|
Post by Can Tho on Feb 14, 2011 3:27:47 GMT 9
NGUỒN GỐC TIẾNG VIỆT Tĩnh Túc
Tiếng nói là nhịp cầu cảm thông để trao đổi tư tưởng trong sinh hoạt xã hội giữa con người cùng dòng giống xứ sở. Có con người là có ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn tự có ảnh hưởng rất lớn và quan hệ mật thiết đến sự hưng vong của giống nòi. Dân tộc có một trình độ văn hóa cao, càng văn minh thì họ lại càng chú trọng đến ngôn ngữ văn tự.
Dân tộc ta, ngót năm ngàn năm lịch sử, có cùng chung một gốc, cùng chung một tiếng nói. Từ Bắc chí Nam, ngoại trừ một số dân thiểu số còn dùng thổ âm và một số địa phương dùng phương ngữ hay phát âm có đôi chút sai biệt, chúng ta đều nói, nghe và hiểu một thứ tiếng, đó là tiếng Việt Nam.
Vậy tiếng Việt có tự bao giờ!?
Tiếng Việt bắt nguồn từ đâu!?
Tiếng Việt có phải tự ngàn xưa đã là một tiếng nói thật sự thuần Việt hay là một kết quả của sự hỗn hợp trại lẫn của nhiều tiếng nói khác nhau ?!
Trước khi tìm về cội nguồn tiếng Việt, việc phải làm đầu tiên là ta phải đi ngược dòng thời gian để tìm ra gốc tích của tổ tiên Việt Nam. Qua đó, ta mới có thể truy nguyên được tiếng nói của dân tộc. Vì thời gian lịch sử xa xăm mù mịt, vấn đề nguồn gốc Việt Nam, cũng như nguồn gốc tiếng Việt thật khó mà khẳng định một cách chính xác. Kê cứu theo sử ký, truyền thuyết, giả thuyết và nhất là những ý kiến, lập luận, ức thuyết của các học giả, sử gia Việt, Pháp, Tàu thì vấn đề này càng rẽ ra trăm mối, bất nhất và mâu thuẫn. Tuy nhiên, tôi cũng ghi chép lại những điều đã đọc để các bạn rộng đường thảo luận và kính xin các bậc thức giả sửa sai hoặc góp ý giùm cho.
Nguồn gốc dân tộc Việt
Tiếng Việt vào thời đại sơ cổ:
Kể từ trời mở viêm bang Sơ đầu có họ Hồng Bàng mới ra Cháu đời Viêm Ðế thứ ba Nối dòng Hỏa Ðức gọi là Ðế minh Quan phong khi giá Nam hành Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam Kiều Vụ Tiên vừa nở đào yêu Xe Loan nối gót, tơ điều kết duyên Dòng thần sánh với người tiên Tinh anh nhóm lại, thánh hiền nối ra Phong làm quân trưởng nước ta Tên là Lộc Tục, hiệu là Kinh Dương Hóa Cơ dựng mối luân thường Ðộng Ðình sớm kết với nàng Thần Long Bến hoa ứng vẻ lưu hồng Sinh con là hiệu Lạc Long trị vì(1)
Theo truyền thuyết (tục truyền) thì khai mở họ Hồng Bàng (2879 - 258 tr. CN) là Lộc Tục, con trai vua Ðế Minh. Sau Ðế Minh nhường ngôi lại cho con trưởng là Ðế Nghi làm vua phương Bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, lấy quốc hiệu là Xích Quỷ. Bờ cõi nước Xích Quỷ phía bắc giáp Ðộng Ðình Hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông giáp bể Ðông hải. Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào khoảng năm Nhâm tuất (2879 tr. CN) và lấy con gái Ðộng Ðình Quân là Long Nữ đẻ ra Lạc Long Quân Sùng Lãm.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Ðế Lai tên Âu Cơ, sanh được 100 con trai. Chia 50 đứa con theo mẹ lên núi, 50 đứa con theo cha xuống bể Nam Hải. Lạc Long Quân phong cho con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương, tức Quốc tổ của dân tộc Việt Nam ngày nay. (2)
Tuy nhiên, theo sách Ðại Việt Sử Lược do Tiền Hi Tộ đời nhà Thanh hiệu đính, có ghi một đoạn rất quan trọng như sau:
"Ðến đời Trang Vương nhà Chu, năm 696-682 tr. CN, ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật, áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu nước là Văn Lang... Truyền được 18 đời, đều gọi là Hùng Vương."(3)
Như vậy là Hùng Vương đã xuất hiện ở thế kỷ thứ 7 tr. CN. Từ đó cho tới năm 257 tr. CN thì nước Văn Lang bị Thục An Dương Vương thôn tính. Tính ra họ Hùng trị vì được 439 năm, nếu đem ra 18 đời, thì mỗi đời trung bình từ 25 tới 30 năm. Như thế có phần xác thực hơn là nói họ Hồng Bàng và họ Hùng cai trị cả mấy nghìn năm như truyền thuyết ghi chép.
Thế nhưng trong truyện số 10 của Lĩnh Nam Chích Quái nói về chim Bạch trĩ, lại thấy ghi rằng: về đời vua Thành Vương nhà Chu, Hùng Vương sai bề tôi tự xưng là họ Việt Thường đem chim trĩ sang cống hiến. Vì ngôn ngữ bất đồng, Chu công phải dùng ba lần thông ngôn mới hiểu nhau được. Căn cứ vào sử ký của Tư Mã Thiên, bộ sử xa xưa nhất của Trung Hoa có ghi chép như sau:
"Năm Tân Mão thứ 6 (nhằm năm 1110 tr. CN) đời Thành Vương nhà Chu, phía nam bộ Giao Chỉ có họ Việt Thường, qua ba lần sứ dịch, dâng chim trĩ trắng."(4)
Nếu đúng như vậy thì họ Hùng Vương đã trị vì ít nhất là trên 800 năm. Không đúng theo sử ký của Tiền Hi Tộ, trong Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh. Lại càng không đúng với Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim hoặc của truyền thuyết.
Ðó là chiếu theo sử ký và tục truyền để tìm ngọn ngành tổ tiên dân Việt, mà chúng ta cũng đã thấy nhiều điều không trùng khớp hoặc bất đồng kiến với nhau. Nhưng cũng nhờ qua tài liệu quan trọng nêu trên, ta có thể chắc rằng dân tộc Việt bấy giờ có một ngôn ngữ riêng biệt. Chính vì thế mà vua Chu đã phải ba lần kiếm tìm người thông ngôn mới có thể hiểu nhau được.
Về gốc tích của dân Việt, theo sự ghi chép của ông Trần Trọng Kim, dựa vào lập luận của các nhà nghiên cứu nước Pháp, viết rằng:
"Theo ý kiến của những nhà kê cứu của nước Pháp, thì người Việt Nam và người Thái đều ở miền núi Tây Tạng xuống. Người Việt theo sông Hồng Hà lần xuống đông nam, lập ra nước Việt Nam ta bây giờ. Còn người Thái thì theo sông Mê kông, lập ra nước Tiêm La (Thái Lan) và các nước Lào."
Lại có nhiều người Tàu và người Việt cho rằng, nguyên khi xưa đất nước Tàu có giống dân Tam Miêu ở, sau đó giống Hán tộc ở phía Tây bắc đến đánh đuổi, chiếm giữ vùng sông Hoành hà lập ra nước Tàu, rồi lấn dần xuống phương nam. Người Tam miêu phải lẩn tránh vào rừng núi hoặc đào tị xuống miền Việt Nam ta bây giờ. (5) Tuy nhiên, ngay chính ông Trần Trọng Kim cũng không tin vào giả thuyết này.
Trong quyển Văn Phạm Việt Nam của Bùi Ðức Tịnh (tr. 171 - 188) khi viết về lịch sử tiếng Việt, ngay câu đầu tiên ông Bùi Ðức Tịnh tán thành thuyết của các học giả cho rằng Việt ngữ là một thứ tiếng thuộc về dòng Thái. Vì dòng tiếng Thái có hai đặc điểm: giọng trầm bổng như tiếng Trung Hoa, vừa có ngữ pháp đặt xuôi của loại tiếng Ấn độ - Mã Lai. Nhà bác học Schmidt cho rằng dòng tiếng Thái thuộc về tông-chi rộng-rãi bao trùm các ngôn ngữ của những thị tộc Ðông Nam Á và Ðại dương châu thời sơ cổ, và đề nghị đặt tên cho tông chi ngôn ngữ này là ''tông chi Úc - Á''. Nhưng thuyết của ông không được chứng minh một cách đầy đủ. Bác sĩ Rivet, trong đại hội các nhà tiền sử học họp tại Hà Nội vào năm 1932 cũng có đưa ra một ức thuyết: Từ miền nam châu Á hoặc từ Nam dương quần đảo, vào một thời đại tối cổ, đã có những đoàn di dân tản mác đi theo hình rẻ quạt, vượt trùng dương đến ở những đảo rải rác trên Thái bình dương và Ðại tây dương ... Người ta thường gọi chung họ là các giống Ðại dương nhân (Océaniens). Ðó là những người Ne'gritos, Me'lane'sien (Australien), Indone'sien và Mông cổ. Theo các nhà nhân chủng học, có lẽ trước tiên, tại bán đảo Ðông dương có hai giống người Me'lane'sien và Indone'sien. Do đó, có thể ức đoán rằng vào thời sơ cổ, đã có những thị tộc người Indone'sien ở vùng trung châu Bắc Việt và miền bắc Trung Việt. Một mặt khác, trước đời nhà Chu (khoảng 1050 đến 771 tr. CN) khắp vùng lưu vực sông Dương Tử, từ miền Vạn Huyện tỉnh Tứ Xuyên cho đến dọc miền biển cũng đã có chi nhánh của chủng tộc Indone'sien, mà sử gia Tàu gọi họ là giống Man di. Những phần tử Việt tộc này đã di cư lần xuống miền Nam theo đường sông hoặc đường biển.
Theo Ðào Duy Anh, có lẽ nhóm Việt tộc ở miền bờ biển Phước Kiến, hằng năm dùng thuyền gỗ hoặc mảng tre giăng buồm, nhân gió bấc vượt biển đến các miền duyên hải phương nam, đại khái vùng Hải nam, vùng trung châu sông Nhị và sông Mã phía Bắc Việt ngày nay. Ðến mùa gió Nồm, họ lại vượt biển trở về nguyên quán. Thế là ngay từ những ngày rất xưa, đã có sự tiếp xúc người Indonesian ở dọc theo bờ biển nước Bắc Việt với những người Indonesian, chi nhánh Việt tộc, ở vùng Phước Kiến. Khi nước Việt bị nước Sở diệt (333 tr. CN) làn sóng Việt tộc tràn xuống miền nam càng nhiều. Nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến di cư vào miền bắc Việt nam, là nơi đã quen biết trước. Họ đem theo cái thị tộc cũ là Lạc, và một nền văn hóa tuy có chỗ tương đồng với thổ dân trước nhưng đã chịu ít nhiều ảnh hưởng của giống Mongolic ở phương Bắc. Sở dĩ có tên Lạc Việt ấy là vì trong các cuộc vượt biển hàng năm, nhóm Việt tộc vùng Phước Kiến đi và về đồng thời với một giống hậu điểu thuộc loại ngỗng trời gọi là chim Lạc. Có lẽ họ đã nhận giống chim ấy là vật tổ .(6)
Theo nhà sử học người Pháp, ông Léonard Aurousseau, căn cứ vào tài liệu sử sách Trung Hoa, thì dân tộc Việt Nam chính là một trong các dân Bách Việt gốc ở tỉnh Chiết Giang (Trung Hoa) vào khoảng thế kỷ thứ 5 tr. CN, rồi lần xuống phía nam, hợp với dân bản xứ, nhờ vào điều kiện địa dư thuận tiện, đã chống lại sự xâm lăng của Tần Thủy Hoàng. Dưới đời Triệu Ðà, nhờ chế độ cai trị dễ dãi mà Triệu Ðà khôn khéo biệt lập, tự củng cố địa vị ở phía nam xứ Trung Hoa, tránh được ảnh hưởng của người Tàu .(7)
Nhưng lập luận này đã không đứng vững khi ông Phạm Quỳnh xét về phương diện ngôn ngữ đã chất vấn trong bài '' Xét về cội rễ tiếng Việt Nam'' như sau: (8)
"Bọn dân Việt hồi đó, rợ Bách Việt là thủy tổ cho dân Việt Nam đó, nói tiếng gì? Nếu là tiếng Trung Hoa thì không hiểu làm sao mà biến mất hẳn đi mà xuất hiện ra một thứ tiếng khác hẳn tiếng Trung Hoa. Nếu không phải là tiếng Trung Hoa, thì các rợ Bách Việt ấy tất phải có một hay nhiều thứ tiếng thổ âm riêng. Như vậy thì sao trong suốt các rợ Bách Việt ấy duy có người Việt Nam, tuy sau này còn phụ thuộc Trung Hoa đến ngàn năm nữa mà vẫn giữ được tiếng nguyên âm, còn thời các rợ khác ở Nam Phương nước Tàu bỏ mất hết đi để nói tiếng Trung Hoa cả? Nếu ta thừa nhận cái thuyết của ông Léonard Aurousseau, thì cái vấn đề tiếng nói tưởng cũng khó giải quyết vậy".
Theo ông Lê Ngọc Trụ (9) thì dân tộc Việt Nam đã có từ lâu đời sinh sống tại đồng bằng Bắc Việt. Còn nhóm người Việt (Câu Tiễn) miền Chiết Giang, sau thời loạn Xuân Thu bị nhà Sở thôn tính (333 tr. CN) đã di cư xuống miền nam theo đất liền đến chung sống với các dân tộc khác như Việt-Ðông-Hải vùng Ô Châu, Mân-Việt vùng Phúc Châu, Nam-Việt vùng Quảng Ðông, Âu-Lạc-Việt vùng phía nam tỉnh Quảng Tây và Bắc Việt Nam, một lớp vào tới cả Thanh Hoá (Cửu Chân). Nhưng họ chỉ là nhóm người thiểu số và bị đồng hóa, chứ họ chẳng phải là gốc tích tổ tiên Việt Nam như ông Léonard Aurousseau đã nêu ra. Ngoài ra, ông Lê Ngọc Trụ còn cho rằng(10), tổ tiên dân tộc Việt đã cư trú ở những vùng triền núi từ sông Ðà (Hắc giang) tới Quảng Bình, sống chung hoà với dân tộc Mường. Cho nên đến ngày nay, tiếng nói ở những vùng này có nhiều chỗ tương tợ tiếng Mường. Dân Mường là dân miền núi, cho nên họ rút lần rải rác vào sâu dãy Hoành Sơn, do đó họ không bị ảnh hưởng văn hoá của các đại cường quốc Ấn Tàu, và chính vì thế họ vẫn giữ được các cổ tục và tiếng nói của họ cũng không bị thay đổi nhiều. Nên khi so sánh hai thứ tiếng Mường Việt, ông cho rằng tiếng Việt và tiếng Mường có lẽ từ một nguồn gốc mà ra.
HL tha của người ta về đó. Đọc thử xem có phải đúng cái mà các bác đang nghiên cứu không?
Thân,
HL Tiếng Việt mường như nhiều người đã biết, được hình thành cách đây gần 3000 năm do kết quả của quá trình cộng cư giữa người Môn-khmer với người Tày cổ, hình thành một cộng đồng dân cư mới ở tam giác châu thổ sông Hồng, sông Mã. Ngôn ngữ Việt - Mường chung gồm hai phương ngữ chính là tiếng kẽ chợ ở đồng bằng và tiếng miền ngược ở trung du miền núi. Khi nhà Hán đặt ách thống trị ở Giao Chỉ (đồng bằng Bắc bộ) vào năm 111 sau Công Nguyên, cư dân ở đồng bằng đã tiếp xúc với văn hóa Hán thông qua bộ máy cai trị của các quan thái thú. Với chính sách đồng hóa và nô dịch, họ đã mở trường học chữ nho, bắt người Việt sống theo điển chế Trung Hoa... do ảnh hưởng của 1000 năm đô hộ của người Trung Hoa mà tiếng kẻ chợ đã trở thành tiếng Việt và tiếng miền ngược trở thành tiếng Mường ngày nay.
Đến thế kỷ thứ 10, khi người Việt giành được độc lập và dựng nên quốc gia Đại Việt, tiếng Việt trở thành tiếng phổ thông và tách khỏi tiếng Mường.
Suốt mười thế kỷ độc lập, các triều đại quân chủ Việt Nam tự nguyện tiếp nhận mô hình văn hóa Hán một cách chủ động và thống nhất trong cả nước. Chữ Hán được dùng làm quốc tự trong triều đình, trong thi cử, trong văn chương bác học. Đó là thứ chữ của giai tầng thống trị được suy tôn trọng vọng và là chữ chính thống. Song song với nó, tiếng Việt tồn tại trong quảng đại quần chúng và là quốc ngữ. Do đó dẫn đến một nghịch lý: quốc tự của triều đình không phải để ghi quốc ngữ. Vì vậy người Việt phải mượn ký tự chữ Hán để ghi tiếng Việt, đánh dấu sự ra đời của chữ nôm. Đó là điều đáng ngạc nhiên vì khi đó các nước láng giềng của ta như Lào, Cam-pu-chia, Thái lan... đều mượn chữ ấn Độ để sáng tạo nên chữ viết của họ. Do vậy quốc tự và quốc ngữ của họ là một và được dùng đến bây giờ.
Vì chữ nôm để ghi tiếng Việt nên người Việt dùng để sáng tác thơ ca theo tiếng mẹ đẻ của mình. Còn chữ Hán được dùng để sáng tác thơ kiểu Trung Quốc (thơ Đường...), và đặc biệt để viết văn xuôi (Hoàng Lê Nhất thống trí, Truyền kỳ Mạn lục, Lĩnh nam Trích quái...). Thế kỷ thứ 17 - 18 được đánh dấu bởi sự bùng nổ của văn chương chữ nôm với các tác phẩm truyện, thơ, ngụ ngôn nổi tiếng như (Kiều của Nguyễn Du, bản dịch Chinh Phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm, thơ Hồ Xuân Hương...).
Tiếng Việt thời đó hình thành hai lớp từ mượn Hán: lớp Việt hóa hoàn toàn: ví dụ: tiền, hàng, chợ, mùa... Và lớp Hán Việt là những từ mượn Hán và chưa Việt hóa triệt để: chẳng hạn ta có từ núi nên không thể nói "tôi lên sơn" nhưng ta lại nói "có cô sơn nữ ở vùng sơn cước hát bài sơn ca trong một sơn trại..." Chữ nôm do vậy chưa bao giờ được thống nhất về cách ghi, mỗi người có thể ghi khác nhau. Điều đó lý giải tại sao cùng một tác phẩm chữ nôm lại có nhiều cách "luận" và hiểu khác nhau.
Đến thế kỷ 17, với mục đích du nhập Thiên Chúa giáo vào Việt Nam, các giáo sĩ người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha được sự giúp đỡ của các giáo sĩ người Việt đã La tinh hóa chữ viết để truyền giáo (thường chữ viết gắn liền với tôn giáo), đồng thời tách người Việt ra khỏi khuôn viên của chữ vuông và văn hóa Khổng giáo.
Quá trình xây dựng chữ viết trên cơ sở chữ La tinh mà ngày nay gọi là chữ quốc ngữ đã lặp lại quy trình sáng tác chữ nôm. Alexandre de Rhodes (Bá Đa Lộc) và các giáo sĩ người Âu phải giải quyết hai vấn đề: một là thêm những dấu phụ để phù hợp với cách đọc của người Việt khác với tiếng La tinh, tiếng Bồ Đào Nha..., hai là (khác với chữ nôm) phải ghi riêng biệt từng tiếng khác với cách viết liền như tiếng châu Âu đa tiết.
Quá trình này được phản ánh qua ba cuốn từ điển:
An Nam - Bồ Đào Nha (Gaspar de Amaral);
Bồ Đào Nha - An Nam (Antoine de Barbosa) và
An Nam - Bồ Đào Nha - La tinh (A. de Rhodes - 1651).
Vì tôn trọng cách phát âm của người bản ngữ nên A. de Rhodes đã ghi các âm "ph" thay cho "f", "tl" thay cho "tr", ngaoc (ngọc), thaoc (thóc), bvua (vua); bvui (vui)...
Chính vì địa vị không chính thức và tính không chuẩn hóa của chữ nôm mà chữ quốc ngữ dễ dàng thay thế. Hơn nữa hệ chữ La tinh lại rất dễ đọc và tiện lợi. Vì vậy, lúc đầu các cụ đồ Nho đã hết sức sỉ vả, coi nó là thứ chữ con giun, con dế của đế quốc. Sau này khi thấy nó tiện lợi, học nhanh, dễ chuyển tải các nội dung yêu nước thì chính các cụ Đông kinh Nghĩa thục trong khi chống "cựu học", cổ vũ "tân học" đã phát động việc truyền bá chữ quốc ngữ và văn minh châu Âu"Mở tân giới xoay nghề tân học
Đón tân trào, dựng cuộc tân dân Tân thư, tân báo, tân văn..."(Nguyễn Quyền, giáo học Đông kinh Nghĩa thục)Chính từ công cụ chữ viết quan trọng này, việc tiếp xúc văn hóa Đông - Tây nửa đầu thế kỷ 20 diễn ra sôi động. Trong bối cảnh quốc tế hóa hiện nay, tiếng Việt được đánh giá như một trong những nhân tố quan trọng, đóng vai trò tích cực vào quá trình hội nhập của Việt Nam với thế giới.
Phạm Đức Dương (Vietreader.com)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 14, 2011 3:29:24 GMT 9
Lịch sử các loại chữ viết Việt Nam ***************************
Chữ Hán:
Chữ Hán vào Việt Nam theo con đường giao lưu văn hóa bắt đầu từ thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên. Hiện nay, ở Việt Nam còn lưu giữ được số hiện vật như đỉnh cổ có khắc chữ tượng hình (chữ Hán cổ). Điều này là một phần chứng minh được rằng chữ Hán cổ xuất hiện ở Việt Nam khá sớm và thực sự trở thành phương tiện ghi chép và truyền thông trong người Việt kể từ những thế kỷ đầu Công nguyên trở đi. Đến thế ký VII - XI chữ Hán và tiếng Hán được sử dụng ngày càng rộng rãi ở Việt Nam. Thời kỳ này tiếng Hán được sử dụng như một phương tiện giao tiếp, giao lưu kinh tế thương mại với Trung Quốc. Do Việt Nam bị ách đô hộ của phong kiến phương Bắc trong khoảng thời gian hơn một ngàn năm, vì vậy hầu hết các bài văn khắc trên tấm bia đều bằng chữ Hán. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng chữ Hán có ảnh hưởng to lớn như thế nào đối với nền văn hóa của nước Việt Nam xưa. Từ sau thế kỷ thứ X, tuy Việt Nam giành được độc lập tự chủ, thoát khỏi ách thống trị của phong kiến phương Bắc, nhưng chữ Hán và tiếng Hán vẫn tiếp tục là một phương tiện quan trọng để phát triển văn hóa dân tộc.
Chữ Nôm:
Dù chữ Hán có sức sống mạnh mẽ đến đâu chăng nữa, một văn tự ngoại lai không thể nào đáp ứng, thậm chí bất lực trước đòi hỏi, yêu cầu của việc trực tiếp ghi chép hoặc diễn đạt lời ăn tiếng nói cùng tâm tư, suy nghĩ và tình cảm của bản thân người Việt. Chính vì vậy chữ Nôm đã ra đời để bù đắp vào chỗ mà chữ Hán không đáp ứng nổi.
Chữ Nôm là một loại văn tự xây dựng trên cơ sở đường nét, thành tố và phương thức cấu tạo của chữ Hán để ghi chép từ Việt và tiếng Việt. Quá trình hình thành chữ Nôm có thể chia thành hai giai đoạn:
Giai đoạn đầu, tạm gọi là giai đoạn "đồng hóa chữ Hán", tức là dùng chữ Hán để phiên âm các từ Việt thường là tên người, tên vật, tên đất, cây cỏ chim muông, đồ vật... xuất hiện lẻ tẻ trong văn bản Hán. Những từ chữ Nôm này xuất hiện vào thế kỷ đầu sau Công nguyên (đặc biệt rõ nét nhất vào thế kỷ thứ VI).
Giai đoạn sau: Ở giai đoạn này, bên cạnh việc tiếp tục dùng chữ Hán để phiên âm từ tiếng Việt, đã xuất hiện những chữ Nôm tự tạo theo một số nguyên tắc nhất định. Loại chữ Nôm tự tạo này, sau phát triển theo hướng ghi âm, nhằm ghi chép ngày một sát hơn, đúng hơn với tiếng Việt. Từ thời Lý thế kỷ thứ XI đến đời Trần thế kỷ XIV thì hệ thống chữ Nôm mới thực sự hoàn chỉnh. Theo sử sách đến nay còn ghi lại được một số tác phẩm đã được viết bằng chữ Nôm như đời Trần có cuốn "Thiền Tông Bản Hạnh". Đến thế kỷ XVIII - XIX chữ Nôm đã phát triển tới mức cao, át cả địa vị chữ Hán. Các tác phẩm như hịch Tây Sơn, Khoa thi hương dưới thời Quang Trung (1789) đã có bài thi làm bằng chữ Nôm. Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng được viết bằng chữ Nôm là những ví dụ.
Như vậy, có thể thấy chữ Hán và chữ Nôm có những khác nhau cơ bản về lịch sử ra đời, mục đích sử dụng và mỗi chữ có bản sắc riêng về văn hóa.
Chữ Quốc Ngữ hiện nay:
Việc chế tác chữ Quốc Ngữ là một công việc tập thể của nhiều linh mục dòng tên người châu Âu, trong đó nổi bật lên vai trò của Francesco de Pina, Gaspar d'Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre De Rhodes. Trong công việc này có sự hợp tác tích cực và hiệu quả của nhiều người Việt Nam, trước hết là các thầy giảng Việt Nam (giúp việc cho các linh mục người Âu). Alexandre De Rhodes đã có công lớn trong việc góp phần sửa sang và hoàn chỉnh bộ chữ Quốc Ngữ. Đặc biệt là ông đã dùng bộ chữ ấy để biên soạn và tổ chức in ấn lần đầu tiên cuốn từ điển Việt - Bồ - La (trong đó có phần về ngữ pháp tiếng Việt) và cuốn Phép giảng tám ngày. Xét về góc độ ngôn ngữ thì cuốn diễn giảng vắn tắt về tiếng An Nam hay tiếng đàng ngoài (in chung trong từ điển) có thể được xem như công trình đầu tiên khảo cứu về ngữ pháp. Còn cuốn Phép giảng tám ngày có thể được coi như tác phẩm văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Quốc Ngữ, sử dụng lời văn tiếng nói bình dân hàng ngày của người Việt Nam thế kỷ XVII.
Tuy chữ Quốc ngữ của Alexandre De Rhodes năm 1651 trong cuốn từ điển Việt - Bồ - La đã khá hoàn chỉnh nhưng cũng phải chờ đến từ điển Việt - Bồ - La (1772), tức là 121 năm sau, với những cải cách quan trọng của Pigneau de Behaine thì chữ Quốc ngữ mới có diện mạo giống như hệ thống chữ Việt mà chúng ta đang dùng hiện nay.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 4:58:00 GMT 9
Dấu "Hỏi Ngã" Trong Văn Chương Việt Nam
Tác giả: Cao Chánh Cương Văn hóa Việt Nam của chúng ta vô cùng phong phú. Một trong những nguồn phong phú vô ngàn mà trên thế giới không ai có, đó là ý nghĩa về dấu hỏi ngã Thật thế, dấu hỏi ngã trong tiếng Việt đóng một vai trò quan trọng. Viết sai dấu hỏi ngã sẽ làm đảo ngược và có khi vô cùng tai hại cho văn chương và văn hóa Việt Nam. Chúng tôi xin đơn cử một vài trường hợp như sau. Danh từ nhân sĩ, chữ sĩ phải được viết bằng dấu ngã để mô tả một vị chính khách có kiến thức văn hóa chính tri... , nhưng nếu vô tình chúng ta viết nhân sỉ, chữ sỉ với dấu hỏi thì ý nghĩa của danh từ nhân sĩ sẽ bị đảo ngược lại, vì chữ sĩ với dấu hỏi có nghĩa là nhục sĩ và như vậy sẽ bị trái nghĩa hoàn toàn. Một chữ thông thường khác như là hai chữ sửa chữa, nếu bỏ đi dấu hỏi ngã sẽ có nhiều ý khác nhau: sửa chữa (sửa dấu hỏi, chữa dấu ngã) tức là chúng ta sửa lại một cái gì bị hư hỏng, thí dụ sửa chữa xe hơi. Nhưng nếu cho dấu ngã vào thành chữ sữa và dấu hỏi trên chữ chửa tức có nghĩa là sữa của những người đàn bà có thai nghén. Người sai lỗi nhiều nhất về viết sai dấu hỏi ngã là người miền Nam và Trung (người viết bài này là người miền Trung). May mắn nhất là người thuộc miền Bắc khi sinh ra là nói và viết dấu hỏi ngã không cần phải suy nghĩ gì cả. Nhưng khốn nỗi có khi hỏi họ tại sao chữ này viết dấu hỏi chữ kia lại đánh dấu ngã thì họ lại không cắt nghĩa được mà chỉ nở một nụ cười trên môi... Bài viết này nhằm mục đích đóng góp một vài qui luật về dấu hỏi ngã của tiếng mẹ đẻ Việt Nam chúng ta. Dấu hỏi ngã được căn cứ vào ba qui luật căn bản: Luật bằng trắc, chữ Hán Việt và các qui luật ngoại lệ. A. LUẬT BẰNG TRẮC Qui luật bằng trắc phải được hiểu theo ba qui ước sau. 1. Luật lập láy Danh từ lập láy tức là một chữ có nghĩa nhưng chữ ghép đi theo chữ kia không có nghĩa gì cả. Thí dụ: vui vẻ, chữ vui có nghĩa mà chữ vẻ lại không nghĩa, chữ mạnh mẽ, chữ mạnh có nghĩa nhưng chữ mẽ lại không hề mang một ý nghĩa nào hết, hoặc chữ lặng lẽ, vẻ vang... 2. Luật trắc Không dấu và dấu sắc đi theo với danh từ lập láy thì chữ đó viết bằng dấu hỏi (ngang sắc hỏi). Thí dụ: Hớn hở: chữ hớn có dấu sắc, thì chữ hở phải là dấu hỏi. Vui vẻ: chữ vui không dấu, thì chữ vẻ đương nhiên phải dấu hỏi. Hỏi han: chữ han không dấu, như thế chữ hỏi phải có dấu hỏi. Vớ vẩn: chữ vớ là dấu sắc thì chữ vẩn phải có dấu hỏi. Tương tự như mắng mỏ, ngớ ngẩn, hở hang,... 3. Luật bằng Dấu huyền và dấu nặng đi theo một danh từ lập láy thì được viết bằng dấu ngã (huyền nặng ngã). Thí dụ: Sẵn sàng: chữ sàng có dấu huyền thì chữ sẵn phải là dấu ngã. Ngỡ ngàng: chữ ngàng với dấu huyền thì chữ ngỡ phải để dấu ngã. Mạnh mẽ: chữ mãnh có dấu nặng, do đó chữ mẽ phải viết dấu ngã. Tương tự như các trường hợp lặng lẽ, vững vàng,... B. CHỮ HÁN VIỆT Văn chương Việt Nam sử dụng rất nhiều từ Hán Việt, chúng ta hay quen dùng hằng ngày nên cứ xem như là tiếng Việt hoàn toàn. Thí dụ như các chữ thành kiến, lữ hành, lãng du, viễn xứ,... tất cả đều do chữ Hán mà ra. Đối với chữ Hán Việt được sử dụng trong văn chương Việt Nam, luật về đánh dấu hỏi ngã được qui định như sau: Tất cả những chữ Hán Việt nào bắt đầu bằng các chữ D, L, V, M và N đều viết bằng dấu ngã, cá chữ Hán Việt khác không bắt đầu bằng năm mẫu tự này sẽ được viết bằng dấu hỏi. Thí dụ: Dĩ vãng: hai chữ này phải viết dấu ngã vì dĩ vãng không những là hán tự mà còn bắt đầu bằng chữ D và V. Vĩ đại: vĩ có dấu ngã vì chữ vĩ bắt đầu với mẫu tự V. Ngẫu nhiên: chữ ngẫu dấu ngã vì áp dụng qui luật Hán Việt nói trên. Lẽ phải: lẽ dấu ngã vì chữ L, phải dấu hỏi vì có chữ P. Tư tưởng: chữ tưởng phải viết dấu hỏi vì vần T đứng đầu. Tương tự như: lữ hành, vĩnh viễn,... Để thể nhớ luật Hán tự dễ dàng, chúng tôi đặt một câu châm ngôn như thế này: "Dân Là Vận Mệnh Nước" để dễ nhớ mỗi khi muốn sử dụng qui luật Hán tự nói trên. C. CÁC QUI ƯỚC KHÁC 1. Trạng từ (adverb) Các chữ về trạng từ thường viết bằng dấu ngã. Thí dụ: Thôi thế cũng được. Trạng từ cũng viết với dấu ngã. Xin anh đừng trách em nữa. Trạng tự nữa viết với dấu ngã. Chắc anh đã mệt lắm rồi. Trạng từ đã viết với dấu ngã. 2. Tên họ cá nhân và quốc gia Các họ của mỗi người và tên của một quốc gia thường được viết bằng dấu ngã. Thí dụ: Đỗ đình Tuân, Lữ đình Thông, Nguyễn ngọc Yến... Các chữ Đỗ, Lữ, Nguyễn đều viết bằng dấu ngã vì đây là danh xưng họ hàng. Nước Mỹ, A phú Hãn,... Các chữ Mỹ và Hãn phải viết bằng dấu ngã vì đây là tên của một quốc gia. 3. Thừa trừ Một qui ước thừa trừ ta có thể dùng là đoán nghĩa để áp dụng theo luật lập láy và bằng trắc nói trên. Thí dụ: Anh bỏ em đi lẻ một mình. Chữ lẻ viết dấu hỏi vì từ chữ lẻ loi mà ra, chữ loi không dấu nên chữ lẻ viết với dấu hỏi. Anh này trông thật khỏe mạnh, chữ khỏe ở đây có dấu hỏi vì do từ khỏe khoắn mà ra, khoắn dấu sắc thì khỏe phải dấu hỏi. D. KẾT LUẬN Văn chương là linh hồn của nền văn hóa, viết sai dấu hỏi ngã có thể làm sai lạc cả câu văn, đó là chưa kể đến nhiều sự hiểu lầm tai hại cho chính mình và người khác cũng như các việc trọng đại. Không gì khó chịu cho bằng khi đọc một cuốn truyện hay nhưng dấu hỏi ngã không được chỉnh tề. Một ký giả người miền Nam trong câu chuyện thân mật tại một quán phở thược vùng thủ đô Hoa Thịnh Đốn đã thành thật công nhận điều thiếu sót và tầm quan trọng của dấu hỏi ngã trong văn chương Việt Nam. Và cũng chính vị ký giả lão thành nói trên đã khuyến khích chúng tôi viết bài này trong mục đích làm sống lại sự phong phú của nền văn chương, văn hóa Việt Nam chúng ta, nhất là đối với những thế hệ trẻ hiện đang lưu lạc trên xứ người. CAO CHÁNH CƯƠNG Trích tài liệu khóa Tu nghiệp Sư phạm 1991 Của các Trung tâm Việt ngữ Miền Nam Cali
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 6, 2011 5:34:09 GMT 9
Việt Ngữ Hỏi Ngã Tự Vị Đinh Sĩ Trang. Lời Nói Đầu Người Việt Nam chúng ta, mỗi khi có dịp so sánh tiếng Việt với một ngôn ngữ khác, thường tự hào về ngôn ngữ của mình vì nhiều lý lẽ: 1. Tiếng Việt phong phú, dồi dào. 2. Nhờ tiếng Việt viết theo lối chữ La Mã (a, b, c) nên có thể xử dụng những kỹ thuật tối tân của ngành điện tín và truyền thông mà các nước văn minh tân tiến đang có sẵn, trong khi các quốc gia có chữ viết khác hơn chữ La Mã như Trung-Hoa, Ấn-Độ, Nhật-Bản, Đại-Hàn và các quốc gia thuộc khối Ả-Rập, không được sự tiện lợi nói trên. 3. Văn phạm của tiếng Việt tương đối đơn giản hơn văn phạm của nhiều ngôn ngữ khác. 4. Chánh tả của Việt ngữ không thay đổi, không tùy thuộc vào những chữ đứng cạnh, cho nên không cần phải viết khác đi mỗi khi gặp số nhiều, số ít, giống đực, giống cái, như Pháp ngữ hay Anh ngữ. 5. Phương pháp phát âm của tiếng Việt đơn giản và nhất định, không có nhiều ngoại lệ, không viết một đàng đọc một nẻo như một số ngôn ngữ tây phương. Cho nên bất cứ ai biết đánh vần Việt ngữ, là đọc được tiếng Việt, không sai trật. Phần đông người Việt chúng ta rất hãnh diện về ngôn ngữ của mình, có lẽ tại vì đó là tiếng mẹ đẻ, nói ra là hiểu liền, nên cảm thấy tiếng Việt sao mà dễ quá, rõ ràng quá, hay quá! Và cũng vì lạc quan như thế, nên ít người chịu để ý đến những qui lệ căn bản về sự kết cấu của các âm thể, về cách biến đổi của tiếng Việt theo một tiến trình mạch lạc - mà suy cho cùng - không hẳn là đơn giản như nhiều người đã tưởng. Đối với các nguyên tắc và qui lệ căn bản nói trên, thông thường chỉ các nhà văn, nhà giáo, các học giả, hoặc những người nghiên cứu Ngữ Học mới lưu tâm đến mà thôi, còn phần đông quần chúng thì tự thấy không có nhu cầu tìm hiểu hay phải học những nguyên tắc nầy. Đó cũng là lý do mà sách vở và tài liệu có liên quan đến vấn đề CHÁNH TẢ VIỆT NGỮ không thấy có nhiều trên thị trường sách báo Việt Nam. Ngay như chúng tôi, khi muốn học viết cho đúng dấu Hỏi Ngã, đã nhận thấy sách dạy Cách Bỏ Dấu Hỏi Ngã rất hiếm trên thị trường hiện tại là một điều trở ngại, nên đã tận lực tìm kiếm tài liệu để học hỏi hầu bổ cái sở khuyết của mình. Nhân đó, chúng tôi mới nghĩ đến việc đem những điều mình đã nghiên cứu và học được mà cống hiến cho đồng bào, chỉ ước mong có thể giúp được những người đã từng cảm qua cái nỗi khó khăn như mình, và tiếp tay quý vị giáo viên để giảng dạy cho học sinh, đồng thời cũng giúp được những bậc phụ huynh hằng lưu tâm đến vấn đề trau giồi tiếng Việt cho chính mình cũng như cho con cháu mình. Mặc dù không phải là một nhà Ngữ Học chuyên môn, nhưng vì nhiệt tâm nên chúng tôi mạo muội soạn quyển sách nhỏ nầy, chắc không khỏi còn có chỗ thiếu sót hoặc sai lầm, mong quý vị độc giả vui lòng thể lượng cho và bổ khuyết giùm, chúng tôi thật là vạn hạnh. Brisbane, Úc Châu, Xuân Quý Dậu, 1993. L.s. Đinh-sĩ-Trang
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 6, 2011 5:35:43 GMT 9
Phần Một Phép Bỏ Dấu Hỏi Ngã I. HỆ THỐNG TIẾNG VIỆT ÂM THỂ ÂM là những yếu tố đầu tiên dùng để tạo nên tiếng. Âm được chia thành hai loại: Nguyên Âm và Phụ Âm. Nguyên Âm và Phụ Âm kết hợp nhau, hiệp với Giọng, thành một tiếng có nghĩa, gọi là Từ Ngữ. Nguyên Âm có thể đứng một mình trong lời nói. Phụ Âm bao giờ cũng tùy thuộc Nguyên Âm. a/ Nguyên Âm và Phụ Âm Tiếng Việt có 12 Nguyên Âm: a ă â e ê i y o ô ơ u ư và 23 Phụ Âm: b, c (k), ch, d, đ, g (gh), gi, kh, l, m, n, ng (ngh), nh, p, ph, qu, r, s, t, th, tr, v, x. b/ GIỌNG (cũng gọi là THINH) Tiếng Việt có tám giọng, thành hệ thống liên hệ nhau: Bốn giọng Bổng đối chiếu với bốn giọng Trầm. Giọng Bổng còn gọi là Thanh thinh. Giọng Trầm còn gọi là Trọc thinh BỔNG: ngang, hỏi, sắc, sắc nhập[/li][li] TRẦM: huyền, ngã, nặng, nặng nhập[/li][li][/li][li] Sắc nhập hoặc Nặng nhập là giọng của một Tiếng Đôi do hai tiếng hợp lại theo Luật Thuận Thinh Âm. * Sắc nhập gồm những Tiếng đôi mà tiếng đầu không dấu, tiếng sau mang dấu Sắc, và có c, ch, p, t, ở cuối. Ví dụ: nươm nướp, vun vút, thinh thích, rưng rức. * Nặng nhập gồm những tiếng đôi mà tiếng đầu có dấu Huyền, tiếng sau mang dấu Nặng và có c, ch, p, t, ở cuối. Ví dụ: nườm nượp, vùn vụt, thình thịch, vằng vặc. II. NGUYÊN TẮC CHUNG VỀ THINH Tiếng Việt gồm hai loại, tuy liên hệ nhau nhưng vẫn giữ đặc tính riêng rẽ: - Tiếng HÁN VIỆT là chữ Hán đọc theo giọng Việt. - Tiếng NÔM là tiếng do người Việt-nam tạo nên với những tiếng mượn của nước ngoài nhưng đã Việt Hoá. II.1 TIẾNG Hán Việt Tiếng Hán Việt là tiếng mượn của tiếng Hán nhưng đọc theo giọng của người Việt. Phần lớn tiếng Hán Việt là những tiếng gồm hai tiếng trở lên. Ví dụ: quốc gia, kinh tế, quân sự, chánh trị, xã hội, ngoại giao, văn hoá, dân chủ, công ty, v.v. Trong tiếng Việt hiện nay, khoảng 60% là tiếng Hán Việt. Chúng ta xử dụng khá nhiều tiếng Hán Việt trong mọi giao tiếp và nói năng hằng ngày. Ví dụ: "Hôm qua nghiệp đoàn công nhân tổ chức hội nghị thảo luận vấn đề gia tăng niên liễm". Chỉ có hai chữ thuần Việt là "hôm qua", còn các chữ khác đều là tiếng Hán Việt. Tiếng Hán Việt có quy luật riêng về dấu Hỏi Ngã. Vì vậy, nếu xử dụng được Luật Hỏi Ngã trong tiếng Hán Việt thì chúng ta đã giải quyết được hơn 60% công việc về dấu Hỏi Ngã. Tiếng Hán Việt có hai đặc tính: 1. Về Chánh tả: giữa âm và giọng có sự liên quan chặt chẽ. - Các tiếng Hán Việt khởi đầu bằng một Nguyên Âm, chỉ có thể có dấu Sắc, dấu Hỏi, hoặc Không dấu. - Các tiếng Hán Việt khởi đầu bằng các Phụ Âm: L, M, N, NG, NH, D, V, chỉ có thể có dấu Ngã hay Nặng. 2. Về vị trí của các tiếng dùng chung: Tiếng Chỉ định luôn luôn đứng trước tiếng được chỉ-định, gọi là Ngữ pháp đặt ngược Ví dụ: Bạch tượng. Bạch chỉ định, làm cho rõ nghĩa tiếng tượng. Ký sinh trùng. Ký chỉ định sinh, ký sinh chỉ định trùng. CÁCH NHẬN BIẾT TIẾNG HÁN VIỆT 1. Các tiếng Hán Việt thường không tách ra dùng riêng một mình, mà phải dùng trọn Từ Ngữ. Chẳng hạn chỉ có thể nói làm thương mãi chớ không thể nói làm thương, làm mãi, hoặc nói làm chánh trị chớ không thể nói làm chánh, làm trị v. v... Vậy mỗi khi gặp một Chữ ghép, ta thử tách các tiếng cấu tạo từ ấy ra riêng rẽ, nếu chúng không dùng độc lập được, thì đó là một tiếng Hán Việt. 2. Về nghĩa của một tiếng Hán Việt. Các tiếng hợp lại để làm thành một Chữ Hán Việt đều có nghĩa, nhưng nghĩa của chúng rất mơ hồ đối với những người không có một trình độ Hán Học nhất định. Ví dụ như nếu đem xét riêng biệt các chữ: dĩ, nhiên, hành, chánh, lãnh, tụ, thì chúng đều có nghĩa cả, nhưng hỏi nghĩa thế nào thì không dễ trả lời. Cho nên khi gặp một chữ ghép, nếu cả hai tiếng đều mơ hồ về nghĩa ví dụ như: cảnh giác, mãnh liệt, dũng cảm, thì đó là chữ Hán Việt. Còn các Tiếng Nôm Đôi và Tiếng-Nôm Lấp Láy thì đều có khả năng dùng riêng ra từng chữ và nghĩa của chữ dùng riêng đều rõ và dễ nhận biết. Ví dụ: xe lửa, máy bay, tàu ngầm, xe đạp. Do đó, dựa vào cách phân biệt như trên, chúng ta dễ dàng biết được tiếng nào là tiếng Hán Việt và tiếng nào là Tiếng Nôm. a) Tóm lại: Tất cả tiếng Hán Việt khởi đầu bằng các Nguyên Âm: A, Â, Y, O, Ô, U, Ư, đều viết DẤU HỎI vì các Nguyên Âm của Tiếng Hán Việt thuộc Thanh-âm (Bổng). Ví dụ: Ải quan, Ảnh hưởng, Ẩm thực, Ẩn dật, Ỷ lại, Oải nhân, Ổn thỏa, Ủy hội, Ưởng. Phụ chú: Sách của G.s. Lê-ngọc-Trụ có ghi Ê và I vào nhóm Nguyên Âm nầy. Nhưng vì chữ Hán Việt không có chữ nào khởi đầu bằng Ể, Ễ hoặc Ỉ, Ĩ nên tôi không ghi hai Nguyên Âm nầy vào, cho người học đỡ mệt trí [Đ-s-T]. b) Tất cả tiếng HÁN VIỆT khởi đầu bằng Phụ Âm CH, GI, KH, PH, TH, S, X, đều viết DẤU HỎI vì các Phụ Âm nầy cũng thuộc Thanh-âm (Bổng). Ví dụ: - CHẩn đoán, CHỉ huy, CHỉnh tề, CHiểu chi, CHủ tọa, CHưởng quản. - GIải phẫu, GIảm thiểu, GIản tiện, GIảng đường, GIảo quyệt, học GIả. - KHả dĩ, KHải hoàn, KHảo thí, KHẩu hiệu, KHổng giáo, KHủng hoảng - PHản bội, PHẩm cách, PHỉ báng, PHổ thông, PHủ nhận. (trừ PHẫn nộ) - THải hồi, THảm thương, THản nhiên, THảo mộc, (trừ Mâu THuẫn, Phù THũng) - Sản khoa, Sảnh đường, Sỉ nhục, Siểm nịnh, Sở dĩ, Sủng hạnh, (trừ Sĩ = học trò) - Xả thân, Xảo trá, công Xưởng, (trừ Xã hội, Xã trưởng, Hợp tác Xã) Để khỏi bỏ sai dấu, xin độc giả đừng lẫn lộn tiếng Hán Việt với những tiếng Nôm sau đây: CHĨNH=hủ bằng đất; GIÃ (giã gạo, từ giã); GIÃI (giãi bày); GIÃN (co giãn, giãn ra= tăng độ dài: dây cao su bị giãn); PHŨ (phũ phàng); THÃI (thừa thãi); SŨNG (ướt sũng) c) Tất cả tiếng HÁN VIỆT khởi đầu bằng Bảy Phụ Âm L, M, N, NG, NH, D, V, đều thuộc Trọc-Âm, cho nên viết DẤU NGÃ (trừ một ngoại lệ duy nhất là Ngải cứu). Ví dụ: - Lãng mạn, Lãnh đạm, Lão ấu, Lẫm liệt, Lễ nghĩa, Lũng đoạn, thành Lũy, Lãng phí. - Mã não, Mãi mại, Mãn nguyện, Mỹ Mãn, Mãnh hổ, Mẫn tiệp, Mẫu nghi, Mỹ nữ. - Não tủy, Noãn sào, Nỗ lực, phụ Nữ. - NGẫu nhiên, NGũ cốc, đội NGũ, ngôn NGữ. - NGHĩa khí, NGHiễm nhiên, NGHĩa trang. - NHã ý, NHãn khoa, NHẫn nại, NHĩ mục, NHiễm bệnh, NHũ mẫu, NHãn hiệu. - Dẫn lực, Dĩ nhiên, Diễm lệ, Diễn đàn, Dũng cảm, Dưỡng dục, Dĩ vãng, Dã man. - Vãn bối, Vãng lai, Vĩ đại, Viễn thị, Vĩnh viễn, Võ trang, Vũ trụ, Vĩ tuyến. Xin đừng lộn tiếng Hán Việt với những tiếng Nôm sau đây: - LẢ (lả lơi, ẻo lả); LẢNG (lảng vảng); LẢNH (lảnh lót); LẢO (lảo đảo) LẨM (lẩm rẩm); LỂ (lể ốc, lể gai); LIỂM (cờ bạc đặt tiền ở giữa hai ô, ra ô nào mình cũng trúng); LƯỞNG (lưởng thưởng); - MẢ (mồ mả); MẢI (mải miết); MẢNH (mảnh mai); MẨN (mê mẩn); MẨU (mẩu chuyện); - NẢO (viết thử trước); NỔ (nổ bùng); - NGẢ (ngả quỵ); NGỦ (đi ngủ); - NHẢ (nhả mồi, nhả tơ) NHẢN (nhan nhản); NHỈ (vui nhỉ!); NHỦ (khuyên nhủ); - DẨN (dớ dẩn) DỈ (dỉ hơi); - VẢNG (lảng vảng); VỈ (vỉ lò, vỉ bánh); VIỂN (viển vông) VỎ (vỏ ốc, vỏ sò). d) Mấy Phụ Âm khởi đầu khác, gồm có B, C, Đ, H, K, QU, và T, vì đều có ở cả hai bậc Thanh và Trọc, khó phân biệt, nên phải tra tự điển; nhưng cũng theo luật "Thanh viết dấu HỎI, Trọc viết dấu NGÃ". Vì tiếng giọng Ngã ít hơn tiếng giọng Hỏi nên chúng tôi biên ra dưới đây các tiếng Hán Việt giọng Ngã của mấy Phụ Âm khởi đầu vừa nói trên, để giúp bạn đọc: Bãi : thôi, nghỉ (bãi công, bãi khóa, bãi thị) Bão : ẵm bồng (hoài bão, bão hòa, bão mãn) Bĩ : xấu (bĩ cực thái lai, bĩ vận) Cưỡng : gắng ép (cưỡng bách, cưỡng chế) Cữu : cậu vua (quốc cữu), hòm (linh cữu) Đãi : thết, xử với (đãi bôi, bạc đãi, biệt đãi, khoản đãi, trọng đãi, ưu đãi, đãi lịnh) Đãng : rộng, phóng túng (đãng tử, du đãng) Đễ : kính nhường (hiếu đễ) Điễn : điện (điễn khí, điễn học, điễn lực) Đỗ : họ Đỗ, chim đỗ quyên, cây đỗ trọng Hãi : kinh sợ (kinh hãi, hãi hùng, sợ hãi) Hãm : xông phá (hãm địch, hãm trận) Hãn : mồ hôi (xuất hãn, phát hãn, liễm hãn) Hãnh : may mắn (hãnh diện, kiêu hãnh) Hoãn : chậm (trì hoãn, hoãn đãi, hoãn binh) Hỗ : lẫn nhau (hỗ trợ, hỗ tương) Hỗn : lộn xộn (hỗn chiến, hỗn loạn, hỗn hợp) Huyễn : hoa mắt (huyễn hoặc, huyễn mục) Hữu :có (hữu cơ, hữu hạn, hữu dụng, hữu lý) Kỹ : tài năng (kỹ sư, kỹ thuật, kỹ nghệ, kỹ xảo) Quẫn : khốn đốn (quẫn bách, cùng quẫn) Quỹ : tủ cất tiền (thủ quỹ, công quỹ, ký quỹ) Tễ : thuốc huờn (dược tễ, điều tễ, thuốc tễ) Tiễn : đưa (tiễn biệt, tiễn hành, tiễn khách) Tiễu : dẹp trừ (tiễu trừ, tuần tiễu, tiễu phỉ) Tĩnh : im lặng (tĩnh dưỡng, tĩnh mịch) Tuẫn : liều chết (tuẫn tiết, tuẫn nạn) Trãi : Nguyễn-Trãi Trẫm : tiếng vua tự xưng Trĩ : trẻ (ấu trĩ), bịnh trĩ (trĩ nội, trĩ ngoại) Trữ : chứa (lưu trữ, oa trữ, tàng trữ, tích trữ) CÁCH NHỚ LUẬT HỎI NGÃ CHO TIẾNG HÁN VIỆT Xem vậy Luật viết dấu Hỏi Ngã cho tiếng Hán Việt khá phức tạp. Tuy nhiên ta có thể dùng mẹo để nhớ một cách dễ dàng. a) Chỉ cần nhớ những trường hợp viết dấu Ngã trong tiếng Hán Việt, tức là nhớ BẢY Phụ Âm đầu viết dấu Ngã và khoảng 30 trường hợp ngoại lệ phải viết dấu Ngã. Các trường hợp viết dấu hỏi không cần nhớ vì các tiếng Hán Việt có âm đầu khác hơn Bảy Phụ Âm nói trên đều viết dấu hỏi. b) Để nhớ Bảy Phụ Âm đầu viết dấu Ngã, các bạn học thuộc lòng câu sau đây: Mình Nên NHớ Vũ Là Dấu NGã (M N Nh V L D Ng) Như vậy là bạn đã nắm được luật viết dấu Hỏi Ngã của tiếng Hán Việt. Còn các ngoại lệ thì xin chịu khó học thuộc lòng. II.2 TIẾNG NÔM Tất cả những tiếng không phải là tiếng Hán Việt, được gọi chung là Tiếng Nôm. PHÂN BIỆT TIẾNG NÔM VÀ TIẾNG HÁN VIỆT 1. Về ý nghĩa. Tiếng Nôm là những tiếng nói sao hiểu vậy. Trái lại tiếng Hán Việt thường có thể dịch ra bằng một tiếng thông thường hơn (tiếng thông thường đó gọi là tiếng Nôm). Ví dụ: - tiếng Nôm: tập vở, tờ giấy (nói sao hiểu vậy) - tiếng Hán Việt: bệnh viện (nhà thương), phi cơ (máy bay) Tuy nhiên cũng có một số tiếng Hán Việt không thể dịch ra bằng một tiếng thông thường hơn. Ví dụ: kết quả, hạnh phúc, thành công v.v... Ngoài ra, nhiều tiếng Hán Việt, nhất là những tiếng đơn được dùng làm tiếng Nôm (gọi là Tiếng Nôm gốc Hán Việt) vẫn giữ nguyên giọng đọc cũ. Ví dụ: danh, pháp, hải, lao, lãnh v. v... 2. Nhờ quan sát Ngữ Pháp ta sẽ phân biệt tiếng Hán Việt và tiếng Nôm rất dễ dàng. Ví dụ: - LẠC CẢNH: lạc (hình dung từ) làm rõ nghĩa tiếng cảnh (danh từ). Hình dung từ đứng trước danh từ, tức là thuộc Ngữ Pháp đặt ngược. Vậy LẠC là tiếng Hán Việt. - TIỂU QUỐC: tiểu (hình dung từ) làm rõ nghĩa tiếng quốc (danh từ). Hình dung từ đứng trước danh từ, thuộc Ngữ Pháp đặt ngược. Vậy TIỂU là tiếng Hán Việt. - GẠCH TIỂU: tiểu làm rõ nghĩa tiếng gạch. Hình dung từ tiểu đứng sau danh từ gạch, tức thuộc Ngữ Pháp đặt xuôi. Vậy tiểu nầy là TIẾNG NÔM GỐC HÁN VIỆT. 3. Trong TIẾNG ĐÔI thì: - tiếng Nôm liên kết với tiếng Nôm. - tiếng Hán Việt liên kết với tiếng Hán Việt. Ví dụ: - LỖI LẦM: khi ta biết lỗi là tiếng Nôm, thì ta có thể quả quyết lầm cũng là tiếng Nôm. - TƯƠI TỐT: biết chắc tốt là tiếng Nôm, ta có thể quả quyết rằng tươi cũng là tiếng Nôm. - HỌA SĨ: biết chắc sĩ là tiếng Hán Việt, ta có thể quả quyết rằng họa là tiếng Hán Việt. - LUẬT SƯ: khi biết sư là tiếng Hán Việt thì ta có thể quả quyết luật cũng là tiếng Hán Việt. Cũng có một số tiếng đôi hợp thành bởi một tiếng Nôm và một tiếng Hán Việt. Tuy nhiên đó là trường hợp đặc biệt của những tiếng Hán Việt đã được dùng đơn độc làm tiếng Nôm. Chỉ có những tiếng Hán Việt ấy mới có thể liên kết với tiếng Nôm để tạo thành tiếng ghép. Ví dụ: - máu huyết: huyết là tiếng Hán Việt có nghĩa "máu". Tiếng huyết cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm, như: cháo huyết, huyết heo. - lý lẽ: lý là tiếng Hán Việt có nghĩa "lẽ", nhưng cũng được dùng đơn độc làm tiếng Nôm, như: lời nói có lý, không có lý nào. - ưa thích: thích là tiếng Hán Việt được dùng đơn độc làm tiếng Nôm. TIẾNG NÔM GỐC Hán Việt Dấu giọng của những Tiếng Nôm Chuyển gốc từ tiếng Hán Việt, phải theo dấu giọng của tiếng gốc, nghĩa là: a) khi tiếng HÁN GỐC là một tiếng Không dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu Hỏi, thì Tiếng Nôm có Gốc Hán Việt viết dấu Hỏi. (KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI) hô > thở; tu > sửa; giá > gả (con); giả > kẻ b) khi tiếng HÁN GỐC là tiếng dấu Huyền hoặc dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì Tiếng Nôm có Gốc Hán Việt viết dấu Ngã. (HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ) hàng > hãng (buôn); kỵ > cỡi; dĩ > đã TRỪ ngoại lệ: lý > lẽ; miếu > miễu; nỗ > (cung) nỏ; ngưỡng > ngẩng (ngửng, ngửa), nhĩ > nhử (mồi); dụ > rủ (rê)... TIẾNG NÔM KHÔNG GỐC HÁN VIỆT Những Tiếng Nôm không chuyển gốc từ tiếng Hán Việt thì gọi là TIẾNG NÔM LÕI. Có hai loại Nôm Lõi: Tiếng Đơn và Tiếng Đôi. A. TIẾNG NÔM ĐƠN Những Tiếng Nôm Đơn, trại ra từ một tiếng khác (không phải là tiếng HÁN), đều tùy tiếng chánh mà viết Hỏi hay Ngã theo luật: KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ Không dấu chuyển ra Hỏi và ngược lại như: cản/can; chăng/chẳng; chửa/chưa; không/khổng quẳng/quăng; nhủi/chui; Sắc chuyển ra Hỏi và ngược lại búa/bửa; thế/thể; hả/há; lén/lẻn; rải/rưới; Hỏi chuyển ra Hỏi bảo/biểu; cổi/cởi; tỏa/tủa; xẻ/chẻ; nhỉ/rỉ; tủi lòng/mủi lòng; rủ/xủ; quên lảng/quên lửng; Huyền chuyển ra Ngã và ngược lại như: cùng/cũng; dầu/dẫu; đã/đà; cỗi/còi; lãi/lời; bõ/bù; giũa/giồi; mõm/mồm; ngỡ/ngờ; Nặng chuyển ra Ngã và ngược lại như: cội/cỗi; đậu/đỗ; chõi/chọi; giẵm/giậm; trĩu/trịu; chậm/chẫm (chẫm rãi); Ngã chuyển ra Ngã: đĩa/dĩa; hẵng/hãy; khẽ/sẽ; nỗi/đỗi; ngẫm/gẫm; dõi/rõi; giễu/riễu; ruỗng/rỗng TRỪ ngoại lệ: gõ/khỏ; hõm/(sâu) hóm; kẻ/gã; rải/vãi; mặn/mẳn; (thuộc) lảu/làu; (mệt) lử/(đói) luỗi; phồng/phổng; ngõ/ngả; quãng/khoảng; rõ/tỏ; trội/trổi; lõm/lóm.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 6, 2011 5:48:07 GMT 9
B. TIẾNG NÔM ĐÔI Bởi tánh cách ĐỘC VẬN (mono-syllabic) ngắn ngủn, nên tiếng Việt thường hợp thành Tiếng Đôi để cho dịu giọng. TIẾNG NÔM ĐÔI khác hơn TIẾNG GHÉP (là tiếng Hán Việt do hai hoặc ba tiếng có nghĩa riêng ghép lại để chỉ một ý niệm mới). TIẾNG NÔM ĐÔI là Tiếng Nôm do hai hoặc nhiều tiếng hiệp lại để cho rõ ý, hoặc dịu giọng. * Có loại Tiếng Nôm Đôi do Hai tiếng đều có nghĩa hợp lại mà thành. * Có loại Tiếng Nôm Đôi khác, gọi là Tiếng Đôi Lấp Láy, do một tiếng có nghĩa hợp với một tiếng không nghĩa; hoặc do hai tiếng không nghĩa hợp lại nhưng giọng nghe hài hoà, thuận tai, dễ đọc. Tiếng Nôm Đôi mà CẢ HAI TIẾNG ĐỀU CÓ NGHĨA THÌ KHÔNG THEO LUẬT TRẦM BỔNG mà mỗi tiếng giữ chánh tả riêng của nó về Âm về Vần (Vận) cũng như về Giọng (Thinh). Ví dụ: mồ mả; cú rũ; rỗi rảnh; bàn ghế; bồng ẵm; cổi gỡ; chống chõi; đầy đủ; lỡ dở; mỏi mệt; ủ rũ; sàng sảy; sâu xa; trồng tỉa; siêng năng; tìm kiếm; kiêng cữ; tỏ rõ; lú lẫn... Tiếng Nôm Đôi còn chia thành hai loại: Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp và Tiếng Nôm Đôi Độc lập. Tiếng Nôm Đôi Độc Lập là tiếng đôi mà hai tiếng đều có nghĩa và bình đẳng: thôn xóm, tốt tươi. Tiếng Nôm Đôi Liên Hiệp là tiếng đôi mà nghĩa của hai tiếng phụ thuộc lẫn nhau để làm cho rõ thêm nghĩa: cà chua, máy cày, xe đạp. C. TIẾNG NÔM ĐÔI LẤP LÁY Tiếng Nôm Đôi Lấp Láy là những Tiếng Đôi gồm hai tiếng có liên hệ với nhau về âm thanh mà trong đó phải có ít nhất là một tiếng không có nghĩa. Ví dụ: đẹp đẽ, mới mẻ, lạnh lùng, vội vàng, v. v... những tiếng đẽ, mẻ, lùng, vàng, đều không có nghĩa. Sự phân biệt tiếng có nghĩa và tiếng không có nghĩa giúp ta nhận ra Tiếng Đôi Lấp Láy dễ dàng.
1. Các mối liên hệ về âm trong Tiếng Đôi Lấp Láy: a) Liên hệ ở Phụ Âm đầu. Có những Tiếng Đôi chỉ láy lại Phụ Âm đầu: (m-m) mát mẻ, (đ-đ) đồn đãi, (l-l) lểnh lảng, (n-n) nói năng. b) Liên hệ về vần. Có những Tiếng Đôi chỉ có phần vần được láy lại: lai rai, lải nhải, lạng chạng, lằm bằm, lẫm đẫm, lễ mễ, lơ thơ. c) Liên hệ cả Phụ Âm đầu lẫn vần. Có những Tiếng Đôi láy lại cả Phụ Âm đầu lẫn vần như: cào cào, ba ba, bươm bướm, rầm rầm, châu chấu, khinh khỉnh. Do đó, khi nói về Tiếng Đôi Lấp Láy ta cần chú ý đến sự liên hệ của Phụ Âm đầu và vần.
2. Liên hệ về giọng điệu. a) Cùng một giọng điệu với nhau. lui cui, lung tung (không dấu) chí chóe, chíu chít (dấu sắc) lỏng chỏng, thỉnh thoảng (dấu hỏi) lễ mễ, dễ dãi (dấu ngã) b) Cùng một nhóm giọng với nhau. Tiếng Việt được chia thành hai nhóm giọng: Nhóm giọng cao gọi là giọng Bổng Nhóm giọng thấp gọi là giọng Trầm. Nhóm cao (Bổng), gồm có các giọng: Ngang (còn gọi là Không), Sắc, và Hỏi. Nhóm thấp (Trầm), gồm có các giọng: Huyền, Nặng, và Ngã. Trong Tiếng Đôi Lấp Láy, giọng của hai tiếng bao giờ cũng thuộc cùng một nhóm. Nếu một tiếng của Tiếng Đôi Lấp Láy có giọng cao thì giọng của tiếng kia cũng thuộc nhóm giọng cao. Ví dụ: vui vẻ, mới mẻ, lửng lơ, nho nhỏ... Ngược lại nếu một tiếng của Tiếng Đôi Lấp Láy có giọng thấp thì tiếng kia cũng có giọng thấp, ví dụ: mạnh mẽ, đẹp đẽ, ngại ngùng, lạnh lùng... Qui luật về giọng điệu giữa các tiếng trong Tiếng Đôi Lấp Láy gọi là Qui luật Thuận Thinh Âm (cũng còn gọi là Luật Trầm Bổng).
Tóm lại, TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY bỏ dấu theo luật Trầm Bổng: KHÔNG, SẮC, HỎI đi với HỎI HUYỀN, NẶNG, NGÃ đi với NGÃ Tiếng đầu Không dấu hoặc dấu Sắc hoặc dấu Hỏi thì tiếng sau phải bỏ dấu HỎI. Tiếng đầu dấu Huyền hoặc dấu Nặng hoặc dấu Ngã thì tiếng sau phải bỏ dấu NGÃ. Thí dụ: BỔNG Không dấu đi chung với HỎI và ngược lại: nghỉ ngơi, bảnh bao, lẻ loi, hăm hở, thong thả, sởn sơ, viển vông, run rẩy, vẻ vang, vui vẻ. Sắc đi chung với HỎI và ngược lại: mải miết, nhắc nhở, thẳng thớm, dí dỏm, bóng bảy, chải chuốt, khỏe khoắn, nhảm nhí, mắt mỏ. Hỏi đi chung với HỎI: hể hả, lỏng lẻo, nhỏng nhẻo, thỏ thẻ, bải hoải, mỏng mảnh, thỉnh thoảng, tỉ mỉ, xửng vửng. TRẦM: Huyền đi chung với NGÃ và ngược lại: vỗ về, rầu rĩ, tầm tã, não nề, đãi đằng, nòng nã, sẵn sàng, kỹ càng, chẵn chòi, lời lãi... Nặng đi chung với NGÃ và ngược lại: gỡ gạc, vội vã, dữ dội, cặn kẽ, não nuột, lạt lẽo, cãi cọ, lũ lượt, đẹp đẽ, chập chững, gãy gọn... Ngã đi chung với NGÃ: dễ dãi, lỗ lã, cãi lẫy, mãi mãi, kỹ lưỡng,... Như vậy, theo luật nầy thì khi gặp Tiếng Đôi Lấp Láy như: bẽ bàng, rõ ràng, vững vàng, chúng ta yên tâm viết bẽ, rõ, vững với dấu ngã vì các chữ bàng, ràng, vàng, đã có dấu huyền. Đối với Tiếng Đôi Lấp Láy như cãi cọ, chập chững, dọ dẫm, đẹp đẽ, chúng ta viết cãi, chững, dẫm, đẽ, với dấu ngã vì các chữ cọ, chập, dọ, đẹp, là những chữ đã viết dấu nặng. Đối với Tiếng Đôi Lấp Láy như lỗ lã, dễ dãi vì ta đã biết dễ và lỗ viết dấu ngã (do suy biết từ lỗ lời, dễ dàng) thì theo luật nầy ta biết chắc lã và dễ phải viết dấu ngã. Khi một chữ của Tiếng Đôi Lấp Láy viết dấu sắc, không dấu, hoặc dấu hỏi, thì chữ kia phải viết dấu hỏi chớ không thể viết dấu ngã. Ví dụ: - cứng cỏi, trống trải, trắng trẻo vì đã có các chữ cứng, trống, trắng viết dấu sắc nên các chữ cỏi, trải, trẻo phải viết dấu hỏi. - trong trẻo, bươn chải, trả treo vì các chữ trong, bươn, treo viết không dấu nên các chữ trẻo, chải, trả phải viết dấu hỏi. - các Tiếng Đôi Lấp Láy như lẩm bẩm, lủng củng, bỏm bẻm cũng vậy, vì các chữ lẩm, lủng, bỏm, mang dấu hỏi, thì chữ đứng sau phải viết dấu hỏi.
