|
Post by Huu Le on Oct 10, 2007 5:36:22 GMT 9
Mỹ thử thành công hoa tien đánh chặn - 3/10/2007 5h:31 Hôm Oct 3 , báo chi Mỹ đưa tin, Ngu Giac Dai đã tiến hành thử thành công hoa tien đánh chặn thuộc Hệ thống phòng thủ hoa tien quốc gia (NMD) vào ngày 28/9. Tên lửa đánh chặn phóng đi từ căn cứ không quân Vandenberg, California, đã đánh trúng hoa tien địch giả định, được phóng đi từ căn cứ quân sự trên đảo Kodiak, Alaska. Hoa Tien đánh chặn được phóng đi từ căn cứ Vandenberg, California. (Ảnh: MilitaryPhotos) Người phát ngôn Ngu Giac Dai, Chris Taylor cho biết, ngay khi hoa tien tại Alaska được phóng đi, hệ thống ra-đa cảnh báo tên lửa tại căn cứ không quân Beale, California, đã phát hiện được mục tiêu và thực hiện việc dẫn đường cho hoa tien đánh chặn hoạt động. Theo các quan chức quân đội Mỹ, lần thử nghiệm lần này nhằm kiểm tra, đánh giá hệ thống ra-đa cảnh báo hoa tien mới được nâng cấp. Kể từ năm 1999, Ngu Giac Dai đã 12 lần tiến hành thử nghiệm hoa tien đánh chặn thuộc Hệ thống phòng thủ hoa tien quốc gia, trong đó chỉ có 7 lần thành công. Tháng 5 vừa qua. một vụ thử tương tự đã thất bại do hoa tien đánh chặn không tìm được mục tiêu cần phá huỷ. Giá của mỗi vụ thử nghiệm tên lửa kiểu này khoảng 100 triệu USD. Việc nghiên cứu, thử nghiệm và triển khai hệ thống NMD đã được chính phu Bush quyết định đẩy nhanh vào năm 2001. Dự kiến trong vòng 5 năm tới, Ngu Giac Dai sẽ chi khoảng 50 tỷ USD cho việc phát triển các tên lửa đánh chặn thuộc hệ thống NMD. Hiện nay, Mỹ đang định triển khai một phần NMD tại Ba Lan và CH Séc. Tuy nhiên, kế hoạch này đã vấp phải sự phản đối quyết liệt từ Nga do lo ngại xâm phạm an ninh quốc gia.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 10, 2007 10:06:27 GMT 9
Bí mật lịch sử về chiếc tàu ngầm đầu tiên trên thế giới @ 6/1/2007 Nhìn những thế hệ tàu ngầm nguyên tử hiện nay, ít người biết được rằng việc chế tạo con tàu ngầm đầu tiên đã gặp phải không ít khó khăn, trở ngại. Cho đến nay, lịch sử ra đời của nó, gắn liền với cuộc vây hãm New York, chỉ vừa mới được được công bố ... Chiếc tàu ngầm đầu tiên hình...quả trứng và chỉ có một người điều khiển! Chiếc tàu ngầm chiến đấu đầu tiên trên Thế giới ra đời ở Mỹ vào Thế kỷ XVIII, trong thời gian nước này bị quân Anh chiếm đóng. Vào mùa Hè năm 1775, Hải quân Anh phong tỏa rất chặt vịnh New York. Mọi hướng ra, vào cảng đều bị các tàu chiến Anh bịt kín. Chiếc tàu ngầm đầu tiên có hình quả trứng và chỉ có một người điều khiển. (Ảnh: startribune) Đã vài lần, người Mỹ tìm cách phá vòng vây. Vào những đêm khuya, tối trời, quân Mỹ bí mật dùng một số tàu và xuồng máy loại nhỏ vượt biển nhưng không thành công. Những tàu, xuồng này hoặc bị bắn chìm hoặc bị quân Anh bắt sống. Việc tiếp tế, thông thương với bên ngoài của cảng New York lúc ấy đã khó khăn lại càng trở nên khó khăn gấp bội... Đúng vào những lúc khó khăn nhất, kỹ sư hàng hải David Busnell - một học viên xuất sắc vừa tốt nghiệp trường Đại học Tổng hợp Ielsk đã nảy ra ý tưởng chế tạo một chiếc tàu đặc biệt. Chiếc tàu này có thể đi ngầm dưới mặt nước, bí mật mang mìn tiếp cập và đánh chìm các tàu chiến to lớn của Hải quân Anh, giải phóng thành phố. Ý tưởng dù sao cũng chỉ là ý tưởng. Thực tế khi bắt tay vào thiết kế và chế tạo mới gặp nhiều vấn đề phức tạp và khó khăn hơn nhiều. Vào thời gian đó, khi khoa học-kỹ thuật công nghệ chưa phát triển thì việc chế tạo tàu ngầm đã gặp hàng loạt rắc rối lớn. Đầu tiên là phải làm sao chế tạo được các lớp vỏ tàu bằng thép dày, kín, chịu được áp lực cao. Kế đó là con tàu phải lặn xuống, nổi lên và bơi ngầm được dưới mặt nước biển. Rồi phải giải quyết sự cân bằng của con tàu khi vận hành dưới mặt nước, bảo đảm đủ dưỡng khí cho kíp chiến đấu, xác định đúng phương hướng khi di chuyển, phát hiện được mục tiêu, xác định chính xác vị trí và mang mìn gắn vào mục tiêu, hẹn giờ mìn nổ và rút lui bí mật và an toàn trước khi mìn phát nổ... Công việc chế tạo chiếc tàu ngầm chiến đấu đầu tiên tiến hành rất bí mật và được bảo vệ hết sức nghiêm nghặt tại căn cứ Seibruk, bang Connecticut. Dù gặp phải nhiều khó khăn chồng chất nhưng trong một thời gian ngắn, Busnell và người em trai của mình cũng là một kỹ sư hàng hải đã xuất sắc giải quyết thành công hàng loạt vấn đề kỹ thuật hóc búa. Đến mùa Xuân năm 1776, chiếc tàu ngầm chiến đấu đầu tiên trên thế giới ra đời. Nó có hình ...quả trứng. Cao: 2 mét. Đường kính thân rộng: 0,9 mét. Kíp chiến đấu chỉ có đúng ...1 người. Nhân viên duy nhất kiêm nhiệm tất cả các nhiệm vụ, chức năng: Thuyền trưởng, lái tàu, hoa tiêu, thợ máy và thủy thủ chiến đấu. Thế nhưng cũng phải mất thêm vài lần thử nghiệm và hoàn thiện nữa, chiếc tàu ngầm này mới được coi là có thể sử dụng và thực thi nhiệm vụ chiến đấu. Chiếc tầu ngầm được bí mật vận chuyển bằng đường bộ từ bang Connecticut đến New York. Trung sĩ Izra Lee đã định gắn quả mìn nặng 113 kg vào đáy tàu chiến Anh. (Ảnh: DanTri) Trận đánh đầu tiên trên của tàu ngầm Vào đêm tối ngày 6 tháng 9 năm 1776, Trung sỹ Hải quân Mỹ Izra Lee - Một lính thủy can đảm và dũng cảm, quê ở bang Connecticut, đã nhận một nhiệm vụ hết sức đặc biệt : Điều khiển con tàu ngầm đầu tiên mang mìn, tiến công các tàu chiến của Hải quân Anh đang neo đậu ngoài khơi vịnh New York. Lee đã điều khiển con tàu ngầm bí mật tiếp cận được mục tiêu là một chiếc tàu chiến Anh to lớn, kềnh càng. Thế nhưng, anh đã không thành công trong hành động tiếp theo: Lớp vỏ thép đáy tàu quá cứng và dày đã ngăn trở, không cho anh thực hiện việc khoan thủng để gắn mìn. Mặc dù vậy, Lee không hề bối rối và nản lòng. Sau vài lần nổi lên để lấy thêm dưỡng khí, anh lại cho tàu ngầm lặn xuống để tiếp tục...khoan tàu chiến Anh!. Sau nhiều lần trồi lên, lặn xuống và hoạt động quá mức, Lee mệt mỏi và kiệt sức đến nỗi không còn chú ý tới việc giữ gìn bí mật nữa. Chiếc tàu ngầm của Lee trồi lên, lộ hẳn 1/3, ngay cạnh tàu chiến Anh. Tàu ngầm là một trong những loại vũ khí tiến công bí mật và đáng gờm nhất, không phụ thuộc vào thời tiết và khí hậu. (Ảnh: ticketsofrussia) Thành Nam
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 10, 2007 10:13:07 GMT 9
Vô tuyến điện do ai phát minh ra? - 22/11/2006 Hãy thử tưởng tượng cuộc sống của bạn sẽ thế nào nếu như không có vô tuyến điện, nếu như một ngày thôi bạn không được xem ti vi? Việc tiếp nhận thông tin trên vô tuyến đã là một thói quen, một phần quan trọng trong cuộc sống của bạn. Nhưng đã bao giờ bạn đặt ra câu hỏi: ai là người phát minh ra vô tuyến điện hay chưa? Samuel Finley Breese Morse (1791 - 1872) - Ảnh: teiath.gr/ Thời cổ đại, người ta truyền tin bằng cách chạy bộ hoặc phi ngựa, vừa tốn thời gian, vừa tốn công sức. Đến thế kỷ XIX, cùng với sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa, những cách truyền tin cổ xưa không tài nào đáp ứng được nhu cầu truyền tin nhanh chóng, cho dù có sử dụng những phương pháp mới như bằng xe lửa, tàu thuyền. Sau khi điện bước lên vũ đài khoa học, mọi người khao khát mở ra một cuộc cách mạng tin tức trong điện học. Để giải quyết vấn đề khoa học kỹ thuật nan giải đó, rất nhiều người đã tốn biết bao nhiêu công sức và tâm huyết trên con đường khoa học đầy trắc trở này. Cuối cùng họ cũng đổi lấy được hàng loạt các thành quả khoa học to lớn: cuối thập niên 30 thế kỷ XIX, người Mỹ Breese Morse (1791 - 1872) đã chế tạo thành công chiếc máy điện báo hữu dụng, và xây dựng đường điện báo hữu tuyến đầu tiên giữa Washington và Baltimore và năm 1844. Năm 1876, người Mỹ Bell (1847 - 1922) phát minh ra điện thoại ống nghe. Đến thập niên 90 lại có người phát minh ra điện báo vô tuyến truyền tin. Nhưng vô tuyến điện do ai phát hiện ra trước tiên? Cho đến nay đó vẫn là vấn đề mà người ta còn tranh cãi mãi không thôi. Có người cho rằng, vô tuyến điện là do Markeni người Ý (1841 - 1937) phát hiện ra trước tiên. Bởi vì vào năm 1894, khi Markeni mới 20 tuổi đã tìm ra tính chất của sóng điện từ trong bảng cáo phó qua đời của Hertz, từ đó nảy sinh ra ý tưởng lợi dụng sóng điện từ tiến hành thông tin bằng vô tuyến điện. Từ đó, ông thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn vô tuyến, bắt đầu sản xuất cuộn dây cảm ứng phát sóng điện từ và bộ tách sóng. Nhưng ông không hài lòng với việc điện báo vô tuyến chỉ sử dụng được trong phạm vi ngắn. Năm 1901, Markeni xây dựng một trạm phát sóng cao ngất trời tại Anh, phát tín hiệu sóng điện từ sang bờ bên kia Đại Tây Dương. Nhưng có rất nhiều học giả Liên Xô cho rằng, người đầu tiên phát minh ra vô tuyến điện không phải là Markeni, mà là nhà khoa học người Nga Popov. Những học giả này nói: Popov phát minh ra điện báo vô tuyến đầu tiên vào năm 1895. Không bao lâu sau khi Popov phát minh ra điện báo vô tuyến, có 27 ngư dân bị băng trôi lạc đến biển Polo, nhờ có điện báo vô tuyến mà được cứu sống. Nhưng điện báo vô tuyến của Popov chưa được sử dụng tại Nga. Nhà vật lý học James Maxwell (Ảnh: wvusd.k12.ca.us) Năm 1895, khi ông xin Chính phủ chi viện 1000 Rup để trang bị thiết bị thí nghiệm điện báo vô tuyến, Bộ trưởng Lục quân trả lời: “Ta không cho phép sử dụng tiền cho những điều hoang tưởng như thế”. Phát minh này sau đó được Markeni tận dụng, ông ra sức tìm cách chiếm quyền ưu tiên phát minh vô tuyến điện này cho mình. Thậm chí, đã có người khẳng định: Phát minh của Popov mà Sa hoàng đương cục bảo thủ không thèm sử dụng đã bị gã gian thương người ý Markeni chiếm lấy, hắn đã mạo nhận phát minh vĩ đại này là của mình. Có học giả ra sức điều hoà sự tranh cãi này, cho rằng sáng tạo công cụ thông tin vô tuyến điện là do Markeni và Popov dường như hoàn thành cùng lúc. Họ nói: Phát minh ra vô tuyến điện là thành tựu khoa học kỹ thuật quan trọng nhất thế kỷ XIX. Năm 1888, nhà khoa học Đức Hertz phát hiện ra sóng điện từ khi đang thực nghiệm phóng điện, hoàn toàn chứng thực suy đoán về sóng điện từ của James Maxwell. Lợi dụng loại sóng vô tuyến điện này tiến hành thông tin, dường như là do công trình sư người ý Markeni và nhà khoa học Nga Popov hoàn thành cùng lúc. Tóm lại, những ý kiến trên đều khác nhau, rốt cuộc, người phát minh ra vô tuyến điện đầu tiên là Markeni hay Popov, cho đến nay người ta vẫn chưa thể đưa ra kết luận cuối cùng. Mai Lan
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 10, 2007 10:30:52 GMT 9
