|
Post by NhiHa on May 2, 2011 7:14:19 GMT 9
SÀI GÒN TRONG MẮT AI Chu Trinh 07 tháng 04 năm 2011 Nhiều người khi đi xa Sài Gòn vẫn còn giữ lại hình ảnh của nó trong lòng và nghĩ rằng nó vẫn mãi như thế khi mình trở lại.Nhưng cũng như con người,thành phố này cứ thay đổi hàng ngày có tốt có xấu. Nó thay đổi như thế nào,người đi xa về sẽ nhận ra ngay,nó khác xưa thế nào,người đi xa biết liền,không như những người ở mãi bên cạnh thấy sự thay đổi của nó từ từ mỗi ngày mà không ý thức được. Tôi vẫn luôn luôn sống tại Sài Gòn và cứ bận bịu với áo cơm mà không có thì giờ nhìn ra Sài Gòn đã từ từ khác lạ.Rồi một ngày đẹp trời,mở mắt ra mới thấy Sài Gòn của tôi đã có nhiều thay đổi. Tôi trở lại Sài Gòn những năm đầu 1980,sau một thời gian bị xa cách,lúc đó tôi thấy Sài Gòn vắng vẻ,phố xá quạnh hiu,trên đường chỉ toàn xe đạp,lâu lâu mới có một chiếc xe gắn máy đi qua và vài chiếc xe quân sự bụi bậm gầm rú trên đường.Những căn nhà mặt tiền đường hầu như đóng cửa đồng loạt suốt ngày đêm,chỉ hé mở khi có người ra vào rồi lại khép lại ngay;có lẽ nhà trong hẻm lại mở cửa nhiều hơn và sinh hoạt nhộn nhịp hơn .Khu phồn thịnh như Chợ Bến Thành mà nhà nhà cũng đóng cửa im ỉm.Người đi đường chỉ thấy mặc đồ màu xanh bộ đội,đi dép râu hoặc những mầu xẫm tối,chẳng thấy bóng dáng áo dài tha thướt điệu đà đầy màu sắc trước đây đâu cả. Nhà tôi ở trong hẻm nhỏ không được sạch sẽ lắm,mà có lẽ vào lúc đó hẻm nào cũng thế vì một số đã bán nhà hoặc dỡ nhà lấy tôn bán để lấy vốn đi vùng kinh tế mới,người ở lại thì tăng gia sản xuất như làm nghề thủ công,may vá, nuôi heo,nuôi gà,nuôi lươn,nuôi cá … trong nhà.Người ta nấu nướng bằng các loại củi,vỏ trái cây phơi khô và cả bằng giấy,vải vụn hoặc bằng lá cây rụng trên đường.Nhiều người còn lợi dụng lúc vắng chặt cây trồng hai bên đường đem về làm củi.Có lẽ vì thế mà cống rãnh hôi hám hơn lúc nào hết. Sài Gòn lúc đó chắc thừa nhà ở vì rất nhiều nhà trống,những ai được cử đến đây làm việc rất dễ xin được nhà,sau này được hợp thức bằng hóa giá rẻ như cho;còn những người cần bán nhà thì giá một căn sạch sẽ,tươm tất cũng chỉ cỡ bằng một cái xe gắn máy honda C50 cũ lúc đó.Nhà nào lợp tôn thường có giá cao hơn nhà đúc.Những viên chức được ở nhà đúc lấy sân thượng tăng gia sản xuất làm chuồng nuôi heo,gà v.v lại rất tiện.Nói chung nhà đúc với hầu hết người mới vào chiếm đóng cũng là một cái gì lạ lẫm,khác hẳn với những gì họ từng trải qua suốt cuộc đời như cái bàn cầu ngồi hoặc những dụng cụ trong nhà tắm,nhà vệ sinh v.v.. Lúc đó làm nghề buôn bán được coi là bóc lột.Hàng hóa bị ngăn cấm lưu thông,những phần tử mới chạy theo Cách Mạng còn dữ dằn hơn Cán Bộ thứ thiệt,mấy lon gạo hoặc một con gà là mấy ông ấy cấm tuyệt đem vào Sài Gòn.Đi chợ có mua miếng thịt thì phải lấy bó rau muống che lên trên.Làm bếp phải nhẹ nhàng không được khua dao động thớt gây thắc mắc cho hàng xóm là vì anh làm gì có tiền mà xài sang vậy ?Mấy người buôn bán nhỏ chở năm ba cân đường,vài gói bột ngọt,mấy lon sữa bò coi chừng bị mấy ông Quản Lý Thị Trường hỏi thăm là bị tịch thu mất trắng.Cá thịt là độc quyền kinh doanh của nhà nước,ai chở đi đường bị phát hiện thì tịch thu.Nhiều người còn bị thứ giả mạo chận lại hù dọa lấy mất hàng và không dám phản ứng! Vì họ tưởng ai đi ngoài đường cũng là quan Cách Mạng cả.Nhưng vì lý do sinh tồn,ai cũng tìm cách này cách kia kiếm thêm để tồn tại nên bôn ba khắp nơi,có khi được cũng có khi chỉ còn tay trắng vì bị tịch thu hết. Hàng hóa nông sản khan hiếm vì nông dân làm ra phải bán cho nhà nước theo giá chỉ đạo dưới giá thành sản xuất,nên chẳng ai chịu làm,chịu bán mà cất dấu đi hết,chỉ bán chui. Lúc đó nếu ai có một xe bán hủ tíu hay phở mà có khách ăn đông là phải có một nhân viên Thuế ngồi kèm để đếm số tô tính tiền thuế.Bạn bán thịt heo, bò ư? Giá phải do nhà nước qui định,nhưng nhà nước không có thịt cung cấp cho người bán.Bạn phải đi mua chui ở ngoài giá cao,nên phải bán cao hơn giá nhà nước cho,thế là bạn chỉ đứng chơi ở sạp bán thịt không bày gì cả ,ai quen tới mua nói nhỏ với bạn thì sẽ được hẹn đến một nơi gần đó nhận hàng,dĩ nhiên với giá thị trường.Khách hàng mua được hàng phải che đậy lên trên bằng một cái gì đó không giá trị mấy để không bị phát hiện.Giống hệt như hiện nay khi mua bán Đô La,phải mắt trước mắt sau như đi ăn trộm vậy. Nhưng những khó khăn ban đầu rồi cũng vượt qua.Cách Mạng đi lên từ quần chúng,mà quần chúng thì chủ yếu có sức sáng tạo nhờ vận dụng cơ bắp và những mánh lới khôn lỏi áp dụng vào hành động để đạt mục đích,cứ sai lại sửa,dần dần khôn ra và hoàn hảo lên,khác với tư sản trí thức,thường hay tính toán đâu ra đó và phải hợp pháp,hợp lý,logic. Tuy ít sai lầm hơn,nhưng vì chần chừ không quyết đoán,nên chậm hơn. Tôi nhớ lúc đó nhiều gia đình có việc đi đâu đó một đêm,khóa cửa ,sáng ra trở về ,nhà đã bị niêm phong vì bị cho là đi vượt biên, thế là mất chỗ ở,có giải trình mấy cũng không ai nghe.Do đó nhà Sài Gòn được nhà nước quản lý rất nhiều, nhân viên chính quyền ở nơi khác vào Thành Phố làm việc tha hồ chọn chỗ ở.Sau đó đều được hợp thức hóa hết.Ngày nay vị nào bỏ nhà đi vượt biên về thăm lại nhà cũ thấy người nào lạ hoắc đang ngự trị trong đó cũng chẳng dám xin vào thăm chốn cũ vì ngại đủ thứ,cứ đứng ngẩn tò te phía trước ,dù họ chưa bán cho ai,nhưng cũng không còn là chủ sở hữu nữa. Lúc đó nghề mua bán ve chai sắt vụn(cọc sắt Ấp Chiến Lược và bàn ghế,giường tủ cũ là mặt hàng được săn lùng nhiều nhất) và nghề đạp cyclo là tương đối kiếm ăn được.Hàng điện máy cũ trong dân đến lúc này đã cạn kiệt vì Giải Phóng đã gần 10 năm rồi lại bị cấm vận ,hàng mới không có.Trên khắp nẻo đường từ thành phố đến thôn quê,hàng ngày có nhiều toán người rong ruổi rao mua bàn ghế giường tủ và đủ loại muỗng nĩa hầm bà lằng khác.Rất nhiều người làm nghề này (một phần là đám Sĩ Quan chế độ cũ mới được tha về ) để kiếm thêm giúp đỡ vợ con,lúc rảnh rỗi thì ngồi tâm sự với nhau cũng khuây khỏa phần nào. Ngoài đường cũng xuất hiện nhiều người làm nghề sửa xe đạp,lộn sên xe đạp,mua phim phổi,hàn thau chậu xoong nồi,phục hồi bu gi v.v.. Sau những năm 1980 thì việc phân phối lương thực không còn nữa vì không thể mua được hàng theo giá nhà nước mà hàng ngày chỉ thấy loa Phường gọi dân ra mua cá,mắm muối mỗi khi có hàng mới về. Kế đó là cải tạo công thương nghiệp, là đổi tiền mới (ngày 14/9/1985) vì tiền cũ lạm phát mấy trăm phần trăm,một đồng mới ăn 10 đồng cũ,lại giới hạn số lượng tiền được đổi,tối đa cho hộ dân thường là 100.000$,ngoài số đó ra coi như giấy vụn.Vui nhất là khi ai đó đi ăn một đĩa bánh ướt trị giá 2 đồng cũ mà cầm trong tay tờ 5 đồng mới thì cả người bán và người ăn bánh cuốn phải chạy đầu trên xóm dưới để tìm cách thối tiền !Rồi cảnh những người còn nhiều tiền sau khi đã đổi hết định mức chạy kiếm người nghèo đổi giùm,chả cần nói hết thì ai cũng nghĩ ra những rắc rối xảy ra sau dịch vụ này (1). Thời này,nhà nước cấm buôn bán vàng,nhưng vì nhu cầu nên vẫn có người lén bán,lén chế tác vàng trang sức .Thế là có cảnh đi lục soát nhà những người bán vàng,nhà nào bị khám xét thì cả nền nhà,vách tường cũng bị đào bới lên y như một trọng tội.Có người lén quăng gói vàng sang mái nhà hàng xóm cũng bị phát hiện.Còn có cảnh những nhà làm nghề thợ bạc giầu có sợ bị đánh tư sản xin hiến của,làm những mâm đầy vàng đội lên đầu rước ra UBND nộp để được yên thân. Mọi chuyện cứ từ từ từng ngày một thay đổi dần.Nhà nước bắt đầu cho tự do hơn một chút.Vì bị cấm vận nên hàng ngoại rất khan hiếm,nhiều người còn tích trữ được đem ra bán rất có giá,từ cục xà bông,cái khăn tắm v.v. vì phẩm chất của nó vượt trội so với hàng sản xuất trong nước.Ngoài ra còn một nguồn hàng ngoại nữa là là hàng nhảy tàu ở cảng Sài Gòn.Tàu hàng nước ngoài cập cảng xuống hoặc lên hàng,thủy thủ được móc nối ban đêm thả hàng xuống các ghe cặp kè sát tàu.Số hàng này được chuyển lên Chợ Cũ bày bán rồi được phân phối đi khắp nơi.Khu Nguyễn Thông gần nhà thờ Cứu Thế bán nhiều hàng độc như thế. Vì là giai đoạn bao cấp,những công ty thương nghiệp thành phố quận huyện phải lo phân phối hàng hóa cho các Hợp Tác Xã bán cho xã viên,nhưng họ cũng có những cửa hàng bán sỉ trong vài Trung Tâm Thương Mại như TTTM Quận 10 hoặc Quận 11(khu cạnh Viện Hóa Đạo và khu Trường Đua Phú Thọ),bán đủ thứ từ thuốc Tây,đường sữa,bột ngọt,mắm muối v.v..Càng về sau hàng hóa các loại về càng nhiều,không rõ cơ quan nào,nhưng có khá nhiều loại,đáng chú ý nhất là xe gắn máy nghĩa địa bày bán tràn lan ở mấy gian hàng quốc doanh,quốc doanh thật hay giả thì khó kiểm chứng,nhưng chắc họ kiếm lời bộn vì nghe đồn những thứ đó là rác ở Nhật,Hàn nhưng xin nhập về VN thì bán ra tính bằng vàng,một cái Cub Honda 81 cũ bán cỡ 3,4 cây vàng…. Có lẽ cũng từ thời kỳ này ở VN,vàng là phương tiện giao dịch lần đầu thay cho tiền và đến nay phát triển quá độ khiến các nhà quản lý phải vò đầu bứt tai để loại bỏ tập quán này.Có xe gắn máy nhưng đi đổ xăng cũng vất vả,vì bán hạn chế và nhiều lúc cây xăng cũng không có xăng để bán. Sau khi không còn bị cấm vận,nhà nước chủ trương kinh tế nhiều thành phần thì hàng hóa dồi dào hẳn lên, nhà nhà mở cửa,các bức tường bao quanh nhà ở những khu chưa bao giờ buôn bán cũng được phá ra,biến thành những cửa hiệu.Đường phố đông vui tấp nập hơn bao giờ hết,trang phục người dân nay tươi sáng,xinh đẹp,thời thượng giống như ở nước ngoài.Chỉ có điều cái áo dài tràn ngập phố phường trước 75 nay cố khôi phục mấy cũng không thành công! Nhà nước mở cửa cho dân làm ăn,nên đời sống cũng dễ thở hơn lên,việc vượt biên sau đợt nạn kiều và bán bến bãi giờ đã dịu dần người các nơi tìm mọi cách vào Sài Gòn làm ăn ngày càng đông,nhà cửa bắt đầu khan hiếm,những căn nhà trống nay không còn nữa,nhà nước lại không còn hạn chế mỗi người chỉ được đứng tên một căn nhà,nên giá nhà mỗi ngày tăng vùn vụt.Chỉ cần biết có người muốn bán nhà là có hàng chục người tranh nhau mua.Do đó kinh doanh nhà trở nên giàu có nhanh chóng.Có người mua xong một căn nhà chưa kịp làm giấy tờ đã có người khác mua lại lời hàng chục cây vàng.Báo chí lúc đó còn kể nhờ kiếm được tiền dễ dàng nhờ mua bán nhà mà một cô giáo đã có tiền giúp đỡ hàng trăm học sinh nghèo.Con trai nhà văn Nguyễn Khải vào Quận Tư lập nghiệp phất lên nhờ kinh doanh nhà,giúp bố đỡ khổ những ngày cuối đời. Vì nhà đất là mối kiếm ăn béo bở nhất,nên nhiều khu đất quốc phòng,an ninh bỏ trống cũng được cắt ra,chia nhau,tư hữu hóa,như khu đường 3 tháng 2 tên cũ là Trần quốc Toản ( là doanh trại Quân Đội chế độ cũ)hoặc khu Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát cũ,bây giờ tư hữu hóa hết hơn một nửa và chắc đã chuyển qua mấy đời chủ rồi.Còn khu vực Tân Sơn Nhất nữa,người ngày xưa chẳng còn nhận ra khu Lăng Cha Cả,Trại Phi Long ở chỗ nào nữa. Phi trường Tân Sơn Nhất diện tích cứ nhỏ dần để lọt vào tay tư nhân. Đời sống người dân khá lên nên việc sửa chữa lại nhà cửa đường xá cũng được đẩy mạnh.Nhà nước còn nghèo bèn nghĩ ra cách nhà nước và nhân dân cùng làm,hai bên cùng bỏ tiền ra làm nên thành phố cũng dần dần sạch sẽ khang trang hơn.Chỉ có điều vì thiếu phối hợp giữa các cơ quan nên đường vừa làm xong,đẹp đẽ lại bị đào lên làm cống thoát nước,ống cấp nước,ống cáp ngầm nên cứ như khuân mặt sửa sắc đẹp,mổ ra đắp lại, chằng chịt sẹo không giống ai ! Trong Sài Gòn nhà ga xe lữa nay không còn vết tích gì.Đã mấy lần người ta dự định xây dựng cái này cái kia lên đó nhưng không thành,nay tạm làm công viên,trông cũng mát mẻ,mỗi năm lại tổ chức chợ hoa cũng là nơi tham quan,chụp hình mua sắm cho du khách.Trên những con đường xe lửa đi qua,nay trở thành đường phố,tuy nhỏ nhưng nhiều nhà trở thành mặt tiền có chỗ làm ăn ,buôn bán,tuy nhiều căn chỉ có chiều sâu 3 mét.Điều đáng nói là kênh Nhiêu Lộc vắt ngang thành phố với nhiều ngàn căn nhà lụp sụp hôi hám nay đã được nạo vét,xây bờ kè,làm đường giao thông hai bên tuy chưa hoàn chỉnh nhưng cũng đã có bộ mặt mới sạch sẽ hơn ngày xưa nhiều. Nghĩa trang Mạc đĩnh Chi ngày xưa có những ngôi mộ các nhà quyền thế giầu có trở thành công viên Lê văn Tám,nay làm chỗ cho một số người đến đi bộ và tập thể dục , lâu lâu tổ chức hội chợ.Nghĩa địa Đô Thành trên đường Lê văn Duyệt cũ cũng đã được dời đi làm công viên. Khu thương xá EDEN,nay bị phá đi xây lại mặc dù có nhiều ý kiến phản đối nhưng ý chí của quyền lực lại thắng.Có lẽ người ta sẽ không phá nhà thờ Đức Bà,Tòa Đô Chính và Dinh Độc Lập. Năm ngoái 2010 tòa nhà Bitexco cao 262,5m,gồm 68 tầng nổi và 3 tầng hầm đã khánh thành và đưa vào sử dụng tại Quận 1. Đường Lê Lợi,Nguyễn Huệ được chọn làm trung tâm của các lễ hội.Vào dịp lễ tết tại đây được chưng đèn kết hoa đẹp đẽ trở nên quá chật chội đến ngộp thở vì không thể dung nạp hết số lượng người muốn tham dự.Mấy ông Kiến trúc sư Pháp dở quá không tiên đoán nổi lúc Sài Gòn dân số tăng lên đến 7- 8 triệu người như hiện nay. Sài Gòn ngày nay đẹp và giầu có hơn hẳn xưa,vì tiền bạc đổ vào rất nhiều do viện trợ và vay mượn. Những năm đầu thế kỷ 21 khu Phú Mỹ Hưng xây dựng thành công trên vùng đất hoang hóa sình lầy trở thành khu dân cư cao cấp hiện đại,đã mở rộng thành phố về tận Nhà Bè.Cầu Ông Lãnh,cầu Calmette,cầu Rạch Miễu,Cầu Nguyễn văn Cừ,cầu Chữ Y,Cầu Nguyễn tri Phương và cầu Chà Và đã làm cho sự lưu thông sang phía Đông dễ dàng và thuận tiện hơn. Những con đường rộng và dài khá đẹp,khá tốt mới được xây dựng xong mấy năm nay như Nguyễn văn Linh,chạy suốt từ Quận 2 qua cầu Phú Mỹ bắc ngang sông Sài Gòn ra Phú Lâm hoặc Đại lộ Đông Tây mà có người vì nó đã đi tù do tham ô. Khu Quận 2 cũng đang chuẩn bị hạ tầng,giải phóng mặt bằng,di dời dân,đang xây đường hầm qua sông Sài Gòn,đã khánh thành cầu Phú Mỹ bắc qua sông Sài Gòn.Xa Lộ Biên Hòa nay gọi là xa lộ Hà Nội,cũng được mở rộng,hiện đại hóa vòng xoay Cát Lái,xây lại cầu Rạch Chiết.Tuy nhiên có lẽ vì chưa có nhà đầu tư nào tha thiết với khu Đô Thị mới Thủ Thiêm nên đã trên 10 năm rồi mà khu này vẫn còn là khu bãi hoang. Tuy nhiên tất cả chỉ là chắp vá vì nạn kẹt xe liên miên ở mọi tuyến đường có lẽ là do mặt đường quá tải và nhất là ý thức thi hành luật giao thông của mọi người.Khi giao thông ai nấy cứ thấy có đường thoáng phía trước là lách xe lên để đi vào,chẳng cần biết lối đó dành cho loại xe gì,chạy theo chiều nào.Chỉ đến khi dồn cục lại,không chiều nào đi được mới vừa chửi đổng vì bị hít khói bụi rồi đổ lỗi cho nhau có khi còn đánh lộn nữa.Thật là hết ý.Có lẽ giáo dục ý thức công dân mãi mãi không đạt được nên kẹt xe cứ vĩnh viễn là vấn đề được bàn tiếp.Gần đây sau vụ động đất sóng thần thấy tinh thần người Nhật thể hiện,không biết người Việt có học được gì không ? Viết đến đây đã quá dài,làm độc giả chán nản chuyển sang trang khác nên xin tạm dừng,dịp khác sẽ nói về con người Sài Gòn theo thời gian từ sau 75.Chắc bạn đọc ở nước ngoài xa Sài Gòn lâu cũng có được cái nhìn tổng quát về thành phố lưu nhiều kỷ niệm ấm áp này ?
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 26, 2011 5:16:37 GMT 9
SAI GONSuu Tam EtruyenVNTrong "Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị" của ông Huỳnh Tịnh Của thì Sài tức là củi thổi, Gòn: tên loại cây cỏ bông nhẹ xốp, nhẹ hơn bông thường, trong Nam hay dùng để dồn gối, dồn nệm. Về địa danh Sàigòn thì Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị ghi: tên riêng của đất Chợ Lớn, bây giờ lại hiểu là đất Bến Nghé. Ðịnh nghĩa Sàigòn của quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị cho ta thấy rằng tên Sàigòn trước đây dùng để chỉ vùng Chợ Lớn hiện nay, còn vùng mà ta gọi là Sàigòn hiện nay thì trước đây lại gọi là Bến Nghé. Ðiều này được xác nhận nhờ hai người Anh là Crawford và Finlayson đã đến vùng này năm 1922. Cứ theo lời những người này thuật lại thì Sàigòn và Bến Nghé (mà các tác giả trên đây viết là Bingeh hay Pingeh) là hai thành phố phân biệt nhau và cách xa nhau độ 1 hay 2 dặm, Bến Nghé là nơi đồn binh và đạt cơ quan chánh phủ, còn Sàigòn là trung tâm thương mãi và là nơi cư ngụ của người Hoa kiều và các thương gia (tài liệu của Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises tức là Tập san của Hội Cổ Học Ấn Hoa, năm 1942, tập số 2). Vậy, Sàigòn và Bến Nghé là hai thành phố phân biệt nhau và có hai tên khác nhau đàng hoàng, nhưng đến khi người Pháp chinh phục ba tỉnh phía đông Nam Kỳ năm 1861, họ dùng tên Sàigòn để chỉ đất Bến Nghé cũ, mà họ dùng làm trung tâm hành chánh, vì Bến Nghé là một tiếng khó cho người ngoại quốc phát âm hơn Sàigòn. Người Việt Nam bắt buộc phải theo họ mà gọi Bến Nghé là Sàigòn, còn vùng trước đó gọi là Sàigòn thì được gọi là Chợ Lớn theo một cái tên mà sử gia Phan Khoang trong bộ Việt Sử, Xứ Ðằng Trong, cho là dường như đã có từ đời vua Gia Long. Cũng theo quyển Ðại Nam Quốc Âm Tự Vị của ông Huỳnh Tịnh Của thì tên Sàigòn có nghĩa là củi gòn. Nhà học giả Trương Vĩnh Ký đã theo thuyết này mà ông cho biết là dựa vào bộ Gia Ðịnh Thông Chí của ông Trịnh Hoài Ðức. Trong tập Souvenirs historiques, ông Trương Vĩnh Ký lại kể lại rằng người Khmer xưa có trồng cây gòn chung quanh đồn Cây Mai và chính ông còn thấy vài gốc cổ thụ này tại vùng ấy năm 1885. Sau ông Trương Vĩnh Ký, còn có ông đốc phủ Lê Văn Phát đi xa hơn trong thuyết kể trên đây. Theo ông Lê Văn Phát thì trước đây, vùng Sàigòn Chợ Lớn hãy còn bị rừng bao phủ và tên Sàigòn có lẽ phát xuất từ tên Khmer Prei Kor tức là Rừng Gòn (Forêt des Kapokiers). Prei Kor là tên mà người Khmer dùng để gọi một địa phương mà trọng tâm là Chùa Cây Mai ở Phú Lâm ngày nay. Mặt khác, ông Lê Văn Phát cũng cho biết rằng người Lào (mà ngôn ngữ gần như ngôn ngữ Thái) đã gọi vùng này là Cai Ngon, mà Cai Ngon theo tiếng Thái cũng có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn (Brousse des kapokiers). Thuyết về nguồn gốc tên Sàigòn của các học giả Việt Nam trên đây sau này đã bị một số học giả khác bác bỏ. ông Vương Hồng Sến trong bộ Sàigòn Năm Xưa cho biết rằng theo tiếng Khmer thì Kor có nghĩa là gòn mà cũng có thể có nghĩa là con bò, và Prei Kor có thể là Rừng Bò chứ chưa ắt hẳn là Rừng Gòn. Mặt khác, các nhà học giả Pháp nghiên cứu về nước Cam.Bu.Chia đã tìm được trong bộ sử chép tay của nước ấy một dữ kiện quan trọng về vùng này. Theo bộ sử ấy, năm 1623, một sứ bộ của chúa Nguyễn đã đến Cam.Bu.Chia xin vua Cam.Bu.Chia cho đặt một số sở thuế ở vùng Prei Nokor va` Kas Krobey. Vua Cam.Bu.Chia lúc ấy có một hoàng hậu la` con gái chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên). Bởi đó, ông đã chấp nhận lời yêu cầu của chúa Nguyễn. Theo ông Etienne Aymonier thì Nokor là xứ, quốc gia và Prei Nokor là rừng của vua (forf royale). Nhưng linh mục Tandart lại bảo rằng tiếng Nokor do tiếng nam phạn Nagaram mà ra, và có nghĩa là Thành phố của rừng hay thành phố ở giữa rừng (ville de la forêt). Bởi vậy theo ông, Prei Nokor có nghĩa là thành phố. Nhà học giả Pháp Louis Malleret khi nêu ra tài liệu về Prei Nokor đã dựa vào ý nghĩa của tiếng Khmer này theo linh mục Tandart để bác bỏ thuyết của các học giả Việt Nam trước đó cho rằng Sàigòn có nghĩa là Củi Gòn. Ông đã theo ý kiến của một người Pháp khác là Maurice Verdeille theo đó tiếng Sàigo`n có lẽ phát xuất từ tiếng Tây ngòn có nghĩa là cống phẩm của phía tây (tribut de l'ouest). Tiếng Hán Việt có nghĩa là cống phẩm của phía tây nếu đọc theo V.N là Tây Cống và Tây Ngòn hẳn là Tây Cống, nhưng phát âm theo giọng Trung Hoa. Sở dĩ ông Malleret theo thuyết này là vì ông đã dựa vào một dữ kiện lịch sử do ông Trịnh Hoài Ðức chép lại, là khi Cam Bu Chia bị phân ra cho hai vua thì cả hai vua nầy đều nạp cống phẩm cho chúa Nguyễn ở Prei Nokor, vốn là thủ đô của vua thứ nhì từ năm 1674 (trong khi vua thứ nhứt đóng đô ở Oudong ở phía bắc Nam Vang). Một tác giả khác, ông Vương Hồng Sển, nhắc lại trong quyển Sàigòn Năm Xưa rằng người Hoa Kiều đã tập trung vào vùng Chợ Lớn ngày nay để mua bán năm 1778 sau khi Cù Lao Phố (gàn tỉnh lị Biên Hòa ngày nay) là nơi được thành lập để mua bán từ cuối thế kỷ thứ 17 đã bị Tây Sơn phá tan khi họ kéo vào đánh Miền Nam. Sau khi thành phố này đã vững, người Hoa Kiều đã đáp thêm bờ kinh Chợ Lớn, cẩn đá cho cao ráo kiên cố. Và có lẽ để ghi công việc này, họ đặt tên chỗ mới này là Ðề Ngạn, tức là bờ sông cao dốc trên có đe ngăn nước. Ðề Ngạn là tiếng Hán Việt, chớ người Trung Hoa phát âm theo giọng Quảng Ðông thì nói thành Tài Ngon hay Thầy Ngồnn. Ông Vương Hồng Sển cho rằng tiếng Sàigòn chính do Thầy Ngồnn mà ra. Về đất Bến Nghé thì người Trung Hoa gọi là Xi Cong. Ông Vương Hồng Sển cho rằng đó là họ đọc trại lại tiếng Sàigòn của ta và khi viết ra Hán văn thì họ dùng hai chữ mà ta đọc là Tây Cống. Vậy, có ba thuyết về nguồn gốc và ý nghĩa của tên Sàigòn: 1. Thuyết của các ông Trương Vĩnh Ký và Lê Văn Phát: Sàigon do tiếng Khmer Prei Kor mà ra, và có nghĩa là củi gòn. 2. Thuyết của ông Louis Malleret: Sàigòn do tiếng Tây Ngòn, tức là Tây Cống phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là cống phẩm của phía tây. 3. Thuyết của ông Vương Hồng Sển: Sàigòn do tiếng Thầy Ngồnn tức là Ðề Ngạn phát âm theo giọng Trung Hoa và có nghĩa là bờ sông cao dốc trên có đê ngăn nước. Còn về tiếng Tây Cống, ông Vương Hồng Sển lại cho rằng nó chỉ được người Trung Hoa dùng sau này để phiên âm lại tên Sàigòn sau khi tên này được dùng đẻ chỉ đất Bến Nghé cũ. Ba thuyết trên đây cái nào cũng có vẻ có lý phần nào nhưng thật sự, không cái nào có thể làm cho chúng ta hoàn toàn thỏa mãn. Như thế có lẽ vì những người nêu ra các thuyết ấy đã quên để ý đến cách ông bà chúng ta đặt các địa danh ở Nam Kỳ trước đây. Chúng ta có thể nhận thấy rằng trong việc đạt địa danh này, ông bà chúng ta đã theo một số nguyên tắc: Các cụ có thể phiên âm một địa danh Khmer đã có và bỏ dấu cho thành tiếng Việt Nam. Thí dụ như Psar Deck thiếng Khmer là Chợ Sắt đã được các cụ gọi lại là Sa Ðéc, hay Me So tiếng Khmer là Người Ðàn Bà Ðẹp hay nàng Tiên được các cụ gọi là Mỹ Tho. Trong một bài kỷ niệm ngày 30 tháng tư, đăng trong tờ Việt Báo, ông Phạm Nam Sách khi nói về tỉnh Ba Xuyên đã nhắc đến một địa danh mà ông nói là là Bảy Sào, Bải Sào, Bảy Sau hay Bải Sau chi đó. Thật sự đó là Bải Xào, một tiếng phát xuất từ tiếng Khmer Bai Xao có nghĩa là Cơm Sống. Ðịa danh này sở dĩ có là vì trong trận đánh nhau voói người Việt Nam, người Khmer đã thua chạy về đến đó và ngừng lại nấu cơm ăn, nhưng cơm chưa kịp chín thì quân Việt Nam lại kếo đến và người Khmer phải bỏ chạy. Ðể đánh dấu việc này, họ gọi đất đó là Cơm Sống, tiếng Khmer là Bai Xao và các cụ ta bỏ dấu thêm thành Bải Xào. Các cụ có thể dịch nghĩa một địa danh Khmer đã có. Thí dụ như tên Bến Nghé phát xuất từ tiếng Khmer Kompong Krabei có nghĩa la Vũng Trâu. Theo sử Khmer mà ông Malleret viện dẫn thì ngoài Prei Nokor, vua Cam.Bu.Chia còn cho chúa Nguyễn đạt sở thuế ở Kas Krobey. Chữ Krobey rất gần Krabei, và có thể Kas Krobey với Kompong Krobei cũng là một và có nghĩa là Vũng Trâu, Bến Trâu gì đó. Nhưng tên theo hai loại trên đây là do người Việt Nam bình dân đặt ra khi mới đến một địa phương, về sau, khi đã có nhiều người Việt Nam ở và triều đình Việt Nam đặt ra các đơn vị hành chánh, thì triều đình lại dùng tiếng Hán Việt như Trấn Biên, Phiên Trấn, Phước Long, Phước Tuy v.v... Mặt khác, khi viết sử hay viết sách địa lý mà gặp một tên nôm do người bình dân đã đặt, các cụ đã dịch phăng nó ra tiếng Hán Việt chớ ít khi chịu chép tên nôm. Như Ba Giỗng, các cụ dịch là Tam Phụ và Bến Nghé, các cụ dịch lại là Ngưu Chử khi chép vào sách chớ không chịu viết tên nôm là Ba Giồng, Bến Nghé. Nếu lấy các qui tắc đặt địa danh của các cụ ngày xưa làm tiêu chuẩn dể suy luận thì ta thấy ngay các thuyết trên đây về nguồn gốc và ý nghĩa của Sàigòn không ổn. Nếu các cụ ta ngày xua muốn dịch tiếng Khmer Prei Kor ra tiếng Việt thì các cụ đã dùng tên Củi Gòn, Cây Gòn hay Rừng Gòn để đạt cho địa phương này, chớ không ghép một tiếng Hán Việt là Sài với một tiếng nôm là Gòn để thành Sàigòn, cũng nhu khi dịch Kompong Krabei ra tiếng Việt, các cụ đã gọi là Bến Nghé chớ không nói Tân Nghé, Chử Nghế hay Ngạn Nghé (Tân, Chử và Ngạn là những tiếng Hán Việt có nghĩa là cái cồn nhỏ, bến sông, bờ sông). Nếu bảo rằng gòn là một loại cây không có tên Hán Việt và các cụ đã dùng tên ấy như tiếng Hán Việt thì các cụ đã theo văn phạm Hán Việt mà gọi Củi Gòn là Gòn Sài chớ không thể gọi là Sài Gòn Chữ Sài là tiếng Hán Việt có nghĩa là Củi, nhưng cũng chữ ấy mà dùng làm chữ nôm thì lại đọc là Thầy. Vậy, nếu đọc theo tiếng nôm hoàn toàn hai chữ mà ông bà chúng ta dùng để chỉ tên đất ta đang nghiên cứu thì ta có Thầy Gòn. Tên này rất gần với Tây Ngòn hay Thầy Ngồnn là những tiếng Hán Việt Tây Công hay Ðề Ngạn đọc theo giọng Trung Hoa. Nhưng các cụ ngày xua rất sính dùng tiếng Hán Việt. Ðến như tiếng nôm hoàn toàn là Ba Giồng, Bến Nghé mà các cụ còn nhứt định phải dịch ra là Tam Phụ, Ngưu Chử khi viết vào sách vở thì không lý do gì các cụ lại không dùng các tiếng Hán Việt đã sẵn có là Tây Cống hay Ðề Ngạn, mà lại dùng tiếng Thầy Gòn là tiếng phiên âm theo giọng của người Trung Hoa. Vậy, các thuyết kể trên đây đều không vững cả. Cuối cùng, chỉ còn một dấu vết nhỏ trong các tài liệu nói về ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giúp ta một lối thoát: đó là việc ông Lê Văn Phát cho biết rằng người Lào đã gọi vùng Chợ Lớn ngày nay là Cai ngon, mà Cai ngon theo tiếng Thái có nghĩa là Rừng Chỗi Cây Gòn. Chúng tôi không biết tiếng Lào hay tiếng Thái nên không thể xác nhận được ý nghĩa của Cai Ngon theo tiếng Thái, nhưng nếu quả đúng như ông Lê Văn Phát nói thì tên Sàigòn do ông bà ta phiên âm từ tiếng Thái Cai Ngon và bỏ dấu theo giọng Việt Nam như thông lệ. Xét về mặt nguyên tắc đạt địa danh của ông bà chúng ta ngày xưa, thì vấn đề này có thể kể là tạm giải quyết. Nhưng nghi vấn còn lại là tại sao lại có tiếng Lào hay tiếng Thái lọt vào đây? Hiện nay, không có nhiều tài liệu lịch sử giúp chúng ta có một sự hiểu biết rộng rãi và chánh xác về thời kỳ người Việt Nam mới vào ở đất Nam Kỳ. Chúng ta chỉ có thể dựa vào một số dữ kiện sau đây để suy luận: 1. Vào đầu thế kỷ 17, nước Cam Bu Chia đã bị người Xiêm (Thái Lan hiện nay) uy hiếp nặng nề, và chính vì muốn dựa vào người Việt Nam để chống lại Xiêm mà vua Chey Chetta II đã đi cưới công chúa Ngọc Vạn (là con gái chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên) về làm hoàng hậu năm 1620, rồi đén năm 1623 lại để cho chúa Nguyễn đặt những cơ sở thâu thuế ở vùng Sàigòn, Chợ Lớn ngày nay. 2. Vùng Chợ Lớn chỉ trở thành một vùng thương mãi thạnh vượng từ năm 1788 với khối người Hoa Kiều tụ tập về đó sau khi Cù Lao Phố bị Tây Sơn phá hủy. Vậy, lúc chúa Nguyễn mới đạt cơ sở thuế hơn 150 năm về trước vùng này chưa có mua bán gì nhiều. 