|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 13:53:20 GMT 9
Lịch sử Giải thưởng Nobel Ngày 27-11-1895, tại Câu lạc bộ Thụy Điển ở Pari, trước mặt những người làm chứng, Kỹ sư kiêm nhà doanh nghiệp Alfred Nobel - người được thế giới mệnh danh là "vua thuốc nổ" - đã ký một bản di chúc không bình thường. Việc đó xảy ra trước khi ông qua đời 378 ngày. Trong di chúc có đoạn viết: "... Toàn bộ tài sản của tôi để lại sau khi bán đi cần được phân phối như sau: Những người thực hiện di chúc phải làm cho tiền vốn trở thành những chứng khoán và lập thành quỹ. Lãi của quỹ được dùng làm phần thưởng cho những người trong những năm qua đã đem lại nhiều lợi ích nhất cho loài người. Số tiền cần được chia thành 5 phần bằng nhau: một phần dành cho người có sáng chế hoặc phát minh quan trọng nhất cho lĩnh vực vật lý; phần thứ hai cho hoá học; phần thứ ba cho sinh lý học và y học; phần thứ tư cho người tạo ra tác phẩm văn học nổi tiếng nhất; phần thứ năm cho người có công đóng góp lớn nhất trong sự nghiệp đoàn kết các dân tộc, xóa bỏ chế độ nô lệ hoặc làm giảm lực lượng quân đội và giúp thúc đẩy các tiến trình hòa bình. Giải thưởng cho các nhà vật lý và hóa học do Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển xét duyệt, giải thưởng về sinh lý học và y học do Trường ĐH Carôlai ở Stockholm xét duyệt, giải thưởng hòa bình do một hội đồng 5 người do Viện Na Uy bầu ra xét duyệt. Tôi đặc biệt mong muốn khi xét duyệt giải thưởng không nên quan tâm đến nguồn gốc của người được xét, sao cho giải được xứng đáng cho những người xứng đáng nhất, không phụ thuộc vào việc họ có phải là người Scandinavie hay không...". Vương quốc Thụy Điển đã soạn thảo qui chế tổ chức Nobel để quản lý gia tài và qui chế của các ủy ban Nobel. Năm 1901, những giải Nobel đầu tiên được cấp. Các ủy ban Nobel được bầu tối đa cho 12 năm, gồm 5 vị cho mỗi ủy ban. Các vị này chọn lựa các danh nhân thế giới. Năm 1968, Ngân hàng Thụy Điển lập thêm giải Nobel thứ sáu: giải Nobel về kinh tế vào dịp kỷ niệm 300 năm của ngành ngân hàng. Hàng năm, các ủy ban bình chọn người và công trình được trao giải. Quyết định của các ủy ban là dứt khoát, không thay đổi và không được khiếu nại. Đúng 4g30 chiều ngày 10-12 mỗi năm, cả thế giới lại được chứng kiến các giải thưởng Nobel danh giá trao cho các danh nhân tại Stockholm và tại Oslo. Chọn thời điểm 4g30 chiều ngày 10-12 vì đó là giờ tạ thế của A.Nobel (năm 1896, tại Roma, Italia); chọn nơi trao giải là Stockholm vì đó là nơi A.Nobel được sinh ra (vào ngày 21-10-1833). Và tại Oslo (Na Uy) vì từ năm 1815 - năm sáng lập triều đại Bernadotte - đến năm 1905, hai nước Thụy Điển và Na Uy thuộc về một vương quốc. Với toàn bộ gia sản (gần 70 triệu kronor Thụy Điển lúc đó) và di chúc lập các giải Nobel mà ông để lại, A.Nobel ước mong khuyến khích, phát triển các công trình nghiên cứu khoa học để góp vào sự hiểu biết của nhân loại và hòa bình thế giới. Mặc dù góp công không nhỏ trong các nghiên cứu đạt giải Nobel, nhưng nhiều nhà khoa học đã bị quên, không hề có tên trong danh sách nhận giải. Alfred Nobel đã dành 94% trị giá tài sản để lập nên 5 giải Nobel (Vật lý, Hóa học, Sinh lý học hay Y học, Văn học và Hòa bình) cho những ai "trong những năm trước khi giải được trao đó, đã đưa đến những lợi ích lớn nhất cho con người”. Vào năm 1968, Ngân hàng Thụy Điển đưa thêm vào một giải về lĩnh vực khoa học kinh tế. Thế nhưng trên thực tế, không phải lúc nào giải thưởng cao quý này cũng được trao cho đúng chủ nhân của nó. Edouard Branly Nghiên cứu của Heinrich Rudolf Hertz và Edouard Branly là nguồn gốc công trình điện báo vô tuyến của Guglielmo Marchese Marconi. Tuy nhiên, Ủy ban xét duyệt giải Nobel Vật lý năm 1909 đã quên Edouard Branly khi trao giải cho công trình này, dù Marconi có xác nhận công lao của Branly. Guglielmo Marconi Bộ Bưu điện và Điện báo Italy đã từ chối giúp đỡ tài chính cho Marconi sau khi ông giới thiệu các công trình mà họ cho là ngông cuồng. Bởi vậy, Marconi qua Anh để tiếp tục nghiên cứu về việc truyền sóng. Tại Italy, kỳ công về kỹ thuật của ông cuối cùng đã được công nhận khi dịch vụ điện thoại vô tuyến mà ông mở ra với sự giúp đỡ của học trò - Edouard Branly - phát triển. Branly nhận được giải Nobel, nhưng Marconi lại không được mời để chia giải thưởng với người học trò nổi tiếng này. Charles Best Charles Best - người lẽ ra đã được cùng nhận giải Nobel Y khoa 1923. (Ảnh: Physics) Năm 1923, Frederick Grant Banting - người khám phá ra insuline được trao giải Nobel Y khoa. Cùng chia giải với ông có John McLeod, trong khi vinh dự này lẽ ra phải dành cho Charles Best. McLeod chỉ là người chia cho Banting một góc phòng thí nghiệm, một người phụ tá và các con vật thí nghiệm trong hai tháng hè, khi ông ghé qua Scotland, trong khi Charles Best là cộng sự gần nhất, gắn bó với công trình. Tức giận vì Charles Best bị đối xử bất công, Banting đã chia phần của ông cho Charles Best. Sau đó, Ủy ban xét duyệt Nobel nhận ra sai lầm nhưng họ không có phương tiện nào để sửa lại, vì những quyết định đã ban ra rồi không thể thu hồi được. Dominique Stehelin John Bishop và Harold Varmus được giải Nobel về Y học năm 1989 nhờ khám phá về nguồn gốc khối u sau khi nhiễm virus. Nhưng nhiều nhà khoa học Pháp rất tiếc cho Dominique Stehelin vì ông chính là người khám phá ra điều đó đầu tiên khi làm thực tập hậu tiến sĩ năm 1976. Theo họ, lẽ ra Stehelin phải được đứng chung giải Nobel
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 14:17:01 GMT 9