Cánh tàng hình cho lính dù - 2006 Một hãng của Đức đã tổ chức sản xuất trang bị mới cho lính dù có khả năng làm thay đổi hẳn chiến thuật thực hiện các chiến dịch bí mật khi dùng quân đổ bộ đường không. Bộ cánh cá nhân nhẹ nhàng sẽ cho phép lính dù tự bay trên khoảng cách lớn sau khi rời khỏi máy bay. Chuyến bay thử nghiệm năm 2003 của Felickss Baumgartner. (Ảnh: BBC) Tính chất khí động học của bộ cánh giúp cho người lính khi ra khỏi máy bay trên độ cao 10km có thể tiếp đất ở cách xa địa điểm tung quân đến 60km. Điều đó có ý nghĩa và ưu thế rất lớn so với cách nhảy dù cũ vì khi thực hiện các chiến dịch bí mật, máy bay thả quân có thể không cần đến gần khu vực của đối phương, mà chỉ cần thả đội biệt kích ở ngoài vùng kiểm soát của radar đối phương. Các lính dù sẽ tự bay tới vùng cần tiếp đất, trong khi radar hầu như không thể bắt được những mục tiêu nhỏ như vậy. Trước khi tiếp đất, người lính tung dù ra và tiếp đất theo cách bình thường. Cuộc trình diễn đầu tiên về khả năng của bộ cánh cá nhân diễn ra vào năm 2003. Khi đó nhà nhảy dù chuyên nghiệp người Áo Felicks Baumgartner đã tự mình bay qua eo biển Manche. Anh nhảy khỏi máy bay từ độ cao 10km khi nó còn ở trên vùng Duvre, và 12 phút sau đã tiếp đất ở vùng Kale. Theo báo Daily Mail của Anh, tốc độ bay trung bình của bộ cánh khoảng 352km/giờ. Kỹ thuật thả quân như vậy có nhiều ưu điểm so với những phương pháp bình thường. Với kiểu dù bình thường người ta cũng có thể thả quân ở khoảng cách lớn, song khi mở dù ở độ cao lớn người nhảy dù gặp phải nhiều khó khăn trong việc điều khiển dù. Thêm nữa, tốc độ xuống không cao và độ chính xác của điểm tiếp đất thấp. Nếu như sử dụng kỹ thuật rơi tự do, khi người nhảy chỉ mở dù vào thời điểm cuối cùng thì khoảng cách di chuyển theo chiều ngang trước khi mở dù bị giảm đi đáng kể. Hiện tại, Hãng ESG của Đức, sau khi thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm, đã thiết kế xong mẫu để sản xuất hàng loạt bộ cánh cho lính dù. Bộ cánh có bề rộng 1,8m, được làm từ nhựa carbon. Tốc độ bay theo chiều ngang tối đa: 200km/giờ. Với trang bị này độ chính xác, khoảng cách và tốc độ thả quân tăng lên nhiều. Chắc chắn quân đội Anh sẽ tiến hành các cuộc thử nghiệm cho mình và có thể Bộ Quốc phòng Anh sẽ trang bị sản phẩm của công nghệ mới này cho các đơn vị đặc nhiệm. Hoàng Thương Theo Newsru.com Người bay như chim - 16/1/2007 8h:23 Chưa ai có thể bay giống như anh chàng Thụy Sĩ, Yves Rossy, 47 tuổi: cất mình lên không trung, bay ngang, bay dọc tùy ý. Để đạt được kết quả như thế vào ngày 31/12/2006, viên phi công đã làm hàng chục thí nghiệm, đôi khi rất nguy hiểm và tiêu tốn khối tiền. Nhưng đối với anh, chỉ cần 6 phút tồn tại giữa trời là coi như mãn nguyện. Giấc mơ người chim Yves Rossy sống tại Crans-Près-Céligny, một ngôi làng Thụy Sĩ bé nhỏ nằm ở giữa Genève và Lausanne. Anh không có năng lực siêu phàm và tham vọng cứu vớt cả hành tinh như siêu nhân, nhưng anh thực sự… bay được. Thay cho chiếc áo choàng thần bí của siêu nhân là một chiếc cánh cứng, tự mình chế tạo với 4 động cơ phản lực và 3 cây dù. Đây là một thành quả thật xứng đáng. Yves Rossy không chỉ mới biết bay. Đã từng là phi công lái phản lực Mirage III thuộc đội tuần tra của quân đội Thụy Sĩ, chàng lực sĩ 47 tuổi hiện là chỉ huy trưởng một chiếc Airbus của Hãng Hàng không SwissAir. Anh than thở: “Đó là những cỗ máy mà mình phải bị giam trong đó, cách biệt với thế giới bên ngoài. Muốn lăn bánh, cất cánh và hạ cánh đều phải chờ lệnh cấp trên. Chẳng bao giờ có được tự do”. Điều mà anh thích thú chính là cảm giác mạnh. Muốn được như thế, anh chơi máy bay trượt (không động cơ), điều hiếm hoi đối với một viên phi công, và cả nhảy dù. (Ảnh: Membrana) Yves miệt mài với chúng từ năm 30 tuổi. Cho đến nay anh đã nhảy được 1.200 show tự do. Yves tiết lộ: “Một cảm giác không thể tin được. Tê tái đến tận xương tủy. Bạn được tự do hoàn toàn. Nhưng lại quá ngắn. Chỉ được 1 phút thưởng thức cảm giác kỳ diệu này”. Rất nhanh sau đó anh cứ bị ám ảnh phải làm sao để kéo dài thời gian bay. Những người hùng của anh không còn là Saint-Exupéry hay Mermoz nữa, mà là Icare, Clem Shon và Léo Valentine, “Người chim”… Giống như họ, anh tự chế tạo cánh cho mình, để có thể biến tốc độ rơi thẳng xuống đất thành những đường nằm ngang, dợn sóng. Có lúc Yves Rossy hợp tác với Patrick De Gayardon, người đã từng đoạt giải vô địch trượt tuyết thế giới và suýt bỏ mạng dưới chân núi, khi …bay với một tấm ván lướt. Gayardon tự chế tạo “bộ đồ bay”. Sau đó, nó làm anh ta mất mạng tại Hawaii vào năm 1998. Kiên trì thực hiện niềm đam mê và... bay Rút kinh nghiệm, Yves Rossy lại mơ đến đôi cánh cứng hơn. Anh một mình đi theo con đường này. Anh phải dành dụm thời gian tất bật của một phi công trưởng để theo đuổi đam mê của mình. Vốn là chuyên gia cơ khí, có đôi bàn tay khéo léo, anh học cách sử dụng sợi thủy tinh Kevlar, tự chế tạo một đôi cánh cứng với 2 đầu có thể gấp khúc nhờ những chai khí nén kèm theo. Cách thức này giúp cho anh nhảy ra khỏi máy bay gọn gàng và sau đó có thể vươn ra đến 2,5 m sải cánh. Thành công! Điều này cho phép anh đạt “tốc độ 4”, có nghĩa là với độ cao 1.000m rơi xuống, anh có thể trượt đi xa 4 km. Năm 2002, khi được thả xuống từ độ cao 5.000m, Yves Rossy đã lướt đi được 12 km trên mặt hồ Léman. Không tồi, nhưng vẫn còn chưa thỏa mãn. Mục tiêu của anh là bay lâu hơn nữa, theo chiều ngang và còn phải cất cao lên được. Bởi thế Yves đã phát sinh ý tưởng điên cuồng là gắn thêm động cơ phản lực. Jet Cat, một công ty Đức chuyên chế tạo động cơ phản lực kích thước nhỏ, chấp nhận lao vào cuộc phiêu lưu với anh. (Ảnh: Membrana) Họ phải nghiên cứu các vấn đề: khai hỏa động cơ phản lực ở độ cao, giữ thăng bằng cho đôi cánh bám sát vào cơ thể bằng 3 sợi dây nịt, có thể tháo ráp nhanh chóng. Nhiên liệu sử dụng là kérosène. Tổng cộng cỗ máy nặng 50kg. Quá nặng so với đôi cánh bằng vải, có khuynh hướng bị xếp lại khi đang bay. Yves Rossy hơi kinh hoảng nhưng không bỏ cuộc. Để chịu được chấn động, cánh phải hoàn toàn cứng và có thể xếp được. Với một người bạn, chủ một cơ sở sản xuất composite, anh chế tạo một chiếc cánh mới. Những thử nghiệm đầu tiên thật thê thảm. Cánh không vươn ra cùng lúc, một động cơ phản lực không nổ máy. Anh vẫn kiên trì. Mọi thời gian rảnh rỗi đều dành cho nó. 200.000 euro dành dụm từ lâu, bay vèo theo chi phí. Quên cả người thân. Cô vợ Nadia, nhỏ hơn 11 tuổi chỉ muốn thôi… run sợ và đẻ con cho anh. Viễn cảnh cũng làm cho anh run sợ, bởi nó nguy hiểm hơn bay tự do. Anh hy sinh cả cuộc sống gia đình cho niềm đam mê cháy bỏng này. Vượt qua mọi trở ngại, cuối cùng chiếc cánh cũng có thể tin tưởng được. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một con người có thể bay như chim thật sự. Anh hồ hởi quả quyết: “Tôi thực sự bay. Giống như rơi tự do, tôi tự điều khiển hướng đi bằng chính cơ thể của mình. Muốn bay lên chỉ cần ngẩng đầu. Muốn quẹo, chỉ cần nhìn sang hướng mình muốn, cộng thêm một chút lay động của chân và tay. Đó là tự do hoàn toàn”. Dù có sơ suất nhỏ cũng không sao. Có lần, do không kiểm soát được dao động, anh suýt không thể bung cánh hay mở dù kịp thời như ý muốn. Hoặc sự lo lắng của các quan chức hàng không. Họ kết tội anh vi phạm không phận Thụy Sĩ. Tất cả đều thuộc về quá khứ. Yves Rossy đã thực hiện được giấc mơ của mình. Nhưng anh không dừng lại ở đó. Bay là đà trên các đỉnh núi, hay lao tận vào trong mây, với anh vẫn còn chưa đủ. Với những động cơ phản lực mạnh hơn và một chiếc cánh hoàn hảo hơn, anh sẽ biết cách lao thẳng lên cao, nhào lộn. Và tại sao không cất cánh trực tiếp từ một đỉnh vách núi? Muốn như thế anh phải hy sinh mọi thời giờ và có thể bán luôn cả căn nhà, lẫn… cô vợ yêu quý. Với niềm đam mê không lay chuyển, mà những nhà tiền phong đi trước anh đã từng có được, Yves Rossy luôn lấy đó làm kim chỉ nam. Anh nói: “Nếu họ nhìn thấy tôi bay lên, thì trên thiên đình, họ phải vỗ tay khen vội”.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 10, 2007 10:42:46 GMT 9
Lịch sử tầu thủy (phần 1) -2006Từ cuối thế kỷ 18 trở về trước, các thuyền buồm đều vận chuyển nhờ gió biển trong khi gió lại thổi thất thường. Người ta đã nghĩ tới việc dùng một nguồn năng lực nào không thay đổi và đủ mạnh để thay thế gió. Máy hơi nước của Denis Papin (Ảnh: library) Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ vào đầu thế kỷ 18 đã mang lại cho ngành Hàng Hải một sản phẩm chế tạo do các nhà phát minh và kỹ thuật, đó là máy hơi nước, một dụng cụ sinh ra động lực. Máy hơi nước đã được áp dụng vào thuật Hàng Hải và tầu thủy ra đời. 1. Các nhà phát minh đầu tiên. Vào khoảng năm 1700, Newcomen đã chế ra chiếc máy "không khí" nhưng loại máy này còn quá yếu và nặng nề, không thể áp dụng cho tầu thủy. Cũng vào thời kỳ này, Denis Papin đã tìm cách áp dụng phát minh về máy hơi nước của ông ta vào tầu thủy nhưng chiếc tầu làm mẫu của Papin bị các thủy thủ ganh tị phá vỡ vào năm 1707 và Denis Papin từ bỏ việc chế tạo. Chiếc máy hơi nước thực sự được James Watt chế ra vào khoảng năm 1770 và tại nước Pháp, nhiều người đã tìm cách áp dụng máy hơi nước vào việc chuyển vận trên mặt nước. Các Bá Tước Auxiron và Follenay đã làm các tầu thủy nhưng các con tầu này đều bị chìm trên giòng sông Seine, có thể do sự phá hoại của các thủy thủ thời đó, vì họ sợ bị thất nghiệp. Tới năm 1783, Bá Tước Jouffroy d'Abbans đã thành công trong việc đóng chiếc tầu thủy Pyroscaphe và cho tầu này chạy trên sông Saone trong 15 phút trước sự chứng kiến của hàng ngàn người quan sát. Bá Tước d'Abbans đã xin trợ giúp của chính phủ nhưng dự án bị Hàn Lâm Viện Pháp bác bỏ vì Viện đang tài trợ các thí nghiệm về khinh khí cầu của Montgolfier. Vì thế công trình nghiên cứu tầu thủy của Bá Tước d'Abbans phải bỏ dở. James Watt (Ảnh: greatscotland) Cuộc nghiên cứu về cách chế tạo tầu thủy bị lãng quên tại nước Pháp thì tại Hoa Kỳ, phần lớn các nhà tiên phong về tầu thủy bắt đầu hoạt động vì quốc gia này gồm rất nhiều sông rộng, lại không có đường lộ và đường sắt. Máy hơi nước vào cuối thế kỷ 18 còn cồng kềnh và chưa hoàn hảo. Chưa ai có kiến thức gì về việc áp dụng động lực vào cách chuyển vận trên mặt nước. Các nhà phát minh chỉ hiểu biết về cách dùng buồm và lái. Hai người Mỹ đầu tiên được gán cho danh dự đã chế tạo các tầu thủy đầu tiên là James Rumsey và John Fitch. J. Rumsey đã cố gắng lắp một động cơ dùng hơi nước vào một chiếc thuyền vào năm 1786 nhưng chẳng may, Rumsey đã chọn phải một động cơ không thích hợp. Động cơ này hút nước ở trước tầu và nhả ra sau tầu. Sau nhiều lần thử thất bại, Rumsey sang nước Anh và tại nơi này, ông ta chế tạo một tầu thủy khác. Rumsey qua đời bất ngờ khiến cho công cuộc thí nghiệm bị chấm dứt dù cho về sau, trong chuyến chạy thử trên giòng sông Thames, chiếc tầu thủy của ông Rumsey đã chạy được với vận tốc 4 hải lý một giờ. John Fitch (Ảnh: pbs) Sau Rumsey, John Fitch mới đúng là nhà chế tạo tầu thủy đầu tiên. Chính vì cần tới các miền đất Viễn Tây mà Fitch tới Pennsylvania để học hỏi về máy hơi nước. Vào năm 1785, Fitch bắt đầu đóng một kiểu tầu thủy có guồng (paddle wheel) tại bên sườn tầu. Hai năm sau, nhà phát minh này lắp động cơ vào một chiếc thuyền dài 14 mét. Không biết vì sao, Fitch đã đổi ý và lại cho lắp các mái chèo thẳng đứng. Động cơ truyền sức mạnh vào hai bộ máy chèo, mỗi bộ gồm 6 chiếc, tại mỗi cạnh thuyền. Các mái chèo này lần lượt nhấc lên rồi cắm xuống, đẩy nước về phía sau. Mặc dù phương pháp này rất vụng về, lần thử trên sông vẫn mang lại thành công. Vào một buổi chiều tháng 8 năm 1787, con tầu đã vượt được khoảng cách 40 dậm với vận tốc 4 dậm một giờ. Fitch như vậy đã chiếm được địa vị độc tôn về đóng tầu thủy chạy trong các tiểu bang New Jersey, New York, Pennsylvania, Delaware và Virginia. Vì tin tưởng thành công nên Fitch trù tính đóng một chiếc tầu thủy lớn hơn, dài 18 mét và cũng chạy bằng hơi nước. Vào năm 1788, con tầu này được hạ thủy và cũng thành công trong việc chở 30 hành khách chạy trên hải trình từ Philadelphia tới Burlington. Trong khoảng thời gian này, tiền vốn của Fitch cạn dần trong khi dân chúng lại không quan tâm đến phát minh đó. Fitch cố gắng chế tạo con tầu thứ ba vào năm 1790. Chiếc tầu thủy này có nồi súp de tốt hơn và bộ máy đơn giản hơn, tầu đã di chuyển trên giòng sông Delaware và được các báo chí tại Philadelphia ca tụng. Mặc dù cách đẩy nước vụng về, con tầu này của Fitch đã thành công về cơ khí và đã di chuyển được hơn 2,000 dậm, chở cả hành khách lẫn hàng hóa. Con tàu dùng mái chèo thẳng đứng của Fitch (Ảnh: uh.edu) Khi sắc luật về bằng sáng chế được chấp thuận vào năm 1791, Fitch được cấp bằng phát minh về tầu thủy nhưng cũng loại bằng cấp này được cấp cho Rumsey và Stevens trong khi đó Fitch đứng đầu về tài năng. Mặc dù bất mãn và bị túng thiếu, Fitch vẫn tiếp tục nuôi dưỡng giấc mơ về tầu thủy. Tưởng rằng có thể thành công hơn tại nước Pháp, Fitch xuống tầu sang Pháp vào năm 1793. Tại nước Pháp và để chắc chắn, Fitch lại xin bằng phát minh về tầu thủy nhưng rồi vẫn gặp vận sui. Cuộc Cách Mạng Pháp đã cản trở các cuộc thí nghiệm của Fitch. Dù sao, Fitch cũng ảnh hưởng tới sự phát triển về tầu thủy của xứ sở này. Fitch đã để lại các họa đồ vẽ tầu thủy cho viên Lãnh Sự Mỹ tại Paris rồi ông này đã cho một kỹ sư trẻ tuổi kiêm họa sĩ xem. Viên kỹ sư này tên là Robert Fulton. Trong lúc đó, Fitch trở lại Hoa Kỳ với sức khỏe mong manh. Nhà phát minh này đã cố gắng làm cho dân chúng quan tâm về sự chuyển vận của tầu thủy bằng cuộc triển lãm một con tầu nhỏ dùng động cơ hơi nước, nhưng dân chúng vẫn lãnh đạm. Fitch lui về Kentucky, trở nên mất trí rồi qua năm 1798, qua