3. Người Việt Nam chỉ vào ở Nam Kỳ nhiều từ khi có lực lượng của ông Trần Thượng Xuyên đóng thường trực để bảo vệ cho họ từ năm 1680. Vậy, lúc chúa Nguyễn đạt sở thuế ở vùng Chợ Lớn ngày nay, hơn 50 năm trước đó, chưa có đông người Việt Nam và chưa có sản xuất nhiều lúa gạo để bán. 4. Như thế, cơ sở thuế của chúa Nguyễn chắc chỉ đánh vào một vài sự buôn bán nhỏ, không quan trọng lắm, và do đó mà vua Cam Bu Chia đã dễ dàng cho chúa Nguyễn thâu lấy nguồn lợi này, chớ nếu có sự mua bán quan trọng và quyền lợi thuế vụ lớn thì vua Cam Bu Chia lúc đó vốn còn hoàn toàn độc lập với chúa Nguyễn, chắc không phải chấp nhận dễ dàng lời yêu cầu của chúa Nguyễn. Vậy, sự mua bán đó dựa vào móng hàng gì? Có thể một trong những món hàng được buôn bán thời đó là gòn, vì vùng này có nhiều cây gòn, có lẽ không nhiều đến thành rừng, nhưng cũng đạt mức quan trọng để có thể gọi là rừng chổi được. Người Xiêm có thể đã đến đó mua gòn để đem về nước dồn gối, dồn nệm. Một ít thương gia Xiêm có thể đã có mặt ở vùng này trước khi chúa Nguyễn đạt sở thuế tại đó, và vì thấy vùng này có nhiều cây gòn, họ gọi nó là Cai Ngon tức là Rừng Chổi Cây Gòn, rồi các viên chức Việt Nam liên lạc với họ để đánh thuế lúc mới đến đã theo họ mà gọi đất này là Sàigòn, thay vì phiên âm hay dịch nghĩa tên Khmer của địa phương này. 5. Về cái tên Khmer này, các học giả đã không đồng ý kiến với nhau, người thì nói là Prei Kor, người thì nói là Prei Nokor. Ông Malleret đã dựa vào sử Khmer mà bảo đó là Prei Nokor và theo linh mục Tandart để dịch Prie Nokor là thành phố của rừng. Vì không biết tiếng Khmer và văn phạm Khmer, chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này, nhưng vẫn thấy có những chỗ không ổn. Nếu Prei Kor có nghĩa là Rùng Gòn hay Rừng Bò thì văn phạm Khmer cũng như văn phạm Việt Nam đạt tiếng rừng lên trên, tiếng phụ nghĩa cho rừng ở dưới. Như vậy Prei Nokor dịch ra là rừng của vua như Aymonier thì vẫn hợp với văn phạm đó, còn dịch ra như linh mục Tandart là thành phố giữa rừng thì lại đi ngược với văn phạm đó rồi. Hiểu theo văn phạm như nói trên đây thì Prei Nokor là rừng của thành phố mới phải, nhưng tên Rừng của Thành Phố thì cố nhiên là không có ý nghĩa gì. Mặt khác, nếu Prei Nokor là thành phố giữa rừng hay rừng của vua thì nó chỉ có thể có từ năm 1674 là năm mà vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia chua chúa Nguyễn đến đặt sở thuế tại đó thì đất này hãy còn là một thị xã nhỏ, không có vua ở nên không thể mang tên Prei Nokor là thành giữa rừng hay rừng của vua được. Do các nghi vấn trên đây, chúng ta thấy rằng thuyết của ông Malleret không vững. Và chúng ta có thể đua ra giả thuyết khác: địa điểm mà vua Cam-Bu-Chia cho chúa Nguyễn đạt sở thuế vẫn tên là Prei Kor vì nơi đó có nhiều gòn và là nơi mua bán gòn, nhưng sau đó, khi vua thứ nhì của Cam-Bu-Chia đến đóng đô tại đó, nó có tên mới là Prei Nokor (hiểu theo nghĩa là rừng của vua hay thành phố giữa rừng đều được cả). Các sử gia Cam-Bu-Chia sau này chép lại việc cho chúa Nguyễn đến địa phương này đặt sở thuế đã chép lại tên Prei Nokor mà họ được biết nhiều hơn mà bỏ tên Prei Kor đi. Với giả thuyết này thì ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn có thể giải quyết được: đó là một tên phiên âm từ tiếng Xiêm Cai Ngon có nghĩa là Rừng Chổi Cây Gòn, và phù hợp vớ tên Khmer nguyên thủy Prei Kor cũng có ý nghĩa tương tự. Vì không biết ngôn ngữ và văn phạm Khmer và Thái (Xiêm) nên chúng tôi không thể đi sâu vào vấn đề này và chỉ xin nêu ra những nhận xét trên đây. Chúng tôi mong ước rằng có vị nào thông thạo tiếng Khmer hay tiếng Thái lưu tâm đến vấn đề này để làm sáng thêm ý nghĩa và nguồn gốc tên Sàigòn yêu dấu của chúng ta. Bạch văn Cơ
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:34:35 GMT 9
Nam Bắc Phân Tranh Sau 1975 [1]
Thuyền nhân Việt Nam tại trại tị nạn Hồng Kông (nguồn internet) Không ai có thể xóa bỏ một đoạn đời mà mình kiêu hãnh, vì thế sự ngăn cách của hai thế hệ trưởng thành sau 1954, đã từng, dù không hoàn tòan tự nguyện, tham gia vào cuộc chiến nam bắc phân tranh 1954-1975 là một điều tự nhiên. 35 năm sau ngày đất nước thống nhất về mặt địa dư, không những sự phân cách trong lòng người vẫn còn mà đôi khi còn tiến tới sự phân tranh không kém mãnh liệt. Chính bởi thế ngay trong tập thể những người Việt bỏ nước ra đi trốn chế độ cộng sản cũng có sự phân tranh mãnh liệt giữa người Việt miền bắc và người Việt miền nam. Trong thời gian tôi ở trại tị nạn Màn Dìn ở Hồng Kông (1989), trong trại có xuất bản bản tin hàng tuần. Một hôm ban lãnh đạo hội cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa trong trại mà chủ tịch là cựu thiếu tá Hùng, khóa 20 Võ Bị, hiện ở Nam Cali, cho người mời tôi tới họp khẩn. Khi tới nơi anh em cho biết trong số báo sắp ra tuần này có một bài của mấy người miền bắc chửi anh em cựu quân nhân VNCH và hỏi ý kiến tôi xem sẽ phải đối phó ra sao. Suy nghĩ một hồi tôi nói để tôi gặp ông đại diện cao ủy tị nạn nói chuyện với ông ta xem sao. Trong văn phòng cao ủy của trại, ngoài ông cao ủy còn thì nhân viên là thuyền nhân, trong đó có cả thuyền nhân miền bắc. Những thuyền nhân làm trên mấy văn phòng của trại hay văn phòng cao ủy đa số là thông dịch viên (interpreter). Thông dịch viên có thể nói là những “viên chức tị nạn cao cấp nhất” trong trại, là những người có ảnh hưởng rất lớn tới các chương trình của trại. Bởi thế mấy thông dịch viên người miền bắc mới đưa mấy bài chửi các cựu quân nhân VNCH vào tờ báo. Những thông dịch viên người miền nam không muốn (hay không dám) trực tiếp cá nhân đương đầu với mấy thông dịch viên miền bắc vì sợ đầu gấu miền bắc trả thù nên thông báo tin tức để hội cựu quân nhân có kế hoạch đối phó. Hôm sau gặp đại diện cao ủy tị nạn, một thanh niên khoảng 30 tuổi người Anh, tôi đề cập tới vấn đề tờ báo thì ông cao ủy cho biết rằng Hồng Kông là xứ tự do, ngay cả cộng sản cũng được quyền hoạt động. Đã dự trù luận điểm này từ trước nên tôi lý luận rằng tôi đồng ý với ông là Hồng Kông là xứ tự do, nhưng trại tị nạn này là trại của những người tị nạn cộng sản và ngân sách của Liên Hiệp Quốc tài trợ cho những nạn nhân cộng sản. Sẽ thực là vô lý khi dùng ngân sách tị nạn cộng sản để nuôi cán bộ cộng sản và hỗ trợ các hoạt động của họ. Họ có thể hoạt động và vận động cho cộng sản ở Hồng Kông bên ngoài trại tị nạn cộng sản chứ không thể ở bên trong trại tị nạn cộng sản này. Ông đại diện cao ủy đuối lý và phải chấp nhận cho xé bài báo đó trước khi cho phát hành. Ngoài ra tôi còn yêu cầu ông phải cho một đại diện của người tị nạn miền nam làm phiên dịch trong ủy ban để kiểm soát các ấn loát phẩm trước khi cho phổ biến. Ông ta đồng ý và hội cựu quân nhân đã đưa cho tôi tên một cựu sĩ quan để đưa vào làm (dĩ nhiên có lương như chúng tôi). Trước đó trong văn phòng cao ủy tị nạn vẫn có mấy thông dịch viên người miền nam nhưng họ không tham gia việc biên soạn bản tin của trại. Một yêu cầu thứ ba mà hội cựu quân nhân VNCH đề nghị tôi đòi hỏi là yêu cầu Cao Ủy Tị Nạn sa thải hai thông dịch viên người miền bắc đó. Dĩ nhiên đòi hỏi này không được ông cao ủy chấp thuận. Ngay khi nghe yêu cầu của anh em cựu quân nhân tôi đã thấy đòi hỏi này khó được chấp thuận vì vô lý nhưng tôi vẫn đưa ra với đại diện Liên Hiệp Quốc. Sau đó, cũng chiều ý ban đại diện hội Cựu Quân Nhân VHCH, tôi đề nghị đại diện Liên Hiệp Quốc cho di chuyển hai thông dịch viên đó sang khu vực hoàn toàn chỉ có người miền bắc, đối diện với khu vực hỗn hợp nam bắc của chúng tôi. Lý luận của tôi vừa hơi có tính cách đe dọa vừa có vẻ có thiện ý xây dựng là nếu không di chuyển hai thông dịch viên đó thì tôi e rằng sẽ có đổ máu cho hai anh đó và tôi không nghĩ là tôi có thể giúp giảm căng thẳng giữa hai phe trong trại. Vị đại diện Liên Hiệp Quốc cho biết ông không thể di chuyển hai thông dịch viên đó nhưng ông sẽ cho hai thông dịch viên đó biết nguy cơ để tự quyết định. Mấy hôm sau vị đại diện Liên Hiệp Quốc gặp tôi cho biết ông ta đã thuyết phục nhưng hai thông dịch viên đó không chịu chuyển trại. Tôi hiểu rằng đây là thái độ của hai anh thách thức người miền nam. Và tôi cũng biết ngay rằng người miền nam trong trại không đủ hung dữ để thực hiện ý muốn bằng bạo động. Với thái độ lo ngại bất an trong trại, vị đại diện Liên Hiệp Quốc thuyết phục tôi rằng, “Ông hãy bảo với người miền nam của ông đừng bạo động. Lâu nay người miền nam các ông được tiếng là tốt, có cơ hội đi tị nạn. Trong khi như ông biết đấy, người miền bắc đâu có cơ hội tị nạn như các ông. Họ là những người xấu.” Nói tới đó tôi thấy đôi mắt ông long lanh như có nước. Tôi đã cộng tác và chứng kiến lòng tốt của nhiều người ngoại quốc trong khi giúp đỡ thuyền nhân Việt Nam tại Hong Kong, nhưng chính thuyền nhân Việt Nam lại chia rẽ, chém giết lẫn nhau. Đôi mắt long lanh như có nước của thanh niên trẻ người Anh này làm tôi xúc động, và hơi xấu hổ .” Tôi nói với ông, tôi sẽ cố gắng nhưng tôi không bảo đảm kết quả. Cách sống của người hai miền cũng cách biệt quá nhiều khiến chính quyền Hông Kông phải có chính sách tách biệt hai nhóm người để bảo vệ các thuyền nhân miền nam. Có lẽ trại tị nạn duy nhất ở Hồng Kông có một số nhỏ thuyền nhân miền bắc được cho ở chung với người miền nam trong một khu vực không có ngăn cách là trại Màn Dìn nơi tôi ở. Trại Màn Dìn là một trại lớn có lẽ đứng thứ nhì sau trại White Head (trại Đầu Bạc). Tôi cũng nên kể thêm rằng sau này sang Mỹ, tôi mới biết trại Màn Dìn chính là trại có đòan người khá đông từ San Jose, Hoa Kỳ, dẫn đầu bởi nhà báo Đỗ Văn Trọn và ca sĩ Mai Hân, theo bà Thanh Hải, dự định vào thăm các thuyền nhân nhưng không được vào trại nên đã ngồi ở trên đường dẫn vào trại để cầu nguyện cho thuyền nhân. Trại Màn Dìn có hai khu nam bắc riêng biệt với cổng an ninh ngăn cách. Khu miền Nam có 21 căn nhà, mỗi căn chứa khoảng 200 người. Cái khu miền nam này là khu vực duy nhất tại Hồng Kông có gần một nửa là người miền bắc ở chung với người miền nam mà không có hàng rào ngăn cách. Số người miền bắc được cho ở chung này kém về số lương nên không gây ra đe dọa cho an ninh. Tuy nhiên cũng khiến người miền nam “hơi” lo ngại. Đầu tiên là sự lo ngại bị thuyền nhân miền bắc cướp bóc, kể cả cướp bóc những giấy tờ quan trọng cho cuộc thanh lọc tị nạn. Sự lo ngại của thuyền nhân miền nam sau này cũng tới cực điểm khiến trại phải kêu gọi những ai có giấy tờ hay tài sản gì quí cần đưa trại giữ hộ thì mang nộp, khi nào cần thì lên lấy lại. Tuy hướng dẫn chung như vậy nhưng chủ đích chỉ nhằm bảo vệ thuyền nhân miền nam tránh sự cướp bóc của người miền bắc. Tình hình đe dọa cướp bóc căng thẳng tới độ trại phải cho cảnh sát mang bàn tới đặt tại từng căn nhà, ra lệnh mọi người ở nguyên chỗ ở của mình, rồi những ai có giấy tờ hay tài sản quí giá mang tới bàn nạp cho cảnh sát. Điều buồn cười là tuyệt đối không có thuyền nhân miền bắc nào có giấy tờ hay tài sản gì cần gửi cảnh sát, chỉ có thuyền nhân miền nam. Ngoài tài sản, cái mà thuyền nhân miền bắc muốn cướp của người miền nam là các giấy tờ tuỳ thân và các chứng minh bị cộng sản đàn áp của họ như giấy cựu quân nhân, giấy ra trại cải tạo v…v. Lúc bấy giờ với những giấy tờ chứng minh sự đàn áp đó thuyền nhân miền nam có nhiều hy vọng đi tị nạn hơn cho nên thuyền nhân miền bắc vì ganh tị, muốn cướp để thủ tiêu các giấy tờ đó để biến cơ hội đi tị nạn giữa thuyền nhân hai miền giống nhau. Chính sách rõ ràng của Hồng Kồng là tách rời các thuyền nhân miền nam ra khỏi thuyền nhân miền bắc, nên tình trạng ở chung này chỉ là tạm thời chờ cho trại Đảo Bò, một hòn đảo hoang trước kia, được xây cất thành một trại khang trang có tên là trại Tai A Châu. Khi trại Tai A Châu được hoàn tất, lập tức Hong Kong cho chuyển người miền nam ra đó. Đó là trại dành riêng cho người miền nam. Vì người miền nam được tiếng có kỷ luật nên trại Tai A Châu cho phép thuyền nhân được ra khỏi trại đi chơi trên đảo hay ra bờ biển bất cứ lúc nào, dù là ban đêm. Công việc chuyển khoảng bốn ngàn thuyền nhân miền nam từ trại Màn Dìn ra trại Tai A Châu phải từ từ trong khoảng một tuần. Để bảo đảm an toàn, họ khoanh vùng trong trại cho di chuyển từng khu vực nhỏ. Di chuyển theo lối cuốn chiếu, khởi đầu là từ bên trong cùng. Khi được gọi tên mang hành lý đi thì cũng có người được gọi tên trước, người được gọi sau. Khoảng cách nhiều lắm chỉ mấy tiếng đồng hồ thôi, nhưng những ai chậm được gọi cũng rất hoang mang hồi hộp, chỉ sợ bị người miền bắc thừa cơ hội người miền nam còn ít tới trấn lột, cướp bóc. Cuối cùng cũng có một gia đình người miền Trung bị lọt danh sách. Gia đình này hiện đang ở San Jose. Có lẽ vì văn phòng trại tưởng đó là gia đình miền bắc. Đây là gia đình của một cựu sĩ quan cảnh sát miền nam. Ông ta cũng là một võ sư nổi tiếng ở Huế trước 1975. Khi các thuyền nhân miền Nam khác trong khu vực nhỏ của ông được gọi đi hết rồi, ông ta sợ quá không dám trở về chỗ ở nữa. Trong khi chờ đợi, mấy anh em miền nam đưa ông ta tới chỗ tôi ở để họp về trường hợp của ông. Chúng tôi quyết định một mặt liên lạc với đại diện Liên Hiệp Quốc để cho gia đình ông ấy đi trong cùng đợt với những người đã được gọi tên, một mặt tôi bảo ông ấy cứ ở gần chỗ với tôi thì không đến nỗi nào nguy hiểm bởi vì ít ra là trên cái giường ba tầng của gia đình tôi cũng đã từng tiếp nhiều anh chị em miền bắc. Một lần, có lẽ vào năm 1991, tất cả anh chị em miền bắc thấy cơ hội đi tị nạn của họ có vẻ khó khăn đã quyết định biểu tình. Ban chỉ đạo biểu tình kéo tới chỗ gia đình tôi họp để hỏi ý kiến, vì trong đời họ chưa bao giờ thấy một cuộc biểu tình nào, nên họ không biết làm thế nào để tổ chức một cuộc biểu tình. Tôi cũng nhìn thấy một mối nguy về an ninh cho người miền nam là người miền bắc cảm thấy bực bội với người miền nam vì người miền nam thờ ơ với ý muốn biểu tình của họ. Bà vợ tôi thấy tình hình bắt đầu có vẻ hơi căng thẳng như vậy nên bảo nhỏ với tôi không nên liên hệ với công việc chuẩn bị biểu tình của người miền bắc. Vợ tôi nói, biểu tình thì người miền bắc có đánh gia đình mình đâu mà anh cần tham gia. Tôi bảo vợ tôi đừng sợ. Thứ nhất, nếu tôi không giúp họ thì ai giúp? Thứ nhì, nếu tôi không giúp họ thì thế nào cũng đi tới căng thẳng có thể đổ máu giữa hai nhóm người nam, bắc vì một bên cần biểu tình, một bên không. Tôi phải giải thích cho người miền bắc: Mục tiêu, đối tượng và phương cách biểu tình cũng như là những việc cụ thể cần làm trước, trong và sau khi biểu tình. Tôi giải thích cho họ về mục tiêu biểu tình là đánh động dư luận qua giới truyền thông, báo chí. Đối tượng là giới truyền thông, báo chí chứ không phải ban chỉ huy trại, như vậy không có gì phải bạo động cả. Dĩ nhiên là giới truyền thông không được vào trại nhưng họ sẽ đứng trên con đường ở đỉnh núi dẫn vào trại và họ trông thấy cuộc biểu tình. Ngoài ra ban chỉ đạo biểu tình phải viết một thỉnh nguyện thư gửi cho đại diện Liên Hiệp Quốc. Thỉnh nguyện thư này cũng sẽ được chuyển ra ngoài cho giới truyền thông. Họ hỏi tôi trong lúc biểu tình thì phải làm gì. Mặc dù đã biết trước là trong đời người miền bắc chưa bao giờ biểu tình nhưng tôi vẫn thấy buồn cười trước câu hỏi này. Tôi phải nói với họ rằng đâu có làm gì ghê gớm đâu, chỉ cần kéo dài thời gian biểu tình và trong suốt thời gian đó đoàn người chỉ hô lớn những đòi hỏi thôi. Tiếp đó họ nêu vấn đề là họ sợ rằng người miền nam trong trại sẽ không tham gia biểu tình với họ. Tôi giải thích cho họ biết rằng, trong xã hội tự do, chỉ những ai có quyền lợi hay quan tâm tới vấn đề họ mới biểu tình thôi. Trong trường hợp này vì người miền nam sẽ được chấp nhận cho đi tị nạn hết (đó là chính sách của Liên Hiệp Quốc vào thời điểm đầu của cuộc thanh lọc vào khoảng 1991) cho nên họ không có lý do gì để tham gia thì quí anh chị cũng đừng bận tâm. Nếu không có sự giải thích trước như vậy thì chắc chắn chuyện người miền bắc muốn biểu tình, người miền nam không muốn sẽ đưa tới chém giết đổ máu. Với sự giúp sức của tôi, cuộc biểu tình của anh chị em miền bắc tại trại Màn Dìn diễn ra êm đẹp, không có người miền nam tham dự nhưng không có đổ máu giữa hai bên. Trong khi ở nửa trại bên kia, số thuyền nhân miền bắc đông hơn nhưng không tổ chức biểu tình được vì không có người miền nam giúp sức góp ý. Bây giờ nghĩ lại, tôi không biết đó có phải là cuộc biểu tình đầu tiên của thuyền nhân miền bắc tại Hông Kông hay không. Trước đó dường như thuyền nhân miền bắc chỉ biết bạo loạn chứ không biết biểu tình. Ngày đầu tiên, 21 tháng 6-1989, cũng như mọi thuyền tị nạn khác, thuyền của tôi được cảnh sát Hông Kông kéo vào đậu trong bãi tị nạn có tên là Đảo Bò. Đây là một trong đám đảo nhỏ. Trước kia được chủ nhân dùng để nuôi heo và bò cho nên thuyền nhân chúng tôi gọi là Đảo Bò. Tên thực của đảo là Tai A Châu. Vào tháng 6/1989, đây là trại tiếp nhận đầu tiên trong khi chờ chính quyền sắp xếp đủ chỗ chứa trong đất liền. Vì số người Việt tị nạn tới mỗi ngày không dưới 300 người nên trong đất liền Hông Kông không xây kịp chỗ chứa. Những người mới tới thường phải ở đây khoảng 2 tuần lễ. Ngay lúc vừa được cảnh sát đưa mấy người đại diện thuyền lên bờ làm thủ tục nhập trại, tôi đã thấy thuyền cấp cứu chở đi bệnh viện một nạn nhân bị cướp bởi chính thuyền nhân khác. Sợ quá, suy nghĩ một hồi tôi quyết định liều đứng dậy yêu cầu chính quyền trại bảo vệ. Tôi nói với người mà sau này tôi biết là trung sĩ nhất thường vụ quản lý trại rằng “Tôi là một sĩ quan miền nam, tôi có khả năng tự vệ chống lại cướp, nhưng đây là Hồng Kông, một xứ sở có luật pháp nên tôi phải tôn trọng luật pháp Hồng Kông và tôi yêu cầu được bảo vệ tránh bị cướp như trường hợp vừa rồi.” Ông ta nhìn tôi mặt lạnh như tiền. Tôi thấy “không ăn” rồi. Ngay lập tức tôi quyết định lập lại yêu cầu nhưng cố nhét làm sao để có chữ “Quân đội Hoa Kỳ” (US Army). Tôi nói tiếp, “Tôi là cựu sĩ quan liên lạc của quân đội Hoa Kỳ” và lập lại yêu cầu. Khi nghe tới chữ US Army tôi thấy mắt ông ta nhấp nháy, tôi biết là “ăn tiền”. Ông ta nhìn tôi từ đầu tới chân rồi bảo tôi ở lại trong khi mấy người đại diện của các thuyền kia được đưa trở lại thuyền của họ. Thực sự tôi biết có cái chức “sĩ quan liên lạc” (liason officer) là trước kia trong thời gian ở bộ Tư Lệnh Tiền Phương Sư Đoàn 1, tôi có thời gian ngắn được gửi sang bộ Tư Lệnh Lữ Đoàn 1/5 Cơ Giới Hoa Kỳ (1/5 Mechanized Division) để làm sĩ quan liên lạc hành quân. Toàn bộ 25 người thuộc ba gia đình trên con thuyền của tôi được đưa vào một khu biệt lập hẳn với mấy ngàn thuyền nhân khác. Khu vực này có những dẫy chuồng heo, và thuyền nhân được cho ở trong mấy cái chuồng heo đó. Cũng giống như ở nhà quê Việt Nam, mỗi chuồng heo vuông vức mỗi cạnh khoảng 4 m. Trong đó còn dấu vết của máng ăn, rãnh nước để rửa chuồng, chỗ hốt phân heo. Cứt heo và cám heo vẫn còn. Chúng tôi phải lấy nước rửa chuồng heo để ở. Thỉnh thoảng vẫn thấy những con dòi bò cạnh chỗ nằm. Nhưng dù sao cũng hơn mấy ngàn thuyền nhân khác là chỗ này còn có mái che là mái chuồng heo. Tới nơi tôi thấy toàn bộ thuyền nhân người Việt gốc Hoa đã ở trong khu vực này. Tất cả những thuyền nhân Việt gốc Hoa đều được cho ở riêng để bảo vệ. Ngay khi vừa rời Việt Nam, giữa người Việt và người Việt gốc Hoa đã có sự chia rẽ rồi, cho dù là họ sinh đẻ đã nhiều đời tại Việt Nam. Thuyền chúng tôi là những người miền nam duy nhất được bảo vệ chung với người Việt gốc Hoa. Một kỷ niệm nho nhỏ. Chỗ chuồng heo đó là chỗ duy nhất các phái đoàn hay phóng viên báo chí tới thăm đảo có thể tới gặp thuyền nhân để làm phóng sự, phỏng vấn. Những chỗ khác toàn là rừng hoang nên các đoàn khách đâu biết đường đi mà tới thăm được. Một hôm có một cô người nhỏ nhắn, xinh xinh, trạc ba mươi tuổi tới phỏng vấn thuyền nhân. Cô ta giới thiệu là làm cho chương trình Việt Ngữ đài BBC. Tôi ngưỡng mộ lắm. Vì từ trong tù cải tạo tôi đã ước mơ được làm cho đài BBC hoặc VOA. Lúc đó chỉ là một ước mơ viển vông thôi. Nhưng đời có ai ngờ nếu mình cứ mơ những giấc mơ “viển vông” và cố thực hiện nó thì cũng có cơ may thành đạt. Còn hơn là không mơ gì cả. Thế là 10 năm sau, 1989-1999, sau thời gian học đại học Hoa Kỳ, tôi đã trúng tuyển vào ban Việt Ngữ đài VOA và sang thủ đô Washington làm việc trong một toà building lớn có vài ngàn nhân viên ở cạnh trụ sở Quốc Hội Hoa Kỳ. Trên đảo ngoại trừ vài kiến trúc của chủ đảo mà cảnh sát đang xử dụng để quản lý trại không có một kiến trúc nào khác. Trừ một số nhỏ nằm trong các chuồng heo cũ, tất cả thuyền nhân phải căng lều nằm ngòai trời. Lều do trại phát. Những ngày sau đó tôi chứng kiến 100 phần trăm tất cả những thuyền nhân mới tới đảo đều bị người miền bắc cướp. Cướp khủng khiếp tới độ gần như công khai mà cảnh sát không làm gì được vì nạn nhân không dám khai báo và làm nhân chứng. (còn tiếp) Đàn Chim Việt Online 2010 __________________________________________ Ghi chú: danh từ “Người miền bắc” trong loạt bài này chỉ những người bắc còn ở lại Hà nội sau năm 1954 và những người vào miền nam sau ngày 30-4-1975, kể cả con cháu họ, cho dù sinh trưởng tại miền nam sau đó.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:35:35 GMT 9
Nam Bắc Phân Tranh Sau 1975 [2]
Người miền bắc chiếm đa số trong tổng cộng khoảng 6 ngàn người trên đảo. Họ tự động phân chia ra ở từng khu vực riêng rẽ: Khu Hải Phòng, khu Đồ Sơn, khu Hà Nội, khu Quảng Ninh. Dân miền bắc khác địa phương cũng không sống hợp nhất với nhau. Tôi không biết trước khi người cộng sản chiếm miền bắc năm 1954 thì người miền bắc có óc kỳ thị địa phương nặng nề như thế không. Nhóm nào đông thì nhóm đó chế ngự trại. Nhóm Quảng Ninh là đông nhất, có nghĩa là mạnh nhất. Thời gian tôi vừa tới trại thì cũng là lúc còn dư âm của anh chàng Hoa Hùng, một xếp đầu gấu người miền bắc vừa được chuyển vào đất liền. Hoa Hùng đi thì không có tay nào làm trùm của trại mà có nhiều băng nhóm nổi lên theo danh xưng địa phương. Mỗi băng nhóm hùng cứ một khu vực. Người Việt gốc Hoa, vì biết tiếng Hoa để giải thích với trại nên họ được bảo vệ ở một khu vực riêng ngay khi mới tới. Riêng người miền Nam thì không ai bảo vệ và cũng không có nhóm đầu gấu nào để đương đầu với các nhóm đầu gấu miền bắc. Người miền nam hiền quá và trở nên một cộng đồng bơ vơ giữa một xã hội không luật lệ. Hai tuần lễ sau, khi gia đình tôi và một số người vừa được chuyển tới trại khác thì tại trại Đảo Bò xẩy ra bạo động làm rung động Hồng Kông và xấu mặt người Việt Nam. Cuộc bạo động gây ra bởi người miền bắc. Cuộc bạo động không lý do nhưng mức độ khiến các thuyền nhân người Việt gốc Hoa và miền nam ghê sợ và người Hồng Kông khinh bỉ. Người miền bắc chiếm trại, chiếm các kho thực phẩm. Cảnh sát Hồng Kông phải rút ra khỏi đảo. Kể từ lúc đó người miền bắc hòan toàn làm chủ trên đảo và họ tự do cướp bóc, hãm hiếp. Trong bài báo “Vietnam Refugees Riot in Hong Kong” do BARBARA BASLER, viết đặc biệt cho tờ The New York Times xuất bản ngày mùng 3 tháng 9-1989, tác giả đã viết, “HONG KONG, Sept. 2— Chủ nhật tuần trước, 1,000 người Việt nam đã bạo động trên đảo Tai A Châu, và mặc dù đã xử dụng hơi cay, một toán nhỏ cảnh sát tại đó đã không thể phục hồi được an ninh và buộc phải rút ra khỏi đảo. Sau một đêm bị tấn công, cướp bóc và 5 vụ hãm hiếp, hòn đảo, nơi có 5,500 người Việt nam bị tạm giữ, đã được cảnh sát chiếm lại khi các phi cơ trực thăng chuyển hơn 350 cảnh sát chống bạo động tới. Cảnh sát đã bắt 12 người và một người bị truy tố tội hãm hiếp. Đảo không có điện, không chỗ đi tiêu tiểu…Các thuyền nhân phải sống trong những lều tạm, giữa các đống rác và phân người…Các giới chức nói, “Trật tự hoàn toàn bị tan vỡ.” Bản tin vắn tắt đã thấy rùng mình. Nhưng sẽ rùng mình hơn khi đã từng ở đó và may mắn được ra đi trước đó không lâu rồi được nghe chính những bạn bè, người quen của mình thuật lại ngay sau biến cố đó. Sau này mấy người miền nam kể lại với tôi rằng khi đổ quân vào tái chiếm lại đảo, cảnh sát chống bạo động và đại diện Liên Hiệp Quốc đã tìm cách cứu những người Việt gốc Hoa và người miền nam ra khỏi đảo trước. Cuộc giải cứu như giải cứu con tin bị bắt cóc. Có lẽ người đầu tiên được giải cứu là cựu thiếu tá Sơn, cựu giảng viên trường Võ Bị Đà Lạt. Lý do trại biết tới ông Sơn là vì ông làm phiên dịch cho một cơ quan thiện nguyện và cảnh sát cũng cần những người như ông để phân biệt đâu là người miền nam. Trên đường tiến vào chiếm trại, cảnh sát gọi đích danh để tìm kiếm ông Sơn và những thông dịch viên khác. Người Việt gốc Hoa thì được giải cứu hầu như toàn bộ vì họ nói được tiếng Hoa. Người miền nam thì được giải cứu ít thôi vì cảnh sát không phân biệt được ai là người miền nam, ai là người miền bắc. Chỉ những người được các phiên dịch viên như ông Sơn xác nhận, hay biết tiếng Anh để tự giới thiệu thì mới được cho lên thuyền cấp cứu rời đảo. Người miền bắc tuyệt đối không được cho lên thuyền cấp cứu. Bản tin cho biết cảnh sát có bắt một số nghi can nhưng tôi biết rồi những người này cũng sẽ được thả ra ngay sau đó bởi vì luật lệ Hồng Kông rất là văn minh, dân chủ, muốn kết tội một người thì phải có đầy đủ bằng chứng, cần rất nhiều thời gian điều tra, với lời khai của rất nhiều nhân chứng. Thì giờ và ngân quĩ đâu mà họ điều tra và nạn nhân nào giám khai báo khi trong trại băng đảng bạn bè và thân quyến của nghi can còn đầy rẫy. Bản tin nói rằng có 5 vụ hãm hiếp. Nhưng bạn bè tôi cho biết những cuộc hãm hiếp nhiều hơn như thế nhiều lần. Họ còn nói rằng phụ nữ Việt gốc Hoa thì bị hãm hiếp gần như 100 phần trăm. Phụ nữ miền nam thì bị hiếp ít hơn. Nhưng tất cả các phụ nữ đều sợ hãi phải làm cho đầu tóc bù xù, bôi đất lấm lem lên mặt cho xấu đi. Người phụ nữ bạn với gia đình tôi trong tấm hình dưới đây đã thuật chị phải bôi mặt cho lem luốc, xấu đi hầu thoát nạn. Chị tên là Đinh Thị Thu Vân, hiện ở Hoa Kỳ.
