|
Post by Can Tho on May 19, 2011 5:48:17 GMT 9
Sơ lược về một số sư đoàn bộ binh Việt nam
(Theo dõi về những đơn vị quân sự Việt nam là một điều khó khăn. Với bản chất đa nghi, cùng với những yếu lố quân sự và chính trị, nên danh hiệu các đơn vị của họ luôn được giấu kín hay thay đổi. Những trung đoàn nằm trong các sư đoàn cũng luôn hoán chuyển. Vì thế, với khả năng hữu hạn của tác giả, bảng sơ lược này đã không thể hoàn hảo như ý muốn). ¤ Sư đoàn 2: trước 1975, hoạt động tại Quảng Ngãi, đối đầu với sư đoàn 2 VNCH. Năm 1978, tăng phái quân đoàn 4 xâm lăng Campuchia. ¤ Sư đoàn 3: hay Sao Vàng, trước hoạt động tại Quy Nhơn, sau 1975 đổi ra Bắc, giữ trách nhiệm phòng thủ Lạng Sơn trong trận chiến biên giới Việt Hoa (thuộc quân đoàn 14). Sư đoàn 4: chủ lực quân khu IX (cùng với các sư đoàn 8 và 330). ¤ Sư đoàn 5: từng hoạt động tại vùng Phước Tuy, sau 1975, là chủ lực quân khu VII. ¤ Sư đoàn 6: Trước 1975, thuộc quân đoàn 4, sau đó không thấy nhắc đến, có lẽ đã bị sư đoàn 18 VNCH đánh tan trong trận Xuân Lộc. ¤ Sư đoàn 7: tuy nói là được thành lập tại miền Nam trong chiến tranh Đông dương II, nhưng đa số là quân của sư đoàn 312 Bắc Việt xâm nhập. Sau 1975, được biên chế vào quân đoàn 4. ¤ Sư đoàn 8: chủ lực quân khu IX, tăng cường cho quân đoàn 2 xâm lăng Campuchia, được thành lập đầu năm 1975. ¤ Sư đoàn 9: thuộc quân đoàn 4. Trước 1975, hoạt động ở Tây Ninh và biên giới Việt Miên. Sư đoàn đầu tiên của Việt cộng. Sư đoàn lo: thuộc quân đoàn 3. Trước 1975, hoạt động tại Pleiku, Kontum, còn gọi là F 10. ¤ Sư đoàn 302: trước là sư đoàn 2 Việt cộng, hoạt động trong vùng Hậu Nghĩa, Tây Ninh (khác với sư đoàn 2 ở Quảng Ngãi). Sau 1975, là chủ lực của quân khu VII. Sư đoàn 303: trước là sư đoàn 3 Việt cộng, hoạt động ở Phước Long, (khác với sư đoàn 3 Sao vàng ở Quy Nhơn), sau là chủ lực quân khu VII. Gần đây trở nên chính quy trong quân đoàn 1. ¤ Sư đoàn 304: một trong những sư đoàn đầu tiên. Trong trận chiến Đông dương II, hoạt động trong vùng Đà Nẵng, Quảng Nam. Sau 1975, thuộc quân đoàn 2. Sư đoàn 306: thuộc quân đoàn 2. Chuyên hoạt động tại Lào (trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, tư lệnh sư đoàn Nguyễn Xuân Rực bị lữ đoàn 1 Dù hạ sát). ¤ Sư đoàn 308: sư đoàn đầu tiên của Cộng quân từ 1950. Tham chiến trong mùa hè đỏ lửa. Thuộc quân đoàn 1 chính quy Tự gọi là sư đoàn quân tiên phong. ¤ Sư đoàn 320: có lẽ là cải danh của sư đoàn 10 sau 1975. Năm 1979, hoạt động tại miền đông bắc Campuchia. ¤ Sư đoàn 312: cũng được thành lập năm 1950. Thuộc quân đoàn 1. Tự gọi sư đoàn Chiến Thắng. ¤ Sư đoàn 316: sư đoàn Thổ, cũng là một trong những sư đoàn đầu tiên. Năm 1975 lén vào Nam, tấn công Ban Mê Thuộc. Sau đó làm chủ lực quân khu II, phòng thủ Lào Cai. Sư đoàn 317: được thành lập đầu năm 1979 để tăng cường mặt trận Campuchia, nòng cất từ các trung đoàn Gia Định và Quyết Thắng. ¤ Sư đoàn 318: thành lập cùng lúc với sư đoàn 317, sau tổng động viên. ¤ Sư đoàn 319: có lẽ được thành lập năm 1980 để phòng thủ biên giới Việt Hoa. ¤ Sư đoàn 320: thành lập năm 1950, thuộc quân đoàn 3. Tư lệnh đầu tiên là Văn Tiến Dũng. Năm 1965, tách ra làm 2. Sư đoàn 320A xâm nhập vào nam, hoạt động tại Pleiku, Kontum. Sư đoàn 320B hoạt động tại Quảng Trị. Từ 1975, 320A biên chế vào quân đoàn 3. Còn gọi là sư đoàn Đồng Bằng. Sư đoàn 324: trước 1975, hoạt động tại Thừa Thiên, Quảng Trị, sau biên chế vào quân đoàn 2, rồi làm chủ lực cho quân khu IV. ¤ Sư đoàn 325: thành lập từ trận chiến Đông dương I, được giao trọng trách đàn áp nhân dân Quỳnh Lưu, rồi là thủ phạm chính trong vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế. Thuộc quân đoàn 2. Sư đoàn 327: thuộc quân đoàn 14, bị tràn ngập trong thị xã Lạng Sơn trong trận chiến Việt Hoa. ¤ Sư đoàn 330: Thành lập tại miền Nam rồi tập kết ra Bắc (lúc đó tư lệnh Đồng Văn Cống). Sau 1975, là chủ lực quân khu IX ¤ Sư đoàn 335: Trong chiến tranh Đông dương I, được gọi sư đoàn Thái, tuy nhiên sau này không thấy nhắc đến. ¤ Sư đoàn 337: sau 1975, thuộc quân khu IV ra tăng cường phòng thủ Lạng Sơn, biên chế vào quân đoàn 14. ¤ Sư đoàn 338: cũng là một sư đoàn tập kết (tư lệnh Tô Ký). Năm 1975, thuộc quân đoàn 1, tấn công Sài gòn. Năm 1979, biên chế vào quân đoàn 14, phòng thủ cầu Khánh Khê, Lạng Sơn. ¤ Sư đoàn 339: đơn vị chiếm Kompong Speu đầu năm 1979, sau giữ việc phòng thủ Phnom Penh. ¤ Sư đoàn 341: thành lập tháng 7-1972 tại Nghệ An nhằm tăng cường mặt trận Quảng Trị sau khi các sư đoàn 304, 308, 325 bị tổn thất nặng trong mùa hè đỏ lửa. Năm 1975, được biên chế vào quân đoàn 4. Còn gọi là sư đoàn Sông Lam. ¤ Sư đoàn 345: phòng thủ Lào Cai, thuộc quân khu II. Sư đoàn 347: thuộc quân đoàn 14 phòng thủ Lạng Sơn. ¤ Sư đoàn 390: thuộc quân đoàn 1. ¤ Sư đoàn 411: được thành lập sau khi Hà nội tổng động viên. ¤ Sư đoàn 567: phòng thủ Cao Bằng trong chiến tranh biên giới. ¤ Sư đoàn 711: trong chiến tranh Đông dương II, hoạt động tại Quảng Tín, Tam Kỳ. ¤ Sư đoàn 968: hoạt động tại Kontum, Pleiku trong trận chiến Đông dương II. Sau 1975, trú đóng tại Lào.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:45:37 GMT 9
Dung Khanh Xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sau năm 1975 qua cuốn Hồi kí của học giả Nguyễn Hiến Lê 1 2 3 Lời nhà xuất bản trong mấy trang đầu của cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê do Nhà xuất bản Văn học, Thành phố Hồ Chí Minh tái bản lần thứ sáu, năm 2006, có viết như sau: “Ngòi bút của Nguyễn Hiến Lê, tâm hồn và con tim Nguyễn Hiến Lê ngay từ đầu đã thuộc về nhân dân, những người lao động, những ai cực khổ, bần hàn và bất hạnh. Niềm tự hào về dòng giống, tổ tiên và nỗi đau về dân tộc trước những cuộc ngoại xâm đã kéo Nguyễn Hiến Lê, một nhà văn luôn ý thức lánh xa những gì phù phiếm như chức tước, địa vị và sự giàu sang không lương thiện xích gần với Cách mạng và tự coi mình là người của Cách mạng, bởi lẽ dễ hiểu, những điều Cách mạng đang làm cũng chính là mơ ước của ông.” Sau khi khẳng định nhân cách của người cầm bút và tấm lòng của ông Nguyễn Hiến Lê đối với đất nước, Nhà xuất bản Văn học, một cơ quan văn hoá chính thức của nhà nước Việt Nam, giới thiệu cuốn sách này như sau: “Trên tinh thần tôn trọng một học giả nghiêm túc và được nhiều người mến mộ, kính nể ấy, Nhà xuất bản Văn học trân trọng giới thiệu cuốn hồi kí của ông. Tuy là hồi kí một người, một nhà văn, nhưng qua đấy người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến chống xâm lược mà nét hào hùng lẫn những vệt máu và nước mắt vẫn còn thấm đẫm mới rọi trên từng trang sử của dân tộc chúng ta. Từng sự kiện, từng con người (từ nhà chính khách cho đến nhà văn…) đều được cách nhìn Nguyễn Hiến Lê soi rọi và đánh giá.” Và như thế, cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê đã được in tới sáu lần, đủ cho ta thấy sự hưởng ứng của độc giả và ảnh hưởng của nó tới độc giả trong nước như thế nào. Nhưng sau tất cả những lần tái bản, cho tới bản gần đây nhất, năm 2006, cuốn sách đều không được in lại một cách đầy đủ, có nhiều phần đã bị tỉa bớt mà theo Nhà xuất bản Văn học thì: “Vì tác giả đã mất, Nhà xuất bản không thể cắt bỏ nhiều quá. Trong quá trình biên tập, chúng tôi chỉ lược bớt phần rườm rà và cắt những chỗ không thể nào để lại được. Chúng tôi mong bạn đọc thông cảm.” Câu này làm độc giả không khỏi thắc mắc: nếu ông Nguyễn Hiến Lê còn sống, cuốn sách của ông có lẽ còn bị cắt bỏ nhiều hơn, thậm chí còn không được xuất bản (mà quả thật là vậy, ông mất năm 1984, vậy mà tới năm 1992 Hồi kí Nguyễn Hiến Lê mới được xuất bản lần đầu tiên trong nước). Tuy người đọc rất “thông cảm” với Nhà xuất bản Văn học, nhưng trong suốt 14 năm, sau 6 lần in, người ta phải tự đặt câu hỏi là: ông Nguyễn Hiến Lê, một học giả rất được trọng vọng ở Việt Nam, đã tâm sự những gì trong quãng đời cuối cùng của ông khiến cho cuốn sách của ông được xuất bản muộn màng và bị kiểm duyệt như vậy. Lời bạt của cuốn sách có nói: “Một lần nữa, chúng tôi tin rằng, xuất bản tập Hồi kí này là hết sức cần thiết, và rất bổ ích, nhưng chúng tôi cũng nghĩ rằng sẽ có những vấn đề cần phải tranh luận”. Vậy thì phải chăng những đoạn cắt bỏ đó - “những chỗ không thể nào để lại được” - là những vấn đề “cần phải được tranh luận”? Dù rằng “xét trên cảm hứng chung của ngòi bút Nguyễn Hiến Lê, chúng tôi vẫn thấy trước tiên đây là một học giả đầy trách nhiệm và xây dựng” như Nhà xuất bản đã nhận xét? Phần “Mục lục” của cuốn Hồi kí Nguyễn Hiến Lê cho thấy cuốn sách gồm có 6 phần, chia làm 33 chương, những phần bị bỏ đi là chương XXI, XXII, XXIV (trong Phần IV), và chương XXX, XXXI, XXXII (trong Phần VI) mà nhà xuất bản bỏ trống không in, với một lời ghi chú vỏn vẹn là “xin để lại sau một thời gian nữa…”. Những chương này đã nói những gì khiến cho Nhà xuất bản Văn học (hay nói đúng hơn, nhà nước Việt Nam) phải giấu nhẹm, bưng bít hơn 23 năm sau khi ông Nguyễn Hiến Lê mất? Câu trả lời được tìm thấy trong cuốn Hồi kí do nhà Văn nghệ - California – USA xuất bản năm 1988, in đủ 33 chương. Cuốn Hồi kí này đã được xuất bản hai năm sau khi ông Nguyễn Hiến Lê mất, toàn bộ được in làm ba tập, Tập I, II, III, và một phần trong cuốn Đời viết văn của tôi (Văn nghệ, 1986). Theo bản in cuốn Hồi kí của nhà Văn nghệ thì chương XXI, XXII, XXIV trong Phần IV – Nam Bắc chia hai - Chiến tranh Việt Mĩ gồm những tiết sau: Chương XXI - Việt Nam chia hai (1954-1965) A. Miền Nam Gia đình Ngô Đình Diệm Dẹp giáo phái - Truất Bảo Đại Chính sách nhà Ngô Dân nổi dậy chống đối - Hai vụ 11-11-60 và 26-2-62 Ấp chiến lược - Trận Ấp Bắc Phật nạn - Đảo chánh 1-11-63 B. Miền Bắc Pháp mất hết quyền lợi Kinh tế suy - Đời sống khắc khổ Cải cách điền địa - Vụ Quỳnh Lưu Vụ Nhân văn - Giai phẩm Kinh tế phát triển rất chậm Bắc giúp Mặt trận Giải phóng miền Nam Chương XXII - Chiến tranh Việt Mỹ (1965-1975) Các chính phủ quân nhân Mĩ đưa quân sang Vụ Mậu Thân Vừa đánh vừa đàm - Hiệp định Paris Những bí mật trong chiến tranh Việt Mỹ Mĩ rút về, quân Nam tan rã, chiến tranh chấm dứt Chương XXIV - Xã hội miền Nam trong thời Mỹ Kinh tế mền Nam từ 1954 đến 1974 Nhân số bộc phát - Nạn đói Thị dân tăng lên quá mau - Nền kinh tế trái luật kinh tế Sản xuất kém mà tiêu thụ mạnh Đời sống quay cuồng Cảm giác bất an - Thời đại kĩ nghệ điện tử Phong hoá suy đồi Ta có thể thấy ngay là những điều mà Nguyễn Hiến Lê viết về hai miền Nam, Bắc trong Chương XXI, vụ Mậu Thân, bí mật trong chiến tranh Việt - Mĩ trong Chương XXII, kinh tế, thời đại kĩ nghệ điện tử ở miền Nam trong Chương XXIV có thể là những điều sẽ làm cho nhà nước Việt Nam phải lúng túng bào chữa, lấp liếm nếu nó được in ra. Nhưng có lẽ cái gai làm cho các nhà quản lý tư tưởng Việt Nam khó chịu nhất là những gì ông Nguyễn Hiến Lê đã viết trong Chương XXX, XXXI, và XXXII, trong Phần VI – Giai đoạn 1975-1981: Chương XXX tả lại đời sống xã hội miền Nam sau 6 năm dưới chế độ xã hội chủ nghĩa; chương XXXI viết lại những kết quả sau 6 năm đó; Chương XXXII tập hợp những ý kiến của ông về lỗi lầm của Đảng và về tương lai của đất nước. Câu cuối cùng trong lời bạt của Nhà xuất bản Văn học có viết: “Nhà xuất bản rất mong sự đóng góp của độc giả trong nước cũng như ngoài nước để lần in sau chúng tôi rút được những kinh nghiệm tốt hơn.” Chẳng lẽ những đóng góp này chỉ là những ý kiến về kĩ thuật ấn loát hoặc trang trí hình bìa? Vì theo nhà Văn học thì “qua đấy (cuốn Hồi kí) người đọc cảm nhận được xã hội Việt Nam xuyên suốt hai cuộc kháng chiến”, vậy thì độc giả, nhất là độc giả trong nước, có thể nên lên một băn khoăn là: Dù chúng tôi thông cảm cho nhà xuất bản đã cắt bỏ những chương quan trọng trên trong tất cả những lần tái bản, nhưng chúng tôi, với tấm lòng ngưỡng mộ một vị học giả quá cố, vẫn không khỏi thắc mắc tự hỏi ông Nguyễn Hiến Lê đã nhận xét những gì về xã hội Việt Nam sau cuộc kháng chiến chống Pháp, Mĩ. Đến bao giờ chúng tôi mới đọc được toàn bộ cuốn Hồi kí của ông? Đã 16 năm rồi chứ đâu phải là ít? Trong tinh thần tự do công luận đó, tôi xin trích ra sau đây chương XXX, XXXI, XXXII trong cuốn Hồi kí của học giả Nguyễn Hiến Lê. Có lẽ lý tưởng nhất là đăng nguyên văn những chương này, không thiếu sót một câu, một chữ, do Nhà xuất bản Văn nghệ in năm 1988; nhưng ba chương này rất dài, chiếm hơn ba phần tư (160 trang) cuốn Hồi kí, Tập III, tức là gần một phần năm của toàn bộ cuốn Hồi kí dầy non một ngàn trang. Mục đích của tôi là tóm tắt, thu gom lại những ý tưởng, câu viết của ông trong ba chương đã bị cắt bỏ trên thành một bài đọc ngắn để độc giả có thể biết ngay được tâm tư, trăn trở của ông sau 6 năm sống dưới chế độ cộng sản. Tôi sẽ giữ đúng bố cục mà ông đã dàn trong ba chương này, và theo sát những ý tưởng, diễn biến trong cách viết của ông. Tôi cũng xin mạn phép thỉnh thoảng xen vào vài ý kiến cá nhân phụ thuộc, phần lớn là để cập nhật tình trạng xã hội Việt Nam mà, sau hơn 25 năm, đã có nhiều thay đổi. * Hồi kí của Nguyễn Hiến Lê (Văn nghệ xuất bản – California - USA, 1988) Phần VI- Giai đoạn 1975 -1981 Chương XXX - Chế độ tập thể ở miền Nam Cảm tình của tôi với kháng chiến Mở đầu chương này, Nguyễn Hiến Lê bộc lộ tâm sự của ông trước năm 1975: Tôi vốn có cảm tình với Việt Minh, với cộng sản; ghét thực dân Pháp, Mĩ, nhất là từ 1965 khi Mĩ đổ quân ào ạt vào miền Nam; tôi khinh những chính phủ bù nhìn của Pháp, Mĩ. Tôi phục tinh thần hi sinh, có kỉ luật của anh em kháng chiến và mỗi lần có thể giúp họ được gì thì tôi sẵn lòng giúp. Nhưng cảm tình của ông với cộng sản Việt Nam không phải là tuyệt đối; ngay từ đầu, ông đã nhận ra sự tàn nhẫn của chế độ cộng sản: Từ năm 1954 tôi đã được đọc nhiều báo tố cộng của chính phủ Ngô Đình Diệm; hơn nữa, tôi được nhiều bạn của tôi di cư vô Sài Gòn kể cho tôi nghe chính sách điền địa ở Bắc tàn nhẫn tới mức bỏ tù, giết cả những người kháng chiến, chỉ vì họ có 4-5 mẫu ruộng (chưa đầy hai hecta) và bị liệt vào hạng điền chủ, tư sản bóc lột kẻ nghèo. Chính những bạn tôi đó cũng đã giúp kháng chiến, đều có lòng ái quốc, đều là những người đứng đắn, tốt, mà không thể sống ở ngoài đó được, phải bỏ cả mồ mả tổ tiên, nhà cửa, bà con họ hàng vô đây với hai bàn tay trắng, sống chen chúc trong những khu lao động, can đảm lập lại cuộc đời. Sau đó, với những diễn biến của chiến tranh, lòng ông càng trở nên đau thương trước tình cảnh chém giết tanh máu cùng bộ máy hỗ trợ cho cuộc huynh đệ tương tàn đó. Điển hình là: Năm 1968, nghe những tin tức và những hình ảnh về cuộc tàn sát rùng rợn ở Huế trong biến cố Mậu Thân, tôi hoang mang, đau lòng cho đồng bào Huế và lo lắng cho tương lai dân tộc. Nhưng ông vẫn tin tưởng vào cái ảo nhoáng bề ngoài của Đảng Cộng sản Việt Nam, được sơn phết bởi những chiến thắng trong thời kháng chiến, mà công lao đó, thực ra, không phải chỉ riêng của ông Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam: Đọc trước sau khoảng hai chục cuốn viết về cộng sản Nga, Trung Hoa, Đông Âu như vậy, tôi tuy ghét, tởm Staline, Mao Trạch Đông… nhưng vẫn tin rằng chế độ cộng sản công bằng hơn chế độ tư bản; nhất là cộng sản Bắc Việt dưới sự lãnh đạo thời kháng chiến của Hồ Chủ tịch mà tám chín phần mười người Việt kính mến, khắp thế giới phục thì không thể nào tàn nhẫn như Nga, Trung Hoa được, Đảng có lỗi lầm thì sửa sai ngay. Đó là tâm lí chung của đa số trí thức Sài Gòn, chứ chẳng riêng của tôi. Và vì thế, ngay từ năm 1973, ông đã mong đợi một đời sống mới: Khi Hội nghị Paris kết thúc năm 1973, chúng tôi mừng rằng chiến tranh sắp chấm dứt sau non ba chục năm dai dẳng, khốc liệt, toàn dân sẽ nắm tay nhau kiến thiết quốc gia… Riêng tôi, tôi sẵn sàng bỏ một ít tự do đi, sống thanh bạch hơn nữa, miễn là hết thấy cái nạn tham nhũng, ăn cắp, ăn cướp, phè phỡn, bóc lột và thấy con người có tư cách hơn. Tôi vẫn thường nói với nhà tôi: cộng sản vào đây thì chỉ nội 48 giờ là hết cái tệ đó. Ngày 30-4-75 - Việt Nam thống nhất Sự tráo trở của cộng sản Việt Nam sau Hiệp định Paris: Nhưng Hiệp định Paris vừa mới kí xong - tất nhiên có chữ kí của Nga, Trung Hoa và một số nước khác nhu Pháp, Anh… - hai bên trao đổi tù binh với nhau xong, Mĩ rút hết quân về rồi thì chiến tranh lại tái diễn. Thế là Hiệp định chưa ráo nét mực đã bị xé bỏ. Cái chiến tranh đó kết thúc một cách nhanh chóng, trong vòng chưa đầy 2 năm, và lí do là: Một bên (Bắc) mới thắng được Mĩ về ngoại giao, rất phấn khởi, khí thế đương hăng; một bên (Nam) bị Mĩ chẳng nghĩ gì đến liêm sỉ, nhẫn tâm bỏ rơi, vừa uất ức vừa thất vọng, thì phần thắng về ai, điều đó rất dễ hiểu. Theo ông, không có cái đặc tính, thần tình gì trong cái chiến thắng đó: Sự thắng lợi đó quả là vẻ vang cho miền Bắc, nhưng xét kĩ thì cũng như sự thắng lợi của quân đội Mao Trạch Đông năm 1949 (cũng chỉ trong có mấy tháng họ tiến từ Nam Kinh tới biên giới Bắc Việt); và cũng như sự thắng lợi của Khmer đỏ (ngày 17-4) khiến Lon Nol phải bỏ nước để thoát thân như Nguyễn Văn Thiệu, Đại sứ Mĩ phải nhục nhã cuốn cờ bỏ Nam Vang mà về nước, và Khmer đỏ vào Nam Vang 13 ngày trước cộng sản Bắc Việt vào Sài Gòn. Thực chất của cái chiến thắng này rõ ràng chỉ là một sự xâm lăng, một cuộc cưỡng chiếm miền Nam, làm gì có sự giải phóng mà miền Bắc đã từng khoe khoang? Khi vỡ lẽ ra thì ông không thể không tự dè bỉu một tiếng: Mấy ngày hạ tuần tháng 4 dương lịch đó tôi vẫn nghĩ tình hình không có gì bi đát lắm đến nỗi phải di cư. Quân Bắc có tiến vào Sài Gòn thì Nam Bắc cũng thương thuyết với nhau - trước Bắc chỉ đòi Mĩ rút đi, Thiệu rút đi, thì bây giờ họ rút cả rồi, còn muốn gì nữa? – mà Hiệp định Paris còn đó, Bắc phải thi hành chứ. Tôi ngây thơ quá. Cái ngây thơ của ông cũng là cái ngây thơ của của nhóm người gọi là thành phần thứ ba ở miền Nam trước năm 1975 (họ đã bao giờ tự nhận lỗi lầm của họ không?). Tuy nhiên, ông cũng hứng khởi chờ đón một tương lai xán lạn: Tôi phục quân đội giải phóng rất có kỉ luật: vào Sài Gòn mà không gây một vụ đổ máu (trước đó ai cũng ngại có một cuộc “tắm máu” như Huế năm 1968), một vụ cướp bóc nào; còn giúp đỡ dân chúng nữa. Tôi tràn trề hi vọng… Như vậy thì rất hợp với sở nguyện của mọi người, quá sở nguyện của giới trí thức nữa. Chế độ mới Một bài học vỡ lòng của ông về chế độ cộng sản: Ai cũng biết chế độ cộng sản là chế độ độc đảng, chuyên chế của giai cấp vô sản… Họ nắm hết cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, nếu trong nước có đảng dân chủ, đảng xã hội thì những đảng này cũng phải theo đường lối của đảng cộng sản, không thể độc lập, đối lập được… Bất kể việc lớn nhỏ gì cũng do đảng quyết định hết, cơ quan nào dù lớn, quan trọng tới mấy cũng chỉ có việc thừa hành. Nhưng ngay sau đó là một câu thú nhận của ông và cũng là một lời cảnh cáo cho những người cả tin, đón gió: Điều đó ai cũng biết, nhưng muốn thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ dăm năm. Đó là bài học đầu tiên và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người miền Nam rút được từ 1975 tới nay. Muốn nghe ai phê bình, khen chê thì nghe, muốn đọc sách gì thì đọc, dù là người thông minh, chịu suy nghĩ, cũng chỉ biết lờ mờ một chế độ thôi. Và với kinh nghiệm đó, ông đã viết và kể cho ta nghe những gì ông đã “sống” và “ thấy” được sau hơn 6 năm sống dưới chế độ cộng sản: Dưới đây tôi ghi vắn tắt những điều tôi thấy về chế độ cộng sản ở miền Nam. Tôi không chép nhật kí, mà kí tính tôi mấy năm nay suy; tôi lại chỉ sống ở Sài Gòn, giao du ít, nên nhận xét của tôi chắc chắn là thiếu sót, có thể sai nữa, sai nhiếu nhất là năm, tháng. Tôi sẽ ráng giữ tinh thần khách quan và trung thực. Hành chánh Tổ chức Tổ chức gia đình ở miền Nam khác hẳn lúc trước 1975: Một gia đình (cha mẹ, con cái, anh em, bà con…) ăn chung, ở chung với nhau thì thành một hộ… Ba bốn chục nhà (thường gồm bốn năm chục hộ) họp lại thành một tổ… Tổ trưởng là gạch nối giữa chính quyền và nhân dân, loan báo chỉ thị của chính quyền xuống nhân dân, đạo đạt nguyện vọng của nhân dân lên chíng quyền… Tổ trưởng thường ít học nên hay nói, nói dai, đáng lẽ 15 phút xong thì kéo dài cả giờ, giờ rưỡi, mất thì giờ của dân… Và hãy đọc một chuyện vui về “cán bộ ba d.” của ông: Thỉnh thoảng lại có buổi học tập chính trị do cán bộ, thường là công an tới giảng cho 5-6 tổ gồm trên trăm học viên… Trình độ văn hoá của cán bộ chỉ vào hạng có tiểu học, bài học rất chán, mà cũng có một số người vỗ tay khen, có khi chưa hết câu đã vỗ tay, khiến cho các học viên miễn cưỡng vỗ tay theo. Trò đó có vẻ lố bịch, sau dân chúng phá bằng cách đáng lẽ chỉ vỗ tay một thì họ vỗ tay hai, kéo dài ra, bọn nịnh kia thấy ngượng phải bỏ… Tôi nhớ lời này của một bạn ở Hà Nội vào: “Bọn cán bộ đó nói dài, nói dai, nói dở, gọi là cán bộ ba d.” Tổ chức hành chánh cũng toàn là lấy trò bịp bợm làm chuẩn: Nhiều tổ họp thành một khóm… Phường có công sở lớn, nhiều phòng: hành chánh, y tế, giáo dục, kinh tế, công an… dân trong phường bầu đại diện, đại diện lại bầu một hội đồng nhân dân, chủ tịch hội đồng này là phường trưởng. Cách thức bầu cũng như bầu quốc hội. Đảng lập danh sách những người Đảng cho phép ứng cử… và dân chỉ được bầu cho những người đó. Chỉ là vấn đề hình thức. Dân đi bầu khắp mặt cho xong việc, không cần biết kết quả ra sao. Ứng cử viên chẳng cần ra mắt quốc dân. Riêng tôi suốt 5 năm không thấy mặt ông chủ tịch uỷ ban nhân dân phường một lần nào, hai lần xin gặp mặt thì cô thư kí bảo ông ấy đi vắng cả hai… Trên phường là quận… Trên quận là thành phố… do nhân dân trong tỉnh bầu lên theo cách thức đã kể trên. Và lề lối làm việc của nhân viên hành chánh: Sở nào cũng rất nhiều nhân viên mà công việc thì ít, vì giám đốc sở nào cũng đưa người thân hay người quen vào làm. Người ta gởi gắm lẫn nhau. Một cán bộ cao cấp chủ nhiệm hay phó chủ nhiệm một tờ báo nọ có lần bảo tôi, tờ báo của ông ta có non 100 nhân viên (trước ngày 30-4-75 một tờ báo như vậy chỉ có vài chục nhân viên mà lại nhiều trang, nhiều bài hơn), dư người rồi; vậy mà sáu tháng sau khi ông ta giao lại toà soạn cho một cán bộ khác, thì số nhân viên đã tăng lên tới 170; có những “kí giả” tới toà soạn mà chẳng có việc gì làm, nói chuyện láo một lúc, sửa một cột ấn cảo rồi đi dạo phố hoặc về nhà, tự thẹn mang tiếng kí giả mà cả năm không hề viết một hàng chữ cho tờ báo. Nhân viên càng nhiều, công việc lại càng bê bối. Vì cái nạn bè phái tranh giành nhau, dẫm chân lên nhau, không ai chịu trách nhiệm cả, ai cũng đùn công việc cho người khác. Tinh thần nhân viên Quang cảnh công sở dưới chế độ mới: Đa số công sở rất dơ dáy, lộn xộn, nhân viên nấu ăn ngay trong phòng giấy. Vào nhiều công sở ta có cảm tưởng vào những nhà việc ở thôn quê Nam Việt nửa thế kỉ trước: có 3-4 bàn giấy nhưng chỉ có hai nhân viên ngồi nói chuyện phiếm bên một bình trà, mấy cái chén, chỉ khác là có thêm một bình điếu thuốc lào. Nhân viên tới giờ nào thì tới. Tinh thần nhân viên dưới chế độ mới: Đói thì không làm việc được, công việc bê trễ, người ta chán nản, xin thôi… Xin thôi không được thì người ta cứ ngang nhiên bỏ sở; hoặc ở lại thì làm tà tà, lấy lệ… Có kẻ ỳ ra không làm gì cả. Tình trạng hành chánh trong chế độ mới: Hình như người ta không có một kế hoạch, chương trình gì cả, ra lệnh rồi phản lệnh liền liền mà tới giờ chót mới thông báo cho nhân viên hay; máy móc mua về đủ rồi mà vì lẽ này lẽ khác, không dùng tới, để cho nó sét. Rồi còn cái tệ dưới không tuân lệnh trên, một phần do tinh thần bè phái, một phần do chính sách địa phương tự trị… Đó là cái nạn cán nặng hơn gáo. Và cái nhìn chung về cái xập xệ trong chế độ mới: Tôi không kể những cái bê bối trong công sở: đánh mất hồ sơ, thụt két, ăn cắp của công, kho vật liệu không có sổ sách, cứ ít tháng lại thấy mất đồ mà không tìm ra được thủ phạm, v.v…, vì nếu kể thì dài quá. Trong những cái bê bối vô số kể thì dĩ nhiên những vụ cướp nhà, lấy đất của dân miền Nam cũng phải có: Tỉnh huyện lập ra nhiều cơ quan quá thì phải xây cất thêm nhiều, tịch thu nhà cửa đất đai của dân. Theo hiến pháp, tư sản được tôn trọng. Chỉ bọn tư bản bóc lột, một số nguỵ quân nguỵ quyền có tội nặng và những người vượt biên “chui” (lén) mới bị tịch thu nhà cửa. Nhưng một số cán bộ nhỏ muốn dâng công hoặc vì tư thù, tư lợi, tịch thu bừa bãi nhà cửa, đồ đạc của dân… Còn các gia đình có mặc cảm tội lỗi thì đành chịu ức hiếp: đương đêm quân đội tới bắt dọn đồ đạc ra đường để chúng chiếm nhà. Tệ đó gây bao phẫn uất trong dân chúng, các ông lớn ở trung ương có biết cho không? Với những tệ hại như vậy, ông đã nghĩ tới cái thay đổi mà “không ai dám nghĩ tới”, cái “cuộc thay đổi lớn lao” đó rồi đây cũng sẽ phải xẩy ra mà thôi: Cán bộ cao cấp và trung cấp còn biết những sở đoản của chế độ, lẽ nào các nhà lãnh đạo và đảng không biết. Tôi cho rằng người ta biết đấy, nhưng đó là bệnh cố hữu (inhérent) của chế độ, không thể chữa được, trừ phi có một cuộc thay đổi lớn lao mà không ai dám nghĩ tới.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:46:08 GMT 9
Tài chánh
Ngân hàng - Hưu bổng - Đổi tiền
Như ta đã biết, vụ cướp tiền đã xẩy ra trước vụ cướp đất của dân chúng miền Nam:
Công việc đầu tiên của chính quyền 30-4-75 là chiếm hết các ngân hàng, các sở ngân khố. Không còn ngân hàng của tư nhân mà cũng không còn sở ngân khố…
Ai gửi tiền ở ngân hàng quốc gia mà mua công khố phiếu (tức quốc trái, được lời nhiều hơn là gửi ngân hàng tư: 30% mỗi năm, chứ không phải là 24%) thì chính phủ không trả cho đồng nào hết, vì đó là nợ của chính phủ Nguyễn Văn Thiệu, mà Thiệu đã lưu vong, ôm hết quí kim đi rồi. Nhiều người ở trong trường hợp đó.
Bây giờ thì ta đã biết là Thiệu rời nước, không biết đem theo được bao nhiêu quí kim, nhưng số vàng dự trữ trong kho của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vẫn còn nguyên vẹn sau ngày miền Nam bị cưỡng chiếm. Như vậy là những người gửi tiền lức đó đã bị nhà nước cộng sản Việt Nam cướp tiền một cách trắng trợn. Chính gia đình Nguyễn Hiến Lê cũng là nạn nhân của vụ quịt tiền này:
Nhà tôi buồn vì chính quyền không cho lãnh tiền hưu bổng (khoảng 30 đồng mới, 15.000 đồng cũ một tháng) mà không cho hay ngay, cứ làm thinh, bắt mỗi tháng lại sở hưu bổng hỏi han, chầu chực, như vậy hai năm, tới khi thấy người ta hạ cái bảng tên sở đi mới tuyệt vọng, không trông vào số tiền dưỡng lão đó nữa.
Còn hoàn cảnh của những nạn nhân khác thì sao?
Biết bao người ở trong trường hợp đó, nhiều người nghèo không trông cậy vào đâu được, phải tự tử. Có người đã mất hết số tiền và tư trang gởi ngân hàng, rồi lại mất luôn tiền hưu trí, hoá điên.
Nhưng ác độc nhất là hai vụ đổi tiền, chủ đích là làm cho dân nghèo đi:
Chính sách đổi tiền của chính phủ càng thất nhân tâm hơn nữa. Vụ đổi tiền thứ nhất xẩy ra tháng chín hay tháng mười 1975, và xẩy ra rất đột ngột. Sáng sớm hôm đó dân chúng mới hay rằng phải đổi tiền nội trong 24 giờ và mỗi người dân già trẻ lớn bé được đổi một số tiền là bao nhiêu đó tôi quên rồi, chỉ còn nhớ số tiền này như gia đình tôi chỉ đủ tiêu trong một tháng hay tháng rưỡi là cùng… rất nhiều người phẫn uất, tuyệt vọng; có người tự tử, có người đốt hằng thúng giấy bạc, hoặc từ trên lầu vãi giấy bạc xuống đường, không ai thèm lượm; ở Mỹ Tho, nhiều tiệm Trung Hoa thồn giấy bạc vào cà roòng, thả trôi sông.
Dân có nghèo thêm đi thì chỉ làm cho cán bộ giàu hơn lên:
Cấp trên không biết tổ chức hoặc biết tổ chức mà bên dưới không thèm nghe, tự ý làm sao thì làm, và hạng người ngu dốt, được cơ hội, tha hồ hách dịch, làm khó dân… nhiều cán bộ gian lận làm giàu.
Và đây là nỗi chán chường của ông đối với những người cai trị tự cho là liêm khiết, vì dân:
Lần đó là lần đầu tiên tôi thất vọng, thấy rõ chân tướng chẳng tốt đẹp gì của các đồng chí cách mạng trong chủ nghĩa xã hội đã được Hồ chủ tịch dạy dỗ mấy chục năm. Họ bỉ ổi, bê bối còn hơn chế độ tư bản nữa. Tôi không vơ đũa cả nắm. Cũng có một số liêm khiết, xã hội nào cũng vậy.
Nhưng chưa hết, cuộc đổi tiền lần thứ hai cũng khủng khiếp không kém lần thứ nhất:
Ba năm sau, năm 1978 lại đổi tiền một lần nữa, mà lần này ở khắp nước. Cũng đột ngột, cũng hạn chế số tiền được đổi, nhưng có tổ chức hơn, đỡ khổ cho dân… Vụ đổi tiền năm 1978 làm Bắc Việt xôn xao cũng bằng ở trong Nam, và cũng có đủ các tệ như ở Nam… Lần này người ta biết tin trước vài ngày: ai có nhiều tiền (ở Bắc cũng như ở Nam) cũng tung tiền ra mua vàng, xe đạp, vải, tủ lạnh, chén đĩa, bất kì thứ gì với bất cứ giá nào… Có người không biết mua gì, năn nỉ hàng xóm để lại cho con gà, con vịt. Người nghèo có từ nải chuối trở đi cũng đem đi bán. Ở Bắc có kẻ nhiều tiền quá thồn cả vào một cái bao, chở trên xe đạp, đến một chỗ vắng, làm bộ đánh rớt xuống đường rồi phóng đi như bay. Hạn chế, kiểm soát rất gắt, vậy mà ở Hà Nội ngay tối đêm mới đổi tiền, công an lại xét một nhà thấy một số tiền gấp trăm số gia đình đó được phép đổi. Và chính phủ cũng phải làm ngơ.
Sau một phần tư thế kỉ được giáo hoá mà như vậy thì chúng ta phải kết luận ra sao? Có chế độ nào thay đổi được bản tính con người trong một hai thế kỉ không? Bao giờ mới đào tạo được con người xã hội chủ nghĩa để họ xây dựng xã hội chủ nghĩa đây, như Hồ Chủ tịch nói?
Và kết quả sau hai cuộc đổi tiền:
Mỗi lần đổi tiền là một lần lạm phát… Dân sợ sự đổi tiền quá, không còn làm ăn gì được… Đời sống không được ổn định, dân lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, chẳng trách bệnh bao tử phát dữ dội, gấp mấy thời trước. Không ai muốn tiết kiệm nữa, kiếm được đồng nào tiêu hết đồng đó; những quán ăn, tiệm cà phê nhiều hơn và đông khách hơn trước ngày 30-4-1975.
Rồi ông kết luận:
Tóm lại chính sách của nhà nước là muốn quản lí tiền bạc của dân…
Dĩ nhiên là tiền bạc không phải chỉ là một thứ của dân mà nhà nước công sản quản lí như ta đã biết và thấy.
Kinh tế
Một lời “vinh danh” chế độ cộng sản của ông:
Sức mạnh của chế độ xã hội chủ nghĩa, bước đầu của chế độ cộng sản là nắm hết sự sản xuất và sự phân phối trong nước. Có nắm được như vậy thì mới mau bình sản được, mới diệt được sự bóc lột của cá nhân, sự bất công, mới giảm được sự bất bình đẳng, trong nguyên tắc. Ai cũng hiểu như vậy nhưng chỉ cộng sản mới can đảm, kiên nhẫn, cương quyết thực hành điều đó. Cộng sản “đáng phục” chỉ ở điểm đó, còn tinh thần nhân đạo, thương người nghèo của họ không hơn gì - nếu không nói là kém – Kitô giáo, Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo…; mà lí thuyết của họ thì còn có thể đem ra bàn luận hoài được, khen cũng được mà chê cũng được.
Sản xuất
Nông nghiệp
Bài học lịch sử:
Về nông nghiệp, hai nước cộng sản đàn anh Nga và Trung Hoa đều thất bại. Sau 60 năm làm cách mạng, Nga vẫn thiếu lúa mì, phải mua của Mĩ, mà đất đai Nga Xô rất rộng chứ; Trung Hoa thì sau 30 năm, dân vẫn thiếu gạo, thiếu thịt.
Kết quả của bài học đó:
Ông thầy của chúng ta đã thất bại thì ta làm sao không thất bại được?... Hỏi thăm các bạn ở Bắc, ai cũng bảo hợp tác xã nông nghiệp ngoài đó, xét chung, thất bại, chỉ trừ một vài nơi ở Thái Bình… Trong nhiều hợp tác xã còn đất bỏ hoang, vì khó khai phá, không có lợi… Ở trong Nam mấy năm đầu dân phải đóng thuế nặng, lúa bị thu mua nhiều quá với giá rẻ mạt, phân bón, thuốc trừ sâu, xăng nhớt lại bị cán bộ ăn cắp bán chợ đen v.v… Do đó nông dân chán ngán, không ham sản xuất.
Lời khuyên của ông qua bài học lịch sử:
Chúng ta đừng nên quá tự tín, tự hào, mà nên so sánh nước mình với các nước láng giềng cũng nông nghiệp như mình, đất rộng cũng như mình, tức Thái Lan, Miến Điện… Quá tin ở sự khai phá đất hoang lại càng không nên.
Và một câu châm biếm nhẹ nhàng:
Tóm lại tôi nghĩ rằng hoà bình trở lại, lo sản xuất lúa gạo để đủ nuôi dân đã là may, không mong gì làm giàu được. Năm 1975 tôi trình bày lại ý đó với một cán bộ cách mạng, họ cho tôi là bi quan, bảo: “Dân tộc mình thắng được Mĩ, hùng cường thứ nhì Đông Á, chỉ 5 năm nữa thì kinh tế mình sẽ thịnh, hai chục năm nữa sẽ đuổi kịp Nhật rồi vượt họ.”… Có những người dễ tin bánh vẽ quá. Họ thật sung sướng, tối chắc ngủ ngon.
Hậu quả là nuớc Việt Nam đã được Đảng cho ngủ luôn trên 20 năm sau đó, để cho Nhật vượt xa nước mình, không biết đến bao giờ mới bắt kịp được, đừng nói chi tới chuyện nước mình vượt họ.
Cũng nên cần nhắc lại là chính sách lùa dân đi về vùng kinh tế mới (thật ra chỉ để cướp đất giựt nhà) là một lỗi lầm to lớn của cộng sản Việt Nam:
Một thất bại nữa là chính sách đưa dân thành thị đi vùng kinh tế mới để khai phá đất hoang.
Ngay cả những người hăng hái ra đi cũng không chịu nổi sự cực khổ và ức đáp:
Sau ngày 30-4-75, nhiều người rất phấn khởi, muốn sống một đời sống mới, xung phong đi kinh tế mới... Miền Sông Bé thất bại nặng; người ta bỏ về lần lần hết. Ngay những thanh niên xung phong thấy đồng bào đi hết, cũng phải xin về.
Nên những người đó sau cơn đổi đời:
Coi họ già và lam lũ như hạng lưu dân trong Đồng Tháp Mười hồi 1935. Tôi nghĩ chính hạng người đã hi sinh cả đời cha, đời con, đời cháu nữa để khai phá miền Nam này, sống cực khổ như mọi đó mới là khai quốc công thần, có phần gian lao hơn Thoại Ngọc Hầu, Nguyễn Hữu Cảnh nữa; nhưng khắp thế giới từ cổ đến kim, không ai nhắc tới họ; bây giờ người ta cũng để họ “sống chết mặc bay” mà còn bóc lột họ nữa.
Ông còn kể một hai câu chuyện về những cơ cực của những người đi vùng kinh tế mới này. Tôi không dẫn hết ra đây, nhưng đại loại là nơi họ sống:
… là một khu rừng cỏ tranh không có kinh rạch gì cả, không làm ruộng được, phải phát cỏ tranh, đào giếng (sâu 6 thước) để lấy nước uống, mà nước thì đục ngầu… Họ chịu đựng được non ba năm… hết chịu nổi… Cái chòi một mái chỉ có 6 thước vuông, một cái giường, một cái võng. Mẹ và bốn con ngủ trên giường (vì hai đứa con đã gởi người bà con nuôi dùm), dưới gầm là một con heo lớn, một con heo con, chung quanh là một bầy gà. Chồng ngủ võng. Trời nắng thì ngủ ngoài trời được. Không có bếp, cầu tiêu, nước uống là nuớc trong một cái hầm đào để đắp nền nhà… Cảnh một gia đình công chức hồi hưu (tôi chỉ nghe nói chứ không được biết) còn bi đát hơn gia đình đó nữa… về Sài Gòn thì không có hộ khẩu, không có chỗ trú chân, phải đi xin ăn, ở nhờ bạn, nay nhà người này, mai nhà người khác.
Kết quả của chính sách kinh tế mới là cảnh sống cầu bơ cầu bất của người bị cướp nhà:
Và hiện nay nhiều đường ở Sài Gòn đầy những người ở kinh tế mới về, vô gia cư, vô nghề nghiệp, ban ngày đi xin ăn, làm cu li hay ăn cắp, đêm ngủ vỉa hè, hoặc dưới mái chợ... Khắp các tỉnh đâu đâu cũng có tình cảnh đó.
Sự dốt nát của cán bộ nông thôn lúc bấy giờ:
Một nguyên nhân thất bại nữa của chính sách nông nghiệp là thiếu kĩ thuật gia giỏi… từ ngày 30-4-75, các công tác thuỷ lợi hầu hết do các cán bộ nông thôn mới học hết cấp I (hết tiểu học) điều khiển. Các đồng chí ấy bất chấp kinh nghiệm của nông dân, đã dốt mà lại độc đoán… Cán bộ của mình không được học, không biết tính toán gì cả (một cán bộ tài chánh xã mà không biết chia 72 cho 24), mạnh làng nào làng ấy đào, chẳng hề xét hậu quả gì bất lợi cho làng bên hay không; và kết quả nhiều khi trái ngược với ý muốn… Người ta đào kinh rất nhiều, miền nào cũng khoe đào được mấy chục con kinh, mấy trăm cây số kinh trong một mùa nắng. Có tốn kém gì đâu. Chỉ cần bắt thanh niên làm xâu, làm càng nhiều càng được tiếng “vinh quang”. Tới nỗi có miền dân phải ta thán, đặt ra câu ca dao này:
Mồ cha thằng Thiệu dời dinh, Để tao ở lại đào kinh suốt đời.
Tập cho thanh niên lao động chân tay, góp sức vào việc kiến thiết quê hương là điều tốt, nhưng người ta phí sức dân quá. Dân do đó thấy tủi cho thân phận mình: trong thời chống Pháp, chống Mĩ, dân hi sinh cho anh em kháng chiến, bây giờ bị coi như nô lệ.
Dưới sự lãnh đạo và điều khiển của những “cán ngố” - cứ tưởng thắng Mĩ được một ván cờ chính trị thì đã khoe khoang tự cho mình là bá chủ ‘đỉnh cao trí tuệ’ - những người thất trận, kể cả người dân miền Nam, đều bị đối xử như là hạng bần cùng, hạ cấp. Điều đó dễ hiểu.
Công nghiệp
Tình trạng công nghiệp Việt Nam tệ hại đến nỗi:
Xí nghiệp quốc doanh nào cũng lỗ nặng… Từ bia, nước ngọt, đến tôm cá, đồ hộp như khóm, màn trúc, quần áo may sẵn, đồ sơn mài… bất kì món gì, mới đầu phẩm còn kha khá, sau cứ mỗi ngày một tệ, bị ngoại quốc gửi trả về… Tôi hỏi một người bà con ở Hà Nội, họ bảo ở Bắc cũng vậy: công nghiệp mỗi ngày một xuống dốc…
Nguyên nhân rất nhiều: quản lí dở, thiếu kĩ thuật gia giỏi… thiếu nguyên liệu, nhiên liệu, thiếu đủ thứ… không có tinh thần trách nhiệm, ai cũng làm việc tà tà… Ngoài Bắc có câu: “Làm thì đói, nói thì no, bồ thì sướng, bướng thì chết”, trong Nam lại thêm câu: “Làm cho lắm tắm không quần thay, làm lai rai ngày thay hai ba bộ.”
Đảng Cộng sản là đảng của vô sản, của thợ thuyền, mà công nhân trong các xưởng tinh thần như vậy đó.
Tình trạng các công ti lớn:
Các công ti công tư hợp doanh cũng lỗ vì công với tư rất khó hợp tác với nhau: công làm chủ thì tư tà tà, mà công thì quản lí rất dở, kĩ thuật kém, nghi kị tư, bao nhiêu quyền lợi, ôm lấy trọn.
Số phận của các công ti nhỏ cũng không khá hơn:
Các tổ hợp làm tiểu công nghệ của tư nhân như tổ hợp làm màn trúc, tranh sơn mài, đan áo, thêu, may áo… lay lắt sống được là may, đa số phải ngưng hoạt động vì xuất khẩu không được, bán trong nước cũng không được…
Do đó nước mình trước kia tự hào là tiền rừng bạc bể mà nay đứng vào hàng 10 nước nghèo nhất thế giới, có người nói vào hàng áp chót trên thế giới nữa. Lợi tức trung bình mỗi năm tính theo đầu người chỉ được 50 Mĩ kim, hai phần trăm của Nhật.
Ông chắc không bao giờ ngờ là hơn 60 năm sau, dưới sự lãnh đạo ưu tú của Đảng Cộng sản Việt Nam, GDP của dân Việt Nam còn thấp hơn cả dân… Thái Lan!
Phân phối
Xuất cảng chỉ còn than đá, xi măng, cao su – hơn hay kém trước tôi không biết - những hàng lặt vặt như bia, đồ hộp, tranh sơn mài, tôm… thì không đáng kể, mà mỗi năm một suy như đã nói ở trên. Nhập cảng cũng rất ít vì thiếu ngoại tệ, cho nên thứ gì cần lắm như xăng, nhớt, bột mì, máy móc mới bất đắc dĩ phải nhập khẩu; ngay đến dược phẩm cũng đành chịu thiếu thốn.
Đánh tư bản
Đây là một trong những độc chiêu đầu tiên cộng sản Việt Nam hành xử ngay trong những ngày tháng đầu ở miền Nam:
Hồi 30-4-75, ai cũng biết tư bản sẽ bị đập, thương mãi bị dẹp. Cho nên khi chính quyền ra lệnh các nhà buôn, nhà kinh doanh có môn bài, cửa tiệm phải đăng kí (kê khai), còn những thứ hàng nào, mỗi thứ bao nhiêu, giá bao nhiêu… (các người cho thuê nhà cũng phải khai) thì những người thức thời làm bản kê khai rồi tặng chính phủ. Trái lại, một nhà xuất bản và nhà sách khác lớn hơn nhiều, tin rằng mình làm ăn đứng đắn, quen nhiều nhà văn cách mạng, sẽ được yên, nên chỉ tặng chính phủ một phần nhỏ tài sản thôi và rốt cuộc mất gần hết nhẵn mà lại phải đi cải tạo mấy năm…
Chiến dịch kiểm kê đầu tiên để đập tư bản xẩy ra cuối năm 1976. Chính phủ đã chuẩn bị kĩ lưỡng, dùng rất nhiều sinh viên, thanh niên, nhốt họ trong trường hay trong cơ quan, không cho về nhà, không cho tiếp xúc với người ngoài, dạy cho họ trong một tuần (?) cách thức kiểm kê ra sao, phát giác những chỗ giấu đồ ra sao - nhất là vàng, kim cương - của bọn tư bản. Thành phố xôn xao dữ dội… Sau vụ đó, một số người bỗng hoá ra giàu. Hậu quả là tài sản của giới này chuyển qua giới khác một phần lớn, chính phủ được hưởng một phần nhỏ.
Ta thấy ngay là mục đích và thành quả của vụ đánh tư bản không khác gì với vụ đổi tiền. Vì vậy, sau đó, dĩ nhiên là cũng phải có màn đánh tư bản tập nhì:
Kết quả lần đầu đó được khả quan nhưng chưa được mãn ý, hai năm sau - 1978 – chính phủ đập một vố nữa: kiểm kê những nhà đã kiểm kê rồi, cả những nhà đã trả môn bài, cống hiến một phần gia sản, xem họ còn giấu gì hay không. Lần này kết quả không được tốt đẹp lắm mà hình như có trường hợp lạm quyền…
Chợ trời
Buôn bán chợ trời trong thời gian đó là một cách duy nhất để dân miền Nam sinh sống, vì thế:
Các tiệm lớn bị đóng cửa càng nhiều thì chợ trời càng phát đạt, càng đông, có đủ mặt hàng. Tất cả các tỉnh, các quận, đâu có buôn bán là đó có chợ trời… Cảnh sát lại đuổi họ thì họ chạy đi, cảnh sát đi khỏi rồi thì họ tụ trở lại, y như một bầy kiến bị ném một cục đá… Họ đông quá, nhiều người thất nghiệp quá, phải kiếm ăn cách đó…
Chợ trời giúp cho cách mạng được nhiều: cán bộ ngoài Bắc vào mua đồng hồ, máy thâu thanh, ti vi, tủ lạnh, xe đạp, giầy dép, quần áo… cơ quan nào cần cái gì thì cứ ra chợ trời, từ chiếc quạt máy, cái máy tính, dụng cụ y khoa, thuốc tây, đến cây bút bi… nếu không mua ở chợ trời thì mua ở đâu?
Và nhà nước ra tay cấm cản, thu dọn các chợ trời tưng bừng, nhưng không sao dẹp được (nếu dẹp hết đi thì dân làm sao mà sống được?), đành chịu thua:
Từ khi trung ương ra lệnh “không ngăn sông cấm chợ”, chợ trời được thể, phát triển càng mạnh.
Theo tôi, đây là dấu hiệu của cái vòng luân hồi như ông đã viết dưới đây:
Tháng 8-1981 chính quyền mới ra lệnh dẹp hết các sạp thuốc tây, bắt họ phải mở tiệm, có dược sĩ kiểm soát để khỏi bán đồ giả. Phải có vốn lớn mới thuê nhà, mở tiệm, mướn dược sĩ được - nếu có đủ dược sĩ – như vậy là trở về chế độ tư bản trước 1975 rồi. Cái vòng luẩn quẩn.
Vậy thì kinh tế tư bản đã bắt đầu được áp dụng trở lại từ lúc đó rồi. Và càng mạnh hơn về sau này, đến nay, nó được nguỵ trang dưới một cái danh hiệu mới mẻ nhưng không kém phần quái đản: kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa!
Phân phối nhu yếu phẩm
Năm 1975, trong nước còn nhiều sản phẩm nên mỗi tháng mỗi người dân ở thành phố được mua đủ gạo ăn, một hay nửa kí đường, một ít thịt cá, xà bông, dầu lửa…
Năm 1979, sản phẩm trong nước cạn dần, chính phủ phân phối cho dân được rất ít: gạo, bo bo, mì sợi may ra còn được đủ, còn những thứ khác thì năm thì mười hoạ mới được một chút ít… nhưng hạng cán bộ cao cấp có tiêu chuẩn riêng, có “bìa”, thì được phân phối quá đầy đủ…
Đó là chính sách chung của các nước trong phe chủ nghĩa xã hội… Việt Nam y hệt Nga và còn thua Trung Hoa một bực. Ở Trung Hoa, Mao chia giới cán bộ thành 30 cấp (thời Chiến quốc, Trung Hoa chỉ có 10 cấp thôi, theo sách tả truyện), mỗi cấp có tiêu chuẩn, đặc quyền riêng...