đời vì dùng quá liều thuốc phiện. Tàu thủy chạy bằng hơi nước đầu tiên của Fitch (Ảnh: history) 2. Hai nhà phát minh Stevens và Fulton. Trong khi các tầu thủy của Fitch xuôi ngược trên giòng sông Delaware, một người đã trông thấy tầu chạy và đã nhìn thấy khả năng vô biên của tầu thủy, người đó là Đại Tá John Stevens. Đầu tiên, do cần có một phương tiện khứ hồi từ nhà tại New York City tới miền đất sở hữu tại Hoboken mà Stevens quyết định đóng lấy một chiếc tầu thủy. Stevens còn nhận ra vài chỗ nhầm lẫn trong phát minh của Fitch, hơn nữa nhờ giàu có, Stevens dễ thực hiện những cải cách cần thiết. John Stevens (Ảnh: wikipedia) Stevens thuyết phục được người anh rể tên là Robert Livingston cùng bỏ tiền ra đặt một động cơ hơi nước tại xưởng đúc New Jersey rồi lắp động cơ này vào một con thuyền dài 60 feet (gần 20 mét). Lần thử vào năm 1798 gặp thất bại vì tầu đã dùng phương pháp đẩy giống như phương cách của Rumsey. Lần thử thứ hai cũng không thành công dù cho nhà phát minh dùng các mái chèo thẳng đứng đặt tại đuôi tầu, giống như cách thức của Fitch. Rồi bộ máy quá nặng nề đã làm bể vỡ con thuyền mong manh. Không lâu sau đó, Livingston lãnh nhiệm vụ làm Đại Sứ Hoa Kỳ tại nước Pháp còn Stevens tiếp tục thí nghiệm và trở nên viên kỹ sư máy hơi nước tài giỏi nhất Hoa Kỳ vào đầu thế kỷ 19. Năm 1802, Stevens lắp vào chiếc thuyền dài 8 mét một máy hơi nước nhỏ liên hợp với một chân vịt có 4 cánh. Nhà phát minh đã dùng con tầu này để đi nhiều lần từ New York tới Hoboken. Vài năm sau, Stevens hoàn thành một con tầu thứ hai có hai chân vịt chuyển vận nhờ một động cơ áp suất cao do chính ông ta vẽ kiểu. Và danh vọng tột đỉnh tới với Stevens khi ông ta đóng xong con tầu Phoenix trong 2 năm. Con tầu này dài 31 mét, có động cơ đồ sộ. Stevens trở lại cách đẩy tầu kiểu cũ, tức là dùng các bánh xe guồng (paddle wheels) và làm cho chắc chắn, ông ta lại thêm hai chiếc cột để khi cần tới, có thể kéo buồm lên. Vì danh tiếng của Fitch, Stevens không dám cho tầu chạy trong tiểu bang New York nên đành phải cho tầu ra khơi. Chiếc Phoenix đã chạy được từ New York tới Philadelphia bình yên. Như vậy Stevens đoạt danh dự là người đầu tiên hoàn thành một cuộc du lịch bằng tầu thủy ra ngoài biển khơi. Nhưng thành tích này không được nhiều người khác quan tâm vì vào thời bấy giờ, dân chúng Hoa Kỳ đang mải chú ý tới các cuộc chạy thử tầu thủy của Robert Fulton trên giòng sông Hudson. Trong những năm tiếp theo, Stevens chuyên về chế tạo các phà chạy bằng máy hơi nước và cũng quan tâm cả về ngành hỏa xa. Robert Fulton là một họa sĩ, sống vào thời kỳ đầu của máy hơi nước, vì thế Fulton đã từ bỏ nghệ thuật để trở nên một kỹ sư đào kênh. Nhờ trông coi việc đào kênh mà Fulton có ý tưởng về các tầu bè và cách chuyển vận dùng hơi nước. Fulton đã nhìn thấy con tầu chạy bằng bánh xe guồng do Symington chế tạo vào năm 1801 dùng để kéo các thuyền bè trên sông. Trong khi đó, Fulton cũng quan tâm tới họa đồ của chiếc tầu ngầm nguyên tử Nautilus. Nhưng sau khi thất bại vì không được chính quyền chú ý và giúp đỡ, Fulton mới quay về việc chế tạo tầu thủy. Chính trong lúc quyết định này, Fulton gặp Livingston, tân Lãnh Sự Hoa Kỳ tại nước Pháp mà cũng là người vừa rút tỉa được các kinh nghiệm về tầu thủy với Stevens. Fulton cũng được xem họa đồ về chiếc tầu của Fitch khi đó đang ở trong tay viên Lãnh Sự Hoa Kỳ này. Do đó sự cộng tác của hai người dễ mang lại kết quả hơn. Khởi đầu Fulton thử nghiệm các phương pháp đẩy và xem xét các kiểu vỏ tầu. Fulton coi tầu và máy là một đơn vị chứ không phải là hai thứ riêng rẽ. Vào năm 1803, Fulton hoàn thành con tầu dài 23 mét, rộng 2.4 mét. Con tầu bỏ neo trên giòng sông Seine nhưng rồi bị vỡ đôi trước khi thử. Bộ máy tầu được cứu thoát để rồi được đặt vào một vỏ tầu mới cứng cáp hơn. Cùng trong năm này, con tầu mới được hạ thủy. Lần thử thứ nhất thành công, tầu đã di chuyển một cách kỳ dị trên mặt nước nhờ hai bánh xe guồng đạp nước. Tuy nhiên dân chúng chứng kiến cuộc thử vẫn coi đây là một sản phẩm mới, hơn là một bước tiến nhiều triển vọng lớn lao. Sự thành công này khiến cho Fulton nổi danh nhất về tầu thủy trong 4 năm liên tiếp. Đồng thời Fulton sang nước Anh để gặp Boulton và Watt với ý định hỏi mua động cơ hơi nước mang về Hoa Kỳ. Vào thời kỳ này tại nước Anh có luật cấm xuất cảng loại động cơ đó, nên Fulton đã gặp khó khăn nhưng đã học được nhiều hiểu biết về máy hơi nước. Sơ đồ tầu của Fulton (Ảnh: submarine) Năm 1806, Fulton trở về Hoa Kỳ với kiến thức rộng rãi về kênh đào, tầu ngầm và tầu thủy. Fulton bắt tay vào việc vẽ vỏ tầu. Vào năm sau con tầu mới được lắp động cơ do Watt chế tạo. Con tầu này trông rất xấu xí, được đặt tên là Clermont theo tên miền ruộng đất của Livingston tại Hudson. Tầu Clermont thực ra là một sà lan phẳng đáy, thiếu tỉ lệ về chiều dài, bộ máy tầu được đặt phía trước và làm chuyển động hai bánh xe guồng không che phủ gồm những guồng dài 15 feet. Khi tầu chạy, nước văng ướt khắp phần giữa tầu. Ngày 17/8/1807, 40 hành khách đã dự một cuộc du ngoạn khứ hồi từ New York tới Albany mà không gặp một tai nạn nào. Tầu chạy được 150 dậm trong 32 giờ, như vậy tốc dộ ngược giòng của tầu là 5 dậm một giờ. Cuộc chạy thử này đã là một điểm son trong lịch sử hàng hải và cũng chứng minh cách vận chuyển thành công dùng máy hơi nước. Nhưng hơn hẳn nhiều nhà phát minh khác, Fulton đã cải cách tầu thủy thành một loại tầu đẹp mắt và theo đòi hỏi của dân chúng. Trong các lần thử sau, Fulton đã cho bao phủ các guồng nước và lập ra các phòng hành khách có giường ngủ và dụng cụ nấu bếp. Vì thế Công Ty Tầu Thủy Trên Sông Hudson (the Hudson River Steamboat Company) thành hình. Vào tháng 9 năm 1807, bắt đầu có các chuyến tầu theo thời biểu và giá vé từ New York tới Albany là 7 mỹ kim. Trong các năm sau, hai con tầu thủy nữa được đóng để cung cấp các chuyến đi hàng ngày giữa hai địa điểm này. Trong cuộc chiến tranh 1812, Fulton được giao cho công việc đóng chiếc tầu chiến đầu tiên. Thực ra đây là một con tầu với hai vỏ tầu đặt cạnh nhau và bánh xe guồng được đặt ở giữa, cạnh tầu được lắp các tấm thép. Về sau con tầu chiến này vẫn còn dở dang mặc dù chiến tranh đã chấm dứt và Fulton đã qua đời vào năm 1815.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 23, 2010 4:23:47 GMT 9
Ảnh mật đặc công Bac Triều Tiên ám sát TT Hàn năm 196816/12/2010 14:39:02 - Năm 1967, Ong Park Chung-hee đắc cử Tổng thống Hàn Quốc với chiến thắng áp đảo 116 triệu phiếu bầu. Nhưng ông phải đối mặt với nhiệm vụ tìm đường giải quyết cuộc khủng hoảng an ninh quốc gia nghiêm trọng khi rộ lên tin đồn cho rằng Chủ tịch Triều Tiên lúc bấy giờ là Kim Il-sung định thống nhất bán Triều Tiên bằng vũ lực và phải vật lộn trong nỗ lực làm sống dậy nền kinh tế.
Đã có rất nhiều cuộc ám sát các nhà lãnh đạo của cả Triều Tiên và Hàn Quốc được tiết lộ khiến nhiều người bất ngờ. Nhưng có lẽ, vụ ám sát nổi tiếng nhất trong đó là vụ ám sát Tổng thống Hàn Quốc bất thành của 31 đặc công Triều Tiên tháng 1/1968.Tối ngày 17/1/1968, 31 đặc công Triều Tiên được chia làm 6 nhóm và trang bị vũ trang bí mật vượt qua rừng núi biên giới sang Hàn Quốc. Họ là các nhân viên thuộc đội đặc biệt số 124 của Cục tình báo Trung ương Triều Tiên được giao nhiệm vụ hướng tới Nhà Xanh của Hàn Quốc để ám sát Tổng thống Park Chung-hee. Đội đặc nhiệm 124 là đơn vị chịu trách nhiệm cho hầu hết các cuộc xâm nhập và các cuộc phát động chiến tranh du kích dọc biên giới. Các thành viên trong đội đã được tập hợp từ 1,5 năm trước và được đào tạo để chuẩn bị cho nhiệm vụ này. Họ mất tất cả 2 ngày để vượt qua các trạm kiểm soát biên giới, qua dòng sông Imjim lạnh buốt, qua hàng rào thép gai biên giới, mà đoạn hàng rào biên giới được họ cắt để chui qua đến nay vẫn còn được lưu giữ. Tới lãnh thổ Hàn Quốc, 6 nhóm đặc công tập hợp lại trong một khu rừng và chuẩn bị hướng về phía nam thành phố Seoul. Thậm chí họ còn thâm nhập vào được cả vùng rừng đồi phía sau Nhà Xanh của Tổng thống Park mà không bị phát hiện. Tuy nhiên, sự may mắn của họ đã bị thay đổi và trở thành một sai lầm khủng khiếp do sự kiện diễn ra vào chiều tối ngày 19/11 trước thời điểm họ tiến về Seoul. Các binh sĩ Triều Tiên được tuyên truyền quan điểm rằng, người dân Hàn Quốc từ lâu vốn sống trong cảnh áp bức và đang chờ được giải thoát khỏi chính phủ bù nhìn của họ. Vì vậy, thay vì tránh đụng độ với những người tiều phu họ tình cờ gặp ở khu rừng biên giới, họ lại ngồi thuyết giảng cho họ về cuộc sống ở Triều Tiên và hứa hẹn với họ về một tương lai Triều Tiên sẽ thống nhất bán đảo. Nhưng điều đó không bao giờ xảy ra bởi người Hàn Quốc trong thực tế không bị áp bức và đặc biệt trung thành với chính phủ của họ và nhất là khi Tổng thống Park đang cho họ một hy vọng về tương lai tốt đẹp hơn với cuộc cải cách kinh tế đầy hứa hẹn. Do đó, những người tiều phu không mấy ấn tượng với công tác tuyên truyền của những người đặc công nên đã nhanh chóng đi báo lại sự việc cho cảnh sát. Cảnh sát Hàn Quốc đã tiến hành một truy tìm lớn để bắt giữ những người lính đặc công Triều Tiên. Tuy nhiên, không có thông tin cụ thể nên họ không biết phương hướng mà nhóm người này di chuyển. Các đặc công Triều Tiên chia thành các nhóm nhỏ 2-3 người tiến về thủ đô nên có thể dễ dàng vượt qua các trạm kiểm soát an ninh của Hàn Quốc và lại tập hợp một lần nữa ở Seoul. 10h30 sáng ngày 21/1, khi còn cách Nhà Xanh 800m, họ gặp phải một trạm kiểm soát của cảnh sát Hàn Quốc mới được dựng lên. Họ phải trả lời một số câu hỏi nghi vấn của chỉ huy trạm cảnh sát Chongno là Choe Kyu-sik. Nhưng khi họ hoàn thành xong bài kiểm tra và chuẩn bị được qua trạm thì đột nhiên trạm trưởng Choi quát lên đòi kiểm tra bên trong áo khoác của họ và đồng thời rút súng đe dọa. Vừa lúc đó, hai chiếc xe bus chở khách từ trong thành phố cũng tới. Những người lính đặc nhiệm Triều Tiên tưởng lầm là xe chở cảnh sát hay quân tiếp viện nên đã bắn vào ngực Choi và ném lựu đạn về phía xe bus khiến một số phụ nữ, trẻ em và cảnh sát bị thiệt mạng và tùy nghi di tản. Tình thế bắt đầu trở nên hỗn loạn giữa hai bên. Một trung đội bộ binh Hàn Quốc được điều tới hiện trường củng cố an ninh cho Nhà Xanh và tham gia vào cuộc truy quét những người đặc công Triều Tiên. Những người lính đặc công chỉ từ bỏ nhiệm vụ ám sát Tổng thống Park khi không có cách nào hiệu quả để chống lại xe tăng của Hàn Quốc và chỉ còn cách cố thoát khỏi cuộc truy kích, trở về Triều Tiên. Các cuộc tuần tra biên giới cũng được tăng cường nhằm ngăn chặn khả năng có các cuộc xâm nhập khác qua biên giới. Cuộc truy lùng các đặc công Triều Tiên được quân đội Hàn Quốc tiến hành kéo dài 9 ngày sau đó. Kết quả, 29 người lính Triều Tiên thiệt mạng, 1 người mất tích và duy nhất một người bị bắt sống. Chính nhờ người này, quân đội Hàn Quốc mới biết mục đích của nhóm đặc công trên là ám sát Tổng thống Park. Cuộc ám sát thất bại còn khiến 68 người Hàn Quốc khác thiệt mạng và 66 người khác bị thương. Hầu hết các nạn nhân thiệt mạng có liên quan tới hoạt động truy lùng nhóm biệt kích. Trong số thương vong đa số là quân đội và cảnh sát nhưng cũng có 20 người là dân thường. Sau này, thông tin về người đặc công bị bắt sống mãi sau này mới được tiết lộ. Kim Shin-jo được Tổng thống Park ân xá vì đã tham gia cuộc ám sát do sau khi điều tra cho thấy ông đã không bắn một viên đạn nào từ khẩu súng mang theo. Ông đã ở lại Hàn Quốc và trở thành một tướng quân đội Hàn Quốc. Năm 1997, Kim trở thành mục sư Tin lành 1997. Sự kiện ám sát Tổng thống Park năm 1968 được coi là một trong những hoạt động tình báo khó tin nhất giữa Triều Tiên và Hàn Quốc kể từ sau cuộc chiến tranh năm 1950-1953. Kế hoạch có thể nói là gần như hoàn hảo khi nhóm đặc công đã tiếp cận được gần Nhà Xanh, nơi ở của Tổng thống Hàn Quốc ở khoảng cách 800 m mới bị phát hiện. Nhưng sự thất bại của 31 đặc công Triều Tiên đã cho quân đội Mỹ và Hàn Quốc một bài học sâu sắc nhằm củng cố hàng rào an ninh và đào tạo sĩ quan.