Hình Bà Đinh Thị Thu Vân cùng với hai con nhỏ trải qua đêm kinh hoàng tại đảo Tai A Chau-1989 Cuộc chiếm đảo của đầu gấu miền bắc còn man rợ hơn nữa khi mấy ngày sau cảnh sát Hồng Kông phát hiện ra sự kiện là người miền bắc còn đi “ị” cả vào mấy bồn chứa nước ăn cung cấp cho chính thuyền nhân. Những hành động và cung cách sống như vậy khiến các người ngoại quốc cũng như viên chức Hồng Kông hoạt động trong trại đánh giá thuyền nhân miền bắc thấp hơn thuyền nhân miền nam thật nhiều. Sau hai tuần ở Đảo Bò, gia đình tôi cùng với 1,600 người khác được chuyển tới trại Thuyền Châu. Trại này cũng vẫn là tạm thời để chờ trong đất liền xây xong trại mới. Trại Thuyền Châu gồm bốn cái phà nhỏ, mỗi cái chứa được 400 người. Vì thế thuyền nhân gọi đây là trại Phao Nổi. Diện tích dành cho mỗi gia đình thật hẹp. Gia đình tôi 6 người được một diện tích bằng một chiếc chiếu nhỏ. Chỉ đủ chỗ cho vợ chồng tôi nằm ôm thùng quần áo. 4 đứa con và cháu phải mắc võng nằm ngay sát trên mặt vợ chồng tôi. Chúng tôi sống như thế trong bốn tháng. Các phao này được để cặp bờ một đảo rất nhỏ cách đất liền Hồng Kông một eo biển hẹp có thể bơi qua dễ dàng. Eo biển này là đường lưu thông nườm nượp của các chiếc tầu cao tốc nối liền Hông Kông và Macau. Nhưng mỗi buổi tối, đều có những toán thanh niên miền bắc bơi vào đất liền đi ăn cắp đồ ở Hồng Kông. Liên Hiệp Quốc và cảnh sát Hồng Kông biết nhưng họ khuyên răn thiếu điều muốn năn nỉ rằng, “Xin quí vị đừng bơi như thế, rất là nguy hiểm cho mạng sống của quí vị.” Thế nhưng các đầu gấu với sự hỗ trợ của chính gia đình họ đã hàng đêm thực hiện những phi vụ phạm pháp như vậy. Những vụ trấn lột diễn ra hàng ngày nhưng cảnh sát không làm gì được vì nạn nhân không dám khai báo. Đầu gấu trừng phạt nhau mỗi đêm. Chúng để đối phương đứng ở giữa, chúng đứng vòng tròn xung quanh. Kẻ thù bị đánh, đá văng từ bên này sang bên kia. Chúng không cho ai đứng xem. Nạn nhân bị đánh gần chết được trực thăng chở đi cấp cứu trong đất liền mà khi trở về trại không ai dám chỉ hung phạm. Trong hoàn cảnh ghê gớm đó người miền nam chỉ biết im lặng chịu đựng. Ngay gia đình tôi có một thùng bìa nhỏ, trước là thùng đựng cơm hộp do trại phát, nay gia đình tôi dùng để đựng quần áo vớ vẩn (thuyền nhân còn có gì hơn ngoài mấy bộ áo quần trại tiếp tế) nhưng bọn đầu gấu tưởng gia đình tôi có vàng nên một đêm vợ tôi ngủ say chúng cũng lấy được. Nếu thức giấc mà thấy chúng ăn cắp đồ của mình thì cũng chỉ cười trừ thôi chứ la lên thì cũng chẳng có ai tiếp cứu mà không khéo chúng lại đập cho vỡ sọ. Tình hình phân chia nam bắc trong các trại tị nạn ở Hông Kông trầm trọng tới độ họ đối xử với nhau như hai dân tộc khác nhau. Người miền bắc hiếp đáp người miền nam. Người miền nam khiếp sợ người miền bắc. Sau khoảng hai tháng ở trại phao nổi, trong đất liền có một số chỗ, trại xắp xếp đưa số người miền nam tách rời khỏi số miền bắc. Nhưng họ phải làm kín đáo để người miền bắc đừng bạo động. Sáng hôm chuyển trại, họ bảo tất cả các thuyền nhân mang hết đồ đạc tập trung trên sân để nghe đọc danh sách chuyển trại vào đất liền. Nghe thấy vậy ai cũng vui mừng. Trại làm rất dân chủ. Khi được gọi tên họ hỏi thuyền nhân có muốn chuyển trại không? Ai mà không muốn sớm được vào một trại nào đó trong đất liền để có cuộc sống ổn định hơn. Đến khi gọi được nửa số người rồi thì người miền bắc đã biết ngay đó là kế hoạch trại cho di chuyển người miền nam đi trại khác tách biệt với người miền bắc. Họ ngồi buồn so trong khi những người miền nam có tên được gọi đi thì tay xách nách mang khuôn mặt hí hửng. Gia đình tôi được gọi lên sau cùng. Họ cũng hỏi tôi có muốn chuyển trại không. Tôi trả lời “Không!”. Ngay sau đó gia đình tôi mang hành trang trở lại ngồi với nhóm miền bắc để ở lại phao nổi. Nhìn thấy gia đình tôi mang đồ trở lại ngồi với tóan người miền bắc, tất cả các cặp mắt đều đổ dồn về gia đình tôi. Người miền nam không hiểu tại sao gia đình tôi lại chọn ở lại. Người miền bắc thì thấy vui mừng. Ít ra họ cũng thấy đỡ cô đơn vì còn có một gia đình miền nam ở lại với họ. Sáng hôm sau, trong chuyến tầu đầu tiên đưa nhân viên từ đất liền ra làm việc, anh cán sự xã hội Hùng trông thấy tôi còn ở trại tròn mắt ngạc nhiên. Nhưng anh không dám hỏi tôi vấn đề đó giữa lúc tôi đang đứng với đông người miền bắc, anh bèn mời tôi vào văn phòng của anh đặt trong một thùng sắt chuyển hàng (container). Hùng là cựu trung úy Thủy Quân Lục Chiến Trần Như Hùng của VNCH, định cư tại Úc, tình nguyện sang phục vụ giúp dân tị nạn Hồng Kông. Một lần tôi hỏi Hùng tại sao lại sang tình nguyện công tác tại Hồng Kông thì Hùng làm tôi cảm động và kính trọng, “Ông hỏi thế thì coi thường tôi quá!” Vào văn phòng, anh cẩn thận đóng kín cửa rồi hỏi tôi, “Sao ông còn ở lại?” Tôi cho biết, tôi mà đi nữa thì số gần một ngàn rưởi thuyền nhân miền bắc này ai giúp đỡ họ, họ không nói được tiếng Anh thì trại làm sao làm việc với họ. Hùng hỏi tiếp, “Thế ông không sợ họ sao?” Tôi trả lời, “Tôi ở lại giúp họ thì làm sao họ lại hại tôi?”. Ngày nay Hùng lấy bút hiệu Quốc Việt đang làm trưởng ban Việt Ngữ của đài phát thanh SBS Radio của chính phủ Autralia tại Melbourne. Có một lần Hùng chụp cho tôi một tấm hình tôi ngồi giữa đám thanh niên đầu gấu miền bắc. Tôi cười nói đùa, đây là tấm hình đặc biệt lắm đó nghe. Mới đây, Hùng liên lạc được với tôi và nói sẽ cố tìm lại tấm hình đó gửi cho tôi nhưng cuối cùng anh tìm không ra. Như tôi đã trình bày, vì muốn bảo vệ người miền nam nên Hồng Kông có chính sách tách rời thuyền nhân miền nam khỏi người miền bắc. Nhưng tình hình đặc biệt thiếu người phiên dịch tại trại Thuyền Châu khiến trại phải hội ý với tôi. Thực sự ra nếu chỉ cần một người phiên dịch thì trại có thể thuê ở ngoài vào một cách dễ dàng. Nhưng qua thời gian giúp trại một cách thiện nguyện, trại biết tôi là người có thể giúp họ liên lạc với thuyền nhân miền bắc một cách hữu hiệu nên trại muốn tôi ở lại. Nhưng họ không thể bảo vệ an ninh cho tôi nên họ không giám trực tiếp yêu cầu tôi ở lại vì lỡ có chuyện gì xảy ra cho tôi thì ai chịu trách nhiệm. Trại chỉ mật bàn hỏi tôi làm cách nào để chuyển người miền nam ra đi một cách an toàn, không sợ người miền bắc có cảm tưởng bị bỏ rơi mà nổi loạn. Đồng thời họ cho tôi biết là nếu người miền nam đi hết thì không có ai phiên dịch cho người miền bắc, họ sẽ rất khó điều hành trại. Trước tình hình đó tôi cho họ biết tôi sẵn sàng ở lại để giúp trại điều hành. Tôi nói với trại rằng người miền bắc cũng là đồng bào của tôi, tôi phải giúp họ nếu cần thiết. Cho nên toàn bộ kế hoạch di chuyển số người miền nam hôm đó hòan toàn do tôi đề nghị. Cái kế hoạch chuyển trại mau lẹ và an toàn đó tôi học được trong nhà tù cải tạo. Mỗi lần người cộng sản di chuyển tách rời một số tù cải tạo chúng tôi đi trại khác thì họ không cho biết ai đi ai ở, và sẽ đi đâu. Họ cứ kêu tất cả mang hết hành trang lên sân ngồi chờ. Rồi ai được gọi tên thì người đó ôm hành trang đứng sang khu vực khác. Tại trại Phao Nổi (Thuyền Châu), công việc chính thức thiện nguyện của tôi là phiên dịch bệnh xá dưới quyền của một bác sĩ trẻ người Anh. Mỗi ngày ông ấy từ trong Hồng Kông ra khám bệnh cho thuyền nhân. Bệnh xá do tổ chức Bác sĩ Không Biên Giới của Âu châu phụ trách (Medecins Sans Frontières). Các thuốc men rất tốt và đầy đủ và mỗi ngày có một chuyến tầu đưa thuyền nhân có bệnh nặng vào bệnh viện tối tân của Hông Kông điều trị. Khi cấp cứu sẽ có tầu cao tốc hoặc trực thăng chở bệnh nhân tới bệnh viện trong đất liền. Thuyền nhân được chữa trị tại bệnh viện y hệt như mọi người Hồng Kông giầu có nhất. Có thể nói, trên mọi lãnh vực, Hồng Kông là thiên đường của người Việt tị nạn. Nhưng vấn đề này sẽ được đề cập tới trong một loạt bài khác. Một điều đáng xấu hổ là tất cả các trường hợp cấp cứu bằng tầu cao tốc hay trực thăng trong thời gian tôi công tác toàn là nạn nhân của những vụ đâm chém, cướp bóc của đầu gấu miền bắc. Người miền bắc dường như cũng không quen tôn trọng luật pháp và kỷ luật. Ngày nào cũng có một đoàn dài người xếp hàng chờ khám bệnh xin thuốc, mà chỉ xin thuốc trụ sinh thôi, trong khi họ không có bệnh gì cả. Mặc dù bác sĩ đã giải thích, kêu gọi mọi người không cần xin thuốc dự trữ vì ở bệnh xá luôn luôn đủ thuốc tốt và khi cần sẽ đưa đi cấp cứu trong bệnh viện trong đất liền. Nhưng lời giải đáp, kêu gọi hàng ngày đó vẫn không hữu hiệu. Mỗi ngày hàng đòan người vừa xếp hàng, vừa chen lấn, xô cả cửa của phòng khám khiến ngay vị bác sĩ cũng phải lúc thì đứng chèn cửa, ngăn không cho đoàn người tràn vào, lúc thì ngồi xuống khám bệnh. Tôi nói với bác sĩ là tôi không giúp gì được ông ta trong việc giữ cửa ngăn chặn sự chen lấn bạo động của thuyền nhân vì họ sẽ đánh cả tôi. Một thời gian sau, quá sức mệt mỏi bởi tình trạng vô kỷ luật của thuyền nhân miền bắc tôi phải xin bác sĩ cho tôi nghỉ việc. Mấy ngày đầu ông ấy tới làm việc vẫn kêu tôi lên giúp vì không có phiên dịch. Sau đó tôi sợ quá phải viết cho ông ấy miếng giấy như van xin, ““Please! Please!” đừng gọi tôi lên nữa vì tôi sợ quá không thể tiếp tục giúp ông được”. Sau đó ông ta phải thuê phiên dịch từ ngoài Hông Kông vào mỗi ngày. Từ ngày cặp thuyền vào trại hoang dã là Đảo Bò cho tới khi rời khỏi trại tị nạn ở Bataan, Phi luật Tân, tổng cộng 3 năm 8 tháng , trong số những người hoạt động thiện nguyện lúc đầu, sau đó được Tị Nạn Liên Hiệp Quốc trả trợ cấp 180 đô Hồng Kông, tương đương 25 đô Mỹ một tháng, có thể nói tôi là người miền nam duy nhất có quan hệ thân thiết với người miền bắc. Hầu như tất cả mọi người miền nam đều tránh né người miền bắc. Có giao thiệp thì cũng chỉ là bề mặt, xã giao, thiếu cái thân tình. Riêng duy nhất tôi thì không. Tại sao vậy ? Thứ nhất, trong tận cùng suy nghĩ, tôi luôn luôn thấy rằng sự quảng giao là tấm áo giáp bảo vệ mình trong mọi tình huống. Thứ nhì, tôi là người bản chất khá cởi mở, không thành kiến. Tôi có thể và thích giao du với người của mọi miền, mọi giới khác nhau, từ dân sự tới quân đội, từ người trí thức tới những tay anh chị. Thêm nữa, tôi gốc người Hà Nội 1954 nên dễ tiếp cận với người miền bắc. Chính nhờ lúc nào tôi cũng có mối quan hệ thân thiện với người miền bắc, được họ thương mến, kính trọng, tin tưởng, mà trong tất cả những trại tôi ở có thể nói tôi là người duy nhất giúp tránh được các xô xát có thể đưa tới đổ máu tập thể như đã từng xảy ra rất nhiều lần ở những trại khác. Đó là một đóng góp âm thầm mà không ai biết trừ bà vợ tôi. Chưa đổ máu thì làm sao mà biết ai là người đã giúp ngăn chặn những chuyện đó từ trong trứng nước. Đóng góp đó quan trọng cho một tập thể có khi tới bẩy ngàn người. Và thành thực mà nói, đóng góp đó quan trọng cho cả chính gia đình tôi. Đôi khi nghĩ lại tôi thấy cũng vui và cũng nhớ khá nhiều những anh chị em miền bắc có gắn bó tình cảm với tôi, kể cả bảo vệ tôi. Không kể những lần điện thoại thăm hỏi, tôi và vợ tôi đã một lần tới Canada thăm một gia đình miền bắc và họ còn hẹn kỳ tới trước khi sang chúng tôi nên báo trước để họ liên lạc rủ các anh chị em khác tới gặp vợ chồng tôi cho vui. Như là một qui luật, để giải quyết những mâu thuẫn xã hội, điều hữu hiệu nhất là giải quyết sau hậu trường, dựa vào sự thân thiết cá nhân trước khi mâu thuẫn bùng nổ. Ngay cả trong chính trường quốc gia hay quốc tế, cá tính của người lãnh đạo và cảm tình họ dành được đối với quần chúng cũng làm giảm căng thẳng chính trị quốc nội và quốc tế. Mầu da và cách cư xử của tổng thống Obama đã giúp giảm căng thẳng và gia tăng thân thiện giữa Hoa Kỳ và các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là Phi châu và nam Mỹ đã là một ví dụ sinh động. Một khi mâu thuẫn đã nổ ra rồi thì nắm lại tình hình rất khó và chắc chắn sẽ có nhiều tổn thất. Tại trại tị nạn Bataan ở Philipines, một buổi tối một đầu gấu miền bắc gặp tôi nói rằng nghe nói tối hôm trước anh em cựu quân nhân miền nam có cuộc họp định tấn công anh em miền bắc, em muốn hỏi anh xem có đúng không. Nếu đúng như vậy thì bọn em sẽ tấn công trước. Đây là một câu hỏi nhưng cũng là một đe dọa họ mượn tôi chuyển tới anh em miền nam. Dĩ nhiên câu hỏi đó được tôi giải toả dễ dàng. Người miền bắc dường như có thói quen hành động không theo kỷ luật. Một lần tại trại Phao Nổi, không biết làm sao mà ban chỉ huy trại mang cơm từ trong đất liền ra chậm. Gần như tất cả hơn một ngàn người miền bắc lên biểu tình ngay tức khắc. Không có người miền nam. Nhưng họ không biết cách biểu tình, mà cũng chẳng ai trong số đó biết tiếng Anh để tiếp xúc thảo luận với trại. Họ chỉ còn một cách là dàn hàng ngang ném đá tấn công ban chỉ huy trại. Ban chỉ huy trại là những người dân sự có lẽ thuộc sở xã hội. Họ không hiểu tại sao mà thuyền nhân lại dữ tợn như vậy và họ sợ quá cố thủ trong khu vực ban chỉ huy có hàng rào kẽm gai. Thấy nguy cấp tôi đi lên yêu cầu đồng bào miền bắc dừng ném đá để tôi vào thương thuyết với trại. Khi vừa thấy tôi, mấy người trong ban chỉ huy trại nói ngay: Tôi chờ ông từ nẫy tới giờ. Tôi cho ban chỉ huy trại biết là thuyền nhân họ muốn được phát cơm ngay không chậm trễ và ban chỉ huy trại đồng ý sẽ gọi máy vào đất liền yêu cầu chuyện đó. Chuyện thật đơn giản. (còn tiếp-bạo động còn nhiều)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:36:18 GMT 9
Nam Bắc Phân Tranh Sau 1975 [3]
Thuyền nhân Việt Nam tại trại tị nạn Hồng Kông (nguồn internet) (Tiếp theo kỳ trước) Không quen thuộc với pháp luật và luật lệ của trại nhưng người miền bắc quen thuộc với kỷ luật của đầu gấu, của mafia. Trong các trại cấm (closed camp) ở Hồng Kông, trại Whitehead (Đầu Bạc) là trại lớn nhất chứa gần 30,000 người, trong đó đại đa số là thuyền nhân miền bắc. Dĩ nhiên thuyền nhân hai miền được cho ở riêng có hàng rào và các con đường ngăn cách xa nhau. Trong khu miền nam tôi không nghe nói có đầu gấu hay du đãng, ăn cướp. Tình hình ở khu vực thuyền nhân miền bắc thì trái lại: các đầu gấu hoàn toàn cai trị. Đây là một nét rất đặc thù của cộng đồng thuyền nhân miền bắc. Chính bởi thế, tôi nghe nói, trong trại miền bắc rất là ngăn nắp, kỷ luật và sạch sẽ, cái ngăn nắp, kỷ luật của một chế độ độc tài. Trong khi trại miền nam thì rất là vô tổ chức và rác rến vứt bừa, bản chất của chế độ dân chủ. Trại có trả một trợ cấp nhỏ cho một số thuyền nhân làm lao công dọn vệ sinh hàng ngày. Nói về kỷ luật và sạch sẽ thì cảnh sát rất thích trại miền bắc. Tại những trại đó thuyền nhân không nghe lệnh đầu gấu thì nhừ đòn. Các người miền bắc đi làm việc cho trại như thông dịch, giáo viên, vệ sinh viên v…v. đều phải đóng góp cho ban lãnh đạo thuyền nhân là các đầu gấu. Các thuyền nhân buôn bán trong trại cũng phải nạp “thuế” cho đầu gấu. Tại trại của người miền nam thì tuyệt đối không có tình trạng đầu gấu cai trị và thu thuế như thế. Đối với người miền bắc họ thấy việc điều hành trại như thế là bình thường. Một chú em đầu gấu miền bắc thuật với tôi như vậy và nói rằng, “Em hỏi anh nếu không thu tiền như thế thì làm sao trả lương cho những thằng trật tự trong trại.” Trái lại trại miền nam không cần có “trật tự viên”. Vì là đầu gấu điều hành trại nên mọi sinh hoạt đều phải theo lệnh họ. Một khi họ hô biểu tình là tất cả phải tham gia. Nhưng đã là đầu gấu cai trị thì dĩ nhiên có tình trạng bạo động tranh dành quyền lực. Tình hình đầu gấu và bạo động tràn lan trong khu vực của thuyền nhân miền bắc được mô tả trong hai bản tin dưới đây: Trong bản tin Cảnh sát Hông Kông bố ráp trại tị nạn (Hong Kong Police Raid Refugee Camp) đăng trên tờ The Washington Post ngày 30 /12/1989, “phát ngôn viên chính phủ Timithy Li cho hay cảnh sát đã bắn hơi cay sau khi thuyền nhân Việt nam nổi lửa đốt các chăn mền và ném đá để ngăn cản không cho lục soát các vũ khí tự chế. Cảnh sát cho hay 27 thuyền nhân bị bắt cùng với hơn 700 vũ khí bị tịch thu”. Một cộng đồng biết thượng tôn luật pháp sẽ không ngăn cản cảnh sát trong hoạt động ngăn ngừa tội phạm như trong bản tin. Bản tin ngày 20 /2/1990 cũng của tờ The Washington Post loan tải, “truyền hình chiếu cảnh cảnh sát trang bị mũ bảo hiểm và khiên, bắn hơi cay và người ta có thể thấy khói bốc lên từ những đám cháy quanh trại. (www.korchinatnc.com/HongKong) Khi đêm xuống, ….Các nhóm băng đảng thuyền nhân người Việt thù địch nhau, nhiều người từng trải qua nhiều năm chiến đấu trong quân đội, tập trung tại những khu vực riêng. Quanh trại vang lên tiếng mài bén các thanh kim loại thành các thanh kiếm và xà mâu (spears) dài, kiểu thời trung cổ. Ngày càng có bạo động hàng đêm.” Đọc bản tin thì không thấy nói gì tới người miền bắc hay miền nam mà chỉ đề cập tới người Việt nói chung. Nhưng những ai đã ở trong trại tị nạn Hồng Kông trong thời gian đó khi đọc bản tin này đều biết ngay đây là những trại của người miền bắc. Trong một lần một phái đoàn khoảng hơn một chục cô thầy giáo người miền bắc từ trại tị nạn Whitehead sang thăm (giao lưu) có ở qua đêm tại trại Tai A Châu của người miền nam chúng tôi, các cô thầy miền bắc được đi lại thoải mái trong trại, kể cả ban đêm ra bãi biển mà không sợ hãi điều gì. Các cô thầy ngạc nhiên thích quá buột miệng, “Các anh chị ở trại này thích quá. Ở trại của chúng em không thể an ninh như thế này!” Trong một lần khác đi cùng với phái đoàn giáo chức miền nam ở trại miền nam Tai A Châu sang thăm trại White Head của người miền bắc. Khi vừa tới trại, đoàn được dự một cuộc thuyết trình ngắn cho biết tình hình an ninh ở trại đó không được bảo đảm. Đoàn được ban quản trị trại dặn dò cẩn thận là không được lang thang vào trong trại dù là có gặp người quen. Lang thang vào trong trại có thể gặp nguy hiểm bởi đầu gấu. Đoàn chỉ được ở quanh quẩn nơi phòng dưỡng bệnh của bệnh xá thôi. Nghe vậy mọi giáo chức trong đoàn đều ớn lạnh. Khi vào phòng ở trong khu bệnh xá, tôi thấy có một thanh niên duy nhất và được bệnh xá giới thiệu là người trông nom khu vực này. Tôi chợt nghĩ ngay tay này cũng phải là một đầu gấu có hạng đây. Anh ta sống sung túc. Có đầy đủ máy hát, loa, đài, những cái vào thời đó và nhất là trong trại tị nạn là thứ rất xa xỉ. Như vậy anh ta phải kiếm được khá nhiều bổng lộc với tư cách một trong các đầu gấu có hạng. Buổi tối, ngồi quây quần trên giường anh ta nói chuyện. Tôi vờ hỏi anh ta ở đây một mình không sợ đầu gấu sao thì anh ta liền nhấc tấm nệm ngay dưới chỗ anh ta ngồi để khoe hai thanh kiếm nhọn, lưỡi cong, dài khỏang 1 mét, anh ta nói, “Em phải có cái này đấy chứ!” Sau đó anh ta vừa vấn điếu thuốc vừa hỏi chúng tôi có dùng không. Các cô thầy giáo trong đoàn sợ quá. Tôi vội chồm lên với tay lấy điếu thuốc đưa lên miệng rít một hơi. Ém khói hẳn hoi. Xong rồi từ từ nhả khói ra. Tỏ vẻ đê mê. Thực ra đây là lần đầu tiên tôi thử sì ke nên chẳng thấy hương vị gì cả: Không phê mà cũng không một chút khó chịu. Nhưng tôi giả là một tay chơi, gật gù nói với anh ta, “Đã quá! Lâu lắm mới có cái này đây!” Các cô thầy giáo trong đoàn nhìn cách cư xử giang hồ của tôi phục lắm. Một hôm tôi và mấy người bạn ngượng muốn độn thổ khi một thiện nguyện viên người Âu châu tới làm việc ở trại thuật với chúng tôi rằng hôm trước cô ta tới làm thiện nguyện ở trại miền bắc, mấy thuyền nhân cũng quấn quít lấy cô ấy rồi bất chợt có một thuyền nhân giựt sợi giây chuyền vàng của cô ta đeo ở cổ chân. Đứng quanh cô ấy rất đông người mà không một ai can thiệp. Tội phạm ở trại của người miền bắc có tính cách tập thể như vậy. Trại của người miền bắc hoàn toàn khác trại của người miền nam. So sánh với trại miền nam, trại miền bắc có sự khác biệt lớn: -Trại miền bắc hoàn toàn do đầu gấu cai trị và dĩ nhiên bằng luật giang hồ: Đã tường thuật ở trên. -Thuyền nhân miền bắc có thể ẩu đả chém giết nhau một cách tập thể chỉ vì một quyền lợi rất nhỏ. Tình trạng bạo động tập thể của những trại miền bắc đã được một số báo tiếng Anh mô tả. Bài báo “Vietnam Refugees Riot in Hong Kong” viết bởi BARBARA BASLER, đặc biệt cho tờ The New York Times xuất bản ngày mùng 3 tháng 9-1989, viết: “HONG KONG, Sept. 2— Trong cuộc bạo động quan trọng lần thứ nhì trong một tuần lễ, một người Việt nam bị giết ngày hôm nay và 11 người khác bị thương, khởi đầu bởi một cuộc cãi nhau về một món nợ đánh bạc…Cảnh sát tin rằng cuộc bạo loạn ngày hôm nay bắt đầu từ một cuộc cãi vả giữa những người Việt đánh cá kết quả một trận bóng chuyền trong trại. Không ai đứng ra xác nhận danh tánh người bị giết trong cuộc bạo động.” (bài báo này được in trên trang 13 ấn bản ngày mùng 3 tháng 9-1989 của bộ The New York edition) -Người từng ở trong trại đọc tới câu cuối của bản tin vừa nêu hiểu ngay rằng không ai dám đứng ra xác nhận danh tánh người bị giết vì sợ đầu gấu. Luật của đầu gấu, của mafia mọi nơi là “im lặng tuyệt đối, nếu không thì sẽ bị xử theo luật giang hồ”. -Trong trại tị nạn của người miền bắc đầy rẫy tội phạm đủ loại. Trên tờ The Seattle Times xuất bản ngày Chủ Nhật 15 tháng 12-1996, bài “ Hong Kong Camp For Viet Refugees Is Land Of Lives In Limbo” viết bởi Kristin Huckshorn thuộc “Knight-Ridder Newspapers” viết rằng, “HONG KONG -Một trại tị nạn được điều hành bởi Liên Hiệp Quốc và đông kẻ nghiện hút, tội phạm, kết hôn giả (mail-order brides) và các trẻ em bị bỏ mặc (neglected children) đã trở thành một di sản xấu xa (an ugly legacy) của truyện dài (saga) thuyền nhân người Việt…Đó là trại the Pillar Point. Bài báo viết tiếp: “ Thực ra, những người tị nạn, hầu hết là người miền bắc, đã liên tục bị từ chối cho đi định cư trong 8 năm qua, hầu hết vì án phạt nghiện hút hay tội phạm hình sự từ tội trộm cắp nhỏ cho tới sát nhân. Liên Hiệp Quốc và các quốc gia khác thường ngăn cấm chấp nhận cho đi định cư những thành phần này…Hơn 90 phần trăm những người tị nạn đàn ông nghiện hút, hầu hết là những người dùng heroin. Những người khác là thành viên băng đảng và buôn ma túy. Hầu hết những người này được hưởng qui chế tị nạn trước giữa năm 1988, khi mà tất cả các thuyền nhân Việt Nam khi tới nơi thì tự động được qui chế tị nạn… Thực sự ra trại này (Sek Kong) đầy bạo động và tội phạm. Nhân viên an ninh đi tuần suốt ngày, liên lạc với nhau qua máy bộ đàm cá nhân. Cảnh sát Hồng Kông thỉnh thoảng bố ráp các căn nhà với lệnh toà để tìm ma túy. -Trại miền nam cũng có du đãng, nhưng du đãng miền nam khác đầu gấu miền bắc rõ ràng nhất ở điểm họ không được gia đình, bà con hay lối xóm hỗ trợ, vì vậy họ ít hơn, yếu hơn, bị tách rời khỏi cộng đồng và không có khả năng cai trị cộng đồng, do đó không gây được tội phạm tập thể như đầu gấu miền bắc. Trong bản tin của tờ The Washington Post ngày 30 /12/1989 trích dẫn ở trên, “…cảnh sát đã bắn hơi cay sau khi thuyền nhân Việt nam nổi lửa đốt các chăn mền và ném đá để ngăn cản không cho lục soát các vũ khí tự chế.” Nội dung này cho thấy gia đình và cộng đồng miền bắc đã hỗ trợ, và bảo vệ các đầu gấu qua hành động phi pháp là ngăn cản cảnh sát trong công tác truy lùng vũ khí để phòng ngừa tội phạm. Tình trạng này không thể có được ở cộng đồng thuyền nhân miền nam. -Điểm khác biệt nữa giữa hai cộng đồng là trong cộng đồng người miền nam có một tập thể tương đối trí thức, so với các thành phần khác, được cộng đồng tương đối kính trọng, chấp nhận vai trò hướng dẫn cộng đồng, đó là tập thể các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa. Dưới sự lãnh đạo của thành phần này thì du đãng không thể tự tung tự tác như các đầu gấu trong trại miền bắc. -Và một điểm khác biệt quan trọng là người miền nam tương đối quen sống với tinh thần thượng tôn luật pháp hơn. Luật pháp xã hội chủ nghĩa hòan toàn khác với luật pháp phương tây đã được áp dụng tại miền nam cho nên người miền bắc không có tinh thần thượng tôn luật pháp. Người miền bắc hành động theo cảm tính nhiều hơn, điều gì thấy có lợi cho bản thân là họ làm, bất kể cái hại cho cộng đồng. Tình trạng tội phạm ở trại của người miền nam. Bạo động, tội phạm v…v. là một hiện tượng xã hội ở mọi nơi, mọi thời, mọi sắc tộc. Nhưng tuỳ từng nền văn hoá mà hiện tượng đó có hình thái và mức độ khác nhau. Trại miền nam cũng có du đãng (miền bắc gọi là đầu gấu), nhưng hoạt động của du đãng miền nam có mức độ hạn hẹp hơn đầu gấu miền bắc rất nhiều. Vụ hành hung người lớn nhất ở trại miền nam mà tôi biết là vụ xảy ra ở trại Tai A Châu một cựu đại úy hiệu trưởng trường trung học của trại bị du đãng đánh trọng thương và sau đó được đưa đi trại khác để bảo vệ an ninh. Cũng có vụ xung đột giữa thanh niên người Việt gốc Hoa và thanh niên miền nam, và một vụ xung đột với cảnh sát bị cảnh sát bắn lựu đạn cay khoảng 15 phút. Tất cả tình trạng bạo động trong trại miền nam chỉ ở mức độ như vậy chứ không lan rộng sang bạo động tập thể, kéo dài hay không có trấn lột, cướp bóc, hãm hiếp và nhất là không có giết người. Tham gia giải quyết những bạo động nhỏ và có tính cách cá nhân như thế để ngăn ngừa các bạo động tập thể trầm trọng có sự đóng góp của những người thuộc thành phần thuyền nhân lãnh đạo trại, trong đó cũng có khi có sự đóng góp của tác giả bài viết này. Xin kể sơ hai ví dụ. Trước khi gia đình tôi được chuyển trở lại trại Tai A Châu sau khi trại này được xây cất xong, một số thanh niên miền nam và thanh niên Việt gốc Hoa ra ở trước đã xung đột với nhau khiến một tu sĩ trẻ phật giáo người miền nam bị gẫy tay. Khi gia đình tôi được chuyển ra đó, thì ngay buổi tối, một nhóm thanh niên miền trung (miền nam) khoảng 20 người, người lớn nhất khoảng trên 30 tuổi (nay tôi quên tên rồi), mời tôi sang khu họ ở là Khu D, trên tầng 3 của một trong các dẫy nhà ghép bằng sắt. Họ trình bày tình hình trong thời gian trước khi tôi tới và nói rằng “Chúng em có nghe anh sẽ qua nên chúng em chờ anh đây!” Người thanh niên ngoài 30 tuổi trưởng toán nói thêm, vũ khí chúng em đã chuẩn bị sẵn rồi. Họ muốn tôi đồng ý và lãnh đạo (?) một trận “quyết đấu” với thanh niên Việt gốc Hoa. Tôi hơi ngạc nhiên tại sao họ lại trông chờ tôi để quyết định một chuyện thế này. Tôi chưa bao giờ chỉ huy bạo động trong trại. Tôi cũng chưa bao giờ xúi ai hay nhóm nào bạo động. Nhưng lực lượng của nhóm thanh niên miền trung này tôi biết hết nên không có gì phải lo ngại. Tôi phải giải thích với nhóm thanh niên là “chúng mình là người miền nam đi tị nạn chính trị. Nếu chúng mình đâm chém nhau thì đều mang hình ảnh xấu hết và sẽ không ai cho mình đi tị nạn chính trị nữa. Mọi chuyện đối với thanh niên Việt gốc Hoa anh em hãy để tôi xử trí. Chuyện xích mích giữa hai bên phải chấm dứt.” Sau đó tôi gặp mấy thanh niên có uy tín của người Việt gốc Hoa bảo họ ngăn chặn không cho thanh niên Việt gốc Hoa chặn đường đánh thanh niên miền nam là xong. Trường hợp tương tự nếu xảy ra trong trại miền bắc thì chắc chắn sẽ có quyết đấu một mất một còn ngay. Khi hoạt động cộng đồng, có những lúc vì cộng đồng mình phải kìm hãm tự ái cá nhân để nhịn nhục, tạo dĩ hoà vi quí. Trong trại có chương trình giáo dục phổ thông và cơ sở trường học khang trang từ lớp 1 tới lớp 12 do thuyền nhân điều hành, Liên Hiệp Quốc tài trợ. Liên Hiệp Quốc cũng tài trợ một chương trình dậy tiếng Anh cho người lớn. Tôi và anh bạn trung úy Nguyễn Cửu Hùng, hiện ở Nam Cali là hai người xây dựng nên chương trình với sự yểm trợ và chỉ đạo của một ủy viên giáo dục người Mỹ tên là Paul thuộc cơ quan tị nạn Liên Hiệp Quốc . Chương trình có tới 700 học viên và gần 15 giáo viên thuyền nhân do hai chúng tôi tuyển chọn. Lúc lập chương trình thì không ai biết cách lập, nhưng khi chương trình chạy xuông sẻ thì lập tức có kẻ tới tranh dành. Chuyện thường tình ở mọi nơi, mọi thời. Một hôm tôi, anh Hùng và ông Paul đang họp thì một người tị nạn Việt gốc Hoa, nghe nói trước kia là cựu thông dịch viên của lực lượng đặc biệt Mỹ tự động tới ngồi cùng bàn. Lại nghe nói anh ta giỏi võ nữa chứ. Trong trại thì ai cũng biết nhau nên chuyện đó không có gì là lạ. Trong lúc chúng tôi vừa dừng bàn thảo thì anh bạn thông dịch viên gốc Hoa này xin phát biểu ý kiến. Anh ta nói rằng, “Chúng tôi là người Việt gốc Hoa, ở trong trại cũng đông, chúng tôi không muốn chịu sự chỉ huy của người Việt trong chương trình này.” Nghe vậy, ba người chúng tôi chưng hửng. Ông “xếp” Paul của chúng tôi mặt hơi xanh nhìn anh thông dịch viên như không hiểu anh ta nói gì. Anh trung uý Hùng bạn tôi, nhị đẳng thái cực đạo, cũng ngạc nhiên nhìn anh bạn người Hoa sững sờ luôn. Riêng tôi, sau khoảng 15 giây ngạc nhiên, tôi ôm chầm lấy vai anh người Hoa và bảo với “xếp” Paul, “Anh này là bạn thân của tôi. Anh ta giỏi lắm. Tôi nghĩ ông nên trao chương trình này cho anh ta.” Đến lượt Paul lại không hiểu tôi muốn nói gì. Nhưng 5 giây sau có lẽ Paul hiểu nên bảo anh ta là ông ấy sẽ mời anh ta gặp ông ấy tại văn phòng vào tuần tới. Mọi chuyện vui vẻ. Anh người Hoa ra về. Cuộc họp kết thúc. Hơn tuần sau gặp lại anh người Hoa, tôi hỏi anh ấy đã gặp ông Paul chưa thì anh ấy cho biết không hiểu sao chưa thấy ông Paul gọi. Tôi nghĩ thầm, “Paul là tôi đây này chứ Paul nào! Chẳng bao giờ anh được gọi đâu!” Hôm họp, sau khi anh người Hoa đi, Paul hỏi tôi sẽ đối xử với anh ta ra sao thì tôi nói gọn, “Ông hãy quên anh ta đi! Anh ta sẽ chẳng bao giờ dám lên văn phòng đòi gặp ông để yêu sách nữa đâu.” Nếu tình huống này xảy ra tại trại miền bắc thì diễn biến và kết thúc sẽ hoàn toàn khác, không êm thắm như thế này. (Kỳ tới: Thuyền nhân miền nam phục thù thuyền nhân miền bắc: 18 người thiệt mạng)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:36:58 GMT 9