Phần này ông viết khá dài, ông có kể chuyện phong liêu, quan cách ở Trung Hoa ra sao, chuyện “Chính phủ lại bắt dân hùn tiền lập hợp tác xã tiêu thụ” mà sau đó: “Mỗi năm tính lời một lần, số lời đem ‘tặng’ chính phủ một phần lớn, còn bao nhiêu chia cho xã viên, nhưng không cho rút ra, mà chẳng được bao nhiêu, nên không ai xin rút ra”. Và câu kết luận là:
Cách thức phân phối rất bất tiện cho dân.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:46:52 GMT 9
Giáo dục – văn hoá
Giáo dục
Đoạn đầu này, ông viết về nền giáo dục Việt Nam lúc đó như sau, không biết được rằng bây giờ học phí ở bậc tiểu học không còn miễn phí nữa, mà còn tăng lên một cách phi mã, khiến việc lo kiếm tiền cho con em đi học là cả một chật vật lớn lao đối với những bậc phụ huynh; còn bậc đại học thì hiện nay sinh viên không kham nổi học phí, đã có tình trạng “học chui”:
Chính quyền rất coi trọng giáo dục, mở rất nhiều nhà trẻ, trường học từ mẫu giáo tới đại học. Giáo dục mới đầu hoàn toàn miễn phí, do đó có vẻ rất bình đẳng. Ở đại học, sinh viên nào cũng được trợ cấp mỗi tháng 18 đồng, tuy không đủ, nhưng cũng đỡ cho cha mẹ. Dĩ nhiên phải như vậy, nếu không thì không ai cho con học đại học được. Các đồng bào thiểu số cũng được dạy dỗ như người Kinh, đó cũng là điểm đáng khen nữa.
Dưới bất cứ chế độ nào, bất cứ ở đâu, trẻ em là mầm non của dân tộc, dễ uốn nắn. Vì thế, bài học đầu tiên ở dưới chế độ cộng sản Việt Nam là:
Trẻ em được cưng nhất, được coi là cháu Bác Hồ… Và người ta dạy (các em) phải ghi ơn Bác Hồ trước hết… Và cô chỉ hình Bác Hồ cho chúng coi. Chúng tiu nghỉu, chẳng hiểu gì cả. Bác Hồ là ai? Chúng đã gặp lần nào đâu? Có bồng bế chúng lần nào đâu? Có mua kẹo bánh cho chúng đâu? Cha mẹ các em đó nghe con kể vậy, bất bình, có người không cho con tới lớp nữa. Họ không hiểu đường lối cách mạng, lạc hậu quá.
Chương trình học:
Học mẫu giáo một hai năm, sáu tuổi lên cấp I, năm năm sau lên lớp 6, cấp II, khỏi thi. Lên lớp 10, cấp III thì phải thi.
Phương thức dạy học:
… sách giáo khoa mà sai – và vẫn thường sai - chẳng hạn bảo Sài Gòn nằm trên bờ sông Cửu Long thì tất cả các giáo viên cũng phải dạy sai như vậy, không được phép sửa; rồi báo cáo lên ti, ti lên bộ. Chỉ có bộ mới có quyền sửa sai, và phải hai ba năm sau, in sách mới, người ta mới sửa. Tôi thấy kì cục quá, không tin nổi, năm sau hỏi một giáo sư đại học Hà Nội, ông xác nhận là đúng: cái gì Bộ Giáo dục in thì phải coi là pháp điển, phải tuân theo triệt để.
Do đó, “thành quả” của nền giáo dục trong chế độ cộng sản nói chung, và ở Việt Nam nói riêng:
Tôi hiểu chính sách của người ta rồi: luyện tinh thần kỉ luật, làm tiêu ma óc phán đoán, ý chí cá nhân; và tôi không trách một đứa cháu tôi ở Hà Nội, một cán bộ cao cấp, vào hạng trí thức, năm nay trên 60 tuổi, có tú tài Pháp hồi thế chiến thứ nhì mà không có một chút tinh thần phê phán nào hết, trên nói sao thì tin vậy, đúng như người Pháp nói; có thể “avaler touts sorts de couleuvres”.
Chính sách giáo điều nói trên bây giờ vẫn y hệt như vậy, con người trong một xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đào tạo để nghe theo lời đảng dạy một cách máy móc, thiếu hẳn tư duy.
Đặc biệt ở miền Nam Việt Nam:
Muốn vô đại học thì sức học không quan trọng bằng lí lịch… Ra trường chắc chắn được bổ dụng… Thủ trưởng bắt làm gì cũng phải làm: cán sự điện tử mà làm lao công, dược sĩ mà giữ kho… Vì tất cả những lẽ trên, ở Nam thanh niên chán học, số học sinh lớp 12 kém xa năm 1974…
Một thí dụ về những học viên trong “chương trình giáo dục tiền tiến” này:
Một điểm tấn bộ là chính quyền mở nhiều lớp bổ túc văn hoá cho công nhân viên, cán bộ… Có đủ các cấp I, II, III. Vài cán bộ y sĩ, dược sĩ bốn năm chục tuổi, thời kháng chiến không được học, nay học bổ túc từ lớp tư, lớp năm… Học xong mỗi khoá phải thi. Nhưng thi rất dễ. Nghe nói có thầy đọc câu trả lời cho thí sinh chép, vì bắt những cán bộ mấy chục tuổi đảng thi lại hoài thì cũng kì, mà lại bị cấp trên trách là không biết dạy. Tiện hơn hết là cho đậu bừa đi. Ai cũng biết đó chỉ là hình thức. Có dược sĩ trình độ mới tới lớp tư, học rút trong hai năm hết lớp 10, như vậy đủ rồi. Một nhân viên công an cấp cho tôi giấy phép đi đường một tháng mà đề từ 31-1 đến 31-2-1980.
Văn hoá
Có lẽ việc quan trọng cần phải làm cấp kì và kĩ lưỡng nhất sau khi cưỡng chiếm miền Nam là tận diệt, xoá tan đi một nền văn hoá mà cộng sản miền Bắc cho là nguy hiểm, phản động:
Một trong công việc đầu tiên của chính quyền là huỷ tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của Bộ Văn hoá nguỵ, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyễn Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt.
Vụ đốt sách báo miền Nam thứ nhất:
Năm 1975, Sở Thông tin Văn hoá TP Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt… ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi truỵ trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Họ không thể vào hết từng nhà được, ghét nhà nào, hoặc công an chỉ nhà nào là vô nhà đó.
Vụ huỷ sách miền Nam thứ nhì:
Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba huỷ”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải huỷ hết, vì nếu không phải là loại phản động (một huỷ), thì cũng là đồi truỵ (hai huỷ), không phải phản động, đồi truỵ thì cũng là lạc hậu (ba huỷ), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lí…
Và dứt điểm là:
… năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc huỷ sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh huỷ hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của ông cha mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải huỷ ráo.
Một thí dụ điển hình mà chính ông là nạn nhân:
Một độc giả lập một danh sách các tác phẩm của tôi mà ông ta có trong nhà, đem lại Sở Thông tin hỏi thứ nào được phép giữ lại, nhân viên thông tin chẳng cần ngó tên sách, khoát tay bảo: Huỷ hết, huỷ hết.
Có lẽ mục đích của cuộc phá huỷ văn hoá miền Nam là tận diệt cho sạch tàn dư Mĩ nguỵ và để cho văn hoá miền Nam được “tiến” lên ngang hàng với văn hoá miền Bắc. Mà cái văn hoá đó thì ông đã đánh giá nó như sau:
Sau ngày 30-4-75, tôi muốn tìm hiểu cách mạng Nga từ 1917 đến 1945, nhờ mấy bạn cách mạng tìm sách cho, họ bảo chính họ cũng không được đọc vì không thấy một cuốn nào cả. Sau tôi mới biết rằng loại đó ngay ở Nga cũng không ai được phép viết. Như vậy kiến thức hạng trí thức ngoài đó ra sao, ta có thể đoán được…
Một cán bộ khác cho tôi hay ở Hà Nội người nào có được 50 cuốn sách là nhiều rồi. Anh ta mới thấy ba trong số 9 tủ sách của tôi đã bảo nhà tôi nhiều sách như một thư viện. Nhà bác học Sakharov trong một bài báo tôi đã dẫn, bảo ở Nga không có đời sống tinh thần (vie intellectuelle). Chúng ta có thể tin lời đó được.
Và đây là trí thức của tầng lớp cán bộ văn hoá chỉ huy:
Một nhà văn hợp tác với Viện Khoa học Xã hội lại nhờ tôi giới thiệu cho mươi nhà văn, học giả giỏi tiếng Anh và tiếng Việt để dịch cho viện bộ Bách khoa tự điển Anh gồm 25 cuốn, mà phải dịch gấp vì đó là chỉ thị của một ông “bự”. Tôi bảo có 50 nhà dịch cũng không làm nổi vì phải tạo hằng ức danh từ mới (riêng ngành Informatique trong 30 năm nay đã có một vạn thuật ngữ rồi); mà ví dụ có dịch nổi thì cũng phải mất ít nhất mười năm mới xong; xong rồi lại phải dịch lại hoặc bổ túc rất nhiều vì lỗi thời mất rồi: ở Anh, mỗi năm người ta sửa chữa, bổ túc, in lại một lần; rồi lại phải bỏ cả chục năm nữa, không biết có in xong được không. Xong rồi, bán cho ai, ai đủ tiền mua? Cán bộ văn hoá vào hàng chỉ huy mà dốt tới mức đó!
Trị dân mà không biết một chút gì về tình cảnh của dân cả. Họ có vận dụng trí óc của họ không?
Kẻ cai trị mà như vậy thì người bị trị như thế nào?
Còn hạng nông dân ngoài Bắc thì khờ khạo, ngớ ngẩn so với nông dân trong này không khác gì một người ở rừng núi với một người ở tỉnh. Mấy anh bộ đội bị nhồi sọ, trước 1975 cứ tin rằng miền Nam này nghèo đói không có bát ăn, sau 30-4-75, vô Sài Gòn, loá mắt lên, mới thấy thượng cấp các anh nói láo hết hoặc cũng chẳng biết gì hơn các anh.
Hậu quả của chính sách văn hoá ngu dân, nhồi sọ:
Tóm lại, chính sách là chỉ cho dân được nói theo một chiều, trông thấy một hướng; nên chỉ một số rất ít giữ được tinh thần phê phán, nhưng chẳng thi thố được gì, sống nghèo khổ, bất mãn.
Y tế
Dân trong ấp, xã bị bệnh thì lại họ (nhân viên y tế nông thôn) trước, họ không trị được thì đưa ngay lên quận; quận có bác sĩ đa khoa, trị không được thì đưa ra tỉnh; tỉnh có bác sĩ chuyên khoa, đủ dụng cụ, đủ thuốc… Lần lần nhân viên y tế nông thôn vừa làm việc vừa học thêm, có thể lãnh trách nhiệm quan trọng hơn, đưa lên giúp việc ở quận. Chính sách đó rất họp lí và chính quyền mình cũng đã áp dụng nó. Đó là một điểm tấn bộ.
Trình độ nhân viên y tế:
Nhưng vì chiến tranh, nhân viên y tế các cấp của mình da số ít được học, nên chúng ta thấy những y sĩ (y sĩ Bắc có quyền ra toa, nhưng kém bác sĩ một bực), học chỉ tới lớp năm (hết cấp I), chỉ biết dăm chục tên thuốc, không biết đo huyết áp, không biết thế nào là đau mắt hột… chỉ đáng làm một nhân viên y tế nông thôn thôi. Còn bác sĩ được đào tạo ở Bắc thì xét chung, sự hiểu biết cũng kém xa bác sĩ đào tạo ở Nam… Nhân viên y tế nông thôn cũng thiếu, tinh thần trách nhiệm rất thấp: một huyện nọ người ta tiêm thuốc ngừa dịch tả cho ba người lớn và chín trẻ em thì tám trẻ chết.
Tình trạng của nền y tế lúc đó:
Tệ nhất là nạn thiếu thuốc, thiếu cả thuốc đỏ, thuốc tím, do đó sinh ra nạn ăn cắp thuốc, ra toa cho người không có bệnh để họ bán thuốc chợ đen.
Nhưng:
Cũng may mà có hằng trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gửi thuốc về giúp thân nhân, nếu không sức khoẻ của dân sa sút không biết tới đâu.
Vậy mà những kiều bào đó, lúc đó và ngay cả gần sau này, đều bị chửi là trốn nước cầu vinh, từ bỏ quê hương, không chịu ở lại cùng khổ với nhân dân để kiến thiết đất nước!
Tệ nhất là nạn thiếu vệ sinh… từ cơ quan tới đường sá, tư gia, đâu đâu cũng dơ dáy… Nhiều cơ quan nuôi gà, heo ngay trong phòng của họ, và từ trên lầu thượng họ trút nươc dơ xuống đường. Phòng bệnh nhân trong các bệnh viện hôi hám không chịu nổi; phải bịt mũi khi đi tới gần cầu tiêu… người ta phóng uế đầy đường.
Một hí kịch của nhà nước:
Gần cuối kế hoạch năm năm đầu tiên (1976-1980), người ta làm một “chiến dịch” vệ sinh để “dứt điểm” và người ta lựa ngay khu sạch sẽ nhất trong thị xã làm “thí điểm”, phái một nhóm người đi xịt thuốc DDT cho từng nhà; thuốc đã pha loãng nhiều rồi mà lại chỉ xịt vài phòng tối, vài bụi cây thôi. Không cần xem xét chỗ chứa rác, cầu tiêu. Thế là xong chiến dịch, có thể báo cáo lên trung ương là đã dứt điểm.
Xem xong thì ông phải lên tiếng than:
Chính sách, đường lối tuy đúng mà thiếu người, thiếu phương tiện, thiếu tinh thần thì cũng hoá dở.
Chính sách, đường lối lúc ấy không biết có đúng hay không, nhưng chính sách, đường lối y tế bây giờ là lập lòe đánh lận con đen, dịch tả đang lan tràn thì nói trại đi là dịch “tiêu chảy cấp”.
Tư pháp
Tình trạng sinh viên miền Nam sau 1975:
Từ năm 1975, trường luật bị bãi bỏ. Sinh viên luật có thể xin chuyển qua ngành kinh tế, ra làm các ngân hàng. Nhưng đa số bỏ học, làm phu khuân vác, đạp xích lô… Đó là chuyện 1975. Nay thì thanh niên trí thức làm đủ các việc lao động rồi, bổ củi mướn, chở cát, vác gạo…, không ai ngạc nhiên, mà cũng không ai thương hại cho họ nữa, họ dễ dàng kiếm được vài ba chục đồng một ngày mà lại tự do, chứ không làm thư kí ngân hàng 40 đồng một tháng thì sống sao nổi. Vả lại lao động là vinh quang mà. Nữ sinh viên thì bán thuốc lá rời hoặc quần áo cũ ở lề đường.
Tình hình ngành tư pháp sau năm 1975:
Trong Nam trước năm 1975 chưa có bộ luật mới, tạm dùng bộ luật cũ. Còn ở Bắc bỏ luật cũ mà không có luật mới (nghe nói năm 1981 người ta mới tính thảo bộ luật mới), không có trường luật thì tôi không hiểu người ta dạy xử án ra sao.
Ông kể một vài thí dụ về những vụ xử sau năm 1975:
Năm 1975 có lần tổ chúng tôi họp để xử một người trong tổ mắc một tội nào đó tôi không nhớ. Ông tổ trưởng đề nghị hai cách trừng trị… Cách nào được nhiều người đồng ý thì theo cách đó… Khi phường có toà án nhân dân rồi (năm 1978?) thì để toà xử. Một “ông toà” là học trò cũ của một bạn tôi. Tôi hỏi cậu ta: “Cháu xử theo luật nào?” Cậu ta cười, đáp: Cháu đặt ra luật để xử - Thực vậy sao? - Dạ, bây giờ ai đặt luật cũng được. Vì có bộ luật nào đâu?
Tuy nhiên:
Cũng có luật sư do chính quyền chỉ định để bênh vực cho bị cáo… Chính phủ bênh vực giai cấp vô sản; hạng bần dân dù bị tội nặng cũng xử nhẹ - trừ tội phản động dĩ nhiên.
Và:
Hiến pháp vẫn trọng quyền tư hữu nhỏ, nhưng đảng còn trọng lập trường giai cấp hơn. Giai cấp được trọng nhất là giai cấp đảng viên, như giai cấp quí tộc đời Chu ba ngàn năm trước… Giai cấp yên thân nhất là giai cấp vô gia cư, vô nghề nghiệp.
Không khác gì chế độ phong kiến hồi xưa! Câu cuối của ông khiến cho ta phải ngừng đọc mà suy nghĩ, nghiền ngẫm thêm một tí…
Ngoại giao
Về ngoại giao nước mình đã đứng hẳn về phe cộng sản. Như vậy các nước tư bản ngại không muốn đầu tư vào Việt Nam mà sự phát triển kinh tế sẽ chậm.
Đó là nguyên nhân khởi thuỷ của màn suy sụp kinh tế trong những năm 1975-1985. Tình hình ngoại giao với mấy nước anh em sát biên giới cũng không khá hơn:
Có người lại bảo tại mình mới thắng được Mĩ, mình đã muốn làm chủ cả bán đảo Đông Dương… Khi Miên, Việt hục hặc với nhau ở biên giới (nghe nói từ đầu năm 1976?) thì tôi đã ngạc nhiên; rồi đầu năm 1979, Trung Hoa đem quân tàn phá mấy tỉnh cực bắc của mình thì ai cũng chán nản, kể cả một số bạn của tôi ở Bắc. Thế này thì tình anh em trong thế giới cộng sản cũng chẳng đẹp gì hơn tình giữa các nước tư bản với nhau ư?...
Vậy là chiến tranh thứ nhì của dân tộc mình mới chấm dứt được vài năm thì chiến tranh thứ ba đã bắt đầu. Từ cách mạng tháng 8 năm 1954 đến nay đã trên 35 năm rồi, gần như chiến tranh liên miên, bây giờ phải chịu hoạ binh đao mấy chục năm nữa? Khắp thế giới không có dân tộc nào khổ như mình. Công việc kiến thiết quốc gia đành chậm lại nữa, kinh tế sẽ xuống dốc nữa.
Cũng may Đảng ta đã “sáng suốt” dâng đất, nhường biển cho Trung Hoa nên sau đó chúng mới để đảng ta yên mà thực hiện chính sách “đổi mới” hầu củng cố địa vị độc tôn, nắm đầu thắt cổ nhân dân cho tới bây giờ. Nhưng sau đó thì hậu quả lại khôn lường, lúc biết ra thì lòng dân sôi sục, thanh niên sinh viên học sinh tự phát biểu tình đòi chủ quyền tại Hoàng Sa - Trường Sa thì bị ngăn cấm, bắt bớ, đàn áp. Đảng chỉ sợ đàn anh phật lòng mà không coi trọng đến tình cảnh nhân dân uất ức trước nỗi nhục mất đất, trước nỗi đau bị cướp đi tài sản thiêng liêng của tổ tiên để lại.
Tôn giáo
Ông viết rất ít về phần này. Tôi xin ghi hết cả ra đây:
Về tôn giáo, chính sách của chính phủ là tôn trọng tự do tín ngưỡng, miễn là các giáo phái yên ổn tụng niệm.
Mấy năm đầu có vài sự bất hoà, xung đột nhỏ, dẹp được ngay (bắt một số tu sĩ Công giáo và Phật giáo), và hai ba năm nay chính quyền trả lại chùa chiền cho giáo hội, không dùng làm nơi hội họp nữa; ở vài nơi tín đồ tới chùa khá đông, rất ít đàn ông. Nhiều nhà tu hành hoàn tục để mưu sinh. Cũng có một số vượt biên. Không còn hạng khất sĩ nữa, họ tự giải tán, mỗi người đi mỗi nơi để kiếm ăn.
Có thể nói chính sách của mình cởi mở hơn Trung Hoa.
Đảng viên không được theo tôn giáo, cũng không được cúng tổ tiên, nhưng được phép “tưởng niệm” (sic) mà không đốt nhang, không vái, ai muốn làm giỗ ông bà thì phải đóng cửa làm lén.
Bây giờ thì ta đã biết rồi: linh mục thì bị bỏ tù, hoà thượng thì bị theo dõi. Phật giáo thì bị chia làm hai, phe không nghe lời của đảng thì bị cấm hoạt động. Công giáo thì bị đặt điều bởi chủ tịch nhà nước qua báo chí của đảng, bằng cách đút vào miệng chủ tịch nhà nước những câu tuyên bố láo khoét.
Chương XXXIII - Kết quả sau 5 năm
Thất bại trong hoà bình
Đây là chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam áp dụng với dân chúng miền Nam sau năm 1975:
Muốn kiến thiết thì trước hết phải san phẳng chế độ cũ cái đã, không để lại một dấu vết nào cả. Phải đuổi hết các nhân viên cũ, để anh em cách mạng chia nhau tất cả các chức vụ lớn nhỏ. Phải diệt bọn tư bản, chiếm nhà cửa, tài sản như núi của họ, chia nhau mỗi người một chút. “Đó là quyền của mình mà!”
Bây giờ 5 năm sau ngày 30-4-75, hết kế hoạch ngũ niên đầu tiên rồi, chúng ta mới thấy cơ hồ chẳng tiến bộ về một phương diện nào hết mà còn thụt lùi nữa, và ai lạc quan tới mấy cũng phải nhận chúng ta đã bỏ phí 5 năm, và không biết phải mấy năm nữa mới bắt lại được thời gian đã mất đó. Trong khi ấy thì thế giới cứ vùn vụt tiến tới.
Ông đưa ra bốn cái thất bại của nhà nước đương thời cùng những lí do của nó. Cái thất bại thứ nhất:
Thất bại lớn nhất, theo tôi là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hoà bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối năm 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc…
Nguyên nhân chính theo tôi là người miền Bắc vơ đũa cả nắm, coi người Nam là “nguỵ” hết, truỵ lạc, bị nhiễm độc nặng của Mĩ. Ngay hạng trí thức miền Bắc như ông Đào Duy Anh cũng có thành kiến là dân Sài Gòn hư hỏng quá rồi. Họ chỉ nhìn bề ngoài… Bọn thanh niên hư hỏng ở Sài Gòn mới có nhiều, mà tỉ số không cao so với những thanh niên đứng đắn.
Sự khinh rẻ giữa Bắc - Nam:
Người Bắc coi người Nam là nguỵ, đối xử người Nam như những thực dân da trắng đối với dân “bản xứ”, tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: “Tôi là kháng chiến, anh là nguỵ thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa”. Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ Chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hoá, kĩ thuật - điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học – thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẩy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là nguỵ nữa, vì nguỵ có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú… Thì ra: “Nhìn xa ngỡ tượng tô vàng…”
Và trong chăn mới biết có rận:
Ngay giữa các đồng chí cũng không có tinh thần đoàn kết…Chính vì thiếu đoàn kết nên trong cuộc hội họp nào người ta cũng hô hào “Đoàn kết, đại đoàn kết”. Còn ở trong phòng họp thì ai cũng hoan hô tinh thần đoàn kết, ra khỏi phòng rồi thì hết đoàn kết. Người ta chỉ đoàn kết với nhau vì quyền lợi thôi; do đó mà có tinh thần bè phái, gia đình trị, và miền Bắc có câu này: nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:47:42 GMT 9
Cái thất bại thứ nhì:
Điểm thứ nhì làm cho chúng ta thất vọng là xã hội còn bất công hơn hồi trước nhiều.
Sự bất công (cũng như tham nhũng) xẩy ra đầy rẫy trong xã hội, suốt cả chiều ngang lẫn chiều dọc, điển hình là:
Có người nói một số “ông lớn” đi đâu cũng có người hầu xách bình nước sâm Cao Li để ông lớn uống thay trà; một ông nọ luôn luôn có một bác sĩ ở bên và một thiếu nữ quạt hầu vì ông không chịu được quạt máy. Tôi không biết những tin đó đúng hay không, chỉ biết những tin đó do “anh em cách mạng” đưa ra cả...
Sài Gòn đưọc giải phóng vài năm thì ta thấy xuất hiện ngay một hạng giàu sang mới nổi, thay thế bọn giàu sang thời Thiệu,, và cũng thích những xa xí phẩm (áo hàng thêu, hột xoàn, máy điều hoà không khí v.v…) của thời Thiệu. Tiền đâu mà họ mua những thứ đó nhỉ?
Sự bất công chướng nhất, tàn nhẫn nhất là lương công nhân viên từ năm 1975 cứ đứng yên trong khi sự phân phối nhu yếu phẩm giảm đi gần hết, chỉ còn gạo, bo bo là tạm đủ, nhất là trong khi mãi lực của đồng bạc năm 1980 chỉ còn 1/10 năm 1975; thành thử lương một công nhân viên chỉ đủ để mua củi chụm, lương một bác sĩ mới ra trường chỉ đủ để mua rau muống ăn. Khắp thế giới không đâu có chế độ lương bổng như vậy. Người nào cũng phải bán đồ đi mà xài, nhờ cha mẹ giúp đỡ, nếu không thì phảo xoay xở mọi cách, làm sao sống được thì làm, chính phủ không biết tới. Một cán bộ ở Hà Nội đã phàn nàn: “Người ta có rất nhiều quyền hành mà không có một chút tinh thần trách nhiệm nào cả. Thật lạ lùng!”
Cái thất bại thứ ba:
Không ai có trách nhiệm mà tinh thần bè phái quá nặng nên không có kỉ luật, dưới không tuân trên, loạn.
Nguyên nhân là cán nặng hơn gáo, dưới chẳng nghe trên, vì:
… mỗi tỉnh là một tiểu quốc…
Và:
Vì mất kỉ luật cho nên thanh niên mới trốn nghĩa vụ quân sự… Tinh thần vô kỉ luật đó, không biết một phần có phải do chính sách giáo dục trẻ em không… trẻ em càng được thể làm biếng, sức học rất kém, mà tính ngỗ nghịch (bóp vú cô giáo như trên đã nói) thì quá sức tưởng tượng. Một cán bộ già ở Bắc vô nhận rằng trẻ em trong này ngoan ngoãn, lễ phép. Nhưng tôi sợ rằng ít năm nữa, chúng đuổi kịp bạn chúng ở Bắc mất.
Cái thất bại thứ tư:
Sự thất bại hiển nhiên nhất của chế độ là sự suy sụp của kinh tế mà tôi đã trình bày sơ lược trên.
Từ ngày 30-4-75, do những đồng bào ở Bắc vào, chúng ta ở Nam mới lần lần biết cảnh điêu đứng của dân tình ngoài đó sau hai chục năm sống dưới chế độ mới. Từ trên xuống dưới ai cũng phải ăn độn có khi tới 60%-70% (tháng 8-1980, một cán bộ giáo dục ở Hà Nội vào bào tôi bây giờ họ phải ăn độn 90%, cực khổ hơn những năm 1973-1974 nhiều lắm, mà tình trạng đó còn kéo dài lâu. Thân phận không bằng con heo ở trong Nam); có hồi gạo quí tới nỗi người ta cất vào trong những cái thố, cái liễn, trân trọng như nhân sâm, chỉ khi nào đau ốm mới lấy ra một nhúm để nấu cháo; ngày tết mà có đủ gạo nấu cơm cúng ông bà là mừng lắm; khi nào được ăn một bữa cơm không độn với nước mắm thôi thì coi như được dự một bữa tiệc. Nước mắm rất hiếm, có người ở Nghệ An hay Hà Tĩnh mấy năm không có nước mắm ăn, gặp người trong Nam ra đem theo nước mắm, xin một vài muỗng rồi nuốt ực ngay hết, không đợi đem về nhà. Bát ăn mỗi người mỗi năm chỉ được một cái, hễ vỡ thì phải ăn bằng sọ dừa. Vài mỗi năm chỉ được phát một hai thước đủ để vá áo (ở miền Nam năm 1980, có nơi mội người chỉ được 6 tấc). Nhiều người vào Sài Gòn thăm bà con, khi ra vơ vét đủ thứ, từ cây đinh, khúc dây chì, lon sữa bò, ve chai…đem ra, vì ở ngoài đó thường cần dùng tới mà không kiếm đâu ra. Họ cho miền Nam này là thiên đường.
Nhưng một người Ba Lan ở trong Uỷ ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bào chỉ trong 5 năm miền Nam sẽ “đuổi kịp miền Bắc”, nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quần áo… về gíup bà con ở đây thì chúng ta ngày nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi.
Dân miền Nam từ xưa chưa bao giờ biết đói, phải ăn độn thì năm 1979 thì đã phải ăn độn 70-80%, có những gia đình phải ăn bữa cơm bữa cháo, có cô giáo và học sinh đói quá, tới lớp té xỉu.
Nhà nào cũng bán đồ cũ đi để ăn; nhiều giáo viên nhà đã trống rỗng, không còn bàn ghế nữa, ăn ngủ trên sàn. Ai cũng chỉ lo sao có cái gì nuốt cho đầy bao tử, chứ không dám nghĩ tới miếng ngon. Tết Canh Thân vừa rồi, ở Long Xuyên, nhà một giáo viên hồi hưu, trên bàn thờ ông bà chỉ bày một đĩa có mấy chiếc bánh phồng và bánh gai, không có một đòn bánh tét, một quả dưa hấu.
Chắc chắn ông thể ngờ rằng, cho đến bây giờ, năm 2007, dân chúng nước Việt Nam vẫn sống trong cảnh đói nghèo và “Việt Nam đứng thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo mà hằng năm vẫn còn hàng trăm nghìn đồng bào chỉ được ăn cơm khi ngày lễ, ngày tết, khi bị ốm” như lời một ông Bộ trưởng bộ Nông nghiệp đã tuyên bố.
Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài Gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ… để bán cho ‘ve chai’. Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá.
Ở Bắc tình hình hiện nay điêu đứng hơn những năm kháng Mĩ. Nghe nói ngoài đó đã xuất hiện câu ca dao:
Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh, Ba anh có biết dân tình hay không? Rao muống nửa bó một đồng Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân.
Ở Nam có nơi hai tháng nhân viên chưa được lãnh lương, chắc nhiều gia đình không đủ tiền mua rau muống cho con nữa. Một bạn tôi đã phải ăn nước mắm kho khô.
Không có tiền mua rau thì làm gì có tiền mua thịt. Muốn lâu lâu có thịt thì phải nuôi heo, gà, cho nên nhiều cơ quan ngay khi mới thành lập đã nghĩ ngay đến việc hùn tiền (hay lấy trong quĩ?) mua heo con, phân công nhau nuôi tại khu ở tập thể, như vậy đến lễ, tết mới có thịt liên hoan. Người ta thèm thịt quá, cho nên liên hoan lu bù, bất kì một dịp gì cũng liên hoan được… mỗi năm liên hoan cả chục lần là ít… Và khi ngồi vào bàn tiệc thì chẳng ai mời ai, đợi ai, mạnh ai nấy gắp, ăn thật mau (tới nỗi có người bảo cứ nuốt trước rồi sẽ nhai sau!), tệ gấp 10 thói ăn uống ở đình làng mà Ngô tất Tố đã mạt sát trong cuốn Việc làng.
Nghèo thì sinh ra ở bẩn. Ngay trong khu tập thể một trường đại học Hà Nội, phòng một giáo sư ở Pháp về cũng dơ dáy, từ sàn gạch đến tường đều đầy vết bẩn… Dù muốn sống sạch cũng không thể được... Nếu tình trạng không thay đổi thì chỉ mươi năm nữa, toàn dân sẽ quen đi, không thấy gì là bẩn nữa. Hiện nay ở trong Nam đã nhiều nhà để bụi đóng đầy bàn ghế - mà trước kia họ sống rất sạch - mạng nhện giăng đầy trần, còn dân thị xã thì đã quen với cảnh bốn năm người cùi nằm trên đường đưa tới chợ, lăn ở giữa chợ để xin ăn.
Câu “nghèo cho sạch, rách cho thơm” của ông cha, chúng ta không giữ được vì chúng ta nghèo tới mức không thể ở sạch được.
Xã hội sa đoạ
Ông bất mãn với cái xã hội Việt Nam sau năm 1975:
Điều đáng ngại nhất là sa đoạ về tinh thần, tới mất nhân phẩm.
Tham nhũng lúc đó đã là một “quốc nạn”:
Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ tham nhũng, cấu kết với nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén lút. Có giá biểu đàng hoàng…
Nếu một cán bộ nào bị dân tố cáo nhiều quá thì người ta cũng điều tra, đưa cán bộ đó tới một cơ quan khác (có khi còn dễ kiếm ăn hơn cơ quan cũ), đem người khác (cũng tham nhũng nữa) lại thay. Ít tháng sau dân chúng nguôi ngoai rồi, người ta lại đưa kẻ có tội về chỗ cũ. Người ta bên vực nhau (cũng là đảng viên cả mà) vì ăn chịu với nhau rồi. Dân thấy vậy, chán, không phí sức tố cáo nữa. Có người còn bảo: “Chống chúng làm gì? Nên khuyến khích chúng sa đoạ thêm chứ để chúng mau sụp đổ…”
Lớn ăn cắp lớn, nhỏ ăn cắp nhỏ. Ăn cắp nhỏ thì chỉ bị đuổi chớ không bị tội, vì “họ nghèo nên phải ăn cắp”, mà nhốt khám họ thì chỉ tốn gạo nuôi… Ăn cắp lớn, không thể ỉm được thì phải điều tra, bắt giam ít lâu, rồi nhân một lễ lớn nào đó, ân xá; không xin ân xá cho họ được thì đồng đảng tổ chức cho vượt ngục rồi cùng với gia đình vượt biên yên ổn.
Và vô số những tệ nạn khác:
Nạn “phe phẩy” (buôn lậu, làm chợ đen) còn bành trướng hơn nữa… Người ta nói đã có những vụ buôn lậu thuốc phiện; nếu cò thì cũng nhỏ thôi, kém xa thời Mĩ, Thiệu. Nhưng đồ lậu như vải, thuốc thơm, thuốc tây… thì khoảng một năm nay lan tràn thị trường…
Có đồ lậu thì luôn luôn có đồ giả… nhiều nhất là dược phẩm Tây phương, vì thứ này vừa hiếm vừa đắt… Chỉ khổ dân quê…
Nạn cờ bạc không công khai như trước, nhưng nạn “xổ số đuôi” thì công khai rồi…
Nạn cho vay nặng lãi cũng kinh khủng… Bạn hàng ở chợ không chơi hụi tháng như xưa nữa, mà chơi hụi tuần, hụi ngày!
Nạn đĩ điếm đã hết đâu. Ngay cuối năm 1975, một cán bộ cách mạng đã bảo các bạn kháng chiến ở bưng về mắc bệnh hoa liễu hết rồi; một số cán bộ rất nghiêm trang đạo mạo – có kẻ ngoài 70 tuổi - từ Hà Nội vào, năn nỉ các bạn trong Nam chỉ chỗ cho họ hưởng thú mê li một lần cho biết mùi… Họ rất thích sách khiêu dâm…
Và đây là câu kết luận của ông về cái xã hội cộng sản Việt Nam lúc đó, tuy ngắn gọn nhưng chất chứa thật nhiều nỗi chán ngán; theo tôi, nó cũng là câu kết luận chí lí cho toàn cả “Chương XXXI - Kết quả sau 5 năm” này:
Tóm lại bao nhiêu cái xấu xa thời trước vẫn còn đủ mà có phần còn tởm hơn nữa.
Câu này, cho đến nay, đem ra thẩm định cho cái xã hội Việt Nam hiện tại thì vẫn còn đúng.
Con người mất nhân phẩm
Trong một xã hội như vậy, con người dễ mất hết nhân phẩm, hoá ra đê tiện, tham lam, bất lương, nói láo, không còn tình người gì cả.
Năm 1975 đa số các cán bộ, công nhân viên ở Bắc vào thăm gia đình, họ hàng ở trong Nam, còn giữ chút thể diện “cách mạng”, bà con trong này tặng họ gì thì họ nhận, chứ không đòi; về sau họ không giữ kẽ nữa, tặng họ một thì họ xin hai, không tặng họ cũng đòi, khiến một ông bạn tôi bực mình, nhất định đóng cửa không tiếp một người bà con, bạn bè nào ở Bắc vào nữa…
Đa số cán bộ ở Nam đã tư bản hoá rồi, một xã hội chủ nghĩa xã hội mà như vậy thì chủ nghĩa đó chỉ còn cái tên thôi.
Ông quả thật là tiên tri. Cái xã hội chủ nghĩa xã hội của Việt Nam bây giờ chỉ còn là cái tên mà thôi (nói đúng ra là chỉ là một cái bình phong cho chế độ độc tài), và các cán bộ đó đã bị tư bản hoá thành các đại gia, lãnh chúa hết rồi - nhà cao cửa rộng, tiền bạc ê hề,chuyển tiền ra nước ngoài, gửi con ra ngoại quốc “du học”... Mà hình như bây giờ người ta còn bàn tán là đảng cộng sản Việt Nam đang muốn rục rịch đổi tên nữa - chỉ là khoác một cái áo mới trên một con người còm cõi.
Vài trường hợp nhơ nhớp xẩy ra trong ngành viết văn của ông:
Một nhà văn đất Bắc làm cho một tờ báo nọ nhờ một nhà văn trong Nam viết bài, hứa sẽ trả bao nhiêu đó. Viết rồi, đưa họ, họ đăng, nhưng kí tên của họ rồi đưa cho nhà văn trong Nam nửa số tiền nhuận bút thôi, còn họ giữ lại một nửa. Vừa ăn cắp văn, vừa ăn chặn tiền. Chưa bao giờ miền Nam có bọn cầm bút bẩn thỉu như vậy. Một bạn học giả của tôi ở Bắc khuyên tôi đừng giao bản thảo của tôi cho ai hết, không tin ai được cả, họ sẽ đạo văn.
Cái mất tình người:
Sống dưới chế độ cộng sản, con người hoá ra có hai mặt như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia… Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này không chịu làm thứ mật thám chìm đó…
Nạn làm tiền, tống tiền lan tràn khắp các ngành, cả trong ngành cứu nhân độ thế và ngành tống táng.
Ôi chao! Ngành tống táng? Tôi không ghi ra đây một thí dụ của ông về chuyện này. Đại loại là nếu không có đủ tiền đút lót thì việc chôn cất hoặc hoả thiêu người chết sẽ không được làm một cách suôn sẻ. Trong một xã hội mà ngay người đã khuất rồi mà vẫn còn bị làm tiền thì ta không thể tưởng tượng được cái nhân tính thời đó tệ hại ra sao. Nguyên do?
Tất cả chỉ tại cái lệ chính phủ định giá, định lương rẻ quá không cho dân đủ sống, dân phải xoay xở lấy, bóc lột lẫn nhau. Cổ kim chưa một xã hội nào phi lí như vậy. Vì biết mình phi lí nên có nơi chính quyền làm ngơ cho bác sĩ làm ăn, cho phép các giáo viên nguỵ dạy thêm tại nhà.
Nói cho ngay, thời nào trong xã hội cũng có một số người lương thiện. Và ông Phạm Văn Đồng đã nhận rằng thời này hạng đó thiệt thòi nhất. Tôi được biết một hai cán bộ trung cấp liêm khiết, chịu nghèo, nuôi heo thêm, chứ không tham nhũng. Gia đình họ phải ăn rau muống; quần áo thì vá đụp; có thể nói họ nghèo như các nông dân nghèo nhất thời xưa.
Tóm lại sau 5 năm chúng ta không thấy chút tiến bộ nào cả mà chỉ thấy sự chia rẽ trong xã hội, sự tan rã trong gia đình, sự sa đoạ của con người, sự suy sụp của kinh tế.
Một chế độ mà sau hơn 60 năm cầm quyền ở miền Bắc và hơn 30 năm cầm quyền ở miền Nam, léo lái đất nước Việt Nam gần cả ba thế hệ con người mà ta vẫn thấy không khá hơn (nếu không nói là tụt hậu) thì ta phải nghĩ gì về chính sách và tập đoàn cai trị của chế độ đó?
Và theo ông, về cái tương lai của chế độ đó thì:
Ông Hồ Chí Minh có lần nói: “Muốn xây dựng xã hội chủ nghĩa thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Con người vẫn là quan trọng hơn cả. Có chế độ tốt, chính sách tốt mà không có con người tốt thì cũng hỏng hết. Ai cũng phải nhận rằng tinh thần, tư cách đại đa số cán bộ càng ngày càng sa sút, hủ hoá mà xã hội chủ nghĩa mỗi ngày một lùi xa. Ông Hồ đã thấy trước cái mòi suy vi đó khi thốt ra lời trên chăng?
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:48:45 GMT 9
Phong trào vượt biên
Tôi không biết trước giờ giải phóng, từ Bến Hải trở vào, trong số trên 20 triệu dân có bao nhiêu người vội vã di cư để trốn cộng sản… Người nào cũng có tâm trạng não nề: bỏ quê cha đất tổ, bỏ thân thích bạn bè, bỏ cả sản nghiệp… để qua nước người ăn nhờ ở đậu, làm thứ công dân “da màu”, một thứ công dân hạng hai, và bắt đầu xây dựng lại từ đầu; như vậy ai mà vui cho được? Những người đi đó hoặc là quân nhân, công chức trong các chính phủ trước, hoặc đã có thời sống với cộng sản ở Bắc, sợ chế độ ngoài đó, đã di cư một lần nay lại di cư lần thứ hai. Những người ở lại, xét chung, đều sẵn sàng chấp nhận chế độ mới, dù chưa biết rõ nó ra sao; một số đông còn hăng hái tiếp tay với chính quyền mới để xây dựng một xã hội tốt đẹp cho tương lai nữa.
Nhưng chẳng bao lâu nhiều người thất vọng, qua năm 1976, đã có lác đác một số thanh niên vượt biên… Từ năm 1977 người ta dùng đường biển, phong trào vượt biên phát triển rất mạnh tới mức một bà già nông dân miền Tây phải nói: “ Cây cột đèn nếu đi được thì cũng đi”. Dù phải gian lao cực khổ tới mức nào, hễ ra khỏi được nước là sướng rồi, làm mồi cho cá mập vẫn còn hơn ờ lại trong nước mà chết dần chết mòn, người ta nghĩ vậy…
Có ba cách vượt biên. Cách chính thức, sướng nhất là có người thân, cha mẹ, vợ chồng hay con cái ở ngoại quốc xin cho được đoàn tụ gia đình…. Cách bán chính thức, theo nguyên tắc, cho người Việt gốc Hoa, nhưng người gốc Việt mà muốn thành gốc Hoa thì cũng không khó. Có tiền là được hết… Cách thứ ba lá đi chui, nghĩa là đi lậu. Một người đứng ra tổ chức… đút lót cho công an, chính quyền ở làng có bãi biển, đút lút cả cho công an vài nơi chung quanh để người vượt biên khỏi bị xét hỏi, thuyền yên ổn được rời bến ban đêm. Công an những nơi có bãi biển đó nhờ vậy làm giàu rất mau, có kẻ chỉ một hai năm được vài chục lượng vàng và ôm vàng vượt biên. Do đó mà trong dân gian xuất hiện một truyện tiếu lâm dưới đây.
“Môt hôm nọ, người canh Lăng Bác Hồ bỗng thấy xác ướp của bác biến đâu mất, hoảng hốt đi tìm khắp nơi, tìm ở nhà sàn của Bác không thấy, vế quê hương Bác ở Nghệ An cũng không thấy, nghi rằng bác vào chơi thành phố của Bác, liền vào Sài Gòn kiếm, sau cùng một đêm, thấy bác ngồi một mình, rầu rĩ ở bến Sáu Kho, Thành phố Hồ Chí Minh, hỏi bác, sao lại ra ngồi đấy, Bác đáp: “Bác không muốn ở nước này nữa, muốn qua phương Tây đây, mà tụi công an đòi Bác sáu cây, Bác có cây đâu mà nộp cho chúng”.
Thường là thoát được, ít khi gặp tàu tuần; nhưng nhiều khi gặp bão, thuyền chìm, làm mồi cho cá mập’ hoặc gặp bọn cướp biển Thái Lan… Mặc dầu nguy hiểm như vậy, người ta vẫn không sợ, thua keo này bày keo khác. Có người lần thứ tư mới thoát, lại có người lần thứ 10 vẫn chưa thoát, mà sản nghiệp tiêu tán hết, không biết sống bằng gì…
Từ cuối 1979 thêm một cách vượt biên nữa bằng đường bộ, ngã Cao Miên… Cũng nguy hiểm như vượt biển.
Những người bất kể gian lao rời nước, những Việt kiều mà trước đó bị chửi là phản nước và sau đó lại được tung bê là “khúc ruột ngàn dặm”, đã giúp dân miền Nam can qua đời sống khó khăn lúc đó như thế nào:
Người nào vượt biên được một nước nào tiếp thu rồi, được trợ cấp hay kiếm được việc làm rồi, cũng gởi ngay về cho thân nhân một gói thực phẩm, thuốc uống, quần áo… bán được một hai ngàn đồng. Họ làm lụng cực khổ, (rửa chén trong quán ăn…) nhịn hút thuốc để giúp gia đình vì biết rằng người ở lại thiếu thốn gấp mười họ. Chính nhờ họ mà nhiều gia đình miền Nam mới sống nổi, nhờ họ một phần mà dân miền Nam có thuốc tây để uống, có vải may quần áo, không đến nỗi rách rưới quá. Trong hoạn nạn tình cha mẹ, con cái, vợ ơhồng lúc này lại đằm thắm hơn xưa. Cái rủi thành cái may.
Về vật chất họ được đầy đủ, nhưng về tinh thần họ rất đau khổ. Nhờ bà con họ hàng, nhớ quê hương xứ sở, nhớ day dứt, gia diết. Họ khóc thương thân phận anh hay em ở trong các trại cải tạo mỗi bữa chỉ được nắm bo bo; thân phận cha mẹ chú bác phải đẩy chiếc xe bán củi, bán chuối dưới mưa, dưới nắng, đau ốm không có thuốc uống; thân phận con cháu quanh năm không được một li sữa, một cục đường… Có những thiếu phụ thay đổi hẳn tính tình: ở nước nhà thì thích trang điểm, dạo phố, họp bạn; qua nước người thì suốt ngày ở trong phòng lau chùi, quét tước, nấu ăn cho chồng con, không chịu ra đường, chồng con lôi kéo cũng không đi; một ngày kia họ sẽ loạn tinh thần mất. Khổ nhất là những bà 50-60 tuổi, không biết ngoại ngữ, không sao thích ứng được với đời sống Tây phương, mới xa quê được một năm đã đòi về, ngày nào cũng ngóng tin nhà, và được thư thì đọc đi đọc lại tới thuộc lòng. Ngày đêm họ quay băng “Sài Gòn ơi, li biệt” của Thanh Thuý, băng “Ta chẳng lẽ suốt đời lưu vong” của Phạm Duy mà khóc mướt. Giọng ảo não không kém bài hát dân tộc Do thái khi bị đày ở Babylon hồi xưa…
Thân phận của những người miền Nam ở lại:
Trong số những người ở lại, đáng thương nhất là những cặp vợ chồng già không có con cái, bị chính phủ chặn lương hưu trí, ráng sống lây lất vài năm bán hết đồ đạc để ăn rồi tự tử.
Rồi tới những người sản nghiệp tiêu tan vì đi kinh tế mới hoặc vì vượt biên mấy lần mà thất bại, sống cầu bơ cầu bất ở vỉa hè các thành phố lớn nhỏ như bọn ăn mày.
Rồi những cô giáo, cô kí chồng đi cải tạo 5 năm đằng đẵng, ở nhà xoay xở đủ cách, làm việc đêm ngày, nhịn ăn nhịn mặc để nuôi bốn năm đứa con, vài tháng lại tiếp tế cho chồng một lần. Họ vì hoàn cảnh mà hoá đảm đang, tư cách lại cao lên, không chịu nhận sự giúp đỡ của họ hàng, bạn bè.
Rồi những thiếu nữ học hết đại học Sư phạm hay Luật mà không muốn làm công nhân viên vì lương thấp quá, kiếm một cái sạp nhỏ nửa thước vuông bán thuốc rời hay quần áo cũ, thuốc tây ở lề đường, vất vả nhưng kiếm được 10-15 đồng mỗi ngày, đủ cơm cháo cho cha mẹ và em. Họ lễ phép, chăm chỉ, dễ thương.
Tất cả những người đó và còn nhiều hạng người khác nữa đáng tự hào là nguỵ. Nguỵ mà như vậy còn đáng quí gấp trăm bọn tự xưng là “cách mạng” mà tư cách đê tiện.
Cái chữ “nguỵ” ngày nay đã ít dùng rồi. Những người chính thức là nguỵ thì đã hoà đồng với đời sống mới, không còn mang tiếng nữa. Chữ “nguỵ” bây giờ được thay thế bằng chữ “phản động”, được áp dụng cho tất cả những ai có tư tưởng, hành động không có lợi cho nhà nước cộng sản Việt Nam. Còn tư cách đê tiện của “bọn tự xưng là cách mạng” thì ngày nay vẫn còn, mà lại tệ hại hơn trước nhiều; nó được thể hiện qua những vụ tham nhũng, cướp bóc của dân, và mua bán chức quyền với nhau. Chính bọn này, với tư cách đê tiện cố hữu của chúng, không nhiều thì ít, là cha đẻ của bọn “tư bản đỏ” và bọn “thẻ-đỏ-tim-đen” bây giờ.
Ông kết thúc đoạn này bằng một câu rất cảm khái:
Có ai chép Ba đào kí cho thời đại này không nhỉ? Trong tập kí đó dày ít gì cũng vài ngàn trang, truyện buồn rất nhiều mà truyện vui cũng không thiếu, truyện nào cũng cảm động, đánh dấu một thời và làm bài học cho đời sau được.
Người ta đã nhận định sai
Tôi xin ghi lại đây gần như trọn vẹn đoạn này của ông:
Vậy dù có lạc quan tới mấy cũng phải nhận rằng công việc xã hội hoá miền Nam này tới nay đã thất bại. Chỉ mới dựng được cái sườn thôi mà đã có nhiều dấu hiệu tỏ rằng sườn đó đã nghiêng ngả: rất nhiều cán bộ đã hủ hoá, hùng hục làm giàu bằng mọi cách, thành một bọn tư sản rồi, tinh thần quân đội đã sa sút, hợp tác xã nông nghiệp đã thất bại, chính sách kinh tế mới phải bãi bỏ; một vài địa phương đã rụt rè lập lại chế độ tư bản…
Ngành nào cũng kẹt, kẹt cứng, chính quyền không biết xoay xở ra sao, vá chỗ này thì toạc chỗ khác, càng dùng những biện pháp nhất thời thì càng lúng túng. Ngay các các bộ trung kiên cũng phải nhận rằng tình hình mấy năm sắp tới còn nguy kịch hơn… Thật bi đát.
Chỉ tại người ta đã tính lầm. Thắng được Mĩ rồi, người ta tin rằng sẽ làm bá chủ bán đảo Đông dương, không nhận định được đúng tình hình thế giới.
Người ta nhận định sai tài năng, đạo đức, tinh thần hi sinh của cán bộ, tưởng rằng cao lắm và có thể dễ dành kiến thiết miền Nam thành một xã hội xã hội chủ nghĩa, không ngờ cán bộ tuy rất đông mà rất kém cỏi về mọi mặt, mà tối đại đa số không ưa xã hội chủ nghĩa, thích đời sống miền Nam hơn.
Người ta nhận định sai về tình trạng miền Nam. Trước ngày 30-4-75, miền Nam rất chia rẽ: nhiều giáo phái, đảng phái nhưng tiến bộ hơn miền Bắc nhiều về mức sống, kĩ thuật, nghệ thuật, văn hoá; nhờ ngôn luận được tương đối tự do, nhờ được đọc sách báo ngoại quốc, biết tin tức thế giới, du lịch ngoại quốc, tiếp xúc với người ngoại quốc…; cả về đạo đức nữa: vì đủ ăn, người ta ít thèm khát mọi thứ, ít gian tham (tôi nói số đông), ít chịu làm cái việc bỉ ổi là tố cáo người hàng xóm [Một thím làm tổ phó lo về đời sống, được công an phường gọi đi học tập. Mới hết buổi đầu, thấy công an chỉ dạy cách dò xét, tố cáo đồng bào (ăn uống ra sao, chỉ trích chính phủ không, khách khứa là hạng người nào…), thím ta xin thôi liền, về nói với bạn: “Tôi không làm công việc thất đức đó được”. Lớp học đó bỏ luôn] chứ đừng nói người thân, nói chung là không có hành động nhơ nhớp như nhiều cán bộ ở Bắc tôi đã kể ở trên. Tôi còn nhận thấy vì người Nam bị coi là nguỵ hết, nên càng đoàn kết với nhau, thương nhau: cùng là nguỵ với nhau mà!
Như vậy mà đưa cán bộ Bắc vào cai trị họ, dạy chính trị họ thì làm sao không thất bại? Bọn đó quê mùa, ngu dốt, nghèo khổ, vụng về, tự cao tự đại, bị người Nam khinh ra mặt, mỉa mai; lớp dạy chính trị cho dân chúng mỗi ngày một vắng, hiện nay cả năm không họp một lần.
Một thất bại nặng nề của cách giáo hoá đó là báo Nhân dân không ai đọc, người ta mua về để bán “ve chai”, ngay cả bộ Lénine toàn tập cũng vậy.
Sau 5 năm, cả triệu cán bộ và thường dân Bắc vào Nam mà Bắc Nam miễn cưỡng sống với nhau, lơ là vói nhau, Nam coi Bắc là bọn thực dân, tự coi mình là bị trị. Làm gì có sự hợp tác?
Chương XXXII – Ta phải biết sống theo ta
Một cuộc đàm thoại – Bài học của cổ nhân
Phần này ông kể lại một cuộc nói chuyện với một bác sĩ trong nhóm cán bộ trẻ miền Nam (trong đó có nhiều người nằm vùng trước năm 1975), hỏi ông các tư tưởng của những triết gia Trung Hoa có thể còn được áp dụng vào thực trạng Việt Nam không. Ông đáp: “Vẫn còn nhiều điều dùng được”, rồi ông đưa ra những thí dụ sau, mục đích là để “ôn cố nhi tri tân”:
Khổng Tử trong thiên “Tiên tiến”, bài 24 (Luận ngữ) đã cảnh cáo chúng ta rồi. Tử Lộ, học trò của ông, làm gia thần họ Quí, tiến cử Tể Cao làm quan tể đất Phí. Khổng Tử trách: “Như vậy là làm hại con người ta” (vì Tử Cao chưa được học bao nhiêu). Tử Lộ đáp: “Làm chức tể thì có nhân dân để trị, có thần xã tắc (đất đai, mùa màng) để thờ (thế là học), hà tất phải học sách rồi mới gọi là có học?” Khổng Tử mắng: “Vì thế mà ta ghét những lời lợi khẩu” (cưỡng lí để tự biện hộ).
Ý của ông là:
… mấy năm nay đại đa số các thí thức Bắc, Nam, già trẻ mà tôi được gặp thường phàn nàn về chính sách “hồng hơn chuyên” của chính phủ. Đảng coi trọng những cán bộ có tư tưởng cách mạng, có công lao với cách mạng hơn những chuyên viên, dù những cán bộ đó không có học thì cũng chỉ huy những chuyên viên hiểu biết về ngành gấp mười họ. Ta thấy nhiều trường hợp ông chánh chỉ có tiểu học ra lệnh cho ông phó có bằng phó tiến sĩ, xen vào công việc chuyên môn của ông phó, nhất là lại có thái độ kì thị ông phó, vì biết rằng ông phó giỏi hơn mình, rồi do tự ti mặc cảm mà sinh ra hống hách, ngăn cản công việc của ông phó. Chính sách đó có hại cho việc kiến thiết; chính vì nó mà hầu hết các chuyên viên ở Nam rất có khả năng, rất có nhiệt tâm phục vụ mà không được chính quyền dùng; một số ít được dùng thì lại bị chèn ép…
Một bài học tương tự trong Kinh Dịch:
Kinh Dịch, quẻ Sư, hào 6 cũng đã khuyên ta khi chiến thắng rồi, luận công mà khen thưởng thì kẻ ít học, dân thường tuy có tài chiến đấu, lập được công, cũng chỉ nên thưởng tiền bạc thôi, không nên phong đất cho để cai trị, vì công việc kiến thiết quốc gia phải là người có tài, có đức mới gánh nổi… Ở nước ta ngày nay, chính quyền có cương quyết thay hết các ông hồng mà không chuyên đi thì lấy người đâu để làm việc, và cái phe hồng mà không chuyên đó, bị mất quyền lợi, tất cấu kết nhau, đâu để yên cho chính quyền. Cái hại đó, tôi e rằng một thế hệ nữa chưa hết được.