CÁCH NHẬN RA TIẾNG ĐÔI LẤP LÁY Khi hai tiếng của một chữ mà hai Phụ Âm đầu của hai tiếng ấy giống nhau, hoặc cả âm đầu lẫn vần đều giống nhau (cùng giọng Bổng cả, hoặc cùng giọng Trầm cả), thì đó là Tiếng Đôi Lấp Láy. DỰA VÀO NGHĨA: Một Tiếng Đôi mà cả hai tiếng đều có nghĩa, thì Tiếng Đôi đó KHÔNG PHẢI là Tiếng Đôi Lấp Láy. ĐẢO NGƯỢC TRẬT TỰ: Khi đảo ngược trật tự của một Tiếng Đôi mà Tiếng Đôi đó vẫn còn y nghĩa như khi chưa bị đảo trật tự, thì tiếng đó là tiếng ghép chớ KHÔNG PHẢI là Tiếng Đôi Lấp Láy. Ví dụ: giữ gìn, lả lơi, lơ lửng, hờ hững, là tiếng ghép chớ không phải là Tiếng Đôi Lấp Láy, vì khi đảo ngược, nó vẫn giữ nghĩa như trước. (gìn giữ, lơi lả, lửng lơ, hững hờ).
TIẾNG ĐÔI BỎ BỚT MỘT DẤU GIỌNG: Có nhiều Tiếng Đôi vì muốn cho êm tai nên 1) phải bỏ bớt một dấu giọng. Mấy tiếng mất dấu giọng đó là tiếng chánh lập lại, chớ không phải tiếng đệm, nên những tiếng đôi đó không bỏ dấu theo luật Trầm Bổng. Thí dụ: khe khẽ, là khẽ khẽ; dê dễ là dễ dễ; đăng đẵng là đằng đẵng.
2) Có nhiều Tiếng Đôi bị đổi giọng, như hẳn hoi trở thành hẳn hòi; kỹ càng trở thành kỹ cang. Ngoài ra, NHỮNG TIẾNG NÓI TẮT do ghép với tiếng ẤY, đều viết dấu Hỏi. (Nói Tắt là nói thúc hai chữ thành một, theo lối giản ước). Ví dụ như: anh + ấy = ảnh; bà + ấy = bả; cậu + ấy = cẩu; chị + ấy = chỉ; hôm + ấy = hổm; mợ + ấy = mở; năm + ấy = nẳm; thằng cha + ấy = thằng chả; con mẹ ấy = con mẻ
NHỮNG NGOẠI LỆ CỦA TIẾNG ĐÔI (Không còn theo luật Trầm Bổng) bền bỉ, chàng hảng, chèo bẻo, dòm dỏ, ẻo ẹo, giãy nảy, hoài hủy, hẳn hòi, ĩnh ương, khe khẽ, lảng xẹt, lý lẽ, luồn lỏi, lẳng lặng, mình mẩy, se sẽ, mủ mĩ, niềm nở, ngoan ngoãn, nhểu nhão, phỉnh phờ, rẻ rề, rỗng tuếch, sành sỏi, sừng sỏ, sửng sờ, thỏng thừa, thung lũng, trễ nải, trọi lỏi, trơ trẽn, ve vãn, vỏn vẹn, xảnh xẹ.
MUỐN BIẾT PHẢI BỎ DẤU GÌ? 1) Cách lẹ nhất là thử tìm một Tiếng Đôi khác, có cái chữ mình đang phân vân về dấu hỏi hay ngã. Ví dụ chữ dễ dãi: Chỉ cần biết được một trong hai chữ dễ hoặc dãi mang dấu gì thì biết được luôn cả dấu của chữ kia. Thử chọn chữ dễ trước. Với chữ dễ ta có Tiếng đôi Lấp Láy dễ dàng. Với dễ dàng ta biết chữ dễ phải viết dấu ngã vì chữ dàng có dấu huyền. Khi đã biết chữ dễ viết dấu ngã thì ta xác định được là chữ dãi phải viết dấu ngã do luật "HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ" Đối với các chữ mang dấu Hỏi cũng làm như vậy.
2) Khi không tìm ra một Tiếng Đôi Lấp Láy trong đó có chữ mà ta cần biết là mang dấu gì thì ta nên thử đưa nó vào loại chữ láy bốn tiếng. Ví dụ chữ đủng đỉnh: Ta có đủng đa đủng đỉnh, về lủng lẳng ta có lủng la lủng lẳng. Khi ta thấy đủng đa, lủng la, thì ta có thể khẳng định đủng và lủng phải viết dấu hỏi theo luật "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI". Khi đã biết đủng và lủng phải viết dấu hỏi rồi thì ta biết được đỉnh và lẳng củng phải viết dấu hỏi theo luật Trầm Bổng "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI".
3) Đối với Tiếng Nôm Đơn, và Chữ Ghép. Khi gặp tiếng Nôm-đơn hoặc một tiếng trong các Chữ-ghép mà ta phân vân về dấu hỏi ngã, thì ta tìm một Tiếng Đôi Lấp Láy có tiếng đó, rồi áp dụng luật đễ tìm dấu hỏi hay ngã. Ví dụ 1: ta gặp các chữ: nghỉ, nghĩ, dở, dễ, khoẻ... Ta tìm xem các chữ nầy viết hỏi hay ngã. Ta xem tiếng Lấp Láy phải viết dấu gì? nghỉ: nghỉ ngơi --> dấu hỏi nghĩ: nghĩ ngợi --> dấu ngã dở: dở dang --> dấu hỏi dễ: dễ dàng --> dấu ngã khoẻ: khoẻ khoắn --> dấu hỏi Ví dụ 2: như gặp chữ sửa chữa, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta tách chữ đó ra để mà tìm. Ta sẽ có Tiếng Đôi sửa sang. Khi đã có sửa sang thì ta yên tâm viết sửa với dấu hỏi vì "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI". Đến chữ chữa thì ta biết chữa là Tiếng-nôm có Gốc-Hán Việt là chữ Trị, vậy phải viết dấu ngã, vì "HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ". Ví dụ 3: gặp chữ ủ rũ, không biết chữ nào viết hỏi, chữ nào viết ngã, thì ta cũng tách chữ đó ra, rồi tìm cách đưa thành một Tiếng Đôi Lấp Láy. Ta sẽ có ủ ê. Khi đã có ủ ê thì ta yên tâm viết ủ với dấu hỏi, vì ê là chữ không dấu, theo luật "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI" Đến chữ rũ thì ta có Tiếng Đôi Lấp Láy rũ rượi nên ta biết là rũ phải viết dấu ngã vì rượi là chữ có dấu nặng, theo luật "HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ" CHÚ Ý: Khi tạo Tiếng Đôi Lấp Láy để dựa vào đó mà xác định dấu hỏi ngã, ta cần chọn Tiếng Đôi Lấp Láy sao cho nghĩa của Tiếng Đôi đó, khi tách ra một mình, phải cùng nghĩa với chữ mình đang muốn tìm dấu. Thí dụ: dễ (dễ làm) và dễ trong Tiếng Đôi Lấp Láy dễ dàng, dễ ợt, cùng có nghĩa giống nhau. Nếu tìm được một Tiếng Đôi Lấp Láy hay không Lấp Láy nhưng chữ trong tiếng đó lại khác nghĩa với nghĩa của chữ mình đang tìm dấu thì không thể dùng được. Chẳng hạn như rũ trong ủ rũ mà ta lại dùng chữ rủ của rủ rê, rủ ren thì không cùng nghĩa cho nên ta sẽ viết sai dấu ngay.
III. VẬN Mỗi Nguyên Âm có thể kể là một vần đơn. Ngoài ra ta có thể tạo thành vần bằng cách:
1. Ghép hai hoặc ba Nguyên Âm lại. ai, ay, ao, au, âu, eo, ui, ưu, uôi, uây.
2. Ghép một hay hai Nguyên Âm với một Phụ Âm. ac, am, an, ang, anh, im, in, ich, inh, iêng, uông, ương.
3. Ghép ba Nguyên Âm với một Phụ Âm. uyên, uyêt. Nhiều vần tự nó đã có thể làm nên một tiếng: ư, ai, ân, anh, em, in.
* Trong những Tiếng Đôi Trùng vần, nghĩa là vần của tiếng sau đồng một vần với tiếng trước, thì chánh tả tiếng sau phải tùy tiếng trước: ăn năn, tằn mằn, lăng xăng, xăng văng, bủn rủn, bung xung, lủng củng, lui cui, lụi đụi, lủi thủi... * Về những Tiếng Đôi Không trùng vần, có mấy vần đã thành lệ như sau: 1) Vần âp Những Tiếng Đôi do hai tiếng không nghĩa hợp thành, mà vần âp đứng trước thì tiếng âp viết với â. bấp bênh, bập bệu, chập chững, gập ghềnh, xấp xỉ, hấp hối, lấp lánh, lập lòe, phập phều. Trừ mấy tiếng: đắp đổi, đắp điếm, lắp bắp, lặp bặp, rắp ranh. 2) Vần ang, àng Tất cả Tiếng Đôi không trùng vần mà tiếng sau không nghĩa, xuống vần ang, àng đều viết CÓ G: dở dang, hở hang, mở mang, nể nang, bẽ bàng, bộn bàng, dịu dàng, gọn gàng, lẹ làng, mịn màng, ngó ngàng, nhẹ nhàng, sẵn sàng... Trừ: chứa chan, hỏi han, nồng nàn...
3) Vần ắn Tất cả Tiếng Đôi Không trùng vần, khi xuống vần ắn đều viết KHÔNG G. Như: đứng đắn, giỏi giắn, may mắn, ngay ngắn, xinh xắn. Trừ: lo lắng, sốt sắng, tằng (đằng, dặng) hắng.
4) Vần ằng Tất cả Tiếng Đôi Không trùng vần, khi xuống vần ằng đều viết CÓ G . Như: dùng dằng, đãi đằng, ngùng ngoằng, vùng vằng. Trừ: cộc cằn, dữ dằn, nhọc nhằn.
5) Vần ẩn, ẫn Những Tiếng Đôi mà tiếng sau không nghĩa, khi xuống vần ẩn, ẫn, đều viết KHÔNG G: dớ dẩn, ngớ ngẩn, thơ thẩn, đờ đẫn, thờ thẫn, vờ vẫn Trừ khi vận ẩng, ẫng cũng đọc ửng, ững được thì mới viết CÓ G. Ví dụ: hí hẩng = hí hửng; hờ hẫng = hờ hững.
6) Vần ưng Những Tiếng đôi mà tiếng sau không nghĩa, khi xuống vần ưng đều viết CÓ G: đứng sựng, lưng chừng, hí hửng, pha lửng, tưng bừng.
7) Vần ung Những Tiếng Đôi Không trùng vần, mà tiếng sau không nghĩa xuống vần ung đều viết CÓ G. ấp úng, bão bùng, lạ lùng, ngại ngùng... Trừ: ngắn ngủn, vắn chủn. 8) Vần iu, ui thường đi chung với một tiếng thuộc vần ăn, ân, ăt, it, ut, như: bận bịu, chắt chiu, dắt díu, kĩu kịt, nhăn nhíu, ríu rít, dìu dắt, cui cút, gần gũi, gần gụi, ngui ngút, sùi sụt. Trừ: lăng líu, nâng niu, phẳng phiu, tục tĩu, tằng tịu.
IV. PHÁT ÂM KHÁC BIỆT GIỮA HAI MIỀN NAM BẮC (1) Thường thì người Miền Bắc phát âm đúng, và dễ phân biệt, những âm cuối sau đây: * Những âm ở sau: có G hay không G: Can/Cang, có C hay T: Bắc/Bắt; có H hay không H: Mìn/Mình * Những vần: ac / at; ăn / ăng; ich / it; iên / iêng; ước / ướt; ươn / ương, người Bắc đều phát âm rất phân biệt. * Những vần vắn như: im, ip, iu, ui, ưi, người Bắc phát âm phân biệt với vần dài iêm, iếp, iêu, uôi, ươi. (Ví dụ tiếng Tiềm phát âm dài hơn Tìm). * Những tiếng có dấu Hỏi, người Bắc phát âm rất phân biệt với tiếng có dấu Ngã. Tiếng có dấu Hỏi phát âm như có dấu huyền rồi dứt bằng giọng Ngang (là giọng không dấu). Ví dụ: Cửa, người Bắc phát âm nghe như Cừ-a. Lịch sử, phát âm nghe như Lịch sừ-ư. Bảo, phát âm nghe như Bà-o. * Những tiếng có dấu Ngã, người Bắc phát âm như có dấu Nặng rồi dứt bằng dấu Sắc. Ví dụ: Bãi, phát âm như Bạ-í; Mãi, phát âm như Mạ-í (2) Thường thì người miền Nam phát âm đúng và rất phân biệt các Âm đầu sau đây: * Ch phát âm phân biệt với Tr * S phát âm phân biệt với X * và những tiếng có âm R ở đầu (trong khi phần đông người Bắc phát âm Ra như Za và Rõ như Zõ) (3) Những tiếng có D và Gi đứng đầu, người Bắc và người Nam đều phát âm không phân biệt. Dang, Giang, người Bắc phát âm như Zang, người Nam phát âm như Yang (4) Những tiếng có V đứng đầu, người Bắc phát âm như V của tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Vô, người Bắc phát âm như vần VO trong tiếng vocabulaire của Pháp và vocabulary của Anh, còn người Nam thì phát âm như Dô. * * * Sự phát âm sai một số vần của người Bắc hoặc người Nam, không phải lỗi của ai hết. Khi cha mẹ sanh ra và đã dạy cho con cái nói theo giọng nói của mình thì con phải nói theo giọng ấy để hiểu nhau trong gia đình và khi lớn lên, để hiểu nhau với người chung quanh mình, chớ chẳng phải tự ý mình phát âm sai như vậy. Thế cho nên chúng ta chẳng nên lấy làm lạ cho sự phát âm chênh lệch trong một số vần của người Việt miền bắc hay miền Nam hoặc miền Trung. Khắp thế giới, có lẽ chưa có dân tộc nào hoàn toàn thống nhất được cách phát âm. Một quốc gia đất đai càng rộng thì sự phát âm càng có nhiều nơi khác nhau. Ở Pháp, người miền Lorraine phát âm khác miền Marseille, ở Anh người miền Irlande phát âm khác miền Ecosse, còn ở Trung hoa thì gần như mỗi tỉnh có một giọng khác nhau. Ở Ấn độ tình trạng còn phức tạp hơn nữa: có tới hai trăm thổ ngữ, thành thử dù độc lập lâu rồi mà người Ấn vẫn phải dùng Anh ngữ làm ngôn ngữ chánh thức. Nhưng dù cách phát âm có khác nhau, lối viết chữ phải giống nhau mới được. Dân một nước không thể dùng hai lối viết khác nhau để ghi âm một tiếng có một nghĩa duy nhất. Người Bắc không thể viết: giậy học, nước rãi, chiến chanh chánh chị, thay vì dạy học, nước dãi, chiến tranh chánh trị..và người Nam không thể viết giang nang, kính mích... thay vì gian nan, kín mít. Vì thế cho nên, muốn bảo tồn và phát triển Văn hóa dân tộc, có lẽ điều chúng ta cần quan tâm đến trước nhất là làm mọi cách để khuyến khích và tạo phương tiện cho mọi người Việt nam, dù ở hải ngoại hay ở trong nước, đều nói và viết được tiếng mẹ đẻ của mình một cách lưu loát, đúng chánh tả và đúng văn phạm. Đó cũng là nguyện vọng thiết tha của soạn giả khi biên khảo tập sách nầy.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 6, 2011 5:50:23 GMT 9
-ooOoo-
V. BẢY ĐIỀU LUẬT VỀ DẤU HỎI NGÃ LUẬT HỎI NGÃ gồm có BẢY ĐIỀU, nếu chúng ta chịu học thuộc lòng bảy điều nầy, thì sẽ viết đúng tới 90% các chữ có dấu Hỏi Ngã. Còn lại lối 10% là các ngoại lệ, nếu không nhớ hết thì nên tra Tự Vị, Tự Điển, hay Từ Điển. BẢY ĐIỀU CỦA LUẬT HỎI NGÃ LÀ: 1) a. Tất cả TIẾNG Hán Việt khởi đầu bằng: - các Nguyên Âm A, Â, Y, O, Ô, U, Ư và - các Phụ Âm CH, GI, KH, PH, TH, S, X, đều viết dấu Hỏi. b. Tất cả TIẾNG Hán Việt khởi đầu bằng một trong bảy Phụ Âm sau đây, đều viết dấu NGÃ: L, M, N, NG, NH, D, V
2) Tất cả TIẾNG NÔM CÓ GỐC Hán Việt đều tùy tiếng gốc mà bỏ dấu theo luật: "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI; HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ"
3) Tất cả TIẾNG NÔM ĐƠN, KHÔNG CÓ GỐC Hán Việt đều tùy tiếng chánh mà bỏ dấu theo luật: "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI; HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ"
4) TIẾNG NÔM ĐÔI mà HAI TIẾNG ĐỀU CÓ NGHĨA thì Không theo Luật Trầm Bổng mà mỗi tiếng giữ chánh tả riêng của nó.
5) TIẾNG NÔM "Lấp Láy" là TIẾNG ĐÔI có một tiếng Không nghĩa, hoặc cả Hai tiếng đều Không nghĩa, thì tiếng sau tùy tiếng trước mà bỏ dấu theo luật "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI; HUYỀN, NẶNG, NGÃ = NGÃ".
6) TIẾNG ĐÔI vì Thuận Thinh Âm mà BỎ BỚT một dấu giọng thì KHÔNG THEO luật "KHÔNG, SẮC, HỎI = HỎI; HUYỀN, NẶNG = NGÃ" vì đó là tiếng chánh lập lại.
7) Tất cả TIẾNG NÓI TẮT đều viết Dấu Hỏi.
* * * TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. CHÁNH TẢ VIỆT NGỮ, Lê-ngọc-Trụ, Trường Thi, Sài Gòn 2. VIỆT NGỮ CHÁNH TẢ TỰ VỊ, Lê-ngọc-Trụ, Thanh Tân, Sài Gòn, 1959 3. CHÁNH TẢ TỰ VỊ, Trần-văn-Khải, Thanh-Trung, Sài Gòn, 1957 4. VIỆT NAM TỰ ĐIỂN, Lê-văn-Đức và Lê-ngọc-Trụ, Khai Trí, Sài Gòn, 1970 5. VIỆT NAM TỰ ĐIỂN, Hội Khai Trí Tiến Đức, Trung Bắc Tân Văn, Hà Nội, 1931 6. TÔI TẬP VIẾT TIẾNG VIỆT, Nguyễn-hiến-Lê, Văn Nghệ, USA, 1988 7. HOA VIỆT THÔNG DỤNG TỰ ĐIỂN, Tăng-văn-Hỉ. Sài Gòn, 1972 8. HÁN VIỆT TỪ ĐIỂN, Đào-duy-Anh, Trường Thi, Sài Gòn, 1957 9. VIỆT ANH TỰ ĐIỂN, Nguyễn-đình-Hòa, Tuttle, Vermont, 1966 10. VĂN PHẠM VIỆT NAM, Bùi-đức-Tịnh, Trung Tâm Học Liệu, Bộ Giáo Dục, Sài Gòn, 1968 11. TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT, Hoàng-Phê, Viện Ngôn Ngữ, Hà Nội 1994 -ooOoo-
Chân thành cám ơn Bác Đinh Sĩ Trang đã gửi tặng bản điện toán (Bình Anson, 05-2003).
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 6, 2011 6:46:53 GMT 9
Phần Hai (A-Y) Việt Ngữ Hỏi Ngã Tự Vị
VI. HỎI NGÃ CHÁNH TẢ TỰ VỊ Tuy đã có Bảy Qui tắc rõ ràng về cách bỏ dấu Hỏi Ngã, nhưng vì có nhiều ngoại lệ nên khó nhớ hết được. Để giúp độc giả trong những trường hợp phân vân, chúng tôi đã soạn sẵn phần HỎI NGÃ CHÁNH TẢ TỰ VỊ sau đây để độc giả tiện tra cứu khi cần.
CÁCH TRA CHỮ TRONG TỰ VỊ NÀY 1. Đối với những chữ kép thì tra theo vần của chữ có dấu Hỏi hay Ngã. Ví dụ muốn biết chữ Ủi trong An ủi viết dấu Hỏi hay Ngã thì tra chữ Ủi, hoặc Bẩn trong Dơ bẩn thì tra chữ Bẩn. 2. Những chữ kép mà chữ có dấu Hỏi hoặc Ngã đứng trước (ví dụ Mẫu thân) sẽ được sắp trước, và những chữ kép mà chữ có dấu hỏi học ngã đứng sau (ví dụ Gương mẫu, Kế mẫu) thì được sắp sau, nghĩa là Mẫu thân ở phần đầu chữ Mẫu, Gương mẫu Kế mẫu ở phần cuối chữ Mẫu. 3. Những chữ đồng âm được sắp gần nhau cho dễ tìm. Ví dụ chữ VẢY, được sắp ngay sau những chữ VẢI, VÃI, thay vì theo thứ tự của mẫu tự thì phải cách xa nhau, sẽ không tiện cho độc giả tra tìm. 4. Chữ Y sắp chung với chữ I vì không có phân biệt gì trong khi phát âm. Chỉ do thói quen mà viết Quý hay Quí.
- A - Ả (chỉ người đàn bà) ả đào, cô ả, êm ả, oi ả, óng ả, Ả-Rập. Ải (tiếng hét của kép hát) ải ải! (chỗ qua lại ở biên giới) ải quan, biên ải, cửa ải, đày ải, tự ải (thắt cổ tự tử) Ảm (tối tăm) ảm đạm. Ảng (cái chậu lớn) ảng đựng nước. Ảnh: ám ảnh, ảo ảnh, hình ảnh, màn ảnh, nhiếp ảnh, tranh ảnh, ảnh hưởng; (anh ấy) ảnh đã đi rồi. Ảo (mập mờ, như thật) ảo ảnh, ảo giác, ảo mộng, ảo thuật, ảo tưởng, ảo vọng, huyền ảo; (buồn phiền) ảo não. Ẵm (bế, bồng trên tay) con còn ẵm ngửa. Ẳng (tiếng chó con kêu) chó con kêu ẳng ẳng. Ẩm: ẩm độ, ẩm mốc, ẩm thấp, ẩm ướt, âm ẩm, ẩm thực, độc ẩm, đối ẩm, ê ẩm, ế ẩm. Ẩn (trốn, lánh đi, giấu) ẩn cư, ẩn danh, ẩn dật, ẩn hiện, ẩn náu, ẩn nấp, ẩn nhẫn, ẩn sĩ, ẩn số, ẩn tình, ẩn ý, bí ẩn, trú ẩn. Ẩu (mửa) ẩu thổ, thượng ẩu hạ tả; (không cẩn thận) làm ăn ẩu tả, nói ẩu quá; (đánh lộn) ẩu đả.
- B - Bả (bà ấy) bả đi rồi; (mồi) bả vinh hoa, ăn phải bả, bả vai, bươn bả. Bã (hết cốt, chỉ còn xác) bã hèm, bã mía, bã rượu, bã trầu, cặn bã; buồn bã. Bải: bải hoải, chối bai bải, bơ hơ bải hải. Bãi (chỗ rộng và dài) bãi biển, bãi bùn, bãi cát, bãi cỏ, bãi cốt trầu, bãi chiến trường, bãi mìn, bãi phân, bãi sa mạc, bãi tha ma; (ngưng, thôi, nghỉ) bãi binh, bãi bỏ, bãi chợ, bãi công, bãi chiến, bãi chức, bãi học, bãi khoá, bãi miễn, bãi nại, bãi thị, bãi trường; bãi buôi, bợm bãi, bừa bãi. Bảy (số 7), bảy nổi ba chìm, bóng bảy. Bãm (dữ, thô tục) ăn bãm, bổm bãm. Bản (tờ, tập, bài), bản án, bản đàn, bản đồ, bản hiệp ước, bản kịch bản nhạc, bản nháp, bản sao, bản thảo, bản chất, bản chức, bản họng, bản kẽm, bản lãnh, bản lề, bản mặt, bản ngã, bản mệnh, bản năng, bản quyền, bản tánh, bản thân, bản thể, bản vị, bản xứ, ấn bản, bài bản, biên bản, căn bản, cơ bản, tái bản, tục bản, văn bản, vong bản, xuất bản, ván bản để đóng xuồng, xuồng tam bản; Nhật Bản. Bảng: bảng cửu chương, bảng đen, bảng số, bảng tin, bảng hổ đề danh, bảng nhãn (đậu nhì), bảng thống kê, bảng vàng, bảng yết thị, đăng bảng, treo bảng, vẽ bảng, bảng lảng. Bãng: thước bãng, thiết bãng. Bảnh (vẻ sang bề ngoài) bảnh bao, bảnh tẻn, bảnh trai, chơi bảnh, diện bảnh, xài bảnh, bảnh mắt. Bảo (quý) bảo kiếm, bảo tháp, bảo vật, bảo (bửu) quyến, gia bảo; (chỉ dạy, biểu) chỉ bảo, dạy bảo, răn bảo, khuyên bảo, bảo ban; (giữ, che chở) bảo an, bảo bọc, bảo chứng, bảo dưỡng, bảo đảm, bảo hoàng, bảo hiểm, bảo hộ, bảo lãnh, bảo mật, bảo phí, bảo quản, nhà bảo sanh, bảo tàng, bảo toàn, bảo tồn, bảo thủ, bảo trì, bảo trọng, bảo trợ, bảo vệ. Bão (gió lớn) bão bùng, bão lụt, bão táp bão tố, bão tuyết, mưa bão, góp gió làm bão (ôm ấp) hoài bão; (no, nhiều) bão hoà, bão mãn. Bẳm: chăm bẳm. Bẩm (trình lên) bẩm báo, bẩm cáo, bẩm trình, phúc bẩm; (do trời phú cho) bẩm chất, bẩm sinh, bẩm tính, châm bẩm, lẩm bẩm. Bẫm (mạnh, thô bạo) cày sâu cuốc bẫm, bụ bẫm. Bẵng (im bặt, vắng lâu) im bẵng, quên bẵng, bẵng đi một dạo. Bẩn (dơ dáy) bẩn thỉu, dơ bẩn; (túng thiếu) bẩn chật, túng bẩn, lẩn bẩn, xẩn bẩn. Bẩu (thiếu lễ độ, vô phép) ăn nói bẩu lẩu. Bẩy (ướt át, lầy lội) đường bẩy lầy, giậm bẩy sân; (dùng đòn bắn lên) bẩy lên (xeo, nạy lên) đòn bẩy, bẩy cột nhà, run bây bẩy, lẩy bẩy. Bẫy (cạm để lừa) bẫy chim, bẫy chuột, cạm bẫy, gài bẫy, đặt bẫy, mắc bẫy, vướng bẫy. Bẻ (bứt, làm cho lìa ra) bẻ cổ, bẻ gãy, bẻ khúc, bẻ măng, bẻ trái cây; (bác đi, sửa lại) bác bẻ, bắt bẻ, bẻ tay lái, vặn bẻ, vọp bẻ. Bẽ (ngỡ ngàng, thẹn) duyên phận bẽ bàng, làm bẽ mặt người ta. Bẻm (nói nhiều) bẻm miệng, bẻm mép, bỏm bẻm. Bẽn (dáng hổ thẹn) bẽn lẽn. Bẻo: bẻo mép, chút bẻo, chim chèo bẻo. Bẽo: bạc bẽo. Bể (tan vỡ ra) bể nát, bể tan, bể vỡ, đập bể, đổ bể, rớt bể; (biển) bể ái thuyền tình, bể cả, bể dâu, bể khổ, bể khơi, bể nghể muốn bịnh. Bễ (ống thụt thổi lửa) thổi bễ, thụt bễ, ống bễ thợ rèn. Bển (bên ấy) (nói tắt) ở bển, qua bển. Bễu (mình nước, bệu) thịt bễu. Bỉ (khinh khi) bỉ mặt, bỉ ổi, khinh bỉ, thô bỉ; (kia, người kia) bỉ nhân, bỉ thử; bền bỉ; nước Bỉ. Bĩ (vận xấu) bĩ cực thái lai, vận bĩ. Biển (vùng nước mặn) biển cả, bãi biển, bờ biển, cá biển, rong biển; (tấm sắt, gỗ... trên có chữ) biển hiệu, biển số xe; (lấy cắp, lừa bịp) biển lận, biển thủ. Biểu (bày ra, tỏ ra) biểu diễn, biểu dương, biểu hiệu, biểu lộ, biểu đồng tình, biểu thị, biểu ngữ, biểu quyết, biểu tình, đại biểu, đồ biểu, tiêu biểu; (bà con bên ngoại) biểu huynh, biểu muội; (tờ tấu dâng vua) biểu chương, biểu tấu; (đồng hồ đo) hàn thử biểu, phong vũ biểu; (bảo, ra lịnh) chỉ biểu, dạy biểu. Bỉu (trề môi dưới ra) bỉu môi, dè bỉu. Bỉnh: bỉnh bút, bướng bỉnh. Bĩnh: phá bĩnh. Bỏ (không giữ lại nữa) bỏ bê, bỏ chồng, bỏ dở, bỏ hoang, bỏ lẩy, bỏ liều, bỏ lửng, bỏ mứa, bỏ phí, bỏ qua, bỏ quên, bỏ rơi, bỏ sót, bỏ vợ, bỏ xó, bác bỏ, phế bỏ, ruồng bỏ; (thêm vô, để vào) bỏ bùa, bỏ hành, bỏ muối, bỏ ngải, bỏ ống, bỏ ớt, bỏ tiêu, bỏ phân, bỏ phiếu, bỏ tù; (tiếng chưởi thề) bỏ bố, bỏ mạng, bỏ mẹ! bỏ ngõ, bỏ nhỏ. Bõ (cho đáng) cho bõ ghét, cho bõ giận, chẳng bõ công; vú bõ (cha mẹ đỡ đầu), bõ già (người tớ già). Bỏm: nhai bỏm bẻm. Bõm: lội bì bõm, rơi lõm bõm, nhớ bập bõm. Bỏn (hà tiện, rít róng) bỏn sẻn. Bỏng (phỏng) bỏng lửa, bỏng nước sôi, nóng bỏng; xôi hỏng bỏng không, bé bỏng, lỏng bỏng. Bổ (bửa cho vỡ ra) bổ cau, bổ củi, bổ dừa, bổ làm đôi; (đánh vào) sóng bổ gành, đánh bổ vào đầu, đau như búa bổ; (bù vào, thêm sức) bổ cứu, bổ dưỡng, bổ khỏe, bổ khuyết, bổ sung, bổ trợ, bổ túc, bồi bổ, tẩm bổ, thuốc bổ, tu bổ, vô bổ; ván bổ kho, ngã bổ chửng, chạy bổ sấp, bổ ngửa, bổ dụng, bổ nhậm, bổ nhiệm. Bổi (mồi nhạy lửa) củi bổi, dăm bổi, thuốc bổi, giấy bổi. Bổn (Bản): bổn báo, bổn chức, bổn đạo, bổn mạng, bổn phận, bổn xứ. Bổng (giọng cao, lên cao) bổng trầm, bay bổng, bắn bổng, dở bổng, nhắc (nhấc) bổng lên; (tiền cấp phát) học bổng, lương bổng, bổng cấp, bổng lộc, hưu bổng; tha bổng. Bỗng (không ngờ trước) bỗng chốc, bỗng dưng, bỗng đâu, bỗng không, bỗng nhiên, nhẹ bỗng. Bở (mềm, dễ rời ra) bở rẹt, đất bở; (được lợi dễ dàng) kiếm được món bở, béo bở, tưởng bở. Bỡ (ngỡ ngàng, lúng túng) bỡ ngỡ. Bởi (nhân vì, nguyên cớ) bởi đâu, bởi thế, bởi vậy, bởi vì. Bỡn (đùa, giỡn, trêu) bỡn cợt, đùa bỡn, dễ như bỡn, nói bỡn mà hóa thật. Bủa (vây chung quanh) bủa giăng, bủa lưới, bủa vây. Bủn (nát, ươn) cá bủn, thịt bủn; (rời rã, thối chí) bủn rủn tay chân; (nhỏ nhen, keo kiết) bủn xỉn. Bủng: da xanh bủng, mặt bủng da chì. Buổi (một phần ngày) buổi sáng, trưa, chiều, nửa buổi, buổi lễ, ngày hai buổi, thời buổi. Bửa (sả ra, bổ ra) bửa cau, bửa củi, bửa khúc. Bữa (buổi ăn) bữa ăn, bữa cháo bữa rau (một ngày) bữa nay, bữa nọ, bữa kia, mỗi bữa, mấy bữa rày. Bửng (ngăn chận) ván bửng, đắp bửng. Bưởi: múi bưởi, trái bưởi, bưởi Biên Hòa. Bửu / Bảo (quý báu) bửu bối, bửu quyến, bửu tháp, bát bửu.
- C - Cả: cả cười, cả gan, cả giận, cả kinh, cả làng cả nước, cả mô, cả nhà, cả lũ, cả nể, cả quyết, cả sợ, cả thảy, cả vợ lẫn chồng, cả vú lấp miệng em, anh cả, biển cả, cao cả, cây cao bóng cả, con cả, chả đi đâu cả, đến cả, giá cả, già cả, kẻ cả, vợ cả, mặc cả, ruộng cả ao liền, ông hương cả, tất cả. Cải (loại rau lớn lá) cải bắp, cải bẹ xanh, cải rổ, cây cải trời, củ cải (thay đổi) cải biến, cải cách, cải chính, cải dạng, cải hóa, cải hối, cải huấn, cải lương, cải tạo, cải tổ, cải táng, cải tiến, cải thiện, cải trang, cải lão hoàn đồng. Cãi (chống lại) cãi bừa, cãi bướng, cãi cọ, cãi lẫy, cãi lộn, cãi nhau, cãi vã, bàn cãi, trạng sư cãi trước tòa. Cảy (lắm, khá) dơ cảy, trộng cảy. Cảm (dám, không sợ) cảm tử, dũng cảm, quả cảm; (biết bằng cảm tính) cảm động, cảm giác, cảm hóa, cảm hứng, cảm kích, cảm mến, cảm nghĩ, cảm ơn, cảm phục, cảm tạ cảm tình, cảm tưởng cảm thông, cảm ứng, cảm xúc, ác cảm, đa cảm, giao cảm, mặc cảm, tình cảm, thiện cảm thương cảm; (nhiễm phải) cảm gió, cảm hàn, cảm mạo, cảm nắng. Cản (ngăn lại, chống) cản đường, cản ngăn, cản trở, truy cản. Cảng (bến tàu, bến xe) hải cảng, phi cảng, nhập cảng, xuất cảng, thương cảng, xa cảng, Hương-Cảng (Hongkong); (tiếng đồ sành bể) cổn cảng, lảng cảng. Cảnh (bờ cỏi) nhập cảnh, xuất cảnh; (phòng giữ, báo tin) cảnh binh, cảnh bị, cảnh cáo, cảnh giác, cảnh sát, cảnh tỉnh, cảnh vệ; (hình sắc, sự vật trước mắt) cảnh éo le, cảnh huống, cảnh khổ, cảnh ngộ, cảnh sắc, cảnh trạng, cảnh trí, cảnh tượng, cảnh vật, bối cảnh, hoàn cảnh, phong cảnh, quang cảnh, tả cảnh, tình cảnh, tức cảnh. Cẳn: cằn nhằn cẳn nhẳn. Cẳng (chân) ba chân bốn cẳng, chỏng cẳng, chưn cẳng, nhà cao cẳng, cẳng ghế, giậm cẳng kêu trời, chó con kêu cẳng cẳng. Cẩm (quý) cẩm bào, cẩm nang, cẩm thạch, cẩm tú, thập cẩm, bông cẩm nhung, màu lá cẩm, cây cẩm lai, nói lẩm cẩm. Cẩn (khảm vào) cẩn ốc xa cừ, tủ cẩn; (dè dặt, cung kính) cẩn cáo, cẩn mật, cẩn phòng, cẩn tín, cẩn thận, cẩn trọng, bất cẩn, kính cẩn, tín cẩn, hợp cẩn giao bôi. Cẩu (không cẩn thận) cẩu thả; (chó) cẩu trệ, cẩu tặc, hải cẩu, tranh vân cẩu; (cậu ấy) cẩu vừa đi ra. Cỏ: cỏ cây, cỏ rác, bãi cỏ, đông như kiến cỏ, giặc cỏ, ma cỏ, nhổ cỏ, rau cỏ. Cỏi: cứng cỏi. Cõi (cảnh, vùng) cõi âm, cõi biên thùy, cõi chết, cõi đời, cõi lòng, cõi tiên, cõi trần, cõi tục, làm vua một cõi, bờ cõi, còm cõi, già tới cõi. Cỏm: ki cỏm, cỏm rỏm. Cỏn (con nhỏ ấy) cỏn vừa đi với thẳng; (nhỏ nhít) cỏn con. Cõng (mang trên lưng) chị cõng em, cõng rắn cắn gà nhà. Cổng (cửa ngõ) cổng làng, cổng xe lửa, đóng cổng, gác cổng, kín cổng cao tường. Cổ (cô ấy; --bộ phận của cơ thể) cổ chân, cổ họng, cổ tay, cắt cổ, kiền cổ, mắc cổ, ngóng cổ, ngửa cổ, rút cổ, cứng cổ; (nước cốt trầu) cổ trầu; (xưa, cũ kỹ) cổ điển, cổ hủ, cổ lệ, cổ lỗ sĩ, cổ kim, cổ kính, cổ ngữ, cổ nhân, cổ sơ, cổ sử, cổ thụ, cổ tích, cổ truyền, cổ văn, hoài cổ, khảo cổ; cổ đông, cổ phần, cổ võ, cổ phiếu, cổ động, cổ xuý, cổ quái, bịnh cổ trướng. Cỗ: cỗ xe, cỗ quan tài cỗ bài tứ sắc; (một bàn ăn) ăn cỗ, dọn cỗ, cỗ cưới mâm cao cỗ đầy, tiếng chào cao hơn cỗ. Cổi (lột bỏ, tháo ra) cổi áo, cổi giáp, cổi giày, cổi trần, cổi gỡ, cổi mở. Cỗi (còi, già) cằn cỗi, cây đã cỗi, đất cỗi, già cỗi; (gốc, cội) cỗi rễ. Cổn (tiếng khua) cổn cảng, lổn cổn. Cỡ (loại, độ, chừng) cỡ chừng, cỡ nào? lỡ cỡ, quá cỡ, đủ các cỡ, mắc cỡ, vừa cỡ. Cởi: xem chữ: Cổi Cỡi, Cưỡi (ngồi trên lưng) cỡi cổ, cỡi hạc về trời, cỡi ngựa, cỡi sóng, cỡi trâu, cỡi xe đạp. Cỡn: động cỡn, ngắn cũn cỡn. Củ: củ ấu, củ cải, củ gừng, củ hành, củ khoai, củ mì, củ nghệ, củ sắn, củ tỏi; (có tổ chức, nền nếp) việc làm có quy củ. Cũ (không còn mới) cũ kỹ, cũ mèm, cũ rích, cũ xì, quê cũ làng xưa, ngựa quen đường cũ, tình xưa nghĩa cũ. Của (chỉ quyền sở hữu) của cải, của chìm, của nổi của tôi, của gian, lắm của, của gia bảo, của hồi môn, của đáng tội, ỷ của, của phi nghĩa. Củi (thân, cành cây để đốt) củi đuốc, củi lửa, củi quế gạo châu, chở củi về rừng, con bửa củi. Cũi (lồng để nhốt) nhốt tù vào cũi, tháo cũi sổ lồng. Củm: cắp ca cắp củm. Cũn (ngắn khó coi) mặc quần áo cũn cỡn. Củng: lủng củng, củng cố. Cũng (cùng, như nhau) cũng bằng, cũng bởi, cũng được, cũng khá, cũng nên, cũng phải, cũng vậy, cũng xong. Cuỗm (chiếm và mang đi) trộm cuỗm đồ đạc, cuỗm vợ người ta. Cử: cử chỉ, cử đảnh, cử động, cử hành, cử lên, cử nhân, cử quân, cử tọa, cử tri, bầu cử, công cử, đề cử, thi cử, tuyển cử, ứng cử, nhất cử lưỡng tiện. Cữ (lúc, thời kỳ) cữ ghiền, cữ rét, làm cữ, uống thuốc chận cữ; (kiêng, cấm) cữ ăn, cữ mỡ, cữ thịt, cữ rượu, cữ tên, kiêng cữ, ở cữ, đàn bà đẻ nằm cữ. Cửa (lối thông để ra vào) cửa ải, cửa biển, cửa hiệu, cửa công, cửa hàng, cửa lá sách, cửa nẻo, cửa ngõ, cửa sông, cửa sổ, cửa tử, cửa thiền, cửa Phật, cạy cửa, đóng cửa, gài cửa, gõ cửa, mở cửa, cửa Khổng sân Trình, nhà cửa, ngưỡng cửa, chết một cửa tứ, răng cửa, trổ cửa, vé vô cửa. Cửi (máy dệt) canh cửi, dệt cửi, khung cửi, mắc cửi. Cưỡi xem Cỡi Cửng (nhảy nhót) nhảy cà cửng. Cưỡng (tên chim) con chim cưỡng; (bắt ép) cưỡng bách, cưỡng bức, cưỡng chế, cưỡng chiếm, cưỡng dâm, cưỡng đoạt, cưỡng ép, cưỡng gian, cưỡng hành, cưỡng hiếp, miễn cưỡng. Cửu (chín) cửu chương, cửu huyền, cửu ngũ, cửu phẩm, cửu trùng, cửu tuyền, sông Cửu Long; (lâu) vĩnh cửu, trường cửu. Cữu (cái hòm) di cữu, linh cữu.
- Ch - Chả (tiếng than) cha chả! (không, chẳng) chả dám, chả nhẽ; (cha ấy) thằng chả; (tên thức ăn) chả cá, chả lụa, chả giò, chả quế, bún chả, khô lân chả phụng; --bả vai chả vai . Chã: lệ rơi lã chã. Chải (gỡ cho suôn) chải chuốt, chải đầu, chải giày, chải gỡ, chải tóc, cái bàn chải, bươn chải. Chãi: vững chãi. Chảy (di chuyển thành dòng) chảy máu, chảy xối, chảy ròng ròng, chảy xiết, thùng lủng chảy re, nấu cho chì chảy. Chảng: nhánh cây chảng hai, nắng chảng như thiêu. Chảnh: làm bộ chảnh. Chảo (để chiên, rang, xào) chảo đụn, chảo sắt, chảo gan, chiên áp chảo. Chão (thứ dây lớn) đánh chão, dai như chão. Chẵn (số nguyên, trọn) chẵn cặp, chẵn chòi, chẵn chục, ngày chẵn, chẵn một trăm. Chẳng (chả, không) chẳng bao giờ, chẳng bù, chẳng bõ, chẳng cùng, chẳng cứ, chẳng cần, chẳng hạn, chẳng lẽ, chẳng mấy khi, chẳng những, chẳng qua, chẳng thà, chẳng trách, cực chẳng đã. Chẫm (hoãn, chậm) chẫm rãi. Chẩn (xác định) chẩn bịnh, chẩn đoán, chẩn mạch; (trợ giúp) chẩn bần, chẩn tế; (lấy bớt) chẩn bớt tiền lương, ăn chẩn tiền huê hồng, bịnh ban chẩn. Chẩu (chúm và trề môi) chẩu mỏ đấu láo, chẩu môi, chẩu mồm. Chẻ (tách ra theo chiều dọc) chẻ củi, chẻ lạt, chẻ nan, chẻ làm đôi, chẻ nhỏ ra, chẻ rau muống, chẻ tre, tính chẻ sợi tóc làm hai. Chẽ; chặt chẽ. Chẻm: cá chẻm, bà con chem chẻm. Chẽn (quần áo chật) mặc áo chẽn; (vách ngăn) tấm chẽn dừng. Chễm: ngồi chễm chệ. Chểnh: chểnh mảng. Chỉ (ngăn, cầm) cấm chỉ, đình chỉ; (mạng lịnh) chỉ dụ, chỉ đạo, chỉ định, chỉ thị, phụng chỉ, sắc chỉ, thánh chỉ; (giấy tờ) bài chỉ, chứng chỉ, tín chỉ; (sợi nhỏ để may, thêu) chỉ hồng, chỉ len, chỉ tơ, chỉ vải, bắt chỉ, chạy chỉ, kim chỉ, ống chỉ, rút chỉ, canh tơ chỉ vải; (trỏ, hướng về) chỉ chọc, chỉ dẫn, chỉ điểm, chỉ giáo, chỉ nam, chỉ nẻo, chỉ rõ, chỉ thiên, chỉ trích, chỉ trỏ, chỉ vẽ, ám chỉ, địa chỉ, tôn chỉ, chăm chỉ, cử chỉ, chỉ huy, ý chỉ, Giao chỉ, coi chỉ tay; (chị ấy) ảnh và chỉ; (phạm vi hạn định) chỉ có, chỉ là; (1/10 của 1 lượng) hai chỉ vàng. Chĩa: cuốc chĩa, cây chĩa ba; (trỏ về hướng) chĩa súng vào hông, chĩa miệng vào. Chiểu (căn cứ vào) chiểu chi, chiểu dụ. Chỉnh (sửa lại) chỉnh bị, chỉnh đốn, chỉnh hình, chỉnh huấn, chỉnh lý, chỉnh tề, chỉnh trang, điều chỉnh, nghiêm chỉnh, tu chỉnh, câu văn chỉnh. Chĩnh (giống cái lu) chĩnh đựng gạo, chĩnh rượu, chĩnh tương. Chỏ: cùi chỏ, cánh chỏ. Chõ (nồi 2 tầng có lỗ ở đáy) cái chõ để xôi nếp; (xen vào) chõ miệng vào, chõ vào chuyện người ta; (chồm ra ngoài) nhánh cây chõ ra ngoài. Choảng (đánh mạnh) choảng vào đầu, choảng nhau kịch liệt. Chỏi (chống đỡ )chỏi lại, chống chỏi, la chỏi lỏi. Chỏm (đỉnh, ngọn) chỏm đầu, chỏm núi, lúc còn để chỏm. Chỏn: lỏn chỏn. Chỏng (giơ cao lên) chỏng gọng, lỏng chỏng, nằm chỏng cẳng. Chõng (giường tre nhỏ) chõng tre, giường chõng, lều chõng. Chổng (vổng lên) chổng gọng, chổng khu, chổng mông, ghe chổng mũi, thằng chổng chết trôi. Chỗ (nơi chốn) chỗ hay, chỗ dở, chỗ làm, chỗ nào, chỗ ngồi, chỗ ở, chỗ anh em với nhau, đàn bà nằm chỗ, lỗ chỗ. Chổi (đồ dùng để quét) chổi chà, chổi lông gà, sao chổi, rượu chổi. Chỗi: chỗi dậy, chỗi bước. Chổm: lổm chổm, nợ như chúa chổm. Chở (chuyển đi) chở chuyên, chở hàng, chở củi về rừng, che chở, chớn chở. Chởm (nhọn bén) chơm chởm, lởm chởm. Chủ (kẻ đứng đầu) chủ bút, chủ chốt, chủ động, chủ hôn, chủ hụi, chủ khảo, chủ mưu, chủ não, chủ sở, chủ sự, chủ tọa, chủ tịch, chủ trì, bá chủ, giáo chủ, minh chủ; (người có quyền sở hữu) chủ điền, chủ hãng, chủ nhà, chủ nhân, chủ tiệm, điền chủ, nghiệp chủ, sở hữu chủ; (có chủ trương) chủ chiến, chủ đề, chủ đích, chủ hòa, chủ kiến, chủ lực, chủ nghĩa, chủ tâm, chủ ý, chủ yếu, chủ nhật, chủ quan, chủ quyền, dân chủ, phản chủ, khổ chủ, tín chủ, thân chủ, thí chủ. Chuẩn (sửa soạn) chuẩn bị, chuẩn chi, chuẩn đích, chuẩn hành, chuẩn miễn, chuẩn nhận, chuẩn phê, chuẩn tướng chuẩn úy, chuẩn y, tiêu chuẩn. Chủm (tiếng kêu khi rớt vào nước) rớt nghe cái chủm. Chủn (ngắn, lùn) thấp chủn, ngắn chủn. Chủng (giống, loại) chủng loại, chủng sinh, chủng tộc, chủng viện, binh chủng, dị chủng, diệt chủng, đồng chủng; (trồng) chủng đậu, chủng tử. Chuỗi (hột xỏ xâu) chuỗi bồ đề, chuỗi hổ, chuỗi ngọc, xâu chuỗi; (thời gian) chuỗi ngày, chuỗi sầu. Chuyển (làm thay đổi) chuyển biến, chuyển bụng, chuyển động, chuyển mưa, lay chuyển, luân chuyển, uyển chuyển (dời, gởi đi) chuyển di, chuyển đạt, chuyển đệ, chuyển giao, chuyển hoán, chuyển hướng, chuyển ngân, chuyển nhượng, chuyển tả, chuyển tiếp, chuyển vận, thuyên chuyển. Chữ (ký hiệu ghi tiếng nói) chữ Hán, chữ hiếu, chữ ký, chữ nho, chữ nôm, chữ nghĩa, chữ quốc ngữ, chữ tòng, chữ trinh, chữ viết tháu, hay chữ, mù chữ, không có một đồng một chữ. Chửa (có thai) có chửa có nghén, bụng mang dạ chửa, chửa năm một, chửa hoang; --chưa chửa được, chửa rồi, chửa xong. Chữa (trị, cứu) chữa bịnh, chữa cháy, chữa trị, chạy chữa; --sửa lại chữa lỗi, chữa thẹn, bào chữa, sửa chữa. Chửi (nói lời xúc phạm) chửi bới, chửi bông lông, chửi đổng, chửi mắng, chửi rủa, chửi thề, chửi tưới, chửi xối, chửi xiên chửi xéo. Chửng: nuốt chửng (nuốt trộng), té bổ chửng. Chững (chưa vững) chững chạc, chững chàng, chập chững, lững chững. Chưởng: chưởng ấn, chưởng khế, chưởng lý, chưởng quản, chấp chưởng, phim chưởng, tiểu thuyết chưởng.
- D - Dả: dư dả Dã (làm cho bớt) dã độc, dã lã, dã rượu; (buồn, mệt) dã dượi; (chỗ hoang, quê mùa) dã chiến, dã man, dã sử, dã thú, dân dã, sơn dã, thôn dã, khỉ dã nhân, công dã tràng, dã tâm, trắng dã. Dải (có hình dài và hẹp) dải áo, dải cờ, dải yếm, dải thắt lưng, dải sông, dải núi, dải đồi, dải đất. Dãi (nước miếng) chảy nước dãi, dễ dãi, thèm nhỏ dãi, mũi dãi lòng thòng, dãi dầu mưa nắng. Dãy (hàng dài liền nhau) dãy nhà, dãy núi, dãy phố, dãy dinh thự, hai dãy ghế. Dãn / Giãn (tăng độ dài) dây cao su dãn (giãn), dãn (giãn) gân cốt. Dão (nước nhì, đã lạt mùi) nước mắm dão, trà dão, nước cốt dão, cà phê dão. Dẫm: dò dẫm, dọa dẫm. Xem thêm Giẫm, Giẵm. Dẩn: câu hỏi dớ dẩn. Dẫn (dắt đi, đưa đến) dẫn chứng, dẫn dụ, dẫn đạo, dẫn điện, dẫn độ, dẫn đường, dẫn giải, dẫn hỏa, áp dẫn, chỉ dẫn, chú dẫn, tiến dẫn, tiểu dẫn, dẫn thủy nhập điền. Dẩu (dữ lắm) nhiều dẩu, dẩu lên; (chìa môi ra) dẩu mồm ra chê ít. Dẫu (dầu, dù )dẫu cho, dẫu mà, dẫu rằng, dẫu sao. Dẫy (có nhiều lắm) đầy dẫy. Dẻ: da dẻ, mảnh dẻ, hột dẻ. Dẽ (sát xuống, hết xốp) dẽ cứng, dẽ dặt, dẽ khắt, đất đã dẽ. Dẻo (mềm mại, bền dai) dẻo dai, dẻo nhẹo, dẻo sức, mềm dẻo bánh dẻo, gạo dẻo cơm. Dể (không kính nể, khinh) dể ngươi, khi dể, khinh dể Dễ (không khó) dễ bảo, dễ chịu, dễ coi, dễ dãi, dễ dàng, dễ dạy, dễ dầu gì, dễ dúng gì, dễ gì, dễ hôn! dễ ợt, dễ sợ, dễ tánh, dễ thường. Dỉ (hé, hở) dỉ hơi, dỉ lời, dỉ răng, dỉ tai; (nói tắt chữ "dì ấy") dỉ là vợ của dưởng. Dĩ: dĩ chí, dĩ hạ, dĩ hậu, dĩ lỡ dĩ nhiên, dĩ vãng, dạn dĩ, gia dĩ, khả dĩ, sở dĩ, bất đắc dĩ, hột ý dĩ, dĩ ân báo oán, dĩ đông bổ tây, dĩ hòa vi quý, dĩ thực vi tiên . Dĩa: dĩa hát, dĩa nhạc, chén dĩa, đánh sóc dĩa. Diễm (đẹp rực rỡ) diễm lệ, diễm phúc, diễm tình, kiều diễm. Diễn: diễn biến, diễn binh, diễn ca, diễn dịch, diễn đàn, diễn đạt, diễn giả, diễn giải, diễn giảng, diễn kịch, diễn nghĩa, diễn tả, diễn tiến, diễn thuyết, diễn tuồng, diễn từ, diễn văn, diễn viên, diễn võ, diễn xuất, biểu diễn, thao diễn, trình diễn. Dĩnh (thông minh) dĩnh đạt, dĩnh ngộ. Dõi (tiếp nối theo) dòng dõi, nối dõi, dõi gót, theo dõi. Dỏm: dí dỏm. Dỏng (dựng thẳng lên) dỏng tai nghe, chó dỏng đuôi, dong dỏng cao. Dõng (mạnh mẽ) dõng dạc, đứng dõng lưng Dỗng (trần truồng) ở truồng chồng dỗng. Dỗ (dụ, khuyên) dỗ dành, dỗ ngọt, cám dỗ, dạy dỗ, dụ dỗ, khuyên dỗ. Dỗi: giận dỗi, hờn dỗi. Dổm xem Dởm Dở (đỡ lên cao, mở ra) dở bổng, dở hỏng lên, dở sách ra; (trổ ra, lòi ra) dở thói vũ phu, dở trò; (không hay) dở ẹt, dở mạt, dở quá, dở tệ, giỏi dở, hay dở; (lỡ chừng) dở bữa, dở chừng, dở hơi, dở dang, bỏ dở, lỡ dở; (không rõ tính) dở dở ương ương, dở khóc dở cười, dở khôn dở dại, dở người dở ngợm, dở ông dở thằng, dở sống dở chết. Dỡ (lấy ra) dỡ cơm, dỡ chà, dỡ nón, dỡ nhà, dỡ khoai, dỡ tốc, dỡ từng món, bốc dỡ hàng hoá, càn dỡ (càn rỡ). Dởm (giả, không tốt) đồ dởm không bền, mua lầm hàng dởm. Dũa, Giũa: dũa cưa, dũa móng tay, giũa cưa, giũa móng tay. Dũng (mạnh, can đảm) dũng cảm, dũng lực, dũng lược, dũng mãnh, dũng sĩ, dũng tướng, anh dũng, trí dũng. Duỗi (giãn ra) duỗi cẳng, duỗi tay, duỗi thẳng ra. Dữ (hung bạo) dữ ác, dữ dằn, dữ dội, dữ quá, dữ tợn, giận dữ, hung dữ, thú dữ; (quá lắm) độc dữ, mắc dữ, nhiều dữ, xấu dữ, dữ kiện (xem thêm Giữ). Dửng (dựng lên) dửng tóc gáy; (động lên) dửng mỡ; (không lo tới) dửng dưng. Dưỡng (nuôi) dưỡng bịnh, dưỡng dục, dưỡng đường, dưỡng già, dưỡng khí, dưỡng lão, dưỡng mẫu, dưỡng nhi, dưỡng sinh, dưỡng sức, dưỡng tâm, dưỡng thai, dưỡng thân, dưỡng tử, an dưỡng, bảo dưỡng, bổ dưỡng, bồi dưỡng, cấp dưỡng, dung dưỡng, điều dưỡng, hoạn dưỡng, phụng dưỡng, tiếp dưỡng cha sinh mẹ dưỡng.
- Đ - Đả (đánh) đả đảo, đả động tới, đả hổ, đả kích, đả phá, đả thông, đả thương, ấu đả, ẩu đả, đả đớt, đon đả. Đã: đã đời, đã đành, đã giận, đã khát, đã lắm, đã qua, đã rồi, đã xong, đã vậy thì, đã giỏi lại ngoan; (tiếng bảo ngưng) khoan đã! chờ hết mưa đã! nghỉ cái đã! rồi làm tiếp, cực chẳng đã. Đãi (thết, xử với) đãi bôi, đãi đằng, đãi khách, đãi ngộ, bạc đãi, biệt đãi, chiêu đãi, đối đãi, khoản đãi, ngược đãi, tiếp đãi, trọng đãi, đãi lịnh, ưu đãi; --trễ nải huỡn đãi, giải đãi; (sàng để gạn lọc) đãi sạn, đãi cát tìm vàng, bòn tro đãi trấu, đồn đãi. Đãy (túi to bằng vải) đãy gấm, đãy gạo, cắp đãy, mang đãy, chim già đãy. Đảm (nhận trách nhiệm) đảm bảo, đảm đang, đảm đương, đảm nhiệm; (gan dạ) đảm lực, đảm lược, can đảm, khiếp đảm. Đản: Phật đản, huỳnh đản, quái đản. Đảng (phe, bọn) đảng cướp, đảng bộ, đảng phái, đảng trị, đảng viên; bè đảng, chính đảng, phe đảng. Đãng: đãng trí, đãng tử, du đãng, lơ đãng, phóng đãng, khoáng đãng. Đảnh (phần cao nhứt đảnh núi, đảnh đầu; đỏng đảnh. Đảo (quay lộn vị trí) đảo điên, đảo lộn, đảo ngược, lừa đảo; (nghiêng ngả, đổ) đảo chánh, đảo loạn, áp đảo, khuynh đảo; (cù lao) bán đảo, hòn đảo, quần đảo. Đẵm (lội trong nước) trâu đẵm bùn. Đẵn (chặt từng đoạn) đẵn cây, đẵn mía, đẵn khúc, đẵn tre. Đẵng (kéo dài ròng rã) đằng đẵng mấy năm trời Đẳng (bậc, tầng) đẳng cấp, đẳng hạng, bình đẳng, cao đẳng, đồng đẳng, sơ đẳng, trung đẳng, đăng đẳng, ở đẳng, ghế đẳng, đeo đẳng. Đẫm (ướt nhiều) đẫm máu, đẫm mồ hôi, ướt đẫm; bé đi lẫm đẫm. Đẫn, Đẵn (chặt ra từ khúc) từ đẫn; lẫn đẫn lờ đờ. Đẩu: ghế đẩu; sao Bắc Đẩu. Đẩy (xô mạnh, xô ra) đẩy cửa, đẩy lui, đẩy ra, đẩy xe, đẩy mạnh, xô đẩy, đưa đẩy, chối đây đẩy. Đẫy (hơi to, hơi mập) đẫy đà, người béo đẫy. Đẻ (sanh nở )đẻ chửa, đẻ con so, đẻ non, sanh đẻ, ngày sanh tháng đẻ, tiền cho vay đẻ lời, nói đỏ đẻ, tiếng mẹ đẻ. Đẽ: đẹp đẽ. Đẻn (tên rắn) Đẻo: lẻo đẻo. Đẽo (vạt bằng búa) đẽo gọt, đẽo gỗ, đẽo khoét chặt đẽo, đục đẽo. Để (nhường lại) để lại giá bao nhiêu? (lưu lại) để bụng, để dành, để của, để giống, để phần, để gia tài lại cho vợ con, vết thương để lại thẹo; (bỏ, thôi nhau) vợ chồng để bỏ nhau;(chịu) để tang, để chế; (cầm thế) để áp, để đương; (chỉ mục đích) cơm để ăn, nhà để ở; (thêm vào) để dành, để muối, để ớt, để tiêu; (đặt vào vị trí) để đâu? đễ trên bàn, để trong tủ, để chỏm, để (đề) kháng, để lộ ra, để râu, để tâm, để ý, đại để, triệt để. Đễ (kính nhường bậc anh) hiếu đễ. Đễnh: lơ đễnh. Đểu (lừa đảo gian trá) đểu cáng, đểu giả, chơi đểu. Đĩ (gái mãi dâm) đĩ điếm, đĩ thõa, đĩ tính, làm đĩ, thói đĩ bợm. Đỉa (con đỉa hút máu) đỉa mén, đỉa trâu, đeo như đỉa đói, dai như đỉa, giãy như đỉa phải vôi. Đĩa (dĩa để đựng thức ăn) chén đĩa, đơm cơm ra đĩa, thi ném đĩa, đĩa nhạc. Điểm: điểm binh, điểm chỉ, điểm danh, điểm huyệt, điểm mặt, điểm tâm, điểm trang, điểm tựa, chấm điểm, chỉ điểm, cực điểm, tóc điểm bạc, địa điểm, giao điểm, khởi điểm, kiểm điểm, nhược điểm, quan điểm, tô điểm, trang điểm, ưu khuyết điểm, yếu điểm trống điểm canh. Điển: điển chế, điển chương, điển cố, điển hình, điển mại, điển tích, ân điển, cổ điển, kinh điển, từ điển, tự điển cây điên điển. Điểu (loài chim) ác điểu, đà điểu, hải điểu. Đỉnh (phần cao nhất) đỉnh chung, đỉnh đầu, đỉnh núi, chút đỉnh, cử đỉnh, tuyệt đỉnh, cây đủng đỉnh. Đỏ (màu hồng sậm) đỏ au, đỏ bừng, đỏ chói, đỏ chót, cuộc đỏ đen, lúc đỏ đèn, đỏ gay, đỏ hoe đỏ hoét, đỏ lòm, đỏ lững, đỏ ngầu, đỏ ối, đỏ rực, đỏ ửng, số đỏ, vận đỏ. Đoản (ngắn) đoản côn, đoản đao, đoản hậu, đoản kiếm, đoản kỳ, đoản mạng, đoản số, sở đoản, ăn ở đoản hậu, đoản thiên tiểu thuyết. Đỏi (dây to để buộc tàu) buộc đỏi, dây đỏi, đứt đỏi, hụt đỏi, thả đỏi. Đỏm: làm đỏm. Đỏng: đỏng đảnh làm cao. Đổ: đổ bác, đổ bể, đổ bộ, đổ chuông, đổ dồn, đổ đồng, đổ giận, đổ hào quang, đổ khùng, đổ kiểng, đổ lỗi, đổ lửa, đổ máu, đổ mồ hôi, đổ nát, đổ nhào, đổ quạu, đổ riệt, đổ ruột, đổ tội, đổ tháo, đổ thừa, đổ trút, đổ vãi, đổ vạ, đổ vỡ, đổ xô, bán đổ bán tháo, sụp đổ, nước đổ đầu vịt, sập đổ, trống đổ hồi, tứ đổ tường; Tam nguyên Yên Đổ. Đỗ (các thứ đậu hột) xôi đỗ, hạt đỗ; (họ Đỗ; --trúng tuyển kỳ thi) đỗ đạt, đỗ trạng, thi đỗ; (ghé lại, đậu lại) đỗ xe lại, đỗ thuyền lại; (loài chim) đỗ quyên. Đổi (thay đi, dời đi) đổi chác, đổi dời, đổi mới, đổi phiên, biến đổi, đổi trắng thay đen, đắp đổi, sửa đổi, trao đổi, vật đổi sao dời. Đỗi: không đến đỗi, quá đỗi, đi một đỗi khá xa. Đổng: đổng binh, đổng lý, chửi đổng, nhảy đông đổng; Phù Đổng Thiên Vương. Đỡ (trợ giúp) đỡ dậy, đỡ đần, đỡ đẻ, bà đỡ (bà mụ), giúp đỡ, nâng đỡ, cha mẹ đỡ đầu; (hứng lấy, đón) đỡ đòn, đỡ gạt, đỡ lời, đỡ ngăn, đỡ vớt, bợ đỡ; (giảm bớt) đỡ bịnh, đỡ đói, đỡ khổ, đỡ ngặt, đỡ tốn, tạm đỡ. Đởm xem Đảm. Đủ (không thiếu) đủ ăn, đủ dùng, đủ điều, đủ loại, đủ lông đủ cánh, đủ số, đủ sức, đủ thứ, đông đủ, đu đủ, thiếu đủ. Đũa (2 que dùng để gắp) đũa bếp, đũa con, đậu đũa, chơi đánh đũa, cây so đũa, trả đũa. Đuổi (tống đi) đuổi cổ, đuổi xô, xua đuổi; (rượt theo) đuổi bắt kẻ trộm, đeo đuổi, theo đuổi. Đủng: cây đủng đỉnh. Đũng: đũng quần. Đững: lững đững lờ đờ.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 6, 2011 6:48:14 GMT 9
- E - Ẻn: ỏn ẻn. Ẻo: dáng đi ẻo lả, trù ẻo. Ẽo: võng kêu ẽo ẹt. Ể (muốn bịnh) ể mình muốn cảm. Ễnh (phình bụng ra) ễnh bụng, con ễnh ương .
