[57]
Đương nhiên, ở Mỹ còn nhiều trường phái tư duy khác nữa. Thậm chí bây giờ đã có ý kiến cho rằng Obama nói “Change. Yes we can!”, nhưng chắc gì Obama đã làm được? Nếu nước Mỹ không giảm được cơ bản các gánh nặng hiện nay, sẽ khó mà có một nhiệm kỳ hai cho Obama!..
Nêu lên ví dụ Mỹ như vậy chỉ muốn nhấn mạnh cải cách chính trị hay thể chế là rất khó, ở nước nào cũng khó và rủi ro lớn, song phải huy động trí tuệ và dân chủ để thực hiện, chứ không phải để bàn lùi. Vì lẽ sống còn của đất nước, tập thể lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước cần quyết tâm theo đuổi đến cùng quá trình dân chủ hóa, không thể để bất kỳ một yếu kém hay lợi ích riêng tư nào trói buộc mình.
Tất cả càng cho thấy: Dân chủ hóa là nguồn lực tạo ra nội lực bất khả xâm phạm cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước và tập hợp sự hậu thuẫn của cả thế giới tiến bộ cho sự nghiệp này. Dân chủ hóa vì vậy là dân tộc tất thắng, là đất nước tất thắng!
Thách thức lớn nhất của dân chủ hóa ở nước ta không phải là diễn biến hòa bình, mà là cám dỗ chính trị rất lớn của quyền lực và của lợi ích cá nhân; lịch sử hiếm hoi ghi lại được các chiến công đánh bại được sự cám dỗ này. Nhưng cũng xin nói ngay: Ngu dốt, vô đạo đức, cuồng tín hay bảo thủ thì chỉ có một đường dẫn đến đổ vỡ mà thôi! Thách thức của sự can thiệp từ bên ngoài muốn ngăn cản Việt Nam lựa chọn con đường dân chủ của học hỏi và phát triển không thể nói là nhỏ. Nhưng một khi sự can thiệp này càng lớn, càng lộ liễu, sẽ càng hun đúc ý chí không có gì quý hơn độc lập tự do của dân tộc ta, toàn dân tộc sẽ là một khối thống nhất và một ý chí sắt đá cho con đường mình lựa chọn.
Thế còn nguy cơ “diễn biến hoà bình” mà báo chí Đảng và các cơ quan chuyên chính luôn luôn cảnh giác? Lựa chọn con đường Không có gì quý hơn độc lập tự do, con đường dân chủ của học hỏi và phát triển, nhân dân ta hoàn toàn đầy đủ khả năng tước vũ khí tất cả mọi người tham gia vào tấn trò ác ý này.
Thực hiện cải cách chính trị với nội dung dân chủ hóa toàn bộ đời sống đất nước là trách nhiệm lịch sử và cũng là thách thức lớn nhất, khó nhất của Đảng kể từ ngày thành lập cho đến nay![58] Nhiệm vụ không thể thoái thác này ngày nay đặt Đảng trước tình huống phải tự chứng minh: Là Đảng vì dân tộc, vì đất nước, hay là Đảng chỉ vì mình?
Thực hiện trách nhiệm lịch sử này chính là Đảng quyết tâm chiến thắng chính mình, gìn giữ, bảo vệ phẩm chất, chí khí của mình với tính cách là đội tiền phong của dân tộc. Thực hiện trách nhiệm lịch sử này là Đảng trung thành với chính mình chống lại mọi diễn biến của tha hóa, là Đảng tự bảo vệ mình với nghĩa chân chính: Không để cho tha hóa chiếm mất Đảng, biến Đảng thành kẻ thù của dân tộc.
Sự lựa chọn nói trên của Đảng sẽ khiến cho các loại nhóm lợi ích phản ứng hay chống đối quyết liệt. Sự phản kháng này có thể diễn ra công khai và trực diện, hoặc trá hình dưới các dạng nhân danh, hoặc gián tiếp. Sự phản kháng này rất nguy hiểm. Nếu cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước xểnh tay, sẽ dễ dẫn đến oan khiên, đàn áp và sát phạt lẫn nhau. Phải ngăn ngừa bằng được tình trạng này. Một trong những bài học đẫm máu cho tình huống này là sự đổ vỡ tương tàn của Rumani năm 1989, do 3 lực lượng tạo ra: (a)lực lượng đảo chính nằm trong chính quyền, (b)lực lượng cơ hội phản cách mạng, và (c)lực lượng cách mạng dân chủ nổi dậy trong nhân dân; ngày nay vẫn chưa khắc phục xong các hậu quả.
Bước vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ này, hầu hết các quốc gia – nhất là Mỹ và Trung Quốc – đều ráo riết thay đổi, Việt Nam không thể đứng yên một chỗ! Sự thay đổi không cưỡng lại được này đang gây áp lực trực tiếp nhiều khi đến mức uy hiếp đối với Việt Nam trên nhiều phương diện đối nội và đối ngoại. Đảng Cộng Sản Việt Nam phải hành động. Sự lựa chọn của Đảng một khi đã trở thành ý chí, sẽ lựa chọn được các giải pháp và bước đi. Đảng hiện nay vẫn đang nắm trong tay trọn vẹn quyền lực và ảnh hưởng chính trị để thực hiện ý chí này, và thành công của đổi mới cho thấy khả năng cải cách của Việt Nam rất lớn. Hai điều kiện cực kỳ quan trọng này Liên Xô không có khi thực hiện Perestroika. Việc đầu tiên của mọi việc đầu tiên cần làm là phát huy dân chủ tập hợp thông tin và trí tuệ toàn Đảng và cả nước, nhằm đánh giá đúng thực trạng đất nước và những thách thức phía trước, cái đích phải đến. Cũng có thể nói, việc đầu tiên là phải mở rộng dân chủ trong Đảng, để thay đổi hẳn tư duy và tầm nhìn của Đảng, nâng cao trí tuệ và ý chí của Đảng cho phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới đất nước đang đối mặt.
Nhìn lại lịch sử đau thương của đất nước từ khi chiến tranh thế giới II kết thúc đến nay, nhìn lại những cơ hội quan trọng bị đánh mất, nhìn vào những đoạn trường quanh co lận đận đất nước ta lâm vào sau Đại thắng 30 Tháng Tư 1975, phải chăng có thể kết luận:
(1) Nhận thức phiến diện và không đúng thế giới chúng ta đang sống (vấn đề trí tuệ), (2) sự giác ngộ không đúng tầm lợi ích quốc gia trong bối cảnh quốc tế luôn luôn biến động và vô cùng phức tạp, (3) sự trói buộc vào ý thức hệ hoặc các niềm tin mù quáng, đó chính là ba nguyên nhân khởi thủy làm ra các sai lầm về đường lối chính sách và thể chế, kìm hãm sự phát triển của đất nước ta 35 năm qua và làm suy yếu Đảng? Ngày nay còn phải cộng thêm nguyên nhân (4) là sự tha hóa mới của toàn bộ hệ thống chính trị đang diễn ra trên nhiều phương diện của đời sống đất nước, do đường lối chính sách của Đảng tạo ra, do lợi ích quốc gia bị đẩy xuống hạng hai!
Nên thẳng thắn nhận diện bốn yếu kém này, nhận thức sâu sắc thực trạng đất nước cũng như những đòi hỏi phát triển hiện nay, để đặt lại một cách cơ bản vấn đề xây dựng Đảng, soạn thảo lại Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, với ý tưởng xây dựng Đảng Cộng Sản Việt Nam thành đảng của dân tộc, của dân chủ và trí tuệ. Thiết nghĩ Đại hội XI nên coi nhiệm vụ đổi mới Đảng một cách căn bản như vậy là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng trong xuốt khóa và cần được hoàn thành những bước mở đường đầu tiên trong khóa này, sau đó còn phải làm tiếp. Đây cũng là nhiệm vụ đầu tiên của Đảng mở đầu quá trình dân chủ hóa đất nước, nếu Đảng muốn tiếp tục thực hiện và phát huy được vai trò tiền phong chiến đấu, vai trò lãnh đạo của mình. Đặt vấn đề như vậy sẽ mở ra mọi vấn đề và sẽ làm rõ được con đường phát triển của đất nước. Vô luận các văn kiện dự thảo chuẩn bị cho Đại hội XI đã được soạn ra như thế nào, Đại hội XI đứng trước nhiệm vụ lịch sử: Đổi mới Đảng để mở đầu quá trình dân chủ hoá của đất nước phải trở thành nghị quyết quan trọng nhất của Đại hội. Có lẽ không phải cái gì khác, mà chính điều này sẽ cho thấy Đảng ngày nay lựa chọn cái gì, sẽ là thước đo Đại hội XI thành công hay thất bại.
Hoàn toàn có thể khẳng định Đảng Cộng Sản Việt Nam có khả năng thực hiện thắng lợi một cuộc cách mạng dân chủ từ trên xuống, đưa đất nước tiến nhanh theo xu thế tiến bộ nhất ngày nay trên thế giới: Phát triển trên cơ sơ phát huy nguồn lực con người. Đảng thực hiện một cuộc cách mạng hòa bình với nội dung như thế sẽ là sự kế tục duy nhất xứng đáng với Cách mạng Tháng Tám, là trung thành với truyền thống yêu nước vẻ vang của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến vỹ đại chống ngoại xâm, và đấy cũng là con đường ĐCSVN tiếp tục đưa công cuộc đổi mới hiện nay lên một giai đoạn phát triển mới về chất. Đấy cũng là con đường Việt Nam tạo ra cho mình năng lực tinh thần và vật chất để có phẩm chất thực hiện được mong muốn của mình là đời đời hữu nghị và hợp tác bình đẳng với Trung Quốc, là bạn của mọi quốc gia trên thế giới.[59]
Đảng đã lãnh đạo đất nước làm nên cách mạng dân tộc thực hiện được độc lập và thống nhất đất nước.
Bàn cờ thế giới ngày nay đặt ra tình huống khắc nghiệt: Muốn thành công trong xây dựng và bảo vệ đất nước ta, nhất thiết phải lập nên một thể chế chính trị dân chủ của học hỏi và phát triển. Đây là một sự nghiệp vinh quang nhưng vô cùng gian khổ, chắc chắn gian khổ hơn bất kể giai đoạn cách mạng nào trước đây[60], có ý nghĩa thay đổi vĩnh viễn số phận của đất nước sau khi đã giành được độc lập thống nhất, và chỉ có như thế mới trụ được trong thế giới ngày nay. Sự nghiệp này đòi hỏi sự lãnh đạo sáng suốt của lực lượng tinh tuý nhất của dân tộc. Đảng với truyền thống tiên phong cách mạng của mình, sẽ phấn đấu thực hiện được sứ mệnh lãnh đạo này? Hiện nay, Đảng có vị thế thuận lợi nhất đồng thời cũng có trách nhiệm lịch sử nặng nề nhất thực hiện sứ mệnh này. Nhưng Đảng sẽ phấn đấu thực hiện được? Đây thực sự là câu hỏi “tồn tại hay không tồn tại?” của Đảng.
Là đảng viên, tôi đề nghị Đại hội XI đưa vấn đề này ra thảo luận và lựa chọn quyết định sống còn này: Đổi mới Đảng và khởi động cuộc vận động cả nước đi vào quá trình dân chủ hoá đất nước.
***
Chắc chắn các nhóm lợi ích và sự bảo thủ sẽ có thể khép tội những đánh giá, nhận định, đề nghị… nêu trong bài viết này là bôi đen, là tấn công trực diện vào Đảng và cơ sở tồn tại của Đảng, là muốn thủ tiêu Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, là tiếp giáo cho bè lũ phản động khắp nơi trong ngoài chống Đảng, chống chế độ... Xin thảo luận thẳng thắn để tìm ra lẽ phải. Tinh thần nhìn thẳng vào sự thật của Đại hội VI đã cứu nguy Đảng và mở ra bước ngoặt cho đất nước. Cho nên chẳng có sự hù dọa nào đáng sợ hơn là nhắm mắt trước sự thật để lùi bước.
Kinh nghiệm lịch sử cũng cho biết những mong muốn nêu trong bài viết này, cứ giả thử là đúng, nhưng hầu như cũng là hoàn toàn ảo tưởng, đơn giản vì quyền lực vận động theo quy luật riêng của nó. Như vậy chỉ còn trông chờ vào trí tuệ. Một hy vọng thật vô cùng mong manh!? Mong được thảo luận thẳng thắn trong Đảng và trong toàn dân.
Tôi biết nói lên những điều trong bài này là đứng giữa nhiều làn đạn. Người này có thể sẽ lên án tôi là tội đồ phản động, cực kỳ phản động, hơn bất kể một sự chống đối nào!.. Người nọ có thể sẽ phỉ báng tôi là kẻ ngu trung, đến giờ phút này mà còn lo níu kéo Đảng, cứu Đảng!.. Kẻ khác có thể nói: Già rồi mà còn ngu, còn háo danh… Thậm chí tôi bị người thân và bạn bè tâm huyết nhiếc mắng té tát về cái tội “gái góa lo việc triều đình”, làm cái việc “nước đổ đầu vịt”, và họ lo bị liên lụy.
Song tôi đã được đi tới nhiều vùng miền của đất nước. Có thể nói tôi thấy hầu như không có một làng xã nào ở nước ta là không có nghĩa trang các liệt sỹ các thời kháng chiến cứu nước – trong đó có không ít mộ các đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Rồi còn biết bao nhiêu đau thương mất mát không kể xiết của cả dân tộc nằm bên ngoài những nghĩa trang như thế!.. Là đảng viên và là người dân, tôi muốn Đảng phải trả món nợ đối với dân tộc bằng cách hoàn thành trách nhiệm lịch sử đang đặt ra cho Đảng là xây dựng nên thể chế chính trị dân chủ của học hỏi và phát triển. Tôi nghĩ: Đảng không được thoái thác trách nhiệm này! Đảng chỉ có sự lựa chọn thành công hay thất bại mà thôi!.. Vì đất nước cũng chỉ có sự lựa chọn: Một nước độc lập chịu quỳ gối, hay đứng lên hiên ngang trong thế giới quyết liệt này!? Tôi không muốn đất nước ta đã giành được độc lập thống nhất rồi mà dân tộc lại phải một lần nữa bị đẩy vào vòng nô dịch do nghèo hèn, rồi mới lại tìm cách giác ngộ con đường phát triển của mình. Cái giá đã trả là quá đủ rồi, nếu để đất nước rơi vào một tình trạng nô dịch mới sẽ là quá đắt không thể chấp nhận được![61]
Xin hãy bình tâm, thẳng thắn nhìn lại tất cả: Kể từ ngày thành lập, Đảng mới chỉ hoàn thành sự nghiệp lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập thống nhất, còn sau 35 năm lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, ngày nay nước ta đang ở đâu? đất nước này được gì mất gì? người dân nước này được gì mất gì? nguy cơ phía trước đối với đất nước là nhãn tiền hay không phải vậy?
Thành tựu to lớn của 25 năm đổi mới cũng như những cái giá đã phải trả cho nó tự nó đang đặt ra những đòi hỏi phát triển mới rất bức xúc, đồng thời cũng gợi mở một triển vọng mới. Trong khi đó sự uy hiếp mới từ bên ngoài đối với vận mệnh đất nước đang cận kề. Tổ quốc Việt Nam độc lập thống nhất của chúng ta đang đứng trước một ngã ba lịch sử. Một lần nữa xin nhấn mạnh: Tất cả những công việc phải làm của đất nước đang diễn ra trong một thế giới có nhiều bất định. Trước tình hình đó, dù đúng sai thế nào, xin ngửa mặt giữa trời thưa thốt điều tôi ngẫm nghĩ. Tất cả mới chỉ là một ước vọng cháy bỏng:
Mọi người Việt Nam chúng ta - trước hết những người đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam – xin hãy cùng nhau khép lại quá khứ và cùng nhau hướng về phía trước, để khai sinh một chặng đường đời mới cho chính mỗi chúng ta – vì những hoài bão cao cả của riêng từng người và cho niềm tự hào dân tộc Việt Nam ta, khai sinh một kỷ nguyên mới cho đất nước bước vào con đường dân chủ của học hỏi và phát triển, với tất cả lòng tự trọng của một quốc gia độc lập trong cộng đồng thế giới ngày nay! Danh dự và an ninh của đất nước lúc này càng đòi hỏi như vậy!
Xin nhắc lại đối với mọi đảng viên của Đảng: Các bậc tiền bối thuộc thế hệ làm nên Cách mạng Tháng Tám và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, dù là trong Đảng hay không phải đảng viên, đã bắt đầu sự nghiệp vinh quang của mình từ chỗ bỏ lại phía sau quá khứ của nình, dể dấn thân cho sự nghiệp của đất nước. Đơn giản vì vinh hoa phú quý nào có thể so sánh với lương tâm làm người và danh dự của Tổ quốc.
Ngày nay không nằm trong hoàn cảnh mất nước, tạo ra mẫu số chung lớn nhất khó khăn phức tạp hơn xưa rất nhiều, cho nên ước vọng cháy bỏng nêu trên hiện thực tới đâu, các bước đi thực hiện trước sau phải tính toán thế nào.., tất cả còn phải bàn thảo rất nhiều. Dù sao Tổ quốc yêu quý của chúng ta trong bối cảnh thế giới ngày nay rất xứng đáng để mỗi chúng ta dấn thân tìm đường cống hiến. Cứ xin mạnh dạn xới lên như vậy, hy vọng để rộng đường dư luận - trong Đảng, trong cả nước và trong mọi bà con người Việt chúng ta khắp nơi trên thế giới, với tất cả tấm lòng tìm kiếm một kịch bản phát triển an toàn nhất mà tôi thiết tha mong mỏi cho đất nước, với tất cả ý chí còn nước còn tát.
Cả nước ngẫm nghĩ, chắc chắn sẽ tìm ra con đường và giải pháp đúng ■
Nguyễn Trung
- Viết xong tại Georgia/Wisconsin tháng 12-2009.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 6:37:51 GMT 9
Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Trung: “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” www.viet-studies.info/kinhte/NguyenTrung_TDM_201018.pdf 2. Hoàng Tùng – Những kỷ niệm về Bác Hồ. 3. Trần Quang Cơ: Hồi ký và suy ngẫm. 4. Đặng Phong, “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” – NXB Trí thức, Hà Nội, 2009. 5. Martin Jacques “When China Rules the World: The End of the Western World and the Birth of a New Global Order” USA, 12-2009. 6. Jerome R. Corsi, America for Sale, 3-2009 7. Robert Service, Comrades! A History of World Communism - Harvard 2008 8. Martin L. Gross “National Suicide – How Wasington is destroying the American Dream from A to Z” N.Y. 2009; - 9. Jerome R. Corsi “America for Sale”, N.Y. 2009 10. Newt Gingrich “Real change” , N.Y. 2009 và một số sách khác chung quanh chủ đề này. 11. Nguyễn Mạnh Tường, “Qua sai lầm trong Cải cách ruộng đất, xây dựng quan điểm lãnh đạo” Tham luận đọc tại cuộc họp Mặt trận Tổ quốc ở Hà Nội ngày30.10.1956 www.viet-studies.info/NMTuong/NMTuong_CaiCachRuongDat.htm12. Nguyễn Trung, “Dòng đời” (tiểu thuyết), NXB Văn Nghệ, TPHCM 2006. 13. Nguyễn Trung “Ngã ba 2007”- www.viet-studies.info/.../NguyenTrung_NgaBa2007.htm14. Nguyễn Trung, “Việc của Đảng là việc của quốc gia” - Tuanvietnam 07- 03-2010. 15. Nguyễn Trung, “Chủ tịch Hồ Chí Minh – điểm tựa cho tinh thần dân tộc của chúng ta” www.viet-studies.info/NguyenTrung/NguyenTrung_HoChiMinh.htm, và một số bài báo khác. Chú thích [1] Tìm xem: (1) Các phát biểu của Klaus Schwab và của nhiều chính khách khác tại Diễn đàn kinh tế Davos, Thụy Sỹ, 28-1 đến 1-2-2009. (2) Martin Jacques “When China Rules the World: The End of the Western World and the Birth of a New Global Order” 12-2009 - “Khi Trung Quốc làm chủ thế giới: Sự cáo chung của thế giới phương Tây và sự ra đời của một trật tự thế giới mới” – 12-2009, và Pete Engardio: “Chindia: How China and India Are Revolutionizing Global Business”, USA – 2007, và một số tác giả khác chung quanh đề tài này. [2] Nợ ngân sách nhà nước quá lớn và khả năng đổ bề nền kinh tế, có thể dẫn đến đồng EU sụp đổ. [3] Tìm xem Niall Ferguson: “The decade the world tilted east” www.ft.com/cms/s/0/ac26eb9a-f30a-11de-a888-00144feab49a.html (Financial Times 27 tháng 12, 2009), và nhiều sách báo khác liên quan của các tác giả: Andrew Bacevich, Noam Chomsky, Timothy P. Carney, Willy Lam, John Tkasik, Francis Fukuyama, Martin Jacques… [4] Ví dụ: giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa con người và tự nhiên, sự biến đổi khí hậu toàn cầu, giữa con người và xã hội trong xã hội thông tin, giữa nền kinh tế thật và nền kinh tế “mềm” (nền kinh tế tiền tệ, nền kinh tế “ảo”…), giữa phát triển và xung đột giữa các nền văn hoá, sự lạc hậu của các thể chế chính trị trước những biến đổi mới của phát triển, giữa hoà bình ổn định và mất hoà bình ổn định, giữa hoà bình và chiến tranh, chiến tranh vì các nguồn nước, chiến tranh vì các nguồn tài nguyên… Đặc biệt là xu thế phát triển xanh, sạch, công nghệ cao… đang đặt ra triết lý mới của phát triển, đang ngày càng trở thành đòi hỏi bức bách của phát triển, chính đòi hỏi này lại đặt ra những đòi hỏi và thách thức mới đối với con người, xã hội, đốivới thể chế quản lý (chế độ chính trị)... Xu thế này là thách thức rất lớn, và đồng thời cũng là cơ hội rất lớn đối với mọi quốc gia. [5] Tác động của biến đổi khí hậu đối với kinh tế Việt Nam - www.longan.gov.vn/tintuc/Pages/200912/20091211082751 [6] Mô hình phát triển theo chiều rộng có những đặc điểm: (1) phát triển chủ yếu dựa trên lao động cơ bắp, nguồn nhân lực kém phát triển, (2)chú trọng khai thác tài nguyên và đất đai, (3) tăng trưởng chủ yếu nhờ vào đầu tư mới chứ không phải do phát triển công nghệ và nâng cao năng suất lao động, (4)sản phẩm làm ra có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng đều thấp, (5) chế độ chính trị và phương thức quản trị quốc gia lạc hậu. [7] Mô hình phát triển theo chiều sâu chủ yếu dựa trên 4 yếu tố: (1) Phát huy nguồn lực con người, (2) vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, (3) chiếm lĩnh thị trường và giành được chỗ đứng thích đáng trong các chuỗi cung -ứng của thị trường thế giới, (4) đổi mới thể chế chính trị và năng lực quản trị quốc gia để thực hiện được 3 đòi hỏi trên. [8] Xem Nguyễn Trung, “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” - www.viet-studies.info/kinhte/NguyenTrung_TDM_201018.pdf [9] Nguyễn Trung, “Ngã ba 2007” www.viet-studies.info/.../NguyenTrung_NgaBa2007.htm - [10] Khái niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh để chỉ tệ nạn quan liêu tham nhũng. [11] Không thể không đặt câu hỏi “bàn tay nước ngoài” tham gia vào các sự cố này đến đâu! [12] Tìm xem Trần Quang Cơ viết về Hội nghị Thành Đô 1990. [13] Dòng thác cách mạng chống chủ nghĩa đế quốc, dòng thác cách mạng của chủ nghĩa xã hội, dòng thác cách mạng giải phóng dân tộc khỏi ách thực dân cũ và mới của các nước thuộc địa… [14] Đây là một thực tế vô cùng đau lòng, rất nhạy cảm, một vấn đề kiêng cấm, cho đến nay vẫn còn cố tránh né trong nghiên cứu, trong tư duy và trong phát ngôn. Thiết nghĩ đã đến lúc cần nghiên cứu khách quan hiện tượng này để thấy rõ dân tộc ta hồi ấy là nạn nhân nhiều lần (nạn nhân đơn, nạn nhân kép...) của bối cảnh quốc tế và sự can thiệp từ bên ngoài, của sự chi phối trầm trọng về ý thức hệ và phải trả giá đắt, để thức tỉnh vĩnh viễn dân tộc ta không bao giờ một lần nữa cam chịu bị xô đẩy vào cảnh huynh đệ tương tàn, và trên hết cả là để thúc đẩy quá trình hòa hợp hòa giải dân tộc trước sau nhất thiết phải thực hiện - vì sự nghiệp bảo vệ đất nước, và nhất là vì một nước Việt Nam hùng cường, có vị thế quốc tế xứng đáng trong tương lai. Nghĩ đến những khó khăn trước mắt đất nước phải vượt qua, tôi suy nghĩ miên man đến mức dám nói rằng, cho đến hôm nay, có lẽ người Việt Nam chúng ta chưa đánh giá hết cái giá đã trả cho độc lập thống nhất đất nước đâu! Cái giá này đắt lắm. Đắt và lớn hơn rất nhiều so với sự nhận biết của chúng ta. Việc rút ra các bài học càng trở nên khẩn thiết! Tôi có thể sai? Tôi không tin là tôi sai!.. Dù sao suy nghĩ này đã thúc giục tôi viết bộ tiểu thuyết Dòng đời. - Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời (tiểu thuyết), sách đã dẫn, quyển một, tập I, tr. 356 – 359; và quyển một, tập II, tr. 496 – 499, vân vân... [15] Thật ra, trên rất nhiều phương diện, Liên Xô và Trung Quốc ngay từ rất sớm đã hành động trên cơ sơ lợi ích quốc gia của mình là chủ yếu và tìm mọi cách mở rộng ảnh hưởng riêng của mình. Trong quan hệ quốc tế “chủ nghĩa xã hội” trên thực tế và về nhiều mặt chỉ là ngọn cờ cả hai bên Xô Trung đều ra sức khai thác... Cái gọi là hệ thống thế giới xã hội chủ nghĩa, phe xã hội chủ nghĩa... chưa bao giờ là một khối thống nhất chặt chẽ, và càng không phải là một thực thể tất yếu và tồn tại mãi mãi của trật tự thế giới. Vì những lẽ này, nhất là sau những gì Trung Quốc đã dàn dựng nên với Khmer đỏ từ 1975 và sau cuộc chiến tranh của Trung Quốc chống Việt Nam tháng 2-1979, chủ nghĩa xã hội không thể có lý do gì để được xem là xu thế tất yếu của thời đại, nhất là trong thời kỳ này tại khu vực Đông Nam Á - trong đó có nước ta. Phong trào cộng sản tại các nước đang phát triển ở vùng này cũng đi vào sụp đổ từ thập kỷ 1960 và ngày nay coi như mất hẳn. Đấy là chưa nói 1976 Trung Quốc cũng phải tiến hành cải cách, 1989-1990 phe xã hội chủ nghĩa sụp đổ, 1986 Việt Nam cũng phải tiến hành đổi mới. Về hiện tại và tương lai, còn có thể nói một cách thô thiển: Tình hình thế giới từ nay đến giữa hoặc cuối thế kỷ 21, chắc chắn chưa thể có chủ nghĩa xã hội như đang được hiểu theo ý thức hệ của Đảng là một xu thế tất yếu của thời đại, hiện thực hơn có thể là sẽ có thêm siêu cường Trung Quốc, và chưa ai dám nói trước được thế giới thêm có siêu cường Trung Quốc sẽ là thế giới gì! Còn bài học Việt Nam tự rút ra cho mình từ quan hệ Việt – Trung thì hoàn toàn không ít! [16] Cái bẫy “vấn đề Campuchia” có thể được xem là một “quái tác” mẫu mực (một kiệt tác đầy tội ác) gần như có một không hai trong nền ngoại giao nham hiểm của Trung Quốc hiện đại. Muc đích của “cái bẫy” này là đẩy lùi mọi ảnh hưởng tích cực trong và ngoài của cuộc kháng chiến của Việt Nam chống Mỹ xâm lược, đảo ngược thế thắng của Việt Nam sau cuộc kháng chiến này, tạo điều kiện đẩy Việt Nam vào khủng hoảng trầm trọng sau kháng chiến, tạo cớ “cho Việt Nam bài học” để tiến hành cuộc chiến tranh 17-02-1979 và từ đó tạo điều kiện buộc Việt Nam trở lại quỹ đạo của Trung Quốc... Trung Quốc tranh thủ được Mỹ trong các bước đi này… Nghĩ cho riêng mình, đây là bài học tôi nhớ đời, chết mang theo chứ không được phép quên – không phải để đời đời thù hận, mà để không bị mắc lừa một lần nữa. [17] Xin đừng quên: Mỹ thì đương nhiên rồi, nhưng cả Trung Quốc lúc này cũng đều không muốn chấp nhận chiến thắng giải phóng miền Nam của Việt Nam. Ngoài việc Trung Quốc tiến hành cuộc chiến tranh biên giới chống Việt Nam 2-1979, Trung Quốc và Mỹ đã công khai câu kết với nhau rất chặt chẽ chống lại Việt Nam rất quyết liệt trong đàm phán về vấn đề Campuchia (1979-1989), lôi kéo nhiều nước khác tham gia. Trong tình hình này Việt Nam đã bị đẩy vào thế bị bao vây, cô lập, cấm vận một thời gian dài. “Cái bẫy vấn đề Campuchia” có lẽ là một bài học vô cùng đau đớn của ngoại giao Việt Nam sau 30 Tháng Tư 1975! Đừng bao giờ bỏ phí bài học đẫm máu này: Lẽ ra kẻ giương bẫy phải bị vạch mặt và lên án, nước ta lại là người mắc bẫy và gánh chịu mọi hậu quả ê chề! [18] Tham khảo: Đặng Phong, “Phá rào trong kinh tế vào đêm trước đổi mới” – NXB Trí thức, Hà Nội, 2009. [19] Thống nhất về mục tiêu chưa đủ, mà còn phải có thống nhất về con đường đi tới mục tiêu. Thống nhất con đường đi tới mục tiêu là vấn đề khó, thậm chí rất khó, nhưng mới là quyết định. [20] Tham khảo thêm Nguyễn Trung: “Việt Nam trong thế giới thập kỷ thứ hai thế kỷ 21” – phần nói về cải cách chính trị với nội dung dân chủ hóa. www.viet-studies.info/kinhte/NguyenTrung_TDM_201018.pdf[21] Sự đồng thuận xây dựng từ quyền này chính là sự đồng thuận tối đa, chính là dân chủ, là dân chủ bao gồm đầy đủ quyền và trách nhiệm ràng buộc trong pháp luật. Cuộc sống không thể có sự đồng thuận tuyệt đối cũng như không thể có nền dân chủ tuyệt đối hay hoàn hảo. Nền dân chủ ở các nước phương Tây dù được hoàn thiện đến đâu cũng đầy dẫy khuyết tật. Song sự đồng thuận tối đa về những giá trị cơ bản đạt được về quyền con người, về kinh tế thị trường – nhà nước pháp quyền – xã hội dân sự ở các nước phương Tây là cơ sở của nền dân chủ cùa những quốc gia này. [22] Thậm chí ngày nay vẫn còn dè dặt khi nói về hòa hợp, hòa giải và đồng thuận dân tộc! Song vấn đề không chỉ có nói. [23] Tham khảo thêm Trần Quang Cơ: Hồi ức và suy ngẫm. [24] Trung Quốc đề xướng 1954: (1)tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, (2)không xâm lược lẫn nhau, (3)không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, (4)hợp tác bình đẳng cùng có lợi, (5)chung sống hòa bình. Lúc này chưa có 16 chữ. [25] Yêu sách này của Trung Quốc muốn tạo cho Khmer đỏ có vị trí ngang bằng các lực lượng khác trong chính phủ sẽ được thành lập theo giải pháp của vấn đề Campuchia, mặc dù trên thực tế Khmer đỏ đã bị đánh bật khỏi Campuchia và bị cả thế giới lên án về tội ác diệt chủng; Mỹ và phương Tây nói chung không ủng hộ “giải pháp đỏ” của Trung Quốc. [26] Giả định rằng ta kiên định con đường định hướng xã hội chủ nghĩa để xây dựng nước ta – vì ta muốn như vậy, thì đây sẽ hoàn toàn là vấn đề nội bộ, là vấn đề đối nội, của riêng nước ta, không nhất thiết đòi hỏi phải đi tìm và xây dựng liên minh ý thức hệ với Trung Quốc hoặc với bất kỳ nước nào; bởi vì trong bối cảnh quốc tế lúc này – như đã trình bày – nước CHXCNVN không còn là đối tượng phải xóa bỏ của chủ nghĩa đế quốc như cao điểm thời chiến tranh lạnh nữa! Lực lượng người Việt chống CHXHCNVN dù ở trong nước hay nước ngoài vào thời điểm này không thể trở thành mối đe doạ hiện thực và cũng không thể câu kết với lực lượng nước ngoài nào gây nên thách thức nguy hiểm cho CHXHCNVN. Trong đàm phán bình thường hóa qua hệ với ta chưa bao giờ Mỹ nêu yêu sách ta phải từ bỏ chế độ chính trị một đảng và chủ nghĩa xã hội, mặc dù Mỹ có những quan điểm rất khác ta về những vấn đề như dân chủ, nhân quyền... Hơn nữa, dù muốn xây dựng đất nước ta đi theo con đường nào, muốn thành công vẫn phải là hợp tác hòa bình với cả thế giới và không thể đi với bên này chống lại bên kia! Muốn thực hiện công nghiệp hóa/hiện đaị hóa lại càng phải tìm cách đi với cả thế giới, liên minh với những giá trị tiến bộ của nhân loại như độc lập tự do, bình đẳng, dân chủ, nhân quyền, hòa bình, hợp tác, phát triển, bảo vệ môi trường.., đặc biệt là càng không thể ỷ lại vào bất kỳ sự giúp đỡ nào. [27] Tìm xem các bài phân tích, các tài liệu đăng trên các mạng của Rand Corporation, CIA, Foreign Affairs, Biên niên sử 60 năm ngoại giao Trung Quốc, các bài chính luận của Trung Quốc trên các mạng chính thống của Trung Quốc… Ngoài ra, hàng ngày nên nghe Tân Hoa Xã phát thanh tiếng Việt nói về nước ta như thế nào! [28] Nhìn lại, phải chăng có thể nói: Nền ngoại giao nước ta thời bình đòi hỏi phải có (a)trí tuệ tầm thế giới để đi được với cả thế giới, (b)bản lĩnh trên lập trường lợi ích quốc gia là tối thượng và (c)nghệ thuật tạo ra sự đồng thuận của cả thế giới làm hậu thuẫn. Đồng thời ngoại giao nước ta rất cần tránh (a)tiểu khí,và (b)tâm lý và tầm nhìn của tiểu nhược quốc! Mặt khác, đối thủ và đồng thời cũng là đối tác truyền đời của Việt Nam luôn luôn là các nước lớn, nhất là Trung Quốc; giữ cho ho họ luôn luôn là đối thủ và đối tác và không bao giờ để họ trở thành đối tượng, thực sự là một nhiệm vụ đối ngoại khó vĩnh cửu của nước ta; rõ ràng chỉ có thể thực hiện được nhiệm vụ này trên cơ sở một nền nội trị mạnh toàn diện. Chính đây là vấn đề rất hệ trọng đề ra cho đảng lãnh đạo đất nước. [29] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21, phần nói về “Việt Nam làm bạn với mọi người” - www.viet-studies.info/kinhte/NguyenTrung_TDM_201018.pdf [30] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời, sách đã dẫn, quyển một, tập II, tr. 522 – 528. [31] Ví dụ ký kết kết nghĩa, hợp tác giữa PetroVietnam và Tổng Cục Thuế, báo chí đã phê phán. Trước đó có những ký kết hợp tác giữa các Văn phòng Trung ương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, vân vân… Không thể không đặt ra câu hỏi: Nếu không có những ký kết như vậy thì không hợp tác hay sao? Nếu có những ký kết như thế thì Luật pháp đứng ở đâu? Ký kết với nhau để vượt qua luật pháp là ngang nhiên hình thành nhóm lợi ích và ngang nhiên phạm pháp. Những thứ này hoàn toàn không thể coi là “lobby” đúng đắn. Vân…vân… [32] Tìm xem Phó chủ tịch UBND tỉnh Lạng Sơn Nguyễn Văn Bình trả lời phỏng vấn của Vietnamnet ngày 02-03-2010 www.vietnamnet.vn/psks/201003/Lang-Son-50-nam-nua-ai-lam-thi-nguoi-do-kiem-soat-899233/ - Người ta không thể không liên hệ đến Karl Marx: "Tư bản kinh sợ việc không có lãi hoặc lãi rất nhỏ như bản chất của một nhu cầu tự nhiên. Với lợi nhuận thích hợp, tư bản thức tỉnh; với 10%, nó có thể được sử dụng ở bất kỳ đâu; với 20%, nó trở nên sống động; với 50%, nó vô cùng liều lĩnh; với 100%, nó sẽ chà đạp lên mọi luật pháp của loài người; và với 300% không một tội ác nào là nó không sẵn sàng làm, kể cả với nguy cơ phải lên giá treo cổ". Nhưng mà đấy là Marx nói về tư bản, thế còn về “sự câu kết bộ 3” này? [33] Trong những năm gần đây mục tiêu ghi trong các nghị quyết của Đảng được sửa lại là “cơ bản hoàn thành công nghiệp hóa theo hướng hiện đại vào năm 2020”. Song thế nào là “cơ bản”, thế nào là “theo hướng hiện đại” thì không được giải thích rõ. GDP danh nghĩa tính theo đầu người năm 2009 của Việt Nam là 1052 USD, của Thái Lan là 3973 USD, của Trung Quốc là 3566 USD (IMF – 2009). Trong vòng 10 năm nữa (đến năm 2020) rất khó có khả năng Việt Nam đạt được GDP danh nghĩa thính theo đầu người bằng Trung Quốc hoặc Thái Lan hiện nay, nghĩa là còn rất xa tiêu chí của một nước hoàn thành hay là cơ bản hoàn thành công nghiệp, lại càng khó nói là “theo hướng hiện đại”. [34] Chú ý: đất đai là tư liệu hàng đầu trong tư liệu sản xuất chủ yếu, tuy theo Luật là thuộc sở hữu toàn dân, song trên thực tế đã phân bổ hết cho các hình thức sở hữu khác. Trên thực tế “quan điểm chủ đạo” như đang hiện hành chỉ làm được việc chi phối mang tính độc quyền và lũng đoạn, nhưng hầu như không làm được nhiệm vụ mở đường hay đầu tầu và hỗ trợ nền kinh tế đi lên! Đấy là chưa nói tới hiện tượng vai trò cá nhân chi phối các tập đoàn kinh tế quốc doanh vì lợi ích riêng (ví dụ vấn đề lương và thưởng, tranh thủ ô dù và các ưu đãi...). Cần nhìn thẳng vào sự thật này. Xin lưu ý: Cho đến nay không một nước LXĐÂ cũ nào thành công thực sự trong cải cách kinh tế quốc doanh và vấn đề sở hữu nhà nước. Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa của những nước này sụp đổ, mọi cải cách tiếp theo cũng hầu như thất bại, cuối cùng phải lựa chon con đường xóa bỏ khu vực kinh tế này (được gọi là state sector – để phân biệt với private sector) bằng những biện pháp khác nhau; riêng ở nước Nga trên thực tế đã xảy ra một cuộc cướp đoạt tài sản quốc gia, với những hệ quả điêu đứng cho nền kinh tế nhiều năm sau. Ở Trung Quốc quá trình cải cách kinh tế quốc doanh trên thực tế là tư nhân hóa (dưới dạng cổ phần hóa), gắn liền với phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân. Vào thời điểm 2005 kinh tế tư nhân chiếm khoảng trên 70% GDP với nhiều tập đoàn lớn, nhà nước chỉ còn giữ lại khoảng 200 tập đoàn trên các lĩnh vực chủ yếu như năng lượng, giao thông viễn thông, một số sản phẩm cơ bản khác như kim loại, chế tạo cơ khí... Vì thế có thể nói nét nổi bật trong cải tạo kinh tế quốc doanh ở Trung Quốc có lẽ là phát triển mạnh khu vực kinh tế tư nhân – không để cho kinh tế quốc doanh lấn át khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế tập đoàn nhà nước chỉ tập trung vào một số sản phẩm thiết yếu đối với toàn bộ nền kinh tế. Có thể kết luận đấy là con đường phát triển chủ nghĩa tư bản ở Trung Quốc ngày nay dưới tên gọi chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc. Nhiều học giả trên thế giới đặt tên cho mô hình của chủ nghĩa tư bản Trung Quốc ngày nay là chủ nghĩa tư bản trong chế độ toàn trị một đảng với các dấu ấn Khổng giáo. [35] Đã nhiều lần tôi cố dựng lên một sơ đồ mô tả hệ thống chính trị hiện nay của nước ta, gồm các yếu tố: Đảng, chính quyền, đoàn thể xã hội, công dân.., nhưng không thành: Vẽ cho đủ, sơ đồ quá rối rắm không thể đọc được, hoặc sơ đồ không thể hiện được đầy đủ sự rổi rắm của hệ thống chính tri quốc gia hiện hành. [36] Tìm xem Hoàng Lê nhất thống chí. [37] Ví dụ, tìm xem các sách của Noam Chomsky, Frederic Kagan, thingy Morris, Ellen McGann chung quanh chủ đề nước Mỹ đang suy yếu đi xuất bản trong năm 2009 và 2010. Trong đó đáng chú ý có quyển “2010: Take Back America: A Battle Plan” - HarperCollins e-books; 1 edition (April 13, 2010) [38] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, “Dòng đời” sách đã dẫn, quyển II, tập 4, tr. 856-858. [39] Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời (tiểu thuyết), sách đã dẫn, quyển một, tập I, tr. 8 và các tr. 330 -332; quyển một tập II tr. 785 - 799... [40] Tổng bí thư Nông Đức Mạnh đã có lúc phải nói: Đảng phải lãnh đạo, chứ không được cai trị! Nghĩa là người lãnh đạo cao nhất của Đảng cũng phải thừa nhận vấn đề đã trở nên nghiêm trọng? [41] Quyền lực trong Đảng được nói tới ở đây tên gọi đầy đủ của nó phải là quyền lực nhân danh Đảng. Đây không phải là quyền hay quyền lực chính thống của Đảng được ghi trong Cương lĩnh và Điều lệ Đảng. Một thứ quyền lực trong Đảng như thế tự nó cũng muốn coi Đảng là đối tượng cần khuất phục, biến Đảng thành công cụ cho nó thống lĩnh, thâu tóm toàn xã hội. Nói một cách khác, quyền lực trong Đảng như thế không có trong Điều lệ Đảng, và thực chất là một hiện tượng tha hóa trong Đảng, thực ra là một dạng tiếm quyền, diễn ra phổ biến dưới hình thức vi phạm Hiến pháp, vi phạm Điều lệ Đảng. Chính thực tế này đặt ra vấn đề thường trực như một đòi hỏi khách quan tất yếu đối với bất kỳ đảng cầm quyền nào ở bất kỳ quốc gia nào: Muốn có một chế độ chính trị tiến bộ thì phải khắc phục hiện tượng “đảng hóa”, “đảng trị”, phải xây dựng nhà nước pháp quyền để luôn luôn ngăn cản sự câu kết giữa các nhóm lợi ích bên trong quyền lực chính trị, sự câu kết giữa quyền lực chính trị và kinh tế. [42] Cộng Hòa Dân Chủ Đức hàng chục năm trước khi sụp đổ có sự đấu tranh gay gắt trong nội bộ Đảng Xã Hội Thống Nhất Đức chống lại những hoạt động vi phạm Hiến Pháp và Điều lệ Đảng của những cán bộ có chức có quyền; những hành động hay việc làm vi hiến và sai Điều lệ Đảng thời ấy thường được gọi là các “quan hệ” (“Beziehungen”), cuộc đấu tranh này được gọi là cuộc đấu tranh chống các “quan hệ”. Tham khảo thêm: Nguyễn Trung, Dòng đời, sách đã dẫn, quyển hai, tập 4, tr. 716. [43] Tham khảo: Nguyễn Trung, Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21 – phần nói về diễn biến hòa bình. [44] Sự bế tắc hay khủng hoảng trong thế giới hiện nay về mô hình phát triển, nhìn theo khía cạnh tích cực có thể là một cơ hội lớn cho nước ta, chí ít là trên các phương diện: (a)biết cái đổ vỡ của mô hình phát triển hiện tại và những vấn đề do sự đổ vỡ này đặt ra để nước ta tránh đi vào các vết xe đổ - nhất là các trạng thái cực đoan quá nhấn mạnh một chiều bàn tay vô hình của thị trường của chủ nghĩa tân bảo thủ; những thiên lệch thái quá dù theo chiều hướng nào trong những vấn đề thuộc 2 phạm trù nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự; niềm tin mù quáng vào vai trò của khoa học, công nghệ và kỹ thuật; các bài học về lựa chọn các quyết định và quyết sách, về vai trò của lãnh đạo, vai trò của tổ chức, đặc biết là những bài học về phát huy yếu tố con người; vân vân.., (b)những “cầu” và “cung” mới do cuộc khủng hoảng mô hình phát triển hiện nay – đặc biệt là “cung” và “cầu” cho phát triển xanh, sạch, dân chủ - đang trở thành xu thế phát triển của thế giới tiến bộ, đang đặt ra cho mọi quốc gia nhiều vấn đề mới, thách thức mới; đáp ứng được những “cầu” và “cung” mới này là con đường sống, đi ngược với “cầu” và “cung” mới này là lao vào con đường chết; nhận biết để có thể ứng xử tối ưu nhất đối với “cầu” và “cung” mới này là vấn đề sống còn, thực chất đó là sự lựa chọn của chiến lược phát triển – ví dụ, ngày nay nước ta càng đi sâu vào công nghiệp thượng nguồn là tự sát; dịch vụ kém cỏi như hiện nay lợi thế cạnh tranh nào cũng sẽ mất, sự lạc hậu về văn hoá (hiểu theo nghĩa rộng) ngày càng trở thành “disadvantage” (bất lợi thế) nguy hiểm, vân vân!.. (c)“cầu” cho sản phẩm mới, “cung” đáp ứng cho sản phẩm mới đều rất phong phú, quan trọng hơn nữa là ngày càng nhiều đòi hỏi về sản phẩm mới (“cầu”), điều quyết định là phải nhìn ra nó (sản phẩm mới), lựa chọn nó, chuẩn bị và nắm bắt lấy nó..., (d)vai trò quyết định của yếu tố con người – từ người lao động đến người lãnh đạo – đặt ra một tầm cao mới phải đáp ứng, giáo dục và thể chế chính trị tiên tiến trở thành hai yếu tố hàng đầu có ý nghĩa quyết định để đạt tới tầm cao mới này; (e)là nước đi sau, bên cạnh những “bất lợi thế” (disadvantages) không tránh khỏi, nước ta có nhiều lợi thế khác của nước đi sau cần triệt để khai thác (để vận dụng, để tránh né…) – có rất nhiều ví dụ để suy nghĩ: - phát triển ngoạn mục ngành viễn thông của nước ta trong 10 năm qua là ví dụ tích cực; - sự phát triển lạc hậu và lật đật của ngành giáo dục nước ta bỏ qua những kinh nghiệm tiên tiến của nhiều nước trên thế giới đã đạt được là ví dụ tiêu cực; (f)vì cái nước ta “đang có” (công nghệ, sản phẩm, cấu trúc kinh tế và cấu trúc xã hội…) còn ở mức độ thấp, nên nước ta có không ít lợi thế để chuyển sang cái mới dễ dàng hơn nhiều nước khác... (g)vân vân… Tất cả cho thấy không một giáo điều nào có thể giải phóng đất nước ta khỏi ghèo nàn lạc hậu. [45] Cần xem xét kỹ vai trò, ảnh hưởng, sự can thiệp và quyền lực mềm của Trung Quốc hiện nay tác động vào toàn bộ khu vực Đông Nam Á, trước hết là vào nội bộ các nước ASEAN. Riêng các tin tức có liên quan được đăng tải trên các phương tiện truyền thông của các nước trong khu vực và trên thế giới đủ dấy lên sự lo ngại không thể bỏ qua. Có ý kiến nói thẳng tình hình Thái Lan hiện nay phải tính đến Trung Quốc và chỉ có lợi cho Trung Quôc (R D Kaplan, NYT 25 May 2010). [46] Xin đặc biệt lưu ý: Mặc dù những đạo luật hay chính sách tốt nhất đất nước đang có trong tay có không ít khuyết tật hay thiếu đồng nhất, song phải nhấn mạnh những đạo luật và chính sách đúng đắn hiện có là cơ sở ban đầu rất quan trọng cho phát triển tiếp trong việc xây dựng một thể chế dân chủ. Cần kế thừa và phát triển tiếp thành quả này. Cái yếu nhất hiện nay và cũng khó khắc phục nhất là thực thi pháp luật và ý thức thượng tôn pháp luật. [47] Một sự thực gần như là một nguyên lý trong toàn bộ lịch sử cách mạng Việt Nam từ Tháng Tám 1945 đến nay là: mọi thắng lợi đạt được, nhất là những thắng lợi trong những tình thế đặc biệt hoặc chuyển giai đoạn, đều gắn liền với phát huy ngọn cờ dân tộc dân chủ. Mặt khác, mọi thất bại, kể cả những thất bại lớn trong những lúc tình hình rất thuận lợi, đều do vi phạm nguyên lý này. [48] Xin nhắc lại: Lịch sử ĐCSVN có biết bao nhiêu gương phấn đấu hy sinh đời đời nêu gương cho nhiều người sau, không phải chỉ kiên cường trước kẻ thù đô hộ hay xâm lược đất nước, mà nhiều người còn vưt bỏ mọi giàu sang phú quý dấn thân vào con đường cách mạng, có những người từ chân lấm tay bùn phấn đấu trở thành người lãnh đạo kiệt xuất của Đảng. Ý chí sắt son vì nước, vì Đảng của họ đã làm nên tất cả! Không thế không đặt câu hỏi đảng viên bây giờ thế nào? [49] Xanh = dưa hấu, ví quân đội; đỏ = cà chua, ví áo đỏ; vàng = dưa gang, ví thân hoàng gia. [50] Tìm xem: Nguyễn Trung, Con đường dân chủ gian truân của đất nước "nụ cười", tuanvietnam.net [51] Tham khảo thêm tài liệu đã dẫn, Nguyễn Trung: “Việt Nam trong thế giới của thập kỷ thứ hai thế kỷ 21”, phần nói về dân chủ hóa. [52] Chú ý: Sự sụp đổ của Rumani năm 1989 trên thực tế là một cuộc đảo chính của một số lực lượng quân sự và an ninh trong chính quyền Ceausescu chống lại Ceausescu và cuộc nổi dạy của các phong trào chống đối Ceausescu, dẫn tới tàn sát lẫn nhau đẫm máu (gần 1000 người chết và 2000 người bị thương), với nhiều hậu quả sau 20 năm vẫn chưa khắc phục xong. Đây là một bài học của thứ đa nguyên hỗn loạn. tham khảo: www.rfi.fr/actuvi/articles/120/article_6220.asp [53] Cũng đừng nhầm lẫn giữa cuộc đấu tranh thường xuyên ở khắp mọi nơi cho những tiến bộ trong kinh tế và xã hội ở mọi quốc gia – kể cả ở các nước phát triển – với xu thế thời đại của chủ nghĩa xã hội như trong tư duy của ý thức hệ hiện hành ở nước ta. Ngày nay nhiều học giả và chính trị gia ở các nước phát triển tìm đọc lại Marx là vì họ muốn xem lại những phê phán sắc sảo của Marx về kinh tế của chủ nghĩa tư bản (mặt tôn sùng quá đáng vai trò của thị trường, sự hoành hành của thị trường, vai trò nhà nước...) để sửa chữa những khuyết tật của kinh tế tư bản đang xảy ra trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay. Việc này không hề có nghĩa là họ quay lại thực hiện “chủ nghĩa xã hội” trong học thuyết Marx, càng không có nghĩa là sự trỗi dậy của chủ nghĩa xã hội như một số người ở nước ta bình luận! [54] Tham khảo các sách của các học giả nước ngoài đã trích dẫn. [55] Nói rõ như thế để phân biệt với quyền lực chính đáng của một đảng lãnh đạo. [56] Ví dụ: Thời kỳ 1991-1995 tăng trưởng kinh tế đạt trung bình 8 – 8,5%/năm, với chỉ số ICOR là 2,5. Thời kỳ 2005-2009 tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 6-7%/năm,với chỉ số ICOR là 6,5! [57] Tìm xem: (1) Martin L. Gross “National Suicide – How Wasington is destroying the American Dream from A to Z” N.Y. 2009; (2) Jerome R. Corsi “America for Sale”, 2009; - (3) Newt Gingrich “Real change” , 2009 và một số sách khác chung quanh chủ đề này. [58] Tham khảo: Nguyễn Trung, Dòng đời (tiểu thuyết), sách đã dẫn, tập 4, tr. 717 – 718 và tr. 855-858 [59] Tay trắng ta có quỳ xuống xin làm bạn cũng khó được chấp thuận; trên đời này không có bạn “chay”. Tham khảo thêm tài liệu đã dẫn: Nguyễn Trung, “Việt Nam trong thế giới thập kỷ thứ 2 thế kỷ 21” – phần nói về “làm bạn với người”. [60] Nguyễn Trung, “Dòng đời”, sách đã dẫn, quyển hai, tập 4, trang 856 – nhiệm vụ trang trải với lịch sử, lấy lại lòng tin cho tương lai. [61] Nguyễn Trung, “Dòng đời”, sách đã dẫn, quyển hai, tập 4, trang 857: Không được phản bội một hy sinh nào! Không một mất mát nào được bỏ qua!
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 6:42:28 GMT 9
Từ bao giờ và bằng cách nào người Nhật thoát ra khỏi quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc?