À, cái quẻ này thật là “phản động”. Nếu cứ nghe theo đó thì quyền lợi của đảng viên và tương lai đảng công sản sẽ tiêu ma đi mất làm sao? Đâu còn là cá mè một lứa, cùng chia nhau hưởng quyền, hưởng lợi nữa? Đúng là tự sát! Dĩ nhiên là cộng sản vô thần đời nào tin vào cái quẻ vớ vẩn như vậy. Đã thế, sau khi thống nhất Nam, Bắc, đảng còn tương thêm Điều 4 vào Hiến pháp Việt Nam, áp đặt chế độ độc quyền cai trị trên toàn nước. Cho vững.
Một thí dụ nữa cũng trong Kinh Dịch:
Chính vì không phân biệt chính sách thời bình và thời chiến mà sau khi hoà bình trở lại - ở Bắc năm 1954, ở Nam năm 1975 - Đảng cho địa phương tự trị như trong thời chiến, và lại dùng những người thời chiến để cai trị trong thời bình; do đó gây nhiều cái tệ mà tệ lớn nhất là cán nặng hơn gáo: mỗi tỉnh là một tiểu quốc, bất chấp cả trung ương… Như vậy là tiểu nhân tha hồ hoành hành, muốn tịch thu gì của hành khách cũng được, không ai răn đe họ khi họ mới mắc tội nhỏ, không ai chế ngự họ khi họ mới ló mòi, lâu rồi thành loạn. Tệ đó, quẻ Phệ hạp và quẻ Cấu trong Kinh Dịch đều đã cảnh cáo nhà cầm quyền từ ba ngàn năm trước rồi.
Bài học trách nhiệm trong việc trị dân:
Trong việc trị dân, người nào có quyền vị thì phải có trách nhiệm. Qui tắc đó rất sơ đẳng, bọn Pháp gia – như Thương Ưởng, Hàn Phi - đều nhắc tới nhiều lần. Mà đạo Nho thời nào cũng chủ trương rằng dân mắc tội là lỗi ở tại người trên; người trên mắc tội thì chỉ người trên chịu, dân không liên can gì tới. Trách nhiệm của người cai trị thật minh bạch; muốn vậy quyền của người trên cũng phải rõ rệt, chỉ người nào có trách nhiệm mới có quyền quyết đoán, mưu việc. Thiên “Thái Bá”, bài 14 (Luận ngữ) Khổng Tử bảo: “Không ở chức vị nào thì đừng mưu tính việc của chức vị đó”, như vậy để định rõ quyền hạn, trách nhiệm của mỗi người.
Chúng ta ngày nay theo chính sách “cai trị tập thể”, mỗi khi quyết định một việc gì, bất kì lớn nhỏ, cũng tập họp cả mấy chục đồng chí của nhiều cơ quan để thảo luận ở hội trường của tỉnh, huyện, hội trường nào cũng đồ sộ, xây cất rất tốn kém. Mỗi cơ quan lại có một hội trường riêng, nhỏ, họp hằng tuần về những vấn đề nội bộ. Quyết định tập thể có điểm tốt là biết được ý kiến nhiều người, tránh nạn độc đoán, nhưng hộp họp nhiều quá, tới nỗi mỗi tuần, nhân viên phải đi họp ba bốn buổi tối, lần nào cũng kéo dài hai ba giờ mà chẳng giải quyết được gì – vì càng nhiều ý kiến thì càng khó quyết định – thì mất thì giờ vô ích, ai cũng ngán. Tai hại nhất là công việc bê trễ, không ai dám lãnh trách nhiệm, trút trách nhiện cả cho tập đoàn, mà tập đoàn làm chủ tức là không ai làm chủ hết.
Một thí dụ về thắng bất tự cao:
Chương 30-31 Đạo đức kinh, Lão Tử khuyên kẻ dùng binh khi đạt được mục đích thi thôi, đừng ỷ mạnh, tự phụ, khoe công; thắng cũng không cho là hay, nếu cho là hay thì tức là thích giết người. Tổ tiên ta đã theo đúng lời đó. Lê Lợi sai khi thắng quân Minh, Quang Trung sau khi thắng quân Thanh, đều khiêm nhu, mềm dẻo với Trung Hoa.
Mustapha Kémal sau khi thắng quân Hi Lạp ở Dumulu Punar, bắt được hai tướng Hi Lạp là Tricopis và Dionys, tiếp đãi họ rất nhã nhặn trong lều của ông, mời họ giải khát rồi cùng nhau phê bình chiến lược của hai bên, làm cho họ phải khâm phục. Chính phủ mình có lẽ không ai nhớ bài học của Lê Lợi và Quang Trung, và tướng Trần Văn Trà chắc chắn không được đọc tiểu sử của Mustapha Kémal. Giá tướng Trà khi vào Dinh Độc Lập cũng nhã nhặn với tướng Dương Văn Minh như Kémal…
Và cái nhân đức trong việc cai trị dân:
Kinh Dịch, quẻ Giải khuyên khi loạn đã giải được rồi, chiến tranh đã hết, dân chỉ mong an cư lạc nghiệp, người trị dân nên có chính sách khoan đại, giản dị; tuy phải trừ những cái tệ cũ, nhưng chỉ nên sửa cho sự bình trị được lâu dài mà thôi, không nên xáo trộn nhiều quá, nhất là nên làm cho mau, đừng đa sự.
Giá chính phủ biết khoan dung lại biết giản dị, không cải cách gấp mà tiến hàng từ từ thì có thể 90% miền Nam đoàn kết với chính quyền mà sự cải cách tiến được đều đều, vững, không phải sửa sai, thụt lùi mấy lần, mà cũng không có sự tan rã, hỗn loạn trong xã hội như hiện nay.
Quẻ Cách lại khuyên thay cũ đổi mới là một việc khó, ngược với thói thủ cựu của con người, cho nên muốn có kết quả thì sự cải cách phải hợp thời, phải sáng suốt, soi xét rạch ròi, thận trọng, tính toán kĩ, làm sao thoả thuận được với lòng người, đừng nóng nẩy; và cải cách tới một mức nào đó thì nên ngừng lại, đừng cầu được hoàn toàn thì mói khỏi thất bại.
Mấy ngày đầu tháng 5-1975, người Nam nào cũng phục tinh thần kỉ luật của quân đội giải phóng và chính sách khoan hồng của chính phủ. Tuyệt nhiên không có cuộc “tắm máu” hồi tết Mậu Thân ở Huế như nhiều người lo ngại, mà cũng không có vụ trả thù cá nhân nào. Nhưng chẳng bao lâu, thái độ khinh bỉ, căm thù lần lần xuất hiện. Người ta coi đồng bào trong này đều là nguỵ hết, người ta mưu mô tước đoạt tài sản của nguỵ, bắt nguỵ đi kinh tế mới để cướp nhà của nguỵ. Tại giữa chợ Trương Minh Giảng, một chị cán bộ ở Hà Nội vô, nói với bạn cũng cán bộ ở Bắc vô sau: “Chị đừng lo, tụi nó sẽ bị đuổi đi kinh tế mới hết, lúc đó chúng ta sẽ có nhà rộng để ở”. Tinh thần chia rẽ, thù oán từ đó phát sinh và mỗi ngày hố giữa Nam Bắc mỗi sâu thêm.
Bài học về cải tạo:
Rồi chính sách bắt nguỵ quân, nguỵ quyền đi cải tạo nữa. Mới đầu người ta bảo mỗi người mang theo quần áo, thức ăn, tiền nong đủ cho 15 ngày, nên ai cũng tưởng chỉ độ 15 ngày là về, trong 15 ngày đó chíng quyền sẽ chỉ bảo, dẫn dắt cho hiểu đường lối của chính phủ, lối sống mới và diệt những thói quen tật cũ đi; như vậy là điều rất tốt, vá ai cũng hăng hái xách khăn gói lên đường cải tạo. Hết nửa tháng rồi hai ba tháng, rồi nửa năm vẫn chưa được về, lúc đó người ta mới hiểu rằng phải cải tạo cho tới khi nào thấy cải tạo hoàn toàn thì mới được về. Và khi nào xong thì không biết. Tới nay (1981), đã 6 năm, vẫn còn nhiều người chưa được về. Có thể bị cải tạo 10 năm như ở Nga chăng? Người ta quên bài học của tổ tiên: vua Trần Nhân Tôn sau khi thắng được quân Nguyên, bắt được tráp thư từ vãng lai với giặc của mấy ngàn người, không thèm coi, đốt đi hết, nhờ vậy mà đoàn kết được toàn dân.
Đọc cuốn J’ai choisi la liberté (đã dẫn), nhất là bộ L’archipel du Goulag của Soljenytsine (gồm 4 cuốn, 2 cuốn đầu đã dịch ra tiếng Pháp và in ở Paris trước 1975), chúng ta phải nhận rằng chính sách của ta không quá tàn nhẫn như chính sách của Nga. Một số trại của mình có chính sách nhân đạo nữa: ăn uống tuy thiếu thốn, nhưng được gia đình tiếp tế đều đều, nên người học tập không xuống cân, tinh thần tốt, được lao động vừa sức, được đọc sách báo… Nhưng có nhiều trại rất khắc nghiệt. Một thiếu phụ sau mấy năm xa cách, được đi thăm chồng tại một trại miền bắc Trung Việt, khi gặp chồng, không nhận ra được nữa, tưởng là người khác, mãi đến khi chồng cất tiếng hỏi, mới hết nghi ngờ. Chồng cô ta đã thay đổi hẳn từ thể xác tới tinh thần, mất mấy chục kí lô, đi không vững, hốc hác, chậm chạp, gần như một cái xác không hồn, lầm lì, hỏi mới đáp, không còn tình cảm, không suy nghĩ, không nhớ gì cả, sống mà như chết rồi.
Đi cả ngàn cây số mới tới trại mà chỉ được gặp mặt chồng có nửa giờ, lại không được khóc, nếu khóc thì bị đuổi ra liền. Hết nửa giờ, vợ chồng chia tay nhau, vợ nhìn theo chồng đẩy chiếc xe chở đồ tiếp tế về chỗ giam; khi chồng khuất bóng rồi, cô ta gục đầu xuống bàn mà khóc, khóc không biết bao lâu, hết nước mắt mới đúng dậy, loạng choạng ra khỏi trại.
Có trại gọi là “trại bò”, không phải để nhốt bò mà để nhốt những nguỵ quân nguỵ quyền cao cấp; phòng giam họ chỉ có một cái cửa cao độ một thước, muốn vô thì phải bò.
Lối trừng trị như vậy tôi cho là vô ích, không “cải tạo” được con người.
Nói tới cải tạo thì phải nói tới cái lừa lọc của nhà nước cộng sản đối với những người phải đi học tập:
Mở bộ Luận ngữ ra sẽ thấy cả chục bài khuyên nhà cầm quyền giữ chữ tín với dân, đặc biệt là bài 7 thiên “Nhan Uyên”:
Tử Cống, một môn đệ của Khổng Tử, hỏi về phép trị dân. Khổng Tử đáp: “Lương thực cho đủ, binh bị cho đủ, dân tin chính quyền”. Tử Cống lại hỏi: “Trong ba điều đó, nếu bất đắc dĩ phải bỏ một thì bỏ điều nào trước?” Đáp: “ Bỏ binh bị”. Tử Cống lại hỏi: “Trong hai điều còn lại, bất đắc dĩ phải bỏ một nữa thì bỏ điều nào trước?” Đáp: “Bỏ lương thực. Từ xưa vẫn có người chết, nếu dân không tin chính quyền thì chính quyền phải đổ” (dân vô tín, bất lập).
Làm cho dân tưởng rằng chỉ phải đi cải tạo nửa tháng mà rốt cuộc là phải đi 5-6 năm, có thể là 10 năm; bảo là cho họ đi học tập, cải tạo tinh thần mà sự thật để hành hạ, để trả thù, như vậy làm sao dân tin được chính quyền?... báo chí, các đài phát thanh chỉ thông tin một chiều, không cho dân biết sự thực, đến nỗi chính những cán bộ ở bưng về cũng phàn nàn rằng báo chí nói láo hết, như vậy làm sao mà tin chính quyền được.
Bây giờ ta vẫn nghe Đảng Cộng sản Việt Nam huênh hoang là toàn dân như một, dốc lòng tin tưởng, phò đảng, củng cố một chế độ độc tài cai trị. Vậy à! Xin làm ơn bắt chước Venezuela tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý đi, rồi thì cũng sẽ biết dân có tin hay không ngay thôi.
Tôi đã nói ở một chương trên, đại đa số những nguỵ quân nguỵ quyền ở trong nước không có tội gì cả, ngoài cái tội sống ở miền Nam, dưới chế độ Mĩ, Thiệu thì phải theo luật Mĩ, Thiệu; nhưng ngay cả những kẻ có tội đi nữa, nặng thì giết họ đi, nhẹ thì cứ dĩ trực báo oán, như vậy càng dễ cải hoá họ hơn, cần gì phải hành hạ như vậy; dĩ oán báo oán, oán bao giờ mới hết được? Đã hành hạ họ lại không cho con họ vô Đại học mặc dầu học giỏi. Người ta chê bài học của Khổng Tử: Thiên Ung Dã, bài 4 ông bảo cha Nhiễm Hữu (Trọng Cung) là người ác, nhưng Nhiễm Hữu là người hiền thì cũng dùng.
Ở thời Khổng Tử, chính quyền nào không được dân tin thì chính quyền đó phải đổ. Vì dân có thể nổi loạn, lật đổ vua, hoặc kéo nhau qua nước khác ở, tìm một ông vua khác để thờ. Ở thời đại chúng ta, khoa học đã tặng nhà cầm quyền những phương tiện cực kì hữu hiệu để đàn áp dân chúng; họ lại nắm sự phân phối thực phẩm, có những thuật mềm nắn dắn buông, vuốt ve dân chúng, cho nên một chế độ độc tài không bao giờ sụp đổ vì chính sách tàn bạo của nó; nếu một nhóm người cầm quyền biết đoàn kết với nhau, quyết tâm bắt dân theo đường lối của họ thì dân phải răm rắp cúi đầu tuân lệnh. Nhưng khi dân thấy chế độ độc tài không đem lại cho họ được một cái lợi gì thì họ phản kháng một cách tiêu cực, tà tà, lè phè, không hăng hái làm việc – chính quyền mình ba năm nay chống tiêu cực mà chẳng có kết quả gì cả - và khi chính quyền thấy chính sách độc tài không có lợi cho cả chính quyền nữa thì tất phải thay đổi chính sách.
Lúc này ai cũng thấy trong thành phần nòng cốt của chế độ, tức đảng viên, quân nhân, nhất là công an, đã chán nản, sa đoạ rồi.
Đúng rồi, với lề lối cai trị và thành phần đảng viên như vậy, bây giờ cái đà sa đoạ của tầng lớp lãnh đạo đó càng ngày thảm hạ, từ năm 1975 cho tới bây giờ. Đã đến lúc chính quyền cộng sản Việt Nam phải thay đổi chính sách. Và cái thay đổi quan trọng nhất là thừa nhận quyền tự do dân chủ thục sự của người dân, trả quyền làm chủ đất nước cho dân. Đừng đổ tội cho những người tranh đấu cho dân chủ là phản dân, hại nước mà theo dõi, cầm tù họ. Chống đảng hay hô hào cho sự thay đổi trong chính sách của đảng không có nghĩa là họ chống nước, phản tổ quốc.
Kinh Dịch đã xét trường hợp phải làm cách mạng (như trên tôi đã nói), lại xét cả trường hợp bỏ sự li tán mà đoàn kết lại (quẻ Hoán), muốn vậy phải bỏ tinh thần bè phái, để tập hợp quốc dân má lo việc nước, tức giải tán cái nhỏ để gom cái lớn lại. Việc đó chính phủ cách mạng đã có một lần làm rồi (1946). Hễ thành tâm thì có kết quả. Nhất là phải thay đổi chính sách kinh tế, bớt thuế má đi, phải để cho dân có lợi thì dân mới hăng hái sản xuất.
Không thể tặng cho người ta mĩ hiệu là “chiến sĩ xây dựng xã hội chủ nghĩa”, ngày đêm hô hào người ta “hi sinh cho đời con cháu được sung sướng” để bắt người ta sống cực khổ suốt đời, đời này qua đời khác được; vì nghĩ cho cùng khuyên người ta hi sinh cho đời con cháu thì có khác gì các cụ hồi xưa khuyên ăn hiền ở lành để phúc cho con; có khác gì các tôn giáo Ki Tô, Hồi Hồi, Phật khuyên tín đồ chịu cực trong cõi trần này để chết đi được lên thiên đường hoặc cõi niết bàn không?
Amen!
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:49:13 GMT 9
Mình theo cả những lầm lẫn của người
Ông viết mở đầu cho phần này như sau:
So sánh những nhận xét của tôi ở trên với những điều tôi đã được đọc trong mươi cuốn về đời sống ở Nga Sô, Trung cộng, tôi thấy chính sách của mình y hệt như chính sách của hai nước đàn anh đó, những lầm lẫn của mình chính là những lầm lẫn của họ.
Những lầm lẫn theo Nga:
Năm 1947, sau 30 năm cách mạng dân Nga cũng bị nhồi sọ như dân mình, xã hội cũng có những sự bất công… cũng có nạn bè phái như mình; cũng có lệ mhốn thưởng một cán bộ thì cho thêm một số tiền bỏ vào bao thư riêng; các ông lớn của họ cũng cách biệt quần chúng như ở nước mình;những kẻ gian trá cũng có thể lén lút làm mọi cái xấu xa, miễn là đừng chống chính quyền; người Nga nào cũng có hai mặt, ra ngoài thì khác như mình.
Họ cũng trọng hồng hơn chuyên, cũng thay đổi chủ trương, chương trình liền liền, thợ họ cũng không đủ ăn, công việc gì cũng không chạy; cán bộ của họ cũng sợ trách nhiệm như cán bộ mình; chính sách cải tạo còn tàn nhẫn hơn chính sách của mình; sự tổ chức bầu cử y như mình, v.v…
Những lầm lẫn theo Trung cộng:
Trung Hoa cũng có thời “trăm hoa đua nở” rồi mấy tháng sau hoa lại bị cấm nở; trăm hoa của mình cũng đua nở sau Trung Hoa ít tháng, và cũng bị cấm nở sau họ ít tháng. Năm 1966 mình khôn hơn Trung Hoa là không làm cách mạng văn hoá, nhưng năm 1978 mình cũng đã chuẩn bị kĩ để phát động một cuộc cách mạng văn hoá như họ, tính đốt hết các sách báo ở miền Nam… cách thức phụ cấp cho sinh viên, đối đãi với trí thức, chính sách học tập chính trị, hội họp ở phường, ấp, dăng, dán biểu ngữ ở khắp nơi, phát thanh bằng loa oang oang mà không ai buồn nghe…; cả lối giáo dục trẻ em, bổ túc văn hoá, công trình khai quật cồ tích chung quanh đền Hùng… mình đều theo sát gót Mao Trạch Đông.
Rồi ông nhận định là:
Tôi có cảm tưởng rằng mình chép đúng đường lối của hai nước đàn anh, không xét hoàn cảnh, dân tình, phong tục của mình có khác họ hay không. Tôi chưa thấy mình có một sáng kiến gì cả, ngay cả những danh từ như biên chế, phụ đạo, tham quan, tranh thủ… mình cũng chép nguyên của Trung Hoa.
Bây giờ thì Trung Hoa mới phát hành bạch thư giải thích về hiện trạng xây dựng một hệ thống chính trị đa đảng cho họ, chắc rồi Việt Nam cũng sẽ bắt chước đi theo con đường đó mà thôi.
Xu hướng của thời đại
Dự đoán sai của Marx
Ông đưa ra một vài điều tiên đoán sai của Marx: Cách mạng vô sản sẽ xuất hiện trước hết ở những xứ kĩ nghệ tiến bộ như Đức, Anh; nhưng sự thực nó đã xuất hiện ở Nga, một xứ kĩ nghệ kém nhất châu Âu hồi đầu thế kỉ chúng ta; sau đó nó lại xuất hiện ở những nước nông nghiệp rất lạc hậu về kĩ nghệ, như Trung Hoa, Việt Nam…; Marx tin rằng giai cấp vô sản ở khắp thế giới đoàn kết với nhau để cùng diệt giai cấp tư bản ở mọi nước, do đó không còn tinh thần quốc gia nữa, thế giới sẽ đại đồng; nhưng bây giờ người ta thấy ngay ở Nga, Trung Hoa, Đông Âu, chế độ cộng sản nào cũng mang nặng tinh thần quốc gia tới mức hai nước anh em với nhau mới thề sống chết có nhau, đoàn kết để diệt tư bản mà ít năm sau đã đâm chém nhau vì vấn đề ranh giới, chủ quyền, cũng xâm lấn nhau, phản nhau y như bọn thực dân tư bản vậy… Ông đoán rằng chế độ tư bản sẽ chết, nhưng tới nay nó vẫn mạnh chứ không chết, mà trái lại về sự phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của dân thì các nước cộng sản không sao cạnh tranh nổi với nó (lời Garaudy, một giáo sư Pháp theo cộng), vì nó biết tự thích ứng với hoàn cảnh, tự thay đổi, tìm dược giải quyết lần lần những cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị (lời một chính trị gia cộng sản Đông Đức); nó không đi tới chế độ độc quyền mà tiến tới chế độ kinh tế tự do trên thị trường để thị trường được điều hoà. Trái lại, chính những nước cộng sản mới theo chế độ độc quyền, độc quyền quốc gia. Marx muốn xoá bỏ hết sự bất bình đẳng, xoá bỏ giai cấp, nhưng ở Nga, Đông Âu không còn giai cấp tư bản nữa thì lại xuất hiện một giai cấp mới, giai cấp cán bộ, thư lại, từ quyền lợi tới lối sống, đều cách biệt hẳn với giai cấp thợ thuyền, nông dân. Marx hi vọng thay đổi được bản tính con người; Nga đã dùng những biện pháp rất mạnh trên 60 năm nay, hai ba thế hệ rồi mà bản tính con người không thay đổi gì cả; vẫn ham có tư sản, hưởng tự do, hưởng lạc như Âu Mĩ. Và sau đó ông mượn lời Sakharov để chỉ trích Nga Sô, mà lời đó bây giờ vẫn có thể áp dụng vào nhà nước Việt Nam được, vì như đã nói ở trên, Việt Nam từ mọi mặt, nhất nhất điều gì cũng rập theo khuôn nước đàn anh của mình, cũng mắc lầm lỗi như nhau:
Nhà bác học Sakharov trong tờ Express tháng 8-1972, nhận ra rằng Nga có tiến bộ về xã hội, kinh tế, nhưng các nước cũng tiến bộ như vậy, có phần còn hơn Nga, tiến nhờ kĩ thuật chứ không phải nhờ chủ nghĩa. Ông chê nhà cầm quyền Nga giả dối, ích kỉ, tàn nhẫn; giáo dục và y tế Nga rất tồi tệ vì bọn cán bộ cao cấp được biệt đãi mà bọn thường dân bị ngược đãi; chính quyền dùng nhà thương điên để nhốt bọn trí thức chỉ trích đường lối chính quyền…
Nguyện vọng của con người thời nay
Đoạn này, tôi xin giản lược lại như sau:
Đại khái tôi thấy xu hướng của thời đại chúng ta là: Ngán chiến tranh lắm rồi… đòi được hoà bình… Muốn được tự do, tư tưởng và nhu cầu cá nhân phải được tôn trọng… Muốn được công bằng, có sự bình sản, không có kẻ giàu quá, nghèo quá, không còn sự bóc lột cá nhân. Sự thực là ở các nước tư bản tiến bộ hiện nay, nhờ pháp luật che chở, gần như hết sự bóc lột đó rồi. Muốn hạn chế sự phát triển… muốn có một đời sống ổn định, giản dị, gần thiên nhiên. Khẩu hiệu “của dân, vì dân, do dân” không đúng. Có thể là của dân, vì dân (hiếm lắm!) nhưng có chính quyền nào là do dân điều khiển, định đường lối, chính sách đâu? Phải thay đổi chế độ ra sao cho dân có thể đích thân dự vào việc nước, đó là đòi hỏi chung của thế hệ đang lên. Trừ nguyện vọng thứ 4 và thứ 5 là mới mẻ, không thể xuất hiện ở thời nông nghiệp được vì thời đó chưa có chế độ dân chủ đại nghị, cũng không có máy móc, không thể sản xuất nhiều được; còn ba nguyện vọng trên: hoà bình, tự do, bình sản đều là nguyện vọng chung của nhân loại từ thời thượng cổ.
Sự tranh chấp giữa Nga và Mĩ
Cộng sản Nga Sô đã sụp đổ, không còn là đối tượng tranh chấp với tư bản Hoa Kì nữa, cho nên tôi không ghi ra đây đoạn này của ông. Chỉ xin trích một đoạn ngắn liên quan đến chính sách của Mĩ đối với Việt Nam:
Mĩ cũng lại phải bỏ cái thói khinh miệt dân tộc nhược tiểu, vung tiền ra làm sa đoạ họ, lập những ổ truỵ lạc, cờ bạc, ma tuý, đĩ điếm như Han Suyin đã trách trong cuốn Un été sans oiseaux. Ngay ở nước ta cũng vậy, khi Mỉ chỉ gửi qua giúp mình một số cố vấn thì dân còn có cảm tình với họ, tới khi họ đổ bộ nửa triệu lính lên lãnh thổ mình, làm xáo trộn xã hội mình thì mình chỉ mong họ thua mà cút đi càng sớm càng tốt.
Sửa sai
Tiết này rất dài, tôi xin tóm tắt nội dung chính, ba điều sai lầm và ba phương thức sửa sai, mà ông đưa ra sau đây: Cũng vì muốn cấp tốc thành lập xã hội chủ nghĩa, sợ bỏ lỡ “cơ hội ngàn năm một thuở” (lời một cán bộ), người ta hấp tấp dựng các cơ sở mới, nhồi chính trị vào đầu óc dân, chú trọng chình trị hơn kinh tế, tưởng rằng nều dân thuộc được mấy khẩu hiệu: tư bản bóc lột, giai cấp đấu tranh, đảng lãnh đạo, vô sản làm chủ, lập hợp tác xã nông nghiệp, làm chủ tập thể, lao động là vinh quang, cùng nhau thi đua…, là Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa… Người ta không hiểu rằng nếu kinh tế không phát triển, dân nghèo đói vì vô sở bất vi, hoá ra ăn cắp, ăn trộm, ăn cướp, tham nhũng, buôn lậu… không còn nhân cách nữa, mà xã hội sẽ thành một xã hội đồi truỵ, chứ đâu phải là xã hội xã hội chủ nghĩa. Người ta theo sát Mao Trạch Đông, trọng hồng hơn chuyên. Nhưng chuyên đã không có mà cái hồng chỉ có bề ngoài thôi, còn bề trong thì trắng, một màu trắng lem luốc. Điều này tôi đã nói nhiều rồi, không muốn nhắc lại. Biết mấy ngàn giờ học chính trị chỉ như nước đổ lá khoai, tới nỗi cán bộ đi học cũng phải ngán, bực mình thốt lên: “Càng học càng dốt, vì người dạy dốt quá”. Sai lầm thứ ba, tôi cũng đã nói rồi, là sau khi đuổi được Mĩ đi, mình chưa kịp lấy lại sức, đã nuôi cái mộng làm bá chủ bán đảo Đông Dương, thành một cường quốc ở Đông nam Á, không tự lượng sức mình, cũng không nhận định được tình hình thế giới, khiến Trung Hoa, Miên, Thái, Mĩ, Nhật đâm ghét mình Muốn sửa sai, chúng ta phải: Gây lại lòng tin của dân, tình đoàn kết của người Nam, không phân biệt cách mạng và nguỵ nữa, không phân biệt giai cấp (ở một chương trên tôi đã nói có tới 12 giai cấp), rút bớt quyền lợi của đảng viên đi, đảng viên phải sống khổ như dân; diệt tệ quan liêu, bè phái , tham nhũng… cho dân tự do phát biểu ý kiến về mọi vần đề trong các cuộc hội họp, trên báo, trên đài phát thanh… Trọng kĩ thuật hơn chính trị, chuyên hơn hồng, chuyên dễ biết được, còn hồng nhiều khi chỉ là bề ngoài, chuyên mới đắc lực trong việc kiến thiết; bỏ một số cơ quan, rút thật nhiều nhân viên trong các sở đi mà đồng thời tạo công ăn việc làm cho mọi người; cho dân đủ sống, đừng bóc lột dân quá; bỏ các địa phương đi hoặc rút lại còn hai ba thôi; cho những người đi cải tạo về…; Rút ra khỏi cảnh sa lầy ở Miên, lấy lại tình hoà hảo với các nước ở Đông Á.
Một lối phát triển riêng, một lối sống riêng
Đây là tiết cuối cùng của chương XXXII. Phần này chiếm trọn 9 trang của tập Hồi kí, tập III, rất dài. Trong đó, ông đưa ra một chính sách mới cho nước Việt Nam trở “thành một nước thực sự độc lập, tự do, không cần mạnh, giàu, chỉ cần tạo được hạnh phúc cho dân”. Tôi xin tóm tắt chính sách đó như sau.
Về võ bị, ngoại giao: Khi đã rút ra khỏi đầm lầy Cao Miên, chúng ta nên tuyên bố với thế giới rằng chúng ta theo chính sách trung lập, hoàn toàn tôn trọng hoà bình, không gây chiến, không tham chiến, giảm binh số, vũ khí tới mức tối thiểu, chỉ còn là một lực lượng cãnh sát trong nước thôi.
Về kinh tế: Chúng ta tìm một đường lối phát triển riêng… Chúng ta nghèo lại càng phải kiếm một đường lối hợp với hoàn cảnh, tài nguyên thiên nhiên, mức tiến hoá còn rất thấp của mình. Trong giai đoạn hiện tại, chúng ta chỉ nên nhắm mục tiêu này: làm sao cho dân chúng đừng đói rét, đau có thuốc uống, và đồng thời giảm lần lần được sự bất quân trong xã hội, mà vẫn giữ được cái tình người.
Về chính trị: Ta càng cần có một chế độ riêng… ta có nên theo gót tư bản hay cộng sản không? Hay phải tìm cách nào, giáo dục dân cách nào cho dân được thực sự dự vào việc nước?
Về nhân sinh quan: Chúng ta cũng nên chỉ cho thanh niên biết dùng kiến thức của họ hơn là nhớ nhiều… cần luyện óc tưởng tượng, tập có sáng kiến… chương trình phải hợp với nhu cầu và mục tiêu chúng ta đã vạch. Mục tiêu đó là dựng một xã hội mới theo một lối sống mới, một nhân sinh quan mới… xét lại quan niệm về hạnh phúc, kiếm một lối sống khác… Đời sống vật chất tới một mức nào đó thì nên cho là đủ, không nên đeo đuổi hoài sự tấn bộ vật chất mà bỏ đời sống tinh thần, tình cảm đi… Sống giản dị, ăn uống thanh đạm, vui vẻ với nhau, có tình cảm , biết hưởng cái vui tinh thần trong cảnh thiên nhiên, tôi cho như vậy là hạnh phúc, mà hạnh phúc đó đâu có cần lợi tức nhiều.
*
Hồi kí có lẽ là cuốn sách quan trọng nhất trong cuộc đời viết văn của ông Nguyễn Hiến Lê. Trong đó, ông đã gửi gấm tất cả những tự sự, hoài bão, tâm tư, nhiệt tình tới độc giả, bạn bè, và đất nước. Vì là một cuốn sách được viết lần cuối cùng trong đời, trước khi ông về hưu nghỉ viết, nó là một tập đại thành của ông, gồm đủ các loại – bút kí, tuỳ luận, văn học, triết học, lịch sử, chính trị, kinh tế, giáo dục - được đúc kết cả lại để cống hiến đời sau một cái nhìn chuẩn xác về đời ông trong một nước Việt Nam, tâm sự của ông về vận nước Việt Nam, và nhân sinh quan của ông về một đất nước Việt Nam này.
Tuy ông đã viết cuốn Hồi kí với một tấm lòng trân trọng như vậy, tôi ngờ là ông không mong mỏi cuốn sách này được xuất bản ngay trong nước đâu (quả nhiên là Hồi kí đã được in tại hải ngoại năm 1988, mà tới năm 1992 mới đươc in lần đầu tiên trong nước). Có lẽ ông đã biết được sự khó khăn như thế nào để một cuốn sách được cho phép xuất bản trong chế độ cộng sản ở Việt Nam vì “viết lách thì phải có danh lớn, hoặc bồ bịch, bè phái thì mới hi vọng được in”. Cái trần ai đó đã được ông nói thêm trong đoạn viết sau đây:
Bản thảo gởi tới một nhà xuất bản, phải bị kiểm duyệt vài ba lần, một lần về tư tưởng, một lần về hình thức, gì gì đó; thoát được mấy cửa ải đó lại phải qua vài lần duyệt nữa xem có hợp thời không, có đáng in ngay không và có ngân sách, có giấy để in không. Phải có ông lớn nào đặc biệt ủng hộ mới mau được in, nếu không thì bị dìm cả chục năm như bộ Tự điển truyện Kiều của Đào Duy Anh; hễ năm sáu năm sau được in thì cũng đã là may rồi… Có nhà khảo cứu bỏ ra mấy năm soạn một bộ công phu mà không in được, chính phủ an ủi bằng cách trả cho một số tiền nhỏ vài ba trăm đồng rồi giữ bản thảo làm tài liệu cho một cơ quan. Như vậy ông giám đốc một nhà xuất bản lớn thành như một lãnh chúa về văn hoá. (Hồi kí)
Thái độ “bất hợp tác” của ông đối với một chế độ vừa được áp đặt lên dân chúng miền Nam là nguyên nhân của sự khó khăn trong việc in sách của người cầm bút “non-conformist” (chữ của ông) như ông:
Khoảng 1971-76 mặc dầu có nhiều cảm tình với kháng chiến, nhưng tôi cũng biết rằng chế độ cộng sản không hợp với tính tình tôi, nên có lần tôi nói với ông Giản Chi: “Cộng sản vô đây, tôi chỉ cần họ cho tôi sống yên ổn, khỏi phải lãnh một nhiệm vụ gì hết, mình già rồi”. Điều đó may mắn tôi giữ được. (Đời viết văn của tôi)
... chính quyền đối với tôi cũng có biệt nhãn. Sở Thông tin Văn hóa thành phố coi tôi là một nhân sĩ; Sở Tuyên huấn thành phố có lần phái một nhân viên lại thăm tôi; nghe tôi nói sức khỏe mỗi ngày một suy, nhân viên đó ngỏ ý muốn giới thiệu tôi để vào điều trị ở Bệnh viện Thống Nhất (bệnh viện cho cán bộ cao cấp, nhiều dụng cụ, thuốc men nhất miền Nam). Tôi từ chối... Vả lại nhận ân huệ của người ta, khi người ta sai bảo việc gì, hay chỉ mời dự một buổi hội họp để góp ý kiến thôi, mình làm sao từ chối được? Tôi chỉ mong được sống yên ổn, không ai nhắc tới tôi, không ai nhớ tên tôi nữa. (Hồi kí)
Do đó mà ông có một lời chua chát cho một thực tế đã cùng đưa đến sự khai tử sự nghiệp của ông và sự cáo chung của một nền tự do đã một thời thực sự có mặt ở Việt Nam:
Tác phẩm thứ 100 của tôi (Trí Đăng xuất bản), nhan đề là Mười câu chuyện văn chương phát hành khoảng 20-4-1975… Tạp chí Bách Khoa số cuối – 426, ngày 25-4-1975 - giới thiệu cuốn Mười câu chuyện văn chương… Nhà Khai Trí tính tổ chức một cuộc triển lãm 100 tác phẩm của tôi, chưa kịp làm thì 12 giờ trưa ngày 30-4-75, quân cộng sản Bắc Việt ngồi xe thiết giáp tiến vào Dinh Độc Lập… Miền Nam lật qua một trang sử mới. Do một sự ngẫu nhiên kì dị, số báo Bách Khoa cuối cùng đánh dấu sự chấm dứt sự nghiệp của tôi cùng với sự chấm dứt chế độ dân chủ miền Nam. (Đời viết văn của tôi)
Sau ngày tiến chiếm đó, ông đã có một hành động tích cực sau đây với loại “lãnh chúa văn hoá” như trên:
Năm 1979, nhà xuất bản Văn học ở Hà Nội, do một anh bạn học cũ của tôi ở trường Bưởi làm trung gian, yêu cầu tôi dịch một danh tác Pháp hay Anh, tôi đáp không có thì giờ (vì tôi đương viết bộ Kinh Dịch); năm nay (1980) nhà xuất bản đó lại xin tôi gởi cho một vài chuyện dài hoặc tuyển tập văn học tôi đã dịch và xuất bản rồi để họ coi xem có thể in lại một cuốn được không; tôi đáp không còn dư cuốn nào cả (sau vụ ba huỷ năm 1978; sách phản động, huỷ; sách đồi truỵ, huỷ; sách lạc hậu, huỷ), nhà xuất bản chịu khó tìm của người khác mà đọc. (Đời viết văn của tôi)
Vì vậy mà ông đã thất vọng cho cái hoài bão cuối đời của ông:
Năm 1973, khi kí xong hiệp ước Paris (chưa ráo nét mực thì đã bị xé) tôi ước ao ba điều: đi thăm quê hương đất nước trong một năm, xuất bản hết mươi cuốn đã viết xong, và còn dư năm nào thì nghiên cứu nốt về các triết gia lớn Trung Hoa thời Tiên Tần. Hai ước vọng trên đã hoá hão, còn ước vọng cuối cùng, từ năm 1976, tôi tuần tự và siêng năng thực hiện cho xong. (Đời viết văn của tôi)
In sách của ông lúc đó là một điều khó xẩy ra, nhưng có một điều chắc chắn là ông sẽ rất bực mình và sẽ có một thái độ dứt khoát khi thấy lời văn, bài viết của mình bị duyệt bỏ (nhiều đoạn viết của ông mà tôi trích ở trên cũng đều bị cắt) như trong trường hợp điển hình sau:
Ngoài ra, do lời yêu cầu của ông Lê Huy Vân, bạn học cũ của tôi ở trường tiểu học Yên Phụ, thư kí toà soạn tờ nguyệt san Tổ Quốc của Đảng Xã hội (được coi là tờ báo của giới trí thúc), tôi viết hai bài cho báo đó.
“Một truyện ngắn làm tôi xúc động”, đăng trên số 12-1977. Tôi phê bình các truyện ngắn của Nam Cao viết trước Cách mạng tháng 8-1945, đặc biệt khen truyện “Một đám cưới”, nhưng toà soạn cắt bỏ đi khoảng một phần ba, chỉ giữ phần phê bình riêng truyện “Một đám cưới” thôi.
“Chủ nghĩa thực dân và vấn đề kì thị chủng tộc (ở Nam Phi)” đăng trên số 11-1978. Bài này cũng bị cắt bỏ đi nhiều.
Từ đó có vài tờ báo xin bài, tôi đều từ chối hết. (Hồi kí)
Học giả Nguyễn Hiến Lê mất ngày 22 tháng 12 năm 1984. Tưởng nghĩ bây giờ, ông có hài lòng không khi tới nay là đúng 23 năm, cuốn Hồi kí của ông được in những sáu lần trong nước mà vẫn thiếu sót; ngoài vô số rải rác những câu, đoạn ngắn bị sửa đổi hoặc đục tỉa, có tới 6 chương trong số 33 chương của cuốn sách vẫn bị cắt bỏ trọn vẹn vì “không thể nào để lại được”?
12-2007
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 3:56:20 GMT 9
Nhà Thương Cát Hoàng
Nhà thương - Tên gọi nơi chửa bệnh trước đây nghe thiệt thân thương (Mãi đến tận sau nầy vẫn còn những địa danh: Xóm Nhà Thương; Cầu Nhà Thương; Rạch Nhà Thương;...). Nay không biết do đâu người ta thay tên gọi là Bệnh viện (May mà không phải là "Ốm viện" theo cách chuẩn hoá nào đó?). Tôi cứ thích cái kiểu ví von ở quê mình: "Đời người đố ai khỏi qua tay mấy Thầy?" (Thầy Thuốc, Thầy Giáo,... và Thầy Tụng)". Mặc dù, tôi sanh ra bởi tay đỡ mụ vườn từ chính ngôi nhà ở xiêu vẹo của gia đình mình chớ không được sanh ra ở Nhà Thương, nhưng với tôi kỷ niệm về Nhà Thương lại rất đậm đà sâu sắc. Thời học Tiểu học, ký ức tôi hằn rõ biết bao trường hợp người nhà quê bị bệnh nặng; bị tai nạn chiến tranh, đến nhà tôi nhờ cha hoặc mẹ tôi giúp đỡ đưa họ "Đi Nhà Thương" - Đi Nhà Thương ở tận Mỹ Tho hoặc Sài Gòn đường sá xa xôi đi lại đò giang cách trở vô cùng khó khăn (Số là gia đình tôi có một người dì ở Mỹ Tho và hai người cô ở Sài Gòn, nên có thể nhờ vả, tá túc tiện lợi) - "Đi Nhà Thương" tức là xin vô nằm "Nhà Thương Thí" không tổn tiền chữa bệnh, chớ họ quá nghèo nội lo tiền đi lại đã đủ mang nợ nần có đâu lo nổi tiền trả cho thầy cho thuốc (!). Lúc nầy, cả ấp tôi ở có hai Ông Thầy hốt thuốc Bắc; ở chợ xã có một tiệm thuốc Bắc của Ông chủ người Hoa vợ Việt với một Ông Tây y mà người dân quen gọi tên là "Tư Y tế". Ai khá giả có bệnh thì đến nhờ xem mạch bốc thuốc hoặc chích thuốc hay mua thuốc Tây để uống. Ai nghèo khó thì cứ quơ quào cây lá thuốc Nam sẳn có phơi sắc mà uống tới tới - Người quen bày gì uống nấy mà nhiều khi cũng hết bệnh mới lạ! Còn con nít học lớp tư, lớp ba trường làng (lớp hai, lớp ba bây giờ) mà tôi rất oai với Tư Y Tế (Tôi quen gọi là Anh Tư theo cách gọi tên theo thứ ở quê Nam bộ), mỗi lần nghe tiếng "Xe máy bịch" (Xe mô-by-lét khi đó hiếm chỉ một ít người có chạy) là y như rằng tôi có tiền mua bánh kẹo ăn rồi, vì mỗi lần ở chợ xã ra ấp Anh Tư đều ghé nhà tôi chơi và luôn tiện nhờ tôi "gởi thơ mèo" cho chị Tư Y Tế (Gọi vậy cho tiện do sau nầy chị cũng theo nghề Y) - Chị Tư là cháu Bà Mười nhà bán tiệm, mà Bà Mười rất có uy lại khó tính nên ít người dám lân la bén mảng làm chuyện khuất lấp. Có lẽ do tôi là học trò hiền hậu lễ phép nên Bà Mười chẳng để ý và việc nhờ vả của Anh Tư được mẹ tôi nói vô nên tôi không e ngại khi làm; chỉ cần dè chừng khi nào có Chị Tư bán hàng tôi mới mua bánh kẹo, tới lúc trả tiền kẹp thơ mèo vô luôn ai biết mà để ý (Thấy tôi oai, thông minh và ác chưa hè! Vậy mới có kẹo bánh ăn dài dài chớ! Ác, là về sau nầy tôi mới suy nghĩ, nhưng lại tự an ủi - Vì do vậy mà Chị Tư Nhỏ theo nghề Y và có Nhà Bảo Sanh tư, con đàn cháu đống, sống vui vẻ đuề huề với Anh Tư; với cả Chị Tư Lớn).
Thời học Trung học, tôi cũng có nhiều kỷ niệm với Nhà Thương: Xóm Nhà Thương - Là nơi tôi thường xuyên lui tới gặp gở, sinh hoạt gắn bó với Cô giáo dạy văn thương yêu gần gũi nhất với tôi trong suốt những năm trọ học ở Thị trấn Bình Đại (Bến Tre). Ở Xóm Nhà Thương còn có A - Cô nữ sinh học sau tôi một lớp. Cô giáo cũng rất thương A như tôi, nên Cô có thành ý ghép đôi chúng tôi. Đã đôi lần Cô cố tình lánh mặt để hai đứa tự nhiên trò chuyện; để tôi có dịp trao "Tín vật" cho A (Tín vật - Sợi dây chuyên vàng đó tôi đã đánh mất trong những năm tháng chinh chiến. Thật ra, tôi không dám và chưa tỏ tình, ngay cả một lời từ giã khi ra đi và cả lần gặp lại sau đó). Ở Xóm Nhà Thương còn có Chói - Thằng bạn chí thân học cùng cấp khác lớp (do học khác ngoại ngữ). Chói có năng khiếu âm nhạc rất tốt và giàu cá tính. Tiếc là Chói mất sớm khi tôi và nó mới trở thành hàng xóm sau nầy ở đô thị. Chói chết để mãi lại trong tôi một nỗi ẩn ức (Nếu tôi không lôi kéo nó về đô thị thì...? Số phận... ?). Nhớ một lần nghỉ Chúa Nhật về nhà tôi bị tai nạn đứt chân do bất cẩn trong lúc bửa củi. Khi hay tin, Hoàng tức tốc chở tôi bằng xe Honda 67 (rất quý hiếm khi đó) từ quê về Nhà Thương Thị trấn Bình Đại (Xa cách khoảng 10 cây số đường lộ đá lỗ chỗ ổ voi, ổ gà rất khó đi lại). "Nhà Thương chạy" (không nhận điều trị) Hoàng lại chở tôi ra Bến Tàu đi đò lên Nhà Thương Mỹ Tho - Thương rất đỗi cái cảnh thằng Hoàng ròm cõng thằng Hoàng mập trên lưng đưa xuống đò ai trông ... đều thấy oải (Tôi vừa thương vừa sợ hỏi cõng nổi không cha? Nó trả lời tỉnh bơ: Ba thằng như mầy tao cũng cõng tuốc! Nghe oai ghê hén!). Chuyện đứt 3 ngón ở bàn chân trái nằm Nhà Thương Mỹ Tho rồi cũng lành; làng lính oạnh hẹ việc tự đả thương để tiện bề trốn lính buộc gia đình phải lòi tiền hối lộ rồi cũng qua. Ác nổi, duyên do gì mà sau đó tôi lại có mối tình sâu đậm với một Y tá viên điều dưỡng ở cái Nhà Thương Mỹ Tho nầy mới ngặt chớ! Hổng nhắc nhớ thì thôi, nhắc nhớ tới thiệt thấy mình tày trời tội lỗi. Hồi tôi trốn biệt vô rừng, chừng hoà bình trở về Cô tôi trao lại cho tôi một mớ tá lả thư tình (độ chừng gần 50 lá, mỗi lá thư kèm mỗi nụ hồng khô nữa mới chết chớ!) với lời trách móc nhẹ nhàng: "Thiệt hết biết cái...thằng trời thần". Ngặt cái cảnh vào một ngày xấu trời cái thằng trời thần khật khùng nổi lửa đốt sạch mớ tá lả thư tình, thì nàng chợt đến thăm và vô tình sốt sắng quét sạch đám tàn tro vào... quên lãng. Ngặt cái cảnh vào một ngày đẹp trời nàng trở về cố quán thăm thằng trời thần. Vợ thằng trời thần đãi đằng cơm nước, tâm sự nhỏ to thân ái. Sau đó, vợ thằng trời thần bỏ nhỏ: "Người yêu cũ cho anh thuốc mới trị bệnh.. hối... tức?".
Thời học sau trung học. Nhà Thương càng gắn bó với tôi biết bao kỷ niệm vui buồn khác: Hai đứa con tôi đã ra đời ở nơi nầy. Hai người mẹ (Mẹ ruột và Mẹ vợ) đã từng đau đớn và từ giã cõi đời ở nơi nầy. Bao nhiêu thân bằng, quyến thuộc cũng đã từng cười khóc cùng tôi ở nơi nầy. Đã và sẽ còn nhiều điều đáng nhớ và không thể nào quên về...Nhà Thương.
"Yêu nên tốt! Ghét nên xấu!" là lẽ thường. Xã hội hoá Y tế có tốt có xấu cũng là lẽ thường. Người giàu có khá giả tiền bạc thì vô Bệnh viện tư hoặc đến các khoa dịch vụ để được chăm sóc, điều trị là chuyện bình thường. Người nghèo khó, neo đơn già yếu, bệnh tật thì vô Bệnh viện công, được bảo hiểm y tế dành cho đối tượng người nghèo cũng là chuyện bình thường. Bất bình thường và hơi bị nhiêu khê là chế độ bảo hiểm y tế đẻ ra lắm thủ tục thanh toán với cơ chế điều hành cắt khúc là bất tiện và thực tế xảy ra lắm cảnh thương tâm...bó tay chờ chết, do đã nghèo đến mức mạt hạng thì lấy tiền đâu mà chi trả khoản 30% theo Luật bảo hiểm y tế quy định (?)
Bất chợt tôi liên tưởng thế giới nầy đã từng tuyên ngôn: "Chúng ta tin tưởng mà không cần chứng minh rằng: Tất cả người ta sinh ra đều bình đẳng, tạo hoá ban cho họ một số quyền không thể chối cãi được. Trong số đó có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". "Con người được sinh ra, được tự do và sẽ luôn luôn tự do, bình đẳng trong sự tôn trọng những quyền lợi của họ". Và tôi ao ước: Giá được cái... Nhà thương thí!