Di chúc của Nobel - 3/10/2006 14h:28 Đã thành thông lệ, khi mỗi năm, vào tháng 10, các giải thưởng Nobel được lần lượt công bố, vinh danh những con người, tập thể có những đóng góp lớn nhất cho lợi ích của nhân loại. Nhưng ít ai biết được những tranh cãi phía sau giải thưởng uy tín nhất thế giới này. Mùa giải Nobel 2006 khởi đầu Nobel Y học 2006 về tay hai nhà khoa học Mỹ Không được thiên vị Nobel là nhà bác học nổi tiếng thế giới về nghiên cứu và chế tạo thuốc nổ ở thế kỷ 19. Ông sở hữu 355 hạng mục bản quyền sáng chế phát minh và trên 100 xí nghiệp về thuốc nổ ở nhiều nước trên thế giới. Do vậy, ông được mệnh danh là “vua thuốc nổ”. Những năm cuối đời, Alfred Bernhard Nobel (1833-1896) đã viết 3 bản Di chúc vào các năm 1889, 1893, 1895 về việc xử lý số tài sản của ông sau khi ông qua đời. Bản cuối cùng là bản Di chúc chuẩn được ông gửi vào một ngân hàng ở Stockholm. Nguyên văn: Người ký tên dưới đây là Alfred Bernhard Nobel. Tôi đã suy nghĩ kỹ càng và công bố Di chúc cuối cùng về việc xử lý số tài sản tôi để lại sau khi tôi qua đời như sau: Toàn bộ tài sản đó được chuyển thành tiền mặt, người thừa hành của tôi sẽ đầu tư vào chứng khoán một cách an toàn và cấu thành một loại quỹ. Lợi nhuận của quỹ được chia thành 5 phần bằng nhau để thưởng cho những người có cống hiến lớn nhất đối với lợi ích của nhân loại trong năm trước đó, bao gồm: Người có phát hiện hoặc phát minh quan trọng nhất về lĩnh vực Vật lí; Người có phát hiện hoặc cải tiến quan trọng nhất về lĩnh vực Hóa học; Người có phát hiện quan trọng nhất trong lĩnh vực Sinh lí hoặc Y học; Người từng sáng tác tác phẩm văn học kiệt xuất nhất theo khuynh hướng chủ nghĩa lí tưởng; Người từng có cống hiến lớn nhất hoặc tốt nhất đối với việc thúc đẩy mối quan hệ hữu nghị giữa các nước, việc loại bỏ hoặc cắt giảm binh bị, quân đội và trong các hội nghị hoà bình. Nhà bác học nổi tiếng thế giới Alfred Bernhard Nobel (Ảnh: lucidcafe) Viện khoa học Hoàng gia Thụy Điển xét trao tặng đối với giải vật lí và giải hóa học; Viện y học Stockholm xét trao tặng đối với giải sinh lí hoặc y học; Viện văn học Thụy Điển Stockholm xét trao tặng đối với giải văn học; Giải hòa bình do một ủy ban gồm 5 người được nghị viện Na Uy cử ra để xét trao tặng. Ước muốn rõ ràng nhất của tôi là: khi xem xét để trao giải thưởng cho những nhân vật nêu trên hoàn toàn không thiên vị về quốc tịch của người đó, bất kể họ có phải là người Scandinavia hay không (Thụy Điển ở về phía Đông của bán đảo Scandinavia ở Bắc Âu - NV), chỉ cần họ xứng đáng. Việc lập những giải thưởng nêu trên là nguyện vọng bức thiết nhất của bản thân tôi. Đây là bản Di chúc có hiệu lực duy nhất của tôi. Sau khi tôi qua đời, nếu phát hiện những bản di chúc khác trước đó về xử lý tài sản của tôi thì những bản di chúc ấy đều vô hiệu. Alfred Bernhard Nobel Ngày 27 tháng 11 năm 1895 Năm 1968, nhân kỷ niệm 300 năm ngày thành lập Ngân hàng Thụy Điển, Ngân hàng này đã xuất tiền lập giải Nobel kinh tế, gọi là “Giải kinh tế học kỷ niệm Nobel” nhằm trao cho những nhân vật có cống hiến lớn trong lĩnh vực nghiên cứu kinh tế. Giải này được trao từ năm 1969 cùng thời điểm trao các giải Nobel khác trong năm. Tranh cãi Sau khi bản Di chúc của Nobel được công bố, lập tức gây nhiều tranh luận ở Thụy Điển, nhất là trong giới luật sư và báo chí. Khi đó người viết Di chúc đã yên nghỉ dưới suối vàng được hai năm. Nhiều tờ báo đăng bài khuyến khích những người họ hàng thân thuộc của Nobel làm đơn thưa kiện. Họ cho rằng Nobel là người Thụy Điển nhưng trong bình xét giải thưởng ông chẳng có chút ưu ái gì đối với người Scandinavia. Hơn nữa, giải Hoà bình ông lại giao cho Na Uy bình xét và trao giải, điều này phương hại đến lợi ích của Thụy Điển. Một số thành viên trong Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển thì cho rằng Nobel dùng tài sản của mình lập giải thưởng để thưởng cho những nhân vật kiệt xuất, nhưng thực ra tài sản của Nobel có được là nhờ công sức của nhiều người lao động và khoáng sản tự nhiên, đáng ra phải chia đều cho các thành viên trong xã hội Thụy Điển. Một số luật sư thì cố soi vào những sơ hở trong bản Di chúc nhằm vô hiệu nó. Họ cho rằng, bản Di chúc này không nêu rõ người lập Di chúc là công dân nước nào; do đó, khó xác định được cơ quan chấp pháp của nước nào có thẩm quyền phán quyết tính hợp pháp của bản Di chúc, càng không thể xác định được chính phủ nước nào đứng ra tổ chức ủy ban giải Nobel. Trên thực tế thì Nobel là “người của thế giới”. Ông sinh ra ở Thụy Điển nhưng trưởng thành ở Nga, hoạt động sáng tạo khắp toàn cầu rồi qua đời ở Ý. Những năm cuối đời ông không mang quốc tịch nước nào. Các luật sư còn nêu ra một số điểm sơ hở khác như trong Di chúc không nêu rõ toàn bộ tài sản của Nobel do ai quản lý, không chỉ định đích danh ai đứng ra thành lập quỹ đó, do vậy người thừa hành thực hiện Di chúc không có quyền thừa kế số tài sản đó và không thể tồn tại một tổ chức thừa kế quỹ giải thưởng. Điều làm nhiều người ngạc nhiên là, theo Di chúc của Nobel thì Viện khoa học Hoàng gia Thụy Điển bình xét giải Vật lí và giải Hóa học, nhưng vị Viện trưởng Viện này khi đó lại đề nghị tài sản của Nobel không nên dùng làm quỹ giải thưởng mà nên tặng cho Viện Khoa học Hoàng gia Thụy Điển... Do sự cố gắng của những người thừa hành Di chúc, cuối cùng, ngày 21-5-1898, Quốc vương Thụy Điển đã tuyên bố bản Di chúc của Nobel có hiệu lực, ngày 29-6-1900, Quốc hội Thụy Điển đã thông qua Điều lệ giải Nobel. Ngày 10-12-1901, nhân kỷ niệm 5 năm ngày mất của Nobel, giải Nobel đầu tiên đã được trao. Và từ đó đến nay, hàng năm giải này luôn thu hút sự quan tâm của nhiều người trên thế giới. NGUYỄN THÀNH TUỆ Phần thưởng các giải Nobel đều bằng nhau. Giải gồm một Giấy chứng nhận, một huy chương bằng vàng 23K nặng khoảng nửa Pound (1 pound = 0.4536 kg) và một chi phiếu tiền thưởng. Tiền thưởng thay đổi theo thời gian; năm đầu tiên (1901) là 150.000 Krona (tiền Thụy Điển, khoảng 42.000 USD); năm 2006 khoảng 1,4 triệu USD. Dự kiến xét và công bố giải thưởng năm nay: 2-10: Y học 3-10: Vật lí 4-10: Hoá học 5-10: Văn học 9-10: Kinh tế 13-10: Hòa bình