Nam Bắc Phân Tranh Sau 1975 (4)Thuyền nhân Việt Nam tại trại tị nạn Hồng Kông (nguồn internet) (Tiếp theo kỳ trước) Tại Hồng Kông còn có một trại mở là trại Pillar Point. Trại này chứa những thuyền nhân tới trước tháng 6/1988 là thời gian thuyền nhân Việt Nam đương nhiên được tư cách tị nạn. Sau thời gian này tất cả những thuyền nhân tới Hồng Kông đều bị nhốt vào trại cấm (closed camps) để chờ thủ tục thanh lọc xác định tư cách tị nạn tùy từng trường hợp. Ngoài một số thuyền nhân mới được thanh lọc chấp nhận qui chế tị nạn đang chờ đi nước thứ ba, đại đa số thuyền nhân trong trại này là người miền bắc đã tới Hồng Kông từ trước tháng 6/1988 nhưng vẫn chưa được nước nào nhận vì là thành phần có án tù. Là một trại mở (open camp), các thuyền nhân trong trại Pillar Point được tự do ra vào. Trong trại này hầu hết là thành phần nghiện hút và tội phạm. Tôi đã một lần vào đó tìm người quen giữa ban trưa mà nhìn những thuyền nhân miền bắc trong đó cũng cảm thấy rờn rợn, không biết mình có thể bị trấn lột lúc nào. Sau đó tôi không dám bén mảng vào trong trại đó nữa. Tình hình an ninh trong trại này được mô tả theo bản tin của AFP ngày 14/6/1999, (Riot at Vietnamese refugee camp in Hong Kong; 17 injured- www.catholic.org.tw/) như sau: ““Bạo động trong một trại tị nạn người Việt tại Hồng Kông; 17 người bị thương”. Theo bản tin, cảnh sát Hồng Kông đã dùng lựu đạn cay để dẹp một cuộc bạo động trong một trại tị nạn khiến ít nhất 17 người bị thương. Khoảng 200 thuyền nhân Việt Nam đang tìm sự bảo vệ tại một đồn cảnh sát gần trại tị nạn Pillar Point cho hay họ sợ bị các thuyền nhân khác tấn công. Cảnh sát trang bị chống bạo động đã chiến đấu trong hơn một tiếng đồng hồ để dập tắt một cuộc đánh nhau giữa hàng trăm người tị nạn trong trại vào ngày hôm trước, Chủ Nhật 13/6/99. Cảnh sát cho hay có bốn thuyền nhận bị bắt và 17 vũ khí tự chế bị tịch thu. 11 trong 17 người bị thương được cho nhập bệnh viện trong đó có một em bé 9 tháng tuổi. Các người trong trại cho hay trại Pillar Point đã bị các nhóm băng đảng chiếm giữ. Đó là thành phần tạo ra những rối loạn. Một thuyền nhân cho biết các người trong trại bị buộc phải nạp cho các thuyền nhân đã ở trước tới 300 đô la Hông Kông, tương đương 39 đô la Mỹ để trả tiền bảo vệ. Báo chí cũng cho hay các thuyền nhân trong trại đổ lỗi cho những phần tử nghiện hút trong trại tạo ra những bất an. Họ nói rằng các nhóm băng đảng kiểm soát đĩ điếm, cờ bạc và nghiện hút. Đồng thời từ lâu vẫn có sự thù địch giữa các thuyền nhân miền nam và miền bắc trong trại.” Bản tin không nói ai là thuyền nhân miền bắc, ai là thuyền nhân miền nam, nhưng những ai đã ở tại Hồng Kông thì đều biết nạn nhân là các thuyền nhân miền nam hay Việt gốc Hoa miền nam, còn thủ phạm là các thuyền nhân miền bắc. Chính đầu gấu miền bắc đã thu 39 đô la Mỹ tiền bảo vệ như trong bản tin. Tại một trại chuyển tiếp khác dành để tạm thời chứa những thuyền nhân đã được cấp qui chế tị nạn chờ được đưa đi Phi luật tân để được các quốc gia đệ tam phỏng vấn tuyển chọn, những người miền bắc cũng trấn lột những thuyền nhân miền nam. Những người ở trại này chỉ ở tạm thời 2 tuần lễ thôi cho nên người miền nam họ nín thở qua sông để chờ ngày ra đi, không dám phản ứng gì. Thậm chí không dám kể với ai. Khi tôi hỏi thăm thì mới vỡ lẽ ra là 100 phần trăm đều bị người miền bắc trấn lột. Không những trấn lột người tị nạn miền nam, người miền bắc còn ra Hồng Kông ăn cắp của người Hồng Kông, thường là của các siêu thị. Một hôm một cô gái trẻ đẹp miền bắc hỏi vợ chồng tôi, “Cô chú không đi chợ à?” Chúng tôi thành thật trả lời là không có tiền thì cô ta giọng thản nhiên, “Đi chợ đâu cần tiền cô chú!” Tôi ngạc nhiên giả bộ muốn đi, hỏi tiếp, thế đi chợ làm sao. Cô ta thản nhiên cho biết, “Đi ăn cắp trong các siêu thị đó mà chú!”. Cô ta còn hướng dẫn, đi thành một toán 3 , 4 người. Vào siêu thị giả bộ hỏi mua đồ lung tung. Tốt nhất là hỏi xem các tấm vải để bọn nó (người bán) phải giăng rộng tấm vải ra, như thế tấm vải sẽ che mắt nó (người Hồng Kông). Những đứa khác tha hồ mà ăn cắp. Sau đó, mỗi khi gia đình chúng tôi đi siêu thị, tôi thấy nhân viên siêu thị đi theo bén gót. Tôi thấy nhục nhưng thông cảm với họ. Là người Việt ở Hồng Kông mình bị nhục vì hành vi ăn cắp, quậy phá của những người miền bắc trong suốt gần hai chục năm trời (tính theo thời điểm cuối năm 1992 là năm gia đình tôi được cấp qui chế tị nạn và ra ở trại chuyển tiếp ở Hồng Kông) kể từ khi người miền bắc ăn theo người người miền nam đặt chân “tị nạn” tới Hồng Kông. Không phải khi đã tới nơi an toàn là Hồng Kông người miền bắc mới quậy phá. Trên đường vượt biên, một lần tôi dừng thuyền tại một thị xã nhỏ của Trung Quốc. Năm 1989, Trung Quốc còn nghèo lắm. Nhiều nơi còn nghèo hơn Việt Nam cộng sản nữa. Lên bờ đi vào thị xã, tôi thấy một toán thuyền nhân miền bắc hơn một chục nam, nữ, lớn bé. Có cả mấy tay thanh niên mặc quần đùi, cởi trần một cách rất là “mất dạy”, xâm trổ khắp thân mình, lang thang trong phố xá của người ta. Trong khi mình là người đang đi tị nạn, cần được người ta thương và giúp đỡ. Trông thấy trong một quán tạp hóa nhỏ có toán thuyền nhân người Việt nên chúng tôi cũng bước vào. Quán thì nhỏ, hàng thì ít, họ tới trước nên chúng tôi đứng chờ họ mua. Tôi thấy họ mở hết lọ này tới lọ kia hỏi chủ quán lung tung. Rồi tôi thấy bà chủ quán tiếp họ mà mặt không vui, cứ nhìn tôi lắc đầu hoài. Tới khi toán người miền bắc đi ra, không mua gì, tôi thấy bà chủ quán tiếp toán của tôi rất bình thường. Bà ấy không nói được tiếng Anh, và chúng tôi thì không nói được tiếng Tầu nhiều. Nhưng nhìn cử chỉ tôi biết là bà chủ quán như cảm thấy vừa thoát nạn khi toán người miền bắc ấy đi ra. Người miền bắc đi vượt biên quá dễ dàng. Nếu bị bắt họ không bị tù vì tội vượt biên như người miền nam. Đường đi lại ngắn, không nguy hiểm. Nhiều khi họ lấy nguyên chiếc tầu sắt của nhà nước để chở cả trăm người trong một chuyến đi với đầy đủ thức ăn nước uống. Họ đi một cách rất an toàn. Nhiều người miền bắc kể với tôi, “Đi vượt biên mà xếp hàng như đi hành quân ấy.” Vì thế họ đến Hồng Kông rất đông. Theo trang web “Vietnamese people in Hong Kong – Wikipedia, the free encyclopedia” cao điểm vào năm 1989 có tới khỏang 300 người đổ tới Hồng Kông một ngày. Bởi vì họ đi quá dễ dàng nên tại những trại tị nạn ở Hồng Kông họ chiếm đa số. Vì thế trong suốt những năm dài có trại tị nạn ở Hồng Kông, với số đông áp đảo, tính tình hung hãn và dường như kết quả của nền giáo dục Xã Hội Chủ Nghĩa (?), người miền bắc luôn luôn làm chủ tình hình, bắt nạt, cướp bóc, trấn lột người miền nam và người Việt gốc Hoa. Đối với nội bộ địa phương với nhau thì họ cũng chia rẽ, chém giết nhau để tranh dành quyền lực. Và phe nào thắng thế trong trại cũng đều “cai trị” rất là độc đoán, áp dụng luật mafia chứ không áp dụng luật bình thường văn minh của Hồng Kông. Một lần tôi hỏi một chú em người miền bắc, được người nhà bảo lãnh đi Mỹ, “Anh thấy em hiền như thế này lúc ở trong trại thì gia đình em sống làm sao?” Chú ấy hiền lành trả lời, “Trong trại thì em cũng phải “gấu” chứ, nếu không thì chúng nó bắt nạt chết!” Nhưng cũng có một lần người miền nam quá uất ức phản công. Đó là lần duy nhất người miền nam thắng thế nhưng đó lại là lần gây tử vong nhiều nhất trong lịch sử tị nạn Hồng Kông khiến dư luận Hồng Kông cũng như những người ngoại quốc thiện nguyện làm việc trong các trại tị nạn bàng hoàng và ghê sợ người Việt nam nói chung. Nội vụ được mô tả trong bản tin “18 người Việt thiệt mạng vì bạo động trong trại tị nạn” ( 18 Vietnamese Die in Violence at Refugee Camp-By BARBARA BASLER,-Published: Tuesday, February 4, 1992) Theo bản tin của Barbara Basler, ngày Thứ Ba, mùng 4/2/1992, nhà chức trách cho hay, mười tám thuyền nhân Việt Nam đã thiệt mạng và 128 thuyền nhân khác bị thương trong một trại tị nạn ở Hồng Kông vào tối thứ Hai khi các phần tử bạo động đã nổi lửa đốt một căn nhà lớn (Hut) trong một cuộc đụng độ bắt đầu từ việc tranh nhau nước nóng. Bộ trưởng an ninh Alistair Asprey cho hay, hoả hoạn đã được gây ra bởi những người Việt nam nhét những tấm mền đang cháy qua các cửa sổ vào trong một căn nhà. Đây là cuộc tấn công cố tình nhắm vào một nhóm người trong căn nhà đó. Nhà chức trách cho hay các người thiệt mạng trong đó có ít nhất một em nhỏ, là những thuyền nhân đã tự nguyện hồi hương và đang chờ thủ tục. Nội vụ là một thương vong lớn nhất từ trước tới nay tại trại tị nạn Hồng Kông, khởi đầu lúc 11 giờ trưa tại một khu vực nằm cạnh khu vực các người tự nguyện hồi hương tại trại Sek Kong. Nhà chức trách cho hay 17 trong các nạn nhân bị đốt chết cháy và một người khác bị chết sau đó tại bệnh viện. Trong số 55 người được điều trị tại bệnh viện, 7 người ở tình trạng trầm trọng. Nhà chức trách tin rằng số tử vong sẽ còn thêm. Nhà chức trách nói rằng nhiều trăm thuyền nhân tham gia trong cuộc đánh nhau giữa các băng đảng miền bắc và miền nam. Họ đánh nhau bằng các vũ khí dao kiếm tự chế. Những người thiệt mạng là người miền bắc. Ông Asprey nói rằng cuộc tranh cãi về nước nóng trong lúc xếp hàng chờ được xử dụng đã được cảnh sát ngăn chặn nhưng lại bộc phát sau đó vào buổi tối. Khi cảnh sát cố ngăn chặn vụ đánh nhau thì hàng trăm người Việt Nam từ khu vực kế cận phá hàng rào ngăn cách tham gia ẩu đả khiến cảnh sát phải rút ra ngoài và gọi tăng viện. Sau đó có khoảng 400 cảnh sát được gọi tới giúp chấm dứt bạo động bằng cách bắn 33 quả lựu đạn cay vào trại. Lính cứu hỏa phải mất tới 90 phút mới dập tắt được ngọn lửa. Thống đốc Hồng Kông ông David Wilson, và các viên chức an ninh hàng đầu đã tới trại bằng trực thăng vào sáng hôm sau … Thống đốc đã ra lệnh tách rời số thuyền nhân hai miền nam, bắc Việt nam này ra hai địa điểm khác nhau. Có khoảng 2000 (hai ngàn) thuyền nhân miền bắc sẽ được di chuyển sang trại khác. Hầu hết các thuyền nhân ở Hồng Kông tới từ miền bắc Việt Nam.” Ỷ số đông, người miền bắc hiếp đáp người miền nam như thường lệ. Nhưng lần này những người bị hiếp đáp đã phản công. Những người miền trung (nam) ở trong khu vòng rào đã xô ngã hàng rào để tràn sang khu người miền bắc. Họ bao vây bên ngoài căn nhà chứa khoảng 200 người (căn nhà nào cũng chứa số người như thế), đồng thời họ lấy mền (rất nhiều, do trại phát) tẩm dầu (trong trại có dầu hôi để nấu ăn), tung vào căn nhà để đốt. Những ai từ trong nhà chạy ra đều bị họ đánh, chém hung bạo. Kết quả tử vong như bản tin đã loan. Thống đốc Hồng Kông đã chỉ thị tách rời 2,000 thuyền nhân miền bắc đi chỗ khác chính là để tránh một sự trả thù của người miền bắc. Hôm sau, nhân viên ngoại quốc làm thiện nguyện trong trại kể chuyện đó với chúng tôi và họ kết luận, lâu nay họ tưởng người miền nam hiền và tốt, nhưng chuyện đó cho thấy người miền nam cũng như người miền bắc. Chúng tôi nghe mà không nói nổi một lời! Vợ một người bạn gốc miền trung, nên theo dõi chi tiết nội vụ, sau đó cho tôi hay trong nội vụ những người miền trung cũng tàn nhẫn quá. Số người chết và bị thương đa số là đàn bà con nít, không chạy ra được. Còn những tên đầu gấu thực sự thì hầu như chạy thoát được cả. Chị này cũng cho biết tiếp, trong thời gian sau đó, hàng ngày được chở ra bệnh viện Hồng Kông khám bệnh, những người miền trung không dám lên tiếng sợ bị nhận giọng là người miền trung sẽ bị đầu gấu miền bắc trả thù. Vào cuối chương trình tị nạn, 1992, Hồng Kông chỉ chấp nhận cho những thuyền nhân được công nhận tị nạn tạm trú trong 2 tuàn lễ để làm thủ tục đi nước thứ ba thôi. Thời gian đó chỉ đủ để cao uỷ tị nạn chuyển số thuyền nhân đó sang trại Bataan ở Phi luật tân trong ít nhất là 6 tháng để họ học cách sống để hội nhập vào các quốc gia phương tây, đồng thời xin quốc gia thứ ba phỏng vấn để thu nhận họ. Tại trại Bataan lúc đó có 12 vùng, trong đó chỉ có 1 vùng là có người tị nạn miền bắc. Mặc dù số lượng ít ỏi như vậy nhưng họ rất đoàn kết chặt chẽ cho nên họ áp đảo được du đãng miền nam. Một lần cảnh sát Phi luật tân trong trại cùng với ông đại diện cao ủy tị nạn đi lùng khắp trại để tìm một người bị bắt cóc. Suốt một ngày trời tìm đôn tìm đáo, tới mãi xế chiều nhà chức trách mới giải cứu được thanh niên bị bắt cóc khỏi một căn nhà ở ngay gần văn phòng trại. Thanh niên này là một du đãng miền nam. Tối hôm trước cậu ta trấn lột chiếc đồng hồ của một thanh niên miền bắc. Thế là hôm sau đầu gấu miền bắc tập trung kéo tới tận nơi cư trú của cậu du đãng miền nam này bắt trói thúc ké, cho khoác bên ngoài một cái áo măng tô rồi hai bên có hai đầu gấu cặp cổ đi kèm cứ như là ba người bạn thân đi ngoài đường. Cuộc bắt cóc như thế vượt qua được các trạm kiểm soát từ vùng nọ sang vùng kia để rồi đem nhốt đối thủ vào trong nhà đánh cho một trận nhừ tử tới chiều mới thả. Nếu ở ngoài đời thì cậu du đãng miền nam này có thể đã bị thủ tiêu rồi. Phương cách hoạt động của đầu gấu miền bắc cho thấy họ được gia đình hỗ trợ (bởi thế họ đông hơn), đoàn kết hơn, hành động tập thể hơn và liều mạng hơn. Gia đình miền nam không hỗ trợ khi con em họ trở thành du đãng nên số lượng du đãng miền nam không nhiều bằng miền bắc nếu hai bên có số dân cư tương tự. Hôm sau viên sĩ quan cảnh sát trưởng vùng tôi ở gặp tôi cho biết tin về vụ bắt cóc hôm trước và nói với tôi rằng, “Ông biết bắt cóc ở Phi luật tân là một tội nặng lắm. Đã vậy bọn chúng lại cả gan nhốt kẻ bị bắt cóc ở ngay gần trụ sở cảnh sát chúng tôi. Tôi thắc mắc là không biết mạng lưới của bọn chúng sâu rộng cỡ nào và bọn chúng muốn thách thức cảnh sát chúng tôi hay sao?” Tôi nói với vị cảnh sát đó rằng đó là vụ thanh toán nhau giữa hai băng ăn cướp thôi, chứ chúng không định thách thức các ông đâu. Và bọn chúng cũng không nhiều đâu. Sau đó khi ông ta hỏi tôi về phương cách đối phó, tôi đề nghị để mặc kệ cho hai nhóm thanh toán nhau, không điều tra vụ bắt cóc. Như vậy là dẹp yên được một phe. Sau đó gọi bên thắng tới nói cho biết “danh sách và mọi hoạt động đã bị cảnh sát ghi nhận rồi. Nếu muốn yên thì không được quậy phá. Nếu quậy phá thì sẽ bị bắt hết”. Giải pháp đó mang lại yên bình cho trại tị nạn Bataan trong thời gian 6 tháng gia đình tôi ở trại đó, trước khi đi Mỹ. (còn tiếp-Văn hóa tội phạm được thuyền nhân miền bắc du nhập vào các- quốc gia thâu nhận họ)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:37:40 GMT 9
Nam Bắc Phân Tranh Sau 1975 (5)
Thuyền nhân Việt Nam tại trại tị nạn Hồng Kông (nguồn internet) (Tiếp theo kỳ trước) Hầu hết các thuyền nhân miền bắc không được vào Mỹ. Theo chính sách tiếp nhận những người được qui chế tị nạn, tất cả những ai có thân nhân bảo lãnh đều phải được phỏng vấn trước tiên bởi quốc gia của người thân nhân nạp đơn xin bảo lãnh. Ví dụ tôi có mẹ ở Pháp đã nạp đơn bảo lãnh thì sau khi đậu thanh lọc, tôi phải được phỏng vấn trước tiên bởi nước Pháp. Và khi nước Pháp nhận thì tôi phải đi Pháp chứ không có quyền chọn lựa nước khác. Nguyên tắc thứ nhì là tất cả những cựu quân, cán, chính Việt Nam Cộng Hòa sau khi đậu thanh lọc đều phải được Mỹ phỏng vấn trước tiên. Khi nào Mỹ từ chối thì mới được đi phỏng vấn với các nước khác. Nguyên tắc kế tiếp là tất cả những thuyền nhân miền bắc đều không được Mỹ nhận cho phỏng vấn, tức là Mỹ từ chối không nhận người miền bắc (dĩ nhiên trừ một số ít có thân nhân ruột thịt như cha mẹ anh chị em tại Mỹ bảo lãnh). Đó là lý do các thuyền nhân miền bắc qui tụ đông đảo tại các nước Canada, Úc và Anh. Đặc biệt lúc đó Hồng Kông còn là thuộc địa của Anh cho nên tất cả những thuyền nhân miền bắc phạm tội tại Hồng Kông nếu bị các quốc gia khác từ chối thì Anh quốc phải nhận hết trước khi trao trả Hồng Kông lại cho Trung Quốc. Đó là lý do Anh quốc nhận nhiều thuyền nhân miền bắc có tiền sử tội phạm nhất. Cách sống, tức là văn hóa, khó có thể thay đổi. Một cộng đồng dân chúng khi di cư (immigrate) mang theo họ tất cả nền văn hóa mà từ đó họ trưởng thành. Người miền bắc trưởng thành trong nền văn hóa xã hội chủ nghĩa khi di cư sang các quốc gia đông âu, qua diện lao động hay du sinh, hoặc tới Hồng Kông dưới dạng thuyền nhân, lẽ dĩ nhiên mang theo họ tất cả tính chất giả trá, lừa lọc, tham lam, bạo động, và tàn bạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa. Rồi từ các “căn cứ địa” đó, họ du nhập nền “văn hóa đầu gấu” tới các quốc gia thâu nhận họ như Tây Đức, Anh, Pháp, Canada và Úc. Mới đây trong thượng tuần tháng 1/2010, một bản tin của đài BBC cho biết một chiếc xe hơi đã mang bỏ bên đường xác chết của một thanh niên khiến cảnh sát Anh phải yêu cầu ai biết danh tánh của thanh niên nạn nhân hãy cung cấp cho cảnh sát. Bản tin này làm người ta nhớ lại một tin trong bài “Nam Bắc Phân Tranh sau 1975 bài số # 3” trong đó một nạn nhân thiệt mạng trong một cuộc giao tranh giữa hai nhóm đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn khiến cảnh sát Hồng Kông cũng phải yêu cầu ai biết danh tánh nạn nhân thì cung cấp cho cảnh sát. Nhưng cũng như bản tin ở Anh Quốc, không ai dám làm điều đó. Vì qui luật chung của đầu gấu là “im lặng tuyệt đối.” Ai vi phạm sẽ bị xử theo luật giang hồ. Ngay khi còn ở trại tị nạn, với nguyên tắc nhận người tị nạn như thế, tôi đã thấy trước là ba nước nhận nhiều thuyền nhân miền bắc nhất là Canada, Úc và Anh, nhất là Anh quốc, sẽ gặp rất nhiều khó khăn về mặt tội phạm. Canada và Mỹ gần nhau, những thuyền nhân từng ở cùng trại với nhau nay phải chia đôi Mỹ và Canada thường hay giữ liên lạc với nhau. Khoảng một năm sau khi tới Mỹ, tạm ổn định cuộc sống, tôi tìm cách bắt liên lạc với cô học trò tiếng Anh của tôi hồi ở trong trại, khi hỏi về cuộc sống thì đã được cô nói tiếng lóng cho biết là đi làm công hái cần sa rồi. Những năm sau đó theo dõi báo chí, thấy đã có mấy vụ người Việt tại Úc bị bắt vì chuyển lậu cần sa về Việt Nam. Tin tức về người Việt tại Anh quốc cũng có mức độ tội phạm tương tự. Tại mấy nước cựu cộng sản đông Âu và Nga, những năm trước không có nạn trồng và bán cần sa nhưng có nạn buôn lậu, đặc biệt tại đông Đức là buôn lậu thuốc lá và băng đảng thanh toán nhau vì tranh dành thị trường. Sự thanh toán tàn bạo tới độ có vụ nạn nhân bị bắt cóc mang đi giết rồi chặt nhỏ thi hài ra thủ tiêu. Tất cả tình trạng tội phạm và phương cách phạm tội của người Việt tại Canada, Úc, Anh và các nước đông Âu qua tin tức báo chí làm tôi nhớ lại “văn hóa đầu gấu” của người miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông. Nền văn hóa đầu gấu của miền bắc có năm biểu hiện: Kiếm tiền bất hợp pháp bằng mọi giá, cướp bóc, thanh toán nhau, tàn bạo và chế ngự cộng đồng bằng luật giang hồ (tranh dành quyền lực). Năm biểu hiện này dường như quyện chặt lấy nhau từ trong nước ra tới hải ngoại. Sự khác biệt văn hóa bắc nam thể hiện rõ nét qua hiện tượng ở hải ngoại, người miền bắc đi vào con đường kiếm ăn bất hợp pháp một cách tập thể, một điều không thấy trong cộng đồng người miền nam. Dĩ nhiên tội phạm thì ở đâu cũng có nhưng tội phạm tập thể, rủ nhau kéo đàn kéo lũ từ trong nước ra để làm ăn phi pháp thì chỉ có cộng đồng người miền bắc. Người miền nam vượt biên ra hải ngoại, nói chung là đông hơn người miền bắc nhiều, nhưng họ đi làm để nuôi con cái ăn học, và bản thân họ đa số cũng cắp sách trở lại trường học, cho dù khi đặt chân được tới nước ngoài, đa số tuổi khá cao, nhất là so với các thuyền nhân miền bắc. Cho nên người miền nam ở hải ngoại đông hơn người miền bắc nhiều lần nhưng tỉ lệ phạm pháp lại thấp hơn rất nhiều lần, không gây một tai tiếng nào tại quốc gia họ định cư. Cái đặc tính ham học và làm ăn đàng hoàng có văn hóa đó đã mang lại sự kính trọng của người bản xứ. Con cái thành phần miền nam đã tạo được nhiều thành quả về học vấn và công tác, kể cả đạt được những chức vụ cao trong chính phủ nước người như là ông Đinh Việt cựu thứ trưởng bộ Tư Pháp Liên Bang Hoa Kỳ, Luật sư Lưu Tường Quang cựu Tổng Giám Đốc Đài Phát Thanh Quốc Gia Úc Châu (SBS), ông Vũ Khanh Thanh, nghị viên tại Anh Quốc (Councillor for the London Borough of Hackney ) và còn nhiều viên chức cao cấp khác nữa. Tóm lại người miền nam và con cái họ, chỉ sau thời gian ngắn tới trường học, họ đã hội nhập hoàn toàn vào xã hội mới và được người bản xứ kính nể. Trong khi con cái người miền bắc ở nước ngoài không tạo được những thành quả gây ấn tượng bằng một phần nhỏ con em miền nam. Một nhà báo nổi tiếng của miền bắc đang tị nạn chính trị tại London, một người bạn thân vong niên với tôi trong trại tù Z30D vì tội chống đảng, một lần điện thoại nói với tôi thế này: “Em biết đấy, đám miền bắc khác người miền nam. Chúng có chăm lo cho con cái đi học đâu. Ở bên này (Anh Quốc) chúng toàn làm những chuyện bất hợp pháp.” Điều buồn cười là nhà văn miền bắc này chính cống là người Hà Nội cho tới sau 1975 và là một trong vài cán bộ được đảng huấn luyện giỏi nhất miền bắc để đảm nhiệm những công tác cần trình độ cao tương đương với giới trí thức phương tây (vì an ninh cho ông ấy tôi xin miễn nêu tên). Tại Canada, trình trạng tội phạm của người Việt gia tăng với tốc độ đáng sợ. Theo trang mạng Sherdog.net, bài “Vietnamese gangs stranglehold over the Canadian marijuana industry” viết rằng 95 phần trăm hoạt động trồng cần sa do cảnh sát khám phá tại Vancouver được điều hành bởi các nhóm người Việt. Bài báo viết tiếp, các nhóm trồng cần sa này là những gia đình, hợp tác với nhau để kiếm tiền… Các nhóm người Việt là những người trồng nhiều cần sa nhất trên toàn quốc… Việc trồng cần sa có lợi nhuận khổng lồ (tremendous profit)… Người Việt trồng cần sa đã phát triển khắp các vùng Edmonton, Calgary, Saskatoon, Winnipeg, Toronto và Montreal… Một người Canada gốc Việt hoạt động cộng đồng hàng đầu (community leader) nói rằng nhiều người bàn tán về việc các gia đình gốc Việt tham gia trồng cần sa. Ông nói nguyên văn, “Nhiều người trong số họ (người Việt) cảm thấy đó là cách dễ kiếm tiền và vì thế họ đã đi vào nghề đó..” Sự tham gia của các nhóm gia đình người Việt vào việc kinh doanh bất hợp pháp này cũng gia tăng nhiều. Trong năm 1997 số nghi can gốc Việt liên quan tới hoạt động cần sa tăng từ 2% lên tới 36%. Các ghi nhận cho thấy con số người Việt trồng cần sa là đông nhất. Những người Việt từ Âu Châu và Úc châu đang