Cao Huy Thuần Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc không thua gì Việt Nam. Cũng như ở ta, Khổng giáo đã từng là khuôn vàng thước ngọc chính thống trong tư tưởng của nước ấy. Nhưng người Nhật đã sớm ra khỏi quỹ đạo tư tưởng của Trung Quốc. Họ bắt đầu giải phóng tư tưởng của họ từ bao giờ? Bằng cách nào? Do trường phái nào? Bằng lý luận gì? Đó là câu hỏi mà tôi mong nhiều bạn sẽ cùng đặt ra với tôi, và bài viết này chỉ là một câu trả lời rất khiêm tốn. Công việc của tôi, thật vậy, rất khiêm tốn: tôi chỉ đọc một quyển sách và trình bày lập luận của tác giả. Quyển sách là một tác phẩm có tiếng và tác giả là một giáo sư đại học lừng danh, ở Nhật cũng như trên quốc tế. Xuất bản lần đầu tại Nhật năm 1952 và gây tranh luận sôi nổi sau đó, quyển sách của Masao Maruyama, rất bác học và khó đọc, được dịch ra tiếng Anh năm 1974, rồi tiếng Pháp năm 1996, khi ông mất, dưới nhan đề: "Essais sur l'histoire de la pensée politique au Japon" ("Luận về lịch sử tư tưởng chính trị tại Nhật"). Giới học thuật Pháp đặc biệt chú ý đến lập luận của Maruyama, một lập luận độc đáo làm họ ngạc nhiên: người Nhật đã thoát ra khỏi sự nô lệ văn hóa đối với Trung Quốc trước khi tiếp xúc với Tây phương. Họ đã giải phóng tư tưởng của họ tự bên trong, chứ không phải dưới áp lực của bên ngoài. Hiện đại hóa trong tư tưởng của người Nhật đã diễn ra trong một quá trình tranh luận giữa các tín đồ Khổng giáo với nhau, chứ không phải giữa họ với "ánh sáng mới" đến từ Tây phương. Nói khác, hiện đại hóa trong tư tưởng của người Nhật đã xảy ra trước khi Minh Trị hiện đại hóa nước Nhật để bắt kịp Tây phương. Giải phóng tư tưởng đi trước giải phóng chính trị. Đó là điểm đặc biệt mà ít người nói đến, nhất là ở phương Tây. Tây phương ưa làm người ta nghĩ rằng nguồn gốc hiện đại là đến từ họ. Đó cũng là điểm đặc biệt mà chúng ta, người Việt Nam, nên chú ý. Vì hai lẽ. Một là: trong cùng một hệ thống tư tưởng đến từ Trung Quốc, tại sao họ biết đặt lại vấn đề để phủ định, để hiện đại hóa, còn ta thì không? Hai là: tại sao ta vẫn lấy tư tưởng Trung Quốc làm tư tưởng của ta? Nếu ta không thiếu những cái đầu để suy nghĩ thì cái gì đã không cho phép ta làm cái việc mà Nhật đã làm hồi thế kỷ 17-18, tức là phê phán tư tưởng chính thống tự trong lòng tư tưởng ấy, bởi những tín đồ của tư tưởng ấy? Người Nhật không hơn gì ta đâu về phương diện triết lý: họ cũng không có những lý thuyết gia xuất sắc. Vậy mà họ có được những trường phái, những tranh luận đưa dần đến sự thành hình một tư tưởng chính trị mang sắc thái đặc trưng của Nhật. Quyển sách của Masao Maruyama nghiên cứu sự thành hình đó. Ông đưa ra hai nhân vật tiêu biểu: Ogyù Sorai và Motoori Norinaga. Sorai (1666-1728) là kết tụ của một quá trình đánh giá lại Khổng giáo, hay nói cho chính xác hơn là Tống Nho. Norinaga đi xa hơn, đả kích Tống Nho, xây dựng cả một trường phái đề cao quốc học. Trong phạm vi nhỏ bé của bài này, tôi chỉ có thể giới hạn vào hai tác giả đó mà thôi, nhất là Sorai. Đối tượng xét lại của Sorai: Tống Nho Khổng giáo du nhập vào đất Nhật rất sớm, cuối thế kỷ thứ 4 sau Tây lịch, và đặc biệt được tôn quý nhất dưới thời Tokugawa, nghĩa là từ đầu thế kỷ 17 đến khi Minh Trị thiết lập lại uy quyền của Vua năm 1868. Sử Nhật xem khoảng thời gian đó như là thời hoàng kim của Khổng giáo. Cũng lạ, đó là khoảng thời gian mà người Nhật gọi là cận đại (kindai). Họ dịch "modernisation" là cận đại hóa. Thời hoàng kim của Khổng giáo ở Nhật là thời cận đại! Nhưng tại sao lại hoàng kim? Lý do thứ nhất là cấu trúc xã hội và chính trị ở Nhật dưới chế độ phong kiến Tokugawa có thể so sánh với cấu trúc ở Trung Quốc hồi Khổng giáo bắt đầu phát triển: đất giống nhau, mùa màng tươi tốt như nhau. Nông dân thời Tokugawa không được phép mang kiếm bên mình, chỉ được sống với đất, tách biệt rạch ròi với giai cấp võ sĩ. Giai cấp võ sĩ lại tách biệt rạch ròi với đất đai, từ giã đất, kéo nhau lên đô thị làm gia nhân cho các lãnh chúa. Giữa họ với nhau, võ sĩ lại tách biệt rạch ròi thành đẳng cấp, tôn ty trên dưới phân minh. Cũng sĩ nông công thương như ở ta, nhưng "sĩ" (võ sĩ) tách biệt với ba giai cấp kia và tách biệt giữa nhau, phân chia trên dưới chặt chẽ, dưới phải tuân trên. Từ trên cùng là Đại Tướng Quân (Shogun) với các tướng quân chư hầu chung quanh, cho đến các samourai thấp kém nhất ở dưới, giai cấp võ sĩ thống trị tuyệt đối trên ba giai cấp khác. Tôn ty trật tự ấy tìm được nơi đạo lý Khổng giáo ý thức hệ tuyệt hảo để làm cơ sở lý thuyết. Ý thức hệ ấy thấm nhuần khắp xã hội, vì các giai cấp ở dưới có khuynh hướng bắt chước đạo lý sống của giai cấp trên đầu. Lý do thứ hai là Khổng giáo khoác bộ áo mới dưới thời Tống nhờ tài ba sáng tác của Chu Hy, và Tống Nho được vị Shogun đầu tiên của thời Tokugawa là Ieyasu (1542-1616) đặc biệt sủng ái. Trước đó, Khổng giáo chỉ được quảng bá ở chốn cung đình, bây giờ Tống Nho được phổ biến rộng rãi trong dân gian qua các thầy đồ mở lớp dạy học trong quần chúng. Chẳng phải ông Đại Tướng Quân này sính gì đạo lý, văn chương. Ông biết ông đã ngồi trên lưng ngựa để được thiên hạ, nhưng ông cũng biết mất thiên hạ như chơi nếu chỉ cai trị với cái lưng ngựa. Tống Nho giúp ông chính đáng hóa quyền hành. Cả một học phái Nhật quảng bá tư tưởng Chu Hy được ông tích cực nâng đỡ. Nhưng Tống Nho là gì? Trước hết, dưới mắt Sorai, đó là một sự trở về nguồn, lấy gương sáng của năm ông vua truyền thuyết thời thượng cổ (Nghiêu, Thuấn, Thang, Vũ, Chu Công) hợp với Khổng, Mạnh, làm kim chỉ nam, đặt trọng tâm trên Tứ Thư (Đại học, Luận ngữ, Trung dung, Mạnh Tử) thay vì Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch, Xuân Thu). Thứ hai, đó là một siêu hình học vừa được sáng chế, kết nối con người với vũ trụ, lấp đi một lỗ trống lớn trong tư tưởng của Khổng giáo, quá thiên về mặt hình nhi hạ. Toàn bộ là một hệ thống triết lý chặt chẽ bao gồm cả đạo đức hằng ngày của con người lẫn quan niệm về bản thể của vũ trụ. Tôi khỏi phải dông dài về siêu hình học của Chu Hy, về thái cực, âm dương, ngũ hành… Chỉ nói rằng Chu Hy phát triển học thuyết Lí và Khí của hai anh em họ Trình, Trình Hạo và Trình Di, lí là phần siêu hình, khí là phần vật chất, hai phần ấy không tách rời nhau, hễ có khí thì có lí, nhưng lí có trước, khí có sau, lí có trước cả khi có Trời Đất, nghĩa là siêu việt vũ trụ và muôn loài. Mọi vật trong vũ trụ đều được tạo thành do sự hợp nhất của lí và khí; lí là bản chất của mọi vật, khí là hình thể của mỗi vật. Bản chất của mọi vật là giống nhau vì cùng do lí mà ra, nhưng dưới hoạt động của khí, mỗi vật đều dị biệt. Con người khác con vật là vì vậy: bản chất lí giống nhau nhưng nhận khí khác nhau, nên người làm chủ vạn vật. Cũng vậy, giữa người với người cũng khác nhau, vì tuy bình đẳng về bản chất, về lí, người này với người kia khác nhau về khí, về trình độ. Cho nên phàm thánh khác nhau, thánh hiền bẩm thụ khí trong, phàm phu bẩm thụ khí đục. Vũ trụ quan của Chu Hy kéo dài để trở thành lý thuyết về bản chất của con người. Nơi mỗi người vừa có "bản chất nguyên thủy" (lí) vừa có "bản chất riêng"(khí). Nơi thánh hiền, "bản chất riêng" trong suốt, hiển lộ bản chất trong suốt nguyên thủy. Nơi phàm phu, bản chất riêng vẩn đục vì ham muốn che lấp bản chất nguyên thủy. Cho nên "nhân dục" đối lập với "thiên lí". Từ chỗ vẩn đục ấy, tính ác sinh ra. Thế nhưng… nhân chi sơ tính bản thiện, tánh thiện ẩn sâu trong bản tính của con người hơn tánh ác, vì tánh thiện là do lí mà ra, tánh ác là do khí mà đến. Làm sạch được những yếu tố của bản chất riêng thì phục hồi lại được bản chất nguyên thủy. Vì vậy, vấn đề là làm sao làm tốt hơn lên cái khí riêng của mình: tất cả luân lý của Tống Nho nằm trên đó. Làm sao? Một là phải giáo dục luân lý. Lí học thánh hóa đạo đức của Khổng học, đưa Khổng học lên thành tôn giáo. Hai là phải dùi mài trí tuệ: cách vật trí tri. Tu thân là bước đầu tiên phải thực hiện trước khi tề gia, trị quốc, bình thiên hạ. Tu tề trị bình, ta đã từng học thuộc như cháo. Nhắc lại là cốt để nói: tất cả đều lệ thuộc vào luân lý, từ vũ trụ, thiên nhiên, đến văn hóa, lịch sử. Lịch sử không có gì khác hơn là bài học về luân lý, là tấm gương sáng về luân lý. Vũ trụ không có gì khác hơn là phản ánh bản tính của con người và bản tính đó là thiện vì lí là tuyệt đối chân và thiện. Từ một quan niệm siêu hình lạc quan về bản tính của con người, Tống Nho đi đến một kết luận về luân lý cực kỳ khe khắt, tất cả đều là luân lý, tất cả ước muốn của con người đều bị đặt dưới tòa án của phán quan luân lý. Nếu đây là lĩnh vực của cá nhân thì chẳng sao cả; vấn đề đặt ra là khi Nhà nước phóng tay lãnh đạo luân lý. Lý thuyết siêu hình lạc quan ấy rất hợp với một xã hội ổn định như xã hội Nhật dưới thời Tokugawa, tức là thời kỳ tiếp theo sau một khoảng thời gian đại loạn kéo dài từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17. Lý thuyết đó đem lại quân bình trong dân chúng và đồng thuận trong xã hội. Nhưng xã hội đâu có đứng yên mãi một chỗ, ổn định đâu có bất biến, tính lạc quan khởi đầu thời đại Tokugawa đâu có mãi mãi bền vững? Cả một loạt câu hỏi bắt đầu được đặt ra, khởi động phong trào đặt lại vấn đề. Lí có thật là bản tính nguyên thủy của con người? Con người có thể tự mình dẹp bỏ được "nhân dục" hay bắt buộc phải dẹp bỏ? Lí có phải là toàn năng đến mức cai trị tất cả? Tu tề có thật sẽ đưa đến trị bình? Nghi ngờ này tiếp theo nghi ngờ khác, rốt cuộc tất cả hệ thống dần dần tan rã dưới cách đặt lại vấn đề của Sokô (1622-1685), Jinsai (1627-1705), rồi Ekiken (1630-1714) như là những nhà đại Nho tiêu biểu. Họ vẫn ở trong hệ tư tưởng của Tống Nho, nhưng họ nghi ngờ. Một câu nói của đồ đệ Ekiken biểu trưng tình trạng đó: "Thầy tôi càng tin mãnh liệt chừng nào vào tư tưởng của Chu Trình thì càng nghi ngờ mạnh mẽ chừng ấy". Quá trình đặt lại vấn đề kết thúc với Sorai. Sorai là mở đầu của đoạn tuyệt. Thế giới trí thức Nhật bàng hoàng với những lập luận mới của ông, nhưng rất nhanh bị ông thu hút. Sorai xét lại Đâu là mới trong lập luận của Sorai? Quan trọng nhất là phương pháp nhìn và phân tích vấn đề của ông. Với phương pháp đó, ông vẫn đứng trong hệ tư tưởng của Tống Nho, nhưng ông đã suy nghĩ với một cái đầu khác. Thú thật, tôi không bị hấp dẫn vì nội dung trong tư tưởng của Sorai bằng phương pháp ông đã dùng trong thời đại của ông. Hai trường hợp cụ thể sau đây cho thấy cái nhìn mới của ông khi ông mới bắt đầu hành trình xét lại. Trường hợp thứ nhất xảy ra năm 1696 khi Sorai giúp việc cho một quan chức lớn. Một anh nông dân cùng khổ bỏ nhà, bỏ vợ, cạo đầu làm thầy tu dưới tên Dônyû, dẫn mẹ đi lang thang kiếm ăn. Dọc đường, bà mẹ bị đau, anh chàng gửi mẹ tại chỗ, tìm đường lên kinh đô. Mặc dù bà mẹ được cư dân ở đấy chăm nom và gửi trả về nguyên quán, anh chàng vẫn bị bắt với tội phạm "từ bỏ cha mẹ". Ông quan hỏi ý kiến các nhà Nho cố vấn: trị tội với hình phạt gì? Luật nhà Minh không có chỗ nào nói về mục này, luật lệ bản xứ cũng không có, các Nho gia đề nghị xem trường hợp Dônyû như chỉ là trường hợp người đi ăn xin; Đi ăn xin thì đâu có phải từ bỏ cha mẹ? Huống hồ anh chàng đã bỏ vợ trước đó mấy ngày mà vẫn cung dưỡng mẹ già dù phải đi ăn xin - một thái độ đáng khen, nhất là đối với một người cùng khổ. Vợ thì bỏ, mà mẹ thì vẫn cưu mang: vậy thì anh chàng có ý định bỏ mẹ đâu? Đó là lối lý luận hợp với tinh thần Tống Nho, cái gì cũng dựa vào lí, lí đó luôn luôn hiện diện trong đầu con người và hiển lộ qua ý định đưa đến hành động. Viên quan không bằng lòng với lập luận đó. Dưới mắt ông, bỏ cha mẹ là tội không tha thứ được, dù con đi ăn xin. Ông hỏi ý kiến Sorai. Đây là lần đầu trong đời, ông lập thuyết công khai: "Nếu có một nạn đói xảy ra nơi nào đó, chắc chắn nơi khác cũng có nhiều người đói như vậy. Bỏ cha mẹ là điều không tưởng tượng được. Nếu ta xét hành động của Dônyû là như vậy và phạt tội, ta sẽ tạo ra một tiền lệ mà tòa án các nơi khác sẽ xử theo. Nhưng tôi nghĩ rằng trách nhiệm dồn một người đến cái mức tàn tệ như Dônyû trước hết phải quy cho các quan địa phương từ cấp thấp đến cấp cao rồi lên cao hơn và ngay cả lên cao hơn nữa. Bởi vậy, tội của Dônyû, nếu đem ra so sánh, là không đáng kể". Thượng cấp của Sorai khen phải. Ông cho phép Dônyû trở về nguyên quán và cấp dưỡng thóc gạo để nuôi mẹ. Lời tự sự sau đây của Sorai đáng ghi lại nguyên văn: "Từ thuở bé, tôi đã sống ở nông thôn; năm 13 tuổi, tôi dời đến Kazusa và nếm đủ mùi khổ cực, thấy đủ mọi cảnh. Chính tại vì tôi là dân quê mùa cục mịch, vừa chui ra khỏi nông thôn, nên tôi mới dám nói với quan lớn thứ ngôn ngữ mà người thường không dám bắt chước… Ở mãi trong phủ chúa, người ta tất nhiên nhiễm thói quen sống và suy nghĩ để trở thành những kẻ nói sao cũng được và tựu trung chẳng biết gì. Nghĩ cho kỹ, các quan lớn hoặc các quý tộc sống mãi trong đó chẳng biết gì cả và chẳng bao giờ nói được câu gì khác với các ý kiến nghe đến nhàm tai". Lời tự sự đó hé ra cho thấy ý muốn cải cách chính trị của Sorai. Nhưng quan trọng không kém là cách nhìn vấn đề của ông. Nho gia nhìn mọi việc qua lí, gò bó tư tưởng trên ý định chủ quan đã đưa Dônyû đến hành động để xem hành động đó "đáng khen" hay không. Sorai, đặt vấn đề trên bình diện khách quan, hướng vấn đề qua trách nhiệm chính trị của quyền lực để tha bổng. Đúng hay không, không phải là chuyện để nói ở đây. Chuyện để nói là cái nhìn đã đổi. Phân biệt hai lĩnh vực, khách quan và chủ quan, là một khía cạnh quan trọng trong phương pháp luận của Sorai. Chuyện thứ hai lý thú hơn nữa, gợi hứng cho những tranh luận kéo dài đến thế kỷ 19. Sáng ngày rằm tháng chạp năm 1702, dân chúng ở kinh đô hoảng kinh khi nghe kể 46 cựu samourai của lãnh chúa Akô tấn công tư thất của Kira Yoshinaka, cắt đầu ông này để trả thù cho chủ cũ. Dư luận bàn tán xôn xao về thái độ phải đối xử trong sự việc tối quan trọng này vì nó liên quan đến mối quan hệ phong kiến giữa chủ và tớ, nền tảng của chế độ Tướng Quân. Sự việc cũng động đến cơ sở của Khổng giáo trong chừng mực luân lý đức Khổng đặt ngang hàng quan hệ chủ tớ với bốn quan hệ khác, có tính cách tư, cha-con, vợ-chồng, anh-em, bạn bè. Nho gia bối rối. Phần đông đòi tha cho các samourai. Rốt cuộc, phán quan của Tướng Quân xử như sau: "Nếu ta lý luận theo các lý do đã thúc đẩy các samourai đó hành động, hành động của họ là thích đáng vì họ là những người mà cuộc đời là ngủ trên chiếu, gối trên gươm, báo thù cho chủ, giết kẻ thù của chủ không đội trời chung. Luật sống của samourai buộc họ không được tha thiết với đời sống, cấm họ nuốt nhục. Nếu ta lý luận theo quan điểm của luật pháp, ai làm trái luật đều phải trị tội. Dù các samourai đã hành động theo lời trối trăn của chủ cũ, họ đã vi phạm luật của Nhà nước. Tội đó đáng phải xử trảm để làm gương cho thế hệ bây giờ và mai sau. Hai quan điểm đó [lý do và luật pháp] có vẽ hoàn toàn trái ngược nhau, nhưng vẫn có thể sống chung với nhau mà không phản lại nhau. Chỉ cần, trên thượng đỉnh, có một minh quân cai trị với những cố vấn minh triết, làm sáng tỏ luật pháp và ban bố sắc lệnh, và ở dưới, có những chư hầu trung thành và những samourai đạo hạnh, xả thân theo tình cảm của mình, sống trọn với ham muốn, rồi sau đó quyết định tuân theo luật pháp, chấp hành bản án xét xử". Một lập luận hàng hai, nhưng cho phép áp dụng cả hai thứ luật: luật của Nhà nước và luật của võ sĩ đạo. Chuyện đáng nói ở đây là sự phân biệt giữa ý định ở bên trong và luật pháp ở bên ngoài báo hiệu sự tan rã của lý thuyết về lí, đặt tất cả trên nền tảng luân lý, xem mọi nguyên tắc của lĩnh vực công đều bắt nguồn ở luân lý cá nhân, tu thân vi bổn, trị nước là hậu quả kéo dài. Sorai cũng kết án như thế, nhưng với một lập luận khác, chặt chẽ hơn: "Sự việc 46 samourai trả thù cho chủ chứng tỏ rằng các người này tôn trọng danh dự giống như bất cứ samourai chân chính nào khác. Hành động trung thực như vậy, đã đành họ đi theo con đường mà bổn phận của họ đã vạch ra, nhưng sự lựa chọn đó chỉ liên quan đến họ, và, tựu trung, đó là một vấn đề có bản chất riêng tư. Đối với luật, thái độ đó không chấp nhận được. Nếu, bây giờ, ta tuyên bố rằng 46 người đó có tội mà lại kết án họ mổ bụng theo luật võ sĩ đạo của họ thì các võ sĩ ấy có sợ gì mà không mổ bụng theo bổn phận trung thành của họ? Có thể biện pháp đó thích hợp nhất với ích lợi chung, nhưng nếu ta vi phạm ích lợi chung bằng những lập luận về ích lợi riêng như thế, rốt cuộc sẽ không thể làm luật gì được cho Nhà nước". Khác nhau chỉ ở câu cuối. Sorai cũng công nhận hành động của các samourai là có cơ sở, nhưng, bằng mọi giá, phải hạn chế sự công nhận đó vào lĩnh vực tư, như là những quan điểm riêng tư, chủ quan, cá nhân, khi các quan điểm ấy trái với ích lợi chung, hoặc khi một luân lý cá nhân tràn vào lĩnh vực công. Phân biệt hai lĩnh vực công và tư, lãnh địa của luân lý và lãnh địa của luật pháp, lãnh địa của tu thân và lãnh địa của trị quốc, tư tưởng của Sorai nhắm vào một điểm căn bản: chính trị hóa Khổng giáo, đặt ưu tiên trên yếu tố chính trị. Từ điểm căn bản này, Sorai dần dần phá vỡ tất cả kiến trúc của tư tưởng Tống Nho, với một phương pháp luận sắc bén, chặt chẽ. Điểm khởi hành của phương pháp đó là: "nghiên cứu những từ cổ và những câu cổ". Sorai gây dựng cả một học phái đi chuyên sâu vào nghiên cứu này. Ông nói: không hiểu chữ cho đúng thì không hiểu Đạo được. Tại sao? Tại vì một ngôn ngữ luôn luôn thay đổi theo thời gian. Nếu ta giải thích những tài liệu xưa theo nghĩa của chữ mà ta dùng ngày nay, có khi ta hiểu sai ý của người xưa. Tinh túy của nghiên cứu, ông nói, là khiêm tốn giới hạn vào việc tìm hiểu từ và sự việc. Đừng quan tâm đến những biện luận tinh tế về bản chất của đời sống. Cụ thể, nghĩa là gì? Là nghiên cứu những định chế và sự kiện văn hóa mà Nghiêu Thuấn để lại cho thời hoàng kim của Tam Đế Hạ, Thương, Chu. Thay vì Tứ Thư như Chu Hy xem trọng nhất, Sorai đặt trọng tâm trên Ngũ Kinh, vì theo ông, Ngũ Kinh diễn tả những định chế và những sự kiện lịch sử. Nghiên cứu cặn kẽ từng chữ, từng câu trong Ngũ Kinh để hiểu rõ cụ thể những định chế của thời thượng cổ, xong rồi mới bắt qua Luận Ngữ để hiểu ý nghĩa thực sự những gì Khổng Tử viết, chứ không phải chỉ hiểu Khổng Tử qua giải thích của người đời sau. Nếu Sorai sống vào thế kỷ 19 ở châu Âu hoặc thế kỷ 20 ở nhiều nước khác, chắc ông sẽ nói: hãy hiểu Mác bằng cách đọc thẳng Mác, chứ đừng đọc qua chữ nghĩa của những người nhân danh ông. Mục đích mà Sorai nhắm đến là gì? Là cắt đứt sự liên tục giữa Thánh nhân và người thường và gạt bỏ dần dần tính chủ quan - mà ông gọi là "minh triết riêng tư" - nhờ chuyển việc nghiên cứu từ lí qua cổ tự, cổ ngữ. Ông lập luận thế nào?
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 6:43:12 GMT 9
Sorai lập luận
Trước hết, Đạo chỉ bao gồm những nguyên tắc liên quan đến con người, chứ không phải bao gồm cả trật tự tự nhiên, liên quan đến Nhân, chứ không mắc mớ gì đến Thiên với Địa. Khi người ta nói đến "Đạo Trời" là vì liên tưởng đến "đạo của Thánh nhân", thế thôi, chứ chẳng ai biết Trời là gì. Trời là bí mật, không thể biết được. Thánh nhân sợ Trời, kính Trời, nhưng không bao giờ nói rằng mình biết Trời là gì. Trời không phải là đối tượng của hiểu biết, Trời là đối tượng của kính sợ. Các ông đại Nho giải thích "Trời là một thể với Lí" là tán dóc, là "minh triết riêng tư". Đạo, duy nhất là Đạo của Thánh nhân. Đạo của Thánh nhân là gì?
Sorai phân biệt tinh túy với nội dung. Ông nói: Người xây dựng nên Đạo là Nghiêu và Thuấn, mà Nghiêu và Thuấn là vua. Vậy Đạo của Thánh nhân bao gồm duy nhất Đạo của chính quyền, Đạo của Nước. Và bởi vì Nghiêu Thuấn là vua, Đạo của Thánh nhân cũng được gọi là Đạo của các Vua Thời Xưa. Đạo đó có mục đích đem lại thái bình cho Nước. Trong tinh túy, Đạo đó có bản chất chính trị: trị quốc để bình thiên hạ. Chính trị tách rời với luân lý. Chính trị tách rời với tu thân. Dây liên kết tu tề trị bình bị chặt đứt.
Còn nội dung là gì? Là lễ, nhạc, luật và nghệ thuật cai trị, những yếu tố mà các Vua Thời Xưa đã sáng chế; Ngoài ra không có gì khác. Đạo là khách quan và cụ thể. Lễ, nhạc, luật, và nghệ thuật cai trị là những định chế và sự kiện văn hóa của thời thượng cổ, không có liên quan gì đến bản tính con người. Nếu ta ăn mặc như Nghiêu, nói năng như Nghiêu, cư xử như Nghiêu thì ta là Nghiêu, chẳng cần nhờ vả gì đến lý thuyết nhân chi sơ tính bản thiện. Vì Đạo không có liên hệ ràng buộc gì của luân lý, bàn luận về tính thiện, tính ác là tốn nước bọt.
Vậy thì nền tảng của Đạo là sáng chế của các Thánh nhân hoặc của các Vua Xưa. Tuân theo Đạo của các Vua Xưa là thiện, không tuân theo là ác. Đến cái mức này, tôi nghĩ, các Vua Thánh nhân đã được Sorai siêu việt hóa, thần linh hóa, nâng lên ngang Trời, thành đối tượng tôn giáo. Bởi vậy, trái với Chu Hy cho rằng con người có thể tu thân để trở thành thánh nhân, Sorai quả quyết ta có thể học Thánh nhân nhưng ta không bao giờ thành Thánh nhân. Thánh nhân tách biệt với con người, một bên là tối hảo, một bên là đầy nhân dục, không thay đổi được.
Thánh nhân là tối hảo, nên các định chế của họ cũng tối hảo. Nhưng những định chế đó không phải là những nguyên tắc bất biến. Thánh nhân siêu việt, nhưng những nguyên tắc đó không siêu việt mà, trái lại, bị điều kiện hóa theo thời gian và không gian. Hiểu như vậy thì mới hiểu được lịch sử. Lịch sử không phải là một chuỗi dài thưởng phạt, mà là sự kiện. Sự kiện là khách quan, bình chú là chủ quan. Chủ quan thì y theo nguyên tắc. Sự kiện thì thay đổi. Ngôn ngữ cũng vậy. Định chế cũng vậy.
Từ đó, Sorai bắt qua chuyện học. Ông nói: thuở đầu, kiến thức bao gồm việc học Đạo của các Vua Xưa để trị quốc. Đạo của các Vua Xưa là Ngũ Kinh. Bây giờ, học còn là quan sát càng rộng càng tốt các sự kiện, không những lịch sử mà tất cả các lĩnh vực khác, văn chương, luật pháp, quân sự, kể cả âm nhạc, nghĩa là những gì liên quan đến văn hóa. Ông gọi lĩnh vực thứ nhất là công, lĩnh vực thứ hai là tư. Quan niệm của Sorai về công và tư khá độc đáo, cần nói rõ thêm để hiểu ý muốn chính trị hóa Khổng giáo đã nêu lên từ đầu. Câu chuyện sau đây làm sáng thêm vấn đề:
Hai samourai thông đồng với nhau để lật đổ chế độ tướng quân. Việc bại lộ vì anh này đi tố cáo anh kia với nhà chức trách. Thưởng công cho anh đi tố cáo là việc mà dư luận phản đối, vì ai cũng cho anh này là hèn, sao không tự tay chém phứt cái đầu của anh kia mà phải mượn tay Nhà nước. Sorai không nghĩ thế. Ông thấy một duyên cớ khác: nếu anh ta tố cáo vì trung thành với Nhà nước thì sao? Ông nói: trong việc cai trị một nước, nhiều khi những bổn phận riêng tư phải tuân theo những nguyên do hợp lý, nhưng nếu những bổn phận đó trái với trật tự công đến mức vi phạm trật tự công thì không được viện dẫn bổn phận riêng tư.
Trong chuyện vừa kể, cũng như hai chuyện trước, "công" có nghĩa là chính trị, xã hội, cái gì ở bên ngoài; "tư" là cái gì ở bên trong, là cá nhân. Hiểu như vậy là đồng nghĩa với cách hiểu hiện nay, nhưng không dễ gì tư tưởng "tiền hiện đại" đi đến chỗ đó. Trước hiện đại, người ta không thấy gì chống đối, phân biệt, giữa công và tư. Ông quan, đã là phụ mẫu chi dân thì ông làm gì cũng vừa là quan vừa là phụ mẫu. Cả cái nước cũng là của ông. Phân biệt giữa công và tư, và giải phóng cho "tư", là công trình của hiện đại. Trong "tiền hiện đại", không phải người ta hoàn toàn không có khái niệm gì về công và tư, nhưng người ta hiểu một cách khác, dựa trên luân lý. "Công" là tốt, là thiện. "Tư" là xấu, là ác. Trong Tống Nho, "công" là lí, "tư" là nhân dục. Sorai cũng đặt "công" trước "tư". Nhưng ông không bác bỏ "tư". Người cầm quyền cũng có quyền có những quan tâm tư. Nhưng người cầm quyền chính đáng phải đặt quyền lợi công trên quyền lợi tư. Chừng đó, tư tưởng của Sorai đã là cách mạng. Càng cách mạng hơn nữa khi ông bênh vực những cảm thụ tự nhiên của con người, chống lại luân lý gò bó của Khổng giáo.
Từ đó, sự phân biệt công/tư trong Sorai đưa đến sự phân biệt giữa quy tắc và tính tự nhiên (norme/nature). Ông viết: "Các đại Nho hiện tại say sưa với nguyên tắc lí, các ngài mở miệng ra là toàn luân lý, bổn phận, thiên mệnh, nhân dục. Mỗi khi nghe vậy, tôi buồn nôn đến nỗi phải chạy đi nơi khác cầm ống sáo mà thổi". Đừng thay đổi tính tự nhiên của con người, phát triển cá tính của mỗi người, giải phóng cá tính đó ra khỏi luân lý chi hồ dã giả, học phái của Sorai thu hút không biết bao nhiêu là trăm hoa trong hội trường của ông.
Sau lịch sử, sau chính trị, đến lượt văn chương cũng được ông giải phóng ra khỏi luân lý. Kinh Thi, theo ông, không cốt khuyến thiện trừng ác. "Có rất nhiều bài thơ nhá nhem đạo đức trong đó. Những bài thơ ấy, nếu Chu Hy bình chú là đã được sáng tác để trừng ác, thì tôi quả quyết ngược lại rằng đó là những bài thơ sáng tác để đưa vào đường trắc nết hư thân. Tuyệt đối không có gì khác giữa những bài thơ trong Kinh Thi và những tác phẩm về sau. Phải đánh giá những bài thơ trong Kinh Thi như là những bài thơ và chỉ là những bài thơ". Thơ là để diễn tả tình cảm của con người, do đó thuộc về lĩnh vực tư.
Tóm lại, trên tất các vấn đề căn bản, Sorai phá vỡ thành trì Khổng giáo tuy vẫn ở trong Khổng giáo. Một tư tưởng trổi dậy như vậy, được trí thức hưởng ứng, gây nên thanh thế, tất phải có cơ sở xã hội. Cơ sở xã hội này tất không phải nền tảng trên đó triều đại Tokugawa xây dựng quyền hành lúc đầu. Vậy đó là cơ sở xã hôi gì?
Cơ sở xã hội của tư tưởng Sorai
Trong 80 năm đầu củng cố quyền lực, ổn định xã hội, tiếp theo một thời gian cực loạn, triều đại Tướng Quân Tokugawa đã lấy Tống Nho làm hệ ý thức, cắt đứt mọi liên lạc với bên ngoài, biệt lập với thế giới, bế môn tỏa cảng. Xã hội được ổn định thật đấy, nhưng với thời gian xã hội nào mà không biến chuyển?
Trước hết là biến chuyển về văn hóa. Tướng Quân thứ năm, Tsunayoshi, ra sắc lệnh buộc các samourai phải học văn chương chữ nghĩa, ngoài phép tắc lễ nghĩa trên dưới. Ý của Tướng Quân là dựng lên một chính quyền nho sĩ. Khổng Miếu được xây ở Phủ chúa, Edo, giáo dục được mở mang, thơ phú được diễn giảng khắp nơi, chúa tôi hồ hỡi đàm luận chữ nghĩa trong các hội trường, nhà nhà vang dội thánh điển Khổng Mạnh. Được Tướng Quân yêu chuộng, khuyến khích, thơ và nghệ thuật phát triển rất nhanh, trổ ra thành nhiều trường phái độc lập, tranh đua nhau phản ứng lại truyền thống. Bashô xuất hiện trong thơ. hài cú phô sắc. Văn chương bắt đầu có dấu hiệu hiện thực với Saikaku mô tả thế giới ăn chơi ở Edo. Kịch nghệ vụt trưởng thành, mở ra cho giới thị dân có tiền thú tiêu khiển mới. Hội họa khoác áo tươi mát, cởi mở hơn, đáp ứng thị hiếu mới của giới ăn chơi. Tóm lại, trong mọi lĩnh vực của văn hóa, tính sáng tạo nảy nở, đơm bông kết trái.
Những hình thái văn hóa mới đó đem vui đến cho đời sống trở nên thoải mái hơn của dân thị thành, nhưng rốt cuộc lại bị dân thị thành biến đổi, và dân thị thành ở đây, đặc biệt là ở ba thành phố lớn nhất, Edo, Kyôto, Osuka, là giai cấp mới đang lên, nhờ kinh tế mở mang. Có tiền, họ phung phí tiền vào những chuyện ăn chơi quá lố, văn hóa rốt cuộc rồi cũng lố lăng. Phụ nữ diện rất sang, bắt chước các cô gái ở khu ăn chơi, áo quần đắt tiền từ ngoài đến trong, phấn son lược là cực kỳ đỏm đáng, trương của trên khắp thân hình, mệnh phụ phu nhân ngày xưa nằm mơ cũng không dám thế. Giới samourai bắt chước theo. Trước, các vị ấy không có cả chiếu trải nhà. Bây giờ, nhà cao cửa rộng, áo lụa xênh xang, đầu chải dầu, gươm nạm vàng bạc, kẻ dưới ăn diện không thua bậc trên, kể cả các chú võ sĩ trẻ hầu hạ trong các gia trang, xa hoa hỗn tạp.
Dưới đã vậy, trên khỏi nói. Cách ăn, cách ở, cách đầy tớ gia nhân hầu hạ, cung phụng, bái rước mỗi khi ra đường, nghi lễ đám cưới, đám tang hoành tráng không thua gì chốn cung đình, nhất cử nhất động tiền vung như nước.
Các chỗ ăn chơi phồn vinh như trúng số, ban ngày là thiên đường, ban đêm là lạc cung, giới võ sĩ cũng lân la đến nếm mùi, cả trên lẫn dưới. Ăn chơi đã trở thành mục tiêu của đời sống, mọi quan tâm khác, nhất là chính trị, tan biến trong đầu, đầu ai còn tơ tưởng đến đổi mới với cải tổ, tướng quân chỉ cần kín đáo tặng một nhát gươm. Nhất trí, võ sĩ và giai cấp thị dân mới giàu cùng vui chơi, cùng hưởng thụ một thời đại thanh bình, văn hóa phát triển, chính trị ổn định, đỉnh cao nhất của triều đại Tokugawa.
Nhưng đó là bộ mặt phồn vinh ở bên ngoài. Ở bên trong, biến đổi cứ âm thầm tiến tới, bước từng bước chậm nhưng chắc nịch, phá hủy dần dần quyền lực của chế độ phong kiến Tokugawa dựa trên sự phân chia giữa giai cấp võ sĩ với ba giai cấp kia. Bắt đầu là biện pháp thả lỏng việc phong đất cho chư hầu và tình trạng các võ sĩ tập trung về thành phố. Đặc điểm của chế độ phong kiến là kết hợp quyền lực và sở hữu đất đai. Bây giờ, tách rời quyền lực ra khỏi việc quản trị trực tiếp đất đai tức là đào mồ cho cả chế độ. Anh chư hầu được phong đất còn có chút liên hệ với đất thông qua đất được phong và phẩm vật phải cống cho thượng cấp, nhưng bây giờ, đối với phần đông giới võ sĩ, toàn là võ sĩ cấp dưới cả, chút liên hệ với đất đai đó chỉ còn tính cách rất tượng trưng qua việc hưởng lương trên thóc của nông dân nộp. Chưa hết, Nhà nước đã bắt đầu đúc tiền, kinh tế bắt đầu đi vào kinh tế tiền tệ, mà tiền thì càng ngày càng phải đúc thêm để trả lương cho các samourai càng ngày càng tập trung về kinh đô và thành phố. Đời sống của các samourai lúc trước dựa trên lợi tức của đất, vững chắc, bây giờ dựa trên tiền càng ngày càng mất giá. Đến nhà thổ, đâu có vác thóc đi theo để trả cho các em? Tiền đâu để xài sang?
Tướng Quân Tsunayoshi hào phóng hậu đãi chư hầu và võ sĩ được một thời phồn vinh, nhưng sau ông, khó khăn về kinh tế và tiền tệ trở thành bất trị, ngân sách Nhà nước cứ chi bội thu. Các Tướng Quân không có biện pháp gì khác ngoài việc cứ đúc thêm tiền, cả tiền vàng tiền bạc. Càng đúc, giá càng lên, samourai càng cạn túi, tiền càng đổ xô chui vào hầu bao của giới thương nhân. Võ sĩ đem thóc ra đổi tiền, ban đầu đổi ra tiền vàng, sau tiền vàng mất giá, đổi ra tiền đồng để tiêu hàng ngày. Gạo cơm mắm muối ngày nào cũng chừng ấy, không giảm, mà tiền đồng thì khan, có nghĩa là tiền đồng lên giá, võ sĩ càng túng. Các Tướng Quân giải quyết bằng cách đúc tiền "nặng", giá gấp mười lần đồng tiền cũ. Nhưng dân không ưa tiền ấy, không chịu dùng, chính quyền ép mấy cũng không được, dọa nạt cũng bằng thừa. Đến một lúc thì chuyện lạ ắt phải xảy ra: dân không nghe nữa. Tướng Quân chết giữa cơn hỗn loạn tiền tệ, nào vàng, nào bạc, nào đồng mà tỷ hối cứ thay đổi bất thường, chưa kể vàng bạc cũng biết tìm đường vượt biên ra khỏi nước, định cư nơi nào đắt giá hơn.
Tình trạng bất lực kéo dài cho đến Tướng Quân thứ 8, Yoshimune (1684-1751). Ông này áp dụng một chính sách khắt khổ, giảm chi, giảm tiêu, từ Tướng Phủ đến dân chúng. Nhưng tình trạng vẫn không khá, Nhà nước phá sản, không đủ tiền để trả lương cho chư hầu. Rốt cuộc, để cứu nguy, ông phải nuốt nhục dùng đến một biện pháp cùng đường: buộc các chư hầu (daimyô) có một lợi tức bằng hoặc cao hơn 10 000 koku phải biếu ông một "tặng phẩm bằng thóc" tương ứng với 1% của lợi tức. Ngược lại, ông miễn cho họ một nửa nghĩa vụ phải ở kinh đô. Chế độ phong kiến ở Nhật buộc chư hầu phải thay đổi chỗ ở, một nửa thời gian ở địa phương, một nửa thời gian ở kinh đô. Bây giờ cột trụ phong kiến ấy sụp đổ (từ 1722 đến 1730) chỉ vì khó khăn ngân sách.
Họa vô đơn chí, khổ vì chuyện tiền, võ sĩ còn khổ vì chuyện thóc. Giá thóc cứ tụt, rồi đến năm 1728 thì rơi tõm vì… quá được mùa. Nhưng giá gạo cơm mắm muối thì không tụt mà cứ thăng thiên. Tiền thì túi rỗng mà ăn chơi xả láng thì quen thói, võ sĩ không trở về lại được nữa với thời yên ngựa thanh gươm, dần dần lệ thuộc vào giới ngân hàng, giới cho vay, phất lên giàu sụ nhờ khai thác tỷ hối lên xuống giữa vàng và bạc, nhờ giá hàng của vật phẩm tiêu dùng lên vọt như pháo bông. Đồng thời, chính sách xây nhà, nhất là sau những thiên tai, tạo ra bổng lộc béo bở cho các nhà thầu, cho các tay buôn gỗ.
Chưa bao giờ giới thương gia thượng phong đến thế! Trật tự trên dưới giữa hai giai cấp, võ sĩ và phú thương, đảo ngược, trời nằm dưới, đất ở trên. Chư hầu cao cũng như chư hầu thấp cúi rạp đầu trước phú thương để xin ân huệ, xin tha những lỗi đã phạm, xin khất nợ, xin vay thêm tiền để tiếp tục xa hoa. Trước, võ sĩ xưng hô trịch thượng với thị dân; bây giờ, gặp phú thương đều phải gọi "ngài" như nhau, ngài này với ngài kia, bình đẳng. Trước mắt phú thương, khách hàng là khách hàng, ai cũng như ai, gươm đeo bên hông hay không cũng vậy. Họ nói: võ sĩ có gươm, ta đây có gái geisha, ai làm ai lác mắt? Họ lại nói: gươm chém đầu được, nhưng chém tiền thử coi! Tiền vào là gươm tè ra nước!
Tuy nhiên… tuy nhiên cũng phải nói điều này: tất cả giới phú dân vừa phất lên ấy đều ăn bám vào quyền lực phong kiến, tất cả đều là "tư bản thương gia" chẳng có khả năng gì sáng tạo ra những phương thức sản xuất mới, phần đông làm giàu chỉ nhờ cho vay nặng lãi một cách hợp pháp. Nương vào quyền lực phong kiến mà phất, phất lên nhờ hút máu từ thuế của nông dân nộp cho lãnh chúa, kiếp giàu của họ rất mong manh. Họ ý thức chứ: Tướng Quân nổi giận là họ đi đời. Cho nên, ăn chơi cho hả là triết lý sống, vất tiền vào thanh lâu như vất rác, yến tiệc hơn cung đình, xe ngựa lầu son tang bồng phỉ chí. Tất cả giới phú thương đó không tạo ra nổi cái bóng mờ của "giai cấp trung lưu", "bourgeois", đầu óc chẳng có chút lý tưởng gì tương tự giới doanh nhân đồng thời lúc ấy ở bên kia trời Âu như Weber mô tả.
Sĩ nông công thương… vị thế tương quan giữa sĩ và thương là như vậy. Còn cột trụ thứ hai của chế độ phong kiến - nông dân - thì sao? Thì âm thầm chịu đựng, như chịu đựng từ bao thế kỷ.
Từ đầu, các Tướng Quân Tokugawa đã nghĩ ra mọi biện pháp để thu thuế, thuế là cơ sở kinh tế của quyền lực họ nắm. Mọi biện pháp đều tốt dù xâm phạm vào đời sống riêng tư, ăn uống mặc ngủ… Nông dân phải ăn thế nào? Ăn ngũ cốc hạng bét, ít gạo. Uống làm sao? Cấm uông sakê, cấm uống trà. Một trà một rượu, hai thứ ấy cấm. Mặc sao đây? Cho phép mặc áo bông, nhưng cấm đụng đến vải sang, dù để làm cổ áo hoặc thắt lưng cho đẹp. Trồng trọt thế nào? Để dành đất mà trồng ngũ cốc, không được trồng thuốc lá. Còn vợ con phu thê, cái thứ ba lăng nhăng ấy, tha hồ chứ? Luật dạy: được rẫy vợ khi vợ không săn sóc chồng đàng hoàng, khi vợ có thói uống trà nhiều quá, thích vui chân dạo chơi nơi này nơi nọ. Ngược lại, dù vợ xấu như ma lem mà sửa túi nâng khăn tươm tất thì phải thương yêu hết mực.
Tất cả những cấm kỵ răn bảo đó đều được luật quy định. Và luật phê: như thế thì nông dân sẽ có một đời sống yên lành, vô tư, sau khi đã làm xong nghĩa vụ nộp thuế. Giả dụ như có anh nông dân nào chịu cường hào ác bá không nổi, muốn bỏ làng mà đi, qua sống làng khác, được chăng? Được chứ! Thoải mái, sau khi đã nộp thuế không thiếu một hạt thóc.
Ấy, nông dần âm thầm… Nhưng có cái gì mà không biến đổi, kể cả cái âm thầm chịu đựng của anh nông dân? Kinh tế thương mại, kinh tế tiền tệ phát triển vào tận nông thôn, ảnh hưởng lên đời sống của nông dân. Việc thu thuế càng ngày càng khe khắt vì giới võ sĩ càng ngày càng nghèo túng. Kinh tế đổi chác, đổi thóc lấy hiện vật nhường chỗ cho tiền, khí cụ trao đổi. Nhưng ảnh hưởng kinh tế, dù lớn, cũng không lý thú bằng ảnh hưởng văn hóa, cái thứ văn hóa ăn chơi xa xỉ của phú dân thành thị. Bị siết chặt đủ thứ trong đời sống riêng tư, anh nông dân rướn cổ tìm chút không khí tươi mát bằng cách bắt chước ăn chơi ở thị thành, mặc cho Tướng Quân ban thêm sắc lệnh nhắc nhở bổn phận ăn mặc ngủ nghỉ. Nông dân gánh trên vai hai thúc bách mâu thuẫn: vai này nhắc thuế nặng hơn, vai kia xúi dại ăn chơi chút đỉnh. Hậu quả tất nhiên là thế: giữa nông dân và lãnh chúa "địa chủ", hận thù chồng chất.
Đã thế, thâm nhập của tư bản thương mại vào nông thôn tất phải đưa đến việc thu hút đất đai vào quy trình tiền tệ. Trên nguyên tắc, đất đai trồng trọt cấm không được mua bán; nhưng luật đó bị cả trăm biện pháp vô hiệu hóa. Rốt cuộc, một mặt, trên nguyên tắc, đất bị tập trung; một mặt, trên thực tế, đất bị phân tán. Nông dân, cùng đường, chỉ còn có cách duy nhất thôi, quá quen thuộc trong lịch sử, là nổi loạn. Từ 1704 đến 1735, đếm sơ sơ 40 vụ nổi loạn, gấp đôi so với trước. Đến 1750 thì tình trạng nông dân bi đát đến mức đe dọa cả chế độ phong kiến.
Bức tranh xã hội kể trên đưa đến nhận định gì? Đàng sau lớp son tráng lệ của văn hóa thời Tsunayoshi (thường gọi là văn hóa Gensoku) dâng lên, ở thành phố cũng như nông thôn, một thái độ chống đối, nơi này tiêu cực, nơi kia tích cực, tất cả hợp lại thành nước thủy triều làm nứt đê, đẩy chế độ phong kiến đến chỗ phải xét lại. Nhưng chống đối, tiêu cực hoặc tích cực, đều không đủ mạnh để đập vỡ chế độ. Dù lung lay, phong kiến Tokygawa vẫn tồn tại. Nói cách khác, đây đúng là tình trạng chuyển tiếp, giao thời. Đúng là bối cảnh xã hội để Sorai "chính trị hóa" Khổng giáo.
Thật vậy, nếu xã hội vững chắc, ổn định, một tư tưởng xét lại sẽ không có chỗ đứng, tâm lý con người lúc đó ai cũng thấy lạc quan. Chỉ khi nào xã hội biến đổi, giai cấp thống trị cảm thấy bị đe dọa, khi đó một vài đầu óc nhạy bén mới cảm thấy có khủng hoảng, mới đặt vấn đề tư tưởng chính trị lên hàng đầu. Nhưng, mặt khác, nếu xã hội tham nhũng, nhầy nhụa, xáo trộn đến mức vô phương cứu chữa thì hoạt động trí thức cũng bầy nhầy, nhem nhuốc, lấp liếm rỗng tuếch trong phê phán bằng tiếu lâm với ngụ ngôn. Chính ở giữa hai tình trạng đó, hai giới hạn đó, một tư tưởng chính trị có tính chiến đấu, có khả năng đốp chác với thực tại, mới có thể trổi dậy. Sorai đúc kết được tư tưởng của ông, chối từ lạc quan của Tống Nho, "chính trị hoá" Khổng giáo", chính là nhờ ông đã sống ở giữa hai giới hạn ấy. Sorai là "nhà tư tưởng về khủng hoảng" lớn đầu tiên mà xã hội Tokugawa đã sản xuất. Bênh vực ông hay chống lại ông, trí thức sau ông đều là con đẻ của ông, bởi vì đều chịu ảnh hưởng vô cùng lớn của ông, nhất là trên mặt phương pháp.
Sau Sorai: Norinaga
Sau Sorai, một học phái khác xuất hiện, chế ngự thế giới trí thức của Nhật: học phái "nghiên cứu quốc học" mà chủ xướng là Motoori Norinaga (1730-1801). Hai ông khác nhau như hai thái cực, nhưng ông này có thể được xem như sợi dây nối dài của ông kia trên mặt lập thuyết. Học phái "nghiên cứu quốc học" đả kích Khổng giáo tận cội rễ, thay thế bằng việc đề cao lịch sử và văn học của Nhật. Họ nói: Thánh nhân hoặc Vua Xưa của Tàu là Vua và Thánh nhân của Tàu, bởi vậy giáo huấn của họ chẳng thích hợp gì để hiểu đặc điểm riêng của lịch sử Nhật. Thay vì Thánh ấy và Vua ấy, Norinaga đề cao các vị thần đã tạo ra nước Nhật. Thay vì thánh điển của Tàu, ông đưa ra thi và thư, đầy diễm lệ, đã kể chuyện nguồn gốc, đã sinh thành ra văn hóa của nước ông. Ta có thể đoán trước: học phái "nghiên cứu quốc học" góp phần tạo ra cơ sở ý thức hệ cho phong trào phục hưng lại quyền của Vua đã bị Tướng Quân tước đoạt, và, sau đó, của chủ nghĩa dân tộc đã đưa nước Nhật đến chiến tranh. Chuyện đó không nói ở đây. Ở đây chuyện để nói là: qua tư tưởng của Sorai và Norinaga, chính trị, lịch sử và văn chương, trước đây bị Khổng giáo buộc chặt thành hệ thống, bây giờ bị tách biệt ra với nhau. Từ sự tách biệt đó, ý thức về hiện đại manh nha. Tuy vậy, lịch sử vẫn luôn luôn đòi hỏi phải cắt nghĩa. Phải giải thích cho bằng được ý nghĩa ẩn nấp sau các sự kiện. Không còn là tấm gương luân lý nữa thì nó là cái gì? Cái gì còn giữ mãi hoài niệm về một quá khứ hài hòa đã mất? Ước muốn tìm lại sự thống nhất nguyên thủy giữa quyền lực và lễ nghi, sự gần gũi giữa người và thần, sẽ đưa đến việc thành lập chính quyền Minh Trị, đặt cơ sở trên cá nhân của Thiên Hoàng, người nắm mọi uy quyền, người có nguồn gốc thần linh, như thuở trước.
Nhưng trước khi đi đến kết luận đó, hãy trở về với mối liên hệ giữa Sorai và Norinaga. Có thể nói là có liên hệ không, khi Norinaga chỉ trích học thuyết của Sorai là vẫn còn nô lệ tư tưởng của Tàu? Có thể. Đó là liên hệ vừa đối nghịch vừa tiếp nối.
Trước hết là về vấn đề thần đạo ở Nhật. Sorai không nói gì về thần đạo. Và đúng là ông đã nâng các Thánh nhân và các Vua Xưa của Trung Quốc lên hàng thần thánh, đối tượng của tín ngưỡng. Học phái của Norinaga nói: hạ bệ Lí, nhưng sùng bái Thánh nhân của Tàu, như vậy là Sorai mới đi được nửa đường. Huống hồ, cái nhìn của Sorai về Vua Xưa tựu trung vẫn là cái nhìn chính trị: một uy quyền chính trị đâu có ví được với uy quyền của thần linh? Uy quyền chính trị bị hạn chế trong thời gian và không gian, thời gian đó là thượng cổ, không gian đó là nước Trung Hoa. Cực kỳ nghiêm khắc, họ viết: "Người ta gọi Đạo là những gì do Thánh nhân lập ra. Như vậy, cái mà ta gọi là Đạo của người Trung Hoa, trong ý định sâu thẳm nhất, giới hạn vào hai việc: một là đi xâm chiếm lân bang, hai là không để cho lân bang xâm chiếm". Chính trị chẳng phải là như vậy sao? Lý luận của Sorai bị lật ngược. Sorai nói: Đạo là tuyệt đối vì đó là sáng tạo của Thánh nhân. Phái Norinaga nói: chính vì đó là sáng tạo của Thánh nhân nên nó chỉ có giá trị với người Trung Quốc.
Về Thần đạo, hồi đầu thời Tokugawa, Khổng giáo được nâng lên bậc nhất, các vị Nho gia đòi triệt hạ Phật giáo, và cách triệt hạ tinh tế nhất là giải phóng Thần đạo ra khỏi ảnh hưởng Phật giáo và ghép tín ngưỡng này vào Khổng giáo. Điển hình là giải thích sau đây của một Nho gia đầu đàn (Nobuyoshi): "Thần đạo của Nhật cũng sửa tâm con người, cũng có ý định tối hậu là trải lòng thương xót ra đến mọi người, cũng thực hiện lòng nhân. Đạo của Nghiêu Thuấn cũng đáp ứng ý định đó. Điều đó, ở Trung Hoa thì gọi là Đạo Khổng, ở Nhật Bản thì gọi là Thần đạo: tên gọi khác nhau, ý định chỉ một".
Sorai không chấp nhận sự cưỡng hôn đó. Đạo của Thánh nhân là Đạo của Thánh nhân; Thần đạo không việc gì mà xía vào. Người Nhật thờ phụng thần linh của nước mình là phải, Thánh nhân cũng muốn thế. Và ông đóng cửa, không cho Thần đạo len vào hội trường của ông.
Ở hai thái độ đối nghịch, Norinaga tiếp nối Sorai: một bên không muốn Khổng giáo của Trung Hoa làm bẩn Thần đạo của Nhật; một bên không muốn Thần đạo xen vào Khổng giáo. Đi xa hơn nữa, Norinaga phục hưng lại cái mà ông gọi là "Thần đạo nguyên thủy", giải phóng Thần đạo ra khỏi triết lý Khổng giáo: "Thần linh, trong cái nước kia - nghĩa là Trung Hoa - chỉ là một nguyên tắc trống rỗng, chẳng có chút bản chất gì; thần linh trong nước ta là tổ tiên của Thiên Hoàng, của chúng ta, chẳng liên hệ gì đến cái nguyên tắc trống rỗng ấy cả".
Mối liên hệ nối dài thứ hai giữa Sorai và Norinaga liên quan đến cái nhìn về lịch sử. Sorai, như đã nói, bác bỏ lối đọc lịch sử qua lăng kính đạo đức. Norinaga, đi xa hơn, bác bỏ luôn cách đọc lịch sử như tuân theo những nguyên tắc siêu nhân loại, kiểu thiên mệnh, ý muốn của Trời, Đạo, thần linh… Ông trích ra nhiều ví dụ cho thấy kẻ ngay bị diệt, kẻ gian được tôn. Bởi vì thiện ác, ông nói, không có ăn nhậu gì với tư cách thần linh. Trong Thần đạo, có thần ác (Magatsubi no kami) chuyên môn mang tai họa và bệnh tật, và ngay đến cả thần thiện cũng không phải chỉ làm toàn chuyện tốt. "Các ông Khổng Nho nói cái gì cũng phải hợp lý, cho nên các ông không để cho các thần thiện dính một chút bụi dơ. Còn ta, ta phải biết rằng thần linh chỉ là những người cao hơn người thường mà thôi".