- G - Gả (kết hôn cho con gái) gả con, gả cưới, gả bán. Gã (người đàn ông) gã thiếu niên, gã kia. Gãi (cào nhẹ trên da) gãi chỗ ngứa, gãi sồn sột, gãi đầu gãi tai, gãi ghẻ. Gảy, Gẩy (khảy đàn) gảy đàn, đàn gảy tai trâu. Xem Khảy. Gãy, Gẫy (đứt rời ra) gãy gánh giữa đường, té gãy xương, bẻ gãy, trâm gãy bình rơi; (rành mạch) gãy gọn. Gẫm (ngẫm, nghĩ kỹ )gạt gẫm, suy gẫm sự đời. Gẫu (góp chuyện cho vui) tán gẫu, bàn gẫu. Ghẻ (bịnh ngoài da) ghẻ chốc, ghẻ hờm, ghẻ lở, ghẻ ngứa, ghẻ phỏng, gãi ghẻ; (không phải ruột thịt) cha ghẻ, mẹ ghẻ, dì ghẻ, dượng ghẻ, con ghẻ; (đối xử lạnh nhạt) ghẻ lạnh. Giả (không thực) giả bộ, giả cầy, giả chước, giả danh, giả dạng, giả dối giả đò, giả mạo, giả sử, giả tảng, giả tạo, giả thiết, giả thuyết, giả thử, giả tỉ, giả trang, giả trá, giả vờ, bạc giả, thiệt hay giả? (kẻ, người) diễn giả, độc giả, học giả, ký giả, khán giả, soạn giả, sứ giả, tác giả, thính giả, thức giả, trưởng giả, vương giả, ác giả ác báo, giả lả, hoặc giả, khá giả. Giả (hoàn lại), xem Trả. Giã: giã biệt, giã gạo, giã từ, giặc giã, giòn giã, giục giã, thuốc giã độc. Giải (nói rỏ, thoát ra khỏi) giải đáp, giải nghĩa, giải thích, giải bài toán, biện giải, chú giải, giảng giải, phân giải, giải cứu, giải lời thề, giải oan, giải ngũ, giải tỏa, giải nghệ, giải phóng, giải thoát, giải trừ, giải vây (tranh thưởng) giải thưởng, tranh giải, giựt giải quán quân; (đưa đến nơi nào đó) giải giao, giải tù, áp giải; (làm cho dịu bớt) giải buồn, giải độc, giải hòa, giải khát, giải khuây, giải khổ, giải lao, giải sầu, giải nhiệt, giải phiền, mồm loa mép giải, giải pháp, giải phẫu, giải quyết, giải tán, giải thể, giải trí. Giãi (bày tỏ lòng mình) giãi tỏ, giãi bày tâm sự, giãi dạ trung thành, giãi bày nỗi oan ức. Giãy, Giẫy (cựa quậy mạnh) giãy chết, giãy đành đạch, giãy giụa, giãy nảy, giãy tê tê, giãy khóc, cá giãy trên thớt. Giảm (làm cho bớt) giảm bịnh, giảm giá, giảm hình, giảm khinh, giảm sút, giảm thọ, giảm tội, giảm thiểu, giảm thuế, ân giảm, tăng giảm, tài giảm, thuyên giảm, gia giảm. Giản (sơ lược, dễ hiểu) giản dị, giản lược, giản tiện, giản yếu, đơn giản, Phan Thanh Giản. Giãn: co giãn, nới giãn, thun giãn (xem thêm Dãn). Giảng (giải thích) giảng bài, giảng dạy, giảng đạo, giảng đường, giảng giải, giảng hòa, giảng sư, giảng viên. Giảo (gian xảo, lọc lừa) giảo hoạt, giảo quyệt, gian giảo; --thắt, cột giảo ải (thắt cổ mà chết) giảo quyết, xử giảo --so sánh giảo giá, giảo tự. Giãy (cựa quậy mạnh) cá giãy trên thớt, giãy chết, giãy giụa, giãy nảy. Giẵm, Giẫm (đạp lên) giẵm bấy, giẵm bẹp, giẵm bùn, giẵm chân, giẵm nát, giẵm lên. Giẫy (cào cho sạch) giẫy cỏ, giẫy mả; giẫy giụa (giãy giụa), giẫy nẩy (giãy nãy). Giẻ (vải cũ để lau chùi) giẻ lau, giẻ rách, nùi giẻ, xé giẻ. Giễu (đùa bỡn, làm trò) giễu cợt, chế giễu, hề giễu, nói giễu. Giỏ (đồ đan để đựng) giỏ bội, giỏ cá, giỏ cần xé. Giỏi (có tài, hay) giỏi giang, giỏi giắn, học giỏi, mạnh giỏi, tài giỏi. Giỏng (đưa lên) con chó giỏng đuôi lên, giỏng tai mà nghe. Giỗ (lễ cúng ngày chết) giỗ chạp, giỗ quải, giỗ tổ, đám giỗ, ăn giỗ. Giở (mở ra) giở từng trang sách, giở mánh khóe lừa bịp, giở thủ đoạn, giở trò, giở giọng đe dọa (trở) giở chứng (trở chứng), giở mình (trở mình) giở mặt (trở mặt) giở quẻ (trở quẻ) giở giời (trở trời). Giỡn (đùa, chọc cho vui) giỡn cợt, giỡn chơi, giỡn hớt, giỡn mặt, cười giỡn, đùa giỡn, nói giỡn, trững giỡn (Xem Rỡn). Giũ (rung cho sạch) giũ áo, giũ bụi, giặt giũ, giũ sạch nợ trần, chim giũ lông, Ngọc Hoàng giũ sổ (xem thêm Rũ). Giũa (mài cho láng) cái giũa, mài giũa, giũa cưa, giũa móng tay. Giữ (cất lấy, theo đúng) giữ của, giữ giá, giữ gìn, giữ kẽ, giữ lễ, giữ miếng, giữ mình, giữ ý, cầm giữ, canh giữ, chống giữ. Giữa (trung tâm giữa chừng, giữa dòng, giữa đường, giữa tháng, giữa vời, chính giữa, cửa giữa, kẽ giữa, khúc giữa. Gõ (đập nhẹ vào cho ra tiếng) gõ cửa, gõ mõ, gõ nhịp; (loại gỗ quý) cây gõ (gỗ gụ), bộ ngựa gõ Gỏi (tên món ăn) ăn gỏi, gỏi gà, gỏi sứa, gỏi tôm thịt. Gỏng: gắt gỏng. Gổ: gây gổ. Gỗ: gỗ quý, gỗ gụ, gỗ tạp, đốn gỗ, khúc gỗ, tượng gỗ. Gở (điềm không lành) điềm gở, nói gở, quái gở. Gỡ (làm cho hết rối) gỡ rối, gỡ đầu, gỡ tội; (vớt lại) gỡ canh bạc, gỡ gạc, gỡ thua, cạy gỡ. Gởi, Gửi: gởi gắm, gởi lại, gởi thơ, gởi rể, gởi lời thăm, gởi thân đất khách, gởi trứng cho ác, chọn mặt gởi vàng, ăn gởi nằm nhờ. Gũi: gần gũi.
- H - Hả (tiếng hỏi) vậy hả? tới rồi hả? (tiếng cười) cười ha hả, hỉ hả; (mở ra) đau chân hả miệng, hả miệng mắc quai; (thỏa lòng) hả dạ, hả giận, hả hê, hả hơi, hả lòng. Hải (biển) hải cảng, hải chiến, hải đảo, hải lý, hải ngoại, hải phận, hải quan, hải quân, hải sản, hải tặc, hải triều, đại hải, hàng hải; --tên cây hải đường; (tên xứ) Hải Dương, Hải Phòng, Long Hải, Phước Hải. Hãi (sợ) hãi hùng, kinh hãi, sợ hãi. Hãm (ép bức đễ hại) hãm địch, hãm đồn, hãm hại, hãm hiếp, hãm tài, hãm thành, hãm trận; (giữ lại, cầm lại) cầm hãm, giam hãm, hãm xe lại, hãm máy. Hãn (mồ hôi) phát hãn, xuất hãn; (hung dữ) hung hãn; (ít có) hãn hữu. Hảng: bộ hỉnh hảng (điếc), đứng chàng hảng. Hãng (nhà buôn lớn) hãng buôn, hãng tàu, hãng xưởng. Hảnh (hé) trời hảnh nắng. Hãnh: hãnh diện, kiêu hãnh. Hảo (tốt) hảo hán, hảo hạng, hảo sự, hảo tâm, hảo ý, bất hảo, hòa hảo, tuyệt hảo. Hão (vô ích) lo hão, tiếc hão, hão huyền. Hãy (tiếng sai bảo) hãy chăm học, hãy cẩn thận, hãy gác bỏ ngoài tai (vẫn) hãy còn, trời hãy còn mưa (tạm thời) hãy biết thế đã. Hẳm (hõm sâu xuống) bực hẳm, hẳm đứng. Hẩm (hư, hết ngon) gạo nầy đã hẩm; (không ai để ý) hẩm hiu, hẩm hút; dọa hẩm, hâm hẩm. Hẳn: hẳn hoi, ắt hẳn, bỏ hẳn, chắc hẳn, điều đó đã hẳn, bịnh chưa dứt hẳn, không hẳn như thế, xong hẳn. Hẵng (tiếng bảo: hãy) hẵng làm việc nầy đã! rồi hẵng hay! ăn xong hẵng đi! Hẩy (đẩy ra, hất ra) hẩy đít, hẩy tay ra, gió hây hẩy. Hẻ (đường hở nhỏ) lỗ hẻ, kẹt hẻ, ngồi chè hẻ. Hẻm (lối đi hẹp) đường hẻm, ngõ hẻm, xó hẻm, nhà ở trong hẻm, hang cùng ngõ hẻm. Hẻo (vắng) hẻo lánh. Hể (thỏa lòng, vui vẻ) nói cười hể hả. Hễ (nếu mà) hễ mà, hễ có tiền thì mua được. Hển (thở nhiều) thở hào hển, thở hổn hển. Hỉ: hỉ hả, hỉ mũi, hỉ sự, hỉ tín, hỉ xả, báo hỉ, cười hi hỉ, cung hỉ, hoan hỉ, hủ hỉ, song hỉ, chi rứa hỉ? vui quá hỉ! Hiểm (nguy, độc) hiểm ác, hiểm địa, hiểm độc, hiểm họa, hiểm hóc, hiểm nghèo, hiểm nguy, hiểm trở, hiểm yếu, bụng hiểm, chỗ hiểm, ớt hiểm, thâm hiểm, thoát hiểm. Hiển (sáng sủa, vẻ vang) hiển đạt, hiển hách, hiển hiện, hiển linh, hiển nhiên, hiển thánh, hiển vi, hiển vinh. Hiểu (thấu rõ, biết) hiểu biết, hiểu lầm, hiểu ngầm, chậm hiểu, dễ hiểu, thông hiểu. Hỉnh (phồng lên) hỉnh mũi, mùi hinh hỉnh. Hỏ: ngồi chò hỏ. Hoả (lửa, gấp) hoả bài, hoả công, hoả châu, hoả diệm sơn, hoả đầu quân, hoả hoạn, hoả lò, hoả lực, hoả mai, hoả mù, hỏa ngục, hỏa pháo, hoả tai, hoả táng, Hoả Tinh, hoả tiễn, hoả thiêu, hoả tốc, hoả xa, Bà hoả, cứu hoả, dẫn hoả, dầu hoả, hương hoả, phát hoả, phóng hoả, tá hoả, tàu hoả. Hoải (mệt mỏi) bải hoải. Hoãn (chậm lại, không gấp) hoãn binh, hoãn dịch, hoãn đãi, hoà hoãn, tạm hoãn, trì hoãn. Hoảng (sợ sệt) hoảng hồn hoảng vía, hoảng hốt, hoảng sợ, khủng hoảng, kinh hoảng, la hoảng, mê hoảng. Hoãng, Hoẵng (loại hưu nhỏ) chạy mau như hoẵng. Hoảnh (ráo nước) ráo hoảnh. Hỏi (xin cho biết) hỏi cung, hỏi han, hỏi tội, hỏi thăm, hỏi vợ, ăn hỏi, lễ hỏi, tra hỏi, xét hỏi, bánh hỏi, chõi hỏi, dấu hỏi, đòi hỏi, vay hỏi. Hỏm (lõm sâu và hẹp) sâu hỏm, hỏm xuống. Hõm (khuyết sâu vào) mắt hõm vì thiếu ngủ. Hỏn (đỏ lợt) trẻ mới sanh đỏ hỏn. Hỏng (hư, thi rớt) hỏng bét, hỏng mất, hỏng thi, hỏng việc, xôi hỏng bỏng không; (cao khỏi mặt đất) hỏng cẳng, nhẹ hỏng, dở hỏng, treo hỏng lên. Hổ (thẹn, tủi) hổ ngươi, hổ thẹn, tủi hổ, xấu hổ; (cọp) hổ báo, mãnh hổ, hổ khẩu, hổ phách, bảng hổ đề danh, làm hùm làm hổ, cao hổ cốt, rắn hổ. Hỗ (lẫn nhau) hỗ tương, hỗ trợ, hỗ giá viên. Hổi (nóng còn lên hơi) bánh còn nóng hổi. Hỗi (hồi nãy) (nói tắt) hỗi giờ (hồi nãy tới bâygiờ) hỗi ôi! Hổm (hôm ấy) bữa hổm, hổm rày. Hổn; thở hổn hển. Hỗn (vô lễ, xấc láo) hỗn ẩu, hỗn hào, hỗn láo, hỗn xược, làm hỗn, nói hỗn; --lộn xộn hỗn chiến, hỗn độn, hỗn hợp, hỗn loạn, hỗn tạp. Hổng (không kín) trống hổng, lỗ hổng; (không) nói hổng được, hổng biết. Hở (không kín) hở cửa, hở hang, hở môi, hở răng, để hở, hăm hở, hớn hở, kẽ hở, khe hở, lỗ hở, sơ hở, áo hở lưng, làm không hở tay. Hỡ: hực hỡ. Hởi (vui dạ) hởi dạ, hởi lòng. Hỡi (tiếng than) hỡi ôi! hỡi đồng bào! trời ơi đất hỡi. Hởn (vui mừng) hí hởn. Hủ (cũ kỹ) hủ bại, hủ hỉ, hủ hoá, hủ lậu, hủ nho, hủ tiếu, hủ tục, đậu hủ. Hũ (lu nhỏ bé miệng) hũ gạo, hũ mắm, hũ rượu, cổ hũ cau, cổ hũ dừa. Hủi: hất hủi, cùi hủi, phong hủi. Hủng (lún xuống) chỗ hủng. Hủy (phá, bỏ) hủy bỏ, hủy diệt, hủy hoại, hoài hủy, phá hủy, thiêu hủy, tiêu hủy. Huyễn: huyễn hoặc, đồn huyễn. Hử (hở? hả?) đi đâu hử? không đi hử? mới về tới hử? Hữ: ừ hữ, hữ hẽ. Hửng (hừng) trời hửng sáng, hí hửng. Hững; hững hờ. Hưởng (có được cho mình) hưởng dụng, hưởng lạc, hưởng lộc, hưởng phước, hưởng thụ, hưởng ứng, ảnh hưởng, âm hưởng, cộng hưởng. Hữu (có) hữu danh, hữu dụng, hữu duyên, hữu hạn, hữu hình, hữu ích, hữu sản, hữu tài, chấp hữu, chiếm hữu, cố hữu, cộng hữu, quyền sở hữu, hữu xạ tự nhiên hương; (bên tay mặt) hữu dực, hữu ngạn, hữu phái, cực hữu, tả hữu; (anh em bạn) ái hữu, bằng hữu, đạo hữu, giáo hữu, tình bằng hữu, hữu nghị. Hỷ: hỷ sự, hỷ tín, hỷ xả, báo hỷ, cung hỷ, hoan hỷ, song hỷ; hỷ hả, hỷ mũi, vui quá hỷ.
- I - Ỉ (hơi ướt) ẩm ỉ, i ỉ, ỉ ỉ; (ngầm ngầm) đau âm ỉ, trời âm ỉ; (kêu than) năn nỉ ỉ ôi. Ĩ: ầm ĩ, òn ĩ. Ỉa (đi tiêu, đại tiện) ỉa chảy. Ỉm: cửa đóng im ỉm Ĩnh: con ĩnh ương ãnh ương Ỉu (bị ẩm) làm cho mềm iu ỉu.
- Y - Ỷ (cậy thế, dựa vào) ỷ giàu, ỷ giỏi, ỷ lại, ỷ tài, ỷ quyền, ỷ thế, ỷ y. Yểm (trợ giúp) yểm hộ, yểm trợ; (ém, ếm) yểm bùa, yểm tài, yểm trừ Yểu (chết non) yểu tướng, chết yểu; (mềm mại thướt tha) yểu điệu.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 6, 2011 6:50:10 GMT 9
Phần Hai (K-R) Việt Ngữ Hỏi Ngã Tự Vị
- K - Kẻ (người) kẻ cả, kẻ cắp, kẻ gian, kẻ hèn, kẻ nghèo, kẻ thù; (vẽ, gạch hàng) kẻ chữ, kẻ lông mày, giấy có kẻ hàng, thước kẻ; (bới ra) kẻ vạch, tánh ưa kẻ xấu người ta. Kẽ (khe nhỏ, chỗ hở) kẽ cửa, kẽ tay, cặn kẽ, giữ kẽ, xen kẽ. Kẽm (kim loại trắng) dây kẽm gai, mái kẽm, mỏ kẽm, thùng bằng kẽm, tiền kẽm, tráng kẽm. Kẻng (diện sang) ăn mặc kẻng. Kẻo (không thế thì) phải chăm học kẻo dốt, mau mau kẻo trễ. Kẽo: tiếng võng kẽo kẹt. Kể (thuật lại, coi như) kể chuyện, kể chết, kể công, kể lể, kể như, kể ơn, kể ra, kể rõ, kể trên, chẳng kể, cứ kể là, khóc kể, không đáng kể. Kỉa: hôm kỉa hôm kia. Kiểm (xem lại, soát lại) kiểm chứng, kiểm duyệt, kiểm điểm, kiểm đốc, kiểm kê, kiểm lại, kiểm lâm, kiểm nghiệm, kiểm nhận, kiểm soát, kiểm thảo, kiểm tra. Kiểng (cảnh, cây nhỏ) cây kiểng, chơi kiểng, trồng kiểng, kiểng chùa, một kiểng hai quê; (chuông) nhà thờ đổ kiểng, kiểng chuông báo hiệu. Kiễng (nhón) kiễng chân, kiễng gót. Kiểu: kiểu cách, kiểu cọ, kiểu mẫu, kiểu vở, chén kiểu, dĩa kiểu. Kĩu: tiếng võng đưa kĩu kịt. Kỉnh (kính, tôn trọng) kỉnh làm anh, kỉnh nhường. Kỷ: kỷ vật, kỷ yếu, kỷ lục; (thân mình) ích kỷ, tự kỷ, tri kỷ, vị kỷ; (phép tắc bắt buộc) kỷ luật, kỷ cương; (chỉ thời gian) kỷ niệm, kỷ nguyên, niên kỷ, thế kỷ, Kỷ Dậu, Kỷ Sửu; (ghế ngồi, mâm nhỏ) ghế trường kỷ, kỷ trà. Kỹ (nghề) kỹ nghệ, kỹ sư, kỹ thuật, kỹ xảo; (gái đĩ thõa) kỹ nữ, ca kỹ, kỹ viện; (mất nhiều công) kỹ càng, kỹ lưỡng, nhìn kỹ, ăn no ngủ kỹ.
- Kh - Khả (có thể) khả ái, khả dĩ, khả kính, khả năng, khả nghi, khả ố, khả quan, bất khả kháng, vô kế khả thi. Khải: khải hoàn, khải hoàn môn Khảy: khảy đờn, khảy móng tay; cười khảy. Khảm: khảm xa cừ, khảm vàng, tâm khảm, quẻ Khảm. Khản (khô ráo) khản cổ, khản tiếng. Khảng: ăn nói khảng khái. Khảnh (nhỏ thó) dáng người mảnh khảnh. Khảo (tra xét) khảo chứng, khảo cổ, khảo của, khảo cứu, khảo duyệt, khảo giá, khảo hạch, khảo nghiệm, khảo sát, khảo thí, khảo xét, chủ khảo, giám khảo, phúc khảo, sơ khảo, tra khảo. Khẳm (nặng và đầy) thuyền chở khẳm. Khẳn: khẳn tính (gắt gỏng); mùi khăn khẳn. Khẳng (gầy còm) khẳng kheo, khẳng khiu; (thừa nhận là đúng) khẳng định. Khẩn (khai phá đất hoang) khẩn điền, khẩn hoang, khai khẩn, trưng khẩn; --cầu xin khẩn cầu, khẩn khoản, khẩn nguyện, khẩn yếu; (gấp) khẩn cấp, khẩn thiết, khẩn trương, thượng khẩn, tối khẩn. Khẩu (miệng) khẩu cung, khẩu đại bác, khẩu hiệu, khẩu khí, khẩu lịnh, khẩu phần, khẩu phật tâm xà, khẩu súng, khẩu thiệt, khẩu truyền, khẩu ước, khẩu thuyết vô bằng, khẩu vị, á khẩu, hải khẩu, cấm khẩu, cửa khẩu, già hàm lão khẩu, hộ khẩu khai khẩu, nhân khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu. Khẻ (đánh cho bể lần lần) khẻ lần, khẻ miểng sành; (đánh nhẹ vào) phạt khẻ tay, khẻ chân. Khẽ (nhè nhẹ) khẽ gật đầu, nói khẽ, hỏi khẽ, khe khẽ. Khểnh: nằm khểnh, răng khểnh, đi khấp khểnh. Khểu: đi khất khểu. Khỉ: khỉ cùi, khỉ dộc, khỉ đột, khỉ khô, khỉ khọn, khỉ mốc, rõ khỉ, thằng khỉ, nơi khỉ ho cò gáy, rung cây nhát khỉ, cây cầu khỉ. Khỉa (liên tiếp) thua khỉa ba bàn, trúng khỉa hai bàn. Khiển (sai khiến, trách) điều khiển, khiển trách, tiêu khiển. Khiễng (bên cao bên thấp) khiễng chân, khập khiễng. Khỉnh: kháu khỉnh, khinh khỉnh. Khỏ (đánh nhẹ vào) khỏ cửa, khỏ đầu, khỏ mõ, khỏ nhịp. Khoả: khoả nước, khoả mặt, khỏa cho bằng mặt, khoả lấp, khuây khoả, khoả thân. Khoải: khắc khoải. Khoản khoản đãi, bồi khoản, điều khoản, khẩn khoản, lưu khoản, tài khoản, tồn khoản, từng khoản. Khoảng: khoảng cách, khoảng đời, khoảng ba giờ khuya, khoảng chừng, khoảng đường, khoảng trống, khoảng thời gian, khoảng khoát. Khoảnh: khoảnh đất, khoảnh khắc, khoảnh ruộng, thành khoảnh. Khoẻ (mạnh, không đau) khoẻ ăn, khoẻ khoắn, khoẻ mạnh, khỏe ru, khoẻ thân, bổ khoẻ, sức khoẻ, người bịnh đã khoẻ, nghỉ khoẻ, thuốc khoẻ. Khỏi (không còn) khỏi bịnh, khỏi cần, khỏi lo, khỏi nói, khỏi sợ, chạy khỏi, đi khỏi, qua khỏi, thoát khỏi, tránh khỏi, trốn khỏi, tai qua nạn khỏi. Khỏng: lỏng khỏng Khổ: khổ ải, khổ chủ, khổ công, khổ dịch, khổ giấy, khổ hạnh, khổ hình, khổ não, khổ nạn, khổ nhọc, khổ nhục, khổ sai, khổ sở, khổ tâm, khổ thân, khổ vải, bề khổ, bể khổ, cùng khổ, cơ khổ, cực khổ, cứu khổ, đồ khổ, gian khổ, hẹp khổ, khắc khổ, khốn khổ, khuôn khổ, lao khổ, nỗi khổ, nghèo khổ, quá khổ, rộng khổ, tố khổ, sầu khổ, trái khổ qua. Khổn: nguy khổn, vây khổn. Khổng: Khổng Tử, Khổng Minh, Khổng giáo, Khổng Mạnh, cửa Khổng sân Trình; khổng lồ; (không) khổng (hổng) chịu. Khởi (bắt đầu) khởi chiến, khởi công, khởi đầu, khởi điểm, khởi hành, khởi hấn, khởi loạn, khởi nghĩa, khởi phát, khởi sự, khởi thảo, khởi thủy, khởi tố, khởi xướng, hứng khởi, phấn khởi, quật khởi, sơ khởi, mừng khấp khởi. Khuẩn vi khuẩn. Khủng (sợ hãi) khủng bố, khủng hoảng, khủng khiếp, kinh khủng. Khuyển (chó) khuyển mã, khuyển ưng. Khuỷnh: khuỷnh đất (xem Khoảnh). Khuỷu: khuỷu tay, đường đi khúc khuỷu Khử (trừ, bỏ đi) khử độc, khử tà, trừ khử, khử thổ, khử trùng.
- L - Lả (yếu sức) đói lả, mệt lả; (không đứng đắn) lả lơi, lả lúa, lả lướt, ẻo lả; (rách, tét )té lả đầu gối; (rời rạc) mưa rơi lả tả. Lã: nước lã, làm ăn lỗ lã, lệ rơi lã chã. Lải: nói lải nhải. Lãi: lỗ lãi, lời lãi, tiền lãi, lấy công làm lãi, cho vay nặng lãi, lãi suất; --giun trong ruột lãi đũa, lãi kim, sán lãi, sên lãi, con lãi. Lảy, Lẩy (dùng tay tách ra) lảy bắp, lảy đậu, lảy lá, lảy cò súng. Lảm: nói lảm nhảm, nhai lổm lảm. Lãm: duyệt lãm, lịch lãm, nhàn lãm, triển lãm. Lãn: thợ lãn công đòi lên lương Lảng: lảng cảng, lảng ồ, lảng tai, lảng nhách, lảng tránh, lảng vảng, lảng xẹt, lảng sang chuyện khác, lảng đi nơi khác, lơ lảng, khuây lảng, lỉnh lảng, xao lảng, bảng lảng. Lãng (không bó buộc) lãng du, lãng đãng, lãng mạn, lãng phí, lãng quên, lãng tử. Lảnh (âm thanh cao) lanh lảnh, lảnh lót. Lãnh lãnh chúa, lãnh cung, lãnh đạm, lãnh giáo, lãnh hội, lãnh lương, lãnh nợ, lãnh thổ, lãnh thưởng, lãnh vực, bản lãnh, bảo lãnh, cương lãnh, hàng lãnh, phát lãnh, quần lãnh; (chức quan) lãnh binh, lãnh sự; (đứng đầu) lãnh đạo, lãnh tụ, thống lãnh, thủ lãnh. Lảo: lảo đảo. Lão (già) lão ấu, lão bá, lão bộc, lão gia, lão già, lão khẩu, lão luyện, lão phu, lão thành, lão trượng, cây đã lão, dưỡng lão, nguyệt lão, ra lão, trưởng lão; Lão Tử, Lão giáo. Lảu (thuộc làu) lảu thông, thuộc lảu. Lẳn (săn chắt) béo lẳn, đôi vai tròn lẳn; lẳn mẳn. Lẳng: lẳng lặng, khu lẳng, lủng lẳng, lẳng nhẳng; (khêu gợi) lẳng lơ, cặp mắt lẳng, cười lẳng, tánh lẳng. Lẳm (giữ chặt) lăm lẳm. Lẩm lẩm bẩm, lẩm nhẩm, lẩm rẩm, chưa già mà đã lẩm cẩm. Lẫm: ắp lẫm, lẫm lúa, lẫm liệt, mới biết đi lẫm đẫm, oai phuông lẫm lẫm. Lẩn: lẩn khuất, lẩn lút, lẩn núp lẩn quẩn, lẩn quất, lẩn thẩn, lẩn tránh, lẩn trốn. Lẫn: cả tôi lẫn anh, giúp lẫn nhau, trộn lẫn; (lầm lộn, hay quên) già lẫn, lẫn lộn, lầm lẫn, lú lẫn, nói lẫn. Lẩu: lẩu cá, lẩu lươn, nấu lẩu, ăn nói lẩu bẩu. Lẩy: run lẩy bẩy, lẩy cò súng, lẩy (trích ra) một câu Kiều. Lẫy: lẫy lừng, lộng lẫy, cãi lẫy, nói lẫy, lẫy nỏ, giận lẫy. Lẻ (không đủ đôi) lẻ bạn, lẻ bầy, lẻ loi, lẻ tẻ, bán lẻ, chẵn lẻ, tiền lẻ, một trăm lẻ năm, số lẻ. Lẽ lấy lẽ, phận lẽ mọn, vợ lẽ, lặng lẽ; (cái lý phải vậy) lẽ dĩ nhiên, lẽ nào, lẽ phải lẽ ra, lẽ sự, lẽ thường, cãi lẽ, có lẽ, chẳng lẽ, đủ lẽ, hợp lẽ, không lẽ, lý lẽ, quá lẽ, trái lẽ. Lẻm (bén lắm) sắc lẻm, lem lẻm. Lẻn (lén, lỏn đi) lẻn trốn, lẻn đi mất, trộm lẻn vào nhà; --rụt rè cười lỏn lẻn, bộ xẻn lẻn. Lẽn (dáng hổ thẹn) bẽn lẽn. Lẻng kẻng (tiếng khua) Lẻo: lẻo lự, lẻo mép, hớt lẻo, lỏng lẻo, mách lẻo, thèo lẻo, chối leo lẻo, nước trong leo lẻo. Lẽo: lạnh lẽo, lạt lẽo, lẽo đẽo. Lể (dùng vật nhọn cạy lên) cắt lể, lể gai, lể mụn, lể ốc bà thầy lể đẹn, dùng kim lể cái dằm ra, kể lể. Lễ (có phép tắc) lễ độ, lễ phép, giữ lễ, ngày lễ, nghỉ lễ, thi lễ; (đem tài vật để cầu) lễ cưới, lễ hỏi, lễ lộc, lễ vật, dâng lễ, sính lễ, lễ mễ (bày tỏ kính ý) lễ bái, lễ bộ, lễ giáo, lễ nghi, lễ nghĩa, lễ nhạc, lễ phục, hành lễ, miễn lễ, tế lễ, thất lễ, vô lễ. Lễn: lễn thễn Lểnh: lểnh lảng, sâu bò lểnh nghểnh. Lểu: nhọn lểu, lểu ngoài da, may lểu mũi kim, lểu lảo, bập lểu. Liễm: nguyệt liễm, niên liễm, hưu liễm, thâu liễm. Liễn: liễn trướng, liễn đối, viết liễn, treo liễn, dán liễn, đôi liễn cẩn. Liểng: thua xiểng liểng. Liễu: liễu ngõ hoa tường, liễu bồ, liễu yếu đào tơ, bông tai lá liễu, dương liễu, mày lá liễu, bịnh hoa liễu, kết liễu. Lỉnh: lỉnh kỉnh, lỉnh lảng, lỉnh nghỉnh, láu lỉnh, nó lỉnh đâu mất rồi? Lĩnh, Lãnh: lĩnh giáo, lĩnh hội, lĩnh lương, lĩnh nợ, lĩnh ý, lĩnh thưởng, lĩnh vực, liều lĩnh, quần lĩnh. Lỏ (trợn lên) lỏ mắt ngạc nhiên. Lõ (lồi lên, ló ra) mũi lõ. Loã: loã lồ, loã thể, đồng loã, tóc loã xoã. Loãng (không đặc) mực loãng, máu loãng, pha loãng, cháo loãng. Lỏi: len lỏi, lòn lỏi, luồn lỏi, trọi lỏi, thằng lỏi con. Lõi: lõi cây, lõi bắp, lõi đời, lọc lõi, ăn chơi đã lõi, lõi dầu hơn giác gụ, tiếng Nôm Lõi. Lỏm (lén lút) học lỏm, nghe lỏm. Lõm (thụt vào) má lõm đồng tiền, rơi lõm bõm, lõm chuối, giữa lõm, lồi lõm. Lỏn: lỏn cửa sau, lỏn chỏn, lỏn đi, lỏn lẻn, lỏn tỏn, lỏn vào, thon lỏn, quần xà lỏn. Lỏng: lỏng chỏng, lỏng khỏng, lỏng ngỏng, lỏng le, lỏng lẻo, cái lỏng bỏng, buộc lỏng, cháo lỏng, đặc lỏng, giam lỏng, nắm lỏng, thả lỏng, mối dây lỏng. Lõng: nồi canh lỏng bỏng, lõng thõng, lạc lõng. Lổng: lổng chổng, lêu lổng, trống lổng. Lỗ: bùa lỗ ban, lỗ đầu, lỗ nẻ, lỗ hang, lỗ hổng, lỗ kim, lỗ lã, lỗ lời, lỗ mãng, lỗ miệng, lỗ mộng, lỗ mũi, lỗ tai, đồ lỗ bộ, đào lỗ, giùi lỗ, khoét lỗ, lủng lỗ, thô lỗ, xoi lỗ, gần xuống lỗ, ăn bữa giỗ lỗ bữa cày. Lỗi (sai, điều quấy) lỗi duyên, lỗi đạo làm con lỗi hẹn, lỗi lạc, lỗi lầm, lỗi thời, cung đàn lỗi nhịp bắt lỗi, chữa lỗi, chịu lỗi, đổ lỗi, hối lỗi, phạm lỗi, sửa lỗi, tha lỗi, thứ lỗi, tội lỗi, xin lỗi. Lổm: lổm chổm, lổm ngổm lổm lảm. Lổn: lổn ngổn, khua lổn cổn. Lở (sứt ra, rớt ra) núi lở, đê lở, vỡ lở, xoi lở trời long đất lở; (bị ghẻ khoét) lở loét, lở lói, ghẻ lở. Lỡ: lỡ bữa, lỡ bước, lỡ cỡ, lỡ cuộc, lỡ chừng, lỡ dịp, lỡ dở, lỡ duyên, lỡ đường, lỡ làng, lỡ lời, lỡ thời, lỡ tay, lỡ tàu, lỡ lầm, dĩ lỡ. Lởm: đá lởm chởm. Lởn: lởn vởn. Lũ: bè lũ, cả lũ, lam lũ, lũ lụt, mưa lũ, lũ kiến đàn ong, lũ lượt, nước lũ, từng lũ. Lủa: lủa tủa . Lủi: lủi đi, lủi mất, lủi vô bụi, lủi thủi, lủi trốn, lằm lủi, trụi lủi, rau húng lủi. Luỗi (mệt quá sức) đói luỗi, mệt luỗi. Lủm (ăn gọn cả miếng) bốc lủm, làm không đủ lủm. Lủn (ngắn, vụn, nhỏ) áo ngắn lủn củn, thấp bé lủn củn, lủn mủn lẳn mẳn. Lũn: mềm lũn (mềm nhũn) Lủng: lủng lẳng, lủng lỉnh, nội bộ lủng củng, đồ đạc lủng củng, câu văn lủng củng, lung lơ lủng lưởng; --thủng lủng lỗ, chọc lủng, đâm lủng, xoi lủng, quần lủng đáy. Lũng: thung lũng, lũng đoạn. Luỹ: tích luỹ, luỹ thừa, luỹ tiến, luỹ tre xanh; --thành, rào chiến luỹ, đồn luỹ, hào luỹ, thành luỹ. Lử (lả) đói lử, mệt lử, nhọc lử, say lử. Lữ: lữ điếm, lữ đoàn, lữ hành, lữ khách, lữ quán, lữ thứ, lữ xá, quân lữ. Lửa: lửa củi, lửa dục, lửa hận, lửa lòng, lửa trại, bén lửa, binh lửa, chữa lửa, dế lửa dầu lửa, dừa lửa, đá lửa, kiến lửa, nảy lửa, núi lửa, nằm lửa, nhạy lửa, xe lửa, nhúm lửa, bò cạp lửa, rắn hổ lửa, thổi lửa, thử lửa, tánh nóng như lửa. Lữa: cứ lần lữa mãi. Lửng: bỏ lửng, lấp lửng, lơ lửng, lưng lửng, quên lửng, ăn lửng dạ, treo lửng lơ. Lững: mặt đỏ lững (đỏ lưỡng), sưng đỏ lững, lững chững, lững đững lờ đờ, lắc lơ lắc lững, lơ lững, lững lờ, đi lững thững, lững thờ lững thững. Lưỡi lưỡi bào, lưỡi cày, lưỡi gà, lưỡi câu, lưỡi cưa, lưỡi lê, lưỡi dao, lưỡi gươm, lưỡi hái, lưỡi khoan, lưỡi không xương, trăng lưỡi liềm, đầu môi chót lưỡi, miệng lằn lưỡi mối, nón lưỡi trai, cá lưỡi trâu. Lưỡng: đỏ lưỡng, kỹ lưỡng; (hai, một đôi) lưỡng ban, lưỡng cực, lưỡng diện, lưỡng lự, lưỡng quyền, lưỡng thể, lưỡng toàn, lưỡng ước, lưỡng viện quốc hội, nhất cử lưỡng tiện, tấn thối lưỡng nan, lưỡng đầu thọ địch.
- M - Mả (chỗ chôn người chết) mả mồ, bốc mả, đào mả, giẫy mả, gà mở cửa mả, mèo mả gà đồng. Mã (đồ bằng giấy để đốt cúng) đồ mã, đốt xx, hàng mã, thợ mã, vàng mã; (dáng bề ngoài) gái ra mã, trổ mã, tốt mã rã đám; (ngựa) binh mã, phò mã, kỵ mã, khuyển mã, xe song mã, hát bài tẩu mã, mã thượng anh hùng, trường đồ tri mã lực; (tên cây, tên bịnh) cây mã đề, cây mã tiền, bịnh xỉ tẩu mã; (dấu hiệu) mật mã, mã số, mã tự; (tên đá quý) mã não; (tên xứ) Mã-Lai, La-Mã; bắn mã tử, dao mã tấu. Mải (ham mê, cứ) mải ham chơi, mải học, mải mê, mải miết, mải lo. Mãi (luôn luôn, hoài) mãi mãi, nói mãi, chờ mãi tới khuya, nghĩ mãi không ra; (mua bán) (Mại) mãi dâm, mãi lộ, mãi võ, tạo mãi, thương mãi. Mảy: mảy may, mảy lông, ngồi tréo mảy. Mãn (trọn, đầy đủ) mãn cuộc, mãn đời, mãn hạn, mãn khóa, mãn kiếp, mãn kỳ, mãn nguyện, mãn nhãn, mãn phần, mãn tang, mãn tiệc, bất mãn, nhân mãn, sung mãn, tự mãn, thỏa mãn, viên mãn; Mãn-Châu, Mãn Thanh. Mảng: mảng lo chơi quên học, tróc một mảng da, chiếc mảng (cái bè nhỏ), trái mảng cầu, bén mảng, chểnh mảng. Mãng: ăn nói lỗ mãng. Mảnh: mảnh bằng, mảnh chiếu, mảnh giấy, mảnh giẻ, mảnh gỗ, mảnh gương, mảnh hồng nhan, mảnh khảnh, ăn mảnh, mảnh mai, mỏng mảnh, mảnh vũ y, mảnh vườn, thân hình mảnh dẻ. Mãnh: ma mãnh, ông mãnh, ranh mãnh; (mạnh) mãnh hổ, mãnh liệt, mãnh lực, mãnh thú, mãnh tiến, dũng mãnh. Mão (bao trọn) mão hết món hàng, lãnh làm mão, mua mão hết; (mũ đội) áo mão, mũ mão; (tuổi Mẹo) năm Mão, giờ Mão, tháng Mão, tuổi Mão. Mẳn (hơi mặn) măn mẳn, cá kho mẳn; (nhỏ) lẳn mẳn, tẳn mẳn, tấm mẳn. Mẩm: chắc mẩm. Mẫm (mập tròn) béo mẫm, trâu đực mẫm. Mẩn: mê mẩn, tẩn mẩn. Mẫn: mẫn cán, mẫn đạt, mẫn tiệp, cần mẫn, minh mẫn, muồi mẫn. Mẩu (đoạn ngắn, nhỏ) mẩu bánh, mẩu chuyện, mẩu đời, mẩu gỗ. Mẫu (mẹ) mẫu hạm, mẫu hậu, mẫu hệ, mẫu nghi, mẫu quốc, mẫu số, mẫu thân, mẫu tự, tình mẫu tử, bá mẫu, dưỡng mẫu, hiền mẫu, kế mẫu, lão mẫu, nhũ mẫu, phụ mẫu, sư mẫu, tổ mẫu, từ mẫu; --kiểu mẫu mực, gương mẫu, kiểu mẫu, khuôn mẫu, người mẫu, ra mẫu; --đơn vị đo đất, tên hoa sào mẫu, hoa mẫu đơn. Mẩy: mình mẩy. Mẻ (sứt, bể chút ít) dao mẻ, chén mẻ, khờn mẻ, sứt mẻ; --chuyến, lượt một mẻ cá, kéo một mẻ lưới, bị một mẻ trộm, con mẻ (con mẹ ấy), mát mẻ, mới mẻ. Mẽ mạnh mẽ. Mễ (gạo) mễ cốc, gạo trầm mễ. Mỉ: tỉ mỉ Mỹ: mỹ cảm, mỹ lệ, mỹ mãn, mỹ miều, mỹ nhân, mỹ nghệ, mỹ nữ, mỹ sắc, mỹ phẩm, mỹ quan, mỹ thuật, mỹ tửu, mỹ viện, mỹ vị, mỹ ý, hoa mỹ, chân thiện mỹ; Âu Mỹ, Mỹ Châu, mỹ kim, Mỹ Quốc. Mỉa: mỉa mai, nói mỉa, cười mỉa. Miễn (cho, khỏi, tha) miễn chấp, miễn cứu, miễn cưỡng, miễn dịch, miễn lễ, miễn nghị, miễn nhiễm, miễn phí, miễn thuế, miễn tố, miễn tội, miễn trách, miễn trừ, bãi miễn, xá miễn; (chỉ cần ... là được) miễn là, miễn sao; (đừng) xin miễn vào, miễn hỏi. Miểng (mảnh bể nhỏ) miểng chén, miểng chai, miểng sành, miểng vùa. Miễu (chùa nhỏ, am) miễu bà, miễu ông tà, miễu thánh, đình miễu, cao như tre miễu. Mỉm (cười hé miệng) mỉm cười, mủm mỉm. Mỏ (miệng loài thú) mỏ chim, mỏ chuột, mỏ heo, quẹt mỏ, khua môi múa mỏ; (vùng đất có khoáng chất) mỏ bạc, mỏ chì, mỏ kẽm, mỏ than, mỏ vàng, đào mỏ, hầm mỏ, khai mỏ, phu mỏ; (tên vật) mỏ ác, mỏ hàn, mỏ neo, cái mỏ vịt, chim mỏ nhát, nói mắt nói mỏ, mắng mỏ Mõ (nhạc khí bằng gỗ) chuông mõ, đánh mõ, mõ toà, mõ hồi một, gõ mõ, thằng mõ. Mỏi (mệt, rũ riệt) mỏi chưn, mỏi cổ, mỏi lưng, mỏi mắt, mỏi mê, mỏi mệt, mỏi miệng, mỏi tay, mong mỏi, mòn mỏi, nhức mỏi. Mỏm (phần de ra) mỏm đá, mỏm núi, mỏm gành. Mõm (miệng loài thú) mõm chó, mõm heo. Mỏn (hết hơi sức) mỏn chí, mỏn hơi, mỏn sức, thỏn mỏn. Mỏng (không dầy) mỏng dánh, mỏng lét, mỏng manh, mỏng mảnh, mỏng tanh, mỏng te, dày mỏng, giấy mỏng, môi mỏng, phận mỏng, vải mỏng, cam mỏng vỏ. Mổng (mông đít) to mổng, vêu mổng. Mổ (dùng mỏ mà bắt) cò mổ cá, gà mổ thóc, chày mổ; (xẻ banh ra) khoa mổ xẻ, sả mổ, mổ bụng, mổ ruột, mổ tử thi. Mỗ (tôi, tiếng tự xưng) như mỗ đây, mỗ tên là ... Mỗi (từng cái một) mỗi khi, mỗi lần, mỗi lúc, mỗi mỗi, mỗi một, mỗi ngày, mỗi người, mỗi thứ, mỗi việc. Mở (tháo ra, khui ra) mở banh, mở bét, mở cửa mở đường, mở hàng, mở hé, mở hí, mở hoác, mở hơi, mở lời, mở mang, mở màn, mở mắt, mở miệng, mở rộng, mở toang, mở trói, mở tung, cổi mở, úp mở, mở cuộc điều tra, gà mở cửa mả, mở đầu buổi họp. Mỡ (chất béo) mỡ bò, mỡ chài, mỡ gà, mỡ gàu, mỡ sa, dầu mỡ, khoai mỡ, lăng mỡ, mạng mỡ, màu mỡ, thắng mỡ, thịt mỡ, tre mỡ, trững mỡ, rán sành ra mỡ, như mèo thấy mỡ. Mởn (hơi trắng, tươi, mượt) nước da mởn, mơn mởn. Mủ (nhựa trong da cây) mủ cây, mủ cao su, mủ mít, mủ sung, mủ trôm; (chất độc nơi ghẻ) mủ máu, chảy mủ, chích mủ, nặn mủ, cương mủ, ra mủ, làm mủ làm nhọt hoài! (mụ ấy) mủ mới vừa đi khỏi. Mũ (mão, nón) mũ cánh chuồn, mũ ni, mũ lưỡi trai, ngả mũ chào mang râu đội mũ. Mủi: mủi lòng. Mũi (để thở và ngửi) mũi cao, mũi dọc dừa, mũi gãy, mũi hỉnh, mũi dãi, mũi lõ, mũi xẹp, bịt mũi, hỉ mũi, khịt mũi, lỗ mũi, nghẹt mũi, nhảy mũi, nín mũi, sổ mũi, sống mũi, còn mặt mũi nào; (phần nhọn) mũi dao, mũi dùi, mũi giày, mũi khoan, mũi kim, mũi lái, mũi nhọn, mũi tàu, lằn tên mũi đạn, chích một mũi thuốc, té chúi mũi. Muỗi (con muỗi) muỗi cỏ, muỗi đòn xóc, muỗi mòng, đập muỗi, nhang muỗi, ruồi muỗi, thuốc xịt muỗi. Mủm: mủm mỉm. Mủng: thúng mủng, đi mủng (thuyền nan tròn) Muỗng (để múc thức ăn) muỗng nỉa, muỗng xúp, muỗng cà phê. Mửa (ói vọt, nôn ra) buồn mửa, ói mửa, muốn mửa, nôn mửa, ụa mửa, iả mửa, mửa máu, mửa tới mật xanh. Mửng (lối, kiểu, điệu) quen mửng cũ, cứ cái mửng đó hoài. Mưỡu: câu hát thể lục bát ở đầu hoặc cuối bài hát nói. Mỹ (xem Mĩ)
- N - Nã (bắn mạnh) nã đạn (tìm bắt) nã tróc, tầm nã, tập nã, truy nã; Nã-phá-Luân. Nải (nhiều trái kết lại) nải chuối, trễ nải, tay nải (túi vải có quai đeo). Nảy (trổ, phát ra) nảy bông, nảy chồi, nảy lộc, nảy lửa, nảy mầm, nảy nở, nảy sanh, nóng nảy. Nãy (lúc vừa qua) nãy giờ, ban nãy, hồi nãy, khi nãy, lúc nãy. Nảy, Nẩy (đưa ra, ễn ra) nẩy bụng, nẩy ngực, giật nẩy mình, nẩy ngửa, nung nẩy, cầm cân nẩy mực. Nản (ngã lòng, chán) nản chí, nản lòng, buồn nản, chán nản. Nảng (nàng ấy.) Nảo (bài viết nháp) nảo đơn, nảo thơ, ra nảo. Não (buồn, phiền) não lòng, não nề, não nùng, não nuột, não ruột, ảo não, khổ não, phiền não, sầu não, thảm não; (óc, trí hóa) cân não, chủ não, tâm não, trí não; (loại đá) long não, mã não. Nẳm (năm ấy) (nói tắt) Nẻ (nứt ra) đất nẻ, lỗ nẻ, nứt nẻ, cười như nắc nẻ. Nẻo: chỉ nẻo đưa đường, khắp các nẻo đường. Nể (kiêng dè) nể lời, nể mặt, nể nang, nể vì, cả nể, kiêng nể, kính nể, vị nể. Nỉ (vải dệt bằng lông) áo nỉ, mền nỉ, nón nỉ, nỉ non, nài nỉ, năn nỉ. Nỉa: muỗng nỉa. Niểng: đi xà niểng, xiểng niểng. Nỉnh: nủng na nủng nỉnh. Nỏ (cái ná) bắn nỏ, cung nỏ. Noãn (trứng) noãn bào, noãn sào. Nõn (búp non, đẹp) nõn cau, nõn tre, cây mới ra nõn, trắng nõn, nõn nà. Nổ (bật thành tiếng) nổ bùng, nổ máy, nổ vang pháo nổ, sấm nổ, súng nổ Nỗ: nỗ lực Nổi (không chìm,) nổi bật, nổi bọt, nổi cặn, nổi phình, nổi trôi, chạm nổi, của nổi, ghe nổi, trái nổi, ba chìm bảy nổi; (dậy lên, phát sinh) nổi cơn, nổi danh, nổi dậy nổi dông, nổi điên, nổi giặc, nổi giận, nổi hạch, nổi khùng, nổi lửa, nổi loạn, nổi mụn nổi nóng, nổi ốc, nổi sóng nổi vồng, nổi xung; (kham được) chịu nổi, làm nổi, trả nổi, vác nổi. Nỗi (tình cảnh, tâm trạng) nỗi buồn, nỗi lòng, nỗi niềm tâm sự, nỗi sầu, nông nỗi nầy, đường kia nỗi nọ, không đến nỗi nào. Nổng (chỗ đất cao) gò nổng, nổng cát. Nở gà nở, hoa nở, nảy nở, niềm nở, nức nở, sinh nở, sâu nở, nở mày nở mặt, nở mũi, nở nang, nở gan, nở nhụy khai hoa, nở nụ cười, gà con mới nở Nỡ (đành lòng) chẳng nỡ, sao nỡ đành, nỡ lòng nào. Nỡm (tiếng mắng) đồ nỡm! Nũng (nhỏng nhẻo) nũng nịu, làm nũng. Nữ (con gái, đàn bà) nữ công, nữ giới, nữ nhi, nữ hoàng, nữ kiệt, nữ lưu, nữ sắc, nữ sinh, nữ sĩ, nữ trang, ái nữ, cung nữ, chức nữ, liệt nữ, mỹ nữ, phụ nữ, thục nữ, trinh nữ Nửa (phân nửa) nửa buổi, nửa cân, nửa chừng, nửa đêm, nửa đường, nửa giờ, nửa mùa, nửa sạc, nửa vời, nửa nạc nửa mỡ, nửa người nửa ngợm. Nữa (hảy còn, chưa hết) nữa thôi? còn nữa, chút nữa, hơn nữa, lát nữa, nữa là. Nữu Ước: tên thành phố.
- Ng - Ngả (nẻo, lối đi) phân chia đôi ngả, đường chia ba ngả, đi ngả nào? (nghiêng, hạ xuống) ngả lưng, ngả mình nằm, ngả mũ chào, ngả nón, ngả nghiêng, ngả ngửa, áo cũ đã ngả màu, bóng ngả xế tà, ngả ngớn, ngả xiêu ngả tó, ngả qụy. Ngã: nghiệt ngã; (ta, tôi) bản ngã, duy ngã, vô ngã; (nơi có nhiều đường rẽ) ngã ba, ngã tư, ngã bảy, trước ngã ba cuộc đời; (té, đổ lăn xuống) ngã bịnh, ngã bổ chửng, ngã chổng gọng, ngã chúi, ngã gục, ngã giá, ngã lòng, ngã lăn, ngã lẽ, ngã mặn, ngã lộn phèo, ngã nhào, ngã rạp, ngã ngũ, sa ngã, ngã nước, ngã ngửa, ngã rạp, ngã sấp, vấp ngã, vật ngã, xô ngã, dấu ngã, chị ngã em nâng. Ngải (cây thuốc) ngải cứu, ngải diệp, ngải mê, ngải nghệ bỏ ngải, bùa ngải, mắc ngải, thầy ngải. Ngãi (nghĩa, tình nghĩa) nhân ngãi, ân ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. (Xem Nghĩa) Ngảnh, Ngoảnh (xoay về một phía nào) ngoảnh cổ, ngoảnh đi, ngảnh (ngoảnh) mặt làm lơ. Ngẳn (vắn, ngắn) cụt ngẳn, ngủn ngẳn. Ngẵng (bóp hẹp lại) thắt ngẵng cổ bồng. Ngẩm: ngán ngẩm, ngứa ngẩm. Ngẫm (suy gẫm, nghĩ kỹ) ngẫm nghĩ, suy ngẫm, nghiền ngẫm, ngẫm sự đời. Ngẩn (đờ ra) ngẩn mặt làm thinh, ngẩn người, ngẩn ngơ, ngẩn tò te, ngớ ngẩn. Ngẩng (ngửng lên) ngẩng cổ, ngẩng đầu, ngẩng mặt, ngẩng nhìn. Ngẫu (tình cờ) ngẫu duyên, ngẫu hứng, ngẫu hợp, ngẫu nhiên, biền ngẫu, giai ngẫu. Nghẽn (không thông) nghẽn cổ, nghẽn lối, mắc nghẽn, tắc nghẽn. Nghẻo xem Ngoẻo. Nghẽo cười ngặt nghẽo. Nghể: bể nghể muốn bịnh, cây nghể, lá nghể. Nghễ ngạo nghễ. Nghển (vương lên) nghển cổ, nghển đầu. Nghễnh nghễnh ngãng (điếc tai). Nghểu ngất nga ngất nghểu, nghểu nghến. Nghễu (thật cao) cao nghễu, nghễu nghện. Nghỉ (không làm việc) nghỉ chân, nghỉ học, nghỉ hè, nghỉ lễ, nghỉ mát, nghỉ ngơi, nghỉ phép, nghỉ việc, nằm nghỉ. Nghĩ (suy xét) nghĩ bụng, nghĩ cách, nghĩ lại, nghĩ mưu, nghĩ ngợi, nghĩ tình, nghĩ tới, biết nghĩ, lo nghĩ, ngẫm nghĩ, suy nghĩ, thiển nghĩ, thiết nghĩ, trộm nghĩ, ý nghĩ, nghĩ thế nào? thật là khó nghĩ. Nghĩa: nghĩa bóng, nghĩa bộc, nghĩa cử, nghĩa đen, nghĩa địa, nghĩa hiệp, nghĩa huynh, nghĩa khí, nghĩa mẫu, nghĩa nữ, nghĩa phụ, nghĩa quân, nghĩa sĩ, nghĩa tử, nghĩa trang, nghĩa vụ, ân nghĩa, bạc nghĩa, bất nghĩa, cắt nghĩa, chánh nghĩa, chữ nghĩa, giải nghĩa, kết nghĩa, lễ nghĩa, phi nghĩa, tín nghĩa, tình nghĩa, tiết nghĩa, trọng nghĩa, trung nghĩa, ý nghĩa. Nghiễm: nghiễm nhiên. Nghĩnh: ngộ nghĩnh. Ngỏ (bày tỏ, không giấu) ngỏ lòng, ngỏ lời, ngỏ ý, cửa bỏ ngỏ, thơ để ngỏ. Ngõ (lối đi) ngõ cụt, ngõ hẻm, ngõ hầu, ngõ hậu, ngõ ngách, ngõ tắt, rào đường đón ngõ; cửa ngõ. Ngoải (ngoài ấy) ở ngoải, ra ngoải, bịnh còn ngoắc ngoải. Ngoảy, Nguẩy: ngoay ngoảy, tréo ngoảy, ngoảy đuôi, ngoe ngoảy. Ngoảm: nhai ngổm ngoảm. Ngoãn: ngoan ngoãn. Ngoảnh (xoay nơi khác) ngoảnh đi ngoảnh lại, ngoảnh mặt làm ngơ. Ngoẳn: ngủn ngoẳn. Ngoẻo: ngoẻo cổ, ngoẻo đầu, chết ngoẻo. Ngoẻn: cười ngỏn ngoẻn. Ngỏm: chết ngỏm, tắt ngỏm, em bé bò ngỏm dậy. Ngỏn: cười ngỏn ngoẻn. Ngỏng (vươn cao lên) ngỏng cổ nhìn lên, cao ngỏng ngảnh, cao chê ngỏng thấp chê lùn. Ngõng (chốt để tra vào lỗ) ngõng cối, ngõng cửa. Ngổ (táo bạo) ngổ ngáo, tánh ngổ; ăn nói ngổ. Ngỗ (bướng bỉnh) ngỗ nghịch, ngỗ ngược. Ngổm: bò lổm ngổm, nhai ngổm ngoảm. Ngổn: ngổn ngang. Ngổng: cao ngông ngổng, ngổng nghểnh,lổng ngổng Ngỗng (loại vịt to, dài cổ) ngỗng đực, ngỗng trời, cà kê dê ngỗng. Ngỡ: ngỡ ngàng, bỡ ngỡ, ngỡ là, ngỡ rằng. Ngủ: ngủ gật, ngủ gục, ngủ khì, ngủ khò, ngủ li bì, ngủ mê ngủ nghê, ngủ nướng, ngủ quên, ngủ say, ngủ thiếp, ngủ vùi. Ngũ (số năm) ngũ âm, ngũ cốc, ngũ cung, ngũ giác đài, ngũ gia bì, ngũ giới, ngũ hành, ngũ hổ, ngũ kim, tứ thư ngũ kinh, ngũ quan, ngũ sắc, ngũ vị, ngũ tạng, ngôi cửu ngũ, tam cang ngũ thường; (quân lính) cơ ngũ, đào ngũ, đội ngũ, hàng ngũ, nhập ngũ, quân ngũ, tại ngũ, tựu ngũ. Nguẩy: ngoe nguẩy, nguây nguẩy. Ngủi: ngắn ngủi. Ngủm, Ngỏm: chết ngủm, tắt ngủm. Ngủn: cụt ngủn, ngắn ngủn, ngủn ngẳn, ngủn ngoẳn. Nguyễn: họ Nguyễn. Nguỷu: tiu nguỷu. Ngữ: ngữ học, ngữ pháp, ngữ vựng, biểu ngữ, ngạn ngữ, ngoại ngữ, ngôn ngữ, quốc ngữ, tục ngữ, từ ngữ. Ngửa (ngước, trở mặt lên) ngửa mặt, dựa ngửa, nằm ngửa, lội ngửa, ngã ngửa, ngang ngửa, nghiêng ngửa, sấp ngửa, té ngửa. Ngửi (hửi bằng mũi) ngửi hoa, ngửi mùi, ngửi hơi. Ngửng xem Ngẩng. Ngưởng: ngất ngưởng. Ngưỡng: ngưỡng cầu, ngưỡng cửa, ngưỡng mộ, ngưỡng vọng, ngưỡng trông, chiêm ngưỡng, tín ngưỡng.
-Nh - Nhả (phun ra) nhả mồi, tầm nhả tơ, nhả ngọc phun châu; (tróc, rớt ra) nhả hồ, nhả sơn; (không lịch sự) chớt nhả, nhả nhớt. Nhã: nhã giám, nhã nhặn, nhã ý, hoà nhã, nho nhã, khiếm nhã, nhàn nhã, nhục nhã, phong nhã, tao nhã, trang nhã, Bát-Nhã. Nhải: lải nhải. Nhãi (thằng bé) thằng nhãi ranh, thằng nhãi con. Nhảy, Nhẩy: nhảy bậc, nhảy bổ, nhảy cà tưng, nhảy cửng, nhảy dù, nhảy dựng, nhảy đầm, nhảy mũi, nhảy nhót, nhảy nhổm, nhảy phóc, nhảy rào, nhảy sóng, bay nhảy, chạy nhảy, gà nhảy ổ, gái nhảy. Nhảm (bậy bạ) nhảm nhí, nói nhảm, đồn nhảm, tin nhảm. Nhản: nhan nhản, chan nhản. Nhãn (con mắt) nhãn khoa, nhãn lực, nhãn quang, nhãn tiền, ám nhãn, độc nhãn; (trái tròn, ngọt) long nhãn, nhãn nhục, nhãn lồng; (dấu hiệu) dán nhãn, nhãn hiệu. Nhãng (quên) xao nhãng (xao lãng), nhãng quên (lãng quên). (Xem Lãng) Nhảnh (kém đứng đắn) nhỏng nhảnh, nhí nhảnh. Nhão (mềm, lỏng) nhão nhẹt, cơm nhão, đất nhão, nhểu nhão. Nhảu: cảu nhảu, lảu nhảu nhanh nhảu (nhẩu). Nhẳn: cằn nhằn cẳn nhẳn, đau nhăn nhẳn. Nhẵn (mòn lẵn, trơn) nhẵn bóng, nhẵn lì, nhẵn nhụi, nhẵn thín, mòn nhẵn, hết nhẵn. (Xem Lẵn) Nhẵng: việc còn nhũng nhẵng, dài nhằng nhẵng. Nhẩm (lầm thầm) đọc nhẩm, tính nhẩm, học nhẩm, lẩm nhẩm. Nhẩn: nhẩn nha. Nhẫn (cà rá) nhẫn cưới, nhẫn xoàn; (hơi đắng) nhân nhẫn, nhẫn nhẫn; (đến) từ ấy nhẫn nay; (nhịn, dằn lòng) nhẫn nại, nhẫn nhịn, nhẫn nhục, kiên nhẫn; (nỡ lòng) nhẫn tâm, tàn nhẫn, bất nhẫn Nhẩu: nhanh nhẩu. Nhẻ: biếm nhẻ, nhỏ nhẻ. Nhẽ xem Lẽ. Nhẽo: nheo nhẽo, nhõng nhẽo. Nhễ: mồ hôi nhễ nhại. Nhểu (chảy từng giọt) nhểu nhão, nhểu dầu, thèm nhểu nước miếng. Nhỉ (tiếng hỏi) đẹp nhỉ? vui nhỉ? ừ nhỉ; (chảy từ chút) nước mắm nhỉ. Nhĩ (lỗ tai) lỗ nhĩ, màng nhĩ, mộc nhĩ. Nhiễm (nhuốm,vướng) nhiễm bịnh, nhiễm độc, tiêm nhiễm, ô nhiễm, truyền nhiễm, nhiễm trùng. Nhiễn, Nhuyễn: bột xay nhiễn, nhiễn bân, nhiễn nhừ. Nhiễu (loại hàng dệt) nhiễu điều, khăn nhiễu, dịu nhiễu; (phiền, loạn) nhiễu hại, nhiễu loạn, nhiễu nhương, nhiễu sự, phiền nhiễu, quấy nhiễu. Nhỏ (bé) nhỏ con, nhỏ dại, nhỏ lớn nhỏ mọn, nhỏ nhặt, nhỏ nhen, nhỏ nhẹ, nhỏ nhít, nhỏ nhoi, nhỏ to, nhỏ thó, nhỏ xíu, bỏ nhỏ, nói nhỏ, xắt nhỏ, thuở nhỏ, thằng nhỏ; (nhểu từng giọt) nhỏ giọt, giọt lụy nhỏ sa, thèm nhỏ dãi. Nhoẻn (nhích miệng) nhoẻn miệng cười. Nhõi: nhiều nhõi, nhờ nhõi. Nhõm: nhẹ nhõm. Nhỏng: nhỏng nha nhỏng nhảnh. Nhõng: nhõng nhẽo như trẻ con. Nhổ (bứng gốc) nhổ cỏ, nhổ lông, nhổ mạ, nhổ neo, nhổ răng, nhổ sào, nhổ tóc, nhổ trại; (phun, phẹt ra )nhổ cổ trầu, khạc nhổ, ống nhổ, phỉ nhổ, phun nhổ. Nhổm (nhớm lên) nhổm dậy, nhổm tóc gáy, nhảy nhổm, nhấp nhổm. Nhở: nhắc nhở, nham nhở, nhăn nhở, nhớn nhở. Nhỡ xem Lỡ Nhởn: nhởn nhơ, nhởn nha. Nhỡn xem Nhãn Nhủ (khuyên bảo) khuyên nhủ, nhắn nhủ, nhủ thầm, tự nhủ. Nhũ (vú, sữa, cho bú) nhũ bộ, nhũ danh, cây nhũ hương, nhũ mẫu, nhũ nương, thạch nhũ. Nhủi (lủi tới) nhủi đầu xuống, té nhủi, trốn chui trốn nhủi, chạy nhủi, dế nhủi. Nhủn (mất tinh thần) sợ nhủn người. Nhũn (không kiêu) nhũn nhặn, xử nhũn. Nhũng (gian dối) nhũng lạm, nhũng nhẵng, nhũng nhiễu, tham nhũng Nhuyễn (mịn, mềm) bột nhuyễn, nhuyễn cốt, nhuần nhuyễn (xem Nhiễn). Nhử (dụ bằng mồi) câu nhử, nhử thú, nhử quân địch. Nhửi: cằn nhằn cửi nhửi Những (nói về số nhiều) những kẻ, những ngày, những lúc, những tưởng, chẳng những.
- O - Oải: oải gân, uể oải. Ỏi: inh ỏi, ít ỏi. Ỏm: la ỏm tỏi, cãi ỏm lên. Ỏn: ỏn ẻn. Ỏng: bụng ỏng. Õng: đi đứng õng ẹo. Ổ: ổ bánh mì, ổ khóa; --chỗ ở của chim, thú ổ chim, ổ gà, ổ kiến, ổ ong, ổ yến, truy tận ổ bọn cướp. Ổi: bỉ ổi, cây ổi, trái ổi. Ổn (yên, êm thuận) ổn định, ổn thỏa, an ổn. Ổng: ổng bả, ông ổng. Ở: ở ác, ở ẩn, ở cữ, ở dơ, ở dưới, ở đậu, ở đợ, ở goá ở không, ở mướn, ở trần, ở trọ, ở vậy nuôi con, ăn xổi ở thì, kẻ ở người đi. Ỡm: ỡm ờ.
- P - Phả: gia phả. Phải: phải biết, phải đạo, phải đấy, phải lòng, phải phép, phải trái, vừa phải; (phía tay mặt) bên phải, tay phải; (bị, mắc) phải bịnh, phải gió, phải phạt, lầm phải, mắc phải; (buộc, ước gì) phải nghe lời cha mẹ, phải chi tôi trúng số ..., phải khi ấy ..., thái độ ba phải. Phản (chống lại, nghịch lại) phản bạn, phản bội, phản chiếu, phản chủ, phản chứng, phản công, phản cung, phản đối, phản động, phản gián, phản hồi, phản kháng, phản lực, phản loạn, phản nghịch, phản pháo, phản phúc, phản quốc, phản trắc, phản ứng, phản xạ, tương phản; (giường phản) bộ phản gỗ, kê phản. Phảng: phảng phất, lưỡi phảng. Phẳng (bằng, không lồi lõm) phẳng lặng, phẳng lì, phẳng phiu, bằng phẳng sòng phẳng. Phẩm (màu nhuộm) phẩm đỏ, phẩm xanh; (giá trị tốt xấu) phẩm cách, phẩm chất, phẩm giá, nhân phẩm; (thứ bực quan lại) phẩm cấp, phẩm hàm, phẩm trật, tột phẩm; (từng loại) phẩm loại, phẩm vật, ấn phẩm, cống phẩm; (khen chê) bình phẩm. Phẩn (cứt) phẩn bò, phẩn heo. Phẫn (bực tức) phẫn chí, phẫn nộ, phẫn uất, căm phẫn, công phẫn. Phẫu (mổ xẻ) giải phẫu, phẫu thuật. Phẩy: chấm phẩy, dấu phẩy, phây phẩy, phe phẩy. Phễu: dùng phễu rót nước vào chai hay vào lọ. Phỉ: phỉ báng, phỉ chí, phỉ dạ, phỉ lòng, phỉ nhổ, thổ phỉ. Phỉnh (nói khéo để gạt) phỉnh gạt, phỉnh nịnh, phỉnh phờ, nói phỉnh. Phỏng (đoán đại khái) phỏng chừng, phỏng độ, phỏng định, phỏng đoán, mô phỏng, tính phỏng, phỏng vấn, ví phỏng; (phồng lên vì nóng) cháy da phỏng tráng, phỏng lửa, phỏng nước sôi. Phổng: lớn phổng, tầm phổng, sướng phổng mũi. Phỗng: phỗng đá, thằng phỗng, phỗng tay trên, bài tổ tôm nhiều phỗng. Phổ: phổ biến, phổ cập, phổ độ, phổ nhạc, phổ quát, phổ thông. Phổi: bổ phổi, đau phổi, lao phổi, sưng phổi. Phở: phở bò, phở gà, phở tái, phở xào. Phỡn: phè phỡn. Phủ (bao trùm) phủ đầu, phủ lấp, bao phủ, che phủ, tuyết phủ, vây phủ, nhiễu điều phủ lấy giá gương; (đầy đủ) ăn uống phủ phê; (khu vực) phủ đường, phủ thủ tướng, âm phủ, địa phủ; (bác bỏ) phủ định, phủ nhận, phủ quyết; (cuối xuống) phủ phục; (người đàn ông) ngư phủ; (chức quan) tri phủ, tuần phủ, đốc phủ, phủ huyện; (vỗ về) phủ an bá tánh, phủ dụ; (bộ phận trong người) ngũ tạng lục phủ. Phũ: phũ phàng. Phủi: phủi bụi, phủi ơn, phủi tay, phủi nợ trần. Phủng (thấu qua, lủng) đâm phủng, giùi phủng. Phưỡn (phồng bụng ra) ăn no phưỡn bụng. Phưởng (hơi giống) phưởng phất.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 6, 2011 6:51:15 GMT 9
- Q - Quả (hộp tròn có nắp) quả bánh, quả đồ may, quả đồ lễ, quả trầu; (trái, hình tròn) quả bom, quả bóng, quả cầu, quả đất, quả đấm, quả tạ, quả tim; (chắc chắn) quả có, quả nhiên, quả quyết, quả tang, quả thiệt, quả vậy; (trái cây) quả dưa, hoa quả; (kết cuộc của việc) quả báo, hậu quả, hiệu quả, kết quả, nhân quả; (cô đơn, góa bụa) cô quả, quả nữ (gái chưa chồng), quả phụ (đàn bà chồng đã chết). Quải: giỗ quải, cúng quải. Quảy (gác trên vai) quảy gánh, quảy hàng, quảy khăn gói lên đường. Quản (để ý đến và ngại) quản bao, quản chi, quản gì, quản ngại gian lao, chẳng quản nắng mưa; (ống tròn) huyết quản, khí quản; (coi sóc) quản chế, quản đốc, quản gia, quản hạt, quản lý, quản thủ, quản thúc, quản trị, cai quản, chưởng quản, tổng quản. Quảng (tên xứ) Quảng Bình, Quảng Đông, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị; (rộng rãi) quảng bá, quảng cáo, quảng đại, quảng giao; (tên bịnh) sâu quảng. Quãng (một khoảng) cách quãng, quãng trống, vào quãng ba giờ chiều, đi một quãng đường. Quảu (thúng nhỏ) rổ quảu, một quảu lúa. Quẳng (vứt bỏ, quăng) quẳng đi, quẳng xuống, quẳng vào thùng rác. Quẩn (loanh quanh) lẩn quẩn, quanh quẩn, quẩn trí, nghĩ quẩn, gà què ăn quẩn cối xay. Quẫn (nghèo túng) quẫn bách, cùng quẫn, khốn quẫn, túng quẫn. Quẩy (mang trên vai) quẩy gánh đi chợ, quẩy gói lên đường, quẩy nước tưới hoa, bánh dầu chao quẩy, xúi quẩy. Quẻ (phép bói) quẻ Diệc, bói quẻ, đặt quẻ gieo quẻ, sủ quẻ, trở quẻ. Quẽ: quạnh quẽ. Quở (rầy la) quở mắng, quở phạt, quở trách, bị quở. Quỷ, Quỉ: quỷ kế, quỷ khốc, quỷ quái, quỷ quyệt, quỷ sứ, quỷ thần, ác quỷ, đồ quỷ, ma quỷ, quỷ thuật Quỹ, Quỹ (quầy, tủ tiền) công quỹ, gây quỹ, ký quỹ, nạp quỹ, ngân quỹ, sung quỹ, thủ quỹ, quỹ đạo. Quyển: quyển sách, quyển vở, tiếng kèn tiếng quyển, té gãy ống quyển.