Vĩ thanh: Lẽ ra tạp văn nầy đã được kết thúc với sự ao ước nhỏ nhoi của tôi thôi. Nếu như không có một ngày tình cờ... tôi được xét chấp thuận cho nghỉ việc theo diện chính sách 132, nên cần được Bảo hiểm xã hội tỉnh xác nhận thời gian tham gia đóng bảo hiểm và tôi bị cắt mất 5 năm theo Luật quy định. Bởi lẽ, ai có thời gian nghỉ việc trước năm 1997 (chưa trực tiếp đóng tiền bảo hiểm) từ 01 năm trở lên, thì không tính thời gian từ đó trở về trước (Trường hợp từ năm 1997 về sau - đã trực tiếp đóng tiền bảo hiểm, thì nghỉ tháng nào tính khấu trừ tháng ấy). Mấy người bạn cùng cơ quan còn kháy tôi: - Mất mấy năm chẳng nhằm nhò gì. Chỉ tội họ xóa sổ cả thời kháng chiến! - Không tính chuyện huân chương, huy chương gì ở đây nhen! - Thời đói khổ 1979, 1980,... quá nhiều trường hợp giáo viên xin nghỉ việc để... "tự cứu trước khi trời cứu". Mấy Nhà Làm Luật Việt Nam mình khéo... đánh vào nhân tâm thật! ... Tôi nghiệp thằng tôi chỉ biết mần thinh. Còn kể gì chuyện ao với ước./.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 11, 2011 5:02:58 GMT 9
Tình anh em Việt- Lào?Ảnh AFP/ Getty Images Trich DanChimViet Người Tầu có câu nói cửa miệng: ’’Huynh đệ như thủ túc/ Phu thê như y phục’’ – nghĩa là: - Anh em như chân tay. Đã là chân tay thì không thể cắt rời. - Vợ chồng như quần áo. Là quần áo có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Đó là quan điểm kiểu’’quân tử Tầu’’, không biết ngày nay họ có còn áp dụng nguyên tắc này trong cuộc sống, hay chỉ còn ở trên những bộ phim truyền hình mà họ sản xuất đem phát tán trên cac quốc gia châu Á?… Dân ta hầu như không có chuyện vì anh em mà ’’ông’’ anh hay ’’thằng’’ em – bỏ, cắt ’’đầu gối – tay ấp’’. Trên thực tế lác đác có thể cũng có chuyện cắt bỏ này, nhưng ngược lại – nghe vợ, bạc đãi anh em, thậm chí cha mẹ – thì diễn ra nhiều hơn. Thế nhưng, trong truyền thuyết dân gian, cũng có trường hợp: Vì tương lai của chú em, người anh đã hi sinh cả vợ mình để giúp em – Chuyên Lưu Bình – Dương Lễ là một thí dụ… Thời hiện đại cũng có chuyện anh em kết nghĩa thật cảm động: Dân tộc ta kết nghĩa anh em cùng dân tộc Lào. Hai vị lãnh đạo cao nhất của hai nước đã long trọng tuyên bố với quốc dân đồng bào mình và thế giới: Việt – Lào hai nước chúng ta Vừa là đồng chí, vừa là anh em Hoăc: Việt – Lào hai nước chúng ta Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long Thế rồi… thời gian trôi đi, chúng ta đã thực hiện chức vị của người anh, sát cánh với chú em , đưa’’cách mạng’’ của nhân dân 2 nước đến thành công. Trong cuộc chiến đấu này, có hàng vạn con em nước Việt nằm lại trong lòng đất lạnh của nước Lào (mà con em Lào thì có rất ít người bỏ mình vì đất Việt). Có thời kì, chúng ta vô cùng khó khăn nhưng vẫn phải’’bát cơm xẻ nửa’’, chia lửa, san cả máu thịt của mình cho người anh em ‘’Lào Hắc Xạt’’ ! Thấm thoát thời gian qua mau. 36 năm bán đảo Đông Dương im tiếng bom đạn (tuy có vài năm bom đạn tái diễn ác liệt không kém trước)… ông anh Việt vẫn cứ nghèo rớt mồng tơi , còn người em Lào càng nghèo hơn, họ nản long đâm chán’’chân giò ngãng ra’’…Trên thực tế: ’’Ốc chẳng mang nổi mình ốc, làm sao mang được cọc cho Rêu’’, thế la chú em đành Gut- bai ông anh. Đại ca của cả hai biết rõ điều đó nên thong thả, thò tay…’’vợt’’. Biết vậy nhưng làm thế nào được, ’’Mạnh vì gạo, Bạo vì tiền’’ – mà… Người ta không vì mình tất’’thiên tru địa diệt’’, huống hồ ,’’tôi đã đi theo anh hơn nửa thế kỉ, cuối cùng’’vẫn như cũ’’. Vậy thì anh đừng trách ai, chỉ có thể tự trách mình thôi!’’… Nói đi cũng phải nói lại: Những người lãnh đạo thế hệ hôm nay của nước Lào xem ra rất thông minh – ‘’thông minh’’ một cách láu cá. Họ không ngu tín, bảo thủ, bị ràng buộc bởi lời hứa hẹn sách vở, cam kết sáo rỗng, mà đặt lợi ích của dân tộc mình lên trên hết rồi ’’cơ động, linh hoạt’’ trong xử thế đứng trên nguyên tắc – bất chấp tất cả để mang lại lợi ích tối đa cho dân tộc mình. Cơ bản đó là suy nghĩ – hành động đúng! Tuy vậy, nếu ich kỉ vưa phải, ’’quốc gia, dân tộc hẹp hòi’’ có mưc độ thì thiên hạ còn dung nạp, nể trọng. Nhưng vì lợi ích của dân tộc mình mà làm phương hại đến láng giềng thì không nên, ấy là chưa nói đến người láng giềng đã từng là anh em kết nghiã, từng chia ngọt sẻ bùi, san cả máu xương -cho mình! Tệ hại nhất: Quyền lợi mà những người lãnh đạo đất nươc Lào sẽ thu được hàng năm cho nhân dân Lào sau khi nhà máy thủy điện Xayaburi vận hành, không phải chủ yếu phục vụ cho việc phát triển công nghiệp của đất nước Lào, mà lại buôn – bán, cho Thái Lan để hàng năm thu được khoảng 1 tỉ USDolla. Thế nhưng điều đáng lo ngại chính là : Đập Xayaburi sẽ là tiền lệ, sau đó sẽ có đến 8 đập khác tiếp theo nữa sẽ xây dựng trên sông MC. Khi đó dòng chảy biến đổi kéo theo hủy hoại các loài thủy sinh, sự giao thông trên dòng khó khăn và quan trọng nhất: Thiếu nước tưới tiêu, không ngăn được nước mặn từ biển tràn vào, có nghĩa là vựa lúa đồng bằng song Cửu long của VN sẽ bị hủy hoại… Nếu nghĩa tình, nếu quan tâm đến mối giao hảo của 2 dân tộc Lào – Việt, ’’ăn trông nồi – ngồi trông hướng’’, nếu công minh, sòng phẳng, họ có thể đặt thẳng vấn đề với hai chính phủ Việt – Miên rồi chọn giải pháp’’Mềm’’ – tìm cách bù cho món lợi kia do không xây dựng NMTD , không bán được điện (như đề xuất của một số chuyên gia tư vấn)… Tin rằng vì lợi ích của các bên, vấn đề sẽ được giải quyết thỏa đáng. Trong hoàn cảnh bất khả kháng, số thiệt hại do hậu quả của con đập gây ra cho 2 nươc ở hạ nguồn song Mê Công là Căm pu chia và Việt Nam – phải nhân lên nhiều lần, thì việc bù đắp kia hoàn toàn phù hợp, thỏa mãn mọi phía… Thế mà tại sao Việt – Miên – Lào lại không thể ngồi lại cùng nhau bàn bạc như trong qúa khứ các tiền bối họ đã từng làm khi tình hình các nước trong cơn gay cấn ?… Những người có chút lương tâm, suy nghĩ đơn giản, bình thường cũng đều đặt câu hỏi: Nhóm lãnh đạo đương nhiệm của nươc Lào – quyết tâm tiến hành xây dựng NMTĐ trên sông MC nhằm mục đích gì mà bấp chấp đạo nghiã, tình cảm, dư luận , vậy? Phải chăng – họ đã có chỗ dựa mới xem ra’’vững chắc’’ nên thực hiện’’ý chỉ’’ của’’cấp trên’’ nhằm gián tiếp, từ từ tiêu diệt nền kinh tế Nông nghiệp Viêt Nam trong khi nước Việt đang trong hoàn cảnh bị thôn tính dần từ đất liền đến biển đảo và kinh tế, thông qua việc đối tác thực hiện chính sách thao túng tận gốc của vấn đề – Nền chính trị của nước Việt… Đồng thời do xây dựng đập Xayaburi kéo theo sự thay đổi dòng chảy tự nhiên còn phát sinh nhiều hậu quả to lớn khác đối với mấy chục triệu dân của 3 quốc gia Việt – Miên – Thái, sống ở hai bên bờ MC. Có thể, nhóm lãnh đạo của nước Lào hôm nay bị sức ép nào đó (rất dữ dội) ở cả 2 phía – chính trị lẫn kinh tế (…) – nên mới bất chấp ý kiến’’ông anh’’ mà dẫm đạp lên nguyên tắc sống đã được hai bên quy ước từ hơn nửa thế kỉ qua?… Dân tộc nào trên thế giới này- khi trái đất đang phấn đấu trở thành’’Hành tinh xanh’’ – nghĩa là cùng nhau gìn giữ, bảo vệ môi trường. Khi mà tất cả đã, đang và tiếp tục thực hiện Toàn cầu hóa – thì… cách hành xử của nhóm lãnh đạo Tân ’’Lào – Hắc – Xạt’’ đã vượt qua các quy ước tối thiểu (đúng) trong hành xử theo quy luật toàn cầu hóa: Chống hành động đơn lẻ thu lợi cho mình làm hại toàn cục : (lợi mình – hại người). Thử hỏi, những người bị hại có cam chịu không? Nước Lào – trước hết là nhóm lãnh đạo – có yên tâm trước sự phản kháng của 2 nước láng giềng (trực tiếp bị hại) – không? Họ có ăn ngon, ngủ yên khi chỉ thu được tỉ Dollars nhưng đã để mất tình cảm của hơn trăm triệu người Việt – Miên, được lịch sử, thời gian, cùng xương mắu nhiều đời – bồi đắp, mang lại mối quan hệ tương hỗ , hữu nghị – này? Lấy một tỉ USD để xóa bỏ tình nghĩa, mua lấy sự cắn rứt lương tâm, tạo ra mối’’thâm thù’’ của trăm triệu người , đối với nhóm lãnh đạo nước Lào – liệu có đáng không , hả, các vị Tân Lào Hắc Xạt? Trên đời này có một nguyên tắc bất di bất dịch: Muốn yên bình, muốn không bị ai hại, trừ phi mình đừng làm hại ai! ’’Chẳng ai nắm được chặt tay từ chập tối đến sáng’’ . Xin các vị hãy nhớ câu thành ngữ : Chú khi nay, anh khi khác! 1.10.2011
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 11, 2011 5:07:58 GMT 9
Mang quà gì sang Bắc Kinh? Ông Nguyễn Phú Trọng đang chuẩn bị khăn gói sang Bắc Kinh. Cuộc xuất hành được chuẩn bị suốt mấy tháng nay. Một thứ trưởng ngoại giao, một thứ trưởng quốc phòng đi tiền trạm, đón nhận chỉ thị “hiểu biết chung, cam kết chung: giải quyết mọi tranh chấp bằng đàm phán song phương, không để nước thứ ba can thiệp vào chuyện biển, đảo”, còn đưa ra lời bảo đảm “từ nay sẽ không để xảy ra tụ tập đông người”. Phía Trung Quốc càng thêm yên lòng khi nhìn thấy cảnh ông tổng Trọng ôm rất chặt, rất lâu ông Đới Bỉnh Quốc – như không thể nào lâu hơn, chặt hơn – và cảnh ông thủ tướng Ba Dzũng mặc đồng phục tự nguyện – cùng áo kẻ sọc, cùng cà-vạt màu hồng nhạt, như 2 anh em song sinh – khi đón ông đại đồng chí họ Đới tại Hà Nội. Quả thật cử chi có khi nói nhiều hơn những bài diễn văn dài. Ông Hồ Cẩm Đào nóng lòng chờ đón ông Nguyễn Phú Trọng sáng 11-10 tới tại Bắc Kinh; đó là lời nhắn của ông Đới khi tạm biệt ông tổng Trọng. Vậy thì ông Trọng sẽ mang theo món quà gì đây? Sử ta có ghi chép nhiều chuyện vui và sâu sắc về các sứ thần ta đi sứ sang phương Bắc và đối đáp rất thông minh, sâu sắc và hóm hỉnh với các vua chúa Đại Hán. Lần này, nếu như quả thật ông Nguyễn Phú Trọng là một nhân vật tiêu biểu cho dân tộc Việt Nam, thật sự là con cháu của các nhà yêu nước tiền bối Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung, mong ông sẽ mang sẵn trong túi áo một phẩm vật có ý nghĩa để gửi biếu (trả lại) Bắc Triều. Đó là bài báo của Trung Quốc in trên tờ báo mạng Hoàn Cầu ngày 30-9-2011, được dịch ra nhiều thứ tiếng, được coi là tiếng nói của đảng CS Trung Quốc, có chủ đề là: dạy cho Việt Nam và Philippines một bài học đạo đức bằng vũ lực. Tác giả bài báo là Long Đạo, giáo sư trường đại học Triết Giang. Bài báo sặc mùi cao ngạo Đại Hán tộc, cho rằng toàn bộ Nam Hải (Biển Đông của ta) là thuộc sở hữu không thể bàn cãi của Trung Quốc. Trung Quốc không thể chấp nhận có sân bay nước khác trên quần đảo của mình. Phải dùng vũ lực để diệt những con muỗi Việt Nam và Philippines tại đó. Chúng ta sẽ giết gà để dọa khỉ. Những con muỗi ắt phải biết sợ voi chứ. Chúng ta biết rằng bọn muỗi ấy gọi con diều hâu già đến để cứu nguy chỉ là vô vọng. Long Đạo có nghĩa là đạo của loài Rồng. Rồng vốn là biểu tượng của Hoàng Đế, của Thiên Triều. Bài báo dùng hình tượng các loại sinh vật như trong thơ ngụ ngôn. Tác giả miệt thị Việt Nam và Philippines, coi như những con muỗi vo ve vô tích sự, coi các nước Đông Nam Á xung quanh là một bầy khỉ, coi Hoa Kỳ là con diều hâu đã về già. Còn Trung Quốc là con Voi, là thần tượng chúa tể của rừng xanh, dạy đạo đức cho thiên hạ. Mong rằng ông tổng Trọng sẽ gửi lại tận tay ông Hồ Cẩm Đào bài báo trên với một câu hỏi nhẹ nhàng: - Toàn thể nhân dân Việt Nam chúng tôi, toàn thể đảng viên CS chúng tội xin hỏi quý vị bài báo này có phản ánh đúng lập trường của quý vị hay không, xin quý vị cho biết rõ để chúng tôi trở về báo cáo lại cho toàn dân chúng tôi. Để xem cử chỉ, thần thái và trả lời của phía Trung Quốc ra sao. Chỉ bằng một việc làm nhẹ nhàng, đơn giản, đàng hoàng như thế, ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Bộ Chính trị đương quyền sẽ được toàn dân, toàn đảng, toàn thế giới tiến bộ hoan nghênh nhiệt liệt, và có thể ghi một nét vàng son trong lịch sử dân tộc. Và như thế lịch sử dân tộc sẽ thật sự sang trang từ đây. Blog Bùi Tín (VOA)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 18, 2011 5:44:46 GMT 9
TQ Đăng Hồ Sơ Mật Chiếm Hoàng Sa 1974: Hà Nội Cảm Ơn TQ Đã Chiếm Hoàng Sa (12/15/2011) TQ Đăng Hồ Sơ Mật Chiếm Hoàng Sa 1974: Hà Nội Cảm Ơn TQ Đã Chiếm Hoàng Sa, Ông Dũng lập tức nói TQ đã sai trái dùng vũ lực
HANOI/BEIJING (VB) -- Tại sao sau nhiều thập niên chính phủ CSVN giữ im lặng, cho tới hôm 25-11-2011 Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố rằng Hoàng Sa là của VN, và khẳng định rằng chính quân đội TQ đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa? Có phải ông Dũng tuyên bộ như thế để trả lời một giảỉ thích từ phía Trung Quốc rằng chính Hà Nội đã vui mừng, đã ra bản văn cảm ơn đàn anh Bắc Kinh ngay sau khi Hải Quân TQ đánh bại Hải Quân VNCH vào tháng 1-1974? Trước khi ông Dũng tuyên bố như thế 2 tuần lễ, một hồ sơ mật được suy đoán là do TQ đưa ra trên mạng Canglang.com đã nói thẳng rằng chính phủ Bắc Việt, tức CSTN, đã gửi thư cảm ơn quân đội TQ đã đánh bại Hải Quân VNCH để chiếm Tây Sa (tức Hoàng Sa) giùm cho Bắc Việt. Lúc đó tức khắc, nhà nước Bắc Kinh nói rằng không có gì để cảm ơn hay đánh chiếm giùm, vì Tây Sa (tức Hoàng Sa) là của dân tộc Trung Quốc từ xa xưa rồi. Bài viết tiếng Hoa trên mạng này có nhan đề là “Tái hiện tin mật về xung đột Trung – Việt trong trận hải chiến Tây Sa năm 1974” đăng ngày 7-11-2011, tức là 2 tuần lễ trước khi Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố TQ đã dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa. Đặc biệt, hồ sơ mật của Trung Quốc đã ghi nhận rằng các chiến binh VNCH trong trận giữ đảo Hoàng Sa đã chiến đấu rất can đảm tới phút cuối, kể cả khi đánh cận chiến bằng lưỡi lê và dao. Có chỗ cần ghi chú, tàu Nhật Tảo của VNCH được hồ sơ TQ gọi là tàu Sóng Dữ. Các chỗ ** là được TQ xóa đi có lẽ vì cần bảo mật một số chi tiết. Hồ sơ này của TQ cũng cho biết, bên cạnh số tù binh VNCH bị quân TQ bắt còn có 1 cố vấn quân sự Hoa Kỳ. Đặc biệt, hồ sơ còn tiết lộ, quân TQ đã muốn chiếm Tây Sa từ lâu, và cơ hội này là đúng thời điểm quân Mỹ rút lui, bởi vì nếu TQ không đánh chiếm Hoàng Sa, “đợi đến hơn một năm nữa thôi, Việt Nam sau khi thống nhất sẽ tiếp quản luôn cả mấy hòn đảo ở đó, thì nỗi rầy rà của phía Trung Quốc sẽ còn lớn hơn.” Bản dịch của Quốc Trung đăng trên basamnews (http://anhbasam.wordpress.com/) hôm 14-12-2011 trích như sau: “...Trận chém giết lẫn nhau bên trong hồ đá ngầm lại còn oanh liệt hơn, tác chiến trong một phạm vi nhỏ hẹp đầy những rạn san hô, không có khoảng chừa cho tác chiến cơ động, ai là kẻ dũng cảm sẽ chiến thắng, thế là hai tàu 396 và 389 dồn hỏa lực công kích vào tàu “Lý Thường Kiệt”. Tại đó, quân Nam Việt ở vào thế bất lợi, tàu “Sóng Dữ” nguyên là một chiếc tàu dò mìn, tốc độ cao nhất cũng chỉ có 14, có lòng mà giữ được hiệp đồng với tàu “Lý Thường Kiệt”. Cho nên, hai bên vừa bắn nhau, tàu “Sóng Dữ” chỉ có thể tạm thời bắn trước về phía đảo Quảng Kim, rồi chỉ còn cách đứng nhìn tàu “Lý Thường Kiệt” bị quân ta tập trung công kích mà chẳng có cách gì đi vào chi viện. Khi ấy, hỏa lực mạn bên lớn nhất của quân Việt là 1 khẩu pháo 127 ly, 3 khẩu pháo 40 ly, một khẩu pháo 20 ly và 2 khẩu súng máy, còn bên quân ta thì vũ khí dùng được là 1 khẩu pháo 85 ly, 6 khẩu pháo 37 ly, 4 khẩu pháo 25 ly và 4 khẩu súng máy. Chỉ cần tiếp cận được hoàn toàn vào tàu địch, không để cho khẩu pháo 127 ly này phát huy uy lực, thì ở chiến trường cục bộ này, bên quân ta vẫn có thể giành được ưu thế hỏa lực tương đối. Hai tàu 396 và 389 một bên ép sát, một bên nhả đạn pháo lên tàu “Lý Thường Kiệt”. Lúc này, 1 phát đạn pháo 127 ly từ dưới nước vọt trúng tàu “Lý Thường Kiệt”, xuyên thủng khoang máy, nhưng không nổ. Thì ra vì cự ly chiến đấu giữa hai bên quá gần, nên đạn pháo chi viện cho tàu bạn từ tàu “Trần Bình Trọng” đã bắn nhầm phải người mình. Khi đó, tàu “Sóng Dữ” lao tới, bắn thọc đằng sau lưng biên đội của ta. Thế cục thay đổi trong nháy mắt, khiến cho tàu 389 bị quân địch tấn công từ hai phía bốc cháy nhiều chỗ. Mặc dù đã trúng đạn đầy mình, nhưng tàu 389 vẫn ép sát tàu địch, các chiến sĩ trong tình thế nguy cấp đã ôm luôn cả bệ phóng rocket, xách luôn cả súng tiểu liên, tay cầm lựu đạn, đúng là một trận đánh dũng mãnh, đã xảy ra một trận “đấu lưỡi lê trên biển” hiếm thấy trong lịch sử các cuộc hải chiến, quả là một trận xáp mạn tàu khiếp vía kinh hồn! Thuyền trưởng tàu “Sóng Dữ”, thiếu tá họ Ngụy [Văn Thà] đã mất mạng trong trận chiến trần trụi bằng lưỡi lê trên biển này. Lúc này, tàu “Lý Thường Kiệt” quay về hồ đá ngầm, chuẩn bị cầu cứu tàu “Sóng dữ”. Đạn pháo trên tàu 389 đã bắn hết sạch, thuyền trưởng tàu Tiêu Đức Vạn hạ lệnh nạp bom chống tàu ngầm, quyết cùng chết với tàu địch. Còn thượng úy (2) họ Nguyễn (tức Nguyễn Thành Trí: BTV) chỉ huy thay thế tàu “Sóng dữ” thì muốn cố sức đâm chí mạng vào tàu 389. Chính trong thời khắc nguy cấp ấy, tàu 396 đã chuyển hướng đón chặn trước mặt tàu “Lý Thường Kiệt”, yểm trợ cho tàu 389 thoát hiểm.... ... Trận phản kích tự vệ Tây Sa không hề được coi là trận hải chiến quy mô lớn. Khi trận chiến kết thúc, Bắc Việt ** lập tức ra tuyên bố, “cảm ơn chính phủ Trung Quốc đã giúp đỡ họ giải phóng Tây Sa từ tay Nam Việt”. Điều này đồng nghĩa với việc đề xuất với Trung Quốc yêu cầu về lãnh thổ Tây Sa. Chính phủ Trung Quốc không đếm xỉa gì đến chuyện này, gọi trận chiến đó là “trận phản kích tự vệ”, nhấn mạnh Tây Sa từ xa xưa đã là lãnh thổ của Trung Quốc. Trung Quốc thu hồi lại lãnh thổ của mình từ tay “ngụy quân Nam Việt” từ sự hỗ trợ của Mỹ. Chính nước cờ hay tuyệt diệu này đã khiến cho Trung Quốc giành được thế chủ động trong tương lai về vấn đề Nam Hải. Và cũng chính điểm này, sau khi Nam – Bắc Việt Nam thống nhất, đã trở thành một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến Việt Nam dựa vào Liên Xô, thù địch với Trung Quốc.... ...Ngày 20 tháng 1, bộ đội tinh nhuệ của Trung Quốc đã đến Tây Sa, dưới sự yểm trợ của hỏa lực pháo hạm, đã chiếm gọn cả 3 hòn đảo từng bị hải quân Nam Việt chiếm giữ từ năm 1956, bắt sống 48 tên địch, trong đó có 1 sĩ quan liên lạc Mỹ.... ...Còn ý nghĩa thực sự của trận chiến ở Tây Sa, nằm ở chỗ đã tiêu diệt được quân đội Nam Việt chiếm cứ ở đó từ năm 1956, là đã đánh đuổi sạch thế lực Nam Việt. Nếu không, đợi đến hơn một năm nữa thôi, Việt Nam sau khi thống nhất sẽ tiếp quản luôn cả mấy hòn đảo ở đó, thì nỗi rầy rà của phía Trung Quốc sẽ còn lớn hơn. ...Lời cuối: Nghe nói sau khi Trung Quốc thu hồi Tây Sa, Bắc Việt là đồng chí và anh em với chúng ta khi ấy, đã gửi điện cảm ơn chính phủ Trung Quốc: Cảm ơn anh em Trung Quốc đã thay chúng tôi thu hồi lại được quần đảo Tây Sa từ tay quân tay sai Nam Việt! Chính phủ Trung Quốc đã từ chối bức “Điện cảm ơn” này, đây cũng là sự khởi đầu cho việc từ chỗ thừa nhận đến chỗ trở mặt về chủ quyền đối với Nam Sa của Trung Quốc từ phía Việt Nam.”(hết trích) Phần trên do VB trích chỉ một phần, trong khi hồ sơ này rất dài, kèm theo nhiều hình ảnh tàu chiến và tù binh VNCH, cho thấy quan điểm cụ thể từ Bắc Kinh về trận đánh Hoàng Sa. Và cho thấy Hà Nội đã gửi thư cảm ơn Bắc Kinh đã chiếm đaỏ từ quân đội Sài Gòn. Đó là lý do, 2 tuần lễ sau khi hồ sơ này lên mạng, vào ngày 25-11-2011 Thủ Tướng CSVN Nguyễn Tấn Dũng kể tội TQ về chuyện chiếm Hoàng Sa. Nhưng ông Dũng không nói rằng Bắc Việt đã gửi thư cảm ơn TQ...
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 28, 2011 5:00:15 GMT 9
Vụ « Quán Cụ Hồ » đi tới đâu rồi ?
Hơn 2000 chữ kí "bảo vệ gia đình Võ Văn Thận"Tính đến ngày 26.12.2011, 2030 người đã ký tên vào bản kiến nghị phản đối quyết định "dẹp" quán Monge và bảo vệ "gia đình Võ Văn Thận và nhân viên phục vụ". Hơn một nửa là người dân quận 5, khách hàng quen của quán ăn. Thành phần xã hội thực là đa dạng : thương gia, lao động, nhà giáo, nhà khoa học, sinh viên, nghệ sĩ, luật gia, công chức (chúng tôi đếm có mấy người là "cẩm" cảnh sát), ông thị trưởng Quận 14, nhiều nhân viên tòa thị chính các quận 5, 13, 14 Paris. Trong số đông đảo người Việt Nam ký tên, có những người sống trong nước, đã từng có dịp sang Pháp và biết "Quán Cụ Hồ" và chủ quán - nhà thơ : nhà kinh tế Lê Đăng Doanh, các nhà thơ nhà văn Thanh Thảo, Nguyễn Duy, Dương Tường, Hoàng Hưng, Ly Hoàng Ly, Vi Thùy Linh, Đà Linh Nguyễn Đức Hùng, Minh Thái, họa sĩ Phan Ngọc Minh, nhà giáo Phạm Toàn, Trần Trí Dõi, Nguyễn Thị Từ Huy, Nguyễn Văn Hiệp, Nguyễn Hồng Cổn, nhà báo Ý Nhi, Hồ Nhật Thảo, nhà khoa học Vũ Hải Long... Từ các nước Âu Mỹ : Nguyễn Minh Thọ, Nguyễn Huỳnh Mai, Roland Poirrier (Bỉ), Hoàng Văn Khẩn, Đỗ Tuyết Khanh, Hồ Văn Tiến, Lê Phạm Ngưng Hương, Lê Huy Sơn, Phan Quốc Tuyên, Hồ Thị Như Quỳnh, Nguyễn Thị Trâm - Berger (Thụy Sĩ), Nghiêm Xuân Kính, Lê Hải Lý, Trần Văn Cung, Trần Thu Thủy, Vũ Mạnh Cường (Đức), Ngô Vĩnh Long, Vũ Quang Việt, Đào Vân Hương, Đinh Cường, Nguyễn Đình Thuần, Đỗ Kh. (Hoa Kì), Turine Trần Việt Tú (Anh), Đào Hữu Dũng (Nhật). Tại Pháp, trong số những người ký tên : Hà Dương Tuấn, Đặng Tiến, Phạm Xuân Yêm, Bùi Đức Hào, Bùi Đức Thị Vân, Bùi Chưởng, Colette Bùi Trọng Liễu, Lê Thành Khôi, Thẩm Hồng Anh, Trần Bích Thủy, Vũ Ngọc Quỳnh, Nguyễn Ninh, Nguyễn Thị Xuân Sương, Nguyễn Văn Khoa, Cao Thiện Phước, Đinh Cao Minh, Trần Tố Nga, Phan Hồng Hạnh, Joël Luguern, Phan Văn Trà, Trần Hải Hạc, Phạm Thị Uyên, Phạm Tư Thanh Thiện, Nguyễn Chí Thiện, Nguyễn Đình Lan, Nguyễn Thị Kim Dung, Nguyễn Ngọc Giao, Trần Tứ Nghĩa, Hoàng Thị Minh Nguyệt, Đặng Nhất Lập, Giang Marc, Đặng Lãm Thúy, Đặng Tam, Ngô Thiện Hớn, Phạm Văn Đỉnh, Nguyễn Đình Hải, Hà Dương Tường, Nguyễn Thị Thanh Tùng, Nguyễn Phạm Đôn, Phạm Lê Tuấn, Phạm Nicole, Phan Phạm Thúy, Thái Quang Nam, Trần Đình Nam Anh, Vũ Ngọc Oánh, Vũ Quỳnh Châu, Nguyễn Vũ Thị Xuân Phương, Đặng Đình Cung, Nguyễn Quang Đỗ Thống, Vũ Văn Luân, Nguyễn Trọng Hùng, Nguyễn Nam Trân, Đào Bạch Tuyết, Trần Minh Tâm, Bùi Thái Khánh Linh, Trương Anh Loan, Đào Dương Anh, Vương Quan Mai, Vương Nina...
Trong bài Ai gửi côn đồ tới cướp phá "Quán Cụ Hồ" ? đăng trên Diễn Đàn ngày 13.11.2011, chúng tôi đã tường thuật vụ phá cửa đột nhập Foyer Việt Nam (ở số 80, rue Monge, Quận 5, Paris) sáng thứ bảy 12.11.2011. Bảy tám người Pháp, dưới sự chỉ huy của hai anh em ông N.B. (người mang giấy « ủy quyền » của đại sứ quán Việt Nam tại Pháp), đã tỏ rõ trình độ của một đội biệt kích lão luyện. Trong vòng ít phút, họ đã gần như đồng thời tiến hành mấy công đoạn sau đây : đập vỡ 4 ô kính ở cửa vào quán ăn, bẻ khóa, đột nhập tầng trệt (phòng quán ăn), sau đó chặn bít tất cả các cửa trước và sau và các cửa nhà bếp, bịt kít hàng chục mét vuông các cửa kính trông ra phố Monge và phố Pestalozzi xông lên lầu, dồn vợ chồng ông Võ Văn Thận, hai con gái nhỏ (5 và 8 tuổi) và hai con trai nhà thơ Thanh Thảo (ở tạm trú trên đường từ Ý về nước) vào hai căn phòng nhỏ, không có phòng vệ sinh, không nước, không bếp núc. mang một tấm gỗ chữ nhật, với kích thước đã đo đạc vừa khít, bít lối thông ra cầu thang xuống tầng dưới. thay máy điện thoại bằng một máy khác, có sẵn lời nhắn « Quán Monge tạm đóng cửa, sửa sang ». Những áp phích với nội dung tương tự cũng được dán trên cửa kính trông ra hai mặt đường. cuavao Cửa vào quán Monge bị đập vở 4 ô kính, bẻ khóa, bịt kín bằng 2 tấm ván và khóa chặt bằng hai sợi xích (ảnh biên bản của thừa phát lại). Thế là nội bất xuất, ngoại bất nhập, họ chiếm lĩnh toàn bộ tầng trệt và tầng hầm, lục lọi đồ đạc, mang đi các hồ sơ giấy tờ sổ sách, những vật dụng, họa phẩm mà đến nay hình như chủ quán vẫn chưa có can đảm kiểm kê đầy đủ (điều chắc chắn là số tiền 600 Euros mà anh Hồ Nhật Thảo nhận lời của một « chú Việt Kiều » mang về cho người anh ruột ở Đà Nẵng đã không cánh mà bay ra khỏi cái phong bì còn ghi tên và địa chỉ người nhận). Gia đình ông Võ Văn Thận khó có thể sống trong khung cảnh ấy, ắt sẽ phải dọn đi nơi mà họ không cần trục xuất thêm bằng võ lực. Sự tính toán và thực hiện gần như hoàn hảo : ông Thận có khiếu nại và đòi người chủ phải bồi thường, sa thải theo đúng luật lao động của nước Pháp, thì cứ khiếu nại, mọi sự sẽ tính sau. Trụ sở này, người đứng tên ký hợp đồng thuê là sứ quán Việt Nam tại Pháp, mà quan hệ Việt-Pháp lại đang tốt đẹp, chắc rằng chính phủ Pháp sẽ chẳng xía vô một chuyện « nhỏ như con thỏ » như vậy – ông tham tán bí thư đảng ủy đã từng tuyên bố một câu xanh rờn trước đó mấy tháng với ông Thận : « Quán Monge là lãnh thổ Việt Nam, chuyện này chỉ cần 48 giờ chúng tôi giải quyết là xong, tôi nói anh có hiểu không ? ». Làm việc gần 11 năm trời, nhưng không có hợp đồng lao động, giấy lương không có một tờ, đương sự cứ đi kiện đi, có khi « con kiến lại kiện củ khoai » cho mà xem. Trong khi chờ đợi, « Quán Monge » được sửa sang, làm mới, sẽ « không là của tư riêng, không nhằm mục đích có lợi nhuận, chỉ để hỗ trợ các sinh hoạt hội đoàn nhờ phòng sinh hoạt sẽ được thành lập và quán ăn tập thể » như lời khẳng định chắc nịch trên trang mạng www.foyer-vietnam.org (mới xuất hiện cùng ngày với cuộc biệt kích), hay chỉ là một cái bình phong, để sẽ mở ra ở đây, với hợp đồng mới, một công ti làm ăn gì đó, với vốn liếng từ đâu đó, như thông tin của một cán bộ sứ quán cho chúng tôi biết (với điều kiện là chúng tôi không được phép tiết lộ danh tính) ? Xét cho cùng, sứ quán là người đứng ra thuê nhà theo hợp đồng, thì sứ quán hoàn toàn có quyền chỉ định người quản lý, hay thương lượng với chủ nhà để chấm dứt hợp đồng trước kỳ hạn và giới thiệu người thuê khác, ký hợp đồng làm ăn khác... bitkin Cửa kính hai mặt tiền bị che kín (ảnh biên bản của Thừa phát lại). Chỉ có điều, làm gì thì làm ở trụ sở 80 phố Monge, cũng không được quên rằng đây là lãnh thổ Pháp. Đây không phải là nơi có đặc quyền ngoại giao (extraterritorial) như trụ sở sứ quán, mà là trụ sở thương mại, phải tuân thủ pháp luật của nước Pháp về thương mại, về lao động... Không thể hô một tiếng, là người làm thuê phải « giải tỏa », « 48 giờ là giải quyết xong », như lời phán của ông bí thư đảng ủy (khổ một nỗi, ông í có vẻ rất tin vào điều mình nói). Có lẽ cũng nên thông cảm với ông ta, bộ máy tổ chức cử ông ấy sang công tác « đảng », chắc không kịp đào tạo những điều sơ đẳng nhất về ngoại giao và pháp lý. Điều khó hiểu hơn, là những người lãnh đạo đương nhiệm của Hội người Việt Nam tại Pháp (là người đã sử dụng ông Võ Văn Thận từ ngày 1.1.2001 đến 10.5.2011) cũng ù ù cạc cạc về pháp luật như vậy : họ cho rằng không có hợp đồng lao động, ông Thận làm « chui », thì sa thải lúc nào, thế nào cũng được. « Hội » chịu đưa một số tiền tượng trưng, không chịu thì « Hội » trả lại sứ quán, lúc đó đừng trông chờ sẽ được bồi thường gì hết. Thế là « Hội » đã giữ lời : một văn thư của sứ quán xác nhận là kể từ ngày 10.5.2011, HNVNTP đã trao trả Quán Monge cho sứ quán, và ngày 2.9.2011 sứ quán đã ủy nhiệm cho ông N.B. làm quản lý Quán Monge. Ông N.B. là một doanh nhân ăn nên làm ra, nhưng hiểu biết về pháp luật cũng hơi bị hạn chế. Nếu chịu khó tham khảo luật lao động, hay giản tiện nữa hơn, tham vấn bất cứ một luật sư nào có chút hiểu biết về luật lao động, thì các vị biết rằng : khi một người chủ « thuê chui » người làm công, không hợp đồng, không khai báo, thì cả hai đã vi phạm pháp luật, nhưng người chủ phải chịu trách nhiệm lớn hơn. cụ thể, người làm công chỉ vi phạm một điều là có thu nhập mà không khai thuế – và theo pháp luật hiện hành, sẽ phải đóng thuế trên thu nhập của ba năm cuối (từ bốn năm trở về trước thì xí xóa) và một số tiền phạt do sở thuế quy định. còn người chủ sẽ bị phạt nặng và phải đóng tiền URSAFF (quỹ bảo hiểm xã hội) cho 10 năm gần đây đồng thời phải bồi thường cho người làm công mà mình muốn sa thải (tiền bồi thường căn cứ vào tiền lương và thời gian làm việc). Đó là khi vụ việc ra trước tòa án lao động. Còn trước đó, người chủ và người làm công (hay cố vấn pháp lí của hai bên) có thể thương lượng một giải pháp êm thấm, hai bên cùng có lợi (nếu chính quyền sở tại quyết định xí xóa những vi phạm kể trên). Thay vì chọn giải pháp này, thừa dịp đại sứ Lê Kinh Tài kết thúc nhiệm kì, đại sứ Dương Chí Dũng mãi đến ngày 22.12.2011 vừa qua mới trình quốc thư với tổng thống Pháp, một « hạt nhân cứng » ở sứ quán đã quyết định chọn giải pháp « mạnh ». Và kết quả là : (1) nay chỉ còn cách thương lượng một cách hợp pháp ; (2) vụ dùng cơ bắp côn đồ để « tiếp quản » mang những yếu tố hình sự đang chờ Công tố viện Paris quyết định xử lý. Tại sao có chuyện tai tiếng này ? Tại sao Quán Monge đã hoạt động « bên lề pháp luật » trong bao nhiêu năm trời mà không có điều tiếng gì, và nhà cầm quyền sở tại vẫn để yên ? Ngược lại, Quán Monge từ mấy năm nay đã trở thành một địa chỉ « không thể thiếu vắng » trong cảnh quan Khu Latinh, thân thuộc với hàng xóm láng giềng, với giới đại học và nghiên cứu, với kiều bào và với đồng bào, cán bộ ở Việt Nam ghé qua, thì tại sao « hạt nhân » lãnh đạo HNVNTP lại đương nhiên quyết định sa thải ông Thận ? Trước khi trả lời một phần những cái « tại sao » ấy, có lẽ cũng nên ngược dòng thời gian, nhắc lại lịch sử « Quán Cụ Hồ », cũng là nhắc lại lịch sử đời sống của cộng đồng người Việt ở Paris từ hơn nửa thế kỉ nay. Nhắc lại lịch sử cũng sẽ giải thích một phần cái quy chế rất đặc biệt của « quán ăn không giống những quán ăn khác ». « Quán Cụ Hồ » quan Quán Monge những ngày giáp tết Đinh Hợi 2007 Tên chính thức của Quán Monge là « Foyer Viet Nam », nhưng bà con vẫn quen gọi là « Quán Cụ Hồ ». Nhiều người cho rằng, và không ít bài báo đã giải thích : quán ăn có treo hình Cụ Hồ. Đúng là ở ngay quầy đặt ở cửa vào, người ta có thể thấy bức chân dung chủ tịch Hồ Chí Minh của nhà nhiếp ảnh Roger Pic, tác giả nhiều phóng sự điện ảnh về Việt Nam những năm 60 và 70. Đây không phải là bức chân dung chính thức, trang nghiêm, mà là bức ảnh thân mật, Cụ Hồ phì phèo điếu thuốc (cũng hơi phi pháp vì vi phạm đạo luật Evin cấm quảng cáo thuốc lá). Cách đây không lâu, tấm áp phích quảng cáo phim « Ông Hulot nghỉ hè » của Jacques Tati còn bị cấm vì Tati miệng ngậm cái tẩu. Nhưng đây là tấm hình lịch sử, lại để trong phòng, nên thanh tra sở vệ sinh thường xuyên đến kiểm tra cũng không thấy nói gì. Có điều chắc chắn, là « Quán Monge » có lẽ là tiệm ăn duy nhất trên thế giới, có treo hình chủ tịch Hồ Chí Minh. Những ai về nước, đi ăn ở các quán sang trọng hay bình dân, đều không bao giờ thấy hình Cụ Hồ, chỉ thấy bàn thờ thần tài nghi ngút đèn nhang hương khói. Nhưng vậy mà không phải vậy. Tấm hình trên mới chỉ xuất hiện từ mấy năm nay (theo lời chủ quán, ông tình cờ tìm thấy tấm hình này dưới nhà kho, tầng hầm – đó là tấm poster mà Hội sinh viên Việt Nam tại Pháp đã in ra vào những năm 70. Thấy đẹp quá, nên ông Thận đã quyết định treo lên). Còn cái tên « Quán Cụ Hồ » đã có trong cửa miệng người Việt Nam ở Paris từ lâu lắm rồi. Lâu là từ bao giờ. « Ít nhất là từ năm 1958 », một anh bạn khẳng định với chúng tôi như vậy. Chứng từ của anh đủ chính xác, nhân thân đủ điều kiện để chúng tôi tin như vậy. Anh bạn kể : « Đầu tháng 10.1958, tôi được học bổng Ngô tổng thống từ Sài Gòn sang Paris du học. Khoảng trung tuần tháng 10.58, tôi được ông đại sứ Việt Nam Cộng Hòa, bác sĩ Phạm Khắc Hy, tiếp tại tòa đại sứ, ở 45 avenue de Villiers. Ông Hy dặn dò tôi : thế nào cũng thèm cơm Việt Nam, cố nhịn ít lâu, đừng có đi ăn Quán Cụ Hồ, vài tháng nữa, Quốc gia sẽ mở quán ăn cho sinh viên ». « Nhờ ông đại sứ Hy, tôi mới biết ở Paris có « Quán Cụ Hồ », và tôi mới đi tìm ! Còn quán « Quốc gia » mà ông Hy nói, chính là Quán Monge, khánh thành khoảng đầu năm 1959 », anh bạn kể tiếp. Nếu ông đại sứ thật thà kia thuộc tên « Quán Cụ Hồ » thì chắc nó cũng phải tồn tại từ khá lâu trước đó. Theo điều tra của chúng tôi, đó là quán ăn của Liên hiệp Việt kiều (mà chủ tịch là bác sĩ Nguyễn Khắc Viện), đặt tại trụ sở của hội, ở số 4 rue Git-le-Coeur (đây là đường phố nhỏ, chạy từ phố St André des Arts ra sông Seine, song song với đại lộ St-Michel, gần ngay quảng trường St-Michel). Quán ăn này hoạt động từ năm 1957, tiếp nối những quán ăn sinh viên « tiền thân » trong thời Kháng chiến, ở phố Jean de Beauvais hay phố Pascal. 1959, năm « Quán Quốc gia » bắt đầu hoạt động ở 80 rue Monge cũng là một thời điểm có ý nghĩa trong lịch sử bang giao Pháp-Việt. Cho đến năm ấy, chính sách của « Việt Nam Cộng Hòa » tóm tắt vào tiêu ngữ « đả thực, bài phong, chống cộng ». Đả thực đây là Hoa Kỳ hất cẳng Pháp ra khỏi miền Nam, tiện thể quét một lớp sơn « chống thực dân » lên chế độ Ngô Đình Diệm. Bài phong là truất phế quốc trưởng Bảo Đại, thành lập « đệ nhất cộng hòa », ông Diệm lên ngôi tổng thống. Chống cộng thì khỏi phải nói dông dài, chỉ cần nhận xét là đàn áp cộng sản dài dài (và không chỉ cộng sản, cả những tổ chức quốc gia đối lập) song cộng sản không hết, mà còn nổi dậy "đồng khởi". Có lẽ đây cũng là lúc vai trò của đồng minh Hoa Kì bắt đầu hơi nặng nề, nên chính quyền Sài Gòn tìm cách cải thiện quan hệ với Paris. Tướng De Gaulle cũng không muốn gì hơn, vì nhiều lẽ, trong đó có cái lẽ kinh tế (bảo vệ các công ti Pháp, thí dụ như đồn điền cao su Michelin). Trong cuộc đổi chác này, chính phủ Michel Debré đã giải tán Liên hiệp Việt kiều (phải mười năm sau, Hội Liên hiệp Việt Kiều tại Pháp mới được chính thức thành lập trở lại), và thỏa thuận để tòa đại sứ VNCH mở « căng tin » phố Monge để « sinh viên quốc gia » không lai vãng « Quán Cụ Hồ » mà « nhiễm độc cộng sản ». Thế là « Quán Monge » hoạt động như một căng tin dành cho sinh viên, không phải tuân thủ luật lệ dành cho quán ăn thương mại, không phải đóng thuế. Quản lí Quán Monge là một cựu tham tán đã từng bị tai tiếng trong vụ « 300 hồ sơ chuyển ngân ma » (1), nhân viên do ông quản lý tuyển dụng, không khai báo, không hợp đồng, với sự mặc nhiên « không thấy, không biết » của chính quyền Pháp (sự mặc nhiên ấy tiếp tục suốt 52 năm qua, vì không xảy ra một sự xung đột gì – cho đến năm 2009, sẽ nói sau). Còn « Quán Cụ Hồ » ở phố Git le Coeur phải đóng cửa khi Liên hiệp Việt kiều bị giải thể. Phong trào Việt kiều từ đó, trong suốt mười năm, phải hoạt động nửa bí mật, nửa công khai. Phong trào vững mạnh, mục tiêu đấu tranh hoàn toàn không liên quan tới nội trị nước Pháp, lại được sự ủng hộ của các tổ chức tiến bộ Pháp, nên các hoạt động đa dạng vẫn triển khai, ngày càng mạnh khi Mỹ tăng cường can thiệp ở miền Nam, rồi leo thang ở miền Bắc. Về mặt công khai, có quán ăn Maubert, ở đằng sau tòa nhà nay là sở cảnh sát quận 5, gần góc đường Montagne Ste-Geneviève và đầu đường Monge. Đây là một quán ăn tư nhân, do một phụ nữ Pháp (vợ của bác Lê Văn Phu, công nhân) đứng làm chủ. Quán tư nhân, không có dấu hiệu, biểu ngữ gì, nhưng đầu bếp là những bác « lính thợ » sang Pháp từ 39-40, sau đó từng làm công nhân ; dọn bàn, giữ két là những anh chị em sinh viên hay trí thức trẻ. Những người bị « cắt chuyển ngân », có thể xin tới đây dọn ăn, được bữa ăn và một chút tiền phụ vào việc ăn học. Ai quen các bác công nhân, la cà với các bác để xin một điếu thuốc lào (ống điếu là cái chai nước bạc hà Ricqlès, mà bác Văn Thự, người thợ thủy tinh chuyên nghiệp đã khoan và hàn một cái nõ điếu cũng bằng thuỷ tinh), vào trong « văn phòng » cạnh nhà bếp, sẽ thấy một trang giấy ghi đôi câu đối, thủ bút của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện : Bán rượu, bán chè, không bán nước Ăn cơm, ăn thịt, chẳng ăn Ngô. (Ngô đây không phải là bắp, mà là chính quyền gia đình trị họ Ngô). Tên quán ăn là Le Maubert (tên quảng trường cạnh đó, cũng là tên trạm métro), nhưng bà con người Việt vẫn quen gọi là « Quán Cụ Hồ ». Quán Maubert mở ra vào cuối năm 1959, khi Liên hiệp Việt kiều bị giải thể, quán Git-le-Coeur phải đóng cửa. Thế là, trong hơn 15 năm trời, cuộc « chiến tranh chính trị » đã diễn ra ở trung tâm Paris dưới dạng thức « ẩm thực », giữa quán Maubert ở đầu phố Monge và quán Monge ở cuối phố (cách nhau 973 mét, theo . Cuộc đấu tranh ấy kết thúc vào ngày 30.4.1975, khi Cơ quan đại diện của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản « Quán Monge » từ Sứ quán của nhà nước Việt Nam Cộng Hòa đã cáo chung. Một năm sau, đất nước thống nhất, hai quán ăn cũng vậy. Đặt tại 80 rue Monge, quán ăn từ nay mang tên « Foyer Viet Nam », nhưng mọi người vẫn quen gọi là « Quán Cụ Hồ ». Từ năm 1976, Foyer Viet Nam vẫn do sứ quán Việt Nam chính thức đứng tên trên hợp đồng, nhưng đã trao quyền quản lý cho phong trào Việt kiều. (đón đọc phần thứ II) (1) Chuyển ngân : sinh viên miền Nam được phép du học tại Pháp trong thời gian 1954-1975 có thể được cấp "sổ chuyển ngân", mỗi tháng gia đình có thể gửi cho khoảng 1000 Francs (mới) theo hối suất chính thức. Hối suất này cao gấp đôi hối suất tự do. Nếu tằn tiện, 500 F có thể đủ sống, do đó, nhiều sinh viên bán lại 500 F theo hối suất tự do, và gia đình coi như không tốn đồng nào cho con ăn học. "Sổ chuyển ngân" do đó là công cụ trấn áp sinh viện khá hữu hiệu : người nào ngấp nghé "theo Việt cộng", bị chỉ điểm báo cáo cho "tòa đại sứ" là bị "cắt sổ chuyển ngân", chỉ còn cách vừa đi học (ít) vừa đi làm (nhiều). Đây cũng là nguồn lợi béo bở cho những nhân viên sứ quán, làm "hồ sơ ma" để buôn tiền. Có vụ lên tới 300 hồ sơ "chuyển ngân ma". ********************** Chủ quán Cụ Hồ ở Paris 'bị đuổi hai lần' Cập nhật: thứ năm, 12 tháng 1, 2012 Ông Võ Văn Thận khi còn đứng quán ở Foyer Vietnam Báo Đức Der Spiegel vừa có bài nói về số phận của người đầu bếp Việt Nam ở Quán Cụ Hồ tại Paris, từng bị “cộng sản phá đám”. Tuần báo danh tiếng của Đức trong bài của Mathieu von Rohr trên trang mạng hôm 9/1/2012 kể chuyện đầu bếp Võ Văn Thận ở quán Foyer Vietnam gặp rắc rối khi bị chủ thuê là Đại sứ quán Việt Nam ở Paris tìm cách đuổi đi. Các bài liên quan Quản lý 'Quán Cụ Hồ' kể chuyện bị tấn côngNghe13:26 Nghiên cứu Hồ Chí Minh như thế nào? Chủ đề liên quan Văn hóa, Người Việt ở nước ngoài Bài 'Bấm Cộng sản xua đuổi một đầu bếp Việt', nêu ý rằng đây là chuyện lịch sử lặp lại. Theo bài báo, đầu bếp Võ Văn Thận từng chạy khỏi Việt Nam khi vượt biên và được định cư ở Pháp nhưng lại một lần nữa trở thành đối tượng của một chiến dịch xua đuổi. Những điều xảy ra với ông gồm cả chuyện một số nhóm bất hảo đến tấn công nhà hàng Foyer Vietnam (thường được gọi là Quán Cụ Hồ) vào một buổi đêm. 'Muốn tống khứ đi' “Đại sứ quán Việt Nam và hội đoàn chủ trì muốn tống khứ, nhưng ông thì muốn ở lại. Trong bọn người tìm cách đuổi Thận có cả viên quản lý quán sẽ thay thế ông ta. Y đã buộc phải rút lui và Thận được phép tạm ở lại. Hai nghìn thực khách đã ký vào thỉnh nguyện thư ủng hộ ông,” bài báo viết. Câu chuyện về Quán Cụ Hồ trên đường Monge rìa Quartier Latin đã được một số báo tiếng Việt nhắc tới và BBC cũng đã Bấm phỏng vấn đầu bếp Võ Văn Thận khi sự việc xảy ra trong năm 2011. "Foyer Vietnam là quán ăn Việt duy nhất ở Paris có treo hình Hồ Chí Minh trên tường" Nhưng bài trên tờ Der Spiegel, tác giả còn kể về quá trình lập nghiệp của ông Thận, năm nay 59 tuổi, và từ một người tỵ nạn đến Pháp năm 1979 vốn không thích cộng sản, ông đã đồng ý treo hình của cố Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quán để 'hòa giải'. “Võ Văn Thận, người điều hành quán, dáng vẻ cũng hao hao giống Hồ Chí Minh, với chòm râu dài nhuốm bạc, trán cao, chỉ mỗi chiếc áo trắng đứng bếp là chả hợp tí nào,” “Khi chiến tranh kết thúc và miền Nam thất thủ năm 1975, thoạt đầu Thận cũng đã bị giam giữ. Tài sản gia đình bị trưng thu. Ông đã trốn chạy cùng vợ con trên một chiếc thuyền bé cỏn con, đã đến được Mã Lai và cuối cùng là Paris.” "Thận đã học nấu ăn tại "Au Pied de Cochon", một quán ăn nhẹ ở khu chợ Halles, rồi mở một quán Việt ở vùng ven. Nghề nấu bếp đã mang lại hạnh phúc cho ông." Tờ Der Spiegle cho rằng đây là một quán ăn nổi tiếng mà số phận nay không rõ ra sao: “Món ăn đơn giản nhưng ngon đến nỗi ngôi sao đầu bếp Alain Ducasse đã từng đề cập đến trong một tựa sách. Và Foyer Vietnam là quán ăn Việt duy nhất ở Paris có treo hình Hồ Chí Minh trên tường,” "Thận hy vọng rằng câu chuyện việc hòa giải này sẽ không biến thành sự vụ của những vết thương không bao giờ hàn gắn được. Thế nhưng ông ta cũng cảm thấy khó thể trụ lại được." Bài báo khép lại với một nét bi quan rằng “thứ năm vừa qua, cảnh sát đã tạm thời đóng cửa quán”. Theo trang Bấm Diễn đàn Forum ở Paris thì nhà chức trách đóng quán với lý do “khiếm khuyết quan trọng về quy tắc vệ sinh và bảo trì chung các nơi chốn và thiết bị”, điều không được một số trí thức trong cộng đồng người Việt tại Pháp đồng ý
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:50:26 GMT 9
Hồ sơ CSVN: Kỷ luật trung tá Vũ Minh Trí, sĩ quan Tổng cục IINguyễn Chí Vịnh (giữa) với Võ Văn Kiệt (trái) và Trần Quốc Hương tức Mười Hương (phải) Quyết định thi hành kỷ luật trung tá Vũ Minh Trí, số 426/QĐ-BQP Quyết định số 47/QĐ/ĐUTCII Phát biểu của trung tá Vũ Minh Trí trong buổi họp công bố các thi hành kỷ luật
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 11:24:11 GMT 9