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 14:22:20 GMT 9
Hermann Julius Oberth - Nhà Khoa Học Tiền Phong về Hỏa Tiễn - 17/7/2006 9h:40 Công cuộc thám hiểm không gian được đặt căn bản trên lý thuyết của bốn nhà khoa học tuy đồng thời với nhau mà không hề cộng tác chung, họ đã nghiên cứu song hành và bổ túc cho nền kỹ thuật hỏa tiễn. Bốn nhà tiền phong này là Konstantin Tsiolkovsky người Nga, Robert Goddard người Mỹ, Hermann Oberth người Đức và Von Karman người Áo-Hung. Hermann Oberth (1894-1989) trái, Nga: Konstantin Tsiolkovsky và Mỹ: Robert Goddard thảo luận về quỹ đạo hình ellip trong hình không để ngày này (Ảnh: NASA) Hermann Julius Oberth sinh ngày 25 tháng 6 năm 1894 tại Hermannstadt, thuộc miền Transylvania. Miền đất này lúc đầu thuộc về đế quốc Áo Hung nhưng sau Thế Chiến Thứ Nhất, trở thành phần đất của Romania và ngày nay lại thuộc về miền đông của nước Đức. Trên bản đồ, Hermannstadt được gọi bằng tên Sibiu, một danh từ Áo-Hung tuy rằng dân chúng của vùng này đều có nguồn gốc Đức, nói tiếng Đức và theo các phong tục tập quán của dân tộc Nhật Nhĩ Man. Hermann J. Oberth là con của bác sĩ Julius Gotthold Oberth, vị giám đốc của một bệnh viện gần Schassburg. Ngay từ thuở nhỏ, Hermann đã mơ ước trở thành một kỹ sư tài giỏi hay một nhà khoa học và đã cố gắng thực hiện giấc mơ này. Trong thời gian theo học tại trường trung học Bischof-Teutsch ở Schassburg, Hermann có cơ hội đọc các cuốn truyện của hai nhà văn Jules Vernes và H. G. Wells. Những điều dự tưởng khoa học trong truyện đã khiến Hermann thích thú và do đó, đã chán nản trước ngành y là con đường mà người cha đã vạch sẵn. Năm 1912, Hermann tốt nghiệp trung học và đoạt phần thưởng toán học vì bài làm xuất sắc. Mặc dù có năng khiếu về toán, Hermann vẫn phải vâng theo ý muốn của cha mà theo học ngành y tại trường đại học Munich. Tuy nhiên trong thời gian này, Hermann nhận thấy các môn học như thiên văn, vật lý, toán học thú vị hơn là các bài vở viết về cơ thể học. Vào năm Hermann Oberth 20 tuổi, Thế Chiến Thứ Nhất bùng nổ. Ông bị gọi nhập ngũ vào quân đội Áo-Hung, bị thương nhẹ rồi được chuyển về một đơn vị quân y. Từ thời gian này, Oberth đã viết rất nhiều lý thuyết về cách du hành trong không gian và do đó, khám phá ra rằng mình sẽ chẳng bao giờ trở thành một người thầy thuốc. (Ảnh: faculty.rmwc.edu) Khi Thế Chiến chấm dứt, Oberth trở lại trường đại học, không phải để theo đuổi ngành y mà chuyên tâm về thiên văn, vật lý và toán học. Ông lập gia đình với cô Malthilde Hummel. Trong hai năm kế tiếp kể từ 1920, Oberth theo học các trường đại học Gottingen, Heidelberg và Munich rồi qua một kỳ thi tuyển vào năm 1923 để trở thành giáo sư vật lý và toán học. Oberth được bổ nhiệm về trường học cũ: trung học Bischof-Teutsch tại Schassburg. Năm 1924, Oberth đổi qua dạy học tại trung học Stefan Ludwig-Roth ở Mediasch. Nơi này và Schassburg vào thời kỳ đó đều thuộc về nước Romania. Vào giữa thập niến 1920, Oberth đã viết xong luận án tiến sĩ có tên là “Dùng Hỏa Tiễn để tới Không Gian Liên Hành Tinh” (By Rocket to Interplanetary Space). Trong khi luận án này đang được in ấn thì Oberth được biết nhà khoa học người Mỹ Robert Goddard đã phổ biến bài khảo cứu “Một Phương Pháp để tới các Thượng Tầng Cao Độ” (A Method of Reaching Extremes Altitudes). Oberth bèn liên lạc với Goddard để xin một bản tài liệu và hứa sẽ gửi tặng sách của mình khi in xong. Khi nhận đươc tài liệu, ông rất ngạc nhiên vì thấy nhà tiền phong người Mỹ cũng khảo cứu vấn đề thám hiểm không gian. Cuốn sách của Oberth dày hơn một trăm trang, chứa đựng một lý thuyết đi trước thời đại, kèm theo là các phương trình toán học cho phép các nhà kỹ thuật chế tạo các hỏa tiễn vượt ra khỏi lớp khí quyển, lại mang theo được nhân viên phi hành. Oberth cũng mô tả trong sách một phi thuyền không gian và các cách thức mà nhà phi hành phải sinh sống và làm việc ra sao trong khi thám hiểm vũ trụ. Trong lý thuyết này, Oberth đề cập tới nhiều phương diện: thiên văn, toán học, vật lý và cả hóa học. Ở vào thời đại trước, các nhà khoa học thường chỉ chuyên về một mặt: toán gia khảo cứu toán học, nhà thiên văn tìm hiểu bầu trời và các vì sao..., mỗi người chỉ hiểu biết lãnh vực của mình. Chính vì lý do này, lý thuyết của Oberth đã không làm cho các nhà khoa học khác thấu hiểu hoàn toàn. Tuy nhiên, cuốn sách của ông vẫn bán chạy và tác giả phải in thêm sách mới đủ cung cấp. Dù cho cuốn sách viết về thám hiểm vũ trụ của Oberth khó hiểu đối với thời kỳ đó, nhưng cuốn này cũng làm cho một nhóm người đam mê hỏa tiễn tại nước Đức phải hội họp với nhau và lập ra Hội Du Lịch Không Gian (Verein fur Raumschiffahrt). Trụ sở của Hội được đặt tại Breslau (tên Ba Lan là Wroclaw). Hội gửi giấy mời Oberth tham gia và ông đã cộng tác với Hội trong nhiều năm. Vào năm 1928, nhà sản xuất điện ảnh danh tiếng Fritz Lang dự tính thực hiện cuốn phim có tên là “Người Đàn Bà trên Mặt Trăng” (Die Fau im Mond). Muốn cho cuốn phim của mình được căn cứ vào khoa học, Fritz Lang mời Oberth làm cố vấn kỹ thuật. Trong khi đó, Lang cũng là người quan tâm tới hỏa tiễn, thêm vào là vài đòi hỏi của Oberth và ý tưởng về cách quảng cáo cho cuốn phim đã khiến cho Fritz Lang và công ty điện ảnh bỏ tiền cho Oberth chế tạo một hỏa tiễn thực và hỏa tiễn này sẽ được phóng đi đúng vào ngày cuốn phim bắt đầu chiếu. Khi bắt tay vào việc chế tạo hỏa tiễn, Oberth rất bối rối. Hỏa tiễn Oberth chế tạo dù thất bại nhưng