- R - Rả: cười ra rả, rả rich, mưa rỉ rả. Rã (rời nhau ra, mỏi mệt) rã bèn, rã bọt mép, rã đám, rã hùn, rã rời, rã sòng, rã thây, tan rã, mỏi rã chân, kêu rã họng, đói rã ruột, rã rượi, ròng rã, rộn rã. Rải (phân ra nhiều nơi) rải của, rải rác, rải truyền đơn. Rãi: chậm rãi, chẫm rãi, rộng rãi, rỗi rãi. Rảy (vung tóe ra) rảy mực, rảy nước, búng rảy, phủi rảy. Rẩy: run rẩy Rẫy (đất trồng tỉa) rẫy bái, đất rẫy, làm rẫy, ruộng rẫy; --bỏ rẫy vợ, rẫy chồng, ruồng rẫy, phụ rẫy. Rảng (lớn tiếng) rang rảng, rổn rảng; (bớt, giảm lần) mây rảng, mưa đã rảng. Rảnh (ở không) rảnh mắt, rảnh nợ, rảnh rang, rảnh rỗi, rảnh tay, rảnh việc, rảnh trí, giờ rảnh. Rãnh (đường thoát nước) mương rãnh, cống rãnh đào rãnh, khai rãnh. Rảo (bước mau) rảo bước, rảo phố, rảo quanh, chạy rảo. Rẩm: rên rẩm. Rẫm: lẫm rẫm, rà rẫm, rờ rẫm. Rẻ (không đắt tiền) rẻ mạt, rẻ rề, rẻ thúi, bán rẻ, của rẻ, giá rẻ; (khinh khi) coi rẻ, khinh rẻ, rẻ rúng, chim rẻ quạt. Rẽ (chia, tách ra) rẽ duyên, rẽ đường ngôi, rẽ ròi, rẽ thúy chia uyên, chia rẽ, con đường rẽ, rành rẽ, riêng rẽ, cái rỏ rẽ, tàu rẽ sóng, rẽ tay trái. Rể (chồng con gái mình) con rể, cô dâu chú rể, chàng rể, kén rể, làm rể, ở rể, phù rể. Rễ (rễ cây) rễ cái, rễ con, rễ chùm, bén rễ, cội rễ, đâm rễ, gốc rễ, mọc rễ. Rểu (qua lại) chạy rểu, đi rểu, thưa rểu, rểu qua rểu lại. Rỉ: mưa rỉ rả, chảy ri rỉ, rỉ hơi, rên rỉ, rỉ tai, rủ rỉ, sắt rỉ. Rĩ: rầu rĩ, rền rĩ, rầm rĩ. Rỉa (rứt từng miếng) rỉa ráy, rỉa rói, rúc rỉa, cá rỉa mồi, chim rỉa lông. Rỉnh: bụng binh rỉnh. Rỏ: thèm rỏ dãi, cái rỏ rẽ (róc rách). Rõ (minh bạch, tỏ) rõ ràng, rõ rệt, tỏ rõ, hiểu rõ, nghe rõ, thấy rõ, rõ khéo, hai năm rõ mười. Rỏi: rắn rỏi. Rõi: rõi bước. Rỏm: cỏm rỏm. Rỏn (đi rình) đi rỏn, tuần rỏn. Rỗng (không có ruột) rỗng không, rỗng ruột, rỗng tuếch, trống rỗng, thùng rỗng kêu to. Rổ: rổ may, rổ quảu, rổ rá, rổ xúc, cải rổ, chơi bóng rổ, thúng rổ. Rỗ (lỗ thẹo) mặt rỗ chằng, rỗ hoa mè, gót rỗ. Rổi: đi rổi, ghe rổi, phường rổi. Rỗi (ít việc phải làm) rỗi hơi, rỗi rãi, nhàn rỗi, rảnh rỗi, ngồi rỗi; (xin cho khỏi tội) rỗi tội, rỗi xin, cứu rỗi, tâu rỗi, tiêu rỗi. Rổn (tiếng khua) chén dĩa khua rổn rảng, ăn nói rổn rảng. Rỡ: rỡ danh, rỡ mặt rỡ mày, rỡ ràng, càn rỡ, mừng rỡ, rạng rỡ, rực rỡ, sáng rỡ. Rởm (lố lăng) ăn mặc rởm, hàng rởm, đài các rởm, bọn rởm đời, tính rởm, trò rởm. Rởn: sợ rởn tóc gáy, rởn gai ốc. Rỡn (không nghiêm) nói cà rỡn, chơi cà rỡn. Rủ (bảo theo) rủ nhau, rủ ren, rủ rê, rủ rỉ, quyến rủ [xem GHI CHÚ 1]. Rũ (lả xuống vì kiệt sức) rũ rượi, rũ liệt, cú rũ, ủ rũ, già rũ, héo rũ, tù rũ xương; (rung cho sạch) (Dũ) rũ sạch lo âu, rũ sạch nợ đời. Rủa (câu chửi trù) chửi rủa, nguyền rủa, rủa độc, rủa thầm, rủa sả. Rủi (không may) rủi ro, rủi tay, gặp rủi, may rủi, phận rủi, cuộc đời dun rủi, may ít rủi nhiều, một may một rủi. Ruổi: ruổi ngựa đuổi theo, ruổi mau, giong ruổi. Rủn (mềm, hết hăng) rủn chí, sợ rủn người, bủn rủn, mềm rủn. Ruỗng (rỗng bên trong) ruỗng nát, đục ruỗng, ruỗng xương, mọt ăn ruỗng gổ. Rửa (làm cho sạch) rửa hận, rửa hờn, rửa hình, rửa mặt, rửa ráy, rửa tay, gột rửa, phép rửa tội, tắm rửa. Rữa (rã, vữa, tàn héo) chín rữa, thúi rữa, úa rữa, hoa tàn nhụy rữa. Rưởi (phân nửa của đơn vị) trăm rưởi, ngàn rưởi, cân rưởi, chỉ rưởi, ngày rưởi, giờ rưởi, thước rưởi, chục rưởi, triệu rưởi [xem GHI CHÚ 2 về chữ Rưởi].
GHI CHÚ 1: Chữ rủ trong quyến rủ viết dấu hỏi, vì chữ rủ nầy có nghĩa rủ rê, rủ ren, dụ dỗ đến với mình. Chữ rũ dấu ngã có nghĩa rũ rượi, mệt mỏi, kiệt sức, không đúng theo nghĩa dụ dỗ, rủ ren của quyến rủ. (Đ-s-T)
GHI CHÚ 2 - VỀ CHỮ"RƯỞI" Việt Nam Tự Điển (Lê văn Đức), quyển Hạ, trang 1258, ghi: * RƯỞI phân nửa của số trăm, số ngàn sắp lên (muôn rưởi, ngàn rưởi, triệu rưởi) * RƯỠI nửa phần của một số dưới số trăm, hay của một đơn vị có kể tên (cắc rưỡi, cân rưỡi, chỉ rưỡi) Việt Ngữ Chánh Tả Tự Vị (Lê ngọc Trụ), trang 385 ghi: * RƯỞI phân nửa, số trên một trăm (ngàn rưởi, trăm rưởi, thiên rưởi) * RƯỠI (dùng với danh từ) nửa phần (cắc rưỡi, cân rưỡi, chục rưỡi, đồng rưỡi) Việt Nam Tự Điển Hội Khai Trí Tiến Đức, trang 477 ghi: *RƯỞI nửa, rưởi (trăm rưởi, nghìn rưởi) *RƯỠI phần nửa (một đồng rưỡi, một ngày rưỡi) Từ Điển Tiếng Việt ( Hoàng Phê, Viện Ngôn Ngữ, Hà Nội 1994), trang 811 ghi: * RƯỞI như RƯỠI (nhưng thường chỉ dùng sau số đơn vị từ hàng trăm trở lên): Vạn rưởi. * RƯỠI một nửa của đơn vị: Một đồng rưỡi. Hai tháng rưỡi. Năm trăm rưỡi. Tăng gấp rưỡi (tăng 50%) Cả bốn quyển đều không giải thích vì sao khi số lượng đơn vị TRÊN MỘT TRĂM thì viết dấu HỎI, và DƯỚI MỘT TRĂM thì viết dấu NGÃ.
Theo thiển ý của chúng tôi thì Rưởi có nghĩa là THÊM PHÂN NỬA CỦA ĐƠN VỊ vào số lượng đơn vị đang có. Ví dụ nói: 2 Ngàn rưởi, là 2 Ngàn + Nửa Ngàn. 3 Chỉ rưởi, là Ba Chỉ + Nửa Chỉ. 5 Ngày rưởi, là 5 Ngày + Nửa Ngày. 1 triệu rưởi, là 1 triệu + Nửa triệu. Như vậy thì Rưởi của Một Triệu, hay của Một Ngày, của Một Chỉ, hay của Một trăm, Một Ngàn, đều mang một nghĩa duy nhất là phân nửa của đơn vị ấy được thêm vào số lượng đơn vị đang có. Tỷ lệ của Rưởi đối với Đơn vị luôn luôn là NỬA PHẦN của đơn vị dù đơn vị đó là Một chỉ, Một ngày, Một cân, Một trăm, Một ngàn, hay Một triệu, thì Rưởi vẫn là nửa phần của đơn-vị ấy. Từ đó ta có thể nói: 1. Định nghĩa của Rưởi là: NỬA PHẦN CỦA ĐƠN-VỊ, được THÊM VÀO số ĐƠN-VỊ NGUYÊN đang có. 2. Tỷ Lệ 50% giữa Rưởi và Đơn vị luôn luôn KHÔNG THAY ĐỔI. Nói theo Toán học, thì ĐƠN VỊ Chục, Trăm, Ngàn, Muôn, Triệu, Cân, Chỉ, Ngày, đều là 1/1. Và Rưởi của Cân, của Chỉ, của Ngày, của Chục, của Trăm, của Triệu, lúc nào cũng là nửa phần, tức là 50% của đơn vị ấy. Vậy, khi mà trong mọi trường hợp, Định Nghĩa của Rưởi và Tỷ Lệ giữa Rưởi với Đơn vị không thay đổi, chúng tôi không thấy lý do tại sao lại THAY ĐỔI DẤU chữ Rưởi chỉ vì Đơn vị đứng trước chữ Rưởi ấy có tên gọi khác nhau (tên đơn vị lớn hơn Trăm hay khác hơn Trăm thì viết Hỏi, nhỏ hơn Trăm hay khác hơn Trăm thì viết Ngã?!) Ngoài ra, theo Luật Hỏi Ngã thì Rưởi là Tiếng Nôm có Gốc Hán là chữ BÁN. Chữ Hán BÁN có nghĩa là Phân nửa. Thí dụ: Ba ngày rưởi, chữ Hán nói: Tam nhật bán. Năm giờ rưởi, nói: Ngũ điểm bán. Hai chỉ rưởi, nói: Nhị tiền bán. Bốn lượng rưởi, nói: Tứ lượng bán. Sáu cân rưởi, nói: Lục cân bán. Cũng theo luật Hỏi Ngã, tiếng Nôm có gốc chữ Hán phải tùy Thinh của chữ Hán gốc mà bỏ dấu. Chữ Hán "BÁN" thuộc Thanh Thinh (Bổng) thì tiếng nôm RƯỞI phải viết dấu Hỏi. Còn như không muốn nhận Rưởi là có Gốc Hán, thì phải nhận Rưởi là TIẾNG NÔM LÕI, có gốc là chữ "NỬA" (Nửa phần). Theo Luật Hỏi Ngã cho Tiếng Nôm Lõi thì tiếng Rưởi cũng phải tùy Thinh của tiếng gốc là chữ NỬA mà viết dấu. Thinh của NỬA là Thanh Thinh (Bổng), thì RƯỞI phải viết dấu Hỏi. Vì các lẽ trên, chúng tôi thiển nghĩ nên viết chữ Rưởi với dấu Hỏi trong mọi trường hợp, cho nên trong sách này chúng tôi không có ghi chữ Rưởi với dấu Ngã. Chúng tôi xin trình bày ra đây để rộng đường dư luận và xin sẵn sàng đón nhận mọi điều chỉ giáo của quý vị độc giả uyên bác [Đ.s.T.].
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 6, 2011 6:52:30 GMT 9
Phần Hai (S-X) Việt Ngữ Hỏi Ngã Tự Vị
- S - Sả (cỏ lá dài mùi thơm) bụi sả, củ sả, dầu sả, lá sả, muối sả ớt; (chẻ ra) sả làm hai, sả thịt, bổ sả ra, chém sả. Sã: suồng sã, sòng sã. Sải: lội sải, ngựa sải, té nằm sải tay, dài hai ba sải. Sãi (sư ông) thầy sãi, sãi vãi, lắm sãi không ai đóng cửa chùa. Sảy (mụt nhỏ, ngứa nổi trên da) mọc sảy, em bé nổi sảy, rôm sảy, sảy cắn, cái sảy nảy cái ung; (hất cho sạch) sảy gạo, sảy thóc, sàng sảy, gằn sảy. Sản: sản lượng, sản ngạch, sản nghiệp, sản phẩm, sản xuất, bất động sản, di sản, điền sản, động sản, gia sản, hằng sản, khoáng sản, lâm sản, sự sản, tài sản, thổ sản, tán gia bại sản; (sinh đẻ) sản dục, sản hậu, sản khoa, sản phụ, sinh sản, tiểu sản. Sảng (sợ, mê man) sảng kinh, sảng sốt, mê sảng, nói sảng; (tỉnh táo, sáng suốt) sảng khoái, thanh sảng; giọng sang sảng. Sảnh (nhà lớn) thị sảnh, sảnh đường. Sảo: sảo thai, sắc sảo, rổ sảo. Sẵn (có thể xử dụng ngay) sẵn bày, sẵn dịp, sẵn lòng, sẵn rồi, sẵn sàng, sẵn trớn để sẵn, sắm sẵn. Sẩm: trời sẩm, sẩm tối, á sẩm. Sẫm (màu sắc đậm, thẫm) sẫm da, đen sẫm, đỏ sẫm, màu sẫm, tím sẫm, sờ sẫm (rờ rẫm). Sẩy (vuột, thoát, hụt) sẩy chân, sẩy cha còn chú, sẩy tay, sẩy thai, sơ sẩy, sẩy đàn tan nghé, sẩy lời khó chữa. Sẩu (bực, thối chí) sẩu mình, sẩu gan. Sẻ: sẻ áo chia cơm, bắn sẻ, chia sẻ, chim sẻ, san sẻ, tra con sẻ (tra chốt bằng gỗ). Sẽ (chỉ việc sắp đến) sẽ biết, sẽ hay, sẽ liệu, sẽ làm, sẽ thấy; (nhè nhẹ) sẽ thức lắm, đi sẽ chân, nói se sẽ chút, làm sẽ tay, giơ cao đánh sẽ, sẽ lén, sạch sẽ. Sẻn (hà tiện) ăn sẻn, bỏn sẻn, dè sẻn, tiêu sẻn. Sể: chổi sể, lông mày chổi sể. Sỉ (buôn bán lớn) mua sỉ bán lẻ, giá sỉ; (xấu hổ) sỉ nhục, sỉ vả, liêm sỉ, quốc sỉ. Sĩ (học trò, người có tài) sĩ khí, sĩ phu, sĩ tử, ẩn sĩ, bác sĩ, chí sĩ, cư sĩ, đạo sĩ, hàn sĩ, học sĩ, nghĩa sĩ, nghệ sĩ, nữ sĩ, thi sĩ, tiến sĩ, trí sĩ, văn sĩ; (binh lính) sĩ quan, binh sĩ, chiến sĩ, hạ sĩ, quân sĩ, tướng sĩ. Siểm (nịnh hót) siểm nịnh, gièm siểm. Sỏ: đầu sỏ, sừng sỏ, trùm sỏ. Sỏi (đá nhỏ) sỏi đá, đất sỏi, sạn sỏi, sành sỏi. Sõi (khoẻ mạnh) nói sõi, ông già còn sõi, người bịnh đã sõi, có vẻ sõi đời lắm. Sổ (sách để biên chép) sổ bộ, sổ sách, sổ tay, biên sổ, ghi sổ, khóa sổ, tính sổ, xét sổ; (kéo từ trên xuống) sổ dọc, sổ toẹt, nét sổ; (sút ra, tuột) sổ đầu tóc, chim sổ lồng, sổ mũi, sổ sữa, cửa sổ, sút sổ. Sỗ (không giữ lễ phép) sỗ sàng. Sổng (chạy thoát) gà chạy sổng, tù sổng. Sở: sở cầu, sở cậy, sở dĩ, sở đắc, sở đoản, sở hữu, sở nguyện, sở tại, sở tổn, sở thích, sở trường, khổ sở, Sở-Khanh, đầu Ngô mình Sở; (chỗ) sở làm, công sở, cơ sở, hội sở, trú sở, trụ sở, xứ sở; (một khu) sở đất, sở ruộng, sở vườn. Sỡ: sặc sỡ, sàm sỡ. Sởi (bịnh hay lây) bịnh sởi, lên sởi. Sởn: em bé sởn sơ, sởn tóc gáy, sởn gai ốc. Sủ cá sủ. Sủa: chó sủa, sáng sủa. Sủi (sôi bọt nhỏ) sủi bọt, sủi tăm. Sủng (chỗ khuyết) lỗ sủng, đường sủng; (thương yêu) đắc sủng, thất sủng, sủng ái, ân sủng. Sũng (đẫm nước) ướt sũng, sũng nước. Suyển: lòng tin không suy suyển. Suyễn (tên bịnh hen) hen suyễn, khí suyễn, lên cơn suyễn. Sử: sử dại, sử dụng (xử dụng) sử lược, sử quan, sử sách, sử xanh, bí sử, dã sử, giả sử, hành sử, kinh sử, lịch sử, ngự sử, quốc sử, thứ sử, thanh sử, tình sử, tiểu sử. Sửa (làm lại, chữa lại) sửa chữa, sửa dạy, sửa đổi sửa lại, sửa lưng, sửa phạt sửa sai, sửa sang, sắp sửa, sửa soạn, sắm sửa. Sữa: sữa bột, sữa bò, sữa dê, sữa mẹ, sữa tươi, bơ sữa, bánh sữa, mọc răng sữa, cây vú sữa, sữa đậu nành, miệng còn hôi sữa. Sửng (kinh ngạc) sửng sốt, sửng sờ, ngó sửng, chết sửng. Sững: sừng sững, đứng sững lại, nhìn sững, xe đứng sững. Sưởi (hơ cho ấm) đốt sưởi, sưởi ấm, máy sưởi, lò sưởi. Sửu (vị thứ nhì của 12 Địa Chi) năm Sửu, tuổi Sửu, giờ Sửu.
- T - Tả (bịnh tiêu chảy) dịch tả, đi tả, tả dược, ẩu tả, tả lỵ, thổ tả; (bên trái) tả ban, tả biên, tả dực, tả đảng, tả hữu, tả phái, tả khuynh, tả ngạn, cánh tả, tả xung hữu đột; (bày tỏ ra) tả chân, mô tả, diễn tả, miêu tả, tả cảnh; (rách, rời) tả tơi, lả tả. Tã (vải quấn trẻ con) tã lót, giẻ tã, quấn tã, mưa tầm tã. Tải (chở) tải lương, tải thương, áp tải, trọng tải, vận tải. Tản (di chuyển) tản bộ, tản cư, tản lạc, tản mác, di tản, nhàn tản, tản văn, Tản-Đà. Tảng: tảng đá, tảng lờ, tảng sáng nền tảng. Tảo: tảo hôn, tảo mộ, tảo trừ, tảo thanh, buôn tảo bán tần, chinh Nam tảo Bắc. Tẳn: tẳn mẳn tỉ mỉ. Tẩm (ngâm cho thấm) tẩm bổ, tẩm dầu, tẩm giấm, tẩm muối, tẩm rượu, tẩm nhiễm, tẩm cung, tẩm điện, tẩm miếu, lăng tẩm. Tẩn (để tử thi vào hòm) tẩn liệm, quàn tẩn; tẩn mẩn. Tẩu (chạy, trốn) tẩu tán, tẩu thoát, bôn tẩu đào tẩu, hát bài tẩu mã; (chị dâu) đại tẩu, tẩu tẩu. Tẩy: tẩy chay, tẩy não, tẩy trần, tẩy trừ, tẩy uế, tẩy xoá, tẩy vết mực, bôi tẩy, lộ tẩy, lật tẩy, thuốc tẩy. Tẻ (gạo ít dẻo) gạo tẻ, bột tẻ, nếp tẻ; (buồn, vắng vẻ) tẻ lạnh, tẻ ngắt, tẻ nhạt, tẻ vắng, buồn tẻ, lẻ tẻ, tém tẻ. Tẽ (tách ra, làm rời ra) tẽ bắp, tẽ đậu, tẽ bột, phân tẽ, tẽ ra, tách tẽ. Tẽn (thẹn, mắc cỡ) tẽn tò, tẽn mặt. Tẻo (ít lắm, nhỏ lắm) chút tẻo, bé tẻo teo. Tể: tể tướng, chúa tể, đao tể, đồ tể, thái tể. Tễ (thuốc huờn đông y) dược tễ, uống thuốc tễ. Tễnh: đi tập tễnh. Tỉ: tỉ dụ, tỉ lệ, tỉ mỉ, tỉ muội, tỉ như, tỉ phú, tỉ số, tỉ tê, tỉ thí, tỉ trọng, tỉ võ, hiền tỉ, ngọc tỉ, nói giả tỉ, say bí tỉ, một tỉ (1,000 triệu). Tỉa (cắt bớt) tỉa bớt, tỉa cây, tỉa gọt, tỉa lá, tỉa nhánh, tỉa râu, chặt tỉa, hớt tỉa, trồng tỉa. Tiễn (đưa lên đường) tiễn biệt, tiễn chân, tiễn đưa, tiễn hành, tiễn khách, cung tiễn, hoả tiễn, lịnh tiễn. Tiểu: tiểu ban (subcommittee), tiểu bang (state), tiểu dẫn, tiểu công nghệ, tiểu đoàn, tiểu đệ, tiểu đội, tiểu đồng tiểu học, tiểu khu, tiểu liên, tiểu luận, tiểu nhân, tiểu quỷ, tiểu sản, tiểu sử, tiểu tâm, tiểu tiết, tiểu tổ, tiểu yêu, tiểu tư sản, tiểu thuyết, tiểu thừa, tiểu thơ, tiểu thương, tiểu xảo, chú tiểu, cực tiểu, gạch tiểu, nhược tiểu, nước tiểu. Tiễu (dẹp, trừ) tiễu trừ, tuần tiễu. Tĩu: tục tĩu. Tỉm: cười tủm tỉm. Tĩn: tĩn nước mắm. Tỉnh (không say, không mê, hiểu rõ) tỉnh bơ, tỉnh dậy, tỉnh giấc, tỉnh hồn, tỉnh lại, tỉnh mộng, tỉnh ngộ, tỉnh ngủ, tỉnh táo, bình tỉnh, cảnh tỉnh, chợt tỉnh, định tỉnh, lai tỉnh, làm tỉnh, sực tỉnh, thức tỉnh, tu tỉnh, dở tỉnh dở say; (khu vực), tỉnh bộ, tỉnh đường, tỉnh lỵ, tỉnh thành, tỉnh trưởng, tỉnh ủy, chủ tỉnh, hàng tỉnh. Tĩnh (yên ổn, im lặng) tĩnh dưỡng, tĩnh mạch, tĩnh mịch, tĩnh tâm, tĩnh tọa, bình tĩnh, điềm tĩnh, động tĩnh, thanh tĩnh, yên tĩnh. Tỏ (bày ra, sáng rõ) tỏ bày, tỏ dấu, tỏ lòng, tỏ phân, tỏ ra, tỏ rạng, tỏ rõ, tỏ thiệt, tỏ tình, tỏ vẻ, tỏ ý, chứng tỏ, mắt còn tỏ, sáng tỏ, trăng tỏ. Toả (tủa ra) toả ánh sáng, toả khói, toả nhiệt, toả ra, bế quan toả cảng, cương toả, giải toả, phong toả, kiềm toả. Tỏi: củ tỏi, nói hành nói tỏi, ỏm tỏi. Tõm: rơi tõm xuống nước Tỏn: lỏn tỏn, tỏn mỏn. Tổ (ổ của chim, thú) tổ ấm, tổ chim, tổ chuột, tổ ong, bánh tổ; (lớn, đứng đầu) tổ bố, tổ cha, tổ phụ, tổ sư, tổ tiên, tổ tông, tổ truyền, tổ quốc, cúng tổ, đất tổ, giỗ tổ, Phật tổ, thủy tổ, bài tổ tôm, tổ chức, tổ hợp, tổ trưởng, cải tổ. Tổn (tốn, hao mòn) tổn đức, tổn hại, tổn phí, tổn thất, tổn thọ, lao tổn, tổn thương, hao tổn. Tổng (người cai quản) tổng binh, tổng đốc, tổng quản, tổng tài, tổng thống, tổng trưởng, cai tổng, làng tổng; (họp lại, chung cả) tổng cộng, tổng đài, tổng hành dinh, tổng hội, tổng hợp, tổng kết, tổng khởi nghĩa, tổng luận, tổng nha, tổng quát, tổng số, tổng tắc, tổng bãi công, tổng đình công, tổng động viên, tổng giám đốc, tổng lãnh sự, tổng tuyển cử. Tở: tở mở. Tởm: ghê tởm, kinh tởm, thấy phát tởm. Tởn (chừa, khiếp sợ) tởn đòn, tởn mặt, tởn kinh, chưa tởn, một lần tởn tới già. Tủ: tủ áo, tủ kiếng, tủ lạnh, tủ sách, tủ sắt, tủ thuốc, hộc tủ, ngăn tủ, trúng tủ; --che khuất lại tủ lại bằng chiếu, tủ lại bằng rơm. Tủa (toả ra, phân ra) tủa ra, chạy tủa ra, râu mọc tua tủa, tên bắn ra tua tủa. Tuẫn (chết vì việc gì) tuẫn đạo, tuẫn nạn, tuẫn tiết. Tủi (đau buồn riêng) tủi duyên, tủi hổ, tủi lòng tủi nhục, tủi phận, tủi thân, tủi thầm, tủi thẹn, buồn tủi, sầu tủi. Tuổi: tuổi cao, tuổi già, tuổi hạc tuổi tác, tuổi thọ, tuổi trẻ, tuổi xanh, coi tuổi, đứng tuổi, luống tuổi, quá tuổi, vàng y đủ tuổi. Tuỷ (nước ở giữa xương) cốt tủy, não tủy, xương tủy. Tuyển (lựa chọn) tuyển binh, tuyển chọn, tuyển cử, tuyển dụng, tuyển lựa, tuyển mộ, tuyển tập, tuyển thủ, trúng tuyển. Tủm: cười tủm tỉm. Tũm xem Tõm. Tủn (vụn vặt nhỏ mọn) tủn mủn tẳn mẳn. Tử (con) tử cung, tử tôn, tử tức, công tử, dưỡng tử, mẫu tử, nam tử, nghĩa tử, nương tử, tặc tử, thái tử, thần tử, trưởng tử; (thầy, tiếng chỉ người) Tử Cống, Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, quân tử, sĩ tử, tài tử, phàm phu tục tử; (tước quan) phong tước Tử (Công, Hầu, Bá, Tử, Nam) (chết) tử biệt, tử chiến, tử địa, tử hình, tử khí, tử nạn, tử sĩ, tử táng, tử thần, tử thi, tử thủ, tử thương, tử thù, tử tiết, tử tội, tử trận, tử tù, tử vong, sanh tử, tự tử, xử tử, yểu tử, con nhà tử tế, số tử vi. Tửa (giòi mới sanh) giòi tửa. Tửng: tửng nhà, chú tửng. Tưởi: tất tưởi, tức tưởi. Tưởng (nghĩ rằng) tưởng bở, tưởng chừng, tưởng là, đừng tưởng, thiết tưởng, trộm tưởng; (nghĩ ngợi về) tưởng nhớ, tưởng niệm, tưởng tới, tưởng tượng, hoài tưởng, mặc tưởng, mộng tưởng, mơ tưởng, suy tưởng, thương tưởng, tư tưởng, vọng tưởng; (khen ngợi) tưởng lệ, tưởng lục, tưởng thưởng. Tửu (rượu) tửu bảo, tửu điếm, tửu gia tửu hứng, tửu lầu, tửu lực tửu lượng, tửu quán, tửu sắc, ẩm tửu. Tỷ xem Tỉ.
- Th - Thả (buông ra) thả bom, thả buồm, thả cửa, thả diều, thả đà, thả đòn tay, thả lỏng, thả neo, thả ra, thả rểu, thả rông, thả trôi, buông thả, cẩu thả, thong thả, thư thả. Thải: thải hồi, thải phương, công thải, đào thải, phế thải, sa thải. Thãi: thừa thãi (chữ THÃI nầy là tiếng đệm của THỪA nên viết dấu Ngã, đừng lộn với THẢI là tiếng chánh viết dấu Hỏi). Thảy (tất cả) cả thảy, hết thảy; (ném, vứt, quăng) thảy banh, thảy lỗ lạc, thảy xuống ao. Thảm (đau đớn, đáng thương) thảm bại, thảm cảnh, thảm đạm, thảm độc, thảm hại, thảm họa, thảm kịch, thảm khốc, thảm lắm, thảm não, thảm sát, thảm sầu, thảm thiết, thảm thương, thảm trạng, bi thảm, thê thảm, trông thảm quá, gió thảm mưa sầu; (tấm khảm lót) thảm cỏ xanh, trải thảm. Thản (như không có gì xảy ra) thản nhiên, bình thản. Thảng: thảng hoặc, thảng thốt. Thảnh: thảnh thơi, thảnh thót. Thảo (có lòng tốt) thảo ăn, thảo ngay, hiếu thảo, lòng thảo, thơm thảo, thuận thảo, dâu hiền rể thảo, mời dùng lấy thảo; (sơ lược), thảo một bài văn, bản thảo, dự thảo, khởi thảo, thảo luận; (cỏ, cây) thảo am, thảo dã, thảo dược, thảo lư, thảo mộc, thảo xá, cam thảo, thảo cầm viên, vườn bách thảo, quần thảo, hội thảo, thểu thảo, thảo nào! Thẳm (sâu hay xa lắm) sâu thẳm, xa thẳm, biển thẳm, hang thẳm, thăm thẳm, vực thẳm, rừng thẳm. Thẩm (khảo xét kỹ, xử) thẩm cứu, thẩm định, thẩm lượng, thẩm phán, thẩm quyền, thẩm tra, thẩm vấn, bồi thẩm, phúc thẩm, sơ thẩm, thượng thẩm; thẩm mỹ. Thẫm (đậm, sậm) đỏ thẫm, xanh thẫm. Thẳng (ngay) thẳng băng, thẳng bon, thẳng cánh, thẳng cẳng, thẳng đứng, thẳng giấc, thẳng góc, thẳng óng, thẳng rẵng, thẳng tánh thẳng tay, thẳng tắp, thẳng thắn, thẳng thét, thẳng thớm, thẳng thừng, bằng thẳng, căng thẳng, ngay thẳng, thủng thẳng; --thằng ấy (nói tắt) thẳng và cỏn. Thẩn: thơ thẩn, lẩn thẩn. Thẫn: thẫn thờ. Thẩu (nhựa nha phiến) cây thẩu, trái thẩu. Thẻ: thẻ căn cước, thẻ cử tri, thẻ ngà, cắm thẻ, đeo thẻ, đường thẻ, ngậm thẻ, phát thẻ, thỏ thẻ. Thẻo (cắt từng miếng) một thẻo đất, thắt thẻo, thẻo một miếng thịt. Thể (tánh chất) thể đặc, thể hơi, thể lỏng; (cách thế) thể ấy, thể chất, thể chế, thể diện, thể dục, thể hiện thể lệ, thể nào, thể tất, thể tích, thể tình, thể thao,thể theo, thể thống, thể thức, thể xác, chánh thể, có thể, cụ thể, được thể, luôn thể, không thể, như thể, quốc thể, sự thể, tập thể, tiện thể, thân thể, toàn thể, hồn bất phụ thể. Thểu: thất tha thất thểu. Thỉ: thủ thỉ. Thiểm (tiếng xưng) thiểm chức, thiểm nha, thiểm tòa, thiểm ty. Thiển (cạn, hẹp, ngắn) thiển cận, thiển ý, thiển kiến, thô thiển, tài sơ trí thiển. Thiểu (buồn khổ) thiểu não; (không nhiều) thiểu số, đa thiểu, giảm thiểu, tối thiểu. Thỉu: bẩn thỉu, thiu thỉu ngủ, buồn thỉu buồn thiu. Thỉnh: thỉnh an, thỉnh cầu, thỉnh kinh, thỉnh mời, thỉnh nguyện, cung thỉnh, thỉnh thoảng, thủng thỉnh. Thỏ: thỏ lặn ác tà, thỏ thẻ, nhát như thỏ đế. Thoả (vừa ý, thích) thoả chí, thoả dạ, thoả đáng, thoả hiệp, thoả lòng thoả mãn, thoả nguyện, thoả thích, thoả thuận, thoả ước, ổn thoả. Thoã: đĩ thoã. Thoải: thoải mái, đường đi thoai thoải. Thoảng (bay lướt qua) thoảng mùi hương, gió thoảng, thỉnh thoảng, thoang thoảng. Thỏi (thẻo, miếng dài) thỏi đồng, thỏi sắt, thỏi đất, thỏi phấn. Thỏm: thấp thỏm. Thỏn (hơi nhọn) mặt thỏn, cằm thỏn, thon thỏn, thỏn mỏn. Thõng (buông thẳng xuống) tóc buông thõng sau lưng, ngồi bỏ thõng chân. Thổ (nhà chứa điếm) nhà thổ, chứa thổ; (tên giống dân) dân Thổ (thượng du miền Bắc), người Đàn Thổ (Cam Bốt) (đất) thổ công, thổ cư, thổ dân, thổ địa, thổ ngữ, thổ phỉ, thổ sản, thổ thần, sao Thổ Tinh, thổ trạch, bổn thổ, điền thổ, độn thổ động thổ, hạ thổ, phong thổ, thủy thổ; (mửa, ói) thổ huyết, thổ tả, ẩu thổ, thổ lộ, xe thổ mộ. Thổi: thổi bễ, thổi bong bóng, thổi còi, thổi cơm, thổi kèn, thổi lửa, thổi phồng, thổi sáo, thổi xôi, cóc thổi, gió thổi. Thổn: thổn thức. Thở (đưa hơi ra vào) thở dài, thở dốc, thở hắt, thở phào, thở ra, thở than, thở hồng hộc, nín thở, thở hổn hển, tắt thở, làm không kịp thở, hồ Than Thở. Thủ (tay, cầm giữ, đầu) thủ bút, thủ cấp, thủ cựu, thủ công, thủ đoạn, thủ đô, thủ hạ, thủ hiến, thủ khoa, thủ lãnh, thủ lễ, thủ môn, thủ phạm, thủ phủ, thủ quỹ, thủ thành, thủ thuật, thủ tiết, thủ tín, thủ trại, thủ trưởng, thủ túc, thủ tướng, bảo thủ, chấp thủ, cố thủ, đấu thủ, địch thủ, độc thủ động thủ, hạ thủ, nguyên thủ, pháo thủ, phật thủ, phòng thủ, thủy thủ, thế thủ, trấn thủ, nói thủ thỉ, xảo thủ. Thủa xem Thuở. Thuẫn: hình thuẫn, bánh thuẫn, diều thuẫn, nón thuẫn, mâu thuẫn, hậu thuẫn. Thủi: thui thủi, lủi thủi, đen thủi đen thui. Thủm (mùi hôi thúi) mùi thum thủm. Thủng (lủng, rách) chọc thủng, đâm thủng, lỗ thủng, thâm thủng, trống thủng khó hàn, thủng thỉnh, thủng thẳng. Thũng (lõm xuống) thũng xuống; (bịnh phù da) phát thũng, phù thũng, thủy thũng. Thuổng (cái xuổng) cuốc thuổng, cuốc xuổng. Thuở (lúc ấy) thuở ấy, thuở nào, thuở nay, thuở trước, thuở xưa, đời thuở nào, từ thuở, ăn theo thuở ở theo thời, ngàn năm một thuở. Thuỷ (nước) thuỷ binh, thuỷ cầm, thuỷ chiến, thuỷ đạo, thuỷ điện thuỷ đĩnh, thuỷ hoả, thuỷ lôi, thuỷ lợi, thuỷ lưu, thuỷ mạc, thuỷ nạn, thuỷ nông, thuỷ ngân, thuỷ quân, thuỷ sản, thuỷ tạ, thuỷ tai, thuỷ thổ, thuỷ thủ, thuỷ thũng, thuỷ tiên, thuỷ tinh, thuỷ tộc, thuỷ triều, thuỷ vận, dẫn thuỷ, đường thuỷ, hồng thuỷ, phong thuỷ, sơn thuỷ, kiếng tráng thuỷ, ống thuỷ lấy thuỷ bịnh nhân; (đầu tiên) khởi thuỷ, thuỷ tổ, thoạt kỳ thuỷ, thuỷ chung; Tần Thuỷ Hoàng. Thử (ướm xem) thử áo, thử coi, thử lòng, thử lửa, thử máu, thử nghiệm, thử sức, thử tài, thử thách, thử vàng, thử xem, thử ý, ăn thử, hỏi thử, ướm thử, ví thử; (nóng, nắng) cảm thử, trúng thử, hàn thử biểu. Thửa (sở, khu) thửa đất, thửa ruộng. Thưởng (cho để ban khen) thưởng công, thưởng phạt thưởng tiền, ban thưởng, được thưởng, hậu thưởng, lãnh thưởng, phát thưởng, phần thưởng, phong thưởng, trọng thưởng, tưởng thưởng; (ngắm xem) thưởng hoa, thưởng lãm, thưởng ngoạn, thưởng thức, thưởng xuân.
- Tr - Trả (hoàn lại, đáp lại) trả bài, trả đũa, trả lại, trả lễ, trả miếng, trả nợ, trả oán, trả ơn, trả tiền, trả treo, vay trả; (mặc cả) trả giá, trả lên, trả xuống, trả rẻ rề. Trã (nồi đất rộng miệng) nồi ơ trách trã, trã xôi, trã thịt kho. Trải (từng biết qua) trải mùi đời, từng trải, trải gió dầm mưa, trải qua thử thách; (mở rộng ra) trải chiếu, trải thảm; trang trải, trống trải. Trãi: Nguyễn Trãi. Trảm (chém) trảm quyết, xử trảm, trảm thảo trừ căn, tiền trảm hậu tấu. Trảng (chỗ trống lớn) trảng cát, đồng trảng, trảng nắng; Trảng Bàng. Trảo (móng vuốt) cây ngũ trảo. Trẫm (tiếng vua tự xưng). Trẩy (đông người cùng đi) trẩy hội, trẩy thuyền. Trẻ (còn nhỏ tuổi) trẻ con, trẻ dại, trẻ em, trẻ măng, trẻ nít, trẻ nhỏ, trẻ thơ, trẻ trung, trai trẻ, già trẻ bé lớn. Trẽn (ngượng, xấu hổ) trơ trẽn, trẽn mặt. Trẻo: trắng trẻo, trong trẻo. Trễ (chậm, không kịp) trễ giờ, trễ nải, bê trễ, chậm trễ, đến trễ; (giăng lưới bắt cá tôm) ghe đi trễ, trễ cá, trễ tôm; (xệ xuống) môi trễ xuống, mặc quần trễ rốn. Trển (trên ấy) ở trển, lên trển. Trĩ: ấu trĩ, ấu trĩ viên, chim trĩ; (ghẻ ở hậu môn) mắc bịnh trĩ. Triển: triển hạn, triển khai, triển lãm, triển vọng, phát triển, tiến triển. Trỉnh (rít dầu, rít mỡ) trỉnh dầu, gà trỉnh đít. Trĩnh: tròn trĩnh. Trĩu (nặng trì xuống) gánh nặng trĩu vai, trĩu nặng ưu phiền. Trỏ (lấy tay chỉ) ngón tay trỏ, trỏ lối. Trõm (lõm vào vì ốm) mắt trõm lơ. Trỏng (trong ấy) ở trỏng. Trổng (không chỉ rõ ai) kêu trổng, nói trổng, chơi đáng trổng. Trổ (thông, xuyên qua) trổ đường mòn, trổ đường nước; (phát ra, mọc ra) cây trổ bông, trổ lá, chuối trổ buồng, da trổ đồi mồi, trổ chứng, trổ tài, trổ tật; (xoi khoét) trổ cửa, chạm trổ, trộm trổ nóc nhà. Trỗ (phai màu) áo đã trỗ màu. Trổi (vượt, cất lên) trổi hơn, trổi nhất, trổi tiếng đàn, trổi giọng. Trở (biến ra thế khác) trở bịnh, trở chứng, trở gót, trở lại, trở lực, trở mặt, trở mình, trở mùi, trở nên, trở ngại, trở quẻ, trở ra, trở vô, trở tay không kịp, trở trời, cách trở, day trở, để trở, hiểm trở, ngăn trở, tráo trở, trắc trở, xoay trở. Trũng (lõm xuống) trũng sâu, trũng mắt, đất trũng, ruộng trũng, nước chảy chỗ trũng. Trữ (chứa, giấu, vựa) trữ hàng, trữ kim, trữ tình, dự trữ, lưu trữ, oa trữ, tàng trữ, tích trữ. Trửng (nuốt trọn) nuốt trửng. Trững (giỡn chơi) trững giỡn, trững mỡ. Trưởng (lớn, đứng đầu) trưởng ban, trưởng đoàn, trưởng giả, trưởng lão, trưởng nam, trưởng nữ, trưởng thành, trưởng tộc, trưởng ty, bộ trưởng, đảng trưởng, gia trưởng, hội trưởng, khoa trưởng, lý trưởng, sinh trưởng, tổng trưởng, xã trưởng, viện trưởng.
- U - Ủ (buồn, không tươi) ủ dột, ủ ê, ủ rũ, mặt ủ mày chau; (phủ kín) ủ ấp, ủ men, ủ mốc, ủ nấm, ủ thuốc, ấp ủ. Ủa (tỏ ý ngạc nhiên) ủa, sao còn ở đây? ủa, tại sao vậy? Uẩn (sâu kín) uẩn khúc, ngũ uẩn. Uể (mỏi mệt) uể oải. Ủi: bàn ủi, giặt ủi, ủi áo, an ủi, bị xe ủi. Ủm: ủm thủm, tròn ủm. Ủn: heo kêu ủn ỉn. Ủng: giày ủng, trái cây chín ủng tiền hô hậu ủng, ủng hộ. Uổng (tiếc, vô ích) uổng công, uổng của, uổng mạng, uổng phí, uổng quá, uổng tiền, uổng tử, bỏ uổng, chết uổng, ép uổng, oan uổng. Ủy: ủy ban, ủy hội, ủy nhiệm, ủy phái, ủy quyền, ủy thác ủy viên, ủy lạo, ủy mị, cao ủy, nguyên ủy, tỉnh ủy. Uyển: uyển chuyển, ngự uyển, vườn thượng uyển. Ửng (đỏ hồng hồng) ửng đỏ, vàng ửng, má ửng hồng, mặt trời đỏ ửng. Ưỡn (ễn, nẩy, chìa ra) ưỡn bụng, ưỡn ẹo, ưỡn ngực, ưỡn ngửa. Ưởng: mét chằng mét ưởng.
- V - Vả: vất vả, vả chăng, vả lại, nhờ vả, vả vào mặt, vả rớt răng, xỉ vả. Vã (toát ra) vã mồ hôi, vã bọt mép, ăn vã, cãi vã, vật vã, vội vã, vồn vã, vùi vã. Vải (hàng dệt bằng sợi bông) vải bông, vải bố, vải màu, vải sồ, vải vóc, dệt vải, trái vải, ông bà ông vải, vải thưa che mắt thánh. Vãi: bà vãi, sãi vãi, mắng vãi, chua vãi đái, vung vãi, vãi chài, vãi hột giống. Vảy, Vẩy (lớp ngoài da cá) vảy cá, đóng vảy, đánh vảy, tróc vảy; (miểng kim khí) vảy vàng, vảy bạc, thợ bạc giũa vảy; (quăng xòe ra) vảy bùn, vảy mực, vảy nước. Vãn: vãn bối, vãn hát, vãn hồi, vãn sinh, chuyện vãn, cứu vãn, ve vãn. Vảng: lảng vảng. Vãng (qua, đến thăm) vãng cảnh, vãng lai, dĩ vãng, phát vãng, quá vãng. Vảnh (vểnh, ngảnh lên) vảnh mặt, vảnh râu, vảnh tai. Vãnh: vặt vãnh. Vẳng (tiếng vọng từ xa) nghe văng vẳng. Vẩn: vẩn bùn, vẩn đục, vẩn vơ, vớ vẩn. Vẫn (cứ vậy hoài) vẫn biết, vẫn còn, vẫn thế, vẫn vậy, vờ vẫn, tự vẫn (tự vận). Vẩu (nhô ra) hàm răng vẩu. Vẫy (cựa quậy) vẫy tay chào, vẫy vùng, vẫy gọi, chó vẫy đuôi. Vẩy: ve vẩy, vẩy cá, trầy da tróc vẩy. Vẻ (dáng bề ngoài) có vẻ, lộ vẻ, tỏ vẻ, mỗi người một vẻ làm ra vẻ, văn vẻ, vắng vẻ, vui vẻ, vẻ vang. Vẽ (họa, bày đặt, chỉ) vẽ hình, vẽ kiểu, vẽ trò, vẽ lông mày, vẽ viên, vẽ vời, bánh vẽ, bày vẽ, chỉ vẽ, khéo vẽ chuyện; (lấy đũa banh ra) vẽ cá, vẽ thịt, vẹn vẽ, em bé nói võ vẽ, ong vò vẽ. Vẻo: ngồi vắt vẻo. Vểnh xem Vảnh. Vỉ (để lót hay chận) vỉ bánh, đương vỉ, tấm vỉ. Vĩ (đuôi) thủ vĩ, vĩ cầm; (lớn, lạ) vĩ đại, hùng vĩ, vĩ nhân; (đường dọc) vĩ đạo, vĩ tuyến. Vỉa: vỉa hè, vỉa đường. Viển: viển vông. Viễn (xa) viễn ảnh, viễn chinh viễn du, Viễn Đông, viễn khách, viễn thông, viễn phương, viễn thị, viễn tượng, vĩnh viễn, viễn vọng kính. Vĩnh (lâu dài, đời đời) vĩnh biệt, vĩnh cửu, vĩnh quyết, vĩnh viễn, Vĩnh Long, Vĩnh Yên, vòi vĩnh, vờ vĩnh. Vỏ (lớp bọc ngoài) vỏ cây, vỏ dưa, vỏ dừa, vỏ hột gà, vỏ ốc, vỏ xe, vỏ xe đạp, vỏ quít dày. Võ, Vũ (thuật đấu chiến) họ Võ, võ bị, võ biền, võ công, võ dõng, võ đài, võ khí, võ khoa, võ lâm, võ lực, võ nghệ, võ phu, võ quan, võ sĩ, võ thuật, võ trang, võ trường, võ tướng, diễn võ, đấu võ, luyện võ, nghề võ, tập võ, văn võ bá quan, tinh thần thượng võ, võ vàng, vò võ, võ vẽ, linh thần thổ võ. Vỏi: vắn vỏi. Vỏn: vỏn vẹn. Võng (lưới) võng lọng, đưa võng, đòn võng, nằm võng, võng mạc của mắt. Vổng (chổng đầu lên) vổng đòn cân, vổng phao câu. Vỗ (đập bàn tay lên) vỗ bàn vỗ ghế, vỗ bụng, vỗ cánh, vỗ đùi, vỗ ngực, vỗ tay, vỗ về an ủi, sóng vỗ bờ. Vở: vở kịch, vở tuồng, bài vở, kiểu vở, sách vở, tập vở. Vỡ (bể, rã tan, khai phá) vỡ bụng, vỡ đê, vỡ lẽ, vỡ lòng, vỡ lở, vỡ mặt, vỡ mộng, vỡ nợ, vỡ ổ, vỡ tan, đổ vỡ, gãy vỡ, vạm vỡ, cười như vỡ chợ. Vởn (nghểu nghến) vởn vơ, lởn vởn. Vũ: họ Vũ, vũ bão, vũ bị, vũ biền, vũ công, vũ dũng, vũ đài, vũ điệu, vũ khí, vũ khúc, vũ lực, vũ nữ, vũ phu, vũ thuật, vũ trang, vũ trụ, vũ trường, phong vũ biểu, trời vần vũ, ca vũ, khiêu vũ. Vũm (hũm, trõm lòng) đục vũm, nắp vũm, vanh vũm. Vũng (chỗ nước đọng) vũng bùn, vũng máu, vũng nước, ao vũng, hào vũng, chợ Vũng Tàu. Vữa (rữa, rã, biến mùi) cháo vữa, hột vịt vữa. Vửng (choáng váng) xửng vửng xơ vơ. Vững (bền, chắc) vững bền, vững bụng, vững chãi, vững chắc, vững dạ, vững lòng, vững mạnh, vững tâm, vững vàng, đứng vững. Vưởng: vất vưởng.
- X - Xả (buông thả, mở ra) xả buồm, xả hơi, xả tang, bỏ tóc xả, xả hết tốc lực, xả ly, xả bỏ xả súng bắn, chơi xả láng (xông vào) lăn xả vào, nhảy xả vào, xán xả vào; (bỏ, hy sinh) xả mạng, xả thân, xả rác, xả thân cầu đạo, xả thân cứu thế, hỉ xả; (đổ nhiều nước) xả quần áo, mưa xối xả, xong xả. Xã (làng, thôn, nhiều người hợp lại) xã đoàn, xã giao, xã hội, xã luận, xã tắc, xã thuyết, xã trưởng, xã ủy, xã viên, hàng xã, hợp tác xã, làng xã, thôn xã, thi xã, thư xã, thương xã, bà xã, ông xã. Xải: xấp xải, xơ xải. Xảy (chợt, bỗng chốc) xảy đâu, xảy đến, xảy gặp, xảy nghe, xảy ra, xảy thấy, đi xay xảy. Xảm (không trơn) ăn nghe xảm xảm; (trét vào lỗ hở) xảm ghe, xảm tàu, xảm thùng lủng, trét xảm. Xảnh (làm bộ làm tịch) xảnh xẹ. Xảo (không thật) gian xảo, người xảo, xảo ngôn, xảo ngữ, xảo quyệt, xảo trá; --khéo, giỏi xảo công, xảo thủ, kỹ xảo, tinh xảo, đấu xảo. Xẵng (mặn quá, gay gắt) xẵng lè, nước mắm xẵng, xẵng giọng hỏi. Xẩm: xây xẩm chóng mặt (người đàn bà Tàu) thím xẩm, xẩm lai, mặc áo xẩm; (người mù đi hát rong) phường xẩm, hát xẩm, như xẩm vớ được gậy. Xẩn: xẩn bẩn một bên, làm ăn xân xẩn. Xẩu: xương xẩu. Xẻ (cắt, mổ) xẻ gỗ, xẻ mương, mổ xẻ, xẻ rãnh, chia xẻ. Xẻn (thẹn thuồng) bộ xẻn lẻn. Xẻng (dụng cụ để xúc đất) cuốc xẻng, cái xẻng. Xẻo: xẻo tai, xẻo thịt, xui xẻo. Xẽo (ngọn rạch nhỏ) xẽo mương, xẽo vườn, xẽo cạn, rạch xẽo, bơi xuồng trên xẽo. Xể (trầy, sướt) xể da, xể mày, xể mặt, trầy xể, xài xể. Xễ (xệ xuống) vạt áo xễ, xễ cánh, vú xễ. Xển: kéo xển. Xỉ răng ung xỉ, xỉ tẩu mã, lồi xỉ; (mắng nhiếc), xỉ mắng, xỉ vả, xỉ vào mặt, xỉ xỏ, xa xỉ, xấp xỉ. Xỉa: xỉa xói, xỉa thuốc, xoi xỉa, xỉa bài, xỉa vào mặt, xỉa tiền, tăm xỉa răng không đếm xỉa gì đến, đừng xỉa vô chuyện đó. Xiểm: nói xiểm, xiểm nịnh. Xiểng: thua xiểng liểng, bước đi xiểng niểng. Xỉn: bủn xỉn, ít xỉn. Xỉnh: xó xỉnh. Xĩnh: xoàng xĩnh. Xỉu (ngất, lả đi) xỉu xuống, mệt xỉu, té xỉu; (ít, môn cờ bạc) chút xỉu, đánh tài xỉu. Xỏ (luồn vào, đút qua) xỏ áo, xỏ chỉ, xỏ chuỗi, xỏ kim, xỏ lỗ tai, xỏ mũi, xỏ xâu; (xen vào, xía vào) nói xỏ, xỏ lá, xỏ xiên, xỉ xỏ, chơi xỏ, xin xỏ, xỏ ngọt, xỏ miệng vào. Xõ: gầy xõ. Xõa (buông thả xuống) buông xõa, lõa xõa, bỏ tóc xõa. Xoảng (tiếng khua) loảng xoảng, xoang xoảng. Xõm (nhẹ lắm) nhẹ xõm. Xỏn (nói hỗn hào) trả lời xon xỏn. Xõng (làm biếng) xõng lưng chẳng làm gì, ngồi xòng xõng cả ngày. Xổ (mở, tháo ra) xổ buồm, xổ cờ, xổ gà, xổ số, xổ tục, xổ xui, xổ phong long, thuốc xổ, xổ chữ nho, đâm xổ đến, nhảy xổ vào. Xổi (tạm bợ) ăn xổi ở thì, buôn xổi, làm xổi, tiền lời xổi. Xổm (nhóng đít lên) bò xổm, xổm đít lên, ngồi xổm, nhảy xổm. Xở (gỡ lần hồi) xoay xở, xở bớt nợ, xở bớt công việc. Xởi (làm cho rời ra) xởi cơm, xởi đất, xởi tơ, xởi thuốc hút. Xởn (xén, hớt cụt) xởn lông, xởn cánh, xởn tóc, bị xởn đầu. Xủ (rủ, buông xuống) xủ tay áo, xủ cánh, cây xủ lá, xủ màng, xủ quẻ, xủ rèm. Xuẩn (ngu dại, bậy) xuẩn động, ngu xuẩn. Xuể (nổi, kham) coi sóc không xuể, làm không xuể, nói chẳng xuể. Xủi (làm tróc lên) xủi bụi tùm lum, xủi cát, xủi cỏ, xủi đất. Xuổng (dụng cụ xắn đất) cuốc xuổng, ngay như cán xuổng. Xử (phán đoán, phân xử) xử án, xử bắn, xử đoán, xử giảo, xử hiếp, xử hòa, xử huề, xử kiện, xử lý, xử phân, xử quyết, xử trảm, xử trị, xử tử, phán xử; (cách ăn ở, đối đãi) xử sự, xử tệ, xử thế, xử trí, cư xử, đối xử, khu xử. Xửa: hồi xửa hồi xưa. Xửng (cái vỉ để hấp) xửng hấp bánh, kẹo mè xửng (mè thửng); (choáng váng) xửng vửng xơ vơ. Xưởng (chỗ thợ làm) xưởng dệt, xưởng máy, xưởng đóng tàu, chủ xưởng, công xưởng; (tên thức ăn) lạp xưởng.