Tường thuật lại việc bị tước quân hàm và khai trừ đảngChiều 18-3-2010, chúng tôi gồm ba cán bộ lão thành cách mạng, đảng viên lâu năm là Nguyễn Văn Bé, Nguyễn Văn Tuyến, Trần Đức Quế đã tới nhà thăm đồng chí Vũ Minh Trí, người vừa qua có gửi tới lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước văn bản kiến nghị, tố cáo về tình hình cực kì nghiêm trọng tại Tổng cục II – Bộ quốc phòng. Trong không khí trò chuyện rất thân mật, cởi mở, chúng không gọi nhau là “đồng chí” song ai cũng phấn khởi vì thấy “Lớp cha trước, lớp con sau – Đã thành đồng chí chung câu quân hành”. Dưới đây là một số nội dung trò chuyện, trong đó chúng tôi hỏi, đồng chí Vũ Minh Trí trả lời. *Chúng tôi nghe tin cháu đã bị kỉ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng, tước quân hàm sĩ quan. Tin đó có đúng hay không? Thưa các bác, tin đó là đúng. Ngày 10-2-2010 Bộ quốc phòng có quyết định số 426/QĐ-BQP do thứ trưởng Nguyễn Văn Được kí, theo đó cháu bị thi hành kỉ luật bằng hình thức tước quân hàm sĩ quan. Cùng ngày, Đảng ủy tổng cục II có quyết định số 27-QĐ-ĐUTCII do bí thư Dương Xuân Vinh kí, theo đó cháu bị thi hành kỉ luật bằng hình thức khai trừ ra khỏi Đảng. Hai quyết định này có hiệu lực kể từ ngày kí. Chiều 5-3-2010, đại diện lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II đã gặp, trao cháu hai quyết định này. *Khi nhận hai quyết định này, cháu có tâm trạng ra sao? Từ trái sang phải: Các ông Võ Văn Kiệt, Nguyễn Chí Vịnh, Trần Quốc Hương (tức Mười Hương) Thưa các bác, cháu thấy hoàn toàn nhẹ nhõm, thanh thản bới hai lí do chính: Một là cháu đã dự kiến và chuẩn bị kĩ về mọi mặt, kể cả về mặt pháp lí và công luận cho nhiều tình huống, trong đó có những tình huống gay go, nguy hiểm hơn thế này; Hai là các quyết định trên giúp cháu khẳng định rõ hơn về bản chất, âm mưu, thủ đoạn của đối tượng đấu tranh, từ đó mà bổ sung, điều chỉnh phương hướng, biện pháp đấu tranh cho phù hợp. Trong tâm trạng nhẹ nhõm và thanh thản ấy, cháu thấy có một điểm nực cười, đó là ngày 13-11-2007 cháu có gởi các cấp lãnh đạo, chỉ huy một lá đơn đề nghị cháu xuất ngũ theo quy định, chế độ hiện hành với lí do đã suy giảm nghiêm trọng niềm tin vào nhiều cấp lãnh đạo, chỉ huy. Sau đó, trong gần 2 năm rưỡi qua, cháu nhiều lần nhắc lại đề nghị này trong các bản kiểm điểm đảng viên, nhận xét cán bộ, các lần làm việc với lãnh đạo, chỉ huy… Lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong quân đội thì đã thống nhất quy kết cháu “sai trái, chệch hướng, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, chống Đảng, chống quân đội, chống Tổng cục II”, cần bị “xử lí theo quy định của pháp luật”. Ấy vậy mà tới nay, bằng quyết định tước quân hàm sĩ quan chứ không phải là tước quân tịch, loại ngũ, người ta vẫn cố giữ cháu ở lại quân đội, ở lại Tổng cục II. *Hiện giờ, cháu có tâm trạng ra sao? Thưa các bác, cháu càng lúc càng thấy nhẹ nhõm, thanh thản hơn vì nghĩ mấy năm qua, mình đã cố gắng làm những việc đáng làm, phải làm trên tinh thần “dĩ công vi thượng”. Đặc biệt, sau nhiều năm tồn tại ở một nơi mà phần lớn tổ chức Đảng và cơ quan chính quyền đã bị tê liệt, lũng đoạn, các điều lệnh, chế độ của quân đội, điều lệ, quy chế, quy định của Đảng, hiến pháp, pháp luật của Nhà nước đã bị phớt lờ, bẻ cong một cách nghiêm trọng để phục vụ những lợi ích riêng bất chính, cháu lại có cảm giác mình là một con người ít nhiềư tự do. Người ta có thể giữ cháu ở lại quân đội, ở lại Tổng cục II thêm một thời gian nữa song cháu tin mình có đủ sức mạnh để không bị người ta o ép, khống chế. Ngày 18-3-2009, tại hội nghị biểu dương những cá nhân có thành tích và tích cực trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng do Ban chỉ đạo trung ương về phòng, chống tham nhũng tổ chức tại Hà Nội, chị Phạm Thị Hồng Hoa, nguyên kế toán trưởng Tổng công ty mía đường II, một trong 3 cá nhân được mời đọc tham luận có kể rằng đã có lúc chị định xin ra khỏi Đảng để tiếp tục đấu tranh, rằng khi làm việc với chị, một vị trong đoàn thanh tra của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn nói: “Chị là đảng viên, không được phép đi tố cáo”. Đầu tháng 1-2010, trang mạng vietnamnet.vn có đăng bài “Mũ ni che tai trước tham nhũng?” của tác giả Bùi Đức Lại, trong đó chỉ ra 4 “cửa ải” đối với người chống tham nhũng, tiêu cực. Với những gì đã thấy, đã trải, cháu muốn được chia sẻ với chị Hoa về suy nghĩ của chị và rất tâm đắc với các ý kiến của tác giả Bùi Đức Lại. *Cháu có thể nói rõ hơn về những gì cháu đã thấy, đã trải? Dạ được. Cháu sẽ nêu một số việc làm cụ thể của những đối tượng cụ thể. Ở đây, cháu bỏ qua những việc làm trắng trợn, bỉ ổi của Tổng cục II, chỉ nhắc tới những tổ chức và cá nhân là cấp trên của Tổng cục II. Ủy ban kiểm tra – Đảng ủy quân sự trung ương đã có nhiều biểu hiện khuất tất, nhiều sai phạm nghiêm trọng trong quá trình kiểm tra, xác minh những nội dung cháu kiến nghị, tố cáo. Ví dụ: -Tại buổi làm việc sáng 1-10-2008 để phản hồi bản kiến nghị ngày 16-1-2008 của cháu, Tổ công tác của Ủy ban kiểm tra – Đảng ủy quân sự trung uơng (gồm tổ trưởng là ủy viên thường trực Trần Văn Đạt, tổ viên là trưởng phòng Cơ quan – nhà trường Trần Đức Nam, có sự tham gia của phó vụ trưởng Vụ 1A – Ủy ban kiểm tra trung ương Trần Quang Đặng) đã làm một việc trái với chức năng, nhiệm vụ của mình là gợi ý lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II và cháu cùng kết thúc vụ việc tại đây, bất chấp một thực tế là vấn đề mà cả hai phía nêu ra đều có tính cách nguyên tắc, có sự đối kháng rất cao. - Trong thời gian kiểm tra, xác minh các nội dung kiến nghị, tố cáo của cháu, Đoàn công tác của Ủy ban kiểm tra – Đảng ủy quân sự trung ương (gồm tổ trưởng là ủy viên thường trực Bùi Vinh Quang, tổ phó là trưởng phòng Cơ quan – nhà trường Trần Đức Nam, ba tổ viên là Nguyễn Đức Toản, Lê Ngọc Thi (trợ lí Phòng cơ quan – nhà trường), Bùi Quang Phiếm (trợ lí Phòng nhân sự – Cục cán bộ – Tổng cục chính trị), có sự tham gia của phó vụ trưởng Vụ 1A – Ủy ban kiểm tra trung ương Trần Quang Đặng) đã thể hiện một cách thức làm việc không khách quan, có biểu hiện thiên vị, bao che đối tượng bị tố cáo, đe nẹt, truy bức, cài bẫy người tố cáo: địa điểm là sở chỉ huy Tổng cục II (kể cả khi làm việc với cán bộ nghỉ hưu); để cán bộ Ủy ban kiểm tra – đảng ủy Tổng cục II dự, ghi chép trong một số buổi làm việc với các tổ chức, cá nhân do cháu giới thiệu; viện dẫn tùy tiện một số văn bản pháp quy để “bào chữa” cho Tổng cục II; kiểm tra, xác minh chệch vấn đề; khăng khăng đòi cháu đưa ra các chứng cứ như tên, số hiệu kế hoạch điệp báo, tiêu đề, số hiệu bản tin riêng của Tổng cục II trong khi chúng đều thuộc loại tối mật, tuyệt mật; khăng khăng bảo hàng loạt thông tin cụ thể mà cháu nêu ra không phải là chứng cứ… Ngoài ra, họ còn tiến hành sai đối tượng: chỉ thị 251 của Thường vụ đảng ủy quân sự trung ương đã xác định rõ đối tượng phải kiểm tra là tập thể Đảng ủy tổng cục II và cá nhân trung tướng Vịnh, họ cũng đã chủ động rút từ bản kiến nghị ngày 16-12-2008 và bài viết “Tổng cục II – Vì ai nên nỗi?” của cháu ra 5 nội dung tố cáo tập thể Đảng ủy tổng cục II, 4 nội dung tố cáo cá nhân trung tướng Vịnh song khi làm việc với các tập thể, cá nhân do cháu giới thiệu, họ lại chỉ hỏi về cháu; vì vậy mà sau khi làm việc với họ, có người đã hỏi cháu mắc sai phạm gì mà bị cấp cao như vậy kiểm tra. Cuối cùng, họ chỉ đọc để cháu nghe mà không để cháu xem hay giữ văn bản kết luận 439 của Thường vụ đảng ủy quân sự trung ương, thậm chí còn từ chối khi cháu đề nghị được kí vào từng trang để có chứng cứ đó là văn bản của cháu đã nghe đọc. Để thấy rõ hơn sự qua loa, đại khái, hời hợt của họ, cháu nêu ra thêm một ví dụ cụ thể: Ngày 21-2-2008, khi làm việc về 5 điểm trong bản kiến nghị ngày 16-1-2008 của cháu, tổ trưởng Tổ công tác nói các điểm đó đều rất lớn, việc kiểm tra, xác minh mỗi điểm phải mất vài tháng, thậm chí vài năm. Ngày 1-8-2008, khi cháu gọi điện hỏi, tổ trưởng Tổ công tác nói vẫn đang làm, chưa xong, chưa kết luận. Tới ngày 1-10-2008 Tổ công tác mới gặp cháu nhưng không phải là để thông báo kết quả kiểm tra, xác minh hay kết luận mà chỉ để phổ biến một văn bản của Thường vụ đảng ủy quân sự trung ương gửi Ủy ban kiểm tra trung ương. Vậy mà với 5 nội dung tố cáo Đảng ủy tổng cục II (trong đó cả 5 điểm trong bản kiến nghị ngày 16-1-2008 được dồn vào một nội dung) và 4 nội dung tố cáo cá nhân Trung tướng Vịnh, Đoàn kiểm tra làm việc chưa tới một tháng đã xong (ngày 14-7-2009 có quyết định thành lập Đoàn kiểm tra, ngày 13-8-2009 họ đã mời cháu gặp, phổ biến văn bản thông báo kết quả kiểm tra, xác minh). Đảng ủy quân sự trung ương, bộ trưởng Bộ quốc phòng đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong việc lãnh đạo, chỉ huy, chỉ đạo, quản lí Tổng cục II, đã cố tình bao che, dung túng cho các sai phạm của Tổng cục II trong một thời gian dài, đã bỏ qua những kiến nghị, tố cáo của cháu, khiến cháu phải kiến nghị, tố cáo tới lãnh đạo cấp cao nhất của Đảng và Nhà nước; khi được lãnh đạo cấp cao giao nhiệm vụ xem xét, giải quyết thì đã tiến hành một cách hình thức rồi bằng kết luận 439 của Thường vụ đảng ủy quân sự trung ương do phó bí thư Phùng Quang Thanh kí, quy chụp cháu là có nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng, phủ nhận công lao, thành tích của ngành tình báo quân sự, chống Đảng, chống quân đội, chống Tổng cục II, kiến nghị, tố cáo với nội dung suy diễn, xuyên tạc, bịa đặt và thái độ hằn học. Quy chụp nặng nề như vậy song họ lại không đưa ra một bằng chứng nào trong khi về cơ bản các nhận thức, quan điểm của cháu đều đã được cháu thể hiện bằng văn bản. Lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước nhìn chung đã thể hiện sự “im lặng đáng sợ”. Với bản kiến nghị ngày 16-12-2008, sáng 16-2-2009 cháu mới nhận được văn bản 135/VPCTN-PL ngày 9-2-2009 của Văn phòng phủ chủ tịch nước gửi Ủy ban kiểm tra trung ương đồng thời gửi cháu để thay trả lời, nội dung: “Chuyển đơn trên đến Ủy ban kiểm tra trung ương để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền”; sáng 4-4-2009 cháu mới nhận được văn bản 674/QPAN12 ngày 31-3-2009 của Ủy ban quốc phòng và an ninh của Quốc hội, nội dung: “Đã chuyển đơn của ông đến Thanh tra – Bộ quốc phòng là nơi giúp bộ trưởng Bộ quốc phòng xem xét, giải quyết” song tới nay của Ủy ban kiểm tra trung ương lẫn Thanh tra – Bộ quốc phòng đều chưa có động thái nào trong việc xem xét, giải quyết; Từ Ban chấp hành trung ương, Ban bí thư, Bộ chính trị, thủ tướng Chính phủ thì tới giờ cháu vẫn chưa nhận được sự phản hồi trực tiếp nào. Với bản kiến nghị, tố cáo ngày 9-11-2009, cháu mới nhận được văn bản 916/QPAN12 ngày 30-12-2009 của Ủy ban quốc phòng và an ninh của Quốc hội, nội dung: “Đã chuyển đơn của ông đến Ủy ban kiểm tra trung ương đảng để xem xét, giải quyết theo thẩm quyền”. Trong khi đó, cháu phải chịu nhiều sức ép, sự đe dọa từ phía quân đội và Tổng cục II, mà biểu hiện rõ nhất và gần nhất là hai quyết định thi hành kỉ luật. Nghiêm trọng hơn, bản gốc tài liệu cháu gửi chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (kèm cả phong bì) ngày 16-12-2008 đã được chuyển cho Tổng cục II và Tổng cục II đã sử dụng nó để đe dọa, truy bức cháu. Cháu cho rằng đây là một việc làm vi phạm pháp luật. Những việc ấy khiến cháu suy giảm nghiêm trọng niềm tin vào tất cả các cấp lãnh đạo, chỉ huy; thậm chí đối với một số cấp, một số người, cháu không còn một chút tin tưởng và tôn trọng nào. *Cháu có bất ngờ trước các sự việc ấy không? Thưa các bác, vì hiểu rõ bản chất của các sự việc, các đối tượng có liên quan, thấy được nguy cơ “tự diễn biến” trong quân đội, trong Đảng, trong Nhà nước chúng ta là rất lớn nên cháu hoàn toàn không bất ngờ. Ngay trong bản kiến nghị ngày 16-12-2008 cháu đã dự kiến khả năng các cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước cũng im lặng trước những đề nghị, kiến nghị của cháu, cũng không phải là nơi cháu có thể dựa vào. Cháu khẳng định rằng thời gian qua, trên cương vị một cán bộ, đảng viên, cháu đã luôn thực hiện tốt các quy định của Đảng, Nhà nước về việc khiếu nại, tố cáo, không hề khiếu nại, tố cáo vượt cấp. Tất cả các nội dung kiến nghị, tố cáo, cháu đều thể hiện bằng văn bản, gửi tới các cấp theo đúng trình tự thời gian và thẩm quyền giải quyết. Nếu các cấp đó không giải quyết hoặc giải quyết nhưng không thỏa đáng thì cháu mới kiến nghị, tố cáo tới cấp cao hơn. *Cháu có nhận xét gì về sự “im lặng đáng sợ” mà cháu vừa nói đến? Thưa các bác, cháu cho rằng sự “im lặng đáng sợ” ấy xuất phát từ hai lí do chính: Một là thiếu trách nhiệm, thậm chí vô trách nhiệm đối với lợi ích của nhân dân, của dân tộc; Hai là vì dính dáng tới những sai phạm của Tổng cục II nên há miệng mắc quai. * Cháu có nghĩ tới khả năng cháu bị truy tố không? Thưa các bác, cháu đã nghĩ tới. Trong kết luận 439 ngày 19-10-2009, Thường vụ đảng ủy quân sự trung ương giao các cơ quan chức năng của Bộ quốc phòng xem xét, đề xuất hướng xử lí cháu theo quy định của pháp luật. Trong chỉ thị 250 ngày 26-10-2009, Thường vụ đảng ủy tổng cục II giao nhiệm vụ tương tự cho các cơ quan chức năng của Tổng cục II. Trong hai quyết định thi hành kỉ luật đối với cháu cũng ghi rõ: “Đồng chí Vũ Minh Trí đã tố cáo sai đối với Đảng ủy tổng cục II và đồng chí Nguyễn Chí Vịnh, gửi đơn tố cáo đến một số nơi không có chức năng xem xét, giải quyết và nội dung tố cáo đã đưa lên mạng Internet, làm lộ bí mật một số vấn đề về tổ chức và hoạt động của Tình báo quốc phòng Việt Nam; vi phạm các điều 1, 2, 3, 4, 5 trong quy định số 115-QĐ/TW ngày 7-12-2007 của Bộ chính trị về những điều đảng viên không được làm và chị thị số 48-CT/TW ngày 14-2-2007 của Bộ chính trị về bảo vệ bí mật của Đảng trong phát ngôn và sử dụng, bảo quản thông tin, tài liệu trong tình hình mới”. Vì bị quy chụp, đe dọa như vậy nên cháu đã tự dành cho mình quyền nhờ tới sự bảo hộ của pháp luật, sự bảo vệ của luật sư, sự giúp đỡ của công luận cũng như quyền đưa ra công khai các tài liệu do cháu viết, bị Tổng cục II và Thường vụ đảng ủy quân sự trung ương dùng để quy chụp, đe dọa cháu; nếu cần, cháu còn đưa ra công khai các chứng cứ khác. Những việc cần làm, cháu đều đã chuẩn bị kĩ càng, chu đáo. Qua theo dõi diễn biến một số vụ án gần đây, điển hình là vụ xét xử nữ Anh hùng lao động Trần Ngọc Sương, cháu tin rằng trước pháp luật và dưới sự giám sát của công luận, sự bình đẳng giữa lãnh đạo, chỉ huy quân đội và Tổng cục II với cháu sẽ được bảo đảm. Cháu cũng luôn tin rằng trắng – đen sẽ sớm rõ ràng. Việc truy tố cháu, đưa cháu ra xét xử chắc chắn sẽ càng làm cho nhân dân biết nhiều hơn về những điều mà lâu nay người ta vẫn dùng yếu tố “bí mật”, “nhạy cảm” để che giấu. *Cháu căn cứ đâu mà tin như vậy? Thưa các bác, cháu căn cứ lòng dân, sức dân. Trong thư gửi hội nghị tình báo tháng 8-1949, Hồ Chí Minh dạy: “Tai mắt của người tình báo có hạn. Nhân dân có hàng chục triệu tai mắt. Việc gì họ cũng có thể nghe, có thể thấy, có thể biết”. Đã không ngăn được dân biết thì càng không thể ngăn được dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Điều này, tiến sĩ Mai Liêm Trực đã đề cập rất trúng khi trả lời phỏng vấn trang mạng Tuanvietnam.net: “Tình thế, thời cuộc cũng như tâm nguyện của nhân dân không cho phép anh né tránh được nữa rồi. Dân tộc đang đòi hỏi trách nhiệm ngày một cao hơn của Đảng… Bức xúc của cuộc sống đã đủ nhiều để những người phần nào nguội lạnh phải xem lại mình. Những cán bộ hôm nay đang được hưởng những thành quả mà nhiều thế hệ đã làm nên. Nhà cửa có rồi, lương bổng sống thế cũng tạm ổn. Lí do gì chúng ta phải lo thu vén cá nhân? Đến nồi nào mà còn phải lo mất ghế của mình, để hàng ngày phải nhìn xuống chân ghế? Tạo sao không có dũng khí như các thế hệ cha anh đã làm cho sự nghiệp này của Đảng và của dân tộc chúng ta”. Sự quan tâm, chia sẻ, động viên của người thân, bạn bè và rất nhiều người vốn không hề quen biết khiến cháu thêm vững tin. Được các bác tới tận nhà hỏi thăm, cháu rất cảm động và phấn khởi. * Cháu có nhận xét gì về hai quyết định kỉ luật vừa nhận được? Thưa các bác, cháu sơ bộ có hai nhận xét. Một là hai quyết định đó càng chứng tỏ sự khác biệt căn bản, có tính nguyên tắc cả về mặt chính trị lẫn về mặt đạo đức giữa một bên là cháu với một bên là Chi ủy, Chi bộ 2, chỉ huy Phòng tham mưu – kế hoạch của Cục kĩ thuật – Tổng cục II, lãnh đạo, chỉ huy Cục kĩ thuật, lãnh đạo, chỉ huy Tổng cục II và lãnh đạo, chỉ huy Bộ quốc phòng. Hai là như các bác đã biết, cháu gửi bản kiến nghị về Tổng cục II, kèm theo là bài viết “Tổng cục II – Vì ai nên nỗi?” tới lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước; đến này, lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước chưa kết luận về các tài liệu này, cũng chưa trả lời cháu; vì vậy cháu coi mọi kết luận, quyết định đối với cháu của Thường vụ đảng ủy quân sự trung ương, bộ trưởng Bộ quốc phòng, Thường vụ đảng ủy quân sự trung ương, bộ trưởng Bộ quốc phòng, Thường vụ đảng ủy tổng cục II, tổng cục trưởng Tổng cục II… đều là vô giá trị và bất hợp pháp; cháu tin rằng sự vô giá trị và bất hợp pháp ấy sẽ sớm bị bác bỏ. * Cháu có định khiếu nại về hai quyết định kỉ luật đó không? Thưa các bác, cháu hoàn toàn không có ý định ấy. * Tại sao vậy? Thưa các bác, vì hiện cháu có những việc làm đáng làm hơn rất nhiều. Xác nhận đây là nội dung trao đổi giữa tôi và ba cụ Nguyễn Văn Bé, Nguyễn Văn Tuyết và Trần Đức Quế (kí tên) Vũ Minh Trí Bài nhận được từ một thân hữu trong nước
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2012 7:05:17 GMT 9
Những vấn đề từ “ sở hữu toàn dân ”
Vũ Quang Việt Tôi rất đồng ý với GS. Võ Tòng Xuân về việc đặt lại quan điểm sở hữu toàn dân về đất đai, tài nguyên, và rừng biển (bài Đã đến lúc phải nhìn thẳng vào vấn đề đất đai - Thời báo Kinh tế Sài Gòn số ra ngày 9-2-2012). Đây là điều tôi cũng suy nghĩ từ lâu nay nhân dịp này xin trao đổi những suy nghĩ sơ lược dưới đây. Những điều này cần được nhiều người cùng phân tích sâu hơn. Ở Việt Nam, khái niệm sở hữu toàn dân trong Luật Đất đai đặt ra một số vấn đề: 1. Luật Đất đai Việt Nam chủ yếu hạn chế quyền tư hữu về ruộng đất đối với nông dân. Trừ đất ở, đất đai không thuộc về công dân. Trong khi mọi tài sản khác đều có chủ và quyền sở hữu được luật pháp bảo vệ. Như thế Luật Đất đai đã tước đoạt quyền sở hữu của cải của nhân dân, đặc biệt là nông dân. Ở bất cứ nước nào, của cải lớn nhất của dân là đất nhưng ở Việt Nam thì không thể. Nông dân chỉ có thể là người nghèo hoặc thoát nghèo chứ không bao giờ vươn lên làm giàu từ mảnh đất của mình được. 2. “Nhà nước” có thể lấy lại đất bất cứ lúc nào và giá trị bồi thường là do “nhà nước” quyết định. Chúng tôi để “nhà nước” trong ngoặc kép là vì ở đây có thể là chính quyền cấp huyện hay thậm chí cấp xã. 3. Ở các nước, không có ý niệm sở hữu toàn dân. Như ở Mỹ, quyền công hữu đất đai và tài nguyên thuộc về các địa chỉ rõ ràng: chính phủ liên bang hoặc chính quyền tiểu bang, hay thành phố (60% thuộc tư hữu, 40% thuộc công hữu, trong đó 28% thuộc chính phủ liên bang, 9% thuộc chính phủ bang và chính phủ cấp tương đương tỉnh hay thành phố, 2% thuộc dân da đỏ). Không có đất đai, tài nguyên nào lại thuộc huyện, xã như ở Việt Nam. Quyền sở hữu và trách nhiệm được quy định rất rõ ràng. Để bảo đảm lợi ích chung của khu vực mà lợi ích có thể mâu thuẫn nhau, đất đai bờ biển có thể thuộc khu vực rộng lớn (vượt trên bang, tỉnh, thành phố) thì có cơ quan công quyền liên tiểu bang/liên tỉnh sở hữu để giải quyết nhu cầu chung về hạ tầng cơ sở. Thí dụ, có Port Authority of New York and New Jersey sở hữu đất đai và bờ biển thuộc hai bang New York và New Jersey để quản lý chung nhằm phát triển giao thông (phi cảng, hải cảng, cầu cống, đường sá nối liền hai bang) hoặc có Tennessee Valley Authority sở hữu đất đai và tài sản khác nhằm chống lũ lụt, xây dựng giao thông, quản lý đất đai, cung cấp điện, phát triển kinh tế chung ở khu vực sông Tennessee. Đây là các công ty công không vì mục đích lợi nhuận, do các bang khu vực cử người quản lý, điều hành, không dựa vào thuế của dân mà dựa vào phí dịch vụ. Đất đai và tài nguyên công thuộc công quyền được quy định rất rõ ràng. Cách quản lý theo khu vực như trên tránh cho việc cạnh tranh xây dựng cảng, khu công nghiệp theo kiểu phong trào như ở Việt Nam. 4. Quan điểm về kinh tế vùng, công quyền vùng, quy hoạch, trách nhiệm vùng gần như chưa có ở Việt Nam. Ngay cả đến cơ sở của ngân hàng trung ương hiện nay nằm ở tỉnh và thành phố có thể bị lợi ích cục bộ ảnh hưởng thay vì thực hiện chính sách vùng. Làm thống kê cũng thế, số liệu cũng bị lợi ích địa phương bóp méo. Đây là điều cần suy nghĩ. 5. “Nhà nước” được định nghĩa là các cơ quan công quyền tỉnh, thành phố và huyện. Cho nên sở hữu toàn dân biến thành sở hữu của các cơ quan công quyền các loại, chứ không còn là thuộc toàn dân thực sự. Chính nhà nước trung ương và tỉnh cũng không biết để quản lý các hoạt động sử dụng đất đai của địa phương (các cơ quan công quyền theo luật chỉ phải theo quy hoạch chung, nhưng địa phương lại có quyền đề nghị thay đổi quy hoạch và thực tế thì quy hoạch chung này chưa chắc đã có và nếu có thì biết ai sẽ kiểm soát việc thực thi và có khả năng kiểm soát đến đâu). Kết quả là đất đai và tài nguyên thiên nhiên không còn nằm trong quyền sử dụng vì lợi ích quốc gia mà vì lợi ích cục bộ, thậm chí để làm giàu cá nhân. Tôi cũng xin nói thêm một ý về việc thu hồi đất. Hiện nay Luật Đất đai cho phép thu hồi đất với hai loại mục đích: • Điều 39 - Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng • Điều 40 - Thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế 1. Nhà nước thực hiện việc thu hồi đất để sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế trong trường hợp đầu tư xây dựng khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế và các dự án đầu tư lớn theo quy định của Chính phủ. Việc thu hồi đất được thực hiện theo quy định tại điều 39 của luật này. 2. Đối với dự án sản xuất, kinh doanh phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt thì nhà đầu tư được nhận chuyển nhượng, thuê quyền sử dụng đất, nhận góp vốn bằng quyền sử dụng đất của các tổ chức kinh tế, hộ gia đình, cá nhân mà không phải thực hiện thủ tục thu hồi đất. Hai mục đích thu hồi đất trên hoàn toàn khác nhau. Điều 39 là vì lợi ích chung. Điều 40 lẫn lộn mục đích chung và mục đích tư. Ở các nước thường chỉ cho phép thu hồi vì lợi ích chung. Lấy đất của nông dân, của một tư nhân này để giao cho một tư nhân khác (làm sân golf chẳng hạn) không thể gọi là vì mục đích chung. Có những trường hợp hiếm hoi cần thu hồi thì cần có luật đặc biệt bảo vệ quyền lợi bình đẳng của tư nhân, không thể coi một tư nhân làm sân golf, làm công nghiệp hơn tư nhân là nông dân. Chỉ cần có sự đi đêm giữa quan chức và nhà đầu tư tư nhân thì nông dân không còn có quyền gì nữa. Vũ Quang Việt
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2012 7:33:30 GMT 9
Gia đình cơ sở ở Huế (Phần III – và hết)
Chu Sơn
6/ Gia đình cơ sở Hoàng Bá
Người bị hại gián tiếp bởi mảnh giấy vụn cháy dở còn sót lại trong sọt rác của “Trung tâm văn hóa thông tin Mỹ” ba năm sau cuộc tháo chạy tán loạn của Hoa Kỳ và đồng minh là bác sĩ Hoàng Bá. Ông bị công an Bình Trị Thỉên của ông Bảy Khiêm bắt cùng ngày cùng giờ với Nguyễn Thúc Tuân (1978). Theo Nguyễn Thúc Tuân, bác sĩ Hoàng Bá bị cáo buộc là đã mật báo cho bạn thân là Đoàn Công Lập (nguyên là Trưởng ty công an Thừa Thiên của chế độ cũ), để người này ra lệnh bắt Hoàng Kim Loan, một cán bộ của Thành ủy Huế hoạt động nội thành – vào đầu năm 1972. Nguyên vào ngày đầu năm 1965, Nguyễn Thúc Tuân nhận nhiệm vụ của Thành ủy Huế đưa Hoàng Kim Loan từ chiến khu vào thành phố và tổ chức nơi ăn chốn ở cho ông này. Vào những thời điểm khác nhau, Hoàng Kim Loan qua giới thiệu của Nguyễn Thúc Tuân đã tới và tá túc tại nhà bác sĩ Hoàng Bá. Việc Hoàng Kim Loan bị địch bắt là tội của Bác sĩ Hoàng Bá, đồng thời là tội của Nguyễn Thúc Tuân. Nhận định của Công an Bình Trị Thiên là như thế. Bởi Nguyễn Thúc Tuân đã biết nhà bác sĩ Hoàng Bá là “ổ kiến lửa” mà vẫn đưa Hoàng Kim Loan tới.
Tôi gặp bác sĩ Hoàng Bá tại Trung tâm thẩm vấn Thừa Thiên Huế vào giữa năm 1972. Chúng tôi bị bắt sau ông Hoàng Kim Loan mấy ngày và đều bị cáo buộc là hoạt động cho Cộng sản “theo lời khai của Hoàng Kim Loan”. Thực tế ông Hoàng Kim Loan có khai hay không tôi không biết. Nhưng khi tôi đòi đối chứng thì thẩm vấn viên không thực hiện.
Sau khi ra tù, tôi có đến thăm bác sĩ Hoàng Bá một vài lần tại nhà ông ở trên đường Phan Châu Trinh gần cầu Nam Giao. Vợ ông một công nương dòng họ Nguyễn Phước, thời niên thiếu chơi đùa cùng cậu bé Vĩnh Thụy sau này là vua Bảo Đại. Chuyện đời xưa là như thế, nhưng hiện tại (1972) bà trông coi một bãi bán sạn cát dùng cho xây dựng. Ông, sau khi về hưu rồi ở tù, tiếp tục khám và chữa bệnh tại nhà cho những gia đình quen thân và bà con lối xóm. Cái gia đình “tầng lớp trên” này đang cùng sống, cùng tồn tại giữa một góc Huế không còn ranh giới giàu nghèo, cao thấp, quí tộc và bình dân.
Mấy tháng đầu sau giải phóng, nhà ông Hoàng Bá ồn ào đông vui hơn ngày thường. Bạn bè bà con từ trên núi xuống, từ ngoài Bắc vô, từ trong Nam ra. Một sớm nào đó cuối năm 1975, Hoàng Anh Hào con trai thứ của Bác sĩ Hoàng Bá đến chỗ tôi và bảo: Ba mời anh lên, có một người khách từ trên Đà Lạt xuống muốn gặp và thăm anh. Tôi lên, gặp ông Năm Lực, một người rất lạ và cũng rất quen đối với tôi. Ông là Bí thư Khu ủy khu 6. Nguyên là cuối năm 1974 tôi trốn thoát khỏi nhà giam quân cảnh Đà Lạt, chạy ra chiến khu, tá túc tại cơ quan khu ủy 6 mấy tháng. Chính ông Năm Lực đã liên lạc với các nơi thẩm quyền và tổ chức đưa tôi về lại Huế. Qua câu chuyện tôi biết hai ông ( Hoàng Bá và Bí thư Năm Lực) thời trai trẻ ở quê nhà là bạn chí thiết (Hà Tĩnh). Thời trung niên hai ông tiếp tục phát triển tình bạn trong một tình thế đặc biệt. Ông Năm Lực là cán bộ kháng chiến ở Phan Thiết. Bác sĩ Hoàng Bá là bệnh viện trưởng bệnh viện Phan Thiết (trong vùng địch tạm chiếm). Ông đã đóng góp công sức cho kháng chiến theo cách riêng trong vị thế đặc biệt của ông. Giữa hai ông, bên ngoài là hai chiến tuyến, nhưng bên trong họ vẫn là một trong ý thức, tình tự Dân tộc.
Thì ra bác sĩ Hoàng Bá là người quảng giao. Ông không chỉ quen thân với những người mà sau này Công an bình Trị Thiên xem là đối tượng nguy hiểm, phản động, tay sai Mỹ Ngụy như Đoàn Công Lập chẳng hạn. Ông còn quen và thân thiết hơn với nhiều người đã lận đận gian khổ, sống chết cùng đất nước suốt hai cuộc kháng chiến. Ngoài ông Năm Lực, tôi còn gặp tại nhà bác sĩ Hoàng Bá nhà thơ Chế Lan Viên, giáo sư bác sĩ Tôn Thất Tùng và nhiều người khác thuộc phe ta.
Hơn thế nữa bác sĩ Hoàng Bá còn là người “xanh vỏ đỏ lòng”, ông ủng hộ kháng chiến, đã là cơ sở của Thành ủy Huế từ 1954 đến khi nước nhà độc lập thống nhất. Trong các tài liệu ông Nguyễn Thúc Tuân đưa cho tôi, tôi thấy có giấy xác nhận của ông Lê Minh. Tôi xin chép nguyên văn giấy xác nhận này để ông Bảy Khiêm và độc giả đời sau hiểu biết đầy đủ hơn về một bộ phận trí thức và phong trào đô thị Huế thời chống Mỹ:
Lê Minh Nguyễn Thượng Hiền Quận Hai Bà Trưng Hà Nội
Hà Nội ngày 18 – 10 – 1989 TỜ XÁC NHẬN
Quá trình hoạt động của ông Hoàng Bá, ở số 3 Trương Định – Huế
Kính gởi: Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế
Thường vụ Thành Ủy Huế
Tôi tên LÊ MINH (tên thật LÊ CHÂU), tham gia cách mạng năm 1936, đã công tác Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên và Thành ủy Huế, Ủy viên Liên khu ủy Liên khu 4, Liên khu 5, Khu ủy Trị-Thiên – Huế v. v… Trước khi nghỉ hưu là Phó trưởng ban nông nghiệp Trung ương Đảng. Theo yêu cầu của bác sĩ Hoàng Bá, tôi xin xác nhận như sau:
Từ đầu kháng chiến chống Pháp, gia đình bác sĩ Hoàng Bá ở trong nhóm cảm tình CM (Hoàng Bá, Thân Trọng Phước, Phạm Bá Viên, Lê Khắc Quyến, Hoàng Xuân Hiền, Nguyễn ngọc Ban…). Nhóm này đã có công tác quan trọng ngoài việc vận động anh chị em trí thức, còn chuyển thuốc men, y cụ, thầy thuốc lên chiến khu…
Đến thời kỳ chống Mỹ, gia đình BS HOÀNG BÁ trở thành cơ sở bí mật, là nơi ăn ở, đi lại của các đ/c Thành ủy Huế. Mặc dầu không phải là đảng viên, nhưng vợ chồng BS HOÀNG BÁ đã thực hiện đúng nguyên tắc một cơ sở bí mật của Đảng, theo mọi yêu cầu của Đảng.
Đến năm 1969, Thường vụ Khu ủy Trị Thiên - Huế có ý định tổ chức cho BS HOÀNG BÁ lên căn cứ để tham gia vào chính phủ lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam, làm Bộ trưởng y tế. Bác sĩ HOÀNG BÁ đã chấp nhận thoát ly, nhưng sau đó thường vụ Khu ủy và Trung ương Cục thấy một cơ sở đang giữ được bí mật cho nên không rút lên căn cứ mà để tiếp tục hoạt động bí mật.
Những năm sau Mậu Thân là những năm hết sức khó khăn ở thành phố Huế, gia đình BS HOÀNG BÁ tỏ ra rất dũng cảm kiên định đến ngày giải phóng thành phố Huế.
Với sự hiểu biết của tôi trên đây, đề nghị Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế và Thành ủy Huế nghiên cứu giải oan cho gia đình BS HOÀNG BÁ và thực hiện các chính sách, quyền lợi, danh dự cho gia đình BS Bá.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm những lời xác nhận trên đây.
Kính chào các đồng chí.
Đã ký: LÊ MINH
Ban Nông Nghiệp Trung ương xác nhận chữ ký và cương vị của đ/c LÊ MINH trong văn bản này là đúng.
Hà Nội ngày 19 – 10 – 1989
TL / Ban nông nghiệp TƯ Phụ trách Vụ TCCBộ
Đã ký: Nguyễn Văn Án
(và đóng dấu)
Đảng ủy Phường Nguyễn Du xác nhận chữ ký trong bản này đúng là chữ ký của đ/c TƯ MINH, và các cương vị của đ/c TƯ MINH đã nói trong văn bản này là đúng với lý lịch của đ/c MINH mà đảng bộ phường đang quản lý.
Ngày 20 - 10 - 1989
TM, BCN Đảng bộ Nguyễn Du
Bí thư
Đã ký: Nguyễn Tiến Can
(và đóng dấu)
Tôi không hoài nghi những gì ông Lê Minh xác nhận cho ông Hoàng Bá. Bản thân tôi qua những lần trò chuyện với ông tại Trung tâm thẩm vấn, tại ngoài đời sau khi chúng tôi ra tù, và những lần thăm hỏi bổ sung với các ông Hoàng Lanh, ông Phan Nam, ông Nguyễn Thọ (Hường) thì những xác minh của ông Lê Minh mới chỉ là cốt lõi. Thực tế và cụ thể những năm tháng ông Hoàng Bá tham gia công tác kháng chiến ở đô thị thời chống Mỹ phong phú và thú vị hơn nhiều.
Nhưng sự thật về Bác sĩ Hoàng Bá và phong trào đô thị trong kháng chiến chỉ có những người lãnh đạo, chỉ đạo và trực tiếp quan hệ công tác như các ông Lê Minh, Hoàng Lanh, Phan Nam, Nguyễn Thọ (Hường), Nguyễn Thúc Tuân mới biết. Mà Nguyễn Thúc Tuân thì đã bị bắt với cáo buộc là CIA, gián điệp Mỹ âm mưu chui sâu leo cao. Còn các ông Tư Minh, Hoàng Lanh, Nguyễn Thọ (Hường) thì đang bị thất thế, bị xuống cấp, bởi Mỹ đã cút – Ngụy đã nhào, công cuộc kháng chiến trong lòng địch, trong lòng các đô thị đã cáo chung, nhiệm vụ lịch sử đã chấm dứt, và công cuộc thanh toán tàn dư của đế quốc thực dân, bảo vệ thành quả kháng chiến của cách mạng mới được bắt đầu với ông Bảy Khiêm và các thuộc cấp của ông ở Ty công an. “Mỹ và CIA tuy đã thua chạy, nhưng chiến lược hậu chiến của chúng đang được vận dụng. CIA năm đầu sáu tay, mưu ma chước quỉ : gia đình như vậy, bản thân như vậy, quan hệ xã hội như vậy, chỉ có điên mới dấn thân vào con đường kháng chiến cách mạng đầy gian nguy và khổ nạn”.
Bác sĩ Hoàng Bá đã bị công an Bình Trị Thiên bắt năm 1978. Năm ấy ông 71 tuổi theo khai sinh. Nhưng không hiểu vì lý do gì, khi thẩm vấn, công an Bình Trị Thiên của ông Bảy Khiêm ghi ông 69 tuổi. Năm 1981 ông được thả với giấy ra trại ghi “bị bắt không lý do”.
“Bị bắt không lý do” có nghĩa là bị bắt oan, bị tù oan, bị đối xử bất công: cực nhục, xấu hổ trăm bề, không những trong những năm ở tù mà ngay cả nhiều năm sau khi đã “ra trại”. Người lãnh đạo, chỉ đạo và đồng chí, đồng sự biết Bác sĩ Hoàng Bá bị oan, thương cảm xót xa, nhưng chẳng làm gì được. Bất lực hoàn toàn. Chính bản thân họ cũng bị bao vây bởi một mạng lưới ngờ vực. Những kẻ xấu miệng thì rỉa rói, cạnh khoé: “ để cho ông ấy biết thế nào là ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản. Đáng đời”.
Bác sĩ Hoàng Bá có năm người con, ba gái, hai trai. Một trong ba người con gái đi du học ở Bỉ trước 1975, lấy chồng và ở lại. Hai người con gái còn lại đều tốt nghiệp đại học, là giáo sư trung học. Hai người con trai học y khoa: Hoàng Anh Dũng, con trai đầu, Hoàng Anh Hào, con trai thứ. Tất cả đều yên vui, đến năm 1978 bác sĩ Hoàng bá bị bắt vì lý do chính trị, cả nhà không ai được yên cả: Vợ hoảng hốt lo sợ, con cũng tình trạng như thế tại các nơi học tập, công tác. Hoàng Anh Dũng và Hoàng Anh Hào tốt nghiệp bác sĩ Y khoa. Dũng đi làm ở bệnh viện Quảng Ngãi, không chịu được sự kềm kẹp, vượt biên. Hào đi làm ở một bệnh viện huyện thuộc tỉnh Quảng Nam, đau bao tử nặng, chuyển ra điều trị tại Hà nội, bệnh ổn định, được bác sĩ Tôn Thất Tùng nhận ở lại học chuyên khoa nội. Hai năm sau, tốt nghiệp chuyên khoa, cầm mảnh bằng và lý lịch địa phương xác nhận: cha bị “bắt không lý do” đi xin việc khắp nơi, chẳng ai thèm nhận cả.
Tôi đến thăm bác sĩ Hoàng Bá mấy lần trước và sau khi ông ra tù. Khu nhà thuê trên đường Phan Châu Trinh đã trả lại cho chủ sở hữu năm 1976. Gia đình dọn về căn nhà trên đường Lý Thường Kiệt. Ông đi tù, bà ở nhà bán căn nhà này để có tiền cho cả nhà sinh sống.
Một lần trở lại Huế năm 82, 83 gì đó, tôi tìm đến thăm ông ở một căn nhà nhỏ trên đường Trương Định. Ông đã ra tù được vài năm. Ông trở nên trầm mặc, không còn lạc quan, sinh động và nhiều cảm xúc như trước. Trong câu chuyện ông cố dấu vẻ buồn rầu thất vọng. Ông nói là con gái bên Bỉ muốn bảo lãnh cho cả nhà qua. Nhưng ngoài Dũng xốc nổi, đã vượt biên, những người còn lại chẳng ai muốn đi cả. Mình là một phần của dân tộc, của đất nước. Tách ra khỏi dân tộc, đi ra khỏi đất nước như cái cây bị đào gốc rễ. Ở lại thôi. Khổ nạn của đất nước của dân tộc cũng là khổ nạn của chính mình, không hứng chịu lúc này do bọn xâm lược thì phải chịu hứng lúc khác do những người dày công chống xâm lược thôi. Phản hồi và bù trừ là hai qui luật vẫn còn tác động trong đời sống dân tộc sau chiến tranh. Người làm chiến tranh cũng như người thầy thuốc, dịch bệnh đã qua những hiểm họa, vi trùng vẫn ám ảnh y đến một thời điểm nào đó nhất định. Cơn bạo phát của dịch bệnh đã được ngăn chận, nhưng di chứng vẫn còn đó và biến chứng thì khôn lường. Con bệnh có khi không chết vì bệnh chính mà chết vì biến chứng. Tai họa mà bản thân tôi, gia đình tôi phải gánh chịu mấy chục năm qua và còn kéo dài thêm một thời gian nữa là hậu quả tất yếu của cuộc chiến tranh kéo dài quá lâu, quá khốc liệt, đồng thời là dấu vết của một trình độ văn minh và tâm lý dân tộc bị uốn nắn một cách lệch lạc. Vua quan và thần dân, tá điền và địa chủ, thợ thuyền và nhà tư bản là hai mặt của một tồn tại lịch sử. Đúng sai, tốt xấu thế nào khó mà phân định rạch ròi trong một cự ly gần…
Trong những người tìm trầm, không ít kẻ do ngậm ngải quá lâu đã biến thành cọp. Sự chuyển hóa đáng buồn này dẫn đến kết quả là nạn nhân của “người - cọp” chẳng ai khác, mà chính là người đồng hành cùng y.
Biết là vậy, nhưng nhiều lúc cũng thấy hụt hẫng, tưởng không đủ sức chịu đựng. Đã có lúc muốn chết đi cho xong. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại chẳng giải quyết được gì. Nỗi nhục nhã đau đớn chẳng vì thế mà tiêu tan…
Bác sĩ Hoàng Bá càng nói càng buồn, đôi mắt ông ráo hoảnh, khác hẳn với những lần gặp gỡ trước khi đi tù, ông thường tỏ ra quá mẫn mỗi khi nhớ, nghĩ, nói, nghe về một điều gì thương tâm, ngang trái. Tôi trái lại, càng nghe ông nói, tôi càng muốn khóc. Suốt buổi, tôi chẳng nói với ông điều gì. Từ lâu, khi bước lần về phía tuổi già, tôi cũng mắc chứng bệnh như ông trước đây. Không cầm được nước mắt khi xúc chạm với bi thương, ngang trái. Mà bi thương ngang trái thì quá nhiều trên cái đất nước mà đã có lúc tôi nghĩ tưởng rằng độc lập và thống nhất là nền tảng để đồng bào cả nuớc vượt qua muôn vàn đổ vỡ, khó khăn do xâm lược và chiến tranh, cùng nhau kiến tạo lại con người, kiến tạo lại đất nước.
Sự kiện Hoàng Anh Hào không có được một công việc đàng hoàng, ổn định và bình đẳng trong bất cứ một cơ quan y tế nào, đối với gia đình ông Hoàng Bá là một rẻ rúng, khước từ của quê hương đất nước. Họ đã làm một cuộc ra đi chẳng đặng đừng với lòng nặng trĩu nỗi cay đắng bẽ bàng.
Năm 2007 (hay 2008) tình cờ tôi gặp Hoàng Anh Dũng tại nhà Phan Hoàng Quí – con rể ông bà Hoàng Bá và là bạn thân của tôi. Hoàng Anh Dũng vượt biên năm 1982 và định cư tại Bỉ. Qua Hoàng Anh Dũng tôi có thêm mấy thông tin về người bạn vong niên chẳng bao giờ gặp lại. Vào tuổi 85, năm 1990, ông Hoàng Bá đoàn tụ với gia đình nhưng chia ly âm thầm với tổ quốc. Niềm vui sum họp đối với ông giữa bốn bề xa lạ chỉ là “vui gượng qua thì”. Vợ chồng con cái sống trong cùng một căn hộ mà đau đáu “nhớ nhà” là tâm cảnh của ông bà trong những ngày “xóm làng xa vắng”. Ông nhắm mắt từ biệt cõi đời đầu năm 1991 – chưa đầy một năm rưỡi sau khi rời Việt Nam.
Trong phút lâm chung, từ giã vợ con và các cháu nội ngoại, ông lặp lại lời dặn dò mà ông đã nói với họ rất nhiều lần trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng đối với ông là rất dài sống tại Bỉ: “Đưa ba về nhà và làm bất cứ việc gì có thể làm được để chia sẻ với bà con…”
Theo ba, Dũng nói: Nước và Nhà là hai mặt của một thực tại đối với người Việt Nam. Xa nước cũng có nghĩa là xa nhà. Chia sẻ với bà con trong nước cũng có nghĩa là làm gì đó cho chính mình, cho gia đình mình.
Tôi hỏi Dũng: Tiến trình trở thành một người Bỉ gốc Việt của anh đã diễn ra như thế nào? Các anh chị đã thực hiện lời dặn dò, trăn trối của bác Bá đến đâu?
Dũng trả lời: “không kể cuộc vượt biển bi thảm khốn khổ như thế nào. Đến Bỉ việc đầu tiên là đi kiếm việc làm. Do đã là bác sĩ ở Việt Nam nên em được tiếp nhận trong ngành y tế. Tại Bỉ người ta không thừa nhận bằng cấp ở Việt Nam nên em phải làm y công rồi y tá, đồng thời học thêm ngoại ngữ, ôn tập các kiến thức phổ thông để thi tú tài. Xong tú tài thi vào Đại học Y. Tốt nghiệp đại học Y thi vào chuyên khoa ngoại. Hoàn tất chuyên khoa ngoại, làm việc tại khoa ngoại bệnh viện của trường Đại Học, rồi trở thành phó khoa. Khoa ngoại có một kinh phí hằng năm dùng để nghiên cứu và giúp đỡ y tế cho một số vùng chậm phát triển trên thế giới. Thay vì đi Phi Châu, em đi Việt Nam. Em đi Việt Nam từ khi bắt đầu đi làm tại khoa ngoại bệnh viện đến bây giờ đã hơn 10 năm. Năm nay về Việt Nam theo lời mời của nhà nước trong dịp tuyên dương những người Việt ở nước ngoài đã đóng góp nhiều công sức cho tổ quốc.
Về lời dặn dò của ba, em và Hào đã thực hiện nghiêm chỉnh. Sau khi ba mất, chúng em đã đưa tro ba về “nhà”, mặc dù nhà đã bán từ khi ông đi tù. Việc chia sẻ với bà con trong nước, Hào cũng đã làm hết sức theo cách riêng. Cậu ấy qua Bỉ chậm, trở thành bác sĩ nội khoa, cũng thường xuyên về lại Việt Nam để làm cái gì đó cho bà con…”
Trong gia đình ông Hoàng Bá còn có một người không thể không nhắc đến là Phan Hoàng Quí. Phan Hoàng Quí là rể và cũng xem như là con trai của gia đình này đặc biệt đối với ông Hoàng Bá, bởi Phan Hoàng Quí là con của người bạn thân thiết thuở thiếu thời của ông.
Gia đình Phan Hoàng Quí đến cư ngụ ở Phan Thiết nhiều năm trước cách mạng tháng Tám. Cụ thân sinh Phan Hoàng Quí tham gia kháng chiến chống Pháp và đã hy sinh vào thời kỳ này. Mẹ và anh em Phan Hoàng Quí (Quí còn có người em là Phan Hoàng Đồng. Phan Hoàng Đồng là tiến sĩ lâm học hiện ở Đức) lâm vào tình thế khốn đốn khi cha anh đi kháng chiến và qua đời, đành phải từ bỏ Phan Thiết đến mưu sinh tại một vùng quê sau này là thị xã Bình Tuy. Khi Hoàng Bá đến Phan Thiết làm bệnh viện trưởng, ông đã ra sức tìm kiếm vợ con người bạn quá cố. Cuộc tìm kiếm không phải dễ dàng vì gia đình Quí đã rời xa Phan Thiết khá lâu trước khi ông đến. Phải mất nhiều tháng họ mới có manh mối của nhau và tiếp nối mối tương thân bị đứt đoạn. Sau khi đỗ tú tài, Quí không vào Sài Gòn mà đi Huế học đại học vì mối tương thân này. Mối tương thân ấy trở nên ruột thịt khi anh và con gái ông Hoàng Bá kết nghĩa vợ chồng. Việc Phan Hoàng Quí đi Huế học và làm rể ông Hoàng Bá làm phát triển thêm cơ duyên anh gắn bó với phong trào đô thị mấy năm, từ Hiệp định Paris, khi anh du học Mỹ về. Theo những thông tin của ông Hoàng Bá, tôi đón Phan Hoàng Quí tại phi trường Tân Sơn Nhất và chúng tôi trở nên thân quen, bạn bè. (Lúc bây giờ theo sự phân công của Lê Công Cơ, tôi rời Huế đi Sài Gòn đứng làm gạch nối giữa phong trào đô thị miền Trung và miền Nam). Phan Hoàng Quí không phải là người của ý thức hệ và của chủ nghĩa Dân tộc, nhưng tình tự dân tộc rất sâu đậm nơi anh. Anh nói với chúng tôi: Vì tình tự dân tộc mà tau đi với tụi bay. Tau đã tham gia phong trào chống chiến tranh của Mỹ từ bên Mỹ. Nhưng đứng ở góc độ học thuật, tau không chống Mỹ một cách cực đoan. Học thuật Mỹ về mặt nguyên lý và những thành tựu to lớn, vượt trội của nó, có nhiều điều chúng ta phải học tập để xây dựng lại đất nước khi chiến tranh chấm dứt. Tau là người có khuynh hướng xã hội nhưng hoàn toàn không thích hợp với bất cứ một thứ xã hội chủ nghĩa nào cho dù là xã hội chủ nghĩa Cộng sản hay xã hội chủ nghĩa không Cộng sản. Những năm tháng ở bên Mỹ, nhiều lúc tau đã nghĩ đến đất nước, một Việt Nam, một thế giới, một nhân loại tự giải trừ hết mọi ý thức hệ và mọi chủ nghĩa, tôn giáo… Do vậy tau yêu cầu tụi bay nên coi tau như một người bạn, đừng coi tau như một đồng chí, lại càng không như một “đồng đạo”.
Cuối tháng 3 năm 1975 sự thay đổi quyền lực tại Huế không làm cho Phan Hoàng Quí hò reo vì “phe ta đã thắng”, cũng chẳng làm cho anh hoảng sợ, tuyệt vọng vì “tụi mình đã thua”. Anh chỉ thở phào vì chiến tranh đã chấm dứt. Sự thiếu thốn cực khổ trong sinh hoạt, sự nghi ngờ và phân biệt đối xử trong trường học (Đại Học Sư Phạm Huế – nơi anh tiếp tục giảng dạy) và trong khu phố (nơi anh cư trú) đối với anh chưa phải là một khổ nạn mà chỉ là tất yếu. Sự kiện ông Hoàng Bá – người cha vợ đáng kính của anh – bi bắt và bị tù làm anh thương cảm nhưng không làm anh hoảng hốt. Quí bảo: “Tấn tuồng đã chấm dứt, sân khấu phải dẹp bỏ thôi. Tất cả những vai diễn lớn bé, chính phụ, đã trình diễn hay dự bị đều không còn lý do để tồn tại. Những nhân sĩ trí thức cỡ Lê Văn Hảo, Nguyễn Thúc Tuân, Hoàng Bá…, đến cả những đạo diễn cỡ Lê Minh, những chuyên gia trực tiếp dàn dựng như Hoàng Kim Loan, Phan Nam, những kỹ thuật viên phụ trách ánh sáng, âm thanh, phông màn, khuân vác như tụi bay cũng đều là nạn nhân của trò chơi chính trị. Mà chính trị phản động hay chính trị cách mạng cũng đều mưu lược, thủ đoạn giống nhau, đều lừa bịp, nham hiểm, độc ác, đê tiện và hạ lưu. Được chim bẻ ná, được cá quăng câu, qua cầu rút ván… đều không chỉ là châm ngôn của người làm chính trị thời xưa…”
Sau khi ông Hoàng Bá ra tù, Phan Hoàng Quí vào thành phố Hồ Chí Minh làm cán bộ giảng dạy tại Đại Học Sư Phạm, anh có điều kiện để định cư ở nước ngoài nhưng dứt khoát không đi, không phải là lý do chính trị, cũng không phải là lý do kinh tế, chỉ vì lý do cá nhân. Quí nói: “Nghề nghiệp tau chọn từ đầu là dạy học, từ khi đi Mỹ về là dạy tiếng Anh. Tau không thể dạy tiếng Anh cho người Mỹ. Nếu vì bức xúc mà đi Mỹ, tau chỉ làm một nghề nào đó mà người Mỹ chê bởi tính chất hạ lưu của nó, mặc dầu xét về mặt kinh tế có thu nhập cao hơn nghề dạy học ở đây. Mấy năm đi học bên Mỹ, có lúc nào đó tau đã trở thành Hippy. Chống chiến tranh Mỹ, ngoài lý do tau là Người Việt Nam, còn có lý do tau là người Hyppy. Vô kỷ, vô công, vô danh. Khẩu hiệu của Hippy là thế. Xét về mặt hình thức và hậu quả của nó, Xã hội chủ nghĩa cũng có đôi nét hippy. Không giống ai cả. Không cần ai cả (trên bình diện thế giới), không cần gì cả (xét về mặt qui luật). Tau ở lại có phần vì cái tí chút máu Hippy trong người, chứ không hoàn toàn vì lí do tau là người Việt Nam với tất cả các mặt tốt xấu của nó. Như thế tau ở lại không vì chủ nghĩa dân tộc, cũng không vì chủ nghĩa xã hội xét về mặt ý thức hệ. Nhưng thực tế là người Hippy cũng như những người bình thường khác, cũng sinh, lão bệnh, tử, khi đau cũng cần có thuốc, khi đói cũng cần có cái ăn, khi rét cũng cần có cái mặc. Các điều kiện xã hội ngày nay không thể cung ứng các nhu cầu này của người Hippy. Phong trào Hippy tại Mỹ đã rã đám vì cái thực tế là rốt cùng họ không thể tồn tại ngoài các cung ứng hàng hóa và dịch vụ của xã hội văn minh công nghiệp. Người Cộng sản cũng như người Hippy thôi, rốt cùng họ không thể sống ngoài thế giới, ngoài những qui luật tồn tại và phát triển. Tau rời Huế đi Sài Gòn mà không định cư ở nước ngoài vì nghĩ rằng Sài Gòn dễ sống hơn và có nhiều điều kiện để khởi đầu cho công cuộc hội nhập cùng thế giới trên nền tảng học thuật và tự do, bước đầu trong một số lãnh vực của cuộc đời sống dân sự như kinh tế và văn hóa”
“Tiếng Anh là ngoại ngữ hàng đầu cùng với các ngoại ngữ khác như Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Hoa, Nhật…sẽ giúp các thế hệ học sinh, sinh viên và học thuật Việt Nam khởi đầu công cuộc hội nhập với thế giới. Tau dùng các từ khởi đầu, bắt đầu hơi nhiều trong những câu vừa phát biểu là căn cứ trên trình độ chung của giáo dục Việt Nam từ mẫu giáo đến Đại học ngày nay. Tau không hề bi quan hay tự ti khi nhận định rằng có một khoảng cách rất lớn giữa học thuật Việt Nam và học thuật thế giới, đặc biệt là học thuật Mỹ.
“Đất nước đang như một ốc đảo, học thuật Việt Nam cũng chỉ là một ốc đảo bé nhỏ. Khoảng cách giữa học thuật Việt Nam và học thuật thế giới là những dòng sông lớn, những đại dương. Cần phải bắt những cây cầu, đóng những con tàu để đưa học sinh, sinh viên và trí thức Việt Nam tiếp cận với thế giới. Ngoại ngữ chính là những cây cầu, những con tàu ấy. Người dạy ngoại ngữ và các phương tiện nghe nhìn chính là người tham gia đóng tàu, xây cầu và những vật liệu làm nên chúng…”
Xét về mặt cá nhân Phan Hoàng Quí chỉ làm được một phần những gì anh nói, đã bắt được mấy nhịp cầu tre, làm được mấy chiếc phao, đáp ứng nhu cầu tự phát của một bộ phận quần chúng bé nhỏ muốn giao tiếp với bên ngoài không chỉ vì nền học thuật của đất nước. Thực tế nền học thuật của đất nước ở trong tầm nhìn, tầm tay và tấm lòng của các nhà hoạch định sách lược của Đảng Cộng sản. Việc “ xây cầu”, “đóng tàu”, chăm lo cho nền giáo dục, học thuật – nói và làm trên bình diện vĩ mô hoàn toàn phụ thuộc vào các vị ấy.
Sự chọn lựa: dứt khoát ở lại để làm một công dân hữu ích đến thời điểm này (2010) vẫn còn là một thử thách đối với anh. Con người là một chủ thể độc lập trong tương quan bình đẳng với mọi công dân khác trong xã hội dân sự chưa được chú ý một cách đúng đắn và toàn diện, khi đất nước chỉ được điều hướng và lãnh đạo tuyệt đối bởi một đảng cầm quyền. Với anh – “một công dân quần chúng” (ngoài đảng), với “một đảng viên công dân” có một chênh lệch khá lớn về tinh thần cũng như vật chất, về trách nhiệm cũng như quyền lợi. Thực tế này xúc phạm dến danh dự và lòng tự trọng của đám đông quần chúng, dẫn đến hậu quả là làm giảm sút hoặc triệt tiêu nhiệt tình và ý thức trách nhiệm trong mọi lãnh vực của đời sống xã hội, là nguyên nhân của mọi đình đốn, đổ vỡ.