được tuyển mộ để chăm sóc cây cần sa… Cảnh sát tại Anh quốc cho hay 75 phần trăm cơ sở trồng cần sa bị khám phá do các nhóm băng đảng người Việt điều hành…Tại Anh Quốc cảnh sát đã lục soát từ giữa năm 2005 tới 2006, 802 cơ sở trồng cần sa tại London, trong đó 2/3 cho tới ¾ các cơ sở đó là do các băng nhóm người Việt điều hành… Phương pháp trồng cần sa được dùng tại Canada hiện đang được lặp lại tại Anh quốc. Nhật báo The Vancouver Sun ra ngày Thứ Năm, mùng 10-12-2009 đăng bài “The RCMP’s gangster ‘hit list’: …” công bố ngày thứ Sáu, mùng 10-6-2005 viết rằng Nhóm băng đảng Á châu nổi tiếng nhất tại Vancouver là nhóm “Big Circle Boys-BCB). Bài báo viết tiếp, các nhóm người Việt kiểm soát 85% hoạt động trồng cần sa tại vùng Lower Mainland và hầu hết các thương vụ ma túy tại Vancouver Island, bắc Nanaimo. Thành viên nhóm BCB can dự vào những vụ giết người, cho vay nặng lãi, buôn người, thu hụi chết, cướp bóc và xuất cảng xe hơi ăn cắp sang Á châu. Các nhóm băng đảng người Việt nổi tiếng tàn nhẫn và bạo động bất chợt. Các nhóm tội phạm Á châu khác chìm hơn (more low-key) và không muốn làm cảnh sát chú ý, nhưng sẽ dùng bạo động và giết người như giải pháp cuối cùng để bảo vệ quyền lợi bất hợp pháp của chúng. Tại Úc châu, cảnh sát cho hay các tay buôn cần sa người Việt đã đi Canada để học hỏi cách trồng loại cây này. Người ta tin rằng chúng sẽ dùng kiến thức học được để trồng và bán cần sa tại Việt Nam. Tại Anh quốc tình trạng tội phạm của người Việt miền bắc cũng được nêu đích danh. Bài Archive for March 24th ,2009, “A Viet Member of the British Empire” viết rằng, mới đây, người Việt tại Anh quốc đã nổi tiếng trên báo chí truyền thông Anh quốc do các hoạt động tội phạm trồng cần sa và buôn người. Ngay cả người miền bắc cũng xác nhận tình trạng tội phạm của họ. Trong bài “Người Việt tại Vacsava trồng cần sa” đăng trên mạng Đàn Chim Việt ngày mùng 2 tháng 1-2009, phần góp ý, ông Nguyễn Dũng viết rằng dân Việt Nam tại Anh Quốc, phần nhiều từ Hải Phòng cũng trồng và buôn bán cần sa ma túy. Một người khác tên là Tâm thì viết, thực lòng mà nói những người Việt Nam trồng cần sa ở Anh, Canada và một vài nước khác đã bị bắt hầu hết đều là người miền bắc Việt Nam, cho dù tôi cũng là người miền bắc thì tôi cũng không thể chối cãi điều đó, nhưng xin bà con thông cảm, bởi vì sống trong một chế độ mà nhà cầm quyền chà đạp lên tất cả để giữ độc quyền cai trị, thì người dân họ cũng học theo cái xấu đó để mà tồn tại. Chính vì thế mà họ coi thường luật pháp và thượng tôn đồng tiền. Theo ông Nguyễn Dũng, một di dân gốc bắc ở trên, người dân miền bắc học theo cái xấu của đảng “để tồn tại.” Như vậy nguyên nhân của tình trạng tội phạm của người miền bắc phải là vấn đề văn hóa chứ không phải vấn đề kinh tế. Vả lại nếu nguyên nhân của tội phạm là vấn đề kinh tế thì người di dân gốc miền nam cũng phải có mức độ và hình thức tội phạm tương tự. Làm giầu nhanh chóng bằng mọi giá, kể cả bất hợp pháp, bạo động, đâm chém là mộng ước lớn hiện nay của cộng đồng người miền bắc hải ngoại. Nghề trồng cần sa đáp ứng mộng ước bất hợp pháp đó của người miền bắc bởi thế họ đang đua nhau tràn sang Anh quốc, bất kể mọi nguy hiểm. Trong bài “ Những bước đổi đời gian nan” của Huỳnh Tâm đăng ngày 28/10/2009 trên trang mạng Đàn Chim Việt tác giả viết “Trước khi chia tay, chúng tôi hỏi lý do vì sao phải đến Anh mà không qua Đức, Bỉ hay Hà Lan. Tất cả đều nói giống nhau: “Chúng tôi đến Anh là vì nơi đó tìm kiếm việc làm dễ hơn, lương cũng cao hơn và sẽ có giấy tờ cư trú hợp pháp, cũng như nơi ăn ở đã có chủ lo hết”. Qua tìm hiểu, công việc lương cao, chủ bao là trồng cỏ hay bán sản phẩm quốc cấm, còn nữ có khả năng phải làm trong ngành buôn hương bán phấn, dịch vụ mới phát triển tại Anh quốc do người Việt làm thầu.” Đồng thời người miền bắc đang mở một chiến dịch phổ biến trồng cần sa hầu như khắp Âu châu và cả ở Hoa Kỳ. Nhưng riêng tại Hoa kỳ lâu nay cũng có một vài âm mưu phổ biến kỹ nghệ bất hợp pháp này sang thành phố Seattle, Hoa Kỳ, kế cận thành phố Vancouver của Canada. Nhưng chiều hướng này khó thành công vì hai lý do: 1- Tại Hoa Kỳ, tội trồng cần sa bị trừng phạt nặng hơn ở Canada và Anh quốc rất nhiều. 2-Người miền bắc ở Hoa Kỳ rất ít nên họ không tìm được đồng minh như ở các quốc gia khác. Trồng cần sa là một nghề rất hấp dẫn và một khi đã đâm đầu vào rồi thì khó bỏ, bởi vì nó quá dễ và quá có lời. Kiếm vài triệu dễ như chơi. So với một kỹ sư tại Mỹ, trung bình lương 50 ngàn đô một năm. Một đời làm việc trung bình 30 năm mới kiếm được 1 triệu rưỡi. Trừ thuế 30 phần trăm thì còn lại hơn 1 triệu. Sau khi trừ chi phí đời sống thì cuối đời còn được bao nhiêu. Nhưng đi vào trồng cần sa thì tất cả mọi người đều trở thành triệu phú trong chớp mắt. Người quen của tôi từ Việt Nam kể chuyện rằng có người trong nước mới đi xuất cảnh lao động không biết làm gì mà gửi tiền về nhà nhiều quá. Thân nhân của họ ở Việt Nam mua căn nhà bốn, năm tỉ dễ dàng như lấy tiền trong túi. Tôi bảo rằng những người xuất cảnh lao động mà nhiều tiền như thế thì chỉ có nước trồng cần sa, buôn ma túy thôi chứ làm gì có nước nào kiếm tiền dễ như thế. Một lần sang Canada thăm một cặp vợ chồng quen trong trại tị nạn. Thấy họ sống sung túc trong một ngôi nhà khang trang mua bằng tiền mặt và đã trả hết nợ, có nghĩa là không vay ngân hàng, tôi hết sức ngạc nhiên và cũng đoán thầm nghề nghiệp của họ. Ở chơi được nửa ngày họ mới thật tình thổ lộ hết công việc. Hiện nay thì chị vợ mở tiệm nails chủ yếu chỉ để tạo bề mặt rửa tiền. Anh chồng không phải làm gì cả. Họ thú thật đã có bạc triệu. Mấy triệu thì tôi không biết và không tiện hỏi chi tiết nhưng chính miệng anh ta nói ra là “triệu”. Anh ta cho biết bây giờ đã giải nghệ. Tôi không tin, cười hỏi, “Giải nghệ thật không?”. Anh ta thú thật rằng, giải nghệ là bản thân anh ta không còn trực tiếp trồng thôi, chứ căn nhà cơ sở của anh ta vẫn còn và anh ta kêu người chăm nom rồi chia lời. Vài ba tháng anh ta tới thu vài chục ngàn đô tiền chia lợi tức. Một năm không phải làm gì cả mà thu lợi tức bốn chuyến như thế thì cuộc sống khoẻ quá. Lợi tức hơn một bác sĩ làm việc cật lực. Anh ta bảo tôi nếu muốn thì mua một căn nhà ở Canada rồi anh ta sẽ kêu người lo giúp cho. Lúc đó tôi không phải làm gì cả mà cứ vài tháng đi du lịch sang Canada thu vài chục ngàn đô. Anh ta trình bày tiếp, trong làm ăn mọi việc tự nó sẽ hình thành một hệ thống kín từ A tới Z. Mình không phải bận tâm. Mỗi khâu đều có dịch vụ. Từ người Realtor chuyên mua nhà tới anh constructor sửa nhà để thành cơ sở trồng cần sa, tới luật sư lo về pháp lý khẩn cấp mỗi khi bị cảnh sát khám phá, đã tự nhiên trở thành một hệ thống mắt xích hoàn hảo. Khi nghe như thế thú thực lòng tôi cũng chao đảo. Huống chi là mấy người nghèo đói ở Việt Nam. (còn tiếp-Kết luận: Chia rẽ bắc nam sẽ còn kéo dài)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:38:38 GMT 9
Nam Bắc phân tranh sau 1975 [6]
(Tiếp theo kỳ trước) Cái qui trình thăng tiến làm giầu nhanh chóng bằng trồng cỏ diễn tiến khởi đầu từ làm công trông nom vườn, thu hoạch, ăn lương. Khi đã rành nghề rồi thì lên một bực là không còn làm công ăn lương nữa mà là “lao tư hợp tác” (lao động và tư bản hợp tác) trông nom cơ sở sản xuất để chia lời với chủ. Và cuối cùng là khi đã đủ tiền và đã biết hết nghề cũng như biết mối tiêu thụ rồi thì mua một căn nhà tự mình làm chủ cáng đáng hết mọi việc. Sau vài năm khi đã để dành được vài triệu rồi thì hoàn toàn chấm dứt lao động mà thuê thợ làm trả lương tháng. Với sự làm giầu nhanh chóng như thế thì công nhân sẽ sớm trở thành chủ nhân, để lại một khoảng trống nhu cầu công nhân điền khuyết. Số chủ nhân mới lại cần thêm công nhân. Hai nguyên nhân đó làm tăng nhanh chóng nhu cầu công nhân trồng cần sa. Công nhân ngày càng cần nhiều đưa tới việc buôn người từ trong nước nhập cảnh lậu sang Anh. Hệ thống mafia buôn người thành hình mà cuối cùng đầu não của mafia là các viên chức chính phủ từ toà đại sứ, tới các giới chức cầm quyền trong nước lớn nhỏ từ trung ương tới địa phương, từ ngân hàng tới sở lao động, tới công an. Một chuỗi những mắt xích mafia buôn người như vậy đã được các bài báo “Người Việt khốn khổ tại Paris” của Phương-Vũ Võ Tam-Anh đăng ngày 30 tháng Mười Một 2009 và bài “ Những bước đổi đời gian nan” của Huỳnh Tâm đăng ngày 28/10/2009 trên cùng trang mạng Đàn Chim Việt mô tả. Bài “Người Việt ở Ba Lan không chết bao giờ” đăng trên trang mạng talawas ngày 28/10/2009 cho biết “Tối Chủ nhật 25/10/2009, Đài Truyền hình Quốc gia Đức ARD chiếu một phóng sự về người Việt ở BaLan… Phóng sự dẫn lời ông Robert Krzysztoń thuộc tổ chức “Tự do Ngôn luận”, rằng những người Việt vượt biên bất hợp pháp vào Ba Lan đều do các băng mafia Việt Nam tổ chức. Một nhân viên điều tra của cảnh sát Ba Lan cho biết, mọi người đều sợ mafia. Những doanh nhân giàu có đem rất nhiều tiền kiếm bất hợp pháp từ Việt Nam sang đây để rửa. Họ mua các công ty của Ba Lan. Họ có quan hệ chặt chẽ với chính phủ Việt Nam và các nhân viên đại sứ quán Việt Nam. Đó là hệ thống tội phạm có tổ chức, với cơ cấu như của mafia. “Người Việt không bao giờ cần ký hợp đồng. Chỉ nói miệng với nhau là đủ. Người nào không chịu trả nợ thì sẽ bị bắt cóc và tra tấn đến khi nào trả thì thôi.” Chính hoạt động kinh tế bất hợp pháp cùng với các hành vi tội phạm khác của mafia miền bắc đã khiến người Việt hai miền nam bắc tại các quốc gia lớn phương tây như Canada, Úc, Anh, Pháp và Đức sống cách biệt nhau, không giao tiếp với nhau. Người miền nam cũng không muốn giúp đỡ người miền bắc ở hải ngoại là vì họ biết rằng một ngày nào đó người miền bắc sống được, tồn tại được họ sẽ tiếp tục làm ăn phi pháp, tiếp tục trở thành thành viên băng đảng, và khi đó không những họ sẽ tiếp tục làm nhục danh dự người Việt nam mà còn là một mối đe dọa trực tiếp cho an ninh cá nhân của những người miền nam. Những ý kiến trên mạng Đàn Chim Việt dưới đây mô tả phần lớn quan điểm của người miền nam hải ngoại đối với người miền bắc. Trong phần ý kiến ở cuối bài “Người Việt khốn khổ tại Paris” của Phương-Vũ Võ Tam-Anh, ông “thường dân” viết rằng, “Nhìn kỹ trường hợp của những người Việt nầy: Họ muốn đổi đời trong hoàn cảnh đời sống không dễ dàng tại VN…đó là ý muốn đúng! Nhưng tại sao họ đã đi qua nhiều nước, mà mục tiêu cuối cùng lại là đến Anh, dù đời sống kinh tế, công việc cũng không dễ dàng ở Anh … ?! Câu trả lời đơn giản, họ được hứa hẹn đến Anh sẽ có công việc với lợi tức cao, ít nhất vài ngàn dollars mỗi tháng và không khó để có việc…Vậy nó là công việc gì? … đó là công việc TRỒNG CẦN SA bất hợp pháp ( mà lúc nào cũng cần người). Lạm dụng luật pháp Anh phạt khá nhẹ (tương tự Canada) với tội trồng cần sa, họ và các tổ chức “tội phạm” VN chụp ngay, khai thác để làm giàu nhanh chóng, dù phạm pháp và tạo vấn nạn xã hội cho nước Anh, tai tiếng cho người Việt, trước mắt và lâu dài…” Trong một ý kiến khác, ông “hai lua” viết, “Đám người này nếu vào được nước Anh hay nước Úc, họ cũng dám làm những chuyện phi pháp để mau giầu. Họ vừa qua khoảng vài năm là tậu nhà mới, xe xịn. Vênh váo đi ra đường nói rặc tiếng xã hội chủ nghĩa. Trong khi người ra đi từ miền nam sống hiền lành, tôn trọng pháp luật của nước đã cưu mang cho mình định cư, thì cái đám ra đi từ miền bắc toàn dân buôn bán xì (xì ke). Thêm vào đám con ông cháu cha qua du học, chúng coi nước Úc là nơi ăn chơi và khoe khoang. Thật ra đọc bài này tôi thấy hoàn cảnh của họ đáng thương. Nhưng họ đổi mầu rất lẹ…Sau khi có quốc tịch Úc là trở mặt ngay. Cho nên lòng thương cái đám này của tui cũng có giới hạn. Tui …sợ đám này lắm. Chúng giết người không gớm tay. Miễn có tiền là chúng làm. Xin mấy bác thông cảm đừng nói tôi kỳ thị nam bắc.” Nhu cầu tồn tại của mafia là phải bành trướng vùng hoạt động, tiêu diệt tất cả những ai có nguy hại cho sự tồn tại của chúng. Tuy chưa có bằng chứng cụ thể, nhưng bằng chứng gián tiếp cũng cho thấy sức mạnh của tập thể đầu gấu miền bắc tại Anh, Canada, Đức và mới đây là Úc. Tại Anh quốc, đầu gấu miền bắc mạnh tới độ báo chí Anh quốc đã phải lên tiếng (đã dẫn ở trên) và đã khiến ông Khanh, nghị viên địa phương phải ngán sợ khi công nhận có tình trạng mafia gốc Việt buôn người và trồng cần sa tại Anh Quốc, nhưng ngay sau đó ông ta đã phải đổ tội đó là “hoạt động của các tay mafia người Việt gốc Hoa”. Trong một lần khác, tôi viết một bài về mafia gốc Việt tại Đức có tựa đề “Mafia làm văn hóa”. Khi gửi cho ban biên tập Talawas ở Đức, tôi nghĩ có thể lần này ban biên tập talawas không dám đăng vì sợ bọn mafia gốc Việt miền bắc rất mạnh tại Đức sẽ cắt cổ. Quả nhiên khác với thường lệ, bài đó của tôi không được đăng mà ban biên tập cũng không cho biết ý của họ như họ vẫn làm. Sau đó bài đó được đăng trên mạng Đàn Chim Việt ngày 22.10.08. Một điều khá đặc biệt là sự chia rẽ hai miền nam bắc thể hiện trong cả đường giây buôn người xuất cảnh lao động bất hợp pháp sang Anh. Trong đường giây đó, qua các bài báo, tham gia hầu hết là người miền bắc vĩ tuyến 17, tức là từ Quảng Bình trở ra. Trong bài “Người Việt khốn khổ tại Paris” của Phương-Vũ Võ Tam-Anh, ông viết, “Không có người nào đi từ miền Nam hay phía nam tỉnh Quảng Bình, tức là những người bỏ nước ra đi này đã sống dưới chế độ cộng sản từ xưa đến nay, phần lớn sinh sau năm 1975..” Sự kiện đó càng làm nổi bật sự kỳ thị giữa người Việt hai miền nam, bắc. Sau 3 năm 8 tháng sống với anh em giang hồ đầu gấu miền bắc, sang tới Hoa Kỳ, được tiếp cận các thông tin về phương cách cai trị đất nước của đảng cộng sản Việt Nam, tôi thấy có rất nhiều điểm tương đồng về cơ bản giữa giới lãnh đạo đảng và các đầu gấu hàng đầu trong trại tị nạn. Các điểm tương đồng đó là: 1-Đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông chia phe nhóm: các nhóm Hà Nội, Hải Phòng, Đồ Sơn, Quảng Ninh sống tách biệt và tranh chấp nhau, khuất phục nhau. Bản tin “Violence Pervades Hong Kong’s Refugee Camps; Vietnamese Boat People Live in Squalor, Despair-and Fear of Being Sent Home” đăng trên tờ The Washington Post ngày 20/2/1990 viết rằng, “Khi đêm xuống, cảnh sát gác trên những tháp canh bao quanh trại Sek Kong. Các nhân viên xã hội và khách ra về, chỉ còn lại 7,000 thuyền nhân và 50 cảnh sát canh gác. Ánh sáng đèn pin lập loè. Các băng đảng thù địch tập trung tại những góc riêng. Quanh trại vang lên tiếng mài dao, kiếm…và thường thì đêm nào cũng có bạo động. Trong số 56,000 thuyền nhân, đa số là người miền bắc……” Bản tin không nói rõ “Các băng đảng thù địch tập trung tại những góc riêng” là người miền bắc, nhưng những ai đã ở trại tị nạn Hồng Kông thì đều biết “các băng đảng thù địch” đó đều là đầu gấu người miền bắc. Tương tự, đảng cộng sản Việt Nam chia phe đảng: 1-Thời Lê Duẫn: Tranh dành quyền lực phe nhóm qua những vụ án chính trị giữa nhóm của ông Lê Duẫn và nhóm của ông Võ Nguyên Giáp. 2-Hiện nay là đấu đá triệt tiêu & hoà hoãn với nhau qua những vụ án tham nhũng lớn như hai vụ do Nhật và Úc mới vừa phanh phui. 3-Thủ tướng Phạm văn Đồng, vị thủ tướng lâu năm nhất thế giới, đã phải thú nhận “không có quyền thay đổi bộ trưởng.” Như vậy nội các chính phủ chính là nơi chia chác quyền lực và quyền lợi giữa các phe nhóm đầu gấu chính trị trong đảng. 2-Đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông đoàn kết để đàn áp người miền nam. Tương tự, đảng cộng sản Việt Nam đoàn kết để chống lại nguy cơ “diễn biến hoà bình”, các người bất đồng chính kiến, và các nhân vật tranh đấu cho dân chủ. 3-Đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông đặt ra lệ thu thuế của những người bán lẻ và của những thuyền nhân làm việc cho trại như giáo viên, phiên dịch, cán sự y tế, xã hội v…v để chia chác nhau. Tương tự, đảng viên cùng với thân nhân và phe nhóm trong đảng cộng sản Việt Nam từ trung ương tới địa phương đẻ ra các qui luật rừng rú về hành chánh, đất đai, giải tư công ty quốc doanh và kinh doanh để làm giầu phi pháp và độc quyền kinh doanh lớn. Trong bản nghiên cứu được Liên Hiệp Quốc tài trợ về nền kinh tế Việt Nam thuộc chương trình Châu Á (Asia Programs) của Phân Khoa Công Quyền (School of Government) của trường đại học Harvard Hoaky công bố tháng 1-2008, bản nghiên cứu gọi nền kinh tế Việt nam hiện nay là nền kinh tế phe đảng (the crony capitalism). Ở trang 4 và 5 trong 56 trang, bản nghiên cứu viết, “Những người Việt nam có quyền lực chính trị đang chuyển tài sản công thành tài sản tư xuyên qua các mua bán đất đai mờ ám (murky land deals) và tiến trình giải tư (equitization process) giúp cho các người tay trong (insiders) kiểm soát các công ty quốc doanh và tài sản của công ty.” Đó chính là ngôn ngữ đại học để chỉ hành vi ăn cắp của công một cách tập thể. Bản nghiên cứu viết tiếp “Tại Việt Nam, nơi lợi tức bình quân đầu người chỉ khoảng 800 đô la Mỹ một năm nhưng giá đất đai tại các thành phố ngang ngửa với những quốc gia giầu nhất thế giới. Do môi trường luật lệ cực kỳ mơ hồ và yếu kém, một số nhỏ thành phần ăn trên ngồi chốc (Vietnamese elite-Việt nam hiện không có thành phần xuất sắc –elite-nên tôi phải dịch elite ở trường hợp của Việt nam là những kẻ ăn trên ngồi chốc) đã thu được những khoản lợi nhuận kếch xù (supper profits) do các đầu cơ (speculative investments) nhà đất. 4-Đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông sống rất xung túc, giữa một quần chúng cực khổ. Tương tự, toàn thể giới lãnh đạo đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam mọi cấp đua nhau làm giầu bất minh. Trong phóng sự về người Việt ở Ba Lan của Đài Truyền hình Quốc gia Đức ARD ở trên, một nhân viên điều tra của cảnh sát Ba Lan cho biết: Những doanh nhân giàu có đem rất nhiều tiền kiếm bất hợp pháp từ Việt Nam sang đây để rửa. Họ mua các công ty của Ba Lan. Họ có quan hệ chặt chẽ với chính phủ Việt Nam và các nhân viên đại sứ quán Việt Nam. So sánh tình hình kinh tế gia đình của giới lãnh đạo đảng và nhà nước mọi cấp hiện nay với câu chuyện thời sự lúc mới “giải phóng miền nam” người ta sẽ thấy mức độ ăn cướp của họ thực là ghê gớm. Dù là người nam hay người bắc, ai cũng biết một câu “đồng dao” xuất hiện sau 30/4/1975: “Người nam nhận họ, người bắc nhận hàng.” Câu này có ý nói “sau khi được đảng giải phóng” người miền nam sợ hãi quá vội vàng tìm họ hàng là người miền bắc, dù là họ hàng “bắn súng cà nông cũng không tới” để hy vọng người họ hàng từ miền bắc vào sẽ giúp đỡ che chở tránh phải đi cải tạo và không bị đảng cướp đoạt nhà cửa và tài sản. Còn người miền bắc với niềm tin trong sáng lúc đầu do đảng tuyên truyền là “vào nam chiến đấu để giải phóng đồng bào trong nam đang bị Mỹ, Ngụy kềm kẹp, đàn áp, đói khổ” thì lại quá ngỡ ngàng trước sự giầu có của nhân dân miền nam cho nên “cố gắng đi tìm những bà con trong nam để xin đồ mang về bắc.” Thời đó, hàng ngày trên quốc lộ 1, người ta thấy nườm nượp các đoàn xe tải quân sự chạy vào hướng nam thì chở bộ đội và khí tài, lúc trở ra bắc thì chở theo các tài sản do các cơ quan, đơn vị miền bắc ăn cướp và ăn cắp của các cơ quan trong nam được đảng giao tiếp quản và một phần là tài sản của các bộ đội, công an xin của thân nhân trong nam. Những món quà vừa xin vừa cướp được từ trong nam mang ra bắc thường thấy chất trên những xe tải quân sự là những chiếc xe đạp. Trên vai các bộ đội hầu hết đều lộ vẻ sung sướng khi có được cái đài. Và kế tiếp, trên cánh tay của các bộ đội giải phóng ai cũng kiếm được một cái đồng hồ. Ba món hàng đó là ba món hàng cực kỳ hiếm ở miền bắc và chứng tỏ người chủ của chúng thuộc vào một “giai cấp” khác nhân dân, một “giai cấp sang trọng, đáng hãnh diện hơn.” Thêm nữa, một “món quà chiến lợi phẩm” quí giá nữa là các con búp bê “biết nhắm, mở mắt” và sẽ quí thêm nữa nếu chúng biết “nói”. Những con búp bê này là món quà những em bé miền bắc hằng mơ ước như mơ ước chuyện thần tiên. Cán bộ, bộ đội miền bắc vào giải phóng miền nam làm nổi tiếng ba món hàng, trước kia là rất bình thường ở miền nam: Cái đài, cái đổng (đồng hồ) và cái đạp (xe đạp). Cán bộ nào cũng muốn có ba cái đó, và ai mà có đủ ba cái đó thì gương mặt thường lộ vẻ thoả mãn và hãnh diện. Thế mà chỉ sau chưa tới 20 năm, tính từ lúc tôi vượt biên cuối năm 1989, thời chưa có ai giầu, tới 2009, giới lãnh đạo đảng, nhà nước mọi cấp và vợ con, thân nhân họ, những người khi vào “giải phóng” miền nam hãnh diện với ba chữ Đ (đài, đổng, đạp) đã có những tài sản kếch xù, có nhiều tay tỉ phú, vượt xa tất cả những người Việt giỏi nhất và giầu nhất tại hải ngoại. Ví dụ: Trong nước: -Nhà thờ họ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nguy nga đồ sộ quá mức bên cạnh một địa phương quá sức nghèo đói. Ngoài nước: Tại Berlin, đầu gấu kết hợp với đại sứ và thủ tướng Dũng đầu tư kinh doanh đại siêu thị và nhiều mặt hàng khác, cùng với chuyển tiền bất hợp pháp về Việt Nam. (xin xem bài Mafia làm văn hoá của tác Giả: Nguyễn Tường Tâm, đăng ngày 22.10.08 trên trang mạng Đàn Chim Việt.) Sự cách biệt giầu nghèo giữa giới lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam mọi cấp với dân chúng làm người ta liên tưởng tới khoảng cách biệt giữa cuộc sống “xa hoa” sung túc của giới đầu gấu miền bắc trong trại tị nạn Hồng Kông với các thuyền nhân cực khổ. 5-Đảng cộng sản Việt Nam áp dụng biện pháp của đầu gấu để cai trị đất nước. Một khi thấy dùng biện pháp pháp lý không thể thắng, giới cầm quyền cộng sản sẽ dùng các biện pháp của đầu gấu để trấn áp các nhà bất đồng chính kiến. Ví dụ trong tù thì cho đầu gấu đánh đập, hành hạ, hạ nhục các nhà đấu tranh cho dân chủ đang bị giam giữ. Ngoài đời thì dùng đầu gấu bao vây, tấn công, ném cứt đái, đồ dơ, vào tư gia các nhà bất đồng chính kiến, gây ra những tai nạn giao thông giả để gây thương tật cho họ, gây ra những xô xát dưới dạng cá nhân để kiếm cớ bắt nhốt họ với tội danh phi chính trị như đánh lộn. Đó là các biện pháp đã được xử dụng với luật sư Lê Thị Công Nhân trong tù, với cụ Hoàng Minh Chính, nhà văn Trần Khải Thanh Thủy, ở ngoài đời. Cũng có khi giới cầm quyền cộng sản Việt Nam phối hợp cả biện pháp dùng côn đồ với pháp lý như trường hợp đối với ông bà Trần Khải Thanh Thủy mới đây. Bản tin của BBC về “…vụ xử Trần Khải Thanh Thủy” ngày thứ bảy, 6 tháng 2, năm 2010 viết rằng, “Phiên tòa hôm thứ Sáu 5/2/2010 diễn ra từ 8 giờ sáng tới chừng 6 giờ 30 chiều…Bà Thanh Thủy bị án tù ba năm rưỡi với tội danh “cố ý gây thương tích”. Nhiều người theo dõi nội vụ cả trong lẫn ngoài nước đều tin rằng hai vợ chồng bà đã bị nhà chức trách Việt nam cho côn đồ kiếm cớ hành hung có thương tích để rồi bắt ngược lại hai ông bà và khởi tố tội hành hung người khác. Chính bởi thế quốc tế mới có quan điểm bênh vực vợ chồng bà Thanh Thủy trong vụ án áp dụng luật rừng này. Bản tin viết tiếp, “Sứ quán Mỹ nói Hoa Kỳ “rất lo ngại” vì việc kết án tù ba năm rưỡi với bà Trần Khải Thanh Thủy, một nhân vật bất đồng chính kiến.” Bản tin cũng cho hay Brad Adam, giám đốc phụ trách khu vực Châu Á của tổ chức theo dõi nhân quyền Human Rights Watch viết trong một tuyên bố: “Những kẻ tấn công bà, những người gửi đám côn đồ đó ra, và những nhân viên cảnh sát không chịu can thiệp đều cần phải được đem ra trước công lý.” Ngay mới đây bản tin của cơ quan thông tấn Đức DPA (Deutsche Presse-Agentur), ngày 10 tháng 12-2009 (Mob harasses dissident Vietnamese monks and nuns) viết, “Các tên côn đồ sách nhiễu các tăng ni bất phục tùng người Việt nam. Một nhóm đông côn đồ ngày thứ Năm đã bao vây một ngôi chùa sang ngày thứ nhì nơi có 190 tăng ni tạm trú. Trước đó, ngày thứ Tư, các tên côn đồ này đã sách nhiễu một phái đoàn của Liên Hiệp Âu Châu định thăm viếng các tăng ni này tại chùa Phước Huệ, ở phía nam tỉnh Lâm Đồng. Các tăng ni này là đệ tử của thiền sư Nhất Hạnh, một chi phái có trụ sở tại Pháp”. Những biện pháp đó giống hệt các biện pháp bọn đầu gấu miền bắc đối xử với nhóm đối nghịch hay với người miền nam ở Hồng Kông. * Chính sách xử dụng đầu gấu của giới lãnh đạo cộng sản đã được họ lập lại tại hải ngoại. Các đầu gấu miền bắc tại hải ngoại đầy rẫy tiền sử tội phạm, cho nên rất là dễ dàng để giới lãnh đạo cộng sản nắm chóp, sai khiến thực hiện những công tác tấn công, phá hoại những hoạt động chống cộng của người miền nam tị nạn cộng sản. Chính sách đó đã bắt đầu thực hiện thí điểm tại Melbourne, và Sydney, Úc. Theo tin có kèm theo hình ảnh của trang mạng “Dân Chủ – Nhân Quyền Cho Việt Nam” thì “CỜ VÀNG TẠI ĐÀI TƯỞNG NIỆM THUYỀN NHÂN Ở MELBOURNE BỊ ĐỐT RỤI”. Bản tin ngày 11-12-2009 của VKTNVN, từ Melbourne, cho biết gần trưa ngày 10 tháng 12 – 2009 người ta thấy lá cờ trên tượng đài đã bị đốt, cán cờ nghiêng lệch. Bản tin viết tiếp, “Chiều cùng ngày, sau khi đi làm về ông Trần Đông, Giám đốc tổ chức Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam Úc Châu đã đến tận nơi quan sát. Cán cờ bằng sắt được bắt ốc thật chặt vào đế bằng thép không rỉ dày 5 ly, cán cờ bị kéo lệch một bên. Điều đó cho thấy kẻ gian đã cố tình giựt mạnh cho rách lá cờ. Vì lá cờ bằng ny-lon khá chặt, kẻ gian không kéo rách được nên đã dùng lửa đốt cháy. Ny-long cháy đen co rúm lại và bám vào cán cờ.” Ai cũng biết ở bất cứ xã hội nào, đầu gấu thì chẳng có ý thức chính trị gì, chúng chỉ thích tiền. Cho nên hành động mang tính cách chính trị như vậy chắc chắn được sự chỉ đạo, thúc dục của toà lãnh sự cộng sản địa phương. Chủ trương gây chia rẽ và hận thù bắc nam của giới lãnh đạo cộng sản tại Úc không chỉ dừng lại ở chuyện phá hoại và đốt cờ Vàng mà còn tiến xa hơn nữa bằng những hành động bạo lực, giết người. Theo bản tin “Ca sĩ từ Hoa Kỳ lưu diễn ở Sydney đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc” đăng ngày mùng 7 tháng 12-2009 trên trang mạng CaliToday, trong buổi trình diễn văn nghệ do vài nghệ sĩ từ các trung tâm Asia, Thúy Nga, và Vân Sơn trình diễn tại Sydney, Úc Châu trong chương trình dạ vũ “Chào Mừng Giáng Sinh 2009” tại nhà hàng Hoà Bình, khu vực Fairfield, vào khoảng quá nửa đêm có cuộc đọ súng giữa hai nhóm thanh niên miền bắc (bắc 75) và miền nam. Hai bên đã va chạm, chửi bới lẫn nhau, sau đó mới ra xe lấy súng và mã tấu vào bắn và chém nhau. Kết quả một thanh niên 19 tuổi bị trúng đạn ngay ngực chết, hai người bị thương vì bị chém bằng mã tấu”. Chính sách xử dụng đầu gấu cùng với những biện pháp phi pháp luật, tàn bạo hiện đang được che dấu dưới những ngôn từ hoa mỹ của nghị quyết 36 khiến rất khó bị nhà chức trách sở tại phát hiện với bằng chứng cụ thể. Khích động gây chia rẽ giữa di dân người Việt hai miền nam bắc tại hải ngoại như vậy chắc chắn sẽ được cộng sản rút kinh nghiệm để phát triển trong tương lai không xa. * Với sự gia tăng nhân số người miền bắc tại hải ngoại do xuất khẩu lao động, du học sinh, nghiên cứu sinh và nhập cư bất hợp pháp qua mạng lưới mafia buôn người, cùng với sự khác biệt về văn hóa, lối sống lại thêm sự ép buộc, mua chuộc và khích động của giới lãnh đạo cộng sản Việt nam, người ta khó có thể thấy có sự hoà hợp giữa hai cộng đồng người Việt miền bắc và miền nam ở hải ngoại. Chỗ nào có đa số người miền bắc thì ở đó sẽ có tình trạng mafia, gia tăng tội phạm, bạo hành, trấn lột, và đe doạ. Chính bởi thế sự chia rẽ bắc nam bao giờ chấm dứt thì khó tiên đoán. Nhưng một điều chắc chắn là sự hoà hợp sẽ không có được nếu hoặc hai cộng đồng không khởi đầu một công tác chung là tiêu diệt nạn tội phạm có tổ chức trồng cần sa và buôn người hoặc nguồn gốc của nạn tội phạm có tổ chức này là chế độ cộng sản trong nước không bị xụp đổ. (còn tiếp-con đường hoà hợp)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 11, 2012 10:41:34 GMT 9