đã góp công rất nhiều vào kỹ thuật hỏa tiễn do các khảo cứu về nhiên liệu lỏng (Ảnh: starships.com) Xưa nay, ông chỉ trù tính các sự kiện khoa học trên giấy tờ mà chưa hề có một kinh nghiệm thực tế nào. Ông lại không phải là một kỹ sư hay một thợ máy. Nhiều vấn đề khác như kim loại và nhiên liệu xử dụng đều là những kỹ thuật mới mẻ. Oberth phải thuê hai người phụ giúp nhưng họ chỉ có chút ít kinh nghiệm mà thôi. Trong một cuộc thí nghiệm về nhiên liệu lỏng, Oberth đã gặp một tai nạn, một bình chứa đã phát nổ trước kỳ hạn khiến cho ông bị hỏng một con mắt. Vào ngày khai trương cuốn phim “Người Đàn Bà trên Mặt Trăng”, cuộc phóng hỏa tiễn gặp thất bại hoàn toàn. Vì chán nản, Oberth trở về miền Transylvania dạy học, sau nhiều năm giữ chức hội trưởng Hội Du Lịch Không Gian. Dù sao, ông cũng đã góp công rất nhiều vào kỹ thuật hỏa tiễn do các khảo cứu về nhiên liệu lỏng. Năm 1929, Hermann Oberth được Hội Thiên Văn Pháp Quốc trao tặng giải thưởng quốc tế Robert Esnault-Pelteri-André Hirsch trị giá 10,000 quan, do cuốn sách “Các Con Đường lên Không Gian” (Ways to Spaceflight = Wege zur Raumschiffahrt). Cuốn sách này đã đi trước thời đại hỏa tiễn 30 năm. Vào năm 1931, Oberth cũng nhận được một bằng sáng chế về hỏa tiễn dùng nhiên liệu lỏng của văn phòng Bằng Phát Minh của nước Romania, và vào tháng 7/ 1931, hỏa tiễn đầu tiên được phóng đi trong khu vực ngoại ô của thành phố Berlin. Qua năm 1938, Không Quân Đức mời Oberth tham gia vào ban giảng huấn của trường đại học kỹ thuật Vienna. Vào thời gian này, nước Đức liên kết với nước Áo và đảng Quốc Xã tìm cách đưa các chuyên viên hỏa tiễn về lãnh thổ Đức, vì họ e sợ rằng các quốc gia thù nghịch sẽ xử dụng những người tài giỏi này. Oberth được chuyển về Dresde rồi được mời phục vụ quân đội Đức. Ông được chọn lựa giữa quốc tịch Đức và trại tập trung. Oberth đành phải phục tùng kẻ cầm quyền mạnh thế và ông trở nên một công dân Đức vào năm 1940 rồi bị chuyển tới Peenemunde để làm việc với Von Braun trong chương trình chế tạo bom bay V-2. Vào năm 1943, Oberth bị phái đi một địa điểm khác, lo việc sản xuất hỏa tiễn chống máy bay. Sau Thế Chiến Thứ Hai, Oberth tiếp tục dạy học và âm thầm nghiên cứu. Ông di chuyển qua nước Ý để làm việc cho Hải Quân Ý trong chương trình chế tạo hỏa tiễn dùng nguyên liệu đặc. Vào thời gian này, cuốn sách “Người trong Không Gian” (Men in Space) của ông xuất bản năm 1945 đã khiến cho nhà bác học Von Braun tại Huntsville, tiểu bang Alabama Hoa Kỳ, nhớ lại các kỷ niệm xưa. Von Braun khi đó đang điều khiển cơ xưởng Redstone chuyên chế tạo phi đạn cho Lục Quân Hoa Kỳ. Von Braun đã mời Oberth tới Huntsville để giám sát các chương trình nghiên cứu của Lục Quân từ năm 1955. Năm 1958, Oberth hồi hưu, ông trở lại sống tại nước Đức, cư ngụ tại tỉnh Feucht, gần thành phố Nurnbert. Hermann J. Oberth đã sống một cuộc đời bình yên trong nghề dạy học và các công trình nghiên cứu của ông về hỏa tiễn đã khiến cho các bí ẩn của vũ trụ được khám phá và ngày nay, giới khoa học vẫn coi ông là một trong bốn cột trụ của ngành học Không Gian.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 14:25:29 GMT 9
Wernher Von Braun chế tạo hỏa tiễn. - 30/11/2005 6h:15 Vào năm 1931, quân đội Đức tìm kiếm một thứ khí giới mới, có tầm hoạt động xa mà không bị ngăn cấm bởi Hòa Ước Versailles. Hỏa tiễn có thể là thứ khí giới phù hợp với điều kiện trên. Đại úy kỹ sư Walter Dornberger được giao phó trách nhiệm phải viết một bản báo cáo về dự án đó. Ông ta liền tới thăm phi trường hỏa tiễn trong 3 ngày liền, hỏi han các nhà bác học và tham dự các cuộc bắn thử hỏa tiễn. Khi đó, Dornberger đã để ý đến Wernher Von Braun vì nghị lực, vì sự sáng suốt và trí hiểu biết của chàng này. Rồi tất cả kế hoạch về hỏa tiễn được chuyển tới Bộ Tổng tham mưu Đức vào mùa thu năm 1932. Walter Dornberger & Von Braun Vào một ngày của tháng 8 năm 1932, Von Braun được mời đến trung tâm thử hỏa tiễn quân sự đặt tại Kummersdorf. Trung tâm này ẩn náu trong một khu rừng thông ở phía Nam thành phố Berlin. Chàng thanh niên 20 tuổi Von Braun trở nên Giám Đốc Kỹ Thuật, Đại úy Dornberber làm Giám đốc quân sự còn ngân quỹ của trung tâm do Bộ binh Đức đài thọ. Thời kỳ hỏa tiễn thực sự bắt đầu vào ngày 21 tháng 12 năm 1932 tại Kummersdorf. Tại trung tâm nghiên cứu này, các tai nạn xảy ra không phải là ít. Đã có lần Von Braun thoát chết, song quần áo bị rách nát. Ngày 17-5-1933, viên kỹ sư danh tiếng Max Valier đã chết trên vũng máu vì máy điều chỉnh phát nổ trước kỳ hạn và đã phóng một mảnh thép vào ngực ông ta. Ít lâu sau, tiến sĩ Warmke, kỹ sư hóa học, cũng chết tan xác vì thứ thuốc nổ mới phát minh. Tại trung tâm nghiên cứu này, Von Braun đã say sưa làm việc. Người ta thường thấy ông ngủ trên các họa đồ dang dở: Von Braun đang trù tính làm 2 loại hỏa tiễn, một thứ dài 1,40 mét còn thứ kia cao 3 mét. Vào một dịp Giáng sinh, Von Braun và nhóm chuyên viên của ông dự lễ trên một hòn đảo nhỏ hẻo lánh tại miền biển Baltique. Đảo Peenemunde này thực là quá hiu quạnh, lại ở vào một vị trí kín đáo, rất xứng đáng là nơi bắn thử vũ khí bí mật. Từ tháng 8 năm 1936, Bộ Quốc phòng Đức bắt đầu xây cất trên đảo Peenemunde: đường lộ, cầu cống, sân bay, bãi phóng hỏa tiễn, dinh thự, khách sạn cùng các lô cốt… song từ trên máy bay, rất khó mà nhận thấy các kiến trúc này. Có tới hàng ngàn vật lý gia, hóa học gia, kỹ sư, sinh viên, chuyên viên… hoạt động tại đây. Họ làm việc quần quật từ sáng tới tối. Phương châm của họ được khắc trên mặt tiền của trung tâm nghiên cứu: "Các vật lý gia, kỹ sư, kỹ thuật gia là những người tiền phong của Thế Giới Mới". Tại nơi đây, các tai nạn xảy ra thường xuyên nhưng các nhà khoa học cũng giải quyết