Vào đảng ư? Đã có lúc tổ chức Đảng ở trường Đại Học (sư phạm) đã đề nghị trực tiếp với Phan Hoàng Quí về việc này. Nhưng vào đảng hay không vào đảng không phải là vấn đề anh quan tâm. Giả định anh trở thành đảng viên đâu có giải quyết tận gốc rễ mọi trăn trở của anh, đâu có thúc đẩy sự phát triển xã hội một cách tương đối hợp lý mà theo anh chỉ có thể diễn ra trong xã hội dân sự. Nhiều lần ban chính sách thúc dục anh ra Phan Thiết làm các thủ tục chứng nhận tình trạng liệt sĩ của người cha đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp, Phan Hoàng Quí đã từ chối. Anh bảo: “Để cho linh hồn ông ấy yên nghỉ. Ông đã sống đời ông. Tôi đang sống đời tôi. Việc xác nhận liệt sĩ cho ông là nhu cầu của ai trong chúng ta? – Nhu cầu của ông ư? làm sao biết được vào thời điểm này ông nghĩ gì về cuộc kháng chiến mà ông đã tham gia và vì nó mà ông chết? – Nhu cầu của mẹ và anh em tôi ư? Chúng tôi không thấy có nhu cầu đó – Nhu cầu của nhà nước, của Đảng ư? Tôi không biết nhà nước và Đảng có nhu cầu ấy không? Nếu có thì việc xác nhận liệt sĩ cho cha tôi không phải là nhiệm vụ của gia đình chúng tôi, mà là nhiệm vụ của Đảng và nhà nước. Vả lại cái chết cho dù vì lý do gì cũng không nên là nguyên nhân dẫn đến đau khổ, chia cắt cho người đời sau. Giả định cha tôi là liệt sĩ, giấy xác nhận do nhà nước cấp sẽ được treo tại một vị trí trang trọng trong nhà chúng tôi. Sự kiện này vô hình chung là một khẳng định về những tội lỗi sai lầm của một số người bên họ ngoại tôi (đã cộng tác với Pháp) vào một thời điểm không thích hợp. Trong quan hệ huyết thống gần (gia tộc) sự tuyên dương và phê phán chính trị không nên tồn tại lâu dài, đặc biệt khi cuộc chiến (cho dù chống xâm lược hay nội chiến) đã kết thúc. Bởi như thế nó phá vỡ một nét đẹp trong văn hóa Việt Nam là sự nối kết huyết thống và gia đình…”
Trước khi kết thúc bài viết này tôi xin được mở một ngoặc đơn để làm rõ cái tên Phan Hoàng Quí. Quí là tên. Phan Hoàng là họ. Không phải một họ mà là hai họ: Họ cha (Phan) và họ mẹ (Hoàng). Phan - Hoàng là hai họ nổi tiếng ở miền Trung, đặc biệt triều đình Huế từ sau khi vua Hàm Nghi khởi xướng Phong trào Cần Vương: “Họ Hoàng làm quan, họ Phan làm giặc”. Đại diện của “họ Hoàng làm quan” là Hoàng Cao Khải, một tổng trấn khét tiếng làm tay sai cho thực dân Pháp đàn áp các phong trào yêu nước, đặc biệt phong trào Cần Vương. Đại diện cho “họ Phan làm giặc” là Phan Đình Phùng, một lãnh tụ hàng đầu của phong trào Cần Vương. Thực tế lịch sử những năm cuối thế kỷ XIX hầu hết các con cháu họ Phan ở vùng Nghệ Tĩnh đều theo Cần Vương, theo Phan Đình Phùng “làm giặc”. Nhưng con cháu họ Hoàng, ngoài trừ Hoàng Cao Khải, không phải ai cũng “làm giặc” cả. “Họ Hoàng làm quan, họ Phan làm giặc” là một khái quát có tính định kiến không hoàn toàn là sự thật lịch sử. Cuộc tình dẫn đến hôn nhân đẻ ra Phan Hoàng Quí, Phan Hoàng Đồng của ông Phan bà Hoàng chứng tỏ họ rất trân trọng và hãnh diện gốc gác huyết tộc và truyền thống gia đình của nhau. Giả sử có “sự đối đầu lịch sử” giữa hai gia tộc Phan - Hoàng, qua thực tế “làm quan”, “làm giặc”, thì cuộc tình và hôn nhân của họ đã hóa giải mọi hận thù, vượt qua đau thương để kiến tạo một cuộc sống trong bao dung và nhường nhịn. Anh em Phan Hoàng Quí nhất quyết không làm giấy xác nhận liệt sĩ cho cha phải chăng một phần vì lý do này. Xin đóng ngoặc đơn.
Chu Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2012 7:37:52 GMT 9
Gia đình cơ sở ở Huế ( Phần I )
Chu Sơn
Gia đình cơ sở là gì? Gia đình cơ sở là tất cả mọi thành viên trong gia đình ấy: già trẻ lớn bé, con gái, con trai, dâu, rể, cháu chắt đều một lòng một dạ đi theo kháng chiến. Tìm được những gia đình như thế trong thành phố tạm chiếm là không dễ dàng gì. Bởi có nhiều cơ sở cách mạng mà gia đình của họ có người thế này, có người thế kia. Thậm chí con theo kháng chiến mà mẹ không đồng tình, cha anh chống đối. Cũng có những gia đình đồng lòng và nhiệt tình với kháng chiến nhưng điều kiện sinh sống – công ăn việc làm, điều kiện và vị trí cư trú – không phù hợp để tổ chức thành một gia đình cơ sở. Cũng có những gia đình có tất cả các điều kiện ấy nhưng cái gan chưa đủ để sống chết cùng cách mạng. Bởi vì nuôi dưỡng, che chở cán bộ, chứa chấp vũ khí, in ấn tài liệu… là chấp nhận tan gia bại sản, bắt bớ tù đày, tra tấn chết chóc. Có thể nói gia đình cơ sở là một đơn vị chiến đấu, một địa bàn lõm, một góc nhỏ của mặt trận chính trị trong lòng đô thị, vừa kiên cố và đồng thời cũng rất mong manh bởi nó nằm giữa vòng vây tua tủa tai mắt, súng đạn của đối phương, và có thể bị phát hiện, triệt hạ bất cứ lúc nào.
Tại thành phố Huế gia đình cách mạng như thế được bảo lưu từ thời chống Pháp khá nhiều và thuộc nhiều thành phần xã hội khác nhau, nông dân có, lao động nghèo ở đô thị có, tiểu thương, tiểu chủ có, trí thức, tư sản, quí tộc có. Bài viết này tôi tập chú vào một số gia đình tầng lớp trên. Do bởi không đủ tư liệu nên một số gia đình lẽ ra phải được nhắc nhở trước như gia đình Giáo sư Tôn thất Dương Kỵ, gia đình Bác sĩ Thân Trọng Phước, gia đình bác sĩ Lê Khắc Quyến, gia đình cụ Phiên ở Kim Long, Gia đình giáo sư Nguyễn Đóa, gia đình giáo sư Tôn thất Dương Tiềm… lại không được tường thuật trong bài này. Cũng do nhiều cơ duyên khác nhau, tôi may mắn tiếp cận với một số gia đình không thuộc thành phần giai cấp cơ bản. Những trang sau đây tôi viết về họ, chắc chắn không tránh được những sai sót. Xin độc giả rộng lòng tha thứ. Đồng thời xin nhận những chỉnh lí cần thiết cho lần xuất bản sau.
1/ Gia đình cơ sở Lê Hữu Trí
Gia đình ông Lê Hữu Trí không những là một cơ sở lớn với đầy đủ các tiêu chí, mà tầm vóc của nó còn như là một địa bàn lõm nằm trên con đường lớn, ồn ào náo nhiệt, trù phú nhất thành phố Huế lúc bây giờ. Ông Phan Nam nguyên là thành ủy viên thành ủy Huế, một cán bộ bám trụ nhiều năm trong nội thành đã mô tả gia đình cơ sở này như sau:
“…Toàn là một đảng viên trẻ sinh hoạt trong chi bộ phường Phú Hòa, làm nghề thợ mộc tại nhà anh Lê Hữu Trí. Bên ngoài thì quan hệ giữa Toàn và anh Trí là mối quan hệ của anh thợ mộc đến làm thuê cho chủ xí nghiệp đồ gỗ. Gia đình anh Lê Hữu Trí là một trong những cơ sở trung kiên của cách mạng từ thời chống Pháp. Anh hoạt động từ năm 1947, được kết nạp vào đảng năm 1949. Năm 1950 chuẩn bị cho tổng phản công, anh Trí đã từng nuôi giấu cán bộ từ bên ngoài vào thành hoạt động hợp pháp… Năm 1954 anh Trí còn là người hoạt động kinh tài của thành ủy. Trong những năm đầu đất nước chia cắt hai miền, anh phát triển sản xuất, xây dựng cơ ngơi, nuôi dấu cán bộ như anh Toàn, anh Loan (Hoàng Kim Loan), anh Minh Cận, nguyên là cán bộ được phân công nằm vùng ở Quảng Điền, bị địch bắt đi tù. Ra tù anh xin về làm công cho ông chủ hãng Lê Hữu Trí. Với danh nghĩa này Minh Cận hoàn toàn hợp pháp không phải ở hầm. Cũng như Toàn, cô Sen giúp việc, một cô gái xinh đẹp được bố trí ở ngoại thành vào làm liên lạc. Xưởng đồ gỗ của anh Trí dưới con mắt của khách qua đường là một cơ ngơi làm ăn gặp thời vận của một ông chủ hãng có uy tín ở Huế. Thực chất bên trong là nơi nuôi dấu cán bộ, nơi chiêu tập tổ chức lực lượng, nơi hội họp bàn bạc công việc cách mạng và là nơi thiết kế những căn hầm bí mật tinh xảo bảo đảm an toàn cho nhiều cán bộ được nuôi dấu tại nhà anh cũng như những gia đình cơ sở khác. Những cái giá sách có chỗ cho một người đứng nấp vừa vặn đàng sau, chiếc rương hai đáy trong buồng ngủ, tủ gương đựng quần áo có ngăn cho một cán bộ nằm. Những chiếc đò có rương hai đáy chở các cán bộ hoặc vũ khí, tài liệu xuôi ngược trên sông… Những chiếc đi - văng trang nhã trong phòng khách sang trọng cũng hai đáy, và cả trên trần nhà cũng thiết kế một căm hầm nửa chìm, nửa nổi cho người cán bộ ẩn nấp vừa có thể quan sát được kẻ địch đang lùng sục truy bắt mình. Anh Trí có con trai là Lê Hữu Dũng đang học ở Sài Gòn. Trước Tết anh Trí viết thư nhắn Dũng về nghỉ Tết sớm để còn lo một số việc nhà. Dũng được đưa lên hậu cứ để huấn luyện. Huấn luyện xong đưa về là bước vào chiến dịch ngay (Mậu Thân). (Nhớ về những con người và sự việc – Phan Nam kể - Hà Khánh Linh ghi, sách: Huế - Xuân 68 – Thành ủy Huế ấn hành 1988)”.
Qua lời kể của mình, ông Phan Nam đã xác nhận “công” của gia đình cơ sở nội thành Lê Hữu Trí và nhiều gia đình khác. Tôi cũng đọc được đó đây nhiều xác nhận đại khái như thế, của một số cán bộ nằm vùng, cho những gia đình cơ sở mà họ đã có quan hệ. Tôi nghĩ xác nhận chữ “công” mà không mô tả “khó” là một việc làm không đầy đủ. Phải lột tả được một phần nào cái “khó” của gia đình cơ sở mới thấy được phần nào cái “công” của họ. Đa phần xác nhận đều xem gia đình cơ sở là phần phụ việc hơn là một chiến hữu. Nuôi dưỡng, che dấu, bảo vệ cán bộ, tiếp nhận tích trữ, vận chuyển vũ khí và tài liệu cách mạng, thực hiện các nhiệm vụ được giao là cuộc chiến đấu thường trực mà mỗi thành viên trong gia đình cơ sở là một chiến sĩ và cơ ngơi của họ là pháo đài giữa bốn bề tai mắt và bạo lực của đối phương. Một khi các thứ “quốc cấm” hiện hữu trong nhà, gia chủ ý thức một cách sáng tỏ và thường trực rằng sinh mệnh, sự nghiệp, của cải của cả nhà ông ta đã thuộc về đồng chí đồng đội, thuộc về cuộc kháng chiến, thuộc về lý tưởng cách mạng mà ông ta đã gắn kết suốt đời. Một kẻ lạ mặt lai vãng, một lời nói, một âm thanh bất thường, một thông tin chưa có căn cớ, một sơ hở nhỏ nhặt, một động thái dễ dãi thiếu cảnh giác…Tất cả đều có thể dẫn đến đổ bể, tổn thất, tai họa không thể cứu chữa, không thể lường được.
Còn một thực tế mà hầu hết các lời kể đều không nhắc tới là thân phận của những gia đình cơ sở không thuộc thành phần giai cấp công nông khi cuộc chiến tranh chống xâm lược kết thúc và cả nước xốc tới Xã Hội Chủ Nghĩa theo mệnh lệnh của đảng Cộng Sản: Những ngôi nhà to cao, những cơ ngơi bề thế, những của cải trên mức trung bình, những gốc gác, quan hệ xã hội quá nhiều dấu vết, tàng tích của phong kiến, tư sản, ngụy quân, ngụy quyền sẽ là bằng chứng phức tạp khó mà biện minh là đương sự ở ngoài các đối tượng cần cải tạo.
Với cách mạng Xã Hội Chủ Nghĩa tả khuynh, đảng Cộng sản đã đẩy những gia đình cơ sở cách mạng kháng chiến thuộc tầng lớp trên: Tư sản, Trí thức, Quí tộc… về phía bên kia giới tuyến của cuộc đấu tranh ý thức hệ.
Sau giải phóng, chính quyền Thừa Thiên - Huế thành lập, Lê Hữu Trí được cử làm trưởng phòng thủ công nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Huế. Các con (trai, gái) của ông bà trở thành những cán bộ viên chức nhà nước hăm hở tham gia công tác tiếp quản ổn định xã hội, bảo vệ thành quả kháng chiến, xây dựng đất nước. Năm 1976: toàn miền Nam tiến hành công cuộc cải tạo công thương nghiệp, Lê Hữu Trí được thành ủy gợi ý làm đơn xin tình nguyện sung công cơ sở sản xuất kinh doanh đồ gỗ để làm gương cho giới công thương thành phố, đồng thời xin thôi chức trưởng phòng thủ công nghiệp, cả nhà gồm vợ chồng con cái trở thành một đối tượng đặc biệt: kháng chiến có công nhưng thành phần giai cấp thì không đáng tin cậy (tư sản). Điều làm ông đau đớn nhất là những lời mắng mỏ bóng gió của những gia đình thuộc đối tượng cải tạo cư trú và làm ăn trên các đường phố rộng như hai bàn tay: Đông Ba – Gia Hội, qua ông (Lê Hữu Trí) họ đã đóng góp cho kháng chiến kẻ ít người nhiều với lời hứa hẹn: cách mạng sẽ ghi công và đền đáp sau khi nước nhà độc lập. Nay nước nhà đã hòa bình, độc lập, thống nhất, sự ghi công và đền đáp họ đã nhận được qua cuộc cải tạo công thương nghiệp là nhà cửa, cơ sở sản xuất kinh doanh được niêm phong, quốc hữu hóa, gia đình, vợ chồng con cháu bị đẩy xuống phía sau, (nhà phụ, nhà bếp) khu vực dành riêng cho các công dân loại hai, loại ba, hay tự do đi kinh tế mới. Ngoài nỗi đau, ông Lê Hữu Trí có niềm hổ thẹn: Lời hứa mà ông đã nói thay cho kháng chiến, cho cách mạng rốt cùng chỉ là thủ đoạn của kẻ tiểu nhân.
Chiến tranh dành độc lập kết thúc thắng lợi, nhưng hòa bình chưa thực sự vãn hồi. Những đổ vỡ, những vết thương chiến tranh mới chỉ được vá víu mặt ngoài, nhưng ở bên trong, ở tầng sâu của tâm thức dân tộc vẫn âm ỉ nỗi đau nhức cũ và bỏng rát xé lòng vết thương mới.
2/ Gia đình ông Thiên Tường
Một gia đình cơ sở cách mạng được nhiều người biết đến tại Huế sau chiến dịch Mậu Thân là gia đình ông Thiên Tường ở An Cựu. Thiên Tường là một tiệm thuốc bắc lớn và nổi tiếng không những ở An Cựu mà còn cả Thừa Thiên và thành phố Huế. Thiên Tường giàu có. Tiệm thuốc bắc Thiên Tường tấp nấp kẻ ra vào: – khách khám và chữa bệnh (thời bấy giờ tại những tiệm thuốc bắc, nay gọi là đông dược, thường có một ông thầy thuốc, bệnh nhân đến hiệu thuốc thường nhờ thầy xem mạch, kê đơn và bốc thuốc) – Khách mua thuốc (còn gọi là bổ thuốc), – khách mua rượu thuốc (rượu thuốc Thiên Tường rất nổi tiếng), – khách bán dược liệu thô.
Thiên Tường còn có một cửa hàng bán vật liệu xây dựng to lớn, cách tiệm thuốc bắc một căn phố có tên là Thiên Hương. Cơ ngơi làm giàu phồn thịnh như vậy vô cùng thuận lợi cho các hoạt động, liên hệ cách mạng và nuôi dấu cán bộ bí mật. Bởi ai có ngờ cha con ông Thiên Tường tư sản giàu có mà theo Việt Cộng. Gia đình Thiên Tường không những theo Việt cộng mà còn là Việt cộng thứ thiệt. Việt cộng từ lúc khởi đầu kháng chiến chống Pháp đến kháng chiến chống Mỹ. Trong chiến dịch tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân, ông Thiên Tường xuất hiện là chủ tịch khu phố. Địch phản kích ông Tường và con trai thứ là Phan Thọ bị quân Mỹ và quân Sài Gòn bắn chết, xác phơi ở đầu cầu An Cựu mấy ngày. Cái giá mà Thiên Tường phải trả là mạng sống của hai con người và sự tan nát, đổ vỡ của cả gia đình. Bà Thiên Tường buồn rầu, bệnh và chết sau đó. Người con trai cả là Phan Đưa cùng vợ con và các em trai gái còn lại trốn thoát, vào làm ăn sinh sống tại Sài Gòn. Giải phóng xong, phấn khởi vì nước nhà được độc lập, thống nhất trong hòa bình và sum họp, Phan Đưa gom hết tài sản về Huế theo lời kêu gọi của Thành Ủy, cùng với nhà nước xây dựng xí nghiệp cơ khí công tư hợp doanh Phú Xuân. Ba năm sau xí nghiệp Phú Xuân còn lại đống sắt vụn. Phan Đưa phủi hai bàn tay trắng lủi thủi trở lại Sài Gòn với vợ và một đàn con, mà cả nhà có thể tổ chức thành mấy tổ tam tam. Xin mở một ngoặc đơn để kể thêm một chi tiết cho vui: Cuối năm 1975 tôi vào nhà Phan Đưa ở Chợ Lớn để nhờ chị Đưa (lúc bây giờ Phan Đưa ở Huế với xí nghiệp Phú Xuân) tìm thuốc chữa bệnh phong cho Trương Văn Hoàng theo đơn của thầy thuốc Trần Tiễn Hy. Thấy chị Đưa đang mang bầu, tôi hỏi: Chị đã đẻ chín đứa rồi mà còn chưa đủ sao? Chị Đưa phấn khởi trả lời: Nước nhà độc lập, thống nhất rồi, đẻ thêm một đứa làm kỷ niệm và để nó sống sung sướng… đóng ngoặc đơn.
Thế đó là nhà tư sản dân tộc bé tí teo không còn để cải tạo nhưng vẫn còn cái danh tư sản, kẻ thù không độ trời chung của giai cấp công nông. Nghe nói mấy đứa con lớn của anh chị Phan Đưa đã theo chú và cô chúng vượt biên sau đó. Chẳng biết lời phong thanh ấy thực hư thế nào.
3/ Gia đình ông Bửu Đáp
Một nhà cơ sở khác, không phải là chủ doanh nghiệp, cũng chẳng có gốc gác lao động nghèo hay một vị tu hành đạo cao chức trọng, mà là một nhà quí tộc: ông Bửu Đáp.
Ở Vỹ Dạ trước 1975, ít người không biết đến cái tên của nhà quí tộc với khu vườn nhà rộng rãi, kín cổng cao tường, cây cối xanh um nằm giữa đường Thuận An ( nay là đường Nguyễn Sinh Cung) và bờ sông. Bấy giờ, khu nhà hoàn chỉnh gồm có nhà trên, nhà dưới và nhà phụ. Ngoài ba phần ấy, khu nhà còn có một căn chòi lục giác nằm ở phía sau nhà chính dùng làm nơi uống rượu ngắm trăng, làm thơ của “mệ” và bạn bè. Tất cả kiến trúc ấy nằm trên một mảnh đất rộng nửa mẫu tây với cổng trước, cổng sau, bình phong, vườn kiểng, cây trái, vườn rau và sân gia cầm. Cổng trước luôn đóng kín. Cổng sau và cả bến nước xây bằng đá hộc hai trụ hai bên và những bậc cấp. Bến và cả dãy dài bờ sông được che phủ bởi tán lá những cây sung, cây cừa cổ thụ.
Bửu Đáp dòng dõi Nguyễn Phước. Tên họ đầy đủ là Nguyễn Phước Bửu Đáp, cháu nội trực hệ đời thứ tư của vua thánh tổ nhà Nguyễn (Minh Mạng) Chữ Bửu trong Nguyễn Phước Bửu Đáp là từ thứ tư trong bài “Đế hệ thi” do vua Thánh Tổ làm ra để phân biệt các thế hệ con cháu đời sau của chính mình và của các thân vương (anh em ruột của ông). Bài “Đế hệ” như sau:
Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh Bảo Quí Định Long Tường Hiền Năng Kham Kế Thuật Thế Thụy Quốc Gia Trường
Là con chúa cháu vua chính tông, là máu thịt của cái mà nhiều nhà cách mạng Việt Nam mỗi khi nhắc đến đều không dấu được sự căm giận và khinh miệt: Phong kiến.
Ấy vậy mà chỉ theo ký ức của tôi thôi (còn ký ức của nhiều người khác đặc biệt là ký ức lịch sử), có rất nhiều tên tuổi nguyên xi phong kiến đó chẳng hạn như Bửu Đình, Bửu Tiếp, Tôn Thất Tùng, Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Tiềm, Tôn Thất Lập ( các vị mang họ Tôn Thất thật ra là tông thất nhà Nguyễn, họ Nguyễn Phước dòng thứ) Vĩnh Linh, Vĩnh Toàn, Bửu Chỉ, Vĩnh Phối, Tôn Thất Kỳ, Vĩnh Thọ… đã đi làm cách mạng, hoặc tham gia phong trào kháng chiến ở đô thị. Nếu nhớ hết, ghi chép được hết tên tuổi các mệ “ làm loạn”, các “mệ Việt Cộng”, con số chắc cả ngàn, một trong số ấy là Bửu Đáp.
Tôi nghe tên Bửu Đáp mới gần một năm nay thôi, khi có việc cần hỏi ông Hoàng Lanh. Theo Hoàng Lanh, người biết nhiều về ông Bửu Đáp là ông Tư Minh (Lê Minh), Ngô Lén (Hà), hai trong số những người lãnh đạo và gắn bó với phong trào đô thị của Thừa Thiên Huế suốt nhiều năm liền trong cả hai cuộc kháng chiến. Rất tiếc là hai ông Lê Minh và Ngô Lén đã qua đời.
Tôi và Nguyễn Hữu Châu Phan tìm về khu nhà của nhà quí tộc đỏ. Khung cảnh cũ không còn. Người xưa thì tôi chỉ gặp được một phụ nữ trung niên tên là Hoa, con gái ông Bửu Đáp và gia đình riêng của chị. Ông Bửu Đáp mất năm 1974. Bà Bửu Đáp ra đi trước chồng mấy năm.
Khu vườn xum xuê cây lá và ngôi nhà kỳ lạ ghi dấu một phần quá khứ vàng son và ôm ấp giấc mơ về thế giới đại đồng đã biến mất. Trước mắt chúng tôi là một ngôi nhà hai tầng bê tông cốt sắt, to cao sừng sững nhìn ra một bãi cát sạn chạy dài từ đường Nguyễn Sinh Cung ra tận bến sông như là một thách thức với quá khứ, và một khẳng định mạnh mẽ, nóng vội quyền sở hữu của người chủ mới: chị Hoa.
Chị Hoa bảo ngôi nhà này được xây theo mô hình của ngôi nhà cũ, có phục chế một vài chi tiết để nhớ người quá cố. Chị đưa chúng tôi ra đầu hồi phía đông và quay chỉ lên tường. Trên phần tường tầng trệt phía trái chúng tôi là sáu chữ Hán to đắp nổi theo hàng dọc, mỗi hàng ba chữ. Chị Hoa bảo đây nguyên là hai câu đối, mỗi câu bốn chữ nhưng khi phục chế, người thợ nề bỏ quên hai chữ. Ở phần tường phía bên phải chúng tôi là một bầu rượu to nằm trong một khung vuông cũng đắp nổi. Chị Hoa đưa chúng tôi vòng ra phía sau. Một nhà lục giác mới xây bằng vật liệu hiện đại to lớn và bề thế hơn cái cũ. Nằm giữa nhà lục giác là một con chó berger to gần bằng một con bò và dữ hơn một con cọp nhảy chồm chồm và sủa vang khi thấy người lạ. Giữa nhà phụ và nhà lục giác là hàng trăm chậu cây cảnh sản xuất hàng loạt xếp ngay hàng thẳng lối đầy khắp mặt sân. Khi trở lại ngôi nhà chính, đứng ở hiên nhà nhìn ra bãi cát sạn tôi ngẫm nghĩ: vào những giờ cao điểm của công việc kinh doanh ở đây chắc là huyên náo, sôi động của cảnh trên xe dưới thuyền.
Chị Hoa nói với chúng tôi:
“Không chỉ có ba tôi, mẹ tôi cũng là người tham gia kháng chiến tích cực. Mẹ tôi thường đi công tác xa tận các vùng ở Phú Vang, Hương Thủy. Tôi rời nhà sớm để đi dạy và lấy chồng ở xa. Tôi chỉ trở lại nhà này sau khi ba tôi mất cho nên không biết gì nhiều như các anh chị em tôi. Tôi có một ông anh và một bà chị đi tập kết. Hai người này chắc biết rõ sự tham gia của ba mẹ chúng tôi thời chống Pháp. Tôi còn có một ông anh và một cậu em đang ở nước ngoài. Anh và cậu này chỉ rời nhà này để vượt biên, không những họ biết rõ ba mẹ tôi đã tham gia chống Mỹ như thế nào mà chính họ còn góp phần... Bản thân tôi cũng có lúc đã treo màn cho các chú, các bác cán bộ bí mật ngủ, dọn cơm mời họ ăn, rót nước mời họ uống và cảnh giới cho họ trò chuyện, họp hành.
“Sau 1975, anh trai, chị gái tôi từ Hà nội về thăm nhà. Thấy cha mẹ đã qua đời, nhà cửa tiêu điều khốn khó…, họ đau lòng, nhưng chẳng làm gì được. Suốt bốn, năm năm liền nhà tôi là đối tượng cần cải tạo và canh chừng của chính quyền cách mạng. Công an chiếm hết căn nhà trên làm trụ sở. Chúng tôi bị đẩy xuống nhà dưới. Các vật sản trong nhà có số bị trưng dụng, số vì thiếu đói chúng tôi đã bán đổ, bán tháo. Sập gụ, tủ chè, đồ sứ, sách vở… Cây cối vườn tược bị đốn phá một phần để lấy củi, một phần lấy đất trồng khoai sắn, rau dưa để có cái ăn. Đất đai phía trước đường, phía sau nhà bị chiếm cứ xây cất tùy tiện. Anh và em trai tôi cùng đường phải vượt biên. Nhiều năm liền chúng tôi phải cầu cứu ông Hoàng Lanh – lúc bây giờ là bí thư tỉnh ủy, ông Phan Nam – về sau làm chủ tịch thành phố, mới thu hồi lại nhà cửa bị tan hoang và đất đai chẳng còn nguyên vẹn. Rất tiếc là chúng tôi không giữ được nguyên trạng khu vườn nhà và những vật sản lịch sử, văn hóa của cha ông để lại. Tình cảnh mấy năm đầu giải phóng là như thế, chúng tôi tối tăm mù mịt chỉ biết ứng biến để sinh tồn. Đến khi đất nước mở cửa, mở lòng chúng tôi mới bung ra làm ăn…”
Yêu cầu của chúng tôi là ghi chép đầy đủ sự đóng góp, tham dự của những gia đình yêu nước – là cơ sở của Thành ủy trong suốt hai thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Đặc biệt là những gia đình tầng lớp trên: Hoàng tộc, Trí thức, Tư sản để mô tả cho chính xác một điều không phải là bất kỳ ai, bất kỳ thứ gì thuộc về phong kiến cũng xấu xa bại hoại cả. Cũng có thể nói theo một cách khác: chế độ Phong kiến hay Tư sản cũng không độc quyền “bại hoại xấu xa”. Việc làm này còn góp phần mô tả đầy đủ và chân thật cuộc chiến tranh nhân dân do đảng Cộng Sản lãnh đạo trong lòng các đô thị.
Tôi chờ tin tức từ chị Hoa đã mấy tháng, vẫn không thấy. Tôi đành tìm lại ông Hoàng Lanh, rồi gặp thêm ông Phan Nam, ông Trần Hân – sau 1954 là bí thư thành ủy Huế, cuối năm 1956 ông bị bắt bị đày đi côn đảo đến 1975 mới được giải phóng. Hai người bạn tôi không hỏi nhưng lại cung cấp mấy chi tiết khá bổ ích là anh Nguyễn Hữu Châu Phan và anh Lê Phước Tâm.
Hôm chở tôi đến chỗ chị Hoa, anh Châu Phan nói là đã tới nhà này một lần vào năm 1958 theo sự chỉ bảo của ông cụ thân sinh của anh – Ông Nguyễn Hữu Đính, một thành viên của nhóm Ngày Mai và “chi bộ Xa lông”. Tôi sẽ tiếp cận nhóm Ngày mai và chi bộ Xa lông vào một dịp khác. Anh Lê Phước Tâm bảo là đã chở ông Hoàng Kim Loan đến đoạn đường này nhiều lần sau 1968. Ông Hoàng Kim Loan lúc bây giờ là thành ủy viên thành ủy Huế hoạt động bí mật trong nội thành.
Ông Phan Nam trong cuốn Huế - Xuân 1968, kể lại (Hà Khánh Linh ghi): “Ông cụ Phiên (một gia đình cơ sở ở Kim Long khi hoạt động trong nhóm những nhân sĩ yêu nước mà chúng tôi thường gọi là tổ “hưu quan” gồm ông Bửu Đáp, ông Thị Cầu… là những quan chức chế độ cũ có quan hệ gắn bó với cách mạng, có con em đi tập kết”
Ông Trần Hân bảo trước khi bị địch bắt hồi cuối năm 1956, theo sự giới thiệu của ông Tư Minh, ông đã nhiều lần tới và ở lại nhà ông Bửu Đáp.
Ráp nối các thông tin trên, cộng với những hồi ức của ông Hoàng Lanh, của chị Hoa, chúng ta có được những nét khái quát về gia đình cơ sở cách mạng Bửu Đáp.
Gia đình Bửu Đáp là một cơ sở lâu bền của thành ủy Huế và tỉnh Thừa Thiên từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp cho đến lúc gần hết cuộc kháng chiến chống Mỹ (1974 khi ông bà qua đời).
Ông bà Bửu Đáp là thành viên tích cực hoạt động yêu nước trong những thành phần quan lại, viên chức về hưu thuộc Nam triều và những trí thức cao cấp tiến bộ ở Huế thời bây giờ. Gia đình này đã bền bỉ, liên tục đóng góp công sức, của cải cho sự nghiệp giải phóng tại Thừa Thiên - Huế; ông bà Bửu Đáp có hai con đi kháng chiến rồi đi tập kết. Tại nhà, ông bà nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ hoạt động bí mật, làm kho trạm cất dấu vũ khí, vận chuyển hàng hóa. Cổng sau với những cây cổ thụ tàn lá phủ kín một dãy bến nước là nơi những con đò, những chiếc nốt hai đáy ngụy trang bằng nông lâm sản, phân rong đến rồi đi, đi rồi đến rất nhiều lần suốt cả hai thời kỳ. Các ông Lê Minh, Ngô Lén đánh giá cao cơ sở này và luôn luôn để dành làm cơ sở dự phòng.
Lời kể của ông Trần Hân sau đây, theo tôi, là nhận định sâu sắc và đầy đủ về gia đình cơ sở Bửu Đáp:
“Cuối tháng 7 – 1954 (hiệp định Genève vừa được ký kết) tôi được tỉnh ủy phân công làm bí thư Huế.
Từ Nam Hòa, tôi theo một cơ sở làm nghề cào vớt rong (rong là một loại cỏ mọc ở nước ngọt, nông dân thường làm phân bón) vào thành phố. Khoảng một giờ sáng, nốt cập bến. Một người đàn ông đã qua tuổi trung niên đang đợi, đón tôi. Từ trên núi anh Tư Minh bí thư tỉnh ủy đã cung cấp cho tôi nhiều thông tin về người đàn ông này. Ông là Bửu Đáp, người hoàng tộc, quan lại về hưu, là cơ sở cách mạng từ những ngày đầu cách mạng tháng Tám. Ông có hai người con (một trai, một gái) thoát ly đi kháng chiến. Người con trai là đảng viên tham chiến ở mặt trận Điện Biên Phủ.
Ông Bửu Đáp đưa tôi vào nhà, cửa ngách đã mở sẵn, một người phụ nữ trung niên đứng đợi (bà Bửu Đáp). Tôi theo ông lên gác, qua cầu thang bằng gỗ. Căn gác chia làm ba ngăn, ở giữa là khu vực thờ tự, hai đầu: một làm buồng ngủ cho ông, một làm thư phòng. Bà Bửu Đáp và con ở dưới. Ông Bửu Đáp sắp xếp cho tôi ở thư phòng. Ngay sát chân cầu thang là chỗ ở của một học sinh từ nông thôn lên đi học và dạy kèm. Tôi ở lại nhà ông Bửu Đáp gần hai tuần lễ. Anh thanh niên dạy kèm rất ít khi ra ngoài vì thời gian này là kỳ nghỉ hè. Để bảo đảm bí mật, mọi sinh hoạt của tôi đều diễn ra trên gác. Từ ăn uống đến đại tiểu tiện, các thứ đều một tay ông Bửu Đáp quán xuyến. Anh thử nghĩ, ông Bửu Đáp là một quí tộc, một quan lại về hưu, tuổi tác đã cao, thường ngày ông được người khác phục vụ, nay ông lại đi phục vụ người khác là tôi. Vì lí do gì mà một người như ông Bửu Đáp phải bưng cứt đổ đái cho một người trẻ tuổi gốc gác bình dân như tôi, nếu không phải là lòng yêu nước, vì tinh thần cách mạng?
Một điều chúng ta cần lưu ý vào thời điểm tháng 7 - 1954, một nửa đất nước – miền Nam trong đó có Huế – vẫn là vùng lãnh thổ thuộc quyền quản lí của một chính quyền phụ thuộc ngoại bang và chống cộng điên cuồng. Độc lập, Thống nhất vẫn còn là mục đích xa vời. Tham gia kháng chiến trong lòng địch như gia đình ông Bửu Đáp là đương đầu với nguy hiểm, hi sinh, mất mát…
Câu chuyện của tôi có vậy, nghĩ suy gì thêm là tùy các anh và các độc giả đời sau…”
“Đáng tiếc là, ông Trần Hân nói, ông Bửu Đáp đã ra đi trước khi nước nhà độc lập. Và đáng tiếc hơn nữa là sau giải phóng các đồng chí ở ngoài vào nhìn thấy cơ ngơi to lớn của ông bà mà qui kết này nọ, đối xử nghiệt ngã, bất công sai trái với thế hệ sau, và qua cầu rút ván với người đi trước.”
4/ Gia đình ông Nguyễn Hữu Đính
Từ giữa năm 1965 ở đầu đường Nguyễn Huệ, phía nối với đường Lê Lợi, xuất hiện một ngôi nhà khang trang hiện đại và đẹp nhất thành phố Huế. Ngôi nhà mang bảng số 10 (nay là số 18), tọa lạc trên một khu vườn rộng có mặt tiền trên 70 mét, kiến trúc mới mẻ, không cắt tỉa chăm chút chỉnh chu ngăn nắp như những khu vườn truyền thống mẫu mực của Huế, cũng không thoáng trống, xa vắng như những khu vườn Tây lác đác xuất hiện đây đó chung quanh các giáo khu (Thiên Chúa giáo). Cổng và hàng rào không che chắn cao kín mà thưa thấp đơn giản nhưng vững chãi, là một chi tiết của một công trình kiến trúc tổng thể có nhiệm vụ vừa đủ để làm giới mốc với chung quanh, vừa đủ để giới thiệu phô tôn dáng vẻ tự tín duyên dáng và hòa hợp của khu vườn nhà.
Chủ nhân ngôi nhà là ai? Chắc là phải một quan chức có tầm cỡ của chế độ. Giả định này của khách bàng quan chẳng sai trật bao nhiêu. Đó là một nhà chuyên môn mà nếu lập trường chính trị “thuần nhất Việt Nam Cộng Hòa” thì đã là bộ trưởng bộ nông nghiệp của chính quyền Ngô Đình Diệm. Ông bà Nguyễn Hữu Đính – chủ nhân ngôi nhà – xuất thân trong hai gia đình danh gia vọng tộc của cố đô. Các anh chị em ông bà được đào tạo, đỗ đạt cao trong hệ thống giáo dục của thực dân Pháp ở Đông Dương, là quan chức cao cấp của chính quyền thuộc Pháp rồi thuộc Mỹ từ Bảo Đại đến Ngô Đình Diệm rồi Nguyễn Văn Thiệu. Các con của ông bà (ba trai, năm gái) đều được giáo dục chu đáo, học hành đến nơi đến chốn và đều có khả năng tạo lập cuộc sống đầy đủ ổn định. Đặc biệt bà là con gái của thượng thư Tôn Thất Ngân, là cháu nội cụ thân thần Tôn Thất Hân.
Một gia đình như thế có điên mới theo Cộng Sản, vừa nguy hiểm, vừa mất mát quyền lợi. Đó là cách nghĩ, cách đánh giá rất đời thường không những chỉ phổ biến ở bên này mà cả bên kia chiến tuyến vào những thời điểm khác nhau, và những nghịch lí, cực đoan có thể dẫn đến một kết cục khó lường.
Tuy nhiên, chiến tranh là một hiện thực bất thường. Và người chỉ đạo chiến tranh cũng như người tham dự đều tự đặt mình trong tình trạng bất thường ấy để tùy nghi mà tiến hành các nhiệm vụ đánh giặc cứu nước.
Chiến tranh chống xâm lược là cuộc chiến tranh từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vô. Bởi chỗ dựa chính yếu của bọn xâm lược là các đô thị, nên các nhà lãnh đạo chiến tranh cùng một lúc xây dựng căn cứ địa kháng chiến ở rừng núi – nông thôn và đặc biệt ngay chính chỗ dựa của đối phương: thành thị. Căn cứ địa kháng chiến trong lòng các đô thị không dựa vào các điều kiện thuận lợi núi cao, hang sâu, địa thế hiểm trở mà nương tựa vào lòng của nhân dân mà cụ thể là các gia đình yêu nước, các gia đình cơ sở cách mạng. Bất cứ loại hình căn cứ kháng chiến nào, yêu cầu cao nhất vẫn là tính kiên cố của nó. Tính kiên cố của các căn cứ địa kháng chiến trong lòng các đô thị là lòng yêu nước sâu nặng, là lý tưởng Cộng sản kiên định và niềm tin tất thắng vào sự nghiệp kháng chiến dưới sự lạnh đạo của đảng Cộng sản.Tính kiên cố còn được rào chắn bởi một vỏ bọc mà đối phương khó nghi ngờ (quí tộc, tư sản, trí thức và đồng thời là quan chức cao cấp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa). Tính kiên cố được mô tả bằng thành ngữ thông dụng trong thời kháng chiến là “xanh vỏ đỏ lòng”. Vỏ càng xanh bao nhiêu, thì “đỏ lòng” càng kiên cố bấy nhiêu, và người cán bộ bí mật mà thành ủy cử vào nằm vùng để chỉ đạo phong trào càng yên ổn bấy nhiêu. Ở trong lòng đối phương mà người cán bộ hoạt động bất hợp pháp chọn các gia đình lao động với nhà cửa bé nhỏ ọp ẹp để bày tỏ lập trường giai cấp là thưa ông tôi ở bụi này.
Gia đình tư sản với kinh doanh tấp nập, kẻ ra người vào như Thiên Tường, như Lê Hữu Trí, gia đình quí tộc như Bửu Đáp, gia đình trí thức như Bác sĩ Thân Trọng Phước, bác sĩ Lê Khắc Quyến, như bà Tuần Chi, như nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba là những điển hình. Trường hợp kỹ sư Nguyễn Hữu Đính vừa là dòng dõi thượng lưu, vừa là trí thức quan chức chế độ, vừa có cơ ngơi nhà cửa bề thế khang trang định vị tại một nơi mà ba bên bốn bề là dinh lũy của đối phương: Tòa Đại Biểu chính phủ miền Trung, Tòa hành chánh tỉnh, Dinh tỉnh trưởng trước mặt (trên đường Lê Lợi), trụ sở CIA và nha Sắc tộc nằm sát cạnh hai bên.
Ông Phan Nam trong lời kể của mình có đoạn ghi “công” như sau: hoặc như cụ Nguyễn Hữu Đính – một trí thức tham gia cách mạng thời chống Pháp. Cụ có một ngôi nhà vào loại đẹp ở Huế. Sự trang nhã, thanh lịch của chủ nhân, với ngôi nhà quanh năm kín cổng cao tường – nương mình bên những hàng cây cảnh quí – càng tăng thêm vẻ trang nghiêm, và càng khiến cho kẻ địch không hề mảy may nghi ngờ. Đó là một trong những chỗ ở của tôi và đồng chí Loan (Hoàng Kim Loan, thành ủy viên nằm gai nếm mật ở nội thành, phụ trách một mảng công tác phong trào đô thị. Chu Sơn chú thích), để chỉ đạo phong trào, cụ Đính đã giúp chúng tôi nhiều trong công tác móc nối với những đầu mối “lớp trên” (Hà Khánh Linh ghi – Huế - Xuân 68 trang 170)
Lời xác nhận để ghi “công” ở trên chưa đầy đủ kể cả chất và lượng, nhưng chúng ta không thể đòi hỏi hơn, bởi ông Phan Nam còn phải đứng một chân trên lập trường của giai cấp công nông. Tôi nghĩ các ông Ngô Lén, Lê Minh nếu có đủ điều kiện thời gian để nhận định về sự đóng góp của các cơ sở do mình xây dựng nên và chỉ đạo trực tiếp suốt nhiều năm tại nhiệm thì sự thật chắc chắn được mô tả đầy đủ và trung thực hơn.
“Cụ Nguyễn Hữu Đính một trí thức cách mạng... giám đốc trung tâm Thủy Lâm miền Trung Trung bộ thời chống Pháp.” Lời kể này của ông Phan Nam thông báo một chi tiết về tiểu sử Nguyễn Hữu Đính đã khiến lí lịch của ông mất đi một phần thuần nhất Việt Nam Cộng Hòa, do vậy mà chức vụ bộ trưởng bộ nông nghiệp của chính phủ thuộc chế độ Ngô Đình Diệm của ông chỉ mới là đề xuất. Mất cơ hội hiếm có để leo cao chun sâu vào cơ chế đối phương. Nguyễn Hữu Đính tô vẽ thêm cho cái vỏ bọc của mình ngày một thêm xanh bằng các biện pháp cải thiện sinh hoạt. Mua đất và làm nhà to lớn, mỹ thuật và sang trọng ở đầu đường Nguyễn Huệ là một công việc làm không ngoài dự hoạch của ông bà.
“Kinh phí làm nhà là ba triệu đồng, bác Nguyễn Hữu Đính kể, tiền tích góp chưa đủ, tôi phải mượn thêm chỗ bà con 700.000 đồng nữa. Số tiền này tôi và Châu Phan góp trả nhiều năm mới xong”. Khu vườn thanh lịch, ngôi nhà duyên dáng với trang trí nội thất đơn giản mà mỹ thuật và của cải nằm hết trong mấy tủ sách đồ sộ: tủ sách lâm học, tủ sách Marxisme, tủ sách mỹ thuật đầy đủ bậc nhất Đông Dương, cộng với cung cách khiêm tốn, kín đáo cũng là những lợi thế để Nguyễn Hữu Đính khẳng định với bàng quan thiên hạ cái vỏ xanh của mình. Ngoài khả năng chuyên môn là một nhà Lâm học uyên thâm, Nguyễn Hữu Đính còn say mê nghiên cứu mỹ thuật, văn hóa lịch sử cố đô Huế, qui hoạch đô thị và môi trường, kinh tế du lịch. Ông đã tận dụng cái thế mạnh của mình để sống và mở rộng giao tiếp, đi lại, tạo điều kiện và giúp đỡ cho cán bộ nằm vùng móc nối với các đầu mối thuộc tầng lớp trên (Phan Nam...)
Thế, các cán bộ nằm vùng ở đâu trong cái vỏ xanh kiên cố ấy? Trong tủ áo hai lớp ư? Trong đi văng hai đáy ư? Nơi góc nhỏ phía sau tủ đứng ư? Trong trường hợp bình thường, ông (người cán bộ bí mật) là một người bạn thân làm việc và ngủ lại tại một căn phòng liền kề với phòng gia chủ. Trong trường hợp khẩn trương ông ở trong căn hầm bí mật giữa hai lớp bê tông phía trên phòng vệ sinh. Trên bức tường giữa phòng ngủ và phòng vệ sinh có treo một bức tranh. Phía sau bức tranh là cửa vào hầm bí mật. Với sự trợ giúp của một trong các con trai của gia chủ là bức tranh được lấy xuống, người cán bộ bí mật đứng trên vai của người trai trẻ, chui vào hầm, người trai trẻ treo lại bức tranh và nằm ngủ ngay dưới cái giường chỉ một phút trước đây khách đã nằm, hay ngồi vào bàn tiếp tục học hành, làm việc. Một phút vừa đủ cho gia chủ cảnh giác, mở cửa mời kẻ gõ cửa vào nhà và sẵn sàng hướng dẫn bất cứ ai khám xét với lệnh tòa.
Trong ngôi nhà đẹp đẽ khang trang ở số 10 Nguyễn Huệ (nay là số 18) có hai căn hầm bí mật nằm giữa hai lớp bê tông như thế. Một cái cho hai người nằm như đã giới thiệu ở trên và một cái nằm ngay ở hiên trước cho vài chục người nằm, ở đây còn là nơi cất dấu vũ khí.
Nước là nơi ở ngàn đời của dân tộc. Nhà là nơi ở của một, hai, ba đời của cộng đồng nhỏ: gia đình. Ông bà Nguyễn Hữu Đính trước khi xây dựng ngôi nhà để ở đời cho vợ chồng con cháu mình đã nghĩ đến chuyện biến nó thành căn cứ kháng chiến. Ông bà Nguyễn Hữu Đính và con cái trong cái vỏ xanh ấy đã ấp ủ, đã kiên định, đã gắn kết, đã hội nhập thân phận mình với thân phận của cả dân tộc trên con đường độc lập và lý tưởng Cộng sản.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2012 7:40:05 GMT 9
Hồi ở tù ở nhà lao Thừa Phủ, trong những câu chuyện miên man một già một trẻ, một trí thức, một nông dân, đã có lần tôi hỏi bác Nguyễn Hữu Đính về động cơ tham gia cách mạng của bác và của gia đình.
“ – Đơn giản thôi, bác trả lời, không chỉ thường thường bậc trung như chúng tôi, mà có rất nhiều người ở vị trí và có điều kiện sống cao, trên tôi rất nhiều chẳng hạng như vua Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân và kể cả Bảo Đại... đều chẳng khó khăn để nhận ra rằng không ai có thể tránh khỏi thân phận nô lệ khi đất nước bị xâm lược. Chỉ có sự khác nhau giữa các tầng lớp nô lệ. Vua nô lệ, quan nô lệ, dân nô lệ. Vua nô lệ thì nối tiếp nhau mấy tên, quan nô lệ thì thay đổi nhau hàng ngàn tên, còn dân nô lệ thì đời đời kiếp kiếp mấy chục triệu con người”.
“Bọn xâm lược nuôi dạy và sai bảo một thiểu số để đè đầu cỡi cổ, cướp bóc giết hại và nô lệ cả dân tộc”
“Ngoài mục tiêu độc lập dân tộc, tôi tham gia cách mạng còn vì lý tưởng Cộng Sản. Bọn xâm lược, thực dân chỉ là cái ngọn, cái gốc của chúng là Tư bản, Đế quốc”.
“Bọn Tư Bản đàn áp khốc liệt và bóc lột tận xương tủy đại đa số nhân dân lao động vốn là đồng bào ruột thịt của chúng”
“Bọn Đế quốc đi xâm lược, cướp bóc tài sản, bóc lột nhân dân và nô lệ hóa các dân tộc thuộc địa”
“Bọn Đế quốc Tư bản do mâu thuẩn quyền lợi tranh chấp lẫn nhau gây ra các cuộc chiến tranh khu vực và thế giới, đẩy nhân loại vào thảm kịch chém giết lẫn nhau.
Trong tình hình hiện tai, chủ nghĩa Cộng sản vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện để các dân tộc thuộc địa và nhân dân lao động trên toàn thế giới liên kết nhau lại, đứng chung một trận tuyến đánh đuổi bọn cướp nước, lật đổ bọn thống trị, thủ tiêu các tàn tích lạc hậu nghèo đói nô lệ, xây dựng đất nước công bằng giàu mạnh và tiến bộ, góp phần đánh bại chủ nghĩa Tư bản trên bình diện toàn cầu, góp phần hình thành một thế giới không có người đàn áp bóc lột người, một thế giới huynh đệ và hòa bình.
Liên tiếp hơn ba năm sau giải phóng, tôi và bác Đính vẫn tiếp tục cuộc trò chuyện miên man ấy. Có lần tôi đã thô thiển đặt một vấn đề mà bác không hề muốn chia sẻ với bất cứ ai ngoài gia đình mình. Người Huế, đặc biệt là những gia đình thuộc tầng lớp trên, thường rất kín đáo trong những việc riêng tư. Tôi không phải là người tế nhị, tôi lại nghĩ công ăn việc làm của các anh chị con trai, con gái của hai bác trong chế độ xã hội chủ nghĩa không còn là vấn đề riêng tư. Ngoài trừ hai người con gái lớn có chồng con ở xa và người con trai út thoát ly ra vùng giải phóng, những người còn lại – hai trai – ba gái – hết bốn người không tìm được việc làm ở Huế mặc dù tất cả đều hoàn chỉnh chương trình đại học, sau đại học và cho dù ở Huế lúc bây giờ y tế và giáo dục thiếu cán bộ trầm trọng, cho dù không nhiều thì ít các anh chị ấy là trợ thủ của ba mẹ mình trong căn cứ “xanh vỏ đỏ lòng” ở số 10 Nguyễn Huệ ấy. Một trong năm người có việc là Nguyễn Hữu Châu Phan, con trai đầu đã nếm mùi ở nhà tù Chín Hầm và bị đuổi ra khỏi thành phố Huế do lời khai của một cơ sở bị lộ ( Bác Đính cũng bị bắt, bị giam một năm, bị đưa ra tòa án quân sự mặt trận vào dịp này).
Châu Phan tốt nghiệp đại học sư phạm Khóa I năm 1960, chuyên ngành sử địa, là giáo viên phụ giảng Đại Học Sư Phạm Huế, bị tình nghi là Việt Cộng, bị đổi qua dạy Sử Địa tại viện Hán học trên 10 năm. Sau giải phóng Châu Phan xin về Đại Học Sư Phạm Huế, không được chấp nhận. Xin làm giáo viên một trường cấp ba, bị hoạnh họe đủ điều bởi những đồng nghiệp từ miền Bắc vào (xin lỗi Châu Phan, anh không muốn tôi xía vào việc riêng của anh. Tôi lại nghĩ khác, Anh muốn thế nào là tùy ý anh, còn tôi, tôi làm việc của tôi), cuối cùng anh xin làm thủ thư tại thư viện trường Hai Bà Trưng, rồi làm giám đốc nhà máy in của sở Giáo dục khi nước nhà chuyển qua thời kỳ đổi mới.
Tôi hỏi bác Đính hai câu:
– 1/ Sao bác không nói với ông Lanh, ông Nam để các anh chị ấy đi làm? (ông Hoàng Lanh, ông Phan Nam là hai cán bộ cao cấp nhất của thành phố lúc bây giờ và đều biết hoặc đã chiến đấu tại căn cứ Nguyễn Hữu Đính).
– 2/ Có phải vì ngôi nhà to lớn mà các anh chị ấy gặp khó khăn trong công việc chăng?
Bác Đính cũng trả lời đủ hai câu nhưng không thoải mái gì.
– 1/ Mình tham gia đánh giặc để lật đổ chế độ phong kiến tay sai, để khỏi làm cái công việc sỉ nhục ấy (cầu cạnh, chạy vạy).
– 2/ Người ta xóa bỏ chế độ phong kiến, xây dựng chế độ Tư bản qua ngưỡng cửa các nhà máy hiện đại và nền thương nghiệp tiên tiến. Mình xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa (cao hơn chế độ tư bản) qua ngưỡng của của những ngôi đình và lũy tre làng, qua cuộc chiến tranh khủng khiếp lâu dài với những di chứng những đổ nát không dễ gì hàn gắn ngày một ngày hai. Không có người nông dân không giữ được đất. Trong cuộc chiến họ là những anh hùng. Kết thúc cuộc chiến, những anh hùng vẫn là nông dân với nhiều thương tật. Trước cách mạng tháng Tám, ở các đình làng và nhà thờ họ tộc thường phổ biến một thành ngữ: hữu công tắc tọa. Hữu công tắc tọa nghĩa là công nghiệp lớn đương nhiên ngồi chiếu trên lâu dài. Tôi là người trồng cây, tôi biết không thể một sớm một chiều mà có được mùa vàng và gỗ quí. Dù thế nào tôi cũng tin vào đảng Cộng Sản Việt Nam. Chiến tranh có lúc bại lúc thắng. Phong trào có lúc xuống lúc lên. Dân tộc Việt Nam và đảng Cộng sản, đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam, đối với tôi không thể thiếu một trong hai lúc này, và không chỉ lúc này.
Đương nhiên tôi không đồng tình với luận điểm bác Đính vừa nêu. Và tôi cũng đã tranh luận với bác đến cùng. Nhưng sau những tranh luận như vậy tôi mới nhận ra nơi người bạn tù lớn tuổi của tôi một sự thật mà lúc đầu tôi cho là mâu thuẫn, nhưng càng lâu về sau, tôi lại thấy nơi tâm thức của bác Đính chỉ là một vận động biện chứng. Về nhận thức, về tư tưởng, bác Đính là người Marxism không khoan nhượng. Về đức tính và bản lĩnh sống giữa đời bác lại là người Cộng hòa.
Người Cộng hòa biết lắng nghe và tôn trọng chính kiến của những người khác. Tôi là người bạn vong niên của bác Đính lâu dài vì chúng tôi biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến của nhau.
Chu Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2012 7:41:05 GMT 9
Gia đình cơ sở ở Huế (Phần II)
Chu Sơn
5/ Gia đình ông Nguyễn Thúc Tuân.
Những thông tin về nhân vật Nguyễn Thúc Tuân, tôi nghe nhiều nhưng không chú ý lắm. Con người này đối với tôi chẳng tiêu biểu cho thành phần thuộc tầng lớp trên trong phong trào đô thị là đối tượng tôi quan tâm. Tuy nhiên trong quá trình đi tìm tư liệu sống để viết về các đối tượng thuộc tầng lớp này, nhiều cán bộ hưu trí nguyên là những nhân vật chủ chốt của thành ủy Huế thời kháng chiến và mấy năm sau giải phóng như các ông: Hoàng Lanh (nguyên bí thư Thành ủy Huế), ông Phan Nam (nguyên chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố Huế), ông Nguyễn Thọ (Hường), (nguyên bí thư huyện Hương Trà), ông Lê Công Cơ, (nguyên bí thư Thành đoàn Huế) đều đề nghị tôi nên tìm gặp và viết về ông Nguyễn Thúc Tuân – một người theo họ, là nạn nhân của thời “quá độ từ chiến tranh qua hòa bình”
Tôi đến nhà ông Nguyễn Thúc Tuân hai lần trong năm 2006 tại số 37/24 đường Lê Thánh Tôn ở Thành Nội. Cả hai lần đều bắt gặp con người gần đến tuổi “bách niên” này đang mưu sinh bằng nghề dạy Anh văn cho những học sinh lối xóm. Ông Tuân “bách niên” mà không “giai lão”. Ông ốm o tiều tụy, có điều trí óc còn minh mẫn khang kiện. Sau khi biết mục đích viếng thăm của tôi, ông nói: “Tôi không thể chết được. Tôi phải sống để xóa cho được cái lưới nhục nhã mà người ta cố tình chụp lên đầu tôi và gia đình tôi. Người ta bảo tôi là CIA, phản bội tổ quốc, phản bội cách mạng, trong khi cả đời tôi chưa bao giờ thôi nghĩ nhớ đến tổ quốc, tôi đã cố gắng hết sức để đóng góp được chút gì đó cho đất nước cho cách mạng. Bản thân tôi đã làm gì cho kháng chiến từ đánh Tây qua đánh Mỹ, đã sai lầm, tội lỗi ra sao, tôi đề nghị anh đọc trong các tài liệu này để tìm sự thật về Nguyễn Thúc Tuân như anh yêu cầu”. Ông Nguyễn Thúc Tuân trao cho tôi một kẹp giấy tờ gồm ba nhóm tư liệu:
– Nhóm một gồm: sáu lá đơn kêu oan viết vào các năm 2000, 2001,2003, 2004 .