Nam Bắc Phân Tranh Sau 1975 (Kết) Nguyễn Tường Tâm
Người Việt Nam tại trại tỵ nạn Hồng Kông vào những năm 80 (ảnh AP News) Nam Bắc Phân Tranh Sau 1975 (bài chót) (Con Đường Hoà Hợp) Theo sự ghi nhận trong những bài trước, người ta có thể thấy tình trạng chia rẽ nam bắc tại hải ngoại không phải do tranh chấp quyền lợi mà là do khác biệt về trình độ chính trị và văn hoá và sự khích động của giới lãnh đạo đảng và chính quyền mọi cấp từ trong nước. Như vậy con đường đi tới hoà hợp phải là xóa bỏ sự khác biệt đó. Muốn vậy, người ta nghĩ ngay tới sự xóa bỏ chế độ cộng sản tại Việt Nam. Nhưng cho tới nay, xóa bỏ chế độ cộng sản tại Việt Nam là mục tiêu dài hạn mà không ai có thể tiên đoán được khi nào thành công. Trong khi chờ đợi một giải pháp toàn bộ như vậy, người Việt hải ngoại thuộc hai cộng đồng bắc, nam vẫn có thể khởi đầu tiến trình hoà hợp bằng việc thực hiện một số công việc cụ thể có lợi cho chính cộng đồng của riêng mình, đó là tiêu diệt tội phạm trồng cần sa và buôn người dưới dạng xuất khẩu lao động phát xuất từ Việt Nam. Cũng trong những bài trước, độc giả đã thấy tội phạm trồng cần sa và buôn người của người Việt miền bắc đang là tại hoạ cho Âu châu, Canada và Úc. Người Việt thì biết rằng tệ trạng này đa số do người miền bắc chủ trì, nhưng đối với người sắc tộc khác thì họ không thể và cũng không cần biết các thủ phạm là người Việt miền nam hay miền bắc. Dưới con mắt họ, tất cả thủ phạm đều là “bọn” Việt Nam. Tại Âu Châu, Canada và Úc nơi tệ nạn người miền bắc trồng cần sa tràn lan, người Việt nói chung bị các sắc tộc khác rất coi thường, nếu không muốn dùng một từ mô tả đúng nghĩa là “khinh bỉ”. Thêm nữa tệ nạn trồng cần sa gây thiệt hại cho chính cộng đồng bởi vì với lợi tức to lớn kiếm được một cách dể dàng và nhanh chóng như thế, giới trẻ lớn lên sẽ bị ảnh hưởng xấu, không thích đi vào con đường học hành bởi vì học cho mấy cũng không thể kiếm được lợi tức như trồng cần sa. Tệ nạn này cũng gây thiệt hại cho hàng ngàn gia đình nghèo khổ ở quê nhà đang bị bọn mafia mà khởi đầu là chính quyền địa phương lừa bịp đưa sang Anh Quốc lao động khổ sai sống đời bất hợp pháp không biết ngày nào mới được giải thoát. Bởi vậy việc tiêu trừ nạn trồng cần sa và buôn người mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai cộng đồng. Chính điểm hội tụ lợi ích này có thể giúp hai cộng đồng cùng sinh tồn song hành và dần dần đi tới hoà hợp. Hiện nay, chỉ tại những quốc gia nhỏ bé, ít dân số tại bắc Âu, người Việt hai miền mới có giao thiệp với nhau, nhưng chỉ ở mức độ cá nhân với cá nhân chứ không ở trong một tổ chức chung. Tại những quốc gia đông dân như Anh, Pháp, Đức, Canada, Úc và Hoa Kỳ, hai cộng đồng người Việt bắc, nam hoàn toàn sống tách biệt nhau (chưa công khai đâm chém nhau là may rồi.) Việc cùng nhau hợp tác trong công tác tận diệt tội phạm trồng cần sa và buôn người cũng rất khó. Chỉ có một cách là mỗi cộng đồng thực hiện công tác đó theo phương cách riêng. Và rồi hy vọng theo thời gian hai cộng đồng dần dần tiến tới gần gũi nhau cùng với quá trình tiêu vong của đảng cộng sản cầm quyền trong nước. Dứt khoát không thể có hoà hợp giữa hai cộng đồng người Việt bắc, nam nếu cộng đồng miền bắc tiếp tục dung dưỡng, phát huy tội phạm trồng cần sa và buôn người từ Việt nam sang bất hợp pháp. Để thực hiện công tác tiêu diệt bọn tội phạm trồng cần sa và buôn người, việc đầu tiên là phải phổ biến mạnh mẽ chủ trương đó. Mỗi ban đại diện cộng đồng cần phải ghi vào chương trình hành động chủ trương chống tệ nạn trồng cần sa và buôn người. Việc phổ biến chủ trương này hết sức quan trọng cho việc thành công của công tác bởi vì đó là một tuyên chiến, một bày tỏ ý chí quyết liệt của cộng đồng chống lại bọn mafia, đầu gấu. Một khi cộng đồng bày tỏ sự quyết liệt thì đầu gấu phải e-dè. Cũng tương tự trong chiến lược chống cộng mà ông Brzezinski, cựu cố vấn an ninh quốc gia của tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter (1977-1981) chủ trương: Phải đánh gục ý chí và khả năng chống đối của đối phương (cộng sản). (1) Việc phổ biến chủ trương tiêu diệt bọn tội phạm trồng cần sa và buôn người sẽ đưa tới 3 hậu quả hữu ích: 1-Cơ quan công lực địa phương có thêm một chỗ dựa vững chắc vào quần chúng trong khu vực. Đây là điều cơ quan công lực nào cũng mong muốn và là điều cơ bản mang lại an ninh, trật tự. Tại Hoa Kỳ, ở những khu vực an toàn, thường thấy có sự hiện diện của những tổ chức “an ninh khu xóm” (neighborhood watch) do cảnh sát giúp xây dựng. Những tổ chức này là tai mắt cho cảnh sát và cảnh sát quyết tâm bảo vệ những tổ chức này. Tại những khu vực tội phạm gia tăng, cảnh sát cũng vận động dân chúng xây dựng và tham gia các tổ chức này để làm nền tảng cho công tác tiễu trừ tội phạm. 2-Các thành viên tốt trong cộng đồng sẽ không cảm thấy đơn độc và sẵn sàng tham gia vào việc tiêu trừ tội phạm. 3-Các tên tội phạm trồng cần sa hay buôn người sẽ bị đẩy vào một trong ba tình huống thụ động: hoặc thu nhỏ hoạt động, hoặc di chuyển hoạt động ra khỏi khu vực, hoặc tập trung lực lượng đương đầu với chiến dịch chống tội phạm của nhân viên công lực. Cả ba tình huống đều đẩy bọn chúng vào con đường tiêu vong. Việc phổ biến chủ trương chống tệ nạn trồng cần sa và buôn người cũng là thước đo khả năng phục vụ cộng đồng của thành phần đại diện, mà cũng là thước đo tầm mức mafia, đầu gấu không chế cộng đồng. Một ban đại diện không dám phổ biến chủ trương này chứng tỏ cộng đồng đang bị bị đám trùm mafia, đầu gấu không chế như trong tình trạng các trại tị nạn của người miền bắc ở Hồng Kông. Nếu tình trạng xấu này xảy ra thì cần có một vài cá nhân có tâm huyết bí mật thu thập tin tức cung cấp cho nhân viên công lực giúp nhân viên công lực tấn công vào thành trì của tội phạm. Song song với việc phổ biến chủ trương chống tệ nạn trồng cần sa và buôn người, ban đại diện cần có bộ phận liên lạc với chính quyền, cơ quan công lực, để đề nghị hợp tác và đề nghị những kế hoạch thiết thực. Chỉ có cơ quan công lực mới có tư cách pháp lý và phương tiện tiêu diệt tội phạm. Nhưng công việc đó chỉ thành công nếu có đủ tin tức tình báo. Lãnh vực này cần sự cộng tác của cộng đồng dân chúng liên hệ. Thiếu tin tức tình báo, thiếu sự hỗ trợ của dân chúng, nỗ lực chống tội phạm sẽ không thể thành công, cho dù đó chỉ là một việc đơn giản nhất, là xác định danh tánh một nạn nhân bị mafia sát hại, như trong những bài trước đã cho thấy. Tuy nhiên ban đại diện cộng đồng không nên và không thể đi vào công việc cụ thể như đặt đường giây nóng thu thập các báo cáo của thành viên cộng đồng hay cung cấp thông dịch viên như ban đại diện cộng đồng tại Balan đang thực hiện. (2) Lý do là không có gì chứng tỏ người được ban đại diện cộng đồng giao phó nhiệm vụ là người tốt hay không bị mafia đe dọa không chế. Nhất là tình trạng hiện nay băng đảng gốc Việt đang chế ngự hoàn toàn kỹ nghệ trồng cần sa trên khắp Âu châu, Canada và Úc. Đây cũng là nhận định của chị Mạc Việt Hồng, trong bài “Nhức nhối vấn nạn trồng cần sa ở Ba Lan” đăng trên Đàn Chim Việt ngày 22/02/10. Mạc Việt Hồng viết, “Ngay sau khi những vụ trồng cần sa đầu tiên bị đưa ra ánh sáng, hội Đoàn Kết Hữu Nghị và Đại Sứ Quán Việt Nam ở Ba lan đã họp bàn biện pháp đối phó với tệ nạn này. Số điện thoại của ông hội trưởng và ông Lãnh sự được thông báo tới cộng đồng để thu thập các tin báo liên quan tới vấn đề trồng cần sa. Điều đó cũng tốt, nhưng có lẽ nó không phải là một biện pháp hiệu quả. Ai có thể đảm bảo an toàn cho những người báo tin, chắc chắn không phải là ông chủ tịch hội hay ngài Lãnh sự.” Nhận định của chị Mạc Việt Hồng đúng với thực tế các viên chức nhà nước Việt nam: chính họ là thành phần mafia. Bởi thế ban đại diện cộng đồng chỉ nên đóng vai trò tư vấn cho chính quyền với những phân tích, nhận định về hiện tượng và chiến thuật đối phó. Ví dụ hiện tượng các chủ của những căn nhà có trồng cần sa là thủ phạm chính nhưng chúng tránh né được luật pháp nhân đạo của các nước văn minh bằng cách viết những khế ước cho thuê nhà giả mạo với tên và lý lịch người thuê không thực để tới khi bị phát hiện thì nhà chức trách không bắt được người thuê (có người thuê thực sự đâu mà bắt!) mà chỉ bắt được người làm công là những di dân bất hợp pháp, nạn nhân của bọn buôn người. Trong bài “Wales Cảnh Báo Chủ Nhà Về Tội Phạm Cần Sa” của ban Việt Ngữ đài BBC ngày 19/8/2009 tác giả viết nguyên văn, “Một trong những người cho thuê nhà bị dùng trồng cần sa nói nhà ông bị hư hại và phải sửa chữa mất 3.000 bảng Anh.” Bài báo viết tiếp, “Một chủ nhà muốn ẩn danh nói: “Tôi tưởng tôi cho bốn sinh viên thuê nhà và họ đã trả tiền thuê trước ba tháng. Chỉ khi cảnh sát thông báo thì tôi mới biết chuyện.” Thực sự ra người Việt Nam nào đọc tới đây cũng đều nghĩ ngay hầu như chắc chắn hai người chủ nhà này chính là thủ phạm đầu não lọt lưới pháp luật. Như vậy ban đại diện cộng đồng địa phương cần phải giải thích rõ sự lọt lưới này để nhà chức trách tìm cách đối phó hữu hiệu hơn. Một điều quan trọng thứ nhì là người phiên dịch không được cho gặp người cung cấp tin tức. Làm sao tin được rằng người phiên dịch không đang bị mafia áp chế hay chính người phiên dịch không là mafia? Có nhiều cách để người phiên dịch không trông thấy người cung cấp tin tức mà vẫn phiên dịch được. Cho tới nay thì ít ra hai yếu tố quan trọng này trong chiến dịch chống tội phạm trồng cần sa và buôn người trong cộng đồng Việt chưa được ban đại diện giải thích cho nhà chức trách. Bởi thế trong vụ mới nhất tại London, Anh Quốc, bọn chủ nhà đã không bị bắt mà còn được công ty bảo hiểm nhà đất bồi thường tiền sửa chữa những căn nhà do chính chúng thiết kế bên trong để trồng cần sa. Bản tin “Wales cảnh báo chủ nhà về tội phạm cần sa” ở trên viết rằng, “Cảnh sát khuyến cáo người có nhà cho thuê đề phòng cảnh giác nhà của họ bị dùng để sản xuất ma túy.” Bản tin viết tiếp, “…Người phát ngôn cảnh sát nói thêm: “Giới kinh doanh bất động sản, chủ nhà phải đề phỏng rủi ro thiệt hại lớn về tài sản từ hoạt động sản xuất này.” Nội dung tin như thế chứng tỏ cảnh sát xứ Wales không được cộng đồng người Việt tại đây hỗ trợ, cung cấp thông tin cho biết rằng chính chủ nhà là kẻ chủ mưu trong tất cả mọi cơ sở trồng cần sa. Chủ trương thì phải công khai nhưng kế hoạch thì cần bí mật. Chống tội phạm nhất là loại tội phạm có tổ chức (organized crime) cần phải hết sức bí mật như là chống mạng lưới khủng bố. Lực lượng tấn công bọn tội phạm phải là nhân viên công lực chứ không phải là quần chúng. Nhưng như trong mọi cuộc tấn công quân sự, tin tức tình báo là quan trọng hàng đầu. Trong binh pháp gọi đó là tình báo chiến. Tin tức tình báo chính xác quyết định sự thành công của chiến dịch. Chính trong lãnh vực này, các thành viên cộng đồng có thể đóng góp một cách hữu hiệu. Để có những tin tức tình báo tốt, nguồn tin tình báo cần được bảo vệ hoàn toàn bí mật. Bởi thế người cung cấp thông tin cần được hướng dẫn liên lạc trực tiếp với cảnh sát chứ không với một ai khác, cho dù đó là ông hội trưởng cộng đồng hay ông tổng lãnh sự. Tác giả Mạc Việt Hồng đã tỏ ra am tường tình trạng tội phạm trồng cần sa của người Việt tại Ba Lan khi bà viết, “Thiết nghĩ, việc hướng dẫn cộng đồng báo tin trực tiếp cho cơ quan cảnh sát có lẽ sẽ là giải pháp hiệu quả và an toàn hơn?” Các thành viên tốt trong cộng đồng cần nhận thức rằng việc tham gia vào công tác tiêu trừ tội phạm trồng cần sa và buôn người là một công tác quan trọng mang lại an ninh cho chính gia đình mình. Như tôi đã trình bày, trong suốt 3 năm 8 tháng, tôi tích cực tham gia mọi sinh hoạt cộng đồng tại trại cấm Hồng Kông và Bataan ở Philippines là vì tôi ý thức được rằng, nếu mình không đóng góp vào việc duy trì an ninh trong trại thì không sớm thì muộn an ninh bản thân và gia đình sẽ bị đe dọa. Sự tích cực của cá nhân tôi và những người suy nghĩ, hành động như tôi đã chứng tỏ là một suy nghĩ và hành động đúng khi trong suốt gần bốn năm, tại những trại tị nạn tôi trải qua, không có một xung đột nào giữa hai cộng đồng thuyền nhân bắc, nam. Trong khi ở những trại khác thì bạo động gây thương vong tràn lan. Tùy hoàn cảnh, mà hình thức và mức độ đóng góp của mỗi thành viên có thể khác nhau. Bản chất tin tức tình báo của quần chúng khác bản chất một tin tức tình báo chuyên nghiệp. Tin tức tình báo của quần chúng không phải luôn luôn cần đầy đủ. Mọi mảnh tin tức đều hữu ích cho nhân viên công lực. Có nghĩa là mọi cố gắng lớn nhỏ của tất cả mọi thành viên cộng đồng đều đóng góp vào việc xây dựng an ninh chung. Nỗ lực thu thập tin tức tình báo về bọn trồng cần sa và buôn người không cần sự kết hợp của nhiều người. Sự kết hợp của trên hai người nhiều khi mang lại sự nguy hiểm cho bản thân. Chỉ cần những cố gắng đơn độc, âm thầm cũng giúp tiêu diệt tận gốc rễ tội phạm. Nếu trong một cộng đồng có được hai hay ba cá nhân bí mật thu thập tin tức tội phạm một cách riêng biệt cũng đủ xóa sạch bọn tội phạm trong thời gian ngắn. Thậm chí chỉ cần có một người thực hiện cố gắng này cũng giúp truy quét bọn tội phạm. Câu chuyện một cá nhân thu thập tin tức giúp nhân viên công lực chống tệ nạn buôn người tại Kampuchia dưới đây là một ví dụ. Trong bản tin “Người đàn ông bí mật chống tệ nạn nô lệ tình dục trẻ em” (Man goes undercover to combat child sex slavery) của CNN ngày 9/2/2010, tác giả Leif Coorlim viết, “Phnom Penh, Cambodia (CNN) — Aaron Cohen hoạt động bí mật thu thập tin tức cần thiết cho nhân viên công lực thực hiện các cuộc đột kích và bắt giữ…Tôi hoạt động như là kẻ tội phạm tình dục bí mật…Tôi giả dạng làm một du khách tình dục, đi từ quán karaoke này tới quán karaoke khác, từ nhà đấm bóp này tới nhà đấm bóp khác, tìm các thiếu nữ phục vụ vị thành niên, để xem liệu có thể thu hình lúc họ gạ gẫm tôi chơi bời hay không.” Bài báo viết tiếp, “Cohen cho biết ông ta mời nhiều người bạn làm việc tại gần nơi ở của các nạn nhân tới tham gia. Họ cũng giả dạng là những người đi mua vui, cho tới khi Cohen cảm thấy thoải mái hỏi người quản lý quán bar một câu quan trọng. “Sau khi các cô gái này bắt đầu ca múa, tôi hỏi người chăn dắt gái là ngoài karaoke tôi có thể có thêm gì vui không thì bà ta trả lời ngay, “Ồ! chơi bời thì $50 đô Mỹ.” Cohen đã dùng đoạn phim thu hình cảnh gạ gẫm tối hôm đó, thu bằng máy điện thoại di động, để cung cấp cho cảnh sát những tin tức giúp họ thực hiện cuộc bố ráp nhà chứa gái giả nhà hát Karaoke đó. Ngay đêm đó hơn một chục cô gái được giải thoát…” Công việc tiêu diệt tệ nạn trồng cần sa và buôn người của bọn mafia, đầu gấu cũng cần được cộng đồng thực hiện như trong đoạn báo vừa nêu. Đó là hoạt động vừa mang lại lợi ích cho chính gia đình mình, cho cộng đồng mình, và cho người Việt hải ngoại nói chung. Đó chính là con đường dần dần đi tới hòa hợp nam bắc tại hải ngoại. Nguyễn Tường Tâm Đàn Chim Việt Online 2010 __________________________ Ghi chú: danh từ “Người miền bắc” trong loạt bài này chỉ những người bắc còn ở lại Hà nội sau năm 1954 và những người vào miền nam sau ngày 30-4-1975, kể cả con cháu họ, cho dù sinh trưởng tại miền nam sau đó.
Phần trước: Nam Bắc phân tranh sau 1975 [1] Nam Bắc phân tranh sau 1975 [2] Nam Bắc phân tranh sau 1975 [3] Nam Bắc phân tranh sau 1975 [4] Nam Bắc phân tranh sau 1975 [5] Nam Bắc phân tranh sau 1975 [6] (1): tác giả đọc được chiến lược này của ông Brzezinski trong một bài báo của cộng sản chỉ trích ông ta khi tác giả còn ở trong tù cải tạo vào đầu thập niên 1980. (2) “Nhức nhối vấn nạn trồng cần sa ở Ba Lan” đăng trên Đàn Chim Việt ngày 22/02/10, của chị Mạc Việt Hồng.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 30, 2012 9:01:59 GMT 9
Trận Thường Ðức, cuộc thư hùng Nam-Bắc cuối cùng
* Vann Phan
Dẫn nhập
Mặc dù trận đánh tại Thường Ðức (từ ngày 15 Tháng Tám đến ngày 8 Tháng Mười Một năm 1974), cũng như trận Long Khánh hồi Tháng Tư năm 1975, không phải là trận đánh sau hết trong Chiến Tranh Việt Nam, nhưng đây phải được coi là cuộc đọ sức cuối cùng trong số hằng trăm, hằng nghìn trận thư hùng lớn, nhỏ của quân đội hai miền Nam-Bắc, một trận Ðiện Biên Phủ khác trên chiến trường Việt Nam mà kẻ chiến thắng là Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa.
Có nhiều lý do dẫn tới nhận định trên:
1. Lý do thứ nhất là mức độ dữ dội của trận đánh tại Thường Ðức khi chưa bao giờ có đông đến như thế các lực lượng tham chiến và hỏa lực tập trung của cả hai bên trên một chiến trường nhỏ hẹp chỉ gồm có ngọn Ðồi 1062 và các đồi phụ chung quanh với cao điểm trận đánh kéo dài chưa đầy một tháng.
2. Lý do thứ hai là trận đánh này, dù mức độ ác liệt chỉ thua sút có trận Cổ Thành Quảng Trị và trận An Lộc, lại không được nhiều người biết đến do địa thế hẻo lánh của vùng giao tranh (giáp giới với vùng Hạ Lào) và do tình hình chính trị vào những ngày cuối của cuộc Chiến Tranh Việt Nam quá sôi động khiến báo chí Tây phương, vốn rất ồn ào, không đưa tin đúng mức vì họ không kịp hiểu hết tầm mức quan trọng của trận đánh mang ý nghĩa của một “cuộc thăm dò khả năng chiến đấu một mình” của quân đội miền Nam Việt Nam chống lại các lực lượng Cộng Sản sau khi quân chiến đấu Hoa Kỳ đã rút về nước.
3. Lý do thứ ba là số lượng cao của các lực lượng tinh nhuệ tham chiến: Quân đội Nhân dân Cộng Sản Bắc Việt có Sư đoàn 304 Ðiện Biên cùng Sư đoàn 324B và Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có Sư Ðoàn Nhảy Dù.
4. Lý do thứ tư là cán cân thăng bằng về hỏa lực và nhân sự giữa đôi bên coi như đã được tái lập sau khi sau khi các lực lượng chiến đấu của Hoa Kỳ đã thực sự rút lui khỏi chiến trường, đem theo luôn sức yểm trợ mạnh mẽ của máy bay oanh tạc và hải pháo của Không Quân, Hải Quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ, trong khi, về mặt súng nặng, quân Bắc Việt đã đưa vào sử dụng một số trọng pháo tân tiến chưa thấy dùng trong Mùa Hè Ðỏ Lửa cách đó hơn hai năm. (Yếu tố này được đề cập tới để các nhà viết quân sử không còn lý do nào để bảo rằng Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa có ưu thế về hỏa lực trong mọi trân đánh so với Quân đội Nhân dân Cộng Sản Bắc Việt.)
5. Lý do sau cùng là lòng quyết chiến, quyết thắng của cả đôi bên trong trận đánh khi Sư đoàn 304 Ðiện Biên, sau khi đã chiếm được Quận lỵ Thường Ðức và ngọn Ðồi 1062, một cao điểm chiến lược cực kỳ hung hiểm, chính thức thách đấu vời Sư Ðoàn Nhảy Dù để phân định cao thấp trong một trận đánh mà từ thời điểm cho tới chiến trường đều do họ chọn lựa.
Một số tài liệu về trận đánh này cho biết chính Cộng quân đã dùng giàn thun bắn thư rơi khiêu chiến, “thách ‘Ngụy’ Dù lên đánh”. Phải biết rằng phe Cộng Sản vẫn hết sức ấm ức khi đành chấp nhận thảm bại trong trận chiến Cổ Thành Quảng Trị hồi Mùa Hè năm 1972 sau khi bị các lực lượng Thủy Quân Lục Chiến và Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, có sự yểm trợ của hỏa lực hùng hậu của Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến và Không Quân Hoa Kỳ, đánh cho tan tác, để rồi các lực lượng “Bộ đội Cụ Hồ” tinh nhuệ dưới quyền Tướng Võ Nguyên Giáp tham chiến đành phải rút lui “không còn manh giáp”. (1)
Với các lý do được kể ra ở trên, chiến thắng của các lực lượng Nhảy Dù trước quân Cộng Sản phải được coi là hết sức oanh liệt và dứt khoát. Sau gần ba tháng trời, trận đánh kết thúc với việc các lực lượng Nhảy Dù của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa - dưới quyền chỉ huy tổng quát của các Tướng Ngô Quang Trưởng và Lê Quang Lưỡng - tiêu diệt gần như toàn bộ các lực lượng tham chiến của Cộng Sản Bắc Việt bên trong và chung quanh ngọn đồi chiến lược 1062, khẳng định trước các nhà viết Quân sử thế giới tính ưu việt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa so với Quân Ðội Nhân Dân Cộng Sản Bắc Việt. (2)
Bài viết này được thực hiện dựa trên tài liệu nhan đề “33 Năm Nhớ Về Mặt Trận Thường Ðức” của Ðại Úy Võ Trung Tín và Ðại Úy Nguyễn Hữu Viên, cả hai đều là sĩ quan của lực lượng Nhảy Dù, và đã được phổ biến rộng rãi trên mạng lưới điện toán từ Tháng Mười Một năm 2008.
Bối cảnh chiến trận
Trong phần nhận định tổng quát về bối cảnh cuộc chiến, các tác giả viết:
“Sau khi Hiệp Ðịnh Paris được ký kết vào cuối Tháng Giêng 1973, tình hình chiến cuộc Việt Nam tạm lắng dịu... Vào những tháng cuối năm 1974, sau khi trao đổi tù binh với Hoa Kỳ xong xuôi, [Cộng Sản] Bắc Việt không ngần ngại bắt đầu vi phạm Hiệp Ðịnh Ba Lê để thực hiện ý đồ xâm lăng thôn tính Miền Nam bằng võ lực...”
“Song song với việc Cộng Sản Bắc Việt mở mặt trận lớn đầu tiên tại Vùng 1 Chiến Thuật với ý đồ cầm chân các đơn vị Tổng Trừ Bị của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đồng thời ào ạt di chuyển bộ đội trên đường mòn Hồ Chí Minh vào các Quân Khu 2 và 3, hai Sư đoàn 304 và 324B Bắc Việt, cùng các Trung đoàn Pháo, Chiến xa bất thần đánh chiếm quận Thường Ðức thuộc tỉnh Quảng Nam là một điểm chiến lược nhờ địa thế núi rừng hiểm trở...”
“Ðịa hình Thường Ðức rất hiểm yếu, ba bề là núi cao, có nhiều dốc dựng đứng. Phía Ðông bằng phẳng, từ quận Ðiện Bàn trên giao điểm Quốc Lộ 1, Liên Tỉnh Lộ 4 chạy dọc theo Sông Vu Gia dẫn vào Thường Ðức nằm ngay ngã tư Liên Tỉnh Lộ 4 và Quốc Lộ 14 và cũng là nơi hợp lưu của hai con Sông Côn và Sông Vu Gia nước sâu, chạy dài từ Tây sang Ðông. Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa cho thành lập quận này nhằm cắt đứt con đường 14, không cho Cộng quân sử dụng để di chuyển vào Nam...”
Nói đến các động lực dẫn đến việc Cộng Sản Bắc Việt xua quân lấn chiếm Chi Khu Thường Ðức và việc Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, Tư Lệnh Quân Ðoàn I và Vùng I Chiến Thuật, giao cho Sư Ðoàn Nhảy Dù trọng trách tái chiếm quận này, các tác giả viết:
“Về mặt chiến lược, Thường Ðức là một vị trí quan trọng xuất phát các cuộc hành quân trinh sát [của các lực lượng Việt Nam Cộng Hòa], khống chế con đường tiếp liệu Trường Sơn Ðông mà Cộng Sản Bắc Việt vừa mới khai dựng sau ngày ký hiệp định 27/1/1973. Từ phía Bắc, quân dụng và chiến cụ theo đường mòn Hồ Chí Minh đưa từ A Lưới đến A-Shau qua Trào, đến Bến Giàng nằm trên Liên Tỉnh Lộ 4 cách Thường Ðức không xa. Tại đây quân CSBV có những kho lẳm tồn trữ quân dụng tiếp tế cho mặt trận Quân Khu Năm.”
“Về chính trị, với việc chiếm đóng Thường Ðức, Hà Nội có thể đánh giá được phản ứng của Hoa Kỳ và khả năng viện trợ quân sự cho Sàigòn. Về quân sự, Hà Nội có thể đánh giá khả năng phản kích, cơ động và hỏa lực yểm trợ chủ lực VNCH ở Quân Khu 1, đặc biệt là các lực lượng Tổng Trừ Bị cơ động chiến lược (Nhảy Dù).”
“Ðối với Việt Nam Cộng Hòa, trận chiến Thường Ðức đánh dấu việc vi phạm ngưng bắn của CSBV đã đến một mức độ nghiêm trọng mới. Thường Ðức trở thành Quận lỵ đầu tiên của VNCH rơi vào tay Cộng Sản sau ngày ngưng bắn. Ðại Lộc và Ðà Nẵng [nơi đặt bản doanh của Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I, Vùng 1 Chiến Thuật] sẽ bị đe dọa nghiêm trọng từ hướng Tây chỉ cách thung lũng sông Vu Gia.”
Các tác giả liệt kê lực lượng địch và bạn tham chiến như sau:
Lực lượng địch tham chiến gồm có:
- Sư đoàn 324B gồm các Trung đoàn 29, Trung đoàn 6 và Trung đoàn 803 di chuyển từ phía Tây tỉnh Quảng Trị xuống tỉnh Quảng Nam;
- Sư đoàn 304 Ðiện Biên, Tư lệnh là Trướng Công Phê, Chính ủy là Trần Bình chỉ huy trực tiếp trận chiến, gồm 3 Trung đoàn 66, 24 và 36 vừa tham gia trận đánh chiếm căn cứ Dak Pek ở phía Bắc tỉnh Kontum vào giữa Tháng Năm đã bí mật di chuyển vào khu vực Thường Ðức;
- Trung đoàn 31 thuộc Sư đoàn 2 CSBV tăng viện vào lúc cuối trận chiến;
- 2 tiểu đoàn bộ đội địa phương Quảng Ðà;
- Một Trung đoàn Pháo và Trung đoàn Chiến Xa...
(Các tác giả cũng ghi nhận rằng, về mặt súng nặng, các lực lượng Cộng Sản Bắc Việt đã đưa vào sử dụng loại súng cối 160 ly có sức công phá lớn, ngoài các loại vũ khí nặng khác mà họ từng sử dụng trong trận chiến như hỏa tiễn 122 ly, sơn pháo 130 ly, pháo 105 ly, pháo 85 ly, cối 82 ly và cối 61 ly.)
