Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:28:57 GMT 9
Chương trình hòa nhạc giới thiệu CD Hồi Niệm Memories - Tác giả Lê Văn Khoa.
Đã lâu lắm rồi tôi không có dịp đi nghe buổi hòa nhạc cổ điển nào vì đời sống bận rộn nên không thể chuẩn bị ăn mặc chỉnh tề , vào nghe những bài nhạc không lời của người sáng tác các ca khúc , người soạn hòa âm , nhạc trưởng điều khiển ban nhạc và từng nhạc sĩ sử dụng các nhạc cụ mà giửa người nghệ sĩ trình diễn và người nghe qua những tiếng đàn phải có sự cảm thông nhau không qua những ngôn từ của lời nhạc nên nó đòi hỏi mình phải có sự chú tâm để thả hồn tưởng tượng của mình vào những nốt nhạc được rất nhiều nhạc cụ cùng họp lại " hát " cho mình nghe bằng ngôn ngữ quốc tế của âm nhạc , chỉ cần một trong các bước đi đó "lỗi nhịp " là sự cảm thông của tác giả sáng tác đến người thưởng thức sẽ rất dễ xa nhau. Nên tôi không có dịp đi nghe hòa nhạc. Thứ bảy 19 tháng giêng 2008 này tôi nhận được một thiệp mời đi dự buổi hòa nhạc của giáo sư Lê Văn Khoa để giới thiệu dĩa nhạc hòa tấu cổ điển CD Memories ( Hồi niệm ) do đài truyền hình SBTN tổ chức , lòng cứ ngại vì chỉ sợ sẽ không thưỡng thức được trọn vẹn nội dung buổi hòa nhạc cổ điển tây phương này nhưng qua tên tuổi của giáo sư Lê Văn Khoa từ xưa ,tôi lại tò mò muốn gặp giáo sư. Giáo sư Khoa trước 75 tôi chỉ biết trên đài phát hình Vô Tuyến Truyền Hình 9 Sài Gòn qua các chương trình về giáo dục của trung tâm học liệu , ngoài ra tôi còn được biết tiếng ông qua các bức hình nhiếp ảnh nghệ thuật đen trắng của ông chụp và đăng trên các quyển sách của hội nhiếp ảnh ở Sài Gòn trước đây. Hôm nay tôi lại muốn biết thêm về một tài năng nghệ thuật khác của Giáo sư Khoa qua âm nhạc cổ điển như sáng tác âm nhạc ca khúc cổ điển , soạn hòa âm và nhạc trưởng điều khiển ban nhạc hòa tấu.
Buổi hòa nhạc được tổ chức trongh sân khấu thu hình của đài SBTN của nhạc sĩ Trúc Hồ để trực tiếp thu và phát hình cho buổi hòa nhạc , nên sân khấu sắp xếp cố định vừa đủ cho ban nhạc cổ điển trên sấu khấu chính với các loại đàn dây cổ điển như vĩ cầm , hồ cầm , đại hồ cầm,... với các nhạc sĩ trẻ Việt , Mỹ , Nhật. Khán giả chọn lọc cho một sân khấu nhỏ với sức chứa khoảng 200 khán giả mà do chủ đề Hoài niệm nên chỉ thấy đa số là người đứng tuổi , có lẻ chỉ có người đứng tuổi mới cần có những kỹ niệm và cần có một thời để nhớ, để bùi ngùi hay để tâm lắng lại sau nhứng ngày vật vã với cuộc sống rất bận rộn thường ngày,kể cả ông thị trưởng thành phố lân cận và hai ông bà nghị viên thành phố Westminster . Phông của hậu trường sân khấu được trang trí với một bức ảnh màu nghệ thuật về một buổi hoàng hôn với rực đỏ bầu trời cao rộng tỉnh mịch, một cổ xe ngựa đen nhỏ đang thong thả trên đường về như ý tác gả muốn dẫn về một chân trời kỷ niệm nào, tôi đoán có lẻ đây là một tác phẫm của giáo sư Khoa vì nội dung bức ảnh sao quá thích hợp cho chủ đề Hồi Niệm này đến như vậy.