được nhiều bài toán mới lạ. Các hỏa tiễn càng ngày càng lên cao hơn nhưng điều đó không khiến cho các tướng lãnh Quốc Xã đặt tin tưởng vào. Hitler chỉ hy vọng ở các chiến xa hạng nặng hơn là thứ khí giới mới lạ này. Đã có lần Hitler tới thăm Trung tâm hỏa tiễn Peenemunde mà không nói quá 10 tiếng rồi ra về chán nản. Căn cứ tại đảo Peenemunde Sau khi thế chiến thứ Hai bùng nổ, Von Braun cho ra đời một loại hỏa tiễn lên cao được 7,000 mét. Trung tâm hỏa tiễn gửi phim chụp tới Hitler nhưng không được trả lời. Các tướng lãnh cao cấp Đức cũng bắt chước thái độ im lặng của Hitler mà gọi vào quân đội các kỹ sư của Von Braun. Các phương tiện thiếu dần làm cho kết quả trở nên tại hại. Quân đội Đức lại bắt đầu thua ở khắp các mặt trận, vì vậy Hitler hạ lệnh cấp tốc chế tạo hỏa tiễn nhưng sau hai lần mời các thanh tra quân đội tới dự các cuộc phóng thử, hỏa tiễn vẫn không bay nổi. Người nâng đỡ chính thức của Von Braun tại Berlin, Đại tướng Becker, được Hitler gọi đến: ông ta được quyền chọn đến trại tập trung hoặc tự sát. Ông Becker đã tự tử. Còn Von Braun, ông biết rằng nếu sau một lần bắn thử hỏa tiễn nữa không thành, ông sẽ bị xử bắn hay bị bọn Gestapo hành hạ. May mắn thay, lần thử thứ ba đã thành công. Von Braun Vào ngày 7-7-1943, Von Braun được phong tặng chức Giáo sư còn Dornberger được thăng chức Thiếu Tướng, rồi hai người được gọi đến văn phòng của Hitler. Nhà độc tài Quốc Xã đã tỏ ra hối tiếc rằng nếu có hỏa tiễn từ năm 1939, có lẽ đã không có chiến tranh. Rồi Hitler ra lệnh cấp tốc chế tạo thứ khí giới báo thù, làm sao san phẳng các thành phố London và New York trong một thời gian ngắn. Von Braun trở về đảo Peenemunde và được toàn quyền hành động. Đảo này được tăng cường về mặt quân sự cũng như an ninh. Giám đốc Sở tình báo Gestapo đích thân theo dõi sự an ninh trên đảo, các pháo đài canh phòng ngày đêm, chung quanh đảo là các bãi mìn tự động và hàng rào dây kẽm có mắc điện cao thế làm cho hòn đảo trở nên bất khả xâm phạm. Nhưng vẫn chưa hết, người ta còn gạch tên Peenemunde trên bản đồ và khi gọi, lại dùng tên làng kế cận Karlshagen. Von Braun có 5,000 người dưới quyền. Tất cả các kỹ thuật gia đều gắng sức làm việc để lấy lại thời gian đã mất. Nhưng thứ khí giới bí mật của Von Braun đã bị bọn gián điệp Đồng Minh biết. Các người dân chài Thụy Điển thường kể lại rằng họ thấy các vật lạ bay rất nhanh và phát ra những tiếng động inh tai nhức óc. Có người lại nhặt được các mảnh vỡ trong đó có chứa đựng những phụ tùng điện tử. London rất lo lắng. Lệnh oanh tạc hòn đảo Peenemunde được ban ra vào cuối tháng 7 năm 1943. Các pháo đài bay Đồng Minh tập dượt rồi đến ngày 17-8 mới lên đường. Đêm hôm đó, hàng ngàn tấn bom đã đổ xuống hòn đảo. Toàn đảo chìm trong biển lửa. Hàng ngàn người chết. Các xưởng vũ khí bị thiệt hại nặng nề. Sáng hôm sau, khi bay quan sát trên đảo, Von Braun đã phải khóc cho công trình của mình. Một trung tâm hỏa tiễn thứ hai được thiết lập tại Volkenrode trong dãy núi Hartz. Người Đức lại cố gắng làm việc. Loại bom bay được lắp hàng loạt tại hai trung tâm hỏa tiễn. Von Braun cả ngày nghiên cứu loại hỏa tiễn liên lục địa và loại hỏa tiễn phóng đi từ các tầu ngầm. Tuy nhiên, vào tháng 12 năm 1943, Von Braun cũng bị bắt giam trong nửa tháng: Himmler đã tố cáo ông phá hoại vì ông đã chú trọng đến việc chinh phục không gian hơn là tìm cách tàn phá các thành phố London và New York. Tới khi Đại tướng Dornberger phải đích thân xin với Hitler, Von Braun mới được trả lại tự do. V-2 Từ năm 1942, các chuyên viên của Von Braun đều công nhận rằng không có thứ vũ khí nào chống lại được bom bay. Ngay cả việc làm cho bom bay đi lạc hướng cũng rất khó khăn. Đô Đốc Canaris, Giám đốc Sở phản gián Đức quốc, là người lo xa nên đã phái đi 10 gián điệp có nhiệm vụ đặt các máy vô tuyến phát ra làn sóng ngắn, dấu tại nóc những tòa nhà chọc trời tại thành phố New York. Các máy phát sóng này sẽ hướng dẫn bom bay phóng từ các tầu ngầm Đức nổi tại ngoài khơi Đại Tây Dương. Các bom bay đã được sẵn sàng từ đầu năm 1944 nhưng Hitler chưa ra lệnh dùng tới. Sau khi xảy ra cuộc đổ bộ của Đồng Minh tại miền Normandie, thứ khí giới bí mật đó mới xuất hiện. Quả bom bay V-1 đầu tiên rơi xuống đất Anh vào ngày 16-6-1944, mở màn cho chiến dịch Vergeltung (Báo Thù). Người Đức đã dùng chữ V để đặt tên cho bom bay. Nhiều người đã kể lại rằng vào 4 giờ sáng hôm 16-6, một quan sát viên Anh trông thấy một vật sáng bay lại. Vật càng tới gần, tiếng rú của máy càng được nghe rõ, rồi vật đó rơi xuống ngoại ô của thành phố London với tiếng nổ long trời, tàn phá cả một khu vực chung quanh. Thông thường, trong một ngày có tới 200 quả bom bay V-1 rơi xuống đất Anh. Người ta tính rằng chỉ trong vòng 3 tuần lễ, thành phố London đã lãnh chịu hơn 3,000 quả bom. Thủ Tướng Churchill kêu gọi phải sửa đổi phương pháp phòng không. Nhưng phải chờ đợi tới 3 tháng sau, người Anh mới tìm ra cách chống đỡ. Tới ngày 8-9-1944, loại bom bay V-2 lại bắt đầu tung hoành. Đây là một thứ vũ khí có thể mang 800kg chất nổ tới các mục tiêu xa hơn 2,000 dặm, lại bay với tốc độ siêu thanh tức là một dặm trong một giây, trong khi vào thời kỳ đó, chưa có một hệ thống hoàn hảo nào báo động sự lao tới của bom bay. Hơn 3,000 quả bom bay V-2 đã tàn phá thành phố London và nước Hòa Lan cả ngày lẫn đêm. Thứ khí giới tinh sảo này đã đánh dấu một bước tiến trong lịch sử chiến tranh của nhân loại. Vài năm sau, trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí New Yorker, Von Braun đã nói về thứ khí giới đó: "Tôi thành thực hối tiếc rằng hỏa tiễn của chúng tôi được sinh ra vì một lý tưởng, nhưng lại bị áp dụng vào công việc giết người. Chúng tôi đã vẽ ra hỏa tiễn với mục