|
|
|
Post by NhiHa on May 21, 2011 4:20:48 GMT 9
"Bóng Đêm và Sứ Mạng" - Biệt Hải - Chiến Tranh Ngoại Lệ - Kỳ 1
Vũ Ánh/Việt Herald (10/05/2010) Người ta gọi chiến tranh ngoại lệ hay chiến tranh phi qui ước là một loại chiến tranh trong bóng tối, chiến tranh không tuyên chiến, chiến tranh tình báo và có thể là chiến tranh phá hoại. Định nghĩa như thế mới nghe có vẻ giản dị, nhưng thực hiện một cuộc chiến tranh trong bóng tối hết sức phức tạp. Trước đây, một số nhà phân tích chiến tranh lạnh thường cho rằng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến ý thức hệ, nhưng một số khác lại gọi cuộc chiến Việt Nam là một cuộc nội chiến, một cuộc chiến tương tàn giữa hai miền nam và bắc Việt Nam. Cách phân tích thứ hai có vẻ ước lệ và bị nhiều người phản đối. Nhưng rõ ràng nhất là lực lượng Miền Bắc đại diện cho khối Cộng Sản và nhận viện trở súng đạn từ Nga và Trung Cộng để thực hiện kế hoạch nhuộm đỏ Việt Nam và sau đó là đến những quốc gia Đông Nam Á, và lực lượng của Miền Nam Việt Nam đại diện cho khối tự do mà Mỹ là quốc gia được coi như lãnh đạo. VNCH được mệnh danh là tiền đồn của Thế Giới Tự Do có nhiệm vụ ngăn làn sóng đỏ, được Mỹ và đồng minh yểm trợ vũ khí, đạn dược và gởi quân sang chiến đấu ở Miền Nam Việt Nam. Như vậy, một số nhà phân tích gọi cuộc chiến Việt Nam là cuộc chiến ý thức hệ giữa hai khối tự do và cộng sản xem ra đúng với thực tế hơn. Tuy nhiên, trong cuộc chiến ý thức hệ ấy, cả hai bên vẫn không gạt bỏ được cuộc chiến trong bóng tối, một cuộc chiến phi qui ước hay cuộc chiến tranh ngoại lệ (Unconventional Warfare). Cuốn sách "Bóng Đêm và Sứ Mạng" sắp ra mắt độc giả quận Cam vào tuần tới là một tập hợp lời tự thuật của một số nhân chứng trong cuộc chiến tranh phi qui ước này. Những nhân chứng còn sống của Lực Lượng Biệt Hải thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải tự thuật về cuộc đời của họ, về công tác vào sanh ra tử của họ--hoàn toàn trong bóng tối âm thầm sau bức màn tre ở Miền Bắc Việt Nam--không phải là những áng văn chương, nhưng từ trong những bài viết này, người ta hiểu được tầm quan trọng, những thành quả cũng như sự thất bại của những người lính tham dự vào cuộc chiến trong bóng tối ở Việt Nam. Trước đây do luật lệ và trong lúc cuộc chiến đang diễn ra, không người nào trong số những nhân chứng này có quyền nói đến những gì từng xảy ra trong bóng đêm của cuộc Chiến Tranh Ngoại Lệ ấy. Nhưng sau khi cuộc chiến tranh đã kết thúc được 35 năm, khi Hoa Kỳ bắt đầu giải mật những tài liệu về chiến tranh Việt Nam, những người còn tồn tại được đến ngày nay đã có thể an toàn kể lại những gì họ đã làm trong cuộc chiến tranh phi qui ước. Trải dài trong 580 trang sách, in ấn rất mỹ thuật với bìa cứng và một phần bộ sưu tập những ảnh kỷ niệm của các chiến sĩ trong Lực Lượng Biệt Hải thời còn trai trẻ và lòng còn đầy nhiệt huyết. Khi nói đến cuộc Chiến Tranh Ngoại Lệ, chúng ta nên hiểu rằng đây là một cuộc chiến với cơ cấu rất phức tạp và bí mật đến nỗi trong một số trường hợp, bộ phận hoạt động nọ không biết hoạt động của bộ phận kia. Cuốn "Bóng Đêm và Sứ Mạng" tuy là một tác phẩm chung của những chiến sĩ trong Lực Lượng Biệt Hải, nhưng nó cũng có những trang mô tả khá chi tiết cơ cấu của cuộc Chiến Tranh Ngoại Lệ nói trên từ những năm 1955, 1956, 1957 cho đến 30 tháng 4 năm 1975. Dĩ nhiên cuộc chiến ngoại lệ được VNCH thực hiện ở Miền Bắc Việt Nam không kéo dài quá lâu đến như thế và những năm cuối của thập niên 60, cuộc Chiến Tranh Ngoại Lệ đã chuyển hướng sang những mục tiêu khác. Tuy nhiên, dấu ấn của cuộc chiến tranh trong bóng tối ở Miền Bắc Việt Nam rơi vào những năm giữa của thập niên 50 và gần trọn thập niên 60. Ở những trang từ (16) đến trang (67) trong "Bóng Đêm và Sứ Mạng", người đọc sẽ không thể nào nhớ nổi mạng lưới tổ chức và những thay đổi danh xưng của nó theo từng giai đoạn, nào là Sở Liên Lạc hay còn gọi là Sở 32, nào là Sở Bảo Vệ hay còn gọi là Sở 42, nào là Sở Công Tác hay còn gọi là Sở 52, rồi Phòng 35, Phòng 45 hay Phòng E hoặc Sở Bắc, rồi Phòng 55 hay Sở Nam, rồi các phòng 65, 75,78, 95 cho đến sự hình thành của Nha Kỹ Thuật và Sở Phòng Vệ Duyên Hải với khá nhiều toán hoạt động. Dĩ nhiên, hình ảnh của những sơ đồ trận liệt nói trên chỉ là cách khác để mô tả tính chất không qui ước của một cuộc chiến mà cho đến nay những sự thật chưa được nói đủ. Những tài liệu này của các tác giả Trần Kim Khánh, Bùi Thượng Khuê, Nguyễn Thanh Hoài cũng tạm đủ cho chúng ta thấy những hình ảnh rất phức tạp và tế nhị khi tổ chức mạng lưới chiến tranh bí mật. Cách đây khoảng 10 năm, trong cộng đồng đã có một cuộc tranh luận khá gay go về các lực lượng tham gia cuộc chiến không qui ước là bởi vào thời gian đó, vẫn chưa có nhiều tài liệu được giải mật để có thể đối chiếu với những nhân chứng còn đang sinh sống tại Hoa Kỳ. Nhưng cuối cùng, Biệt Hải chính là một bộ phận công tác của Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Ở trang (26), tác giả Trần Kim Khánh và Bùi Thượng Khuê viết: "Tháng 3 năm 1961, để chuẩn bị cho một chuyến công tác dài hạn xâm nhập Miền Bắc, Sở Bắc gởi một điệp viên đơn độc là Vũ Công Hồng, bí danh Hirondelle vượt sông Bến Hải qua Vùng Phi Quân Sự hoạt động dọc theo vĩ tuyến 17. Hai tuần lễ sau, điệp viên Hirondelle trở lại Miền Nam cùng với một số tin tức về đường đi nước bước và hệ thống an ninh của Miền Bắc. Chuyến công tác này coi như thành công để đến Tháng Tư/1961, một điệp viên đơn độc khác của sở Bắc là Phạm Chuyên bí danh Ares hay Hạ Long được Thuyền Nautilus-1 đưa ra vùng biển Quảng Ninh rồi sau đó chèo xuồng đổ bộ vào một làng đánh cá gần Cẩm Phả, Hòn Gai (Bắc Việt) khởi sự thi hành một công tác dài hạn. Khoảng 2 tuần sau, điệp viên bí danh Ares đã gởi bức điện văn đầu tiên cho Sở Bắc và cơ quan CIA tại Saigon. Chuyến xâm nhập coi như thành công. Sau đó, điệp viên Ares gởi thêm 22 bản báo cáo nữa cho đến tháng 6 năm 1961 thì đột nhiên mất tích. Nhưng ngày 8 tháng 8 năm 1961, Sở Bắc lại nhận được một điện văn nữa của Ares sau gần 2 tháng mất liên lạc, cắt nghĩa về sự vắng mặt của mình và yêu cầu gởi tiếp tế. Từ đó, thỉnh thoảng điệp viên Phạm Chuyên vẫn liên lạc với trung ương tại Saigon báo cáo những tin tức quan trọng về nhà máy điện Uông Bí, hệ thống cầu cống, đường xe lửa, hệ thống xa lộ và hải cảng Hải Phòng cho đến mãi năm 1968 mới mất hẳn liên lạc..." Trên đây chỉ là bản mô tả công việc của Sở Bắc, một trong nhiều cơ sở căn bản vào giai đoạn đầu cho cuộc chiến tranh bí mật tại Miền Bắc Việt Nam. Những cơ sở này thuộc cơ cấu đầu tiên cho cuộc chiến tranh không qui ước. Những năm sau đó, do tình hình có nhiều thay đổi và khi Nha Kỹ Thuật được thành lập thì nó thuộc Bộ Tổng Tham Mưu và đó chỉ là cái tên vỏ bọc (cover name) của Bộ Tư Lệnh Chiến Tranh Ngoại Lệ. Các đơn vị trực thuộc bộ tư lệnh này là do nhu cầu chiến lược của hai chính phủ VNCH và Hoa Kỳ, theo lời Nguyễn Thanh Hoài, cựu Trưởng Phòng Nhì thuộc Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Nói một cách khác, vì là một cơ quan Tình Báo Chiến Lược nên vấn đề "Ngăn Cách và Bảo Mật" của Bộ Chỉ Huy Nha Kỹ Thuật và các đơn vị trực thuộc được bảo mật tối đa. Do đó tuy có thể có những quân nhân cùng phục vụ trong một đơn vị, hàng ngày vẫn liên lạc với nhau, nhưng mọi công tác đều được giữ kín, không ai được biết trừ những người được chỉ định đảm nhận những công tác đó. Ở trang (42) trong "Bóng Đêm và Sứ Mạng" , Nguyễn Thanh Hoài viết thêm: "Trước khi thực hiện công tác, toàn thể nhận viên liên quan đến công tác đều được tách riêng, tập trung vào khu cấm (Isolation Camp). Sau đó, sĩ quan trưởng công tác hay đích thân Chỉ Huy Trưởng Lực Lượng Biệt Hải thuyết trình công tác theo lệnh hành quân, kiểm soát vũ khí, trang bị kể cả trang bị đặc biệt. Kế đến, trưởng toán thuyết trình cho các toán, ấn định thêm nhiệm vụ của từng toán viên. Trước giờ xuất phát, CHT/LLBH kiểm soát lần chót, xong xuôi đưa toán đến địa điểm xuất phát. Ở đó, thủy thủ đoàn đã chờ sẵn. Trong suốt thời gian ở khu cấm, mọi liên lạc với bên ngoài đều tuyệt đối cấm..." Phải nói rằng, những hoạt động trong chiến tranh ngoại lệ thay đổi nhiều lúc đến chóng mặt. Điều này cũng có thể hiểu được, bởi vì chiến tranh Việt Nam là một trong những cuộc chiến mà tốc độ thay đổi của tình hình lên cao nhất. Do đó mà sau khi Sở Phòng Vệ Duyên Hải thuộc Nha Kỹ Thuật được chính thức thành lập, thì sở được tổ chức như sau: trước hết là Bộ Chỉ Huy Sở Phòng Vệ Duyên Hải, thứ hai là Lực Lượng Hải Tuần và thứ ba là Lực Lượng Biệt Hải. Lực lượng Biệt Hải có quân số khoảng trên 200 người và được phân phối vào các phần hành như hành động, yểm trợ và huấn luyện. Phải nói một cách thẳng thắn là cho đến khi có dịp tham dự một lễ giỗ dành cho các đồng đội Biệt Hải đã âm thầm hy sinh vì tổ quốc tại nhà riêng của Biệt Hải Nguyễn Trâm cách đây trên một thập niên, tôi cũng vẫn chưa hiểu rõ công việc của từng toán thuộc thành phần hành động của Biệt Hải. Sự lẫn lộn giữa lực lượng Biệt Hải và các lực lượng khác tham gia cuộc chiến tranh trong bóng đêm ở miền Bắc Việt Nam là điều khó tránh nổi nếu không có những tài liệu dẫn giải khả tín. Trên nguyên tắc, những chuyện này thuộc về quá khứ. Người ta có thể nghĩ rằng, chiến tranh đã kết thúc lâu rồi, thì cũng không cần gì phải quan tâm quá đáng đến tổ chức của một thành phần trong cuộc chiến bí mật. Nhưng cá nhân, tôi nghĩ khác. Khi những điều mà dư luận và người Việt Nam chưa biết được giải mã thì quá khứ ấy trở thành hết sức quan trọng. Nó biện hộ cho cuộc chiến tự vệ của Miền Nam Việt Nam, nhưng đồng thời nó còn cho thấy trong cuộc chiến tự vệ ấy, chúng ta không chỉ chống trả mà còn tấn công vào nguồn gốc cuộc chiến tranh được những người Cộng Sản đẩy vào Miền Nam Việt Nam. Quan điểm ấy không có gì sai với bản chất của cuộc chiến mà chúng ta điều hành với điều kiện có thể đối chiếu kho dữ kiện được giải mật với những nhân chứng còn sống. "Bóng Đêm và Sứ Mạng" góp một phần không nhỏ vào những hiểu biết của chúng ta về cuộc chiến ngoại lệ hay còn gọi là cuộc chiến không qui ước. (V.A) (Còn tiếp)
|
|
|
Post by NhiHa on May 21, 2011 4:22:08 GMT 9
“Bóng Đêm và Sứ Mạng"-Biệt Hải-Cuộc Chiến Tranh Ngoại Lệ - Kỳ 2
Vũ Ánh/Việt Herald (10/06/2010) Thực tế, khi nói về tổ chức của Biệt Hải trong cuốn “Bóng Đêm và Sứ Mạng”, chúng ta có thể gặp những điều phức tạp vì mỗi toán là một nhiệm vụ. Nhưng khi nói tới các công việc của Biệt Hải trong cuộc chiến tranh ngoại lệ vào thập niên 60 thì suốt trong 580 trang sách, chúng ta có thể nhớ hết những người hùng vô danh, người hùng trong bóng tối vào thời ấy. Họ hy sinh cho lý tưởng quốc gia, với lòng nhiệt thành và trung thành tuyệt đối. Gần nửa thế kỷ sau, những người lính ấy mới được biết tới. Những thiệt thòi của những người lính chiến hoạt động trong bất cứ một cuộc chiến tranh bí mật nào đều là điều khó tránh được. Ở trang 151 của hồi ức “Bóng Đêm và Sứ Mạng”, tác giả Kim Cương Hoàng Trọng cho chúng ta biết một phần nhỏ cuộc chiến đấu của những người lính Biệt Hải: “Thế rồi việc gì đến đã đến. Chiếc tầu ô mang ám số N:1 (Nautilus) có thủy thủ đoàn gồm 9 hay 10 người và ông Hoàng Ngô được giao trách nhiệm thuyền trưởng (nay đã qua đời) và thuyền phó là ông Hoàng Mường. Hướng dẫn viên là ông Hoàng Hoa còn thợ máy là Nguyễn Phương (Dụ). Nhìn lại thủy thủ đoàn như tôi còn có Trần Đình Thiện, Nguyễn Bút, Đậu Kính, Hoàng Điều và Nguyễn Khồng. “Khoảng tháng 2 năm 1962, sau khi mọi người trên thuyền N:1 đã thực tập khá chu đáo tất cả các vấn đề như hải trình, hải bàn, nhiệm vụ và địa điểm công tác. Sau đó kiểm soát lại vũ khí, quân trang và chú ý đặc biệt đến cách thức ngụy trang như thế nào để khi chiếc thuyền vào vùng hoạt động mà hải quân CSBV và ngư dân Miền Bắc không thể nào phát giác. Toán thủy thủ chiếc thuyền N:1 được lệnh của chỉ huy trưởng Đỗ Văn Tiên (bí danh Phan) tới tọa độ 334 vĩ Bắc, xuyên qua vĩ tuyến 17. Chuyến này có nhiệm vụ chở một điệp viên bí danh Tâm (sau này tôi được biết tên thật của anh là Nguyễn Châu Thanh). Anh bị bắt và chết tại trại Quyết Tiến, thường được gọi là Cổng Trời thuộc tỉnh Hà Giang. Tôi không nắm vững địa điểm đổ điệp viên Tâm vì không phải trách nhiệm của mình. Nhưng chuyến đi bất thành vì thuyền đã bị một trận bão kinh hồn thổi tới. Trong lúc chịu đựng gió bão kinh hồn như vậy, nhưng điệp viên Nguyễn Châu Thanh không tỏ ra nao núng. Anh cùng thủy thủ đoàn chúng tôi hết sức chiến đấu đã thoát được cơn bão và đưa con thuyền trở lại Miền Nam bình yên". Chuyến đổ điệp viên Tâm lần thứ nhất bất thành, trở về nghỉ ngơi và sau đó thuyền Nautilus N:1 lại lên đường để hoàn thành công tác dang dở. Tác giả Kim Cương Hoàng Trọng viết tiếp ở trang 152: "Qua hai đêm 1 ngày, khi thuyền chạy qua khỏi đảo Cồn Cỏ phía ngoài khơi biển Đồng Hới và Cửa Ròn thuộc Quảng Bình tôi đã thấy tất cả cảnh vật nằm lại phía sau thuyền mình khá xa. Khi đã cân nhắc kỹ càng, hướng dẫn viên Hoàng Hoa liền ra lệnh: đổ bộ! Lúc đó khoảng độ 10 giờ 40 phút khuya (giờ Hà Nội). Thuyền trưởng bảo tài công cho bẻ vòng tay lái 90 độ kinh Tây. Trên thuyền nhìn vào bờ mọi người đã thấy dãy Hoành Sơn trên đó có Đèo Ngang thuộc tỉnh Hà Tĩnh mờ mờ trong đêm. Tôi bắt đầu thao tác làm bổn phận cùng với Nguyễn Khồng, Trần Đình Thiện, và Đậu Kính cho bơm xuồng cao su. Sau khi thuyền lớn đã bỏ neo đậu ở ngoài khơi, chúng tôi phụ giúp đẩy chiếc xuồng cao su nhỏ có điệp viên Tâm trên đó. Anh có dáng dấp như một Kinh Kha của thời đại mới, không chút xao xuyến, sợ hãi. Ngày nay, nhìn lại sự việc của anh mà cứ tưởng như mới hôm qua. Tôi không khỏi ngậm ngùi khâm phục sự can đảm và lòng hăng say với nhiệm vụ của người điệp viên Miền Nam Việt Nam đã được huấn luyện kỹ càng để gởi ra Miền Bắc hoạt động...Chuyến đầu tiên, thủy thủ đoàn chúng tôi (trên thuyền N:1) đã làm tròn nhiệm vụ, nhưng người anh hùng Nguyễn Châu Thanh thì vĩnh viễn đi vào lịch sử". Sau công tác đổ điệp viên Tâm thành công, thủy thủ đoàn của chiếc Nautilus N:1 đổi sang Nautilus N:4 để đổ những điệp viên khác vào vùng đèo ngang, trong đó có một điệp viên sau này rất nổi tiếng đó là Trần Quốc Định tức Đặng Chí Bình (tác giả Thép Đen). Tác giả Kim Cương Hoàng Trọng cho biết dáng dấp của Đặng Chí Bình rất thư sinh, nhưng ý chí của anh cao vợi. Chuyến đổ Đặng Chí Bình cũng thành công, nhưng đến chuyến N:4 đổ Toán Vulcan Biệt Hải tại sông Gianh, Quảng Bình ngày 29 tháng 6 năm 1962 thì thất bại nặng. Chuyến đi này, Toán Vulcan được trao một nhiệm vụ khá quan trọng: đổ bộ vào cửa sông Gianh Quảng Bình để tập kích phá các tầu Swatow của Hải Quân CSBV đang đậu tại đó. Theo mô tả của tác giả Kim Cương Hoàng Trọng thì thuyền N:4 có thủy thủ đoàn gồm 12 người kể cả thuyền trưởng Nguyễn Văn Tình và Vi Tiến Anh, thuyền phó. Trên thuyền có 4 nhân viên toán Vulcan (Hỏa Thần) trong đó một số vừa học xong khóa học Người Nhái thì được gởi qua huấn luyện tại Đài Loan (Trung