-ooOoo-
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 19, 2011 7:33:01 GMT 9
Tiếng Việt "Hiện Đại" & "Chuyện Tình Yêu Phai Nhạt" - Nguyễn Tài Ngọc Người miền Bắc vào Nam sau 30/04/1975 mang theo nhiều từ ngữ khác lạ và đôi khi dùng chữ ý nghĩa thay đổi. Vì không sống cùng môi trường, người Việt sống ở hải ngoại đọc nghe thấy lạ. Hai câu chuyện buồn cười có thật xẩy ra vì việc không hiểu từ ngữ mới lạ này: Chị vợ tôi là người miền Nam, đi du học ngoại quốc từ khi còn bé vào thập niên 1960, chữ nghĩa tiếng Việt giới hạn. Năm 2005, lần đầu tiên trở về Sài Gòn sau hơn 40 năm xa nhà, chị đến Khoa Học Dược thăm lại trường cũ thì người canh gác không cho, nói phải trình "hộ chiếu" (giấy thông hành - passport) thì mới được vào. Chị tôi nghe không hiểu chữ "hộ chiếu" là gì, tưởng là chữ "chiếu", nói với người bảo vệ là chị ấy đi du lịch từ Mỹ về thì làm gì mà nghĩ đến chuyện mang chiếu nên không thể nào có chiếu mà đưa cho anh ta được! Trên đường về khách sạn từ phi trường, khi biết chị lần đầu tiên về lại Việt Nam, người tài xế nói chị nên đi Vũng Tàu chơi: "Bây giờ có "tầu cánh ngầm" chở khách từ Sài Gòn đi rất nhanh, chỉ mất có 50 phút". Đi theo chị là một người bạn Mỹ nên chị phải thông dịch cho ông ta hiểu. Trong ba chữ "tầu cánh ngầm", chị chỉ hiểu có hai chữ "tầu ngầm" nên nói với ông ta là: "We can take the submarine from Saigon to Vung Tau". Dĩ nhiên là người bạn Mỹ quá khâm phục với quốc gia hiện đại Việt Nam dùng tầu ngầm là một phương tiện chuyên chở du lịch! Chính tôi là người Bắc mà lần đầu tiên khi nghe một người bạn ở Sài Gòn dùng chữ "tầu cánh ngầm", tôi cũng không hiểu. Sau khi nghe anh bạn giải thích là tầu chạy bằng hơi, tôi mới biết anh ta nói về hovercraft, tầu lướt nước trên hơi ép không khí (Tầu này khi chạy lơ lửng không chạm nước nhờ không khí đệm ở đáy tầu nên khi mới phát minh, nhiều người xếp nó vào loại máy bay. Mặc dù hovercraft hiện giờ đóng một vai trò quan trọng trong vũ khí quân đội, khi Sir Christopher Cokerell cải tiến kỹ thuật của hovercraft vào giữa thập niện 1950 và đề nghị quân đội Anh nên dùng, Hải Quân Anh từ chối, cho rằng hovercraft là máy bay, trong khi Không Quân Anh cũng khước từ, viện lẽ nó là tầu thuỷ, không phải là phi cơ!). Một hay hai năm sau khi sang Mỹ, tôi có đọc tựa đề của hai cuốn phim trong báo của miền Bắc mà khi vừa đọc xong, tôi chưng hửng không biết nghĩa là gì: "Thép đã tôi thế đấy" (Phim Nga) và "Đến hẹn lại lên". Phải mất nhiều phút suy nghĩ tôi mới đoán ra chữ “tôi” ở đây như nghĩa của chữ “tôi luyện”: “Thép đã tôi thế đấy” có nghĩa là “thép đã nung đúc đến độ bền cứng như thế”, ám chỉ một người đã trải qua bao gian nan thử thách khó khăn, nay trở thành vững chắc. Còn “Đến hẹn lại lên”, thoạt nghe như tựa đề một chuyện phim X-rated, có nghĩa là phấn khởi khi gặp nhau! Đã có nhiều người, ngay cả tôi, viết phân tích và phê bình những từ ngữ mới lạ này. Tôi tóm tắt: - Sai văn phạm: “làm việc tốt” là sai, nói đúng phải là “làm việc giỏi” (“tốt” là tĩnh từ, chỉ bổ nghĩa cho danh từ, nếu muốn dùng chữ “tốt” thì phải nói “sự việc tốt”. “làm việc” là động từ, chỉ có trạng từ mới bổ nghĩa cho động từ. “Giỏi”là trạng từ, do đó nói đúng phải là “làm việc giỏi”). - Dùng chữ "có khả năng" nghĩa khác trước 1975: * “Dưa hấu có khả năng giải rượu”. Trước 1975 ta nói: “Dưa hấu có thể giải rượu”. * “Giá sinh hoạt có khả năng tăng giá”. Trước 1975 ta nói: “Giá sinh hoạt có thể tăng giá”. * “Có khả năng không phải cắt điện tuần tới”. Trước 1975 ta nói: “Có thể không bị cúp điện tuần tới”. Trước 1975, chủ từ của “có khả năng” phải là người hay là một sinh vật chuyển động. Nếu chủ từ là vật, ta dùng chữ “có thể”, không dùng “có khả năng”. Ngày nay bất cứ chủ từ nào cũng dùng “có khả năng”. - Chữ dùng sai nghĩa: “Chất lượng” dùng nghĩa như “phẩm chất” là sai vì phẩm chất không có lượng. Ngay cả tiếng Anh hay tiếng Pháp, “phẩm chất” cũng không có lượng: quality, qualité. Số lượng là quantity, quantité. - Chữ Hán/Nôm hỗn tạp: “Siêu sao”: “Siêu” là tiếng Hán, “sao” là tiếng Nôm. Nói đúng phải là “siêu minh tinh”. - Đảo ngược chữ: “Triển khai”, thay vì “khai triển”. - Ghép chữ: “Kích cầu” = kích thích + nhu cầu. - Cầu kỳ hoá chữ không cần thiết: “Hiển thị” thay vì “xem”, “có sự cố” thay vì “hư hỏng”, “trục trặc”… Hôm nay tôi gom những chữ mới lạ này (chữ in nghiêng), viết lồng chúng trong một câu chuyện để đọc cho vui. Giống như hầu hết những thơ văn khác tôi viết đều là chuyện có thật vì tôi không giỏi trí tưởng tượng (tôi chỉ bóp mép sự thật một tí), câu chuyện sau đây cũng là không giả tạo: khi còn độc thân tôi có một con chó, có một chiếc xe gắn máy, và phần cuối của bài viết là chuyện thật xẩy ra khắp nơi trên đất Mỹ. Xin mời bạn đọc "Tình Yêu Phai Nhạt": Tình Yêu Phai Nhạt Tôi nhìn đồng hồ hai cửa sổ không người lái trên tay, bây giờ đã 6 giờ sáng. Bật kênh phát sóng số 3 nghe bản thông tin, TV tiên đoán hôm nay có khả năng mưa. Tình hình Ai-Cập đã bớt căng vì công an, quân đội, kể cả lính gái và lính thuỷ đánh bộ kiểm soát đường phố khắp nơi. Một tướng lãnh đọc bài nói loan báo an ninh đã được bảo quản, tình trạng đất nước tốt, báo cáo tốt, các quan chức nhà nước sẵn sàng làm việc nghiêm túc trở lại để phục hồi đất nước. Vẫn còn quá sớm để thức dậy, nhất là hôm nay Thứ Bảy tôi không phải động não đi quảng trường quy hoạch quy trình cho nhân viên được quán triệt phương án, thế nhưng tôi vẫn ráng động viên cơ thể đứng dậy, bước ra khỏi giường. Xuống dưới nhà, tôi vào bếp bắc nồi vừa chiên con sâu mỡ, vừa pha cà phê cái nồi ngồi trên cái cốc cùng một lúc cho tranh thủ thì giờ. Pha xong, tôi vất xác cà phê ngay vào thùng rác, không dám đổ xuống bồn rửa bát sợ gây ra sự cố, ống nước bị ùn tắc. Mang ly cà phê nóng ra sau vườn nhâm nhi trong khi đọc báo, ngắm cây xanh tốt vì đất được phân bón cải cách, hoặc viết lách vào sáng sớm cuối tuần là cái thú thư giãn của tôi. Căn hộ tôi không được hoành tráng mấy thế nhưng nó xa phi khẩu, đảm bảo yên lặng cho chất xám của tôi được tăng trưởng kiệt suất khi tôi muốn viết lách. Nhà tôi ở núi non xa cách thành thị như thế này thì chắc chắn nhà nước chẳng bao giờ giải phóng mặt bằng để xây đường cao tốc. Nguyễn Tài Ngọc Ngày xưa mới lấy nhau thì không sáng nào hai vợ chồng không dậy sớm ngồi thủ thỉ với nhau. Bây giờ sau 27 năm lấy nhau thì căn hộ vắng vẻ, sáng nào tôi cũng ngồi một mình, còn nàng thì vẫn tiếp tục đánh giấc cho đến 8, 9 giờ mới dậy. Sinh hoạt hai vợ chồng vì thế cách ly hẳn. Tôi còn nhớ rất rõ tình cảm mật thiết nàng dành cho tôi khi lần đầu tiên chúng tôi mới gặp nhau. Ở cuộc gặp lần thứ hai, nàng đã nhờ chị của nàng ở bên Mĩ (cùng đi nhà thờ với tôi) làm rõ gia cảnh tôi, biết rằng tôi chưa có đối tượng. Vì thế, dù rằng chỉ mới là bạn sơ hữu, nàng nói là nàng muốn liên hệ tình cảm với tôi. Mừng như bắt được vàng, tôi bảo nàng cởi áo ra (lúc ấy đã là buổi đêm). Vừa nghe xong nàng tát cho tôi một bạt tai nháng lửa. Tôi ngạc nhiên quá đỗi nhưng chỉ cần vài giây suy nghĩ là tôi đoán ngay lý do tại sao nàng tát tôi: nàng kẹt ở lại Việt Nam tháng 4-1975, chỉ sang Paris năm 1980 nên dùng chữ “liên hệ tình cảm”, có nghĩa là “muốn làm quen với anh”. Tôi thì đi ngày 30/04/1975 nên đâu có bao giờ nghe chữ ấy, chỉ biết chữ "liên hệ tình dục" nên khi nàng nói liên hệ tình cảm, tôi nhanh nhẩu đoảng nghĩ ngay là nàng muốn liên hệ tình dục do đó mới bảo nàng cởi áo ra! Vì vậy mà tôi ăn tát! Đối với các cô khác thì đã "un point final" tình bạn, không thể nào cho nó triển khai thêm, thế nhưng nàng là người dễ dãi, và nhất là dễ gì tìm được một con trai chảnh như tôi nên sau khi nghe giải thích sự tình, nàng bỏ tất cả bức xúc, tha thứ cho tôi. Hai chúng tôi giao lưu thư từ và trao đổi điện thoại thường xuyên. Nàng là dân trường Tây, lại ở Paris nên viết thư dùng những từ tiếng Pháp làm nhiều lúc tôi phải tìm tự điển hay tư liệu để tra cứu. Mắt tôi kém, lúc nào cũng cần phải đeo kính để hiển thị thơ nàng. Tuy rằng ở Paris, nàng nỗ lực bố trí có cơ hội là sang Mỹ thăm tôi. Khi còn bé tôi ước mơ lớn lên sẽ làm nghệ nhân hay chủ nhiệm, thế nhưng lúc quen nàng thì đời sống tôi thất bại. Tôi không thuộc loại người có đỉnh cao trí tuệ mà chỉ là một người thợ quèn. Ấy thế mà nàng không sốc khi biết nghề nghiệp thật sự của tôi, còn yêu và xem tôi như tôi là một siêu sao! Xa nhau cả đại dương, tôi năng nổ viết thư cho nàng. Nhận được thư tôi nàng phản hồi ngay lập tức. Vài tháng sau, trong một lá thư, tôi đề xuất chúng tôi nên lấy nhau. Câu đáp án của nàng là bằng lòng. Còn sáu tháng nữa mới học xong đại học ở Paris mà nàng bỏ ngang không học nốt làm cho tôi ngạc nhiên khôn xiết khi một tuần sau tôi nhận điện thoại đột xuất của nàng báo hiện đang ở Sân bay Los Angeles! Ra đón nàng ở Sân bay, gần Trung Tâm Quản Lý Bay Dân Dụng, tôi không khỏi trào nước mắt khi thấy nàng đứng một mình với một chiếc valise to tổ bố. Nàng ôm chầm lấy tôi và nói: - Em ra trễ vì phải trình giấy tờ ở Hải Quan. Em đi máy bay yên lắm vì tổ lái tốt. Em đăng ký mua vé máy bay hôm kia, bảo cô bán vé khẩn trương tìm vé cho em. Gia tài em còn lại chỉ có cái hộ chiếu trong tay và cái valise này. Em bỏ học, bỏ việc làm bán phần với thu nhập chẳng là bao nhiêu, bỏ doanh nghiệp xuất khẩu em làm cho người quen, bỏ cả chứng minh nhân dân Tây bên Pháp, bỏ hết tất cả để sang Mĩ thi công sống với anh. Em có mang học bạ bên Pháp sang để chuyển ngữ, em sẽ đi học tiếp bên Mĩ nên anh đừng lo em bỏ học. Ngừng một lúc, nàng tiếp: - Em muốn anh quản lý đời em. Thế anh có tiếp thu em không ? Quá cảm động với tình yêu nàng dành cho tôi, dù rằng tôi là người vạm vỡ, ngày xưa là vận động viên của Viện Ung Bướu, vận động viên bóng đá, từng dùng dây thừng kéo những xe đò quá tải, tôi khóc oà và ôm chầm lấy người bạn gái thân thương, hứa rằng sẽ trọn đời yêu và nuôi nấng nàng. Nếu nghề chính của tôi không đủ nuôi hai đứa, tôi sẽ tìm nghiệp dư, tìm đủ mọi cách kiếm sống, quyết không bao giờ để nàng đói. Khi độc thân tôi có một con chó và một chiếc xe gắn máy, mua với một giá bèo. Từ ngày lấy vợ, tôi bán chiếc xe gắn máy để khỏi phải đội mũ bảo hiểm. Tôi giải phóng luôn con chó để có thì giờ tiêu khiển với nàng. Những năm tháng đầu và cho cả đến thời gian gần đây, đời sống vợ chồng tôi thật hạnh phúc. Hai chúng tôi lúc nào cũng có ý tưởng nhất quán, không bao giờ gây gổ nhau. Nàng mê tôi còn hơn Alain Delon, chiêu đãi tôi ngày này qua ngày khác. Thế nhưng từ ngày nàng bắt đầu xem phim bộ hay Paris By Night, nàng bắt đầu sao lãng, bỏ bê tôi, không thèm đi tham quan với tôi mà chỉ liên hệ với những cô khác cùng sở thích. Đã thế, nàng còn chỉ đạo tôi làm việc nhà nữa chứ! Một lần tôi mổ răng về nhà nằm liệt giường có sự cố, cần cứu hộ. Nàng hỏi tôi có muốn ăn cháo thì để nàng nấu. Tính tôi không thích người khác mệt nhọc vì mình, không muốn vợ phải vất vả vì tôi nên tôi mới bảo nàng là không cần nấu, tôi ăn mì gói là món ăn chủ đạo cũng được rồi vì mì gói cũng đủ chất lượng. Tôi ăn mì gói một ngày, hai ngày, ba ngày thì không sao, nhưng đến ngày thứ tư, thứ năm thì ngán đến tận cổ, muốn tranh thủ ăn lắm nhưng nuốt không trôi, thế mà nàng vẫn không nấu gì cho tôi ăn. Qua đến ngày thứ sáu, tôi mới hỏi nàng sao không thấy nấu cháo gà, cháo thịt cho tôi ăn thì nàng lý giải chính tôi là người nói với nàng không cần nấu nên nàng để dành thì giờ rảnh rỗi xem hát đôi, hát tốp của những ca sỹ trên sân khấu đại trà tiên tiến của Paris By Night! Cứ theo chế độ dinh dưỡng nàng dành cho tôi như thế này, thay vì thổi cơm tốc độ cho tôi ăn thì không nấu niếng gì hết cho tôi đói, chẳng mấy chốc tôi sẽ là hành khách trong bài Con đò đưa xác. Hơn 27 năm sống với nhau, sau khi đã tốn bao nhiêu công sức nâng cấp một người ở chợ Bàn Cờ như tôi (nhà tôi gần Hội Chữ Thập Đỏ), vợ tôi không còn mê tôi nữa. Tôi đã tư duy định leo lên máy bay lên thẳng rồi khi ở trên không, nhẩy ra ngoài máy bay tự tử để cho vợ tôi thấy hệ quả khi nàng không còn yêu tôi. Thế nhưng một ông bạn già Phó Tiến Sĩ của tôi 70 tuổi, đã về hưu, tuần vừa rồi cảnh báo tôi không nên phí đời giai như vậy. Ông ta muốn dẫn tôi đến nơi này đàn ông có giá trị hơn vàng vì số đàn bà gấp ba lần đàn ông. Tôi đến thì ông ta đảm bảo bao nhiêu bà sẽ hồ hởi tranh giành chém giết nhau để giành lấy tôi. Ông ta làm việc ở ba nơi. Chỗ nào họ cũng trả tiền ông ta đến nhẩy đầm với mấy bà vì nơi nào đàn ông cũng đều khan hiếm trầm trọng, không đủ người để nhẩy. Khi đến nơi làm việc, lúc nào ông ta cũng không có thì giờ nghỉ ngơi vì hết bà này đến bà khác giành giật nhẩy với ông ta. Đã thế, họ còn cho ông thêm tiền bồi dưỡng! Tôi không cần nhẩy giỏi, chỉ biết cơ bản là đủ. Nếu tôi nhận lời đi theo ông ta thì tôi nhất định sẽ không còn buồn vì vợ bỏ bê tôi. Ngược lại tôi sẽ hưng phấn vì các em gái này sẽ thống nhất tranh nhau o bế tôi, không rời tôi nửa bước, không cho tôi về nhà sớm. Ngoài ra, ở đó họ còn dùng máy điện tính, máy quét, thỉnh thoảng hư cần người sửa. Tôi sửa được mọi sự, đến đó vừa nhẩy đầm vừa sửa phần cứng, phần mềm cho họ thì họ lại càng yêu mến, đời sống tôi sẽ được hoàn toàn thoải mái vô tư. Tôi chưa biết xử lý ra sao vì hôm qua ông ta mới nói cho tôi biết nơi ông ta đi làm: Viện Dưỡng Lão Cao Cấp Thành phố với tuổi trung bình của hội viên là 73 tuổi. *** bài nói = diễn văn bảo quản = che chở bèo = rẻ bố trí = sắp đặt bức xức = dồn nén, bực tức căn hộ = căn nhà chất xám = thông minh chủ đạo = chính yếu con sâu mỡ = lạp xưởng cơ bản = căn bản đại trà = quy mô động viên = khuyến khích đề xuất = đề nghị đột xuất = bất ngờ hiển thị = xem hưng phấn = vui sướng khẩn trương = nhanh lên kiệt suất = xuất sắc làm rõ = điều tra năng nổ = siêng năng nghệ nhân = nghệ sĩ nghiêm túc = nghiêm chỉnh nhất quán = đồng nhất phương án = kế hoạch quá tải = quá trọng lượng quy trình = tiến trình quán triệt hiểu rõ tổ lái phi = hành đoàn tranh thủ = cố gắng trao đổi = nói chuyện tư duy = suy nghĩ
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:32:01 GMT 9
Tiếng Việt chủ thể tạo nên ngôn ngữ Hán . Hà văn Thùy Suốt thế kỷ XX, do thiếu tư liệu và do bị chi phối bởi quan niệm Hoa tâm (lấy Trung Hoa làm trung tâm) nên giới học thuật cho rằng tổ tiên dân tộc Việt là nhóm người thiểu số từ cao nguyên Thiên Sơn theo sông Dương Tử xuống vùng Hoa Nam, sau bị người Hán săn đuổi đã tràn vào đất Việt, tiêu diệt người bản địa, lập nhà nuớc Văn Lang. Lịch sử dân tộc Việt là một cuộc Nam tiến. Do bị phương Bắc đô hộ suốt một thiên niên kỷ, người Việt chịu nhiều ảnh hưởng của Trung Hoa, cả về huyết thống cả về văn hoá. Giới ngôn ngữ học lịch sử do chịu ảnh hưởng của viện sĩ Maspero (1912) cho ngôn ngữ Thái giữ vai trò chủ đạo trong thời tiền sử Ðông Á nên khi làm những nghiên cứu so sánh ngôn ngữ học đã đem chữ Hán được điển chế hàng ngàn năm đối chiếu với chữ Việt Latinh hóa mới chừng hơn trăm tuổi và thống kê được, trong tiếng Việt có đến 70% vay mượn từ tiếng Hán! Sở dĩ có sự lầm lẫn lớn này là do tiếng Việt không còn văn tự gốc, tức không còn chữ Hỏa tự hay chữ Khoa đẩu nên các nhà phục nguyên Hán ngữ chỉ theo những văn bản chữ Hán rồi mặc nhiên coi chữ của người Hán có trước, vì thế bất cứ tiếng Việt nào cũng có trong ngôn ngữ Hán đều bị coi là mượn từ tiếng Hán! Theo quan niệm trên, nhiều nhà ngữ học quốc tế cũng như Việt Nam (Ngô Tất Tố, Trần Trọng Kim…) cho rằng, tiếng Việt mượn đến 70% từ tiếng Hán. Những người không tán thành cùng lắm cũng chỉ có thể ấp úng nói rằng: tuy có mượn nhưng không mượn tới mức như vậy! Họ cố tìm những từ thuần Việt. Qua nhiều cuộc tranh luận chứng tỏ đó là những cố gắng vô vọng. Những người ít vốn cổ văn thường bị đánh gục bởi những học giả chữ nghĩa cùng mình, viện dẫn hàng núi sách Tây Tầu. Và cho đến nay, con em chúng ta vẫn bị nhồi nhét giáo điều đó! Trong chuyên luận này chúng tôi muốn chứng minh sự thật ngược lại: tiếng Việt đã góp phần hùn lớn để tạo thành ngôn ngữ Trung Hoa. I/ Lật ngược lịch sử Đã tới lúc chúng ta phải từ bỏ điều ngộ nhận để viết lại lịch sử của mình. Đây là công việc khó khăn mà chúng tôi mạo muội đề xuất trong tiểu luận Tìm lại cội nguồn tổ tiên cội nguồn văn hoá(1) và được bàn kỹ hơn trong công trình sắp xuất bản Thử tìm lại cội nguồn người Việt. Trong bài viết này, do yêu cầu của đối tượng nghiên cứu, chúng tôi chỉ xin nêu mấy nét chung nhất. Những thành tựu mới nhất và đáng tin cậy của công nghệ gene xác nhận rằng, người hiện đại Homo sapiens từ Trung Đông đã theo con đường phương nam tới Việt Nam vào khoảng 60-70.000 năm trước. Nghỉ lại đây trong vòng 10.000 năm, hai đại chủng Australoid và Mongoloid hoà huyết tạo ra dân cư Đông Nam Á, là các chủng Indonesien, Melanesien, Vedoid, Negritoid. Khoảng 40.000 năm trước, người từ Đông Nam Á đi lên khai phá đất Trung Hoa(2). Cho đến thiên niên kỷ thứ IV TCN, người Đông Nam Á Bách Việt có nhân số khoảng 54% nhân loại, chiếm lĩnh toàn vùng duyên hải Đông Á và xây dựng nền văn minh lúa nước tiến bộ nhất thế giới.(3) Trong khi đó, một số nhóm Mongoloid từ Đông Nam Á theo con đường biệt lập, (không hoà huyết với Australoid) đi lên sống du mục ở vùng Tây Bắc Trung Quốc, tạo thành nhóm Mongoloid phương Bắc. Khoảng 2600 năm TCN, những bộ lạc Mongoloid từ Tây Bắc Trung Quốc tràn qua Hoàng Hà xâm chiếm đất đai của người Bách Việt. Một bộ phận Bách Việt bị dồn xuống phía nam sông Dương Tử. Sau đó do bị lấn chiếm tiếp, đã trở lại Việt Nam và Đông Nam Á, lập nên nhà nước Văn Lang và các nước trong khu vực: Lào, Thái, Campuchea, Mianma, Mã Lai, Indonesia… Như vậy lịch sử dân tộc Việt trải qua hai thời kỳ: thời kỳ Bắc tiến từ Việt Nam đi lên khai phá đất nước Trung Hoa và thời kỳ thứ hai hồi hương từ Trung Hoa trở lại Việt Nam. Đấy là tiến trình lịch sử, còn tiến trình sinh học diễn biến như sau: Người Bách Việt với các chủng Indonesien, Melanesien đi lên phía Bắc. Khi người thuộc chủng Mongoloid phương Bắc từ Tây Bắc tràn xuống, đã diễn ra cuộc hoà huyết với các chủng Bách Việt bản địa, tạo ra chủng mới là Mongoloid phương Nam. Sau khoảng 300 năm, phần lớn dân Bách Việt sống trên đất Trung Hoa tham gia vào cuộc hoà huyết này. Khi trở lại Việt Nam và Đông Nam Á, những người Bách Việt Mongoloid phương Nam mang theo nguồn gene mới, lai giống với người bản địa, khiến cho chủng Mongoloid phương Nam trở thành chủ thể trong cư dân Đông Nam Á. Không có tài liệu làm căn cứ nhưng chúng tôi đoán rằng, khi cuộc xâm lược xảy ra, chỉ một bộ phận dân cư Bách Việt chạy khỏi nơi sinh sống. Đó là những quý tộc, tướng lĩnh, quân nhân từng đứng lên sống mái với quân xâm lược nên không thể ở lại; là lớp trí thức không chịu sống dưới ách đô hộ của ngoại tộc… Số người này có lẽ chỉ xấp xỉ 30% nhân số. Đại bộ phận người Bách Việt không có khả năng rời bỏ ruộng đồng nhà cửa với bầu đoàn thê tử nên ở lại, chịu sống cùng quân xâm lăng. Tràn xuống phía nam Hoàng Hà, kẻ thắng trận là những bộ lạc thiểu số Mông Cổ với số dân ít, đời sống khó khăn, bắt gặp vùng đất mênh mông, kinh tế trù phú và số dân đông đúc nên không thể và không cần thực hiện chính sách diệt chủng hay nô lệ hoá kẻ thua trận. Người chủ mới đã thực thi chính sách chung sống khôn khéo: đảm bảo quyền lợi cao nhất cho mình đồng thời không bần cùng hoá kẻ bị trị tới mức phải nổi lên chống lại. Trên đại thể, người Hán bỏ phương thức du mục, chuyển sang làm quan cai trị, làm công nghiệp, thương nghiệp - những ngành nghề hợp với sở trường và sinh lãi cao. Họ để cho người Bách Việt làm nông nghiệp và đi lính(4). Chính vì vậy, cùng với người Hán, người Bách Việt được an cư lạc nghiệp đã đóng góp tích cực vào việc xây dựng xã hội mới cả về kinh tế lẫn văn hoá. Nhờ thế, chỉ trong vòng 300 năm, từ Hoàng Đế qua Đế Cốc, Đế Chí, sang Đế Nghiêu (2356 TCN) đã là thời Hoàng Kim của xã hội Trung Hoa cổ. Tới đây chúng tôi trình bày về sự đóng góp của người Bách Việt trong việc hình thành ngôn ngữ Trung Hoa. Quy luật phổ quát của nhân loại là những bộ lạc du mục thường mạnh về vũ trang nhưng văn hoá kém phát triển. Trong khi đó dân nông nghiệp có nền văn hoá cao nhưng lại kém trong chiến trận. Là tộc người giữ vị trí lãnh đạo cộng đồng Bách Việt nông nghiệp về xã hội và ngôn ngữ, người Lạc Việt có vốn ngôn ngữ phong phú vượt trội so với người thiểu số Hán Mông Cổ(5). Ngôn ngữ học thế giới cho thấy, vào khoảng thiên niên kỷ IV TCN, ngôn ngữ Môn-Khmer của người Việt giữ vai trò lãnh đạo vùng Ðông Á cả về xã hội cả về ngôn ngữ. Trong khi đó, ngôn ngữ Hán Tạng (Sino-Tibétan) chỉ tồn tại trong số ít người sống ở vùng Thiểm Tây, Cam Túc. Sự vượt trội còn thể hiện ở chỗ số lượng từ vựng của người Lạc Việt nhiều, có khả năng biểu cảm cao đồng thời có nhiều từ thể hiện những khái niệm trừu tượng, đủ sức làm nên kinh Thi, kinh Dịch... Khi sống trong cộng đồng cư dân mới, người gốc Bách Việt – mà kẻ xâm lăng gọi là lê dân, tức dân có nước da đen – vẫn dùng tiếng nói và cách nói của mình. Cùng với thời gian, họ học thêm những từ mới của người láng giềng Hán tộc. Cũng như vậy, người Hán bổ sung từ ngữ của lê dân vào tiếng nói của mình. Dần dần toàn bộ từ vựng trở thành của chung. Điều này cũng giống như ngôn ngữ Việt hiện đại: sau năm 1975 trong giao tiếp cũng như viết lách có việc dùng trộn trạo tiếng Bắc lẫn tiếng Nam. Từ vựng hoà đồng khá dễ dàng nhưng người gốc Hán và gốc Việt vẫn giữ cách nói hay ngữ pháp riêng của mình. Ngữ pháp là yếu tố khá bền vững của ngôn ngữ và làm nên sự phân biệt giữa tộc người này với tộc người khác. Cách nói của người Hán có những nét khác biệt người Việt. Do sống dưới sự thống trị của người Hán nên người Việt phải tuân theo cách nói của kẻ cầm quyền. Quá trình này là lâu dài và được chi phối bởi quy luật: Các vùng đất trong một quốc gia thường học theo cách nói của trung tâm, của kinh đô. Người Hán thống trị tập trung ở các đô thị, ra mệnh lệnh, giấy tờ theo cách nói cách viết của mình. Lê dân, dù ngày thường nói và viết theo thói quen của người Việt nhưng khi lên thủ đô, khi viết những văn bản hành chính buộc phải theo cách nói cách viết của chính quyền. Rồi trường học được mở, học trò phải nói và viết theo “chuẩn”. Cứ như vậy dần dần cách nói cách viết của người Hán trở thành thống lĩnh. Ban đầu tiếng nói được ký tự bằng chữ Khoa đẩu của người Việt. Khi chế ra chữ vuông, tất cả từ vựng chuyển sang viết bằng chữ vuông: tiếng Việt biến thành tiếng Hán cả về từ vựng cả về ngữ pháp. Ở trên là một phác hoạ lịch sử đồng thời là giả thuyết mang tính nguyên lý về quá trình hình thành của ngôn ngữ Trung Hoa hay quá trình hội nhập của tiếng Việt vào ngôn ngữ Hán. Nhưng dù sao đó cũng chỉ là suy đoán mang tính tư biện. Vấn đề là phải chứng minh bằng chứng cứ thuyết phục. II/ Dấu vết ngữ pháp Việt trong thư tịch cổ Trung Hoa. Nếu tiếng Việt là bộ phận cấu thành ngôn ngữ Trung Hoa, thì theo luật biện chứng, tất phải có những vết tích của ngôn ngữ Việt trong thư tịch Trung Hoa. Ngôn ngữ gồm hai bộ phận hợp thành là từ vựng và ngữ pháp. Từ vựng là sinh ngữ nên chịu biến đổi theo thời gian và sự giao lưu giữa các tộc người trong không gian. Vì vậy việc truy tìm nguồn gốc của một từ là không dễ dàng. Với ngôn ngữ nói chung đã vậy mà riêng trong quan hệ ngôn ngữ Hán - Việt lại càng phức tạp hơn. Đi theo hướng này, chúng ta gặp những từ như Thần Nông, Nữ Oa, Đế Minh, Đế Lai, Đế Du Võng, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế cốc, Đế Chí. Không thể chối cãi được đó là những tên Việt. Nhưng vì lý do nào những danh từ riêng đó tồn tại trong ngôn ngữ Trung Hoa là điều bí ẩn. Tham vọng tìm ra những từ thuần Việt thường vấp phải sức phản kháng rất lớn. Ít năm trước có tác giả cho rằng một số địa danh vùng đất Phú Thọ như Kẻ, Mơ… là những từ gốc Việt. Nhưng giả thuyết vừa ra đời liền bị phản bác. Người ta đưa ra những cuốn sách vĩ đại như Từ Hải, Khang Hy tự điển, Tứ khố toàn thư… để chứng minh rằng “kẻ” cũng là từ gốc Hán, là những từ “cái”, “giới”, “giái” của Hán ngữ được người Việt muợn. Khi nhập tịch Việt Nam, nó được Việt hoá thành “kẻ”. Tương tự như vậy, “mơ” cũng là con đẻ của “mai” tiếng Tàu! Một vài từ xem chừng có vẻ Việt nhất thì cũng “Trăm phần trăm Hán, đều Made in China!” Trong con mắt những học giả này, dân Việt chỉ là đám Hán lai, văn hoá Việt nghèo nàn, chỉ là sự học mót người Hán chưa đến đầu đến đũa! Bất cứ những gì cả Hán lẫn Việt cùng có thì chỉ là Việt học Hán! Đáng buồn là giới khoa bảng Việt chưa ai cãi nổi họ. Giáo sư Cao Xuân Hạo kể rằng: “Ông Vượng (Trần Quốc) nói với tôi: biết rõ Huệ Thiên nói bậy mà không có cách nào bác ông ta được!” Thật đáng thương cho tiếng Việt! Không đủ tài trí để tìm những từ thuần Việt, chúng tôi đi theo hướng khác: tìm dấu vết ngữ pháp Việt trong Hán ngữ. Tới đây một câu hỏi nảy sinh: cái gì là đặc trưng nhất cho ngữ pháp tiếng Việt? Dựa vào luật “CHÍNH TRƯỚC PHỤ SAU” của nhà ngữ học người Pháp Léopold Cadiere với nội dung: “Trong một câu đơn, các từ ngữ nối tiếp nhau theo một trật tự như thế nào mà mỗi từ đi sau làm rõ ý nghĩa của từ đi trước hay của một trong những từ đi trước », giáo sư Cao Xuân Hạo đưa ra nhận định: «Nhìn chung, tiếng Việt rất nhất quán trong cách xử lý trật tự từ ngữ (chính trước, phụ sau, nhất là khi so với tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Hán, trong đó không thể có một nhận định tổng quát nào về trật tự từ ngữ.) Trong tiếng Việt, những từ ngữ Hán-Việt làm thành một trường hợp lệ ngoại nổi bật đến mức người không có học bao nhiêu cũng biết đó là một trật tự “ngược”, nếu không kể những trường hợp lệ ngoại như những tổ hợp [vị từ tình thái+ ngữ vị từ] như các kết cấu mở đầu bằng bất hay vô vốn được xử lý như mọi tổ hợp [vị từ+ bổ ngữ] khác (chính trước phụ sau). Tuy vậy cũng không hiếm những kết cấu sai ngữ pháp Hán nhưng đã trở thành vốn văn học dân gian như cách nhại tiếng kêu của con đa đa (gà gô) là Bất thực cốc Chu gia (không thèm ăn lúa nhà Chu) được gán cho Bá Di và Thúc Tề (lẽ ra phải là Bất thực Chu gia cốc mới đúng ngữ pháp tiếng Hán).”(6) Từ luật “chính trước phụ sau” nêu trên, soi vào những thư tịch Hán văn, ta dễ dàng bắt gặp cấu trúc ngữ pháp dạng Trung + danh từ như “trung tâm” (trong lòng), “trung đình” (trong sân): Trung tâm rạng rạng, Trung tâm dao dao, Trung cấu chi ngôn (kinh Thi); thứ nhị, thứ tam (kinh Thư); bệ thăng thiên, thần thọ (thần cây) ở Lục độ tập kinh. Trong những kết cấu trên, đúng là trật tự chính trước phụ sau được tuân thủ. Rõ ràng đó không phải là cấu trúc cú pháp Hán mà là cấu trúc cú pháp Việt. Nếu chỉ có một vài trường hợp trong một cuốn sách nào đó thì là chuyện ngẫu nhiên. Nhưng sự việc trở thành không bình thường khi phát hiện hàng loạt trường hợp tương tự trong nhiều thư tịch: Kinh Thi(7): - Túc túc thỏ ta, thi vu trung lâm (Thỏ ta: trong rừng) - Hước lãng tiếu ngạo, trung tâm thị niệu (Chung phong: trong lòng áy náy) - Hồ vi hồ trung lộ (Thức vi: trong sương) - Trung tâm rạng rạng (Nhị tử thừa chu: trong lòng áy náy ) - Trung tâm hữu vi (Cốc phong: trong lòng băn khoăn) - Di vu trung cốc (Cát đàm: trong hang) - Trung tâm dao dao (thử ly: trong lòng nao nao) - Tại bỉ trung hà (Bách châu: giữa dòng sông) - Trung cấu chi ngôn (Tường hữu từ: lời nói trong buồng kín ) Những "hòn sạn" chữ nghĩa kia nói lên điều gì? Phải chăng là sự vô tình? Phải chăng là những người biên tập, san định, chú giải Thi vì "dốt" nên không thấy cái "sai" ấy? Mấy nghìn năm nay chưa ai giải thích điều này. Vì sao qua hàng nghìn năm phấn đấu xa đồng quỹ, thư đồng văn, qua biết bao lần nhuận sắc, chú giải, những đại nho Hán tộc không sửa chữa, không lượm đi những "hạt sạn"? Ðúng là chữ nghĩa thời kinh Thi chưa ổn định và có khác thời Hán thời Ðường. Nhưng thử hỏi, nguyên nhân của sự không ổn định ấy là gì? Theo thiển ý, ở chính trong lịch sử hình thành ngôn ngữ Trung Hoa. Ngôn ngữ thời kinh Thi nằm trên đường chuyển hóa từ cách nói của người Việt sang cách nói của người Hán. Không chỉ ở Thi mà chúng tôi gặp trong Kinh Thư (8): 1. Thiên Vũ Cống câu 31: Hàm tắc tam nhưỡng, thành phú trung bang. (thuế ruộng chỉ lập thành ở trong nước - tại chính nước của thiên tử mà thôi) 2. Thiên Hồng Phạm câu 4: Sơ nhất viết ngũ hành. Thứ nhị viết: kính dụng ngũ sự. Thứ tam viết: nông dụng bát chính. Thứ tứ viết: hiệp dụng ngũ kỷ. Thứ ngũ viết: kiến dụng hoàng cực. Thứ lục viết: nghệ dụng tam đức. Thứ thất viết: minh dụng kê nghi. Thứ bát viết: niệm dung thứ trưng. Thứ cửu viết ướng dụng ngũ phúc. (Trù thứ nhất gọi là ngũ hành. Trù thứ hai gọi là kinh dùng năm việc. Trù thứ ba là, trù thứ tư là…) Đây là lần duy nhất trong kinh Thư có cấu trúc “thứ nhị, thứ tam” theo cách nói của người Việt. Ở các thiên sau được viết “nhất viết, nhị viết” theo cách nói của người Hán. 3. Thiên Tử Tài câu 6: hoàng thiên ký phó trung quốc dân, việt quyết cương thổ vu tiên vương. (vì rằng trời đã trao cho đấng tiên vương nhân dân bờ cõi đất đai trong nước) 4. Thiên Thiệu Cáo câu 14: Kỳ tự thời trung nghệ. Vương quyết hữu thành mệnh (Có thể ở giữa nước cai trị nhân dân . Như thế nhà vua sẽ trọn vẹn được mệnh trời, nay được tốt đẹp cả.) 5. Thiên Lạc Cáo câu 23 Viết: kỳ tự thời trung nghệ, vạn ban ham hưu (nhà vua ở trung tâm cả nước trị dân, muôn nước nhỏ đều được tốt đẹp) 6. Thiên Vô Dật câu 11 Văn Vương thụ mệnh duy trung thân, quyết hưởng quốc ngũ thập niên (Vua Văn Vương chịu mệnh làm vua chư hầu suốt đời, cả thảy 50 năm) Kinh Dịch (9): 1/ Khổng tử có câu: “Thánh nhân dĩ thiên hạ vi nhất gia, dĩ trung quốc vi nhất nhân” (Thánh nhân xem người thiên hạ như người một nhà, xem người trong nước như người thân của mình.) Trang 64. 2/ Đắc thượng vu trung hàng (vào trong hàng ngũ có nghĩa theo đúng đạo.) Trang 216. 3/ Tượng viết, phiên phiên bất phú, giai thất thực dã, bất giới dĩ phú, trung tâm nguyện dã (trong lòng đã muốn sẵn vậy) Trang 221. 4/ Tượng viết, trung hành độc phục (đi giữa bầy ác mà một mình theo đạo thiện nhân.) Trang 376 5/ Tượng viết, trung hành độc phục, dĩ tòng đạo dã. Trang 377 6/ Lục nhị, vô duy tuỵ, tại trung quỵ, trinh cát (con dâu con gái không trách nhiệm, lo việc trong nhà, tốt.) Trang 539. 7/ Tương việt, kỳ tử hoạ chi, trung tâm nguyện dã (nghe tiếng gáy mà hoạ ngay tại trong lòng muốn vậy) trang 825 8/ Trung tâm nghi giả, kỳ từ chi (trong lòng nghi ngờ, lời nói không chắc chắn) Trang 929 Rất may mắn, trong cuộc truy tìm của mình, chúng tôi được sự trợ lực quý báu của học giả Lê Mạnh Thát: “Ngoài Kinh thi, Lễ ký cũng bốn lần xử dụng cụm “trung tâm”. Một lần ở thiên Biểu ký của Lễ ký chính nghĩa 54 tờ 12a3-4, dẫn đoạn ba của bài Thấp tang của Kinh thi: (Mao thi chính nghĩa 15/2 tờ 7a12). Tâm hồ ái hỉ Hà bất vị hỉ Trung tâm tạng chi Hà nhật vong chi. Ba lần kia ở thiên Lễ vận và thiên Biểu ký của Lễ ký chính nghĩa 22 tờ 10a7 và tờ 4a7 và tờ 5a1 “trung tâm vô vi”, “trung tâm thảm đát” và “trung tâm an nhân giả, thiên hạ nhất nhân nhi dĩ hỹ”. Trong cả ba lần này, Trịnh Huyền không có giải thích gì thêm, còn Khổng Dĩnh Đạt vẫn giữ nguyên khi viết lời sớ của mình. Tuy nhiên, không phải Lễ ký không biết đến lối viết tiêu chuẩn “tâm trung”. Cụ thể là thiên Nhạc ký của Lễ ký chính nghĩa tờ 9b10. “Tâm trung tư tu, bất hòa bất lạc”. Đặc biệt hơn nữa, khi giải thích chữ “trung” trong câu “lễ nhạc giao thố ư trung, phát hình ư ngoại” của thiên Văn vương thế tử của Lễ ký chính nghĩa 20 tờ 7b13-8a1, Trịnh Huyền đã viết: “Tâm, trung tâm giả”. Như thế rõ ràng đến thế kỷ thứ II sdl, qui định về vị trí của chữ "trung" đối với các danh từ và đại từ được tuân thủ. Thực vậy, kiểm soát toàn bộ văn liệu tiếng Trung Quốc từ thế kỷ thứ nhất sdl đến thời Khổng Dĩnh Đạt viết Mao thi chính nghĩa và Lễ ký chính nghĩa vào năm 638, ta thấy cụm “trung tâm” rất ít khi dùng tới. Trong ba thế kỷ từ thế kỷ thứ I -III ngoài Dương Hùng, ta chỉ gặp ba lần dùng cụm “trung tâm”. Một là trong lá thư của Phùng Diễn (k.1-65) do Lý Hiền dẫn trong truyện của Diễn ở Hậu Hán thư 58 hạ tờ 14a4-6 viết cho Tuyên Mạnh: “Cư thất chi nghĩa, nhân chi đại luận, tư hậu hòa chi tiết, lạc định kim thạch chi cố. Hựu tư thương tiền tào bất lương, tỷ hữu khử lương phụ chi danh, sự thành bất đắc bất nhiên, khởi trung tâm chi sở hảo tại!” Hai là trong tờ chiếu cải cách lịch của Hán Chương đế viết tháng 2 năm Nguyên Hòa thứ 2 (86) trong Hậu Hán thư 12 tờ 2a5, ta có câu “trung tâm nục yên”. Ba là ngày Đinh Hợi tháng giêng năm Cảnh Sơ thứ 3 (240) Minh đế Tào Duệ băng hà, Tề vương Tào Phương lên ngôi. Tháng 2, Tào Sảng nhằm giảm bớt quyền hành của Tư Mã Ý, đã sai em là Tào Hy viết biểu đề nghị phong Ý từ thái úy lên thái phó. Bài biểu này chép trong Ngụy thư, mà Bùi Tùng Chi cho dẫn trong Ngụy chí 9 tờ 13a12, trong đó có câu “trung tâm quí dịch”. Hà Yến và Đặng Dương cùng nhóm với Tào Sảng. Thế thuyết tân ngữ phần hạ của quyển trung tờ 30b11-13 chép việc Yến và Dương nhờ Quản Lạc xủ quẻ. Xủ xong, Lạc dặn phải cẩn thận. Yến lại dẫn 2 câu cuối của bài thơ Thấp tạng Trung tâm tạng chi Hà nhã vong chi để trả lời. Hai câu này, Tôn Tú cũng dùng đễ trả lời Phan Nhạc về mối hận với Thạch Sùng, như Thế thuyết tân ngữ phần hạ của quyển hạ tờ 38a8 đã ghi. Đến thế kỷ thứ IV, Thế thuyết tân ngữ phần thượng của quyển hạ tờ 9a2-7 chép Chi Tuần (352 - 404), sau khi người bạn đạo của mình là Pháp Kiên tịch, đã nói: “Tri kỷ đã mất, nói ra không ai thưởng thức, trong lòng dồn nén, ta cũng mất thôi”. Câu “trong lòng dồn nén” là dịch cụm “trung tâm uẩn kết”, mà sau khi viết truyện của Tuần trong Cao tăng truyện 4 ĐTK 2059 tờ 349c15-167, Huệ Hạo đã ghi lại và là một lời nhái câu “ngã tâm uẩn kết” của bài thơ Tố quan trong Mao thi chính nghĩa 7/2 tờ 4b6. Qua các thế kỷ V-VI không thấy dùng nữa. Đến đầu thế kỷ thứ VII, khi viết Biện chính luận 7 ĐTK 2110 tờ 541a20-22 vào năm 622, Pháp Lâm mới có dịp dùng “trung tâm” trong bài thơ Thanh sơn (Núi xanh) mà bốn câu cuối cùng đọc: Huyên phong bạch vân thượng Quải nguyệt thanh sơn hạ Trung tâm dục hữu ngôn Vị đắc vong ngôn giả. Như vậy cụm từ “trung tâm” từ thế kỷ thứ VI tdl, khi Khổng Tử san định kinh Thi, Thư và Lễ trở về trước, đang còn được sử dụng khá phổ biến. Nhưng từ thế kỷ thứ I sdl về sau cho đến thời Khương Tăng Hội, việc sử dụng nó cực kỳ hiếm hoi, như ta đã thấy. Trong khoảng 300 năm, nó chỉ được sử dụng ba lần, một trong lá thư của Phùng Diễn, một trong tờ chiếu viết năm 86 của Chương đế và một trong bài biểu năm 240 của Tào Sảng. Những lần do Hà Yến, Tôn Tú và Phan Nhạc dùng tới thì đều đọc lại hay nhái theo thơ của kinh Thi, nên không cần kể ra ở đây.” Điều thú vị là hiện tượng cấu trúc ngữ pháp Việt tồn tại trong bản văn chữ Hán còn gặp trong 3 bản kinh Phật bằng chữ Hán tồn tại từ thế kỷ II, đó là Cựu tạp thí dụ kinh, Tạp thí dụ kinh và Lục độ tập kinh. Theo học giả Lê Mạnh Thát, đó là những bản kinh do thiền sư Mâu tử và Khương Tăng Hội dịch từ những bản kinh tiếng Việt sang chữ Hán. Quá trình này như sau: Khương Tăng Hội mà trong nhiều thư tịch Trung Hoa viết là người Hồi Hồi (Pakistan) thì chính là con một người lái buôn Tây Trúc. Người này sang Giao Châu làm ăn, lấy vợ người Việt, đẻ ra Khương Tăng Hội. Hội thông thạo tiếng Việt, theo đạo Bụt rồi học chữ Hán và dịch kinh Phật ra Hán ngữ. Ban đầu do chưa thành thạo chữ Hán nên ông đã chuyển nguyên xi một số cú pháp Việt từ bản tiếng Việt sang bản chữ Hán. Cũng theo Lê Mạnh Thát: “Lục độ tập kinh hiện nay có cả thảy 91 truyện. Kiểm tra 91 truyện này ta thấy xuất hiện một hiện tượng ngôn ngữ khá bất bình thường, đó là những kết cấu ngôn ngữ học không theo ngữ pháp tiếng Trung Quốc. Ngược lại, những cấu trúc được xây dựng theo ngữ pháp tiếng Việt: 1. Truyện 13 ĐTK 152 tờ 7c 13: “Vương cập phu nhân, tự nhiên hoàn tại bản quốc, trung cung chính điện thượng toạ, như tiền bất dị…” 2. Truyện 14 ĐTK 152 tờ 8c5: “…Nhĩ vương giả chi tử, sinh ư vi lạc, trưởng ư trung cung…” Tờ 9b27: “…lưỡng nhi đồ chi, trung tâm đảm cụ…” 3. Truyện 26 ĐTK 152 tờ 16b2: “… thủ thám tầm chi. tức hoạch đắc hĩ, trung tâm sảng nhiên, cầu dĩ an chi…” 4. Truyện 39 ĐTK 152 tờ 21b27: “…trung tâm hoan hỉ” 5. Truyện 41 ĐTK 152 tờ 22c12: “… Vương bôn nhập sơn, đổ kiến thần thọ.” 6. Truyện 43 ĐTK 152 tờ 24b21: “…trung tâm chúng uế…” 7. truyện 44 ĐTK 152 tờ 25ầ; “… trung tâm nục nhiên, đê thủ bất vân.” 8. Truyện 72 ĐTK 152 tờ 38b25: “ Thần sổ tôn linh vô thượng chính chân tuyệt diệu chi tượng lai trung đình, thiếp kim cung sự.” 9. Truyện 76 ĐTK 152 tờ 40a8: “Thần thiên thân lãnh, cửu tộc quyên chi, viễn trước ngoại dã. ĐTK 152 tờ 40b5: “Vị chúng huấn đạo trung tâm hoan hỉ.” 10. Truyện 83 ĐTK 152 tờ 44c1: “Ngô đẳng khước sát nhân súc, dĩ kỳ cốt nhục vi bệ thăng thiên.” ĐTK 152 tờ 45a19: “ Ngô đương dĩ kỳ huyết vi bệ thăng thiên.” 11. Truyện 85 ĐTK 152 tờ 47b26: “… trung tâm gia yên.” Trong những trường hợp nêu trên, rõ ràng ngữ pháp tiếng Hán Trung Quốc đã không được tuân thủ. Muốn nói "trong lòng" mà nói "trung tâm" theo ngữ pháp tiếng Trung Quốc là không thể chấp nhận. Như thế, những trường hợp "trung tâm" vừa dẫn phải được viết theo ngữ pháp tiếng Việt. Những trường hợp "thần thọ" để diễn tả ý niệm "thần cây" và "bệ thăng thiên" để diễn tả "bệ thăng thiên" cũng thế. Chúng đã được xây dựng theo ngữ pháp tiếng Việt. Những trường hợp ngôn ngữ khá bất bình thường này chỉ cho ta điều gì? Làm sao lý giải sự có mặt của những cấu trúc ấy?”(10) Một câu hỏi thú vị. Phải chăng việc làm của Khương Tăng Hội vô hình trung lặp lại quá trình chữ Việt chuyển hóa thành chữ Hán hơn ngàn năm trước? Vết tích ngữ pháp Việt trong những thư tịch trên nói lên điều gì? Nó cho thấy, tới thế kỷ VI TCN, trong xã hội Trung Hoa còn tồn tại song song cả cách nói Việt lẫn cách nói Hán. Cách nói Việt không chỉ lưu hành trong tầng lớp bình dân sáng tác ca dao làm ra kinh Thi mà còn được trí thức quý tộc sử dụng. Trong bài viết trước (Việt mượn Hán hay Hán mượn Việt-talawas) chúng tôi có nói đại ý trong khi san định kinh Thi, Khổng tử có ý đồ ém đi những cấu trúc ngữ pháp Việt. Nay xét kỹ, thấy không phải vậy. Sự thực là Khổng tử không chỉ dùng nhiều cấu trúc Việt để viết kinh mà còn sử dụng ngay cả trong câu nói thường: “Thánh nhân dĩ thiên hạ vi nhất gia, dĩ trung quốc vi nhất nhân.” Hiện tượng này chứng tỏ, vào thời của ông, cả hai cách nói Hán Việt cùng tồn tại. Ta có thể ngờ rằng do mang trong mình gene Việt nên cách nói Việt đã sâu đậm trong máu huyết vì vậy khi viết, một cách vô thức Khổng tử dùng cách nói Việt? Những điều trình bày ở trên là bằng chứng không thể bác bỏ về sự có mặt của tiếng Việt trong quá trình hình thành ngôn ngữ Trung Hoa. Ngay cái câu “Bất thực cốc Chu gia” biết đâu cũng là cách người Việt nhại tiếng kêu chim đa đa từ thời Xuân Thu vọng tới hôm nay? Đến đây, tất nảy sinh câu hỏi: Nếu sự có mặt của tiếng Việt trong ngôn ngữ Hán là có thật thì về định lượng, đóng góp đó bao nhiêu? Nhà ngôn ngữ học lịch sử phải trả lời câu hỏi này. Chúng tôi chỉ có thể đoán rằng: Người Lạc Việt là nhân tố lãnh đạo cộng đồng Bách Việt về xã hội và ngôn ngữ thì tiếng Việt phải là phần chủ thể tạo thành ngôn ngữ của cộng đồng dân cư mới. Làm cuộc phiêu lưu ngược thời gian trở về 4600 năm trước, ta sẽ thấy nhóm người Mông Cổ da sáng lọt thỏm trong biển dân đen bản địa. Đám quan quân du mục với tiếng nói nghèo nàn thật vất vả khổ sở giữa rừng từ vựng quá đa dạng quá phong phú của dân nông nghiệp lúa nước. Kẻ xâm lăng phải học tiếng nói, văn hoá bản địa. Người bản địa cũng học văn hoá, tiếng nói của kẻ xâm lăng…Cùng với thời gian tất cả hoà trong một cộng đồng về máu huyết, văn hoá, tiếng nói. Cố nhiên, chủ thể ngôn ngữ của cộng đồng không ở nơi kẻ nắm quyền mà phải là của số đông có văn hoá cao. Quy luật tất yếu của lịch sử là thế. Kịch bản này được diễn lại vào thời nhà Thanh. Tộc Mãn thống trị Trung Hoa chỉ bảo lưu được bản sắc văn hoá duy nhất là cái đuôi sam. Sau vài trăm năm, triều Thanh đổ, đuôi sam bị cắt…tất cả đã trở thành Hán! Sau bốn ngàn năm trăm năm, với một đại Hán tộc có đến 1 tỷ người, khó ai hình dung nổi một cội nguồn máu huyết cũng như tiếng nói đã bắt đầu như vậy! III/ Kết luận Từ những phân tích ở trên, chúng ta có cơ sở khẳng định: 1/ Tổ tiên người Việt không phải từ cao nguyên Thiên Sơn xuống mà từ Trung Đông theo con đường phía nam đến Việt Nam khoảng 60 –70.000 năm trước. Từ đây hai đại chủng Mongoloid và Australoid hoà huyết để sinh ra những chủng người Đông Nam Á. Khoảng 40.000 năm trước, người Đông Nam Á đi lên khai phá vùng đất từ sông Dương Tử tới Hoàng Hà. Tại đây người Đông Nam Á Bách Việt xây dựng nền văn minh lúa nước phát triển. Khoảng 2600 năm TCN, người Hán Mông Cổ từ tây bắc tràn xuống, chiếm đất của người Bách Việt. Một bộ phận người Lạc Việt lui xuống phía nam sông Dương Tử và trở về Việt Nam xây dựng nhà nước Văn Lang. Những người trở về đem nguồn gene mới làm biến đổi di truyền của người Việt Indonesien, Melanesien tại chỗ đồng thời cũng du nhập những yếu tố văn hoá phương bắc trong đó có từ vựng Hán vào cộng đồng. 2/ Một bộ phận quan trọng người Việt ở lại sống chung với lực lượng chiếm đóng, góp vật chất cũng như văn hoá vật thể và phi vật thể xây dựng văn minh Trung Hoa. Trong đó tiếng Việt góp phần quan trọng hình thành ngôn ngữ Hán. Quá trình như sau: cùng với việc người Việt và người Hán hoà huyết tạo ra chủng Mongoloid phương Nam, tiếng Việt cũng hoà nhập cùng tiếng Hán trở thành ngôn ngữ của cộng đồng cư dân mới. Ban đầu từ vựng được ký âm bằng chữ Khoa đẩu của người Việt. Khi chế ra chữ vuông, tất cả từ vựng được ghi bằng chữ vuông. Chữ Việt hoàn toàn bị biến mất trong chữ Hán. Trong quá trình hoà nhập ngôn ngữ đó, cách nói, ngữ pháp tiếng Việt tồn tại khá lâu dài, để lại nhiều bằng chứng trong thư tịch. 3/ Từ thực tế như vậy, việc cho rằng tiếng Việt mượn đến 70% từ tiếng Hán là sai lầm về lịch sử và văn hoá cần bác bỏ. Việc dựa vào những bộ từ điển lớn của Trung Quốc để phân định chữ này gốc Hán hay gốc Việt là thiếu chuẩn mực về phương pháp luận. Nếu cần một phương pháp luận xác dịnh từ Hán hay Việt thì đó là xét theo nguồn gốc nông nghiệp hay du mục của nó. Tuy nhiên kết quả tìm được cũng chỉ tương đối. Hơn nữa, với lịch sử hình thành ngôn ngữ Trung Hoa và ngôn ngữ Việt như vừa trình bày, thiết tưởng việc truy tìm những từ thuần Việt không thật có ý nghĩa nữa. Điều có thể tin chắc: tiếng Việt là chủ thể làm nên ngôn ngữ Trung Hoa. Sài Gòn 6-2006 Tài liệu tham khảo: Hà Văn Thuỳ. Tìm lại cội nguồn tổ tiên cội nguồn văn hoá. Talawas.org J.Y. Chu & đồng nghiệp: Genetic relationship of population in China. Proc. Natl. Acad. Sci.USA 1998 số 95 tr. 11763-11768. Vũ Hữu San. Vịnh Bắc Việt. Tái bản 2004. Tripod.com. Kim Định. Việt lý tố nguyên. An Tiêm. Sài Gòn 1970 Joseph Needham & Edwin George Pulleyblank trong The Origins 1983 – Dẫn theo Cung Đình Thanh: Tiếng nói và chữ viết của người Việt cổ. Dactrung. Net. Cadière R. P. Leopold (1877-1948). Souvenirs d’un vieil annamitisant, Indochine, Hanoi, No 143, 8 Juillet 1943. Theo Cao Xuân Hạo: Sự tích bốn chữ “CHÍNH TRƯỚC PHỤ SAU” trong Việt ngữ học (tài liệu riêng) Kinh Thi. NXB thành phố Hồ Chí Minh 1990 Kinh Thư.Thẩm Quỳnh dịch. Trung tâm học liêu Bộ Giáo dục. Sái Gòn 1973 Kinh Dịch. Phan Bội Châu, NXB Văn hoá Thông tin 1996 Lê Mạnh Thát. Tổng tập Văn học Phật giáo Việt Nam tập I. Quangduc.com Hà văn Thùy
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:34:07 GMT 9
Việt mượn Hán hay Hán mượn Việt ? Hà văn Thùy Nhiều năm nay ông Huệ Thiên giữ chân chủ xị mục Chuyện Đông chuyện Tây của tạp chí Kiến thức ngày nay. Công bằng mà nói, ông có giúp cho độc giả những phút thư giãn bổ ích khi biết thêm những điển tích, những chữ nghĩa cổ. Người đọc nhận ra rằng, ông chịu tra cứu, phần nhiều nói có sách mách có chứng. Tuy nhiên, trong một số bài viết của ông có những kiến giải chưa thỏa đáng. Những kiến giải đó xuất hiện trên tạp chí, trên nhật trình, nguyệt trình là chuyện thoảng qua nhưng khi tập hợp lại thành sách NHỮNG TIẾNG TRỐNG QUA CỬA CÁC NHÀ SẤM* gây không ít ngộ nhận. Điều khiến chúng tôi băn khoăn là ông có cái nhìn thiên lệch trước một số hiện tượng tế nhị trong ngôn ngữ Việt. Chúng tôi có vài điều xin thưa lại. Trong bài Về những địa danh "thuần Việt" thời Hùng Vương, trang 145, khi bài bác quan điểm cho rằng, yếu tố "Kẻ" và những địa danh đi liền sau nó như "Mẩy", "Cót", "Vòng"… (thành những "Kẻ Mẩy", "Kẻ Cót", "Kẻ Vòng") là những tên Nôm làm thành một "hệ thống tên xã thôn hoàn toàn khớp với cương vực nước Văn Lang được ghi lại trong truyền thuyết dựng nước," ông "đã chứng minh rằng "kẻ" là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ (giới) mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là giới, âm Hán Việt hiện đại ít thông dụng hơn là giái, còn âm chính thống gọi là cái." Và "những cái gọi là tên Nôm hoặc "thuần Việt" như Mẩy, Cót, Vòng… chẳng qua chỉ là âm xưa của những chữ Hán nay đã được đọc theo âm Hán việt hiện đại mà thôi(!)" Đọc những dòng trên hẳn không ít người phải than "hỡi ôi" cho tiếng Việt, cho dân tộc Việt! Một dân tộc có 70% tiếng nói vay từ tiếng Hán mà đến một vài chữ hiếm hoi tưởng như đăc sản, đăc hữu cũng là đi mượn nốt! Dù không biết ông nói đúng hay sai nhưng chí ít cũng thêm một chút đau lòng! Một dân tộc vay mượn tới chừng đó trong ngôn ngữ thì nếu có bị nô lệ cũng đáng đời! Để minh chứng cho ý tưởng của mình, ông bắt đầu từ tên Mơ, một tên gọi phổ biến ở vùng Hà Nội: "đó rõ ràng là một từ việt gốc Hán có liên quan đến chữ/từ mai. Đó dứt khoát không phải là một yếu tố Nôm, thuần Việt hoặc Việt cổ và đây tất nhiên không phải là trường hợp duy nhất." Và ông dẫn ra hàng loạt trường hợp khác: Núc là âm xưa của Canh Nậu; Vài, của Ngọc Nhị; Gượm, của Cần Kiệm; Noi, của Cổ Nhuế; Núc, của Dị Nậu; Vòng, của Dịch Vọng; Gạch, của Ô Cách... Trong những căp tương ứng trên đây, tiếng đầu (Núc, Vài, Gượm…) là âm xưa, còn tiếng sau (Nậu, Nhị, Kiệm...) là âm nay của cùng một chữ Hán trong những địa danh hữu quan và sự tương ứng đó là hoàn toàn nhất quán trong các địa danh chỉ nhiều địa phương khác nhau, thậm chí rất xa nhau: "Núc không chỉ là Canh Nậu, Dị Nậu Hà Nội mà còn là của Dị Nâu vùng Tam Đảo. Gạch không chỉ là Ô Cách ngoại thành Hà Nội mà còn là âm xưa của Bình Cách thuộc Đông Quan Thái Bình..." Từ đó ông kết luận: "Sự tương ứng nhất quán đến cao độ trên đây là một chỗ dựa chắc chắn để khẳng định rằng những cặp từ đang xét chỉ là âm xưa và âm nay của những chữ Hán hữu quan. Nếu là phiên âm thì, dù âm gốc có là một, từ địa phương này sang địa phương khác, kết quả phiên âm thế nào cũng có sai biệt, và có khi khác nhau rất xa." Để củng cố cho lập luận của mình, ông Huệ Thiên dẫn Nguyễn Tài Cẩn, nhà ngôn ngữ hàng đầu: "Hiện ta có từ mơ là dạng cổ Hán Việt ứng với cách đọc Hán Việt mai. Mai là kết quả của cả một quá trình diễn biến *ơj>oj>aj. Mơ là dạng vay mượn vào lúc âm cuối -j chưa xuất hiện trong tiếng Hán; theo giới Hán ngữ học, mơ phải được vay trong khoảng 1500 trở về trước. Mà trong thời cổ đại đó thì - cũng theo sự phục nguyên của giới Hán ngữ học- từ mai đang có vần mở là *(ơ ); vần *(ơ) này không chỉ có mặt trong thời Đông Hán, Tây Hán mà còn lên đến tận thời Kinh Thi"(tr.147) Không có nhiều tri thức ngôn ngữ học lịch sử nhưng chúng tôi được biết thế này: đứa trẻ sinh ra, cha mẹ đặt tên cho nó. Mảnh đất khai phá xong thì chính người chặt cây đào gốc đặt tên cho nó bằng ngôn ngữ của mình. Sài Gòn là một tên gốc Phù Nam, Cần Thơ, Sóc Trăng là tên gốc Khmer. Những năm 1830, khi làm Địa bạ Nam Kỳ, nhiều quan chức triều Nguyễn đã phải cùng với hương chức vất vả phiên âm chữ Hán cho biết bao thửa ruộng cánh đồng từ lâu mang tên Nôm! Lập luận như ông Huệ Thiên thì phải chăng hàng vạn năm trước, đất Việt cổ không có tên vì chưa mượn được chữ Hán để đặt?! Chúng tôi cũng xin mạn phép nghi ngờ ý kiến của Gs Nguyễn Tài Cẩn bởi lập luận của ông dựa trên sự phục nguyên của giới Hán ngữ học. Theo logic đơn giản: phục nguyên một chữ Hán hiện đại là việc xác định gốc gác cổ xưa của nó và từ đó tìm ra mối liên hệ với những ngữ gần gũi. Vậy, việc phục nguyên ở đây sao lại đưa tới kết luận một chiều là chỉ có Việt mượn Hán chứ không phải ngược lại? Phải chăng vì nước Hán to, người Hán đông, văn hóa Hán bự nên chỉ cho mà không nhận? Mặt khác, trong ý kiến của giáo sư Cẩn có nói: từ mai đang có vần mở là (ơ ); vần (ơ) này không chỉ có mặt trong thời Đông Hán, Tây Hán mà còn lên đến tận thời kinh Thi. Theo thiển ý, thời kinh Thi là một thời gian khó xác định. Nếu là ở thời điểm hình thành kinh Thi thì chí ít là vào thời Đế Nghiêu khoảng 4500 năm trước. Còn ở thời điểm Khổng tử san định Thi thì cách nay 2500 năm. Ý kiến của giáo sư gợi rằng việc vay mượn có từ thời đó. Nếu vậy, thử hỏi cái sự vay mượn này diễn ra như thế nào? Phải chăng 4500 năm trước, một ông Việt nào đó đi du lịch lên tới tận bờ sông Hoàng Hà, thấy có chữ mai hay quá liền mượn về xài nhưng rồi sợ bị kiện vì vi phạm bản quyền nên nói trại đi thành mơ? Cố nhiên không phải vậy! Ý kiến của giáo sư Cẩn là một phát hiện khoa học chứng tỏ sự kiện là: ít nhất từ thời kinh Thi đã có sự sống chung đụng giữa người Hán và người Việt nên nảy sinh việc trao đổi ngôn ngữ. Chỉ có điều không phải Việt mượn của Hán mà Hán mượn của Việt: từ mơ tiếng Việt đã chuyển thành từ mai tiếng Tàu! Nhận định này là có cơ sở. Nhà địa lý kiêm toán học Buckminster Fuller cho rằng, có thể tìm ra nguồn gốc các nền văn minh căn cứ vào tỷ lệ thuận giữa trình độ văn hóa, di dân và mật độ nhân số. Từ lý thuyết đó, ông lập bản đồ Dymaxion World Maps (Bản đồ động thái thế giới). Từ bản đồ của mình, B.Fuller đưa ra giả thuyết: vào thiên niên kỷ IV-III TCN, duyên hải Đông và Đông Nam Á chỉ chiếm 5% diện tích thế giới nhưng có tới 54% nhân loại đang sống. 54% nhân loại ở đây chính là những tộc người Bách Việt từ Đông Nam Á lên khai thác lục địa Trung Hoa và các đảo ngoài khơi. Trong cộng đồng Bách Việt này thì người Lạc Việt giữ vai trò chủ đạo về xã hội và ngôn ngữ. Dựa vào sự tính toán của B. Fuller, người ra suy ra, vào thời đó, người Lạc Việt có thể chiếm 15-20% nhân số thế giới. (Vũ Hữu San. Vịnh Bắc Việt. Tripod.com). Trong công trình khảo cứu Tiếng nói và chữ viết của người Việt cổ, luật sư Cung Đình Thanh dẫn lại lịch sử nghiên cứu tiếng Việt và đưa ra kết luận mới nhất của giới ngôn ngữ học: vào khoảng thiên niên kỷ IV TCN, ngôn ngữ Môn-Khmer của người Việt giữ vai trò lãnh đạo vùng Đông và Đông Nam Á cả về xã hội cả về ngôn ngữ (Joseph Needham & Edwin George Pulleyblank trong The Origins 1983- Dẫn theo Cung Đình Thanh. Dactrung. Net.) Trong khi đó người Hán nói ngôn ngữ Sino-Tibétan (Hán-Tạng) chỉ là nhóm thiểu số sống du mục trên vùng đồng cỏ Thiểm Tây, Cam Túc, trình độ văn hóa thấp, không có chữ viết. Khoảng 2800 TCN, người Hán vượt sông Hoàng Hà chiếm đất của người Việt. Một bộ phận Bách Việt chạy xuống phía Nam, tụ lại ở vùng Ngũ Lĩnh. Phần lớn (khoảng 70%) người Bách Việt ở lại sống cùng quân chiếm đóng. Người bách Việt do số dân đông áp đảo và văn hóa cao đã đồng hóa kẻ thực dân cả về huyết thống cả về văn hóa. Cùng với việc tiếp nhận kinh Thi, kinh Dịch của người Việt, người Hán đã tiếp thu tiếng Việt vào trong vốn từ vựng nghèo nàn của mình. Chính lúc này mơ của Việt chuyển thành mai của Tàu. G.s Vũ Thế Ngọc trong bài viết rất thuyết phục Ý nghĩa quốc hiệu Lạc Việt (Việt Nam gia phả 20/01/2005) cho biết, khi tra từ điển tiếng Hán cổ của Karlgren, ông gặp cả ba chữ "lạc" (bộ Mã, bộ Truy, bộ Thủy) đều được đọc là lak (nay người Bắc Kinh đọc là Lo), chính là ký âm của từ "lạc" có nghĩa là nước trong tiếng Việt. Phải chăng chữ "kẻ" của người Việt bên sông Hoàng Hà biến dần thành "cái" rồi " giới" của tiếng Hán, trong khi tại quê hương nó bên bờ sông Hồng, chữ "kẻ" còn được lưu giữ trong một số địa danh hoặc chuyển thành chữ "cổ" như Kẻ Lũ chuyển thành Cổ Loa? Nếu đúng vậy thì có nghĩa là các nhà phục nguyên Hán ngữ đã đi theo biển chỉ đường lộn ngược, biến quả thành nhân! Bị người Hán đuổi tiếp, người Việt từ Ngũ Lĩnh trở về Việt Nam góp phần xây dựng nước Văn Lang. Chính những người Việt trở lại mái nhà xưa này đã mang về những yếu tố ngôn ngữ từng để lại bên sông Hoàng Hà: cả từ vựng, cả những địa danh. Điều này cắt nghĩa vì sao bên ta có nhiều địa danh giống bên Tàu. Chính là do ông bà ta đặt cho vùng đất mình mới khai phá những cái tên thân thuộc phải bỏ lại ở phía Bắc. Đó cũng là điều trả lời cho thắc mắc của ông Huệ Thiên: vì sao có sự phiên âm thống nhất một số địa danh trên địa bàn rộng. Trong cuốn sách của mình, tác giả Huệ Thiên còn nhiều bài viết: Chung quanh từ nguyên của từ "gạo", Chữ "vằn" liền với chữ "văn" một vần, những bài về tên các con giáp trong thập nhị chi... Ở đó, cũng theo cách tư duy trên, ông có vẻ hào hứng cho tất cả là Hán, là của Tàu, là "trăm phần trăm made in China"! Không có điều kiện bàn từng trường hợp cụ thể, chúng tôi chỉ xin nói rằng, ông đã quá tin vào sách Tàu nên sai lạc, trái ngược với thực tế lịch sử diễn ra từ bờ sông Hoàng Hà đến sông Hồng sông Mã. Thực tế lịch sử này từ lâu bị khuất lấp, và chúng ta được dạy rằng: Người Việt là đám Tàu lai bị người Tàu xua đuổi trôi dạt xuống, tiêu diệt người bản địa, lập nên nước Việt. Văn hóa Việt là thứ văn hóa Tàu dần dần được bản địa hóa! Chúng ta cứ hồn nhiên tin thế cho tới 30 năm trước mới có một người Việt là học giả Kim Định dám nghi ngờ tín điều trên, đòi lại kinh Thi, kinh Dịch, kinh Thư... cho người Việt. Tiếp đó là nhiều học giả khác như Gs Lê Văn Sửu với "Nguyên lý thời sinh học cổ Đông phương" và "Học thuyết âm dương ngũ hành", Gs Bùi Văn Nguyên "Kinh Dịch Phục Hy" rồi Nguyễn Tiến Lãng "Kinh Dịch- sản phẩm sáng tạo của người Việt"… cùng chung ý hướng trên. Sự hồn nhiên của tác giả Huệ Thiên chẳng những dội gáo nước lạnh vào tâm huyết của những người cố công quẫy đạp ngược thời gian tìm lại cội nguồn mà còn gây ngộ nhận cho người đọc, nhất là bạn trẻ, những người có lúc thích thú theo dõi chuyện Đông chuyện Tây của ông. Nói rằng ngôn ngữ Hán đã mượn nhiều từ vựng tiếng Việt không phải chuyện hoang tưởng mà là dựa vào tiến trình lịch sử dài lâu của người Việt. Chí ít, người Việt đã sống 40.000 năm từ lưu vực sông Hoàng Hà tới sông Dương tử. Một ngôn ngữ lớn từng giữ vai trò lãnh đạo cộng đồng Bách Việt đông đảo chiếm đến 54% nhân loại bỗng dưng biến mất không để lại dấu tích gì sao? Vậy nó đi đâu? Tiếng Việt từ trước thời Hoàng đế đã được ghi bằng chữ Khoa đẩu, chữ Hỏa tự. Ban đầu người Hán cũng dùng chữ hình nòng nọc của người Việt để chép kinh Thư dấu trong vách nhà của Khổng tử. Khi phát minh ra chữ vuông, người Hán đã dùng chữ vuông ký tự tiếng Việt rồi đương nhiên coi là chữ Hán. Ngày nay nhìn những chữ Hán cổ nhất, chúng ta vẫn còn thấy trên đó dấu ấn của hình nòng nọc! Người Việt không giữ được đất đai, không giữ được chữ hình nòng nọc nên để mất luôn chữ viết của mình! Tiếp thu vốn từ vựng phong phú của người Việt nhưng vì giữ vai trò lãnh đạo xã hội nên người Hán áp đặt người Việt nói theo cách nói của người Hán. Như vậy, cùng với việc người Việt hòa tan vào cộng đồng Hán tộc thì tiếng Việt cũng hòa vào ngôn ngữ Hán, trong một cơ cấu ngữ pháp mới. Quá trình này diễn ra âm thầm hàng nghìn năm tiền sử. Và gần nghìn năm trước, được người Hán điển chế thành những bộ từ điển vĩ đại. Sang thế kỷ XX, khiếp nhược trước số dân Trung Hoa đông đúc, trước văn hóa Trung Hoa khổng lồ, ngay người giầu trí tưởng tượng nhất cũng không dám nghĩ rằng cội nguồn nền văn hóa ấy là của người Việt; nên các nhà phục nguyên Hán ngữ khi so sánh chữ Việt Latinh non trẻ trong các bộ từ điển của A. De Rhode, của Tabert với những đại từ điển Trung Hoa, cứ thản nhiên thấy chữ nào có trong từ điển Tàu thì cho là gốc Hán, cho là Việt mượn Hán! Nhưng dù được che giấu kỹ thế nào, ta vẫn có thể tìm thấy trong Hán ngữ những từ thuần Việt như Nữ Oa, Thần Nông, Đế Nghiêu, Đế Thuấn, Đế Cốc... Tại sao lại không là Oa Nữ, Nông Thần, Nghiêu Đế...? Lẽ giản đơn: họ là những nhân vật lịch sử người Việt hay do người Việt tôn xưng đặt tên, không thể sửa đổi. Và trong kinh Thi cũng bắt gặp khá nhiều trường hợp in dấu ấn cách nói của người Việt: - Hồ vi trung lộ. (Thức vi: trong sương) - Trung tâm rạng rạng. (Nhị tử thừa chu: trong lòng áy náy) - Trung tâm hữu vi. (Cốc phong: trong lòng băn khoăn) - Di vu trung cốc. (Cát đàm: trong hang) (Trong Kinh thi do Tản Đà dịch tôi đếm được hơn chục trường hợp tương tự) Tại sao hàng nghìn năm thực hiện nghiêm cẩn xa đồng quỹ thư đồng văn mà trong quyển kinh quan trọng bậc nhất của văn hóa Trung Hoa vẫn giữ cách nói của người Việt trung lộ, trung tâm, trung cốc? Vì sao không chuyển sang cách nói của người Hán lộ trung, tâm trung, cốc trung…? Đấy chính là những hóa thạch ngôn ngữ mách bảo cho người biết nghe điều thầm kín: những câu ca của người Miêu Việt ! Thiết tưởng, ông Huệ Thiên với sở học sở đọc của mình, nếu không hồn nhiên tận tín những sách của thày Tàu mà tìm đọc giữa những hàng chữ Hán có thể sẽ cống hiến những phát hiện quý giá. * NXB Trẻ 2004
Hà văn Thùy
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 7:35:39 GMT 9