đích mở đường tới các hành tinh khác, chứ không phải để tàn phá chính Trái Đất này". Sức tàn phá của V-2 Ngoài bom bay V-1 và V-2 ra, vẫn chưa phải là hết khí giới bí mật. Người Đức còn định dùng một thứ bom khủng khiếp gấp vạn lần : bom nguyên tử. Thực vậy, ngay từ năm 1939, nhà vật lý người Đức Otto Hahn đã thành công trong việc bắn vỡ nhân nguyên tử. Tới năm 1942, ông Otto Hahn đã chế tạo được chất Plutonium. Rồi kết quả của công trình khảo cứu của Otto Hahn trong năm 1944 đã khiến ông đoạt giải thưởng Nobel về vật lý của năm 1945. Tất cả các sự kiện này khiến người ta tin chắc rằng nước Đức đã bắt tay vào việc chế tạo bom nguyên tử. Vào năm 1945, quân đội Đồng Minh tiến dần vào lãnh thổ Đức. Peenemunde sắp rơi vào tay địch. Von Braun và các chuyên viên hỏa tiễn phân vân không biết chọn phe Dân Chủ hay phe Cộng Sản. Khi Hồng Quân còn cách Peenemunde 100 cây số, Von Braun hạ lệnh tản cư khỏi trung tâm hỏa tiễn: người ta dùng anatol, chất nổ của bom V-2, để phá hủy tất cả các cơ xưởng. Von Braun và đại đa số chuyên viên quyết định tới gặp quân đội Hoa Kỳ. Đoàn xe vận tải chuyển bánh về miền Bavière, băng qua các cánh đồng đầy dân tị nạn. Von Braun, Dornberger và hơn 400 kỹ thuật gia ẩn náu tại miền Allgau, chờ đợi. Lúc đi đường, 5 kỹ thuật gia Đức trốn đi gặp Hồng Quân Liên Xô. 12 năm sau, họ là những người có công đầu trong việc phóng lên không trung vệ tinh Spoutnik. Trong cuộc hành trình di tản, Von Braun bị thương ở cánh tay, phải bó bột nhưng không lúc nào ông rời một gói tài liệu quan trọng, nó chứa đựng một dự án về hỏa tiễn liên lục địa và một dự án về vệ tinh nhân tạo.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 14:28:25 GMT 9
Thuở thiếu thời nhà bác học hỏa tiễn Wernher Von Braun - 29/11/2005 4h:46 Vào cuối cuộc thế chiến thứ Hai, dân chúng nước Anh đã kinh hoàng, điêu đứng vì một thứ khí giới mới: bom bay. Các quả bom không biết từ đâu đã rơi xuống thành phố London cả ngày lẫn đêm. Cha đẻ của thứ vũ khí này là một nhà bác học trẻ tuổi mà thời bấy giờ giới Khoa Học chưa được biết tiếng: Wernher Von Braun (1912 - 1977) Wernher Von Braun sinh ngày 23 tháng 3 năm 1912 tại Wirsitz, tỉnh Silisie, thuộc miền đông của nước Đức, phần đất này ngày nay đã thuộc về nước Ba Lan. Wernher là con thứ hai trong ba người con trai của Nam Tước Magnus Von Braun. Cha cậu là một điền chủ nghiêm nghị, đã từng tham gia vào việc chính trị của nước Đức thời Cộng Hòa Weimar, còn mẹ cậu, bà Emmy Von Quistorp, là người rất say mê thiên văn học. Bà thường dẫn các con lên sân thượng vào các buổi tối và chỉ cho các con những hành tinh cùng các vì sao lấp lánh trên bầu trời. Vì vậy cậu Wernher đã ước mơ một ngày kia cậu có thể đặt chân lên các thiên thể xa lạ đó. Mới 13 tuổi, Wernher đã ưa thích chơi pháo. Cậu nhồi thuốc súng vào một chiếc xe của trẻ em rồi châm lửa đốt. Chiếc xe chạy thục mạng như một con quái vật, gây kinh hoàng cho khách qua đường và làm cho bầy ngựa bạt vía. Cậu bị cảnh sát dẫn về nhà. Ông Magnus nghiêm mặt lại và mắng: "Wernher, mày không được làm mang tiếng tao như vậy. Tao sẽ cho mày vào ở trong ký túc xá của một trường học cách đây 5 cây số để mày hết nghịch ngợm đi". Và sang niên học mới, Wernher rời gia đình theo học tại một ngôi trường hẻo lánh tọa lạc trên một hòn đảo miền Frise. Tại nơi đây, cậu không chăm chỉ học hành. Đối với các thầy giáo, cậu là một học trò kém vì thầy hiệu trưởng đã phê bình về cậu: "Học trò thiếu chăm chỉ, hoàn toàn dốt về Toán, khó lòng theo học nổi". Vào năm 1925, do tình cờ Wernher Von Braun được đọc một quyển sách về thiên văn. Trong cuốn sách có vẽ một chiếc hỏa tiễn đang bay về hướng mặt trăng, kèm theo là một bài do Hermann Oberth viết. Oberth là một trong vài lý thuyết gia đầu tiên về hỏa tiễn, cũng là đồ đệ của Tsiolkovsky, nhà tiên tri người Nga về cách chinh phục không gian. Cuốn sách của Obeth, "Hỏa tiễn trong không gian liên hành tinh", đã làm ngạc nhiên nhiều người và làm điên đầu cậu Von Braun. Cuốn sách gối đầu giường của cậu dày hơn 100 trang này thật là khó hiểu đối với cậu, vì nó chứa đựng rất nhiều phương trình bí hiểm. Cậu quyết định xin cha cho học tư về toán học và vật lý. Có lần Von Braun đã nói "Toán Học rất cần thiết cho việc hiểu biết về cách đi đường trong không gian nên tôi quyết định tìm học". Von Braun tiến bộ về toán học và vật lý đến nỗi cậu có thể thay thế giáo sư giảng bài cho các bạn trong lớp mỗi khi giáo sư vắng mặt. Vào năm 1928, Hội Du Lịch Không Gian (Verein fur Raumschiffahrt) được Obeth lập ra. Hội này xuất bản mỗi tháng một tờ báo lấy tên là "Hỏa Tiễn" và tập hợp được một số nhà bác học cùng các thanh niên Đức say mê hỏa tiễn. Trong số các độc giả của tờ báo Hỏa Tiễn có một thanh niên 16 tuổi, khổ người cao lớn, mắt xanh, tóc nâu, cằm vuông, biểu lộ nhiều nghị lực, đó là chàng Wernher Von Braun vừa học xong bậc trung học và đã ghi tên vào Viện Kỹ Thuật Berlin. Von Braun vác trên vai các hỏa tiễn (phải) Mùa thu năm 1929, Von Braun đến nhà ông Willy Ley và trình bày với ông ta về sở thích của mình đối với sự thám hiểm không gian. Von Braun lại muốn được ông Ley giới thiệu vào Hội Du Lịch Không Gian mà ông ta là một hội viên sáng lập. Ông Willey Ley liền dẫn Von Braun đi gặp Obeth và bắt đầu từ đó, chàng Von Braun hãnh diện được vác trên vai các hỏa tiễn mà các bậc đàn anh sẽ phóng đi. Thời đó, nhà sản xuất điện ảnh danh tiếng Fritz Lang có ý định quay một cuốn phim về sự chinh phục không gian. Fritz Lang mời Obeth làm cố vấn kỹ thuật. Obeth nhận lời nhưng cũng không quên đòi hỏi một số tiền thù lao đủ để chế tạo một chiếc hỏa tiễn và Obeth dự định phóng hỏa tiễn đó vào ngày cuốn phim bắt đầu chiếu. Năm đó, cuốn phim "Một