– Nhóm hai gồm:
* Một bản phô tô toàn văn ghi lại quá trình diễn ra phiên tòa ngày 21/1/1980 tại (một địa điểm của thành phố Huế để xét xử sơ thẩm về hình sự của bị cáo Nguyễn Thúc Tuân can tội gián điệp…)
* Một bản phô tô giấy ra trại (cải tạo ngày 16 tháng 11 năm 1986)
* Một bản phô tô quyết định xóa án (ngày 29 tháng 11 năm 2001)
* Một bản phô tô phần cuối cuộc phỏng vấn nhà báo Văn Cẩm Hải thực hiện với ông Bảy Khiêm, nguyên thường vụ tỉnh ủy Bình Trị Thiên, giám đốc công an Bình Trị Thiên ( Người công an và hồi ức về những năm tháng hào hùng) trên báo An Ninh Thế Giới.
– Nhóm thứ ba gồm:
* Một bản phô tô thư viết tay của ông Lê Minh (nguyên là phó bí thư Khu ủy Trị Thiên Huế, bí thư Thành ủy, Tư lệnh mặt trận Huế trong tấn công và nổi dậy xuân 68 – xuân Mậu thân) gởi ông Nguyễn Thúc Tuân.
* Một bản phô tô tờ xác nhận của ông Lê Minh về trường hợp của Bác sĩ Hoàng Bá viết ngày 19 tháng 10 năm 1989 gởi thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế, thường vụ Thành ủy Huế và cá nhân ông Hoàng Bá.
* Một bản phô tô văn thư của Ủy ban Nhân dân xã Hương Xuân ngày 6-11-2000 về vấn đề liên quan đến liệt sĩ Nguyễn Thúc Lư (con trai ông Nguyễn Thúc Tuân)
* Một bản phô tô giấy chứng nhận liệt sĩ của Nguyễn Thúc Lư…
* Một giấy chứng nhận có công cho Nguyễn Thị Thuyền (vợ Nguyễn thúc Tuân).
* Một bài thơ thương tiếc ca ngợi gương chiến đấu và hy sinh anh dũng của Nguyễn Thúc Lư (viết tay).
Ngoài các văn bản làm tư liệu trên tôi còn gặp trực tiếp các ông:
– Hoàng Lanh, cán bộ hưu trí, nguyên là thường vụ tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế, bí thư Thành ủy Huế.
– Phan Nam, cán bộ hưu trí, nguyên là tỉnh ủy viên, thường vụ thành ủy Huế, chủ tịch Uy ban Nhân dân thành phố Huế.
– Nguyễn Thọ (Hường), nguyên Tỉnh ủy viên, thường vụ Thành ủy Huế, bí thư huyện Hương Trà.
– Lê Công Cơ nguyên là bí thư Thành đoàn Huế.
Là những người có quan hệ trực tiếp với ông Nguyễn Thúc Tuân suốt nhiều năm 1965 - 1969 trong các công tác cách mạng.
Qua các tư liệu và nhân chứng trên, tôi đúc kết thành bài viết này:
1/ Về nhân thân Nguyễn Thúc Tuân: – Trước cách mạng tháng Tám năm 1945: Nguyễn Thúc Tuân sinh năm 1914 tại Huế, là thư ký tại tòa Công sứ Hội An, ty cảnh sát Hội An.
– Sau cách mạng tháng Tám 1945. Nguyễn Thúc Tuân tham gia kháng chiến chống Pháp từ 1946, được kết nạp vào Đảng năm 1948. Đã kinh qua các chức vụ: Ty trưởng cứu tế Quảng Nam, Trưởng Quân y viện Quảng Nam, cán bộ Ủy Ban Kháng Chiến Hành Chánh Nam Trung Bộ. Trưởng phòng y tế liên khu 5, cán bộ tình báo liên khu 5.
– Năm 1954, hòa bình lập lại, Nguyễn Thúc Tuân được điều về Huế công tác trong đường dây tình báo do Lê Minh phụ trách.
– Năm 1958 Nguyễn Thúc Tuân bị địch bắt. Đã khai báo, ký giấy đầu hàng, li khai và chấp nhận làm cộng tác viên cho công an mật vụ Ngô Đình Cẩn.
– Từ 1959 - 1964 không liên lạc gì với kháng chiến.
– 1965, qua thư móc nối trở lại của Lê Minh và Ngô Hà – những cán bộ lãnh đạo của Tỉnh ủy Thừa Thiên - Huế lúc bây giờ - Nguyễn Thúc Tuân trở thành cơ sở hoạt động cho phong trào đô thị của thành ủy Huế, là thành viên của ban cán sự giáo chức cùng với Tôn Thất Dương Tiềm, Trần Thân Mỹ với sự chỉ đạo trực tiếp của Hoàng Kim Loan, thành ủy viên, từ chiến khu vào nội thành trực tiếp chỉ đạo phong trào đô thị. Từ 1965 đến 1968 (tổng tấn công và nổi dậy tết Mậu Thân), ngoài Hoàng Kim Loan, Nguyễn Thúc Tuân còn gặp gỡ, làm việc với nhiều cán bộ lãnh đạo của thành Ủy Huế là Hoàng Lanh, Nguyễn Thọ (Hường), Phan Nam, đã đóng góp rất tích cực trong việc xây dựng lực lượng kháng chiến ở nội thành: tổ chức nhiều cơ sở bí mật, nhiều địa bàn lõm để chứa vũ khí đưa từ khu về, chuẩn bị lương thực thực phẩm, y tế phục vụ trận Mậu Thân. Ngày 4 tết âm lịch (Mậu Thân) Nguyễn Thúc Tuân lên chiến khu, tham gia Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ và Hòa Bình. Cuối năm 1968, Nguyễn Thúc Tuân được điều ra Hà Nội công tác trong ban 78. Năm 1975 Nguyễn Thúc Tuân trở lại Huế được bố trí làm Trưởng phòng thể dục thể thao, rồi Trưởng ty thể dục thể thao Bình Trị Thiên, Đại biểu quốc hội.
– Cuối năm 1978 bị công an Bình Trị Thiên bắt về tội gián điệp. Ngày 21 tháng 1 1980 tòa án Bình Trị Thiên xử phạt 18 năm tù ở.
2/ Về gia đình: Hầu hết người trong gia đình Nguyễn Thúc Tuân đều tham gia kháng chiến từ chống Pháp qua chống Mỹ:
– Em trai Nguyễn Thúc Tuân là Nguyễn Thúc Tề tham gia kháng chiến chống Pháp, đã hy sinh được công nhận liệt sĩ.
– Vợ Nguyễn Thúc Tuân là Nguyễn thị Thuyền tham gia kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ, bị tù Côn đảo, được tặng huân chương, huy chương.
– Con trai Nguyễn Thúc Tuân là Nguyễn Thúc Lư tham gia kháng chiến chống Mỹ, hy sinh, được phong tặng liệt sĩ.
– Chị gái là Nguyễn thị Kiếm, em dâu là Nguyễn thị Sâm (vợ liệt sĩ Tề) là cơ sở cách mạng từ kháng chiến chống Pháp qua chống Mỹ.
– Các cháu là Nguyễn Thúc Tần, Dương Đình Na, Phạm Văn Truyền đều tham gia chống Mỹ, đều bị tù côn đảo.
Với bản thân và gia đình như thế, cuộc đời kháng chiến và quan chức của Nguyễn Thúc Tuân vào giai đoạn cuối là một kết cục có hậu như những cán bộ cách mạng lão làng khác. Về hưu an hưởng tuổi già với các chế độ chính sách dành cho người có công, gia đình liệt sĩ…
Nhưng cuộc đời của con người, đặc biệt là con người trong chiến tranh, con người trong quan trường chẳng phải bao giờ cũng tuần tự hanh thông hậu hỷ.
Cũng như nàng Kiều, bởi thằng bán tơ mà phải trải nghiệm 15 năm đoạn trường. Nguyễn Thúc Tuân, do bởi chéo giấy bằng hai lóng tay nằm trong sọt rác của Phòng thông tin Hoa Kỳ sau cuộc tháo chạy tán loạn của thầy trò Mỹ - Thiệu mà phải đứt ruột không chỉ 18 năm trong tù, mà phải gậm nhấm nỗi nhục nhã, đớn đau, đói khổ bệnh tật suốt phần đời còn lại của kẻ bị gán cái tội phản bội, hại nước hại dân.
3/ Mấy điều trăn trở trước khi tiếp cận một phiên tòa: Ba mẫu tự NTT đâu chỉ khiến người bàng quan liên tưởng đến tên một con người trong hàng trăm, hàng ngàn con người mang họ Nguyễn, họ Ngô, họ Ngụy, họ Ngũ, họ Nhữ, họ Nông…
NTT có thể là tên một cơ quan, một tổ chức như Nha Thông Tin, Nhà Truyền Thống…
Giả định NTT đích thực là Nguyễn Thúc Tuân thì lấy gì để bảo chứng đó không phải là âm mưu thủ đoạn của kẻ thù trước khi thua chạy: dùng mảnh giấy in dấu NTT để gây nghi ngờ mâu thuẫn trong nội bộ kẻ chiến thắng và đồng thời để trả thù thành phần chúng căm giận bật nhất “kẻ ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”.
Lại nữa nếu Nguyễn Thúc Tuân là CIA như khẳng định của công an Bình Trị Thiên, thì tại sao mảnh giấy vụn quái ác kia không nằm tại trụ sở CIA mà lại nằm trong sọt rác của phòng thông tin Hoa Kỳ?
Ví dụ như Ty công an Bình trị Thiên có những điệp viên cài trong lòng địch thì việc quản lý hồ sơ những điệp viên này nằm ở Ty công an chứ không phải nằm ở Ty văn hóa thông tin được. Đành rằng phòng thông tin Hoa Kỳ là một phần của CIA, nhưng đó là một bộ phận có nhiệm vụ đánh phá cách mạng trong lãnh vực văn hóa tư tưởng và tuyên truyền chính trị, liệu nó có quản lý một điệp viên mà chúng xây dựng như “một nhân sĩ trí thức” có nhiệm vụ chun sâu leo cao…? Để làm sáng tỏ vấn nạn này, nhất thiết phải có nhân chứng, vật chứng. Nhân chứng, vật chứng đó là những nhân viên CIA ở bộ phận quản lý nhân sự và những hồ sơ tư liệu của bộ phận này. Những tên Lê Văn Dư, Lê văn Trốn… cựu quan chức của hệ thống công an mật vụ Ngô Đình Cẩn và những “lời khai” của chúng qua “ghi chép” của công an Bình Trị Thiên chưa phải là những nhân chứng vật chứng để cáo buộc một cách thuyết phục Nguyễn Thúc Tuân là CIA. Công an mật vụ của chế độ phụ thuộc tại miền Nam có khả năng là CIA, chứ không phải trăm phần trăm là CIA. Nhận định rằng công an mật vụ của Ngô Đình Cẩn là CIA là một nhận định không chuyên nghiệp. Xin đưa một ví dụ: Trần Kim Tuyến làm giám đốc sở nghiên cứu chính trị của Ngô Đình Nhu, là trùm mật vụ của chế độ Ngô Đình Diệm, trong lúc tháo chạy tán loạn mùa xuân 1975, không có tên trong danh sách cần được di tản của CIA. Để có một chỗ trên máy bay trốn ra nước ngoài, Trần Kim Tuyến phải nhờ đến Phạm Xuân Ẩn – một điệp viên của Cộng sản. Lý do tại sao? Xin thưa: Tại Trần Kim Tuyến không phải là CIA (đề nghị đọc Phạm Xuân Ẩn, điệp viên hoàn hảo…)
4/ Một phiên tòa cần được thảo luận Chẳng phải không có căn cớ gì mà Ty công an Bình Trị Thiên và vị thủ trưởng của nó là ông Bảy Khiêm khẳng quyết NTT đích thực là Nguyễn Thúc Tuân. Đọc những tư liệu ông Nguyễn Thúc Tuân đưa (tôi đã giới thiệu ở trên) tôi thấy lí lịch của nhân vật này có mấy điểm mờ:
– Thứ nhất: Thời trai trẻ Nguyễn Thúc Tuân là một Hướng đạo sinh. Hướng đạo là một tổ chức phi chính phủ du nhập vào Việt Nam sau khi chế độ thuộc địa đi vào thời kỳ ổn định. Nó qui tụ những thanh thiếu niên và rèn luyện họ thành những người có năng lực, có bản lĩnh để sống vui, sống khỏe và hữu ích cho xã hội. Nó không do đảng Cộng sản thành lập nên nó rất đáng nghi ngờ nhất là đối với công an ta.
– Thứ hai: Trước cách mạng tháng Tám 1945 Nguyễn Thúc Tuân là thư ký tòa công sứ Pháp ở Hội An.
– Thứ ba: Sau 1954, Nguyễn Thúc Tuân là cán bộ của một đường dây tình báo được điều từ khu 5 về Huế công tác. Đường dây tình báo này do Lê Minh phụ trách. Năm 1958 đường dây bị vỡ, Nguyễn Thúc Tuân bị mật vụ Ngô Đình Cẩn bắt. Ông đã khai báo mặc dầu chưa bị tra tấn đánh đập, đã ký giấy đầu hàng và ký giấy tình nguyện làm mật báo viên khi được tha.
Thế là từ ba khoảng mờ trong lý lịch, kết nối với một mảnh giấy vụn bằng hai lóng tay có các mẫu tự liền nhau NTT tại một sọt rác nào đó của Phòng thông tin Hoa Kỳ, dẫn đến “lời khai” của các tên công an thuộc hạ của lãnh chúa miền Trung Ngô Đình Cẩn mà thuộc cấp của ông Bảy Khiêm lấy được trong cuộc truy tìm chứng cứ để cáo buộc Nguyễn Thúc Tuân vào tội gián điệp, tay sai của CIA, phản bội cách mạng, phản bội đất nước. Thế là:
Nguyễn Thúc Tuân bị công an Bình Trị Thiên bắt ngày 31 tháng 8 năm 1978, bị đưa ra xét xử tại một địa điểm nào đó ở Thành phố Huế ngày 27 tháng 4 năm 1980 và bị kêu án 18 năm tù giam.
Đọc trang đầu biên bản phiên tòa, chúng ta thấy:
– Phiên tòa họp “công khai” “tại một địa điểm” ở thành phố Huế (nguyên văn)
– Thành phần tham dự phiên tòa gồm: Hội đồng xét xử (chánh án, Hội thẩm nhân dân, thư ký công tố đại diện Viện Kiểm Sát nhân dân Bình Trị Thiên) và can phạm Nguyễn Thúc Tuân.
Như thế phiên tòa họp tại một địa chỉ không rõ ràng (một địa điểm tại thành phố Huế – nguyên văn) và chỉ có hai phía tham dự: một là các vị hữu trách của tòa án nhân dân Bình Trị Thiên, của viện kiểm sát nhân dân Bình Trị Thiên, hai là nghi can Nguyễn Thúc Tuân. Hội thẩm nhân dân gồm một cán bộ Công đoàn và một cán bộ hưu trí xem như không phải là nhân dân gì cả.
Phiên tòa không có luật sư bào chữa, không có nhân chứng, cũng không có quần chúng.
Vào giữa năm 1978, mới tròn ba năm sau ngày Mỹ cút Ngụy nhào, Công an Bình Trị Thiên dưới sự lãnh đạo mẫn cán và tài giỏi của ông Bảy Khiêm đã khám phá một vụ án gián điệp do CIA tổ chức và gài lại để chống phá chế độ ta vẫn còn nhiều khó khăn trong công cuộc bảo vệ thành quả cuả cách mạng giải phóng dân tộc, củng cố nền độc lập mới được vãn hồi, quả tình là một chiến công hiển hách, hào hùng (từ của ông Bảy Khiêm), đáng lý ra phiên tòa xử tội gián điệp của Nguyễn Thúc Tuân phải được quảng bá rầm rộ, rộng rãi để một mặt trấn áp bọn phản động tay sai nước ngoài còn rơi rớt lại, mặt khác để tuyên dương công trạng của các đơn vị, chiến sĩ phá án đã làm nên một kỳ tích… Cớ sao phiên tòa lại tổ chức âm thầm lặng lẽ như văn bản đã trình bày? Lại nữa theo lời kể của ông Nguyễn Thúc Tuân trong các đơn kêu oan đề ngày 15 tháng 3 năm 2004 đã viết:
Trước ngày ra tòa hai ông Vũ Thắng Phó bí thư Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, và Trần Đình Thạch Phó Ty Công an Bình Trị Thiên đến gặp tôi và nói cùng một câu: “Ra tòa, tòa kêu án mấy mặc kệ, đã có chúng tôi”.
Trong một lá đơn khác viết ngày 20 tháng 3 năm 2003 Nguyễn Thúc Tuân cũng đã viết: Trong đơn kêu năm 1988 tôi cũng đã ghi rõ: “Trước khi ra tòa, ông Trần Đình Thạch, nguyên Phó Ty Công an Bình Trị Thiên và ông Vũ Thắng Phó bí thư T.ỉnh ủy Bình Trị Thiên đã lũng đoạn tinh thần tôi như thế nào”.
Như thế ông Tuân không chỉ viết có sáu lá đơn từ 2000 đến 2006 mà tôi đang có. Trước đó ông đã viết rất nhiều đơn kêu oan và gần như đơn nào ông cũng nhắc lại sự kiện hai ông Trần Đình Thạch và Vũ Thắng đến tìm ông để làm “lũng đoạn tinh thần ông” tại nơi ông bị giam giữ trước khi phiên tòa họp cũng bằng một câu nói không đủ lời: “Cứ mặc kệ họ, họ kêu bao nhiêu mặc kệ họ, đã có chúng tôi”
Cứ như cách ông Tuân trình bày trong các tờ đơn thì hai ông Vũ Thắng, Trần Đình Thạch không phải là người có thiện chí đối với ông. Đây là hai vị có thế lực trong Tỉnh ủy và Ty Công an Bình Trị Thiên bấy giờ. Sau lưng hai vị này còn có ai? Các từ “chúng tôi” và từ “họ” đối với ông Tuân là một thế lực to lớn trong các cơ quan quyền lực tỉnh Bình Trị Thiên lúc bấy giờ muốn hãm hại ông. Họ muốn ông Tuân đừng kêu oan nữa, cứ ngoan ngoãn ký vào biên bản tội trạng “để sớm xếp vụ gián điệp lại”. Nếu ông Tuân cứ kêu oan, vụ án sẽ kéo dài gây khó khăn cho ý đồ hãm hại ông (Tuân).
Theo tinh thần các lá đơn kêu oan của ông Tuân, theo biên bản của phiên họp của tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên, chúng ta thấy được tình hình “bằng mặt không bằng lòng” tại các cơ quan quyền lực Bình Trị Thiên - Huế lúc bây giờ.
– Sau lưng ông Tuân là các ông Tư Minh, Hoàng Lanh, Phan Nam, Nguyễn Thọ (Hường), Lê Phương Thảo… thất thế, biết ông Tuân oan mà không làm gì được.
– Sau lưng “họ” (công an, viện kiểm sát, tòa án) và “chúng tôi” (các ông Bảy Khiêm, Vũ Thắng, Trần Đình Thạch…) là một thế lực khác hùng mạnh hơn rất nhiều.
Thì ra vụ án “gián điệp Nguyễn Thúc Tuân” chỉ là một cái cớ.
Những khoảng tối trong vụ gián điệp và phiên tòa xử Nguyễn Thúc Tuân rất nhiều, không thể viết hết trong một bài viết ngắn dự trù khoảng 4 - 5 trang A4.
Như trên tôi đã trình bày, phiên tòa xử vụ án gián điệp Nguyễn Thúc Tuân gồm có hai thành phần:
– Thành phần thứ nhất có nhiệm vụ cáo buộc, xét xử và quyết định mức án gồm chánh án, hội thẩm và công tố, ngoài ra còn có thư ký ghi lại quá trình, nội dung và kết quả phiên tòa.
– Thành phần thứ hai chỉ có quyền thụ nhận sự cáo buộc, xét xử của thành phần thứ nhất và chịu ngồi tù.
Bây giờ chúng ta – kẻ viết bài này và bạn đọc – cùng tham dự phiên tòa đã tổ chức ba mươi năm trước tại một địa điểm (nào đó) ở thành phố Huế (nguyên văn biên bản).
Quá trình phiên tòa gồm ba công đoạn sau:
Theo bản cáo trạng, Nguyễn Thúc Tuân đã:
– Đầu hàng, khai báo khi bị địch bắt, cam kết trung thành với chế độ Mỹ Ngụy và thành tâm cộng tác với chúng. Việc Nguyễn Thúc Tuân được thả ra là động tác giả để thực hiện âm mưu “che mắt cán bộ và nhân dân”(văn bản tường thuật phiên tòa). Tiệm thuốc Ngọc Diệp là cơ sở do tình báo Mỹ Ngụy tổ chức để Nguyễn Thúc Tuân thực hiện các nhiệm vụ tình báo do địch giao.
– Sau khi ra tù Nguyễn Thúc Tuân thường xuyên liên lạc với nhân viên tình báo địch như các tên Lê văn Dư, Lê văn Trốn, Lê Khắc Lự, Lê Phước Thưởng để báo cáo tình hình của tình báo ta và nhận nhiệm vụ.
– Nguyễn Thúc Tuân đã móc nối được với các cán bộ tình báo ta ở miền Bắc vào, tình báo địch đã biết rõ tông tích nhưng không bắt vì có kế hoạch riêng, để người cán bộ tình báo náy tiếp tục ở nhà Nguyễn Thúc Tuân nhằm khai thác, khám phá tổ chức và hoạt động tình báo của ta.
– Từ khi phong trào Học sinh, Sinh viên và Phật giáo chống Diệm nổ ra, Nguyễn Thúc Tuân được Lê Văn Dư giao nhiệm vụ theo dõi báo cáo tình hình hoạt động của phong trào, tình hình tư tưởng tâm tư nguyện vọng của trí thức Huế nhất là của các Giáo sư tại trường Bồ Đề, tìm cách ám sát đầu độc cán bộ ta hoạt động trong lòng dịch, Nguyễn Thúc Tuân đã thực hiện một số các chỉ thị của địch trừ việc ám sát và đầu độc (nguyên văn văn bản)
– Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đổ. Nguyễn Bức (hay Đức?) thay Lê văn Dư làm trưởng ty cảnh sát, Nguyễn Thúc Tuân được gọi đến để hỏi tình hình và giao nhiệm vụ. Tuân sẵn sàng.
– Tháng 6 năm 1967 Mỹ thành lập tại miền Trung toán tình báo số 15 (?) do Lê Văn Trốn chỉ huy, “theo Lê Văn Trốn khai nhận” thì Nguyễn Thúc Tuân vẫn là điệp viên của y “được lệnh xâm nhập nội bộ của tổ chức cách mạng”. “Nguyễn Thúc Tuân đã cung cấp những tin tức tình báo có giá trị chiến lược”
– Cuối năm 1965 Nguyễn Thúc Tuân tìm cách liên lạc với cán bộ của ta, đưa một số cán bộ của ta vào nội thành, Nguyễn Thúc Tuân đã không nói rõ với cán bộ lãnh đạo của ta là y đã khai báo phản bội như thế nào khi bị địch bắt tù năm 1958 và “không nói gì việc y làm tình báo cho địch” (nguyên văn văn bản).
– Đầu năm 1968. Nguyễn Thúc Tuân ra vùng giải phóng, ở đây y đã tham gia “Mặt trận (? CS) Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình, Trung Lập” rồi được đưa ra miền Bắc, được đi một số nước Xã Hội Chủ Nghĩa.
– Sau giải phóng trở thành ủy viên ủy ban Giải Phóng (…Không rõ) Thừa Thiên Huế. Từ khi len lỏi ra vùng giải phóng và được giữ các chức vụ trên, Nguyễn Thúc Tuân vẫn che dấu bản thân mình là gián điệp… tìm cách che dấu cho đồng bọn là Lê Văn Dư, Lê Văn Trốn. Lê Khắc Lự, Lê Phước Thưởng.
– Sau ngày giải phóng, Nguyễn Thúc Tuân vẫn tiếp tục gặp chúng nơi này, nơi nọ. Nguyễn Thúc Tuân lợi dụng chức quyền để đưa người xấu vào các cơ quan nhà nước…
Để chứng minh cho những cáo buộc này, Tòa án Nhân Dân Bình Trị Thiên đã căn cứ vào các “lời khai” của các tên đầu sỏ và nòng cốt mật vụ của Mỹ Ngụy như Lê văn Dư, Lê Văn Trốn… Tòa không nói rõ những lời khai trên lấy từ đâu và vào thời điểm 1980 (phiên tòa họp) các tên ấy ở đâu, làm gì?
Về phía Nguyễn Thúc Tuân – qua các lời kêu oan, ông khẳng định rằng:
1/ Ông đã khai báo khi bị địch bắt mặc dù chưa bị tra tấn, ông cũng đã khai nhận làm cộng tác viên cho địch khi ra tù. Sau khi ra tù ông bị bọn này bao vây, theo dõi, đã gặp gỡ chúng nhiều lần theo yêu cầu của chúng nhưng không làm gì có hại cho cách mạng cả. Sau khi hoạt động trở lại cho cách mạng, ông đã không nói rõ tình hình trên với tổ chức. Lý do khiến ông hành xử như vậy vì sĩ diện chứ không có ý định gì xấu với cách mạng.
2/ Hoàn toàn không có chuyện ông làm điệp viên cho CIA, cũng không báo cáo cho địch tình hình của ta. Từ sau khi ra tù ông không móc nối lại với tình báo ta, tình báo ta cũng không móc nối lại với ông, do vậy cũng không có việc ông làm điều nghiên, báo cáo các mặt công tác tình báo ta cho địch như lời cáo buộc. Việc vợ ông (bà Nguyễn Thị Thuyền) là cơ sở cách mạng, nuôi ông Hoàng là cán bộ tình báo trung ương là có thật. Không có chuyện ông Hoàng bị lộ và địch không bắt ông Hoàng vì có ý riêng như tòa đã công bố.
– Về phong trào Sinh viên - Học sinh và phong trào Phật giáo: Con trai ông là Nguyễn Thúc Lư tham gia phong trào Học sinh - Sinh viên giải phóng do Lê Công Cơ tổ chức, đã tham gia chống Mỹ từ 1960 đến 1968, bị tử thương trong chiến dịch Mậu Thân, được phong danh hiệu liệt sĩ.
– Sau khi ra tù, ông tham gia khuông hội Phật giáo vì ông là Phật tử. Ông tham gia tích cực phong trào Phật giáo chống chế độ Ngô Đình Diệm. Hoàn toàn không có chuyện ông báo cáo cho địch tình hình phong trào Học sinh - Sinh viên và phong trào Phật giáo cho địch, cho dù các tên Lê Văn Dư, Lê Văn Trốn có yêu cầu này nọ.
– Từ 1965, khi có thư của ông Lê Minh và Ngô Hà, ông mới lại hoạt động cho phong trào đô thị do Thành ủy Huế lãnh đạo và ông Hoàng Kim Loan trực tiếp chỉ đạo sau khi ông Nguyễn Thọ (Hường) bí thư Hương Trà và ông (Tuân: C.S) bí mật đưa Hoàng Kim Loan vào nội thành. Là thành viên ban cán sự giáo chức (cùng các ông Tôn Thất Dương Tiềm, Trần Thân Mỹ).
– Từ 1965 đến chiến dịch mùa Xuân 1968 (Mậu Thân) với sự chỉ đạo của ông Loan và Thành ủy, ông đã cùng với các ông Tiềm, Mỹ hoạt động hăng say cho kháng chiến đã đóng góp nhiều công sức cho phong trào đô thị: tổ chức thêm nhiều cơ sở, xây dựng địa bàn lõm, đưa cán bộ từ khu về nội thành, đưa cơ sở từ nội thành lên chiến khu chiến đấu, học tập, chuẩn bị lương thực, thực phẩm, các phương tiện y tế cho chiến dịch tổng tấn công và nổi dậy Xuân 68. Sau tết Mậu Thân (ngày 4 tháng giêng âm lịch) ông được điều lên chiến khu tham gia Liên Minh Dân Tộc - Dân Chủ - Hòa Bình. Cuối năm 1968 ông được điều ra Hà Nội công tác ở ban 78. Sau giải phóng ông về Huế, được bố trí làm Trưởng phòng thể dục thể thao thành phố. Khi tỉnh Bình Trị Thiên được thành lập, ông là Trưởng ty thể dục thể thao và là Đại biểu Quốc hội đơn vị Bình Trị Thiên. Hoàn toàn không có việc “len lỏi ra vùng giải phóng nắm bắt tình hình cách mạng, cung cấp cho CIA, Mỹ, Ngụy những tin tức tình báo, tin tức kháng chiến của ta cho địch đánh phá, dội bom” như tòa cáo buộc. Ông không báo cáo với tổ chức việc ông đầu hàng, khai báo, nhận làm cộng tác viên là do sĩ diện không hề có ý đồ xấu.
– Các tên Lê Văn Dư, Lê Văn Trốn… sau khi chế độ Ngô Đình Diệm đổ bị phong trào Phật giáo lùng đuổi tên thì bị bắt, tên thì trốn biệt khỏi Huế, hoàn toàn không có chuyện ông Tuân nhận chỉ đạo và bao che cho chúng. Vấn đề nhân thân của chúng sau ngày giải phóng là việc của công an, không phải là việc của ông, nên ông không quan tâm.
“Việc tôi khai báo làm hại cách mạng thế nào, phong trào Học sinh - Sinh viên, phong trào Phật giáo bị đàn áp đánh phá ra sao và hệ quả của việc tôi trở thành điệp viên, chống phá làm hại cho cách mạng thế nào các ông Lê Minh, Hoàng Lanh, Phan Nam, Nguyễn Thọ (Hường), Lê Phương Thảo, Nguyễn Đắc Xuân và các vị cơ sở của ta trong Phật giáo không thể không biết. Các ông này hiện còn sống, còn tại chức, còn khỏe mạnh, đề nghị tòa hỏi các ông ấy”
Đó là lời cuối cùng của ông Nguyễn Thúc Tuân tại Tòa án nhân dân Bình Trị Thiên năm 1980 và cũng là lời của ông trong những đơn kêu oan viết liên tục từ đó đến 2005.
Sau khi nghe Nguyễn thúc Tuân nói lời cuối cùng, Tòa án nhân dân Bình Trị Thiên kết luận:
“…Như vậy, dù Nguyễn Thúc Tuân có biện bạch gì, vẫn có thể khẳng định lại một lần nữa rằng Nguyễn Thúc Tuân chính là kẻ có tội ác với tổ quốc. Cái gọi là kẻ có công như Nguyễn Thúc Tuân nói, chẳng qua là một thủ đoạn, là phương thức hoat động của kẻ làm nội gián cho địch mà thôi.”
“Căn cứ vào những nhận định trên đây,
Sau khi có nghị án
Hội đồng xử án Tòa án nhân dân Bình Trị Thiên
Quyết định:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thúc Tuân phạm tội “gián điệp”
Áp dụng điều “?” điều 5 pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng, xử phạt Nguyễn Thúc Tuân 18 năm tù giam.
Thời hạn phạt tù được tính từ ngày tạm giam 31 tháng 8 năm 1978. (nguyên văn biên bản phiên tòa trang 10)
Thế là phiên tòa khép lại, Nguyễn Thúc Tuân ngồi tù với tâm trạng uất ức, vì nghĩ rằng ông là nguời có công mà bị hãm hại một cách oan uổng.
Đương nhiên sau khi đọc xong văn bản các tư liệu ông Nguyễn Thúc Tuân đưa cho, tôi đã nắm bắt được những nét khái quát tình hình “vụ án gián điệp Nguyễn Thúc Tuân”, cũng như tôi đã viết, không những tiểu sử của Nguyễn Thúc Tuân “có những khoảng mờ”, mà vụ án và phiên tòa xử ông cũng có những khoảng mờ. Hai khoảng mờ cộng lại thành một khối đen. Để giảm mờ và xóa đen, đưa ra ánh sáng bản chất thực sự của vụ án gián điệp Nguyễn Thúc Tuân theo tôi hoàn toàn không khó. Cái khó của các vụ phá án là tìm cho được nhân chứng vật chứng. Vụ Nguyễn Thúc Tuân nhân chứng vật chứng đầy đủ chẳng hiểu sao tòa án nhân dân Bình Trị Thiên lại không xử dụng. Mặc dù không xử dụng nhân chứng vật chứng nhưng trong biên bản phiên tòa, thư ký vẫn ghi “nhân chứng vật chứng đầy đủ” và Tòa đã căn cứ vào các thứ ấy để định tội và kết án.
Cái mà Tòa đã trưng dẫn trong suốt phiên xử là:
1/ Các tờ “cam kết đầu hàng,” “li khai,” “cộng tác” Nguyễn Thúc Tuân ký trong năm 1958 khi ông bị địch bắt bị tù và được trả tự do.
2/ Những lời khai của các tên Lê Văn Dư, Lê Văn Trốn và đồng bọn.
Về “cam kết, li khai, cộng tác” của Nguyễn Thúc Tuân, các cơ quan hữu trách cần xem xét đầy đủ tính chất, mức độ chân thành và tác hại của nó.
Chẳng hạn Nguyễn Thúc Tuân cam kết, li khai khỏi đảng và lý tưởng Cộng sản là thật hay giả, cam kết trung thành (với chính nghĩa Quốc Gia) là thật hay giả? Để biết Nguyễn Thúc Tuân đã thật giả thế nào trong việc cam kết chẳng có căn cứ nào tốt hơn là xem Nguyễn Thúc Tuân có thực hiện điều mà ông đã cam kết không?
Để biết Nguyễn Thúc Tuân có thực hiện những cam kết với địch hay không, cần phải có những nhân chứng vật chứng:
Nhân chứng trong vụ Gián điệp Nguyễn Thúc Tuân gồm những người quan hệ với ông cả hai phía: địch và ta.
Phía địch gồm các tên Lê Văn Dư, Lê Văn Trốn, Lê Khắc Lự, Lê Phước Thưởng…
Phia ta gồm các ông; Lê Minh, Hoàng Lanh, Phan Nam, Nguyễn Thọ (Hường), Lê Phương Thảo (Lê Công Cơ) kể cả các ông Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Hoàng Phủ ngọc Tường, Tôn Thất Dương Kỵ, Trần Thân Mỹ… là những người có khả năng hiểu biết về các phong trào Học sinh - Sinh viên, phong trào Phật giáo và đều có quan hệ với Nguyễn Thúc Tuân trong các thời kỳ từ 1958 đến 1968.
Về vật chứng: Theo cáo trạng, Nguyễn Thúc Tuân đã khai báo, đầu hàng, cộng tác với địch để đánh phá cách mạng… Vậy thì nhất thiết đại diện viện kiểm sát cần trưng dẫn một cách cụ thể có bao nhiêu cơ sở bị phá vỡ, bao nhiêu cán bộ bị bắt, thiệt hại của cách mạng như thế nào trong quá trình Nguyễn Thúc Tuân khai báo, cộng tác và thực hiện các chỉ thị mệnh lệnh của địch, của CIA. Để có các vật chứng tòa không thể không cần đến sự hợp tác của các nhân chứng nêu trên.
Vào thời điểm Nguyễn Thúc tuân bị công an Bình Trị Thiên bắt (1978) đến khi ông bị đưa ra tòa (1980) các nhân chứng kể trên đều còn sống, khỏe mạnh và đang cư trú tại Việt Nam (đa phần đều ở Huế):
– Chẳng hạn để làm rõ những tác hại do việc ông Nguyễn Thúc Tuân khai báo, đầu hàng, cộng tác với địch khi đường dây tình báo bị vỡ vào thời điểm từ 1958 trở về sau tòa không thể không cần đến nhân chứng Lê Minh – người trực tiếp chỉ đạo Nguyễn Thúc Tuân.
– Chẳng hạn để làm rõ tội lỗi Nguyễn Thúc Tuân trong việc ông khai báo cho địch về phong trào Học sinh - Sinh viên và Phật giáo, Tòa rất cần sự hợp tác của các ông Lê Công Cơ (Lê Phương Thảo), Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan và những vị lãnh đạo Phật giáo có liên hệ.
– Chẳng hạn để có những bằng chứng phạm tội cụ thể của Nguyễn Thúc Tuân giai doạn từ 1965 đến 1968, tòa rất cần sự hợp tác của các ông Lê Minh, Phan Nam, Nguyễn Thọ (Hường), Hoàng Kim Loan, Tôn Thất Dương Tiềm, Trần Thân Mỹ, Nguyễn Đóa… là những cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo và cộng tác chặt chẽ với Nguyễn Thúc Tuân trong phong trào đô thị tại Huế. Tại sao trong suốt quá trình điều tra và xử án, Công an B.T.T và Tòa án N.D B.T.T không có quan hệ gì với các vị trên?
Một khi chưa trưng dẫn được những vật chứng, chưa có sự cộng tác của những nhân chứng có quan hệ đến toàn bộ vụ án gián điệp như tôi vừa nêu thì những cam kết mà Nguyễn Thúc Tuân đã ký, đã hứa với địch, những “nhận xét, khai báo” của các quan chức cốt cán của địch như Lê Văn Dư, Lê Văn Trốn… mà viện kiểm sát và tòa đã trích dẫn để cáo buộc tội gián điệp của Nguyễn Thúc Tuân mới chỉ là tài liệu tham khảo đối chiếu chứ chưa xem là nhân chứng, vật chứng được.
Như thế, chỉ với mảnh giấy vụn có in dấu ba mẫu tự NTT còn sót lại trong sọt rác Phòng thông tin Hoa Kỳ sau cuộc tháo chạy tán loạn của Mỹ - Ngụy mùa xuân 1975, cộng với mấy dòng “nhận xét, khai báo” mà Công an BTT đã lấy được từ các tên công an mật vụ thời Ngô Đình Diệm tại một nơi nào đó ở Nam Bộ vào các năm 77,78; Công an Bình Trị Thiên đã bắt Nguyễn Thúc Tuân vì nghi ông này là gián điệp của CIA. Với hồ sơ chưa có chứng cớ đầy đủ (thiếu nhân chứng, vật chứng) của Công an BTT, Viện Kiểm sát Nhân dân BTT đã cáo buộc Nguyễn Thúc Tuân can tội gián điệp và Tòa án Nhân dân BTT đã kêu án Nguyễn Thúc Tuân 18 năm tù giam. Nguyễn Thúc Tuân đã ở tù đến năm 1988 thì được tha.
Nhưng “vụ án gián điệp Nguyễn Thúc Tuân” chưa bao giờ kết thúc kể từ đó đến thời điểm này (2011).
Năm nay Nguyễn Thúc Tuân tròn 97 tuổi. Ông vẫn tiếp tục dạy tiếng Anh cho các cháu lối xóm để có cái mà sinh nhai, mà sống mà thở, mà bày tỏ nỗi lòng của một người yêu nước, yêu lý tưởng Cộng sản bị hãm hại một cách vô cùng oan ức. Ông vẫn tiếp tục viết thư kêu oan gởi đến các cơ quan quyền lực: các cấp của đảng Cộng sản, của chính quyền, của ngành tư pháp. Ông vẫn nói với bất cứ ai đến thăm về nỗi nhục, nỗi đau gậm nhấm ông từng phút, từng giờ trong suốt quãng đời từ bấy đến nay và cả những ngày còn lại.
Một người nữa, ông Bảy Khiêm, nguyên là Trưởng ty công an Bình Trị Thiên đã nghỉ hưu, vào thời điểm này nếu còn sống cũng không dưới tuổi 90. Trái với ông Tuân, ông Khiêm sống những ngày còn lại với kí ức “Những năm tháng hào hùng”.
Trong câu chuyện kể với nhà báo trên tạp chí An Ninh Thế Giới ngày 19 tháng 2 năm 2005, ông Bảy Khiêm đã tóm lược như sau:
– Theo lệnh của ông Bảy Khiêm, công an Thừa Thiên - Huế ngày đầu giải phóng đã tìm được tại “Trung tâm Văn hóa thông tin của Mỹ” “một mảnh giấy vụn đã cháy gần hết trong một sọt rác. Mảnh giấy vụn này “tôi thấy” (ông Bảy Khiêm thấy - C S) sót lại một cái tên rất khả nghi là NTT ” (nguyên văn)
– Sau ngày giải phóng, với tư cách là một nhân sĩ trí thức miền Nam, NTT trúng cử Đại biểu Quốc hội.
– Với tư cách là Trưởng ty Công an Thừa Thiên, ông (BK) một mình âm thầm ra Hà Nội báo cáo với bộ trưởng Trần Quốc Hoàn. Bộ trưởng Hoàn cho người đưa ông BK qua Quốc hội gặp đồng chí Trường Chinh. Đồng chí Chinh nói nên thận trọng, cần có chứng cớ đầy đủ và cụ thể. Với mảnh giấy vụn và thẻ cảnh sát đặc biệt của NTT chưa đủ chứng cớ.
– Ông BK kiên trì tìm chứng cứ tại tổng nha cảnh sát Sài Gòn và bằng chứng sống tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long: Tìm được Lê Văn Trốn (1977), người chỉ huy trực tiếp NTT (trước giải phóng ?), và Lê Văn Dư (1978), tay chân của Ngô Đình Cẩn đồng thời là cấp trên của Lê Văn Trốn.
– Theo ông BK từ năm 1968, người Mỹ đã có kế hoạch hậu chiến: một trong những kế hoạch ấy là tuyển chọn, nuôi dưỡng nhân sĩ trí thức, đưa họ vào chính quyền cách mạng để chun sâu, leo cao. NTT chính là một trong những đối tượng có đầy đủ tiêu chí của CIA.
Theo ông BK, NTT đáp ứng hai tiêu chí theo yêu cầu của CIA là: làm nghề bào chế thuốc được CIA cài vào tiệm thuốc tây Ngọc Diệp, CIA cũng tổ chức cho NTT đi học Anh ngữ, lấy bằng cử nhân (nguyên văn).
– Khi nắm được tang chứng, vật chứng và nhân chứng cụ thể (gồm mảnh giấy vụn, thẻ cảnh sát đặc biệt, tìm gặp Lê Văn Trốn, Lê Văn Dư, kế hoạch hậu chiến của Mỹ, làm nghề báo chế thuốc, cử nhân Anh văn) thường vụ Quốc hội ra quyết định miễn nhiệm Đại biểu Quốc hội, cho phép bắt NTT, nhưng trong vòng sáu tháng phải đưa ra xét xử công khai trước nhân dân (nguyên văn).
Lời kể của ông BK không chỉ rõ Chủ tịch Quốc hội ra lệnh bắt NTT ngày nào và thực tế ông NTT đã bị bắt ngày nào. Theo ông Tuân ngày ông ra tù là 16 tháng 11 năm 1986, ông đã ở tù 8 năm, 2 tháng, 16 ngày. Như thế chúng tôi có thể phỏng đoán Chủ tịch Quốc hội cho lệnh bắt và thực tế ông NTT đã bị bắt vào đầu tháng 8 năm 1978.
Như thế BK đã thực hiện nghiêm túc việc bắt tù NTT, còn thời gian để đưa ra xét xử không phải 6 tháng như lệnh của Chủ tịch Trường Chinh, mà đến 16 tháng sau. Phiên tòa không diễn ra công khai có nhân dân tham dự mà chỉ “công khai” (theo văn bản phiên tòa) tại một địa điểm (nào đó) ở thành phố Huế (nguyên văn) với thành phần tham dự gồm chánh án, hội thẩm nhân dân (một người là cán bộ công đoàn, một người là cán bộ hưu trí) công tố và thư ký. Ngoài ra còn có bị cáo Nguyễn Thúc Tuân. Phiên tòa không có luật sư biện hộ, không có nhân chứng và cũng không có nhân dân tham dự như lời Chủ tịch Trường Chinh đã căn dặn.
Lý do nào khiến ông BK không thực hiện đầy đủ lệnh của chủ tịch Trường Chinh? Theo tôi bởi ông BK đã không tập hợp được tang chứng, vật chứng, nhân chứng như đã báo cáo với chủ tịch Trường Chinh, mà chỉ có:
– Mảnh giấy vụn cháy chưa hết trong sọt rác tại “Trung tâm văn hóa thông tin Mỹ có in dấu ba mẫu tự NTT.”
– Và mấy đoạn trích dẫn “lời khai” của các tên Lê Văn Dư, Lê Văn Trốn, Lê Khắc Thưởng… mà công an thuộc cấp của ông BK đã lấy được tại một địa phương nào đó ở miền Nam (xem văn bản phiên tòa).
Nếu chủ tịch Trường Chinh biết được: Tang chứng, vật chứng, nhân chứng chỉ như thế này thì ông đã không ra lệnh bắt Nguyễn Thúc Tuân. Bởi lời khai mà không có người khai, không có đối chất với bị cáo thì lời khai còn có nghĩa lý gì?
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2012 7:43:32 GMT 9
Qua lời tâm sự của ông BK với phóng viên báo An Ninh Thế Giới, chúng tôi thấy cần thương xác với ông (BK) mấy điều:
– Thứ nhất: về mảnh giấy vụn cháy dở tại một sọt rác của “Trung tâm văn hóa Mỹcó ba mẫu tự NTT: theo suy nghĩ thông thường thì NTT là ba mẫu tự viết tắt của một nhóm từ hoặc là tên của ai đó trong hàng trăm, hàng ngàn tên có họ Nguyễn, Ngô, Ngụy, Nông, Ngũ …hoặc là một tổ chức như Nha Thông Tin, Nhà Truyền Thống… ông BK đã không trưng đủ bằng chứng để khẳng định NTT là Nguyễn Thúc Tuân. Giả định nó là Nguyễn Thúc Tuân, ông BK cũng không có bằng chứng để khẳng định Nguyễn Thúc Tuân là CIA.
Xin hỏi ông BK một điều: Trong lời tâm sự với báo An Ninh Thế Giới, ông tự giới thiệu là một cán bộ lãnh đạo tình báo ở Thừa Thiên - Huế và sau này là Trưởng ty Công an Bình Trị Thiên. Vậy ông quản lý hồ sơ điệp viên và hồ sơ điệp vụ của ông tại ty công an hay tại Ty Văn hóa thông tin? Đành rằng tại (Ty) văn hóa thông tin có nhiều điệp viên của ông, và hoạt động của ngành văn hóa thông tin nhất thiết cũng có quan hệ với ngành tình báo.
Một điều nhỏ thôi nhưng nó chứng tỏ ông đã nắm được những thông tin rất mơ hồ về ngôi nhà mà sau ngày giải phóng chính quyền cách mạng đã đặt làm trụ sở của Ty văn hóa thông tin. Nhiều người Huế, đặc biệt là những người tham gia phong trào đô thị biết rất rõ rằng tại địa chỉ này trong chế độ cũ, người Mỹ đã thiết lập “Phòng thông tin Hoa Kỳ”chứ không phải “Trung tâm văn hóa thông tin” như ông đã kể.
Trong lời tâm sự với báo An Ninh Thế Giới, ông BK bảo rằng nhân viên công an của ông đã tìm được Lê Văn Trốn và Lê Văn Dư ở một nơi nào đó ở đồng bằng sông Cửu Long. Qua lời ăn tiếng nói của ông, độc giả hiểu rằng lúc bấy giờ hai tên cựu tay chân của Ngô Đình Cẩn này đang sống bình thường trong dân chúng Nam bộ. Nếu bọn này là CIA trốn cải tạo thì nhất thiết ông đã bắt được chúng và đưa chúng ra tòa cùng với Nguyễn Thúc Tuân trước nhân dân theo chỉ thị của chủ tịch Trường Chinh, để quần chúng Huế chứng kiến và khâm phục ông BK và công an Bình Trị Thiên đã khám phá một đường dây tình báo CIA cài lại đất nước ta sau khi Mỹ tháo chạy. Việc ông BK không đưa Lê Văn Trốn và Lê Văn Dư ra tòa làm nhân chứng là ý làm sao? Hay là việc “tìm được” Lê Văn Trốn, Lê Văn Dư, ông BK giữ bí mật để “tiếp tục khám phá thêm hầu bắt trọn ổ” đường dây gián điệp này? Giả định là như thế tại sao mãi đến 2005 thời điểm ông BK thổ lộ cùng báo An Ninh Thế Giới, độc giả không hề thấy ông nhớ gì đến bọn CIA này cả?
Bọn Lê Văn Trốn, Lê Văn Dư không hiện diện tại phiên tòa xét xử vụ gián điệp Nguyễn Thúc Tuân như những nhân chứng, do vậy mà những lời “nhận xét” hay “khai báo” do nhân viên của ông BK thu thập sau khi tìm được bọn Trốn, Dư ở đồng bằng sông Cửu Long không trở thành “tang chứng, vật chứng” có tính thuyết phục tại phiên tòa xét xử ông Tuân được.
– Thứ hai: “Về tấm thẻ cảnh sát đặc biệt” độc giả không thấy trong biên bản phiên tòa, chỉ thấy ông Nguyễn Thúc Tuân nhắc đến trong một tờ đơn rằng là: tấm thẻ chỉ hiện diện trong lời nói của ông BK cũng như trong một cuộc triển lãm nào đó của công an Bình Trị Thiên. Giả định tấm thẻ cảnh sát đặc biệt có thật tại sao công an Bình Trị Thiên không cung cấp cho tòa?
– Thứ ba: Việc “Mỹ tuyển chọn, nuôi dưỡng nhân sĩ trí thức NTT trong kế hoạch hậu chiến”: Tôi không có bằng chứng để bác bỏ hay xác nhận Mỹ có kế hoạch hậu chiến về “nhân sĩ trí thức” như ông BK đã nêu. Giả định rằng Mỹ có kế hoạch hậu chiến riêng cho trường hợp Nguyễn Thúc Tuân theo như sự mô tả của ông BK, tôi muốn được thảo luận cùng ông BK vấn đề này: Thiết nghĩ người Mỹ và CIA dù có ngu đến đâu, chúng cũng hiểu rằng: chế độ ta , chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa, là chế độ của giai cấp công nhân và nông dân. “Nhân sĩ trí thức” tuyệt đối không chun sâu leo cao trong các cơ quan quyền lực của chế độ ta được. Nếu chúng muốn đào tạo điệp viên để ‘chun sâu leo cao” trong chế độ ta, chúng không ngu dại gì đến độ tuyển chọn nuôi dưỡng “nhân sĩ trí thưc” mà chắc chắn chúng sẽ tuyển chọn nuôi dưỡng những người ưu tú trong giai cấp công nông. Thuật ngữ “nhân sĩ trí thức” gần như là sản phẩm “giai đoạn” mà phe ta độc quyền và được xử dụng nhiều trong thời kỳ kháng chiến cũng như trong giai đoạn chuyển tiếp từ độc lập dân tộc qua chủ nghĩa xã hội với mục đích tuyên truyền chiến thuật và quản lý các đối tượng không đáng tin cậy trong tổ chức mặt trận.
Ông BK đã suy bụng ta ra bụng người và đã áp đặt cho CIA một kế hoạch vốn là sản phẩm của chính ông.
Trở lại trường hợp cụ thể Nguyễn Thúc Tuân: ông BK bảo rằng CIA và người Mỹ đã chuẩn bị cho NTT “làm nghề bào chế thuốc” và đưa đi học Anh văn để lấy bằng cử nhân hầu sắm sửa vai trò nhân sĩ trí thức… quả là khả năng tưởng tượng của ông BK quá dồi dào. Dồi dào nhưng không thực tế. Qua lời tâm sự của ông BK với báo An Ninh Thế Giới rằng đến năm 1968 Mỹ mới có kế hoạch hậu chiến vậy thì việc Nguyễn Thúc Tuân làm nghề bào chế thuốc và được đưa đi học để lấy bằng cử nhân vào thời điểm nào? Có phải 1968 hay trước đó nhiều năm? Nếu Nguyễn Thúc Tuân trở thành “người làm nghề bào chế thuốc” Hoặc “đi học Anh văn để lấy bằng cử nhân” trước đó nhiều năm thì kế hoạch hậu chiến của Mỹ không chỉ bắt đầu từ năm 1968 mà bắt đầu từ nhiều năm trước 1968. Lại nữa “người làm nghề bào chế thuốc” mà không phải là dược sĩ thì lấy gì để trở thành nhân sĩ trí thức? Ở Huế lâu chắc ông BK không thể không biết Huế là cựu đế đô, là thành phố đại học, do vậy những người được xếp vào hàng “nhân sĩ trí thức” phải là quan chức cao cấp hay cựu quan chức, bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ, chứ một người tay ngang “đi làm nghề bào chế thuốc” cho dù người đó “được CIA cho đi học để lấy bằng cử nhân” cũng không được xếp vào hàng ngũ nhân sĩ trí thức được. Mấy điều ông BK tâm sự với báo An Ninh Thế Giới chứng tỏ những hiểu biết của ông về xã hội Huế trước năm 1975 còn rất lờ mờ. Về tiểu sử của NTT một đối tượng được ông BK quan tâm quá mức bình thường, ông BK cũng đã biết rất hạn chế.
Vậy “làm nghề bào chế thuốc” và “đi học Anh văn để lấy bằng cử nhân” thực hư như thế nào? Nếu ông BK chịu khó tìm hiểu nhiều và kỹ hơn ông sẽ thấy nhân thân của ông NTT không chỉ bó hẹp trong cái chân dung một con người “làm nghề bào chế thuốc” và đi học để lấy “bẳng cử nhân tiếng Anh” theo kế hoạch hậu chiến của CIA và do ông BK phát họa.
Sau 1954, ông Nguyễn Thúc Tuân từ khu 5 về Huế hoạt động trong đường dây tình báo do Tư Minh phụ trách. Để làm nhiệm vụ cách mạng, Nguyễn Thúc Tuân phải kiếm kế sinh nhai bằng cách xin làm việc tại tiệm thuốc Ngọc Diệp ( trên đường Trần Hưng Đạo, trước cầu Trường Tiền, bên cạnh nhà sách Ưng Hạ) của dược sĩ Phạm Doãn Điềm. Dược sĩ Phạm Doãn Điềm ngoài nhà thuốc Ngọc Diệp còn có một xưởng bào chế thuốc nhỏ trụ sở tại Đà Nẵng. Cùng làm công cho Phạm Doãn Điềm tại nhà thuốc Ngọc Diệp còn có Lê Quân Thụy, bạn của Nguyễn Thúc Tuân, cũng từ khu 5 ra. Hai người bạn (Thụy – Tuân) cùng đi làm, cùng học thêm để lấy bằng tú tài. Khi đại học Huế mở, cả hai cùng ghi danh học chương trình cử nhân, người thì học Pháp văn (ông Thụy), người thì học Anh văn (ông Tuân). Năm 1958 đường dây tình báo bị vỡ từ Sài Gòn, Nguyễn Thúc Tuân bị công an chế độ Diệm bắt bỏ tù một năm. Ra tù Nguyễn Thúc Tuân tiếp tục làm công tại tiệm thuốc Ngọc Diệp, tiếp tục học đại học. Tốt nghiệp cử nhân, Nguyễn Thúc Tuân (cùng bạn là Lê Quân Thụy trở lại làm thuê cho Ngọc Diệp đồng thời xin đi dạy giờ ở trường Đồng Khánh. Khi dược sĩ Phạm Doãn Điềm chuyển vào Sài Gòn, tiệm thuốc tây Ngọc diệp được sang lại cho Lê Quân Thụy. Lúc này ông Tuân tiếp tục đi dạy ở trường Đồng Khánh (trở thành giáo sư thật thụ) vừa đi làm thuê cho ông Thụy ở tiệm thuốc tây Ngọc Diệp.
Ở trường Đồng Khánh, ông Tuân là một giáo sư mẫn cán được học trò kính yêu và đồng nghiệp quí mến. Ông là người năng động và tháo vát. Ngoài công việc chuyên môn (dạy học) ông còn quán xuyến gần hết những hoạt động ngoài trời và ngoài học đường của nhà trường như tổ chức cắm trại, liên hoan, thi đấu thể dục thể thao, văn nghệ. Đặc biệt những việc có tính chất chính trị thân Mỹ và chính quyền như đón tiếp các quan chức hàng đầu, thăm viếng trại lính Mỹ, thăm và ủy lạo chiến trường… ông đều nhận lãnh trong khi các giáo sư khác đều từ chối vì cho là sỉ nhục, không đáng làm. Đề nghị ông BK và bạn đọc đời sau chú ý chi tiết này. Nếu ông Tuân là điệp viên CIA chuẩn bị gài vào chun sâu leo cao trong chế độ ta thời hậu chiến thì ông có lộ mặt thân Mỹ - Ngụy trước bàng quan thiên hạ không? Điều sơ đẳng mà các điệp viên ở bất cứ chiến tuyến nào trước khi được tung vào lòng địch là như thế nào chắc chắn ông BK không thể không biết. “Xanh vỏ đỏ lòng” hay “xanh lòng đỏ vỏ” là thủ pháp không dành riêng cho bất cứ điệp viên nào.