Hoa Dân Quốc). Vừa về nước họ đã được Trung Ương gởi ra toán Vulcan để đổ bộ vào cửa Sông Gianh, Quảng Bình ban đêm, rồi lặn vào để triệt hạ các tầu Swatow. Vẫn theo lời tác giả, Toán Vulcan gồm các Biệt Hải hành động: Nguyễn Văn Chuyên, trưởng toán, Nguyễn Hữu Thảo, Lê Văn Kinh và Nguyễn Ngọc. Toán Vulcan làm xong được nhiệm vụ, nhưng trong số 16 con kình ngư trên chiếc N:3, chỉ có một mình Biệt Hải Nguyễn Ngọc là sống sót trở về. Tác giả nhấn mạnh ở trang 156 của "Bóng Đêm và Sứ Mạng" như sau: "Đa số chúng ta chẳng biết Nguyễn Ngọc ở đâu và tổ quốc sau bao thăng trầm có lẽ đã quên tên anh, kể cả những người đã hy sinh trong chuyến công tác năm đó...Kẻ viết bài này được biết anh đang sốn bên cạnh chúng ta với cuộc sống hết sức âm thầm đúng với tinh thần của người biệt kích không khoe khoang tự mãn". Câu chuyện mà Nguyễn Ngọc kể lại gồm nhiều chi tiết khiến chúng ta phải bàng hoàng. Những ai có cuốn "Bóng Đêm và Sứ Mạng" trong tay có thể đọc câu chuyện đầy tính bi hùng tráng này từ trang 157 cho đến 160 để hiểu thêm vai trò của những người lính Biệt Hải trong cuộc chiến tranh ngoại lệ, cuộc chiến trong bóng đêm giữa lòng đất địch. Ở trang 241 của "Bóng Đêm và Sứ Mạng", tôi thấy có một bài nhan đề "Bầu Tró rực sáng trong đêm" của tác giả Sơn Khê làm tôi chú ý bởi cái tên Bầu Tró. Vào năm 1964, tôi vẫn còn đang trong giai đoạn huấn luyện để trở thành phóng viên tiền tuyến của Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia nên phải đọc rất nhiều tài liệu trong cái kho lưu trữ trong đó có hàng núi tài liệu kiểm thính các đài phát thanh Hà Nội và MTGPMN. Những địa danh Bầu Tró, Cửa Lò thường được nhắc nhở tới trong các bản tin nhất là bản tin của đài phát thanh Hà Nội. Các bản tin ấy chỉ mang tính chất cảnh báo với dân chúng về tình trạng "địch xâm nhập để lũng đoạn và phá hoại". Vào khoảng thời gian đó, sự hiểu biết của chúng tôi về cuộc chiến Việt Nam vẫn còn giới hạn huống chi là cuộc chiến trong bóng đêm của những biệt kích từ trong Nam gởi ra Bắc. Nay đọc được "Bầu Tró rực sáng trong đêm" của Sơn Khê mới hiểu tại sao đài phát thanh Hà Nội hay đưa ra những tin tức khuyến cáo lực lượng an ninh và dân chúng thuộc vùng cực nam Bắc Việt phải đề phòng "kẻ địch xâm nhập". Sơn Khê viết trên trang 243 như sau: "Ngày 30 tháng 6 năm 1964, lúc 8 giờ tối, 3 chiến đĩnh PTF bắt đầu rời bãi Tiên Sa trực chỉ hướng Đông, rẽ sóng chạy ra hải phận quốc tế. Khi đến nơi, các hạm trưởng liền quay mũi tầu hướng về phía Tây tìm mục tiêu Đồng Hới phóng tới. Dưới ánh trăng mờ mờ, hai chiến đĩnh mở đường chạy trước, mũi tầu nhấp nhô lên xuống theo chiều sóng lượn như những chú cá voi vui đùa với đại dương biển cả... Gần 10 giờ đêm, các mũi tầu đổi hướng đâm thẳng vào hải phận Đồng Hới. Khi tới mục tiêu, tất cả các tầu dừng ở ngoài khơi và hạm trưởng cho lệnh thả xuống cao su xuống lúc 11 giờ đêm. Trong chuyến này vì có hai toán phối hợp (Cummulus và Mercury) nên có hai trưởng toán đi chung. Người chỉ huy tổng quát là trung sĩ nhất Nguyễn Duy Y. Ông điều khiển 3 xuống cao su chạy vào trong bờ hướng mục tiêu Bầu Tró...Khi còn cách bờ 400 mét, ở trên xuồng cao su chúng tôi nghe được tiếng mõ đánh lốc cốc từng hồi, hướng Bắc làng Phú Hội dội xuống. Càng tới gần bờ, mọi người càng nghe rõ mồn một. Anh em xì xầm bàn tán hay là bọn chúng tuần tiễu trên bờ đã thấy bóng dáng 3 xuồng đổ bộ nên chúng đánh mõ báo động từng hồi ? "Thấy tình hình chung quanh không mấy yên tĩnh nên nên trưởng toán Nguyễn Duy Y ra lệnh lấy dầm chèo tay âm thầm tiến vào bờ. Tiếng mõ lúc ấy càng lúc càng xa dần rồi tắt hẳn. Trưởng toán thả hai anh Chút và Lạc làm tiền sát viên, lội vào trước thám sát bờ biển để xem xét tình hình. Sau đó 3 chiếc xuồng trở ra ngoài xa đậu nối theo đội hình và mọi người nhìn vào trong bờ để theo dõi trong trường hợp tiền sát viên trong bờ bấm đèn ra tín hiệu. Thời gian chờ đợi khá lâu, nhưng vẫn biệt vô âm tín không thấy dấu hiệu gì cả khiến tất cả mọi người đều lo sợ không biết việc gì xảy ra cho 2 tiền sát viên đang trên bờ. Bỗng trưởng toán Y vội vàng ra lệnh cho ba chiếc thuyền cao su đồng loạt tiến nhanh vào bờ theo dấu của đèn hiệu từ các tiền sát viên. Khi mũi thuyền chạm đất tất cả lấy sức vừa chạy vừa khiêng thuyền lên bờ tìm một bụi cây rậm rạp gần đó để cất giấu, đồng thời cắt cử 4 người trang bị tiểu liên K của Thụy Điển gắn nòng giảm thanh ở lại canh giữ 3 thuyền. Mười tám người trong đó có 2 trưởng toán cùng 3 khẩu 57 ly và một súng cối 60 ly dùng để bắn trái sáng đi theo đội hình hàng dọc, tất cả tiến sát vào mục tiêu...Phút chốc nhà máy nước Bầu Tró hiện rõ trước mắt. Tính từ bở biển đi vào mục tiêu khoảng 500 mét, mọi người đều tìm lối rẽ trái để đặt súng cho gần hơn. Vừa đặt súng xong là có lệnh của trưởng toán khai hỏa. Lập tức 18 người đều hành động hết sức nhịp nhàng theo đúng những điều đã được huấn luyện trước đây. Xạ thủ súng cối tiếp tục nạp đạn bắn hỏa châu lên trời để giúp chúng tôi quan sát mục tiêu Bầu Tró chính xác hơn. Những trái đạn 57 ly rời khỏi nòng súng tàn phá nặng nề nhà máy nước Bầu Tró. Chúng tôi đứng ngoài nhìn vào có thể thấy nhà máy nước Bầu Tró bắt đầu sụp đổ. Ngọn lửa bốc cháy dữ dội làn tận ra ngoài. Tác xạ xong chúng tôi đã được lệnh thu vác tất cả các khẩu 57 ly rút thật nhanh ra ngoài..." (V.A) (Còn tiếp)
|
|
|
Post by NhiHa on May 21, 2011 4:23:24 GMT 9
“Bóng Ðêm và Sứ Mạng”-Biệt Hải-Cuộc Chiến Tranh Ngoại Lệ (Kỳ chót)
Vũ Ánh/Việt Herald (10/06/2010) Kế hoạch tấn câu Bầu Tró của lực lượng Biệt Hải vạch ra rất thận trọng và dù dùng tới hai toán để tấn công, nhưng nhịp độ tác chiến được điều hợp nhịp nhàng nên đã tạo thành quả do tấn công nhanh và rút gọn của Biệt Hải. Tuy trong tác chiến không thể tránh hết được những rủi ro, nhất là khi rút ra bờ biển để tìm cách trở lại tầu lớn ngoài khơi. Mặc dù bị truy đuổi và bao vây bởi lực lượng Cộng quân phòng vệ duyên hải, nhưng do lòng quả cảm và đã trải qua những ngày tháng được huấn luyện kỹ lưỡng về chiến thuật, hai toán của lực lượng Biệt Hải tấn công Bầu Tró rút ra được tầu lớn, chỉ thiếu mất 2 Biệt Hải là Bẩy và Sắc. Bẩy đã bị tử thương ngay trên bãi biển còn Sắc thì bị bắt sống. Tuy nhiên, ngoại trừ các đồng đội, lòng quả cảm và sự hy sinh ấy của những chiến sĩ Biệt Hải không được ai biết đến cho đến khi những tài liệu được giải mật. Dĩ nhiên, những cựu binh trong lực lượng Biệt Hải không muốn và cũng không được phép dương danh suốt trong thời kỳ chiến tranh. Trong bài “Ước muốn trở thành chiến sĩ Biệt Hải” ở trang 90 của tác phẩm hồi ức “Bóng Ðêm và Sứ Mạng,” tác giả Nguyễn Trâm đã kể lại rất chi tiết khóa học của anh và nhiệm vụ của Biệt Hải sau này. Theo tác giả, những người lính Biệt Hải đều là lính tình nguyện và nhấn mạnh rằng dù những hoạt động của Biệt Hải diễn ra ngay trong lòng đất địch là công tác rất nguy hiểm, nhưng gia nhập Biệt Hải không phải là điều dễ dàng. Ưu tiên gia nhập chỉ dành cho những ai phục vụ trong đơn vị và người ký giấy chứng nhận đơn khóa sinh cũng phải là người hoạt động trong Sở Phòng Vệ Duyên Hải. Gia nhập đã khó, nhưng trải qua được giai đoạn huấn luyện càng khó hơn. Nguyễn Trâm viết ở trang 101 của “Bóng Ðêm và Sứ Mạng” về khóa 1/68 Biệt Hải như sau: “Khóa này có 36 khóa sinh tình nguyện, đa số là dân chính ở các giáo xứ. Số còn lại gồm một số anh em thuộc đơn vị Dân Sự Chiến Ðấu trên Ðồi Hoa Sim, cộng thêm với số nhân viên trong Nha Kỹ Thuật gởi ra học dưới sự hướng dẫn của các thông dịch viên và huấn luyện viên Người Nhái (Seal Team) của Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ. 36 khóa sinh cùng các thông dịch viên luân phiên xếp hàng hai chạy ra tập họp ở bãi biển trước Trại 9 khoảng 500 mét. Tại đây, chúng tôi học bài học về thể dục cơ bản của Biệt Hải. Trong 3 ngày tuần đầu tiên, mọi người còn hăng hái, sau giờ huấn về phòng còn cười nói hết sức thoải mái, lòng đầy tự tin. Nhưng bước sang ngày thứ tư thì tứ chi bải hoải, đau nhức lạ thường. Các bắp thịt trong người đã bắt đầu chuyển động và nở nang đến nỗi khi nuốt nước miếng cũng đau. Tất cả khóa sinh đâm ra biếng ăn, biếng nói giống như gà mắc dịch cúm vậy. Mỗi lần ra đến bãi tập là chúng tôi mong cho mau hết giờ để về phòng nghỉ ngơi. Nhưng qua được tuần lễ đầu thì mọi người đã thích ứng được với hiện tượng nở nang và đau đớn cơ thể. Sang tuần lễ thứ nhì thì cơ thể bắt đầu trở lại bình thường. Bấy giờ các cố vấn Hoa Kỳ mới bắt đầu giảng dạy các kiểu bơi lội, rồi khóa sinh được chở ra khơi để thả và tập bơi vào bờ... Thấm thoát chúng tôi bước vào tuần lễ thứ 6 tức là Tuần Lễ Ðịa Ngục (Heel Weeks). Trong tuần lễ này, tất cả các khóa sinh đều phải có mặt tập luyện ngoài bờ biển 24 giờ mỗi ngày. Các huấn luyện viên thay phiên nhau dùng nhiều 'độc chiêu' để hành xác hầu tập cho khóa sinh sự cứng cỏi. Khóa sinh nào yếu thể chất và tinh thần rất dễ bỏ cuộc. “Ngoại trừ 10 phút cho mỗi bữa ăn và từ 40 cho đến 50 phút để ngủ vào ban đêm. Thời gian còn lại được dành hết cho phần huấn luyện và thực tập. Trong giai đoạn này, khóa sinh phải ngủ dưới nước ban đêm, nằm lăn lộn trong đống cát biển, sóng gió thổi vào khiến hai lỗ tai lúc nào cũng dính đầy cát. Người nào nâng đầu lên khỏi mặt sóng là bị huấn luyện viên đạp xuống sâu hơn. Khi về phòng, huấn luyện viên còn hành xác các khóa sinh thêm, bằng cách lấy những cục nước đá to cỡ viên bi, bỏ đầy người khiến chúng tôi bị lạnh không tài nào ngủ được. Có một số chịu được ba bốn ngày đầu nhưng rồi sau đó đuối sức, không chịu nổi và đành chấp nhận bỏ cuộc nửa chừng... Kết thúc tuần địa ngục, chúng tôi có 4 ngày nghỉ phép dưỡng sức. Về đến nhà, mọi người đều nhìn tôi ngạc nhiên khi thấy thân hình tôi ốm đen, hai mắt lõm sâu vì thiếu ngủ... Cuối cùng khóa 1/68 Biệt Hải chỉ còn 26 khóa sinh trụ lại được cho những ngày mãn khóa.” Những đoạn mà tôi trích dẫn từ cuốn “Bóng Ðêm và Sứ Mạng” của lực lượng Biệt Hải/VNCH chỉ là cái cớ để một lực lượng tác chiến mà trong thời chiến ít có người biết tới vì cuộc chiến mà họ phải đương đầu là một chiến bí mật hay là cuộc chiến ngoại lệ. Trong suốt trong 580 trang sách, người đọc có cơ hội khám phá ra được những tài liệu quí giá, những đánh giá thẳng thắn của những nhân chứng. Ký ức của nhân chứng, cộng với những tài liệu được giải mật đã giúp cho người ta có thể hiểu được một phần thực chất của cuộc chiến tranh ngoại lệ ở Việt Nam cách đây gần nửa thế kỷ. Từ “Nha Kỹ Thuật” của Trần Kim Khánh-Bùi Thượng Khuê, “Sự Hình Thành và Hoạt Ðộng của Sở Phòng Vệ Duyên Hải thuộc Nha Kỹ Thuật (Nguyễn Thanh Hoài), “Lực Lượng Biệt Hải” (Nguyễn Thanh Hoài), “Trại Phượng Hoàng DoDo, Phong Trào Gươm Thiêng Ái Quốc, Cù Lao Chàm” (Trần Kim Khánh), “Dũng Khí Người Biệt Hải” (Voòng Mẳn Biu, Mọc A Tài), “Ước muốn trở thành chiến sĩ Biệt Hải (Nguyễn Trâm), “Chuyến công tác trắc nghiệm” (Hoài Thương), “Cửa khẩu một lần trở lại tháng 5/64” (Vũ Bảo). “Chuyện Vui Buồn Trong Tù” (Kim Cương Hoàng Trọng)... cho đến “Chuyến công tác cuối cùng của Biệt Hải Võ Chàng” (CRT-14), “Chuyến công tác Toán Cumulus” (Trần Văn Từ), “Ðường đi của những người trai thời ly loạn” (Từ Ðông Lành), “Chuyến đột kích tấn công đồn Công An Quảng Bình” (No Sơn), “Chuyến xâm nhập để phá một trạm công an Bắc Việt ở Hà Tĩnh năm 1966” (Trần Văn Từ), “Chuyến công tác bắn truyền đơn” (Nguyễn Bắc Bình), “Chuyến đột kích vào trại đóng quân Ðồng Hới” (Nguyễn Văn Trạch), “Những chuyến công tác giải cứu tù binh bất thành” (Nguyễn Văn Kha-Phong Trần), “Chuyến giải cứu phi công Hoa Kỳ lần thứ ba” (Phong Trần) và “Toán Biệt Hải đổ bộ lên đảo Hoàng Sa” (Nguyễn Trâm)... mới chỉ là những hình ảnh điển hình về hoạt động của Lực Lượng Biệt Hải thuộc Nha Kỹ Thuật. Những ai có trong tay cuốn “Bóng Ðêm và Sứ Mạng” tất sẽ đọc được nhiều câu chuyện khác được viết ra từ trong ký ức của những Biệt Hải còn sống tại Hoa Kỳ, hay ở các nước khác và ngay tại Việt Nam. Những ký ức chất chứa trong mỗi trái tim của người Biệt Hải nay mới có cơ hội được bộc lộ ra cho những thế hệ sau biết được cha ông họ thời trai trẻ đã sống và chiến đấu như thế nào cho tổ quốc Việt Nam. Trong cuộc chiến Việt Nam cách đây 35 năm, mỗi con người miền Nam yêu nước chiến đấu bằng những con đường khác nhau để phục vụ cho một cuộc chiến thông thường hay còn gọi là cuộc chiến qui ước. Tuy nhiên, trong sử sách không thiếu những bằng chứng cho thấy, cuộc chiến ngoại lệ trong nhiều trường hợp đã quyết định chiến trường. Vì thế cuộc chiến tranh ngoại lệ tuy chỉ là một cuộc chiến phụ, nhưng lại giữ vai trò quan trọng. Khi mở cuộc xâm nhập miền Nam, Hà Nội đã đưa chiến tranh vào miền Nam Việt Nam. Họ tin rằng hậu phương miền Bắc của họ sẽ tiếp tục “bình yên” và bất khả xâm phạm. Niềm tin của Hà Nội không phù hợp với sự thật, bởi vì Việt Nam Cộng Hòa đã mở cuộc chiến tranh ngoại lệ, tuy không có khả năng lật đổ chế độ miền Bắc, nhưng cũng đủ lũng đoạn, gây ra một tình trạng bất ổn thường xuyên ở hậu phương của họ. Những người lính Biệt Hải, những điệp viên do Sở Bắc thả vào miền Bắc Việt Nam bị tử trận hay sa cơ là một niềm đau cho miền Nam Việt Nam, nhưng đồng thời cũng gây cho Hà Nội sự hoảng sợ. Cho đến khi Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ quyết định oanh tạc vào những vị trí quân sự ở miền Bắc, rõ ràng niềm tin vào sự an toàn của hậu phương miền Bắc bị phá vỡ hoàn toàn. Chúng ta chỉ tiếc một điều là người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã giúp chúng ta dựng lên một cơ cấu hoạt động hữu hiệu ngay trong lòng đất địch, nhưng chính sách và kế hoạch của cuộc chiến ngoại lệ do Hoa Kỳ chủ trương lại chỉ có tính chất nửa vời và hoàn toàn phụ thuộc vào tình hình chính trị ở Washington. Không đủ viện trợ, ngân sách ngoại viện bị cắt, viện trợ quân sự giảm dần cho nên các hoạt động của chiến tranh ngoại lệ tại Việt Nam Cộng Hòa bị ảnh hưởng rất nặng nề. Cho nên, nếu đọc hết 580 trang của tác phẩm “Bóng Ðêm và Sứ Mạng” của cựu chiến binh Biệt Hải, người đọc mới thấy thương những người lính chiến đấu trong bóng tối này. Lòng yêu nước, nhiệt tình và khả năng của họ không thua bất cứ một người lính nào của các quốc gia khác trong cuộc chiến tranh ngoại lệ. Ấy thế mà chỉ vì sự thay đổi ở Washington và tầm nhìn rất ngắn của những nhà lãnh đạo đầu sỏ ở Việt Nam Cộng Hòa, nhiệm vụ của tất cả những người lính can trường trong cuộc chiến tranh ngoại lệ nói chung trở thành dang dở, dang dở cũng như chính tuổi thanh xuân bất hạnh của họ. Những người lính ấy chiến đấu âm thầm nhưng lẫy lừng biết bao! Cho nên, ai sẽ là người phải chịu trách nhiệm về những dang dở ấy của tất cả những người lính Việt Nam Cộng Hòa, trong đó có lực lượng Biệt Hải? Cho tới nay chưa có câu trả lời dứt khoát và vì thế “Bóng Ðêm và Sứ Mạng” chính là nỗi ngậm ngùi cho cả một thế hệ thanh niên Việt ở miền Nam cách đây 35 năm. (V.A.)
|
|
|
Post by NhiHa on May 21, 2011 4:26:05 GMT 9
Chính sách thực dân mới trên thế giới vẫn sống?