Người dịch địa bạ triều Nguyễn Hà văn Thùy Bài của nhà văn Hà Văn Thùy in trong cuốn Góp với văn đàn (Nxb Văn Học, 2006, trang 130) chỉ viết về mặt công sức,còn việc thõa thuận như thế nào giữa 2 tác giả về việc dịch thuật là cần thiết không thấy nói đến.Thiết nghĩ việc dịch và nghiên cứu không chỉ là một lãnh vực . Mong các vị biết chỉ giáo cho. VCV Cho tới năm 1997, bộ Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn của nhà nghiên cứu Nguyễn Ðình Ðầu đã in được 14 tập. Với mỗi tập dầy hơn 300 trang, đây là công trình có tầm cỡ vào bậc nhất hiện nay. Không chỉ có quy mô đồ sộ về số lượng trang chữ, đó thực sự là một trong những công trình lớn nhất về khoa học lịch sử ở cuối thế kỷ XX của chúng ta, như đánh giá của nhà sử học lão thành Trần Văn Giàu. Giá trị của công trình này không những ở chỗ lần đầu tiên dịch và công bố địa bạ 11 tỉnh nước ta từ Huế trở vào (theo địa giới cũ) được lập trong vòng 31 năm thời Nguyễn (1805-1836) mà tác giả còn có công nghiên cứu và trình bày những biến động về ruộng đất, ranh giới hành chính, dịa danh ở các tỉnh đó một cách hệ thống cho tới ngày nay. Công trình còn là bộ sưu tập lớn các loại bản đồ giúp cho việc nghiên cứu được thuận tiện. Chính nhờ những nghiên cứu cập nhật này mà Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn thoát khỏi số phận một tử thư, trở thành tài liệu tham khảo không thể thiếu cho bất cứ ai nghiên cứu về nông thôn Việt Nam. Thông thường ở ta, một công trình loại này phải do một viện cấp nhà nước chủ trì với sự góp mặt của nhiều nhà nghiên cứu và số kinh phi không nhỏ. Công trình Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn đã ra ngoài thông lệ đó. Nó chỉ do duy nhất một người đứng tên. Ðiều này càng có ý nghĩa bởi đây là tâm huyết và trách nhiệm của tác giả. Ngoài việc lao tâm khổ tứ, tác giả còn bỏ ra không ít tiền của, điều rất đáng kể với chúng ta ở vào thời kỳ tồn tại được đã là khó. Tuy vậy, có điều chắc chắn rằng, công trình này vượt quá sức của một con người, không chỉ ở thời gian vật chất mà còn là sự thách đố của tri thức, bởi lẽ là làm được việc này cần đến cả một viện hàn lâm. Từ suy nghĩ đó, chúng tôi nảy sinh câu hỏi: "Phép màu nào đã giúp một người làm được những việc như thế?" Ðọc Lời cảm ơn ở đầu sách, thấy có nhắc đến ông Vũ Văn Kính và Tăng Văn Hỷ là những người cộng sự viên. Do có ít nhiều quen biết hai vị túc nho này, chúng tôi đánh đường tới thăm. Ông Vũ Văn Kính sinh năm 1919, nhận bằng Cao học Văn chương Việt Nam năm 1974, là tác giả các cuốn Từ điển chữ Nôm, Tìm nguyên tác Truỵện Kiều, hiện đang chuẩn bị cho in Ðại từ điển chữ Nôm với 37.000 từ. Ông Kính cho biết, năm 1986 ông làm địa chí Long An cho Viện Khoa học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh nên thường vào Kho Lưu trữ Trung ương 2 để đọc Ðịa bạ Long An, Bến Tre. Tại đây ông gặp ông Nguyễn Ðình Ðầu đang làm Ðịa chí Thành phố Hồ Chí Minh. Từ đấy hai ông quen nhau và ông Ðầu do năng lực Hán Nôm có hạn nên thường hỏi ông Kính những chữ khó. Thấy ông Ðầu có ý muốn nghiên cứu Ðịa bạ triều Nguyễn, ông Kính ủng hộ, hứa sẽ cùng làm. Cuối năm 1986 ông Kính hưu trí, hai ông thỏa thuận: Ông Kính giúp ông Ðầu dịch địa bạ, ông Ðầu trợ giúp ông Kinh khoản thù lao tương đương 10 (mười) kilogam gạo một tháng. Ông Kính kể: "Lúc đó tôi rất túng nhưng do vị thế nhà nho, kẻ sĩ nên giữ ý. Có một ông tới làm, yêu cầu thù lao 50 kg gạo, không được nên ông ấy nghỉ." Ông Ðầu nói với ông Kính: "Hai anh em mình ráng làm. Ông thông cảm với thù lao ít ỏi đó. Tôi đang xin tài trợ. Nếu được, tôi sẽ bàn với ông xem ta sử dụng tiền thế nào. Tôi không phải người tham lam." Hàng ngày, sáng sáng ông Kính tới Kho lưu trữ dịch tài liệu, chiều về nhà đánh máy lại. Thấy công việc quá nhiều, một mình làm không xuể, ông Kính rủ thêm ông bạn già Tăng Văn Hỷ, ông Ðinh Tấn Dung, ông Vũ Hiệp và ông Trần Văn Mãi là những người bạn học Văn khoa ngày trước, lập thành nhóm công tác. Ông Ðầu đưa tới bản dịch Ðịa bạ Lục tỉnh Nam Kỳ là phần tương đối dơn giản hơn các tỉnh ngoài Bắc (theo Lời cảm ơn ở đầu sách.). Nhóm ông Kính chịu trách nhiệm hiệu đính phần đó và dịch toàn bộ phần còn lại, khoảng 10.000 xã. Sau vì thù lao quá hẻo, không đảm bảo cuộc sống, các vị khác bỏ cuộc, còn lại ông Hỷ kéo dài được 2 năm và ông Kính đeo đẳng suốt 5 năm. Ông Kính cho biết, tài liệu ở kho lưu trữ có nhiều vi sinh vật và chất bảo quản diệt trùng nên độc, khi đọc bị chảy nước mắt. Sau thời gian dịch địa bạ, ông bị hỏng mắt. Thời gian đó có câu chuyện thế này, một hôm tới nhà ông Ðầu, hai ông gặp giáo sư Trần Văn Giàu. Ông Giàu hỏi: "Mấy chú tới đây làm gì?" Khi được biết tới dịch địa bạ, ông Giàu nửa đùa nửa thật chỉ tay vào ông Ðầu, nói: "Coi chừng nhé, tay học phiệt này nó lợi dụng mấy chú đó!" Chuyện đùa vui, mọi người đều cười. Thời gian qua đi, đến năm 1994, khi được Công ty Phát hành sách Thành phố biếu cuốn Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, ông Kính mới biết sách được in. Mừng quá, ông tới thăm ông Ðầu. Ông Ðầu nói về việc in sách, việc mình sắp đi Pháp rồi xin lỗi: "Chưa biếu sách bác được vì bây giờ tôi phải mang sang Pháp biếu. Ðể tái bản tôi sẽ tặng bác vậy!" Cố nhiên không ai hài lòng với cách ứng xử này. Chúng tôi hỏi: "Trong sách có nói TOYOTA Foundation tài trợ, ông có biết việc này không?" Ông Kính trả lời: "Sau này biết có tài trợ nhưng ông Ðầu nói tiền thành phố giữ!" Vui chuyện, ông già 80 tuổi đưa chúng tôi xem những bản in thử cuốn Ðại từ điển chữ Nôm của ông. Ông rất mãn nguyện vì tìm được một cô viết chữ thật đẹp. Cô không chịu nhận thù lao, ông ép cô phải nhận để làm việc có trách nhiệm hơn. Hỏi về đời sống, ông nói: "Tôi không khá cũng không thiếu, đủ điều kiện để làm việc." Rồi ông cười hồn hậu: "Ra đời vẫn còn những người tốt bụng ông ạ! Ðó là một đêm, khuya rồi tôi nhận điện thoại. Sau khi tôi xưng tên, người đầu dây bên kia cũng nói tên tuổi. Ông ta gọi cho tôi khi đang đọc cuốn sách của tôi. Ông ta nói cảm ơn tôi vì những cuốn sách đã đọc. Ông ấy hỏi thăm đời sống, công việc của tôi. Ông động viên tôi ráng hoàn thành cuốn Ðại từ điển. Mấy ngày sau tôi nhận được bưu phẩm của ông ta. Bên trong có thư, gói chè Bắc và 100 đô la Mỹ. Bất ngờ quá, tôi chẳng hiểu sao, có lẽ ông ta lầm chăng? Tôi viết thư hỏi lại thì ông ta trả lời... Ông già dừng lại, lục trong phong bì đưa cho chúng tôi bức thư chữ vi tính to đùng, toàn những gạch đầu dòng: " - Ðang đọc cuốn 5000 chữ Nôm của Cụ, trong đó nói một người Nhật đã in Tự điển chữ Nôm, tôi rất chạnh lòng và nghĩ ngay đến Cụ. - Biết tin Cụ đang cần phục hồi thị lực để hoàn thành Ðại từ điển và nhiều cuốn sách khác. - Là người lao động chân chính nên quý trọng những tác phẩm của Cụ. -Việc tỏ lòng kính trọng với Cụ - nhân tài đất nước là việc làm có tính truyền thống của gia đình tôi. - Ðiều mong mỏi duy nhất của tôi là mong Cụ phục hồi thị lực, dồi dào sức khỏe để cống hiến nhiều hơn nữa cho hậu thế. Rất mong Cụ thông cảm việc làm của tôi." Ông Kính đưa chúng tôi cuốn Tổng kết nghiên cứu Ðịa bạ Nam Kỳ lục tỉnh. Trên trang đầu có những dòng chữ viết tay: "Trân trọng tặng bác Vũ Văn Kinh người cố vấn và cộng sự viên tài đức nhất của tôi để thực hiện được công trình vượt khả năng mình này. Xin bác nhận lời cảm tạ chân thành của tôi. Tp Hồ Chí Minh, ngày 2-9-1994. Nguyễn Ðình Ðầu." Ðề tặng như thế có thể nói là đã "phải lời". Tiếc một điều là khi lên màn ảnh nhỏ của Ðài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh, tác giả không một lời nhắc đến người cố vấn tài đức này!./. Hà văn Thùy
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 7, 2011 4:49:42 GMT 9
CHỮ NGHIÃ VIỆT NAM Sau 1975 Lê Duy San, Tiếng Việt ta không biết có từ bao giờ. Có thể là bốn ngàn (4000) năm tức là kể từ khi chúng ta có văn hiến hay hơn nữa. Nhưng chữ Việt (1) thì chắc chỉ mới có khoảng hơn trăm (100) năm nay nghĩa là từ khi nước ta bị người Pháp đô hộ hoặc hơn một chút, từ khi có những ông Cố Đạo tới nước ta để truyền bá đạo Thiên Chúa. Với trên một ngàn năm bị người Tầu đô hộ, dĩ nhiên văn hóa của chúng ta, nói chung, tiếng Việt của chúng ta, nói riêng, không thể không bị ảnh hưởng, mà trái lại còn bị ảnh hưởng rất sâu xa và nặng nề của chữ Hán. Ông Văn Tấn Trường trong bài “Một vài suy nghĩ về Hán Tự” đã viết: “Tiếng Hán Việt (2) chiếm 60 – 70 % trong ngôn ngữ Việt Nam, loại trừ tiếng Hán Việt để làm trong sáng tiếng Việt thì quả thật là một “mission impossible”. Tôi không tin tiếng Hán Việt nhiều đến thế, nhưng nếu có ai nhờ tôi viết một bài văn hay làm giùm một bài luận hoàn toàn bằng tiếng Việt thì qủa thật tôi chịu thua. Tôi không thể làm nổi vì nhiều chữ, quả thật tôi không biết đó là chữ Hán, chữ Hán Việt, hay chữ Nôm (3). Mà dù có biết chăng nữa, nhiều chữ nếu chuyển sang chữ Việt nó cũng ngô nghê, tức cười, nhiều khi còn khó hiển hơn là dùng chữ Hán Việt. Trước năm 1975, hầu như không có tranh cãi gì nhiều về tiếng Việt, chữ Việt, ngoại trừ một vài tranh cãi nhỏ về chữ I và Y (Thanh Thúy hay Thanh Thúi, li do hay lý do, qúy vị hay qúi vị v.v…) hoặc có G hay không có G (sáng lạng hay xán lạn). Nhưng từ khi bọn Cộng Sản Hà Nội cưỡng chiếm được miền Nam, thì tiếng Việt, Chữ Việt đã bị Ngụy Quyền Cộng Sản Việt Nam thay đổi rất nhiều. Thực ra thì chữ Việt đã được thay đổ từ lâu, ngay từ khi thời bọn Cộng Sản còn ẩn núp dưới hai chữ Việt Minh tức là từ ngày 19/8/1945, ngày bọn chúng cướp được chính quyền từ chính phủ quốc gia Trần Trọng Kim. Chính vì thế mới có chữ Vẹm và tiếng Vẹm,. Nhưng dưới sự cai trị độc đoán và tàn bạo của chúng, không ai dám lên tiếng sợ bị chụp mũ là phản động. Mãi tới khi người Việt tỵ nạn ở hải ngoại bắt đầu bắt đầu xuất bản sách báo và nhất là khi các quân nhân và công chức của chế độ VNCH phải đi “học tập cải tạo” được trở về và được ra đi định cư ở Hoa Kỳ theo chương trình HO, vô tình mang theo một số tiếng Vẹm, thì vấn đề sử dụng tiếng Vẹm, chữ Vẹm đã được nêu lên và bàn luận rất nhiều. Thế nào là Tiếng VẸM ? Thế nào là chữ VẸM ? Thực ra thi tiếng Vẹm cũng là tiếng Việt, nhưng vì dùng chữ của Vẹm đặt ra để nói, nên được gọi là tiếng Vẹm. Cũng như tiếng Bắc, tiếng Trung, tiếng Nam cũng là tiếng Việt mà thôi. Nếu dùng chữ của miền Bắc mà nói thì ta bảo là nói tiếng Bắc, nếu dùng chữ của miền Trung để mà nói, thì ta bảo là nói tiếng Trung và nếu dùng chữ của miền Nam mà nói thì ta bảo là nói tiếng Nam. Thí dụ, ta hỏi: Đi mô ? Chữ “mô” là chữ người miền Trung dùng. Ta nói “Đi mô” tức là ta đã nói tiếng Trung. Hoặc ta nói: “Tía nó chết rồi. Chữ “tiá” là chữ miền Nam. Ta dùng chữ “tía” để nói, tức là ta đã nói tiếng Nam. Chữ Vẹm cũng thế, cũng là chữ Việt. Nhưng vì nó là chữ của tụi Vẹm đặt ra KHÔNG ĐÚNG CÁCH, KHÔNG THEO MỘT NGUYÊN TẮC hay QUY LUẬT NÀO CẢ, nhiều chữ đọc lên, nghe rất ngô nghê và tức cười, nên ta gọi nó là chữ Vẹm. Cũng trong bài “Một vài suy nghĩ về Hán Tự”, ông Văn Tấn Trường cho rằng “Có một dạo ở đầu thập niên 80, nghe nói chính phủ Việt Nam (ý nói Cộng Sản Việt Nam) đưa ra phong trào làm trong sáng tiếng Việt bằng cách thoát ly tiếng Hán Việt”. Nếu qủa thật đã có phong trào này và phong trào này đã được đưa ra thì chắc phải nhiều người biết. Vậy mà chẳng thấy ai nói tới. Không biết ông Trường nghe tin này ở đâu. Thiển nghĩ, một khi bọn chúng muốn đưa ra một phong trào nào, một chính sách gì, bao gìơ chúng cũng có chủ trương, có mục đích. Phong trào này, nếu có, thì chủ trương, mục đích của chúng là gì? Với chủ trương để “Thoát ly tiếng Hán Việt”? Với mục đích để bài Trung Quốc? Nếu đúng như vậy thì dân tộc ta đã khá, nước ta đã không bị bọn chúng đem đất, đem biển dâng cho Tầu. Trong bài “Nỗi Buồn Tiếng Việt…”, ông XYZ cũng nghĩ rằng “Với chủ trương nôm na hóa ngôn ngữ Việt, tập đòan Cộng Sản (Việt Nam) nắm quyền đã lạm dụng từ thuần Việt qúa mức, trở thành thô tục như “xưởng đẻ” dùng cho “nhà bảo sanh”, “nhà ỉa” dùng cho nhà “vệ sinh”, hay “linh thủy đánh bộ” dùng cho “thủy quân lục chiến” v.v…, và đặt ra nhiều từ sai hẳn với nguyên nghĩa”. Theo thiển ý, bọn Cộng Sản Việt Nam đã tạo ra một số chữ khác thường mà ta gọi là chữ Vẹm vì những lý do sau: 1/ Muốn tiêu hủy tất cả những gì mà chúng gọi là “tàn dư của Mỹ Ngụy” Thực vậy, ngay sau khi cưỡng chiếm được miền Nam, việc đầu tiên mà chúng làm là bắt dân chúng phải tiêu hủy tất cả các văn hóa phẩm của miền Nam như sách báo, phim ảnh, băng nhạc v.v…Do đó, một số chữ của người Việt quốc gia dùng, dù hay ho, lịch sự tới đâu, chúng cũng muốn xoá bỏ. Thí dụ nơi để chúng ta bài tiết ra ngoài (tiểu tiện hoặc đại tiện), xưa ngưới Bắc gọi là nhà xí, người Nam gọi là nhà cầu. Hai tiếng này nghe không được lịch sự cho lắm nên đã được chúng ta đổi là nhà vệ sinh. Ấy vậy mà chỉ vì muốn khác người, bọn Cán ngố đã bỏ đi và thay thế bằng hai chữ nhà ỉa. Phải chăng đà tiến hóa theo chủ nghĩa xã hội của bọn Cộng Sản Việt Nam là như vậy? Chẳng trách dân Việt Nam được bọn chúng cai trị, được bọn chúng “giải phóng” đã mỗi ngày một khổ cực, mỗi ngày một ngu si, dốt nát. 2/ Để dễ khám phá ra những thành phần mà chúng coi là “phản động hay đối nghịch”. Bọn Cộng Sản Việt Nam, chúng chỉ muốn chữ chúng dùng phải khác người, hay nói cho đúng hơn, là khác chữ của người Việt quốc gia dùng mà thôi chứ không phải chúng muốn “thoát ly tiếng Hán Việt” như ông Văn Tấn Trường nói, hay “muốn nôm na hoá tiếng Việt” như ông XYZ đã nhận định. Điều này đối với bọn chúng rất quan trọng, nhất là trong thời chiến, vì giúp cho chúng dễ phân biệt người đang sống tại vùng chúng đang kiểm soát với những người đang sống ngoài vùng chúng kiểm soát để chúng dễ khám phá ra những thành phần mà chúng cho là đối nghịch, phản động. Vì vậy, chữ chúng đặt ra hay dịch ra, chúng không cần biết là Hán hay Nôm, thanh hay tục, trong sáng hay tối tăm, xuôi hay ngược, đúng hay sai. Có chử đang là chữ Hán Việt, chúng đổi sang chữ Nôm. Có chữ đang là chữ Nôm, chúng đổi sang chữ Hán Việt. Chúng chẳng theo một nguyên tắc hay quy luật nào cả. Thí dụ: Chúng ta nói là “phát ngôn viên” thì chúng nói là: “người phát ngôn” Chúng ta nói là “thăm viếng” thì chúng nói là “tham quan” Chúng ta nói là “ghi danh” thì chúng nói là “đăng ký” Chúng ta nói là “đá bóng” thì chúng nói là “bóng đá” Chúng ta nói là “yếu điểm” thì chúng nói là “điểm yếu” Chúng ta nói là “trở ngại” thì chúng nói là “sự cố” Chúng ta nói là “xuất cảng” thì chúng nói là “xuất khẩu” Chúng ta nói là “liên lạc” thì chúng nói là “liên hệ” Chúng ta nói là “hiểu rõ” thì chúng nói là quán triệt”. Chúng ta nói là “viên chức” thì chúng nói là “quan chức”. Chúng ta nói là “chuyển âm” thi chúng nói là “lồng tiếng”. Chúng ta nói là “dẫn giải” thì chúng nói là “thuyết minh”. v.v… Vì ngu dốt, nên khi chúng đảo ngược hay thay thế bằng một chữ khác mà chúng chẳng biết và cũng chẳng cần biết là đúng hay sai nữa hoặc lẫn lộn ý nghĩa của chữ này với ý nghĩa của chữ kia chúng cũng không rõ. Thí dụ 1: Chữ “đơn giản” mà đọc ngược lại là “giản đơn” hay “vui buồn” đọc ngược lại là “buồn vui” tuy nghe có hơi lạ tai một chút, còn có thể chấp nhận được vì nghĩa của nó không khác nhau. Nhưng chữ “yếu điểm” mà sửa lại là “điểm yếu” thì không thể chấp nhận được vì nghĩa nó khác hẳn. Nhưng vì dốt nát, bọn chúng vẫn hiểu “điểm yếu” là “yếu điểm” và dùng chữ “điểm yếu” để thay thế cho chữ “yếu điểm”. Chúng ta biết, về văn phạm, chữ Hán giống chữ Anh ở một điểm là tĩnh từ luôn luôn đứng trước danh từ nên con ngựa trắng, người Anh gọi là white horse và người Tầu gọi là bạch mã. Chữ yếu điểm cũng vậy, yếu là tĩnh từ và có nghĩa là quan trọng, yếu điểm là điểm quan trọng. Nhưng vì ngu dốt, bọn Cộng Sản Việt Nam chỉ muốn nói khác với chúng ta nên nói ngược lại là điểm yếu và tưởng rằng chúng đã nôm hóa được chữ yếu điểm là chữ Hán hoặc tối ưu chẳng lẽ đổi thành ưu tối ? nên chúng thêm chữ nhất thành tối ưu nhất. Thật lạ lùng! Đã tối ưu rồi đâu cần phải thêm chữ nhất vào làm gì ? Thế còn nhược điểm thì sao? Nếu nói ngược lại thì điểm nhược là điểm gì ? Đúng là đã ngu lại hay nói chữ. Vậy mà ngày nay, nhiều nhà giáo Việt Cộng vẫn hiểu yếu điểm là điểm yếu và dậy học trò như vậy. Thí dụ 2: Chúng ta nói: “Xin các bạn cô gắng nhanh lên một chút vì tình trạng gấp rút/cấp bách lắm rồi” thì chúng lại nói là “Xin các đồng chí tranh thủ/khẩn trương vì tinh trạng khẩn trương rồi”. Chúng ta dùng chữ cố gắng cho mệnh đề thứ nhất và chữ gấp rút cho mệnh đề thứ hai vì hai chữ này có ý nghĩa khác nhau. Nhưng đối với chúng thì cố gắng cũng là khẩn trương và gấp rút cũng là khẩn trương. Thí dụ 3: Sau khi tham dự một buổi nói chuyện về một vấn đề văn học, nếu là chúng ta, chúng ta sẽ hỏi người tham dự: “Xin anh cho biết cảm tưởng/cảm nghĩ của anh sau khi nghe xong buổi nói chuyện này”. Nhưng nếu người hỏi là một tên Việt Công, thì chắc chắn hắn sẽ hỏi người tham dự: “Xin đồng chí cho biết cảm giác của đồng chí sau khi nghe xong buổi nói chuyện này” Trời đất!, Đây chỉ là buổi nói chuyện về một vấn đề văn học, đâu có phải là một buổi đấu tố ghê gướm gì mà hỏi cảm giác? Nhiều khi chúng ghép hai ba chữ kép làm một khiến người đọc chẳng hiểu mô tê gì cả như hùng vĩ và hiểm trở, chúng ghép thành hùng hiểm, tương đương và thích hợp ghép thành tương thích, sinh viên du học ghép thành du sinh, quyết định sách lược thành quyết sách. Thực ra thì không phải trong chế độ Cộng Sản Việt Nam không có người khá, người giỏi. Nhưng hầu hết những người này lại chẳng có quyền hạn gì, trong khi đó thì hầu hết bọn lãnh đạo lại ngu dốt, độc tài và ngoan cố, nên chúng muốn nói ngang, nói dọc gì, ai cũng phải nghe theo, chẳng ai dại gì mà phê phán hay cải sửa để mà mang hoạ vào thân. Bởi vì: “AK mã tấu kẻ kè, Nói quấy nói quá, chúng (dân chúng) nghe rầm rầm”. 3/ Để dễ ăn cướp tài sản của nhân dân và bao che cho người của bọn chúng có tội. Thí dụ người của bọn chúng “đi đêm”, “móc ngoặc” với gian thương, nhà thầu bất chính để ăn hối lộ, chúng nói là có quan hệ xấu hoặc làm lơ cho những bọn này làm điều phi pháp để được lợi lộc, chúng gọi là có hành vi tiêu cực để dễ giảm hoặc tha tội. Không những chúng thay đổi CHỮ, chúng còn thay đổ cả NGHĨA. Thí dụ: Để cướp đất đai của các điền chủ, chúng gọi là cải cách ruộng đất. Muốn cướp tài sản của các thương gia, chúng gọi là đánh tư sản maị bản. Muốn cấm người dân buôn bán, chúng gọi là cải tạo thương nghiệp. Muốn bỏ tù quân nhân, công chức của chế độ cũ (VNCH), chúng gọi là cải tạo. Muốn bỏ tù người tranh đấu cho tự do, dân chủ, chúng gọi là phản động (4). Mít tinh, biểu tình đả đảo bọn Trung Cộng xâm chiếm lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam để biểu lộ lòng yêu nước chúng nói là “có sai phạm về tư tưởng và nhận thức chính trị”, hoặc là “kích động bạo lực, tuyên truyền chiến tranh xâm lược, là gây hận thù giữa các dân tộc và nhân dân các nước anh em’’. Ra trát đòi một người nào đó để điều tra và có thể tống giam, chúng gọi là giấy mời. Tóm lại, ngôn ngữ là phương cách để con người giao tiếp với nhau, thông tin cho nhau hay, hoặc diễn đạt tư tưởng của mình cho người khác biết. Ngôn ngữ gồm có tiếng nói và chữ viết. Ngôn ngữ cũng là một phần của văn hóa, là linh hồn của dân tộc. Trải qua thời gian và không gian, ngôn ngữ không nhiều thì ít, đã thay đổi để cho phù hợp với nhu cầu, hoàn cảnh và đà tiến hóa của xã hội. Vì vậy, việc thay đổi chữ cũ vì thô tục, vì không trong sáng hay tạo lập những chữ mới để thay thế những chữ cũ không còn hợp thời hay không có, không những là một việc nên làm mà còn là một việc phải làm. Nhưng nếu chỉ vì mục đích chính trị hay tự cao, tự đại hơn người hoặc vì tự ty mặc cảm ngu dốt hay để bao che cho nhau hoặc để bỏ tù người vô tội mà thay đổi một cách nhố nhăng, vô tội vạ làm cho chữ Việt trở nên thô tục, kỳ cục hoặc tối tăm, sai lạc ý nghĩa, thì đó không những là một điều sai lầm mà còn có tội ác đối với dân tộc. ________________________________________________ Chú thích: (1) Xưa kia, tổ tiên ta cũng có một loại văn tự riêng để dùng gọi là chữ Khoa Đẩu, gồm các ký hiệu và các hình tượng tạo nên. Nhưng loại chữ này chưa được phát triển và phổ biến thì nước ta đã bị người Tầu đô hộ một thời gian quá dài (một ngàn năm); hơn nữa, người Tầu lại muốn đồng hóa người Việt nên bắt người Việt phải học chữ Hán và dùng chữ Hán mỗi khi giao tiếp với họ, làm cho chữ cổ xưa của ta mai một và biến mất. (2) Tiếng Hán Việt là tiếng Hán đọc theo âm Việt. Chữ Hán Việt là chữ Hán viết theo chữ Việt. Thí dụ bốn câu thơ dưới đây là tiếng Hán được viết bằng chữ Việt : Quân tại Tương giang đầu, Thiếp tại Tương giang vỹ. Tương tư bất tương kiến, Đồng ẩm Tương giang thủy. Nếu chuyển bốn câu thơ trên sang tiếng Việt thuần túy thì được viết như sau: Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương. Nhớ nhau mà chẳng thấy, Cùng uống nước sông Tương. (3) Tiếng Nôm là tiếng Việt chỉ khác nhau ở cách viết. Chữ Việt thì dùng mẫu tự Latin, còn chữ Nôm thì dùng chữ Hán, tức viết theo kiểu hình tượng, nhưng có thêm thắt đôi chút để khi đọc lên thì âm là âm Việt chứ không phải là âm Hán. Thí dụ chữ TAM, chữ Hán viết như sau: 三 và đọc là XÁM, chữ Nôm thêm phần chữ 巴.viết thành và đọc là BA. Chữ THI ÊN, chữ Hán viết như sau: 天, chữ Nôm có thêm chữ 上 ở dưới chữ THIÊN, viết như sau và đọc là TRỜI. Hoặc như bốn câu thơ ở chú thích số 2 chữ Hán được viết như sau: Quân tại Tương giang đầu 君 在 湘 江 投 Thiếp tại Tương giang vĩ. 妾 在 湘 江 尾 Tương tư bất tương kiến, 相 思 不 相 見 Đồng ẩm Tương giang thủy. 仝 飲 湘 江 水 chữ Nôm có thể được viết như sau: (4) Xin xem bài “Bây giờ chúng tôi đã hiểu thế nào là bọn phản động” của Nguyễn Tiến Nam, một sinh viên trong nước, đăng trong Đặc San Chu Văn An Bắc Cali năm 2008, trang 241. Để tưởng niệm ngày 30/4/75 h**p://kbchaingoai.wordpress.com/2011/05/26/ti%E1%BA%BFng-vi%E1%BB%87t-va-ch%E1%BB%AF-v%E1%BA%B9m/
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 1, 2011 11:16:41 GMT 9
LÊ-THƯƠNG
TIẾNG VIỆT HỒN VIỆT Như ta đã thấy, nhiều dân-tộc trên thế-giới phải vay mượn ngôn-ngữ của nước khác để làm ngôn-ngữ cho dân-tộc mình. Trong khi đó Tiếng Việt ta có một gía-trị độc-đáo là ngôn-ngữ chung cho cả một dân-tộc, là thứ tiếng thống-nhất có 80 triệu người nói thuần- túy Tiếng Việt như là ngôn-ngữ chính. Điều hãnh-diện nữa là Tiếng Việt được các nhà ngôn-ngữ-học xếp vào một trong 40 ngôn-ngữ quan-trọng trên thế-giới. Ưu-điểm khác là Tiếng Việt được viết theo vần ABC, không kém gì các thứ chữ tân- tiến hiện nay. Ta lại đặc-biệt sáng-chế ra năm dấu Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã, Nặng để viết được tất cả Tiếng Việt theo âm-điệu trầm bổng của một ngôn-ngữ đơn-âm. Không những phong-phú mà Tiếng Việt còn có âm-điệu uyển-chuyển nên thơ văn dễ phát-triển, nói lên được tất cả những cảnh vật muôn hình vạn trạng, tình-tiết éo-le, tạo được một kho-tàng văn-chương giàu mạnh với nhiều tác-phẩm tuyệt-vời như Đoạn-Trường Tân-Thanh, Cung-Oán Ngâm-Khúc, Chinh-Phụ-Ngâm, Lục-Vân-Tiên... Khi xưa ta dùng Chữ Hán của người Tàu, nhưng sau đó các cụ ta có sáng-kiến dùng Chữ Nôm để có thể viết các tác-phẩm bằng Việt-Văn cho đến khi ta phát-minh ra chữ Quốc-Ngữ. Nói về Chữ Nôm, từ thế-kỷ thứ 13, Hàn-Thuyên là người đã dùng Chữ Nôm đầu tiên để làm thơ văn bằng Việt-Ngữ. Rồi từ đấy Văn Nôm ngày càng phát-triển và từ thế-kỷ thứ 15 đến thế-kỷ thứ 18 là thời kỳ cực-thịnh của Chữ Nôm. Trong khoảng thời- gian nầy ta có các tác-phẩm bằng Chữ Nôm như Quốc-Âm Thi-Tập và Gia-Huấn-Ca của Nguyễn-Trãi, rồi đến các truyện Thơ Nôm như Chiêu-Quân Cống-Hồ, truyện Trinh-Thử. Còn Thơ Nôm thì có các tác-giả như Hồ-Quý-Ly, Nguyễn-Biểu, vua Lê-Thánh-Tôn với Viện Hàn-Lâm Tao-Đàn, Nguyễn-Bỉnh-Khiêm với Bạch-Vân Quốc-Ngữ-Thi. Sau đó đến thời-kỳ toàn-thịnh của Văn Nôm với Đào-Duy-Từ, Lê-Quý-Đôn, Nguyễn-Công-Trứ, Bà Đoàn-Thị-Điểm với bản dịch Chinh-Phụ-Ngâm, Nguyễn-Gia-Thiều với Cung-Oán Ngâm-Khúc, Nguyễn-Huy-Tự với Hoa-Tiên-Truyện và Nguyễn-Du với tác-phẩm bất-hủ Đoạn-Trường Tân-Thanh. Rồi đến thế-kỷ thứ 19, còn được gọi là cận-kim thời-đại với những danh-sĩ Thơ Nôm như Nguyễn-Văn-Thành nổi tiếng với bài Tế Trận-Vong Tướng- Sĩ, Nguyễn-Đình-Chiểu với Lục-Vân-Tiên cùng Nguyễn-Khuyến, Cao-Bá-Quát, Trần- Tế-Xương, Hồ-Xuân-Hương và bà Huyện-Thanh-Quan. Như đã đề-cập ở trên, Chữ Nôm phỏng theo Chữ Hán là một sáng-kiến để viết các tác-phẩm bằng Việt-Văn cho đến khi có chữ Quốc-Ngữ. Sau khi được phát-minh, chữ Quốc-Ngữ đã chứng tỏ là một phương-tiện hữu-dụng trong việc phổ-biến văn-học, nghệ- thuật, chính-trị, khoa-học, kỹ-thuật v...v... Chữ Quốc-Ngữ còn có ưu-điểm là dễ-dàng đi vào quảng-đại quần-chúng vì nó giản-dị, dễ nhớ, học mau và biết viết mau. Ngoài ra, chữ Quốc-Ngữ được phát-triển mạnh là nhờ ở các phong-trào truyền-bá Quốc-Ngữ cũng như các học-giả, các nhà báo, nhà văn, nhà thơ đua nhau sáng-tác không ngừng. Văn-chương Tiếng Việt có rất nhiều nét đặc-thù, trong khuôn-khổ bài này, chúng tôi chỉ xin đề-cập đến hai trong những nét đặc-thù đó là thuật ghép chữ và chính-tả. Tiếng Việt là tiếng đơn-âm, nếu dùng toàn tiếng một thì sẽ rất nghèo-nàn, vì thế các cụ ta và các học-giả đã nghĩ ra cách ghép chữ cho Tiếng Việt được thêm phần phong-phú. Tiếng Việt có nhiều cách ghép chữ như: - Ghép Chữ Nho: Phần lớn các chữ ghép của ta do hai Chữ Nho ghép lại thường được gọi là Tiếng Hán-Việt và ta dùng quen thành Tiếng Việt thông-dụng như: độc-lập, tự-do, dân-chủ, hòa-bình, trí-thức, bô-lão, thi-văn, thế-lực... Tài tình nhất là những chữ kép hoàn-toàn ghép bằng hai Tiếng Việt thuần-túy. Lối này có nhiều cách như: - Ghép hai chữ mà đứng riêng ra thì không có nghĩa: ví dụ: bâng-khuâng, sỗ-sàng, sặc-sụa, sững-sờ, tầm-tã, thỉnh-thoảng, xập-xệ... - Ghép một chữ có nghĩa vào một chữ phụ để làm mạnh ý: bực tức, cực khổ, cứng rắn, ồn-ào, tan-tác, thương yêu, xấu hổ, yếu hèn... - Ghép mộ chữ vào một chữ khác để làm nhẹ bớt ý: cồm cộm, cong cong, đo đỏ, khen khét, mằn mặn, nhè nhẹ, trăng trắng... Đặc-biệt nữa là một chữ mà đem ghép với nhiều chữ khác để hàm ý-nghĩa thật mạnh như chữ Trắng: trắng bạch, trắng bệch, trắng bóng, trắng dã, trắng hếu, trắng mởn, trắng muốt, trắng mướt, trắng nõn, trắng ngà, trắng ngần, trắng phau, trắng tinh, trắng toát, trắng-trẻo, trắng xóa..., còn Đỏ thì có: đỏ au, đỏ chét, đỏ choét, đỏ chói, đỏ gay, đỏ lòm, đỏ rực, đỏ tươi, đỏ thắm,...và Vắng thì ta có: vắng bặt, vắng lạnh, vắng ngắt, vắng tanh, vắng teo, vắng-vẻ. Tài hơn nữa, ta đem một chữ rất thường dùng ghép với một chữ khác để cấu-tạo thành không biết bao nhiêu chữ kép với những nghĩa đầy lý thú: Như một chữ Ăn đem ghép thành: ăn ảnh, ăn bám, ăn bận, ăn bẩn, ăn bòn, ăn bốc, ăn bớt, ăn cắp, ăn có, ăn cỗ, ăn cơm, ăn cưới, ăn cướp, ăn cháo, ăn chay, ăn chạy, ăn chắc, ăn chận, ăn chẹt, ăn chịu, ăn chơi, ăn chùa, ăn chực, ăn dè, ăn đêm, ăn đòn, ăn đút, ăn đứt, ăn gian, ăn giỗ, ăn hại, ăn hàng, ăn hiếp, ăn kiêng, ăn khao, ăn khem, ăn khín, ăn khớp, ăn lãi, ăn lạt, ăn lận, ăn lời, ăn lương, ăn lường, ăn mày, ăn mặc, ăn mặn, ăn mót, ăn mừng, ăn nằm, ăn nói, ăn ngủ, ăn nhậu, ăn nhín, ăn nhịp, ăn nhờ, ăn ở, ăn quịt, ăn rơ, ăn sương, ăn tạp, ăn Tết, ăn tiệc, ăn tiền, ăn thề, ăn thua, ăn trộm, ăn trớt, ăn uống, ăn vạ, ăn vã, ăn vặt, ăn vận, ăn vụng, ăn xài, ăn xén, ăn xin, ăn xổi, ăn ý... Lại cũng với chữ Ăn mà đem ghép làm bốn chữ thành rất nhiều thành-ngữ để mô- tả mọi hoàn-cảnh sinh-hoạt rất phong-phú như: ăn cám trả vàng, ăn cháo đá bát, ăn chay nằm mộng, ăn chực nằm chờ, ăn dơ ở dáy, ăn dưng ngồi rồi, ăn đấu trả bồ, ăn đói mặc rách, ăn gian nói dối, ăn gởi nằm nhờ, ăn kiêng nằm cữ, ăn miếng trả miếng, ăn ngay nói thẳng, ăn nhờ ở đậu, ăn sung mặc sướng, ăn tục nói phét, ăn thiệt làm dối, ăn trên ngồi trước, ăn trắng mặc trơn, ăn trước trả sau, ăn vóc học quen... Còn chữ Ở đem ghép với chữ khác ta có: ở ác, ở ẩn, ở cữ, ở bạc, ở chung, ở dơ, ở đậu, ở đợ, ở giá, ở góa, ở không, ở lính, ở mướn, ở ngoải (Tiếng miền Nam có nghĩa là ở ngoài ấy), ở rể, ở riêng, ở tù, ở trần, ở trỏng (Tiếng miền Nam, có nghĩa là ở trong ấy), ở truồng, ở vậy... - Ghép hai chữ mà thay cho cả một câu: như “cuộc bể dâu”õ, chỉ hai chữ bể dâu mà thay cho cả câu” bãi bể biến thành ruộng dâu” õ(thương hải biến vi tang điền) , như trong Kiều có câu: Trải qua một cuộc bể dâu, Những điều trông thấy mà đau-đớn lòng. Hoặc hai chữ vân cẩu trong thành-ngữ thường dùn “bức tranh vân cẩu” nói nôm na là bức tranh chó mây. Trong Cung-Oán Ngâm-Khúc ta có câu. ”Bức tranh vân cẩu vẽ người tang-thương”, ý nói cuộc đời đổi thay mau chóng như đám mây có lúc giống hình con chó rồi chỉ thoáng qua đã tan biến mất. - Ghép ba tiếng như: Trai tứ- chiếng, gái giang-hồ, anh-hùng rơm, quân-tử Tàu... Xa hơn nữa, ta còn ghép bốn chữ: léng pha léng phéng, lỉnh ca lỉnh kỉnh, ỡm à ỡm ờ... Còn Chính -Tả là phép viết Tiếng Việt cho đúng. Trong ngôn-ngữ nào cũng có chính-tả nhưng chính-tả trong Tiếng Việt ta lại rất quan-trọng vì Tiếng Việt là tiếng đơn- âm lại có năm dấu Sắc, Huyền, Hỏi, Ngã, Nặng cho nên cùng viết một chữ mà viết sai hoặc đánh dấu sai sẽ biến thành một chữ khác với nghĩa khác hẳn. Chính-tả Tiếng Việt thường chú trọng ở: - Dấu Hỏi và dấu Ngã - Chữ Ă và chữ  - Chữ O và chữ Ô - Chữ C và chữ T - Chữ D và chữ GI - Chữ I và chữ Y - Chữ N và chữ NG - Chữ O và chữ U - Chữ S và chữ X Chúng tôi xin đơn-cử một vài thí-dụ về chính-tả trong Tiếng Việt: - Dấu Hỏi và dấu Ngã: Nếu chữ Nghỉ viết dấu Hỏi thì có nghĩa là nghỉ-ngơi, nghỉ chân, nghỉ hè, nghỉ mát, nghỉ phép, nghỉ tay, nghỉ trưa, nghỉ việc... Trong văn-chương ta có: Truyền chân quán khách bộ-hành nghỉ-ngơi. (Nhị-Độ-Mai) Trước là thăm bạn sau là nghỉ chân. (Lục-Vân-Tiên) Đêm trăng này nghỉ mát phương nao. (Chinh-Phụ) Nghỉ cũng còn có nghĩa là hắn, nó, ông ấy, người ấy như trong Kiều nói về gia-thế Vương Ông: Gia-tư nghĩ cũng thường thường bực trung. (Kiều) Còn chữ Nghĩ nếu viết dấu Ngã, có nghĩa là suy xét, nghĩ lại, nghĩ-ngợi, nghĩ thầm, nghĩ vẩn-vơ... như: Sự đời nghĩ cũng nực cười, Một con cá lội mấy người buông câu, (Ca-Dao) Nóng lòng chẳng biết nghĩ sâu, (Kiều) Vắt tay nằm nghĩ cơ-trần, (Cung-Oán) - Chữ Ă và chữ Â: Nếu chữ Nắm viết Ă có nghĩa là nắm lấy, nắm cổ, nắm chính- quyền, nắm tay, nắm cơm, nắm xương... như: Tay cầm bầu rượu nắm nem, Mải vui quên hết lời em dặn-dò. (Ca-Dao) Nắm xương biết gởi tử-sinh chốn nào. (Kiều) Được riêng chữ tiết nắm phần chữ danh. (Nhị-Độ-Mai) Hay chữ Nấm viết  có nghĩa là cây nấm, nấm hương, nấm rơm, nấm đất, nấm mồ...như: Đời cha đắp nấm, đời con ấm mồ. (Tục-Ngữ) Sè sè nấm đất bên đường, (Kiều) Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì. (Cung-Oán) - Chữ O và chữ Ô: Nếu chữ Thong viết O, có nghĩa là thong-dong, thong-thả... như: Thong-dong nối gót thư-trai cùng về. (Kiều) Tay trần vui chén thong-dong. (Kiều) Và chữ Thông viết Ô có nghiã là thông-báo, thông-cáo, thông-cảm, thông-dâm, thông- dịch, thông-dụng, thông-đồng, thông-hành, thông-lệ, thông-minh, thông-suốt, thông-tấn- xã, thông-tin, thông-thái, thông-thạo, thông-thương và cũng có nhĩa là cây thông, rừng thông, đồi thông, thông reo... như: Dối trên hại dưới bấy lâu thông-đồng. (Nhị-Độ-Mai) Thông-minh vốn sẵn tính trời, (Kiêù) Lớp cùng thông như đốt buồng gan. (Cung-Oán) Nào ai cấm chợ ngăn sông, Ai cấm chú lái thông-đồng đi buôn. (Ca-Dao) - Chữ C và chữ T: Nếu chữ Chúc viết C có nghĩa là chúc mừng, chúc ngôn, chúc Tết, chúc tụng, chúc từ, chúc thọ, chúc thư hay có nghĩa là một đầu nghiêng xuống (đầu cân chúc quá)... như: Vịnh ca Thiên-bảo, chúc lời Nghiêu-hoa. (Nhị-Độ-Mai) Đặt bày hương-án chúc nguyền thần-linh. (Lục-Vân-Tiên) Còn chữ Chút viết T có nghĩa là chút đỉnh, chút ít, chút xíu, chút nữa, chờ một chút hay có nghĩa là cháu năm đời (con của người chắt), cây chút-chít... như: Gọi là chút đỉnh vật thường làm tin. (Lục-Vân-Tiên) Gọi là nếm trải mùi trần chút chơi. (Bích-Câu) Chút lòng trinh-bạch từ nay xin chừa. (Kiều) - Chữ D và chữ GI: Nếu chữ Dương viết D có nghĩa là dương-bản, dương-cầm, dương-cực, dương-gian, dương-thế hay có nghĩa là con dê như linh-dương, sơn-dương hoặc có nghĩa là bể như Thái-Bình-Dương, Đại-Tây-Dương, Ấn-Độ-Dương, và cũng có nghĩa là giống đực, màu xanh... như: Hay đâu còn sống mà ngồi dương-gian. (Lục-Vân-Tiên) Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương-quan. (Kiều) Còn chữ Giương viết GI có nghĩa là giương buồm, giương cánh, giương dù, giương cờ, giương cao ngọn cờ đấu-tranh, giương cung, giương mắt... như: Giương cung sắp bắn phượng-hoàng, Chẳng may lại gặp một đàn chim di. (Ca-Dao) Tàu chen mãi đổ, thuyền giương buồm về. (Nhị-Độ-Mai) Quân reo súng nổ cờ giương. (H. Chữ) - Chữ I và chữ Y: Nếu chữ Tai viết I có nghĩa là lỗ tai, bông tai, thính tai, vành tai, tai nấm hoặc có nghĩa là tai-nạn, tai-biến, tai-họa, tai-hại, thiên-tai... như: Ở đây tai vách mạch dừng, (Kiều) Uổng thay đàn gảy tai trâu, (Lục-Vân-Tiên) Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần. (Kiều) Hay chữ Tay viết Y có nghĩa cánh tay, bàn tay, khuỷu tay, tay lái, tay áo, tay phải, tay trái, tay sai... như: Tay làm hàm nhai. (Tục-Ngữ) Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột. (Tục-Ngữ) Xem cơ báo-ứng biết tay trời già. (Nhị-Độ-Mai) Tay không chưa dễ tìm vành ấm no. (Kiều) - Chữ N và chữ NG: Nếu chữ Làn viết không có G nghĩa là làn gíó, làn khói, làn mây, làn sóng, làn thu-thủy... như: Làn thu-thủy, nét xuân-sơn, (Kiều) Thói đời giọt nước, làn mây, (Hoa-Tiên) Phải cung rày đã sợ làn cây cong. (Kiều) Và nếu chữ Làng viết có G, nghĩa là làng-mạc, làng xóm, làng văn, làng báo, làng chơi hoặc có nghĩa là làng-nhàng (mảnh-khảnh, hơi gầy), mắt làng (mắt trông không rõ)... như: Phép vua thua lệ làng. (Tục-Ngữ) Vừa ăn cướp, vừa la làng. (Tục-Ngữ) Văn-chương phú-lục chẳng hay, Hãy về làng cũ học cày cho xong. (Ca-Dao) Mùi phú-quý nhử làng xa-mã, Bả vinh-hoa lừa gã công-khanh. (Cung-Oán) Dưới trần mấy mặt làng chơi, (Kiều) - Chữ O và chữ U: Nếu chữ Cao viết O có nghĩa là ở bên trên, cao-cấp, cao chót vót, cao cờ, cao-cường, cao độ, cao-điểm, cao hứng, cao kế, cao-lương, cao-nguyên, cao-nhã, cao nhòng, cao-siêu, cao-thượng, cao-trào, cao-xạ, cao xanh hoặc có nghĩa là thuốc cao và cũng có nghĩa là sào (một phần mười của mẫu ruộng)... như: Than rằng lưu-thủy cao-sơn, Ngày nào nghe đặng tiếng đờn tri-âm. (Lục-Vân-Tiên) Miếng cao-lương phong-lưu nhưng lợm. (Cung-Oán) Cao cao lầu phụng, xa xa mặt rồng. (Nhị-Độ-Mai) Hoặc chữ Cau viết U có nghĩa là cau ăn trầu, cây cau, cau tươi, cau khô, sự tích Trầu Cau hay có nghĩa là cau-có, cau mày... như: Có trầu mà chẳng có cau, Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm. (Ca-Dao) Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng, Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng? (Ca-Dao) Được mùa lúa thì úa mùa cau, Được mùa cau thì đau mùa lúa. (Tục-Ngữ) Cau-có như nhà khó hết ăn. (Tục-Ngữ) - Chữ S và chữ X: Nếu chữ Sa viết S có nghĩa là sa-bàn, sa lầy, sa-mạc, sa mù, sa ngã, sa-sầm, sa-sút, sa-thải, sa-trường, châu sa hoặc có nghĩa là một bộ-phận trong khung dệt, một loại hàng dệt thưa hay chim se sẻ... như: Phượng-hoàng đậu chốn cheo-leo, Sa-cơ thất-thế phải theo đàn gà. (Ca-Dao) Một lời trân-trọng châu sa mấy hàng. (Kiều) Sa-cơ một phút ra người cửu-nguyên. (Nhị-Độ-Mai) Còn chữ Xa viết X nghĩa là xa cách, xa gần, xa giá, xa-hoa, xa lánh, xa lìa, xa-lộ, xa-xăm, xa-xỉ, xa-xôi, quân-xa, công-xa... như: Liệu mà xa chạy cao bay, Ái-ân ta có ngần này mà thôi. (Kiều) Tuần-hoàn lẽ ấy chẳng xa. (Nhị-Độ-Mai) Lại e non-nước xa-xôi nghìn trùng. (Lục-Vân-Tiên) Xa mặt cách lòng. (Tục-Ngữ) Bà con xa không bằng láng-giềng gần. (Tục-Ngữ) Như ta đã thấy, Tiếng Việt ta đậm-đà, phong-phú và qua hơn bốn ngàn năm văn-hiến, Tiếng Việt đã tạo nên một kho-tàng văn-chương với nhiều tác-phẩm tuyệt-vời. Vì thế, gìn-giữ và bảo-tồn Tiếng Việt là giữ mãi Hồn Việt trong tim và khi mà Hồn Việt ta còn thì Văn-Hóa ta còn, Văn-Hóa ta còn thì Tiếng Việt ta còn, Tiếng Việt ta còn Nước Việt ta còn. LÊ THƯƠNG (Virginia, USA)
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 1, 2011 11:20:26 GMT 9
TRẦN BÍCH SAN NỀN GIÁO DỤC VIỆT NAM DƯỚI CHẾ ĐỘ CỘNG SẢN TỪ 1945 ĐẾN 1975Suu tamBỐI CẢNH LỊCH SỬ Ngày 09/03/19945 Nhật đảo chính Pháp, Bộ Tổng Tư Lệnh quân đội Nhật tuyên bố ủng hộ cuộc đấu tranh giành độc lập của các dân tộc Đông Dương. Hai ngày sau, 11/03/1945, Viện Cơ Mật Triều Đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hiệp Ước Bảo Hộ năm Nhâm Tuất 1884 với Pháp, Việt Nam khôi phục chủ quyền. Ngày 17/04/1945, Bảo Đại (1) cử Phan Kế Toại làm Khâm Sai Bắc Bộ, Nguyễn Văn Sâm làm Khâm Sai Nam Bộ, và học giả Trần Trọng Kim (2) được giao việc thành lập chánh phủ (3). Hoàng Xuân Hãn (4), Bộ Trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật trong nội các Trần Trọng Kim, sau khi nhậm chức đã cùng các giáo sư tên tuổi (5) bắt tay ngay vào việc soạn thảo một chương trình giáo dục dùng tiếng Việt làm chuyển ngữ để thay thế chương trình giáo dục Pháp Việt (Enseignement Franco-Indigiène). Chỉ hơn một tháng sau, Chương Trình Hoàng Xuân Hãn hoàn thành và được Hoàng Đế Bảo Đại ban hành bằng dụ số 67 ngày 03/06/1945. Đây là chương trình giáo dục Việt Nam đầu tiên được áp dụng trên toàn quốc niên khóa 1945-1946 (6). Ngày 15/08/1945 Nhật đầu hàng Đồng Minh, 4 ngày sau, 19/08 Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, Bảo Đại ra tuyên chiếu thoái vị ngày 22/08, hôm sau, 23/08 chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh làm chủ tịch với thành phần đa số là Cộng Sản được thành lập thay thế chính phủ Trần Trọng Kim. Những hoạt động của các đảng phái Quốc Gia được sự hổ trợ của quân đội Trung Hoa sang Việt Nam giải giới quân đội Nhật đã buộc Cộng Sản phải tạm thời hòa hoãn tranh chấp bằng cách nhượng bộ thành lập Chính Phủ Liên Hiệp với sự tham gia của các đảng phái khác nhưng Hồ Chí Minh vẫn giữ chức chủ tịch. Với quyết tâm trở lại Đông Dương, tính đến đầu tháng 2/1946 quân đội Pháp của tướng Leclerc đã nhanh chóng chiếm lại được toàn bộ các tỉnh phía nam vĩ tuyến 16. Cuộc điều đình giữa Việt Minh và Pháp hoàn toàn thất bại sau sự tan rã của hội nghị Fontainebleau tạo ngòi nổ cho chiến tranh Việt Pháp vào đêm 19/12/1946. Như thế, trong giai đoạn 1946-1954 nước ta bị chia làm 2 vùng: một vùng dưới quyền kiểm soát của Việt Minh, vùng kia do Pháp chiếm đóng. Diện tích hai vùng này luôn luôn thay đổi theo tình hình chiến sự. Do đó, Việt Nam có 2 chương trình giáo dục, một của chính quyền Việt Minh, một của các chính phủ Quốc Gia. Năm 1954 Pháp thất trận ở Điện Biên Phủ đưa đến việc ký kết Hiệp Định Genève ngày 20/07/1954 chia đôi Việt Nam, vĩ tuyến 17 được chọn làm ranh giới. Miền Bắc theo chính thể Cộng Sản, Miền Nam thuộc người Quốc Gia. Ngày 20/12/1960 Cộng Sản Bắc Việt cho thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam để làm bình phong tiến hành mục tiêu xâm chiếm Miền Nam. Cộng Sản Bắc Việt, được sự hổ trợ quân sự mạnh mẽ của Nga Sô và Trung Cộng, dùng đường mòn Hồ Chí Minh xâm nhập người và vũ khí vào Nam, cường độ chiến tranh ngày một gia tăng. Trước hiểm họa bành trướng của Cộng Sản ở vùng Đông Nam Á, từ 1964 Hoa Kỳ và đồng minh đem quân ào ạt vào Việt Nam giúp chính phủ VNCH chống lại sự xâm lăng của miền Bắc. Từ 1972, dưới áp lực nặng nề của phong trào phản chiến, Hoa Kỳ tìm cách đàm phán với phe Cộng Sản để rút chân ra khỏi Việt Nam trong danh dự. Kết quả là Hiệp Định Paris được ký kết ngày 27/01/1973, quân đội Hoa kỳ và đồng minh triệt thoái khỏi Việt Nam. Lợi dụng thời cơ Cộng Sản Bắc Việt đem toàn bộ lực lượng quân sự và cơ giới đánh chiếm Miền Nam vào đầu năm 1975. Sau 55 ngày đêm đơn độc chiến đấu anh dũng trong thiếu thốn về vũ khí và đạn dược, Miền Nam VN hoàn toàn sụp đổ sau lệnh đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh. Kể từ ngày 30/04/1975 nước Việt Nam thống nhất dưới quyền cai trị của Cộng Sản Việt. Giống như giai đoạn chiến tranh Việt Pháp, giai đoạn 1954-1975 Việt Nam cũng bị chia làm 2 vùng nhưng rõ rệt, phía bắc vĩ tuyến 17 thuộc Công Sản, phía nam thuộc Quốc Gia. Nước ta trong thời kỳ này cũng có 2 chương trình giáo dục. Tóm lại, giai đoạn 1945-1975 Việt Nam chỉ có một niên khóa duy nhất 1945-1946 là áp dụng thống nhất một chương trình giáo dục trên toàn quốc (Chương Trình Hoàng Xuân Hãn nguyên thủy), sau đó từ 1946 đến 1975 nước ta đã có 2 chương trình giáo dục khác nhau. NỀN GIÁO DỤC TRONG VÙNG VIỆT MINH GIAI ĐOẠN 1946-1954 Trong suốt chiến tranh Việt Pháp khu vực do Việt Minh kiểm soát luôn luôn biến động theo tương quan lực lượng quân sự giữa 2 bên, hình thái này tồn tại cho đến tháng 7/1954. Ngay sau ngày chiến tranh bùng nổ 19/12/1945, vùng do Pháp kiểm soát bao gồm các thành phố và thị xã và các vùng nông thôn xung quanh như Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lào Cai, Lai Châu, Sơn la, Hòa Bình, Quảng Ninh, Móng Cái, Tiên Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Bình&Trừ các phần nói trên, toàn bộ Việt Bắc (Phú Thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên), Khu IV (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh), phần lớn Khu V (Quảng Ngãi, Bình Định) thuộc Việt Minh kiểm soát. Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long là vùng tranh chấp giữa hai bên. Về chương trình giáo dục bậc tiểu và trung học, từ 1946 đến 1949 chính quyền Việt Minh tiếp tục sử dụng chương trình Hoàng Xuân Hãn Canh Tân (7). Sau khi sơ tán năm 1946, một số các trường đại học, cao đẳng và chuyên nghiệp được khai giảng trở lại với các giảng viên trẻ mới tốt nghiệp từ các trường này, phần nòng cốt đảm nhiệm bởi một số giáo sư có tên tuổi từng du học ở Pháp về. Đây là các nhà trí thức đã tản cư về vùng Việt Minh kiểm soát. Từ 1947 đến 1949 nhiều giáo trình vẫn dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ, đến niên khóa 1950 trở đi mới hoàn toàn dùng tiếng Việt. Ngay sau khi chiến tranh bùng nổ, các trường ở những thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng sơ tán ra vùng do Việt Minh kiểm soát. Các trường ở Huế dời ra Thanh Nghệ Tĩnh, một số trường ở Hà Nội dọn lên Phú Thọ, Tuyên Quang, Các trường ở đồng bằng sông Hồng được chuyển về các vùng nông thôn ở Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình rồi vào Thanh Hóa. Đặc biệt các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội đều lên Việt Bắc. Trường Cao Đẳng Công Chánh lúc đầu sơ tán về Thanh Hóa nhưng sau cũng dời lên Việt Bắc. Việc di chuyển chủ yếu là người, tức giáo sư và học trò, tài liệu sách vở được mang theo rất hạn chế. Sau một thời gian tổ chức và sắp xếp, đến niên khóa 1947-1948 mới khai giảng trở lại với trường ốc sơ sài, thiết bị thiếu thốn, giáo sư ít ỏi. Đại Học Luật được đổi là Đại Học Chính Trị Xã Hội, đến năm 1948 đổi là Trường Pháp Chính. Mở thêm trường Đại Học Văn Khoa và 2 ban ngoại ngữ Anh và Nga Văn, đến niên khóa 1947-1948 mở thêm trường ngoại ngữ dạy Anh, Nga và Hoa Văn. Có 2 trường Sư Phạm Cao Cấp, một ở Thanh hóa, một ở Khu Học Xá Trung Ương (8). Năm 1953 thành lập trường Sư Phạm Sơ Cấp Miền Núi trực thuộc Bộ Giáo Dục. Năm 1950 chính quyền Việt Minh, dựa trên chủ nghĩa Marx-Lénine, cho thực hiện một cuộc cải cách giáo dục. Ttrước tiên nhằm thay đổi quan niệm sai lầm của các giáo chức về tính cách vô tư của nền giáo dục để dẫn đến quan niệm giáo dục có nhiệm vụ phải phục vụ cho chính trị mà cơ bản trong giai đoạn này là phục vụ cho cuộc chiến tranh chống Pháp (9). Cuộc cải cách được Hội Đồng Chính Phủ thông qua vào tháng 07/1950 và Bộ Quốc Gia Giáo Dục ban hành và thực hiện từ 1950 đến 1952. Các sửa đổi gồm có: -Bậc Giáo Dục Phổ Thông: cấu trúc được sửa đổi như sau: Vỡ Lòng: 1 năm, Cấp I: 4 năm, Cấp II: 3 năm, Cấp III: 4 năm (2 năm, không chia ban + 2 năm dự bị đại học). - Bậc Đại Học và Cao Đẳng: - Tạm đình giảng các lớp đại học và cao đẳng, chỉ giữ lại hoặc chỉ mở thêm các lớp trung cấp như Nông Lâm, Công Chánh, Mỹ Thuật, Thú Y, v.v., và tổ chức các đợt đi phục vụ sản xuất, chiến đấu. - Trường Đại Học Y Dược, lúc này chỉ còn Đại Học Y, rút ngắn năm học và tăng thời gian thực tập, phục vụ công tác quân y cho các chiến dịch được mở liên tục từ 1950 đến chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. - Tổ chức Trường Sư Phạm Cao Cấp về văn, sử, địa, học trình 2 năm, và lớp Dự Bị Đại Học ở Thanh Hóa do một số trí thức ở vùng đó phụ trách (10). - Tổ chức Trường Khoa Học Cơ Bản và Trường Sư Phạm Cao Cấp về khoa học tự nhiên, đặt trong Khu Học Xá Trung Ương, học trình 2 năm, chia làm 2 ban: Toán Lý Hóa và Lý Hóa Sinh (11). - Bắt đầu tổ chức và tuyển chọn học sinh sang du học tại các nước Cộng Sản. Về nội dung, chương trình giáo dục mới chú trọng về văn, sử, địa hiện đại và cách mạng Việt Nam. Chính quyền Việt Minh dùng cuộc cải cách giáo dục năm 1950 để xoá bỏ tính cách vô tư của nền giáo dục, các giáo chức phải quan niệm giáo dục là một hiện tượng xã hội chứ không phài là một hiện tượng tự nhiên, như vậy giáo dục và chính trị không phải là 2 vấn đề riêng biệt mà giáo dục phải phục vụ cho mục tiêu chính trị, quan niệm này làm nền tảng cho mục đích chính lúc đó là dùng giáo dục phục vụ cho cuộc chiến tranh với Pháp. NỀN GIÁO DỤC DƯỚI CHẾ ĐỘ C.S. MIỀN BẮC GIAI ĐOẠN 1954—1975 Sau Hiệp Định Genève, từ tháng 10/1954 các trường từng sơ tán năm 1946 về vùng Việt Minh kiểm soát đều trở về trường sở cũ tại các thành phố và các trường đại học, cao đẳng chuyên nghiệp về lại Hà Nội. Năm 1956 chính quyền Cộng Sản Miền Bắc thực hiện một cuộc cải cách giáo dục lần thứ hai nhằm phục vụ cho 2 nhiệm vụ chiến lược là chuẩn bị tiến lên Xã Hội Chủ Nghĩa và xây dựng Miền Bắc thành hậu phương lớn chi viện cho cuộc xâm chiếm Miền Nam. Việc nghiên cứu cải cách tiến hành từ đầu năm 1955, được chính quyền thông qua vào tháng 06/1956 và đem ra thực hiện từ niên khóa 1956-1957 gồm có: - BẬC GIÁO DỤC PHỔ THÔNG: - Cấu trúc được sửa đổi như sau: Vỡ Lòng: 1 năm, Cấp I (tiểu học): 4 năm, Cấp II: 3 năm, Cấp III: 3 năm (bỏ Dự Bị Đại Học). - Phát triển giáo dục ở vùng miền núi, các dân tộc thiểu số và xây dựng các trường phổ thông cho học sinh Miền Nam tập kết ra Bắc. - Phát triển hệ thống các trường Sư Phạm Sơ Cấp, Trung Cấp và Cao Cấp nhằm đào tạo giáo chức cung ứng cho sự phát triển của hệ thống giáo dục phổ thông. - Nâng trường Sư Phạm Sơ Cấp Dân Tộc lên Trung Cấp để đào tạo giáo viên cho người thiểu số. - BẬC ĐẠI HỌC VÀ CAO ĐẲNG CHUYÊN NGHIỆP: tất cả các trường này được cải tổ theo mô hình của hệ thống đại học Nga: đại học (université) gồm các khoa về khoa học cơ bản tự nhiên và xã hội được gọi là Đại Học Tổng Hợp (polyvalent) tức là nhiều ngành về khoa học cơ bản, Đại Học Bách Khoa (polytechnique) là đại học gồm nhiều ngành về công nghệ, Đại Học Kỹ Thuật là các trường cao đẳng dài hạn (học trình từ 4 năm trở lên). - Niên khóa 1956-1957 có 5 trường đại học theo mô hình Nga được khai giảng là: Đại Học Tổng Hợp, Đại Học Bách Khoa, Đại Học Y Dược, Đại Học Sư Phạm, Đại Học Nông Lâm. Trong số 5 trường này chỉ có trường Đại Học Tổng Hợp, Y Dược và Sư Phạm là sẵn có trường sở, phòng thí nghiệm, thư viện và giáo sư giảng dạy cũ, còn 2 trường Bách Khoa và Nông Lâm hoàn toàn mới phải xây dựng và tổ chức từ đầu. - Các trường được mở lại trong các niên học kế tiếp gồm có: Đại Học Mỹ Thuật (trường Cao Đẳng Mỹ Thuật cũ), Đại Học Giao Thông (trường Cao Đẳng Giao Thông cũ đã ngưng hoạt động từ 1948 ở Việt Bắc), Đại Học Kinh Tế Kế Hoạch (có tính chất một trường trung cấp), Đại Học Thủy Lợi (tách khoa Thủy Lợi từ trường Đại Học Bách Khoa). - Tổ chức trường Bổ Túc Công Nông Trung Ương như một trường Dự Bị Đại Học nhằm đào tạo tuyển sinh công nông cho các trường đại học. - Đẩy mạnh việc gửi học sinh đi du học ở Trung Cộng, Nga Sô và các nước Cộng Sản Đông Âu. KẾT LUẬN Trong 3 niên khóa từ 1946 đến 1949 vì phải lo tổ chức trường sở, giáo chức nên chính quyền Việt Minh sử dụng chương trình Hoàng Xuân Hãn Canh Tân ở bậc giáo dục phổ thông và bậc đại học vẫn theo như chương trình cũ trước năm 1945 của Pháp. Cuộc cải cách giáo dục năm 1950 làm nền tảng cho cuộc cải cách năm 1956 để hoàn thành nền giáo dục của một nước Cộng Sản. Đó là một nền giáo dục kết hợp chuyên môn với chính trị lấy chủ nghĩa Marx Lénine làm nền tảng nhằm phục vụ cho các mục tiêu chính trị, xây dựng Xã Hội Chủ Nghĩa và giáo dục bị đặt dưới sự lãnh đạo chuyên chế tuyệt đối của đảng Cộng Sản. Một hệ thống giáo dục phi dân tộc và phi nhân bản như thế là một tai họa to lớn, sâu xa và lâu dài cho dân tộc Việt Nam. TRẦN BÍCH SAN Nov. 9, 2004
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 1, 2011 11:22:56 GMT 9
CHÚ THÍCH: tiep theo(1) Báo Đại (1913-1997): con của Nguyễn Phúc Bửu Đảo tức Hoàng Đế Khải Định và Đoan Huy Hoàng Thái Hậu, tên thật là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, sinh ngày 22/08/1913 tại Huế là vị vua cuối cùng của triều Nguyễn (1926-1945) và Quốc Trưởng chính phủ Quốc Gia Việt Nam (1949-1955). Thuở nhỏ học chữ Hán với Phụ Đạo Hiệp Tá Đại Học Sĩ Lê Nhữ Lâm. Năm 1922 du học Pháp hơn 10 năm dưới sự đỡ đầu của cựu Khâm Sứ Charles và Toàn Quyền Pasquier. Năm 1925 Khải Định từ trần, Bảo Đại được Pháp và triều đình Huế đưa về nước lên ngôi vua kế nghiệp Khải Định ngày 08/01/1926 lấy hiệu là Bảo Đại nên thường được gọi là vua Bảo Đại. Sau đó, giao việc nước cho Hội Đồng Phụ Chánh và Khâm Sứ Trung Kỳ, trở lại Pháp tiếp tục việc học. Tháng 08/1932 về nước trực tiếp cầm quyền. Tháng 03/1933 ra dụ thành lập Hội Đồng Cải Cách và thành lập nội các gồm các quan lại trẻ trông coi việc nước. Hai ngày sau khi Nhật đảo chánh Pháp, Bảo Đại tuyên bố ngày 11/09/1945 hủy bỏ Hiệp Ước Bảo Hộ (năm Giáp Tuất 1884), Việt Nam độc lập, sau đó mời Trần Trọng Kim thành lập nội các gồm các trí thức và chuyên gia trẻ. Ngày 19/08/1945 Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, Bảo Đại ra tuyên chiếu thoái vị ngày 25/08/1945, sau đó được mời giữ chức Cố Vấn Tối Cao trong Chính Phủ Lâm Thời do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Năm 1946 đắc cử đại biểu Quốc Hội khoá I đơn vị tỉnh Thanh Hóa, cùng năm dẫn đầu phái đoàn Việt Nam sang thăm Trung Hoa và từ đó lưu vong sang Hồng Kông rồi về Pháp. Năm 1949 Bảo Đại vận động tích cực với chính phủ Pháp đưa đến việc ký kết thỏa ước Élysée ngày 08/03/1949 công nhận việc Pháp trao trả nền độc lập cho VN. Bảo Đại chính thức thiết lập Chính Quyền Quốc Gia ngày 01/07/1949. Tháng 07/1954, trước tình thế rối ren ở trong nước, Bảo Đại cử Ngô Đình Diệm làm Thủ Tướng toàn quyền nhưng đến cuối năm 1955 bị Ngô Đình Diệm truất phế. Bảo Đại định cư luôn tại Pháp cho đến khi từ trần vào ngày 31/07/1997, thọ 84 tuổi. Các tác phẩm của Bảo Đại gồm có: Chiếu Thoái Vị (1945), Con Rồng Việt Nam (1990). (2) Trần Trọng Kim (1882-1953): hiệu Lệ Thần, quê làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phổ, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1903 tốt nghiệp trường Thông Ngôn hạng ưu được bổ làm việc ở tỉnh lỵ Ninh Bình. Cuối năm 1904 ông cùng Nguyễn Văn Vĩnh sang Pháp học ở Lyon. Trở về nước năm 1911 ông làm việc cho Nha Học Chánh, thanh tra các trường tiểu học, tham gia hội đồng soạn sách giáo khoa, dạy trường Sư Phạm Thực Hành Hà Nội, giám đốc các trường Nam thuộc Hà Nội. Ông về hưu năm 1943. Đến cuối năm 1944, trước sự lung bắt của mật thám Pháp, ông được quân đội Nhật đưa đi lánh nạn ở Singapore. Năm 1945 do lời mời của Bảo Đại, trở về nước thành lập nội các. Sau hơn 4 tháng làm việc tích cực trong hoàn cảnh cực kỳ rối ren và khó khăn, nội các đổ theo sự thoái vị của Bảo ĐạI, sau đó ông sống ở Hà Nội. Năm 1953 làm chủ tịch Hội Đồng Quốc Gia trong chính phủ Quốc Gia của Bảo Đại, nhưng ít lâu sau đột ngột từ trần ở Đà lạt ngày 02/12/1953, thọ 71 tuổi. Các tác phẩm của Trần Trọng Kim gồm có: Sơ Học Luân lý (1914), Luân Lý Giáo Khoa Thư (1916), Sư Phạm Khoa Yếu Lược (1916), Sơ Học An Nam Sử Lược (1917), Sư Phạm Yếu Lược (1918), Truyện Thúy Kiều, chú giải (1925), Việt Nam Sử Lược I & II (1928), Nho Giáo I & II (1930), Vương Dương Minh (1934), Hạnh Thục Ca, chú thích cổ văn (1936), Phật Giáo Thuở Xưa và Phật Giáo Ngày Nay (1938), Phật Lục (1940), Việt Nam Văn Phạm (1941), Vũ Trụ Đại Quan (1943), Đường Thi (1944), Việt Thi (1946), Một Cơn Gió Bụi, hồi ký (1971). (3) Thành phần chính phủ Trần Trọng Kim thành lập ngày 17/04/1945: - Tổng Lý Nội Các (Thủ Tướng): Trần Trọng Kim - Bộ Trưởng Ngoại Giao: Trần Văn Chương - Bộ Trưởng Tiếp Tế: Nguyễn Hữu Thi - Bộ Trưởng Thanh Niên: Phan Anh - Bộ Trưởng Tài Chánh: Vũ Văn Hiền - Bộ Trưởng Nội Vụ: Trần Đình Nam - Bộ Trưởng Y Tế Cứu Tế: Vũ Ngọc Anh - Bộ Trưởng Tư Pháp: Trịnh Đình Thảo - Bộ Trưởng Kinh Tế: Hồ Tá Khanh - Bộ Trưởng Giáo Dục và Mỹ Thuật: Hoàng Xuân Hãn - Bộ Trưởng Công Chánh: Lưu Văn Lang. (4) Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) quê làng Yên Hồ, Huyện La Sơn, Phủ Đức Thọ, tỉmh Hà Tĩnh, xuất thân trong một gia đình Nho học, con trai Tú Tài Hoàng Xuân Úc. Thuở nhỏ học chữ Hán và Quốc Ngữ ở nhà, sau học trường tiểu học Thanh Hóa, rồi trường Quốc Học Vinh (Nghệ An). Năm 1926 đỗ bằng Thành Chung tại Huế, ra Hà Nội học trường Bưởi. Năm 1928 đỗ Tú Tài Tây, được học bổng của chính quyền Đông Dương du học Pháp. Tốt nghiệp các trường Normal Supérieure, Trường Polytechnique (1930), Trường Pont et Chaussés (1934). Năm 1934 về Việt Nam một thời gian ngắn sau đó trở lại Paris thi đậu Cử nhân Toán (1935) và Thạc Sĩ Toán (1936). Năm 1936 về nước dạy trường Bưởi, đại học Khoa Học Hà Nội và là thành viên của Thượng Hội Đồng Nghiên Cứu Khoa Học Đông Dương cho đến ngày Nhật đảo chánh Pháp. Thời gian này ông hoàn tất cuốn Danh Từ Khoa Học mà sau này được dùng làm căn bản cho việc chuyển ngữ chương trình trung học VN. Năm 1945 ông được Bảo Đại mời làm chủ tịch Hội Đồng Cải Cách Giáo Dục. Khi nội các Trần Trọng Kim ra đời ông được cử giữ chức Bộ Trưởng Giáo Dục & Mỹ Thuật và quyền Bộ Trưởng Công Chánh tạm thay kỹ sư Lưu Văn Lang. Trong một thời gian ngắn ông thiết lập, soạn thảo chương trình giáo dục trung học Việt Nam, đồng thời cho tổ chức kỳ thi Tú Tài Việt đầu tiên trong lịch sử giáo dục nước ta. Ngày 17/04/1946 ông tham gia phái đoàn VN do Nguyễn Tường Tam, Bộ Trưởng Ngoại Giao cầm đầu đàm phán với Pháp tại Đà Lạt về các vấn đề thuộc Hiệp Định Sơ Bộ 06/03/1946. Hội nghị thất bại, ông trở về sống ở Hà Nội. Khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ ngày 19/12/1946 ông bị Pháp bắt một thời gian ngắn sau đó được trả tự do nhưng bị xóa tên trong ngành giáo chức. Năm 1951 có lệnh bắt giữ nhưng ông được Thủ Hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí can thiệp giúp điều kiện sang định cự tại Pháp cho đến ngày qua đời. Trong thời gian ở Pháp từ 1951 đến 1954 ông giúp thư viện Pháp và thư viện Dòng Tên Vatican thiết lập Thư Mục Việt Nam Học tại các nước Âu châu. Ngày 21/07/1992 ông thành lập hội Văn Hóa Giáo Dục Cam Tuyền. Ông mất ngày 10/03/1996 tại Paris, thọ 88 tuổi. Về văn học, Hoàng Xuân Hãn từng cộng tác với các báo Khoa Học, Thanh Nghị, Văn Lang, Sử Địa, Bách Khoa, v.v. Tác phẩm của ông gồm có: Danh Từ Khoa Học (1942), Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca (1949), Lý Thường Kiệt (1949), Hà Thành Thất Thủ và Hoàng Diệu (1950), Thơ Văn Việt Nam (1951), Mai Đình Mộng Ký (1951), La Sơn Phu Tử (1952), Chinh Phụ Ngâm Bị Khảo (1953), Bích Câu Kỳ Ngộ (1964), Truyện Song Tinh (1987), Văn Tế Tập Loại Chúng Sinh (1995), Thiên Tình Sử Hồ Xuân Hương (1995), Một Vài Ký Vãng Về Hội Nghị Đà Lạt (1996). Nhóm trí thức tham gia việc soạn thảo Chương Trình Hoàng Xuân Hãn gồm có: Hoàng Cơ Nghị, Nguyễn Dương Đôn, Phạm Đình Ái, Đào Duy Anh, Nguyễn Thúc Hào, Nguyễn Xiển, Đặng Phúc Thông, Nguyễn Đình Thụ, Nguyễn Duy Thanh, Lê Văn Căn. (5) Nguyễn Hữu Quán. Những người đóng góp trong việc cải cách ban chuyên khoa cổ văn gồm có Tạ Quang Bửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Huy Bảo, Đoàn Nồng, Tôn Quang Phiệt, Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đình Ái, Nguyễn Dương Đôn. (6) Các trường phổ thông khai giảng trong niên học 1945-1946 gồm có 4,952 trường tiểu học với 284,341 học sinh, 25 trường trung học phổ thông (cao đẳng tiểu học) với hơn 2,000 học sinh, 4 trường trung học chuyên khoa (tú tài) với gần 500 học sinh. (7) Chương Trình Hoàng Xuân Hãn Canh Tân: chương trình Hoàng Xuân Hãn nguyên thủy được sửa đổi do Hội Đồng Cải Cách Giáo Dục dười thời Bộ Trưởng Giáo Dục Vũ Đình Hoè soạn thảo và sau đó được Hội Đồng Chính Phủ Liên Hiệp ban hành bằng sắc lệnh số 146 ngày 10/08/1946 rút ngắn học trình bậc tiểu học từ 6 còn 5 năm và sửa đổi các môn văn, sử, địa, công dân. (8) Khu Học Xá Trung Ương gồm nhiều trường sơ cấp, trung cấp, cao cấp, chứa khoảng vài ngàn học sinh ở sát biên giớI, nằm trong lãnh thổ Trung Hoa. (9) Tác phẩm Giáo Dục Dân Chủ Mới (1948) và Những Vấn Đề Giáo Dục (1950) của Nguyễn Khánh Toàn, Thứ Trưởng Giáo Dục của Việt Minh, đã được dùng làm căn bản cho việc cải tổ giáo dục của chính quyền Việt Minh năm 1950. Hai tác phẩm này trình bày một cách có hệ thống các quan điểm và tư tưởng giáo dục dựa trên lý luận của chủ nghĩa Marx-Lénine. (10) Gồm các giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, Đặng Thái Mai, Nguyễn Thúc Hào, Trần Văn Giàu v.v... (11) Các giáo sư chính phụ trách là Nguyễn Xiển, Lê Văn Thiêm, Ngụy Như Kontum. TÀI LIỆU THAM KHẢO - Đoàn Thêm, 1945-1964 Việc Từng Ngày, tái bản ở Hoa Kỳ - Lê Văn Giạng, Lịch Sử Giản Lược Hơn 1000 Năm Nền Giáo Dục Việt Nam, nxb Chính Nghĩa Quốc Gia, Hà Nội, 2003. - Nguyễn Q. Thắng, Từ Điển Tác Gia Việt Nam, nxb Văn Hóa, Hà Nội, 1999. - Nguyễn Q. Thắng, Khoa Cử và Giáo Dục Việt Nam, nxb Văn Hóa tái bản, Hà Nội, 1998. - Viện Sử Học (Trần Quỳnh Cư, Nguyễn Hữu Đạo, Đỗ Thị Nguyệt Quang, Nguyễn Tố Uyên, Lưu Thị Tuyết Vân), Việt Nam Những Sự Kiện Lịch Sử 1945-1975, nxb Giáo Dục tái bản, Hà NộI, 2003. - Võ Thuần Nho, 35 Năm Phát Triển Sự Nghiệp Giáo Dục Phổ Thông, nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1980.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 7, 2011 3:09:36 GMT 9
Cần định nghiã từ ngữ sử dụng? Vietsciences- Bùi Trọng Liễu Cũng như với mọi từ ngữ khác, có những từ mới trong tiếng Việt Nam xuất hiện để diễn tả những khái niệm mới. Nhưng tiếng Việt Nam dường như có thêm một đặc điểm là sự chế biến ra một số từ mà không cần định nghĩa, cho nên khi sử dụng nó, mỗi người hiểu một cách, đôi khi trái ngược nhau, rồi cứ từ đó mà tranh cãi cả tháng cả năm, ông nói gà bà nói vịt.