Sau một lời giới thiệu ngắn gọn về giáo sư Khoa của người giới thiệu chương trình thu hình là buổi hòa nhạc do chính ông Khoa điều khiển ở vai trò nhạc trưởng. Tôi thực sự xúc động mạnh về buổi trình diễn nhạc đêm nay với các tác phẫm sáng tác cổ điển của ông về những cảm xúc của ông ghi lại qua các tác phẫm của mình và của một số tác giả khác sáng tác với cùng đề tài và được ông cảm xúc soạn hòa âm cho dàn nhạc của ông ,như Hoàng Trọng và Phạm Duy . Qua các bài nhạc về những kỹ niệm của ông , tôi tìm thấy trong đó có những buổi chiều vàng nơi đồng quê miền nam thuở thanh bình nào đó , tác phẫm về tiếng sáo thuở xưa được một nhạc sĩ người Mỹ trình diễn dù qua một ống sao của tây phương nhưng củng đã gởi tôi về buổi chiều thả diều theo nơi đồng lúa mùa gặt xong , cánh đồng trơ lại những cuống rạ ngắn tràn lan đầy đồng một màu vàng rực , dưới thửa ruộng thì đất ruộng đã khô nứt nẻ , tay cầm cuộn chỉ cột con diều giấy và cố chạy ngược gió trên bờ mẫu đất đấp thấp với những miếng cỏ trụi lá vì những đàn trâu đi qua đã vặt ăn những đọt lá cỏ xanh sáng sớm. Tiếng sáo , âm thanh có những nốt nhạc cao lăng tăng , uống lượn ngghe như thấy được hai cái tai giấy đang phe phẩy trên cao gió lộng , hay những tiếng đàn đệm trầm nhè nhẹ như tiếng gió vi vu dìu dặt ở lũy tre cuối bờ ruộng.
Văn Học Việt Nam
Văn học Việt Nam là sự tích hợp từ hai dòng văn học truyền khẩu và văn học viết của những người dùng tiếng Việt. Trong suốt thời phong kiến, phần lớn các tác phẩm thành văn của văn học Việt Nam được viết bằng chữ Hán do nhiều nguyên nhân: ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, thiếu chữ viết bản địa, chữ Nôm ra đời lại không được triều đình khuyến khích... Về sau, văn học Việt Nam được thống nhất viết bằng chữ quốc ngữ.
Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học dân tộc chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết nền văn học nầy bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.
Văn học viết chịu ảnh hưởng văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Văn học viết cũng có ảnh hưởng trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm.
Văn học dân gian
Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các tầng lớp dân chúng, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển qua các thời kỳ lịch sử cho tới ngày nay.
Ba thuật ngữ sau đây được xem là tương đương: Văn học dân gian, sáng tác nghệ thuật truyền miệng của nhân dân, folklore ngôn từ (folkore văn học).
Những đặc trưng của văn học dân gian:
Tính nguyên hợp: Biểu hiện ở sự hòa lẫn những hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại. Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau, tồn taị dưới ba dạng: ẩn (tồn tại trong trí nhớ của tác giả dân gian), cố định (tồn tại bằng văn tự) và hiện (tồn tại thông qua diễn xướng).
Tính tập thể: Văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể thể hiện chủ yếu trong quá trình sử dụng tác phẩm.
Hai đặc trưng trên có liên quan chặt chẽ với các đặc trưng khác của văn học dân gian như tính khả biến (gắn với việc tồn tại các dị bản của tác phẩm), tính truyền miệng, tính vô danh.
Văn học viết
Khác với văn học dân gian, văn học viết hình thành đã "mở ra một thời kỳ lịch sử mới, oanh liệt, rực rỡ" (Đặng Thai Mai). Sự va chạm gần 10 thế kỷ giữa nền Hán học và văn hóa dân gian Việt tuy có phần làm văn hóa, tín ngưỡng, phong tục cũng như nghệ thuật của dân tộc Việt bị "sứt mẻ, mất mát" nhưng cũng tác động không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của văn học viết.
Nhiều phát hiện mới của khảo cổ học chứng minh từ thời đại Hùng Vương, người Việt đã có một nền văn hóa với nhiều nét cá tính khá rõ rệt và thể hiện qua nhiều thần thoại và truyền thuyết. Tiếp theo một thời gian dài tiếp xúc với nền văn hóa Trung Quốc tiên tiến hơn nhiều mặt, người Việt đã biết cách chuyển hóa chữ Hán trên nền tảng văn hóa Việt, đọc theo thanh điệu của tiếng Việt mà vẫn hiểu được một cách chính xác các giá trị tư tưởng, văn hóa, triết học của Trung Quốc lẫn của người Việt.