Noranaga cũng từ khước đọc lịch sử theo lối hoài cổ, lý tưởng nằm ở sau lưng, xa tít tận thời Nghiêu Thuấn, lịch sử càng đi càng tiến đến chỗ xấu hơn. Cái lối ngoái cổ lại đàng sau để nhìn, ông nói, và nhìn theo một nguyên tắc chỉ đạo đã vạch sẵn, là lối suy nghĩ của Tàu. Chả nhẽ ở thời Nghiêu Thuấn cái gì cũng tốt cả? Sao lại bảo rằng sau thời Tam Hoàng thì con người bị dơ bẩn vì ham muốn? Chả nhẽ con người dưới thời Nghiêu Thuấn chẳng ai ham muốn cả sao?
Từ đó, mối liên hệ nối dài thứ ba liên quan đến việc giải phóng tính tự nhiên của con người bị Tống Nho cho mang gông dưới khái niệm "nhân dục". Sorai đã mở đầu bằng cách chặt đứt tu thân với trị quốc, tu thân là tư, trị quốc là công. Norinaga đi xa hơn: không những ông chấp nhận tính tự nhiên mà còn chính đáng hóa nó. Đạo không phải do học mà biết; nó nằm trong tim chân thật của con người ngay từ khi sinh, trái tim chân thật là trái tim có khi sinh ra, dù tốt hay xấu. Tuy vậy, ông nói tiếp: "Con người ở những thời đại về sau, vì cứ mãi mê hướng theo tư tưởng của Tàu, và do đó mất đi trái tim chân thật, cho nên không còn biết Đạo là gì nữa nếu không học". Vậy thì Đạo là tính tự nhiên của "ham muốn trong con người". Một trong những tác giả sáng chói đầu thời Minh Trị (Tsuda Manichi) tiếp nối ý tưởng của Norinaga theo một quan điểm tiến bộ hơn: "Tại sao chối bỏ, không nhận ham muốn của con người cũng là thành phần của Lí? Hoài bảo thấu hiểu bản chất của sự vật, ý muốn tìm tòi cái gì mới, hưởng thụ tự do, khao khát hạnh phúc: tất cả những đam mê đó, tiêu biểu cho những ý muốn cao đẹp nhất của con người, chẳng phải là cần thiết cho bản tính của con người hay sao?Tất cả chẳng hợp lại để bảo đảm cho tiến bộ hay sao?"
Không ở đâu sự giải phóng đó hiển lộ rõ bằng trong quan niệm về văn chương. Sorai giải phóng thơ ra khỏi luân lý và chính trị. Kinh Thi cũng giống như thơ Nhật, chẳng có chỗ nào liên quan đến tốt xấu, cũng chỉ là thở than và reo vui. Có điều là hiểu thơ tinh tế thì có lợi cho ai ngồi trên chóp bu thiên hạ. Norinaga cũng nói vậy: "Mục đích của thơ chẳng phải là để tu thân trị quốc gì cả, chỉ là để diễn tả tình cảm của trái tim… Ba trăm bài thơ trong Kinh Thi yểu điệu thật, cũng chỉ diễn tả tình cảm thôi, cho nên, giống như lời nói thốt ra từ miệng các cô thiếu nữ, thơ ấy cũng vẩn vơ, chẳng có gì sâu sắc".
So sánh thơ Nhật với thơ Tàu, ông cho thơ Nhật không thua. Đi xa hơn, ông trân trọng đặt thơ vào vị trí trung tâm của Thần đạo, cho rằng hồn của thơ (mono no aware) cũng là hồn của chính Thần đạo. Đạo của các thần, ông viết, chẳng những không vướng chút vết tích nào của lối biện luận tăn măn tỷ mỷ trong Khổng giáo, mà còn tràn đầy phong phú, diễm lệ. Cái duyên dáng ấy tạo ra hồn thơ vô cùng thích hợp với Đạo ấy. Trường phái của Norinaga xem hồn thơ đó trong thơ của Nhật có thể mang đến bình yên và hài hòa cho con người và cho xã hội. Quan niệm đó đưa đến bao nhiêu tranh cãi: vậy thơ cũng có chức năng xã hội và chính trị hay sao? Vậy thơ là thuộc lĩnh vực công hay tư?
Vấn đề này lớn quá, không bàn ở đây. Chỉ trích thêm một câu của Norinaga để chấm dứt: "Lửa tự nó nóng, nước tự nó lạnh. Không thể hiểu được vì nguyên tắc gì mà chúng nóng lạnh như thế. Để làm cho thiên hạ tưởng rằng ta có thể biết nguyên nhân, người ta bày đặt ra âm dương, thái cực, rồi đưa thái cực lên hàng thánh của tất cả các thánh, hoặc thiêng liêng hóa những đối cực, lí là lửa, phương đông, mùa xuân, khôn là nước, phương tây, mùa thu, khiến cho ai muốn nói cái gì cũng được, tả cũng được, hữu cũng xong. Tát cả những chuyện đó chỉ là đầu óc vặn vẹo do tưởng tượng của các ông thánh Trung Hoa mà ra".
♦ ♦ ♦
Tôi có hai điều muốn nói trước khi kết thúc:
Trước hết, mục đích của tôi không phải là để tán dương hai nhà học giả Nhật. Không phải cái gì các ông ấy nói tôi đều tán thành, kể cả về mặt cấu trúc tư tưởng. Tư tưởng của Sorai rất vững chắc trên lý tính, rất hợp với lý tính, rất rationnel. Mà ai cũng biết, rationalisme là một đặc tính thiết yếu của hiện đại. Thế nhưng, từ tính hợp lý trong phương pháp, lập luận của ông đi đến tính bất hợp lý, irrationnel, trong kết luận, khi ông đặt lòng tin tuyệt đối vào các Thánh nhân. Người đọc bỡ ngỡ tự hỏi: thay Trời Phật bằng Thánh nhân, tư tưởng triết lý có cao hơn lên hay thấp xuống bớt? Norinaga lại càng đi xa hơn trong tính bất hợp lý: phục hưng lại Thần đạo, thần quyền của Thiên Hoàng, tin tưởng tuyệt đối vào các thần trong đạo ấy, thế chẳng phải là thay thế một tín ngưỡng bằng một tín ngưỡng khác chẳng phổ quát gì hơn? Cả hai ông nhiều khi nhuộm tư tưởng của mình với màu sắc thần bí (mystique) đến độ làm phương hại cho phương pháp thực nghiệm (positiviste) rất hiện đại của mình.
Tuy vậy, đó chưa phải là quan tâm của người viết. Câu hỏi chính là: tại sao người Nhật biết xét lại vấn đề từ hồi thế kỷ 17-18 còn ta thì không? Còn ta thì phải đợi đến Phan Khôi của những năm 1930 khi Khổng học đã chiều tà xế bóng? Đọc Sorai, người đọc thấy ông sùng bái văn hóa Trung Hoa không thua gì các nhà nho của ta, vậy mà ông vẫn đặt lại vấn đề. Đặt lại vấn đề, như vậy, đâu có bị phong kiến đương thời coi là chống đối? Là phản loạn? Hóa ra phong kiến cũng nhận biết rằng đặt lại vấn đề là chuyện bình thường của cái đầu. Cái gì đã khiến ta không làm thế? Cái gì đã khiến ta khác Nhật? Đầu óc nô lệ chăng? Hay là xã hội ta ở thời đại đó bị chiến tranh liên miên, nào Lê, nào Trịnh, nào Mạc, nào Tây Sơn, nào Nguyễn, chỉ mỗi vấn đề chính thống đã làm kiệt quệ hết tư tưởng?
Thứ hai, xã hội Nhật thời Tokugawa là một xã hội đóng, cô lập với thế giới, cả Sorai lẫn Norinaga đều không biết mô hình nào khác mô hình phong kiến, cả hai đều không có ý đả phá chế độ phong kiến, cả hai đều phò tá các tướng quân. Vậy mà, trong xã hội đóng ấy, tư tưởng vẫn có thể mở, hai trường phái chính mà hai ông là thủ lãnh vẫn thu hút đông đảo trí thức Chính nhờ tư tưởng đã đi trước thời đại như vậy tự bên trong, không cần có bên ngoài tác động, mà vua Minh Trị mới dám quả quyết khi mở nước Nhật ra cho thế giới bên ngoài: duy tân là giữ hồn Nhật, chỉ mượn phương Tây về kỹ thuật mà thôi. Họ biết đâu là hồn của họ khi mở cửa. Xã hội ta ngày nay, ngược lại, là một xã hội mở, mở loạn xà ngầu, thế mà tư tưởng thì đóng, sinh hoạt trí thức rách rưới, bần hàn. Ai có chút suy nghĩ đều không thể tự đặt câu hỏi: tình trạng ấy có bình thường không?
Chú thích
Quyển sách của Maruyama, xuất bản lần đầu tại Nhật năm 1952, tập hợp những nghiên cứu ông viết trong khoảng thời gian 1940-1944 Chi tiết này rất quan trọng để hiểu tư tưởng của tác giả và những tranh luận sau đó. Đó là khoảng thời gian mà nước Nhật phát xít lao vào đại chiến thứ hai. Trí thức tiến bộ, Maruyama không vui vẻ gì với chế độ quân phiệt.
Về điểm này, cũng như về tư tưởng của Maruyama, một trong những trí thức đầu đàn thời hậu chiến, có thể xem:
- Mary L. Hanneman: The Old Generation (Mid) Showa Japan: Hasegawa Nyosekan, Maruyama Masao, and Post-War Thought, Historian, Vol. 69, N° 3, Fall 2007.
- Andrew E. Barshay: Imagining Democracy in Post-War Japan: Reflections on Maruyama Masao and Modernism, Journal of Japanese Studies, Vol. 18, N° 2, Summer 1992.- -…
- Laura Hein, điểm sách, Tadashi Karube: Maruyama Masao and the Fate of Liberalism in Twentieth Century, American Historican Review, Vol. 114, N° 1, Feb. 2009.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 7:00:06 GMT 9
Nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung năm 1979
Trương Tiểu Minh Air War College Montgomery, Alabama, Mỹ Nguyên tác: Xiaoming Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment” The China Quarterly, bộ 184, tháng 12 năm 2005, trang 851-874 Lời người dịch: Thấm thoát đã hơn 30 năm từ ngày cuộc chiến Việt-Trung nổ ra năm 1979, và mặc dù cả hai nước đều cho là mình đã thắng, số lượng tài liệu được Trung Quốc và Việt Nam công bố về cuộc chiến tranh này vẫn còn rất ít. Bài viết dưới đây của một học giả gốc người Trung Quốc (hiện giảng dạy tại trường Cao Đẳng Không Chiến (Air War College) thuộc Bộ Không Quân Mỹ) được đăng vào năm 2005 trên tờ China Quarterly, một tạp chí quốc tế có uy tín xuất bản tại Anh, là một công trình học thuật đáng chú ý về cuộc chiến tranh này. Để giữ sự trung thực so với nguyên bản, người dịch đã cố gắng truyền đạt cách diễn tả của tác giả. Khi đọc bài này, nhiều độc giả Việt Nam có thể sẽ cho rằng một số nhận xét của tác giả là rất chủ quan và nhiều vấn đề là khá nhạy cảm. Tuy nhiên bài viết này, ở mức độ nào đó, cung cấp nhiều thông tin đã được kiểm chứng và có giá trị sử liệu. Hy vọng bài viết này cũng tạo nên một sự thôi thúc để Trung Quốc, và đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cung cấp thêm nhiều thông tin và bằng chứng để các nhà sử học cũng như thế hệ tương lai có một cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn về cuộc chiến tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu này.
Mục đích của bài báo này là nhằm trình bày về cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1979. Bài báo nhắc lại những mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc với Việt Nam và ảnh hưởng của những mối quan hệ này lên những toan tính chiến tranh của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình, chiến lược quân sự và sự chuẩn bị của Trung Quốc cho cuộc tấn công. Bài báo cũng chỉ ra cách thức tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh mang màu sắc đặc thù Trung Quốc như thế nào: tính toán khi nào và sử dụng ra sao sức mạnh quân sự, mục tiêu quan trọng trong chiến tranh, và cơ sở trong việc nhận định về thắng lợi. Bài báo cũng điểm lại những hậu quả của cuộc xung đột ở cả hai lĩnh vực chính trị và quân sự, những bài học đã được rút tỉa dưới con mắt của chính người Trung Quốc.
Đầu năm 1979 Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam, theo cách nói của lãnh đạo Trung Quốc là để “dạy cho Việt Nam một bài học” nhớ đời. Mặc dầu Bắc Kinh tự cho là đã thắng lợi nhưng nói chung trong giới học giả vẫn tồn tại nhiều tranh cãi cho rằng cuộc chiến tranh đã không diễn ra như Trung Quốc mong đợi vì trong cuộc xung đột này Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QGPND) đã tác chiến hết sức tồi tệ. Chính Trung Quốc chứ không phải Việt Nam đã rút ra một bài học từ cuộc chiến này. Các tài liệu của Trung Quốc về cuộc chiến tranh này vẫn được niêm phong rất cẩn mật do đó các thông tin về cuộc chiến không chỉ chắp vá chủ quan mà còn đáng ngờ về tính xác thực. Mặc dù đã có một ít tài liệu bằng tiếng Anh, nhưng phần nhiều chỉ là đồn đoán và không chính xác, lưu truyền không chính thức ở Hồng Kông và Đài Loan. Gần đây do việc kiểm soát thông tin của Bắc Kinh có phần lỏng lẻo hơn nên nhiều tài liệu lưu hành nội bộ về khả năng và kinh nghiệm của QGPND trong chiến tranh 1979 đã thấy xuất hiện rải rác trong các thư viện tại Mỹ và có thể truy cập trên Internet. Thêm vào đó, hồi ký của một số sĩ quan cao cấp Trung Quốc cũng đã cho thấy nhiều thông tin giá trị.
Dựa trên các tư liệu nghiên cứu của một số học giả hàng đầu, bài viết này cố gắng trình bày cái nhìn của người Trung Quốc đối với cuộc chiến Việt-Trung năm 1979. Đầu tiên là thảo luận về các mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Việt Nam và ảnh hưởng của các mối quan hệ này trên quyết định tấn công Việt Nam của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình. Kế đến là xét lại vai trò của QGPND bao gồm chiến thuật, chiến lược của Trung Quốc cho cuộc xâm lăng và những quan điểm riêng của QGPND về vận hành bộ máy quân sự. Cuối cùng là điểm lại những tác động của cuộc xung đột, trên cả hai lĩnh vực chính trị cũng như quân sự, và những bài học rút ra bởi chính người Trung Quốc. Bài báo cũng đưa ra những dẫn chứng về cách thức tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh, chỉ ra tính đặc thù kiểu Trung Quốc trong tác chiến: không ngần ngại sử dụng sức mạnh quân sự sau khi tính toán một cách cẩn thận khi nào và sử dụng ra sao; mục tiêu quan trọng của QGPND là giành và giữ thế chủ động trong tác chiến, và nền tảng cơ bản mà người Trung Quốc đã dựa vào đó để đánh giá thành công về mặt quân sự, đó là lợi thế địa chính trị hơn là hiệu suất tác chiến. Mặc dù đã bị người Việt Nam làm khốn đốn nhưng QGPND đã hoàn thành được mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh, buộc Việt Nam phải chia lửa cho phòng tuyến ở biên giới phía bắc, và buộc quốc gia này phải giảm phiêu lưu quân sự ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, QGPND vẫn chưa rút ra được bài học từ cuộc chiến tranh này, đó là truyền thống và triết lý quân sự của Trung Quốc đã quá lỗi thời, điều này có thể cản trở công cuộc hiện đại hóa thay đổi bộ mặt của Trung Quốc trên trường quốc tế. Yếu tố văn hóa lịch sửBắc Kinh và Hà Nội đã từng là đồng minh thân thiết kể từ cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất vào những năm đầu thập niên 1950. Thế thì tại sao sau đó nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lại đi đến quyết định tiến hành chiến tranh với nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào cuối năm 1978? Theo lý lẽ của Bắc Kinh thì dường như nguyên nhân là do “giấc mộng xưng bá” của Hà Nội ở khu vực Đông Nam Á; gây hấn ở biên giới với Trung Quốc và xâm phạm vào lãnh thổ của Trung Quốc; ngược đãi người Hoa ở Việt Nam; đi theo Liên Xô trong lúc nước này đang muốn mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Các nhà quan sát vào thời điểm đó và nhiều nghiên cứu sau này cho rằng mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh là làm giảm bớt áp lực quân sự lên Campuchia, buộc quân đội Việt Nam phải chia lửa ở mặt trận thứ hai. Robert Ross (học giả người Mỹ, hiện là giáo sư ở Boston College - ND) thì cho rằng việc Trung Quốc sử dụng quân đội chống lại Việt Nam không phải là phản ứng trước sự bành trướng của Hà Nội ở Đông Dương mà là phản ứng trước sự về hùa của Việt Nam với Liên Xô nhằm bao vây Trung Quốc từ Đông Nam Á. Những nghiên cứu khác lại cho rằng Trung Quốc hành động như thế để làm mất thể diện của Liên Xô, nước đang đóng vai trò như một đồng minh tin cậy của Hà Nội trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Trong một nghiên cứu về mối quan hệ của Bắc Kinh với Hà Nội trước chiến thắng 1975, Trại Cường (Zhai Qiang) tác giả cuốn China and the Vietnam Wars, 1950-1975 -- ND) đã cho rằng “chính sách thực dụng không chỉ là lời nói suông” được phát đi từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đề cập đến các mối quan hệ quốc tế. Mặc dầu họ tuyên bố chính họ là những môn đồ của chủ nghĩa quốc tế Mác-Lênin song họ lại kế thừa hoàn toàn cái di sản lịch sử của Trung Hoa: quan niệm Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới. Các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man di và phải là những chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, “niềm kiêu hãnh lịch sử và độ nhạy cảm văn hóa” là nhân tố chính có ảnh hưởng đến thái độ của người Việt Nam đối với Trung Quốc. Suốt chiều dài lịch sử của mình, người Việt Nam đã thích thú khi vay mượn và bắt chước nền văn minh cũng như thể chế Trung Quốc để làm nên bản sắc riêng, nhưng họ lại rất sắt đá trong việc bảo tồn di sản văn hóa và nền độc lập của họ. Họ yêu cầu Trung Quốc giúp đỡ khi gặp khó khăn nội bộ, nhưng khi họ giành được tự do và thống nhất đất nước thì họ lại quay ra thù địch với Trung Quốc. Những hình ảnh được khắc ghi trong lòng các lãnh tụ và nhân dân hai nước về tình hữu nghị giữa hai quốc gia dường như đã đóng một vai trò đáng kể trong quyết định của Bắc Kinh khi tiến hành cuộc tấn công trừng phạt chống lại Việt Nam. Từ đầu những năm 1950, Trung Quốc đã là người hậu thuẫn mạnh mẽ của Hà Nội trên cả hai lĩnh vực quân sự lẫn chính trị. Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam trong cuộc đấu tranh cách mạng chống lại Pháp và đánh đuổi xâm lược Mỹ. Những nghiên cứu ngày nay đã chỉ ra rằng chính sách của Trung Quốc dành cho Hà Nội trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên là xuất phát từ việc cân nhắc nhiều mặt từ truyền thống lịch sử đến ý thức hệ cách mạng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, thái độ bề trên của Bắc Kinh vẫn thống trị tư tưởng của họ trong quan hệ với Việt Nam. Mặc dầu các lãnh tụ Trung Quốc lặp đi lặp lại tuyên bố rằng Việt Nam sẽ được đối xử “bình đẳng” nhưng Trần Kiên (Chen Jian) lại thấy rằng chính những phát biểu hùng biện đó đã phản ảnh niềm tin mạnh mẽ rằng “họ đã nắm được vị thế để có thể chi phối mọi quan hệ với các nước láng giềng”. Bắc Kinh luôn nói rằng họ không bao giờ gây sức ép về chính trị và kinh tế thông qua viện trợ vật chất và quân sự khổng lồ cho Hà Nội, nhưng họ lại muốn Hà Nội phải thừa nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc đối với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới. Thái độ này của Trung Quốc đã khiến Việt Nam, một quốc gia rất nhạy cảm với quá khứ đầy rẫy những rắc rối với Trung Hoa, trở nên tức giận. Mặc dầu có lúc Bắc Kinh và Hà Nội gọi nhau là “những người đồng chí anh em” nhưng sự thật thì mối ác cảm của người Việt Nam đối với Trung Quốc đã được Bắc Kinh nhận thức một cách rõ ràng Một tài liệu của Trung Quốc đề cập đến chiến tranh 1979 đã ghi lại những hoạt động được coi là thù nghịch của Việt Nam từ sau năm 1975 đã làm tổn thương mạnh đến quan niệm bề trên của người Trung Quốc. Bộ Chính Trị Việt Nam đã thông qua một chính sách coi đế quốc Mỹ là kẻ thù lâu dài nhưng lại coi Trung Quốc là “kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp nhất”, và là “kẻ thù tiềm năng mới” mà Việt Nam phải chuẩn bị để chiến đấu. Trong một phản ứng với Trung Quốc, Chủ nhiệm tổng cục chính trị của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đã nhấn mạnh rằng các lực lượng vũ trang Việt Nam sẽ phải tiến hành một cuộc tổng tiến công quân Trung Quốc, chủ động tấn công và phản công đánh đuổi kẻ thù bên trong và thậm chí cả bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, và biến cả miền biên giới thành mặt trận chống Tàu. Thái độ coi thường của Việt Nam đối với QGPND và sự cả tin vào sức mạnh quân sự của mình đã là chất xúc tác thúc đẩy quân đội Trung Quốc tiến hành chiến tranh. Lực lượng chiến đấu đã được tôi luyện của QĐND Việt Nam đã tham gia tác chiến hầu như liên tục trong nhiều thập kỷ và đã chiến thắng được hai cường quốc lớn phương Tây. Trong khi đó các chuyên gia Việt Nam cho rằng khả năng và tinh thần chiến đấu của QGPND là thấp kém và hạn chế. QĐND Việt Nam rất tự hào với vũ khí của Nga và các trang thiết bị quân sự thu hồi của Mỹ. Theo các hãng truyền thông của Việt Nam các vũ khí đó hơn hẳn với bất kỳ trang bị nào của QGPND. Trong hơn hai mươi năm Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội trên 20 tỷ đô la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Khi Việt Nam bắt đầu ép buộc người Hoa ở miền bắc hồi cư và gia tăng bạo lực trên biên giới với Trung Quốc, nhiều người Trung Quốc đã cho rằng Hà Nội vong ơn bội nghĩa trước những giúp đỡ và hy sinh của Trung Quốc. Những người Trung Quốc đã từng giúp đỡ những người cộng sản Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp và Mỹ đã cảm thấy như bị phản bội và đã hăm hở để “dạy cho Việt Nam bài học”. Trong số đó có Đặng Tiểu Bình, phó thủ tướng và là tổng tham mưu trưởng QGPND. Họ Đặng đã tỏ ra bực mình với thái độ khiếm nhã của Việt Nam đối với những giúp đỡ của Trung Quốc đã được sử sách ghi chép từ giữa những năm 1960. Sự thù nghịch giữa hai nước đã tăng mạnh vào cuối những năm 1970, và ngày càng trở nên nhạy cảm, thậm chí đã có lúc Việt Nam được Trung Quốc gọi là đồ khốn nạn (wangbadan) trước một nhà lãnh đạo nước ngoài. Các nhà lý luận quân sự nói chung đều nhất trí rằng tình trạng “thù nghịch ở cả hai phía, giận dữ và căm thù đã hình thành và ngày càng sôi sục”. Sự láo xược của Việt Nam thể hiện qua những va chạm dọc biên giới mỗi ngày một tăng và sự ra đi ồ ạt của Hoa kiều đã tác động mạnh lên quyết định dùng vũ lực của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự. Động thái của Trung Quốc trước cuộc tấn công Vẫn chưa có những tài liệu chắc chắn nào cho thấy lúc nào và như thế nào Bắc Kinh đã ra quyết định tiến hành chiến tranh chống Việt Nam. Nayan Chanda, phóng viên Đông Nam Á kỳ cựu của Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông đã chỉ đưa ra được vài chi tiết cho rằng cấp lãnh đạo Trung Quốc đã ra quyết định “dạy cho Việt Nam bài học” vì thái độ “vô ơn và ngạo mạn” trong một cuộc họp Bộ Chính Trị hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978. Tuy nhiên ông ta lại cho rằng trong cuộc họp đó cấp lãnh đạo Trung Quốc, khi thông qua quyết định tấn công Việt Nam, có vẻ như họ đã được thuyết phục rằng việc này chỉ để nhằm “làm suy yếu vị thế của Xô-viết trong thế giới thứ ba”. Các nguồn tin mới đây từ Trung Quốc thì lại giả thiết rằng sự tính toán đến các phản ứng quân sự đối với cuộc khủng hoảng giữa Việt Nam và Trung Quốc là một quá trình hết sức chậm chạp vì khá lâu sau đó cũng không có một quyết định nào được thông qua. Hơn nữa, cuộc chiến khởi đầu được coi như là một xung đột cục bộ giữa hai nước chứ không phải là một phần của chiến lược chống bá quyền toàn cầu của Trung Quốc. Trong những năm đầu của thời kỳ hậu Mao, Bắc Kinh áp dụng chính sách lãnh đạo thừa kế. Chính sách lãnh đạo thừa kế này liên quan đến việc gia hạn năm công tác với chức năng tư vấn không chính thức cho các lãnh tụ cao cấp và các cấp thấp hơn như các viên chức chính phủ và sĩ quan quân đội để họ đảm nhận các vấn đề trước khi có quyết định cuối cùng. Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, kể lại rằng vào tháng Chín năm 1978 đã có một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu QGPND bàn về vấn đề “làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam”. Mối quan tâm ban đầu là vấn đề xung đột biên giới. Vấn đề này lúc đó đã được coi như nguyên nhân chính dẫn đến căng thẳng ngày càng gia tăng giữa hai nước từ năm 1976. Một đề xuất sơ bộ đề nghị tiến hành một chiến dịch quy mô nhỏ nhằm vào một trung đoàn bộ đội địa phương thuộc huyện Trùng Khánh của Việt Nam nằm sát đường biên giới với tỉnh Quảng Tây. Tuy nhiên, sau khi một báo cáo của tình báo cho biết cuộc xâm lăng Campuchia của Việt Nam sắp xảy ra thì đa số người tham gia đều đồng ý rằng bất kỳ một hành động quân sự nào được tiến hành cũng đều phải gây được ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình ở Đông Nam Á. Mọi người đều khuyến cáo phải tiến công vào các đơn vị quân đội chính quy của Việt Nam trên một địa hình rộng lớn. Mặc dầu cuộc họp kết thúc mà không đưa ra bất cứ quyết định cụ thể nào nhưng nó đã cho thấy hình hài của một kế hoạch chiến tranh có thể xảy ra của Trung Quốc nhằm vào Hà Nội và có thể nó là những bằng chứng đầu tiên có liên quan đến những hoạt động quân sự của Trung Quốc trên biên giới phía bắc của Việt Nam nhằm tạo áp lực lên thái độ được coi là hiếu chiến của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, một chiến dịch quân sự quy mô lớn có thể làm xấu đi hình ảnh của Trung Quốc trên trường quốc tế trong khu vực lẫn thế giới. Họ Đặng đã lập kế hoạch thăm chính thức Thái Lan, Mã Lai và Sinh-ga-po vào đầu tháng 11 năm 1978 nhằm dò xét và tìm sự hậu thuẫn của các nước này đối với chính sách của Trung Quốc lên Việt Nam. Trong chuyến thăm viếng, Đặng đã thuyết phục các nước chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự xâm lược của Việt Nam nếu nước này tấn công Campuchia. Trong nước, các phương tiện truyền thông đều đăng xã luận và bình luận về việc trừng phạt sự xâm lăng của Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc và cảnh báo về một sự trả đũa có thể xảy ra. Ngày 23 tháng 11 năm 1978, Bộ Tổng Tham Mưu Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp khác. Tại đây một kịch bản mới về chiến tranh đã được bàn bạc kỹ lưỡng. Sau khi cân nhắc các khuyến cáo trước đó, Bộ Tổng Tham Mưu đã quyết định mở rộng quy mô và thời gian của chiến dịch. Các kế hoạch đã nhằm vào các vị trí quân sự chính của Việt Nam và các thành phố bên kia biên giới của Vân Nam và Quảng Tây như các mục tiêu cần tấn công, ngăn chặn nhằm làm nhụt ý chí xâm lược của Việt Nam. Có một số ý kiến cho rằng các chiến dịch như thế không đủ rộng lớn vì mới chỉ đến các vùng hẻo lánh và không đủ sức răn đe tức thời Hà Nội. Tuy nhiên cuối cùng không có sự phản đối vì họ cho rằng ban lãnh đạo Trung ương đã cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề. Cuộc họp chỉ định hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh sẽ thực hiện chiến dịch này. Ngoài ra cuộc họp cũng khuyến cáo về việc chuyển giao một lực lượng dự bị chiến lược QGPND bao gồm 4 quân đoàn và 1 sư đoàn lấy từ quân khu Vũ Hán và Thành Đô để củng cố cho mặt trận Quảng Tây và Vân Nam. Ngày 7 tháng 12 năm 1978, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp, kéo dài khoảng 4 đến 5 giờ và quyết định phát động một cuộc chiến tranh hạn chế trên tuyến biên giới phía nam Trung Quốc để “giáng trả” Việt Nam. Ngày kế tiếp là việc chỉ thị cho hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến dịch quân sự này với các đơn vị đã sẵn sàng chiến đấu từ ngày 10 tháng Giêng năm 1979. Chỉ thị này nêu rõ cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt trong vòng bán kính 50km từ đường biên giới và kéo dài trong 2 tuần. Binh pháp truyền thống của QGPND đã được nhấn mạnh đó là việc dùng hai đội quân nhằm “Tập trung biển người để bao vây quân địch từ hai bên sườn nhằm tiêu diệt từng bộ phận quân địch bằng những trận đánh hủy diệt theo phương thức đánh nhanh rút gọn”. Tuy thời điểm cho mệnh lệnh này được hiểu là Trung Quốc phản ứng lại với sự xâm lăng Campuchia sắp xảy ra của Việt Nam, nhưng bằng cách dựng lên một chiến dịch quân sự lớn thậm chí trước khi quân đội Việt Nam vượt sông Mê-kông cũng đã thể hiện sự giận dữ từ nhiều năm do thái độ vô ơn của Việt Nam gây nên. Đặng Tiểu Bình ra quyết định Mặc dầu cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc đã được khởi động từ đầu tháng 12 năm 1978, nhưng ngày tấn công chính xác vẫn chưa được ấn định. Những nghiên cứu ban đầu đã suy diễn rằng quyết định tấn công của Bắc Kinh đã xuất hiện từ Hội Nghị Công Tác Trung Ương vào khoảng 10 tháng 11 đến 15 tháng 12 năm 1978. Thực tế, cuộc họp này đã kêu gọi xem xét một nghị trình cải cách kinh tế trong vòng 10 năm, chấm dứt việc đề cập đến những di sản của Cách Mạng Văn Hóa. Đến nay vẫn chưa được biết là đã có cuộc thảo luận quan trọng về tình hình Đông Dương hay không. Tuy thế, cuộc họp đã củng cố vị trí của họ Đặng trong ban lãnh đạo, cho phép ông ta, dù chỉ là một trong năm phó chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhưng kiêm chức Tổng tham mưu trưởng quân đội, trở thành người ra quyết định về vấn đề Việt Nam. Trong cuộc họp Quân ủy Trung ương vào trước đầu năm Dương lịch, họ Đặng đã chính thức đề xuất một cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam. Tất cả những người tham gia cuộc họp bao gồm cả chủ tịch ĐCSTQ Hoa Quốc Phong, theo như báo chí đã đưa tin, cũng ủng hộ đề xuất này. Cũng tại cuộc họp này Đặng đã chỉ định Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) làm chỉ huy chiến dịch ở đông Quảng Tây và Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), tư lệnh quân khu Vũ Hán, chỉ huy ở miền tây Vân Nam, không dùng Vương Tất Thành (Wang Bicheng), tư lệnh quân khu Côn Minh. Để đáp ứng với việc thay đổi các cấp chỉ huy chiến trường, Đặng đã cử hai phó tổng tham mưu trưởng của ông ta đến Côn Minh để giám sát việc chuyển giao quyền lực và chuẩn bị chiến tranh. Không có một bộ tư lệnh trung tâm, hai quân khu sẽ tiến hành chiến đấu một cách độc lập không có phối hợp hoặc hiệp đồng. Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc tấn công phải được tiến hành chớp nhoáng và tất cả các đơn vị phải rút về sau khi đạt được mục tiêu của chiến dịch. Các tài liệu hiện nay đều đưa ra giả thiết là có một vài lãnh tụ Trung Quốc đã phản đối việc tấn công Việt Nam, nhưng các tài liệu đó đã không thống nhất được là những lãnh tụ nào đã phản đối và phản đối theo hình thức nào. Khi Đặng đã là kiến trúc sư trưởng của kịch bản thì khó có ai dám thách thức được quyết định của ông ta, một con người đầy uy tín cũng như thâm niên trong đảng. Kiểm soát được Bộ Tổng Tham Mưu Đặng đã có được các phương tiện thuận lợi nhất để thúc cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc vận hành trước khi ban lãnh đạo Trung ương đưa ra một quyết định chính thức. Hành động giống như Mao, Đặng đã tham khảo ý kiến của các đồng sự tin cậy trong chỗ riêng tư trước khi ra quyết định và sau đó chỉ thực hiện quyết định khi đã có sự tán thành của Bộ Chính Trị. Một trong những đồng sự gần gũi nhất của Đặng là Trần Vân (Chen Yun), một phó chủ tịch khác của ĐCSTQ và cán bộ trung kiên của đảng, đã có những đóng góp quan trọng cho quyết định tấn công Việt Nam. Có một số quan tâm hàng đầu trong Bộ Chính Trị: liệu Liên Xô có phản ứng bằng cách tấn công từ phía bắc khiến quân đội Trung Quốc phải chiến đấu trên hai mặt trận; liệu Liên Xô có nhân cơ hội để trục lợi từ tình hình chăng? Thế giới sẽ phản ứng lại thế nào? Và liệu chiến tranh với Việt Nam có làm trở ngại đến nghị trình mới của Trung Quốc là hiện đại hóa nền kinh tế? Mối lo lớn nhất là phản ứng của Liên Xô. Theo các phân tích tình báo của Bộ Tổng Tham Mưu, Matx-cơ-va có thể sẽ tung ra 3 chiến dịch quân sự nhằm đáp trả cuộc xâm lăng của Trung Quốc và Việt Nam: một cuộc đột kích quân sự lớn bao gồm cả tấn công trực diện vào thủ đô Bắc Kinh; xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số có vũ trang đang lưu vong ở Liên Xô quay về tấn công vào các tiền đồn Trung Quốc ở Tân Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia); hoặc sử dụng các cuộc giao tranh nhỏ gây ra sự căng thẳng biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, khi mà Liên Xô chưa có lực lượng đầy đủ để tiến hành bất cứ các hoạt động quân sự lớn nào chống lại Trung Quốc một cách ngay lập tức thì các lãnh tụ đảng, đặc biệt là Đặng, đã tin rằng một cuộc chiến tranh vào Việt Nam chớp nhoáng, có giới hạn, và mang tính tự vệ sẽ không kích thích đủ sự can thiệp của Matx-cơ-va hay một làn sóng phản đối quốc tế nào. Hai cuộc xung đột biên giới trước đó với Ấn Độ (1962) và Liên Xô (1969) đã minh chứng cho lập luận này. Ý định về một cuộc chiến tranh nhanh gọn cũng đã thuyết phục được một số phản đối trong nội bộ và biện hộ cho sự lựa chọn chính sách của Bắc Kinh. Tuy nhiên các lãnh tụ Trung Quốc cũng không dám lơ là cảnh giác bằng cách đồng thời ra lệnh cho các đơn vị quân đội ở các quân khu miền bắc và tây bắc luôn ở vào tư thế sẵn sàng chiến đấu trong trường hợp Liên Xô tấn công. Cuộc họp vào ngày lễ Giáng Sinh đã quyết định hoãn lại thời điểm tấn công Việt Nam. Các nhà phân tích phương Tây đã cho rằng lý do Bắc Kinh vẫn còn đắn đo là vì lo sợ phản ứng quốc tế. Chuyến công du nằm trong kế hoạch của Đặng đến Mỹ và Nhật đã được thu xếp để “thăm dò phản ứng dư luận”. Tuy nhiên những đồng sự thân cận của Đặng đã cho rằng ngay cả những sự chống đối của quốc tế, nếu có, cũng không ngăn cản được ông ta vì Đặng chưa bao giờ nhân nhượng bất cứ điều gì một khi ông ta đã quyết. Các lãnh tụ Trung Quốc cũng rất lo lắng vì không biết lực lượng của họ có đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến tranh hay không. Binh lính Trung Quốc chưa tham gia vào bất cứ cuộc chiến tranh lâu dài nào, trong khi nhiều người trong quân đội không thể hiểu được vì sao cuộc chiến sắp xảy ra lại nhằm vào một đồng minh truyền thống và là một quốc gia láng giềng nhỏ bé. Không lâu sau cuộc họp lễ Giáng Sinh, Đặng đã cử Dương Dũng (Yang Yong), tổng tham mưu phó, và Trương Chấn (Zhang Zhen), chủ nhiệm tổng cục hậu cần lần lượt đến Vân Nam và Quảng Tây để thị sát điều kiện chiến đấu của bộ đội. Lo sợ binh lính chưa sẵn sàng chiến đấu, Trương đã lập tức đề nghị hoãn cuộc chiến lại một tháng. Sau này ông ta có kể lại rằng Quân ủy Trung ương đã đồng ý để lùi thời gian tấn công lại đến giữa tháng Hai. Dương đã làm một báo cáo trong đó có những đề xuất về kế hoạch cho chiến tranh, để trình bày ngày 22 tháng Giêng tại tư gia của họ Đặng trước sự hiện diện của các lãnh tụ chủ chốt của Quân ủy Trung ương. Có thể trong cuộc họp này các lãnh tụ Trung Quốc đã tái khẳng định quyết định tấn công của họ và định ra một khung thời gian cho “ngày N”. Ngày tiếp theo, Bộ Tổng Tham Mưu lại tổ chức một cuộc họp khác, tại đây kế hoạch chiến tranh được thông qua lần cuối và quân đội được lệnh sẵn sàng khởi sự vào ngày 12 tháng Hai. Để đề phòng tình hình có thể vượt ngoài tầm kiểm soát, ban lãnh đạo Trung ương đã yêu cầu Hứa Thế Hữu phải dừng ngay các chiến dịch quân sự và rút lui ngay khi quân đội của ông ta chiếm được Lạng Sơn và Cao Bằng là hai thành phố chính của Việt Nam nằm gần biên giới. Ngày 11 tháng Hai 1979, hai ngày sau khi Đặng trở về Bắc Kinh từ chuyến đi Mỹ và Nhật, cuộc họp Bộ Chính Trị mở rộng đã được triệu tập. Đặng trình bày rõ ràng lý do căn bản để đánh Việt Nam, và sau đó mệnh lệnh phát động cuộc tấn công Việt Nam vào ngày 17 tháng Hai năm 1979 đã được gửi tới các tư lệnh quân khu Quảng Tây và Vân Nam. Đây là ngày họp mà các thành phần không phải chủ chốt được tham dự lâu trong đó một số lý lẽ được đưa đẩy rằng thời điểm tấn công có thể liên quan mật thiết đến yếu tố thời tiết: vào mùa mưa, thường từ tháng Tư trở đi, nó có thể bất lợi cho việc tiến hành các chiến dịch quân sự, hoặc nếu tấn công sớm quá thì quân đội Liên Xô có thể dễ dàng vượt qua những con sông dọc biên giới Trung-Xô khi đó đang còn đóng băng. Đặng và các lãnh tụ khác đã tính toán một cách cẩn thận tất cả các khả năng có thể có một khi quân đội của họ đã vượt qua biên giới Việt Nam. Họ đã giới hạn phạm vi, thời gian, và không gian cho một cuộc chiến tranh đã được gắn cái tên là “cuộc phản công tự vệ” để cố gắng giảm thiểu những phản ứng tiêu cực từ trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, khi chiến tranh đã nổ ra, Đặng vẫn theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến xảy ra, vẫn ban hành những chỉ thị và mệnh lệnh đặc biệt (điều này khác hẳn với phong cách lãnh tụ của Mao). Gerald Segal (tác giả cuốn Trung Hoa tự vệ-ND) cho rằng động cơ đầu tiên của Trung Quốc khi tấn công Việt Nam là nhằm ngăn chặn tham vọng và ý đồ xâm lăng Đông Nam Á cùng với mối đe dọa của Việt Nam đang nhằm vào an ninh của Trung Quốc, lật tẩy sự nhu nhược của Liên Xô. Nhưng tính toán chính trị sai lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội thành công. Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành động trả thù”. Từ đầu, Bắc Kinh đã giới hạn mục đích và chỉ đạo để cuộc chiến không vượt quá giới hạn của một cuộc xung đột biên giới tay đôi. Bộ chỉ huy quân sự ở Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu phải xây dựng các chiến lược tác chiến sao cho không chỉ hoàn thành mục tiêu là trừng phạt mà còn phải giới hạn chiến sự về thời gian lẫn không gian. Câu hỏi thực tế cho những người lập kế hoạch quân sự Trung Quốc địa phương là đến chừng mực nào thì mục tiêu dạy cho Việt Nam bài học mới đạt được và đo lường được. Phương thức tác chiến thông thường của QGPND luôn luôn tạo nên một áp lực đặc biệt trong vấn đề tiêu diệt sinh lực địch (yousheng liliang). Một trong những truyền thống tác chiến của QGPND là chiến thuật biển người để đảm bảo thắng lợi. Khoảng giữa tháng Giêng 1979 hơn một phần tư quân đội thường trực của QGPND đã được đưa đến biên giới Trung-Việt, tổng cộng khoảng hơn 320.000. Theo kinh nghiệm chiến đấu của mình và dựa trên các bài bản chiến thuật của QGPND trong quá khứ, Hứa Thế Hữu đã trả lời những yêu cầu chiến tranh của ban lãnh đạo Trung ương bằng một chiến thuật gọi là niudao shaji (ngưu đao sát kê - dùng dao mổ trâu để cắt tiết con gà). Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến gồm ba điểm: tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của địch tại những những điểm mấu chốt; các đơn vị xung kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù. Theo cách này Hứa tin rằng quân đội của ông ta có thể cắt nhỏ hệ thống phòng thủ của Việt Nam thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, và sau đó tiêu diệt hết quân địch. Theo tinh thần và chiến thuật đó, các quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã xây dựng những kế hoạch tác chiến riêng của họ trong đó nhấn mạnh đến việc tiêu diệt các sư đoàn quân chính quy của Việt Nam dọc biên giới Trung-Việt. Chiến tranh có thể chia thành hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, hai mũi nhọn tấn công và Cao Bằng và Lào Cai nhằm bao vây và tiêu diệt các sư đoàn của quân đội Việt Nam tại đó đồng thời phát động các cuộc tấn công ở Đồng Đăng để ly gián Hà Nội về mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc. Sau đó lực lượng QGPND ở Quảng Tây sẽ tập trung tấn công vào Lạng Sơn trong khi các cánh quân bạn ở Vân Nam sẽ giao chiến với sư đoàn quân Việt Nam ở Sa Pa. Tổng cộng 8 quân đoàn QGPND sẽ đồng thời tham gia tác chiến, một quân đoàn được giữ lại làm lực lượng trừ bị. Bắc Kinh cũng tính đến khả năng tham chiến của không quân. Không quân của QGPND sẽ cam kết dùng 18 trung đoàn và 6 phi đội tăng phái để chuẩn bị hỗ trợ cho các chiến dịch mặt đất. Để tránh leo thang xung đột, Quân ủy Trung ương ra lệnh không lực chỉ trợ chiến bên trong lãnh thổ Trung Quốc, trong khi đó lại ra lệnh các đơn vị không quân sẵn sàng yểm hộ cho các chiến dịch dưới đất “nếu cần”, mặc dầu không đưa ra định nghĩa chính thức tình hình thế nào và bao giờ được coi là “cần”. Mệnh lệnh đã quy định rằng bất cứ chiến dịch nào bên ngoài không phận Trung Quốc đều phải được phép của Quân ủy Trung ương. Dựa trên những nguyên tắc này, một chiến lược yêu cầu các đơn vị không quân sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ vùng trời và yểm trợ cho mặt đất. Khi chiến dịch dưới đất bắt đầu, cùng lúc không quân được lệnh xuất kích với tần suất cao trên không phận biên giới nhằm ngăn chặn không quân Việt Nam tham chiến. Nhân viên kiểm soát và điều hành hàng không cũng như các nhóm chỉ huy tác chiến đã được cử đến sở chỉ huy tiền phương của hai quân khu ở Quảng Châu và Côn Minh, các chỉ huy của các đơn vị không quân và một vài đơn vị phục vụ mặt đất cũng sẽ tham gia vào nhiệm vụ tấn công chính Từ cuối tháng 12 năm 1978 đến hết tháng Giêng năm 1979 binh lính Trung Quốc bị cuốn hút vào các hoạt động huấn luyện chiến đấu và diễn tập. Vì trước đó hầu hết quân đội Trung Quốc chỉ tham gia vào sản xuất nông nghiệp trong một thời gian dài, những nỗ lực điên rồ vào giờ phút cận kề như vậy, dù là có ích, chắc chắn cũng không thể đủ được. Huấn luyện quân sự được tập trung nhiều vào những kỹ năng cơ bản của người lính như bắn, ném lựu đạn. Chỉ một vài đơn vị có khả năng tiến hành các cuộc huấn luyện có ý nghĩa về chiến thuật hoặc diễn tập cấp trung đoàn hoặc sư đoàn. Nhiều sĩ quan báo cáo rằng họ không thể đảm bảo các binh sĩ của họ có khả năng tác chiến. Việc các đơn vị bộ đội của QGPND chỉ được huấn luyện một cách sơ sài và không đầy đủ cho một cuộc chiến tranh hiện đại nhằm vào quân đội Việt Nam, những người đã có 25 năm kinh nghiệm chiến đấu trước khi có cuộc chiến tranh này dường như không được giới lãnh đạo Trung Quốc quan tâm. Mặc dầu nhu cầu huấn luyện là cấp bách, nhưng QGPND vẫn tiếp tục với truyền thống quân sự của mình là sử dụng học thuyết chính trị để nâng cao tinh thần và để cải thiện hiệu năng chiến đấu. Cỗ máy tuyên truyền đã được thiết lập để thuyết phục binh lính rằng quyết định của ban lãnh đạo Trung ương là cần thiết và đúng đắn. Việt Nam đã thay đổi một cách xấu xa trở thành “Cuba ở phương đông”, tên “côn đồ ở châu Á” và “chó săn của Liên Xô”, đang cố theo đuổi tham vọng bành trướng. Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc dầu được cả hai nước suy tụng cũng không ngăn cản được việc Trung Quốc phát động một cuộc “chiến tranh tự vệ” chống lại quốc gia làng giềng nhỏ bé một khi quyền lợi dân tộc tối cao bị đe dọa. Các bài giảng, các cuộc họp quy tội Việt Nam với các bằng chứng, hiện vật, cũng như tranh ảnh được trưng bày nhằm gia tăng chủ nghĩa yêu nước và lòng căm thù kẻ địch. Ít nhất người ta cũng đã đưa ra một cách giải thích nghe có vẻ có lý cho những người lính bình thường, ít học về lý do tại sao lại cần phát động cuộc tấn công quân sự vào Việt Nam, một đất nước từ lâu đã là anh em, đồng chí.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 7:00:35 GMT 9
Nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung năm 1979
Trương Tiểu Minh Air War College Montgomery, Alabama, Mỹ Nguyên tác: Xiaoming Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment” The China Quarterly, bộ 184, tháng 12 năm 2005, trang 851-874 Lời người dịch: Thấm thoát đã hơn 30 năm từ ngày cuộc chiến Việt-Trung nổ ra năm 1979, và mặc dù cả hai nước đều cho là mình đã thắng, số lượng tài liệu được Trung Quốc và Việt Nam công bố về cuộc chiến tranh này vẫn còn rất ít. Bài viết dưới đây của một học giả gốc người Trung Quốc (hiện giảng dạy tại trường Cao Đẳng Không Chiến (Air War College) thuộc Bộ Không Quân Mỹ) được đăng vào năm 2005 trên tờ China Quarterly, một tạp chí quốc tế có uy tín xuất bản tại Anh, là một công trình học thuật đáng chú ý về cuộc chiến tranh này. Để giữ sự trung thực so với nguyên bản, người dịch đã cố gắng truyền đạt cách diễn tả của tác giả. Khi đọc bài này, nhiều độc giả Việt Nam có thể sẽ cho rằng một số nhận xét của tác giả là rất chủ quan và nhiều vấn đề là khá nhạy cảm. Tuy nhiên bài viết này, ở mức độ nào đó, cung cấp nhiều thông tin đã được kiểm chứng và có giá trị sử liệu. Hy vọng bài viết này cũng tạo nên một sự thôi thúc để Trung Quốc, và đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cung cấp thêm nhiều thông tin và bằng chứng để các nhà sử học cũng như thế hệ tương lai có một cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn về cuộc chiến tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu này. Mục đích của bài báo này là nhằm trình bày về cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1979. Bài báo nhắc lại những mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc với Việt Nam và ảnh hưởng của những mối quan hệ này lên những toan tính chiến tranh của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình, chiến lược quân sự và sự chuẩn bị của Trung Quốc cho cuộc tấn công. Bài báo cũng chỉ ra cách thức tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh mang màu sắc đặc thù Trung Quốc như thế nào: tính toán khi nào và sử dụng ra sao sức mạnh quân sự, mục tiêu quan trọng trong chiến tranh, và cơ sở trong việc nhận định về thắng lợi. Bài báo cũng điểm lại những hậu quả của cuộc xung đột ở cả hai lĩnh vực chính trị và quân sự, những bài học đã được rút tỉa dưới con mắt của chính người Trung Quốc. Đầu năm 1979 Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam, theo cách nói của lãnh đạo Trung Quốc là để “dạy cho Việt Nam một bài học” nhớ đời. Mặc dầu Bắc Kinh tự cho là đã thắng lợi nhưng nói chung trong giới học giả vẫn tồn tại nhiều tranh cãi cho rằng cuộc chiến tranh đã không diễn ra như Trung Quốc mong đợi vì trong cuộc xung đột này Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QGPND) đã tác chiến hết sức tồi tệ. Chính Trung Quốc chứ không phải Việt Nam đã rút ra một bài học từ cuộc chiến này. Các tài liệu của Trung Quốc về cuộc chiến tranh này vẫn được niêm phong rất cẩn mật do đó các thông tin về cuộc chiến không chỉ chắp vá chủ quan mà còn đáng ngờ về tính xác thực. Mặc dù đã có một ít tài liệu bằng tiếng Anh, nhưng phần nhiều chỉ là đồn đoán và không chính xác, lưu truyền không chính thức ở Hồng Kông và Đài Loan. Gần đây do việc kiểm soát thông tin của Bắc Kinh có phần lỏng lẻo hơn nên nhiều tài liệu lưu hành nội bộ về khả năng và kinh nghiệm của QGPND trong chiến tranh 1979 đã thấy xuất hiện rải rác trong các thư viện tại Mỹ và có thể truy cập trên Internet. Thêm vào đó, hồi ký của một số sĩ quan cao cấp Trung Quốc cũng đã cho thấy nhiều thông tin giá trị. Dựa trên các tư liệu nghiên cứu của một số học giả hàng đầu, bài viết này cố gắng trình bày cái nhìn của người Trung Quốc đối với cuộc chiến Việt-Trung năm 1979. Đầu tiên là thảo luận về các mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Việt Nam và ảnh hưởng của các mối quan hệ này trên quyết định tấn công Việt Nam của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình. Kế đến là xét lại vai trò của QGPND bao gồm chiến thuật, chiến lược của Trung Quốc cho cuộc xâm lăng và những quan điểm riêng của QGPND về vận hành bộ máy quân sự. Cuối cùng là điểm lại những tác động của cuộc xung đột, trên cả hai lĩnh vực chính trị cũng như quân sự, và những bài học rút ra bởi chính người Trung Quốc. Bài báo cũng đưa ra những dẫn chứng về cách thức tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh, chỉ ra tính đặc thù kiểu Trung Quốc trong tác chiến: không ngần ngại sử dụng sức mạnh quân sự sau khi tính toán một cách cẩn thận khi nào và sử dụng ra sao; mục tiêu quan trọng của QGPND là giành và giữ thế chủ động trong tác chiến, và nền tảng cơ bản mà người Trung Quốc đã dựa vào đó để đánh giá thành công về mặt quân sự, đó là lợi thế địa chính trị hơn là hiệu suất tác chiến. Mặc dù đã bị người Việt Nam làm khốn đốn nhưng QGPND đã hoàn thành được mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh, buộc Việt Nam phải chia lửa cho phòng tuyến ở biên giới phía bắc, và buộc quốc gia này phải giảm phiêu lưu quân sự ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, QGPND vẫn chưa rút ra được bài học từ cuộc chiến tranh này, đó là truyền thống và triết lý quân sự của Trung Quốc đã quá lỗi thời, điều này có thể cản trở công cuộc hiện đại hóa thay đổi bộ mặt của Trung Quốc trên trường quốc tế. Yếu tố văn hóa lịch sử Bắc Kinh và Hà Nội đã từng là đồng minh thân thiết kể từ cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất vào những năm đầu thập niên 1950. Thế thì tại sao sau đó nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lại đi đến quyết định tiến hành chiến tranh với nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào cuối năm 1978? Theo lý lẽ của Bắc Kinh thì dường như nguyên nhân là do “giấc mộng xưng bá” của Hà Nội ở khu vực Đông Nam Á; gây hấn ở biên giới với Trung Quốc và xâm phạm vào lãnh thổ của Trung Quốc; ngược đãi người Hoa ở Việt Nam; đi theo Liên Xô trong lúc nước này đang muốn mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Các nhà quan sát vào thời điểm đó và nhiều nghiên cứu sau này cho rằng mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh là làm giảm bớt áp lực quân sự lên Campuchia, buộc quân đội Việt Nam phải chia lửa ở mặt trận thứ hai. Robert Ross (học giả người Mỹ, hiện là giáo sư ở Boston College - ND) thì cho rằng việc Trung Quốc sử dụng quân đội chống lại Việt Nam không phải là phản ứng trước sự bành trướng của Hà Nội ở Đông Dương mà là phản ứng trước sự về hùa của Việt Nam với Liên Xô nhằm bao vây Trung Quốc từ Đông Nam Á. Những nghiên cứu khác lại cho rằng Trung Quốc hành động như thế để làm mất thể diện của Liên Xô, nước đang đóng vai trò như một đồng minh tin cậy của Hà Nội trong trường hợp xảy ra khủng hoảng. Trong một nghiên cứu về mối quan hệ của Bắc Kinh với Hà Nội trước chiến thắng 1975, Trại Cường (Zhai Qiang) tác giả cuốn China and the Vietnam Wars, 1950-1975 -- ND) đã cho rằng “chính sách thực dụng không chỉ là lời nói suông” được phát đi từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đề cập đến các mối quan hệ quốc tế. Mặc dầu họ tuyên bố chính họ là những môn đồ của chủ nghĩa quốc tế Mác-Lênin song họ lại kế thừa hoàn toàn cái di sản lịch sử của Trung Hoa: quan niệm Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới. Các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man di và phải là những chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, “niềm kiêu hãnh lịch sử và độ nhạy cảm văn hóa” là nhân tố chính có ảnh hưởng đến thái độ của người Việt Nam đối với Trung Quốc. Suốt chiều dài lịch sử của mình, người Việt Nam đã thích thú khi vay mượn và bắt chước nền văn minh cũng như thể chế Trung Quốc để làm nên bản sắc riêng, nhưng họ lại rất sắt đá trong việc bảo tồn di sản văn hóa và nền độc lập của họ. Họ yêu cầu Trung Quốc giúp đỡ khi gặp khó khăn nội bộ, nhưng khi họ giành được tự do và thống nhất đất nước thì họ lại quay ra thù địch với Trung Quốc. Những hình ảnh được khắc ghi trong lòng các lãnh tụ và nhân dân hai nước về tình hữu nghị giữa hai quốc gia dường như đã đóng một vai trò đáng kể trong quyết định của Bắc Kinh khi tiến hành cuộc tấn công trừng phạt chống lại Việt Nam. Từ đầu những năm 1950, Trung Quốc đã là người hậu thuẫn mạnh mẽ của Hà Nội trên cả hai lĩnh vực quân sự lẫn chính trị. Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam trong cuộc đấu tranh cách mạng chống lại Pháp và đánh đuổi xâm lược Mỹ. Những nghiên cứu ngày nay đã chỉ ra rằng chính sách của Trung Quốc dành cho Hà Nội trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên là xuất phát từ việc cân nhắc nhiều mặt từ truyền thống lịch sử đến ý thức hệ cách mạng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, thái độ bề trên của Bắc Kinh vẫn thống trị tư tưởng của họ trong quan hệ với Việt Nam. Mặc dầu các lãnh tụ Trung Quốc lặp đi lặp lại tuyên bố rằng Việt Nam sẽ được đối xử “bình đẳng” nhưng Trần Kiên (Chen Jian) lại thấy rằng chính những phát biểu hùng biện đó đã phản ảnh niềm tin mạnh mẽ rằng “họ đã nắm được vị thế để có thể chi phối mọi quan hệ với các nước láng giềng”. Bắc Kinh luôn nói rằng họ không bao giờ gây sức ép về chính trị và kinh tế thông qua viện trợ vật chất và quân sự khổng lồ cho Hà Nội, nhưng họ lại muốn Hà Nội phải thừa nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc đối với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới. Thái độ này của Trung Quốc đã khiến Việt Nam, một quốc gia rất nhạy cảm với quá khứ đầy rẫy những rắc rối với Trung Hoa, trở nên tức giận. Mặc dầu có lúc Bắc Kinh và Hà Nội gọi nhau là “những người đồng chí anh em” nhưng sự thật thì mối ác cảm của người Việt Nam đối với Trung Quốc đã được Bắc Kinh nhận thức một cách rõ ràng Một tài liệu của Trung Quốc đề cập đến chiến tranh 1979 đã ghi lại những hoạt động được coi là thù nghịch của Việt Nam từ sau năm 1975 đã làm tổn thương mạnh đến quan niệm bề trên của người Trung Quốc. Bộ Chính Trị Việt Nam đã thông qua một chính sách coi đế quốc Mỹ là kẻ thù lâu dài nhưng lại coi Trung Quốc là “kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp nhất”, và là “kẻ thù tiềm năng mới” mà Việt Nam phải chuẩn bị để chiến đấu. Trong một phản ứng với Trung Quốc, Chủ nhiệm tổng cục chính trị của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đã nhấn mạnh rằng các lực lượng vũ trang Việt Nam sẽ phải tiến hành một cuộc tổng tiến công quân Trung Quốc, chủ động tấn công và phản công đánh đuổi kẻ thù bên trong và thậm chí cả bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, và biến cả miền biên giới thành mặt trận chống Tàu. Thái độ coi thường của Việt Nam đối với QGPND và sự cả tin vào sức mạnh quân sự của mình đã là chất xúc tác thúc đẩy quân đội Trung Quốc tiến hành chiến tranh. Lực lượng chiến đấu đã được tôi luyện của QĐND Việt Nam đã tham gia tác chiến hầu như liên tục trong nhiều thập kỷ và đã chiến thắng được hai cường quốc lớn phương Tây. Trong khi đó các chuyên gia Việt Nam cho rằng khả năng và tinh thần chiến đấu của QGPND là thấp kém và hạn chế. QĐND Việt Nam rất tự hào với vũ khí của Nga và các trang thiết bị quân sự thu hồi của Mỹ. Theo các hãng truyền thông của Việt Nam các vũ khí đó hơn hẳn với bất kỳ trang bị nào của QGPND. Trong hơn hai mươi năm Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội trên 20 tỷ đô la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Khi Việt Nam bắt đầu ép buộc người Hoa ở miền bắc hồi cư và gia tăng bạo lực trên biên giới với Trung Quốc, nhiều người Trung Quốc đã cho rằng Hà Nội vong ơn bội nghĩa trước những giúp đỡ và hy sinh của Trung Quốc. Những người Trung Quốc đã từng giúp đỡ những người cộng sản Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp và Mỹ đã cảm thấy như bị phản bội và đã hăm hở để “dạy cho Việt Nam bài học”. Trong số đó có Đặng Tiểu Bình, phó thủ tướng và là tổng tham mưu trưởng QGPND. Họ Đặng đã tỏ ra bực mình với thái độ khiếm nhã của Việt Nam đối với những giúp đỡ của Trung Quốc đã được sử sách ghi chép từ giữa những năm 1960. Sự thù nghịch giữa hai nước đã tăng mạnh vào cuối những năm 1970, và ngày càng trở nên nhạy cảm, thậm chí đã có lúc Việt Nam được Trung Quốc gọi là đồ khốn nạn (wangbadan) trước một nhà lãnh đạo nước ngoài. Các nhà lý luận quân sự nói chung đều nhất trí rằng tình trạng “thù nghịch ở cả hai phía, giận dữ và căm thù đã hình thành và ngày càng sôi sục”. Sự láo xược của Việt Nam thể hiện qua những va chạm dọc biên giới mỗi ngày một tăng và sự ra đi ồ ạt của Hoa kiều đã tác động mạnh lên quyết định dùng vũ lực của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự. Động thái của Trung Quốc trước cuộc tấn công Vẫn chưa có những tài liệu chắc chắn nào cho thấy lúc nào và như thế nào Bắc Kinh đã ra quyết định tiến hành chiến tranh chống Việt Nam. Nayan Chanda, phóng viên Đông Nam Á kỳ cựu của Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông đã chỉ đưa ra được vài chi tiết cho rằng cấp lãnh đạo Trung Quốc đã ra quyết định “dạy cho Việt Nam bài học” vì thái độ “vô ơn và ngạo mạn” trong một cuộc họp Bộ Chính Trị hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978. Tuy nhiên ông ta lại cho rằng trong cuộc họp đó cấp lãnh đạo Trung Quốc, khi thông qua quyết định tấn công Việt Nam, có vẻ như họ đã được thuyết phục rằng việc này chỉ để nhằm “làm suy yếu vị thế của Xô-viết trong thế giới thứ ba”. Các nguồn tin mới đây từ Trung Quốc thì lại giả thiết rằng sự tính toán đến các phản ứng quân sự đối với cuộc khủng hoảng giữa Việt Nam và Trung Quốc là một quá trình hết sức chậm chạp vì khá lâu sau đó cũng không có một quyết định nào được thông qua. Hơn nữa, cuộc chiến khởi đầu được coi như là một xung đột cục bộ giữa hai nước chứ không phải là một phần của chiến lược chống bá quyền toàn cầu của Trung Quốc. Trong những năm đầu của thời kỳ hậu Mao, Bắc Kinh áp dụng chính sách lãnh đạo thừa kế. Chính sách lãnh đạo thừa kế này liên quan đến việc gia hạn năm công tác với chức năng tư vấn không chính thức cho các lãnh tụ cao cấp và các cấp thấp hơn như các viên chức chính phủ và sĩ quan quân đội để họ đảm nhận các vấn đề trước khi có quyết định cuối cùng. Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, kể lại rằng vào tháng Chín năm 1978 đã có một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu QGPND bàn về vấn đề “làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam”. Mối quan tâm ban đầu là vấn đề xung đột biên giới. Vấn đề này lúc đó đã được coi như nguyên nhân chính dẫn đến căng thẳng ngày càng gia tăng giữa hai nước từ năm 1976. Một đề xuất sơ bộ đề nghị tiến hành một chiến dịch quy mô nhỏ nhằm vào một trung đoàn bộ đội địa phương thuộc huyện Trùng Khánh của Việt Nam nằm sát đường biên giới với tỉnh Quảng Tây. Tuy nhiên, sau khi một báo cáo của tình báo cho biết cuộc xâm lăng Campuchia của Việt Nam sắp xảy ra thì đa số người tham gia đều đồng ý rằng bất kỳ một hành động quân sự nào được tiến hành cũng đều phải gây được ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình ở Đông Nam Á. Mọi người đều khuyến cáo phải tiến công vào các đơn vị quân đội chính quy của Việt Nam trên một địa hình rộng lớn. Mặc dầu cuộc họp kết thúc mà không đưa ra bất cứ quyết định cụ thể nào nhưng nó đã cho thấy hình hài của một kế hoạch chiến tranh có thể xảy ra của Trung Quốc nhằm vào Hà Nội và có thể nó là những bằng chứng đầu tiên có liên quan đến những hoạt động quân sự của Trung Quốc trên biên giới phía bắc của Việt Nam nhằm tạo áp lực lên thái độ được coi là hiếu chiến của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, một chiến dịch quân sự quy mô lớn có thể làm xấu đi hình ảnh của Trung Quốc trên trường quốc tế trong khu vực lẫn thế giới. Họ Đặng đã lập kế hoạch thăm chính thức Thái Lan, Mã Lai và Sinh-ga-po vào đầu tháng 11 năm 1978 nhằm dò xét và tìm sự hậu thuẫn của các nước này đối với chính sách của Trung Quốc lên Việt Nam. Trong chuyến thăm viếng, Đặng đã thuyết phục các nước chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự xâm lược của Việt Nam nếu nước này tấn công Campuchia. Trong nước, các phương tiện truyền thông đều đăng xã luận và bình luận về việc trừng phạt sự xâm lăng của Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc và cảnh báo về một sự trả đũa có thể xảy ra. Ngày 23 tháng 11 năm 1978, Bộ Tổng Tham Mưu Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp khác. Tại đây một kịch bản mới về chiến tranh đã được bàn bạc kỹ lưỡng. Sau khi cân nhắc các khuyến cáo trước đó, Bộ Tổng Tham Mưu đã quyết định mở rộng quy mô và thời gian của chiến dịch. Các kế hoạch đã nhằm vào các vị trí quân sự chính của Việt Nam và các thành phố bên kia biên giới của Vân Nam và Quảng Tây như các mục tiêu cần tấn công, ngăn chặn nhằm làm nhụt ý chí xâm lược của Việt Nam. Có một số ý kiến cho rằng các chiến dịch như thế không đủ rộng lớn vì mới chỉ đến các vùng hẻo lánh và không đủ sức răn đe tức thời Hà Nội. Tuy nhiên cuối cùng không có sự phản đối vì họ cho rằng ban lãnh đạo Trung ương đã cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề. Cuộc họp chỉ định hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh sẽ thực hiện chiến dịch này. Ngoài ra cuộc họp cũng khuyến cáo về việc chuyển giao một lực lượng dự bị chiến lược QGPND bao gồm 4 quân đoàn và 1 sư đoàn lấy từ quân khu Vũ Hán và Thành Đô để củng cố cho mặt trận Quảng Tây và Vân Nam. Ngày 7 tháng 12 năm 1978, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp, kéo dài khoảng 4 đến 5 giờ và quyết định phát động một cuộc chiến tranh hạn chế trên tuyến biên giới phía nam Trung Quốc để “giáng trả” Việt Nam. Ngày kế tiếp là việc chỉ thị cho hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến dịch quân sự này với các đơn vị đã sẵn sàng chiến đấu từ ngày 10 tháng Giêng năm 1979. Chỉ thị này nêu rõ cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt trong vòng bán kính 50km từ đường biên giới và kéo dài trong 2 tuần. Binh pháp truyền thống của QGPND đã được nhấn mạnh đó là việc dùng hai đội quân nhằm “Tập trung biển người để bao vây quân địch từ hai bên sườn nhằm tiêu diệt từng bộ phận quân địch bằng những trận đánh hủy diệt theo phương thức đánh nhanh rút gọn”. Tuy thời điểm cho mệnh lệnh này được hiểu là Trung Quốc phản ứng lại với sự xâm lăng Campuchia sắp xảy ra của Việt Nam, nhưng bằng cách dựng lên một chiến dịch quân sự lớn thậm chí trước khi quân đội Việt Nam vượt sông Mê-kông cũng đã thể hiện sự giận dữ từ nhiều năm do thái độ vô ơn của Việt Nam gây nên. Đặng Tiểu Bình ra quyết định Mặc dầu cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc đã được khởi động từ đầu tháng 12 năm 1978, nhưng ngày tấn công chính xác vẫn chưa được ấn định. Những nghiên cứu ban đầu đã suy diễn rằng quyết định tấn công của Bắc Kinh đã xuất hiện từ Hội Nghị Công Tác Trung Ương vào khoảng 10 tháng 11 đến 15 tháng 12 năm 1978. Thực tế, cuộc họp này đã kêu gọi xem xét một nghị trình cải cách kinh tế trong vòng 10 năm, chấm dứt việc đề cập đến những di sản của Cách Mạng Văn Hóa. Đến nay vẫn chưa được biết là đã có cuộc thảo luận quan trọng về tình hình Đông Dương hay không. Tuy thế, cuộc họp đã củng cố vị trí của họ Đặng trong ban lãnh đạo, cho phép ông ta, dù chỉ là một trong năm phó chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhưng kiêm chức Tổng tham mưu trưởng quân đội, trở thành người ra quyết định về vấn đề Việt Nam. Trong cuộc họp Quân ủy Trung ương vào trước đầu năm Dương lịch, họ Đặng đã chính thức đề xuất một cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam. Tất cả những người tham gia cuộc họp bao gồm cả chủ tịch ĐCSTQ Hoa Quốc Phong, theo như báo chí đã đưa tin, cũng ủng hộ đề xuất này. Cũng tại cuộc họp này Đặng đã chỉ định Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) làm chỉ huy chiến dịch ở đông Quảng Tây và Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), tư lệnh quân khu Vũ Hán, chỉ huy ở miền tây Vân Nam, không dùng Vương Tất Thành (Wang Bicheng), tư lệnh quân khu Côn Minh. Để đáp ứng với việc thay đổi các cấp chỉ huy chiến trường, Đặng đã cử hai phó tổng tham mưu trưởng của ông ta đến Côn Minh để giám sát việc chuyển giao quyền lực và chuẩn bị chiến tranh. Không có một bộ tư lệnh trung tâm, hai quân khu sẽ tiến hành chiến đấu một cách độc lập không có phối hợp hoặc hiệp đồng. Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc tấn công phải được tiến hành chớp nhoáng và tất cả các đơn vị phải rút về sau khi đạt được mục tiêu của chiến dịch. Các tài liệu hiện nay đều đưa ra giả thiết là có một vài lãnh tụ Trung Quốc đã phản đối việc tấn công Việt Nam, nhưng các tài liệu đó đã không thống nhất được là những lãnh tụ nào đã phản đối và phản đối theo hình thức nào. Khi Đặng đã là kiến trúc sư trưởng của kịch bản thì khó có ai dám thách thức được quyết định của ông ta, một con người đầy uy tín cũng như thâm niên trong đảng. Kiểm soát được Bộ Tổng Tham Mưu Đặng đã có được các phương tiện thuận lợi nhất để thúc cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc vận hành trước khi ban lãnh đạo Trung ương đưa ra một quyết định chính thức. Hành động giống như Mao, Đặng đã tham khảo ý kiến của các đồng sự tin cậy trong chỗ riêng tư trước khi ra quyết định và sau đó chỉ thực hiện quyết định khi đã có sự tán thành của Bộ Chính Trị. Một trong những đồng sự gần gũi nhất của Đặng là Trần Vân (Chen Yun), một phó chủ tịch khác của ĐCSTQ và cán bộ trung kiên của đảng, đã có những đóng góp quan trọng cho quyết định tấn công Việt Nam. Có một số quan tâm hàng đầu trong Bộ Chính Trị: liệu Liên Xô có phản ứng bằng cách tấn công từ phía bắc khiến quân đội Trung Quốc phải chiến đấu trên hai mặt trận; liệu Liên Xô có nhân cơ hội để trục lợi từ tình hình chăng? Thế giới sẽ phản ứng lại thế nào? Và liệu chiến tranh với Việt Nam có làm trở ngại đến nghị trình mới của Trung Quốc là hiện đại hóa nền kinh tế? Mối lo lớn nhất là phản ứng của Liên Xô. Theo các phân tích tình báo của Bộ Tổng Tham Mưu, Matx-cơ-va có thể sẽ tung ra 3 chiến dịch quân sự nhằm đáp trả cuộc xâm lăng của Trung Quốc và Việt Nam: một cuộc đột kích quân sự lớn bao gồm cả tấn công trực diện vào thủ đô Bắc Kinh; xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số có vũ trang đang lưu vong ở Liên Xô quay về tấn công vào các tiền đồn Trung Quốc ở Tân Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia); hoặc sử dụng các cuộc giao tranh nhỏ gây ra sự căng thẳng biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, khi mà Liên Xô chưa có lực lượng đầy đủ để tiến hành bất cứ các hoạt động quân sự lớn nào chống lại Trung Quốc một cách ngay lập tức thì các lãnh tụ đảng, đặc biệt là Đặng, đã tin rằng một cuộc chiến tranh vào Việt Nam chớp nhoáng, có giới hạn, và mang tính tự vệ sẽ không kích thích đủ sự can thiệp của Matx-cơ-va hay một làn sóng phản đối quốc tế nào. Hai cuộc xung đột biên giới trước đó với Ấn Độ (1962) và Liên Xô (1969) đã minh chứng cho lập luận này. Ý định về một cuộc chiến tranh nhanh gọn cũng đã thuyết phục được một số phản đối trong nội bộ và biện hộ cho sự lựa chọn chính sách của Bắc Kinh. Tuy nhiên các lãnh tụ Trung Quốc cũng không dám lơ là cảnh giác bằng cách đồng thời ra lệnh cho các đơn vị quân đội ở các quân khu miền bắc và tây bắc luôn ở vào tư thế sẵn sàng chiến đấu trong trường hợp Liên Xô tấn công. Cuộc họp vào ngày lễ Giáng Sinh đã quyết định hoãn lại thời điểm tấn công Việt Nam. Các nhà phân tích phương Tây đã cho rằng lý do Bắc Kinh vẫn còn đắn đo là vì lo sợ phản ứng quốc tế. Chuyến công du nằm trong kế hoạch của Đặng đến Mỹ và Nhật đã được thu xếp để “thăm dò phản ứng dư luận”. Tuy nhiên những đồng sự thân cận của Đặng đã cho rằng ngay cả những sự chống đối của quốc tế, nếu có, cũng không ngăn cản được ông ta vì Đặng chưa bao giờ nhân nhượng bất cứ điều gì một khi ông ta đã quyết. Các lãnh tụ Trung Quốc cũng rất lo lắng vì không biết lực lượng của họ có đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến tranh hay không. Binh lính Trung Quốc chưa tham gia vào bất cứ cuộc chiến tranh lâu dài nào, trong khi nhiều người trong quân đội không thể hiểu được vì sao cuộc chiến sắp xảy ra lại nhằm vào một đồng minh truyền thống và là một quốc gia láng giềng nhỏ bé. Không lâu sau cuộc họp lễ Giáng Sinh, Đặng đã cử Dương Dũng (Yang Yong), tổng tham mưu phó, và Trương Chấn (Zhang Zhen), chủ nhiệm tổng cục hậu cần lần lượt đến Vân Nam và Quảng Tây để thị sát điều kiện chiến đấu của bộ đội. Lo sợ binh lính chưa sẵn sàng chiến đấu, Trương đã lập tức đề nghị hoãn cuộc chiến lại một tháng. Sau này ông ta có kể lại rằng Quân ủy Trung ương đã đồng ý để lùi thời gian tấn công lại đến giữa tháng Hai. Dương đã làm một báo cáo trong đó có những đề xuất về kế hoạch cho chiến tranh, để trình bày ngày 22 tháng Giêng tại tư gia của họ Đặng trước sự hiện diện của các lãnh tụ chủ chốt của Quân ủy Trung ương. Có thể trong cuộc họp này các lãnh tụ Trung Quốc đã tái khẳng định quyết định tấn công của họ và định ra một khung thời gian cho “ngày N”. Ngày tiếp theo, Bộ Tổng Tham Mưu lại tổ chức một cuộc họp khác, tại đây kế hoạch chiến tranh được thông qua lần cuối và quân đội được lệnh sẵn sàng khởi sự vào ngày 12 tháng Hai. Để đề phòng tình hình có thể vượt ngoài tầm kiểm soát, ban lãnh đạo Trung ương đã yêu cầu Hứa Thế Hữu phải dừng ngay các chiến dịch quân sự và rút lui ngay khi quân đội của ông ta chiếm được Lạng Sơn và Cao Bằng là hai thành phố chính của Việt Nam nằm gần biên giới. Ngày 11 tháng Hai 1979, hai ngày sau khi Đặng trở về Bắc Kinh từ chuyến đi Mỹ và Nhật, cuộc họp Bộ Chính Trị mở rộng đã được triệu tập. Đặng trình bày rõ ràng lý do căn bản để đánh Việt Nam, và sau đó mệnh lệnh phát động cuộc tấn công Việt Nam vào ngày 17 tháng Hai năm 1979 đã được gửi tới các tư lệnh quân khu Quảng Tây và Vân Nam. Đây là ngày họp mà các thành phần không phải chủ chốt được tham dự lâu trong đó một số lý lẽ được đưa đẩy rằng thời điểm tấn công có thể liên quan mật thiết đến yếu tố thời tiết: vào mùa mưa, thường từ tháng Tư trở đi, nó có thể bất lợi cho việc tiến hành các chiến dịch quân sự, hoặc nếu tấn công sớm quá thì quân đội Liên Xô có thể dễ dàng vượt qua những con sông dọc biên giới Trung-Xô khi đó đang còn đóng băng. Đặng và các lãnh tụ khác đã tính toán một cách cẩn thận tất cả các khả năng có thể có một khi quân đội của họ đã vượt qua biên giới Việt Nam. Họ đã giới hạn phạm vi, thời gian, và không gian cho một cuộc chiến tranh đã được gắn cái tên là “cuộc phản công tự vệ” để cố gắng giảm thiểu những phản ứng tiêu cực từ trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, khi chiến tranh đã nổ ra, Đặng vẫn theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến xảy ra, vẫn ban hành những chỉ thị và mệnh lệnh đặc biệt (điều này khác hẳn với phong cách lãnh tụ của Mao). Gerald Segal (tác giả cuốn Trung Hoa tự vệ-ND) cho rằng động cơ đầu tiên của Trung Quốc khi tấn công Việt Nam là nhằm ngăn chặn tham vọng và ý đồ xâm lăng Đông Nam Á cùng với mối đe dọa của Việt Nam đang nhằm vào an ninh của Trung Quốc, lật tẩy sự nhu nhược của Liên Xô. Nhưng tính toán chính trị sai lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội thành công. Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành động trả thù”. Từ đầu, Bắc Kinh đã giới hạn mục đích và chỉ đạo để cuộc chiến không vượt quá giới hạn của một cuộc xung đột biên giới tay đôi. Bộ chỉ huy quân sự ở Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu phải xây dựng các chiến lược tác chiến sao cho không chỉ hoàn thành mục tiêu là trừng phạt mà còn phải giới hạn chiến sự về thời gian lẫn không gian. Câu hỏi thực tế cho những người lập kế hoạch quân sự Trung Quốc địa phương là đến chừng mực nào thì mục tiêu dạy cho Việt Nam bài học mới đạt được và đo lường được. Phương thức tác chiến thông thường của QGPND luôn luôn tạo nên một áp lực đặc biệt trong vấn đề tiêu diệt sinh lực địch (yousheng liliang). Một trong những truyền thống tác chiến của QGPND là chiến thuật biển người để đảm bảo thắng lợi. Khoảng giữa tháng Giêng 1979 hơn một phần tư quân đội thường trực của QGPND đã được đưa đến biên giới Trung-Việt, tổng cộng khoảng hơn 320.000. Theo kinh nghiệm chiến đấu của mình và dựa trên các bài bản chiến thuật của QGPND trong quá khứ, Hứa Thế Hữu đã trả lời những yêu cầu chiến tranh của ban lãnh đạo Trung ương bằng một chiến thuật gọi là niudao shaji (ngưu đao sát kê - dùng dao mổ trâu để cắt tiết con gà). Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến gồm ba điểm: tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của địch tại những những điểm mấu chốt; các đơn vị xung kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù. Theo cách này Hứa tin rằng quân đội của ông ta có thể cắt nhỏ hệ thống phòng thủ của Việt Nam thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, và sau đó tiêu diệt hết quân địch. Theo tinh thần và chiến thuật đó, các quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã xây dựng những kế hoạch tác chiến riêng của họ trong đó nhấn mạnh đến việc tiêu diệt các sư đoàn quân chính quy của Việt Nam dọc biên giới Trung-Việt. Chiến tranh có thể chia thành hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, hai mũi nhọn tấn công và Cao Bằng và Lào Cai nhằm bao vây và tiêu diệt các sư đoàn của quân đội Việt Nam tại đó đồng thời phát động các cuộc tấn công ở Đồng Đăng để ly gián Hà Nội về mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc. Sau đó lực lượng QGPND ở Quảng Tây sẽ tập trung tấn công vào Lạng Sơn trong khi các cánh quân bạn ở Vân Nam sẽ giao chiến với sư đoàn quân Việt Nam ở Sa Pa. Tổng cộng 8 quân đoàn QGPND sẽ đồng thời tham gia tác chiến, một quân đoàn được giữ lại làm lực lượng trừ bị. Bắc Kinh cũng tính đến khả năng tham chiến của không quân. Không quân của QGPND sẽ cam kết dùng 18 trung đoàn và 6 phi đội tăng phái để chuẩn bị hỗ trợ cho các chiến dịch mặt đất. Để tránh leo thang xung đột, Quân ủy Trung ương ra lệnh không lực chỉ trợ chiến bên trong lãnh thổ Trung Quốc, trong khi đó lại ra lệnh các đơn vị không quân sẵn sàng yểm hộ cho các chiến dịch dưới đất “nếu cần”, mặc dầu không đưa ra định nghĩa chính thức tình hình thế nào và bao giờ được coi là “cần”. Mệnh lệnh đã quy định rằng bất cứ chiến dịch nào bên ngoài không phận Trung Quốc đều phải được phép của Quân ủy Trung ương. Dựa trên những nguyên tắc này, một chiến lược yêu cầu các đơn vị không quân sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ vùng trời và yểm trợ cho mặt đất. Khi chiến dịch dưới đất bắt đầu, cùng lúc không quân được lệnh xuất kích với tần suất cao trên không phận biên giới nhằm ngăn chặn không quân Việt Nam tham chiến. Nhân viên kiểm soát và điều hành hàng không cũng như các nhóm chỉ huy tác chiến đã được cử đến sở chỉ huy tiền phương của hai quân khu ở Quảng Châu và Côn Minh, các chỉ huy của các đơn vị không quân và một vài đơn vị phục vụ mặt đất cũng sẽ tham gia vào nhiệm vụ tấn công chính Từ cuối tháng 12 năm 1978 đến hết tháng Giêng năm 1979 binh lính Trung Quốc bị cuốn hút vào các hoạt động huấn luyện chiến đấu và diễn tập. Vì trước đó hầu hết quân đội Trung Quốc chỉ tham gia vào sản xuất nông nghiệp trong một thời gian dài, những nỗ lực điên rồ vào giờ phút cận kề như vậy, dù là có ích, chắc chắn cũng không thể đủ được. Huấn luyện quân sự được tập trung nhiều vào những kỹ năng cơ bản của người lính như bắn, ném lựu đạn. Chỉ một vài đơn vị có khả năng tiến hành các cuộc huấn luyện có ý nghĩa về chiến thuật hoặc diễn tập cấp trung đoàn hoặc sư đoàn. Nhiều sĩ quan báo cáo rằng họ không thể đảm bảo các binh sĩ của họ có khả năng tác chiến. Việc các đơn vị bộ đội của QGPND chỉ được huấn luyện một cách sơ sài và không đầy đủ cho một cuộc chiến tranh hiện đại nhằm vào quân đội Việt Nam, những người đã có 25 năm kinh nghiệm chiến đấu trước khi có cuộc chiến tranh này dường như không được giới lãnh đạo Trung Quốc quan tâm. Mặc dầu nhu cầu huấn luyện là cấp bách, nhưng QGPND vẫn tiếp tục với truyền thống quân sự của mình là sử dụng học thuyết chính trị để nâng cao tinh thần và để cải thiện hiệu năng chiến đấu. Cỗ máy tuyên truyền đã được thiết lập để thuyết phục binh lính rằng quyết định của ban lãnh đạo Trung ương là cần thiết và đúng đắn. Việt Nam đã thay đổi một cách xấu xa trở thành “Cuba ở phương đông”, tên “côn đồ ở châu Á” và “chó săn của Liên Xô”, đang cố theo đuổi tham vọng bành trướng. Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc dầu được cả hai nước suy tụng cũng không ngăn cản được việc Trung Quốc phát động một cuộc “chiến tranh tự vệ” chống lại quốc gia làng giềng nhỏ bé một khi quyền lợi dân tộc tối cao bị đe dọa. Các bài giảng, các cuộc họp quy tội Việt Nam với các bằng chứng, hiện vật, cũng như tranh ảnh được trưng bày nhằm gia tăng chủ nghĩa yêu nước và lòng căm thù kẻ địch. Ít nhất người ta cũng đã đưa ra một cách giải thích nghe có vẻ có lý cho những người lính bình thường, ít học về lý do tại sao lại cần phát động cuộc tấn công quân sự vào Việt Nam, một đất nước từ lâu đã là anh em, đồng chí.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 7:02:20 GMT 9
Chiến dịch quân sự Cuộc tấn công được gọi là tự vệ của QGPND được tiến hành trong 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu từ 17 đến 25 tháng Hai. Trong thời gian đó quân đội Trung Quốc theo dự tính sẽ đập tan tuyến phòng ngự đầu tiên của Việt Nam và đánh chiếm các thị xã Cao Bằng và Lào Cai, các thị trấn biên giới quan trọng là Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ ra vào Lạng Sơn. Giai đoạn hai từ 26 tháng Hai đến 5 tháng Ba là chiến dịch đánh Lạng Sơn và các vùng phụ cận phía tây, vùng Tây Bắc Sa Pa, và Phong Thổ. Giai đoạn cuối là nỗ lực bổ sung để dẹp yên các lực lượng địch còn sót lại trong quá trình phá hủy hệ thống quân sự tại khu vực biên giới với Trung Quốc trước khi hoàn thành việc rút quân vào ngày 16 tháng Ba. Các chiến dịch quân sự đã được thực hiện bên trong lãnh thổ Việt Nam dọc theo biên giới kéo dài đến 900 km từ đông sang tây. Trong 30 ngày, quân Trung Quốc đã tiến hành những trận đánh đẫm máu nhất kể từ chiến tranh Triều Tiên. Cuộc tấn công của Trung Quốc đã khiến Hà Nội bất ngờ. Tình báo Việt Nam dường như thất bại trong việc giúp ban lãnh đạo Hà Nội chuẩn bị trước cho cuộc xâm lược của Trung Quốc. Mặc dầu màn giễu võ dương oai (saber-rattling) của Bắc Kinh đã có từ trước đó vài tháng, nhưng lãnh đạo Việt Nam cũng không thể tin nổi “một nước Xã hội Chủ nghĩa anh em” lại có thể đi xâm lược mình. Khi một số lượng lớn quân Trung Quốc đã vượt qua biên giới, thủ tướng Phạm Văn Đồng và tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam Văn Tiến Dũng còn đang ở Phnom Pênh. Mức độ dàn trải của chiến dịch của QGPND cũng đã đánh lừa được Bộ Tư Lệnh tối cao của quân đội Việt Nam trong việc nhận dạng các mũi nhọn và mục tiêu thực của cuộc tấn công. Trong lúc yêu cầu cấp bách Matx-cơ-va thực thi nghĩa vụ theo hiệp ước hữu nghị và hợp tác mới ký giữa hai nước, phản ứng tức thời của Hà Nội là “để đáp trả ngay lập tức, sử dụng bất cứ sự kháng cự nào nhằm làm giảm ưu thế của quân Trung Quốc” Các trận đánh quan trọng đã xảy ra xung quanh các thị trấn biên giới như Sóc Giàng, Đồng Hệ, Đồng Đăng, Cao Bằng, Lào Cai và Cam Đường, qua việc tranh giành từng ngọn đồi từng căn hầm. Cả hai bên đều thể hiện ý chí quyết liệt tiến công và phản công mặc cho thương vong nặng nề. Vào ngày 20 tháng Hai, cố vấn Liên Xô đã kết luận rằng lực lượng phòng thủ dân quân tự vệ của Việt Nam sẽ không thể ngăn chặn được bước tiến của quân Trung Quốc. Đã có một khuyến cáo thiết lập cầu hàng không để chuyên chở ngay lập tức 30 000 quân từ Campuchia về để tăng cường cho tuyến phòng thủ Lạng Sơn và Hà Nội. Theo tài liệu của Xô Viết các cố vấn của họ đã có những nỗ lực phi thường để tìm và thuyết phục các lãnh tụ Việt Nam có những biện pháp đối phó cấp bách với tình hình. Không hiểu mục tiêu chiến tranh của Bắc Kinh, Hà Nội đã có những phản ứng hết sức chậm chạp đối với những diễn biến nhanh chóng trên chiến trường. Mặc dầu QGPND đã chọc thủng phòng tuyến ngay từ đầu nhưng địa hình, đặc biệt là thiếu đường sá, cộng với sự kháng cự quyết liệt của quân chính quy, các đơn vị biên phòng, bộ đội địa phương Việt Nam nên quân Trung Quốc đã bị rơi vào thế bị động. Chính tình trạng này đã bộc lộ những điểm yếu và thiếu khả năng của quân Trung Quốc trong chỉ huy tác chiến, liên lạc và hậu cần bắt nguồn từ truyền thống binh pháp của QGPND. Trong một vài trường hợp, các chỉ huy mặt trận Trung Quốc đã thúc giục sự yểm trợ của không quân khi các giao tranh dưới mặt đất gặp sự kháng cự quyết liệt của quân đội Việt Nam. Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc đã không cho phép, thay vào đó là mệnh lệnh cho hải dựa vào sự hỗ trợ hỏa lực của pháo binh. QGPND cùng với những tướng lĩnh của nó được sinh trong một thể chế truyền thống, chỉ quen với tiền pháo hậu xung và biển người. Khẩu hiệu “Tinh thần của lưỡi lê” (The spirit of the bayonet) lại tiếp tục được đề cao. Kết quả cho thấy cuộc chiến tranh Việt-Trung năm 1979 là một cuộc chiến tranh đẫm máu và tàn bạo. Thành công của cuộc chiến tranh trừng phạt của QGPND phụ thuộc vào các chiến thuật xâm nhập, tấn công sườn và bao vây Cao Bằng. Tuy nhiên, hai sư đoàn đột kích thọc sâu đã không hoàn thành được dự định trong vòng 24 giờ. Địa hình núi non, với những cánh rừng rậm rạp lại không có đường và bị bộ đội địa phương và dân quân du kích Việt Nam phục kích đã khiến cho quân Trung Quốc gặp khó khăn không ngờ. Vì sự chậm trễ này mà Hứa Thế Hữu đã quyết định quay lại lập tức tấn công Cao Bằng, mặc dầu một quân đoàn của phó tư lệnh Ngô Trung (Wu Zhong) đã áp sát thành phố từ phía đông và phía nam. Tuy nhiên, do một cuộc điều tra về lý lịch chính trị trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa đang tiến hành, Vũ đã bị cách chức chỉ huy vào khoảng thời gian giữa chiến dịch. Qua đường dây nói, ngày 20 tháng 2, 1979, Hứa đã khẳng định lại việc bổ nhiệm trước đó rằng chiến dịch vẫn sẽ tiếp tục dưới sự chỉ huy của một cấp phó khác của ông thay vì dưới quyền chỉ huy của họ Ngô, thậm chí sau đó và quân đoàn ông ta vẫn chiến đấu theo đường của họ để tới Cao Bằng từ phía bắc. Ba ngày sau khi đến nơi, Hứa và các sĩ quan tham mưu của ông ta vẫn không nhận ra rằng chỉ có một số rất ít bộ đội Việt Nam đã chiến đấu để bảo vệ để cơ quan đầu não và chính quyền tỉnh rút lui. Sau đó ông đã ra lệnh tấn công vào thành phố. Chỉ sau vài giờ chiến đấu, quân Trung Quốc đã chiếm được thành phố. Việc chậm trễ tiếp quản Cao Bằng đã làm đảo lộn kế hoạch ban đầu của QGPND. Kế hoạch này được thiết kế nhằm tìm kiếm những trận giao chiến nhanh chóng và quyết định. Quân đội Việt Nam phân tán thành những toán nhỏ và các đơn vị cỡ trung đội, ẩn trên núi non, rừng rậm và hang động, và tiếp tục phát động các cuộc phản công. Sự kháng cự không hề nao núng của bộ đội và dân quân Việt Nam buộc Trung Quốc phải thay đổi chiến thuật hoạt động của họ bằng cách chia quân thành những đơn vị cỡ tiểu đoàn để tham gia vào các hoạt động tìm kiếm và tiêu diệt tại Cao Bằng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh và các khu vực Quảng Hòa. Các chiến thuật mới bao gồm khóa đường, lùng sục các ngọn đồi, tìm kiếm những hang động, săm soi mặt đất và cho nổ các hầm hào. Giao chiến dữ dội liên tục khiến hàng trăm chiến sĩ Việt Nam và dân thường bị giết. Cho đến ngày 06 Tháng Ba, theo các tài liệu tiếng Việt thu được đã cho thấy, thì dường như sư đoàn QĐND Việt Nam có nhiệm vụ bảo vệ Cao Bằng vẫn chưa bị tiêu diệt. Không tính đến việc chưa hoàn toàn kiểm soát được Cao Bằng, những tổn thất nặng nề của QGPND trong giai đoạn đầu đã cho thấy rằng chiến dịch gặt hái rất ít thành công. Bắc Kinh ngày càng trở nên lo lắng về tiến triển của cuộc chiến nên hối thúc tư lệnh chiến trường ở Quảng Tây khởi sự càng nhanh càng tốt trận đánh quyết định vào Lạng Sơn, một cửa ngõ làm lá chắn cho Hà Nội từ phía bắc. Dường như không hài lòng với những gì đã xảy ra tại Cao Bằng, họ Hứa đã tổ chức lại kế hoạch tác chiến và kêu gọi binh lính tăng thêm sức chiến đấu trong trận đánh Lạng Sơn. Sáu sư đoàn quân Trung Quốc tham gia vào trận đánh quyết định này, bắt đầu vào ngày 27 tháng hai, được mở màn bằng một trận pháo kích dữ dội. Sau các trận chiến ác liệt, quân Trung Quốc lần đầu tiên kiểm soát chắc chắn được các điểm cao xung quanh và sau đó đánh chiếm phần phía bắc của thành phố vào ngày 02 Tháng Ba, ngày mà theo lịch trình sẽ ngưng các hoạt động quân sự. Do bộ máy tuyên truyền của Hà Nội không thừa nhận thất bại của họ ở Lạng Sơn, Hứa đã quyết định tiếp tục đánh, thúc quân của ông ta vượt sông Kỳ Cùng, là ranh giới phân chia thành phố Lạng Sơn thành các huyện phía Bắc và phía Nam, để đánh chiếm toàn bộ thành phố, và sau đó phát triển xa về phía nam để đe dọa Hà Nội. Mặc dù quyết định của Hứa đã được Bắc Kinh thông qua, nhưng nó đã bị hủy bỏ vào ngày 05 tháng 3, ngay sau khi quân đội Trung Quốc chiếm phần phía nam của Lạng Sơn, với lý do được tuyên bố là họ đã đạt được các mục tiêu chiến tranh ban đầu. Đánh giá cuộc chiến tranh của Trung Quốc với Việt Nam Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 là một hoạt động quân sự lớn nhất mà QGPND đã đề xướng kể từ sau chiến tranh Triều Tiên. Dựa trên chiến lược của Mao là “trong mỗi trận đánh, tập trung một lực lượng tuyệt đối vượt trội so với kẻ thù”, Bắc Kinh đã triển khai chín quân đoàn chính quy cùng với các đơn vị đặc biệt và địa phương, tạo nên một đội quân hơn 300.000, tiến hành cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam trong một tháng. Các đơn vị không quân chiến đấu đã xuất kích 8.500 phi vụ tuần tra vùng trời, trong khi đó các đơn vị vận tải và trực thăng đã xuất kích 228 lần làm nhiệm vụ không vận; Hải quân cử một lực lượng đặc nhiệm (bao gồm hai tàu khu trục tên lửa và ba hải đội tàu trang bị tên lửa và ngư lôi tấn công nhanh) ra đảo Hoàng Sa (Xisha) nhằm đối phó với sự can thiệp của hải quân Liên Xô nếu có. Ngoài ra, Các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam còn huy động hàng chục ngàn dân quân và dân công để hỗ trợ các chiến dịch quân sự. Trong thời gian chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm ba thị xã của Việt Nam và hơn một chục thành phố nhỏ và thị trấn dọc biên giới, họ tuyên bố đã giết và làm bị thương 57.000 bộ đội Việt Nam, đánh thiệt hại nặng bốn sư đoàn quân chính quy và mười trung đoàn trực thuộc khác, cùng với việc chiếm một lượng lớn vũ khí. Bắc Kinh khẳng định rằng cuộc chiến chống Việt Nam 1979 đã kết thúc với thắng lợi thuộc về Trung Quốc. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu ngày nay đều thừa nhận rằng quân Việt Nam “đã trên tay” quân Trung Quốc trên chiến trường vì khả năng tác chiến yếu kém của QGPND và thương vong quá nặng như đã được báo cáo chính thức. Hà Nội cho rằng chỉ có dân quân và các lực lượng địa phương đã tham gia vào cuộc xung đột, và không áp dụng một chiến thuật phòng thủ nào nhưng đã tấn công liên tục chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Họ chỉ chịu mất Lạng Sơn và một số thành phố khác sau khi đã gây thương vong và thiệt hại nặng nề cho quân Trung Quốc. Đài Hà Nội vào thời gian đó đã thông báo rằng Việt Nam đã tiêu diệt và làm bị thương 42.000 quân Trung Quốc. Chỉ có một vài tài liệu chính thức của Việt Nam có giá trị cho các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về hiệu suất chiến đấu và thất bại của họ trong cuộc xung đột, trong khi đó các thông tin được đăng tải bởi các cá nhân trên mạng khi nói về con số tham gia thực tế và thương vong nặng nề của quân chính quy Việt Nam thì trái ngược hoàn toàn. Mặc dù đánh giá lại cuộc chiến Việt Trung năm 1979 mà chỉ dựa trên nguồn thông tin từ Trung Quốc là phiến diện nhưng dầu sao điều này cũng có thể soi sáng một số vấn đề. Một phương pháp đánh giá cái được cái mất của Trung Quốc là tập trung vào thương vong. Lúc đầu Bắc Kinh thừa nhận là có 20.000 binh sĩ Trung Quốc bị chết hoặc bị thương trong cuộc xung đột biên giới với Việt Nam. Một xu hướng mang tính học thuật hiện nay nghiêng về con số ước tính khoảng 25.000 QGPND thiệt mạng trong khi làm nhiệm vụ và 37.000 người khác bị thương. Gần đây có nguồn từ Trung Quốc đã phân loại thiệt hại của QGPND là 6.900 người chết và 15.000 người bị thương, tổng cộng thương vong là 21.900 thương vong trong một cuộc chiến với hơn 300.000 lính tham chiến. Trong bất cứ trường hợp nào thì thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh ngắn như vậy là quá cao, điều đó cho thấy một trong những đặc tính cố hữu trong chiến thuật và chiến dịch của QGPND là: sẵn sàng thí quân cho chiến thắng. Lãnh đạo Trung Quốc xem xét thương vong là một tiêu chí tương đối không quan trọng khi đánh giá thành công trong quân sự miễn sao họ tin rằng tình hình chiến lược tổng thể nằm trong tầm kiểm soát của họ. Theo quan điểm của Trung Quốc, cuộc chiến 1979 với Việt Nam là một biện pháp quân sự có tính toán nhằm trả đũa chính sách thù nghịch với Trung Quốc và sự bành trướng của Việt Nam tại Đông Nam Á cũng như tham vọng toàn cầu của Liên Xô. Mặc dù chiến dịch này bộc lộ nhiều điểm yếu của QGPND trong học thuyết quân sự hiện đại và chiến thuật, từ khởi đầu đến kết thúc, nhưng Trung Quốc đã nhanh chóng nắm giữ thế chủ động và nhịp độ của cuộc xung đột. Bắc Kinh đã gây bất ngờ cho Hà Nội không chỉ vì quy mô của chiến dịch, mà còn ở việc rút lui nhanh chóng và không bị sa lầy ở Việt Nam. Trung Quốc cũng đã thành công trong việc tiên liệu đúng phản ứng của Liên Xô qua việc bất lực và thiếu thiện chí đối với Việt Nam. Sự trông cậy vào Liên Xô trong hiệp ước hữu nghị về an ninh rõ ràng là một bài học chua xót cho Việt Nam. Điều quan trọng hơn cả cuộc chiến Việt-Trung 1979 là khởi đầu cho một chính sách của Bắc Kinh làm “chảy máu” Việt Nam trong nỗ lực ngăn chặn sự bành trướng của Hà Nội ra Đông Nam Á. Việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia sau cuộc tấn công của Trung Quốc là điều lãnh đạo của Trung Quốc mong mỏi nhưng họ không tiên liệu được rằng cuộc triệt thoái đã không diễn ra ngay lập tức mặc cho Trung Quốc tấn công Việt Nam ở phía bắc. Sau này Trung Quốc vẫn thi hành một lựa chọn chiến lược là duy trì áp lực quân sự lên Việt Nam kể cả sự đe dọa liên tục bằng lời nói về một cuộc tấn công thứ hai, và đôi khi tăng cường pháo binh bắn phá và những trận đánh lớn ở biên giới trong hầu hết thập kỷ 1980. Một nghiên cứu đầu thập niên 1990 đã kết luận: “Cuộc chiến tranh đã đạt được thành công nhất định khi nó được xem như một chiến thuật trong chiến lược chiến tranh tiêu hao kéo dài của Trung Quốc”. Tương tự như thế, cuộc chiến tranh Việt-Trung năm 1979 đã không để lại hậu quả đáng kể cho Trung Quốc trên trường quốc tế mặc dù việc sử dụng vũ lực quân sự chống lại Việt Nam cũng đã dấy lên những nghi ngờ của Indonesia và Malaysia, những nước luôn cảnh giác với ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Sự chiếm đóng của Việt Nam ở Campuchia đã đe dọa Thái Lan, khiến làn sóng chống đối Việt Nam của các nước ASEAN tiếp tục gia tăng. Về mối quan hệ Trung-Mỹ, cuộc xâm lược trừng phạt Việt Nam của Trung Quốc thể hiện thành công phần nào khi khi Washington vừa công khai lên án cả cuộc xâm lược của Việt Nam vào Campuchia và cả cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam lại vừa chia sẻ mối quan tâm của Trung Quốc trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô tại Đông Nam Á. Ý chí sẵn sàng sử dụng vũ lực của Bắc Kinh, bất chấp gánh chịu thương vong, đã biến Trung Quốc thành “một bức tường ngăn chặn có giá trị” chủ nghĩa bành trướng Xô-Việt; Washington vào thời điểm đó đã tiếp tục tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc để cân bằng cán cân với Liên Xô. Giới lãnh đạo Việt Nam dường như không bao giờ hiểu hết các động thái chiến lược và mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc, nhưng lại khăng khăng quan điểm cho rằng cuộc xâm lược năm 1979 đã trở thành màn mở đầu của một kế hoạch xâm lược dài hạn của Bắc Kinh vào chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam. Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5 tháng 3, Hà Nội kêu gọi tổng động viên toàn quốc cho chiến tranh, thúc đẩy việc xây dựng các vị trí phòng thủ trong và xung quanh Hà Nội. Mặc dù đến cuối tháng 5, quân đội Trung Quốc đã trở lại trạng thái bình thường, Việt Nam vẫn tiếp tục đề phòng, duy trì số lượng lớn của quân đội dọc theo biên giới phía Bắc đối diện với Trung Quốc vào thời điểm mà nền kinh tế của Việt Nam đang “ở trong một tình trạng tồi tệ hơn lúc nào hết kể từ sau năm 1975”. Kết quả là, Hà Nội phải dồn hết nỗ lực cho hai cuộc chiến tranh cùng một lúc, một ở Campuchia và một ở biên giới phía Bắc, dẫn đến một chi phí rất lớn của xã hội và kinh tế quốc gia, thu hút mọi nỗ lực của Hà Nội cần có cho việc hiện đại hóa nền kinh tế, và, quan trọng hơn, làm giảm tham vọng về địa chính trị của họ. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Việt Nam không hề nhận ra tính chất nghiêm trọng của tình hình, tiếp tục phụ thuộc vào Liên bang Xô viết cho đến khi nó sụp đổ vào năm 1991. Nếu có bất kỳ bài học mà người Việt Nam cần rút ra từ cuộc chiến 1979 với Trung Quốc, thì đó là Việt Nam, như một vị tướng Việt Nam sau này đã nhận xét, “phải học cách sống chung với anh hàng xóm to lớn”. Nhắc đến vấn đề tại sao Trung Quốc phải nóng lòng khi sử dụng một lực lượng đã được chuẩn bị sẵn để chống lại Việt Nam vào năm 1979, các phân tích ở đây cũng phù hợp với khẳng định của các nghiên cứu khác là mối lo ngại về tính toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh, đủ để thúc đẩy QGPND không chỉ trong trách nhiệm bảo vệ mà còn phải tấn công nếu cần. Tranh chấp lãnh thổ và căng thẳng biên giới có vẻ như là yếu tố kích thích để thúc đẩy Bắc Kinh xem xét đến việc sử dụng vũ lực chống lại láng giềng phía nam của họ. Hơn thế nữa, cùng với sự cuồng phát của chủ nghĩa dân tộc đầy cảm tính đã hướng tới việc củng cố thêm tinh thần Đại Hán, theo đó cần phải có một sự trừng phạt nào đó với một đồng minh cũ đã dám phản bội và quay lưng lại với Trung Quốc. Tâm lý này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc mang lại một sự đồng thuận rộng rãi giữa các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Trung Quốc để hỗ trợ Đặng, kẻ đóng vai trò trung tâm trong việc đưa ra các quyết định triển khai quân sự chống lại Việt Nam. Về các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, điều luôn luôn làm nảy sinh những phản ứng thái quá của người Trung Quốc, quan điểm quân sự dường như đã trở thành yếu tố kiên quyết trong các quyết định để khởi đầu cho mọi thù địch hiện nay. Hội nghị cán bộ tháng Chín năm 1978, từ việc cung cấp các khuyến cáo cho ban lãnh đạo trung ương để đối phó với tình hình quan hệ xấu đi giữa Trung Quốc và Việt Nam, đã là điểm khởi đầu cho một hoạt động quân sự lớn. Các phân tích quân sự về phản ứng có của Liên Xô cũng giúp làm sáng tỏ những lo ngại về rủi ro nếu có. Tuy nhiên, quân đội đã phải hy sinh chính họ cho tham vọng của ban lãnh đạo trung ương. Một khi quyết định đã được đưa ra để thực hiện cuộc xâm lăng trừng phạt Việt Nam, các tướng lĩnh đã hăm hở thực hiện nhiệm vụ của mình với sự thích thú triển khai tối đa lực lượng. Những bài học được rút tỉa Bất kể thành công về chiến lược của Trung Quốc như thế nào, một số vấn đề quan trọng vẫn cần được bàn lại. Ví dụ QGPND đã nhận thức thế nào về hiệu năng chiến đấu của họ ở Việt Nam, bài học nào đã rút ra từ chiến dịch, kinh nghiệm này đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của QGPND về tương lai của họ đến mức nào. Là một phần trong truyền thống của QGPND, tất cả các binh sĩ tham gia vào cuộc xung đột đã được lệnh phải viết tóm lược kinh nghiệm chiến đấu của họ. Nhìn lại cuộc chiến, bộ chỉ huy QGPND cũng thấy những mâu thuẫn nội tại. Trong khi tuyên bố rằng Trung Quốc đã giành chiến thắng, họ cũng phải thừa nhận cái giá quá cao mà QGPND đã phải trả. Trong quan điểm của bộ chỉ huy QGPND, ở một chừng mực nào đó cần có đánh giá phần nào khách quan về những yếu kém của QGPND. Tuy nhiên, họ lại e ngại khuynh hướng đánh giá quá cao khả năng và hiệu năng chiến đấu của quân đội Việt Nam. Cùng chiều hướng đó, nên niềm tự hào dân tộc và định kiến văn hóa của họ chắc chắn sẽ ngăn cản họ đưa ra những kết luận thẳng thắn về kinh nghiệm của QGPND trong chiến tranh. Những kinh nghiệm đó có thể được tổng hợp thành sáu chủ đề sau: Một trong những châm ngôn truyền thống của QGPND là “biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”. Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy QGPND quan tâm rất ít đến binh pháp và chiến thuật của QĐND Việt Nam trước khi họ tấn công Việt Nam. Kết quả là, quân đội Trung Quốc đánh giá thấp khả năng chiến đấu của các đối thủ của mình. Có thể từ chỗ lo sợ vì đã tung hô quá nhiều danh tiếng của quân đội Việt Nam, nên tài liệu quân đội QGPND đã kết luận rằng lực lượng chính quy của kẻ địch thiếu kiên trì trong tiến công và phòng ngự và có rất ít các chiến dịch hiệp đồng, nhưng lại thừa nhận rằng chiến thuật kiểu du kích, công binh và dân quân tự vệ của Việt Nam đã thành công đáng kinh ngạc trong việc kìm chân quân Trung Quốc giảm thế cân bằng khi họ lo tìm kiếm những trận đánh quyết định với quân chính quy của QĐND Việt Nam trong một cuộc chiến hạn chế. Một sĩ quan Mỹ khi tổng kết kinh nghiệm của người Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, đã ghi nhận rằng không thể “để xâm nhập, vòng sườn, hoặc bao vây” vị trí cố thủ của quân đội Việt Nam “mà không bị thương vong rất nặng”. Chiến thuật của QGPND, thúc thật nhiều bộ binh tấn công xáp lá cà vào vị trí đối phương bất chấp tử vong cao, đã giải thích tại sao Trung Quốc dám khẳng định rằng quân đội Việt Nam không có khả năng trong phòng thủ bảo vệ vị trí của họ. Những khó khăn bất ngờ trong tác chiến đã khiến người Trung Quốc rút ra bài học thứ hai từ cuộc xung đột liên quan đến tình báo và lập kế hoạch. Thiếu thốn thông tin từ lâu về một đồng minh truyền thống đã là một thách thức lớn cho việc lập kế hoạch chiến tranh và kế hoạch tác chiến của Trung Quốc. Các đánh giá về địa lý và địa hình của miền Bắc Việt Nam của QGPND thường dựa trên các bản đồ và thông tin địa lý đã lỗi thời, trong khi khả năng trinh sát chiến trường lại bị hạn chế. Một trong những sai lầm lớn của quân đội Trung Quốc là đánh giá sai số lượng lực lượng dân quân rất lớn trong dự đoán về sức mạnh quân sự Việt Nam. Kinh nghiệm của QGPND cho thấy, dân quân Việt thể hiện sức đề kháng không hề nao núng và thực hiện các cuộc tấn công bất ngờ hơn vào các quân xâm lược hơn cả bộ đội chính quy QĐND Việt Nam. Lúc đầu các nhà kế hoạch quân sự của QGPND tin rằng họ đã tập hợp được một lực lượng vũ trang vượt trội với tỷ lệ 8:1 để tấn công quân Việt Nam. Nhưng chỉ tính riêng tại khu vực Cao Bằng đã có 40.000 cho đến 50.000 dân quân khiến tỷ lệ lực lượng Trung Quốc chỉ còn hơn Việt Nam là 2:1. Trong suốt chiến dịch, QGPND không bao giờ cho thấy khả năng đè bẹp đối phương bằng mức vượt trội về quân số. Cuộc chiến tranh này còn cho thấy sự khó khăn như thế nào khi thực hiện các chiến dịch quân sự ở nước ngoài nếu dân chúng địa phương được huy động vào việc kháng cự. Bài học thứ ba là về khả năng chiến đấu của QGPND vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc áp dụng tác chiến phối hợp với nhiều binh chủng gồm xe tăng, đại bác, bộ binh cùng với một lực lượng không quân và hải quân yểm trợ. Lạc hậu trong binh pháp và chiến thuật khiến quân đội Trung Quốc không thể phối hợp một cách bài bản trong tác chiến. Trong khi đó ở Bắc Kinh, sự ràng buộc chính trị và tư duy quân sự lạc hậu đã bác bỏ phương án yểm trợ tác chiến của không quân. Các lực lượng mặt đất cũng cho thấy sự thiếu đồng bộ giữa bộ binh, xe tăng và các đơn vị pháo binh để có thể triển khai việc phối hợp tác chiến sao cho hiệu quả. Một ví dụ rõ ràng là bộ binh đã không bao giờ được huấn luyện kiến thức đầy đủ về phương án tấn công phối hợp với các đơn vị xe tăng. Lính bộ binh, những người bị buộc bằng dây thừng vào tháp pháo xe tăng để khỏi ngã khi hành quân đã bị mắc kẹt khi bị quân địch bắn hạ. Mặt khác, các đơn vị xe tăng thường phải chiến đấu không có bộ binh tháp tùng và thiếu liên lạc trực tiếp giữa hai bên nên đã phải chịu nhiều thiệt hại và tổn thất khôn lường. Kinh nghiệm của cuộc chiến tranh 1979 đã dạy cho QGPND bài học giá trị về kỹ năng phối hợp tác chiến đa binh chủng. Bài học thứ tư là về hiệu năng chỉ huy và điều khiển mà phần lớn bắt nguồn từ truyền thống và văn hóa của QGPND. Mối quan hệ cá nhân giữa sĩ quan chỉ huy và chiến sĩ, vốn đã được vun trồng trong quá khứ, vẫn tạo nhiều rắc rối trong hàng ngũ QGPND. Khi mà mối quan hệ giữa các cá nhân trở nên quan trọng hơn cả điều lệnh thì chẳng ngạc nhiên khi biết rằng các chỉ huy của Quân Khu Quảng Châu sau này thừa nhận rằng họ cảm thấy khó chịu khi chỉ huy quân sĩ được chuyển từ Quân khu Vũ Hán và Thành Đô đến trong thời gian phục vụ chiến dịch. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng nghe nhiều cấp dưới phàn nàn về phong cách chỉ huy của họ Hứa (Hứa Thế Hữu - ND) vì trước đó ông ta chưa từng chỉ huy họ. QGPND còn gặp khó khăn do nhiều sĩ quan chưa có kinh nghiệm trận mạc. Mặc dù nhiều sĩ quan có cấp bậc cao hơn và có thâm niên chiến đấu đã được cử đến để chỉ huy các đơn vị cấp thấp hơn để giúp đỡ chấp hành mệnh lệnh, nhưng khả năng tác chiến của QGPND vẫn thất bại vì các sĩ quan cấp thấp vẫn còn thiếu khả năng quyết đoán độc lập và phối hợp tác chiến trong những thời điểm quyết định. Tuy nhiên, cuộc chiến 1979 với Việt Nam đã khai sinh ra một thế hệ mới các cán bộ quân đội Trung Quốc có kinh nghiệm chiến trường, và nhiều người trong số họ hiện nay đang phục vụ tại các vị trí cao cấp của QGPND QGPND thiếu một hệ thống và cơ cấu cung cấp hậu cần hiện đại, để hỗ trợ cho những chiến dịch quân sự đòi hỏi di chuyển nhanh và ở vùng xa xôi. Các số liệu thống kê cho thấy trung bình mỗi ngày tiêu thụ đạn dược và nhiên liệu là 700 tấn cho mỗi loại. Hoạt động hậu cần là một lĩnh vực lớn để QGPND rút ra bài học. Vì không có đầy đủ dự trữ và phương tiện giao thông vận tải, khiến cả Quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã phải đặt dưới cùng một hệ thống cung cấp, mà hệ thống đó chẳng bao giờ hoạt động thông suốt và hiệu quả. Một số lượng đáng kể các nguồn cung cấp bị mất hoặc là do quản lý kém hay bị Việt Nam phá hoại. Khi lực lượng của họ tiến sâu hơn vào lãnh thổ Việt Nam, để bảo vệ mình, các sĩ quan hậu cần đã phải rất khó khăn để giữ liên lạc không bị trệch hướng với đại quân. QGPND đã kết luận rằng cần thiết phải tạo ra bộ chỉ huy về giao thông vận tải để đối phó với các vấn đề mà bộ đội của họ đã phải đối mặt trong chiến dịch. Kinh nghiệm này có vẻ vẫn còn giá trị cho Trung Quốc đến tận hôm nay khi cựu phó chỉ huy của Đại học Quốc phòng QGPND Trung Quốc phát biểu tại một hội nghị chuyên đề về “kiểm soát truyền thông” vào năm 2002. Bài học cuối cùng là làm thế nào để có thể diễn giải một học thuyết cũ về chiến tranh nhân dân vào các cuộc xung đột diễn ra bên ngoài biên giới Trung Quốc. Một trong những nguyên tắc của học thuyết chiến tranh nhân dân của Trung Quốc là việc huy động dân thường để hỗ trợ cho chiến tranh. Những kinh nghiệm chiến tranh 1979 đã chỉ ra rằng hầu như không thể đưa một lực lượng khổng lồ QGPND hoạt động ở nước ngoài mà không có sự ủng hộ chiến tranh của nhân dân trong nước. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã đánh thức lòng yêu nước của công chúng và lòng tự hào về người lính Trung Quốc. Biểu hiện mạnh mẽ của lòng yêu nước đã giúp QGPND nhận được hỗ trợ trực tiếp cho các hoạt động từ người dân sống tại hai tỉnh biên giới. Tại riêng tỉnh Quảng Tây, hơn 215.000 cư dân địa phương đã được huy động để làm người vận chuyển, nhân viên bảo vệ và khuân vác để hỗ trợ tiền tuyến; và hơn 26.000 dân quân từ khu vực biên giới đã thực sự tham gia vào các hoạt động chiến đấu trực tiếp. QGPND vào thời điểm đó chỉ có một hệ thống cung cấp vá víu đòi hỏi các đơn vị phải tự túc hệ thống cung cấp trên chiến trường theo kiểu “hậu cần bán lẻ”. Chính quyền địa phương đã làm mọi việc dễ dàng cho binh lính bằng cách đơn giản hoá thủ tục, giúp họ nhận được đầy đủ vật chất và thực phẩm tươi trong thời gian ngắn nhất có thể. Kinh nghiệm này đã thuyết phục bộ chỉ huy QGPND rằng huy động chính quyền địa phương và dân chúng để hỗ trợ cho một cuộc chiến tranh vẫn là chìa khóa cho chiến thắng. Những bài học mà Trung Quốc đã rút tỉa được từ cuộc chiến 1979 với Việt Nam có thể không được liền lạc, thiếu toàn diện và khó mà khách quan vì QGPND không đánh giá sự thành công về chiến dịch quân sự của họ trên cơ sở kết quả tác chiến mà là trên cơ sở các tác động của cuộc xung đột đến tình hình chung. Chịu ảnh hưởng sâu sắc lời dạy của Mao là chiến tranh về cơ bản là một vụ kinh doanh chính trị, miễn là Trung Quốc cho là họ đã thành công trong việc đạt được mục tiêu quân sự và chiến lược đề ra, còn các vấn đề gây ra từ thất bại của chiến thuật chỉ là thứ yếu. Đây cũng là lý do tại sao các bài học đó đã có những khác biệt đáng kể so với các nghiên cứu của phương Tây nơi mà nhiều thông tin tương đối khả tín, mặc dầu đôi khi vẫn thấy xuất hiện đây đó một chút thái quá do lạm dụng các nguồn tin hạn chế để kết luận về một vấn đề cực kỳ phức tạp. Các nghiên cứu của QGPND nhìn nhận rằng cuộc Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976) đã tạo bất lợi và hủy hoại những truyền thống tốt đẹp của QGPND, và kết quả là, các lực lượng của Trung Quốc thực hành tác chiến tồi tệ trong chiến tranh. Những bài học rút ra của QGPND đã tập trung nhiều vào cấp độ chiến thuật của chiến tranh với sự nhấn mạnh vào chỉ huy và kiểm soát, phối hợp tác chiến giữa các đơn vị, cơ cấu lực lượng và vũ khí hơn là chiến lược và triết lý mang tính học thuyết. Trong quá trình đánh giá kinh nghiệm chiến tranh 1979, QGPND có vẻ như không tìm cách che đậy hoặc bỏ qua thiếu sót về các hạn chế của họ vào thời điểm đó; tuy nhiên họ đã mắc sai lầm khi không đề cập đến những khiếm khuyết trong tư duy quân sự và binh pháp truyền thống. Các nghiên cứu của phương Tây đã so sánh những bài học mà QGPND đã rút ra từ cuộc chiến Việt-Trung 1979 với việc đánh giá lại vào năm 1985 của ban lãnh đạo Trung Quốc về bản chất của chiến tranh hiện đại và các mối đe dọa đang rình rập Trung Quốc cộng với những nỗ lực tiếp theo để cải tiến và chuyên nghiệp hóa QGPND trong suốt những năm 1980. Bài học Việt Nam đối với QGPND và những cuộc giao tranh vẫn liên tục xảy ra trên biên giới Trung-Việt trong những năm 1980 đã giúp cho cho ban lãnh đạo Trung Quốc phải thực hiện những cuộc chuyển đổi chiến lược từ việc nhấn mạnh đến sự chuẩn bị cho chiến tranh tổng hợp đến việc chuẩn bị cho chiến tranh cục bộ và chiến tranh hạn chế theo xu hướng của thời gian. Trong quá trình chuyển đổi QGPND thành một lực lượng hiện đại vào những năm 1980, có rất ít những nỗ lực được thực hiện nhằm sửa chữa thiếu sót về tư duy quân sự, đó là thái độ luôn luôn coi nhẹ vai trò của của không quân. Kết quả là, nếu có điều gì còn chưa trung thực trong việc rút kinh nghiệm của QGPND thì đó chính là bài học về ưu thế trên không hoặc yểm trợ không quân. Tài liệu của QGPND vẫn cho rằng việc hạn chế khả năng của lực lượng không quân Trung Quốc là lý do chính khiến không quân Việt Nam không tham gia vào xung đột. Nguyên soái Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying) thậm chí còn nhận xét một cách lố bịch rằng hoạt động giả vờ của không quân Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại Việt Nam là một “đòn nghi binh khéo léo trong tác chiến không quân”. Nhận xét đó rõ ràng cho thấy vẫn còn sai lầm trong giới lãnh đạo Trung Quốc khi họ tiếp tục đánh giá chưa cao vai trò quan trọng của không quân trong chiến tranh hiện đại. Tuy nhiên, tổng kết các kinh nghiệm của QGPND trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam đã cung cấp một cái nhìn hữu ích về việc giới lãnh đạo Trung Quốc trong việc tiếp cận vấn đề chiến tranh và chiến lược như thế nào. Cái nhìn này cũng phù hợp với những phát hiện nằm trong các công trình nghiên cứu gần đây. Trước tiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thảo luận và tính toán thời điểm và như thế nào khi sử dụng sức mạnh quân sự, nhưng đã không ngần ngại quyết định khởi chiến khi họ cho rằng lợi ích quốc gia của Trung Quốc đang bị hăm doạ hoặc lâm nguy. Thứ hai, QGPND thể hiện quyết tâm giành và giữ thế chủ động tác chiến bằng việc triển khai quân số vượt trội (chiến thuật biển người). Thứ ba, ý thức về chiến thắng quân sự của Trung Quốc đặt nhiều hơn vào việc đánh giá kết quả địa chính trị khi đem so với phê phán về hiệu năng tác chiến trên chiến trường. Kể từ sau cuộc chiến 1979 với Việt Nam, QGPND đã tiến hành sửa đổi sâu rộng trong học thuyết quốc phòng, chỉ huy và điều khiển, chiến thuật tác chiến, và cơ cấu lực lượng, trong khi các hoạt động quân sự thế giới cũng đã chuyển đổi đáng kể từ khi cuộc chiến năm 1979. Ngày nay, không ai nghĩ rằng các lực lượng vũ trang của Trung Quốc sẽ lặp lại những gì họ đã làm trong chiến tranh biên giới với Việt Nam. Từ góc độ lịch sử, những nét đặc thù của người Trung Quốc đã bộc lộ trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam có thể vẫn còn có giá trị trong các giáo trình của học viện quân sự của Trung Quốc cũng như đối với những người hằng quan tâm đến phương pháp sử dụng sức mạnh quân sự của người Trung Quốc, không chỉ trong quá khứ mà cả với hiện tại và trong tương lai. Bản dịch của một cộng tác viên, riêng cho tạp chí Thời Đại Mới.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 7:11:01 GMT 9
Xã hội dân sự, Trung Quốc và Việt Nam Nguyễn Ngọc Giao Tổ chức bầu cử chỉ cần 6 tháng, lập nên một nền kinh tế thị trường thì một năm, còn muốn tạo ra một xã hội dân chủ phải cả một thế hệ. Mà không có xã hội dân sự thì không thể có dân chủ.