“Lực lượng bạn:
- Tiểu Ðoàn 79 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng;
- Hai Ðại Ðội Ðịa Phương Quân;
- Một Ðại Ðội Cảnh Sát Dã Chiến;
- Một Trung Ðội Viễn Thám;
- 16 Trung Ðội Nghĩa Quân;
- Lữ Ðoàn 1 Nhảy Dù do Trung Tá Nguyễn Văn Ðỉnh làm Lữ Ðoàn Trưởng, gồm 3 Tiểu Ðoàn 1, 8, 9 Nhảy Dù và Tiểu Ðoàn 1 Pháo Binh Nhảy Dù;
- Lữ Ðoàn 3 Nhảy Dù do Trung Tá Lê Văn Phát làm Lữ Ðoàn Trưởng, gồm 3 Tiểu Ðoàn 2, 3, 6 Nhảy Dù và Tiểu Ðoàn 2 Pháo Binh Nhảy Dù.
Một số diễn tiến tiêu biểu trong trận Thường Ðức
Về diễn tiến các cuộc giao tranh vô cùng ác liệt trong trận Thường Ðức, nhất là trận đánh để tái chiếm Ðồi 1062 đã lọt vào tay Cộng Quân sau khi họ tràn ngập Chi Khu Thượng Ðức ngày 7 Tháng Tám năm 1974, xin trích dẫn một đoạn tiêu biểu trong bài viết của hai tác giả Võ Trung Tín và Nguyễn Hữu Viên:
“Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù tấn công 1062:
Trời sẫm tối, chờ bắt tay với Tiểu Ðoàn 9 không được, Ðại Ðội 11 phải tạm đóng quân đêm tại B và B1. Ðêm đó, đặc công địch bò trở lại đột kích B1 bằng B-40 rồi bỏ chạy. Chuẩn Úy Tuyến, Trung Ðội Trưởng, bị hy sinh. Sáng hôm sau, 20/8/1974, địch pháo kích mạnh mẽ bằng đạn 122 ly vào B và B1 nhưng không chính xác nên [ta] không bị tổn thất. Khoảng 11 giờ trưa, Thiếu Tá Quý và Ðại Ðội 14 bắt tay với Tiểu Ðoàn 9 cũng xuất hiện và đóng chốt tại B2.
Kế đó, TÐ1ND tiếp tục tiến về cứ điểm C, một tiền đồn mạnh mẽ của quân CS Bắc Việt. Ðại Ðội 14 đi đầu và chạm địch. Thiếu Tá Nguyễn Văn Quý đi với cánh quân bọc hậu là Ðại Ðội 11 của Ðại Úy Thế. Một phần vì địa thế hiểm trở, thêm vào đó yếu tố bất ngờ không còn nữa. Ðịch đã chuẩn bị sẵn sàng với hầm hố kiên cố để đón Ðại Ðội 14. Lại thêm rừng cây cổ thụ cao lớn, ta sử dụng pháo binh rất khó vì sợ đạn chạm ngọn cây nổ từ cao gây thương tích cho quân bạn...
Sau [3 ngày cầm cự] khi địch tháo chạy vì sự tấn công quá dũng mãnh của các chiến sĩ thiện chiến Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù, hai Ðại Ðội 11 và 14 chia nhau bố trí lập vị trí phòng thủ sơ khởi để ngăn ngừa địch phản công. Một trận mưa cối sơn pháo 130 ly của Bắc quân bủa xuống, tiếng nổ vang khắp rừng già, khói phủ mù mịt trân địa. Nhờ bung rộng ra và hầm hố kiên cố của địch để lại, nên binh sĩ ta tránh được thiệt hại nặng nề bởi trận mưa pháo tập trung và chính xác này.
Càng tiến gần về 1062, địa thế càng hiểm trở, rừng rậm rạp hơn, cây to nhiều hơn, sườn dốc đứng hơn. Từ cứ điểm C nhìn lên mục tiêu, ở cao hơn 2 vòng cao độ (theo bản đồ quân sự tương đương 20 thước). Cách xa chừng 150 thước, ta thấy rõ địch đang lố nhố chạy tới, chạy lui tăng cường phòng thủ. Thiếu Tá Quý gọi xin pháo binh bắn “cắm chỉ” lên mục tiêu đó ngày và đêm. Ðây được gọi là mục tiêu D, một trong 5 đỉnh của 1062. Giữa C và D là một thung lũng (eo yên ngựa) sâu khoảng hơn 20 thước. Như vậy, quân ta nếu tấn công mục tiêu D, ít nhất phải vượt lên một dốc đứng cao tới hơn 40 thước. Từ D, địch thỉnh thoảng bắn trực xạ bằng đại bác và thượng liên xuống mục tiêu D, nhưng không gây thiệt hại đáng kể nào cho quân bạn.
Lúc này Tiểu Ðoàn 8 và 9 còn cách quá xa 1062, chỉ có Tiểu Ðoàn 1 là gần và đang ở cao địa, không ai bảo vệ cạnh sườn để tiếp ứng kịp thời. Ðịa thế địch hiểm trở, dễ thủ, khó công. Ðịch chuẩn bị chiến trường đợi ta với những trận địa pháo và hầm hố kiên cố. Ðỉnh 1062 có 5 đỉnh nhỏ. Năm đỉnh nhỏ này nằm theo thế liên hoàn, yểm trợ cho nhau bằng hỏa lực dễ dàng. Diện tích rộng khoảng 2 đại đội mới bao phủ nổi.
Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù quyết định đột kích đêm và lợi dụng gió Ðông làm một trận hỏa công. Lực lượng xung kích gồm 2 Trung Ðội với Thiếu Úy Lê Văn Bá chỉ huy một Trung Ðội thuộc Ðại Ðội 14 và Thiếu Úy Trần Thanh Quang chỉ huy một Trung Ðội của Ðại Ðội 11... Ðại Ðội 11 làm thành phần trừ bị sẵn sàng tiếp ứng kịp thời cho lực lượng tấn công... Hỏa lực yểm trợ gồm súng cối 60 ly và 81 ly đã được chuẩn bị yếu tố tác xạ sẵn sàng.
Sáu giờ chiều, ánh sáng mặt trời trong rừng già đã tắt hẳn. Hai Trung Ðội bắt đầu xuất phát. Thiếu Úy Quang dẫn Trung Ðội đi bên trái, Trung Ðội của Thiếu Úy Bá bên phải. Họ giữ đội hình đi song song và cách nhau khoảng từ 30 đến 40 thước. Pháo binh 105ly của ta vẫn đều đều bắn cắm chỉ trên mục tiêu để địch lo trốn trong hầm, không ngóc đầu lên quan sat quân ta đang di chuyển. Một giờ, hai giờ, rồi ba giờ trôi qua.
Tình hình vẫn yên tĩnh, một thứ yên lặng ngộp thở, vì mọi người đều lo cho số phận của đồng đội mình. Hệ thống liên lạc vẫn tốt. Thiếu Úy Quang thì thầm trong máy:
- Rất gần địch, tiếng chửi thề của chúng nó nghe rõ mồn một, Ðích Thân.
- Ðược! Cẩn thận nghe Quang! Thiếu Tá Quý trả lời nho nhỏ trong máy với gọng Huế chay.
Bỗng nghe một loat đạn nổ bên phải rồi im lặng. Pháo binh [ta] ngưng tác xa, hai cánh quân vừa bắn vừa hô xung phong vang rền cả núi rừng hoang vu. Lửa bắt đầu cháy trên mục tiêu, nhiều nhất là bên cánh Thiếu Úy Quang. Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù xin Pháo Binh chuyển tác xạ về hướng Tây để bắn chận quân địch. Tiếng của Quang vang trong máy:
- Chiếm được đỉnh rồi, Ðích Thân! Hầm quá nhiều và kiên cố, làm toàn bằng cây to. Mấy đứa con đang bung rộng chờ cánh quân bên phải!
Trời tối đen như mực, vẫn chưa liên lạc được Thiếu Úy Bá. Mười lăm phút sau, Thiếu Tá Quý đứng dưới mục tiêu C thấy trên D có từng cụm lửa lóe lên chen lẫn trận địa pháo bằng súng cối sơn pháo 130 ly của địch.
Tiếng của Quang vang lên trong máy:
- Chúng pháo dữ dội quá, Ðích Thân, nhưng hầm hố kiên cố, không sao!
“Rồi hàng loạt tiếng đạn AK-47 kêu rít, tiếng Quang hét trong máy:
-Chúng nó phản công, đông lắm! Cho Pháo Binh bắn trên đầu tôi, tụi nó đông như kiến! Mau lên! Pháo! Pháo mau lên!
“Ban đêm tời tối, Ðại Ðội 11 trừ bị cho Quang và Bá đang ở lưng đồi yên ngựa. Trung Ðội Thiếu Úy Bá thì không liên lạc được ngay từ loạt đạn đầu, sau này mới biết được là Bá và 4 binh sĩ đã hy sinh vì mìn Claymore... ngay từ lúc đó.
“Thiếu Tá Ngô Tùng Châu (Tiểu Ðoàn Trưởng) bảo Quý:
- Nếu thấy không được thì bảo Quang rút về, đừng hy sinh nhiều, ta sẽ tìm cách khác.
“Nhưng Quang không nghe lệnh (hoặc không thể nghe lệnh!). Hai Trung Ðội đột kích của Tiểu Ðoàn 1 Nhảy Dù đã gặp sự kháng cự phản công quá mãnh liệt, quân số địch rất đông. Từ đỉnh cao, khe núi, và các địa đạo trong rừng cây ùa ra như đàn ong vỡ tổ! Lính Nhảy Dù rỉa bắn không nghỉ tay. Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với quân Cộng Sản Bắc Việt. Thiếu úy Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D...
“Các đạn pháo CVT đã sát hại 10 phần địch và 3 phần quân bạn. Xác địch và ta nằm ngổn ngang trên đỉnh Ðồi 1062. Trung Ðội của Thiếu Úy Quang có 15 chiến sĩ anh dũng hy sinh...”
Mức độ hy sinh không bờ bến của các chiến sĩ Nhảy Dù:
Về những hy sinh to lớn của các chiến sĩ Nhảy Dù tại mặt trận Thường Ðức như sự hy sinh vừa kể của Thiếu Úy Quang và 15 chiến sĩ thuộc trung đội dưới quyền của vị sĩ quan này, các tác giả viết: “'Cái giá' để chiếm được Ðồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm Tiểu Ðoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Võ Thanh Ðồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm.”
Trong phạm vi của bài viết ngày hôm nay, chỉ xin trích dẫn một vài đoạn tiêu biểu trong bài viết của hai tác giả đã được đề cập tới, nói lên những gai lửa của trận chiến cùng những hy sinh, gian khổ không bút mực nào tả xiết mà các chiến sĩ Nhảy Dù đã cống hiến cho dân chúng miền Nam Việt Nam, chỉ với một mục đích không hề lay chuyển của Sư Ðoàn bách chiến, bách thắng này là bảo vệ sự vẹn toàn lãnh thổ của miền Nam tự do trước cuộc tấn công xâm lược điên cuồng của Cộng Sản Bắc Việt, có sự yểm trợ tối đa của Cộng Sản Quốc Tế và sự đồng lõa, cố ý cũng có mà vô tình cũng có, của phần còn lại của thế giới hồi các thập niên 1950, 1960 và 1970 trong thế kỷ trước.
“Trước khi gần hết đạn, Quang gọi Thiếu Tá Quý phải kêu Pháo Binh bắn đạn nổ chụp ngay trên đầu thí quân, quyết liều sống chết với Cộng Sản Bắc Việt. Thiếu Úy Quang đã tập trung đạn của các binh sĩ bị thương, bảo họ rút, còn Quang thì ở lại bắn tới hết đạn và anh dũng hy sinh trên mục tiêu D (đã trích dẫn)... Một quả lựu đạn đã rơi trúng nơi trú ẩn của Thiếu Úy Ðoàn Tấn và Chuẩn Úy Ðến thuộc Ðại Ðội 81 khiến hai anh bị thương vong. Lúc quả lựu đạn vừa rơi tới, Thiếu Úy Tấn định nhào lại lấy thân mình che cho đồng đội, nhưng không kịp nữa...
Thiếu Tá Vân nghe tiếng Ðại Úy Ðàng hét trong máy xin pháo binh và phi cơ bắn lên đỉnh đồi, vì địch đã tràn ngập! Hai bên phải đánh cận chiến bằng lưỡi lê và lựu đạn, nhưng địch nhiều quá, cứ liều chết nhào tới tấn công. Ðại Úy Ðàng và anh em trong Ðại Ðội cầm cự, xông xáo, tả xung, hữu đột, người nào trên mình cũng bị nhiều vết thương, áo ướt đầy máu. Ðàng nguyên là cận vệ của Trung Tướng Nguyễn Viết Thanh.
Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn gọi 3 phi tuần khu trục giội bom napalm xuống đốt cháy sườn đồi. Sau đó, từng đợt pháo binh bắn hỏa tập trợ chiến. Sau khi pháo dứt, những cán binh Bắc Việt lại tràn lên thấy Ðàng bị thương nặng còn ngất ngư vì trúng nhiều mảnh, anh dùng hơi tàn rút súng định tự sát, thì người anh bị ghim như lông nhím. Ðàng ngồi chết trân mà đôi mắt hãy còn trợn trừng không khuất phục... Ðại Ðội 34 của Trung Úy Thư, lên tiếp ứng thì gặp địch tràn tới đánh tơi bời thật hung hiểm vô cùng! Ðịch hô: “Hàng sống, chống chết,” nhưng Thư cứ hăng máu lấy AR-15 quạt và kêu pháo binh bắn đạn nổ chụp lên đầu để cùng chết chung với 5 phần địch 1 phần bạn. Một mình Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù mà phải cầm cự với cả Trung đoàn của Sư đoàn 304 [Ðiện Biên], địch cho các đơn vị thay phiên tấn công gần một ngày. Các sĩ quan dũng mãnh của Tiểu Ðoàn 3 Nhảy Dù như Ðại Úy Phạm Văn Thư, Thiếu Úy Tô Văn Nhị đã gọi pháo binh bắn lên đầu để cùng chết chung với hằng trăm xác địch...”
Về con số các chiến sĩ Nhảy Dù Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong chiến dịch kéo dài gần ba tháng trời tại Thường Ðức, thiết tưởng cũng chỉ cần nêu tên một số các sĩ quan ưu tú Dù đã bỏ mình trong trận chiến này -thêm vào con số hằng trăm, hằng nghìn chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuộc nhiều quân, binh chủng đã bỏ mình trong trận đánh- cũng đủ thấy mức độ hy sinh to lớn của tập thể chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến bảo vệ miền Nam tự do trước đây, theo đúng nghĩa của tinh thần thượng võ và khí phách “chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.”
Qua bài viết của hai tác giả “35 Năm Nhớ về Mặt Trận Thường Ðức,” các sĩ quan Nhảy Dù sau đây đã bỏ mình ngay trên chiến trường: Thiếu Úy Hoàng Văn Tiến, Thiếu Úy Nghiêm Sĩ Thành, Chuẩn Úy Tuyến, Thiếu Úy Quang, Trung Úy Bằng, Trung Úy Khánh (Truyền Tin), Thiếu Úy Ðoàn Tấn, Chuẩn Úy Ðến, Trung Úy Vũ Ðức Tiềm, Ðại Úy Ngụy Văn Ðàng, Trung Úy Phạm Văn Thư, Thiếu Úy Tô Văn Nhị, Chuẩn Úy Bảo, Trung Úy Thịnh, Thiếu Úy Trần Ðại Thanh, Thiếu Úy Lê Hải Bằng... Một số sĩ quan khác có thể cũng đã tử trận trong chiến dịch tái chiếm Thường Ðức, mà vì lý do này hay lý do khác, đã không thấy được kể tên. Dĩ nhiên là con số Hạ Sĩ Quan và Binh Sĩ Thiên Thần Mũ Ðỏ hy sinh trong trận này còn cao hơn nhiều so vối số các sĩ quan tử trận.
Trận Thường Ðức ác liệt không thể tưởng
Sau hết, về cường độ các cuộc giao tranh và mức độ ác liệt của trận chiến Thường Ðức, hai tác giả đã đưa ra các nhận định sau đây trong bài viết của họ:
“Ðỉnh 1062 là một nấm mồ tập thể khổng lồ, chôn không biết bao nhiêu sinh mạng của cả hai bên. Mỗi khi quân ta vừa chiếm được 1062, thì lập tức địch dội pháo, điên cuồng xông lên quyết chiếm lại cho bằng được. Cả hai bên mất đi, giành lại đỉnh 1062 nhiều lần... 'Cái giá' để chiếm được Ðồi 1062 thực sự là một cái giá rất cao, cao nhất của chiến trận mà các chiến sĩ Dù đã gặp phải từ trước tới nay. Năm tiểu đoàn Dù bị tổn thất nặng, nặng nhất là Tiểu Ðoàn 3 của Thiếu Tá Võ Thanh Ðồng, quân số hao hụt gần 50 phần trăm (đã trích dẫn)...
Gần một tháng quần thảo, ta và địch đều bị tổn thất nặng quanh đỉnh 1062. Chiếm xong lại mất, mất rồi thì chiếm lại bằng mọi giá... Vào giờ này, lực lượng địch bu quanh 1062 dày đặc như ruồi bu quanh viên kẹo... Cối 75 ly và sơn pháo của địch từ những cao độ phía Tây Bắc bắn từng nhịp 4 trái, và bộ đội Bắc Việt từ hướng đó đồng loạt tiến vào. Cộng quân dùng chiến thuật biển người, chẳng điều động, ẩn núp gì cả. Lính Nhảy Dù đồng đứng dậy khỏi giao thông hào bắn trả mãnh liệt. Súng bắn không cần nhắm. Lựu đạn ném không cần lấy đà. Hàng hàng, lớp lớp Cộng quân rơi rụng...”
Theo lời hai tác giả, tổn thất chung cuộc của ta và địch sau ba tháng giao tranh là như sau:
“Từ khi khởi đầu chiến dịch Thường Ðức vào ngày 15 Tháng Tám, liên tục trong 3 tháng chiến đấu ác liệt quanh khu vực Ðồi 1062, các đơn vị Nhảy Dù đã thiệt hại đến 50 phần trăm quân số, với gần 500 chết và 2,000 bị thương. Sư Ðoàn Nhảy Dù sử dụng luân phiên tổng cộng 7 Tiểu Ðoàn trong chiến dịch này, và đến giữa Tháng Mười Một có đến 6 Tiểu Ðoàn hoạt động trong khu vực Ðồi 1062.”
“Ba Trung đoàn Cộng Sản Bắc Việt (24, 29, 66) gần như bị xóa tên với 2,000 bộ đội chết và 5,000 bị thương...”
“Cả hai bên đều kiệt sức sau một chiến dịch đẫm máu.” (Tài liệu: Col. William E. LeGro trong “Vietnam from Ceasefire to Capitulation”)
Từ trận chiến Thường Ðức đến cuộc Chiến Tranh Việt Nam
Trận đánh Thường Ðức, trận đọ sức cuối cùng của quân đội hai miền Nam, Bắc trong cuộc Chiến Tranh Việt Nam vừa qua, ngoài việc cho thấy tính ưu việt của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trước Quân đội Nhân dân Cộng Sản Bắc Việt, còn tiêu biểu cho những hy sinh không bờ bến của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, bất kể họ là Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Ðộng Quân, Không Quân, Hải Quân, Bộ Binh, Ðịa Phương Quân hoặc Nghĩa Quân... qua cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam Việt Nam trước 1975 trong bối cảnh cuộc chiến dấu cho tự do của nhân loại bị phản bội khi chiếc tiền đồn chống Cộng tại Ðông Nam Á bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn.
Không ai có thể tưởng tượng được rằng, chỉ vì một ngọn đồi khô cằn tại một quận lỵ đèo heo hút gió xa cách những vùng cư dân trù phú dưới miền đồng bằng duyên hải miền Trung, Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn I, Vùng I Chiến Thuật, đành phải chấp nhận đưa lá bài chủ lực của mình tại Vùng Hỏa Tuyến, là hai Lữ Ðoàn của Sư Ðoàn Nhảy Dù, vào trận địa để thanh toán mục tiêu, tức là nhổ cho bằng được cái chốt địch đang ngạo nghễ chiếm đóng Ðồi 1062 ngó xuống quận Thường Ðức đặng từ đó đưa pháo tầm xa về khống chế các cơ sở quân sự -trong đó có bản doanh của Quân Ðoàn I- và dân sự cùng phố phường, làng xã của dân chúng tại miền duyên hải Quảng Nam-Ðà Nẵng.
Phải biết rằng, trong tình thế lúc bấy giờ, các lực lượng Tổng Trừ Bị trấn đóng tại Quân Ðoàn I, như Sư Ðoàn Nhảy Dù và Sư Ðoàn Thủy Quân Lục Chiến cùng với các Liên Ðoàn Biệt Ðộng Quân thiện chiến, đang bị căng kéo và dàn mỏng đến mức tối đa trên địa hình hiểm trở của Vùng I Chiến Thuật, chiếc ải địa đầu của miền Nam Việt Nam, nơi xuất phát và cũng là nơi đánh dấu biết bao nhiêu trận đánh lớn trong cuộc Chiến Tranh Quốc-Cộng kể từ khi đất nước Việt Nam bị chia đôi bằng con sông Bến Hải cho tới năm 1975.
Ðiều rõ ràng nhất và cũng là điều nổi bật nhất chính là mức độ hy sinh rất cao, cao đến độ không bờ bến, của tất cả các lực lượng tham chiến trong chiến dịch chiếm lại Ðồi 1062 và giành lại quận Thường Ðức khỏi tay Cộng quân, trong đó phải kể tới rất nhiều lần các chiến sĩ Nhảy Dù đã kêu phi pháo dội bão lửa ngay trên đầu mình để thí một mạng của mình đổi lấy bốn, năm mạng của địch quân. Chưa có trận đánh nào mà, chỉ trong khoảng thời gian không đầy ba tháng, lại có nhiều sĩ quan ưu tú và binh sĩ kiên cường của Sư Ðoàn Nhảy Dù phải hy sinh tại mặt trận đến thế. Chưa có trận đánh nào mà, chỉ trong khoảng thời gian không đầy ba tháng, các lực lượng chính quy Cộng Sản Bắc Việt và du kích địa phương, đặc biệt là Sư đoàn 304 Ðiện Biên, đã phải tổn thất nặng nề đến như vậy, mặc dù, giống hệt như quân đội Pháp trong Trận Ðiện Biên Phủ 20 năm về trước, chính quân Cộng Sản là kẻ lựa chọn chiến trường và thời điểm giao tranh, tức là đúng vào lúc họ có được ưu thế chiến lược và chiến thuật cao nhất để bảo đảm rằng họ sẽ là kẻ chiến thắng trong trận thư hùng.
Những hy sinh vô bờ bến đó của các chiến sĩ Nhảy Dù càng trở nên cay đắng hơn khi, không đầy một năm sau, toàn bộ miền Nam Việt Nam đành rơi vào tay quân Cộng Sản vì lý do không phải quân đội và nhân dân miền Nam tự do yếu hèn mà chính vì sự phản bội trắng trợn của Ðồng Minh Hoa Kỳ và thái độ a dua đến mức trâng tráo của phần còn lại của thế giới vốn đã bị bùa mê, thuốc lú của Cộng Sản Quốc Tế làm cho ngu muội đi tự lúc nào. Những cái chết như thế, vào giờ thứ 25 của cuộc chiến, phải được coi là những thiệt thòi lớn lao nhất trong đời người chiến sĩ và đối với những người thân yêu của họ còn lại trên cõi đời.
Những người Việt Nam tị nạn Cộng Sản tại hải ngoại, mỗi khi đốt một ngọn nến, thắp một nén hương trước bàn thờ tổ quốc và anh linh các anh hùng, liệt nữ cùng các tử sĩ của Việt Nam Cộng Hòa nhân dịp Tết đến, Xuân về, hãy nhớ đến cách riêng những hy sinh to lớn của các chiến sĩ từng tham chiến tại mặt trận Thường Ðức vào những ngày tháng cuối của năm 1974 -y như những hy sinh của các chiến binh đánh trận Xuân Lộc hồi Tháng Tư năm 1975- bởi vì đây là những trận đánh để đời làm vang danh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và làm xấu hổ những nhà viết sử đầy thiên vị của cả bạn lẫn thù đã và đang nỗ lực bôi nhọ sức chiến đấu dũng mãnh, tinh thần thượng võ và ý chí quyết chiến, quyết thắng của người chiến binh Cộng Hòa tại miền Nam Việt Nam, chỉ với mục đích không mấy lương thiện là chạy tội cho sự lầm mê và phản bội của thế giới khi họ cùng hè nhau bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa vào tay quân Cộng Sản đặng chuốc lấy hư danh rằng chính họ đã giúp “mang lại hòa bình và chấm dứt đổ máu cho dân chúng Việt Nam ở cả hai miền Nam, Bắc”. Chính sự cầu an và lòng thương hại không đúng chỗ đó của thế giới đã đẩy đưa dân tộc Việt Nam đến thảm cảnh ngày nay, khi toàn bộ một dân tộc gồm gần 90 triệu người đang phải sống lầm than cơ cực và thiếu tự do, dân chủ dưới ách cai trị vừa độc tài vừa ngu muội mà cũng vừa khiếp nhược trước ngoại bang của đảng Cộng Sản Việt Nam.
Thật chẳng được cái tích sự gì khi con, em những người tị nạn Việt Nam thuộc các thế hệ thứ nhì, thứ ba, thứ tư... phải đọc và phải học về lịch sử cuộc Chiến Tranh Việt Nam do chính các sử gia Hoa Kỳ viết, có sự tham khảo các sách báo tuyên truyền của Cộng Sản Việt Nam, mà trang nào, chương nào cũng chỉ đổ cái lỗi để mất miền Nam Việt Nam vào tay quân Cộng Sản Bắc Việt xâm lược hồi Tháng Tư năm 1975 cho dân chúng và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa -đặc biệt là đổ thừa cho chính quyền Ngô Ðình Diệm độc tài, gia đình trị và chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tham nhũng, bất lực cũng như viện lý do Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thiếu khả năng chiến đấu- bất chấp các đánh giá trung thực và lương thiện của nhiều danh tướng mang các quốc tịch Mỹ, Pháp, Ðại Hàn, Úc Ðại Lợi, Trung Hoa Dân Quốc, và Israel về quân đội đó.
Lời cuối cho thiên anh hùng ca
Ðến đây, thiết tưởng không gì bằng hãy mượn lời thơ sau đây của SVSQ Lê Chiến, Khóa 8/72 SQTB Ðồng Ðế, Nha Trang, viết để tưởng niệm các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa tham dự mặt trận Thường Ðức năm 1974:
Giặc qua Sông Côn về Thường Ðức
Trong cơn gió lạnh cuối Trường Sơn
Quân ngược dòng sông đêm thao thức
Di binh, chuyển pháo tấn công đồn
Anh Biệt Ðộng Quân đêm phòng thủ
Nhìn qua ánh sáng lỗ châu mai
Thêm một đêm dài không giấc ngủ
Khói thuốc cay mờ trong mắt ai
Anh lính Ðịa Phương trong lô-cốt
Tay cầm ống phóng bảy-mươi-hai
Bên xóm nhà xa đèn ai đốt
Lập lòe ánh lửa bóng liêu trai
Anh lính Pháo Binh ghi tọa độ
Sẵn sàng yểm trợ pháo tầm xa
Chùi súng, thông nòng lo tu bổ
Tay sờ thép lạnh ướt sương pha
Anh Thiết Kỵ về đường liên tỉnh
Băng ngang Ðại Lộc đến Hà Nha
Vó câu dong ruổi như đời lính
Từ độ lửa binh chẳng về nhà
Anh lính Không Quân từ Ðà Nẵng
Phi pháo từng đêm chặn giặc về
Có lẽ đêm nay anh thức trắng
Ðợi chờ phi vụ đắng cà-phê
Anh Nhảy Dù về từ Quảng Trị
Ba-lô, súng đạn tới Cầu Chìm
Nhận đồ tiếp tế trên chiến lũy
Nghe hờn sông núi dậy trong tim
Ðại pháo từng đêm trên chiến trận
Xe tăng, bộc phá mở hàng rào
Anh vẫn hiên ngang làm bổn phận
Quê mẹ vì ai tẩm máu đào
Hơn ba mươi năm ngày lịch sử
Thường Ðức quê tôi những ngày buồn
Cũng bóng tre xanh người Thượng nữ
Vu Gia sông cũ nước xuôi nguồn
Tôi nhớ ơn anh, người lính chiến
Tháng ngày bảo vệ xóm làng tôi
Những kẻ hy sinh trên trận tuyến
Ngàn sau còn nhớ mãi không thôi...
Hôm nay đây, 35 năm sau trận đánh Thường Ðức lịch sử, nhân lúc Tết đến, Xuân về, bài này được viết lên như là một nén hương lòng kính dâng đến anh linh các chiến sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuộc mọi Quân, Binh chủng, Cảnh Sát Quốc Gia, Lực Lượng Ðặc Biệt, lực lượng Xây Dựng Nông Thôn và các lực lượng Bán Quân Sự... đã đem chính máu đào của mình ra bảo vệ miền Nam tự do chống lại nanh vuốt Cộng Sản xâm lược cho đến hơi thở cuối cùng.
Hỡi những người tị nạn Việt Nam đang vui hưởng tự do, dân chủ tại các nước bên ngoài Việt Nam, hãy nhớ lấy cái căn cước tị nạn của mình và chớ quên ơn các chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã vị quốc vong thân để cho mình và gia đình mình được sống còn trong thịnh vượng và hạnh phúc cho tới ngày nay!