Từ truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để sáng tạo ra chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.
Sự thịnh vượng của Hán học thời kỳ nước Việt giành được quyền tự chủ so với thời kỳ nội thuộc cho thấy tính chất trang trọng, thâm trầm của loại chữ viết này rất phù hợp với kiểu nhà nước phong kiến và ý thức hệ Nho giáo lúc bấy giờ. Thời kỳ này, trường học, khoa thi đều dùng chữ Hán như một "phương tiện giao tế tao nhã" để ghi chép lịch sử, truyền đạt ý chỉ, thể hiện quan hệ, tình cảm vua-tôi và các tầng lớp nho sĩ. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, văn học viết dần dần có được những vận hội mới, tạo được vị trí độc lập của mình sau một thời gian dài văn-sử-triết bất phân. Ba dòng tư tưởng Nho-Phật-Lão trở thành nguồn cảm hứng cho văn chương học thuật. Bên cạnh đó, đời sống tích cực gần thiên nhiên của con người thời kỳ này còn mang lại cho văn học nhiều ẩn dụ cao nhã nhưng cũng rất cận nhân tình.
Về mặt thể loại, hình thức; văn học viết thời kỳ đầu chủ yếu là thơ với hai loại: cổ thể và cận thể - tôn trọng khuôn phép mẫu mực của thơ ca Trung Quốc; ngoài ra theo Dương Quảng Hàm (trong quyển Văn học Việt Nam) thì văn viết trong thời kỳ đầu "có nhiều thể, nhưng có thể chia ra làm ba loại lớn" gồm:
Vận văn: tức loại văn có vần
Biền văn: tức loại văn không có vần mà có đối (như câu đối)
Tản văn hoặc văn xuôi: tức loại văn không có vần mà cũng không có đối.
Cuối thế kỷ 18 trở đi, khi chữ Nôm hình thành thì văn học viết có vài chuyển biến trong sáng tác: văn học từ chiếu cung đình dần thâm nhập vào đời sống thường nhật (văn chương bình dân) và cái tôi cá nhân bắt đầu được đề cập đến. "Bà Chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều (của Nguyễn Du) được xem là những thành tựu nổi bật của chữ Nôm trong văn học Việt Nam.
Từ khi có việc truyền bá chữ quốc ngữ vào Việt Nam thì diện mạo văn học có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Ngoài ảnh hưởng các dòng tư tưởng truyền thống phương Đông thì sự thâm nhập của phương Tây mang đến cho văn học viết con đường "hiện đại hóa" từ hình thức, thể loại đến tư tưởng và nội dung sáng tác. Riêng về thể loại nếu so sánh văn học viết Việt Nam giữa hai thời kỳ lớn: Văn học Trung đại và Văn học Hiện đại thì có thể hiểu một cách tổng quát về các thể loại chính như sau:
Thời kỳ văn học Trung đại (từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19) gồm: tự sự và trữ tình.
Thời kỳ văn học Hiện đại (từ đầu thế kỷ 20 đến nay) gồm: tự sự, trữ tình, kịch.
Sau hơn 10 thế kỷ hình thành và phát triển, văn học viết Việt Nam đạt được những thành tựu nhất định và vẫn đang tiếp tục dòng chảy của mình để có thể hội nhập vào nền văn học chung của thế giới.
Tham khảo theo:
Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (Thế kỷ 10 - 19). Tập 1, Văn học thế kỷ 10 - 15/ Bùi Duy Tân (chủ biên); NXB Giáo dục, 2004
Việt Nam văn học sử yếu. Dương Quảng Hàm; NXB Hội Nhà văn, 2002.
Văn học Việt Nam. Dương Quảng Hàm, Bộ Giáo dục/ Trung tâm học liệu xuất bản, 1939.