Ralf Dahrendorf Trong câu chuyện nổi tiếng của Lewis Carroll, Alice ở Xứ Thần Tiên, có con mèo Cheshire. Đó là con mèo ảo, khi hiện ra khi biến mất, sắc sắc không không. Nó lại có đặc điểm là thường hay mở miệng cười. Đặc biệt là có khi nó mất dạng, nhưng nụ cười của nó vẫn còn đó. Khiến cho cô bé Alice, một người ít khi ngạc nhiên vì bất cứ cái gì, kể cả những điều nghịch lí nhất, cũng phải kinh ngạc thốt lên: “Tôi từng thấy những con mèo không cười, chứ chưa bao giờ thấy cái cười không mèo”. Nhà Trung Quốc học người Pháp Yves Chevrier[1] đã nhắc tới con mèo Cheshire khi ông bàn tới “xã hội dân sự” ở Trung Quốc, hay đúng hơn, khi ông nghiên cứu những bước truân chuyên lao tâm khổ tứ của những nhà Trung Quốc học khi họ đi tìm “xã hội dân sự” ở Trung Quốc, cổ đại và hiện đại, để rồi rốt cuộc hình như không đi xa hơn cuộc tranh luận nảy lửa: có thể “áp đặt” khái niệm “Tây phương” là “societas civilis” vào việc nghiên cứu một nước phương Đông là Trung Quốc hay không? Có nhà nghiên cứu còn viện dẫn G. W. F. Hegel, nhà triết học nghe nói đã viết ở đâu đó rằng Trung Quốc là một Nhà nước không có xã hội.[2] Chẳng biết, chẳng hiểu gì về Hegel, nhưng nghe câu nói động trời ấy, tôi vội gõ vào cái cửa thích đáng nhất là địa chỉ email của người đã dịch Hiện tượng học tinh thần.[3] Được trả lời: câu ấy không thấy trong văn bản, không có trong mấy chục trang Hegel viết về phương Đông, cụ thể trong Các bài giảng về Lịch sử triết học (tập I) và Các bài giảng về triết học Lịch sử. Nó phản ánh phần nào cái nhìn của Hegel về Trung Quốc và Ấn Độ, nhưng câu chữ như vậy, nếu có, thì không “hê-ghê-liên” chút nào, vì đối với Hegel, “Nhà nước” cao hơn “xã hội”. Nhưng thôi, chuyện Hegel, chúng ta lát nữa sẽ đề cập. Xin trở lại “con mèo Cheshire” và cái “cười” của nó. Trước khi xem ở Trung Quốc và Việt Nam có mèo, có mèo cười hay mèo không cười, có cười có mèo hay không mèo, chúng ta hãy làm công việc “chính danh”: thử định nghĩa “xã hội dân sự”, và rất nhanh chóng, chúng ta sẽ thấy nó là một mớ bòng bong khá rối rắm, nó là A và là không-A, nó được giá và mất giá, nó đáng sợ, đáng nghi và nó rất cần, “không có nó thì không có dân chủ” ; tóm lại, muốn gỡ mối bòng bong ấy, để biết chúng ta bàn về cái gì, thì trước hết, xin điểm qua lịch sử của cụm từ “xã hội dân sự”. Sau đó, chúng ta sẽ xét tới số phận của cụm từ ấy ở “phương Đông” là Trung Quốc và Việt Nam, và từ đó, bàn qua thực trạng và triển vọng của bản thân xã hội dân sự ở đó. Lịch sử một cụm từ - khái niệm Cụm từ “civil society” / “société civile” mãi đến thế kỉ 17 mới xuất hiện trong các văn bản tiếng Anh, tiếng Pháp, nhưng “nguyên bản” bằng tiếng Latinh của nó, “societas civilis”, đã được Cicéron sử dụng từ thời Cổ La Mã, với một nội dung tương đương với cụm từ Hi Lạp koinōnia politikē. Trong thời cổ đại và trung cổ, cái xã hội được gọi là civilis ấy chính là xã hội con người được tổ chức thành Nhà nước, nó hầu như đồng nhất với khái niệm Nhà nước, civilis được hiểu với hai nghĩa: một là nó văn minh / civilisé, đối nghịch với trật tự tự nhiên, hoang dại, tức là nó có pháp luật, có lễ độ ; hai là công dân, người tham gia trực tiếp vào sinh hoạt dân chủ của thành quốc – tất nhiên, tại thành quốc Athènes, cái nôi của nền dân chủ ấy, số công dân chỉ là một thiếu số nhỏ bé, vì trong đó không có đàn bà, không có nô lệ, không có mê-téc μετοίκος / metoikos nghĩa là “người ngoài”, những người “ngụ cư” (chắc cũng không có... Việt kiều luôn). Như vậy là cho đến thế kỉ 17 ở châu Âu, khái niệm “xã hội civilis” hầu như đồng nhất với khái niệm xã hội được tổ chức về mặt chính trị, nghĩa là Nhà nước. Nhưng bản thân nó đã mang mầm mống của sự phân hoá và mâu thuẫn: bởi vì trong xã hội châu Âu thời Trung Cổ và Phục hưng, quyền lực chính trị được chia sẻ giữa hai đối tác: Giáo hội và Quân vương (le Prince). Một hay hai? Một thành hai, hai thành một? Vấn đề lại càng trở nên phức tạp và gay cấn vì xuất hiện hai tay phá đám. Một là Luther phủ nhận vai trò của linh mục – người trung gian giữa tín đồ và Thượng đế – phản đối vai trò cồng kềnh, sa hoa của Giáo hội. Với quan niệm Tin Lành, mỗi cá nhân tín đồ trở thành những cá nhân thực thụ, không còn nấp bóng áo chùng của linh mục (người chăn linh hồn) được nữa, mà phải tự chăn phần hồn của mình, cá nhân trở thành cô độc một cách kinh khủng – và chính những còn người cô độc kinh khủng ấy sẽ gặp nhau trong các cuộc “town meetings” mà Alexis de Tocqueville đã mô tả trong tác phẩm Bàn về nền dân chủ ở Mĩ. Sau Luther (và Calvin nữa, tất nhiên), người phá đám thứ nhì là giai cấp tư sản thương nhân, sẽ nhân danh “xã hội dân sự” để đòi hỏi quyền tự trị đối với chính quyền (quân chủ) và thần quyền (của giáo hội). Thế là từ đây trở đi, “xã hội civilis” sẽ phải tự định nghĩa, tự định vị đối với bộ ba: thần quyền, chính quyền và kinh tế quyền (trong một số trường hợp, với cả quân quyền nữa...) Đối với Thomas Hobbes (1588-1679) – người được coi là đã tạo ra cụm từ này -- “civil society” còn gần như đồng nghĩa với Nhà nước, với một khác biệt đáng kể: xã hội “civil” là một kiến tạo tự nguyện của các cá nhân thành viên nhằm mực đích bảo đảm trật tự và an lạc. Tiếp theo Hobbes, Samuel von Pufendorf (1632-1694) phân biệt xã hội «civis”, tức là xã hội của những công dân, với “xã hội của những Kitô-hữu” (tức là Giáo hội), cũng như với “xã hội” nghĩa là tập hợp đơn thuần, tự nhiên của những cá nhân, không do một thoả ước tập thể nhằm kiến lập một quyên lực chung. Với John Locke (1632-1704), xã hội “civil” không chỉ có mục đích là bảo đảm an ninh và an lạc nữa mà “cứu cánh chủ yếu của nó là duy trì tư hữu” (Of political or civil society). Đi xa hơn nữa, Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) tách biệt Nhà nước và xã hội dân sự, Nhà nước là quyền lực chính trị, xã hội dân sự là nơi chốn của quyền tư hữu: “kẻ đầu tiên dựng nên hàng rào quanh mảnh đất và nói: đất này là của tôi... kẻ đó là người sáng lập xã hội dân sự” (Discours sur l’origine et les fondements de l’inégalité parmi les hommes, phần hai, câu đầu). Không đi vào chi tiết quan điểm của Rousseau, tôi chỉ xin nhấn mạnh trên một ý: Như ta biết, Rousseau chủ trương “khế ước xã hội”, nhưng cũng rất cảnh giác với “văn minh”, “tiến bộ”, chống lại sự ngự trị của “luật về tư hữu và bất bình đẳng”, chống lại tình trạng mà luật pháp mang lại “những cản trở mới cho kẻ yếu và những sức mạnh mới cho kẻ giàu”. Cuối thế kỉ 18, trong khi nhóm Bách khoa toàn thư của Diderot và d’Alembert vẫn còn gần như đồng nhất Nhà nước và xã hội “civil” và thu hẹp xã hội “civil” vào một kích thước là kích thước chính trị, Adam Smith quan niệm khác hẳn: tuy không dùng cụm từ “civil society” mà chỉ nói đến “nation” (dân tộc) hay “society” (xã hội), và định nghĩa nó là xã hội của trao đổi thương mại, một cơ chế trong đó các quyền lợi tư tự chúng hài hoà với nhau, không cần phải do ý muốn chủ đích của các cá nhân. Với Smith, từ nay xã hội “dân sự” tách biệt hẳn với Nhà nước mà “bổn phận” chỉ còn là đảm nhiệm ba chức năng: bảo đảm an ninh đối ngoại, giữ gìn trật tự quốc nội, và “bảo trì một số công trình công cộng” khi mà tư nhân không đảm đương được (The Wealth of Nations). Bước sang thế kỉ 19, nảy sinh hai quan niệm về xã hội dân sự. Một quan niệm “phóng khoáng [4]”, khẳng định sự “tự lập” của nó đối với Nhà nước: đó là quan niệm của bộ Dân luật (1804) Pháp cũng như trong tác phẩm của Benjamin Constant (1767-1830). Quan niệm kia là quan niệm của Hegel, rồi của Marx, dựa trên hai đặc trưng của xã hội dân sự phái sinh từ cuối thế kỉ trước: xã hội kinh tế và xã hội xung đột. Quan niệm “phóng khoáng” về xã hội dân sự trong bộ Code civil / Luật dân sự của Pháp (1804), trong một ý nghĩa nào đó, là một sự sửa sai đối với Cách mạng Pháp 1789. Thật vậy, “xã hội dân sự” hoàn toán vắng bóng trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và các bản Hiến pháp của Cách mạng Pháp, cũng như trong các bài viết của Robespierre, Saint-Just, Sieyès. Đối với các nhà lãnh đạo “cứng rắn” của Cách mạng tư sản, chỉ có một bên là “xã hội hiện thực, chia năm xẻ bảy và đa nguyên”, và một bên là “dân tộc”, là “quốc gia”, “một” và là “tất cả”. “Xã hội dân sự” không những bị triệt tiêu trong văn bản, mà trên thực tế: đạo luật Le Chapelier (14-16.07.1791) đã giải tán tất cả các phường hội. Tôi mở ngoặc nói về giai đoạn này, coi đó như một tiền lệ của Cách mạng tháng Mười Nga, và của quan niệm bôn-sê-vich. Sự triệt tiêu xã hội dân sự ở Nga từ sau 1917, ngày nay, 90 năm sau, Cộng hoà Liên bang Nga vẫn còn phải trả giá trong công cuộc xây dựng dân chủ. Số phận tương tự cũng dành cho xã hội dân sự tại các nước “xã hội chủ nghĩa” ra đời sau Thế chiến lần thứ nhì. Với bộ Luật dân sự, “xã hội dân sự” được thiết lập và vận hành theo pháp luật. Dân luật (code civil) và Công luật (droit public) trở nên nền tảng để tách biệt xã hội dân sự và Nhà Nước, cái “dân sự” và cái “chính trị”, lãnh vực tư (sphère privée) và lãnh vực công (sphère publique). Benjamin Constant, nhà lí luận của quan niệm này, “đòi duyền tự do dân sự cùng một lúc với các dạng thức khác của quyền tự do chính trị”, và định nghĩa tự do dân sự là “sự thụ hưởng an nhiên của sự độc lập cá nhân” (De la liberté chez les Modernes). Điều cần nhấn mạnh ở Constant, là ông chủ trương sự cân đối mà không đối lập giữa xã hội dân sự và Nhà nước, ông không hề đòi giảm nhẹ vai trò của Nhà nước (như hiện nay những người “liberal cực đoan” đang làm để tư nhân hoá – hay “xã hội hoá”?!!! – những dịch vụ công cộng), mà cho rằng Nhà nước và xã hội dân sự bổ sung nhau: vấn đề không phải là dựng nên những rào cản giả tạo để ngăn ngừa sự can thiệp của Nhà nước vào xã hội dân sự, mà là tạo điều kiện để xã hội dân sự tự tổ chức. Đối với Constant, một Nhà nước hùng cường giả định một xã hội dân sự mạnh mẽ ; vấn đề không phải là hi sinh tự do dân sự để có tự do chính trị hay ngược lại, mà phải “kết hợp cả hai”. Nói kết hợp, nghĩa là thừa nhận sự dị biệt, và có thể xung đột giữa Nhà nước và xã hội dân sự. Làm sao hoà giải được Nhà nước và xã hội dân sự? Đó là bài toán mà Hegel tìm cách giải quyết trong Nguyên lí triết học luật pháp. Có thể nói không ngoa là với Hegel và Marx, khái niệm “xã hội dân sự” hiện đại mới thực sự được định hình và triển khai. Không thể nói dài, nhưng cũng không thể nói ngắn, và càng không thể nói dở và nói sai, tôi xin tóm tắt ở dưới đây, một vài ý chính đã được anh Bùi Văn Nam Sơn giảng cho tôi trong một lá thư riêng – tất nhiên tôi xin chịu trách nhiệm về mọi sai lầm tất nhiên mắc phải trong việc hiểu và nói lại như vậy: * Trước tiên, Hegel phân biệt xã hội tiền – hiện đại và xã hội hiện đại. Xã hội tiền hiện đại có 2 đặc điểm: - con người bị chìm đắm trong cái Bản thể (xã hội) và bị cai trị một cách trực tiếp, không có sự trung giới. - chỉ có sự phân biệt giữa “xã hội” tự nhiên và riêng tư của gia đình với “xã hội” công cộng và nhân tạo của nhà nước chính trị. Trong một trật tự xã hội như thế, không có chỗ cho những cá nhân hoạt động với tư cách là những “personnes” và những “chủ thể” sử dụng sự tự do lựa chọn của mình để theo đuổi những mục đích riêng và phát triển tính cá nhân độc đáo của mình trong vũ đài công cộng rộng hơn của đời sống xã hội. Còn trong xã hội hiện đại: - Con người hiện đại hiểu chính mình như là personnes có quyền tự do lựa chọn trong lĩnh vực ngày càng rộng rãi. Lĩnh vực này bắt đầu với thân thể của mình, rồi mở rộng ra thành những gì được gọi là “tài sản cá nhân” (Triết học pháp quyền, §§45-47). Với Hegel, hình thức chính đáng duy nhất của tài sản được xã hội hiện đại thừa nhận là sự tư hữu (nt, §46). - Con người hiện đại còn hiểu chính mình như là những chủ thể mang lại ý nghĩa cho cuộc đời thông qua những lựa chọn của mình. Chủ thể đòi hỏi một lối sống tự chủ, xem hành động của mình là kết quả của sự lựa chọn chứ không phải của tập quán hay của sự cưỡng chế xã hội. Ðiều này cần có cấu trúc xã hội mà Hegel gọi là “sự tự do chủ quan” (nt, §224). - Thoạt nhìn, có vẻ giống với quan niệm của Liberalisme classique, nhưng chỗ khác cơ bản là: với Hegel, “personne” và “chủ thể” chỉ là những sự trừu tượng; tự chúng không đủ để mang lại nội dung cho quyền con người hay nghĩa vụ luân lý. Trong hình thức trừu tượng ấy, chúng sẽ dẫn đến “tinh thần cá nhân nguyên tử” tách rời con người với nhau và với đời sống xã hội. Nếu nhà nước chính trị chỉ được quan niệm như là kẻ bảo vệ quyền của “personne”, thì nhà nước không tránh khỏi trở thành một sức mạnh trừu tượng đối lập lại cá nhân với chức năng duy nhất là giám sát và cưỡng chế. Nếu nhà nước chỉ có chức năng “cảnh sát”, nó sẽ bị quy giản thành “nhà nước cảnh sát”, trở nên thù địch với con người. Vậy, pháp quyền và luân lý chỉ phát triển trong một hệ thống bảo đảm sự tự do và hạnh phúc của cá nhân trong những vai trò nhất định được xã hội thừa nhận. Hệ thống ấy Hegel gọi là “đời sống hay trật tự đạo đức” (Sittlichkeit/ordre ou vie éthique). Vậy, trong xã hội hiện đại, quyền và hạnh phúc cá nhân đã có được vị trí chính đáng độc lập với lợi ích của toàn bộ xã hội. Việc theo đuổi lợi ích của toàn bộ xã hội này đòi hỏi một loại định chế xã hội mới mẻ, trong đó sự tham gia của cá nhân trong đời sống xã hội phải được trung giới thông qua ý chí tự do lựa chọn của cá nhân và phải diễn đạt được ý kiến chủ quan của cá nhân (Sđd, §206). Hegel gọi định chế xã hội mới mẻ ấy là “bürgerliche Gesellschaft (viết tắt BG) / société civile, vì xã hội ấy bao gồm những “Bürger”. Chữ Bürger có cả hai nghĩa: citoyen và bourgeois. Hegel nhấn mạnh: ông hiểu theo nghĩa sau: bourgeois (nt, §190). Vì thế, BG không phải là một lĩnh vực tự nhiên hình thành từ việc những cá nhân theo đuổi những ham muốn riêng tư bằng cách tham gia vào thị trường. Cách hiểu đơn thuần kinh tế này về BG bị Hegel gọi là “cộng đồng thú vật mang tính tinh thần” (Hiện tượng học Tinh thần, §§339 và tiếp). Mục đích của BG không chỉ để thoả mãn nhu cầu và ham muốn mà để tự - hiện thực hoá cá nhân. “Nhân vị cụ thể” (konkrete Person) chỉ là nguyên tắc thứ nhất của BG, cần được bổ sung bằng nguyên tắc thứ hai: “hình thức của tính phổ biến” (Triết học pháp quyền, §182). Như thế, sự phân tích của Hegel về BG bao hàm cả việc xem xét các hình thức của sự đoàn kết hay liên đới xã hội, qua đó cá nhân tự quan hệ với những mục đích phổ biến của Nhà nước (nt, §§230-56). BG là xã hội đích thực (wahre Gesellschaft / vraie société) trong đó cá nhân có được những bản sắc xã hội nhất định, phát triển các mối quan tâm đạo đức đến hạnh phúc của những người khác cũng như chia sẻ những mục đích tập thể. Chức năng sâu xa của việc phân công lao động không chỉ là để nâng cao năng suất mà còn mang lại lối sống nhất định, được BG thừa nhận. Khi thuộc về một “tầng lớp” hay “giai cấp” (Stand), cá nhân có được một lối sống nhất định, một phẩm giá được những người khác thừa nhận, và có thước đo khách quan cho giá trị của bản thân. Vì thế, Hegel đề nghị BG phải được tổ chức thành những “hiệp hội”, tạo ra “tinh thần hội đoàn”, “tinh thần liên đới”. Ðiều này không chỉ mang lại sự cố kết của tầng lớp mà còn hướng tới những mục tiêu chung, làm cho cá nhân là thành viên của một “xã hội phổ biến”. Bằng cách ấy, “lĩnh vực của BG chuyển hóa thành Nhà nước” (Sđd, §256). Hiểu như thế, lý luận của Hegel đã mặc nhiên chứa đựng các đặc điểm chủ yếu của Marx khi phân tích chủ nghĩa tư bản hiện đại. Hegel là người đầu tiên phân biệt “BG” (hay lĩnh vực “kinh tế” theo nghĩa rộng) với gia đình và Nhà nước. Marx cho rằng quan niệm này đã cung cấp chìa khóa cho chủ nghĩa duy vật lịch sử: cấu trúc và sự thay đổi của BG là yếu tố quyết định cho việc chuyển hóa lịch sử nói chung. Hegel đã đi trước Marx khi nhận ra rằng thị trường chỉ là vẻ ngoài của các cấu trúc xã hội sâu xa hơn mà các mục đích cơ bản của chúng là có tính tập thể hơn là cá nhân. Tất nhiên, Hegel xem cấu trúc bề sâu ấy là một cơ chế hài hoà giữa các giai cấp, trong khi Marx xem đó là miếng đất tranh chấp và bùng nổ của cuộc đấu tranh giai cấp. (Hegel cũng dùng quan niệm “giai cấp” để mô tả sự xung đột trong BG, chỉ khác với Marx ở chỗ: Hegel xem tầng lớp “dân đen” là không có năng lực hành động tập thể và hầu như bị loại khỏi “trật tự đạo đức”, ngược lại với quan niệm của Marx về “giai cấp vô sản”).[5] Ðiểm mấu chốt là: Hegel xem BG là miếng đất hiện thực để xây dựng nên “Nhà nước chính trị” hài hoà; ngược lại, Marx muốn cải biến BG để xóa bỏ xung đột giai cấp, bấy giờ sẽ thủ tiêu luôn Nhà nước, bởi Nhà nước chỉ là “thượng tầng kiến trúc”. Hegel và Marx đều xuất phát từ tiền - giả định về sự “trong suốt” trong nhận thức về xã hội. Với Hegel, sự tự do chủ quan (tính chủ thể tự giác) là điều kiện để đi tới sự trong suốt, nhưng điều này chỉ đạt được nơi “triết gia” khi hồi cố về sự phát triển lịch sử. Với Marx, “sự trong suốt” là ảo tưởng trong mọi giai đoạn lịch sử trước đây. Chỉ khi con người không còn phục tùng sự phân chia giai cấp, thì mới có sự tự do đích thực, nghĩa là khi đời sống chung trong BG trở thành “ý chí của những cá nhân hợp nhất”. Tự do ấy, một khi đạt được, sẽ bền vững: cách mạng vô sản sẽ không phải là sự kết thúc của lịch sử mà chỉ là sự cáo chung của thời “tiền sử” của con người”! Nói tới xã hội dân sự mà Marx coi là “hạ tầng cơ sở”, không thể không nói tới ý kiến của Antonio Gramsci.[6] Đối với nhà mac-xit Ý, Nhà nước (tư sản) không chỉ mạnh nhờ bộ máy trấn áp, mà còn nhờ sự bá quyền tư tưởng của nó, thông qua những định chế trong đời sống hàng ngày của xã hội dân sự (hội đoàn, giáo hội, trường học...), những định chế mà sau này, Bộ phận ấy, Gramsci xêp vào “thượng tầng kiến trúc”, Louis Althusser gọi là “bộ máy tư tưởng của Nhà nước” (appareils idéologiques d’Etat). Khái niệm này đáng chú ý, nhất là trong giai đoạn toàn cầu hoá với những phương tiện truyền thống toàn năng. Như thế, ta đứng trước hai mô hình (Hegel và Marx)! Các lý thuyết hiện đại về xã hội dân sự dường như đều là các cách phản ứng trước hai mô hình này. Nếu thấy cả hai mô hình đều có mặt không tưởng (hoang tưởng?!), nếu thấy BG ngày càng trở thành quyền lực kinh tế lũng đoạn (thể hiện cực đoan trong quan niệm của Hayek chẳng hạn…), còn viễn tượng “nhà nước tiêu vong” là xa vời, thì chỉ còn cách… tự vệ của người “công dân”! Trong vô số lý luận hiện nay về xã hội dân sự, tôi thấy đáng lưu ý là quan niệm của J. Habermas về cái gọi là “deliberative Demokratie / deliberative Politik” (nền dân chủ tham vấn?). Ðó là sự quyết định bằng thảo luận chứ không bằng mệnh lệnh. Khác với lý luận về định chế của khoa chính trị học, Habermas tập trung vào vai trò công luận của công dân. Bên cạnh hai nguồn lực cố hữu của xã hội là sức mạnh kinh tế và quyền lực chính trị, ông muốn xây dựng nguồn lực thứ ba: sự đoàn kết, liên đới, hình thành từ sự truyền thông của quần chúng. Chính chất lượng lập luận trong tiến trình này sẽ mang yếu tố “lý tính” vào trong tiến trình chính trị vốn chỉ dựa trên các sự thoả hiệp về lợi ích. Qua đó, hệ thống chính trị không còn là đỉnh cao và trung tâm của xã hội (kiểu Hegel) mà chỉ là một hệ thống hành vi truyền thông bên cạnh các hệ thống khác. Vị trí và tính chất của nền “dân chủ tham vấn” vừa khác với mô hình dân chủ pháp quyền - tự do (dựa trên những thỏa hiệp về lợi ích riêng) lẫn với mô hình cộng hòa nhân dân (dựa trên sức mạnh tự tổ chức của quần chúng được chính trị hoá). Nói cách khác, bên cạnh khu vực của thị trường và của nhà nước, Habermas chủ trương xây dựng khu vực của xã hội công dân (Bürgergesellschaft / Zivilgesellschaft). Nghĩa là, khác với chủ nghĩa tự do xây dựng trên xã hội dân sự (Bürgerliche Gesellschaft / Civil Society), Habermas đề nghị xây dựng nền “dân chủ tham vấn” trên xã hội công dân (Bürgergesellschaft / Citizen Society) [7] Nguồn lực Hệ thống Khu vực Quyền lực cai trị hành chính Bộ máy chính trị Nhà nước (hệ thống chính trị) Quyền lực kinh tế (tiền) Hệ thống hành vi kinh tế Thị trường (xã hội dân sự) Quyền lực truyền thông (sự đoàn kết, liên đới, tin cậy…) Mạng lưới truyền thông công cộng Xã hội-công dân (công luận)
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 7:12:28 GMT 9
Phương Đông nhìn từ Iena Tại sao Hegel có thể cho rằng ở Trung Quốc, ở Phương Đông nói chung, không có “xã hội” hay “xã hội dân sự”? Trong hai tác phẩm kể tên ở đầu bài, nhà triết học ở Iena có một số câu đoạn nói về phương Đông, Trung Hoa và Ấn Độ, và nói một cách không mấy quan tâm tới “quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc”. Có những nhận định có thể nói là võ đoán, cường điệu, nhưng có những điều đáng làm ta suy nghĩ. Dưới đây, xin trích dẫn một vài đoạn. Trong Các bài giảng về Lịch sử triết học (tập I): “Con người [phương đông] sống trong sự khiếp sợ, hay nói cách khác, con người thống trị con người bằng sự khiếp sợ: cả hai đứng cùng ở một cấp độ. (...). Ông vua chuyên chế thực hiện những sáng kiến của mình, có khi cả điều tốt, nhưng không phải như là pháp luật mà như là sự tuỳ tiện của mình.” “Sự tự do ở phương Đông, Hy Lạp và thế giới Germain có thể xác định một cách sơ sài trong các sự trừu tượng hoá sau đây: ở phương Đông chỉ có một người duy nhất là tự do (ông vua chuyên chế) ; ở Hy Lạp, một số người là tự do, còn trong đời sống Germain, câu nói sau đây có hiệu lực: tất cả mọi người đều tự do, nghĩa là, con người là tự do với tư cách là con người. Nhưng, ở phương Đông, một con người duy nhất cũng không thể là tự do, vì muốn tự do thì những người khác cũng phải tự do, nên ở đó chỉ là sự ham muốn, sự tuỳ tiện, sự tự do hình thức, sự bình đẳng trừu tượng của Tự - ý thức (Tôi=Tôi)”… Trong Các bài giảng về triết học Lịch sử: “Người Trung Quốc xem mình là thuộc về gia đình và đồng thời như là những đứa con của Nhà nước. Trong bản thân gia đình, họ không phải là những “nhân vị” (Personen), bởi sự thống nhất bản thể ở đây là sự thống nhất của huyết thống và của tính tự nhiên. Trong Nhà nước, họ cũng không phải là những “nhân vị”, vì quan hệ thống trị ở đây là quan hệ gia trưởng, và chính quyền dựa trên việc thực thi sự chăm lo của vua đối với dân như của cha đối với con… để giữ mọi việc trong vòng trật tự”… “Nền tảng gia đình cũng là nền tảng của “hiến pháp”, nếu có thể dùng một từ như thế. Vì, tuy ông vua có quyền của một vị quân chủ đứng đầu toàn bộ nhà nước nhưng ông ta lại thực thi quyền của mình theo cách của một người cha đối với con cái của mình. Ông ta là gia trưởng (…) và đồng thời cũng là thủ lĩnh của tôn giáo và của khoa học. Vua là gia trưởng, còn thần dân là con cái không ra khỏi vòng luân lý gia đình, không tạo nên được sự tự do độc lập của người công dân, khiến toàn bộ nhà nước biến thành một vương quốc, một sự cai trị và lề thói chỉ có tính luân lý, nghĩa là, chỉ có tính giác tính (verständig / entendement) chứ không có lý tính tự do và sự tưởng tượng”. “Ở Trung Quốc, sự khác biệt giữa nô lệ và tự do tất nhiên là không lớn, bởi trước mặt hoàng đế, tất cả đều bình đẳng, nghĩa là, đều bị giáng cấp như nhau”. Trung Quốc, Việt Nam ngày nay Nếu còn sống, chắc Hegel sẽ không khỏi ngạc nhiên trước cảnh tượng Trung Quốc và Việt Nam ngày nay – ít nhất khi ông đọc những số liệu về tổ chức hội đoàn, một trong những chỉ dấu để đo sức sống của xã hội dân sự. Đó là những con số hoành tráng: * tại Trung Quốc, theo ước tính chính thức thì năm 2005, có khoảng 300 000 tổ chức phi chính quyền (NGO), thêm vào đó là 120 000 tổ chức mà Hán ngữ gọi là “dân biện phi xí nghiệp đơn vị” (民办非企业), tức là những tổ chức không có quy chế hội đoàn đăng kí ở Bộ nội vụ mà là “đơn vị” đăng kí ở Bộ Công thương, hoạt động vô vị lợi... Bên cạnh số đó, có vô số hội đoàn “tự phát”, không có tư cách pháp nhân, không được thừa nhận. Theo một ước tính của các NGO, tổng số những hội đoàn đủ loại này có thể lên tới 3 triệu.[8] * tại Việt Nam “đến nay, có 320 hội hoạt động trong phạm vi toàn quốc và hơn 2.150 hội hoạt động trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cùng hàng nghìn hội ở các cơ sở. Các hội cũng rất đa dạng: có hội do tổ chức thành lập, có hội do cá nhân, doanh nghiệp, có hội có cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhưng có hội lại lỏng lẻo… Với sự đa dạng như thế, Chủ tịch Hội Đông y Việt Nam Nguyễn Xuân Hướng (đại biểu Hà Tĩnh) đã dí dỏm ví, dân gian có câu ‘đông như hội’” [9]. Ấn tượng hơn nữa là những chỉ số về sự tham gia: “Ở Việt Nam, trung bình mỗi người là thành viên của 2,33 tổ chức, cao hơn nhiều nếu so với những nước trong khu vực châu Á, như Trung Quốc (0,39) và Singapore (0,86). Theo khảo sát này, tỷ lệ những người thuộc ít nhất một tổ chức là 73,5%, một tỉ lệ tương đối cao” [10]. Tất nhiên, các con số không nói lên thực chất vấn đề. Nếu trong thập niên 1980, sau cuộc đại cải cách 1979 của ông Đặng Tiểu Bình, ở Trung Quốc đã nở rộ những tổ chức NGO, về kinh tế, xã hội, kể cả những viện nghiên cứu độc lập (dân biện nghiên cứu sở) – nổi tiếng nhất là trung tâm của Trần Tự Minh (Chen Zimin, nhà nghiên cứu triết học)[11] – thì sau sự kiện Thiên An Môn (1989), chính quyền ban hành Quy chế đăng kí và quản lí các đoàn thể xã hội (tháng 10.1989), rồi 10 năm sau: Quy chế tạm thời về đăng kí và quản lí các đơn vị nhân dân phi thương mại, theo đó các NGO phải đăng kí tại Bộ dân sự vụ và đặt dưới sự chủ quản của một cơ quan chính quyền hay tương đương. Cơ quan chủ quản này thường được gọi là “mẹ chồng”, “mẹ chồng” có quyền và nhiệm vụ coi chừng “con dâu”. Thực chất mà nói, đó không phải là những NGO mà là GONGO (Government Organized Non Governmental Organisations): những “tổ chức phi chính quyền do chính quyền tổ chức”. Theo quy định, mỗi NGO được phép hoạt động trong một lãnh vực nhất định và trong phạm vi một đơn vị hành chính nhất định, nó không được phép hoạt động ra khỏi khu vực địa lí đó, và trong phạm vị một đơn vị hành chính đó, không thể có hai NGO được phép hoạt động trong cùng một lãnh vực. Phí đăng kí cũng rất “lụa”: 30 000 nhân dân tệ. Nói như nhiều tác giả, “xã hội dân sự” ở Trung Quốc thực chất vẫn là “xã hội dân sự do Nhà nước lãnh đạo”. Có lẽ về cơ bản, giữa hai “xã hội dân sự” Trung Quốc và Việt Nam, cũng mặc nhiên có một mối quan hệ “16 chữ vàng”. Ở Việt Nam, bộ luật về hội đoàn vẫn chưa được thông qua. Dự án vẫn duy trì chế độ “mẹ chồng con dâu” mà ta gọi là “cơ quan chủ quản”. Đây là vấn đề cốt lõi, vì nó liên quan tới thực chất quan niệm về tổ chức xã hội dân sự: đó là những tổ chức tự lập của xã hội dân sự, của công dân, hay chỉ là tổ chức để chính quyền “nắm” từng bộ phận nhân dân, và nếu vậy, ở thời đại hiện nay, nó chỉ có thể là môt tổ chức có trên giấy tờ. Chỉ cần nêu ra hai thí dụ: những cuộc gặp gỡ xuân thu nhị kì giữa đại biểu Quốc hội với “đại diện” cử tri (ít nhất các đại biểu quốc hội cũng đã được bầu ra, còn các “đại diện” cử tri thì chỉ được ai đó chỉ định), và việc từ nhiều năm nay, chưa hề có một cuộc đình công nào do công đoàn khởi xướng hay chủ trương. Nhân đây, cũng xin mở dấu ngoặc, tuy không ra ngoài đề: Là một “Việt kiều”,[12] tôi không thể không bàng hoàng khi được đọc Chỉ thị số 19/2008/CT-TTg của Thủ tướng về “VỀ VIỆC TIẾP TỤC TĂNG CƯỜNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH HÀNH ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VỀ CÔNG TÁC VỚI NGƯỜI VIỆT NAM Ở NƯỚC NGOÀI” (ngày 08.06.2008). Văn bản này xác nhận một lần nữa các nhiệm vụ của Uỷ ban về người Việt Nam ở nước ngoài từ nay là một tổng cục, trong đó có nhiệm vụ này: “d) Chỉ đạo các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài tiến hành tổ chức, thành lập các hội đoàn người Việt Nam ở địa bàn có thể triển khai được, định hướng và phát triển các hoạt động của hội đoàn người Việt Nam ở nước ngoài nhằm củng cố sự ổn định lâu dài tại chỗ, cùng nhau đoàn kết hướng về Tổ quốc. Danh sách ban chấp hành hội cần được Bộ Ngoại giao (Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài ) thẩm định và ra quyết định chuẩn y trên cơ sở giới thiệu của các hội và cơ quan đại diện ngoại giao tại địa bàn”[13] Hegel vẫn có thể ngủ yên trên quan niệm của ông về “phương Đông”. Càng dễ ngủ yên vì ở Trung Quốc cũng như ở Việt Nam, ba chữ NGO đã từng bị đồng hoá với âm mưu “diễn biến hoà bình”, đối trọng và/hay độc lập được ghép thành một chữ là đối lập, nhẹ nhất là “rách việc”... Cách đây chưa đầy 15 năm, cuốn Từ điển Xã hội học trong đó lần đầu tiên, thuật ngữ Xã hội dân sự được định nghĩa một cách hoàn chính, tác giả của nó, nhà nghiên cứu Nguyễn Kiến Giang, còn phải mượn tên của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện. Hơn mười năm đã trôi qua, xã hội công dân, rồi xã hội dân sự xuất hiện trên báo chí, có bài còn nói lên tại sao có người sợ nó... Trên các cuốn sách, bìa 1 vẫn mang tên Nhà xuất bản, còn tên của “Công ti X” hay “Trung tâm Y” mà ai cũng biết mới thực là người xuất bản, mới chỉ ở bìa 4 – đôi lần nó leo lên bìa 1 nhưng đã bị huýt còi ngay. Tương tự, “ trên thực tế, hiện nay đã hình thành rất nhiều các tổ chức xã hội dân sự như các hội, các ngành kinh tế, các lĩnh vực khoa học và công nghệ, các lĩnh vực dịch vụ. Sự thực, một khuôn mặt xã hội dân sự kiểu mới ở nước ta đang hình thành, có thể coi đó là bước tiến của nền dân chủ, khác về bản chất với xã hội trước đổi mới. Tuy vậy, về mặt thể chế, phạm trù xã hội dân sự chưa được xác định trong văn bản, tức là chưa dám đặt viên gạch thứ ba (là xã hội dân sự) tạo cơ sở đầy đủ cho mối quan hệ thể chế kinh tế chính trị nước ta.”[14] (viên gạch thứ ba: hai viên gạch đầu là kinh tế thị trường và Nhà nước pháp quyền). Có thể tác giả hơi lạc quan. Nhưng không hẳn: ngày 23.07.08, ông Theodore Huang, chủ tịch Hội Công Thương Quốc Gia của Đài Loan kêu gọi chính quyền Việt Nam phải “xử lý” các cuộc đình công ngày càng gia tăng. Ông Hoàng nói: “Kinh tế không phải là vấn để lớn ở Việt Nam, vì tư bản nước ngoài sẽ tới (đầu tư). Khó khăn thực sự là làn sóng đình công” [15]. Ta đừng trách ông Hoàng coi nhẹ vấn đề lạm phát, đầu tư, pháp chế đầu tư... Ta cũng không cần biết ông ta hiểu chữ “xử lý” là như thế nào. Chắc ông không nghĩ tới phương pháp xử lý của Phác Chung Hy hay cha con họ Tưởng ở Nam Hàn và Đài Loan cách đây 20 năm. Chính quyền xử lí ra sao là chuyện của chính quyền. Chỉ biết đó trước hết là việc của công đoàn: Tổng công đoàn Việt Nam, nếu nó không muốn đóng mãi vài trò “công đoàn vàng”, hay một công đoàn độc lập sẽ phải ra đời, nếu không. Tác giả đoạn trích dẫn trên có thể hơi lạc quan, nhưng ông hoàn toàn có lý khi nhấn mạnh tới việc “dám” đặt viên gạch thứ ba cho xã hội dân sự / công dân. xã hội dân sự/CD là chân kiềng thứ ba của bộ ba Nhà nước Pháp quyền – Thị Trường – Xã hội dân sự/công dân của thời đại hôm nay. Trở lại con mèo Cheshire của cô bé Alice và nhà toán học lôgic Lewis Carroll. Nói đến xã hội dân sự ở Việt Nam hay ở Trung Quốc, đọc những bài viết về vấn đề này, kể cả bài này, nhiều khi chúng ta không biết người ta nói đến con mèo hay cái cười của nó. Hay nếu không muốn nói tới mèo, cũng có thể nói tới chuột. Con chuột chũi (taupe) nổi tiểng của Hegel, mù loà, nhưng cứ lầm lũi, âm thầm, dưới lòng đất, đào những địa đạo. Mèo hay chuột, đằng nào xã hội dân sự cũng vẫn “lừng lững”[16] tiến tới. Nguyễn Ngọc Giao (Paris) Chú thích: [1] Yves Chevrier: La question de la société civile, la Chine et le chat de Cheshire, trong Etudes chinoises, Vol.XIV, n°2, automne 1995.
[2] Timothy Brook & B. Michael Frolic, Civil Society in China, Studies on Contemporary China, M. E. Sharpe, New York & London, 1997, p.3.
[3] Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải Hiện tượng học Tinh thần, Nhà xuất bản Văn Học, 2006, 1640 trang.
[4] Tôi xin dùng chữ “phóng khoáng” để gọi khái niệm “liberal” theo nghĩa chính tri – khác với khái niệm “liberal” về kinh tế. Chữ “tự do” hay “tự do chủ nghĩa” mà nhiều tác giả dùng (trong ngữ cảnh chính trị cũng như kinh tế) tôi nghĩ không phù hợp – nếu không nói là nó xúc phạm khái niệm “tự do”.
[5] Về quan niệm của Marx, có thể đọc Lữ Phương: Xã hội công dân: từ triệt tiêu đến phục hồi, tham luận tại hội thảo VIETNAM UPDATE 94, Trường đại học Quốc gia Úc, Canberra, 11.1994, toàn văn bản tiếng Việt được đăng trên tạp chí Diễn Đàn, số 36, tháng 12.1994, đăng lại trên Trang Lữ Phương: www.viet-studies.info/LuPhuong/LuPhuong_XaHoiCongDan.htm
[6] A. Gramsci, Cahiers de prison, Gallimard, 1996.
[7] Jurgen Habermas: Faktizität und Geltung (Droits et démocratie: entre faits et normes), 1992/1994. Tham khảo thêm: khái niệm “xã hội dân chính” (Civic Society) thí dụ trong bài của Tôn Thất Nguyễn Thiêm: “Tiếng nói công dân: Vốn xã hội nhìn từ tương quan giữa Nhà nước, Thị trường và Xã hội dân chính” in trong Sĩ phu thời nay, kỷ yếu mừng giáo sư Hoàng Tuỵ, Nxb Tri Thức & Cti văn hoá Phương Nam, 2008.