Vũ Ánh/Việt Herald (01/21/2011) Cuộc “Cách Mạng Hoa Lài” (Jasmine Revolution) ở Tunisia, miền Bắc Phi Châu đang làm cho không những Âu Châu mà cả thế giới lo ngại. Họ lo ngại không phải là tương lai mong manh của cuộc "Cách Mạng Hoa Lài" mà là sự tan vỡ một thế giới riêng của chính sách thực dân mới mà ít người để ý. Làm sao mà dư luận thế giới còn tưởng tượng ra được cái gọi là "chính sách thực dân mới"? Khi một người quả quyết rằng chính sách thực dân mới vẫn còn hiện diện trên trái đất này dù cuộc Chiến Tranh Lạnh đã chấm dứt thì ông ta hay bà ta có phải là người ăn phải bả tư tưởng Cộng Sản không? Những người Việt Nam năm nay ở vào tuổi 70 có thể biết nhiều hơn về quốc gia Tunisia, nhưng còn thế hệ trẻ hơn khoảng một thập niên rưỡi thì không biết hoặc biết rất ít về quốc gia này. Họ nghe nói đến Ai Cập, Algeria hơn là Tunisia. Trước 30 tháng 4 năm 1975, VNCH có liên hệ ngoại giao duy nhất và đầu tiên với một nước ở Bắc Phi chính là Tunisia, sau đó đến Cộng Hòa Trung Phi của Tướng Bokasa dẫn đến từ việc ký giả Việt Định Phương tìm ra cô con gái của ông thời ông còn trong Quân Đội Liên Hiệp Pháp trong cuộc chiến ở Việt Nam. Một số các chuyên viên ngoại giao thời ấy cho rằng mối bang giao giữa VNCH và Tunisia nghiêm túc hơn. Trong lực lượng Lê Dương của quân đội Pháp vào thời chiến tranh Việt Pháp, số quân nhân gốc Tunisia cũng chiếm một tỷ lệ khá cao. Quân đội Pháp dùng người Tunisia cũng bởi nhiều lý do khác nhau: một phần Tunisia là thuộc địa của pháp mãi tới năm 1956 mới được trao trả độc lập và tới năm 1957 thì cuộc tổng tuyển cử đầu tiên đưa tướng Habib Bourghiba lên làm tổng thống của Tunisia, đồng thời với Tổng Thống Ngô Đình Diệm của VNCH. Không biết có phải cùng hoàn cảnh thoát khỏi chế độ thuộc địa của Pháp mà cả hay nước trao đổi đại sứ rất sớm hay không, những có điều mối liên lạc ngoại giao của VNCH với Tuinisia cho đến năm 1974 không xảy ra điều khó khăn nào. Tổng Thống Bourguiba là nhà lãnh đạo lúc đầu rất được lòng dân nhưng đến thập niên 80 thì việc cầm quyền của ông cũng bắt đầu chua chát và đến cuối thập niên 80 ông bị Ben Ali lật đổ trong một cuộc đảo chính không đổ máu. Khi Ben Ali lên cầm quyền, những năm đầu dân chúng Tunisia tương đối dễ thở, nhưng chỉ ba năm sau cuộc đảo chánh lật đổ Bourguiba, chính quyền của ông cai trị bằng “bàn tay sắt”. Ông sẵn sàng mạnh tay dập tắt tất cả các tiếng nói đối lập. Ben Ali nói thẳng rằng Quốc Hội trong chính quyền ông chỉ là những bình hoa đón khách nước ngoài và để cho người dân Tunisia dân chủ trước khi họ ý thức được thế nào là nền dân chủ thích hợp cho Tunisia là “hoang phí”. Dường như báo chí Ai Cập đã xếp Ben Ali vào danh sách những nhà lãnh đạo ở Bắc Phi tham nhũng nhất. Đệ Nhất Phu Nhân, vợ của Ben Ali có đủ các biệt thự trên đất Âu Châu. Bà dùng máy bay của nhà nước đi mua sắm ở Paris, Rome, Côte d'Azur, Cannes, Athens...như đi chợ. Một cuộc điều tra cấp tốc của Pháp mở ra sau cuộc “Cách Mạng Hoa Lài” đã tạm thời công bố số tiền mà Ben Ali và vợ chuyển từ Tunisia sang hệ thống ngân hàng có trương mục bí mật của Thụy Sĩ ước tính ra khoảng $5 tỷ, chưa kể các tài sản khác. Hiện nay, Ben Ali đã được phép sống lưu vong ở Saudi Arabia, nhưng tình hình chính trị ở Tunisia vẫn còn bế tắc và cho đến nay tiếng súng chưa yên hẳn ở thủ đô Tunis chỉ vì nhiều đơn vị quân đội vẫn còn trung thành với Ben Ali. Tunisia là một quốc gia rất đẹp, giầu có vì nguồn lợi dầu thô, du lịch, một trung tâm thương mại thuận tiện cho cả Âu châu lẫn Trung Đông và Phi châu. Tunisia lấy Hồi giáo làm quốc giáo nhưng lại rất cởi mở với các tôn giáo khác. Chỉ có một vấn đề là họ rất dè chừng trong việc phát triển liên hệ ngoại giao với Hoa Kỳ. Tại sao? Một số các chuyên viên ở Paris giải thích rằng những quốc gia như Tunisia, Algeria, một số nước ở Tây phi, hay Đông Phi trước đây là thuộc địa của Pháp, hoặc Anh. Chúng ta biết rằng, các chế độ thực dân như Anh phải trao trả độc lập cho các quốc gia trong Khối Thịnh Vương Chung như Ấn Độ, Pakistan, Sri Lanka, một vài quốc gia trong khối Ả Rập hay Trung Đông cũng chỉ là để dập tắt các lò lửa “giải phóng”. Họ tìm cách kiểm soát các quốc gia này bằng kinh tế. Kiểm soát kinh tế là kiểm soát được chính trị, nên người ta gọi hình thức này phản ảnh một chính sách được gọi là "chế độ thực dân mới" biến thể của một chính sách thực dân ngầm, trong đó thực tế "cá lớn nuốt cá bé", "mạnh được yếu thua" được che đẩy bằng việc trao trả độc lập để các quốc gia vừa thoát khỏi chế độ thuộc địa xây dựng cho chính mình một nền dân chủ. Và khi nói tới dân chủ thì Hoa Kỳ vẫn là mẫu mực để thế giới nhìn vào. Cho nên, các chế độ độc tài trong khối Ả Rập cho rằng việc Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Rodham Clinton lên tiếng về một nền dân chủ kiểu Hoa Kỳ mới đây tại thủ đô San'a của Yemen chính là một lời kích động các nước khác ngoài Tunisia nổi lên làm một cuộc cách mạng giống như “Cuộc Cách Mạng Hoa Lài”. Tổng Thống Gaddafi là người lo sợ cái mẫu mực này trước tiên vì Lybia có cùng biên giới với Tunisia và cũng độc tài không kém. Ông nói: “Đẩy Ben Ali ra khỏi quyền lực là một lầm lẫn. Những quốc gia như Tunisia cần sự liên tục của một chính quyền để phát triển”. Lúc đầu, dư luận thế giới tưởng Gaddafi chỉ lo sợ quyền lực của mình bị lung lay mà nói như vậy. Nhưng thực ra là Gaddafi nói thật và nói khá đúng về viễn tượng bất ổn của toàn bộ Bắc Phi sau cuộc “Cách Mạng Hoa Lài”. Một chế độ độc tài, cha truyền con nối như Gaddafi mà vẫn được Anh quốc cũng như thế giới cần dầu mỏ bảo vệ. Đến ngay cả vụ Lockerbie, cũng được công ty BP vận động để thả tên khủng bố đã nổ chiếc máy bay chở hành khách Pan Am và nhất là Hoa Kỳ vẫn nới lỏng cấm vận đối với Lybia dù Washington luôn luôn lên tiếng về nhân quyền và nạn xuất cảng khủng bố từ Lybia. Tại sao? Ai cũng thấy nước Anh chỉ muốn giao thiệp với nhà độc tài như Gaddafi, vì sẽ dễ nói năng điều hình với một nhà độc tài hơn và không bị Quốc Hội của Lybia làm phiền. Tunisia cũng vậy. Nếu kết ước hay làm ăn, Pháp, Ý, Đức, Anh, Thụy Sĩ vẫn muốn giao thiệp thương lượng với “bàn tay sắt” Ben Ali hơn là Ghannouchi hiện nay. Phần lớn những hợp đồng ký kết với Tunisia dưới thời Ben Ali đều được Quốc Hội bù nhìn Tunisia phê chuẩn dễ dàng hơn. Nay sau cuộc cách mạng, điều “chắc” này trở nên “bất trắc”. Quyền lợi trong đó có cả nhân quyền của dân chúng Lybia, Tunisia, Algeria, Bờ Biển Ngà, các nước Đông và Tây Phi chỉ là ưu tiên thứ hai. Mới đây, những tiết lộ của trang mạng WikiLeaks càng cho thấy lập luận trên không có gì quá đáng. Hoa Kỳ hay ít nhất là các nhà buôn Mỹ có thể sẽ ngại làm ăn với Trung Cộng nếu Quốc Hội Trung Cộng không phải là thứ Quốc Hội mà hành pháp nói sao nghe vậy. Một đất nước có nền dân chủ vững mạnh sẽ khó cho công cuộc làm ăn kinh tế của họ. Nhân quyền và dân chủ là điều không thể không đặt ra được khi Mỹ làm ăn chung chạ với những quốc gia độc tài, ngay cả với Việt Nam, Trung Cộng. Nhưng việc họ có dùng mọi giá ha mọi áp lực để buộc các nhà lãnh đạo quốc gia này phải tôn trọng nhân quyền hơn hay không lại là một vấn đề khác. Ngay như đối với Việt Nam, chính phủ Hoa Kỳ kể cả Tổng Thống Barack Obama đã bao lần đề cập một cách công khai hồ sơ nhân quyền với Hà Nội trong các cuộc gặp gỡ, nhưng chưa thấy nhà cầm quyền Cộng Sản nhẹ tay hơn đối với những người bất đồng chính kiến. Nhưng liệu trong hậu trường những nhà lãnh đạo Mỹ có khuyên bảo gì ông Nguyễn Tấn Dũng hay không thì nay chưa ai biết được. Có thể lại phải chờ đến vài thập niên sau khi những hồ sơ về mối liên lạc ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Sản được giải mật, người ta mới được biết Mỹ có hành động tích cực với Hà Nội để thăng tiến nhân quyền tại Việt Nam hay không ! Nói tóm lại, ngày xưa Việt Nam có câu “Miếng trầu là đầu câu chuyện”, thì ngày nay dường như vấn đề nhân quyền thường là món quà để làm vừa lòng dân chúng và quốc hội ở các quốc gia có nền dân chủ tiên tiến, nhưng nó không phải là điều kiện ắt có và đủ cho mối bang giao. Điều cần nhất làm điều kiện bang giao với nhau là những hợp đồng làm ăn buôn bán. Khi tiền đã được đầu tư vào một nước nào đó, hiển nhiên các nhà tư bản không dại gì lại đi đánh đổi chúng để lấy sự bất trắc khi thảo luận về quyền con người. Một điều có thể hiểu được là trên thế giới có biết bao nhiêu tổ chức tranh đấu cho nhân quyền, nhưng kết quả vẫn còn rất khiêm tốn. Một số những thành công về tranh đấu nhân quyền của một số nhà tranh đấu mới chỉ có tác dụng giữ niềm tin về những giá trị con người không bị tan vỡ chứ chưa thay đổi được cảnh sống của các dân tộc trên thế giới. Đây là một thực tế cho thấy chế độ thực dân mới vẫn còn tồn tại trên trái đất. Người Cộng Sản vẫn huênh hoang về thành tích đánh đổ các chế độ thực dân mới. Nhưng điều oái oăm là chính đảng Cộng Sản Việt Nam ngày đang biến mình thành công cụ của chế độ thực dân mới. (V.A)
|
|
|
Post by Can Tho on May 4, 2020 10:36:05 GMT 9
Những trận đánh châu Á ít được biết đến đã thay đổi lịch sửGaugamela (331 TCN) đến Kohima (1944) www.thoughtco.com/twelve-little-known-asian-battles-that-changed-history-195818Bởi Kallie Szczepanski Cập nhật ngày 03 tháng 7 năm 2019 Có thể bạn chưa từng nghe về hầu hết trong số họ, nhưng những trận chiến châu Á ít được biết đến này có tác động lớn đến lịch sử thế giới. Các đế chế hùng mạnh trỗi dậy và sụp đổ, các tôn giáo lan rộng và bị kiểm tra, và các vị vua vĩ đại đã dẫn dắt lực lượng của họ đến vinh quang ... hoặc hủy hoại. Những trận chiến này trải dài qua nhiều thế kỷ, từ Gaugamela vào năm 331 trước Công nguyên đến Kohima trong Thế chiến II . Trong khi mỗi liên quan đến quân đội và các vấn đề khác nhau, họ chia sẻ một tác động chung đến lịch sử châu Á. Đây là những trận chiến mơ hồ làm thay đổi châu Á và thế giới mãi mãi. Trận Gaugamela, 331 TCNBức phù điêu chạm khắc sư tử săn một con bò tót ở Persepolis, Shiraz, tỉnh Fars, Iran. Hình ảnh Paul Biris / Getty Vào năm 331 trước Công nguyên, quân đội của hai đế chế hùng mạnh đã đụng độ tại Gaugamela, còn được gọi là Arbela. Khoảng 40.000 người Macedonia dưới thời Alexander Đại đế đang di chuyển về phía đông, bắt đầu một cuộc thám hiểm chinh phục sẽ kết thúc ở Ấn Độ. Tuy nhiên, theo cách của họ, có lẽ đứng 50-100.000 người Ba Tư do Darius III lãnh đạo. Trận Gaugamela là một thất bại nặng nề đối với người Ba Tư, người đã mất khoảng một nửa quân đội của họ. Alexander chỉ mất 1/10 quân số của mình. Người Palestin tiếp tục chiếm được kho bạc Ba Tư giàu có, cung cấp tiền cho các cuộc chinh phạt trong tương lai của Alexandre. Alexander cũng áp dụng một số khía cạnh của phong tục và trang phục Ba Tư. Thất bại của Ba Tư tại Gaugamela đã mở cua châu Á cho quân đội xâm lược của Alexander Đại đế. Trận Badr, 624 CE Trận Badr là một điểm then chốt trong lịch sử đầu tiên của đạo Hồi.Tiên tri Muhammad đã phải đối mặt với sự phản đối đối với tôn giáo mới thành lập của mình từ trong bộ lạc của mình, Quraishi ở Mecca. Một số nhà lãnh đạo Quraishi, bao gồm Amir ibn Hisham, đã thách thức những tuyên bố của Muhammad về lời tiên tri thiêng liêng và phản đối những nỗ lực của ông nhằm chuyển đổi người Ả Rập địa phương sang đạo Hồi. Muhammad và những người theo ông đã đánh bại một đội quân Meccan lớn gấp ba lần quân đội của họ tại Trận Badr, giết chết Amir ibn Hisham và những người hoài nghi khác, và bắt đầu quá trình Hồi giáo ở Ả Rập. Trong vòng một thế kỷ, phần lớn thế giới đã biết đã chuyển đổi sang đạo Hồi. Trận Qadisiyah, 636 CEĐầu tư Narseh Hình ảnh Jennifer Lavoura / Getty Mới từ chiến thắng của họ hai năm trước tại Badr, quân đội Hồi giáo mới nổi đã chiếm lấy Đế quốc Ba Tư Sassanid 300 tuổi vào tháng 11 năm 636 tại al-Qadisiyyah, ở Iraq ngày nay . Rashidun Caliphate của Ả Rập đã tạo ra lực lượng khoảng 30.000 người so với ước tính khoảng 60.000 người Ba Tư, nhưng người Ả Rập đã mang theo ngày. Khoảng 30.000 người Ba Tư đã thiệt mạng trong cuộc chiến, trong khi Rashidun chỉ mất khoảng 6.000 người. Người Ả Rập đã tịch thu một lượng lớn kho báu từ Ba Tư, giúp tài trợ cho các cuộc chinh phạt tiếp theo. Người Sassanids đã chiến đấu để giành lại quyền kiểm soát vùng đất của họ cho đến năm 653. Với cái chết vào năm đó của hoàng đế Sassanian cuối cùng, Yazdgerd III, Đế chế Sassanid sụp đổ. Ba Tư, hiện được gọi là Iran, đã trở thành một vùng đất Hồi giáo. Trận chiến sông Talas, 751 CECứu trợ chiến sĩ Hình ảnh Thanatham Piriyakarnjanakul / EyeEm / Getty Thật đáng kinh ngạc, chỉ 120 năm sau khi những người theo Muhammad chiến thắng những người không tin trong bộ lạc của mình tại Trận Badr, quân đội của Ả Rập đã ở xa về phía đông, đụng độ với lực lượng của Hoàng gia Trung Quốc. Hai người gặp nhau tại sông Talas, ở vùng đất hiện đại của Haiti và Quân đội Tang lớn hơn đã bị tiêu