(theo Wikipedia)
Đã lâu lắm rồi tôi không có dịp đi nghe buổi hòa nhạc cổ điển nào vì đời sống bận rộn nên không thể chuẩn bị ăn mặc chỉnh tề , vào nghe những bài nhạc không lời của người sáng tác các ca khúc , người soạn hòa âm , nhạc trưởng điều khiển ban nhạc và từng nhạc sĩ sử dụng các nhạc cụ mà giửa người nghệ sĩ trình diễn và người nghe qua những tiếng đàn phải có sự cảm thông nhau không qua những ngôn từ của lời nhạc nên nó đòi hỏi mình phải có sự chú tâm để thả hồn tưởng tượng của mình vào những nốt nhạc được rất nhiều nhạc cụ cùng họp lại " hát " cho mình nghe bằng ngôn ngữ quốc tế của âm nhạc , chỉ cần một trong các bước đi đó "lỗi nhịp " là sự cảm thông của tác giả sáng tác đến người thưởng thức sẽ rất dễ xa nhau. Nên tôi không có dịp đi nghe hòa nhạc. Thứ bảy 19 tháng giêng 2008 này tôi nhận được một thiệp mời đi dự buổi hòa nhạc của giáo sư Lê Văn Khoa để giới thiệu dĩa nhạc hòa tấu cổ điển CD Memories ( Hồi niệm ) do đài truyền hình SBTN tổ chức , lòng cứ ngại vì chỉ sợ sẽ không thưỡng thức được trọn vẹn nội dung buổi hòa nhạc cổ điển tây phương này nhưng qua tên tuổi của giáo sư Lê Văn Khoa từ xưa ,tôi lại tò mò muốn gặp giáo sư. Giáo sư Khoa trước 75 tôi chỉ biết trên đài phát hình Vô Tuyến Truyền Hình 9 Sài Gòn qua các chương trình về giáo dục của trung tâm học liệu , ngoài ra tôi còn được biết tiếng ông qua các bức hình nhiếp ảnh nghệ thuật đen trắng của ông chụp và đăng trên các quyển sách của hội nhiếp ảnh ở Sài Gòn trước đây. Hôm nay tôi lại muốn biết thêm về một tài năng nghệ thuật khác của Giáo sư Khoa qua âm nhạc cổ điển như sáng tác âm nhạc ca khúc cổ điển , soạn hòa âm và nhạc trưởng điều khiển ban nhạc hòa tấu.
Buổi hòa nhạc được tổ chức trongh sân khấu thu hình của đài SBTN của nhạc sĩ Trúc Hồ để trực tiếp thu và phát hình cho buổi hòa nhạc , nên sân khấu sắp xếp cố định vừa đủ cho ban nhạc cổ điển trên sấu khấu chính với các loại đàn dây cổ điển như vĩ cầm , hồ cầm , đại hồ cầm,... với các nhạc sĩ trẻ Việt , Mỹ , Nhật. Khán giả chọn lọc cho một sân khấu nhỏ với sức chứa khoảng 200 khán giả mà do chủ đề Hoài niệm nên chỉ thấy đa số là người đứng tuổi , có lẻ chỉ có người đứng tuổi mới cần có những kỹ niệm và cần có một thời để nhớ, để bùi ngùi hay để tâm lắng lại sau nhứng ngày vật vã với cuộc sống rất bận rộn thường ngày,kể cả ông thị trưởng thành phố lân cận và hai ông bà nghị viên thành phố Westminster . Phông của hậu trường sân khấu được trang trí với một bức ảnh màu nghệ thuật về một buổi hoàng hôn với rực đỏ bầu trời cao rộng tỉnh mịch, một cổ xe ngựa đen nhỏ đang thong thả trên đường về như ý tác gả muốn dẫn về một chân trời kỷ niệm nào, tôi đoán có lẻ đây là một tác phẫm của giáo sư Khoa vì nội dung bức ảnh sao quá thích hợp cho chủ đề Hồi Niệm này đến như vậy.