[8] Albert CHEN LICHUAN (Trần Lệ Xuyên), Relations entre Etat et société civile en Chine, Fondation Charles Léopold Meyer, 2006 (http://base.china-europa-forum.net/rsc/docs/fiche_1171.pdf)
[9] Báo Công an Nhân dân điện tử, 10.06.2006 (http://ca.cand.com.vn/vi-VN/xahoi/2007/10/77833.cand)
[10] Đặng Ngọc Dinh, “Tình hình và đặc điểm của xã hội dân sự ở Việt Nam – Những mặt tích cực và các vấn đề cần hoàn thiện”, tr 129-130, trong XÃ HỘI DÂN SỰ Một số vấn đề chọn lọc, Vũ Duy Phú chủ biên, Viện những vấn đề phát triển, Nxb Tri Thức, 2008.
[11] Jean-Philippe BÉJA, A la recherche d'une ombre chinoise / Le mouvement pour la démocratie en Chine (1919-2004). Ed. du Seuil, Paris 2004
[12] Có thể xem thêm tham luận của tôi tại Hội thảo Đà Nẵng 2005 “Vấn đề Việt kiều” (http://hoithao.viet-studies.info/2005_NNGiao.pdf)
[13] www.thuvienphapluat.com/Default.aspx?CT=VC&LID=10490008
[14] Trần Ngọc Hiên, “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự nước ta”, Tạp chí Cộng sản điện tử (http://www.tapchicongsan.org.vn/print_preview.asp?Object=4&news_ID=8534515 )
[15] Central News Agency: www.taiwannews.com.tw/etn/news_content.php?id=697607&lang=eng_news&cate_img=35.jpg&cate_rss=news_Business_TAIWAN
[16] chữ của nhà văn Nguyên Ngọc.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 7:14:36 GMT 9
Vai trò của bất bình đẳng kinh tế, ghen tị và thiếu thốn tương đối trong phát triển bền vững tại Việt Nam*
Trần Nam Bình** 1. Dẫn nhập Tuy khẩu hiệu Đổi Mới đã chính thức xuất hiện tại Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VI tháng 12 năm 1986, đa số các nhà nghiên cứu đồng ý dùng năm 1989 làm mốc bắt đầu cho quá trình xây dựng kinh tế thị trường tại Việt Nam.[1] Trong trên dưới hai thập kỷ đổi mới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều bước tiến đáng kể: tăng trưởng cao,[2] xóa đói giảm nghèo nhanh, phát triển hạ tầng cơ sở, mở rộng mậu dịch quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, vv. Tuy Việt Nam hiện nay đang gặp một số khó khăn kinh tế như lạm phát cao, thâm hụt tài khoản vãng lai, thị trường chứng khoán và bất động sản mất giá, nhưng đây có thể xem là những bất ổn định ngắn hạn mà Việt Nam có thể vượt qua với những chính sách vĩ mô và vi mô thích hợp và đồng bộ. Thật ra, những khó khăn kinh tế hiện nay có thể xem là động cơ tốt cho Đổi Mới đợt hai cho Việt Nam trong thời kỳ hậu WTO. Nói khác đi, vấn đề chính của Việt Nam không phải là những bất ổn vĩ mô ngắn hạn, mà là phát triển bền vững. Từ quan điểm cung, phát triển bền vững đòi hỏi sự tăng trưởng đồng bộ và hài hòa của các nhân tố sản xuất: vốn con người, vốn nhân tạo, vốn xã hội và vốn môi sinh. Trong bốn nhân tố sản xuất đó, các nhà kinh tế thường ít chú ý đến vốn xã hội hơn cả. Lý do chính cho sự sao lãng này là vì vốn xã hội là một ý niệm không cụ thể như các nhân tố sản xuất khác. Vốn xã hội khó có thể xác định số lượng, và do đó không thể mang vào những mô hình kinh tế nghiêm túc. Một vài thành phần của vốn xã hội gồm có sự thành thật, lòng tin và tính cộng tác của các tác nhân kinh tế. Tuy nhiên, những khía cạnh này lại tùy thuộc rất nhiều vào sự phân phối thu nhập, tài sản và tiêu thụ giữa các thành viên trong xã hội. Nói chung, sự phân bổ nguồn lực giữa các thành viên là một vấn đề hàng đầu cho tất cả xã hội văn minh, bất kỳ thời nào và bất kỳ chỗ nào. Nó không phải là một vấn đề kinh tế đơn thuần, mà còn có chiều kích xã hội và chính trị quan trọng. Trong lâu dài, bình đẳng/bất bình đẳng kinh tế có ảnh hưởng lớn lao đến sự ổn định/bất ổn định và ngay cả sự tồn vong của một cơ cấu xã hội hay thể chế chính trị. Do đó, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy rằng sự phân phối các sản phẩm kinh tế giữa các thành viên trong xã hội là một trong bốn câu hỏi cơ bản nhất của bất kỳ nền kinh tế loại nào (truyền thống, thị trường, chỉ huy hay hỗn hợp): sản xuất hàng hóa nào và bao nhiêu, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai và phát triển kinh tế ra sao? Đây là bốn câu hỏi luôn dược nhấn mạnh trong bài mở đầu của kinh tế học nhập môn. Bài viết này tập trung vào góc cạnh phân phối thu nhập của phát triển bền vững. Cụ thể hơn, bài viết xem xét vai trò của chênh lệch/bất bình đẳng kinh tế, lòng ghen tỵ và thiếu thốn tương đối phát triển bền vững tại Việt Nam. Động cơ thúc đẩy bài tham luận này như sau. Thứ nhất, như sẽ thảo luận trong phần kế, chênh lệch thu nhập tại Việt Nam có xu hướng tăng lên. Cho đến nay, vẫn chưa thấy có dấu hiệu gì xu hướng này sẽ ngừng hay đảo lại. Thứ hai, các nhà kinh tế, nhất là kinh tế phát triển, tuy quen thuộc với các ý niệm như như biểu đồ Lorenz và chỉ số Gini,[3] nhưng có thể vẫn còn hơi xa lạ với ý niệm thiếu thốn tương đối. Bài viết này muốn giới thiệu ý niệm thiếu thốn tương đối và những hàm ý chính sách của ý niệm này đến các người đọc quan tâm đến phát triển kinh tế tại Việt Nam. Các phần còn lại của bài này được bố cục như sau. Phần 2 duyệt lại ý niệm phát triển bền vững. Phần này nhấn mạnh đến vai trò của phân phối thu nhập trong phát triển bền vững. Phần 3 thảo luận sự khác biệt giữa chênh lệch kinh tế và bất bình đẳng kinh tế. Trong bài này, vị trí kinh tế được thông hiểu một cách hạn hẹp theo nghĩa thu nhập. Phần 4 bàn về thiếu thốn tương đối và phân tích sự liên hệ giữa ý niệm này với chênh lệch thu nhập. Ngược với nhiều nghiên cứu trước đây, bài viết chứng tỏ rằng liên hệ giữa thiếu thốn tương đối và chênh lệch thu nhập là một hàm phi tuyến (non-linear). Mức độ thiếu thốn tương đối hay ghen tỵ lên đến cực đại khi một nửa dân số ‘có’ và nửa còn lại ‘không có’ (tương ứng với chỉ số Gini bằng 0.5). Nếu tình trạng này kéo dài và nghèo đói di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, xung đột xã hội sẽ trở nên rất trầm trọng. Phần 5 thảo luận thiếu thốn tương đối tại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Phần này cũng phác họa một số biện pháp nhằm giảm thiểu thiếu thốn tương đối và do đó nâng cao khả năng phát triển bền vững của Việt Nam. Phần kết luận tóm tắt các ý chính trong bài. 2. Phát triển Bền vững và Phân phối Thu nhập Cụm từ ‘tăng trưởng bền vững’ không xa lạ gì với người đọc hay theo dõi các đề tài kinh tế. Trong thập kỷ 1990 và đầu thập kỷ 2000, tăng trưởng bền vững có lẽ là cụm từ được nhắc nhở nhiều nhất, sau hai từ ‘cách mạng kỹ thuật thông tin’ và ‘toàn cầu hóa’. Giống như toàn cầu hóa, phát triển bền vững có nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo từng trường hợp và người dùng. Riêng trong bộ môn kinh tế, Pezzey (1989) đã tìm thấy 61 định nghĩa phát triển bền vững khác nhau, tuy rằng khá nhiều định nghĩa rất tương tự. Một định nghĩa hay được nhắc đến, do Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển (World Commission on Environment and Development 1987: 43) đưa ra, như sau: Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai trong việc thỏa mãn nhu cầu của chính họ. Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển (Organisation for Economic Co-operation and Development 2003) dùng thuật ngữ kinh tế chú giải định nghĩa bên trên như sau: Phát triển bền vững là đường lối phát triển trong đó sự cực đại hóa phúc lợi con người của thế hệ ngày nay không làm giảm phúc lợi tương lai. Tuy cả hai định nghĩa đều mơ hồ như nhau, chúng ta vẫn có thể suy ra vài đặc tính cơ bản của phát triển bền vững như sau: · Đây là quan điểm lấy con người là trung tâm. · Cả hai định nghĩa đều áp dụng lý thuyết công bằng xã hội của Rawls vào phân phối tài sản và thu nhập giữa các thế hệ với nhau. · Phát triển bền vững có thể xem là một ràng buộc cao nhất trong bài toán tối ưu kinh tế. · Một hàm ý cúa hai định nghĩa trên là thế hệ hiện tại có thể khai thác tài nguyên cho sản lượng ngày nay và đền bù các thế hệ tương lai với vốn nhân tạo (physical capital). Trong lĩnh vực kinh tế, phát triển bền vững có ít nhất là ba chiều kích khác nhau. Thứ nhất, phát triển bền vững là sự tăng trưởng bền bỉ của phúc lợi vật chất của con người. Phát triển được xem là bền vững nếu dân chúng có thể hưởng thụ mức sống ngày càng cao hơn, bao gồm cả số lượng, chất lượng hàng hóa tiêu thụ lẫn sự thư nhàn (leisure). Một cách diễn dịch phát triển bền vững rộng hơn là dùng chỉ số phát triển con người thay vì sản lượng hay tiêu thụ. Chỉ số này bao gổm ba thành phần: tổng sản phẩm chia đầu người điều chỉnh cho sức mua, tuổi thọ và kiến thức (dựa trên tỷ lệ người lớn biết chữ phối hợp với ghi danh tiểu, trung và đại học). Như vậy, phát triển bền vững phải được hiểu là giữ vững tốc độ tăng trưởng vế sản xuất lẫn y tế và giáo dục qua một thời gian dài. Khía cạnh thứ hai của phát triển bền vững liên quan đến sự tiến hóa của môi trường thiên nhiên vì những hoạt động kinh tế của con người. Trong nghĩa này, phát triển được xem là bền vững nếu tổng giá trị của môi trường thiên nhiên (vừa là phương tiện sản xuất vừa là nơi sinh sống) không suy giảm qua thời gian. Khía cạnh này, phù hợp với hai định nghĩa nêu trên, nhấn mạnh đến vai trò của môi sinh trong quá trình phân phối thu nhập và tài sản giữa các thế hệ. Khía cạnh thứ ba của phát triển bền vững liên hệ đến cấu trúc và tổ chức xã hội. Từ quan diểm này, phát triển được xem là bền vững nếu xã hội luôn giữ được khá ổn định và hài hòa. Nếu nghèo đói di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác và nếu khoảng cách giàu nghèo càng ngày càng tăng, xã hội không thể ổn định trong lâu dài. Nhận thức của các nhà kinh tế về liên hệ nhân quả giữa phân phối thu nhập và phát triển bền vững thay đổi theo thời gian. Trước dây, theo lập luận của các nhà kinh tế như Simon Kuznets (đoạt giải Nobel kinh tế học năm 1971) và Nicholas Kaldor, sự gia tăng chênh lệch trong phân phối thu nhập và tài sản là điều tất yếu trong bước đầu của phát triển kinh tế. Biểu đồ Kuznets cho thấy sự liên hệ giữa chỉ số Gini và thu nhập chia đầu người có hình chữ U ngược, nghĩa là chỉ số Gini là hàm tăng (giảm) của thu nhập chia đầu người khi thu nhập chia đầu người nhỏ (lớn) hơn một mức tới hạn nào đó. Tuy nhiên nhiều công trình nghiên cứu gần đây, dựa trên số liệu tốt hơn, cho thấy rằng chênh lệch thu nhập làm giảm mức tăng trưởng kinh tế, và ngược lại, tăng trưởng kinh tế không có tác động tiêu cực trên sự thay đổi của mức phân hoá giàu nghèo (Nguyen, M.H. 2003: 298 tóm tắt một số công trình này). Gần đây, một số nhà kinh tế liên kết phân hóa giàu nghèo và xung đột xã hội (xem, thí dụ như, Alesina 1996 & Perrotti, Benhabib & Rustichini 1996, Schock 1996). Đây là một chủ đề sẽ được khai triển trong phần sau của bài này. Nói tóm lại, phát triển bền vững cần hội đủ ba yếu tố: tổng sản phẩm thật chia đầu người gia tăng đều đặn năm này qua năm khác (nhất là khi nền kinh tế còn trong vòng phát triển); thành quả tăng trưởng được san sẻ tương đối đồng đều và mọi tầng lớp dân chúng đều có cơ hội bình đẳng như nhau; và môi trường thiên nhiên được duy trì thỏa đáng. Đây chính là chủ đề của hai Hội nghị Thượng đỉnh về Phát triển Bền vững tại Rio de Janeiro năm 1992 và Johannesburg năm 2002. Xin lưu ý là ba khía cạnh của phát triển bền vững không độc lập mà tương tác với nhau. Các tương tác này có khi thuận (một xã hội bình đẳng có thể tăng trưởng kinh tế nhanh hơn một xã hội bất bình đẳng) và có khi nghịch (tăng trưởng tiêu thụ liên tục có thể hủy hoại môi trường nhiều hơn). Vì sự đuổi bắt kinh tế giữa Việt Nam và các nước láng giềng là cuộc đua dài hạn,[4] phát triển bền vững thường được các cơ quan chính quyền thông hiểu là giữ đều tốc độ gia tăng tổng sản phẩm chia đầu người năm này qua năm khác hay thập kỷ này qua thập kỷ khác. Theo lối suy nghĩ này, tăng truởng bền vững là một cột trụ chính trong chiến lược phát triển của chính phú nhằm hướng đến hai mục tiêu dài hạn: công nghiệp hóa và hiện đại hóa quốc gia. Sau đây là phát biểu của một cơ quan hữu trách tiêu biểu: Tăng trưởng kinh tế bền vững là sức mạnh làm tăng cải tổ kinh tế, khắc phục nghèo đói và làm thuận lợi cho công nghiệp hóa (xem Tran T.D. 2002: 1). Trong những năm gần đây, các nhà chuyên gia và làm chính sách bắt đầu quan tâm tới vai trò của môi trường trong phát triển bền vững tại Việt Nam (xem, thí dụ như, Nguyen, V.H. 2003, Trần, N.B. 2003). Nhiều người dân nhận thức rằng tăng trưởng kinh tế một cách thiển cận có khả năng làm cạn kiệt các tài nguyên không thể tái sinh hay hủy hoại môi sinh quá đà, và do đó gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng cho phát triển kinh tế và ngay cả sự sinh tồn của con người. Đây là một quan tâm hàng đầu cho Việt Nam, nhưng nó ra ngoài phạm vi bài viết này. Trong phương diện phân phối thu nhập, phát triển kinh tế tại Việt Nam phô bày một đặc tính của nhiều nước đang phát triển: tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh và liên tục trong khi chênh lệch thu nhập có xu hướng tăng lên. Nhờ vào tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ hộ[5] nghèo tại Việt Nam giảm mạnh từ 75% xuống 40% trong thập kỷ 1986-95 (xem UNDP 1997: 38). Thống kê xóa đói giảm nghèo tại Việt Nam gần đây hơn vẫn còn rất tốt nhưng không còn nhanh như thời kỳ 1986-95. Căn cứ theo Living Standards Measurement Survey, tỷ lệ hộ nghèo[6] tại Việt Nam ước lượng vào khoảng 32% năm 2000, so với 37% năm 1998 (CHXHCHVN 2003: 19). Nếu dùng tiêu chuẩn lương thực của Việt Nam (2.100 calorie mỗi người một ngày), thì tỷ lệ hộ nghèo đói là 15% năm 1998 và ước lượng vào khoảng 13% năm 2000 (CHXHCHVN 2003: 19), phần lớn tập trung vào các vùng thôn quê và núi. Các thành quả phát triển kinh tế, nhất là xoá đói giảm nghèo, của Việt Nam đã được các nhà quan sát quốc tế (thí dụ như Giáo sư Joseph Stiglitz, người đoạt giải Nobel kinh tế học năm 2001) công khai khen ngợi (xem UNDP Việt Nam 2001). Gần đây, nhờ vào các nguồn dữ kiện mới (thí dụ như Vietnam Household Living Standards Surveys 1992-93 và 1997-98 hay Multi-Purpose Household Survey của Tổng cục Thống kê Việt Nam), các nhà kinh tế Việt Nam và nước ngoài đã làm một số nghiên cứu ứng dụng về phân phối và chênh lệch thu nhập/tiêu thụ tại Việt Nam (Pham, L.H. & Pham. T.V. 2004 tóm tắt phần lớn các nghiên cứu này). Rất nhiều nghiên cứu về phân phối (thí dụ như Dollar & Glewwe 1998, Glewwe, Gragnolati & Zaman 2000, Liu 2001, vv) tập trung vào tiêu thụ thay vì thu nhập.[7] Tuy số liệu thu nhập của Việt Nam chưa khả tín và phương pháp nghiên cứu chưa hoàn hảo, các phát hiện của những công trình nghiên cứu này khá đồng nhất với nhau. Các kết luận chính là: tuy chênh lệch mức sống tại Việt nam có xu hướng tăng lên sau Đổi Mới, mức độ chênh lệch thu nhập tại Việt Nam tương đối thấp so với các nước láng giềng ; phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn tại Việt Nam tăng lên; và khoảng cách kinh tế giữa các vùng tại Việt Nam cũng tăng lên. Một kết quả đáng quan tâm hơn cả là, dựa trên số liệu thu nhập từ MHPS 1995 và 1998, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2001) thấy rằng chênh lệch thu nhập tại Việt Nam tăng nhanh hơn người ta nghĩ khá nhiều. 3. Chênh lệch và Bất bình đẳng Kinh tế 3.1 Phúc lợi/vị trí kinh tế Trước khi bàn về chênh lệch và bất bình đẳng kinh tế, chúng ta cũng nên nói sơ qua về phúc lợi/vị trí kinh tế. Phúc lợi/vị trí kinh tế của một cá nhân/gia đình là nguồn lực kinh tế mà cá nhân/gia đình đó nhận được, làm chủ và tiêu dùng (càng chỉ huy càng nhiều nguồn lực kinh tế thì phúc lợi kinh tế càng cao). Nguồn lực kinh tế thường được đo lường với các biến như thu nhập, tài sản, tiêu thụ và thư nhàn. Trong kinh tế học vi mô, phúc lợi kinh tế hay thỏa dụng (utility) của một cá nhân thường được xem là hàm đồng biến với tiêu thụ và thư nhàn của cá nhân đó.[8] Nhìn từ một quan điểm rộng hơn, phúc lợi kinh tế không chỉ tùy thuộc vào thu nhập và thư nhàn, mà còn tùy thuộc vào sự phân phối thu nhập và tài sản, khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản (như y tế, giáo dục)[9] và tính lưu động xã hội từ liên thế hệ(intergenerational mobility). Ngay cả nếu chúng ta chỉ tập trung vào thu nhập, tài sản và tiêu thụ, bản chất của các mối liên hệ giữa ba ý niệm này không đơn giản. Lấy ví dụ, một cá nhân có thu nhập thấp trong một vài thời kỳ vẫn có thể hưởng thụ mức tiêu thụ cao trong các giai đoạn đó nếu cá nhân này có thể vay mượn hoặc rút ra từ tài sản của mình. Ngược lại, một cá nhân có thể tiêu dùng thấp mặc dù có thu nhập cao nếu cá nhân này đang trả nợ hay để dành. Cũng có người có rất nhiều của cải nhưng thu nhập và tiêu thụ đều thấp (“giầu tài sản nhưng nghèo thu nhập”) nếu tài sản của họ bị trói buộc vào việc kinh doanh (ví dụ như các nhà nông). Do đó, chúng ta có thể đi đến sai lầm nếu chỉ dùng một trong ba tiêu chuẩn (thu nhập, tài sản và tiêu thụ) để xác định mức phúc lợi kinh tế. Trong các nghiên cứu ứng dụng, vì sự giới hạn của dữ kiện, các nhà kinh tế phải dựa vào các thống kê có sẵn như thu nhập hay tiêu thụ. Mức độ chênh lệch kinh tế tùy thuộc rất nhiều vào tiêu chuẩn dùng để xác định mức phúc lợi kinh tế. Ví dụ, trong việc khảo sát các nguồn dữ liệu, các nhà nghiên cứu thấy rằng chênh lệch tiêu thụ luôn luôn có xu hướng thấp hơn chênh lệch thu nhập. Một lý do chính là vì tỷ lệ tiêu thụ/thu nhập có xu hướng giảm dần khi thu nhập tăng lên. Thêm nữa, nếu chúng ta có thể đo và kết hợp thư nhàn với tiêu thụ (hoặc thu nhập) thì chênh lệch tiêu thụ (hoặc thu nhập) và thư nhàn sẽ thấp hơn chênh lệch một mình tiêu thụ (hoặc thu nhập) mà thôi. Điều đó cho thấy các đo lường về chênh lệch kinh tế dựa trên một biểu trưng duy nhất chỉ có giá trị tương đối và giới hạn. Trong phần lớn các điều tra thực tế, các nhà nghiên cứu có khuynh hướng dùng thu nhập làm biểu trưng cho phúc lợi kinh tế. Điều đó hàm ý chênh lệch/bất bình đẳng kinh tế đồng nghĩa với chênh lệch/bất bình đẳng thu nhập. Ngay cả trong trường hợp đơn giản này, các nhà kinh tế vẫn còn tranh luận làm sao định nghĩa và thông hiểu ý niệm thu nhập. Các vấn đề liên quan đến định nghĩa và đo lường thu nhập bao gồm: Các hình thức thu nhập khác nhau; Đơn vị thu nhập (cá nhân, gia đình hay hộ); và Thu nhập ngắn hạn hay thu nhập lâu dài. Ba điểm này sẽ được khai triển trong Phụ lục 1. Ở đây, chúng ta chỉ cần lưu ý vài điểm chính sau đây: Vì sự phân phối tiêu thụ/thu nhập trong mỗi hộ không đồng đều, ước lượng chênh lệch tiêu thụ/thu nhập bằng tiêu thụ/thu nhập bình quân mỗi hộ sẽ đánh giá thấp (underestimate) tỷ lệ nghèo đói của trẻ em trong xã hội. Hệ số Gini bỏ quên ảnh hưởng của chu trình cuộc đời trên thu nhập, và do đó không những đánh giá quá cao (overestimate) chênh lệch thu nhập tại bất kỳ một thời điểm nào, mà còn có thể cho ấn tượng sai về xu hướng chênh lệch thu nhập qua thời gian. Đây là những điểm mà các nhà nghiên cứu về phân phối thu nhập tại Viêt Nam cần chú ý và ứng dụng trong các khảo sát tương lai. 3.2 Chênh lệch kinh tế, bất bình đẳng kinh tế và ghen tỵ Trong các nghiên cứu về phân phối thu nhập tại Việt Nam, các nhà nghiên cứu thường không phân biệt giữa chênh lệch kinh tế (economic inequality) và bất bình đẳng kinh tế (economic inequity). Bài này phân biệt hai ý niệm này. Chênh lệch kinh tế là một ý niệm thực chứng. Nó mô tả một sự kiện không chối cãi được, đó là phân phối thu nhập trong bất cứ xã hội nào, tại bất kỳ thời điểm nào, cũng không đồng đều. Ý niệm chênh lệch kinh tế tự nó không hàm ý phán đoán đạo đức, theo nghĩa chênh lệch kinh tế ít (nhiều) không nhất thiết là tốt (xấu). Một nhà kinh tế thực chứng sẽ tìm hiểu nguyên nhân và hậu quả của chênh lệch kinh tế, và đưa ra một vài đề xuất để làm giảm mức độ chênh lệch kinh tế, nếu cần thiết. Bất bình đẳng kinh tế là một ý niệm chuẩn tắc. Nó mô tả sự sai lệch của phân phối thu nhập thực tế so với một phân phối thu nhập chuẩn nào đó. Nếu sự sai lệch càng ít (nhiều) thì mức dộ bất bình đẳng càng thấp (cao). Phân phối thu nhập chuẩn thường được suy ra từ quan điểm công bình xã hội mà đa số người trong xã hội chấp nhận. Ý niệm bất bình đẳng kinh tế hàm ý phán đoán đạo đức, theo nghĩa bất bình đẳng kinh tế ít (nhiều) là điều tốt (xấu). Dưới các tiền đề về công bình xã hội, một nhà kinh tế chuẩn tắc sẽ tìm hiểu nguyên nhân và hậu quả của bất bình đẳng kinh tế, và đưa ra một vài đề xuất để làm giảm mức độ bất bình đẳng kinh tế với mục đích làm tăng phúc lợi xã hội. Công bình xã hội là một ý niệm chủ quan, phức tạp và đa diện. Trong kinh tế học chuẩn tắc, Varian (1974) định nghĩa công bình xã hội như sau. Coi vấn đề phân chia một tổng số hàng hoá cố định giữa một số tác nhân không đổi. Nếu, trong một phân phối nào đó, cá nhân i muốn bó hàng hoá của cá nhân j hơn cái của chính mình, ta nói i ghen tỵ j. Nếu trong một phân phối x, không tác nhân nào ghen tỵ, ta nói x công bình. Trong một xã hội không sản xuất, nếu các cá nhân đều có cùng một ưa thích lồi[10] (convex preferences) như nhau, chia tổng số hàng hoá đồng đều là phân phối bình đẳng duy nhất (Varian 1974: 70). Kết quả này phù hợp với quan điểm “cần” theo đó các cá nhân trong một xã hội, dưới cùng một văn hóa, đều có nhu cầu giống nhau. Trong một xã hội có sản xuất, vấn đề phân phối trở nên phức tạp hơn rất nhiều vì các tác nhân có thể đóng góp khác nhau cho sản lượng xã hội. Một cá nhân i chỉ có thể than phiền một cách chính đáng về tiêu thụ của cá nhân j nếu i đóng góp (hay sẵn sàng đóng góp) tương đương như j cho sản lượng xã hội. Dưới một số giả thiết quen thuộc, Varian (1974: 75) chứng tỏ rằng phân phối thu nhập từ thị trường cạnh tranh hoàn hảo là phân phối công bình xã hội. Đề xuất này có thể xem là tiêu biểu cho quan điểm “đóng góp”. Theo quan điểm này, thu nhập của các cá nhân trong một xã hội phải phản ánh sự đóng góp của cá nhân đó trong quá trình sản xuất. Trên thực tế, phần lớn quan điểm về công bình xã hội của người ta nằm giữa hai quan điểm cần và đóng góp nói trên. Quan điểm cần (phân chia đồng dều) không thể chấp nhận được vì sự khác biệt trong sự đóng góp của các cá nhân cho sản lượng xã hội. Ngược lại, quan điểm đóng góp cũng không thể chấp nhận một cách hoàn toàn vì nó (i) loại trừ các cá nhân không thể đóng góp cho sản xuất (ví dụ như vì lý do bệnh tật), và (ii) không quan tâm đến sự bình đẳng trong cơ hội (ví dụ như một cá nhân vì gia cảnh nghèo không thể đi học để tăng cao năng suất trong tương lai). Đại đa số người trong xã hội không tin rằng phân phối thu nhập thị trường là công bình. Từ quan diểm xã hội học, bình đẳng xã hội giữa hai cá nhân i và j đòi hỏi Đầu ra của i/Đầu vào của i = Đầu ra của j/Đầu vào của j Định nghĩa trên có thể nới rộng cho nhiều cá nhân. Ứng dụng điều kiện này vào kinh tế học, chúng ta có thể nói rằng bình đẳng kinh tế giữa hai cá nhân i và j đòi hỏi Lương của i/Giá trị lao động của i = Lương của j/Giá trị lao động của j mà trong đó giá trị lao động bao hàm khả năng, trí tuệ và sự cố gắng của người đi làm. Xin lưu ý ngay là định nghĩa trên không thể áp dụng cho các cá nhân mà giá trị lao động triệt tiêu. Định nghĩa trên hàm ý bất bình đẳng kinh tế xẩy ra cho i (hay j) nếu Lương của i/Giá trị lao động của i < (>) Lương của j/Giá trị lao động của j Tóm lại, chúng ta thấy rằng không phải tất cả chênh lệch kinh tế đều là bất bình đẳng kinh tế. Nói tổng quát, chúng ta có thể viết: Bất bình đẳng thu nhập = Chênh lệch thu nhập – Chênh lệch thu nhập do sự khác biệt trong năng suất Nếu không điều chỉnh đúng mức, chênh lệch kinh tế sẽ ước lượng quá cao (overestimate) bất bình đẳng kinh tế. Lập luận trên có thể được minh họa qua chỉ số Gini. Chúng ta có thể thấy ngay rằng chỉ số Gini là một đo lường về chênh lệch kinh tế, không phải về bất bình đẳng kinh tế. Như vậy đường 45 độ trong biểu đồ Lorenz thật sự không phải là đường công bình tuyệt đối (absolute equality) như người ta quen gọi. Một cách điều chỉnh cho năng suất kinh tế là giả thử năng suất là hàm đồng biến của chu trình cuộc đời. Nói khác đi, chênh lệch thu nhập do ảnh hưởng của chu trình cuộc đời là do năng suất sản xuất. Do đó, muốn đo bất bình đẳng kinh tế, chúng ta cần điều chỉnh phân phối thu nhập cho tương quan độ tuổi-thu nhập. Đây chính là bản chất của đề xuất Paglin (xem thêm Phụ lục 1). Đề xuất này có thể tổng quát hoá như sau. Mức lương của người đi làm tùy thuộc nhiều vào vốn con người (trình độ giáo dục và kinh nghiệm nghề nghiệp) của họ. Podder & Tran-Nam (2003) cho rằng chênh lệch luông bổng do khác biệt về vốn con người trong các quốc gia đã phát triển có thể chấp nhận được trên quan điểm công bình phân phối. Lập luận của họ có thể tóm tắt như sau. Trong các quốc gia đã phát triển, phần lớn cá nhân có thể lựa chọn mức độ giáo dục tùy theo năng khiếu trời ban và sự cố gắng của họ. Như vậy, vốn con người của một cá nhân tuỳ thuộc vào năng khiếu trời ban và sự chọn lựa đầu tư giáo dục trong quá khứ cũng như sự chịu khó học hỏi khi đi làm. Bất bình đẳng kinh tế không phải là chênh lệch trong lương bổng do sự khác biệt giữa vốn con người. Bất bình đẳng kinh tế chỉ là phần chênh lệch kinh tế còn sót lại sau khi chúng ta đã điều chỉnh thu nhập lương cho vốn con người. Đề xuất Podder & Tran-Nam có thể xem là một nới rộng tự nhiên của cải tiến Paglin (thay tuổi bằng vốn con người). Xin cũng lưu ý rằng đề nghị của Podder & Tran-Nam không thể áp dụng cho các nước đang phát triển như Việt Nam bởi vì rất nhiều học sinh/sinh viên Việt Nam không thể tự do lựa chọn mức độ đầu tư cho vốn con người của họ.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 7:16:02 GMT 9
4. Thiếu thốn tương đối
4.1 Hiệu quả Pareto
Sự phân phối thu nhập và tiêu thụ là một ý niệm mấu chốt trong trong kinh tế học phúc lợi.[11] Trong bộ môn này, đại đa số các nhà kinh tế áp dụng một tiêu chuẩn gọi là hiệu quả Pareto[12] để đánh giá các sự lựa chọn khác nhau. Một phân phối nguồn lực hay tình thế kinh tế được gọi là hiệu quả Pareto, hay tối ưu Pareto, nếu không ai có thể trở nên khá hơn mà không một ai khác bị trở thành kém đi.[13] Như vậy một thay đổi được xem là cải tiến Pareto nếu ít nhất có một người khá hơn mà không ai bị kém đi.[14] Hai định lý cơ bản trong kinh tế học phúc lợi diễn tả liên hệ giữa thị trường cạnh tranh và hiệu quả Pareto: (i) nếu một nền kinh tế cạnh tranh hoàn hảo (dưới một số giả thiết nhất định), nền kinh tế ấy có hiệu quả Pareto, và (ii) bất cứ một phân phối tối ưu Pareto đều có thể đạt được bằng một hệ thống thị trường phi tập trung. Hai định lý này biện minh cho sự tối ưu của hệ thống thị trường cạnh tranh hoàn hảo dưới một số giả thiết nhất định nào đó.
Ý niệm hiệu quả Pareto có một đặc tính mà chúng ta cần lưu ý. Tiêu chuẩn này có tính cách cá nhân theo nhiều nghĩa khác nhau. Quan trọng hơn hết là hiệu quả Pareto chỉ liên quan đến phúc lợi của từng cá nhân, mà không quan tâm đến phúc lợi tương đối của các cá nhân với nhau. Nói rõ hơn, phúc lợi của các cá nhân độc lập với nhau theo nghĩa phúc lợi của bất kỳ một cá nhân nào đó đều không tùy thuộc vào phúc lợi của bất cứ cá nhân khác. Do đó, một thay đổi giúp các người giàu khá hơn và làm các người nghèo vẫn không đổi được xem là một cải tiến Pareto. Đây là một đòi hỏi khá cực đoan vì bản tính của con người trong một cộng đồng là so sánh với nhau, giống như câu tục ngữ Việt Nam: “Thua trời một vạn không bằng thua bạn một ly”.
Vị thế tương đối giữa các cá nhân là một ý niệm rất quen thuộc trong xã hội học. Các nhà xã hội học thường hay giả thử người ta quan tâm đến vị trí tương đối của họ so với các người khác, hoặc ở trong môi trường gần gũi, hoặc trong hệ thống xã hội lớn hơn. Rainwater (1974: 22) cho rằng ý kiến này bắt nguồn ít ra từ Marx, người đã nhận định như sau:
Sự ham muốn và vui thích của chúng ta nẩy sinh ra từ các sinh hoạt xã hội, do đó chúng ta đo lường các thứ này bằng giá trị xã hội thay vì giá trị của các vật thể phục vụ cho các sự thỏa mãn đó. Bởi vì các thứ này có bản chất xã hội, chúng có giá trị tương đối.
4.2 Ghen tỵ and thiếu thốn tương đối
Chênh lệch hay bất bình đẳng kinh tế có thể xem là một nguyên nhân chính cho ghen tỵ, bất mãn và oán giận trong cộng đồng hay xã hội. Nếu người ta suy nghĩ và hành xử một cách hợp tình, hợp lý, họ chỉ nên quan tâm đến bất bình đẳng kinh tế (chênh lệch kinh tế còn sót lại sau khi đã điều chỉnh cho sự cố gắng, giá trị lao động, vv). Nhưng trong thực tế, một cá nhân có thể quan sát thu nhập hay tiêu thụ của các người khác nhưng khó quan sát chính xác sự cố gắng hay giá trị lao động của các người này. Vì thế, người ta khó phân biệt rõ ràng giữa chênh lệch và bất bình đẳng kinh tế, và thường chỉ so sánh với người hơn mình. Nói một cách khác, ghen tỵ và bất mãn thường xẩy ra khi một cá nhân so sánh với một cá nhân khác có nhiều nguồn lực kinh tế hơn mình. Do đó, để đơn giản hoá vấn đề, chúng ta sẽ không phân biệt chênh lệch và bất bình đẳng kinh tế trong phần này.
Ghen tỵ and thiếu thốn tương đối là hai ý niệm rất gần nhau, và do đó có thể xem là một. Một cá nhân i với vectơ tiêu thụ xi cảm thấy ghen tỵ một cá nhân j với vectơ tiêu thụ xj nếu (và chỉ nếu) cá nhân i thích xj hơn xi. Nhưng nếu cá nhân i không thích xj hơn xi, cá nhân i không cảm thấy thương hại cá nhân j. Tương tự, một cá nhân i với thu nhập yi cảm thấy thiếu thốn so với một cá nhân j với thu nhập yj nếu (và chỉ nếu) yi < yj. Nhưng nếu yi ³ yj, cá nhân i không thấy dư dả hay hài lòng so với cá nhân j. Ghen tỵ hay thiếu thốn tương đối làm giảm phúc lợi của cá nhân, và do đó làm giảm phúc lợi của toàn xã hội. Xin lưu ý là cả hai định nghĩa trên đều có tính cách một chiều. Một cá nhân cảm thấy ghen tỵ hay thiếu thốn so với người hơn mình, nhưng không cảm thấy thương hại hay dư dả so với người kém mình. Đây có thể xem là một giới hạn cho cả hai ý niệm.
Nếu cá nhân i ghen tỵ cá nhân j, cá nhân i không đủ khả năng mua vectơ tiêu thụ xj, nghĩa là tổng chi phí (hay thu nhập) của cá nhân i thấp hơn tổng chi phí (hay thu nhập) của cá nhân j. Trong trường hợp này, cá nhân i cũng cảm thấy thiếu thốn so với cá nhân j. Nếu cá nhân i cảm thấy thiếu thốn so với cá nhân j, thu nhập tương ứng với vectơ tiêu thụ xj lớn hơn thu nhập tương ứng với vectơ tiêu thụ xi, nghĩa là cá nhân i thích xj hơn xi. Trong trường hợp này, cá nhân i cũng ghen tỵ cá nhân j. Nói tóm lại, ghen tỵ và thiếu thốn tương đối là hai ý niệm tương đương nhau. Trong phần còn lại, chúng ta sẽ chỉ tập trung vào ý niệm thiếu thốn tương đối.
Dùng ký hiệu RDij cho thiếu thốn của cá nhân i so với cá nhân j, ta có thể xem RDij .là hàm của sự khác biệt (yj–yi). Hàm này dương nếu yj > yi và triệt tiêu nếu yj £ yi . Thêm nữa, hàm này được giả thử là khả vi, luôn luôn tăng và lõm đối với yj, và luôn luôn giảm và lồi đối với yi. Định nghĩa trên giúp cho ta thấy sự khác biệt giữa hiệu quả Pareto và thiếu thốn tương đối. Xét một thay đổi tình huống kinh tế trong đó yj tăng và yi không đổi. Theo định nghĩa trong kinh tế học phúc lợi, ta có thể nói tình huống này là một cải tiến Pareto vì phúc lợi của cá nhân j tăng và phúc lợi của cá nhân j không đổi. Tuy nhiên, tình huống này cũng làm tăng thiếu thốn tương đối của cá nhân i tăng so với cá nhân j. Do đó, chúng ta chưa thể kết luận ngay là phân phối này làm tăng phúc lợi của toàn xã hội. Dĩ nhiên, nếu cá nhân j đồng ý chuyển giao một số thu nhập của mình cho cá nhân i, chúng ta có thể tìm được một phân phối mới (so với tình huống ban đầu) vừa làm tăng phúc lợi cho từng cá nhân, vừa không tăng thiếu thốn của cá nhân i so với cá nhân j.[15]
Dùng ký hiệu Ci để chỉ tập hợp những người mà cá nhân i muốn so sánh với họ. Từ định nghĩa bên trên, chúng ta có thể suy ra thiếu thốn tương đối của cá nhân i (RDi) so với nhóm so sánh này là tổng của RDij cho tất cả j thuộc về nhóm so sánh Ci. Như vậy, thiếu thốn tương đối của toàn xã hội (RD) tổng của RDj cho tất cả thành viên i.
Tóm lại, giữa hai cá nhân, thiếu thốn tương đối là hàm đồng biến của chênh lệch thu nhập, và chỉ triệt tiêu khi thu nhập được phân phối đồng đều giữa hai người. Một câu hỏi tự nhiên là sự liên hệ này có hiệu lực cho thiếu thốn tương đối của tất cả mọi người trong xã hội không? Nói một cách khác, tổng thiếu thốn tương đối toàn xã hội RD có thể xem là hàm đồng biến đơn điệu (monotonically increasing) của chênh lệch thu nhập toàn xã hội hay không? Nếu câu trả lời là khẳng định, thì chỉ số Gini cũng có thể xem là một đo lường cho tổng thiếu thốn tương đối toàn xã hội. Điều này làm tăng giá trị lý thuyết và ứng dụng của hệ số Gini (G) trong các nghiên cứu phân phối thu nhập. Nếu câu trả lời là phủ định, thì tổng thiếu thốn tương đối toàn xã hội RD liên hệ với chỉ số Gini như thế nào?
Chúng ta thấy ngay rằng khi tổng thu nhập được phân phối đồng đều trong xã hội, chênh lệch thu nhập toàn xã hội triệt tiêu (G = 0) và thiếu thốn tương đối không hiện hữu trong xã hội (RD = 0). Khi phân phối thu nhập trong xã hội không đồng đều, tổng thiếu thốn tương đối và chênh lệch thu nhập toàn xã hội thay đổi như thế nào? Đây là một câu hỏi đã gây ra tranh luận giữa các nhà nhiên cứu và, cho đến nay, vẫn chưa có sự đồng ý của toàn thể giới học giả. Câu trả lời tùy thuộc cốt yếu vào sự chọn lựa nhóm so sánh. Nhìn chung, chúng ta có thể nhận thấy hai trường phái với hai lối thông hiểu khác nhau: kinh tế học và xã hội học. Để nắm vững vấn đề hơn, chúng ta cần xem xét thêm ý niệm thiếu thốn tương đối và nhóm so sánh.
4.3 Thiếu thốn tương đối và nhóm tham khảo so sánh
Ý niệm thiếu thốn tương đối bắt nguồn từ các khảo cứu xã hội. Từ thiếu thốn tương đối chính thức xuất hiện lần đầu trong The American Soldier của Stouffer và các đồng tác giả (1949). Tuy nhiên, Stouffer và các đồng tác giả không đưa ra một phát biểu toàn diện về ý niệm thiếu thốn tương đối. Davis (1959) là người đầu tiên chính thức hóa ý niệm thiếu thốn tương đối và phân biệt giữa bất bình đẳng kinh tế và thiếu thốn tương đối. Phương pháp phân tích của Davis nhấn mạnh đến sự phân hoá của xã hội thành hai nhóm: thiếu thốn và không thiếu thốn.
Nhà xã hội học Anh Runciman (1966) có thể xem là người có công nhất trong việc công thức hóa thiếu thốn tương đối và các ý niệm liên hệ. Runciman thấy rằng mức độ bất mãn của các thành viên trong các nhóm xã hội khác nhau tại Anh không tương ứng với các chỉ số khách quan về thiếu thốn xã hội hay kinh tế của các nhóm này. Để giải thích hiện tượng này, Runciman lập luận rằng mức độ bất mãn của một cá nhân tùy thuộc vào sự khác biệt giữa điều kiện kinh tế và xã hội của cá nhân đó với các điều kiện mà cá nhân đó nghĩ rằng các thành viên của một nhóm tham khảo nào đó được hưởng. Runciman phân biệt ba nhóm tham khảo:
Nhóm tham khảo so sánh (comparative reference group): Nhóm trực tiếp chịu trách nhiệm làm nẩy sinh ra thiếu thốn tương đối. Đây là nhóm mà cá nhân lấy đó mà so sánh.
Nhóm tham khảo chuẩn tắc (normative reference group): Đây là nhóm mà cá nhân mong muốn trở thành một thành viên.
Nhóm thành viên (membership group): Đây là nhóm mà cá nhân thay mặt để yêu sách với nhóm tham khảo so sánh.
Rucinman (1966: 10 & 19) cho rằng thiếu thốn tương đối của một cá nhân đồng biến với sự khác biệt thu nhập giữa các người trong nhóm tham khảo so sánh và cá nhân đó và số người trong nhóm tham khảo so sánh (như các định nghĩa trong phần 4.2).
Ở đây chúng ta chỉ cần tập trung vào nhóm tham khảo so sánh và nhóm thành viên. Chúng ta có thể phân biệt hai trường hợp:
(a) Nhóm thành viên và nhóm tham khảo so sánh là một hay gần như trùng khớp: tức là một cá nhân so sánh với những người trong cùng nhóm của mình.
(b) Nhóm thành viên và nhóm tham khảo so sánh khác nhau: tức là một cá nhân so sánh với những người khác nhóm của mình.
Các ví dụ cho trường hợp (a) như sau. Stouffer và các đồng tác giả quan sát rằng thiếu thốn tương đối trong Không lực Mỹ cao hẳn hơn trong Quân cảnh Mỹ mặc dù xác xuất được thăng chức trong Không lực Mỹ cao (47%) gần gấp đôi xác xuất được thăng chức trong Quân cảnh Mỹ (24%). Điều này cho thấy các quân nhân trong Không lực Mỹ không so sánh với Quân cảnh Mỹ mà chỉ so sánh trong nhóm thành viên của mình. Tương tự, Runciman thấy rằng tại Anh các người khá giả có thể bất mãn nhiều hơn những người nghèo. Lý do là bởi vì các người khá giả so sánh với giới giàu có, quý tộc, trong khi người nghèo thường chọn nhóm tham khảo rất khiêm nhường.
Nếu xã hội phân hoá thành hai nhóm và hai nhóm này so sánh với nhau, Davis chứng tỏ rằng tổng thiếu thốn lên đến cực đại khi số thành viên của hai nhóm này bằng nhau. Lập luận của Davis như sau. Gọi p là tỷ lệ những người thiếu thốn trong xã hội và q (1 º 1–p) là tỷ lệ những người không thiếu thốn trong xã hội. Xác xuất chọn hai người trong đó một người thiếu thốn và một người không thiếu thốn là pq (chỉ có trường hợp này mới sinh ra bất mãn xã hội). Do đó tổng thiếu thốn tương đối toàn xã hội sẽ là RD = Bpq trong đó B là một hằng số dương. Hàm RD lên đến cực đại khi p = q = 0.5. Tương tự, Runciman tập trung vào trường hợp mà trong đó nhóm thành viên (ví dụ như giới lao động) khác với nhóm tham khảo so sánh (giới trung lưu), vì đó là kết hợp dễ làm nảy sinh bất mãn chính trị nhất.
Sen (1973, 1976) là nhà kinh tế đầu tiên liên kết đo lường chênh lệch thu nhập (chỉ số Gini) với thiếu thốn tương đối bằng cách bầy tỏ rằng chỉ số Gini có thể viết thành tổng số các khác biệt thu nhập với hệ số tiêu chuẩn hoá (weighted normalised sum). Sen (1973) viết:
Trong bất cứ so sánh hai người, cá nhân với thu nhập thấp hơn có thể xem là gánh chịu sự buồn phiền khi biết điều này. Sự phiền muộn này tỷ lệ thuận với sự khác biệt giữa hai thu nhập. Tổng các sự phiền muộn này cho tất cả so sánh hai người chính là hệ số Gini.
Nói gọn lại, Sen đã đề xuất một lối thông hiểu hệ số Gini như là một đo lường của tổng thiếu thốn của toàn xã hội. Trong lối giải thích này, Sen giả thử nhóm tham khảo so sánh của bất kỳ cá nhân nào cũng là toàn thể xã hội. Đường lối này đã được Yitzhaki (1979) và Hey & Lambert (1980) triển khai. Yitzhaki (1970) chứng tỏ rằng tích mG (m là thu nhập bình quân) tương ứng với một đề xuất của Runciman về thiếu thốn tương đối (sự thiếu thốn tương đối của một cá nhân là một hàm đồng biến với tỷ lệ người có thu nhập cao hơn cá nhân này). Hey & Lambert (1980) cho thấy một số đặc tính quen thuộc của đường Lorenz có thể được làm sáng tỏ một cách tự nhiên trong khuôn khổ thiếu thốn tương đối. Berribi & Silber (1985) đi xa hơn nữa khi chứng minh rằng tất cả chỉ số chênh lệch thu nhập đều có thể thông hiểu là chỉ số thiếu thốn tương đối.
4.4 Thiếu thốn tương đối và chênh lệch thu nhập
Thảo luận bên trên cho thấy sự khác biệt giữa trường phái xã hội học và kinh tế học. Các nhà kinh tế cho thấy, khi bất kỳ cá nhân nào cũng so sánh với tất cả thành viên khác trong toàn xã hội, bất cứ đo lường nào của tổng chênh lệch thu nhập (ví dụ như hệ số Gini) đều là một biểu trưng cho tổng thiếu thốn tương đối cho toàn xã hội. Các nhà xã hội học nhấn mạnh sự khác biệt giữa nhóm thành viên và nhóm tham khảo so sánh. Họ xem thiếu thốn tương đối như là sự phân hoá của phân phối nguồn lực kinh tế xã hội, và do đó có thể xem là nhiên liệu cho các xung đột xã hội và chính trị giữa nhóm thiếu thốn và nhóm không thiếu thốn. Theo lối thông hiểu này, tổng thiếu thốn tương đối toàn xã hội không phải là hàm đồng biến của tổng chênh lệch thu nhập. Điều này hàm ý một xã hội rất chênh lệch có thể đạt mức độ tổng thiếu thốn tương đối thấp, như đã chứng minh bởi Yitzhaki (1982).
Gần đây hơn, vài nhà kinh tế đã dùng phương pháp tiên đề để tìm kiếm các chỉ số cho tổng thiếu thốn tương đối từ quan điểm xã hội học (xem Estaban & Ray 1994, Podder 1996). Các lập luận chính của Podder có thể tóm tắt như sau:
Nguyên lý Pigou–Dalton xác định khi một người giàu chuyển nhượng một số thu nhập cho một người nghèo, chênh lệch thu nhập nhất thiết giảm. Nguyên lý này không có hiệu lực tổng quát trong trường hợp thiếu thốn tương đối. Khi một người giàu chuyển nhượng một số thu nhập cho một người nghèo, thiếu thốn tương đối có thể tăng.
Khi G = 0, RD = 0 như đã lý luận bên trên. Nhưng khi G = 1, RD cũng gần triệt tiêu. Đó là trường hợp một cá nhân chiếm hữu gần hết tổng thu nhập trong xã hội, và phần thu nhập còn lại được chia đều cho tất cả thành viên khác. Một cá nhân với thu nhập vừa đủ sống chỉ so sánh với các người trong nhóm thành viên của mình (không bao gồm người có thu nhập cao nhất trong xã hội), và do đó không cảm thấy thiếu thốn tương đối.
Tổng thiếu thốn tương đối cho toàn xã hội đồng (nghịch) biến với G khi G nhỏ (lớn) hơn 0.5. Tổng thiếu thốn tương đối cho toàn xã hội lên đến cực đại khi một nửa tổng số thành viên xã hội có thu nhập vừa đú sống (nhóm thiếu thốn) và một nửa tổng số thành viên xã hội chia đều tổng số thu nhập còn lại (nhóm không thiếu thốn). Điểm này tương ứng với G = 0.5.
Dựa trên các lập luận trên, Podder đề xuất một chỉ số cho tổng thiếu thốn tương đối như sau RD = 2G nếu G £ 0.5 và RD = 2(1–G) nếu G > 0.5. Lối phân tích của Podder trung thực với quan điểm xung đột của xã hội học và phù hợp với các chuyển biến lịch sử. Vì thế đây là cách thông hiểu thiếu thốn tương đối mà tác giả bài viết này ủng hộ.
4.5 Một vài ứng dụng vào các hiện tượng xã hội
Trong buổi đầu của văn minh nhân loại, khi con người chưa sống thành xã hội có tổ chức, hoạt động kinh tế chính yếu của con người là săn bắt, hái lượm. Vào thời kỳ này, thu nhập (dưới dạng tiêu thụ) thường được phân phối một cách hợp lý theo đóng góp và nhu cầu. Đây là tình trạng mà trong đó chênh lệch thu nhập và thiếu thốn tương đối đều thấp. Thời kỳ phong kiến có thể mô tả bắng sự phân cực hoá của xã hội với mộ thiểu số rất nhỏ thuộc nhóm không thiếu thốn (“có”) và hầu hết số còn lại thuộc nhóm thiếu thốn (“không có”). Đây là tình trạng mà trong đó chênh lệch thu nhập rất cao và thiếu thốn tương đối rất thấp. Điều này có thể giải thích phần nào tại sao xã hội phong kiến đã tồn tại một thời gian khá dài trong lịch sử con người.
Khi tổng thiếu thốn toàn xã hội lên đến cực đại, sự bất mãn và oán giận cũng đến cực điểm, và đây là giai đoạn mà xác suất xung đột xã hội cao nhất. Khá nhiều sự kiện lịch sử gần đây có thể giải thích bằng thiếu thốn tương dối. Hirschman (1973) cho thí dụ về nội chiến tại Nigeria và sự tách rời của Pakistan và Bangladesh. Pakistan và Bangladesh lúc bấy giờ có dân số ngang nhau. Khi Pakistan và Bangladesh trở thành nước theo đạo Hồi, bộ máy hành chính của hai nước được các người Pakistan điều khiển. Các nhà hành chính này chuyển nguồn lực của Bangladesh và hầu hết viện trợ nước ngoài để đạt được phát triển kinh tế cho Pakistan, còn Bangladesh thì bị lãng quên. Nhưng tại sao nội chiến không xẩy ra sớm hơn? Hirschman giải thích điểm này một cách khá thuyết phục qua tác dụng đường hầm (tunnel effect). Khi quá trình phát triển bắt đầu, chỉ một thiểu số dân chúng hưởng quyền lợi kinh tế. Nhóm thiếu thốn chưa bất mãn vì các thành viên của nhóm này kỳ vọng họ cũng sẽ hưởng quyền lợi kinh tế một ngày gần đây. Sau khi chờ đợi quá lâu, sự thấu cảm ban đầu trở thành cảm giác thiếu thốn tương đối. Khi đủ số người cùng cảm nhận như vậy, xung đột xã hội bắt đầu xẩy ra. Sự tan rã của Pakistan–Bangladesh là một thí dụ của mức tổng thiếu thốn tương đối lên đến cực điểm.
Ý niệm thiếu thốn tương đối còn dùng để giải thích nhiều hiện tượng khác nhau như nổi loạn, cách mạng, thương lượng lương bổng, di dân từ quê ra tỉnh, vv. Tuy nhiên, chúng ta nên nhớ rằng, lý thuyết thiếu thốn tương đối chỉ là sự thật thống kê. Có rất nhiều trường hợp mà trong đó lý thuyết thiếu thốn tương đối không thể giải thích thoả đáng được. Ví dụ, những xung đột xã hội mãnh liệt có thể làm giảm nhẹ đi bởi các nhân tố như cấu trúc chế dộ và sự thể chế hoá chính trị. Tuy nhiên, những điểm này ra ngoài phạm vi của bài viết này và sẽ không được bàn ở đây (xem thêm Schock 1996).
5. Thiếu thốn Tương đối tại Việt Nam
Thời kỳ phong kiến tại Việt Nam có thể diễn tả bằng hiện tượng chênh lệch thu nhập/tiêu thụ cao và tổng thiếu thốn tương đối thấp như đã đề cập bên trên. Trong thời kỳ này, chưa có sự phân biệt sâu đậm giữa thành thị và thôn quê. Hơn nữa lối sinh hoạt chia sẻ, đùm bọc của văn minh nông nghiệp góp phần làm giảm mức độ thiếu thốn tương đối trong làng xã. Trong thời kỳ Pháp thuộc, sự phân biệt giữa người thành phố và người thôn quê trở nên rõ nét hơn. Văn hóa làng xã truyền thống Việt Nam bị dao động khi va chạm với văn minh cơ khí phương tây. Tinh thần san sẻ, đùm bọc của nông thôn cũng bị suy giảm ít nhiều vì cuộc cải cách ruộng đất sau ngày Cách mạng Tháng tám.