Có một sự thật rất to. To hơn nhiều lần những nghi ngờ của ông BK dành cho Nguyễn Thúc Tuân và những cáo buộc trừu tượng mà các công tố viên dành cho bị cáo NTT tại phiên tòa xét xử ông là những đóng góp của bản thân và gia đình ông trong suốt hai cuộc chiến. Những đóng góp này ông BK và các vị hữu trách trong phiên tòa không hề nhắc tới. Nguyễn Thúc Tuân tham gia chống Pháp từ 1946, đảng viên từ 1948, thời gian công tác tổng cộng gần 26 năm (từ 1946 - 1958, từ 1965 - 1978). Trong gia đình ông Tuân gần như tất cả mọi người đều tham gia kháng chiến (Nguyễn Thúc Tề em trai ruột là liệt sĩ, con trai Nguyễn Thúc Lư là liệt sĩ, vợ Nguyễn Thị Thuyền tham gia kháng chiến từ chống Pháp đến chống Mỹ, bị tù Côn Đảo. Em gái, em dâu là cơ sở cách mạng, các cháu ruột là Nguyễn Thúc Tần (con trai Nguyễn Thúc Tề), Dương Đình Na, Phạm Văn Truyền tham gia chống Mỹ đều bị tù Côn Đảo). Trong ngày ra lệnh bắt Nguyễn Thúc Tuân. Ông BK cho thuộc cấp soát xét nhà – không tìm thấy bất cứ thứ gì phản động, cũng không thấy có của cải gì đáng giá. Đến tuổi gần một trăm, ông Tuân còn tự lực mưu sinh bằng nghề dạy Anh văn cho cho học sinh lối xóm. Thông thường một người làm tay sai cho địch, làm CIA là vì lòng tham tiền tham bạc, vì sự yên ổn của gia đình. Nhìn thật sâu thật kỹ vào gia đình ông Tuân chúng ta không thấy gì cả. Ông Tuân không có tiền bạc, không có nhà cao cửa lớn, không có của nổi của chìm. Vậy thử hỏi ông BK, ông Tuân làm CIA vì mục đích gì? Ngoài chết chóc, tù tội và ly tán, bản thân ông Tuân và vợ con, em cháu ông Tuân không có gì cả. Không những thực tế này đứng về phía ông Tuân, mà kể từ khi ông Tuân bị bắt, bị xét xử, bị nhốt tù, ra tù, nhiều người như :
– ông Lê Minh, nguyên là cán bộ trực tiếp chỉ đạo ông Tuân trong đường dây tình báo sau 1954, nguyên là Bí thư Thành ủy Huế, Phó Bí thư Khu uy Trị Thiên, Tư lệnh mặt trận Huế mùa xuân 1968, một trong những cán bộ lãnh đạo chủ chốt của phong trào đô thị, người đã móc nối ông Tuân hoạt động cách mạng trở lại từ 1965, đang công tác rồi nghỉ hưu tại Hà Nội.
– Ông Phan Nam, nguyên tỉnh ủy viên, thường vụ Thành ủy, cán bộ hoạt động nội thành nhiều năm trước và sau trận Mậu Thân, sau giải phóng là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân thành phố Huế, đã nghỉ hưu.
– Ông Nguyễn Thọ (Hường), nguyên là tỉnh ủy viên, bí thư huyện Hương Trà, người trực tiếp chỉ đạo ông Tuân trong phong trào đô thị, đã nghỉ hưu.
– Và các ông Hoàng Lanh, nguyên bí thư thành ủy Huế, người gắn bó với phong trào đô thị trong suốt hai thời kỳ kháng chiến, đã nghỉ hưu.
– Ông Lê Công Cơ, nguyên là cán bộ hoạt động nội thành của thành ủy Huế, Thành ủy viên, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt Trận tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng, đã nghỉ hưu.
– Ông Trần Thân Mỹ nguyên là đồng chí đồng sự với ông Tuân trong ban cán sự giáo chức, sau giải phóng là thường vụ thành ủy Huế, đã nghỉ hưu.
– Và tất cả những người đã sát cánh với ông Tuân trong các công tác cách mạng của phong trào đô thị do thành ủy Huế chỉ đạo đều xác nhận ông Tuân là người đã đóng góp nhiều công sức cho cách mạng, ông không có trách nhiệm gì trước những cáo buộc, xét xử của ông BK và tòa án nhân dân Bình Trị Thiên cả.
Sau khi tỉnh Bình Trị Thiên giải thể, tỉnh Thừa Thiên Huế được thành lập, từng bước phục hồi lại vóc dáng và sức mạnh của một tỉnh thành trực thuộc trung ương, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế đã quyết định xóa án cho Nguyễn Thúc Tuân, xem ông chưa từng có án (quyết định ký ngày … tháng… năm 2001).
Quyết định của Tòa án Nhân dân Thừa Thiên - Huế là một chuyển biến quan trọng nhưng đối với ông Tuân chưa đầy đủ. Ông vẫn tiếp tục viết nhiều thư yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền ở địa phương (Thừa Thiên - Huế ) và trung ương bằng hành động cụ thể trả lại cho ông các quyền lợi tinh thần và vật chất đã bị đánh mất một cách oan ức, bất công kể từ ngày ông bị bắt, tù đày đến nay (2011). Đặc biệt trong đơn viết ngày 20 tháng 2 năm 2005 gởi Bộ Công an, ông Nguyễn Thúc Tuân phản đối việc ông BK tiếp tục làm nhục ông qua bài trả lời phỏng vấn trên báo An Ninh Thế Giới ra số ngày 17 tháng 2 năm 2004. Hơn bốn năm sau ngày tòa án nhân dân Thừa Thiên - Huế ký quyết định xóa án cho Nguyễn Thúc Tuân, ông BK vẫn khẳng định vụ phá án gián điệp NTT là một chiến công hiển hách của ông. Nhưng chẳng hiểu tại sao ông không thẳng thắn gọi tên Nguyễn Thúc Tuân mà chỉ nhắc đến NTT trong suốt trả lời phỏng vấn của mình với phóng viên Văn Cẩm Hải? Có cái gì đó chưa sáng tỏ trong tâm trí ông chăng? Hay chính ông BK cũng không tin NTT chính là Nguyễn Thúc Tuân? Hay có lúc nào đó trong tâm trí mệt mỏi của tuổi già, ông BK mường tượng NTT là ba mẫu tự viết tắt của nhóm từ Nó Tạo Tác. Nó là CIA ấy, là đế quốc Mỹ thâm độc và tàn ác ấy. Nó đã chạy tán loạn từ mùa xuân 1975, nhưng cái mảnh giấy vụn cháy dở Nó để lại trong sọt rác giữa đống tro tàn tại Trung tâm văn hóa thông tin (từ của ông BK) trên đường Lý Thường Kiệt thành phố Huế đã Tạo Tác nên nỗi đau nhức, khổ nhục không chỉ cho một ông già gần trăm tuổi Nguyễn Thúc Tuân mãi cho đến thời điểm này (tháng 2 năm 2011), “Nó” còn là nỗi trăn trở giằng xé của những người đã từng là đồng chí của ông Tuân, biết ông Tuân vô tội mà vẫn bất lực, không làm gì được để minh oan cho ông.
Chu Sơn
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2012 7:50:02 GMT 9
Biên giới tháng hai năm 1979Huy Đức Tháng Hai, những cây đào cổ thụ trước cổng đồn biên phòng Lũng Cú, Hà Giang, vẫn chưa có đủ hơi ấm để đâm hoa; những khúc quanh trên đèo Tài Hồ Sìn, Cao Bằng, vẫn mịt mù trong sương núi. Sáng 7-2 nắng lạnh, vợ chồng ông Nguyễn Văn Quế, 82 tuổi, nhà ở khối Trần Quang Khải 1, thị xã Lạng Sơn, ngồi co ro kể lại cái chết 30 năm trước của con trai mình, anh Nguyễn Văn Đài. Năm ấy, Đài 22 tuổi. Ông Quế nói: “Để ghi nhớ ngày ấy, chúng tôi lấy Dương lịch, 17-2, làm đám giỗ cho con”. Năm 1979, vào lúc 5giờ 25 phút sáng ngày 17-2, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ Phong Thổ, Lai Châu, tới địa đầu Móng Cái. Những đôi mắt” Hôm ấy, ông Quế không có nhà, vợ ông, bà Dự, bị dựng dậy khi bên ngoài trời hãy còn rất tối. Bà nghe tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc Chóp Chài, Lạng Sơn. Bà Dự đánh thức các con dậy, rồi 4 mẹ con dắt díu nhau chạy về xuôi. Tới ki-lô-mét số 10, đã quá trưa, bà rụng rời khi hay tin, anh Đài đã bị quân Trung Quốc giết chết. Anh Đài là công nhân đường sắt, thời điểm ấy, các anh đương nhiên trở thành tự vệ bảo vệ đoạn đường sắt ở Hữu Nghị Quan. Anh em công nhân trong đội của Đài bị giết gần hết ngay từ sáng sớm. Đài thuộc trong số 3 người kịp chạy về phía sau, nhưng tới địa bàn xã Thanh Hòa thì lại gặp Trung Quốc, thêm 2 người bị giết. Người sống sót duy nhất đã báo tin cho bà Dự, mẹ Đài. Cùng thời gian ấy, ở bên núi Trà Lĩnh, Cao Bằng, chị Vương Thị Mai Hoa, một giáo viên cấp II, người Tày, mới ra trường, cũng bị giật dậy lúc nửa đêm rồi theo bà con chạy vào hang Phịa Khóa. Hàng trăm dân làng trú trong hang khi pháo Trung Quốc gầm rú ở bên ngoài, rồi lại gồng gánh theo nhau vào phía Lũng Pùa, chạy giặc. Chị Hoa không bao giờ có thể quên “từng đôi mắt” của dòng người gồng gánh ấy. Giờ đây, ngồi trong một cửa hàng bán băng đĩa trên phố Kim Đồng, thị xã Cao Bằng, chị Hoa nhớ lại: “Năm ấy, tôi 20 tuổi. Tôi nghĩ, tại sao mình lại chạy!”. Chị quay lại, sau khi thay quần áo giáo viên bằng bộ đồ chàm vì được những người chạy sau cho biết, rất nhiều người dân ăn mặc như cán bộ đã bị quân Trung Quốc giết chết. Từ trên đồi, chị Hoa thấy quân Trung Quốc gọi nhau ý ới và tiến vào từng đoàn. Cuộc Chiến 16 Ngày” Ngày 15-2-1979, Đại tá Hà Tám, năm ấy là trung đoàn trưởng trung đoàn 12, thuộc lực lượng Biên phòng, trấn ở Lạng Sơn, được triệu tập. Cấp trên của ông nhận định: “Ngày 22 tháng 2, địch sẽ đánh ở cấp sư đoàn”. Ngay trong ngày 15, ông ra lệnh cấm trại, “Cấp chiến thuật phải sẵn sàng từ bây giờ”, ông nói với cấp dưới. Tuy nhiên, ông vẫn chưa nghĩ là địch sẽ tấn công ngay. Đêm 16-2, chấp hành ý kiến của Tỉnh, ông sang trại an dưỡng bên cạnh nằm dưỡng sức một đêm bởi vì ông bị mất ngủ vì căng thẳng sau nhiều tháng trời chuẩn bị. Đêm ấy, Trung Quốc đánh. Ở Cao Bằng, sáng 16 tháng 2, tất cả các đồn trưởng Biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh, sáng hôm sau họ tìm về đơn vị triển khai chiến đấu khi Trung Quốc đã tấn công rồi. Sáng 17-2, Tỉnh Cao Bằng ra lệnh “sơ tán triệt để khỏi thị xã”; đại đội 22 của thị xã Cao Bằng được trang bị thêm 17 khẩu súng chống tăng B41. Ngày 18-2, một chiếc tăng Trung Quốc có “Việt gian” dẫn đường lọt tới Cao Bằng và bị tiêu diệt. Nhiều nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất”, người dân mới nhận ra đấy là tăng Trung Quốc. Đại tá Hà Tám công nhận: “Về chiến lược ta đánh giá đúng nhưng về chiến thuật có bất ngờ”. Tuy nhiên, Đại tá Hoàng Cao Ngôn, Tỉnh đội trưởng Cao Bằng thời kỳ 17-2, nói rằng, cho dù không có bất ngờ thì tương quan lực lượng là một vấn đề rất lớn. Phần lớn quân chủ lực của Việt Nam đang ở chiến trường Campuchia. Sư đoàn 346 đóng tại Cao Bằng nhiều năm chủ yếu làm nhiệm vụ kinh tế, thời gian huấn luyện sẵn sàng chiến đấu trở lại chưa nhiều. Lực lượng cầm chân Trung Quốc ở tuyến một, hướng Cao Bằng, chủ yếu là địa phương quân, chỉ có khoảng hơn 2 trung đoàn. Trong khi, theo tài liệu từ Trung Quốc, chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc sử dụng tới 6 sư đoàn; ở Lạng Sơn 3 sư và Lào Cai 3 sư. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng cường cho hướng Cao Bằng 1 sư đoàn và 40 tăng; Lạng Sơn, một sư và 40 tăng; Lào Cai, 2 trung đoàn và 40 tăng. Lực lượng Trung Quốc áp sát Biên giới vào ngày 17-2 lên tới 9 quân đoàn chủ lực. Ngày 17-2, Trung quốc tiến vào Bát xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2, Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào thị xã. Thế nhưng, bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị Biên giới đã nhanh chóng tổ chức chiến đấu. Theo cuốn “10 Năm Chiến Tranh Trung Việt”, xuất bản lần đầu năm 1993 của NXB Đại học Tứ Xuyên, quân Trung Quốc đã gọi con đường tiến vào thị xã Cao Bằng của họ là những “khe núi đẫm máu”. Đặc biệt, tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Những người dân Biên giới cho đến hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân của ta cơ động liên tục, đánh cho tan tác. Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi. Từ Campuchia, sau khi đuổi Pol Pốt khỏi Phnompênh, hai quân đoàn tinh nhuệ của Việt Nam được điều ra phía Bắc. Ngay sau khi Quân đoàn II đặt những bước chân đầu tiên lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì; Chủ tịch Nước ra lệnh “Tổng Động viên”… ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân về nước. Lào Cai, Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn… bị phá tan hoang. Tại Cao Bằng, quân Trung Quốc phá sạch sẽ từng ngôi nhà, từng công trình, ốp mìn cho nổ tung từng cột điện. Nếu như, ở Bát Xát, Lao Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Thì, tại thôn Tổng Chúp, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút lui, quân Trung Quốc đã giết 43 người, gồm 21 phụ nữ, 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pốt. Mười người bị ném xuống giếng, hơn 30 người khác, xác bị chặt ra nhiều khúc, vứt hai bên bờ suối. Lặng Lẽ Hoa Đào Ngồi đợi ông Nguyễn Thanh Loan, người trông giữ nghĩa trang Vị Xuyên, Hà Giang, chúng tôi nhìn ra xa. Tháng Hai ở đây mới là mùa hoa đào nở. Nghĩa trang có 1680 ngôi mộ. Trong đó, 1600 mộ là của các liệt sỹ hy sinh trong cuộc chiến tranh từ ngày 17-2. Ở Vị Xuyên, tiếng súng chỉ thật sự yên vào đầu năm 1990. Năm 1984, khi Trung Quốc nổ súng trở lại hòng đánh chiếm hơn 20 cao điểm ở Thanh Thủy, Vị Xuyên, bộ đội đã phải đổ máu ở đây để giành giật lấy từng tấc đất. Rất nhiều chiến sỹ đã hy sinh, đặc biệt là hy sinh khi tái chiếm đỉnh cao 1509. Ông Loan nhớ lại, cứ nửa đêm về sáng, xe GAT 69 lại chở về, từng túi tử sỹ xếp chồng lên nhau. Trong số 1600 liệt sỹ ấy, chủ yếu chết trong giai đoạn 1984, 1985, có người chết 1988, còn có 200 ngôi mộ chưa xác định được là của ai. Sau khi hoàn thành việc phân giới cắm mốc, cái pháo đài trên đỉnh 1509 mà Trung Quốc dành được và xây dựng trong những năm 80, vẫn còn. Họ nói là để làm du lịch. Từ 1509, có thể nhìn thấu xuống thị xã Hà Giang. Năm 1984, từ 1509 pháo Trung Quốc đã bắn vào thị xã. Trên đường lên Mèo Vạc, sương đặc quánh ngoài cửa xe. Từng tốp, từng tốp trai gái H’mông thong thả cất bước du xuân. Có những chàng trai đã tìm được cho mình cô gái để cầm tay. Một biên giới hữu nghị và hòa bình là vô cùng quý giá. Năm 1986, vẫn có nhiều người chết vì đạn pháo Trung Quốc nơi đoạn đường mà chúng tôi vừa đi, nơi các cô gái, hôm nay, để cho các chàng trai cầm tay kéo đi với gương mặt tràn trề hạnh phúc. Quá khứ, rất cần khép lại để cho những hình ảnh như vậy đâm chồi. Nhưng cũng phải trân trọng những năm tháng đã thuộc về quá khứ. Tháng Hai, đứng ở bên này cửa khẩu Chi Ma, Lạng Sơn, nhìn sang bên kia, thấy lừng lững một tượng đài đỏ rực mà theo các sỹ quan Biên phòng, Trung Quốc gọi là “ đài chiến thắng”. Trở lại Lạng Sơn, những chiếc xe tăng Trung Quốc bị quân và dân ta bắn cháy hôm 17-2 vốn vẫn nằm bên bờ sông Kỳ Cùng, giờ đã được bán sắt vụn cho các khu gang thép. Ở Cao Bằng, chúng tôi đã cố nhờ mấy người dân địa phương chở ra kilomet số 3, theo hướng đèo Tài Hồ Sìn, tìm tấm bia ghi lại trận đánh diệt 18 xe Trung Quốc của tiểu đoàn đặc công 45, nhưng không thấy. Trở lại Tổng Chúp, phải nhờ đến ông Lương Đức Tấn, Bí thư Chi bộ, nguyên huyện đội phó Hòa An, đưa ra cái giếng mà hôm 9-3-1979, quân Trung Quốc giết 43 thường dân Việt Nam. Ông Tấn cũng chính là một trong những người đầu tiên trở về làng, trực tiếp đỡ từng xác phụ nữ, trẻ em, bị chặt bằng búa, bằng dao rồi quăng xuống giếng. Cái giếng ấy bây giờ nằm sâu trong vườn riêng của một gia đình, không có đường đi vào. Hôm ấy, anh Tấn phải kêu mấy thanh niên đi theo chặt bớt cành tre cho chúng tôi chụp hình bia ghi lại sự kiện mà giờ đây đã chìm trong gai tre và lau lách. Huy Đức
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 13, 2012 3:43:59 GMT 9
KINH TẾ THỊT CHÓ ĐỊNH HƯỚNG ĐẬU PHỤ
Thử lí giải học thuyết "kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa" mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đang rao giảng ở La Habanna. Vừa qua, nghe mấy ông anh U80, U70 ví von đảng ta với giáo hội. Nào là tập trung dân chủ, giữ vững niềm tin, bên 10 điều, bên 19 điều cấm... Nhưng nhà em thấy ví đảng ta như giáo hội thì oan quá ! Điểm khác biệt là ở giáo hội người ta tin vào Chuá, cho dù thượng cổ, trung cổ, hiện đại hay gì gì đi nữa thì vẫn có một niềm tin. Nếu có bỉ báng mà bảo là các bác chóp bu trong giáo hội cóc tin gì vào chúa, thì ít ra còn lại giáo dân vẫn nhiệt thành tin vào Chúa. Còn như tin vào hai đức Mác và Lê Nin thì chỉ có hai loại người : trí thức hay mắc bệnh tâm thần. Trí thức thì Đảng ta rõ là không phải ! Vì trí thức vốn bất lực, đảng ta thì quyền lực ! Tâm thần thì lại càng không. Đảng ta khôn róc mấu ! Nếu muốn ví von thì đảng ta nhang nhác như anh thày tu phá giới. Đang tin tưởng vào chủ nghĩa ăn chay thì cái thực tế nó quật lại là ăn rau mãi thì mặt mũi xanh lè, trên bảo dưới không nghe, uống cả ống viagra cũng vẫn ỉu xìu. Bởi thế mới đẻ ra cái chủ thuyết ăn thịt chó theo định hướng đậu phụ. Từ đó, chó tây, chó ta mang thui sạch. Thượng tọa ăn đùi chó, chú tiểu xơi đít chó, nhân dân gậm xương chó. Nói cho ngay là có là xương chó nó cũng còn ngon hơn rau ! Chó trắng hay chó đen đều hẩu xực ! Nếu thời cao trào thì vẫn có anh tin vào rau, ai nói ngược lại nó đập cho chết một cách kính cẩn, thành tín. Còn nay thi ai cũng biết nhưng dại gì nói ra đểu có đứa nó lấy kinh ra mà đập cho dù nó cũng cóc có tin. Kệ ! Nói sao cũng được, có nói là đậu phụ cũng chẳng có sao miễn nó là chó ! Cái khôn của đảng ta là ăn chia khá đều. Mà nguồn thịt chó là từ đâu mà lắm thế ? Nếu cứ theo lý thuyết của Đức Mác là do bóc lột giá trị thặng dư thì... hẻo quá ! Năng lực sản xuất của dân ta thấp lè tè... có thế thôi, chắt bóp thặng dư thì có mà... ăn cám ! Nguồn đó em nghĩ là giá trị thặng dư của thế hệ tương lai, tha hồ vay nợ, vay ODA... Thế hệ tương lai, chưa sinh ra, chưa biết phản đối. Bóc lột của nó, đảng ta quả là nhìn xa trông rộng ! Với nguồn thịt chó tưởng như vô tận đó thì lọt sàng xuống nia, quan trên ăn ngập họng thì vẫn rơi rớt xuống cho bầy chim có cái mà mổ. Nhà nhà... hưởng lợi. Quan xơi lẩu dê, uống Chivas 21 ngập họng, bóp vú chân dài, rồi bo sộp. Chân dài sau một ngày làm việc về bo tiếp cho xe ôm. Xe ôm có cái mang về nuôi con... Cứ thế ! Nông dân lê la bán vé số vẫn có một mức sống “cao” hơn trước thời ở nông thôn. Ngay các bác “cựu” cho dù “phản biện” nói cho ngay cũng vẫn thuộc tầng lớp hưởng lợi ít nhiều từ “cuộc chơi” đó. Không hưởng lợi trực tiếp thì con cháu họ cũng... nở mày nở mặt, giá địa ốc tăng thì một cái nhà hóa giá mà nhà nước quẳng cho thời trước... cũng thành tài sản lớn. Bởi thế chế độ ta vững, không đơn giản chỉ vì nhờ công an. Nguồn thịt chó không phải là vô tận. Hy vọng là thế ! Nhà đất xuống giá, đại gia xù nợ, nhà băng đầy nợ xấu, kinh tế đình đốn. Biến tắc thông ? Hy vọng thế ! Đoan Hùng
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 6:48:09 GMT 9
Báo Trung Quốc: Nga mới là mối họa lớn của TQ tại Biển Đông Thứ năm, 18 Tháng 8 2011
Bài trên Liên hợp tảo báo của Trung Quốc cho rằng Nga mới là mối họa lớn của Trung Quốc tại Biển Đông. Chính Nga là cường quốc bên ngoài đến Biển Đông sớm nhất chứ không phải Mỹ. Nga tích cực đầu tư thăm dò khai thác dầu khí tại Biển Đông, ký nhiều hợp đồng bán vũ khí hiện đại, bao gồm tàu ngầm, máy bay, cho Việt Nam.
Chú Gấu Nga và Rồng TQ Tháng 7/2010, Ngoại trưởng Mỹ Clinton phát biểu nhấn mạnh các nước cần giải quyết tranh chấp Biển Đông bằng biện pháp hòa bình. Sau đó, Tổng thống, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ lần lượt có phát biểu tỏ đồng thuận và việc đó đã trở thành chính sách đã rồi của Mỹ đối với Biển Đông. Chính sách của Mỹ tất nhiên có lợi cho việc duy trì bảo vệ lợi ích đã rồi tại quần đảo Trường Sa của những kẻ nhanh chân đến trước, khiến những kẻ đến sau ở vào thế bị kìm kẹp, ngăn trở, đành bó tay hết cách, cũng lại phải hướng đến đảm bảo hòa bình, ổn định ở khu vực Biển Đông. Nga nhanh chân đến trước Mỹ: Trên thực tế, Mỹ cũng là kẻ đến sau tại Biển Đông. Ngoài các nước ASEAN thì kẻ nhanh chân đến trước tại Biển Đông lại là Nga chứ không phải Mỹ. Trong thập kỷ 80 của thế kỷ trước, Liên Xô cũ kết hợp với Việt Nam thành lập công ty góp vốn, cùng liên thủ khai thác mỏ Bạch Hổ ở Biển Đông, sản lượng khai thác chiếm một nửa tổng sản lượng dầu thô của Việt Nam; đến nay, đây vẫn là mỏ dầu lớn nhất của Việt Nam. Theo thống kê, đến nay Nga đã trở thành đối tác hợp tác nước ngoài lớn nhất của Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam. Các công ty dầu mỏ phương Tây khác như Exxon Mobil, BP, TOTAL những năm gần đây mới góp vốn với Việt Nam khai thác dầu khí. Nga hợp tác với Việt Nam vừa có lợi ích an ninh vừa có lợi ích kinh tế, bởi Nga được chia sẻ lợi ích kinh tế to lớn tại Biển Đông, Nga đã trở thành chỗ dựa lớn nhất của cộng đồng kinh tế do Việt Nam liên kết với các cường quốc trên thế giới tạo nên trên vấn đề Biển Đông. Và như vậy dễ thấy rằng tại sao trong những năm gần đây Nga lại đồng ý bán cho Việt Nam những trang bị vũ khí đời mới lợi hại chuyên dùng cho xung đột tại Biển Đông với mức ưu đãi lớn hơn nhiều so với TQ. Gần dây, VN đặt mua của Nga những hệ thống vũ khí tiên tiến, bao gồm 6 tàu ngầm lớp Kilo 636, 13 máy bay chiến đấu Su-27, 20 máy bay Su-30 và nhiều tên lửa đối biển, radar…. Vũ khí mà Nga bán cho VN có tính năng tiên tiến hơn hẳn các vũ khí bán cho TQ trước đây, tỷ lệ giữa tính năng và giá cả cũng cao hơn. Cuối năm 2011, loạt máy bay chiến đấu Su sẽ hoàn tất giao hàng. Cuối năm 2013, ngoài các tàu ngầm lớp Kilo, những vũ khí đời mới lợi hại này sẽ bước đầu hình thành sức chiến đấu. 6 chiếc tàu ngầm lớp Kilo là “tuyệt chiêu” trong hải chiến Trường Sa và cũng được giao hàng lần lượt từ cuối năm 2011 và giao hết trong vòng 5 năm. Trong khi Nga đang chế tạo tàu ngầm thì VN đã đào tạo đồng bộ các sỹ quan làm việc trên những chiếc tàu ngầm đó, hiện Nga và Ấn Độ đang phụ trách việc đào tạo. Từ đó có thể thấy, các tàu ngầm mới và lợi hại này sẽ nhanh chóng hình thành sức chiến đấu và hoạt động khắp nơi thuộc vùng Biển Đông và biển phía Đông TQ, tạo ra sự đe dọa khá lớn đối với các nước láng giềng trong đó có TQ, nhằm đảm bảo an toàn cho việc khai thác các mỏ dầu của VN. Nói về lợi ích thực tế trong cấu trúc hiện nay ở Biển Đông, Mỹ là kẻ đến sau và không bằng Nga. Nếu nhìn vấn đề một cách cô lập thì việc Mỹ có mặt ở khu vực Biển Đông là không hề có lợi ích chiến lược to lớn về an ninh và kinh tế. Theo đánh giá, sở dĩ Mỹ ủng hộ ASEAN chống lại TQ trong vấn đề Biển Đông, xét ở góc độ chiến lược thì chủ yếu là để tránh xảy ra cục diện sau khi TQ trỗi dậy sẽ thách thức sự hiện diện quân sự của Mỹ tại khu vực CÁ – TBD, ra tay khi còn sớm để kiềm chế sức mạnh của TQ tiến xuống phía Nam. Còn việc đảm bảo cho máy bay quân sự, tàu thuyển của Mỹ tự do lưu thông giữa TBD, Ấn Độ Dương hay như việc giữ ổn định tình hình Biển Đông thì cũng chỉ là một cách nói. Cách tiếp cận của Nga ở tầm chiến lược khác xa so với Mỹ. Cách tiếp cận tầm chiến lược nêu trên của Mỹ đều thích hợp với Nga. Ngoài ra, Nga và VN còn có tình hữu nghị truyền thống, như năm 1979, trong chiến tranh biên giới Trung – Việt và “cuộc chiến lưỡng sơn” kéo dài 10 năm sau đó, Liên Xô cũ là cường quốc duy nhất ủng hộ VN chống TQ. Hơn nữa Nga lại là nước có lợi ích kinh tế thiết thực nhất tại Biển Đông. Biển Đông giống như một kho báu, bằng việc hợp tác lâu dài với VN, những khoản ngoại tệ khổng lồ mà Nga kiếm được từ đó dường như không bao giờ cạn. Ngoài ra, từ chính sách ngoại giao khác nhau của hai nước Nga, Mỹ đối với các nước quanh Biển Đông cũng có thể cảm nhận thấy Nga và Mỹ có lập trường khác nhau đối với vấn đề Biển Đông, từ đó có thể lần ra manh mối. Thái độ can thiệp của Mỹ là nhằm tăng cường trao đổi qua lại với ASEAN, NB và Australia, còn việc ủng hộ ASEAN thì vẫn xoay quanh đồng minh truyền thống là PLP, việc ủng hộ một số quốc gia khác như VN chủ yếu vẫn chỉ dừng lại trên bề mặt ngoại giao và đe dọa. Cùng trên vấn đề Biển Đông nhưng chính sách của Nga lại khác. Nga cũng ủng hộ gián tiếp các nước ASEAN nhưng dành viện trợ thực tế cho VN. Tóm lại, ngoài việc tăng cường hợp tác với VN về ngoại giao và kinh tế thì Nga còn nâng đỡ VN bằng hành động thực tế. Hiện nay, Nga ngoài mặt vẫn giữ thái độ tươi cười với TQ, trong ngoại giao thì “nói ý cay bằng lời ngọt”, trong hành động thì chỉ làm không nói. Nga giống như “con vịt đạp nước”, trên mặt nước thì dường như không có động tĩnh gì nhưng dưới nước lại giở võ chân. Đây cũng là nguyên nhân tại sao trong khi VN tăng cường “chuẩn bị đấu tranh quân sự” thì toàn bộ vũ khí cho hải chiến lại lấy từ Nga chứ không phải Mỹ và Mỹ lại chỉ gián tiếp ủng hộ VN về mặt đe dọa chiến lược. Đây là chỗ khác nhau cơ bản về mức độ ủng hộ của Mỹ và Nga cho VN trong tranh chấp ở Biển Đông. Theo diễn biến tình hình Biển Đông hiện nay, một khi VN và TQ xảy ra một trận hải chiến thì toàn bộ vũ khí sắc bén mà quân đội VN sử dụng để giết hại quân giải phóng TQ là của Nga chứ không phải của Mỹ./. Tác giả: Tiết Lý Thái – Nghiên cứu viên Trung tâm an ninh và hợp tác quốc tế Đại học Stanford
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Oct 25, 2012 4:35:18 GMT 9
Dốt nát & ngụy tínDanChimViet “Chỉ khi nào có sự thay đổi chế độ để nước ta trở thành DÂN CHỦ thực sự, mới mong có sự cãi tổ toàn diện cho nền giáo dục VN. Bằng không, tất cả mọi sửa chữa chỉ là VÁ VÍU và sẽ không đi đến đâu.” Khách Qua Đường – độc giả trang Dân Luận. Tháng Chín năm 1975, giáo sư Lý Chánh Trung được mời ra Hà Nội để tham dự Hội Nghị Hiệp Thương Thống Nhất. Chuyến đi được ông kể lại, với rất nhiều hào hứng: “Ra Bắc, gặp một cô lái đò, cô hỏi: có phải là giáo sư Lý Chánh Trung không? Đúng là tôi. ‘Trước 1975, cháu có đọc nhiều bài viết của chú, cháu thích lắm…’ “Lý Chánh Trung tấm tắc đưa ra nhận xét: Trình độ văn hóa ngoài Bắc cao. Chiến tranh như thế mà một cô lái đò cũng tìm đọc Lý Chánh Trung ở trong Nam…” (Miền Đất Lạnh – Nguyễn văn Lục, ĐCV). “Chiến tranh như thế” (rõ ràng) cũng có điểm rất … hay, và người Việt quả là một dân tộc rất … lạ. Họ chỉ đọc sách trong thời chiến thôi hà. Gần bốn mươi năm sau, sau khi đất nước hoà bình và thống nhất, và sau khi trình độ văn hóa (thấp) ở miền Nam đã được nâng lên cho bằng với văn hoá (cao) ở miền Bắc, trong một cuộc phỏng vấn dành cho VietNamNet – vào ngày 3 tháng 5 năm 2012 – ông Nguyễn Mạnh Hùng (Chủ Tịch Hội Đồng Quản Trị, kiêm Giám Đốc Thái Hà Books) rầu rĩ cho biết: “Người Việt đọc chưa đến 1 cuốn sách/năm! Không thiếu những cuốn sách quý chở tư tưởng hiện đại và tư duy mới về Việt Nam, được dịch thuật một cách kì công. Nhưng câu chuyện về vỏn vẹn 500 bản in cho mỗi đầu sách quý này, tính trên số lượng 88 triệu dân – tức là chỉ có xấp xỉ 0,00057% dân số tiếp cận – quả là một con số giật mình.” Chưa hết, báo Dân Trí vừa cho phổ biến công bố của Tổ Chức Sở Hữu Trí Tuệ Toàn Cầu (World Intellectual Property Organization) – theo đó “VN đang ngụp lặn ở nửa dưới của thế giới và với xu hướng ngày càng chìm sâu, thụt lùi xa so với láng giềng.” Thảo nào mà ông Nguyễn Thế Thảo, Chủ tịch UBND Hà Nội, đã bầy tỏ sự lo lắng “rằng trong các vụ tụ tập, biểu tình phản đối Trung Quốc, cũng có đa số là những người khiếu kiện đất đai bị lợi dụng để gây phức tạp về an ninh – trật tự.” Tương tự, ông Nguyễn Văn Bình, TGĐNHVN, cũng phàn nàn y như vậy: “Do dân trí VN chưa cao, nên người dân không biết ngân hàng nào tốt hay xấu.” Ở nước ngoài, Đại Sứ Đỗ Xuân Đông cũng có nỗi băn khoăn tương tự: “Giá trị dân chủ là cái đích, mà tất cả chúng ta đều mong tiến tới. Nhưng trình độ dân trí của dân ta còn thấp lắm, nên chưa thể làm như vậy được.” Ảnh On the net Thế còn quan trí? Câu trả lời xin được dành cho một nhân vật (rất) có thẩm quyền, nhà báo Trương Duy Nhất: “Trong thành phần Chính phủ, tôi cũng có quen vài người. Hôm nọ ngồi tiếp chuyện một vị, ổng bất chợt hỏi: – Nghe nói chú có nhiều bài viết hay lắm, tìm thế nào để đọc được? Tôi thật thà: – Ôi, anh nhiều việc thế chắc nói dài dòng không nhớ nổi đâu. Tốt nhất cứ vào gút- gồ gõ chữ Trương Duy Nhất là ra hết ! Vậy mà ổng trợn tròn mắt: – Gút- gồ là cái chi rứa ? Thật tình không dám cười vì sợ thất thố! Ông Trương Duy Nhất (rõ ràng) là một người vô cùng lịch sự và tế nhị. Không phải nhà báo nào cũng có được những phẩm chất cao qúi đó. Bà Phạm Thị Hoài (rành rành) là một “nhà” như thế: “Những lời hùng biện nổi tiếng của Cựu Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đang có nguy cơ nhường vị trí đầu bảng cho phát ngôn của Bí thư Thành ủy Hải Phòng ngày 17.2.2012 tại CLB Bạch Đằng, trong đó ông Nguyễn Văn Thành cảnh báo nguy cơ từ tai nạn truyền thông về sự cố trong lãnh địa do ông cai quản, với hơn 1500 bài báo và ‘5 triệu người vào mạng Gú gờ chấm Tiên Lãng’… Khả năng của Gú gờ là vô tận, chúng ta biết. Nhưng vẫn bị bất ngờ, mà chính Gú gờ cũng sửng sốt. Một chương mới trong lịch sử internet sắp mở. Gú gờ còn có thể chấm rất nhiều thứ khác. Trước hết là chấm sự dốt nát của vị tiến sĩ kinh tế, cử nhân luật, cử nhân Anh văn Nguyễn Văn Thành, người lãnh đạo cao nhất của Hải Phòng, thành phố trực thuộc trung ương lớn thứ ba trong toàn quốc, chỉ sau TP Hồ Chí Minh và Hà Nội. Ở vị trí đó, theo cơ chế chia ghế của Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Nguyễn Văn Thành hiện là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương và có thể lên đến ủy viên Bộ Chính trị.” “Ai cũng có cái dốt của mình. Dốt mạng không phải là tội. Nhưng trường hợp ‘Gú gờ chấm Tiên Lãng’ cho thấy hai điều đáng gọi là rùng rợn: Thứ nhất, tác giả của phát minh nói trên, ông tiến sĩ Nguyễn Văn Thành, là một trong 175 người lãnh đạo cao nhất của 90 triệu người Việt Nam, tức thuộc giới thượng lưu chính trị của đất nước. Thứ hai, một sự dốt nát như thế chỉ có thể dõng dạc diễn thuyết như thế, khi nó chắc mẩm rằng cử tọa còn ngu dốt hơn nhiều.” Tôi đồ chừng rằng bà Phạm thị Hoài có thành kiến hay tư thù (chi đó) với ông Nguyễn Minh Triết và Nguyễn Văn Thành nên mới nặng lời đến thế. Chứ sự dốt nát của hai quan chức này (nói nào ngay) cũng không tệ hại gì cho lắm, nếu so với một vị lãnh đạo (kính yêu) khác – ông Nguyễn Tất Thành:”Ai đó thì có thể sai, chứ đồng chí Stalin và đồng chí Mao Trạch Đông thì không thể sai được.” Tất nhiên không phải mọi người họ Nguyễn đều nói năng bậy bạ và nhảm nhí như quí ông Nguyễn Thế Thảo, Nguyễn Văn Bình, Nguyễn Minh Triết, Nguyễn Văn Thành, hay Nguyễn Tất Thành. Xin đơn cử một thí dụ, ông Nguyễn Gia Kiểng: “Ở mọi nơi mà nó đã được thử nghiệm chủ nghĩa cộng sản đã chỉ là nghèo khổ, khủng bố, và tội ác.” Bác Kiểng nói không sai nhưng (e) hơi bị thiếu. Nếu thêm hai chữ (“dốt nát”) nữa vào cuối câu – chắc chắn – nghe sẽ đầy đủ và thuận nhĩ hơn: “Ở mọi nơi mà nó đã được thử nghiệm chủ nghĩa cộng sản đã chỉ là nghèo khổ, khủng bố, tội ác, và … dốt nát.” Hoạ cộng sản sẽ qua và (rất) có vẻ sắp qua nhưng nghèo khó, bạo lực, tội ác, và dốt nát (chắc) sẽ còn ở lại hơi lâu. Bao lâu thì tùy vào cái cách chúng ta tiếp nhận, cũng như xử lý những “di sản” thổ tả này trong những ngày tháng tới. Riêng đối với sự dốt nát, hãy thử nhìn sang nước láng giềng xem người dân Miến Điện đang rục rịch phản công lại với giặc dốt ra sao trên mảnh đất khốn cùng của họ – theo như tường thuật của Từ Khanh, từ Yangon: “Sau khi được trả tự do, Daw Suu vận động thành lập 36 ‘trường’ tư. Đúng hơn nên gọi là ‘trường thí’ vì học sinh không phải đóng tiền, dành cho các gia đình nghèo không đủ sức cho con theo học trường nhà nước (đủ thứ phí)… Chúng tôi bàn sẽ thuê xe đi thăm bốn trong 36 trường của Daw Suu nằm ở ngoại vi Yangon…. Một trong những lớp học vừa được dựng lên trên những khu xình lầy, ở ngoại ô Yangon. Ảnh: Từ Khanh. Khái niệm ‘trường’ sẽ không đúng khi đến các ngôi trường này, vì mỗi trường chỉ gồm một lớp học. Cả bốn cái trường đều nằm trên những khu vực sinh lầy và hôi hám xa trung tâm Yangon vài chục cây số… Sau suốt ngày dài, chúng tôi từ giã bốn ngôi trường trong tâm trạng buồn bã nhưng tràn đầy hy vọng và phấn khích. Nền giáo dục Miến Điện, như ở mọi thể chế không tự do, bị thui chột và đồng dạng. Bảy mươi phần trăm sinh viên đại học đều học hàm thụ, mỗi năm chỉ tập trung ở trường tám ngày. Trên năm mươi phần trăm trẻ em thất học. Những đứa trẻ được đến trường công thì cha mẹ phải đóng phí học thêm để thầy giáo kèm thi. Nhà chùa, dưới chế độ quân phiệt, đóng vai trò hướng dẫn cuộc sống đời và đạo. Nhưng dù thực trạng não nề nhưng một con đường mới đang thắp sáng trước mắt. Những ngôi trường của bà Aung San Suu Kyi là một định hướng chiến lược, dù gần ba trăm giáo viên tình nguyện đang dạy trên 20.000 học sinh đều chưa qua trường lớp sư phạm, phần lớn mới học xong trung học. Một khởi sự đầy nhọc nhằn trong bầu khí dân chủ đang chuyển biến ngoạn mục trên quê hương đã quá nhiều lầm than. Bắt đầu trang bị cho thế hệ mới những điều không được nói trên nửa thế kỷ qua từ khi nhà độc tài Ne Win chiếm quyền năm 1962. Bắt đầu công khai cấy ý thức dân chủ, thế nào là quyền căn bản của con người. Các lớp học trong chùa suốt năm thập niên qua tiếp tục dạy con người trở thành kẻ hiền lương trong mọi hoàn cảnh. Họ đã đạt được mục tiêu đó. Những chuyển động tài bồi dân trí hiện nay đang hướng về những kiến thức thời đại. Dạy làm người hiền lương là điều khó nhất nhưng họ làm được, trang bị những tri thức thời đại là điều tất nhiên sẽ thành.” “Nhà chùa, dưới chế độ quân phiệt, đóng vai trò hướng dẫn cuộc sống đời và đạo.” Chùa chiền, thánh thất, giáo đường ở Việt Nam không có cái may mắn đó. Đám tướng lãnh ở Yangon (xem chừng) cũng không chuyên nghiệp và chu đáo như những vị lãnh tụ kính yêu ở Hà Nội hay ở Bắc Kinh, theo như ghi nhận của Dương Kế Thằng: “Từ nhà trẻ đến đại học, sứ mệnh chính là cấy thế giới quan cộng sản vào tâm trí của học sinh, sinh viên các cấp. Các viện nghiên cứu khoa học xã hội, đoàn văn công, cơ quan truyền thông và trường học tất thảy đều trở thành công cụ cho sự độc quyền của Đảng về tư tưởng, tinh thần và quan điểm, và tất cả các cơ quan này liên tục tham gia nhào nặn tâm hồn của thế hệ …” “Trong hoàn cảnh suy nghĩ và thông tin bị bưng bít như vậy, chính quyền trung ương dùng bộ máy độc quyền của mình cho công tác lâu dài là làm cho mọi người thấm nhuần các giá trị cộng sản đồng thời phê phán và bài trừ bất cứ giá trị nào khác. Bằng cách này, tâm trí của giới trẻ hình thành những cảm xúc rõ rệt và sâu sắc về đúng/sai và yêu/ghét, và những cảm xúc đó hóa thành niềm khao khát mãnh liệt muốn biến các lí tưởng cộng sản thành hiện thực. Lúc đó, bất cứ lời nói hay hành động nào phản đối hay đi chệch khỏi những lí tưởng này sẽ bị toàn thể mọi người nhất loạt đả kích(*).” Nạn nhân của chế độ quân phiệt, ngó bộ, dễ thoát hơn là nạn nhân của chế độ cộng sản – theo như nhận xét của giáo sư Cao Huy Thuần: “Ở Myanmar, dù tướng tá có hư hỏng, văn hóa đó vẫn còn tốt, xã hội đó vẫn còn tốt, con người ở đó vẫn còn tốt, vẫn còn cùng nhau chia sẻ một đạo đức chung.” Từ Khanh, qua bài viết thượng dẫn, cũng có nhận xét (gần) tương tự: “Người Miến Điện, khi bị cai trị bằng súng đạn, vẫn có một sức mạnh bền bĩ nhờ tín ngưỡng. Họ dùi mài niềm tin trong im lặng, thâm trầm, y cứ vào lời dạy của giáo chủ để làm phương châm sống. Sự dùi mài niềm tin ấy trở thành máu thịt, rèn luyện họ thành những trí tuệ biết tập trung vào công việc. Những đền đài và tượng đài vĩ đại nhất thế giới của họ không làm bằng sự tự mãn, bằng xương máu, hoặc để được ghi vào sách Guiness, mà được tỉ mỉ dựng xây từ thế hệ này qua thế kỷ khác, bằng công và của chắt chiu từng ngày.” Về tín ngưỡng, cũng như về văn hoá – xem chừng – nước Việt không có những ưu điểm tương đồng. Vì thế, trong việc đối phó và xóa bỏ vô số những điều ngụy tín đã thấm sâu vào lòng người, dân Việt chắc sẽ gặp rất nhiều trở lực. Dù vậy, chúng ta không có lựa chọn nào khác. Chúng ta sẽ nói KHÔNG với sự ngu xuẩn, dối trá và bất nhân. (**) Tưởng Năng Tiến ———————————————- (*) Dương Kế Thằng – Nền chính trị hại dân của Mao trong thời kì Đại Nhảy vọt ở Trung Quốc: Lời nói đầu cho cuốn “Bia mộ” (2). Nguồn: Tạp chí “Trung Hoa đương đại” (2010), số 19 (66), tháng 9, trang 755-776). Bản tiếng Anh (The Fatal Politics of the PRC’s Great Leap Famine: the preface to Tombstone). Bản tiếng Việt © 2012 pro&contra; © 2012 Bùi Xuân Bách, Phạm Nguyên Trường, Phạm Vũ Lửa Hạ. (**) Alan Phan – Gạch Nối Giữa Giáo Dục Và Tự Do. Lợi tức đầu người của Việt Nam trong năm 2011: USD 800 (chỉ hơn Lào và Cambodia chút đỉnh). So với các nước láng giềng: Thái Lan: USD 3500, Phi luật Tân: USD 2000, Nam Dương: USD 1160, Tân gia Ba USD 30000 US$. ( Theo The Economist World, năm 2011 – p. 158, 176, 238) Theo World Bank, trong năm 2011, GDP bình quân đầu người (GDP:Tổng sản phẩm quốc nội) của Việt nam là USD 757 ( Năm 1984 : USD 198). Trong khi của Hoa kỳ là USD 49000, Tàu cộng USD 8500, Nam Hàn USD 32100, Thái lan USD 9500… ( Trích)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Oct 25, 2012 4:37:51 GMT 9
Ngụy biệnNhà sử học Dương Trung Quốc lên tiếng bênh vực bộ phim Câu chuyện xoay quanh bộ phim cổ sử Việt Nam nhưng đậm chất Trung Hoa, “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long”, tưởng đã lắng xuống nhưng rồi vẫn tiếp tục gây dư luận, sau khi nhà sử học Dương Trung Quốc lên tiếng bênh vực những nhà làm phim. Trong một xã hội đa nguyên, việc tồn tại những ý kiến khác biệt, thậm chí trái ngược nhau, về một sự vật, hiện tượng nào đó, là rất đỗi bình thường. Cái đáng nói ở đây chỉ là sự ngụy biện lộ liễu ở phần lớn các ý kiến ủng hộ phim “Lý Công Uẩn”, mà ngay một nhà nghiên cứu như ông Dương Trung Quốc cũng mắc phải. Ta hãy xem một ngụy biện rất điển hình khi ông phát biểu: “Vì sao mà Lý Công Uẩn lại mặc triều phục như hệt vua phương Bắc? Cái thắc mắc này đã từng được nêu lên khi tượng đài đức Lý Thái Tổ dựng bên bờ hồ Hoàn Kiếm cách nay đã 5 năm. Nếu coi đó là biểu hiện không đề cao tinh thần dân tộc thì hãy đặt câu hỏi cho chính người đặt ra câu hỏi rằng họ mặc gì, đông đảo người dân và các quan chức cao cấp nhất lúc ấy ăn mặc ra sao?”. Trong tranh biện, người ta xếp lập luận kiểu này vào một phép ngụy biện có tên là “Sức ép bằng chứng” (tiếng Anh: Burden of Proof), GS Nguyễn Văn Tuấn gọi/ dịch là “luận điệu ngược ngạo”. Đó là khi thay vì chứng minh quan điểm của mình, người phát biểu đẩy gánh nặng tìm bằng chứng sang đối thủ. Nhiều trường hợp, khi thấy bên A thiếu bằng chứng hỗ trợ cho một quan điểm nào đó, bên B liền coi như mình đã có đủ bằng chứng, kiểu như: “Ông A không thể chứng minh được rằng linh hồn không tồn tại. Như vậy là linh hồn có tồn tại”. Tôi thấy hình như một biến thể của kiểu ngụy biện này là: Khi có một số ý kiến cho rằng Nhà nước Việt Nam có biểu hiện ứng xử hèn yếu trước Trung Quốc, bằng chứng là blah, blah, blah, và phe phản bác, thay vì đưa ra bằng chứng cho thấy Nhà nước Việt Nam đã không hèn yếu, thì lại thách thức: “Các vị giỏi thì mang súng đạn ra biển đánh nhau với Trung Quốc, bảo vệ ngư dân, bảo vệ hải đảo đi”. Ở phát biểu trên của ông Dương Trung Quốc, ông không đưa ra chứng cứ nào bảo vệ cho cách phục trang, thiết kế bối cảnh “Trung Hoa” của phim, mà quay sang “đặt câu hỏi cho chính người đặt ra câu hỏi”, đẩy “burden of proof” sang phía đối thủ. Trên thực tế, có lẽ cả ông Quốc, cả những người ủng hộ lẫn người phản bác bộ phim này đều không biết thời Tiền Lê – Lý, dân phục và quan phục nước ta như thế nào. Và đơn giản là, nếu không biết thì không được làm như đối tác ở nước lạ, à nước bạn, muốn; nếu không biết thì điều tốt nhất các nhà làm phim có thể thực hiện là hãy cố gắng hướng tới việc tạo ra “chất Việt, hồn Việt” trong tác phẩm. Vì sao những truyện tranh lịch sử nổi tiếng của chúng ta, ví dụ Sát Thát (họa sĩ Nguyễn Bích), lại ra được hồn Việt, lại không gây cảm giác xa lạ cho người xem như phim Lý Công Uẩn? Tranh luận, thảo luận là điều bình thường, nên khuyến khích. Tuy nhiên, việc các phép ngụy biện xuất hiện trong phát biểu của một nhà khoa học cho thấy văn hóa tranh luận trong xã hội Việt Nam còn cần được cải thiện thêm. * * * Vĩ thanh Về bộ phim “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long”, tôi thấy có nhiều luồng ý kiến. Trong đó có một luồng ủng hộ phim này (ủng hộ nói chung, không cụ thể là “ủng hộ sản xuất tại Trung Quốc”, “ủng hộ cách làm phim”, “ủng hộ thiết kế của phim”, hay “ủng hộ phát sóng”), viện dẫn quyền tự do sáng tạo, tự do sáng tác của các nghệ sĩ. Tôi nghĩ rằng, trong một xã hội dân chủ, nhất thiết phải có tự do ngôn luận (bao gồm cả tự do đồng ý lẫn tự do không đồng ý với ai đó); tự do sáng tác; tự do thông tin; tự do bầu cử và hạ bệ ai đó v.v. Ở trường hợp phim “Lý Công Uẩn”, tôi ủng hộ quyền tự do sáng tác và tự do kinh doanh (theo pháp luật) của các nhà làm phim. Nhưng nếu phim phát sóng toàn quốc trên đài trung ương thì là một chuyện khác, vì – theo ý kiến cá nhân tôi – phim có thể gây những hiểu lầm hoặc những tình cảm không tốt (theo đánh giá của tôi) ở một bộ phận khán giả vốn không dễ tiếp cận thông tin và vốn rất dễ tin tưởng vào sự thần thánh của đài truyền hình. VTV phát gì họ cũng tin nội dung đó là thật, là đúng, thậm chí, là chân lý. Như vậy, nếu phim được phát sóng toàn quốc, trên đài truyền hình trung ương (chưa bàn tới khả năng phát vào giờ vàng, dịp đại lễ), thì như vậy là bảo đảm quyền tự do sáng tác của các nghệ sĩ làm phim. Nhưng nếu thế, tôi mong muốn là chính quyền (hoặc ai đó/ cơ quan nào đó có quyền quyết định) hãy đảm bảo luôn cả các quyền sau: 1. quyền tự do sáng tác của tất cả các nghệ sĩ sản xuất các bộ phim khác ở Việt Nam. Tất cả các phim khác sản xuất xong đều có quyền được phát sóng toàn quốc trên đài trung ương, không bị cắt sửa. Trong lịch sử điện ảnh – tài liệu – truyền hình Việt Nam, đã rất nhiều sản phẩm bị kiểm duyệt tới mức “tàn phá”, hoặc tệ hơn, nằm trong kho vĩnh viễn. Những người làm ra các sản phẩm đó có quyền phẫn nộ, vì sao phim của họ bị đối xử như thế, còn nhà sản xuất của Lý Công Uẩn thì được bảo vệ “tự do sáng tác”? 2. quyền tự do thông tin cho khán giả: Phim được phát sóng kèm những chú thích rõ “đây là sản phẩm hư cấu, nội dung phim này không có giá trị tư liệu/ còn gây tranh cãi”. Đặc biệt phải đảm bảo quyền này đối với những khán giả không có điều kiện tiếp cận thông tin, ví dụ người ở nông thôn, miền núi, vùng sâu vùng xa. 3. quyền tự do cho giáo dục – truyền thông, đặc biệt trong lĩnh vực tư tưởng: Việc nghiên cứu lịch sử nói riêng và khoa học xã hội nói chung, việc dạy sử ở nhà trường, báo chí – xuất bản… cần được cởi trói, để người dân, một cách hết sức cụ thể, có thể biết được phim này là hư cấu, phim kia là thật, “Hẹn gặp lại Sài Gòn” là phim tốt, “Nguyễn Ái Quốc ở Hong Kong” là một bộ phim nhăng nhít… chẳng hạn thế. 4. quyền tự do ngôn luận, bao gồm tự do phản đối (phi bạo lực, không xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác), và đi kèm với tự do lập các hội phản đối, chẳng hạn Hội “Tẩy chay công ty Trường Thành”, “Tẩy chay bọn nào sang Trung Quốc làm phim Việt” v.v. đại loại vậy. Nhiều ý kiến cho rằng phe phản đối phim Lý Công Uẩn đã chà đạp tự do ngôn luận, tự do sáng tác. Nhưng các ý kiến ấy chưa tính đến một điều là trong phe này, có những người chỉ thể hiện sự phản đối của mình một cách ôn hòa, đối thoại. Những người đó cũng xứng đáng được nghe đối thoại thay vì bị chụp cho cái mũ “dân tộc chủ nghĩa”, “cực đoan”, “đàn áp tự do” v.v. Trở lại với phim “Lý Công Uẩn – Đường tới thành Thăng Long”, cá nhân tôi không đòi hỏi cấm phim này. Tôi chỉ đề nghị, nếu phát sóng phim thì hãy đảm bảo 4 quyền tự do tôi vừa nêu ở trên. Chắc chắn là ba quyền đầu tiên… đi đứt luôn, phải không các bạn? Một người bạn của tôi có đề cập tới giải pháp phát hành bộ phim dưới dạng đĩa DVD để ai thích thì mua/ mượn về mà xem. Xin ủng hộ sáng kiến này. Nguồn: Blog Đoan Trang
|
|