Tôi muốn nêu một số thí dụ, chủ yếu trong ngành giáo dục đào tạo, vì tôi vốn là nhà giáo.Thí dụ mà tôi muốn nêu trước tiên, là cụm từ “xã hội hóa”. Theo như tôi hiểu, thì có sự phân biệt giữa nhóm cầm quyền (đảng phái, hay nhóm tôn giáo), nhà nước, và xã hội. Ở các nước phương Tây, và nhiều nước khác, dù là người cộng sản hay không, cụm từ “xã hội hóa” (tiếng Pháp là socialisation, từ ngữ mà tôi quen thuộc) từ trước tới nay, vẫn thường được dùng theo nghĩa “tập thể hóa”, “đặt dưới chế độ cộng đồng”, “quản lý hay điều khiển [của nhà nước] nhân danh xã hội”, vv. Tôi nghĩ rằng các ngôn ngữ nước khác, qua từ điển, thấy cũng có nghĩa tương đương. Ở những nước có thể chế chuyên chính, nơi mà mà người ta đánh đồng nhóm cầm quyền với nhà nước, đánh đồng nhà nước với xã hội, nơi mà công đoàn, hội đoàn, báo chí, câu lạc bộ khoa học, viện nghiên cứu, vv… đều do nhà nước lập ra hoặc điều khiển, lẽ ra cụm từ “xã hội hóa” càng phải đồng nghĩa với “quốc hữu hóa”. Và dùng từ “xã hội hóa” theo nghĩa ngược lại, nhất là trong các lĩnh vực như giáo dục, chỉ có thể được hiểu là một thủ thuật dùng từ ngữ để thực hiện việc nhà nước phủi tay, đẩy thêm gánh nặng tài chính lên vai người công dân, như phải trả học phí cao, vv. (1) “Cổ phần hóa” trường công, lẽ ra phải đồng nghĩa với “tư nhân hóa” trường công, và đồng nghĩa với việc biến trường (công hay tư) thành cơ sở kinh doanh, nghĩa là kiếm lãi để chia chác cho cổ đông. Rồi có cụm từ “không vị lợi”, phần nào bị lẫn lộn với “không lợi nhuận”, dùng trong trường hợp các trường học. Có những trường có tài sản – (do các nhà hảo tâm hiến tặng, như bất động sản, của cải tiền bạc, lúc sinh thời hay cho thừa kế khi chết đi, tiếng Pháp là dons và legs) – trường đem đầu tư kiếm ra lãi, rồi dùng lãi đó để dùng tái đầu tư vào trường chứ không chia chác cho người quản lý hay cổ đông. Do đó trường loại này “có làm ra lợi nhuận”, nhưng vẫn thuộc loại “không vị lợi”. Dùng cụm từ “không lợi nhuận” để chỉ các trường này, dễ gây ra hiểu lầm. Một số trường đại học tư hàng đầu của Mỹ, rất giàu, vì có tài sản như thế (người ta tích lũy vốn từ cả trăm năm, lại có những khoản tài trợ khác từ cựu sinh viên thành đạt hay của chính nhà nước), nhưng vẫn là trường “ không vị lợi” (2). Ở Pháp, hầu như không có trường “vị lợi” – (“vị lợi” theo nghĩa dùng trường để lấy học phí làm lãi, để chia chác cho cổ đông hay những người quản lý). Ngay ở Mỹ, nghe nói các trường loại “vị lợi” cũng hiếm, chủ yếu là để bịp những loại học sinh “chuột chạy cùng sào”. Tôi cũng nêu câu hỏi về cụm từ “trường ngoài công lập”. Sao không gọi thẳng nó là trường tư? Trường tư cũng có nhiều loại; hệ thống trường tư “không vị lợi” hỗ trợ cho hệ thống trường công thì đâu có xấu mà phải che đậy? Loại truờng tư hay trường công kinh doanh giáo dục như một thứ hàng hóa thuận mua vừa bán, mới là loại nguy hiểm (3). Lại có từ “đại học” được sử dụng một cách rất tùy tiện, làm cho tôi, một cựu nhà giáo đại học, khi đọc một số bản tin từ trong nước, cũng không hiểu là gì. Lúc thì có cảm tưởng là “đại học” theo nghĩa của ta hiện nay, là một trường mở ra để dạy cho các sinh viên (những người đã tốt nghiệp Trung học phổ thông) một số môn học “gì đó” miễn là số năm học là 4 hay 5 năm trở lên. Lúc thì có cảm tưởng là “đại học” là một khu đất rộng có những tòa nhà hoành tráng mang biển giảng đường, thư viện, phòng thí nghiệm, viện nghiên cứu, vv. mà không biết lấy giảng viên ở đâu ra, trình độ như thế nào, để giảng dạy cho sinh viên học những gì, để đáp ứng nhu cầu của đất nước. Mấy thí dụ nêu trên là để nói về sự lẫn lộn trong trường hợp người còn có “tâm”. Còn về những người chủ ý nhập nhằng, dùng từ ngữ tù mù để lừa thiên hạ, thì tôi xin nhắc là có câu chuyện “phải gọi con hươu là con ngựa”, trong sử của Trung quốc, rất điển hình trong việc phân giới người đồng lõa và người ngay thẳng (4). Vì thế nên tôi mong rằng các từ ngữ sử dụng, đặc biệt là trong những lĩnh vực nhạy cảm hiện nay, được định nghĩa rõ ràng. Chú thích: (1) Phòng xa trường hợp có độc giả muốn kiểm chứng đế so sánh, tôi xin dẫn vài con số, tính bằng (€ = euro) ở Pháp, một nước tư bản, chứ không phải là một cộng hòa xã hội chủ nghĩa: - Lương tối thiểu (trong mọi nghề) ở Pháp (năm 2009) là 8,82 €/giờ, nếu tính theo lương tháng (35 giờ / 1 tháng) thì là 1 337, 70 € /tháng , (nhưng trừ đi các khâu bảo hiểm, thuế vặt, nọ kia, thì tiền bỏ túi là 1051 €/ 1 tháng, đại khái là 12612 €/ năm. Loại người có lương này được miễn trả thuế. (Nguồn : xem Google : SMIC). Ngoài ra các gia đình có “nhiều” con (vì dân số Pháp chưa đông, chưa hạn chế sinh đẻ), được hưởng “phụ cấp gia đình”, không kể giàu nghèo, đại khái như sau (con số 2009): 2 con thì hưởng 124,54 €/tháng (tính gọn là khoảng 1494 €/năm); 3 con thì hưởng 284,54 €/tháng (tính gọn là khoảng 3409 €/năm); 4 con thì hưởng 443,69 €/tháng (tính gọn là khoảng 5324 €/năm), vv. cho đến khi con đến tuổi 20. (Nguồn : xem Google:Allocations familiales). Tuy vậy Nhà nước vẫn phải trợ cấp cho con cái các gia đình nghèo, khi đi học. Tiền “phụ cấp nhập học/ khai trường” cho mỗi học sinh nhà nghèo, tính tròn là (con số 2009): mỗi trẻ từ 6 đến 8 tuổi được 281 € ; mỗi trẻ từ 11 đến 14 tuổi được 296 € ; mỗi trẻ từ 15 đến 18 tuổi được 306 €. (Nguồn : xem Google:Allocations de rentrée). - Trong khi đó thì : mẫu giáo, tiểu học, trung học ở trường công hoàn toàn miễn phí. Ở mức đại học công thì (đại khái, năm 2009 này): - Học phí ghi tên học ở Universités (cho cả năm học 2009-2010) là : Mỗi năm cho đến mức tú tài +3 (cho năm thứ 1, năm thứ 2, năm thứ 3, kể cả Y, Dược, …) là 171 €. Mỗi năm cho đến mức thạc sĩ (master : tú tài +5) là 231 € Mỗi năm cho đến mức tiến sĩ (docteur : tú tài +8) là 350 € (nhưng thường thường ở mức này có học bổng nghiên cứu). Dù sinh viên phải trả thêm tiền bảo hiểm xã hội (trung bình khoảng 198 €¨năm), có thể coi như học phí không đáng kể. Các giáo sư đại học (đã vào biến chế) đều là công chức, Nhà nước trả lương. Các ngân khoản chi tiêu khác, nhà cửa, dụng cụ, vật liệu, … đều do Nhà nước chi trả. Nhưng vì bộ máy quản lý cồng kềnh, ỳ ạch, nên gây ra nhưng lãng phí phiền toái, vì thế nên hiện đang đặt ra vấn đề « đại học tự quản », Nhà nước cho một số tiền, trao cho nhà cửa trường sở, rồi Université tự chi tiêu. Vấn đề Universités kêu là nghèo, mức độ thấp, thiếu ngân quĩ , vv. là 1 phần bởi tại cái bằng tú tài Pháp cho phép sinh viên được tự do ghi tên vào Université. (Chính quyền dù là phái tả hay phái hữu đều thấy điều này, nhưng sợ mất phiếu khi bàu cử, nên không dám bỏ lệ này : đây là 1 sự lãng phí vô cùng, vì sinh viên mấy năm đầu bỏ học rất nhiều, vv.). Nếu Université được quyền tuyển sinh, thì cục diện hẳn sẽ khác ngay. Nói thêm là, có những nhà giáo Université thường có những hợp đồng với doanh nghiệp ; ngân quĩ các hợp đồng này dùng để chi trả học bổng cho nghiên cứu sinh làm luận án tiến sĩ, hoặc chi trả cho các khoản nghiên cứu mà Nhà nước đài thọ không đủ. - Học phí ghi tên học ở Grandes Ecoles (trường kỹ sư công lập, sau khi sinh viên thi trúng tuyển sau 2 năm dự bị) (học phí cho cả năm học 2009-2010) trung bình là : 550 €/năm. Thời gian học là 3 năm (không kể 2 năm dự bị thi tuyển, học ở các lớp dự bị cao cấp ở trường lycées), để có bằng kỹ sư ở mức tú tài +5. Ngân quĩ của Grandes Ecoles cũng do Nhà nước đài thọ. Giáo sư và giảng viên thường là giáo sư của Université, hoặc là các nghiên cứu viên của các viện nghiên cứu của Nhà nước đến dạy, nghĩa là họ cũng đã là những công chức. Chỉ một số nhà giáo của Grandes Ecoles là nhà giáo trong biên chế nhà nước đặc biệt ở trường. - Ngoài ra còn có 1 số trường thương mại và quản lý tư thục, nhưng có tiếng, học phí cao, nhưng chỉ khoảng từ 5000 € đến 8000 €/năm. (nguồn : xem Google : Frais d’inscription universitaire) Có thể nói là học phí ở Pháp rất thấp, so với nguồn thu nhập của người dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa có một thời được người khẳng định là siêu việt, hơn tư bản hàng vạn vạn lần, vậy mà hiện nay khi đọc con số học phí so với thu nhập của người dân ở ta, tôi thấy kinh hoàng. Có lẽ tại tôi hiểu lầm từ ngữ ! (2) Tôi không cực đoan nghĩ rằng đại học Việt Nam phải có vốn như đại học Harvard, cũng không cực đoan nghĩ rằng đại học Pháp là tốt nhất. Nhưng mình nên biết người ta thế nào, biết mình thế nào, trước khi mơ tưởng top 100, top 200 vào năm này năm nọ. (3) Tôi cũng xin nêu vài thể loại trường tư ở Pháp và số lượng ; cho những ai muốn biết, trong mục đích thông tin, chứ không có ý quảng bá: - Mấy thể loại: a/ Mẫu giáo, tiểu học, trung học 1. Trường tư có « hợp đồng hợp tác với Nhà nước » (sous contrat d'association avec l'État). 2. Trường tư có « hợp đồng đơn giản » (sous contrat simple). 3. Trường tư « ngoài hợp đồng» (sans contrat). Do lịch sử Pháp để lại – (trước Cách mạng Pháp, đạo Thiên chúa là quốc giáo, nắm việc giáo dục, có rất nhiều của cải cơ sở vật chất và truyền thống ; sau Cách mạng, trải qua nhiều biến đổi và các nền Cộng hòa, vì an bình trong xã hội) – nên ngày nay đại đa số các trường tư có hợp đồng (hơn 90%) là trường tư Thiên chúa giáo. Nhà nước quản lý chặt chẽ các trường tư này từ chương trình giảng dạy cho đến nhà giáo (bằng cấp, khả năng), nhân viên, ngân quĩ, vv.nhưng tùy theo mức độ. Loại 1 và 2 có thể có những tiết dạy về tôn giáo, nhưng do học sinh và gia đình được tùy chọn, trường không được ép buộc học sinh học các tiết đó. Vì vậy, không ít học sinh thuộc các tôn giáo khác (thí dụ như đạo Hồi) cũng xin học loại trường này. Trước đây, loại trường này thường là trường của các tầng lớp khá giả theo Thiên chúa giáo ; nhưng từ mấy năm nay, do sự « xuống cấp » của trường công – (vì bị « bình dân hóa », lớp học đông học sinh, kỷ luật lỏng lẻo, 1 phần tại thái độ quá khích của 1 số nhà giáo và công đoàn của họ, …) – nên ngay cả những tầng lớp « thấp » (thấp theo nghĩa thu nhập), cũng xin cho con học trường tư, đến nỗi tình hình bị đảo ngược, nhiều trường phải từ chối học sinh – (vì lớp học trở nên quá đông, số học sinh mỗi lớp là đông hơn cả lớp trường công, điểm son của trường tư loại này là kỷ luật và sự nghiêm túc giảng dạy cũng bị sứt mẻ vv. )! Trường loại 3 tương đối « tự do » hơn, chỉ phải tuân thủ theo Luật chung về giáo dục ; loại trường này khá hiếm, học phí cao, thường là do những nhóm « tôn giáo triệt để » (đạo Hồi, đạo Do Thái, Tin lành…), hoặc là loại trường muốn giảng dạy thí điểm theo « kiểu mới » nào đó, hoặc là loại trường vơ vét học sinh hạng bét. Loại này không buộc phải theo chương trình nhà nước. Nhà nước không trợ cấp, do đó học phí cao, nhưng Nhà nước kiểm tra trình độ của hiệu trưởng và của nhà giáo. Nhà giáo trường loại 1, phải có bằng cấp tương đương với bằng cấp trường công, cũng do Nhà nước trả lương, nhưng tỉ số nhà giáo có biên chế nhà nước thì thấp hơn, còn lại là nhà giáo do nhà nước trả lương, nhưng theo hợp đồng. Cũng có sự phân biệt về « quyền lợi » (so với nhà giáo trường công lập), như phải đóng bảo hiểm cao hơn, lương hưu kém hơn vv. Trường loại 2 chỉ có ở Tiểu học ; số nhà giáo cũng do Nhà nước trả lương, nhưng tỉ số bị trả lương theo theo hợp đồng cũng nhiều hơn. b/ Đại học Đại học tư ở Pháp rất ít, hầu hết là đại học Thiên chúa giáo (6 cái), và một số Grandes Ecoles (kỹ sư và trường Thương mại, quản lý, …). Tóm lại là hầu như không đáng kể. Còn lại lèo tèo một số trường, nhận sinh viên có bằng tú tài vào học, thường là sinh viên « chuột chạy cùng sào » ; một số người ở Việt Nam do không hiểu từ ngữ và vài quan chức sang du ngoạn cưỡi ngựa xem hoa, cũng gọi đó là đại học của Pháp và muốn cộng tác vv. Thực ra đại học Pháp đâu có như các vị tưởng ! - Về số lượng (năm 2007) : Số học sinh trường tư là 2 167 000 (khoảng 17% tổng số học sinh) trong đó có : 317 000 học sinh mẫu giáo 565 000 học sinh tiểu học 655 000 trung học cơ sở 301 000 trung học phổ thông theo (nghĩa lớp 10,11,12). Còn lại là học sinh trường trung học dạy nghề, và học sinh các lớp trung học cao cấp dự bị thi tuyển vào các trường kỹ sư Grandes Ecoles. Học phí cho tiểu, trung học tư (cho các trường tư loại 1) đại khái khoảng từ 400€ đến 750 € /mỗi năm. Học phí cho các lớp dự bị cao cấp dự bị thi tuyển vào các trường kỹ sư Grandes Ecoles, thì cao hơn (khoảng 2000 € mỗi năm), nhưng không phải là học phí “cắt cổ”. (Nguồn : Wikipédia : Enseignement privé en France) (4) Năm 211 trước Công nguyên, Tần Thủy hoàng đi tuần thú, có con út là Hồ Hợi, thừa tướng Lý Tư, và hoạn quan Triệu Cao đi theo. Giữa đường, Thủy hoàng bị bệnh nặng, viết thư gọi thái tử Phù Tô về lo việc tang và nối nghiệp. Thủy hoàng chết, Lý Tư cho rằng vua chết ở ngoài, không nên tiết lộ ; việc này giấu kín chưa ai biết ; giả như còn sống, đặt xác trong xe, sai một hoạn quan ngồi trong, ngày ngày dâng thức ăn, các quan tâu trình, viên hoạn quan ngồi trong xe chuẩn y. Lại sợ xác có mùi, cho chở theo một xe đầy cá, để át mùi thối. Thư Thủy hoàng gọi Phù Tô chưa gửi đi, thư và ấn đều ở chỗ Triệu Cao giữ. Triệu Cao vốn thân với Hồ Hợi, bàn với Hồ Hợi, làm thư giả của Thủy hoàng phong cho Hồ Hợi làm thái tử nối ngôi vua. Lại đem việc này thuyết phục Lý Tư, dọa Lý Tư rằng nếu Phù Tô làm vua thì sẽ dùng tướng Mông Điềm làm thừa tướng, cất nhắc kẻ sĩ, thì Lý Tư không còn chỗ sống ; Lý Tư sợ, nghe theo. Lại làm giả thư Thủy hoàng gửi cho Phù Tô, trách lỗi, bắt cùng tướng Mông Điềm phải tự tử chết. Phù Tô ngỡ thật, tự tử; Mông Điềm can không được, và không chịu tự sát, bị bắt giam sau chết trong ngục. Hồ Hợi lên ngôi tức là vua Tần Nhị Thế. Nhị Thế bàn với Triệu Cao, sợ các anh và quần thần không phục, sinh loạn, mới theo kế của Triệu Cao thay đổi pháp luật, giết những ai bị nghi ngờ ; trừng phạt, giết chóc ngày càng thảm khốc, ai cũng thấy mình nguy. Lại muốn hưởng lạc, xây cất cung điện ; thuế má ngày càng nặng, việc đi đồn thú làm xâu không lúc nào ngớt. Người người oán hận. Hào kiệt nhiều nơi nổi dậy khởi binh chống nhà Tần. Lý Tư muốn can, nhưng Hồ Hợi không nghe ; Lý Tư sợ mất quyền lợi, đành phụ họa, bày ra cái thuyết « đốc trách », quan lại đánh thuế dân nặng thì coi là sáng suốt, ai giết nhiều người thì được coi là tôi trung. Sau Triệu Cao sợ các quan oán mình, vào chầu gièm pha chê bai sẽ hại cho mình, mới bày kế xui Nhị Thế không ra triều tiếp kiến đại thần, mà ở trong cung cấm, việc gì cũng do Triệu Cao quyết định thay. Lúc tình hình đã nguy kịch, Lý Tư muốn vào can, nhưng không được vào gặp. Triệu Cao sợ Lý Tư tố cáo mình, mới lập mưu lừa, nói gièm với Nhị Thế là cha con Lý Tư muốn phản. Rốt cục, Lý Tư bị kết tội chết, xử chém ngang lưng ở chợ Hàm Dương, bị giết cả ba họ. Lý Tư chết rồi, Nhị Thế cho Triệu Cao làm Trung thừa tướng (nghĩa là thừa tướng nhưng ở trong cung cấm, vì Triệu Cao là quan hoạn). Nay quyền hành đã về hết trong tay một mình mình, Triệu Cao muốn cướp ngôi vua, mới thử ý các quan, đem dâng cho vua con huơu, bảo đó là con ngựa. Nhị Thế cả kinh, tưởng mình loạn óc, hỏi quần thần, người nịnh Triệu Cao thì bảo là con ngựa, ai bảo là con hươu thì Triệu Cao tìm cách làm hại. Khi quân nổi loạn của Lưu Bang và Hạng Vũ thắng to, Triệu Cao sợ Nhị Thế giận sẽ giết cả mình, mới lập mưu ép Nhị Thế tự sát. Triệu Cao muốn làm vua, nhưng không ai theo, mới bàn lập Tử Anh là một hoàng thân nhà Tần lên làm vua. Tử Anh giả ốm, Triệu Cao đến thăm, Tử Anh sai người đâm chết và giết cả ba họ. Tử Anh làm vua được bốn mươi sáu ngày thì đầu hàng Lưu Bang. Nhà Tần chấm dứt từ đấy. (Nguồn : Sử ký của Tư Mã Thiên, bản dịch của Nhữ thành, nxb Văn học, Hà Nội 1988) www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/can-111inh-nghia-tu-ngu-su-dung/
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 17, 2011 3:19:11 GMT 9
Phương pháp khoa học mới học tiếng Việt nhanh và dễ dàng: áp dụng Âm Vị Học Trịnh Thanh Thủy Trong một dịp tình cờ, tôi được tham dự một buổi văn nghệ tất niên do các em thiếu nhi thuộc lớp dạy tiếng Việt thí điểm của Viện Việt Học triønh diễn. Một bé trai khoảng 7 hay 8 tuổi lên sân khấu đọc cho khán thính giả nghe một bài thơ hai ba trang rất dài, một cách trôi chảy có vần điệu. Điều đáng ngạc nhiên là em chỉ mới học ở lớp tiếng Việt thực nghiệm này trong 6 tuần, mỗi tuần 2 tiếng đồng hồ vào ngày thứ Bảy. Nghĩa là trong quá trình học, em học tất cả 12 tiếng. Em có thể đọc thông thạo tiếng Việt, đúng dấu giọng mà không cần hiểu nghĩa bài văn, thơ hay báo. Chuyện này làm mọi người sững sờ. Riêng tôi, trong lòng dấy lên một cảm xúc khó tả, vừa ngạc nhiên vừa vui sướng. Tôi nghĩ em bé ấy thật thông minh. Tôi từng có kinh nghiệm dạy trẻ học tiếng Việt, tôi biết, để các em đọc thông thạo tiếng Việt như vậy, các em cần một thời gian dài hơn nhiều, nhất là các em sống ở Mỹ hay hải ngoại mà Anh ngữ hay phương ngữ là sinh ngữ chính. Sau buổi tiệc, tôi có tiếp xúc với ban giám hiệu của Viện Việt Học để tiøm hiểu thêm hầu sáng tỏ thắc mắc của mình. Tôi khám phá ra đây không phải là việc đơn thuần. Cũng không tại em bé này thông minh hay là một nhân tài xuất chúng nổi trội mà em được giảng dạy Việt Ngữ theo phương pháp mới "Âm Vị Học tiếng Việt". Đây là một công trình nghiên cứu đã lâu của nhiều giáo sư và những nhà nghiên cứu về Việt Học từng có quan tâm và trăn trở về những phương pháp dạy tiếng Việt ở hải ngoại cho trẻ nhỏ. Các vị khi ra ngoại quốc có cơ hội được tiếp xúc với các nền văn hoá và phương pháp giáo dục của người ngoại quốc, lại gặp khó khăn trong việc giảng dạy tiếng Việt nên đã dấy lên một mối ưu tư to lớn. Họ là các Giáo sư Nguyễn Đình Hoà, Trần Ngọc Ninh, Nguyễn Bạt Tụy, Lưu Gia Linh, Nguyễn Phước Đáng, Phạm Văn Hải, LM Lê Văn Lý.... Các vị ấy đã đi sâu vào việc nghiên cứu ngữ học và cảm thấy phương pháp giáo dục cũ, phép đánh vần và học mặt chữ Quốc Ngữ có vấn đề. Tuy nhiên họ không tích cực đề ra phương pháp Âm Vị Học. Người sử dụng có thể tự chọn lấy phương pháp Âm Vị Học hay một số phương pháp cũ tùy theo cách ứng xử riêng. Ngược lại, Giáo sư Trần Ngọc Ninh thấy rằng dạy trẻ nhỏ theo phong cách cổ xưa không còn hợp thời và thiếu khoa học. Tất cả phải được đánh giá lại dựa trên những hiểu biết đương thời, theo tâm lý trẻ nhỏ, kể cả đường lối sư phạm. Ngày nay chúng ta đã bước sang thời đại tin học, chúng ta cần có một phương pháp đánh vần và giảng dạy mới trong đó tính nhân bản dành cho trẻ nhỏ là trọng tâm. Có như vậy mới đáp ứng được những nhu cầu và đòi hỏi hiện đại. Ông thấy rõ các em nhỏ khi học tiếng Anh chúng quen thuộc với phép giảng dạy tiếng Anh bằng Âm Vị Học (Phonology) ở trường lớp, nên nếu dạy các em theo một phương cách mới bằng Âm Vị Học tiếng Việt nương theo Âm Vị Học tiếng Anh, chắc chắn các em sẽ học dễ và nhanh hơn. Hơn thế nữa, các thanh thiếu niên ngoại quốc chưa từng học nói và viết tiếng Việt khi áp dụng phương pháp này, sẽ đạt được tiến bộ còn nhanh hơn các em thiếu nhi. Họ chỉ cần dựa theo cách phát âm có sẵn đã học tại trường văn hóa và nhận ngay ra cách phát âm trong tiếng Việt của chúng ta. Ông chủ trương tích cực đẩy mạnh phương pháp Âm Vị Học và áp dụng một cách triệt để. Ông phân tích rõ ưu và khuyết điểm của việc sử dụng. Qua quá trình làm việc với GS Trần Ngọc Ninh và một số học giả khác cùng những tài liệu mà Viện Việt Học có được, Viện thấy được hiệu quả của việc dùng Âm Vị Học nên đã mở ra một chương trình thí điểm Việt ngữ 3 năm. Đây là một thử nghiệm đầu tiên(2008) rất quan trọng, vì qua 3 năm hoạt động với nhiều công sức, nỗ lực, nó mang lại sự thành công ngoài mức mong đợi. Viện đã mang kinh nghiệm này phổ biến và chia sẻ ở các trung tâm Việt Ngữ ở những tiểu bang khác như Washington DC, Minessota, Texas...v..v... Giáo sư Nguyễn Minh Lân là một trong các vị giảng dạy tại Viện cho biết: Vấn đề học đọc và viết tiếng Việt cho hiện tại và tương lai rất quan trọng. Hãy quay lui trong một khung cảnh ở VN, khi chúng ta sinh hoạt, nói chuyện với gia đình bạn bè bằng tiếng Việt, chúng ta sẽ không thấy và để ý đến vấn đề này. Nhưng khi chúng ta phải tiếp xúc với nền văn hoá của nhiều quốc gia khác, nhiøn lại cách đọc và viết tiếng Việt của thế hệ cũ mà chúng ta đã học từ xưa tới giờ, sẽ thấy không còn thích hợp với các em nữa. Phương pháp giảng dạy đó có tính cách từ chương và hầu như mình "tra tấn" các em. Chúng tỏ rõ không thích lối dạy này. Thí dụ như khi mình đọc chữ "thuận" của chữ "thuận tiện" hay "thuận nghịch" chẳng hạn. Khi xưa, ta phải học chữ a, ă, â, u và âu rồi ân. Tất cả những chuyện phức tạp đó rất khó cho các em nhận biết và học ngay được viø đối với các em sinh ngữ dùng hàng ngày không phải là tiếng Việt. Trong khi trên thế giới, Âm Vị Học(phonology) được áp dụng ở các quốc gia tiên tiến ngày naỵ. Tuy lối áp dụng của mỗi quốc gia có những đặc tính khác và cách phát âm riêng nhưng nguyên tắc chung vẫn là cách phát âm từ thanh quản đi lên miệng, môi, lưỡi của một người. Âm Vị Học Việt Nam cũng có cách phát âm riêng theo được tiếng nói của người Việt và ghi ra được bằng chữ alfabet. Ngày xưa khi chúng ta học a,b,c mình phát âm là a, bê, xê. Vô tình mình đọc và phát âm không đúng với tiếng Việt của mình mà mình đọc theo lối phát âm của người Bồ Đào Nha hay người Pháp. Với chữ a,e, ê thì đúng với lối phát âm của Người Việt Nam nhưng với chữ bê thì âm này không phải âm của Việt Nam. Có khi mình phát âm là bờ , cũng không phải âm Việt Nam. Âm tạm đúng phải đọc b là bơ. Hay chữ ca trong ca hát, mình sẽ đánh vần là xê a ka, nếu đánh vần đúng phải là xê a xa theo âm tiếng Pháp như Cinéma. Chúng ta theo thói quen mà đọc như vậy rồi chứ nếu theo như âm đọc của chữ ca chúng ta phải viết và đánh vần như kờ a ka và viết là ka hát thay vì ca hát. Lúc trước khi học chữ Việt chúng ta học a, ă, â, e, ê, i. Lợi điểm trong cách phát âm của Âm Vị Học là các em được học về nguyên âm(những âm chính) trước sau đó mới đến phụ âm. Như a, e , i, u được dạy trước và t, b, c sẽ dạy sau. Các nguyên âm, ă, â cũng được dạy sau viø các nguyên âm này luôn luôn có phụ âm đứng sau như ăn, ấm nhưng nhóm nguyên âm này không bao giờ có phụ âm đứng trước, nếu có thì chúng phải có dấu trên đầu hay có phụ âm đứng sau như tắt hay cấm. Lối dạy cũ thiếu sự phân loại nên các em dễ lẫn lộn. Chúng ta gọi vần ngược tức nguyên âm trước phụ âm sau, vần xuôi tức phụ âm trước nguyên âm sau. Thí dụ như chữ ta là vần xuôi và an là vần ngược. Tuy nhiên khi gọi như thế, cách gọi này gọi theo chỉ dấu chứ không theo âm. Viện Việt Học đặt lại lối gọi là vần thông và vần chặn. Như khi phát âm chữ ta, âm đi thông không bị chặn, còn chữ an thì âm bị chặn không vang ra nữa. Với hai nguyên âm đặc biệt ă và â, muốn học hai chữ này phải học vần chặn của chữ a là an hay am trước rồi mới học ăn và ân. Khi đó các em đã quen thuộc với vần chặn mà bắt qua học ă và â dễ hơn. Khi học theo phương cách học xưa của a, ă, â, chúng ta không biết đến vai trò đặc biệt của nguyên âm ă và â ra sao. Phương cách mới giúp các em biết được những phụ âm nào đứng trước nguyên âm và những nguyên âm nào cần phụ âm đứng sau. Do đó khi chúng ta học đánh vần chữ ba, theo cách cũ chúng ta sẽ đọc bờ a ba, nhưng theo Âm Vị Học VN thì ta đọc nguyên âm trước a rồi ba. Hoặc khi học chữ thuận, ta sẽ chia chữ thuận ra làm hai phần vần thông là thu và vần chặn là ận. Các em đã học Âm Vị Học tiếng Anh quen rồi sẽ kết hợp thu và ận thành thuận. Yếu tố dễ dàng và quen thuộc sẽ dẫn tới việc thích thú khi học. Một khi các em thích học tiếng Việt thì việc học không còn là vấn đề đối với các em. Khi hỏi tới việc dùng Âm Vị Học vào việc học viết có hiệu quả hơn lối cũ không thì ông Lân cho biết thêm: Lợi điểm thấy rõ là các em bỏ dấu rất đúng. Chúng ta thường bỏ dấu theo lối đối xứng là bỏ theo thẩm mỹ. Thí dụ như chữ của, dấu hỏi sẽ bỏ ở giữa trên chữ u, nhưng bỏ dấu như vậy khi đánh vần sẽ ra củ..a không đúng ngữ âm tiếng Việt. Theo Âm Vị Học thiø Viện dạy các em bỏ dấu theo âm đọc. Nghĩa là các em sẽ bỏ dấu trên chữ a cuối: cuả. Chúng ta sẽ thấy lối viết bỏ dấu này lạ mắt đối với lối viết bình thường. Chắc chắn sẽ có người bị dị ứng nhưng viết như thế mới đúng và hợp theo với cách phát âm của tiếng Việt. Song song với dạy học và viết, các em còn được học sinh hoạt học đường. Trong giờ này các em được học những bài hát và các màn kịch. Nhờ sinh hoạt mà các em thực tập ngữ nghĩa tiếng Việt thấm và nhanh hơn vì các em vốn năng động và thích chơi nhiều hơn học. Khi các em thành công sau 3 năm thực nghiệm, chương trình này được đổi tên là lớp Việt ngữ căn bản. Ngoài ra Viện còn đưa ra những tiêu chuẩn khi ghi danh một em học sinh tình nguyện theo chương trình thí điểm. Đó là sự đóng góp công sức của các phụ huynh muốn cho con em miønh theo học. Nhiệm vụ của các bậc cha mẹ phải theo dõi và chăm sóc các em trong suốt học trình. Viện sẽ hướng dẫn các phụ huynh nên giúp đỡ các em trong phương diện gì, học cái nào. Các thầy cô giáo cũng được phỏng vấn và huấn luyện kỹ lưỡng trước khi đứng lớp. Vấn đề tâm lý trẻ em, dạy đọc và viết theo Âm Vị Học, tương quan và giao tiếp giữa phụ huynh, học sinh và thày cô giáo là những đề tài căn bản trong lớp tu nghiệp của người dạy. Và tất cả họ đều là những người tự nguyện không lương, hy sinh thời gian cho việc dạy tiếng Việt, với một hoài bảo duy nhất là muốn các em đọc và viết thông thạo tiếng Việt để giữ gìn tiếng mẹ đẻ và qua đó là bảo tồn văn hóa truyền thống Việt Nam trên xứ người. Chương Trình Tiếng Việt của Viện hoàn toàn miễn phí cho học sinh. Sống trong một thời đại toàn cầu hoá, cái khó của chúng ta là làm sao nhận biết được tinh hoa của ta và của người. Viện Việt Học là một tổ chức tự nguyện đặt cho mình cái nhiệm vụ tìm hiểu chuyện đó để cống hiến cho người Việt miønh, đặc biệt cho giới trẻ. Chức năng của Viện là làm việc dưới góc cạnh của những người chuyên môn chứ không phải thích đâu làm đó. Các em nhỏ là đối tượng chính trong việc nghiên cứu về tiếng Việt của Viện. Do đó khi dạy các em học, nội dung của tài liệu và sách vở cần phù hợp với nếp sống hiện tại hay môi trường sinh sống chung quanh của các em. Những sách giáo khoa với hình ảnh cũ hay nội dung xa vời với đời sống rất khó cho các em học và tưởng tượng. Thí dụ như hình ảnh một người nông dân dắt trâu ra đồng trong một buổi sớm trong một sách giáo khoa không còn phù hợp. Viện cũng soạn ra sách giáo khoa viết theo thời đại và nhu cầu giúp các em học trong tinh thần thoải mái và thích thú. Chúng ta người của thế hệ đi trước có cái may mắn sống và đối mặt giữa những chấn động văn hoá của thời buổi giao thoa. Nếu thấy được cái hay và chọn được cái ưu việt của hai nền văn hoá Âu Tây nên ứng xử sao cho khôn khéo. Chúng ta cố làm sao để người lớn tuổi sống được một cách an lạc, các em nhỏ có thể hội nhập vào các luồng văn hoá. Nếu thế hệ chúng ta cứ cố chấp khăng khăng nắm giữ những giø xưa cũ sẽ tạo ra một khoảng cách mà vô tình đánh mất các em. Gia điønh mất một người, cộng đồng mất một người. Viện Việt Học ý thức được điều này nên đã đưa vai trò của phụ huynh lên, giúp cho họ biết điểm đứng của miønh hầu làm cho cuộc sống gia điønh tốt đẹp hơn. Viện thường nhắc nhở họ nên để ý đến con em, thay viø bỏ mặc các em cho trường học bản xứ dạy dỗ. Các em dễ bị hoà lẫn và tan biến vào văn hoá xứ người, cộng đồng người Việt hải ngoại sẽ từ từ biến mất. Trên phương diện ngữ học hỗ tương, nếu các em thiếu nhi trong nước được giảng dạy tiếng Việt bằng phương pháp Âm Vị Học tiếng Việt, khi các em học tiếng Anh, chắc chắn các em sẽ nhanh chóng quen thuộc với phương pháp Âm Vị Học tiếng Anh và sẽ học mau, hiểu nhanh, phát âm đúng tiếng Anh hơn. Trong tinh thần nghiên cứu tinh hoa văn hóa bao gồm học thuật và nghệ thuật, khi thành công Viện Việt Học rất muốn chia sẻ sâu xa những tìm tòi có được cùng cộng đồng. Nếu bạn đọc hay các trung tâm Việt Ngữ cần hiểu biết thêm về phương pháp giảng dạy tiếng Việt nhanh và dễ bằng Âm Vị Học, có thể liên lạc trực tiếp với Viện Việt Học. Nếu hoàn cảnh cho phép Viện có thể phái người tới từng địa phương để chỉ dẫn thêm nếu được yêu cầu. Xin liên lạc Giáo Sư Nguyễn Minh Lân hay Viện Việt Học , P.O. Box 11900 Westminster, CA 92685-1900 Điện thoại: 714-775-2050, Email: info@viethoc.com Trịnh Thanh Thủy
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 17, 2011 3:22:49 GMT 9
Nói có sách, mách có chứng Nguyễn Dư Thỉnh thoảng chợt nhớ mấy thằng bạn... Nhớ cái thời cắp sách đến trường, đạp xe lượn phố. Cái thời nhởn nhơ, lêu lổng mà ai cũng cho là đẹp. Đẹp " mười phân vẹn mười " nếu như...đừng có mấy trang Kiều, Cung oán...phải học thuộc lòng, mấy bài thơ, bài phú đầy điển tích bí hiểm. Và nhất là đừng có triết này triết nọ. Tôi khổ sở vì môn Việt văn. Khổ từ dưới tiểu học lên đến trung học. Hết tập đặt câu, lại đến tập làm văn, rồi luận văn, bình văn. Hết " tiên học lễ, hậu học văn " lại đến " tri dị hành nan " hay " tri nan hành dị " ? Lần nào thầy cũng nhắc đi nhắc lại như cái máy là phải có ý, phải tìm cho ra một hai thí dụ, phải biết trình bày mạch lạc. Phải...phải như vậy mới được. Toàn những cái " phải " khó nhai. Tôi được các thầy để ý, thay phiên nhau cảnh cáo, mắng phạt. Lúc đầu còn ngượng, còn sợ. Sau thành quen. Trơ cả mặt. Có lần đầu bài được ra bằng...tiếng Việt : Nói có sách, mách có chứng! Hí hửng tưởng phen này sẽ không bị...táo bón. Nhưng rốt cuộc vẫn tắc tị như thường. Đã đến nước này thì phải...liều ! Đến bữa cơm chiều, tôi thu hết can đảm mang bài ra hỏi cả nhà. Ồ chuyện lạ ! Cả nhà ngạc nhiên thấy tôi để ý đến chuyện học. Mả nhà mình phen này đến kết mất thôi. Ông đừng đùa, nó lại thôi không hỏi nữa bây giờ. Nói có sách, mách có chứng nghĩa là...không được ăn nói như mày. Bà giảng như vậy làm sao nó hiểu được. Ăn nhanh lên, chốc nữa tao giảng cho. Tôi yên tâm nhưng không khỏi bực mình vì chốc nữa sẽ bị chôn chân. Không khéo thì mất toi cả buổi tối. Tưởng là bố mẹ giảng cho trong lúc ăn. Biết vậy đừng hỏi có hơn không? Tôi thầm trách tôi sao mà dại thế. Bố giảng : Nói có sách, mách có chứng nghĩa là ăn nói phải có bằng cớ, bằng chứng. Nếu mày cứ bô bô là " Nước ta giàu có, rừng vàng biển bạc " mà không chứng minh gì cả thì như vậy chỉ là nói suông, nói không có bằng cớ. Không phải là Nói có sách, mách có chứng. Nếu mày nói rằng có sách này, sách kia viết rằng rừng nước ta chiếm bao nhiêu diện tích, bao nhiêu cây số vuông, có bao nhiêu thứ gỗ quý, nếu có đủ người đủ máy móc để khai thác thì có thể đem lại bao nhiêu tiền bạc. Tác giả nào cho biết vùng biển nước ta dài rộng bao nhiêu cây số, có bao nhiêu cá, nếu có đủ người đủ tàu đánh bắt thì sẽ đẻ ra được bao nhiêu tiền. Đưa ra bằng chứng, rồi mới kết luận " Nước ta giàu có, rừng vàng biển bạc ". Như vậy gọi là Nói có sách, mách có chứng. Nói chung, muốn kết tội hay gỡ tội cho ai thì cũng phải đưa ra bằng chứng rõ ràng. Nhưng moi đâu ra bằng chứng ? Phải đọc sách. Tôi có cảm giác như người lạc đường bỗng nhận ra cái cây, cái quán quen quen. Dường như tôi bắt đầu lờ mờ hiểu. Lần ấy tôi được điểm trên trung bình. Sướng ơi là sướng. Mới có vậy thôi mà tôi đã vác mặt lên, khinh khỉnh nhìn mấy đứa...không hiểu chúng nó ăn gì mà dốt thế ! Tự hào chưa được bao lâu, tôi lại bị đẩy lùi về cái gốc dốt của mình. Đầu bài bây giờ là Tận tín thư bất như vô thư. Khổ chưa! Lại chữ nghĩa thánh hiền ! Tôi chỉ hiểu chữ thư là...thư từ ! Tín thư là...thư tín. Tàu và ta nói ngược nhau. À ! Lại chuyện thư từ trai gái gì đây ! Bốp ! Bị thầy bợp tai, váng cả óc. Cả lớp cười ầm như vỡ chợ. Tôi không ngượng. Bị phạt, bị mắng quen rồi. Chỉ tức bọn đánh hôi. Chúng mày đồng hội đồng thuyền với ông, hơn gì ông mà cũng nhe răng ra cười nham nhở. Tiên sư chúng mày. Chỉ giỏi a dua. Thầy nghiêm giọng khuyên tôi bớt đọc tiểu thuyết nhảm nhí. Cả lớp nghe đây ! Tận tín thư bất như vô thư là câu nói của Mạnh Tử, nghĩa là " Đọc sách mà tin sách đến cùng thì không bằng không đọc sách ". Ới cụ Mạnh ơi, sao cụ ác thế ! Chiều hôm ấy tôi lại phải cầu cứu bố. Nghe bố giảng, tôi ù ù cạc cạc, có cảm tưởng như bố nói ngược lại lần trước. Bố kiên nhẫn giảng lại. Nói có sách, mách có chứng nhưng phải kèm thêm điều kiện là sách viết đúng, chứng cớ không sai. Nếu mày cứ dựa vào một quyển sách viết sai mà gân cổ lên cãi thì còn tệ hơn là mày không đọc quyển sách ấy. Không biết còn hơn là biết sai, hiểu chưa? Dạ hơi hiểu. Nhưng làm gì có sách viết sai ? Có chứ. Cụ Nguyễn Du chỉ viết một bản Kiều, thế mà ngày nay lại có mấy bản khác nhau. Chinh phụ ngâm cũng vậy. Thậm chí người ta còn chưa biết chắc ai là tác giả của bản Chinh phụ ngâm mày đang học đây này. Cái tệ của người mình là hay sửa thơ văn của người khác. Cứ tự tiện cho rằng mình hiểu câu thơ, câu văn hơn chính tác giả. Cuốn Đạo Đức Kinh của Lão Tử mỏng dính, thế mà khắp thế giới có tới cả trăm bản dịch khác nhau. Mỗi người hiểu một cách. Thế nào chả có người đúng, người sai. Cùng một bài thơ mà được gán cho hai ba tác giả thì chắc chắn phải có người sai rồi. Nhưng làm thế nào để biết là sai ? Mày được thần linh gà cho hay sao mà hôm nay đặt được câu hỏi hay thế ? Phải nghe nhiều người nói, phải xem nhiều sách thì mới thấy ai đúng ai sai. Thế còn người đầu tiên thì sao? Đến lượt bố tôi không hiểu tôi muốn nói gì. Dạ, người đầu tiên nói điều gì thì phải dựa vào sách nào ? Mày hỏi thật hay hỏi cù nhầy để chọc tức tao ? Dạ, con hỏi thật. Câu hỏi của mày khó trả lời. Muốn biết người đầu tiên nói đúng hay sai thì phải chờ thời gian mới biết được. Lâu ngày mà không có ai phản đối, nói khác thì có thể được coi là đúng. Đúng tới ngày nào có người vạch ra chỗ sai. Nguy hiểm nhất là người đầu tiên nói sai rồi người khác lặp lại như đàn vẹt. Đây cũng là Nói có sách, mách có chứng nhưng phải xếp vào loại nấp sau sách, sau cái bung xung để...nói bậy. Hoang mang quá! Đọc sách để học, để biết. Nhỡ đọc phải sách viết sai thì hoá ra học sai, biết bậy. Đúng rồi ! Đúng là...đừng học, đừng biết còn hơn ! Kết luận của tôi chắc như đinh đóng cột nhưng phải công nhận rằng chỉ có bọn lười, bọn dốt mới tán thành. Rốt cuộc học hay không học cũng như nhau à? Chả còn biết trời đất ra sao nữa. Mày có biết ông Lê Lợi là ai không? Dạ biết. Khá lắm ! Sử chép rằng ông Lê Lợi cùng 18 đồng chí tổ chức lễ thề Lũng Nhai, cùng nhau đứng lên cứu nước. Tất cả các gia phả của các dòng họ đều chép tên 18 vị anh hùng. Có thể coi con số 18 là đúng. Thế nhưng, nếu cộng hết những tên có trong các gia phả thì số người dự lễ thề Lũng Nhai lại nhiều hơn 20. Như vậy là rõ ràng có gia phả chép sai, cố ý bỏ tên người khác và thay thế bằng tên tổ tiên mình vào danh sách 18 người. Lấy lí mà nói thì gia phả là tài liệu đáng tin cậy nhất. Nhưng mục đích của gia phả là ca tụng đức hạnh, công trạng của tổ tiên. Bởi thế cho nên bao giờ gia phả cũng kể toàn chuyện hay, chuyện đẹp. Đôi khi phải bịa thêm chuyện hay, chuyện đẹp. Gán cho tổ tiên vinh dự này, vinh dự nọ. Chính vì vậy mà hội thề Lũng Nhai mới có hơn 20 tên người tham dự, thay vì chỉ có 18. Làm như vậy để làm gì ? Xưa kia, dòng họ nào có tổ tiên là khai quốc công thần, phò vua từ ngày đầu, thì con cháu được ban thưởng, cất nhắc. Chẳng qua cũng chỉ vì danh lợi mà phải gian lận cả với lịch sử. Làm thế nào để biết ai giả ai thật ? Đơn giản thôi. Nhưng các sử gia vẫn còn cả nể, sợ đụng chạm...Thôi ! Lấy giấy bút ra làm bài đi ! Trước khi " tha " tôi, bố còn khuyên dặn mấy điều. Tôi sốt ruột, dạ dạ vâng vâng cho xong chuyện. Mới đây có dịp đọc sử, tôi sực nhớ câu chuyện bỏ dở năm nào. 18 vị anh hùng Lũng Nhai là những ai ? " Không thầy đố mày làm nên ". Dạ ! " Học thầy không tầy học bạn ". Ủa ! Không thầy...khỏi bị mắng, bị phạt. Ồ ! Tội gì không mạn phép thầy, thử dùng " mẹo ". Đọc gia phả của dòng họ X thì tạm để tên ông tổ họ X sang một bên và chỉ giữ lại những tên không thuộc dòng họ X. Tên nào được nhiều gia phả, tốt nhất là được tất cả các gia phả cho phép giữ lại thì tên ấy mới thật đáng tin. Tên nào chỉ thấy trong gia phả của dòng họ X, không thấy ở gia phả nào khác, thì không đáng tin. Thí dụ tên hai ông Lưu Trung và Phạm Cuống (cha và anh rể của Lưu Nhân Chú). không có trong gia phả nào khác ngoài gia phả họ Lưu. Vậy nên xem là hai ông không dự lễ thề Lũng Nhai. Trái lại, tên Lê Lai, Nguyễn Trãi v.v. có trong gia phả của dòng họ Lê Sát, Đỗ Bí, Lưu Nhân Chú...Có thể kết luận được rằng mấy vị này có dự lễ thề Lũng Nhai. Chỉ cần tra cứu vài gia phả là tìm ra được 18 vị anh hùng. Hiện nay, các nhà sử học nước ta đã có nhiều gia phả trong tay. Muốn tìm ra sự thật chắc không khó. Cái khó cần phải vượt qua là phải dẹp bỏ thành kiến, tự ái cá nhân. Mặt khác, gia phả không bao giờ chép những điều không hay. " Tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại ". Ai muốn tìm hiểu Lê Quý Đôn gian lận thi cử cho con trai mình và bị phạt ra sao thì đừng mất thì giờ tìm kiếm trong gia phả của dòng họ Lê Quý Đôn. Thậm chí đừng tìm kiếm trong cả mấy cuốn sách thời nay viết với mục đích ca tụng Lê Quý Đôn. Cũng may là sử nhà Nguyễn có ghi chép sự việc này và một vài học giả nghiêm túc có nhắc lại. Nhờ vậy mà đám trẻ đời sau mới biết. Có một bí ẩn mà hầu như sử gia nào cũng cố né tránh như sĩ tử đi thi tránh...phạm huý. Đó là cái chết của ông Lê Lai. Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên chép năm 1427, một năm trước khi Khởi nghĩa Lam Sơn thành công, ông Tư mã Lê Lai cậy có công, ăn nói ngạo mạn, bị Lê Lợi giết. Đời sau không biết gì thêm về ông Lê Lai này. Ngược lại, ông Lê Lai đổi áo cứu Lê Lợi năm 1419 thì được tới bốn dòng họ khác nhau khắc bia, viết gia phả, nhận là tổ tiên mình (Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Khởi nghĩa Lam Sơn, Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 154-158) . Đấy là chưa kể ông Lê Lai thứ năm là...anh cả của Lê Lợi, Lê Thạch và Lê Thiện ! (M. Bougier, La pagode des Lê à Thanh Hoa, Bulletin des Amis du Vieux Hué, số tháng 7-9, 1921, tr. 137). Chỉ có Đại Việt sử kí toàn thư là không nhắc tới ông Lê Lai này. Con cháu không ghi chép tổ tiên bị vua giết là chuyện dễ hiểu. Con cháu phóng bút khoe tổ tiên mình chết thay vua, mặc dù sách do chính nhà vua viết không hề nói như vậy, (Nguyễn Diên Niên, Lê Văn Uông, Lam Sơn thực lục, Ty văn hoá Thanh Hoá, 1976, tr. 241), thì cũng là...chuyện dễ hiểu. Ai dám phản đối? Anh biết chuyện nhà tôi hơn tôi à ? Có giỏi thì "con kiến kiện củ khoai" xem ai có lí ! " Thấy người sang bắt quàng làm họ " chỉ có lợi, cùng lắm là...hoà. Chưa thấy ai bị đánh thuế hay bị tù vì...viết gia phả không đúng sự thật. Xin lỗi, văn hoa không đúng chỗ. Bình dân gọi thẳng là...nói phét không sợ bị phạt. Đôi lúc gia phả được các nhà sử học tiếp tay, làm...điên đầu người đọc : Tìm hiểu Gia đình Lê Lợi trong khởi nghĩa Lam Sơn (Lê Lợi và Thanh Hoá trong khởi nghĩa Lam Sơn, Thanh Hoá,1988), Trần Bá Chi cho biết : Hai ông Đinh Lễ và Đinh Liệt là người sách Thuỷ Cối, thuộc Lam Sơn (...). Thân phụ của Lễ và Liệt là Đinh Thế Biểu. Vợ của ông (Biểu) là Trần Thị Ngọc Huy, con gái Trần tướng công ở xã An Lão, huyện Thư Trì (Thái Bình)(tr. 219). (...) Về sau, con cả (của Ngô Kinh) là Ngô Từ kết duyên với cháu Lê Lợi là Đinh Thị Ngọc Kế, Ngọc Kế là em gái Đinh Lễ, nên Ngô Từ lại gọi Lê Lợi bằng cậu (tr. 220). Cùng lúc, Lê Huy Trâm đề cập Về một dũng tướng Lam Sơn cần được hiểu biết thêm (sđd, tr. 240) lại cho biết : Đinh Lễ đẻ ra Đinh Thế Biểu. Ông Biểu lấy bà Trần Thị Huy là con gái Trần Nhật Duật đẻ ra Đinh Thị Ngọc Kế. Vậy Ngô Từ là cháu rể Đinh Lễ. Đinh Lễ này khác với Đinh Lễ hy sinh trong trận tiến công trại Quan Du trong năm Canh Tý(tức là ông Đinh Lễ được Trần Bá Chi tìm hiểu). Người đọc dễ tính nhất cũng phải thắc mắc : Hai ông Đinh Lễ là một hay một ông Đinh Lễ hoá thành hai ? Đinh Lễ là con hay là cha của Đinh Thế Biểu ? Đinh Thị Ngọc Kế là em gái hay là cháu nội của Đinh Lễ ? Trần Bá Chi và Lê Huy Trâm đã dồn Đinh Lễ vào chỗ...không lối thoát ! Gia phả nào viết đúng, gia phả nào viết sai ? Chắc chắn là không thể tin cả hai gia phả được ! Cũng không nên vội vã loại trừ khả năng cả hai gia phả cùng viết sai ! Tận tín thư bất như vô thư là vậy ! Ngày nay, nhiều gia phả chép trống không rằng ông tổ của họ là Nguyễn Hoàng, là Nguyễn Trãi, là vua này chúa kia. Nếu không kê khai đủ các đời thì ai dám quả quyết rằng đúng hay sai ? Ngày xưa gia phả chỉ chép lui lại 3, 4 đời là nhiều. Một trăm năm kể cũng đã khá xa, tam sao thất bản có thể đã bắt đầu. Huống hồ năm trăm năm. Chả nói đâu xa. Chắc nhiều người trong chúng ta còn nhớ tên ông Trần Thanh Mại. Tên ông gắn liền với cuốn Trông giòng sông Vị, viết về Tú Xương, được dùng làm tài liệu giáo khoa bậc trung học của những năm 1950. Trần Thanh Mại được Nguyễn Công Hoan coi là " một chuyên gia về Tú Xương ". Năm 1961, Trần Thanh Mại cùng Trần Tuấn Lộ viết thêm cuốn Tú Xương, con người và nhà thơ (nhà xuất bản Văn Hoá). Trần Thanh Mại và Trần Tuấn Lộ "đã cố đề cao Tú Xương nên phải gán ghép một cách gượng gạo, vô lý, đến nỗi phạm đầy rẫy những mâu thuẫn rất khôi hài. Hai tác giả không những gán cho Tú Xương là quen các nhà cách mạng, còn gán cho nhà thơ là nghèo, thậm chí lại gán cả thơ của người khác cho nhà thơ Tú Xương nữa ". (...) " Trước khi tạm dứt lời, tôi xin tỏ một chút ý nghĩ, ý nghĩ khá buồn. Là ít lâu nay, các nhà nghiên cứu văn học của ta đương mắc phải một bệnh mới, khá phổ biến, là bệnh đề cao quá mức người chết rồi mà được sùng bái. Vì đề cao không đúng sự thật, cho nên nhà nghiên cứu phải liều mà gán ghép cho người được sùng bái một cách gượng gạo, vô lý, đến nỗi để lộ ra những mâu thuẫn mình với mình y như là khôi hài. Mà làm việc kiểu ấy, nhiều nhà nghiên cứu vô tình đã hạ thấp giá trị của người được sùng bái ". (Nguyễn Công Hoan, Con người Tú Xương trong Tuyển Tập Nguyễn Công Hoan, tập 3, Văn Học, 1986, tr. 223-240). Thật ra thì Trần Thanh Mại và Trần Tuấn Lộ đã viết theo gia phả của dòng họ Trần Tế Xương, có trong sách Văn thơ Trần Tế Xương (Bộ Giáo Dục, 1957) của Hoàng Ngọc Phách, Lê Thước và Đỗ Đức Hiểu. Vô tình những điều sai trong gia phả dòng họ Tú Xương đã được các học giả Hoàng Ngọc Phách, Lê Thước và Đỗ Đức Hiểu đem đi phổ biến. Đến lượt các nhà phê bình và nghiên cứu văn học Trần Thanh Mại và Trần Tuấn Lộ lặp lại những điều sai này và đem truyền bá rộng rãi hơn lên. Nguyễn Công Hoan ngờ rằng chính Trần Tất Đạt, con trai Trần Tế Xương, đã bịa đặt, tô hồng để biến cha mình thành một người quen thân các nhà cách mạng Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền v.v. Hôm nghe bố giảng Tận tín thư bất như vô thư xong, tôi nghịch ngợm hỏi : Bố ơi, nhà mình có gia phả không ? Không ! Họ nhà mình không có ai làm to, nổi tiếng. Chả có gì đáng để ghi chép. Tại sao bây giờ bố không viết ? Viết cái gì cơ chứ ? Cứ phịa đại ra là bên nội của mình là dòng Nguyễn Huệ, bên ngoại là dòng Nguyễn Du. Văn võ song toàn cho nó oai. Rồi thời Pháp, thời Nhật. Thiếu gì chuyện để...bịa ! Coi chừng, chớ có đùa dai như vậy. Biết đâu một ngày kia đến tai các nhà sử học, họ lại dựa vào đấy để chứng minh và tìm ra liên hệ gia đình của Nguyễn Huệ và Nguyễn Du thì phiền lắm. Thôi đừng nói chuyện vớ vẩn nữa. Mày phải bớt lêu lổng, chịu khó học hành. May ra sẽ khá. Nhưng tôi không gặp may. Không khá nổi môn Việt văn. Mấy kì thi lần nào cũng chỉ trông mong vào môn toán để bù cho văn chương triết lí. Mấy môn còn lại thì cố làng nhàng! Vốn liếng văn chương của người khác thì phải lấy bồ, lấy va li mà chứa mới xuể. Còn vốn của tôi thì chắc chắn không cần đến cái chai bia 33 để đựng. Ngay cả bao thuốc lá Cotab cũng chưa chắc đã được lưng lưng. Trớ trêu thay, đến khi trên đầu lốm đốm hai thứ tóc, rồi tóc bắt đầu rụng dần, thì tôi trở chứng. Thấy xung quanh xì xào chuyện sách vở chữ nghĩa, tôi tò mò...bắt chước. Bây giờ đọc sách không phải để làm bài, đi thi. (Xin phép mấy thầy dạy Việt văn, cho con được thở phào một cái rất ư là nhẹ nhõm !). Bây giờ đọc để biết chuyện trên trời dưới đất. Nói một cách trang trọng là đọc để mở rộng kiến thức. Khiêm tốn thì nói là đọc để cho bớt ngu. Được tí nào hay tí ấy. Muộn còn hơn không ! Đọc sách để mỉm cười ngắm cái " lá diêu bông " của Hoàng Cầm đã được một nhà khoa học lặn lội tìm ra được ! Để lạc theo ngòi bút điêu luyện, uyển chuyển như rắn, như lươn. Để rơi tõm vào bát quái trận đồ của các nhà phù thuỷ của ngôn từ... Không ngờ đọc sách lại thú vị như vậy. Đọc sách thú lắm bà con làng nước ơi ! Học được nhiều điều hay, lắm điều lạ. Bớt cả tin, bớt thành kiến. Càng đọc càng thấy phải đọc thêm. Đọc sách để biết Nói có sách, mách có chứng ! Đồng thời để hiểu rằng Tận tín thư bất như vô thư ! Hoá ra đọc sách cũng phải cẩn thận như người hát xiệc, đi trên giây ! Loạng quạng, mất thăng bằng là té nhào ! Nguyễn Dư (Lyon, 3/2004)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 9, 2016 5:36:49 GMT 9