Trong trường hợp một nền kinh tế chuyển tiếp như Việt Nam, cơ chế thị trường dần dần phát triển thay cho các mệnh lệnh kinh tế. Tuy nhiên những cơ hội tiếp cận và khả năng tận dụng những thay đổi này không phân phối đồng đều trong xã hội hay cộng đồng. Trong một đơn vị sản xuất (làng xã, doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước) chúng ta có thể phân biệt hai hạng người: người đưa ra sáng kiến (innovator) và người đi theo (follower) (xem thêm Mui 1995). Người đưa ra sáng kiến nắm bắt được cơ hội đổi mới và cải tiến vị trí kinh tế tương đối của mình. Người đi theo bị tụt hậu và cảm thấy ghen tỵ. Dĩ nhiên, sự cải tiến của người đưa ra sáng kiến cũng có thể làm lợi cho người đi theo (tác dụng ngoại tác của cải tiến) nhưng thông thường người đi theo sẽ cảm thấy thiếu thốn nhiều hơn so với người đưa ra sáng kiến sau khi cải tiến xẩy ra.
Sự tăng thêm của thiếu thốn tương đối do đổi mới kinh tế có thể đưa đến hai thái độ cản trở sự cải tiến và thành công của láng giềng hay đồng nghiệp: trả đũa (ví dụ như trộm cắp, không cộng tác) và phá hoại ngầm. Những hiện tượng này xảy ra khá thường xuyên cho các nền kinh tế chuyển tiếp. Sau đây là một đoạn trích ra từ một bản tin của Người Lao Động (2008) về sự thành công trong việc trồng tiêu của huyện Chư Sê, tỉnh Gia Lai, trong khi các huyện lân cận bị thất mùa, phá sản:
Rồi còn nạn trộm cắp. Cứ mỗi mùa tiêu đến là dân lại nơm nớp. Mới từ đầu mùa đến nay, Chư Sê đã xảy ra 13 vụ trộm cắp hồ tiêu lớn trị giá tiền tỉ. Chỉ mới đây, anh Lê Văn Tâm ở thôn Plei Dư bị mất 5 tạ tiêu khô trị giá 25 triệu đồng.
Những thái độ hay hành xử như trả đũa hay phá hoại ngầm tuy làm giảm thiếu thốn tương đối nhưng đều có ảnh hưởng tiêu cực lên phát triển kinh tế, trong ngắn hạn lẫn dài hạn. Thứ nhất, những người đưa ra sáng kiến trong làng xóm, doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước sẽ mất động cơ cải tiến vì các vụ trả đũa hay phá hoại ngầm này. Thứ hai, xã hội hay chính phủ sẽ phải bỏ một số nguồn lực từ sản xuất qua không sản xuất để tìm kiếm, bắt phạt các người đi theo phạm pháp (tức là các người đi theo tìm cách trả đũa hay phá hoại ngầm các người đưa ra sáng kiến). Dù gián tiếp hay trực tiếp, thiếu thốn tương đối và ghen tỵ có khả năng làm giảm độ tăng trưởng của nền kinh tế, nhất là nền kinh tế trong thời kỳ chuyển tiếp.
Như đã thảo luận bên trên, thiếu thốn tương đối mang lại hậu quả nguy hại nghiêm trọng nhất khi xã hội bị phân cực và nghèo đói di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phân cực hóa xã hội giữa thành thị và thôn quê là một hiện tượng đang xẩy ra tại Việt Nam. Từ rất lâu nay, nông dân Việt Nam đã gánh chịu rất nhiều thiệt thòi. Tuy Đổi Mới đã và đang cải thiện đời sống nông dân nói chung, khoảng cách kinh tế giữa thành phố và nông thôn Việt Nam ngày càng gia tăng. Điều này đã được khẳng định trong các khảo sát thực tế trong nhiều năm qua. Sự cải thiện của các phương tiện truyền thông như báo chí, truyền thanh và truyền hình cũng giúp nông dân biết rằng sự gia tăng khoảng cách kinh tế giữa họ và dân thành phố không phải chỉ là suy diễn mà là hiện thực.
Trong một xã hội truyền thống, văn hóa chia xẻ đùm bọc góp phần làm giảm thiếu thốn tương đối giữa các thành viên trong cộng đồng. Trong một xã hội tân tiến, văn hóa đó trên nguyên tắc được thay thế bằng các chính sách tái phân phối qua hệ thống thuế và chuyển giao lũy tiến[16] của chính phủ. Dưới hệ thống tái phân phối lũy tiến, người giàu phải chuyển nhượng một phần thu nhập cho người nghèo, và do đó làm giảm chênh lệch thu nhập và thiếu thốn tương đối nói chung. Nhưng theo các khảo sát mới nhất của Chương Trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP), hệ thống an sinh xã hội tại Việt Nam có tính lũy thoái, thay vì lũy tiến, bởi vì các chuyển giao an sinh xã hội không dựa trên mức thu nhập mà là để bảo trợ các chi phí giáo dục và y tế (xem Evans và các đồng tác giả 2007: 80). Hệ thống thuế tại Việt Nam dựa rất nhiều trên thuế gián thu (thuế đánh trên hàng hóa và dịch vụ) và thuế gián thu thường có tính lũy thoái. Nói chung, hệ thống thuế–chuyển nhượng tại Việt Nam hiện nay có tính lũy thoái và do đó có xu hướng làm tăng mức tổng thiếu thốn tương đối và sự phân cực hóa trong xã hội.
Như đã thảo luận trong phần 3.1, nông dân nói chung tuy có thu nhập tương đối thấp so với dân thành phố, nhưng có thể giàu tài sản (đất đai) hơn dân thành thị. Tuy nhiên trong quá trình hiện đại hóa, đất nông nghiệp bị chuyển sang đất công nghiệp và đô thị, khiến nhiều nông dân trở thành vô sản và nhiều đất đai trở thành sở hữu của một số cá nhân có thế lực kinh tế và quyền lực chính trị (xem thêm Trần H.H. 2008: cước chú 39). Nghiêm trọng hơn nữa là hiện tượng trưng dụng bừa bãi đất nông dân để làm khu ăn chơi du lịch, sân golf, vv với giá bồi thường rất thấp so với giá thị trường. Đây chính là mồi thuốc nổ cho các bất ổn và xung đột xã hội như các cuộc biểu tình phản đối đã chứng minh.
Một vấn đề nghiêm trọng không kém là chủ trương xã hội hoá (tức là tư thục hoá) giáo dục gần đây của chính phủ Việt Nam. Ngay trước khi chủ trương này chính thức ra đời, giáo dục tại Việt Nam đã lộ ra nhiều yếu kém trong khiá cạnh công bình xã hội và giới tính. Thứ nhất, trong những năm gần đây, tỷ lệ ghi danh cấp tiểu học càng ngày càng giảm, có lẽ vì lý do học phí và phụ phí quá cao cho các gia đình nghèo. Thứ hai, tỷ lệ ghi danh cấp tiểu học của nữ học sinh giảm nhiều hơn nam học sinh (xem thêm Trần, N.B. 2006). Tuy chưa đủ dữ kiện và nghiên cứu, chúng ta có thể suy diễn một cách khá an toàn rằng, đại đa số những hiện tượng tiêu cực trên xẩy ra cho nông dân Việt Nam. Nếu đúng như vậy, điều này làm giảm vốn con người của con em nông thôn so với con em thành phố. Do đó, nghèo đói có thể di truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, và là một mầm mống cho các va chạm xã hội trong tương lai.
Sự phân cực hoá giữa thành thị và nông thôn tại Việt Nam đang xẩy ra và có xu hướng trầm trọng hơn trong tương lai. Tuy nhiên, vì Việt Nam có một cấu trúc xã hội và chính trị rất vững chãi và linh động cho nên xác suất của những xung đột xã hội mãnh liệt không cao lắm. Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam cũng nên quan tâm hơn và tìm cách thực thi một số chính sách như sau:
tái phân phối thu nhập qua hệ thống thuế và chuyển giao lũy tiến (bao gồm cải tổ thuế trực thu và chuyển giao an sinh xã hội theo thu nhập);
tiếp cận tín dụng cho nông dân (ngân hàng xanh);
tiếp cận giáo dục/y tế cho người nghèo, nhất là nông dân tại các địa phương thu nhập thấp; và
các biện pháp giúp nông dân tăng năng suất và thu hoạch (trồng hoa màu gì, trồng như thế nào, tìm kiếm và phát triển thị trường khách mua ra sao, vv).[17]
Đây thật ra là những chính sách phát triển kinh tế quen thuộc, không cần phải nói thêm trong phạm vi bài này.
6. Kết luận
Bài viết phân tích vai trò của chênh lệch/bất bình đẳng kinh tế, ghen tỵ và thiếu thốn tương đối trong phát triển bền vững tại Việt Nam. Tuy ý niệm phát triển bền vững có thể thông hiểu nhiều cách khác nhau, bài này nhấn mạnh đến góc cạnh phân phối thu nhập của tăng trưởng kinh tế. Động cơ chính của bài viết là xu hướng phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn Việt Nam càng ngày càng tăng.
Trong trường hợp nghiên cứu dùng số liệu Việt Nam, một vấn đề cần quan tâm hơn cả là đo lường tỷ lệ nghèo đói. Một số nghiên cứu quốc tế cho thấy, nếu chúng ta giả thử thu nhập được phân phối đồng đều giữa các thành viên trong gia đình hay hộ, chúng ta sẽ đánh giá thấp tỷ lệ trẻ em nằm trong diện nghèo đói. Đây là một vấn đề cần điều tra lại trước hết và cấp tốc hơn cả.
Sự khác biệt giữa ý niệm chênh lệch kinh tế (ý niệm thực chứng) và bất bình đẳng kinh tế (ý niệm chuẩn tắc) được thảo luận trong phần 3 của bài. Trong một nền kinh tế có sản xuất, không phải tất cả chênh lệch kinh tế đều là bất bình đẳng kinh tế, và nếu không điều chỉnh đúng mức, chênh lệch kinh tế sẽ ước lượng quá cao bất bình đẳng kinh tế. Cách gọi đuờng 45 độ trong biểu đồ Lorenz là đường bình đẳng tuyệt đối không chính xác và dễ gây sai lạc. Tương tự, hệ số Gini bỏ quên ảnh hưởng của chu trình cuộc đời trên thu nhập, và do đó không những đánh giá quá cao chênh lệch thu nhập tại bất kỳ một thời điểm nào, mà còn có thể cho ấn tượng sai về xu hướng chênh lệch thu nhập qua thời gian.
Kế đó, bài này thảo luận sự liên hệ giữa ý niệm thiếu thốn tương đối và chênh lệch kinh tế. Bài viết chấp nhận quan điểm xã hội học rằng người ta chỉ so sánh với nhóm tham khảo của mình, và nhóm tham khảo không phải là toàn xã hội. Như vậy, tổng thiếu thốn tương đối cho toàn xã hội đồng (nghịch) biến với chênh lệch thu nhập khi chỉ số Gini nhỏ (lớn) hơn 0.5. Khi xã hội chia thành hai nhóm, có và không, với số thành viên tương đương nhau, chỉ số Gini bằng 0.5 và tổng thiếu thốn tương đối lên mức cao nhất. Đây là một tình trạng mà xác suất xung đột xã hội lên đến cực điểm, nhất là sau khi các thành viên của nhóm thiếu thốn đã chờ một thời gian dài.
Trong thời kỳ Đổi Mới, nhất là trong bước đầu, chênh lệch thu nhập và thiếu thốn tương đối tại Việt Nam có xu hướng tăng lên. Điều này tác động tiêu cực lên khả năng phát triển bền vững của Việt Nam, nhất là nếu nghèo đói di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một số biện pháp nhằm giảm thiểu thiếu thốn tương đối được đề xuất trong phần 5 của bài viết. Đây chẳng qua chỉ là những biện pháp quen thuộc của chính sách phát triển công nghiệp trong công bình xã hội.
* Bài viết cho Hội thảo Mùa hè “Trách nhiệm Xã hội, Ổn định và Phát triển” tổ chức tại Đại học Nha trang, Việt Nam, 29–31 tháng 7 năm 2008.
** Trần Nam Bình, Atax, Faculty of Law, UNSW, Sydney, NSW 2052, Australia, <b.tran-nam@unsw.edu.au>.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 7:16:56 GMT 9
Tài liệu Tham khảo
Alesina, A. & Perrotti, R. (1996), “Income distribution, political instability and investment”, European Economic Review 40(6): 1203-1228.
Benhabib, J. & Rustichini, A. (1996), “Social conflict and growth”, Journal of Economic Growth 1(1): 125–142.
Berrebi, Z.M. & Silber, J. (1985), “Income inequality indices and deprivation: A generalization”, Quarterly Journal of Economics 100(3): 807–10.
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (2003), Chiến Lược Toàn Diện về Tăng Trưởng và Xóa Đói Giảm Nghèo, Việt Nam, Hà Nội. Truy cập tại <http://siteresources.worldbank.org/INTVIETNAMINVIETNAMESE/Resources/CPRGS_Vietnames_edited.pdf>.
Davis, J.A. (1049), “A formal interpretation of the theory of relative deprivation”, Sociometry 22: 280–96.
Dollar, D. & Glewwe, P. (1998), “Poverty and inequality in the early reform period”, Chương 2 trong Dollar, D., Glewwe, P. & Litvack, J. (đồng chủ biên), Household Welfare and Vietnam’s Transition, World Bank Regional and Sectoral Studies, World Bank, Washington DC.
Estaban, M. & Ray, D. (1994), “On the measurement of polarization”, Econometrica 62(4): 819–51.
Evans, M., Gough, I., Harkness, S., McKay, A., Huyen Dao Thanh & Ngoc Do Le Thu (2007), How Progressive Is Social Security in Viet Nam?, UNDP, Hà Nội. Truy cập tại <http://www.un.org.vn/index.php?option=com_docman&task=doc_details&gid=7&Itemid=141>.
Formby, J.P. & Seaks, T.G. (1980), “Paglin’s Gini measure of inequality: A modification”, American Economic Review 70(3): 479-82.
Glewwe, P., Gragnolati, M. & Zaman, H. (2000), Who Gained from Vietnam’s Boom in the 1990s? An Analysis of Poverty and Inequality Trends, Development Research Branch, World Bank, Washington DC.
Haig, R.M. (1921), “The concept of income”, trong Haigh, R. (chủ biên), The Federal Income Tax, Columbia University Press, New York.
Hey, J.D. & Lambert, P.J. (1980), “Relative deprivation and the Gini coefficient: Comment”, Quarterly Journal of Economics 95(3): 567–73.
Hirschman, A.O. (1973), “The changing tolerance for income inequality in the course of economic development”, Quarterly Journal of Economics 87(4): 544-66.
Johnson, W. (1977), “The measurement and trend of inequality: Comment”, American Economic Review 70(3): 502-4.
Lazear, E.P. & Michael, R.T. (1988), Allocation oh Income Within the Household, University of Chicago Press, Chicago.
Liu, A.Y.C. (2001), “Markets, inequality and poverty in Vietnam”, Asian Economic Journal 15(2): 217-35.
Millimet, D., Podder, N., Slottjie, D. & Zandvakili, S. (2003), “Bounding lifetime income inequality using a cross section of data’, Review of Income and Wealth 49(2): 205-19.
Morgan, J.N. (1962), “The anatomy of income distribution”, Review of Economics and Statistics 44(tháng 8): 270–83.
Mui, V-L (1994), “The economics of envy”, Journal of Ecponomic Behaviour and Organization 25(3):311–336.
Nelson, E. (1977), “The measurement and trend of inequality: A comment”, American Economic Review 70(3): 497-501.
Người Lao Động (2008), “Ở nơi có 300 tỉ phú nông dân”, Người Lao Động ngày 5 tháng 9. Truy cập tại <http://www.nld.com.vn/tintuc/chinh-tri-xa-hoi/phong-su/222811.asp>.
Nguyen, Manh Hung (2003), “Regional and urban–rural disparities in the Vietnamese economy”, trong Tran-Nam, Binh & Pham, Do Chi (đồng chủ biên), The Vietnamese Economy – Awakening the dormant dargon, RoutledgeCurzon, London, trang 283–300.
Nguyen, Van Hanh (2003), “Environmental conditions and sustainable economic development in Vietnam in the decade leading to the new millenium”, trong Tran-Nam, Binh & Pham, Do Chi (đồng chủ biên), The Vietnamese Economy – Awakening the dormant dargon, RoutledgeCurzon, London, trang 267–280.
Organisation for Economic Co-operation and Development (OECD) (2003), Sustainable Development, Glossary, truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2002 tại <http://www.oecd.org/EN/glossary>.
Paglin, M. (1975), “The measurement and trend of inequality: A basic revision”, American Economic Review 65(4): 598–609
Pezzey, J. (1989), ‘Economic analysis of sustainable growth and sustainable development’, Working Paper No. 15, World Bank Environmental Department, Washington DC.
Pham, Lan Huong & Pham, Thi Vinh (2004), Income Distribution in Vietnam, East Asain Development Network, Hà Nội. Truy cập tại <www.eadn.org/reports/iwebfiles/i10.pdf>.
Podder, N. (1996), “Relative deprevation, envy and economic inequality”, Kylos 49(3): 353–76.
Podder, N. & Tran-Nam, B. (2003), “Human capital and earnings inequality: Some consideration of distributive justice with illustration from Australia”, Conference Inequality, Poverty and Human Well-being Conference, World Institute of Development Economics Research, Helsinki, 30–31 tháng 5.
Rainwater, L. (1974), What Money Buys: Inequality and the Social Meaning of Income, Basic Books, New York.
Runciman, W.G. (1966), Relative Deprivation adn Social Justice: A Study of Attitudes to Social Inequality in Tewntieth-Century England, Routledge & Kegan Paul, London.
Schock, K. (1996), “A conjectural model of political conflict: Impact of political opportunities on the relationship between economic ineuqality and violent political conflicts”, Journal of Conflict Resolution 40(1): 98–-133.
Sen, A.K. (1973), On Economic Inequality, Clarendon Press, Oxford.
Sen, A.K. (1976), “Poverty: An ordinal approach to measurement,” Econometrica 44(2): 219–31.
Simmons, H.C. (1938), Personal Income Taxation, University opf Chicago Press, Chicago.
Stoffer, S.A., Suchman, E.A., DeViney, L.C., Star, S.A. & Williams, R.M. (1949), The American Soldier I: Adjusting During Army Life, Princetion University Press, Princeton.
Trần, Hải Hạc (2008), “Tăng trưởng “vì người nghèo”: World Bank và “câu chuyện thành công” của Việt Nam”, Thời Đại Mới 14 (tháng 7).
Tran, Tien Đuc (2002), “Population and sustainable development in Vietnam: Current situation and challenges”. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2002 tại <http://www.dse.de/ef/populat/duc.htm>.
Tran-Nam, Binh (1999), “Economic liberalization and Vietnam’s long-term growth prospects”, Journal of the Asia Pacific Economy 4(2): 233–257.
Trần, Nam Bình (2003), “Tăng trưởng bền vững và phát triển nông nghiệp” trong Phạm, Đỗ Chí, Đặng, Kim Sơn, Trần, Nam Bình & Nguyễn, Tiến Triển (đồng chủ biên), Làm Gì Cho Nông Thôn Việt Nam?, Saigon Economic Times, NXB T/P Hồ Chí Minh & VAPEC, T/P Hồ Chí Minh, trang 87–113.
Trần, Nam Bình (2005), “Đổi mới giáo dục tại Việt Nam: Một vài nhận định từ quan điểm chính sách kinh tế”, Thời Đại Mới 6 (tháng 11).
Tran-Nam, B. & Whiteford, P. (198), “Household equivalence scales: New Australian estimates from the 1984 Household Expenditure Survey”, Economic Record 66(3): 231–34.
Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (2001), Báo cáo Phát triển Con người Quốc gia, NXB Chính trị, Hà Nội.
United Nations Development Programme (UNDP) (1993, 1997, 2006), Human Development Report, Oxford University Press, New York.
United Nations Development Programme (UNDP), Vietnam (2001), “Nobel Prize winner praised Vietnam’s ten-year strategy”, Press Release, UNDP, Hà Nội, ngày 11 tháng 10.
Varian, H. (1974), “Equity, envy and efficiency”, Journal of Economic Theory 9(1): 63–91.
World Bank (1993), “Vietnam transition to the market - An economic report”, Report No. 11902-VN, World Bank, Washington DC.
World Commission on Environment and Development (1987), Our Common Future, Oxford University Press, Oxford.
Yitzhaki, S. (1979), “Relative deprivation and the Gini coeficient”, Quarterly Journal of Economics 93(2): 321–4.
Yitzhaki, S. (1982), “Relative deprivation and economic welfare”, European Economic Review 17(1): 99–113.
Phụ lục 1: Đo lường Thu nhập
Các loại thu nhập
Định nghĩa thu nhập của Haigh (1912) và Simmons (1938) thường được xem là định nghĩa bao hàm nhất của thu nhập:
Thu nhập º Tiêu thụ + Sự thay đổi giá trị của tài sản
Định nghĩa này quá tổng quát và trừu tượng, rất khó áp dụng trong các điều tra thực tế. Cho mục đích ứng dụng, chúng ta cần khai triển định nghĩa này thêm. Trên lý thuyết, các nhà kinh tế phân biệt các loại thu nhập sau đây:
Thu nhập tiền (money income) = luồng tiền một cá nhân hay gia đình nhận được từ mọi nguồn như lương, lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức từ vốn tài chính như tiền lãi, lãi cổ phần, lãi vốn (capital gains), chuyển giao, vv
Thu nhập tiền hóa (monetized income) = Thu nhập tiền + Giá trị tiền của trữ lượng hàng hóa bền của tư nhân (như nhà cửa, xe hơi, quần áo, vv) và của công (đường xá, cống rãnh, thư viện, vv) + Giá trị tiền của vốn xã hội (như luật lệ cai trị, cách hành xử xã hội, vv);
Thu nhập toàn (full income) = Thu nhập tiền hóa + Giá trị thời giờ ngoài thị trường của các thành viên trong gia đình;
Thu nhập thật, toàn (full, real income) = Thu nhập toàn diều chỉnh cho trình độ kỹ thuật tương đối của gia đình (như tài nấu ăn của các bà nội trợ, số người trong nhà, vv).
Trên thực tế, tìm kiếm dữ kiện cho thu nhập tiền hoá, thu nhập toàn, vv rất khó khăn. Vì thế các nhà kinh tế thường chỉ tập trung vào thu nhập tiền. Trong các điều tra ứng dụng, các nhà nghiên cứu thường muốn xem xét ảnh hưởng của chính sách thuế–chuyển giao trên phân phối thu nhập. Trong trường hợp này, chúng ta có thể phân biệt các loại thu nhập tiền như sau:
Thu nhập thị trường (market income) = luồng tiền một cá nhân hay gia đình nhận được từ thị trường như lương, lợi nhuận doanh nghiệp, lợi tức từ vốn tài chính, vv;
Thu nhập tư (private income) = Thu nhập thị trường + Chuyển giao từ tư nhân (tiền mặt lẫn hiện vật);
Thu nhập gộp hay thu nhập tổng (gross income) = Thu nhập tư + Chuyển giao từ chính phủ (tiền mặt lẫn hiện vật);
Thu nhập trừ thuế (disposable income) = Thu nhập tổng – Thuế thu nhập[18];
Thu nhập ròng (net income) = Thu nhập sau thuế – Thuế gián thu[19]
Đơn vị thu nhập
Trong các khảo sát về phân phối thu nhập, đơn vị đo lường có thể là cá nhân, gia đình hay hộ. Dùng cá nhân làm đơn vị thu nhập rất tiện lợi vì nhiều lý do: định nghĩa rõ ràng, số liệu sẵn sàng, cá nhân thường cũng là đơn vị thuế, vv. Tuy nhiên, dùng cá nhân làm đơn vị thu nhập cũng có nhiều bất lợi. Có rất nhiều cá nhân trong xã hội không có hay có ít thu nhập, ví dụ như trẻ em, người già, các bà nội trợ, những người bệnh tật, vv. Như vậy, nếu dùng cá nhân làm đơn vị đo lường thì có rất nhiều thành viên của xã hội sẽ bị loại bỏ trong phân phối thu nhập và do đó chúng ta sẽ không thấy một bức tranh toàn cảnh cho xã hội. Hơn nữa, trong thực tế, con người sống thành gia đình hay hộ, người lớn chia xẻ thu nhập với con cái, và đôi khi cả với các thành viên khác trong hộ (không nhất thiết có liên hệ gia đình). Chính vì thế, hầu hết các khảo sát về phân phối thu nhập đều dùng hộ làm đơn vị thu nhập.
Khi dùng hộ làm đơn vị đo lường trong các khảo sát phân phối thu nhập, các nhà nghiên cứu gặp hai trở ngại chính:
Thu nhập của hộ được phân phối như thế nào giữa các thành viên của hộ; và
Lợi thế kinh tế nhờ quy mô trong tiêu thụ (economies of scale in consumption).
Trong khi phân phối thu nhập giữa các hộ được khảo sát rất kỹ lưỡng, có rất ít nghiên cứu về phân phối thu nhập trong một hộ (một ngoại lệ quan trọng là Lazear & Michael 1988). Các nhà nghiên cứu thường chấp nhận một giả thiết đơn giản là tổng thu nhập trong một hộ được phân chia đồng đều cho tất cả thành viên trong hộ. Dưới giả thiết này, chúng ta có thể suy ra thu nhập bình quân đầu người cho mỗi hộ bằng cách chia tổng thu nhập của hộ cho số người trong hộ.[20] Hầu hết các nhà nghiên cứu đều chấp nhận giả thiết quy ước này.
Nhưng qua những quan sát tình cờ, cá nhân, chúng ta biết rằng không hộ nào chia xẻ thu nhập hoàn toàn đồng đều giữa tất cả hộ viên. Điều này đã được kiểm chứng qua các nghiên cứu nghiêm túc về sự phân bổ chi phí trong hộ/gia đình. Dựa trên số liệu thống kê Mỹ năm 1970 và 1979, Lazear & Michael (1988) chứng tỏ rằng, tính bình quân, một trẻ em chỉ hưởng được 40% tiêu thụ của một người lớn. Nếu các hộ viên trong một hộ không được đối xử đồng đều, thu nhập bình quân cho mỗi hộ không phải là một biểu trưng chính xác cho phân phối phúc lợi trong một nền kinh tế. Một hàm ý quan trọng của điều này là thu nhập bình quân mỗi hộ có xu hướng đánh giá thấp tỷ lệ nghèo đói của trẻ em trong xã hội.
Nhưng ngay cả nếu nguồn lực được phân phối đồng đều giữa các thành viên trong hộ, thu nhập bình quân mỗi hộ vẫn không phải là một biểu trưng chính xác cho phúc lợi của từng hộ viên. Nhu cầu của mỗi hộ tăng lên với từng hộ viên, nhưng không theo tỷ lệ thẳng vì sư hiện diện của lợi thế kinh tế nhờ quy mô trong tiêu thụ. Lợi thế này có hai dạng chính như sau. Thứ nhất, hộ đông người có khả năng mua một số hàng hoá trong nhà (ví dụ như thực phẩm) với số lượng lớn và giá đơn vị thấp hơn (bulk buying). Thứ hai, một số hàng hoá và dịch vụ trong nhà có tính chất hàng hoá công (public goods), ví dụ như TV, điện, báo giấy, vv. Do đó chia tổng thu nhập bằng số người trong hộ sẽ ước lượng thấp phúc lợi kinh tế của từng hội viên.
Thay vì dùng số hộ viên, nhiều nhà kinh tế chủ trương dùng thước đo tương đương hộ (household equivalence scales) để điều chỉnh thu nhập. Thước đo tương đương hộ là số đo các mức thu nhập hay tiêu thụ tương đối mà các hộ với số người và độ tuổi khác nhau cần có để đạt tới mức sống như nhau. Trong phương pháp này, các loại hộ được chia thành hộ tham khảo (reference household), với số đo là 1, và hộ so sánh (comparison household). Giả thử chúng ta chọn hộ một người lớn là hộ tham khảo. Nếu thước đo của hộ hai người lớn và một trẻ em là 2, điều đó hàm nghĩa hai người lớn và một trẻ em cần gấp đôi thu nhập hay chi phí của một người lớn để đạt được mức phúc lợi như cá nhân đó. Sự hiểu biết về thước đo tương đương hộ rất cần thiết cho chính sách an sinh xã hội trong các nước đã phát triển. Trên nguyên tắc, các thước đo tương đương hộ có thể suy ra từ các số liệu dưới một vài giả thiết nhất định nào đó[21] (xem, thí dụ như, Tran-Nam & Whiteford 1990).
Thu nhập ngắn hạn và thu nhập dài hạn
Như đã thảo luận bên trên, thu nhập hiện thời không phải là một biểu trưng thích hợp cho phúc lợi kinh tế. Nhiều nhà kinh tế lập luận rằng chênh lệch hay bất bình đẳng kinh tế phải dựa trên thu nhập cả đời.[22] Nhưng nếu muốn tính ra thu nhập cả đời, chúng ta cần có số liệu về thu nhập hiện thời của các cá nhân qua nhiều giai đoạn của các cá nhân đó. Số liệu thu nhập dài hạn như vậy vô cùng khó kiếm. Dù muốn dù không, các nhà nghiên cứu thường chỉ có các số liệu thu nhập tại một thời diểm cố định (cross section data) mà thôi. Do đó, nếu phải dùng thu nhập hiện thời để ước lượng mức độ chênh lệch hay bất bình đẳng kinh tế, chúng ta phải lưu ý đến tương quan giữa độ tuổi và thu nhập (age–income profile).[23]
Từ lâu nay, các nhà kinh tế đã nhận thức rằng biểu đồ Lorenz và hệ số Gini bỏ quên ảnh hưởng của chu trình cuộc đời trên thu nhập, và do đó là những cách đo lường chênh lệch thu nhập không hoàn hảo (xem, thí dụ như, Morgan 1962: 273-5). Nói rõ hơn, chỉ số Gini đo lường sự chênh lệch thu nhập trong các lớp tuổi, cũng như giữa các lớp tuổi. Nhưng sự chênh lệch giữa các lớp tuổi phản ánh tương quan độ tuổi-thu nhập, không phải là chênh lệch cả đời. Như vậy chỉ số Gini sẽ ước lượng quá cao bất bình đẳng kinh tế. Paglin (1975: 559-601) đề xuất một phương thức loại bỏ sự chênh lệch thu nhập giữa các lớp tuổi khác nhau. Theo phương pháp này, đường bình đẳng tuyệt đối không phải là đường 45 độ mà là đường lồi P, phản ánh sự phân chia đồng đều của thu nhập sau khi đã điều chỉnh cho ảnh hưởng của chu trình cuộc đời trên thu nhập.
Đóng góp của Paglin rất là quan trọng vì Paglin có thể điều chỉnh phân phối thu nhập cho tương quan độ tuổi-thu nhập mà vẫn giữ được một thống kê tóm tắt cho chênh lệch thu nhập. Phương pháp của Paglin cho thấy rằng không những chỉ số Gini đánh giá quá cao chênh lệch thu nhập tại bất kỳ một thời điểm nào, mà còn có thể cho ấn tượng sai về xu hướng chênh lệch thu nhập qua thời gian. Nói rõ hơn, khi chỉ số Gini tăng (hay giảm) theo thời gian, điều đó không nhất thiết hàm nghĩa bất bình đẳng kinh tế trong các lớp tuổi tăng (hay giảm) qua thời gian. Tuy ý tưởng của Paglin rất đúng, cách điều chỉnh của Paglin đã gặp một số chỉ trích và các góp ý cho chính xác hơn (xem, thí dụ như, Johnson 1977, Nelson 1977, Formby & Seaks 1980, Millimet và các đồng tác giả 2003).
Chú thích
[1] Năm 1989 chứng kiến các cải cách kinh tế lớn như tháo bỏ hệ thống hợp tác xã, tự do hoá giá cả, bãi bỏ khẩu phần, mở rộng khu vực tư, thống nhất hối suất, phá giá tiền, tăng lãi suất thật, giảm trợ cấp quốc doanh, cải tổ thuế, mở rộng mậu dịch quốc tế, khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài (xem World Bank 1993: ii-iii).
[2] Căn cứ theo Báo cáo Phát triển Con người, tổng sản phẩm chia đầu người điều chỉnh cho sức mua của Việt Nam tăng từ PPP$1.100 (xếp hạng 156 trong 173 nước) năm 1990 lên PPP$2.745 (xếp hạng 121 trong 177 nước) năm 2004 (xem UNDP 1993, 2006), biểu hiện mức tăng lũy tích 150% trong giai đoạn 1990-2004.
[3] Chỉ số Gini, do nhà thống kê người Ý Corrado Gini đề xuất năm 1912, là một thống kê tóm tắt phổ thông nhất cho chênh lệch thu nhập. Hệ số hay chỉ số Gini có liên hệ mật thiết với đường Lorenz (biểu đồ cho biết x% của tống số cá nhân hay hộ nghèo nhất chiếm hữu bao nhiêu % của tổng số thu nhập), và biến đổi từ 0 (phân phối đồng đều tuyệt đối) dến 1 (phân phối chênh lệch tuyệt đối).
[4] Căn cứ trên tổng sản phẩm chia đầu người điều chỉnh cho sức mua, tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm hàng năm của Việt Nam phải hơn Indonesia ít nhất là 3% trong 40 năm thì Việt Nam mới bắt kịp mức sống của Indonesia (xem Tran-Nam 1995: 242 để rõ thêm chi tiết).
[5] Một hộ bao gồm một hay nhiều người, trong đó có ít nhất một người lớn, thường sống chung trong một nhà, góp một phần hay tất cả thu nhập với nhau và tiêu thụ chung một số hàng hóa và dịch vụ, chính yếu là nhà cửa và thức ăn. Một hộ có thể gồm một cá nhân, một hay nhiều gia đình, một số người không liên hệ với nhau, hay gia đình và một số người không liên hệ với nhau
[6] Trong những năm 2001-05, tiêu chuẩn nghèo được định nghĩa như sau: thu nhập bình quân dưới 80 nghìn/tháng (hải đảo và núi nông thôn), 100 nghìn/tháng (đồng bằng nông thôn) hay 150 nghìn/tháng (thành phố).
[7] Bởi vì mức độ khai tiêu thụ thấp xuống thường ít hơn mức độ khai thấp thu nhập.
[8] Trong các mô hình kinh tế vi mô nhập môn, tiêu thụ và thu nhập đồng nghĩa với nhau.
[9] Đây là nền tảng cho Chỉ số Phát triển Con người (HDI).
[10] Đây là một từ chuyên môn, đại khái có nghĩa là trong sự lựa chọn các bó tiêu thụ, cá nhân thích bình quân hơn là cực đoan.
[11] Kinh tế học phúc lợi là một ngành học tập trung vào các vấn đề kinh tế chuẩn tắc, thí dụ như nên sản xuất cái gì, nên sản xuất như thế nào, nên sản xuất cho ai, v.v.
[12] Do nhà kinh tế và xã hội học vĩ đại người Ý Vilfredo Pareto (1848–1923) đề xuất. Hiệu quả Pareto và nguyên lý đền bù là hai di sản lớn nhất của nhà kinh tế Pareto.
[13] Một người trở nên khá hơn (hay kém đi) theo nghĩa phúc lợi của người đó tăng lên (hay giảm xuống).
[14] Thông thường thì sau một sự thay đổi của chính sách công, có người khá hơn và có người kém đi, tức là sự phân phối nguồn lực trước và sau sự thay đổi không thể so sánh trực tiếp được. Trong trường hợp này, chúng ta nói rằng một sự thay đổi của chính sách công có khả năng là một cải tiến Pareto nếu các người khá hơn có thể đền bù những người kém đi sao cho không ai bị trở nên kém đi và ít nhất một người trở thành khá hơn.
[15] Những phân phối này đòi hỏi cá nhân j phài chia cho cá nhân i ít nhất là một nửa phần tăng thu nhập của mình.
[16] Một hệ thống thuế được gọi là lũy tiến(thoái) nếu tỷ lệ thuế đóng trên thu nhập là hàm tăng (giảm) của thu nhập. Tương tự, một hệ thống chuyển giao được gọi là lũy tiến (thoái) nếu tỷ lệ an sinh nhận được trên thu nhập là hàm giảm (tăng) của thu nhập.
[17] Xim cảm ơn Gáio sư Võ Tòng Xuân đã góp ý về vấn dề này.
[18] Thuế trực thu thường chỉ đánh trên thu nhập thị trường.
[19] Thuế gián thu đánh trên tiêu thụ. Điều này hàm nghĩa thu nhập ròng cũng tuỳ thuộc vào mô thức tiêu thụ của cá nhân hay gia đình.
[20] Chỉ số Gini cho thu nhập bình quân mỗi hộ luôn luôn thấp hơn chỉ số Gini cho thu nhập cá nhân.
[21] Từ quan điểm ước lượng, chúng ta cần giả thử một điều kiện để nhận diện (identify) thước đo hộ tương đương. Một ví dụ tiêu biểu là giả thiết các hộ với tỷ phần ngân sách (budget share) thực phẩm bằng nhau có mức sống ngang nhau.
[22] Thu nhập cả đời có thể định nghĩa là giá trị hiện tại (present value) của dòng thu nhập hiện thời.
[23] Tương quan độ tuổi-thu nhập có hình chữ U ngược, nghĩa là thu nhập đồng biến theo tuổi đến một mức độ nào đó (khoảng 55 tuổi) và sau đó thì thu nhập nghịch biến theo tuổi.
|
|
|
Post by NhiHa on May 6, 2011 7:21:03 GMT 9
Karl Marx Phạm Văn Tuấn Karl Marx (1818-1883) Karl Marx đã trưởng thành trong một thời kỳ hỗn loạn, giữa các cuộc cách mạng đang diễn ra tại châu Âu vào năm 1848. Tại nước Ý có các cuộc nổi dậy đòi dân chủ, tại nước Pháp chế độ quân chủ bị tiêu diệt, đồng thời người dân Hung đang đấu tranh đòi tự do và độc lập khỏi nền cai trị của người Áo. Tại nước Đức, thể chế tiền đại nghị (pre-parliamentary) được thiết lập trong khi đó nội chiến tàn phá nước Thụy Sĩ và thành phố Prague là trung tâm của các hỗn loạn do việc thành lập liên minh thuần Slav (a pan-slavic alliance) còn tại nước Anh, phong trào đòi dân chủ Chartism đang đe dọa lật đổ chính quyền. Người dân châu Âu vào thời kỳ này đòi hỏi các chính quyền và xã hội phải giảm bớt các lạm dụng xấu xa gây nên do cuộc kỹ nghệ hóa, đòi hỏi hủy bỏ các tàn tích phong kiến. Đây là giai đoạn rất thích hợp cho các tư tưởng lật đổ, cấp tiến, và Karl Marx đã quan sát cuộc Cách Mạng Pháp năm 1848, đã coi Công Xã Paris (the Paris Commune) diễn ra vào năm 1871 là một kiểu mẫu của xã hội vô sản. Cuộc đời của Karl Marx. Karl Heindrich Marx chào đời vào ngày 5/5/1818 tại Trier trong miền sông Rhine, thuộc nước Phổ (Prussia). Ông nội của Karl là một giáo sĩ Do Thái (rabbi). Cha của Karl là một luật sư giàu có, cả hai phía cha và mẹ của Karl Marx đều thuộc giòng dõi Do Thái nhưng khi Karl tới tuổi thiếu niên thì cả gia đình này chuyển sang đạo Thiên Chúa vì các lý do thương mại và xã hội. Có lẽ do mặc cảm về nguồn gốc này mà về sau, Karl Marx đã chống lại đạo Do Thái. Vào năm 1835, Karl Marx theo học Luật Khoa tại trường Đại Học Bonn rồi qua năm sau, đổi sang Đại Học Berlin. Trong thời gian sống tại Berlin, Karl Marx rất ưa thích môn Triết Học, có cơ hội đọc triết thuyết của Wilhelm Friedrich Hegel. Tại nước Phổ vào giai đoạn này, Triết Học (philosophy) là một môn học nghiêng về chính trị trong khi bên ngoài xã hội, người công dân không được phép tham dự vào các công quyền (public affairs). Karl Marx đã tham gia vào nhóm các sinh viên và giáo sư cấp tiến, thiên về phe tả, thường hay chỉ trích gay gắt cách quản trị xã hội của chính quyền nước Phổ. Karl Marx tốt nghiệp Tiến Sĩ Triết Học tại Đại Học Jena vào năm 1841, có ước vọng trở nên một giáo sư đại học nhưng vì các tư tưởng chống đối chính quyền nên đã gặp nhiều thất bại. Karl Marx quay sang ngành báo chí, đã viết nhiều bài theo đường lối cấp tiến cho nhiều nhật báo trong đó có tạp chí Sông Rhine (the Rheinische Zeitung), khởi đầu xuất bản vào năm 1842. Năm 1843, Karl Marx lập gia đình với cô Jenny von Westphalen, một thiếu nữ trẻ đẹp, con gái của một sĩ quan Phổ, dù cho cả hai gia đình đều không bằng lòng trước cuộc hôn nhân này. Các tư tưởng cấp tiến, các bài viết có tính công kích chính quyền của Karl Marx đã bị kiểm duyệt, người viết bị theo dõi rồi để tránh bị bắt giam, Marx cùng với vợ chạy qua thành phố Paris. Tại nơi này, Karl Marx gặp Friedrich Engels, một người cấp tiến khác gốc Đức, cả hai người trở nên bạn thân, cộng tác với nhau qua nhiều bài viết. Engels là một người tương đối giàu có, con trai của một chủ nhân xưởng dệt, lại có tư tưởng xã hội cấp tiến giống như Karl Marx. Nền móng của tác phẩm sau này “Tư Bản Luận” (Das Kapital) bắt nguồn từ cuốn sách của Friedrich Engels có tên là “Tình trạng của các giới lao động tại nước Anh” (Condition of the Working Classes in England). Các bài viết có tính cách xúi dục nổi loạn của Karl Marx chống lại chính quyền Đức đã khiến cho chính quyền này vận động với nước Pháp trục xuất Marx ra khỏi thành phố Paris vào năm 1845. Marx qua Brussels, nước Bỉ, trú ngụ trong ba năm rồi trở về nước Đức, làm chủ nhiệm tạp chí Sông Rhine Mới (the Neue Rheinische Zeitung), xuất bản tại Cologne. Qua tạp chí này, Karl Marx nổi tiếng là một người phát ngôn của đường lối cải tổ dân chủ cấp tiến. Sau cuộc cách mạng năm 1848 thất bại tại nước Đức, Karl Marx phải bỏ chạy qua Paris. Vào năm này, Marx đã cộng tác với Friedrich Engels, viết ra Bản Tuyên Ngôn Cộng Sản (The Communist Manifesto), một văn bản cấp tiến nhất, kêu gọi bạo lực và gây nên nhiều ảnh hưởng sâu đậm về sau: “Các người Cộng Sản cho rằng không cần phải che giấu các quan điểm và ý định. Họ tuyên bố công khai rằng mục đích của họ chỉ được thực hiện do cuộc lật đổ bằng bạo lực toàn thể trật tự xã hội đương thời. Trước Cuộc Cách Mạng Cộng Sản này, các giai cấp cai trị phải run sợ. Các công nhân không bị mất mát gì cả ngoài gông cùm. Họ có cả một thế giới để chiếm đoạt. Hỡi các Công Nhân của Thế Giới, hãy đoàn kết lại!”. Vào các năm 1848 - 49, các cuộc cách mạng tại châu Âu đã không thành công, những kẻ xúi dục nổi loạn bị truy lùng, Karl Marx vì vậy phải bỏ chạy qua thành phố London vào mùa hè năm 1849. Từ tuổi 31, Marx đã trải qua phần còn lại của cuộc đời trong cảnh túng thiếu. Karl Marx có 6 người con, ba đứa bị chết yểu, hai trong số còn lại sau này đã tự sát. Trong cảnh sống cơ cực, Karl Marx đã được Friedrich Engels trợ giúp cho khỏi chết đói bởi vì lợi tức của Marx chỉ là một món tiền rất nhỏ nhờ các bài viết cho tờ báo New York Tribune, mô tả các sự việc xẩy ra tại châu Âu. Do hoàn cảnh sống quá eo hẹp và bất mãn này mà các bài viết của Karl Marx thường bộc lộ lòng hận thù, cay đắng. Karl Marx là một người học rộng nhưng mang thành kiến và tự kiêu, ông ta được nhiều người ngưỡng mộ nhưng có ít bạn bè và rất nhiều kẻ thù. Mặc dù thường bị đau yếu vì bệnh tật và sống trong cảnh nghèo túng trong khu vực Soho buồn tẻ của thành phố London, mỗi ngày Karl Marx thường ra Viện Bảo Tàng Anh Quốc (the British Museum) tìm kiếm tài liệu để viết nên một tác phẩm có tên là “Tư Bản Luận” (Das Kapital). Cuốn sách này đã được soạn thảo trong 18 năm trường, đôi khi bị ngưng lại vì các lần đau bệnh hay vì vài hoạt động khác của tác giả. Friedried Engels rất lo lắng cho tác phẩm này, e sợ nó bị dở dang. Engels đã nói “ngày mà cuốn sách được đưa in, tôi phải uống rượu thật say để chúc mừng”. Cả hai Karl Marx và Engels đều coi cuốn “Tư Bản Luận” là “cuốn sách bị nguyền rủa” (the d**ned book) bởi vì nó sẽ mang lại một “cơn ác mộng”. Trong đời sống lưu vong của Karl Marx tại thành phố London, có một biến cố quan trọng khác, đó là việc thành lập vào năm 1864 Hiệp Hội Các Công Nhân Quốc Tế (the International Working Men’s Association) được mọi người sau này gọi là Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Nhất (the First International). Đây là một tổ chức cố gắng kết hợp các giới lao động trên thế giới. Karl Marx là người đứng đằng sau sân khấu, đã soạn ra các tài liệu, nguyên tắc, chương trình, các bài diễn văn... nhưng về sau các vụ cãi cọ nội bộ, tranh giành quyền chỉ huy... đã khiến cho tổ chức này bị giải tán sau cuộc sụp đổ của Công Xã Paris vào năm 1871. Tổ chức công nhân quốc tế này lại được các nhà xã hội châu Âu tiếp tục bằng Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Hai (the Second International) rồi về sau bằng Đại Hội Cộng Sản Lần Thứ Ba (the Third International) hay Tổ Chức Comintern, do các người Cộng Sản trên toàn thế giới. Karl Marx đã chuẩn bị cuốn “Tư Bản Luận” trong rất nhiều năm, rồi vào cuối năm 1866, toàn thể bản thảo của cuốn sách này được gửi sang Hamburg và vào mùa thu năm sau, cuốn sách ra đời. Cuốn “Tư Bản Luận” được viết bằng tiếng Đức, bản dịch đầu tiên sang ngoại ngữ khác là ấn bản tiếng Nga năm 1872 rồi tới năm 1886 mới có ấn bản tiếng Anh. Vào thời đại của Karl Marx, nước Anh là nơi tượng trưng cho chế độ tư bản đang phát triển. Các lý thuyết kinh tế của Karl Marx đều dược rút ra do việc quan sát sinh hoạt của nước Anh này. Tại nước Anh vào thời đại Victoria, xã hội chứa đầy bất công, nhiều hoàn cảnh xấu xa. Căn cứ vào các báo cáo chính thức của các nhân viên thanh tra trong chính quyền Anh, Marx đã trình bày các sự kiện xã hội một cách xác thực trong cuốn Tư Bản Luận theo đó đàn bà bị thuần hóa như các con vật, phải kéo các con thuyền dọc theo sông đào, kéo các toa xe nặng chở đầy than đá trong hầm mỏ. Trẻ em tại nước Anh bắt đầu làm việc trong các xưởng dệt vải len từ khi lên 9 hay 10 tuổi và phải lao động cực nhọc mỗi ngày từ 12 tới 15 giờ. Từ khi áp dụng ca đêm, các giường nằm của trẻ em không bao giờ lạnh cả bởi vì chúng thay nhau ngủ theo ca! Bệnh lao phổi và các bệnh nghề nghiệp khác đã giết trẻ em theo một mức độ cao. Việc phản đối các điều kiện làm việc hết sức tồi tệ kể trên không chỉ giới hạn vào Karl Marx. Những nhân vật có lòng nhân đạo như Charles thingyens, John Ruskin và Thomas Carlyle đã viết ra nhiều tác phẩm văn chương với nội dung phơi bày các bất công xã hội và đòi hỏi các cải tổ. Quốc Hội Anh cũng đặt ra các đạo luật sửa chữa. Karl Marx rất hãnh diện về cách tiếp cận các vấn đề kinh tế và xã hội một cách khoa học. Engels nói rằng: “Giống như Darwin đã khám phá ra định luật Tiến Hóa trong bản chất hữu cơ, Marx đã tìm ra định luật Tiến Hóa trong lịch sử con người”. Karl Marx xác nhận rằng: “các hiện tượng kinh tế có thể quan sát và ghi lại với độ chính xác giống như khoa học tự nhiên”. Thông thường Karl Marx hay dẫn chứng các công trình của các nhà sinh học, hóa học và vật lý. Rõ ràng là Karl Marx mong muốn trở nên một nhân vật danh tiếng về xã hội và kinh tế giống như Darwin và Newton. Do cách phân tích xã hội theo khoa học, Karl Marx tin rằng mình đã khám phá ra cách thay đổi từ thế giới tư bản sang thế giới xã hội chủ nghĩa (a socialistic world). Karl Marx qua đời trong thành phố London vào ngày 14/3/1883. Chỉ có 8 người tham dự đám tang của danh nhân này tại nghĩa trang Highgate, gồm cả người vợ và 2 người con. Trong bài điếu văn đọc trước ngôi mộ của Karl Marx, Friedrick Engels là người bạn thân nhất, người cộng tác lâu năm và cũng là một môn đệ của Karl Marx, đã tóm tắt rằng “Trên hết, Marx là một nhà cách mạng và chủ đích chính trong cuộc đời của ông là lật đổ xã hội tư bản cùng các định chế do chế độ này lập nên”.