diệt. Đối mặt với các đường tiếp tế dài, người Ả Rập Abbassid đã không theo đuổi kẻ thù bị đánh bại của họ vào Trung Quốc. (Lịch sử sẽ khác nhau như thế nào, người Ả Rập đã chinh phục Trung Quốc vào năm 751?) Tuy nhiên, thất bại vang dội này làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc trên khắp Trung Á và dẫn đến sự chuyển đổi dần dần của hầu hết người châu Á miền Trung sang Hồi giáo. Nó cũng dẫn đến việc giới thiệu công nghệ mới cho thế giới phương Tây, nghệ thuật làm giấy. Trận chiến của Yorin, 1187 CEThánh giá và kiếm Hình ảnh Sean_Warren / Getty Trong khi các nhà lãnh đạo của Vương quốc Thập tự chinh Jerusalem tham gia vào một cuộc đấu tranh liên tiếp vào giữa những năm 1180, các vùng đất Ả Rập xung quanh đã được đoàn tụ dưới thời vua Kurd quyến rũ Salah ad-Din (được biết đến ở châu Âu là " Saladin "). Lực lượng của Saladin đã có thể bao vây quân đội Thập tự chinh, cắt chúng khỏi nước và nhu yếu phẩm. Cuối cùng, lực lượng Thập tự quân 20.000 mạnh đã bị giết hoặc bị bắt gần như đến người cuối cùng. Cuộc thập tự chinh thứ hai sớm kết thúc với sự đầu hàng của Jerusalem. Khi tin tức về sự thất bại của Cơ đốc giáo đến được Giáo hoàng Urban III, theo truyền thuyết, ông đã chết vì sốc. Chỉ hai năm sau, cuộc Thập tự chinh thứ ba đã được phát động (1189-1192), nhưng người châu Âu dưới thời Richard the Lionhearted không thể đánh bật Saladin khỏi Jerusalem. Trận chiến Tarain, 1191 và 1192 CEBức phù điêu chiến tranh trên các bức tường của Angkor Wat Campuchia Hình ảnh Apexphotos / Getty Thống đốc Tajik của tỉnh Ghazni của Afghanistan , Muhammad Shahab ud-Din Ghori, đã quyết định mở rộng lãnh thổ của mình. Trong khoảng thời gian từ năm 1175 đến 1190, ông đã tấn công Gujarat, chiếm được Peshawar, chinh phục Đế chế Ghaznavid và chiếm lấy Punjab. Ghori đã phát động một cuộc xâm lược chống lại Ấn Độ vào năm 1191 nhưng bị đánh bại bởi vua Hindu Rajput, Prithviraj III, trong Trận chiến đầu tiên của Tarain. Quân đội Hồi giáo sụp đổ, và Ghori bị bắt. Prithviraj đã thả tù nhân của mình, có lẽ là không chính xác, bởi vì Ghori trở lại vào năm sau với 120.000 quân. Bất chấp cáo buộc phalanx voi rung chuyển trái đất, Rajputs đã bị đánh bại. Kết quả là, miền bắc Ấn Độ nằm dưới sự cai trị của người Hồi giáo cho đến khi bắt đầu Raj của Anh vào năm 1858. Ngày nay, Ghori là một anh hùng dân tộc Pakistan. Trận Ayn Jalut, 1260 CEKẻ lừa đảo Mông Cổ không thể ngăn cản được tung ra bởi Genghis Khan cuối cùng đã gặp trận đấu của nó vào năm 1260 tại Trận Ayn Jalut, ở Palestine. Cháu trai của Genghis, Hulagu Khan, hy vọng đánh bại thế lực Hồi giáo cuối cùng còn lại, triều đại Mamluk của Ai Cập . Người Mông Cổ đã đánh tan các Sát thủ Ba Tư, bắt giữ Baghdad, tiêu diệt Abbasid Caliphate và chấm dứt triều đại Ayyubid ở Syria . Tuy nhiên, tại Ayn Jalut, vận may của người Mông Cổ đã thay đổi. Đại Khan Mongke đã chết ở Trung Quốc, buộc Hulagu phải quay trở lại Azerbaijan với hầu hết quân đội của mình để tranh giành quyền kế vị. Điều đáng lẽ là một cuộc đi bộ của người Mông Cổ ở Palestine đã biến thành một cuộc thi chẵn, 20.000 mỗi bên. Trận chiến đầu tiên của Panipat, 1526 CETừ năm 1206 đến 1526, phần lớn Ấn Độ được cai trị bởi Vương quốc Hồi giáo Delhi , được thành lập bởi những người thừa kế của Muhammad Shahab ud-Din Ghori, người chiến thắng trong Trận chiến thứ hai của Tarain. Năm 1526, người trị vì Kabul, hậu duệ của cả Genghis Khan và Timur (Tamerlane) tên là Zahir al-Din Muhammad Babur , đã tấn công quân đội Vương quốc lớn hơn nhiều. Lực lượng khoảng 15.000 người của Babur đã có thể vượt qua 40.000 quân và 100 con voi chiến của Sultan Ibrahim Lodhi vì Timurids có pháo binh. Tiếng súng đã làm những con voi hoảng sợ, chúng đã chà đạp người đàn ông của chúng trong sự hoảng loạn. Lodhi chết trong trận chiến, và Babur đã thành lập Đế quốc Mughal ("Mông Cổ"), cai trị Ấn Độ cho đến năm 1858 khi chính quyền thực dân Anh tiếp quản. Trận chiến Hansan-do, 1592 CEKhi thời Chiến Quốc kết thúc tại Nhật Bản, đất nước thống nhất dưới thời lãnh chúa samurai Hideyoshi. Ông quyết định củng cố vị trí của mình trong lịch sử bằng cách chinh phục Ming Trung Quốc. Cuối cùng, ông xâm chiếm Triều Tiên năm 1592. Quân đội Nhật Bản đã đẩy xa về phía bắc như Bình Nhưỡng. Tuy nhiên, quân đội phụ thuộc vào hải quân để tiếp tế. Hải quân Hàn Quốc dưới thời Đô đốc Yi Sun-shin đã tạo ra một số ít "thuyền rùa", tàu chiến bọc sắt đầu tiên được biết đến. Họ đã sử dụng những chiếc thuyền rùa và một chiến thuật sáng tạo được gọi là "đội hình cánh sếu" để thu hút Hải quân Nhật Bản lớn hơn nhiều gần đảo Hansan và nghiền nát nó. Nhật Bản mất 59 trong số 73 tàu, trong khi 56 tàu của Hàn Quốc đều sống sót. Hideyoshi buộc phải từ bỏ cuộc chinh phạt của Trung Quốc, và cuối cùng phải rút lui. Trận Geoktepe, 1881 CEAlexander I của Nga (1777-1825), khắc gỗ, xuất bản năm 1877 Hình ảnh ZU_09 / Getty Nước Nga Sa hoàng thế kỷ 19 đã tìm cách chống lại Đế quốc Anh đang bành trướng và tiếp cận các cảng nước ấm trên Biển Đen. Người Nga đã mở rộng về phía nam qua Trung Á, nhưng họ đã chạy lên chống lại một kẻ thù rất khó khăn - bộ lạc người Teke du mục của Turcomen. Năm 1879, Teke Turkmen đã đánh bại người Nga tại Geoktepe, làm xấu hổ Đế chế. Người Nga đã phát động một cuộc tấn công trả đũa vào năm 1881, san bằng pháo đài Teke tại Geoktepe, tàn sát những người bảo vệ và phân tán Teke trên sa mạc. Đây là sự khởi đầu của sự thống trị của Nga ở Trung Á, kéo dài qua Thời đại Xô Viết. Thậm chí ngày nay, nhiều nước cộng hòa Trung Á miễn cưỡng ràng buộc với nền kinh tế và văn hóa của nước láng giềng phía bắc. Trận Tsushima, 1905 CEVào lúc 6:34 sáng ngày 27 tháng 5 năm 1905, hải quân đế quốc Nhật Bản và Nga đã gặp nhau trong trận chiến trên biển cuối cùng của Chiến tranh Nga-Nhật . Cả châu Âu sững sờ trước kết cục: Nga phải chịu thất bại thảm hại. Hạm đội Nga dưới thời Đô đốc Rozhestvensky đang cố gắng không chú ý đến cảng Vladivostok, trên Bờ biển Thái Bình Dương của Siberia. Người Nhật phát hiện ra chúng, tuy nhiên. Phí cuối cùng: Nhật Bản mất 3 tàu và 117 người. Nga mất 28 tàu, 4.380 người thiệt mạng và 5.917 người bị bắt. Nga sớm đầu hàng, làm dấy lên cuộc nổi dậy năm 1905 chống lại Sa hoàng. Trong khi đó, thế giới chú ý đến một Nhật Bản mới lên ngôi. Sức mạnh và tham vọng của Nhật Bản sẽ tiếp tục phát triển ngay sau thất bại trong Thế chiến II, năm 1945. Trận chiến Kohima, 1944 CEMột bước ngoặt ít được biết đến trong Thế chiến II, Trận chiến Kohima đã đánh dấu bước tiến của Nhật Bản đối với Ấn Độ thuộc Anh. Nhật Bản tiến qua Miến Điện do Anh nắm giữ vào năm 1942 và 1943, với ý định về viên ngọc quý của đế chế Anh, Ấn Độ . Từ ngày 4 tháng 4 đến ngày 22 tháng 6 năm 1944, những người lính Quân đoàn Ấn Độ thuộc Anh đã chiến đấu trong một trận chiến kiểu bao vây đẫm máu với người Nhật dưới thời Kotoku Sato, gần làng Kohima ở phía đông bắc Ấn Độ. Thức ăn và nước uống thiếu thốn ở cả hai phía, nhưng người Anh đã phục hồi bằng không khí. Cuối cùng, người Nhật đói khát phải rút lui. Các lực lượng Ấn-Anh đã đưa họ trở lại qua Miến Điện . Nhật Bản mất khoảng 6.000 người trong trận chiến và 60.000 người trong Chiến dịch Miến Điện. Anh mất 4.000 tại Kohima, tổng cộng 17.000 ở Miến Điện.
|
|
|
Post by Can Tho on May 4, 2020 16:17:17 GMT 9
Vua porus của PauravaĐế quốc Macedonia, 336-323 TCN Cập nhật ngày 28 tháng 1 năm 2020 Vua Porus của Paurava là một người cai trị quan trọng ở tiểu lục địa Ấn Độ trong thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Porus đã quyết liệt chiến đấu với Alexander Đại đế , và không chỉ sống sót sau trận chiến đó mà còn tạo ra một nền hòa bình danh dự với anh ta và có được một sự cai trị thậm chí còn lớn hơn ở Punjab ngày nay là Pakistan. Thật kỳ lạ, câu chuyện của ông được viết bằng nhiều nguồn tiếng Hy Lạp (Plutarch, Arrian, Diodorus, và Ptolemy, trong số những người khác) nhưng hầu như không được đề cập trong các nguồn của Ấn Độ, một thực tế khiến một số nhà sử học tự hỏi về kết thúc "hòa bình". Nhím Porus, cũng đánh vần là poros và Puru trong tiếng Phạn, là một trong những thành viên cuối cùng của triều đại Puru, một gia tộc được biết đến ở cả Ấn Độ và Iran và được cho là có nguồn gốc từ Trung Á. Các gia tộc là thành viên của Parvatiya ("người leo núi") được đề cập bởi các nhà văn Hy Lạp. Porus cai trị vùng đất giữa Hydaspes (Jhelum) và các dòng sông Acesines ở khu vực Punjab và lần đầu tiên ông xuất hiện trong các nguồn của Hy Lạp liên quan đến Alexander. Nhà cai trị Achaemenid người Ba Tư Darius III đã yêu cầu poros giúp đỡ để tự bảo vệ mình trước Alexander sau trận thua thảm khốc thứ ba tại Gaugamela và Arbela vào năm 330 trước Công nguyên. Thay vào đó, người của Darius, phát ốm vì thua quá nhiều trận chiến, đã giết anh ta và gia nhập lực lượng của Alexandre. Trận chiến sông Hydaspes Khảm Alexander Đại đế Chi tiết về Khảm Alexander Đại đế trong Trận chiến phát hành, Pompeii. Hình ảnh Getty / Leemage / Corbis Vào tháng 6 năm 326 trước Công nguyên, Alexander quyết định rời Bactria và băng qua sông Jhelum vào vương quốc của porus. Một số đối thủ của porus đã cùng với Alexander tham gia vào lục địa, nhưng Alexander bị giữ ở rìa sông vì đó là mùa mưa và dòng sông bị sưng và hỗn loạn. Nó đã không ngăn anh ta lâu. Lời nói đến porus mà Alexander đã tìm thấy một nơi để vượt qua; ông đã gửi con trai mình để điều tra, nhưng con trai và 2.000 người đàn ông và 120 xe ngựa của ông đã bị phá hủy. Porus đã đến gặp chính Alexander, mang theo 50.000 người, 3.000 con bê, 1.000 xe ngựa và 130 con voi chiến chống lại 31.000 con của Alexandre (nhưng con số rất khác nhau từ nguồn này đến nguồn khác). Các cơn gió mùa đã chứng tỏ nhiều trở ngại đối với các cung thủ Ấn Độ (những người không thể sử dụng mặt đất lầy lội để mua hàng cho các cung dài của họ) so với những người Macedonia đã vượt qua Hydaspes bị sưng trên pontoons. Quân đội của Alexandre chiếm thế thượng phong; ngay cả những con voi Ấn Độ được cho là đã đóng dấu quân đội của chính họ. Hậu quả Chandragupta Dấu chân của Chandragupta. Romana Klee / Flickr Theo các báo cáo của Hy Lạp, vị vua bị thương nhưng không bị thương đã đầu hàng Alexander, người đã biến anh ta thành một satrap (về cơ bản là một nhiếp chính vương Hy Lạp) với quyền kiểm soát vương quốc của chính mình. Alexander tiếp tục tiến vào Ấn Độ, giành được các khu vực do 15 đối thủ của porus kiểm soát và 5.000 thành phố và làng mạc khá lớn. Ông cũng thành lập hai thành phố của những người lính Hy Lạp: Nikaia và Boukephala, tên cuối cùng được đặt theo tên con ngựa Bucephalus của ông, người đã chết trong trận chiến. Quân đội của porus đã giúp Alexander đè bẹp Kathaioi, và porus được trao quyền kiểm soát phần lớn diện tích ở phía đông vương quốc cũ của ông. Tiến lên của Alexanders dừng lại ở vương quốc Magadha, và ông rời khỏi tiểu lục địa, để lại porus là người đứng đầu của satrapy ở Punjab xa về phía đông như sông Beas và Sutlej. Nó đã không tồn tại lâu. Porus và đối thủ của ông Chandragupta đã lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại tàn dư của sự cai trị của Hy Lạp, và chính ông porus đã bị ám sát trong khoảng từ năm 321 đến 315 trước Công nguyên. Chandragupta sẽ tiếp tục thành lập Đế chế Mauryan vĩ đại . Nhà văn cổ Các nhà văn cổ đại về porus và Alexander Đại đế tại Hydaspes, những người, không may, không phải là người cùng thời với Alexander, là Arrian (có lẽ là tốt nhất, dựa trên tài khoản nhân chứng của Ptolemy), Plutarch, Q. Curtius Rufus, Diodorus và Marcus Junianus Justinus ( Bản tóm tắt lịch sử Phi-líp của Pompeius Trogus ). Các học giả Ấn Độ như Đức Phật Prakash đã tự hỏi liệu câu chuyện về sự mất mát và đầu hàng của porus có thể là một quyết định bình đẳng hơn các nguồn tin Hy Lạp mà chúng ta tin hay không. Trong trận chiến chống lại porus, những người đàn ông của Alexandre đã gặp phải chất độc trên ngà voi. Lịch sử quân sự của Ấn Độ cổ đại nói rằng những chiếc ngà được nhét bằng những thanh kiếm bọc chất độc, và Thị trưởng Adrienne xác định chất độc là nọc độc của Russell, khi cô viết trong "The Uses of Snake Venom in Antiquity". Bản thân porus được cho là đã bị giết bởi "tiếp xúc thân thể với một cô gái bị đầu độc". Nguồn De Beauvoir Priaulx, Osmond. " Trên Đại sứ quán Ấn Độ đến Augustus ." Tạp chí của Hiệp hội Á hoàng Hoàng gia Anh và Ireland 17 (1860): 309-21. In. Garzilli, Enrica. " Tài liệu Hy Lạp và Latinh đầu tiên về Sahagamana và một số vấn đề liên quan (Phần 1). " Tạp chí Ấn Độ-Iran 40.3 (1997): 205-43. In. Prakash, Phật. " Hiên ." Biên niên sử của Viện nghiên cứu phương Đông Bhandarkar 32.1 / 4 (1951): 198-233. In. Warraich, Tauqeer Ahmad. "Những người châu Âu đầu tiên ở Pakistan cổ đại và tác động của họ đối với xã hội của nó." Tầm nhìn Pakistan 15.191-219 (2014). In.