Tản mạn về tiếng Việt "hiện tượng đồng hoá âm thanh" (phần 1)Nguyễn Cung Thông nguyencungthong@yahoo.com Hiện tượng đồng hóa âm thanh (linguistic assimilation) trong ngôn ngữ rất thường gặp: từ thanh điệu (điều hòa thanh điệu) cho đến các âm đứng gần nhau, phụ âm hay nguyên âm, đều có thể ảnh hưởng qua lạ i- nhất là trong khẩu ngữ. Điều này không làm ta ngạc nhiên vì âm thanh phát ra cũng phải tuân theo một số định luật vật lí tự nhiên của con người, khi lưỡi và họng ở những vị trí phát âm sao cho trôi chảy (nói) và thuận tai (nghe). Thành ra, ngoài các dữ kiện từ các tiếng nước ngoài, bài này còn đề cập đến một số liên hệ Hán Việt (HV), tuy không nhất thiết xác định nguồn gốc của các từ này (Việt cổ, Hán cổ). Các chữ viết tắt trong bài này là BK (Bắc Kinh), TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (từ điển Việt Bồ La, Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandre de Rhodes/1651). Chỉ số sau một âm tiết là chỉ thanh điệu, khác với số phụ chú ghi theo thứ tự trong bài. Hai nguyên tắc đồng hóa âm thanh ĐH1 và ĐH2 được đề nghị để giải thích các dạng khám phá/khán phá, khám bệnh/khán bệnh cùng cấu trúc từ láy ưng ức/phưng phức và ròng rọc. Ảnh hưởng của nguyên âm trước và sau, cũng như khuynh hướng điều hòa thanh điệu không nằm trong phạm vi bài viết nhỏ này (thường gặp trong các ngôn ngữ thanh điệu/tonal language hơn). Hi vọng loạt bài "Tản mạn về tiếng Việt" sẽ giúp người đọc tìm hiểu thêm về tiếng mẹ đẻ rất phong phú của chúng ta. 1. Khuynh hướng đồng hóa âm thanhMột số ngôn ngữ trên thế giới thuộc vào loại chắp dính (agglutinative/synthetic language) so với loại hòa kết (fusional/inflectional language). Loại ngôn ngữ chắp dính dùng nhiều phụ tố (affix) như tiền tố (prefix), hậu tố (suffix) để tạo từ mới cũng như các cấu trúc câu (sentence) hay một nhóm từ (đoản ngữ/phrase), khác với loại ngôn ngữ hòa kết thường thay đổi các dạng tiền tố, hậu tố khi nhập các thành phần này vào cấu trúc mới. Thí dụ của loại hình chắp dính là tiếng Nhật, Hàn, Thổ Nhĩ Kỳ, Mông Cổ, Armenia, Esquimo-Aleut, Basque ...v.v... Thí dụ của loại hình hòa kết là tiếng Phạn, La Tinh, Hy Lạp, Nga, Đức (họ Ấn-Âu). Khác với các ngôn ngữ nói trên là loại đơn lập (isolating language), thường mỗi hình vị (morpheme) đều có nghĩa riêng biệt, như tiếng Việt, Trung (Quốc)...v.v... Khuynh hướng đồng hóa âm thanh thường gặp trong các ngôn ngữ chắp dính hay hòa kết vì khả năng kết hợp các hình vị với nhau rất cao. Các thí dụ trong tiếng Anh (Mỹ) như 1.1 Mười đồng là ten bucks khi đọc nhanh trở thành *tem bucks vì phụ âm cuối -n (đầu lưỡi) của ten đồng hóa với phụ âm đầu b- (môi) của bucks để trở thành -m (môi). 1.2 Tiền tố in- (gốc La Tinh nghĩa là không) thường được dùng để cấu tạo các chữ mới như incorrect (correct là đúng, incorrect là không đúng/sai - tiếng Pháp là incorrect), indirect (direct là trực tiếp, indirect là không trực tiếp/gián tiếp - tiếng Pháp là indirect), inaudible (audible là nghe được, inaudible là không nghe được - tiếng Pháp là inaudible) ...v.v... Tuy nhiên, khi tiền tố in- hợp với tính từ possible (có thể) để cho ra *inpossible, thì phụ âm cuối -n (đầu lưỡi) lại bị đồng hóa bởi phụ âm đầu (môi) để cho ra dạng impossible (không thể - tiếng Pháp là impossible); cũng như polite (lễ độ) hợp với tiền tố in- để cho ra dạng impolite (không lễ độ/thô tục -tiếng Pháp là impoli) so với các dạng irresponsible (vô trách nhiệm, irresponsable tiếng Pháp - dạng in- đã trở thành ir- vì phụ âm đầu responsible), illegal (bất hợp pháp, illégal tiếng Pháp - dạng in- đã trở thành il- vì phụ âm đầu legal), immeasurable (vô số kể, incommensurable tiếng Pháp - gồm có in- tiền tố La Tinh nghĩa là không, com- gốc La Tinh cum nghĩa là với, mesure là đo và able có gốc La Tinh là habilis nghĩa là tiện lợi, có thể) ...v.v... 1.3 Cái xách tay (túi xách) là handbag, nhưng khi đọc thì có phụ âm đầu lưỡi d (hand) bị tha hóa (nhược hoá/mất đi/elision, vì không cùng hay gần vị trí phát âm như phụ âm b trong bag) trở thành *hanbag, sau đó phụ âm đầu lưỡi n lại bị đồng hóa với phụ âm b (môi) của bag để trở thành *hambag /hæmbæg/ , đây là âm đọc mà ta thường nghe hơn. Trong bài này, các trường hợp phụ âm hữu thanh n trở thành phụ âm hữu thanh m gọi tắt là khuynh hướng đồng hóa 1 (ĐH1) vì vị trí phát âm gần nhau của các phụ âm này. 1.4 Một cách thành lập danh từ chỉ số nhiều trong tiếng Anh là thêm hậu tố -s (phụ âm đầu lưỡi, xát và vô thanh) vào sau danh từ như book --> books lot --> lots ... ... Tuy nhiên khi danh từ có phụ âm cuối hữu thanh thì âm s lại trở thành phụ âm đầu lưỡi, xát và hữu thanh z, do ảnh hưởng của phụ âm g đứng trước bags đọc là /*bæɡs/ --> hữu thanh hóa --> /bæɡz/ friends đọc là /fɹɛn(d)z/ (phụ âm đầu lưỡi d mất đi, s trở thành z) ... ... Trong tiếng Pháp, ta cũng thấy các trường hợp đồng hóa âm thanh: 1.5 Động từ observer là canh giữ, xem xét trong tiếng Pháp - đọc là /ɔp.sɛʁ.ve/ với phụ âm môi hữu thanh b trở thành phụ âm môi vô thanh p vì đứng trước phụ âm xát vô thanh s. Tuy nhiên1 động từ observe tiếng Anh (gốc từ tiếng Pháp) đọc là /ɒbˈzɜː(ɹ)v/ với phụ âm xát vô thanh (đầu lưỡi) s trở thành âm xát hữu thanh z vì đứng sau phụ âm hữu thanh b. 1.6 Tôi không biết là je ne sai pas trở thành *je n'sais pas, sau đó thành *j'sais pas và cuối cùng ra dạng *chai pas mà ta thường nghe thấy hơn. 1.7 Tính từ diễn tả thứ hai, thứ nhì (phụ, không phải chính) là secondaire, đọc chậm là /sə.ɡɔ̃.dɛʁ/, khi đọc nhanh hơn trở thành /sɡɔ̃.dɛʁ/ và cho ra dạng /zɡɔ̃.dɛʁ/. Phụ âm cuối lưỡi -c (k) đã hữu thanh hóa (kêu/voiced) trở thành -g, cũng như phụ âm xát vô thanh s- trở thành hữu thanh z-, âm /ə/ đã tha hóa (mất đi/elision) để đọc cho dễ hơn và nhanh hơn. Trong bài này, các trường hợp phụ âm vô thanh (như s, c/k) trở thành phụ âm hữu thanh (như z, g) gọi tắt là khuynh hướng đồng hóa 2 (ĐH2) do kết quả của quá trình hữu thanh hóa. Các nguyên tắc ĐH1 và ĐH2 thật ra chỉ là hai trong nhiều kết quả tất yếu của nguyên tắc dùng sức (công) ít nhất của khoa học tự nhiên (principle of least effort): con người thường chọn những cách đọc (hay làm việc) ngắn gọn và dễ dàng nhất. 2. Tiếng Việt đơn lập? Các ngôn ngữ thuộc loại hình đơn lập2 thường có tỉ số hình vị và từ (morpheme-word ratio) rất gần 1 so với các loại ngôn ngữ chắp dính hay hòa kết. Thí dụ như tiếng Việt mỗi chữ (từ) đều có nghĩa và không thể tách chữ này ra thành những thành phần có nghĩa khác nhau như tiếng Anh. Tiếng Anh unhappiness là một từ có nghĩa là sự không vui (dùng ít nhất là 3 từ độc lập tiếng Việt), unhappiness lại gồm có tiền tố un- nghĩa là không, happy là vui và -ness là hậu tố thành lập danh từ. Do đó tỉ số hình vị-từ là 3/1 = 3 so với cấu trúc tiếng Việt sự không vui có tỉ số 3/3 = 1. Hãy xem cấu trúc của trạng từ (phó từ/adverb) tiếng Anh slowly (hậu tố -ly hợp với tính từ slow) mà tiếng Việt là chậm: She walks slowly Bà ta đi (bộ) chậm Nhưng ta cũng có thể nói Bà ta đi chầm-chậm, trường hợp này cho thấy từ láy chầm-chậm dùng tương đương với chậm và tỉ số hình vị-từ có thể là 2 hay 1, trong đó chữ chầm không có nghĩa và có thể coi như một phụ tố cùng âm vực với chậm. Trường hợp từ láy ba như sạch-sành-sanh cho thấy tỉ số hình vị-từ là 3/1 = 3 với các chữ sành và sanh không có nghĩa trong cách dùng này (hay chỉ là phụ tố): Đồ tế nhuyễn của riêng tây Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham (Truyện Kiều) Những trường hợp từ láy (hai, ba hay bốn) trong tiếng Việt cho ta khả năng đưa tiếng Việt đến gần ngôn ngữ loại chắp dính hay hòa kết và do đó các nguyên tắc hòa đồng âm thanh được thể hiện rất rõ nét. Khuynh hướng đồng hóa âm thanh trong tiếng Việt cho thấy cách phân loại ngôn ngữ thành đơn lập hay chắp dính không hoàn toàn chính xác - xem các dữ kiện từ các ngôn ngữ trên thế giới (như trường hợp sở hữu possessive ...) tranghttp://wals.info/ . Khuynh hướng đồng hóa âm thanh dựa vào nguyên tắc vật lí tự nhiên (của hệ thống phát âm con người) và có thể xẩy ra trong tiếng Việt là điều không làm cho ta ngạc nhiên. Linh Mục Léopold Cadière (1869-1955) đã từng nhận xét3 về hiện tượng chắp dính (agglutination) trong tiếng Việt, dù ông cho rằng rất ‘là lạ’ so cho loại ngôn ngữ đơn âm. Trường hợp này xẩy ra cho phụ âm cuối t (đầu lưỡi, tắc) như khi một số người Việt phát âm một họ giống như một sọ, nhứt hạng trở thành nhứt sạng. Ta thử tìm hiểu khuynh hướng biến đổi cũng như thêm bớt phụ âm để phù hợp với môi trường âm thanh chung quanh cho dễ phát âm hơn (đọc/nói thuận và nhanh hơn), bắt đầu bằng từ láy đôi trong tiếng Việt. 3. Giải thích một loại cấu trúc từ láy đôi 3.1 Trường hợp từ láy "phưng phức" Xem chữ phức 馥 (thanh mẫu tịnh 並 vận mẫu ốc 屋 nhập thanh, khai khẩu tam đẳng), có các cách đọc theo phiên thiết 房六切,音伏 phòng lục thiết, âm phục (TVGT, QV, TV, LT, VH, CV, TTTH) 符逼切 phù bức thiết (QV) 房六反 phòng lục phản (LKTG) 芳福符逼二反 phương phúc phù bức nhị phản (LKTG) 反福扶福二切 phản phúc phù phúc nhị thiết (NT, TTTH) 弼力切,音愎。義同 bật lực thiết, âm phức - nghĩa đồng (TV, LT) 拍逼切,音堛 phách bức thiết, âm bức (TV, LT) 音復 âm phục (TNTTĐTA 精嚴新集大藏音) 方六切,音福 phương lục thiết, âm phúc (CV, TVi) CV ghi cùng vần 福 腹 複 復 輹 副 葍 楅 輻 幅 覆 蝮 鍑 馥 蝠 (phúc phức phục phó bức) 非律切 phi luật thiết (TVi) 方六切,音復 phương lục thiết, âm phục (CTT, TViB) 音拂 âm phất (CTT) ...v.v... Giọng BK bây giờ là fù bì so với giọng Quảng Đông fuk1 fuk6 và các giọng Mân Nam 客家话:[海陆丰腔] fuk8 fuk7 put7 [陆丰腔] fuk7 [梅县腔] fuk8 [客语拼音字汇] fug5 [宝安腔] fuk8 [客英字典] buk7 [台湾四县腔] fuk8 buk7 put7, giọng Mân Nam/Đài Loan hok8, tiếng Nhật fuku hyoku và tiếng Hàn pok. Phức phức là từ láy toàn phần hàm ý mùi thơm tỏa ra ngào ngạt, đã có từ thời Tô Vũ (140 - 60 TCN) trong thơ "Biệt Hữu" 别友: 燭燭晨明月, 馥馥秋蘭芳 Chúc chúc thần minh nguyệt Phức phức thu lan phương ... Từ láy toàn phần phức phức đã có trong các tác phẩm Nôm9 cổ như Tây tử điểm thôi hương phức phức (Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập) Mùi hương phức phức phàm trần đã khônog (Thiền Tông Bản Hạnh) ... Tiếng Việt còn dùng từ láy phưng phức4: khác dạng phức phức vì phụ âm cuối tắc -c của chữ phức đầu đã tha hóa, và thay vào đó là phụ âm cuối lưỡi/hữu thanh -g sau đó trở thành ŋ (ng) vì tiếng Việt không có dạng *phưg. Ngoài ra, phụ âm mũi n với luồng hơi qua mũi tạo sự liên tục (cầu nối) giữa hai âm phư và phức - đây là khuynh hướng ĐH2 xẩy ra trong âm vực cao: phức > phức phức > *phưg phức > phưng phức (cùng âm vực cao) VBL ghi hai cách dùng phưng phức và phức phức - trang 608) Ta cũng có các từ láy liên hệ như ưng ức, tưng tức ... So với cấu trúc tương tự cho âm vực thấp như phừng phực ... hừng hực ... sừng sực ...v.v... Các phụ âm mũi m/n/ng/nh là một cầu nối làm các âm tiết phát ra trở thành liên tục hơn - đây là một đặc tính của ngôn ngữ nói chung khi ta ngâm (thơ) hay ngân (hát) và tạo thêm tính chất biểu cảm của âm phát ra - bản chất của các phụ âm tắc k/p/t khó mà tạo ra hiệu quả như vậy! Ngoài trường hợp lắp láy nguyên âm ư, ta cũng có thể áp dụng nguyên tắc HĐ2 cho các từ láy với nguyên âm a như tan tác, nguyên âm e như eng éc, nguyên âm ô như mồn một ...v.v... Để ý rằng quá trình hữu thanh hóa5 các phụ âm cuối tắc c/p/t để cho ra dạng -ng, nhưng cũng có thể cho ra dạng -nh như bịch bịch > bình bịch ~ phình phịch (tiếng Việt không dùng các dạng *bìng, *phìng). Trang 762 VBL ghi dạng thịc thịc so với thịch thịch > thình thịch (thường gặp hơn). 3.2 Trường hợp từ láy "ròng rọc" Từ láy ròng rọc phản ánh kết quả của hai nguyên tắc ĐH1 và ĐH2 đã nói trên: căn tố (chính tố/root) là rọc với các biến thể như rọc rọc, róc rách, ròng rọc là lộc lô (HV), lộc lộc (HV) và lốc cốc. Tra lại các tài liệu tiếng Việt trước đây ta thấy Trang 420, tự điển Việt Bồ La (1651). Tiếng La Tinh trochlea là ròng rọc (để ý tiếng Bồ Đào Nha là roldana trong cả ba trường hợp dùng trong VBL) Trang 641, tự điển Việt Bồ La (1651) - tiếng La Tinh rotula là một bánh (xe) nhỏ/a small wheel Từ láy toàn phần rọc rọc đã có trong các tác phẩm Nôm cổ như Lộc lô rọc rọc khéo làm (Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa) ... Trang 680-681, tự điển Việt Bồ La (1651) Trang 313 " Annamite-français & grammaire" của Gabriel Aubaret (1867) Rọc rọc hiện diện từ thời VBL (1651), Béhaine (1772), Taberd (1838) ... đến thời Đại Nam Quấc Âm Tự Vị (Huỳnh Tịnh Của, 1895), thời Việt Nam Tự Điển (1932/1854) cũng ghi là rọc rọc, nhưng cũng thường gọi là ròng rọc. Trương Vĩnh Ký6 ghi poulie là róc-rách (1884). Rọc tiếng Thái là rôk รอก , tiếng Khme là rok, tiếng Tày–Nùng7 lôc là guồng nước so với chữ hiếm lộc/lục 樚 (Unicode 6A1A) có các cách đọc theo phiên thiết 盧谷切,音六 lô cốc thiết, âm lục (TV, VH, LT, LT) 徒谷切。同櫝 đồ cốc thiết, đồng độc (NT) - TViB ghi âm độc 音獨 力竹切,音六 lực trúc thiết, âm lục (CTT) 音鹿 âm lộc (TĐTAT 重訂直音篇) ...v.v... Giọng BK bây giờ là lù so với giọng Quảng Đông luk6 và các giọng Mân Nam 客家话:[梅县腔] luk8 [台湾四县腔] luk8 luk7 [客英字典] luk8 [海陆丰腔] luk8 luk7, tiếng Nhật là roku toku doku. Róc rách bây giờ có nghĩa là tiếng nước chảy (nước suối chảy róc rách ...). Theo nguyên tắc ĐH2, rọc rọc trở thành ròng rọc: rọc > rọc rọc > *rog rọc > ròng rọc (cùng âm vực thấp) Tương ứng với cấu trúc ròng rọc (âm vực thấp) ta có òng ọc, nòng nọc, chòng chọc, xòng xọc, sòng sọc ... So với (âm vực cao) long lóc, cong cóc, xong xóc ...v.v... Từ láy ròng rọc cho thấy căn tố rọc (*lộc) đã từng láy toàn phần (rọc rọc), sau đó trở thành từ láy bộ phận (ròng rọc) cho đến ngày nay, cũng như trường hợp từ láy phưng phức. Có nhiều cách viết chữ Hán để ký âm rọc: như lộc bộ mộc như đã nói ở phần trên (hàm ý ròng rọc làm bằng cây) hay lộc bộ xa8 hợp với chữ lộc 轆 (tần số dùng cao nhấttrong nhóm, 178 trên 175865108), lộc bộ thủ hợp với chữ lộc 摝 (tần số dùng 19 trên 171894734) ... Hay lô viết bằng bộ xa hợp với chữ lô 轤 (tần số dùng 96 trên 173881764). Ròng rọc còn gọi là lộc lô 轆轤 (một dạng từ láy). Điều đáng chú ý là từ láy HV toàn phần lộc lộc 轆轆 chỉ tiếng ồn (của xe chạy), tương ứng với các dạng lộc cộc, lọc cọc hay lốc cốc, lóc cóc tiếng Việt; điểm khác biệt là dạng từ láy tiếng Việt đã thể hiện kết quả của nguyên tắc đồng hóa âm thanh (ĐH1): phụ âm cuối -c của lốc đã biến đổi phụ âm đầu l- của lốc thành –c (cốc). 3.3 Trường hợp từ láy "nơm nớp" Nớp là sợ, khiếp (nớp lòng, VBL trang 571) - một dạng chữ Nôm dùng chữ nạp HV 納 - thí dụ các cách dùng9 xưa: Oán người nớp nớp những âu người (Nguyễn Trãi/Ức Trai Thi Tập) Nớp nớp thửa run sợ (Thi Kinh giải âm) Đứa cuồng còn sợ nớp nớp (Thi Kinh giải âm) Kẻ sĩ lành lo nớp nớp (Thi Kinh giải âm) ...v.v... Từ láy nớp nớp sau này trở thành nơm nớp qua quá trình hữu thanh hóa và chuyển âm vực: nớp nớp > *nớm nớp > nơm nớp (cùng âm vực cao) - khuynh hướng ĐH2 Tương tự như trên, vặc chữ Nôm dùng chữ 域 vực HV, và vặc vặc là từ láy toàn phần hàm ý sáng rực: Lòng bạn trăng vặc vặc cao (Nguyễn Trãi) Nước uống nguồn Tào vặc vặc lặng thanh (Thiên Tông Bản Hạnh) Cung xanh vặc vặc ngọc âm từ rày (Thiên Nam Ngữ Lục) ...v.v... Hiện nay, ta thường nghe cách dùng vằng vặc hơn so với vặc vặc (trăng sáng vằng vặc), đây là kết quả trực tiếp của quá trình ĐH2: vặc vặc > *văg vặc > vằng vặc (cùng âm vực thấp) 4. Phất phới hay phấp phới Phất phới được dùng như trạng từ hay động từ như "cờ bay phất phới", tuy nhiên dạng phấp phới cũng hiện diện và tần số dùng nhiều hơn trong sách vở và báo chí. Đây là kết quả của khuynh hướng đồng hóa âm thanh (ĐH1) như đã viết bên trên. Phất HV 拂 có nghĩa là phẩy, phủi như trong cách dùng phất trần (quét bụi)/phất y (giũ áo); một dạng biến âm của phất10 là phớt như "phớt qua" ...v.v... Phất phất 拂拂 là từ láy toàn phần dùng từ thời Đường (Ngô Dung 吳融). Khuynh hướng ĐH1 cũng từng xẩy ra từ thời VBL, như thấp thoảng có người đọc là thất thoảng (VBL trang 773). Dạng phấp 法 trong phấp phới 法派cũng từng hiện diện trong một số tác phẩm Nôm9 như Chỉn thấy cái hạc dâm liệng trên không, phấp phới mà múa (Truyền Kỳ Mạn Lục) Cờ mây phấp phới soi sáng bãi sông (Truyền Kỳ Mạn Lục) Lốm đốm sao thưa phấp phới sương thưa (Sơ Kính Tân Trang/Phạm Thái) Bốn mảnh quần hồng bay phất phới (Hồ Xuân Hương) ... 5. Khám phá và khám bệnh Tiếng Việt hiện đại có cách dùng xâm bổ lượng (từ Hán Việt là thanh bố lương/lượng 清補涼 một món giải khát phổ thông ở Quảng Đông, Quảng Tây, Hương Cảng, Áo Môn, Hải Nam và Việt Nam) - thanh HV đọc là xanh, phụ âm cuối -nh bị môi hóa trở thành *xâm vì đứng trước âm môi b- (bổ). Đây là khuynh hướng đồng hóa phụ âm trong khẩu ngữ theo nguyên tắc ĐH1. Ngoài xâm bổ lương, ta còn có thể khảo sát thêm những trường hợp tương tự là khám phá và khám bệnh: các nhóm từ HV này rất đặc biệt vì đã từng hiện diện với cách dùng khán phá và khán bệnh (trong tiếng Hán). Các dạng biến âm dễ xẩy ra trong khẩu ngữ vì không bị giới hạn bởi chữ viết (chữ Nho). 5.1 Khám phá Chữ khám 勘 (thanh mẫu khê 溪 vận mẫu đàm 覃 khứ thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết 苦紺切,堪去聲 khổ cám thiết, kham khứ thanh (TVGT, NT, ĐV, QV, TV, VH, CV, TVi, TTTH) 枯含切,音堪 khô hàm thiết, âm kham (TV, LT) - bình thanh 口含切 khẩu hàm thiết (CTT) ...v.v... Giọng BK bây giờ là kān kàn so với giọng Quảng Đông ham1 ham2 và các giọng Mân Nam 客家话:[梅县腔] kam1 kam5 [宝安腔] kam5 [客英字典] kam5 [海陆丰腔] kam1 kam5 [客语拼音字汇] kam3 [台湾四县腔] kam1 kam5 [东莞腔] kam5 潮州话:kam3 (khàm) 「澄海」kang3, giọng Mân Nam/Đài Loan kham1, tiếng Nhật kan và tiếng Han kam. Dạng khám tiếng Việt (khứ thanh) cho thấy khả năng hiện diện trước thời Tập Vận (1037/1067) và Loại Thiên (1039/1066) - thời VBL còn ghi dạng khấm (khấm việc, quan đi khấm). Điều này giải thích được tại sao khám được dùng tự do (free morpheme) cũng như trong các từ Hán Việt khác như khám phá, khám nghiệm ... Nếu tiếng Việt và các giọng địa phương miền Nam TQ còn duy trì âm cổ hơn kham, thì tiếng TQ bây giờ đã đọc khác hơn: phụ âm cuối -m đã trở thành -n nên đọc khám thành kān hay kàn; các cách đọc này cũng chính là cách đọc chữ khán11 看 bây giờ. Cách dùng khám phá và khán phá đã hiện diện từ thời Tống, các tài liệu12 cho thấy khán phá dùng trước khám phá: "看破空花塵世,放輕昨夢浮名" khán phá không hoa trần thế, phóng khinh tạc mộng phù danh (Lục Du 1125-1210, "Phá Trận Tử") "死生已勘破,身世如遺忘" tử sanh dĩ khám phá, thân thế như di vong (Văn Thiên Tường 1236-1283, "Thất Nguyệt Chi Nhật Đại Vũ Ca") 【勘破】犹看破 [khám phá] do khán phá (Hán Ngữ Đại Tự Điển) - còn được ghi nhận9 lại trong từ điển trên mạng nhưhttp://www.zdic.net/c/8/6b/103335.htm Một cách giải thích sự xuất hiện của động từ khám phá là khuynh hướng đồng hóa phụ âm (ĐH1): phụ âm cuối -n (khán) đã trở thành phụ âm môi -m (khám) để phù hợp với phụ âm môi ph- (phá) đứng ngay sau đó. Điều này có thể xẩy ra khi trước khi phụ âm -m trở thành -n trong tiếng Hán trung cổ, cho ra cách đọc giống nhau về sau của khám và khán (kàn BK bây giờ). Người Trung Quốc cũng nêu ra thắc mắc về cách dùng khám phá hay khán phá (đều đọc là kàn pò BK bây giờ), tuy nhiên không thấy được vấn đề rõ hơn so với người VN vì cả hai dạng đều hiện diện trong tiếng (Hán) Việt cho đến nay. Tiếng Việt bây giờ hiểu "khám tai" (đi bác sĩ để khám tai) rất khác với khám tai 勘災 có nghĩa là tra xét sự tình (tai nạn nào đó) trong tiếng Hán! 5.2 Khám bệnh Các từ điển Génibrel (1898/SaiGon), Vallot (1898/HaNoi), Bonet (1899), Aubaret (1867), Béhaine (1772), Taberd (1838), VBL (1651) đều không ghi các cách dùng khán bệnh 看病 hay khám bệnh 勘病; Huỳnh Tịnh Của ghi coi bệnh (1895) và Gouzien (1897) có ghi khám bệnh, cho thấy cách dùng này đã hiện diện trong khẩu ngữ: Manuel franco-tonkinois de conversation spécialement à l'usage du médecin, précédé d'un exposé des règles de l'intonation et de la prononciation annamites, TG Paul Gouzien (1897) Tương quan khám và khán còn thấy trong cách dùng từ ghép trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị/ĐNQATV (Huỳnh Tịnh Của, 1895) Khám khán 勘看 Xét xem (trang 478, ĐNQATV - Tome I) Không thấy các tài liệu TQ dùng khám bệnh như trong tiếng Việt, theo học giả Đào Duy Anh trong Hán Việt Tự Điển/HVTĐ (1931) thì chỉ có khán bệnh (không có khám bệnh, so với khám nghiệm); Gustave Hue ("Dictionnaire vietnamien chinois francais", 1937) thì ghi cả hai cách dùng khám bệnh và khán bệnh (cùng một nghĩa examiner une maladie), theo Nguyễn Văn Khôn (HVTĐ, 1960) thì có khán bệnh (không có khám bệnh). Chị Bùi Thị Duyên Hà13, trong một bản báo cáo mới đây (2012) có nêu lên khả năng lẫn lộn trong cách đọc khám và khán. Trường hợp khám bệnh có thể giải thích bằng khả năng đồng hóa phụ âm ĐH1: phụ âm mũi -n trong khán bệnh đã trở thành phụ âm môi -m để phù hợp với phụ âm môi (âm mũi) b- của bệnh. Tóm lại, dựa vào nguyên tắc đồng hóa âm thanh rất tự nhiên trong ngôn ngữ, ta có thể giải thích phần nào các hiện tượng lắp láy như phưng phức, ròng rọc, nơm nớp, vằng vặc (láy bộ phận). Ngoài ra, dựa vào khuynh hướng đọc cho dễ (qua cách đồng hóa các phụ âm gần nhau) mà ta có cơ sở giải thích các cách dùng rất đặc biệt như phấp phới, khám phá/khán phá và khám bệnh/khán bệnh trong tiếng Việt và Hán Việt. 6. Phụ chú và phê bình thêm Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Chi tiết về cấu trúc từ láy trong tiếng Việt có thể đọc trong "Từ láy - những vấn đề còn để ngỏ" NXB Khoa Học Xã Hội - Trung Tâm Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Quốc Gia/Viện Ngôn Ngữ Học (Hà Nội, 1998) trang 170-172, "Từ tiếng Việt - Hình thái, Cấu trúc, Từ láy, Từ ghép, Chuyển loại" NXB Khoa Học Xã Hội, Viện Ngôn Ngữ Học, Hoàng Văn Hành (Chủ biên) - Hà Nội (1998) trang 79, "Cơ sở Ngôn Ngữ Học và tiếng Việt" NXB Giáo Dục, Mai Ngọc Chừ/Vũ Đức Nghiệu/Hoàng Trọng Phiến - Hà Nội (tái bản lần thứ sáu, 2005) trang 117, trang 147 ..., "Từ vựng học tiếng Việt" Nguyễn Thiện Giáp - NXB Giáo Dục (Hà Nội, 2002) trang 89, "Dẫn luận Ngôn Ngữ học" Nguyễn Thiện Giáp (Chủ biên)/Đoàn Thiện Thuật/Nguyễn Minh Thuyết - NXB Giáo Dục (Hà Nội, 2006) trang 200-201. Nguyễn Đức Tồn ghi nhận một số vấn đề về cấu trúc từ láy trong tiếng Việt qua các bài viết "Về các phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt nhìn từ góc độ nhận thức và bản thể" đăng trong tạp chí Ngôn Ngữ (2011 - Số 8(267) trang 1-10), hay có thể xem trên mạng trang này www.tgn.edu.vn/bai-viet/c45/i51/ve-cac-phuong-thuc-cau-tao-tu-trong-tieng-viet-nhin-tu-goc-do-nhan-thuc-va-ban-the-.html ...v.v... Thanh điệu cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình hình thành tiếng Việt hiện đại. Thí dụ như cách dùng nước miếng, tiếng Khme là tức mót (nước miệng), tiếng Chăm là ia pabah (nước miệng), tiếng Chao Bon (Nyah Kur) là dáak páang (nước miệng), tiếng Mông (H'Mong) là kuz ndâux (ndâux là miệng), tiếng Gia-Rai là ia bah (bô là miệng) ... Ngoài ra một dạng chữ Nôm dùng ? chỉ miệng cũng như miếng (nước miếng), do đó ta có cơ sở để đề nghị nước miếng là nước miệng, nhưng đã bị ảnh hưởng của thanh sắc (nước) để cho ra dạng nước miếng hiện nay. Cá đuối từng là cá đuôi (VBL - hàm ý cá có đuôi đặc thù), thợ nê (nê 泥 là bùn, bôi/trát) trở thành thợ nề (cùng âm vực thấp), chúng cư và chung cư ...v.v... Tuy nhiên, bài viết này không bàn đến ảnh hưởng của thanh điệu trong hiện tượng đồng hoá phụ âm. 1) Khuynh hướng đồng hóa phụ âm, có thể theo chiều xuôi (như s trở thành z trong lúc đọc observe tiếng Anh), gọi là lagging assimilation. Khả năng đồng hóa phụ âm có thể ngược lại (như b trở thành p trong lúc đọc observer tiếng Pháp) gọi là leading assimilation, có tác giả gọi là progressive assimilation (ĐH1 xuôi) so với regressive assimilation (ĐH1 ngược). Đây là những khuynh hướng đồng hóa trực tiếp (direct assimilation) vì các âm kề nhau mà ta dễ nhận ra hơn, so với ảnh hưởng gián tiếp (indirect assimilation) của nguyên âm trước và sau cũng như thanh điệu của các từ này. Các hiện tượng trên có khả năng cho ra nhiều kết quả thú vị nhưng không nằm trong phạm vi bài này. 2) David Crystal, 1987 "The Cambridge Encyclopedia of language" NXB Cambridge University Press Cambridge, Anh Quốc). Một tỉ số cũng được dùng để khảo sát các loại hình ngôn ngữ là tỉ số tổng hợp (index of synthesis) hay số (lượng) hình vị chia cho số (lượng) từ; thí dụ như câu "The boys saw the girl" có 5 từ nhưng có 8 hình vị trong tiếng Anh, tỉ số tổng hợp là 8/5 = 1.6, trung bình của tỉ số này cho tiếng Anh là 1.68 so với tỉ số (trung bình) của tiếng Việt là 1.06, tiếng Ba Tư là 1.52, tiếng Phạn là 2.59, tiếng Anh Cổ (Old English) là 2.12 và tiếng Eskimo là 3.72. Bạn đọc có thể tham khảo thêm chi tiết về cách phân tích định lượng này của nhà ngôn ngữ học Joseph Greenberg (1960) trang này chẳng hạn ngonngu.net/index.php?m=print&p=2303) Léopold Michel Cadière, 1905 "Phonétique annamite (dialecte du Haut-Annam)" Ecole française d'Extrême-Orient,Volume 3 of Publications de l'Ecole française d'Extreme-Orient (113 trang). Linh Mục Cadière nhận xét rằng trường hợp phụ âm cuối một chữ bị ảnh hưởng của phụ âm đầu của chữ sau đó (khi phát âm một họ thành một sọ) : "C'est un cas curieux d'agglutination ..." (tạm dịch: đây là trường hợp kỳ lạ của hiện tượng chắp dính ..." (trang 56). 4) Các tài liệu Hán cổ có ghi các tổ hợp phương phức 芳馥, phân phức 芳馥 đều hàm ý hương thơm ngào ngạt (phân hương 芳香). Chữ phương bộ thảo khó giải thích liên hệ với phưng so với tương quan phương 方 và vuông, tuy rằng cùng âm vực và cũng có tương ứng giữa khương và gừng, cương và cứng ... Ngoài ra, phới cũng có thể dùng làm từ láy toàn phần phới phới như trong VBL (trang 603) và các tác phẩm Nôm Tám bức quần hồng bay phới phới (Hồng Đức Quốc Âm Thi Tập) Lòng mừng phới phới nhẹ tăm tăm (Bạch Vân Am Thi Tập/Nguyễn Bỉnh Khiêm) ... 5) Một cách nhìn khác dựa vào tính chất trong-đục của tiếng Việt: đặc tính hữu thanh của nguyên chuỗi âm thanh lạng so với lạc, láng so với lác (vô thanh ở phần cuối -c). Xem thêm "Ngữ âm tiếng Việt" Đoàn Thiên Thuật, NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội (tái bản năm 2007), trang 139-140. Cao Xuân Hạo cũng nhắc đến hiện tượng láy HĐ2, cho thấy khả năng phân biệt "không đúng các thành phần của cấu trúc âm tiết" trong lý thuyết ngôn ngữ truyền thống, ông nêu ra quy tắc cấu tạo L.01 cho loại từ láy này - trang 79-87 (bài viết vào 8/1957 - 12/1997, đăng trong cuốn "Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa" NXB Giáo Dục - tái bản lần thứ hai - Thành Phố HCM). 6) Hoàng Văn Ma-Lục Văn Pảo-Hoàng Chí, 1974 "Từ điển Tày-Nùng-Việt" NXB Khoa Học Xã Hội (Hà Nội) 7) J.B. Petrus Trương Vĩnh Ký, 1884 "Petit Dictionnaire francais annamite" Imprimerie de la Mission, à Tân-Định (SaiGon) 8) Chữ lộc 轆 (thanh mẫu lai 來 vận mẫu ốc 屋 nhập thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết 盧谷切,音鹿 lô cốc thiết, âm lộc (QV, TV, VH, CV, LT, TVi) - TVi ghi âm lục 音六 力木反 lực mộc phản (NTLQ 玉篇零卷) 音鹿 âm lộc (LKTG) 力木切 lực mộc thiết (NT) 徒谷切 đồ cốc thiết (NT, TV, LT) 徒谷乀 đồ cốc phật (TNTTĐTA 精嚴新集大藏音) CV ghi cùng vần 祿 漉 淥 盝 簏 琭 簶 麓 碌 鹿 轆 錄 睩 甪 摝 騼 六 陸 稑 穋 蓼 戮 僇 勠 籙 綠 醁 騄 菉 (lộc lục liệu) 力竹切,音祿 lực trúc thiết, âm lộc (CTT) ...v.v... Giọng BK bây giờ là lù so với giọng Quảng Đông luk1 luk6 và các giọng Mân Nam 客家话:[海陆丰腔] luk8 [宝安腔] luk7 [台湾四县腔] luk8 [客英字典] luk8 [梅县腔] luk8 [客语拼音字汇] lug5, tiếng Nhật là roku và tiếng Hàn lok. Ròng rọc tiếng Trung (Quốc) bây giờ là hoạt xa 滑車 hay hoạt luân 滑輪 (tiếng Nhật là kassha, tiếng Hàn là hwal'cha cùng một gốc so với dạng mượn từ tiếng Anh pūrī và pulli) - còn lộc (lộc lô) là từ Hán cổ và được Chỉ Nam Ngọc Âm Giải Nghĩa ghi là "Lộc lô rọc rọc khéo làm". Một dạng chữ Nôm của rọc là lục/lộc HV 淥, tương quan lộc và rọc có thể nhận ra qua các cặp long rồng 蠬 瀧, lọc lộc 漉 ... 9) Nguyễn Quang Hồng (Chủ biên) "Tự Điển chữ Nôm" NXB Giáo Dục - Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam (Hà Nội, 2006) 10) Chữ phất 拂 (thanh mẫu bàng 滂 vận mẫu vật 物 nhập thanh, hợp khẩu tam đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết 敷勿切,音髴 phu vật thiết, âm phất (TVGT, ĐV, QV, TV, VH, CV, TVi, CTT) - TVi/CTT ghi âm phất 音弗 符勿切,音佛 phù vật thiết, âm phật (TV, VH) 薄密切。與弼同 bạc mật thiết - dữ bật đồng (TV, LT, VH, CV) 芳勿反 phương vật phản (LKTG) 孚勿翻 phu vật phiên (BH 佩觿) 無勿切 vô vật thiết (NT) 普密切,讀與匹近 phổ mật thiết, độc dữ thất cận (TV) - thất đọc là pǐ (giọng BK bây giờ) 父沸切 phụ phất thiết (TV, LT) 方味切 phương vị thiết (TVi) 方未切,音沸 phương vị thiết, âm phí (LT, KH) 非乙切 phi ất thiết (TViB) ...v.v... Giọng BK bây giờ là fú pǐ so với giọng Quảng Đông fat1 bat6 faak1 và các giọng Mân Nam 客家话:[台湾四县腔] fut7 fit8 fin5 [客语拼音字汇] f*g5 fid5 fid6 fud5 fug5 [海陆丰腔] fut7 fit8 fin5 [梅县腔] fut7 [陆丰腔] fut7 [客英字典] fut7 [宝安腔] fut7 fin5, giọng Mân Nam/Đài Loan hut1, tiếng Nhật futsu hotsu hitsu và tiếng Hàn pwul phil. 11) Chữ khán 看 (thanh mẫu khê 溪 vận mẫu hàn 寒, bình hay khứ thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết 苦寒切 khổ hàn thiết (TVGT, ĐV, NT, TTTH) 苦干切 khổ can thiết (QV) 苦安切 khổ an thiết (NT, TTTH) 丘寒切,音刊 khâu hàn thiết, âm khan (TV, VH, CV, LT, TG 字鑑, TVi) 苦旰切 khổ cán thiết (ĐV) 墟旰切 khư cán thiết (TV, VH) 袪幹切,刊去聲 khư cán thiết, khan khứ thanh (CV, TVi) - TVi ghi thêm âm khám 音勘 苦堅切,音牽 khổ kiên thiết, âm khiên (KH) 苦甸切,牽去聲 khổ điện thiết, khiên khứ thanh (KH) 丘電切,音牽 khâu điện thiết, âm khiên (TVi) ...v.v... Giọng Bắc Kinh bây giờ là kān, kàn so với giọng Quảng Đông hon1, hon2 và các giọng Mân Nam 客家话:[海陆丰腔] kon5 kon1 [客英字典] kon5 kan1 [台湾四县腔] kon5 kon1 [宝安腔] kon5 [陆丰腔] kon5 [梅县腔] kon5 [沙头角腔] kon5 [东莞腔] kon5 [客语拼音字汇] kon4. Để ý là đến thời TVi (Tự Vị/1615) thì hai âm khán và khám đã đọc giống nhau (so với giọng BK kàn bây giờ của khán và khám). Âm HV vẫn bảo lưu hai vần -ám và -án khác nhau (trước thời TVi) của khám và khán. 12) Xem thêm chi tiết trong "Hán Ngữ Đại Tự Điển" (1986) ... hay "Khang Hi Tự Điển" (1716) trang này chẳng hạn www.zdic.net/c/b/149/321204.htm13) Bùi Thị Duyên Hà (Hải?), 2012 "Biến thể Hán Việt trong tiếng Việt" đăng trong kỷ yếu hội thảo 'Nghiên Cứu và Giảng Dạy Việt Nam Học và tiếng Việt' trang 62-74 - NXB Tổng Hợp Thành Phố HCM. Có thể xem toàn bài trang này www.vns.edu.vn/vns/images/stories/Bai_NCKH/13_BuiThiDuyenHai/2_buithiduyenhai.pdf
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 9, 2016 5:38:56 GMT 9
Huyền Tráng, Huyền Tảng hay Huyền Trang? Hiện tượng đồng hóa âm thanh (phần 2) Nguyễn Cung Thông nguyencungthong@yahoo.com So sánh cách đọc Hán Việt (HV) với các cách đọc từ vận thư ("chính thống") của Trung Quốc (TQ) cho ta nhiều kết quả thú vị. Có những trường hợp khác biệt đã xẩy ra và có thể do nhiều động lực khác nhau. Chính những khác biệt này là dữ kiện cần thiết để xem lại hệ thống ngữ âm Hán Việt và tiếng Việt để thêm phần chính xác. Bài viết nhỏ này chú trọng đến cách đọc tên nhà sư nổi tiếng của TQ, Huyền1 Trang (khoảng 602–664, viết tắt trong bài này là HT) 玄奘 hay Tam Tạng, có ảnh hưởng không nhỏ cho Phật Giáo TQ, Việt Nam, Nhật và Hàn Quốc. Sư HT đã dịch nhiều bộ kinh và luận Phật giáo từ tiếng Phạn qua tiếng Hán, đưa Phật giáo gần đến nguồn Ấn Độ nguyên thủy hơn so với nhiều kinh dịch sai sót nhưng rất phổ thông vào thời trước (và cho đến ngay cả bây giờ). Các chữ viết tắt trong bài này là BK (Bắc Kinh), TVGT Thuyết Văn Giải Tự (khoảng 100 SCN), NT (Ngọc Thiên/543), ĐV (Đường Vận/751), NKVT (Ngũ Kinh Văn Tự/776), LKTG (Long Kham Thủ Giám/997), QV (Quảng Vận/1008), Tập Vận (TV/1037/1067), CV (Chính Vận/1375), TVi (Tự Vị/1615), VB (Vận Bổ/1100/1154), VH (Vận Hội/1297), LT (Loại Thiên/1039/1066), CTT (Chính Tự Thông/1670), TTTH (Tứ Thanh Thiên Hải), Tự Vị Bổ (TViB/1666), KH (Khang Hi/1716), HNĐTĐ (Hán Ngữ Đại Tự Điển/1986), Thiết Vận (ThV/601), Vận Kinh (VK/1161), VBL (từ điển Việt Bồ La, Dictionarium Annamiticum-Lusitanum-Latinum, Alexandre de Rhodes/1651), td. (thí dụ), sđd (sách đã dẫn). Chỉ số sau một âm tiết là chỉ thanh điệu, không nên nhầm với số phụ chú ghi theo thứ tự trong bài, dấu > (hàm ý biến ra/trở thành). 1. Lấn cấn trong cách đọc Huyền Trang qua chữ quốc ngữ Theo một bài viết2 của Đại Đức TS Thích Giác Hoàng (viết tắt là TGH) thì có vấn đề về cách đọc "Tuy nhiên, gần đây có một vài vị (Thầy Tuệ Sĩ, Sư Giác Nguyên và một số vị nghiên cứu văn học Trung Quốc) phiên âm tên của vị Pháp Sư lâu nay đã quen là Huyền Trang thành Huyền Tráng, làm cho một vài vị hơi bỡ ngỡ không biết đó có phải là đánh máy nhầm không ?". Vấn đề đọc cho chính xác/dễ hiểu và được công nhận danh từ nước ngoài (như trường hợp HT chẳng hạn) không đơn giản, nhất là khi hai nền văn hóa TQ và VN đã ở bên cạnh bao ngàn năm nay.Có nhiều từ gốc phương Nam đã nằm trong vốn từ Hán từ ngàn năm trước, và ngược lại có những từ gốc Hán đã biến đổi nhiều đến nỗi được dùng như một từ thuần Việt mà ít người nhận ra! 1.1 Đào Duy Anh Học giả Đào Duy Anh đọc chữ 奘 là tráng ("mạnh mẽ - thịnh vượng" trang 475, Hán Việt Tự Điển), nhưng trong mục huyền, cụ lại đọc là Trang ("Huyền trang tam tạng" trang 398, Hán Việt Tự Điển). Cuốn sách này in vào năm 1931 (theo "Đề Từ" ở phần đầu, ngày viết là 1/3/1931, Huế). 1.2 Thiều Chửu Học giả Thiều Chửu đọc chữ 奘 là trang, và ghi rõ "1. To lớn 2. Tên người, đời Đường có ngài Huyền-trang pháp-sư" (trang 124, Hán Việt Tự Điển). Cuốn này xuất bản vào năm 1942 (Hà Nội). 1.3 Petit Lexique chinois-annamite-francais (Tây Dương, Hà Nội - 1932) Tác giả đọc chữ 奘 là tảng "Khỏe và lớn - Fort et grand" 1.4 Gustave Hue Học giả Gustave Hue đọc chữ 奘 là tảng và ghi rất rõ "1. Grand et fort. 2. Nom propre: Huyền Tảng: celèbre bonze chinois qui visita les Indes" ("2. Tên riêng: Huyền Tảng - nhà sư TQ nổi tiếng đã từng qua Ấn Độ” - trích trang 874, "Dictionnaire vietnamien - chinois - francais"). Cuốn tự điển Việt Hoa Pháp3 này xuất bản vào năm 1937 - Imprimerie Trung Hòa. Đấy là vào khoảng thập niên 1930, tuy nhiên trước đó hơn 30 năm, vào cuối thế kỷ XIX, ta lại thấy học giả Génibrel đọc chữ 奘 là tảng trang 726 – Génibrel Trích từ "Dictionnaire annamite -francais" - tác giả J. F. M. Génibrel, xuất bản ở Sài Gòn (1898) Các văn bản cho thấy chữ 奘 đã từng đọc là tráng, tảng và cách dùng Huyền Trang có khả năng rất cao là hiện tượng xẩy ra từ đầu thế kỷ XX cho đến nay thì trở thành phổ thông. 2. Các cách đọc chữ 奘 từ tài liệu tiếng Hán Chữ trang 奘 hay 弉 (thanh mẫu tùng/tòng 從 vận mẫu đàng/đường 唐 thượng/khứ thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết 徂朗切 tồ lãng thiết (TVGT, QV) 徂浪切 tồ lãng thiết (QV) 才朗切 tài lãng thiết (TV) 在黨切,藏上聲 tại đảng thiết, tàng thượng thanh (CV, TViB) 才浪切,音葬 tài lãng thiết, âm táng (TV, VH, CV) 祖朗祖浪二反 tổ lãng tổ lãng nhị phản (LKTG) 徂朗翻 tồ lãng phiên (BH 佩觿) 昨朗切 tạc lãng thiết (NT, TTTH) 側亮切 trắc lượng thiết (TV) 才朗乀 tài lãng phật (TNTTĐTA 精嚴新集大藏音) CV ghi cùng vần/khứ thanh 藏 臧 臟 奘 (tàng tang tạng trang) - CV ghi thượng thanh và khứ thanh 昨朗切,藏上聲tạc lãng thiết, tàng thượng thanh (TVi, CTT) ...v.v... Giọng BK bây giờ là zàng zhuǎng so với giọng Quảng Đông zong1 zong6 và các giọng Mân Nam 客家话:[梅县腔] zong5 [台湾四县腔] zong5 [客英字典] zong5 [宝安腔] zong1 [客语拼音字汇] zong1 [海陆丰腔] zong5 潮州话:zang3(tsàng) zuang1(tsuang), giọng Mân Nam/Đài Loan chong7, tiếng Nhật jou sou zou và tiếng Hàn cang. Đoàn Ngọc Tài (1735-1815) trong Thuyết Văn Giải Tự Chú ghi nhận 奘與壯音同 trang dữ tráng âm đồng Bộ đại của chữ trang 奘 có thể viết bên phải (dưới chữ sĩ) và thêm một nét (chữ khuyển - xem Tập Vận - chữ này rất hiếm) với nghĩa tiêu cực "vọng cường khuyển", có cách đọc là 側羊切 trắc dương thiết (TV) - bình thanh. Đây là vết tích xưa nhất cho thấy khả năng đọc là trang (bình thanh) của tráng trong TV (1037/1067), đây cũng là cách đọc của chữ trang bộ thảo 莊 (trong cách dùng trang nghiêm, trang trọng, khang trang ...). 3. Tại sao lại có các khả năng đọc khác nhau của trang? Từ bảng liệt kê các cách đọc/phiên thiết bên trên, ta thấy ngay Huyền Tảng và Huyền Tráng là gần với âm nguyên thủy hơn (thượng/khứ thanh). Hai chữ trang bộ đại (trong Huyền Trang) và trang bộ thảo (trong trang trọng) đều dựa vào thanh phù tráng 壯 (mạnh mẽ, trong cường tráng). Một âm cổ phục nguyên (reconstructed sound) của trang bộ đại 奘 là *dzaŋ, giải thích tại sao tiếng Việt dùng phụ âm đầu *tr (phụ âm đầu lưỡi/quặt) so với phụ âm đầu t- (đầu lưỡi/vô thanh/bật). Tiếng Trung (Quốc) hiện nay vẫn còn vết tích hai loại phụ âm này qua cách đọc BK (theo pinyin) zàng zhuǎng. Nguyên nhân của các cách đọc khác nhau trong tiếng Việt có thể là 3.1 Đọc sai Đọc chệch tên người nước ngoài trong tiếng Việt hầu như là một kết quả tự nhiên, tuy nhiên cần phải xác định khi nào sự khác biệt là sai hay đúng và dựa trên tiêu chuẩn nào. Ngôn ngữ thay đổi theo thời gian (lịch đại - td. âm thượng cổ và trung cổ) và không gian (đồng đại - td. phương ngữ), thể hiện qua các bảng liệt kê cách đọc của chữ trang (tráng, tảng, táng, tãng ...) và thổ (đỗ, đổ, đồ ...). Khả năng thay đổi đa chiều một cách sống động là một đặc trưng của ngôn ngữ con người, phản ánh qua các bảng liệt kê cách đọc trong bài viết này. 3.2 Ảnh hưởng của phạm trù nghĩa Tên tiếng Việt thường dựa vào chữ Hán (âm HV) và có vẻ thâm trầm/"bác học" như Hoa, Dũng, Đạt, Hiền ... So với các tên khác như Đen, Bông, Cu … Nên Tráng có thể cho ta liên tưởng đến các ý tích cực như trang (trang trọng) hay trang (trang hoàng), đặc biệt khi là tên của một vị cao tăng nổi tiếng trong lịch sử hình thành Phật giáo ở Á Châu. Tuy nhiên, không thấy văn bản nào ghi trang bộ đại bằng những chữ trang khác dựa vào bộ thảo (trang trọng), bộ y (trang hoàng) ...v.v... 3.3 Ảnh hưởng của thanh phù tráng/trang 壯 Tráng 壯 có thể là tên riêng, như nhà cách mạng Đinh Công Tráng 丁公壯 (1842 - 1887), là thành phần hài thanh trong chữ 奘, theo TVGT 駔大也。从亣从壯,壯亦聲 tảng đại dã, tòng đại tòng tráng, tráng diệc thanh (tảng 駔 là ngựa khỏe mạnh/tuấn mã, chữ 亣 là chữ đại 大 cổ) Vấn đề trở nên thú vị hơn khi hai âm gần nhau là tảng/táng và tráng đều có chung nghĩa, như Phương Ngôn từng ghi nhận 秦晋之间,凡人之大谓之奘,或谓之壮 Tần Tấn chi gian, phàm nhân chi đại vị chi trang, hoặc vị chi tráng Thời VBL (1651), táng chỉ một khối lớn (tảng) như táng chì, táng cột (VBL/trang 723) - so với tảng 磉 là đá kê chân cột - đều hàm ý to lớn. ngoài ra tương quan của sảng/tảng 顙 và trán (tiếng Việt) cũng đáng truy nguyên thêm, nhưng không nằm trong phạm vi bài viết nhỏ này. 3.4 Khả năng kỵ húy Trong lúc bàn về bài viết này, một anh bạn có nhắc đến khả năng kỵ húy: tuy nhiên, người viết vẫn chưa tìm thấy một tài liệu nào cho thấy cách đọc Huyền Trang là tránh tên của một vị cao tăng hay tên vị hoàng tộc nào. Xác suất kỵ húy của tên người nước ngoài trong tiếng Việt lại càng thấp hơn bình thường. 3.5 Khuynh hướng đồng hóa âm thanh Một cách giải thích cách đọc Huyền Trang là khuynh hướng đồng hóa âm thanh phổ thông trong ngôn ngữ con người, hay trong trường hợp bài này là đồng hóa thanh điệu (tone assimilation): Tráng/Tảng trở thàng Trang (không dấu, thanh ngang) cùng âm điệu hay vần bằng với Huyền (dấu huyền). Đây không phải là một thí dụ duy nhất trong tiếng Việt, ta thấy có các cách dùng như Tiếng Việt Cá *đuôi > cá đuối (cá có đặc điểm là đuôi dài ...) Nước *miệng > nước miếng4 ...v.v... Hán Việt Chúng cư > chung cư (trong cách dùng quần chúng, dân chúng, chúng sinh ...) Xa5 cừ > xà cừ Kí Hòa > Kì Hòa Câu kết > cấu kết Điền kính > điền kinh Câu đáng > câu đang/đương Điền kính > điền kinh Khiếu nại > kêu nài Huyền Tảng/Tráng > Huyền Trang ...v.v... 4. Một hệ luận của khuynh hướng đồng hóa thanh điệu Dựa vào khuynh hướng đồng hóa thanh điệu, ta có cơ sở để giải thích một thuật ngữ trong Phật giáo, đó là cách gọi Tịnh Độ (Tịnh Độ tông). Tông Tịnh Độ là một trường phái rất phổ thông của Phật giáo ở Á Châu. Tịnh 淨 khứ thanh nên thổ 土 cũng theo khuynh hướng "đồng hóa âm thanh" (đồng hóa thanh điệu trong các trường hợp này) để đọc thành độ (thay vì đỗ, đổ, đồ). Tịnh Độ đã từng đọc là Tịnh Thổ - Đào Duy Anh (trang 290, sđd) - Gustave Hue (trang 914, sđd), tác giả ghi thêm “Tịnh độ = Tịnh thổ” Bây giờ thì ta thường thấy/nghe cách dùng Tịnh Độ hơn. Xem lại cách đọc chữ thổ 土 (thanh mẫu thấu 透 hay định 定, vận mẫu mô 模 thượng thanh, khai khẩu nhất đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết 它魯切 tha lỗ thiết (TVGT) 他戶達戶二切 tha hộ đạt hộ nhị thiết (NT, TTTH) 他魯切 tha lỗ thiết (ĐV, QV, CV) - QV/TV ghi thượng thanh (B) 統五切, 吐上聲 thống ngũ thiết, thổ thượng thanh (TV, LT, VH) 他古反 tha cổ phản (NKVT 五經文字, TNTTĐTA 精嚴新集大藏音)) 徒古切 đồ cổ thiết (QV, CV, TVi) - TVi ghi âm đỗ 音杜 (C) 動五切,音杜 động ngũ thiết, âm đỗ (TV, LT, VH) 董五切,音覩 đổng ngũ thiết, âm đổ (TV, VH, CV, TVi) (A) 丑下切,音姹 sửu hạ thiết, âm sá (TV, LT) TNAV ghi cùng vần 魚模 ngư mô (thượng thanh) CV ghi cùng vần/thượng thanh 覩 睹 堵 楮 睹 土 賭 (đổ chử thổ)(A) CV ghi cùng vần/thượng thanh 土 吐 稌 (thổ đồ) (B) CV ghi cùng vần/thượng thanh 杜 土 荰 肚 (đỗ thổ) (C) 同都切,音徒 đồng đô thiết, âm đồ (TViB) 他魯切, 兔上聲 tha lỗ thiết, thố thượng thanh (TVi) 他魯切, 徒上聲 tha lỗ thiết, đồ thượng thanh (CTT) ...v.v... Giọng BK bây giờ là tǔ so với giọng Quảng Đông tou2 dou6 và các giọng Mân Nam 客家话:[客语拼音字汇] tu3 [陆丰腔] tu3 [梅县腔] tu3 [东莞腔] tu3 [客英字典] tu3 [宝安腔] tu3 [沙头角腔] tu3 [台湾四县腔] tu3 tu2 [海陆丰腔] tu3 tu2 潮州话:tou2(thóu), giọng Mân Nam/Đài Loan thou2, tiếng Nhật do to và tiếng Hàn tho twu. Các dạng Tịnh Đỗ, Tịnh Đổ, Tịnh Đồ đều không thấy hiện diện so với các dạng Tịnh Thổ và Tịnh Độ - dạng Tịnh Độ là thường gặp hơn cả, nhưng không cho ta liên tưởng ngay đến cõi (chỗ) an lạc như tiếng Phạn sukhavati hay Tịnh Thổ 淨土 (dịch nghĩa gần đúng từ tiếng Phạn). Tóm lại, một cách giải thích cách đọc Huyền Trang có thể là kết quả của quá trình đồng hóa thanh điệu từ tên riêng gốc Hán. Khuynh hướng ảnh hưởng qua lại của các âm gần nhau không phải chỉ xẩy ra trong tiếng Việt, nhưng trong hầu hết các ngôn ngữ loài người. Dựa vào nguyên tắc này, ta có cơ sở giải thích nhiều cách dùng khác trong tiếng Việt và Hán Việt như xà cừ, nước miếng, Tịnh Độ ...v.v... Khuynh hướng đồng hóa thanh điệu cũng cho ra những thể thơ trong ngôn ngữ, làm cho lời nói nghe êm tai hơn đối với người bản địa. 5. Phụ chú và phê bình thêm Phần này không hoàn toàn theo cách ghi tài liệu (Bibliography) tham khảo APA hay MLA vì bao gồm các phê bình thêm về đề tài, tài liệu và tác giả để người đọc có thể tra cứu thêm chi tiết và chính xác. Để cho liên tục, bạn đọc có thể tham khảo thêm bài viết "Tản mạn về tiếng Việt - hiện tượng đồng hoá âm thanh (phần 1)" cùng tác giả (Nguyễn Cung Thông) trên các trang mạng như quangduc.com/a58064/tan-man-ve-tieng-viet-hien-tuong-dong-hoa-am-thanh- hay chimviet.free.fr/baivo/nguyencungthong/ncthong_DongHoaAmThanh01_TiengViet.htm, newvietart.com/index4.2213.html ...v.v... 1) Âm Huyền trong HT không có vấn đề nhiều so với âm Trang. Chữ huyền 玄 (thanh mẫu hạp 匣 vận mẫu tiên 先 bình thanh, hợp khẩu tứ đẳng) có các cách đọc theo phiên thiết 胡涓切,音懸 hồ quyên thiết, âm huyền (TVGT, QV, TV, NT, LT, VH, TTTH, CV) - QV/TV ghi bình thanh 熒絹切 huỳnh quyên thiết (TV, CV) - TV/CV ghi thêm khứ thanh - TVi cũng ghi thêm khứ thanh (âm huyễn 音眩) 呼沿切,音懸 hô duyên thiết, âm huyền (CTT) ...v.v... Giọng BK bây giờ là xuán so với giọng Quảng Đông jyun4 và các giọng Mân Nam 客家话:[海陆丰腔] hien2 [客英字典] hien2 [沙头角腔] hen2 [东莞腔] hen2 [陆丰腔] hian3 [客语拼音字汇] hian2 [台湾四县腔] hien2 [梅县腔] hien2 [宝安腔] hen2 潮州话:hiang5 【潮州】hiêng5 (hîang 旧时:hîen), giọng Mân Nam/Đài Loan hian5, tiếng Nhật gen ken và tiếng Hàn hyen. 2) Thích Giác Hoàng, Phạm Phú Thành (2006) "HUYỀN TRANG, HUYỀN TRÁNG HAY HUYỀN TÃNG?" - có thể xem toàn bài ở trang này www.buddhismtoday.com/viet/khac/huyentrang.htm3) Gustave Hue (1937) "Dictionnaire annamite-chinois-francais" NXB Khai Trí in lại (Sài Gòn - 1971) 4) Xem qua các ngôn ngữ cùng họ và láng giềng với tiếng Việt: tiếng Mường (Bi) còn dùng đác mẽnh (nước miếng, đác là nác/nước, mẽnh là miệng) so với các ngôn ngữ khác như Nyah Kur (Chao Bon, liên hệ đến Môn) ta thấy cách dùng dáak páang (nước miếng, dáak là nước, páang là miệng); tiếng Khme có tức mót (nước miếng, tức là nước, mót là miệng); tiếng Chăm còn dùng ia pabah (nước miếng, ia là nước pabah là miệng) ...v.v... Các dữ kiện này cho ta cơ sỡ vững chắc để liên hệ miếng và miệng. nước *miệng > nước miếng (đồng hóa thanh điệu) Miệng và miếng đều có một dạng chữ Nôm là mãnh 皿 , mãnh là âm Hán Việt (母梗切,音猛 mẫu ngạnh thiết, âm mãnh - Tập Vận) so với âm Hán cổ là *miêng (武永切 vũ vĩnh thiết - Đường Vận). 5) Chữ xa 硨 (thanh mẫu xương 昌 vận mẫu ma 麻 bình thanh, khai khẩu tam đẳng)) có các cách đọc theo phiên thiết 尺遮切 xích già thiết (QV) 昌遮切,音車 xương già thiết, âm xa (TV, CV) ...v.v... Giọng BK bây giờ là chē jū so với giọng Quảng Đông ce1 và các giọng Mân Nam 客家话:[客英字典] cha1 [台湾四县腔] ca1 [梅县腔] cha1 [海陆丰腔] cha1 潮州话:cia1, tiếng Nhật sha và tiếng Hàn cha.
|
|