người đàn bà trên mặt trăng" của Fritz Lang mang lại đầy thành công trong khi việc phóng hỏa tiễn lại bị thất bại chua cay, trái với lời tán dương rầm rộ của báo chí. Nhưng các hội viên của Hội Du Lịch Không Gian không đến nỗi quá thất vọng. Theo ý họ, sở dĩ họ gặp thất bại về hỏa tiễn bởi chưa tìm ra được một thứ nhiên liệu có thể tạo nên một áp suất đủ mạnh cần thiết. Họ liền nhờ các nhà hóa học sáng chế ra một chất cháy mới. "] Von Braun và ông Obeth Tại Reinickendorf, ngoại ô của thành phố Berlin, có một khoảng đất trống. Hội Du Lịch Không Gian liền ký một giao kèo với Hội Đồng Thành Phố vào ngày 27-9-1930 để thuê khoảng đất kể trên với giá là 1,500 đồng trong một năm. Khoảng đất này được đặt tên một cách hãnh diện là "Phi Trường Hỏa Tiễn". Phi trường này tuy sơ sài thật nhưng chỉ vài tháng sau, đã được khắp thế giới biết đến vì tính cách đặc biệt của nó. Nhiều người đã từ các nước Pháp, Mỹ, Anh… tới thăm. Có kẻ tình nguyện giúp sức vào công cuộc thí nghiệm. Tại nơi đây có mặt đầy đủ các nhà kỹ thuật nhiều thiện chí: kỹ sư, thợ máy, hóa học gia, phi công… Hội Du Lịch Không Gian tuy không giàu về ngân quỹ nhưng các hỏa tiễn Mirak loại nhỏ cũng ra đời. Tính tới năm 1932, Oberth, Ley, Von Braun và các hội viên khác đã thành công trong 85 lần thử và một trong các hỏa tiễn đã lên cao được một dặm, đạt kỷ lục của thời đó. Mùa xuân năm 1932, Von Braun học xong chương trình kỹ sư của Viện Kỹ Thuật Berlin (the Berlin Institute of Technology) rồi hai năm sau, đoạt được văn bằng Tiến sĩ Vật lý của Trường Đại Học Berlin. Tuy nhiên, sự học hành không làm gián đoạn công cuộc theo đuổi ngành kỹ thuật hỏa tiễn của Von Braun.
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 15:01:33 GMT 9
Nobel - Nguyện vọng to lớn - Cuộc đời Nobel có rất nhiều phát minh sáng tạo, mục đích của ông rất rõ ràng là mọi phát minh sáng tạo đều nhằm phục vụ nhân loại. Để thuốc nổ an toàn của mình có thể phục vụ tốt cho mọi người, ông đã xây dựng xí nghiệp riêng, đích thân đi đến các nước để diễn trình tự nổ, giới thiệu với mọi người những ích lợi của loại thuốc màu vàng này. Xí nghiệp của Nobel phát triển rất nhanh, ông đã trở thành nhà kinh doanh tài năng, một nhà triệu phú. Nhưng ông không giống các nhà triệu phú khác là ông không coi trọng những của cải, tiền tài này. Ông từng nói: Tiền bạc chỉ cần đủ để giải quyết sinh hoạt cho mình là được, nếu nhiều quá thì cũng chẳng hay hớm gì. Khi mẹ ông mất, ông đem toàn bộ di sản của bà để lại cho ông tặng cho quỹ từ thiện, ông chỉ để lại tấm ảnh của mẹ làm kỷ niệm. Nobel có rất nhiều tiền, nhưng ông không muốn dành cả cho con gái, ông cho rằng cho con nhiều tiền bạc quá là không tốt vì như vậy sẽ làm cho chúng lười biếng, không độc lập được trong cuộc sống. Ông nghĩ như vậy và cũng đã làm như vậy. Trong di chúc của ông tài sản sẽ được phân phối như sau: Toàn bộ tài sản của ông sau khi bán đi được dùng làm tiền quỹ vốn. Tiền lãi của quỹ này chia làm 5 phần bằng nhau dưới hình thức tiền thưởng: Một phần dành cho người sáng chế hoặc phát minh quan trọng trong lĩnh vực vật lý; phần thứ hai cho hóa học; phần thứ ba trong sinh lý học và y học; phần thứ tư dành cho người sáng tạo ra các tác phẩm văn học xuất sắc nhất; phần thứ năm dành cho người có công đóng góp lớn nhất trong sự nghiệp đoàn kết các dân tộc, xóa bỏ chế dộ nô lệ, hoặc làm giảm số quân của các quân đội và giúp tiến hành các đại hội hòa bình. Đối với 5 loại gải thưởng mà mình thiết lập ra, Nobel đã có những suy nghĩ sâu sắc. Cả cuộc đời mình Nobel nghiên cứu hóa học và vật lý, ông biết hóa học và vật lý là các ngành khoa học rất quan trọng. Ông cũng luôn quan tâm đến y học và sinh lý học, tuy nhiên vì quá bận nên không có thời gian dành nhiều cho việc nghiên cứu trong lĩnh vực này. Cho đến trước khi mất ông vẫn muốn thành lập một cơ quan nghiên cứu y học, nhưng nguyện vọng này vẫn chưa thực hiện được, vì vậy ông thiết lập một giải thưởng cho lĩnh vực này để thúc đẩy sự nghiệp y học phát triển. Nobel thích đọc một số tác phẩm văn học nổi tiếng, xuất phát từ lòng yêu thích văn học, ông quyết định thiết lập quỹ giải thưởng văn học, mong muốn có được càng nhiều tác phẩm văn học ưu tú hơn nữa để thỏa mãn được nhu cầu của mọi người. Ông phát minh ra các loại thuốc nổ mong nó mang lại hạnh phúc cho con người, nhưng thực tế thuốc nổ được dùng để tàn sát lẫn nhau trong thế giới con người. Để thúc đẩy hòa bình chống lại chiến tranh, ông đã quyết định xây dựng giải thưởng hòa bình. Về sau, giải thưởng này đã phát huy được tác dụng quan trọng thực sự trong sự nghiệp bảo vệ hòa bình thế giới. Năm loại giải thưởng của Nobel chứng tỏ Nobel là một người có lý tưởng cao cả, có hoài bão vĩ đại. Tên tuổi của ông cũng như giải thưởng mang tên ông - Nobel sống mãi trong lòng mọi người. "Khoa học là biểu hiện đặc biệt của trí tuệ con người" -- Nobel -- ----------------------------- H.T sưu tầm
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 15:03:54 GMT 9