|
|
|
Post by Can Tho on May 4, 2020 16:29:08 GMT 9
Szczepanski, Kallie. "Những kẻ chinh phục vĩ đại của châu Á." Th thinkCo, ngày 11 tháng 2 năm 2020, thinkco.com/asias-great-conquerors-195682. Những kẻ chinh phục vĩ đại của châu ÁHọ đến từ thảo nguyên Trung Á, gây ra nỗi sợ hãi trong trái tim của các dân tộc định cư ở Tây Á và Châu Âu. Ở đây, hãy xem xét kỹ hơn về Attila the Hun, Genghis Khan và Timur (Tamerlane): Những kẻ chinh phục vĩ đại nhất châu Á từng biết. Attila the Hun, 406 (?) - 453 sau Công nguyên Trận chiến đồng bằng Catalaunian giữa người La Mã và người Huns (451)
Attila the Hun cai trị một đế chế trải dài từ Uzbekistan ngày nay đến Đức và từ Biển Baltic ở phía bắc đến Biển Đen ở phía nam. Người của ông, người Hun , di chuyển về phía tây đến Trung Á và Đông Âu sau khi họ bị Trung Quốc đánh bại. Trên đường đi, chiến thuật và vũ khí chiến đấu vượt trội của Huns có nghĩa là những kẻ xâm lược có thể chinh phục các bộ lạc trên đường đi. Attila được nhớ đến như một bạo chúa khát máu trong nhiều biên niên sử, nhưng những người khác nhớ đến ông như một vị quân vương tương đối tiến bộ. Đế chế của ông sẽ tồn tại chỉ sau 16 năm, nhưng con cháu của ông có thể đã thành lập Đế chế Bulgaria.
Thành Cát Tư Hãn, 1162 (?) - 1227 sau Công nguyên Tượng Thành Cát Tư Hãn tại tòa nhà chính phủ, Ulaanbaatar, Mông Cổ
Thành Cát Tư Hãn sinh ra Temujin, con trai thứ hai của một thủ lĩnh người Mông Cổ nhỏ . Sau cái chết của cha mình, gia đình của Temujin rơi vào cảnh nghèo khó, và cậu bé thậm chí còn bị bắt làm nô lệ sau khi giết anh trai cùng cha khác mẹ của mình. Từ khởi đầu không thể tránh khỏi này, Thành Cát Tư Hãn đã vươn lên chinh phục một đế chế rộng lớn hơn Rome ở đỉnh cao quyền lực. Ông tỏ ra không thương xót những người dám chống lại ông, nhưng cũng ban hành một số chính sách rất tiến bộ, như miễn trừ ngoại giao và bảo vệ cho tất cả các tôn giáo.
Timur (Tamerlane), 1336-1405 sau Công nguyên Bức tranh tường của Tamerlane, Uzbekistan Hình ảnh Tim Graham / Getty
Kẻ chinh phục Turkic Timur (Tamerlane) là một người đàn ông mâu thuẫn. Ông xác định mạnh mẽ với hậu duệ Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn nhưng đã phá hủy sức mạnh của Golden Horde. Ông tự hào về tổ tiên du mục của mình nhưng thích sống ở các thành phố lớn như thủ đô của ông tại Samarkand. Ông đã tài trợ cho nhiều tác phẩm nghệ thuật và văn học vĩ đại nhưng cũng san bằng các thư viện xuống đất. Timur cũng tự coi mình là một chiến binh của Allah, nhưng các cuộc tấn công dữ dội nhất của anh ta đã bị san bằng ở một số thành phố lớn của Hồi giáo. Một thiên tài quân sự tàn bạo (nhưng quyến rũ), Timur là một trong những nhân vật hấp dẫn nhất trong lịch sử.
|
|
|
Post by Can Tho on May 4, 2020 16:41:59 GMT 9
Quy tắc Hồi giáo sớm ở Ấn Độ Từ 1206 đến 1398 CEBởi Kallie Szczepanski Cập nhật ngày 03 tháng 7 năm 2019 Sự cai trị của người Hồi giáo mở rộng ra phần lớn Ấn Độ trong suốt thế kỷ mười ba và mười bốn CE. Hầu hết những người cai trị mới đã xuống tiểu lục địa từ ngày nay là Afghanistan .
Ở một số khu vực nhất định, như miền nam Ấn Độ, các vương quốc Ấn giáo đã tổ chức và thậm chí đẩy lùi chống lại thủy triều Hồi giáo. Tiểu lục địa cũng phải đối mặt với cuộc xâm lược của những kẻ chinh phục nổi tiếng ở Trung Á Genghis Khan , người không phải là người Hồi giáo, và Timur hay Tamerlane, là người.
Thời kỳ này là tiền thân của Thời đại Mughal (1526 Tái1857). Các Đế quốc Mogul được thành lập bởi Babur, một hoàng tử Hồi giáo có nguồn gốc từ Uzbekistan. Dưới thời Mughals, đặc biệt là Akbar Đại đế , các hoàng đế Hồi giáo và các đối tượng Ấn giáo của họ đã đạt được một sự hiểu biết chưa từng có và tạo ra một nhà nước đa văn hóa, đa sắc tộc và đa dạng về tôn giáo.
1206 Chân1526: Vương quốc Hồi giáo Delhi cai trị Ấn Độ
Qutub Minar chống lại bầu trời xanh ở Delhi Qutub Minar ở Delhi, Ấn Độ, được xây dựng vào những năm 1200 CE, cho thấy sự kết hợp giữa phong cách kiến trúc của Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Hình ảnh Kriangkrai Thitimakorn / Getty
Năm 1206, một cựu nô lệ Mamluk tên là Qutbubuddin Aibak đã chinh phục miền bắc Ấn Độ và thành lập một vương quốc. Ông tự đặt tên cho mình là sultan của Delhi. Aibak là một người nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ Trung Á, cũng như những người sáng lập của ba trong số bốn vị vua ở Delhi tiếp theo. Tổng cộng có năm triều đại của các vị vua Hồi giáo cai trị phần lớn miền bắc Ấn Độ cho đến năm 1526, khi Babur tràn xuống từ Afghanistan để thành lập triều đại Mughal.
1221: Trận chiến Ấn Độ bức tượng Thành Cát Tư Hãn lớn trên đỉnh một tòa nhà
Tượng đài Thành Cát Tư Hãn ở Mông Cổ. Hình ảnh Bruno Morandi / Getty
Năm 1221, sultan Jalal ad-Din Mingburnu rời thủ đô của mình tại Samarkand, Uzbekistan. Đế chế Khwarezmid của ông đã rơi vào quân đội tiến công của Thành Cát Tư Hãn, và cha ông đã bị giết, vì vậy, vị vua mới trốn chạy về phía nam và phía đông vào Ấn Độ. Tại sông Indus, nơi hiện là Pakistan, người Mông Cổ đã bắt được Mingburnu và 50.000 quân còn lại của ông. Quân đội Mông Cổ chỉ mạnh 30.000 người, nhưng nó đã chèn ép người Ba Tư chống lại bờ sông và tàn sát họ. Có thể dễ dàng cảm thấy tiếc cho sultan, nhưng quyết định giết cha sứ của Mongol là tia lửa ngay lập tức khởi đầu các cuộc chinh phạt của Mông Cổ ở Trung Á và xa hơn nữa.
1250: Triều đại Chola rơi xuống Pandyans ở Nam Ấn Độ
Đền Brihadeeswarar, được xây dựng vào khoảng 1000 CE bởi triều đại Chola. Hình ảnh CR Shelare / Getty
Triều đại Chola ở miền nam Ấn Độ có một trong những triều đại dài nhất trong bất kỳ triều đại nào trong lịch sử loài người. Được thành lập một thời gian vào những năm 300 trước Công nguyên, nó tồn tại đến năm 1250 CE. Không có hồ sơ về một trận chiến quyết định duy nhất; đúng hơn, Đế quốc Pandyan láng giềng chỉ đơn giản phát triển về sức mạnh và tầm ảnh hưởng đến mức nó làm lu mờ và dần dần dập tắt chính thể Chola cổ đại. Các vương quốc Hindu đã ở phía nam đủ xa để thoát khỏi ảnh hưởng của những người chinh phục Hồi giáo đến từ Trung Á.
1290: Gia đình Khilji chiếm Vương quốc Delhi dưới thời Jalal ud-Din Firuz Ngôi mộ của Bibi Jawindi với cây cối và bầu trời xanh phía sau nó Ngôi mộ của Bibi Jawindi ở Uch là một ví dụ về kiến trúc Vương quốc Delhi.
hình ảnh tariq sulemani / Getty
Năm 1290, triều đại Mamluk ở Delhi sụp đổ và triều đại Khilji trỗi dậy để trở thành người thứ hai trong số năm gia đình cai trị Vương quốc Hồi giáo Delhi. Triều đại Khilji sẽ chỉ duy trì quyền lực cho đến năm 1320.
1298: Trận Jalandhar
Pháo đài Kot Diji, Sindh Pakistan Tàn tích của pháo đài Kot Diji ở Sindh, Pakistan. Hình ảnh SM Rafiq / Getty Trong thời gian trị vì ngắn ngủi 30 năm của họ, triều đại Khilji đã chống lại thành công một số cuộc xâm lược từ Đế quốc Mông Cổ. Trận chiến cuối cùng, quyết định chấm dứt những nỗ lực của Mông Cổ nhằm chiếm Ấn Độ là Trận Jalandhar năm 1298, trong đó quân đội Khilji đã tàn sát khoảng 20.000 người Mông Cổ và đẩy những người sống sót ra khỏi Ấn Độ mãi mãi.
1320: Người cai trị Turkic Ghiyasuddin Tughlaq đảm nhận Vương quốc Hồi giáo Delhi
Lăng mộ của Feroze Shah Tughluq Lăng mộ của Feroze Shah Tughluq, người kế vị Muhamad bin Tughluq với tư cách là Quốc vương của Dehli. Varun Shiv Kapur / Wikimedia Commons / CC BY 2.0
Năm 1320, một gia đình mới gồm người Thổ Nhĩ Kỳ hỗn hợp và người Ấn Độ đã nắm quyền kiểm soát Vương quốc Hồi giáo Delhi, bắt đầu thời kỳ Tughlaq. Được thành lập bởi Ghazi Malik, triều đại Tughlaq mở rộng về phía nam trên khắp cao nguyên Deccan và lần đầu tiên chinh phục hầu hết miền nam Ấn Độ. Tuy nhiên, những lợi ích lãnh thổ này không kéo dài. Đến năm 1335, Vương quốc Hồi giáo Delhi đã thu hẹp trở lại khu vực quen thuộc ở phía bắc Ấn Độ.
Điều thú vị là, du khách người Ma-rốc nổi tiếng Ibn Battuta từng là một thẩm phán qadi hoặc Hồi giáo tại tòa án Ghazi Malik, người đã lấy tên ngai vàng là Ghyasuddin Tughlaq. Anh ta không có ấn tượng tốt với nhà cai trị mới của Ấn Độ, coi thường những sự tra tấn khác nhau đối với những người không nộp thuế, bao gồm cả việc họ bị rách mắt hoặc bị chì chảy xuống. Ibn Battuta đặc biệt kinh hoàng khi những nỗi kinh hoàng này xảy ra với người Hồi giáo cũng như những kẻ ngoại đạo.
1336 Chân1646: Triều đại của Đế chế Vijayanagara, Vương quốc Ấn Độ giáo miền Nam Ấn Độ
Đền Vitthala chống lại bầu trời xanh Đền Vitthala ở Karnataka. Hình ảnh di sản / Lưu trữ Hulton / Hình ảnh Getty
Khi sức mạnh Tughlaq nhanh chóng suy yếu ở miền nam Ấn Độ, một đế chế mới của Ấn Độ giáo đã vội vã lấp đầy khoảng trống quyền lực. Đế quốc Vijayanagara sẽ cai trị hơn ba trăm năm từ Karnataka. Nó mang lại sự thống nhất chưa từng có cho miền nam Ấn Độ, chủ yếu dựa vào sự đoàn kết của Ấn Độ giáo trước mối đe dọa của người Hồi giáo ở phía bắc.
1347: Vương quốc Hồi giáo Bahmani Được thành lập trên cao nguyên Deccan; Kéo dài đến năm 1527
hình ảnh nâu đỏ của nhà thờ Hồi giáo tại Gulbarga Fort Ảnh từ những năm 1880 của nhà thờ Hồi giáo cũ của thủ đô Bahmani, tại Pháo đài Gulbarga ở Karnataka. Phạm vi công cộng
Mặc dù Vijayanagara có thể hợp nhất phần lớn miền nam Ấn Độ, nhưng họ đã sớm mất Cao nguyên Deccan màu mỡ trải dài qua eo của tiểu lục địa để đến một vương quốc Hồi giáo mới. Vương quốc Hồi giáo Bahmani được thành lập bởi một phiến quân Turkic chống lại Tughlaqs được gọi là Ala-ud-Din Hassan Bahman Shah. Anh ta đánh bại Deccan khỏi Vijayanagara, và vương quốc của anh ta vẫn mạnh trong hơn một thế kỷ. Tuy nhiên, vào những năm 1480, Vương quốc Hồi giáo Bahmani đã đi vào thời kỳ suy tàn. Đến năm 1512, năm vương quốc nhỏ hơn đã tan vỡ. Mười lăm năm sau, nhà nước trung tâm Bahmani đã biến mất. Trong vô số trận chiến và cuộc giao tranh, các quốc gia kế vị nhỏ bé đã tìm cách ngăn chặn sự thất bại hoàn toàn của Đế quốc Vijayanagar. Tuy nhiên, vào năm 1686, Hoàng đế Aurengzeb tàn nhẫn người Mughals đã chinh phục tàn dư cuối cùng của Vương quốc Hồi giáo Bahmani.
1378: Vương quốc Vijayanagara chinh phục Vương quốc Hồi giáo Madurai chạm khắc cứu trợ của quân đội
Lính Vijayanagara khắc trên đá.
hình ảnh jetFoto / Getty
Vương quốc Madurai, còn được gọi là Vương quốc Ma'bar, là một khu vực khác do người Thổ Nhĩ Kỳ cai trị đã thoát khỏi Vương quốc Hồi giáo Delhi. Có trụ sở ở xa về phía nam tại Tamil Nadu, Vương quốc Madurai chỉ tồn tại 48 năm trước khi nó bị Vương quốc Vijayanagara chinh phục.
1397 Từ1398: Timur the Lame (Tamerlane) Xâm chiếm và cướp phá Delhi bức tượng Tamerlane cưỡi ngựa trên nền trời xanh và mây
Tượng Timur the Lame (Tamerlane) ở Uzbekistan. Hình ảnh Gim42 / Getty
Thế kỷ thứ mười bốn của lịch tây đã kết thúc trong máu và hỗn loạn cho Vương triều Tughlaq của Vương quốc Hồi giáo Delhi. Kẻ chinh phục khát máu Timur, còn được gọi là Tamerlane, đã xâm chiếm miền bắc Ấn Độ và bắt đầu chinh phục từng thành phố của Tughlaqs. Công dân ở các thành phố bị ảnh hưởng đã bị tàn sát, những cái đầu bị cắt đứt của họ chất thành những kim tự tháp. Vào tháng 12 năm 1398, Timur chiếm Delhi, cướp phá thành phố và tàn sát cư dân của nó. Tughlaqs tiếp tục nắm quyền cho đến năm 1414, nhưng thành phố thủ đô của họ đã không phục hồi sau vụ khủng bố Timur trong hơn một thế kỷ.
|
|