|
|
|
Post by Can Tho on May 19, 2011 5:06:29 GMT 9
Chiến tranh Đông dương 3 Hoàng Dung
Thay lời tựa Tôi không biết phải gọi Hoàng Dung, tác giả cuốn sách này bằng danh hiệu gì. Về nghề nghiệp ông là bác sĩ, nhưng chức vị bác sĩ sẽ không làm cho giá trị cuốn sách này tăng lên một chút nào. Ông không phải là nhà văn, mặc dù thỉnh thoảng có viết đôi bài đăng báo. Ngay cả ông là tác giả thiên khảo cứu này, ông cũng không nhận là nhà biên khảo Có một điều chắc chắn: ông là một người ưa đọc sách, có thói quen ghi lại những gì ông rút tỉa được nơi những trang sách ông đã đọc. Tôi biết Hoàng Dung từ khi chúng tôi còn thơ ấu. Trong sân trường trung học Nguyễn Trãi, lúc trường này chưa có trụ sở riêng, còn học nhờ tại trường Tiểu học Lê Văn Duyệt. Năm đó là năm 1957, tôi học Đệ Ngũ, Hoàng Dung dưới tôi một lớp. Chúng tôi là bạn chơi banh trong trường. Hai năm sau tôi rời Nguyễn Trãi lên Chu Văn An, một năm sau chúng tôi gặp lại nơi trường Chu Văn An cũ, sau lưng trường Petrus Ký. Khi lên Chu Văn An, là học sinh Trung học đệ nhị cấp, chúng tôi ít giao thiệp vì không còn đá banh, đá cầu trong sân trường nữa. Hơn mười năm sau gặp lại Hoàng Dung tại Pleiku. Ông đã là một bác sĩ quân y. Tuy là bạn thiếu thời, nhưng không phải đồng nghiệp nên thỉnh thoảng chúng tôi mới gặp nhau trong Câu lạc bộ sĩ quan quân đoàn, và đôi khi tệ hơn nữa là gặp nhau nơi bàn mạt chược. Dù gặp nhau ở nơi nào, ông cũng cho người khác thấy ông là người ít nói, lặng lẽ. Nhưng không một ai chối cãi được ông là một người tử tế. Ông tử tế với bạn là chuyện đương nhiên, ông tử tế với binh sĩ dưới quyền. Ông là một y sĩ tận tình săn sóc thương binh của ta và của dịch. Thế rồi chúng tôi tan tác trong cuối mùa trận chiến. Đầu thập niên 80, gặp lại nhau trên xứ người. Hoàng Dung đang đi học lại. Ông mới tới Mỹ một thời gian ngắn, lại lao vào việc sách đèn để có thể đì hết con đường ông đã chọn, để tiếp tục tuân thủ lời thề Hyppocrate. Nơi xứ người thỉnh thoảng chúng tôi mới có cơ hội gặp nhau, khi thì tôi sang miền Đông, khi thì Hoàng Dung sang Cai cho đỡ nhớ không khí nước Việt. Cách đây gần một năm, Hoàng Dung gọi điện thoại đến tôi, ông muốn tôi đọc hộ một tập bản thảo. Ông dứt khoát không hé lộ một chút gì về nội dung cuốn sách, chỉ vắn tắt một câu: “ông đọc hộ tôi coi nó có ra cái giống gì không” Buông điện thoại xuống tôi nghĩ tới Hoàng Dung, những đồng nghiệp của ông, và thế hệ di dân đầu tiên, mà trong đó có Hoàng Dung và cả tôi. Rất nhiều người trong cộng đồng chúng ta, sau khi đã an tâm về vật chất, con người ta cần một món ăn tinh thần. Mỗi người đến với món ăn tinh thần này một kiểu. Có người thành nhà văn, nhà thơ. Có người thành nhạc sĩ, hoạ sĩ. Cũng không thiếu gì người trở thành ca sĩ trình diễn trong vòng thân hữu, trong những party mừng sinh nhật, kỷ niệm thành hôn hay trong các tiệc cưới. Có người trở thành những chuyên viên tranh đấu, có mặt trong năm bẩy đoàn thể, tổ chức. Có người không làm gì cả, chỉ ngơ ngơ ngác ngác nơi xứ người. Hoàng Dung không rơi vào những thông lệ trên. Dù nghĩ gì thì nghĩ tôi không bao giờ tưởng tượng được Hoàng Dung, người bạn thiếu thời, một quân y sĩ nhiều lương tâm, sống giản dị cho tới năm ngoài 40 mới lập gia đình, lại có thể rơi vào cái vòng lợi, danh luẩn quẩn. Suốt mấy ngày liền, tôi bị cuốn sách của Hoàng Dung ám ảnh. Đã có lúc tôi nghĩ là bạn tôi chắc là đang cơn quẫn trí, một mình lủi thủi một xó, thành ra viết văn làm thơ cho nó bớt buồn. Dù sao chăng nữa ở nhà viết bất cứ cái gì, cũng còn hơn mải mê trong những canh mạt chược, đắm đuối trong chỗ ánh sáng mờ ảo của vũ trường. Cầm cuốn bản thảo trong tay, một lần nữa những suy nghĩ về bạn cũ lộn tùng phèo. Đó không phải là một tập truyện ngắn, không phải một tập thơ, tập nhạc. Đó là tất cả những gì Hoàng Dung đọc trong những khi nhàn rỗi, bởi vì ông làm việc cho một bệnh viện của một tỉnh nhỏ, thưa người. Tập bản thảo là kết quả của một thời gian dài cặm cụi, nghiền ngẫm, ghi chép. Hoàng Dung đặt tên cho cuốn sách của ông là: Trận chiến Đông dương hồi III. Bên dưới tên của cuốn sách có chua một hàng chữ: Chiến tranh biên giới Hoa Việt, Miên Việt 1979. Ông đã từng là một nạn nhân của cộng sản, đã từng ở tù vài năm. Vừa mới thoát khỏi hàng rào trại tù, là ông nhắm hướng biển Đông xông tới. May thì đến được một bến bờ, không may thì thêm một mạng người chui vào bụng cá. Nào có xá kể gì, vì sinh mạng con người trong thời khoảng vừa tàn cuộc chiến, thật không khác gì sinh mạng một con kiến. Vài năm đầu tại Mỹ Hoàng Dung chúi đầu vào việc học. Ông chỉ thật sự đọc sách sau khi đã tốt nghiệp, đã thực tập và đã trở thành một y sĩ góp mặt với đời. Sau giờ làm việc tại bệnh viện ông rảnh rỗi, mượn sách thư viện về nhà, xúc tìm nơi những trang sách, về một đề tài ông rất quan tâm: Đó là những trận đánh trong chiến tranh Đông dương hồi III. Hồi I là chiến tranh Việt Pháp cho tới 1954, hồi II là chiến tranh Nam Bắc Việt nam cho tới 1975, và hồi III là chiến tranh tại vùng biên giới, giữa các nước đã từng có thời là đồng minh trong những trận chiến Đông dương cũ. Để có thể liên kết nhiều tài liệu, nhiều tác giả với nhau, ông nẩy ra ý định ghi chép lại. Ông ghi chú tất cả những điều gì cần ghi chú, sắp xếp cho thành từng chương sách, liên hệ cách nhìn của các tác giả, và rút ra cách nhìn của riêng ông. Nội dung tập bản thảo dầy hơn 200 trang, viết về các trận đánh biên giới xẩy ra năm 1979, giữa ba quốc gia đã từng có một thời là anh em, môi hở răng lạnh, đã từng là hậu phương lớn với tiền tuyến lớn: Campuchia-Việt nam-Trung hoa. Chỉ mới ngốn được hai trang đầu, tôi biết là tôi đã bất gặp một cuốn sách đặt đúng vấn đề. Tôi nhớ lại, trong khi trận chiến giữa Việt nam và Trung hoa đang xẩy ra khốc liệt, cũng như chiến tranh Việt nam và Campuchia tới giai đoạn một mất một còn. Không biết người Việt trong nước nghĩ gì, nhưng tại hải ngoại trong lòng người Việt ly hương là một mớ suy nghĩ hỗn độn. Chẳng lẽ lại ca tụng Trung quốc, kẻ thù truyền kiếp của dân Việt từ phương Bắc. Lại càng không thể cổ võ bạo quyền cộng sản trong nước, khi mà hàng trăm ngàn sĩ quan, công chức của miền Nam còn đang lê những tấm thân tàn trong các xó núi, góc rừng. Thành thử trong khi cả nước từ Bắc chí Nam, bất kể đảng viên cộng sản hay là dân chúng, đang oằn người chịu đựng một cuộc chiến tranh khác, thì ngoài nước không một cá nhân nào, một tổ chức nào có một cái nhìn tương đối dứt khoát, đối với một tai hoạ mới đang diễn ra với anh em, ruột thịt đồng bào. Hoàng Dung có mặt trong nước khi chiến tranh biên giới xẩy ra, nhưng người cộng sản có bao giờ thông tin cho dân chúng một cách trung thực. Cái mà ông đọc ở báo chí trong nước, chỉ là những mớ bùi nhùi chữ nghĩa, chỉ là những khẩu hiệu ca tụng chiến thắng rất kêu, hệt như những tiếng phèng la của những tay Sơn Đông mãi võ. Ông muốn tìm hiểu việc gì đã đích thực xẩy ra. Do đó ngay khi điều kiện sinh sống cho phép, ông vùi đầu vào những cuốn sách của các nhà sử học, của các ký giả ngoại quốc đã viết về trận chiến tranh này. Nhân tiện ông ghi lại cho những bạn đồng tù của ông, hay bất cứ ai muốn tìm hiểu trận chiến này. Ông vẽ tại các cuộc chuyển quân của cả ba nước cộng sản tham chiến: Hoa, Việt, Miên. Ông cũng ghi lại những biến chuyển nhân sự, những con người trồi lên tụt xuống trong Chính trị Bộ Bắc Việt, hay trong Trung Nam Hải Bắc kinh, cũng như trong rừng già nhiệt đới Campuchia, để những người đọc ông, có thể hên kết những biến chuyển chính trị, xạ chiếu trên mặt trận quân sự như thế nào. Cách ông viết giống như ông đã trình bầy luận án, do đó cuốn sách có một cái nhìn nhất quán, trình bầy sáng sủa mạch lạc, tài liệu tra cứu dồi dào, với những phụ bản cần thiết. Chỉ cần đọc chương chót cuốn sách, chương ghi chú sơ lược về các nhân vật cuốn sách nói tới, người đọc sẽ thấy cái cần cù của tác giả. Mỗi một nhân vật đều có một vài dòng tiểu sừ, ghi năm sinh, năm chết, giữ chức vụ gì, tại sao bị thanh trừng... Bảng danh sách này gồm có 166 nhân vật Việt, Hoa, Miên, Lào, Nga, Mỹ, Pháp. Tôi chọn thử một nhân vật: Đinh Bá Thi: Tên thật là Ung Văn Chương, được Lê Duẩn nâng đỡ, nhờ bầy kế để Duẩn lấy người vợ thứ ba. Đại diện Việt nam tại Liên hiệp quốc sau 1975, bị triệu hồi năm 1978 sau một vụ án gián điệp. Có tin bị công an đặc biệt của Việt nam giết vì đã móc nối với Trung hoa”. Một thí dụ khác: “Kayxon Phomvihan (AL): Tổng bí thư Đảng cộng sản Lào, sau 1975 làm Thủ tướng Lào. Tên thật không rõ, con của Nguyễn Trí Loan, một công chức người Việt tại Lào”. Ông cũng thiết lập một danh sách 37 đại đơn vị của Việt nam, từ cấp Sư Đoàn trở lên, được thành lập trong thời điểm nào, và vùng hoạt động trong các trận đánh cùng với Trung quốc và Miên Cộng. Đánh giá lại trận chiến này là một việc làm cần thiết cho người Việt lưu vong, bởi vì khi khối cộng sản tan thành mảnh nhỏ tại Đông Âu, và cả nước Nga, đã khai sinh lại nhiều quốc gia trên bản đồ thế giới. Trong việc khai sinh những quốc gia này, máu đã đổ không ít giữa những người có thời là đồng chủng, tại Nam Tư, cũng như tại Liên xô, huống hồ giữa hai sắc dân hoàn toàn khác biệt về ngôn ngữ cũng như chủng tộc giữa nòi Việt và nòi Hán, hay những oán thù chủng tộc giữa người Việt và người Khmer. Những tranh chấp lãnh hải trong vùng biển Đông, nơi lưu trữ một nguồn hơi đốt và dầu hoả, có thể không thua lượng dầu thô dự trữ tại bán đảo ả Rập. Số lượng tài nguyên này chưa biết có đủ tốt để khai thác kỹ nghệ không. Nhưng có thể nó sẽ là một liều thuốc nổ, khơi ngòi chiến tranh trong một vài năm tới. Một cuộc chiến nữa có thể xẩy ra giữa các nước trong vùng Đông Nam Á là một điều khả tín. Vì thế ước vọng khiêm nhường của Hoàng Dung, tác giả của cuốn sách này chỉ mong mỏi: Cuốn sách sẽ là bước đầu tìm hiểu các cỗi rễ, những căn nguyên, cũng như những yếu tố đã đưa tới chiến tranh giữa Việt nam và hai nước lân bang. Để nếu không giải quyết được thì cũng làm giảm đi sự nghi kỵ và lòng thù hận, hoặc tăng thêm sự cảnh giác về mối đe doạ thường trực của đất nước. Hoàng Dung là một ngạc nhiên trong đời sống tôi. Biết nhau suốt 40 năm tôi chưa bao giờ có dịp nhìn ông thật kỹ. Cuốn sách cho tôi biết một điều: Có những con người bình thường mà chúng ta tiếp xúc hằng ngày, tưởng như đã hiểu, đã biết rõ về họ. Kịp cho tới khi có một việc không bình thường xẩy ra, mới là dịp để chúng ta biết con người đó đích thật nghĩ gì, làm gì? Nếu như ông gửi tới tôi bản thảo một tập truyện ngắn, một tập thơ thì có thể ông sẽ là một “nhà văn y sĩ”, như một số cây bút, hay chua thêm chữ MD dưới tên tác giả mỗi khi viết bài. Nếu ông viết một tài liệu y khoa tôi đã không ngạc nhiên, mà tài liệu y khoa thì chắc chắn người nhận là các đồng nghiệp của ông. Tôi biết gì về thuốc men, về bệnh trạng, về cơ thể con người? Đọc xong tập bản thảo, tôi biết ông là người như thế nào ông là một người học thức khoa bảng với cấp bằng ông hiện có, với nghề nghiệp ông đang làm, nhưng đồng thời ông cũng là trí thức. Chữ trí thức với nghĩa giản dị, khiêm tốn và đúng nghĩa nhất của danh từ này. Xin thành thật cám ơn người bạn thuở thiếu thời, mà mãi tới 40 năm sau tôi mới có dịp nhận biết con người thực sự, ẩn sâu trong những công việc ông đã làm cho chính ông, cho bằng hữu, cho bệnh nhân. Bất kể bệnh nhân ấy là ai, làm gì, từ đâu tới Xin cám ơn cuốn sách Chiến Tranh Đông dương III, tác phẩm đã soi tỏ cho tôi những điều tù mù tăm tối của hơn mười lăm năm trước. Hoàng Khởi Phong Ghi nhận của Hoàng Dung, bìa Khánh Trường, trình bày Cao Xuân Huy, Văn Nghệ xuất bản Califomia USA ISBN 1-886566-85-2 Copyright 2000 by Văn Nghệ
|
|
|
Post by Can Tho on May 19, 2011 5:08:11 GMT 9
Sơ lược lịch sứ Cam pu chia từ lập quốc đến thời cận đại
Lịch sử Việt nam từ khi lập quốc đã luôn luôn có những quan hệ thăng trầm với Trung hoa. Văn minh Trung hoa đã ảnh hường nhiều đến dân tộc Việt nam trong cả thời kỳ bị đô hộ hay thời kỳ độc lập. Do đó, người Việt nam đã biết nhiều về văn hoá cũng như lịch sử của Trung hoa, nhưng đã rất mù mờ về hai quốc gia lân bang khác ở phía tây là Lào và Campuchia, chỉ vì hai quốc gia này đã không gây nhiều ảnh hưởng đến an ninh lãnh thổ cũng như nếp sống văn hoá xã hội của Việt nam.
Một trong những nguyên nhân sâu xa đưa đến cuộc chiến tranh Đông dương thứ ba hay cuộc chiến tranh hậu chiến là mối thù hận lâu đời của người Campuchia đối với người Việt Mối thù hận này, ít có người Việt nào để ý đến nhiều, mặc dù đã kéo dài suất trong lịch sử mấy trăm năm nay, kể từ khi Việt nam đã thôn tính xong nước Chiêm Thành, và trở nên một lân quốc của Campuchia. Cũng như lịch sử Việt nam, nguồn gốc lập quốc của Campuchia rất mơ hồ. Người ta chỉ biết tại vùng đất trước kia từng thuộc Campuchia đã có người sinh sống từ hai ngàn năm trước Tây lịch. Quốc gia đầu tiên được biết đến ở phần đất này là Phù Nam, khi thứ sử Giao Châu là Sĩ Nhiếp năm 220 báo cáo về triều đình Đông Hán là đất Giao Châu (Việt nam hồi đó) bị quân Lâm ấp (sau là Chiêm Thành) và Phù Nam quấy nhiễu. Năm 245, vua Tàu nhà Hán có gửi một sứ bộ đến Phù Nam. Một trong những sứ giả là Khang Thái, khi về nước đã viết về quốc gia này. Theo ông, người sáng lập ra vương quốc là vua Kaundinya. Ông đến từ Ấn độ, đánh bại nữ hoàng Liệu Yeh rồi kết hôn với bà này. Tuy nhiên, cũng như người Việt từng tự hào là con rồng cháu tiên, người Khmer cũng huyền thoại hoá lịch sử của họ. Trên một bia dá tìm thấy ở Phú Yên, có khắc một chuyện thần tiên, trong đó kể lại vua Kaundinya có một cây thương thần và đã kết hôn với con gái của thần rắn Nga. Do đó mà về sau, thần rắn trở nên một biểu tượng cho nguồn gốc thần thánh của dân tộc Campuchia. Đế quốc Phù Nam, cũng như tất cả những đế quốc khác, sau một thời gian hưng thịnh, rồi cũng bị sụp đổ vào thế kỷ thứ sáu do cuộc nổi loạn của một quốc gia chư hầu là Chân Lạp. Theo sử nhà Tuỳ, Chân Lạp là một nước nhỏ ở phía tây nam Lâm ấp (vùng rừng núi Ratakini ở phía tây của Kontum và Pleiku) và dân tộc Chân Lạp cũng thuộc giống dân Khmer. Sau khi tiêu diệt triều đình Phù Nam, vương quốc Chân Lạp luôn luôn có nội chiến, và đến năm 706 thì lãnh thổ bị chia làm hai nước: Thượng hay Thổ Chân Lạp, và Hạ hay Thuỷ Chân Lạp. Năm 802, vua Jayavarman II, một vị vua sáng suốt của Thổ Chân Lạp lên ngôi. Ông thống nhất hai nước, củng cố hành chánh, đổi tên nước là Kambuja, tên nguyên thuỷ của Campuchia, dời đô về Angkor, mở đầu một kỷ nguyên vàng son. Những vị vua kế nghiệp ông đã xây thêm nhiều đền đài lăng tẩm, nhất là cha con vua Indravarman (877- 900) đã phát triển hệ thống dẫn thuỷ nhập điền, đào những con kinh rộng hơn cây số, những hồ chứa nước, mở ra một cuộc “cách mạng xanh” khiến cho đất đai Campuchia có thể sản xuất lương thực dồi dào cho suốt mấy trăm năm. Một vị vua nổi tiếng khác, vua Suryavarman II (1113- 1150) đã bành trướng đất đai đến bán đảo Malaysia, đánh phá Chiêm Thành, và xây dựng ngôi đền Đế thích Angkor Wat, một công trình kiến trúc nổi tiếng nhất Đông Nam Á. Sau khi vua Suryavarman II băng hà, thành Angkor bị người Chiêm Thành tấn công, và vua Jayavarman VII sau đó lên ngôi. Ông có lẽ là vị vua nổi tiếng nhất trong lịch sử Campuchia. Ông hưng binh phục hận và chinh phục Chiêm Thành, biến nước này thành chư hầu, mở rộng lãnh thổ. Đồng thời ông đào thêm kinh rạch, xây dựng Đế Thiên Angkor Thom và đền Bayon, cùng hơn một trăm ngôi nhà nghỉ mát. Nhưng những chiến công của ông và những công trình vĩ đại đó đã phải trả một giá rất đắt. Dân chúng phải làm việc như nô lệ để xây dựng và trùng tu cung điện, đền đài. Trai tráng bị cưỡng bách tòng quân chinh chiến liên miên. Tài nguyên quốc gia bị kiệt quệ, và ngay sau khi vua Jayavarman VII qua đời, những gì ông thực hiện được hoàn toàn tan rã. Tuy nhiên, những công trình xây dựng và những chiến công hiển hách của ông đã trở nên niềm hứng khởi cũng như mối ám ảnh cho đường lối cai trị cuồng điên của những lãnh tụ Khmer Đỏ sau này. Sau khi vua Jayavarman VII qua đời (năm 1228), triều đại Angkor bắt đầu suy tàn, khởi đầu là nước Chiêm Thành thâu hồi độc lập. Từ đó, người Chiêm Thành và người Thái liên tiếp tấn công thủ đô, triều đình phải di chuyển về Phnom Penh (1434), rồi Lovek (15161. Đế Thiên Đế Thích bị bỏ hoang. Năm 1594, quân đội Thái tấn công chiếm được kinh thành Lovek. Họ đô hộ cả quốc gia, tịch thu và cướp bóc của cải, bắt đem về Thái lan hàng chục ngàn thợ giỏi, trí thức, nghệ sĩ, tăng sĩ. Dù cho về sau, dân Campuchia đã nổi dậy đánh đuổi được quân Thái lan, nhưng cũng kể từ lúc đó, người Campuchia không còn năng lực sản xuất được những công trình mỹ thuật và kiến trúc vĩ đại như xưa, Quốc gia Campuchia không bao giờ hồi phục lại phong độ cũ Cũng trong giai đoạn suy tàn đó, vào thế kỷ thứ mười bảy, Việt nam đã thôn tính xong quốc gia Chiêm Thành và trở nên một lân quốc trực tiếp của Campuchia. Bị nằm kẹt giữa hai quốc gia hùng mạnh đang phát triển, Campuchia chỉ có một cách duy nhất để sống còn là hoặc thần phục Thái lan, hoặc thần phục Việt nam, có khi đồng thời thần phục cả hai nước. Nhưng vì nhu cầu bành trướng lãnh thổ của Việt nam, và vì nội bộ triều đình Campuchia luôn luôn lủng củng, lãnh thổ quốc gia Campuchia dần dần bị thu hẹp. Tới thế kỷ thứ mười chín thì Việt nam đã chiếm hết lãnh thổ Thuỷ Chân Lạp cũ, và nếu người Pháp không can thiệp vào Đông dương, có lẽ quốc gia Campuchia đã biến mất. Người Pháp bắt đầu can thiệp vào nội tình Đông dương vào thế kỷ thứ mười chín. Lúc đó người Anh đã chiếm được Ấn độ, Malaysia và người Pháp đang cần một đầu cầu để đi vào thị trường rộng lớn Nam Trung hoa. Trong thời gian đó, Nhật bản có Minh Trị Thiên Hoàng, Thái lan có vua Mongkut có đầu óc canh tân, thì những vị vua triều Nguyễn đã vụng về thi hành chính sách bế quan toả cảng và đàn áp đạo Thiên Chúa, khiến cho người Pháp có cớ để tấn công Việt nam. Từ năm 1851, sau khi vua Tự Đức ký dụ cấm đạo, các tướng Pháp Grenouilly, Charner liên tiếp bắn phá Đà Nẵng và rồi Bonard, De Lagrandière lần lượt chiếm hết sáu tỉnh Nam Kỳ làm thuộc địa. Tiếp theo, người Pháp bắt đầu dòm ngó Campuchia. Tháng 9.1862, Bonard đích thân sang thăm vua Norodom (Nặc Ông Chân), yêu cầu nhà vua nhận cho Pháp bảo hộ. Nhà vua còn trù trừ thì năm sau, Lagrandière sợ nếu để trì hoãn lâu thì Thái lan sẽ nhảy vào tranh giành ảnh hưởng nên đã đích thân lên Phnom Penh gặp Norodom, ép nhà vua ký hiệp ước bảo hộ vào tháng 7-1863. Mới đầu, người Pháp chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ và Campuchia với mục đích tìm đường đi đến Nam Trung hoa. Một phái đoàn thám hiểm ngược dòng sông Cửu Long được thành lập, do De Lagrée làm trưởng phái đoàn, Francis Garnier phụ tá. De Lagrée bị chết trong chuyến thám hiểm, còn Garnier đến được Vân Nam. Phái đoàn nhận thấy không thể dùng tàu bè ngược sông Cửu Long để lên Vân Nam, nhưng tại Vân Nam, Garnier gặp Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa), một thương gia, Jean Dupuis xúi Garnier yêu cầu Thống Đốc Nam Kỳ Duprée can thiệp để Dupuis có thể dùng sông Hồng Hà để sang Vân Nam buôn bán. Garnier được cử đem quân ra Hà nội dàn xếp, và sau mấy ngày thương thuyết không xong, Garnier tấn công và lấy được thành Hà nội. Tổng đốc Hoàng Diệu tự tử, Garnier sau đó cũng bị quân Cờ Đen phục kích giết chết. Thấy không sử dụng được sông Cửu Long, người Pháp tìm cách khai thác những mối lợi khác. Năm 1884, họ đòi vua Norodom phải ký thoả ước để người Pháp được nắm toàn quyền về hành chánh, tư pháp, tài chánh, thương mại và thu tất cả mọi thứ thuế. Vua Norodom từ chối, Lagrandière tự đem tàu chiến lên Phnom Penh, vào tận hoàng cung, ép vua Norodom phải ký. Tự ái dân tộc bị tổn thương, nhân dân Campuchia nổi loạn dưới sự lãnh đạo của hoàng thân Si Vatha. Người Pháp phải đánh dẹp hai năm mới yên. Vua Norodom chết năm 1904, em của ông là Sisowath nối ngôi, trị vì đến năm 1927 thì con là Monivong nối nghiệp. Nhưng khi Monivong mất năm 1941 thì toàn quyền Decoux lại chọn Sihanouk là chắt của vua Norodom lên ngôi vua, chỉ vì lúc đó ông ta còn trẻ và người Pháp nghĩ là ham chơi, thiếu kinh nghiệm. Nước Campuchia, dưới sự bảo hộ của Pháp, có được một thời kỳ tương đối yên tĩnh, và họ cũng may mắn không bị liên quan nhiều đến thế chiến thứ hai. Tuy rằng mối quan tâm chính của người Pháp là bóc lột tài nguyên và nhân lực của dân bản xứ, nhưng họ đã bảo vệ được sự toàn vẹn lãnh thổ của Campuchia và đã làm được vài công trình có lợi ích. Trước hết là sự phát hiện và trùng tu những lăng tẩm Đế Thiên Đế Thích, làm sống lại một thời đại vàng son rực rỡ của quốc gia Campuchia khơi dậy niềm tự hào dân tộc. thứ hai là họ đã canh tân hệ thống giáo dục, mở mang dân trí, trong đó có sự thành lập hai cơ sở chính là Viện nghiên cứu Phật học và trường trung học Sisowath. Hai cơ sở này đã là nơi đào tạo ra những lãnh tụ tương lai của Campuchia. Viện nghiên cứu Phật học Phnom Penh được thành lập năm 1930, với sư giúp đỡ của một học giả người Tháp bà Suzanne Karpelès, một nhân viên thuộc Viện Viễn Đông Bác Cổ Hà nội. Viện chủ trương phát huy những tinh tuý của Phật Giáo tiểu thừa gạt bỏ những lễ nghi mê tín, đồng thời làm sống lại niềm kiêu hãnh và khát vọng của nhân dân Campuchia. Trong một xứ không có giai cấp sĩ phu hay quan lại và Phật Giáo được coi gần như là quốc giáo, tầng lớp sư sãi đã có một uy tín và ảnh hưởng rất lớn. Họ sống khổ hạnh, đạo đức. Họ nuôi cô nhi, làm việc thiện, dạy dỗ trẻ con. Người Campuchia khắp nơi đổ về học, nhất là những người Khmer Hạ từ vùng đồng bằng Cửu long trước kia là Thuỷ Chân Lạp nay đã thuộc Việt nam. Trong công cuộc phục hưng văn hoá cổ truyền, Viện Phật học đã gián tiếp phát huy tinh thần quốc gia chóng thực dân và bài Việt nam. Một cơ sở giáo dục khác, trường trung học Sisowath, được coi như nơi tập trung những tinh hoa của giới học sinh. Qua hội ái hữu cựu học sinh, họ đã qui tụ được một nhóm trí thức sau này trở nên những lãnh tụ chính trị, mà tư tưởng cũng như khuynh hướng chính trị dù rất khác nhau của họ đã có ảnh hưởng quan trọng đến vận mạng của dân tộc Campuchia suốt mấy chục năm qua. Người lãnh tụ quốc gia đầu tiên của Campuchia trong giai đoạn này là ông Sơn Ngọc Thành. Theo ông hoàng Sihanouk, ông Sơn Ngọc Thành là anh em của Sơn Ngọc Minh, lãnh tụ đầu tiên của phong trào cộng sản Campuchia, và Sơn Thái Nguyên, cựu nghị sĩ Quốc hội Việt nam cộng hoà - nhưng chi tiết này có lẽ không xác thực, vì ông hoàng Sihanouk đã rất ganh ghét Sơn Ngọc Thành - Sơn Ngọc Thành là một người Khmer Hạ, sinh trưởng ở vùng đồng bằng Cửu Long, học hết trung học ở Việt nam, sau đó sang Pháp học Luật, và mấy năm sau, dù chưa tốt nghiệp, ông trở về Phnom Penh. Với trình độ học vấn của ông lúc đó, ông trở nên một nhân vật quan trọng trong Viện Phật Học và là một gạch nối quan trọng giữa tầng lớp sư sãi và nhóm tri thức cựu học sinh Sisowath. Nhóm trí thức này phần lớn có địa vị, có khả năng tài chánh, có kiến thức chính trị, trong khi tầng lớp sư sãi lại có uy tín và tổ chức sâu rộng trong quần chúng. Năm 1936, Sơn Ngọc Thành xuất bản tờ báo Nagaravatta. Dưới danh nghĩa truyền bá Phật Giáo và bảo tồn văn hoá, tờ báo kêu gọi đấu tranh giành độc lập. Tờ báo cũng cực lực công kích sự ưu đãi của người Pháp dành cho người Việt khi họ dùng người Việt trong những chức vụ hành chánh ở Campuchia.
|
|
|
Post by Can Tho on May 19, 2011 5:09:50 GMT 9
Mấy năm sau, thế chiến thứ hai bùng nổ, quân Nhật tiến vào Campuchia, nhưng vẫn để người Pháp duy trì bộ máy hành chánh. Lo sợ trước cao trào đấu tranh của dân bản xứ, năm 1942, người Pháp đóng cửa tờ báo Nagaravatta, bắt giữ lãnh tụ Phật Giáo Hem Cheav. Nhà sư này sau đó chết trong tù tại Côn Đảo. Việc bắt giữ cao tăng Hem Cheav đã gây phẫn nộ trong dân chúng Campuchia. Ngày 20-7-1942, Sơn Ngọc Thành tổ chức một cuộc biểu tình lớn đòi Pháp phải thả hết tù chính trị và trao trả quyền tự quyết cho dân tộc Campuchia. Cuộc biểu tình bị người Pháp dẹp tan và người Nhật không can thiệp. Sơn Ngọc Thành phải trốn sang Nhật. Mấy năm sau, quân Nhật đảo chánh quân Pháp, ép ông hoàng Sihanouk thành lập một chính phủ thân Nhật, ra tuyên ngôn độc lập trong khối Thịnh vượng Đại Đông Á. Sơn Ngọc Thành về nước làm Bộ trưởng ngoại giao. Mấy tháng sau, Nhật đầu hàng Đồng Minh, và ngày 9-8-1945, Sơn Ngọc Thành đảo chánh tự đứng lên làm Thủ tướng. Lúc đó, tại châu Âu, Đức Quốc Xã đã đầu hàng chính phủ De Gaulle không che giấu ý định trở lại Đông dương. Để cứu vãn tình thế, Sơn Ngọc Thành mới thoả hiệp với Việt Minh để thành lập một mặt trận chung chống Pháp, nhưng viên Bộ trưởng quốc phòng của ông đã phản bội, trốn xuống Sài gòn, báo cho Pháp biết kế hoạch. Ngày 10-10-1945, liên quân Anh Pháp Ấn tiến vào Phnom Penh bắt giam Sơn Ngọc Thành, tái lập chế độ thuộc địa và cho Sihanouk trở lại làm vua. Sơn Ngọc Thành bị kết án hai mươi năm khổ sai, đầy sang Vence rồi Poitiers. Ông được thả năm 1950, nhưng uy tín ông cũng lu mờ dần. Sau giai đoạn hỗn loạn đó, hai phong trào giải phóng quốc gia được thành lập. Ở phía tây, là phong trào Khmer Issarak, được chính quyền Thái lan dung túng và giúp đỡ. Đây là phong trào gồm nhiều thành phần, bảo hoàng có, phe Sơn Ngọc Thành có, tả phái có, kết hợp lại cùng chung mục đích là đánh đuổi thực dân Pháp. Ở phía đông, một lãnh tụ Phật Giáo, nhà sư Achar Man, đã gia nhập đảng cộng sản Đông dương khi bị tù ở Côn Đảo cùng với các tù nhân cộng sản Việt nam, trở nên lãnh tụ đầu tiên của phong trào cộng sản Campuchia với bí danh Sơn Ngọc Minh (kết hợp hai tên Hồ Chí Minh và Sơn Ngọc Thành). Tuy thế, hai phong trào này vẫn còn yếu ớt, cho nên trong chiến tranh Đông dương thứ nhất, tình hình chiến sự Campuchia tương đối yên tĩnh. Khi chiến tranh chấm dứt, hai phong trào này gần như tan rã. Tại hội nghị Genève năm 1954, các lãnh tụ cộng sản Việt nam, Trung hoa, Liên xô đã không đếm xỉa gì tới cộng sản Campuchia. Việt nam được nửa quốc gia phía bắc, cộng sản Lào được hai tỉnh Sầm Nứa và Phong Saly. Riêng cộng sản Campuchia một số phải lui vào bóng tối, một số khác giả làm bộ đội Việt nam theo tàu Ba lan đi Hà nội. Một mình ông hoàng Sihanouk là có quyền tuyên bố đã giành được độc lập và toàn vẹn lãnh thổ một cách hoà bình. Đối với đa số dân Campuchia, ông trở nên một anh hùng giải phóng dân tộc. Nhưng dù khôn khéo đến đâu, ông cũng không thể giữ cho quốc gia Campuchia đứng ngoài vòng tranh chấp của cuộc chiến tranh Đông dương thứ hai và vận mạng không may của dân tộc Campuchia đã phải trải qua từ thảm trạng này sang đến thảm trạng khác, đúng như lời tiên đoán của ông nội ông: Sẽ có ngày dân Campuchia sẽ phải chọn lựa, hoặc bị tiêu diệt bởi con cọp, hay bị nuốt bởi con cá sấu. Xét bề ngoài, Campuchia có một thời gian hoà bình từ 1954 đến 1970. Trong khi trận chiến Đông dương thứ hai diễn ra ở Việt nam kéo dài gần hai mươi năm, thì nội chiến Campuchia chỉ thực sự bùng nổ dữ dội từ 1970 đến 1975. Nhưng trong khoảng thời gian này, những diễn biến chính trị nội bộ cùng nhưng biến chuyển ở Việt nam đã đưa đến sự phát triển của phong trào cộng sản Campuchia, lần này được lãnh đạo bởi những tay lãnh đạo mới, có khả năng hơn (tương đối có học nhất trong những lãnh tụ cộng sản châu Á), và cuồng tín hơn. Vì thế, dù cuộc nội chiến chỉ xảy ra trong năm năm nó đã gây ra những tổn hại nhân mạng, kinh tế và xã hội nghiêm trọng. Nhân vật chính trị nổi bật nhất trong giai đoạn này vẫn là ông hoàng Sihanouk. Ông là một người đa dạng. Tuỳ theo cách nhìn của mỗi người ông ta có thể là một ông vua bình dân, một nhà độc tài, một chính trị gia khôn khéo, một kẻ cơ hội, một nhà soạn nhạc dở hay một diễn viên điện ảnh tồi, ông đã từng cộng tác với Pháp, với Nhật nhưng vẫn tự nhận là anh hùng dân tộc. Khi thấy cộng sản mạnh, ông đi đôi với Trung quốc rồi Việt cộng. Sau 1968, Việt cộng bị yếu đi, ông tìm cách trở lại kết thân với Mỹ. Sau khi bị đảo chánh, ông theo Khmer Đỏ. Thoát được ra ngoài, ông đả kích họ kịch liệt. Tuy ông không phải là một nhà lãnh đạo nhìn xa trông rộng, nhưng trong cái hoàn cảnh chênh vênh của nước ông ở bên cạnh một quốc gia mà tình hình luôn luôn sôi động như Việt nam, sự khôn khéo và đường lối chính trị đu dây của ông đã giúp ông lúc nào cũng là một trong những nhân vật chính trong mọi hoàn cảnh. Sau năm 1954, theo hiến pháp, Campuchia phải bầu cử quốc hội. Sợ rằng các đảng đối lập có thể thắng cử và lập chính phủ, Sihanouk đang làm vua tự ý thoái vị, nhường ngôi cho cha, rồi dùng uy tín cá nhân của mình kết hợp những đảng phái ôn hoà và hữu phái lại thành một đảng, lấy tên là Cộng đồng nhân dân xã hội (Sangkum Reasts Niyum). Cùng ra tranh cử trong thời gian đó là những đảng viên của đảng Độc lập (phe Sơn Ngọc Thành), đảng Nhân dân (của Keo Meas, cộng sản trá hình), đảng Dân chủ (Thioun Mumm, cũng cộng sản). Nhờ uy tín cá nhân của Sihanouk, cũng như nhờ gian lận và đàn áp, đảng Sangkum của Sihanouk chiếm được tất cả các ghế trong quốc hội, nhưng ông ta vẫn không nương tay với các chính khách đối lập, nhất là các cán bộ cộng sản. Chủ bút tờ báo cộng sản Cờ Giải Phóng Pracheachon bị đánh đập, hành hung rồi chết vì vết thương hai ngày sau đó. Thioun Mumm phải trốn về Pháp, Keo Meas trốn sang Bắc Việt. Phong trào cộng sản Campuchia càng suy đồi hơn vào năm 1959, khi lãnh tụ cộng sản số hai phụ trách nông thôn là Siêu Hung về hồi chánh, chỉ điểm cho mật vụ của Sihanouk bắt bớ, phá hoại hết những cơ sở cộng sản ở nông thôn. Thời gian đó, các trí thức tả phái Khieu Samphan, Hou Youn đã tốt nghiệp bên Pháp trở về dạy đại học và hoạt động cộng sản nằm vùng. Trong khi đàn áp và tiêu diệt những tên cộng sản “xấu” ở trong nước, thì Sihanouk lại kết thân với những chính quyền cộng sản “tốt” ở ngoài. Ông tuyên bố theo đường lối trung lập không liên kết và gia nhập khối Á Phi. Đường lối này rất phù hợp với Trung hoa, không muốn thấy Hoa kỳ có căn cứ hay ảnh hưởng ở biên giới phía nam, và với Bắc Việt, vì Sihanouk đã làm ngơ để cho Việt nam dùng đất Campuchia làm đường mòn tiếp vận và mật khu an toàn. Khôn ngoan hơn nữa, năm 1962, ông mời những trí thức tả phái tham gia chính phủ. Hu Nim được cử làm phụ tá chủ bút báo đảng Sangkum, Samphan làm Bộ trưởng Thương mại và Hou Youn Bộ trưởng Kế hoạch. Mấy người này mới làm được một vài cải cách nhỏ thì năm sau, 1963, song song với những cuộc biểu tình của sinh viên và Phật tử ở Việt nam, sinh viên học sinh ở tỉnh Siem Reap cũng biểu tình phản đối cảnh sát Campuchia tham nhũng và có những hành vi đàn áp hung bạo. Họ cũng phản đối luôn cả Sihanouk. Đây là một biến cố tự phát, nhưng là lần đầu tiên ở Campuchia có biểu tình phản đối chính phủ. Sihanouk nghi ngờ phe tả xúi dục, buộc Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim phải từ chức. Còn Saloth Sar bị săn đuổi phải trốn vào rừng. Tuy đàn áp tả phái trong nước, Sihanouk vẫn tiếp tục chính sách đối nội và đối ngoại lưng chừng. Để Trung hoa và cộng sản Bắc Việt không viện trợ cho cộng sản Campuchia, ông quốc hữu hoá nhũng ngành sản xuất, ngưng nhận viện trợ Mỹ, và làm ngơ cho những hoạt động của Việt cộng ở vùng biên giới. Mất viện trợ Mỹ, ngân sách bị thiếu hụt, Sihanouk ra lệnh thu mua lúa gạo với giá rẻ hơn. Điều này khiến nông dân bất mãn và họ không chịu tăng gia sản xuất. Ngay cả phe hữu cũng bất bình vì thái độ đối ngoại thân Cộng và vì ngân sách quốc phòng bị giảm. Họ càng bất mãn hơn khi Sihanouk đứng ra triệu tập Hội nghị nhân dân Đông dương ở Phnom Penh năm 1966, và chỉ mời Bắc Việt, Mặt trận giải phóng, và Pathet Lào tham dự. Vào cuối năm đó, Quốc hội Campuchia được bầu lại. Chỉ trừ Khieu Samphan, Hou Youn và Hu Nim đắc cử, còn lại toàn là dân biểu phe hữu. Lon Nol được bầu làm Thủ tướng, và chính phủ bắt đầu chính sách thu mua lúa gạo một cách cứng rắn hơn. Mầm mống bất mãn nổi lên. Sáng ngày 2-4-1967, nông dân làng Samlaut tỉnh Battambang nổi loạn, giết chết hai binh sĩ, cướp súng ống rồi tấn công đồn bót tỉnh ly. Cuộc nổi loạn bị dẹp tan, nhưng ở biên giới phía đông gần vùng tam biên, Saloth Sar và Trung ương Đảng cộng sản Campuchia nghĩ rằng thời gian đã chín mùi để có thể phát động đấu tranh vũ trang chiếm chính quyền, bắt đầu nổi lên gây rối. Sihanouk tố cáo phe tả đứng đằng sau cuộc nổi loạn ở Samlaut nên cho mật vụ bắt bớ đàn áp. Khiêu Sam phan, Hou Youn, Hu Năm phải trốn vào bưng. Kể từ lúc đó, Sihanouk mất dần sự ủng hộ của cả phe tả lẫn phe hữu. Ngày 18-3-1970, khi Sihanouk đang nghỉ hè ở Pháp, Quốc hội Campuchia được triệu tập, ra tuyên cáo truất phế Sihanouk khỏi chức Quốc trưởng, tố cáo ông ta đã để bộ đội Việt nam chiếm đóng đất đai Campuchia một cách bất hợp pháp, vi phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và nền trung lập của quốc gia Campuchia. Cuộc đảo chánh kể trên đã chấm dứt đường lối chính trị đu dây của Sihanouk. Nhân vật chính trong cuộc đảo chính là hoàng thân Sirik Matak và tướng Lon Nol. Lon Nol xuất thân nông dân. Năm 1946, ông lập đảng Canh Tân Campuchia. Tới năm 1955, đảng này nhập vào đảng Sangkum của Sihanouk và Lon Nol được Sihanouk cho làm Tham mưu trưởng quân đội. Ông ta giấu kín tham vọng, được Sihanouk tin cẩn và trở nên cánh tay mặt của Sihanouk. Sau khi đảo chánh, Lon Nol gom tất cả Việt kiều vào những trại tập trung, và rồi hàng ngàn người Việt bị thảm sát thả trôi trên dòng Cửu Long. Chính phủ ngầm xúi dục dân chúng Phnom Penh biểu tình đập phá toà đại sứ Bắc Việt và toà đại diện Việt cộng, đồng thời chính thức yêu cầu quân lính Việt cộng rút ra khỏi những mật khu biên giới. Ngày 30-4-1970, quân đội Sài gòn và Hoa kỳ tràn qua biên giới tấn công các mật khu của Việt cộng ở khu Lưỡi Câu và Mỏ Vẹt, tịch thu nhiều vũ khí, lương thực, nhưng Bộ chỉ huy Cục R chạy thoát. Mất căn cứ ở biên giới, quân Việt cộng lùi sâu vào lãnh thổ Campuchia, đánh chiếm hầu hết lãnh thổ vùng Đông Bắc, rồi giao lại cho quân Khmer Đỏ cai trị. Lon Nol phản ứng lại bằng cách tăng cường quân đội, từ ba mươi lăm ngàn quân lên một trăm ngàn trong vòng hai tháng. Dù thiếu trang bị và huấn luyện, nhưng Lon Nol tin rằng ông ta sẽ chiến thắng. Trước hết, ông ta tin vào lòng thù ghét Việt nam của dân chúng Campuchia, thứ hai là vì những lý do rất mê tín. Lon Nol tin rằng Phật sẽ giúp quân lính ông chống lại ma vương cộng sản, do đó quân sĩ được khuyến khích đeo bùa, hay xâm lên người những dấu hiệu thiêng liêng. Dù binh sĩ Cộng hoà Khmer đã chiến đấu dũng cảm, nhưng vì thiếu trang bị, thiếu huấn luyện, vì tệ nạn tham nhũng và nhất là vì Lon Nol cứ liên tiếp xen vào hệ thống chỉ huy nên hai cuộc hành quân Chân Lạp I và Chân Lạp II trong hai năm 1970 và 1971 đã đưa đến thảm bại, gây tổn thất trầm trọng cho quân đội. Trong khi đó, quân Khmer Đỏ lớn mạnh dần, và sau khi hiệp định Paris về Việt nam được ký kết (ngày 27-1-1973), quân Khmer Đỏ bắt đầu đảm nhiệm cuộc chiến một cách tích cực hơn. Với lối đánh liều mạng bất kể tổn thất, Khmer Đỏ dần dần mở rộng vùng kiểm soát và tới cuối năm 1974, họ bắt đầu tấn công Phnom Penh. Tuy hai lần Khmer Đỏ bị đẩy lui với những tổn thất nhân mạng rất lớn, nhưng rồi vòng đai phòng thủ Phnom Penh cũng bị vỡ. Ngày 1-4-1975, Neak Song thất thủ, ngày 12-4-1975, cứ điểm phòng thủ cuối cùng Takhman ở phía tây bị tràn ngập. Phnom Penh trở nên một thành phố bỏ ngỏ. Ngày 17-4-1975, quân Khmer đỏ tiến vào thành phố. Cuộc nội chiến trong giai đoạn chiến tranh Đông dương thứ hai chấm dứt, nhưng người dân Campuchia không biết rằng họ đang bước sang một giai đoạn lịch sử đen tối khác, bi thảm hơn tất cả mọi thảm hoạ mà họ hay toàn thể nhân loại đã trải qua. Tài liệu tham khảo: - Việt nam sử lược của Trần Trọng Kim. - History of Southeast Asia, Hatl - When The War Was Over, Elizabeth Becker - Brother Enemy, Nayan Chanda - War & Hoe, Norodom Sihanouk - Campuchia, Year Zero, Francois Ponchaud.
|
|
|
Post by Can Tho on May 19, 2011 5:11:21 GMT 9
Lịch sử tranh chấp Việt Miên trước 1975
Trong lịch sử thế giới, hầu như hai quốc gia lân bang nào cũng có nhiều lần xảy ra tranh chấp. Biên giới mỗi quốc gia cũng nhiều lần thay đổi, lãnh thổ mỗi quốc gia có lúc được mở rộng, có lúc bị thu hẹp. Có những quốc gia bị biến mất, có những quốc gia mới được tạo dựng nên. Mỗi quốc gia đều có những thời kỳ hưng thịnh hay suy tàn và nguyên tắc mạnh được yếu thua không những áp dụng cho con người mà còn được áp dụng cho mỗi quốc gia, dân tộc. Những nguyên nhân chính để xảy ra xích mích thường là vấn đề kinh tế hay an ninh quốc phòng. Quốc gia nào cũng mong muốn có một quốc gia láng giềng thân hữu với mình hay tốt hơn, chịu ảnh hưởng của mình. Nhưng hoàn cảnh khách quan như thế cũng chưa đủ cho một mối bang giao tốt đẹp giữa hai dân tộc. Nó còn cần có những điều kiện chủ quan nội bộ. Một khi mà đường lối kinh tế hay cai trị trong nước thất bại, gây chia rẽ và bất mãn, những nhà cầm quyền thường đổ thừa cho những yếu tố bên ngoài để bào chữa, và yếu tố bên ngoài dễ dàng nhất là do quốc gia bên cạnh. Lịch sử bang giao giữa hai dân tộc Việt Miên trải qua hơn một ngàn năm là lịch sử những tranh chấp, và những nguyên nhân sâu xa thường là nhu cầu bành trướng lãnh thổ của Việt nam và sự chia rẽ nội bộ của Campuchia. Từ hơn một ngàn năm trước, vào thế kỷ thứ ba, khi Việt nam lúc đó có tên Giao Châu, đang bị Trung hoa đô hộ thì vương quốc Phù Nam đang ở trong một giai đoạn cực thịnh. Họ đã liên kết với quân Lâm ấp đánh phá đất Giao Châu (thời Khúc Thừa Dụ), nhưng bị quân Trung hoa đánh bại. Sau đó vì những mâu thuẫn nội bộ, và vì ở giữa hai nước còn có nước Lâm ấp (sau là Chiêm Thành) nên hai nước đã không có chiến tranh. Khoảng năm trăm năm sau, lúc dân Chân Lạp đã chinh phục được Phù Nam, mở mang bờ cõi đến vùng Nam Lào, thì họ lại cùng quân Nam Chiếu đánh phá biên giới Giao Châu. Một lần nữa, họ bị quân nhà Đường - lúc đó Bùi Nguyên Dụ làm Kinh Lược Sứ - đẩy lui. Nước Chân Lạp, Campuchia sau này, sau giai đoạn cực thịnh, bắt đầu bước vào giai đoạn suy tàn cùng lúc với sự phát triển của hai quốc gia lân bang phía đông và phía tây là Việt nam và Thái lan. Việt nam, lúc đó đã thu hồi được độc lập trong hoàn cảnh đặc biệt là luôn bị đe doạ bởi láng giềng khổng lồ phương bắc, mặt đông giáp biển, phía tây là dấy Trường Sơn hiểm trở, nên chỉ có thể bành trướng được về phía nam. Công cuộc xâm chiếm những nước nhỏ, bành trướng lãnh thổ được gọi một cách giản dị là Nam tiến. Cuộc Nam tiến của Việt nam bất đầu ngay sau khi Việt nam thu hồi được độc lập. Năm 1069, vua Lý Thánh Tôn bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ, đòi lấy ba châu để chuộc mạng, và ba châu đó đã trở nên Quảng Bình, Quảng Trị ngày nay. Hơn hai trăm năm sau, địa giới Việt nam lại mở rộng khi vua Trần Anh Tôn gả Huyền Trân Công Chúa cho vua Chế Mân để đổi lấy hai châu Ô, Lý. Hai châu này, vua Trần đổi lại tên là Thuận Châu và Hoá Châu. Từ vùng đất Thuận Hoá này, khoảng ba trăm năm sau, cuộc Nam tiến bắt đầu trở nên mãnh liệt sau khi Nguyễn Hoàng vào đó để dựng nghiệp, tranh chấp với họ Trịnh ở phương Bắc. Vì nhu cầu quân sự, kinh tế và chính trị, các chúa Nguyễn đã phải bành trướng đất đai một cách cấp bách. Cả một giải đất từ Quảng Bình hiện nay đến mũi Cà Mau đều đã được bành trướng trong thời kỳ Trịnh Nguyễn phân tranh. Khởi đầu các chúa Nguyễn đánh chiếm những đất đai còn lại của Chiêm Thành, lần lượt là Phú Yên, Phan Rang, Khánh Hoà, Phan Rí và nước Chiêm Thành coi như mất hẳn vào năm 1697. Một quốc gia có những thời kỳ lịch sử rực rỡ, một nền văn minh biệt lập, một anh hùng như Chế Bồng Nga từng làm rung động triều đình nhà Trần, đã bị tiêu diệt. Những gì còn lại chỉ là những tháp Chàm ven biển miền Trung và những nhóm dân Chàm nhỏ sống rải rác ở Nam Việt nam và Campuchia. Tới năm 1697, Việt nam trở nên một lân quốc trực tiếp của Campuchia, lúc đó còn có tên Chân Lạp, và lịch sử những tranh chấp triền miên giữa hai quốc gia này bất đầu. Thật ra, trong quan hệ yêu ghét giữa hai dân tộc, đại đa số người Việt ít ai để ý đến nguyên nhân và tầm mức sự thù hận của người Miên đối với người Việt. Điều đó dễ hiểu vì trong lịch sử hai dân tộc, chỉ có Campuchia là bị mất đất và bị đô hộ. Mỗi khi nhắc đến người Việt, người Miên luôn liên tưởng đến mối hận mất đất và sự cai trị tàn ác của quan lại Việt nam hồi xưa. Trong khi đó, nhắc đến người Miên, người Việt thường có thái độ tự cao. Chính thái độ tự cao và khinh miệt này đã khiến người Việt có được một cái cớ, coi việc chinh phục và đô hộ là một nghĩa vụ khai hoá, và từ đó dễ dàng áp dụng những biện pháp dã man khi đô hộ. Nước Campuchia, trong giai đoạn suy tàn của vương quốc Angkor, cứ luôn hết bị quân Xiêm rồi quân Việt xâm lăng. Trong cách đối xử với dân bản xứ, thâm tâm người Xiêm chắc cũng không khá gì hơn người Việt, nhưng người Miên lại thù hận người Việt nhiều hơn. Thứ nhất là vì người Việt đã chiếm đất đai của họ nhiều hơn, cả một vùng đồng bằng Cửu Long rộng lớn phì nhiêu. Thứ hai là lịch sử trong hơn một thế kỷ qua, đã gắn liền vận mệnh của Campuchia theo những thăng trầm của lịch sử Việt nam, và quan hệ càng nhiều, thì những mâu thuẫn càng nảy sinh. Nguyên nhân thứ ba, quan trọng nhất, là vì biên giới Việt Miên đã không giản dị là biên giới giữa hai dân tộc, mà còn là biên giới của hai nền văn minh khác biệt Ấn độ và Trung hoa. Cùng theo Phật Giáo, người Việt theo Đại Thừa, người Miên Tiểu Thừa. Tiếng Việt cũng giống tiếng Tàu độc âm, tiếng Miên đa âm. Người Việt mặc quán, người Miên mặc xà rông. Người Việt thích màu đơn giản như trắng, nâu, đen người Miên thích màu sặc sỡ như đỏ, xanh, vàng. Người Việt làm nhà trên nền, người Miên ở nhà sàn. Người Việt ăn đũa, người Miên dùng muỗng hay tay. Người Miên xem trọng nghệ thuật múa, người Việt trước kia coi múa hát là xướng ca vô loài. Bị ảnh hưởng của văn minh Trung hoa, về hành chính Việt nam có một giai cấp quan lại và về xã hội có một lăng lớp sĩ phu làm khuôn mẫu đạo đức. Trong khi đó, ảnh hưởng văn minh Ấn độ khiến cho tầng lớp tăng lữ ở Campuchia có một địa vị quan trọng. Quan trọng hơn nữa, dù đã liên tiếp đấu tranh giành độc lập, người Việt cũng bị ảnh hường văn minh Trung hoa trong khuynh hướng bành trướng, coi các dân tộc nhỏ yếu láng giềng như bán khai, lạc hậu. Trong khi người Xiêm đô hộ dân Miên, họ không bắt dân Miên phải thay đổi lối sống thì người Việt không bao giờ coi người Miên như bình đẳng. Tuy nhiên, sự suy thoái của Campuchia trong mấy năm gần đây không hẳn chỉ là do tham vọng bành trướng đất đai của các nước lân bang mà còn do những nguyên nhân nội tại Lịch sử Campuchia cứ tái diễn như một quy luật. Trong khi Việt nam đất hẹp người đông đang cần có nhu cầu bành trướng đất đai thì nội bộ Campuchia cứ luôn chia rẽ. Kể từ năm 1658, khi chú cháu vua Chân Lạp tranh quyền nhau chạy sang Việt nam cầu cứu, và chúa Hiền sai quân sang Phnom Penh, bất vua Nặc Ông Chân và bảo vệ cư dân người Việt, thì đã có đến hơn mười lần mà các chúa Nguyễn đem quân sang đất Miên hoặc giúp vua Miên phục quốc, hoặc kiếm cớ bảo vệ kiều dân. Mỗi lần như thế, vua Chân Lạp lại phải cất đất hay triều cống. Sự chia rẽ đó vẫn thể hiện trong những năm gần đây. Ngay cả trong khi chiến tranh Đông dương thứ ba ở vào giai đoạn gay go nhất, Pol Pot vẫn đẩy mạnh thanh trừng nội bộ, khiến cho một số cán bộ chỉ huy chạy sang Việt nam, cống hiến cho Việt nam một cơ hội xâm lăng - và gần đây hơn, khi nhân dân Campuchia vẫn còn lầm than sau bao biến cố, hai người con ông hoàng Sihanouk vẫn theo hai phe khác nhau và kình chống nhau kịch liệt. Trong công cuộc Nam tiến, người Việt nam còn được những người Trung hoa chạy giặc nhà Thanh trốn sang Việt nam giúp đỡ. Đầu tiên là cựu tổng binh Dương Ngạn Địch, không chịu thần phục nhà Thanh, đem ba ngàn quân cùng năm chục chiến thuyền chạy sang Việt nam, được chúa Hiền cho vào khai khẩn đất Gia Định, Đồng Nai, Mỹ Tho, lúc đó đang thuộc Campuchia, và sau đó mười năm, chúa Hiền cử ông Nguyễn Hữu Kính vào làm Kinh Lược Sứ, sát nhập đất này vào Việt nam. Một người Quảng Đông khác là Mạc Cửu, cũng chạy giặc nhà Thanh sang Hà Tiên buôn bán, mở sòng bạc, lại không thần phục vua Campuchia mà thần phục chúa Nguyễn, được phong chức Tổng Binh. Năm 1759, con cháu Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ giúp Nặc Tôn lên làm vua Campuchia, Nặc Tôn dâng đất Vểnh Long, Sa Đéc, Châu Đốc cho chúa Nguyễn, còn vùng đất còn lại ở đồng bằng Cửu Long thì cho Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ dâng hết đất này cho chúa Nguyễn. Từ năm đó, sáu tỉnh Nam Kỳ thuộc Thuỷ Chân Lạp hay Khmer Hạ đều thuộc về Việt nam. Sau khi đã bành trướng lãnh thổ đến mũi Cà Mau, vì nội chiến xảy ra giữa hai nhà Nguyễn và Tây Sơn, cho nên Việt nam đã không xâm lăng hay can thiệp vào nội tình Chân Lạp trong một thời gian. Mãi tới năm 1833, quân Xiêm thừa lúc Lê Văn Khôi nổi loạn ở Gia Định đem quân đánh chiếm Chân Lạp. Vua Minh Mạng sai ông Trương Minh Giảng đem quân qua đánh dẹp. Chỉ trong vòng một tháng, quân nhà Nguyễn phá tan quân Xiêm, vua Minh Mạng đổi tên nước Chân Lạp thành Trấn Tây Thành, chia phủ huyện cai trị. Đây là một trong những thời kỳ đen tối của lịch sử bang giao Việt Miên. Quan lại Việt nam cai trị dân Campuchia rất hà khắc. Công Chúa Ang Mey bị đưa về Gia Định, các quan chức Chân Lạp đã đầu hàng Việt nam bị đày ra Bắc. Năm 1840, dân Campuchia nổi lên khởi nghĩa. Lãnh tụ khởi loạn tên Prom đã khuyến khích các thuộc hạ: “Chúng ta khoan khoái giết hết người Việt, chúng có mạnh đến đâu chúng ta cũng không sợ”. Câu nói đó cũng là một trong những quyết tâm của Pol Pot sau này. Năm đó quan quân Việt nam phải bỏ Trấn Tây Thành rút về An Giang. Ông Trương Minh Giảng buồn bực mà chết. Trong Việt nam sử lược, cụ Trần Trọng Kim viết về giai đoạn này như sau: “Đây cũng là vì người mình không biết bênh vực kẻ hèn yếu, chỉ đem lòng tham tàn mà ức hiếp người ta, cho nên hao tổn binh lương, nhọc mệt tướng sĩ, mà lại phải sự bại hoại, thật là thiệt hại cho nước mình”.
|
|