Alfred Bernhard Nobel - Cậu bé chỉ học có một năm - Alfred Bernhard Nobel (1833-1896) là nhà khoa học kiệt xuất, nhà phát minh, nhà kinh doanh người Thụy Điển. Ngay từ nhỏ ông là một cậu bé ốm yếu, chỉ đi học có một năm. Nhưng do hứng thú với pháo hoa ông đã phát minh ra các loại thuốc nổ an toàn, được mệnh danh là "vua thuốc nổ". Ông đã giành được cả thảy 55 loại bản quyền phát minh sáng chế, ông xây dựng nhà máy của mình ở khắp nơi trên thế giới. Những nhà máy này ngoài sản xuất thuốc nổ còn sản xuất lượng lớn các sản phẩm phụ, ông đã có cống hiến to lớn cho sự nghiệp phát triển khoa học của thế giới. Ông là người yêu chuộng hòa bình, ông đã dành phần lớn di sản của mình làm giải thưởng khoa học thế giới - Giải thưởng Nobel, thưởng cho những người có cống hiến xuất sắc trong các lĩnh vực vật lý, hóa học, sinh vật học, y học, văn học và sự nghiệp hoà bình. Chỉ học có một năm Cái tên Nobel mọi người trên thế giới ai cũng biết, đó không chỉ vì ông đã có những cống hiến kiệt xuất cho khoa học, mà càng quan trọng hơn là ông đã xây dựng nên giải thưởng Nobel nổi tiếng để thúc đẩy sự phát triển của khoa học, đó là phần thưởng khoa học cao nhất được thế giới công nhận. Nobel đã có rất nhiều phát minh khoa học, nhưng mọi người chắc không nghĩ được rằng lúc nhỏ ông học có một năm. Nobel lúc nhỏ sống ở Thụy Điển, cha là kỹ sư ngành cơ khí. Do làm ăn không tốt nên cuộc sống của họ rất khó khăn. Càng bất hạnh hơn là một trận hỏa hoạn đã thiêu trụi toàn bộ tài sản của gia đình ông, cuộc sống của họ hoàn toàn bế tắc, phải vay mượn để sống qua ngày. Nợ nần nhiều, cha ông quyết định rời bỏ quê hương sang Nga để kiếm sống. Do cuộc sống khó khăn, tuổi trẻ của Nobel không được hoạt bát, hồn nhiên như những đứa trẻ khác: Lúc 8 tuổi mới được đi học và chỉ học có một năm rồi phải nghỉ. Sau đó việc làm ăn của cha ở Nga tốt lên, cả nhà Nobel chuyển sang Nga với cha. Vì không biết nói tiếng Nga nên Nobel và hai người anh trai không đến trường học được, phải mời một thầy giáo đến nhà dạy 3 anh em học tiếng Nga. Sau khi học tiếng Nga đến mức độ nào đó mới tiếp tục học các môn khác được. Nobel học tập hết sức cần mẫn, thành tích học tập rất tốt, được thầy giáo khen ngợi. Về sau ông ra nước ngoài học tập, ông đã đến nhiều nơi như Đức, Pháp, Mỹ,... Ông giỏi tư duy, chăm chỉ học tập, đã học được rất nhiều tri thức, ông không chỉ học được tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức mà còn trở thành nhà hóa học. Lúc đó, nhà máy của cha ông đang sản xuất vũ khí và thuốc nổ, ông đã học tập và nắm vững đựoc cách sản xuất mìn, thuốc nổ trong nhà máy của cha, nghiên cứu thiết kế pháo lớn và máy hơi nước. Ông không chỉ nắm vững rất nhiều kỹ thuật công nghệ ứng dụng mà còn thuộc cách quản lý và sản xuất ở một nhà máy. Như vậy đấy, bằng con đường tự học Nobel dần dần trưởng thành và đã trở thành nhà khoa học, nhà phát minh. "Khoa học là biểu hiện đặc biệt của trí tuệ con người" -- Nobel --
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 11, 2007 15:06:32 GMT 9
Nobel - Tôi thành công rồi Nghiên cứu thuốc nổ là công việc rất nguy hiểm, vì thuốc nổ là "đối tượng" khó tính, thường xuyên tức giận tức là gây nổ. Nobel là người biết công việc nguy hiểm nhưng vẫn làm, ông nói rằng muốn bắt thuốc nổ trở thành thứ có ích, phục vụ cho nhân dân. Nobel đã từng nhìn thấy công nhân sửa đường làm việc, công nhân hầm mỏ khai khoáng, công nhân làm việc trên công trường xây dựng kè đập. Ông nhìn thấy những người công nhân này phải dùng cuốc chim để đào đá, vô cùng vất vả mà hiệu qủa chẳng là bao. Lúc đó ông đã nghĩ nhất định phải có biện pháp an toàn để phá đá làm đường, đào non lấp biển. Từ đó ông bắt đầu nghiên cứu thuốc nổ an toàn. Lúc đó mọi người đã biết một loại thuốc nổ mạnh, khi nổ sức công phá lớn gọi là Nitroglixerin, nó là một chất lỏng như dầu. Nó là một loại chất nổ vô cùng dễ gây nổ, khi sức công phá rất lớn, có khi đựng trong thùng lắc mạnh là nổ. Rất nhiều người muốn chế ngự nó nhưng đều không thành công, thậm chí có người phải bỏ cả mạng. Nobel không hề sợ, chấp nhận thách thức, trong quá trình làm quen với loại thuốc này đã có tới nhiều lần suýt bỏ mạng. Có một lần Nobel cùng cha, em trai và một số người khác đang làm thí nghiệm, không hiểu vì sao bỗng nhiên gây nổ làm chết 5 người trong đó có em trai của Nobel, cha ông cũng bị sát thương. Lúc đó gia đình và bạn bè khuyên ông bỏ công việc nghiên cứu đi, vì nó quá nguy hiểm, Nobel đã nói: "Không, vì khoa học, tôi không tiếc thân mình!" và ông lại càng tích cực nghiên cứu tiếp công việc của mình. Sau đó đã có rất nhiều người bỏ đi, chỉ có ông là vẫn vững vàng trước thử thách. Vì phòng thí nghiệm xảy ra nổ liên tiếp, những gia đình sống xung quanh đều rất sợ, họ tìm Nobel không cho ông làm thí nghiệm ở đây nữa, ông đành phải chuyển đến làm thí nghiệm trên một chiếc thuyền buồm ở giữa hồ Mialaren. Ông đã tiến hành hơn 400 lần thí nghiệm nhưng vẫn không thành công. Rồi một sự tình cờ, Nobel đã phát hiện ra bí mật của nó. Một hôm trên đường vận chuyển, hũ đựng Nitroglixerin bị nứt rạn nhưng không phát nổ. Thì ra hũ đựng Nitroglixerin đặt trong thùng gỗ, giữa thùng gỗ và hũ được chèn bằng đất. Hũ vỡ, Nitroglixerin chảy ngấm vào đất. Nobel lấy đất đã ngấm Nitroglixerin tiến hành thí nghiệm. Ông phát hiện loại đất này sau khi có dẫn nổ thì sẽ nổ dữ dội, nhưng nếu không dẫn nổ thì nó lại rất an toàn. Nobel hết sức vui mừng, ông lập tức tiến hành thí nghiệm với qui mô lớn, ông thấm Nitroglixerin vào đống đất lớn rồi dùng dây cháy dẫn nổ. Không ngờ lần nổ này lại mạnh đến như vậy, cột khói dày đặc vươn thẳng lên trời cao. Mọi người nghe thấy tiếng nổ liền chạy tới vây quanh mọi người đều nói: "Trời, lần này thì Nobel chết mất!" Đúng lúc đó mọi người nhìn thấy có một người từ trong cột khói dày đặc ấy chạy ra, mặt đầy máu tươi, người quần áo đen thui, vừa chạy nhảy vừa reo lên như người điên: "Tôi thành công rồi, tôi đã thành công rồi!" Như vậy, bằng tinh thần không sợ hy sinh Nobel đã thuần phục được "Con thú điên" có tính cách ngang ngạnh - Nitroglixerin, làm cho loại thuốc nổ mạnh này không phát nổ khi bảo quản, vận chuyển và khi nổ thì nổ hết sức mạnh mẽ. Sau này loại chất nổ an toàn này được ứng dụng vào lĩnh vực khai thác khoáng sản, xây dựng công trường, . . . nó có tác dụng hết sức quan trọng. "Khoa học là biểu hiện đặc biệt của trí tuệ con người" -- Nobel --
|
|