Sau một lời giới thiệu ngắn gọn về giáo sư Khoa của người giới thiệu chương trình thu hình là buổi hòa nhạc do chính ông Khoa điều khiển ở vai trò nhạc trưởng. Tôi thực sự xúc động mạnh về buổi trình diễn nhạc đêm nay với các tác phẫm sáng tác cổ điển của ông về những cảm xúc của ông ghi lại qua các tác phẫm của mình và của một số tác giả khác sáng tác với cùng đề tài và được ông cảm xúc soạn hòa âm cho dàn nhạc của ông ,như Hoàng Trọng và Phạm Duy . Qua các bài nhạc về những kỹ niệm của ông , tôi tìm thấy trong đó có những buổi chiều vàng nơi đồng quê miền nam thuở thanh bình nào đó , tác phẫm về tiếng sáo thuở xưa được một nhạc sĩ người Mỹ trình diễn dù qua một ống sao của tây phương nhưng củng đã gởi tôi về buổi chiều thả diều theo nơi đồng lúa mùa gặt xong , cánh đồng trơ lại những cuống rạ ngắn tràn lan đầy đồng một màu vàng rực , dưới thửa ruộng thì đất ruộng đã khô nứt nẻ , tay cầm cuộn chỉ cột con diều giấy và cố chạy ngược gió trên bờ mẫu đất đấp thấp với những miếng cỏ trụi lá vì những đàn trâu đi qua đã vặt ăn những đọt lá cỏ xanh sáng sớm. Tiếng sáo , âm thanh có những nốt nhạc cao lăng tăng , uống lượn ngghe như thấy được hai cái tai giấy đang phe phẩy trên cao gió lộng , hay những tiếng đàn đệm trầm nhè nhẹ như tiếng gió vi vu dìu dặt ở lũy tre cuối bờ ruộng.
Văn Học Việt Nam
Văn học Việt Nam là sự tích hợp từ hai dòng văn học truyền khẩu và văn học viết của những người dùng tiếng Việt. Trong suốt thời phong kiến, phần lớn các tác phẩm thành văn của văn học Việt Nam được viết bằng chữ Hán do nhiều nguyên nhân: ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, thiếu chữ viết bản địa, chữ Nôm ra đời lại không được triều đình khuyến khích... Về sau, văn học Việt Nam được thống nhất viết bằng chữ quốc ngữ.
Văn học dân gian là nền tảng của văn học viết, là chặng đầu của nền văn học dân tộc. Khi chưa có chữ viết, nền văn học dân tộc chỉ có văn học dân gian; khi có chữ viết nền văn học nầy bao gồm hai bộ phận: văn học dân gian và văn học viết.
Văn học viết chịu ảnh hưởng văn học dân gian về nhiều phương diện, từ nội dung tư tưởng đến hình thức nghệ thuật. Văn học viết cũng có ảnh hưởng trở lại đối với văn học dân gian trên một số phương diện. Mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn học cũng như vai trò, ảnh hưởng của văn học dân gian đối với văn học thể hiện trọn vẹn hơn cả ở lĩnh vực sáng tác và ở bộ phận thơ văn quốc âm.
Văn học dân gian
Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các tầng lớp dân chúng, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển qua các thời kỳ lịch sử cho tới ngày nay.
Ba thuật ngữ sau đây được xem là tương đương: Văn học dân gian, sáng tác nghệ thuật truyền miệng của nhân dân, folklore ngôn từ (folkore văn học).
Những đặc trưng của văn học dân gian:
Tính nguyên hợp: Biểu hiện ở sự hòa lẫn những hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại. Văn học dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau, tồn taị dưới ba dạng: ẩn (tồn tại trong trí nhớ của tác giả dân gian), cố định (tồn tại bằng văn tự) và hiện (tồn tại thông qua diễn xướng).
Tính tập thể: Văn học dân gian là sáng tác của nhân dân, nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả. Tính tập thể thể hiện chủ yếu trong quá trình sử dụng tác phẩm.
Hai đặc trưng trên có liên quan chặt chẽ với các đặc trưng khác của văn học dân gian như tính khả biến (gắn với việc tồn tại các dị bản của tác phẩm), tính truyền miệng, tính vô danh.
Văn học viết
Khác với văn học dân gian, văn học viết hình thành đã "mở ra một thời kỳ lịch sử mới, oanh liệt, rực rỡ" (Đặng Thai Mai). Sự va chạm gần 10 thế kỷ giữa nền Hán học và văn hóa dân gian Việt tuy có phần làm văn hóa, tín ngưỡng, phong tục cũng như nghệ thuật của dân tộc Việt bị "sứt mẻ, mất mát" nhưng cũng tác động không nhỏ đến sự ra đời và phát triển của văn học viết.
Nhiều phát hiện mới của khảo cổ học chứng minh từ thời đại Hùng Vương, người Việt đã có một nền văn hóa với nhiều nét cá tính khá rõ rệt và thể hiện qua nhiều thần thoại và truyền thuyết. Tiếp theo một thời gian dài tiếp xúc với nền văn hóa Trung Quốc tiên tiến hơn nhiều mặt, người Việt đã biết cách chuyển hóa chữ Hán trên nền tảng văn hóa Việt, đọc theo thanh điệu của tiếng Việt mà vẫn hiểu được một cách chính xác các giá trị tư tưởng, văn hóa, triết học của Trung Quốc lẫn của người Việt.
Từ truyền thống văn hóa có sẵn, Hán học tiếp sức cho người Việt hình thành nền văn học độc lập của dân tộc và là nền tảng, cơ sở để sáng tạo ra chữ viết đầu tiên: chữ Nôm.
Sự thịnh vượng của Hán học thời kỳ nước Việt giành được quyền tự chủ so với thời kỳ nội thuộc cho thấy tính chất trang trọng, thâm trầm của loại chữ viết này rất phù hợp với kiểu nhà nước phong kiến và ý thức hệ Nho giáo lúc bấy giờ. Thời kỳ này, trường học, khoa thi đều dùng chữ Hán như một "phương tiện giao tế tao nhã" để ghi chép lịch sử, truyền đạt ý chỉ, thể hiện quan hệ, tình cảm vua-tôi và các tầng lớp nho sĩ. Cùng với những thăng trầm của lịch sử, văn học viết dần dần có được những vận hội mới, tạo được vị trí độc lập của mình sau một thời gian dài văn-sử-triết bất phân. Ba dòng tư tưởng Nho-Phật-Lão trở thành nguồn cảm hứng cho văn chương học thuật. Bên cạnh đó, đời sống tích cực gần thiên nhiên của con người thời kỳ này còn mang lại cho văn học nhiều ẩn dụ cao nhã nhưng cũng rất cận nhân tình.
Về mặt thể loại, hình thức; văn học viết thời kỳ đầu chủ yếu là thơ với hai loại: cổ thể và cận thể - tôn trọng khuôn phép mẫu mực của thơ ca Trung Quốc; ngoài ra theo Dương Quảng Hàm (trong quyển Văn học Việt Nam) thì văn viết trong thời kỳ đầu "có nhiều thể, nhưng có thể chia ra làm ba loại lớn" gồm:
Vận văn: tức loại văn có vần
Biền văn: tức loại văn không có vần mà có đối (như câu đối)
Tản văn hoặc văn xuôi: tức loại văn không có vần mà cũng không có đối.
Cuối thế kỷ 18 trở đi, khi chữ Nôm hình thành thì văn học viết có vài chuyển biến trong sáng tác: văn học từ chiếu cung đình dần thâm nhập vào đời sống thường nhật (văn chương bình dân) và cái tôi cá nhân bắt đầu được đề cập đến. "Bà Chúa thơ Nôm" Hồ Xuân Hương và Truyện Kiều (của Nguyễn Du) được xem là những thành tựu nổi bật của chữ Nôm trong văn học Việt Nam.
Từ khi có việc truyền bá chữ quốc ngữ vào Việt Nam thì diện mạo văn học có những thay đổi sâu sắc và toàn diện. Ngoài ảnh hưởng các dòng tư tưởng truyền thống phương Đông thì sự thâm nhập của phương Tây mang đến cho văn học viết con đường "hiện đại hóa" từ hình thức, thể loại đến tư tưởng và nội dung sáng tác. Riêng về thể loại nếu so sánh văn học viết Việt Nam giữa hai thời kỳ lớn: Văn học Trung đại và Văn học Hiện đại thì có thể hiểu một cách tổng quát về các thể loại chính như sau:
Thời kỳ văn học Trung đại (từ thế kỷ 10 đến cuối thế kỷ 19) gồm: tự sự và trữ tình.
Thời kỳ văn học Hiện đại (từ đầu thế kỷ 20 đến nay) gồm: tự sự, trữ tình, kịch.
Sau hơn 10 thế kỷ hình thành và phát triển, văn học viết Việt Nam đạt được những thành tựu nhất định và vẫn đang tiếp tục dòng chảy của mình để có thể hội nhập vào nền văn học chung của thế giới.
Tham khảo theo:
Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam (Thế kỷ 10 - 19). Tập 1, Văn học thế kỷ 10 - 15/ Bùi Duy Tân (chủ biên); NXB Giáo dục, 2004
Việt Nam văn học sử yếu. Dương Quảng Hàm; NXB Hội Nhà văn, 2002.
Văn học Việt Nam. Dương Quảng Hàm, Bộ Giáo dục/ Trung tâm học liệu xuất bản, 1939.
(theo Wikipedia)