Vann Phan
Ghi chú:
(1) “Sau đó, Bắc quân tháo lui vì chịu không nổi phi pháo của Việt Nam Cộng Hòa ngày đêm dập vào các điểm trú quân của họ. Bộ chỉ huy Cộng quân thấy khó giữ 1062, nên ra lịnh rút lui trong đêm tối...” (Ðại Úy Võ Trung Tín và Ðại Úy Nguyễn Hữu Viên, “35 Năm Nhớ Về Mặt Trận Thường Ðức”)
(2) Trận Thường Ðức cũng còn là trận đánh vẻ vang để đời sau cùng của vị Tư Lệnh cuối cùng của Sư Ðoàn Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa, Chuẩn Tướng Lê Quang Lưỡng. Ông đã áp dụng chiến thuật xa luân chiến để hai Lữ Ðoàn Nhảy Dù thay phiên nhau giao tranh và gây thiệt hại nặng nề cho hai Sư đoàn 304 (Ðiện Biên) và 324B cùng một Trung đoàn của Sư đoàn 2 Cộng Sản Bắc Việt và các lực lượng địa phương. (V.P.)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Feb 16, 2013 8:52:21 GMT 9
Hồi ký cựu Đại sứ Pháp Mérillon – Bịp bợm lịch sử lớn nhất hải ngoại
Vụ bịa đặt lịch sử động trời này đã được phổ biến sâu rộng tại Hải ngoại từ 1989 tức 24 năm qua, cho tới những năm gần đây trên truyền thông, báo chí đài phát thanh. Ảnh hưởng của nó rất lớn, nhiều vị đã từng giữ chức vụ lớn như Thủ tướng, Tổng trưởng, Tướng lãnh, Đại tá, các vị khoa bảng tiến sĩ, các nhà nghiên cứu sử… cũng đã bị mắc lừa. Vụ đại bịp này đã bị nhiều người phát hiện, lật tẩy từ 1996, đã có nhiều bài viết nghi ngờ tính xuyên tạc lịch sử của nó . Đầu năm 2009 tôi đã viết vấn đề này trong bài “Saigon et moi Một cuốn Sách ma”. Từ 2008 trở về trước, hàng năm đến tháng tư đen, báo chí, đài phát thanh say sưa cho phổ biến một tài liệu quí giá gọi là Những Ngày Cuối Cùng Của Việt Nam Cộng Hòa (NNCCCVNCH), bản dịch cuốn hồi ký Saigon et moi (Saigon và tôi) của cựu đại sứ Pháp tại Việt Nam trước 30/4/1975 Jean M. Mérillon, dịch giả Vũ Hải Hồ (xin đừng nhầm với Những Ngày Cuối của VNCH do Nguyễn Kỳ Phong dịch từ bản tiếng Anh The Final Collapse của Cao Văn Viên). Khoảng bốn năm trở lại đây (2009-2012) bản dịch này tương đối ít xuất hiện nhưng nay tự nhiên nó lại được phổ biến nhiều trên mạng vì thế tôi trở lại viết về đề tài này. Diễn tiến Để cho vấn đề được dễ hiểu, trước hết tôi xin kể sơ diễn tiến vụ bịa đặt này. -Năm 1989, một tác giả tên Vũ Hải Hổ viết bài Những Ngày Cuối Của VNCH dài gần 20 trang đánh máy, nói là bản dịch cuốn “Saigon et moi” của cựu Đại sứ Pháp Mérillon tại Việt Nam hồi 1975 và cho phổ biến. - Tháng 4 năm 1991, nguyệt san Diễn Đàn Việt Nam số 4 in tại miền nam Tây Đức đã cho đăng bản dịch kể trên (tức NNCCCVNCH). Tòa soạn cũng cho biết Ông Mérillon, đã ra mắt cuốn hồi ký Saigon et Moi tại khách sạn La Fayette, quận 6, Paris trước một số cử tọa thượng thặng như 3 vị cựu Thủ tướng Giscard D’Estaing, Pierre Mesmer, Jacques Chirac, Jacques Hunzinger (Ủy viên ngoại vụ đảng Xã Hội Pháp), Louis Mermas (Chủ tịch Hạ Viện) v.v… Theo một nguồn tin được biết là cuốn sách này đã bị Bộ Ngoại Giao cho lệnh thu hồi. Rút cuộc, nay người ta chỉ được thấy một bản tóm tắt dưới đây do một nhân vật tình cờ có được cuốn đó. - Từ đó bản dịch cuốn sách này được đăng đi đăng lại tại Hải ngoại vào dịp tháng tư đen hàng năm. Năm 1989 nhà sử học Hoàng Ngọc Thành nghe tiếng cuốn “Saigon et moi” và nhân dịp qua Paris tìm mãi không ra quyển sách đó, ông đành liên lạc với chính tác giả Mérillon lúc đó đang là Đại Sứ Pháp tại Mạc Tư Khoa. Merillon trả lời và phủ nhận ông không phải là tác giả Saigon et moi và không viết bất cứ cuốn sách nào về VN. - Năm 1994 ông Hồng Ngọc Thành và Bà Thân Thị Nhân Đức xuât bản cuốn “Những Ngày Cuối Cùng Của Ngô Đình Diệm”, tại trang 622 và 623 (cuối sách) phần Phụ Lục có bản phóng ảnh thư và chữ ký của ông Mérillon, đề ngày 12/11/1990, đại sứ Pháp tại Nga, phủ nhận không phải là tác giả Saigon et moi. (quí vị có thể vào thư viện coi) - Tác giả Ngự Sử ngày 15/4/1996, đăng bài trên báo Ngày Nay tại Houston Texas cho biết bản dịch Saigon et moi của Vũ hải Hồ chỉ là trò cá tháng tư, bịa đặt. - Năm 1997 Đại Nam cho xuất bản cuốn Nước Việt Nam Cộng Hòa Bị Bức Tử, Đại Tá Dương Hiếu Nghĩa dịch từ cuốn La Mort Du Vietnam của Tướng Vanuxem. Phần cuối sách ông Dương Hiếu Nghĩa cho in thêm vào bản dịch Saigon et moi của Vũ Hải Hồ (tức NNCCVNCH) với lời giới thiệu rất trân trọng. Bản dịch cuốn sách “ma” này được tiếp tục phổ biến tại hải ngoại, nhiều đài phát thanh tiếng Việt đọc tài liệu say mê, nhiều báo cho đăng kèm hình ảnh. Khoảng năm 2005, 2007… một bức thư của Nguyễn Trần Việt được phổ biến trên mạng chỉ trích NNCCVNCH của Vũ hải Hồ là bịa đặt, ông cho biết trong cuốn Những Ngày Cuối Của Ngô Đình Diệm (tác giả Hồng Ngọc Thành ) trang 622-623 có đăng thư của cựu đại sứ Mérillon phủ nhận ông không phải là tác giả cuốn sách trên, ông không viết bất cứ cuốn sách nào về VN cả. Khoảng 2008, 2009 ông Trịnh Bá Lộc, cựu sĩ quan tùy viên của Tướng Dương Văn Minh đã lên tiếng trên trang mạng Take2Tango phủ nhận NNCCVNCH, bản dịch Saigon et moi là bịa đạt. Ông Lộc cho biết ông Dương Văn Minh không hề có liên lạc với Mérillon trong tháng 4/1975. Khoảng năm 2000 tôi có đọc một đoạn của bản dịch Saigon et moi trên một tờ báo giấy, họ đăng một phần ngắn thôi nên chưa hiểu rõ. Năm 2008 tôi được đọc đầy đủ toàn bài trên một tờ nguyệt san tại Mỹ, thú thật khi đọc xong hai lượt tôi nghi ngờ ngay. Trước hết là giọng văn quá bình dân, rẻ tiền; một người có trình độ như ông Đại sứ Pháp đâu có viết lách kiểu ba xu như báo lá cải thế này: Trích đọan gần cuối bài. ”Những gì mà ông Dương văn Minh hứa với chúng tôi đã như nước đổ lá khoai. Bao nhiêu kế họach, bao nhiêu công trình vận động, phút chốc ông Minh làm tiêu tan hết. Lại còn dối gạt các tướng lãnh yêu nước khác, gây ra sự chậm trễ phản công giờ chót, bởi đa số đều tưởng ông Ðại Tướng có phép lạ, sáng chế được công thức ngưng bắn tại chỗ để phe quốc gia không bị thua trong nhục nhã. Thâm ý của ông Dương văn Minh là muốn đầu hàng, sau đó nồi ăn, hưởng cho đến già” (ngưng trích) Có những đoạn Vũ Hải Hồ (VVH) tỏ ra rất ấu trĩ, hiểu biết của ông ta về tình hình chính trị quân sự 1975 thấp kém tồi tệ như sau: “Quân số Biệt khu thủ đô có khả năng tác chiến, có vũ khí trong tay ước được 100.000. Căn cứ vào vũ khí đạn dược, hỏa lực nặng, tiếp liệu, và tinh thần chiến đấu thì dân Sài Gòn có thể phòng thủ, cầm cự được chừng 7 tháng” (ngưng trích) Ta thấy VHH y như người từ cung trăng rớt xuống, tháng 4/1975 đạn trong kho đã cạn chỉ đủ xài một, hai tuần (Cao Van Viên Những ngày cuối VNCH trang 92). Nói càn nói láo như thế mà không biết ngượng miệng, càng nói ông ta càng lòi ra cái dốt của mình về quân sử, về tình hình 1975. Phải nói VHH là tay bịp vào loại siêu, trước hết ông ta nói dịch từ một cuốn sách Pháp khiến nhiều người tin ngay. Kế đó cho biết cuốn này đã được tác giả Merillon ra mắt tại Paris, có các ông cựu thủ tướng Pháp tham dự nhưng sau đó bị Bộ ngoại giao cấm và tịch thu hết, chỉ con bản dịch này. Như thế nay dù có muốn tìm bản chính cũng không được. Nhưng khôn mà không ngoan, trong bản dịch Vũ hải Hồ lại để lộ ra những cái “dốt đặc” của ông ta về tình hình 1975, lại nữa vì “nổ” quá nó biến thành những trò hề hạ cấp như sau: Lời ông Ðại sứ. ”Chẳng là vì chúng tôi có đủ tin tức tình báo nói rõ có năm vị tướng lãnh Nga có mặt trong Bộ chỉ huy chiến dịch Hồ CHí Minh tại chiến trường Long Khánh. Không lẽ các vị ấy chỉ ngồi uống trà nói chuyện chơi với Văn Tiến Dũng hay sao?“ (ngưng trích) Phải nói là quá hạ cấp, thật chẳng đáng bàn; bởi thế đã có nhiều người từ 1995 tới nay đánh giá bản dịch NNCCCVNCH chỉ là trò cá tháng tư, trò ma trò quỉ. Xin mời quí vị nghe tiếp vở tuồng rẻ tiền ba xu dưới đây. “Trước khi lập chính phủ giả định tôi xét phản ứng của Nga Sô và Trung Cộng. Nước nhiệt thành đầu tiên là Trung Cộng. Thủ tướng Chu Ân Lai điện cho Bộ ngọai giao Pháp là sẵn sàng hợp tác vơí Pháp để xây dựng một chánh thể trung lập tại miền Nam … … Mao thì ghét cay ghét đắng Lê Duẫn thân Nga thành thử điều kiện Bắc Kinh đặt ra là phải hạ bệ đảng viên thân Nga, cầm chân quân Bắc Việt để dành cho MTMN tiến vô Sài Gòn… Thực ra nền trung lập đối với chúng tôi chỉ coi như tạm thời ngăn cản dòng nước lũ cho VNCH tạm dung thân. Phần chúng tôi là phải đáp lời hứa là thành lập chính phủ liên hiệp gồm có ba thành phần: Quốc gia, Ðối lập, MTGPMN. Chu Ân Lai đưa ra một danh sách: Trương Như Tảng, Nguyễn thị Bình, Trần văn Trà…”. (ngưng trích) Vừa đọc tôi vừa buồn cười nôn ruột trước sự dốt nát thậm tệ của người bịa sử, chẳng có một tí hiểu biết gì về CS. Xin trích tiếp Lời ông Đại sứ “- Thưa Ðại tướng ông Nguyễn văn Thiệu để lại quân đội nay còn bao nhiêu người?… Ðại tướng Dương văn Minh trả lời ông chưa nắm vững. - Thưa Ðại tướng, Đại tá tùy viên quân sự của chúng tôi sẽ phúc trình cho Ðại tướng biết sau. Theo chúng tôi quân lực VNCH còn đủ khả năng chiến đấu thêm 10 tháng nữa, nếu các nhà quân sự chịu thay đổi chiến thuật từ qui ước sang du kích chiến…” (ngưng trích ) Như thế nhà dịch giả VHH càng phịa càng lòi sự hiểu biết trĩ của mình về tình hình quân sự tháng tư 1975. Trong khi BV đã đưa cả 5 quân đoàn (1, 2, 3, 4, 232) và hàng chục trung đoàn độc lập với hỏa lực dồi dào để bao vây Sài Gòn. VNCH chỉ còn 3 sư đoàn trong đó sư đoan 18 bị sứt mẻ, đạn dược gần cạn kiệt thì chiến đấu được mấy ngày. Người ta càng thấy rõ giọng văn diễu cợt trơ trẽn của một người dốt nát. Xin trích tiếp kế hoạch thứ ba của ông Đại sứ dưới đây để chúng ta coi Vũ hải Hồ coi thường sự hiểu biết của độc giả như thế nào: “Cùng lúc mời thành viên MTGPMN hợp tác trong chánh phủ trung lập, Ðại tướng tuyên bố sẵn sàng bang giao với Trung Quốc … Trung Quốc sẽ chụp lấy cơ hội này để cử Ðại sứ đến Sài Gòn ngay sau 24 giờ đồng hồ cùng với tiền viện trợ 420 triệu Mỹ kim là tiền sẽ trao cho Hà Nội mà nay trao cho chánh phủ hòa hợp hòa giải dân tộc. Kế họach này đánh phủ đầu Hà Nội bằng cách đưa đứa con nuôi của họ là MTGPMN lên nắm chính quyền… (ngưng trích) Và “Tôi cũng thông báo cho ông Dương Văn Minh hay là tôi đã liên lạc với thành viên MTGPMN. Hầu hết đều tán thành giải pháp giúp họ thoát khỏi vòng quĩ đạo của Bắc Việt” ( ngưng trích) Anh đại bịp này chẳng cần biết gì về công pháp quốc tế: Trung Quốc không có bang giao với VNCH mà lại cử người tới Sàigon trong 24 giờ đồng hồ và mang theo một thùng 420 triệu Ðô la tiền mặt trong lúc lửa đạn tơi bời !!!! Trong những ngày cuối cùng của VNCH, ông Ðại sứ chuẩn bị chui xuống hầm là vừa, thời giờ đâu mà đi liên lạc với MTGPM. Bắc Việt và MTGP chỉ là một nhưng hiểu biết của VH Hồ về CS thấp kém quá nên mới phóng ra những đọan khôi hài nói trên. Thưa quí vị, tôi không dám trích nhiều vì sợ quí vị cười quá sẽ bể bụng như những đoạn dưới đây “Nước Pháp sẽ trao 300 triệu quan chuyển tiếp từ chế độ VNCH giao cho tân chính phủ để nuôi sống giải pháp trung lập. Chúng tôi sẽ quyên góp các nước bạn đồng minh Âu Châu một ngân khoản độ 290 triệu cho các chương trình viện trợ kinh tế, văn hóa, phát triển nông nghiệp, nhân đạo. Tổng cộng cũng gần bằng viện trợ của Hoa Kỳ trước đây” (ngưng trích) Trích thêm. “Ngày 27-4-1975 Chiều ngày 27-4-75 tôi nhận được tin rất phấn khởi: Tướng Trần văn Trà bắn tin nhờ tôi cấp tốc thành lập chánh phủ trung lập và ông gửi gấp hai nhân vật thân tín của ông vào chánh phủ là là bà Nguyễn thi Bình và ông Ðinh Bá Thi… Tùy viên quân sự của chúng tôi cũng xác nhận là hai sư đoàn tập kết của Trần Văn Trà sẽ vào tiếp thu Sài Gòn, phỗng tay trên của đạo quân Văn Tiến Dũng!!!” (ngưng trích) Quí vị xem đoạn dưới để biết nhà dịch giả nói láo tới cỡ nào: “Kinh nghiệm bọn Khmer Đỏ chiếm Phnom Penh ngày 17 tháng 4/75, đã xảy ra tình trạng chém giết hỗn loạn nguy hiểm đến sinh mạng Pháp kiều và các phóng viên ngoại quốc, cần Tòa Đại sứ Pháp che chở. Vì vậy ngày 19/4/75 tôi đã yêu cầu Bộ Ngoại Giao Pháp tăng phái cho chúng tôi một trung đội thủy quân lục chiến từ Nouvelle Calédonia đến Sài Gòn để bảo vệ sứ quán”. (ngưng trích) Từ đầu chí cuối bản dịch cuốn Saigon et “ma” chỉ toàn là chuyện láo khoét, nhà dịch giả nói láo không thể tưởng tượng nổi, nói láo hơn Việt Cộng. Sau khi đã đọc hai lượt và biết rõ thực chất của vở tuồng hề bịa đăt này, tôi xem thêm các bài của các tác giả Nguyễn Trần Việt, Ngự Sử, Vũ Ánh, Trịnh Bá Lộc… những người phủ nhận NNCCCVNCH chỉ là bịa đặt. Khoảng đầu năm 2009 tôi viết bài “Saigon et moi Một Cuốn Sách ma” và đã cho phổ biến trên truyền thông báo chí. Từ đó vụ bịa sử này tương đối ít được phổ biến nhưng chẳng hiểu sao nay lại thấy xuất hiện đầy trên mạng. Nguyên nhân Thử hỏi vì đâu mà có vụ bịa đăt lịch sử này? Trước hết tác giả của nó dựa theo những tin đồn. Ông Cao Văn Viên trong cuốn Những ngày cuối của VNCH trang 218 cho biết tại Sài Gòn những ngày 7/4 và 10/4 /1975 có tin đồn một cuộc dàn xếp tình hình chính trị của VNCH qua tay người Pháp đang được nói đến. Nhưng ngay chính ông Cao Văn Viên cũng không biết gì hơn về những sự kiện này. Ngoài ra chừng 10 ngày trước khi Sài Gòn sụp đổ, báo chí đăng tin có sự vận động của quốc tế để tránh cho Sài Gòn khỏi trở thành bãi chiến trường. Nói về tin đồn thì Sài Gòn trước và sau 30/4/1975 có vô số những giai thoại như thế. Sau ngày 30/4 khi mà tấm hình Bác Hồ to tổ bố đã treo trước tầng hai dinh Độc Lập, phía trên có hàng chữ “Hồ Chủ Tịt Vĩ Đại Sống Mãi Trong Sự Nghiệp của Chúng Ta” thế mà người ta vẫn cứ đồn ầm lên nào là Sài Gòn sẽ như Hồng Kông, nào là miền nam sẽ trung lập… vân vân… Vào khoảng 24, 25/4/1975 sau khi hai ông Thiệu, Khiêm đã ra đi, Tổng Thống Trần Văn Hương vừa nói vừa khóc trước quốc dân trên đài phát thanh Sài Gòn. Ông than thở về tình hình bi đát. “Vùng I và II hoàn toàn tan rã, Vùng III và IV nhiều sứt mẻ. Rồi mai đây những trận đánh sấm sét sẽ đổ xuống và rồi Thủ đô Sài Gòn sẽ thành cái núi xương sông máu. Tôi đã nghĩ đến cái cảnh núi xương sống máu ấy và đã bàn với anh Dương văn Minh. Tôi có nói với ảnh như vầy “Bây giờ tôi bàn giao chính quyền cho anh, nhưng bàn giao để anh tìm cái giải pháp hoà bình cho đất nước chứ bàn giao cho anh để anh đầu hàng thì bàn giao làm gì?” Chiều 28/4/1975 Ông Trần Văn Hương bàn giao quyền Tổng Thống cho Dương Văn Minh, 5 máy bay địch ném bom phi trường Tân Sơn Nhất, Lúc 7 giờ chiều đài BBC cho biết “Hôm nay tại Sài Gòn ông Dương Văn Minh được cử lên giữ chức vụ quyền Tổng thống thay thế ông Trần Văn Hương để chuẩn bị cho một cuộc đầu hàng”. Sự thật lịch sử đã được nói huỵch toẹt trên đài phát thanh vì miền nam VN lúc này chẳng còn gì được gọi là bí mật. Tình hình cuối tháng 4/1975 đã quá rõ ràng: CSBV dốc toàn lực bao vây Sài Gòn, tổng Cộng khoảng gần 20 sư đoàn gồm 5 quân đoàn (1,2,3,4, 232) và 6 trung đoàn đặc công, nhiều trung đoàn độc lập, hỏa lực địch rất mạnh. Trung Tướng Toàn tổ chức năm tuyến phòng thủ (Tây Bắc, Bắc, Đông Bắc, Đông, Nam) bảo vệ Sài Gòn, tổng cộng VNCH có 3 sư đoàn và các đơn vị di tản, quân số ta thiếu hụt, đạn chỉ còn đủ đánh một, hai tuần.. Tối 29/4 Tướng Toàn tẩu vi thượng sách cũng như nhiều vị quan to khác, lý do người ta biết chắc sẽ thua, ở lại cũng chết. Quí vị đã xem cuốn phim Bẩy Người Hiệp Sĩ của Nhật quay năm 1954, 40 tên cướp tấn công một thôn làng cho tới người cuối cùng bởi vì chúng đã hết lương thực, trước sau gì cũng chết. CSBV đã nướng một triệu cán binh để chiếm cho được “vựa lúa miền nam” cũng y như 40 tên cướp trong phim, nay họ nắm chắc phần thắng trong tay chẳng lẽ lại thương thuyết để rồi rút về miền Bắc, thật khôi hài hết nước nói. Những tin đồn về thương thuyết nghe chơi cho vui thôi, nó xuất phát từ những người không có một tí kinh nghiệm và hiểu biết gì về CS, quá khứ đã cho ta thấy chúng chỉ chịu thương thuyết khi nào ở thế yếu. Hậu quả Không những truyền thông, báo chí, đài phát thanh đã bị gạt mà ngay cả các vị quan to, các nhà nghiên cứu lịch sử, chính trị cũng bị lừa. Thưa quí vị tôi không có ác ý nhưng chỉ nêu ra đây một trường hợp số cụ thể: Năm 1997 Đại tá Dương Hiếu Nghĩa xuất bản cuốn “Nước VNCH Bị Bức Tử” tức bản dịch cuốn La Mort du Vietnam của Tướng Vanuxem. Phần sau cuốn sách, ông Đại tá Nghĩa cho in nguyên văn bản dịch cuốn Saigon et moi (tức NNCCCVNCH) với những lời giới thiệu trang trọng, ông có ghi. “Và cho đến giờ nầy không còn ai tìm thấy tung tích quyển sách nầy nữa ở bất cứ thư viện nào bên Pháp, kể cả Thư Viện Quốc Gia Pháp ở Paris, cũng như sau nầy chính Ông Mérillon đã đính chánh ông không phải là tác giả của quyển “Saigon Et Moi” hay bất cứ quyển nào khác viết về Việt Nam. Tuy nhiên các báo Việt Nam tại Pháp lúc bấy giờ đều có đăng bản tóm lược của quyển sách nầy, mà bản tóm lược của ông Vũ Hải Hồ tại Paris là một. Hy vọng một ngày nào đó nếu có duyên may tìm được quyển sách quý “Saigon Et Moi” thì chúng tôi sẽ xin tiếp tục dịch để cống hiến cho quý vị độc giả. Bây giờ thì xin giới thiệu quý vị phụ bản đặc biệt nầy, trích từ tập san ĐA HIỆU (của Hội cựu sinh viên Võ bị Đà Lạt)”. (trang 114) Thật là mâu thuẫn, chính ông đã nói cựu Đại sứ Mérillon phủ nhận không phải là tàc giả cuốn Saigon et “ma” và không viết bất cứ cuốn nào về VN mà ông vẫn tin là cuốn sách này có thực, còn coi là cuốn sách quí, nó là cuốn sách ma rồi còn gì nữa. Một sĩ quan cao cấp, có trình độ như ông đã bị lừa mà còn phổ biến cái trò ma quỉ này để cho bao nhiêu người khác bị lừa theo. Ngoài ra một số các nhà nghiên cứu khác cũng bị lừa nhưng ít thôi, ông Dương Hiếu Nghĩa là bị gạt nhiều nhất. Trang 218 Cuốn Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, GS Nguyễn Tiến Hưng viết: “… Có ngờ đâu cái tên của ông (Mérilllon) đã dính rất chặt vào những diễn biến tại Sài Gòn vào giờ thứ hai mươi tư. Chính ông đã kể lại rất rõ ràng những cố gắng của ông trong cuốn hồi ký ‘Saigon et moi’, nhưng vì một lý do nào đó , cuốn sách đã bị thu hồi ngay sau khi xuất bản (1983) nên ít ai được đọc .” Và cuối trang 218 GS nói. “Cựu Thủ tướng Cẩn cũng kể lại là: … “Ngày 17 tháng 4 khi tôi tiếp Đại sứ Mérillon thì ông thao thao bất tuyệt bênh vực giải pháp Dương Văn Minh. Sau này tập hồi ký của Mérillon có tiết lo thêm rằng ngày 18 tháng 4 Đại Sứ Martin chính thức nói với ông ta là đối với chính quyền Hoa Kỳ, trách nhiệm người Mỹ tại Việt Nam đã chấm dứt” Quí vị là nhà dịch giả, nhà nghiên cứu, khi nghe tin cuốn sách Saigon et “ma” bị thu hồi tại Pháp thì phải đặt câu hỏi. -Nước Pháp tự do nhất thế giới có thể thể có chuyện tịch thu sách hay không? - Trong trường hợp đặc biệt nếu cuốn sách đó tiết lộ “Bí mật quốc gia” vào loại “động trời” thì chính phủ Pháp cũng phải thu hồi cả cái bản dịch của Vũ Hải Hồ (tức NNCCCVNCH) chẳng lẽ cứ để ông ta cho phổ biến khơi khơi cái bí mật “động trời” ấy trên toàn thế giới hay sao? - Khi cuốn Saigon et “ma” được phát hành ngoài các tiệm bên Tây thì ít ra cũng phải có mươi, mười lăm người Việt bên ấy mua được mỗi người một cuốn, chẳng lẽ chỉ có một mình ông VH Hồ mua được còn bà con ta chịu thua không biết nó bán ở đâu? Chẳng lẽ nó bán chạy quá bà con ta chậm chân không mua được? chẳng lẽ bà con ta bên ấy không ai biết tiếng Tây nên không mua chỉ có một mình ông VHH biết tiếng Tây nên mới mua? Chuyện diễu vô lý như thế mà sao quí vị có thể tin được? Ngoài ra nhiều nhà nghiên cứu khác cũng bị lừa nhưng ít thôi: (Trung tướng) Nguyễn Văn Toàn, (Đại tá) Lê Bá Khiếu, (Tiến sĩ) Nguyễn Văn trong cuốn “Những Sự Thật Chiến Tranh Việt Nam 1954-1975”, in năm 2002 cũng có nói tới Saigon et “ma” nhưng tương đối ít. Năm 2009 khi viết xong bài Saigon et moi Một Cuốn Sách Ma, tôi có gửi cho các thân hữu đọc, sau đó ông Trần đông Phong (tác giả cuốnVNCH, 10 Ngày Cuối Cùng, in 2005) có gửi thư trả lời tôi nói: - Chết tôi rồi anh ơi, tại tôi tin người ta, người bạn đưa cho tôi mấy dữ kiện của NNCCCVNH, tôi lỡ cho vào tác phẩm, không biết tính sao bây giờ? Nhưng ông Trần Đông Phong cũng bị lừa ít thôi, chỉ thấy chút chút trong một, hai trang. Nguyên do người ta quá dễ tin và chỉ thích những chuyện bí mật nên mới bị lừa. Cách đây chừng bốn năm, một ông bạn (hiện là GS, Khoa Trưởng tại Mỹ) nói ông có biết một ông Việt Nam làm luận án Tiến sĩ sử đã tham khảo nhiều trong tài liệu NNCCCVNCH, sau ông đã bỏ nó ra. Báo giấy, trang mạng, đài phát thanh Hải ngoại… từ hai chục năm qua bị lừa gạt vô số, cách đây mấy năm KBC Hải Ngoại còn đăng lại kèm theo những hình ảnh trang trọng, cả Hải ngoại bị lừa gạt suốt hơn hai chục năm qua. Phải nói nhà dịch giả Vũ hải Hồ là người có tài bịp quá giỏi nhưng có điều nhà dịch giả thật đáng trách. Lịch sử nước nhà là chuyện thiêng liêng, đem lịch sử đất nước ra làm trò hề trò cười là điều vô ý thức. Trọng Đạt
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2013 8:57:09 GMT 9
38 NĂM- NHÀ NƯỚC CỦA MỘT NỬA Ngô Minh Nhiều đêm tôi không tài nào ngủ được. Cứ nghĩ đến đất nước từ sau năm 1975 đến nay, đã 38 năm gọi là “thống nhất” nhưng thực tế lòng người chưa về một mối. Thực tế vẫn tồn tại hai loại người: Người phe của cách mạng và người thuộc phe “ngụy quân ngụy quyền”. Hai “loại người” cùng sống trong một làng, ấp, xã này khác biệt nhau từ ý thức hệ đến những chế độ chính sách cụ thể hàng ngày. Những phân biệt đối xử như vậy khiến người dân liên quan đến “ngụy quân ngụy quyền” cứ nghĩ: Nhà nước này là nhà nước của những người cách mạng, không phải nhà nước của mình. Nghĩa là NHÀ NƯỚC CỦA MỘT NỬA. Cụ thể như thế nào ? 1.Từ sau năm 1975 đến nay, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, sau đó là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã thi hành chính sách bắt những người có chức vụ trong chính quyền Sài Gòn và sĩ quan quân lực Sài Gòn, sĩ quan anh ninh, tâm lý chiến đi cải tại các trại tập trung. Thực chất là đi tù. Cải tạo lâu đến nỗi nhiều người vợ ở nhà lấy chồng khác. Khi ra khỏi trại thành kẻ lạc loài. Rồi chính sách cải tạo công thương nghiệp làm cho nhiều người điêu đứng phải vượt biên.. Rồi trấn áp, bắt bớ người vượt biên. Một số địa phương ven biển còn lợi dụng “bắt vượt biên” để trấn vàng, trấn của. v.v..Nhà nước lúc đó không hề có một chính sách nào hướng dẫn, giúp đỡ những người gọi là “ngụy quân ngụy quyền và con em của họ” ổn định đời sống tinh thần và vật chất. Giả sử có một chính sách nhân đạo, hòa giải từ đầu thì đã không có chuyện hành trăm ngàn người vượt biên bỏ xác trên đại đương, gây nên một mối hận lớn trong xã hội, vì thế Nhà nước không phải của họ, mà nhà nước là của những người cách mạng. 2. Trên TuầnViệt NamNet có in bài báo kể chuyện một anh lính Sài Gòn .”Anh tên Ngô Công Vò, quê xã Thủy Phù, Hương Thủy, Thừa Thiên - Huế, đi lính cho chế độ Sài Gòn năm 1970. Anh bị thương trong ngày cuối cùng của chiến tranh. Bây giờ du tàn tật vẫn phải lao động vất vả để nuôi con vừa phải đối mặt chiến tranh khi chiến tranh đã đi qua, và về tình người. Anh kể :"So với nhiều anh em lính chế độ cũ, tôi còn may mắn hơn nhiều. Nhưng cuộc sống vẫn vất vả lắm. Anh em thương binh phía Bắc còn có chế độ, chứ chúng tôi chẳng có gì, làm việc quần quật mà chẳng đủ nuôi vợ con". Đáng lẽ Nhà nước XHCN phải có một giải pháp nào đó đối với những người “thương binh của quân dội Sài gòn”, bằng những trợ cấp dưới góc độ nào đó, hoặc đàm phán với Chính phủ Mỹ để giải trợ cấp cho họ, để họ có đường sống. Nghe nói Chính phủ Mỹ đề nghị được trợ cấp cho thương phế binh quân đội Sài Gòn (cũ), nhưng Nhà nước Việt Nam không thống nhất (?). Ở Huế tôi thấy rất nhiều trí thức học hành tử tế, kiến thức về văn hóa xã hội uyên bác, là viên chức, giáo viên khoa học xã hội và nhân văn thời chính quyền Sài Gòn cũ, nhưng sau năm 1975 , bị ném ra đường, thành NHỮNG NGƯỜI ĐẠP XE THỒ, ĐI RÀ SẮT VỤN kiếm sống. Đối với anh em trí thức này, mặc cảm xã hội của họ là rất lớn. Phân biệt đối xử tới mức cho đén tận hôm nay, vẫn có nhiều người trong qhính quyền , khi nhắc tới con em những người làm việc dưới chế độ cũ là :”Con em bọn ngụy quân ngụy quyền”. Nhiều nhà văn, nhà thơ, đạo diễn điện ảnh đã cố gắng , bằng sáng tác của mình để rút ngắn sự cách biệt này, như bộ phim "Sống trong sợ hãi", là bộ phim truyện nhựa đầu tay của đạo diễn Bùi Thạc Chuyên. Phim kể về cuộc sống của một cựu chiến binh Việt Nam cộng hòa phải sống cuộc đời vất vả mạo hiểm là đào bom mìn còn sót lại từ thời kỳ chiến tranh đem bán; và cuộc sống căng thẳng của ông với hai người vợ, trong đó có một người là em gái một sĩ quan Bắc Việt Nam. Bộ phim cảm động làm cho mọi người Việt hiểu thêm rằng dù 'bên này' hay 'bên kia', nỗi đau đều giống nhau. Nhưng những cố gắng đó đều bị chính sách phân biệt đối xử của NHÀ NƯỚC CỦA MỘT NỬA làm cho tiêu tan. 3. Ngay trong chính sách tuyển dụng, biên chế, chính sách xét tuyển đại học, chính sách trợ cấp xã hội ở nông thôn.vv.v.. Nhà nước XHCN cũng phân biệt đối xử rất ngặt nghèo. Chính sách ban hành chỉ dành cho một nửa, tức là “con em những người cách mạng”. Còn những người dính líu đến “bên kia chiến tuyến” thì lúc nào cũng nằm ngoài sự quan tâm đó. Ví dụ có ông giáo ( thời cũ) sống rất nhân văn, lại có trình độ để xử lý công việc nhanh nhạy, chính xác, nhưng khi bầu “Tổ trưởng dân phố” liền bị trên gạt đi vì “ngụy quyền cũ”. Đại biểu Quốc hội tiếp xúc với dân thì chỉ tiếp xúc với “thành phần cốt cán” được chọn trước. Lãnh đạo đảng, nhà nước về thăm thì chỉ thăm Bà me VN anh hùng, thăm gia đình cách mạng, không bao giờ ngó ngàng tới loại “phó thường dân hạng hai” ấy. Thời bao cấp hơn 15 năm sau năm 1975, con em lính và công chức Sài Gòn cũ không bao giờ được vào các trường đaị học, dù điểm thi rất cao. Mãi đến đầu thế kỷ XXI, sau gần 10 năm “đổi mới”, con em của “một nửa không chính quyền” mới được đi học các trường Quốc tế, trường Dân lập và một số trường Đại học chính quy. Mấy năm nay, người từ 80 tuổi trở lên có chính sách trợ cấp hàng tháng, may mà các cụ già “ngụy quân ngụy quyền” được nhớ tới. Ở làng xã các tỉnh miền Nam, “chế độ đối với người có công với cách mạng” là tốt, nhưng nó cũng như cơn dao hai lưỡi, cứa sâu thêm vết thương chiến tranh trong lòng dân tộc. 4. Vướng vào chiến tranh là số mệnh đau thương của đất nước. Gần chục triệu người Việt Nam hy sinh vì cuộc đọ sức giữa hai phe trong cuộc chiến tranh lạnh. Người còn sống đau khổ, người chết vẫn chưa yên . Nhà thơ Nguyên Duy có câu :” Bên nào thắng thì nhân dân vẫn thua”. Quá đúng. Hàng trăm ngàn hài cốt “con em miền Bắc” vẫn còn nằm trong đất Việt Nam - Lào-Cămphuchia, chưa tìm về được. Hàng triệu hài cốt chiến binh Sài Gòn tử trận giờ không ai hương khói vì người thân của họ đi di tản ra nước ngoài. Ngay cái nghĩa trang 16.000 binh sĩ Sài Gòn tử trận ở Dĩ An, Biên Hòa 38 năm nay cỏ hoang mọc lút. Tháng 11 năm 2006, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã ký quyết định 1568/QD-TTg "đồng ý chuyển mục đích sử dụng 58 ha đất khu nghĩa địa...sang sử dụng vào mục đích dân sự để phát triển kinh tế - xã hội" và "chỉ đạo việc quản lý khu nghĩa địa Bình An bình thường như các nghĩa địa khác theo quy định của pháp luật.”. Khu nghĩa trang đã không được trùng tu từ lâu vì là khu vực quân sự "nhạy cảm". Vì để “sử dụng vào mục đích dân sự để phát triển kinh tế - xã hội” nên chính quyền địa phương đã có kế hoạch mở một con đường dân sinh đi ngang qua nghĩa trang này. Theo Hội Việt Mỹ, Vietnamese American Foundation, tổ chức đang vận động với chính phủ Việt Nam để trùng tu và tôn tạo Nghĩa Trang Biên Hòa, vừa thông báo Sở Giao Thông Vận Tải huyện Dĩ An đã cho người cắm cọc gọi là giải phóng mặt bằng để làm một con đường xuyên qua nơi an nghĩ của 16.000 binh sĩ miền Nam .Không có gì độc ác hơn kế hơạch này. Người bại trận rồi, chết rồi, vẫn bị “căm thù” đến mức mồ mả không yên, là một nỗi đau lớn. Đây là một thông tin làm cho NHÀ NƯỚC CÀNG TRỞ THÀNH NHÀ NƯỚC CỦA MỘT NỬA, ngay cả trong tâm linh. 5. Ở trên tôi nói đến NHÀ NƯỚC MỘT NỬA từ ý thức hệ “ta-địch” . Có một loại NHÀ NƯỚC MỘT NỬA khác là Nhà nước ra tay ủng hộ bọn cướp đất của dân, điều động cảnh sát , quân đội trấn áp nhân dân để cho bọn cướp đất làm giàu như ở Tiên Lãng, Văn Giang. Ở Tiên Lãng, người nông dân bị hại đứng lên chống lại bọn cướp thì bị xử tù nặng hơn bọn cướp. Nghĩa là Nhà nước là NHÀ NƯỚC MỘT NỬA, nhà nước của quan chức tham nhũng. 38 năm, giang sơn đã thu về một mối, nhung lòng người vẫn chia đôi. Sự phân chia này một phần do mặc cảm xã hội ăn sâu trong lòng người “bên này, nên kia”. Nhưng phải nới thẳng rằng, 38 năm qua , Nhà nước cầm quyền đã không có được một chính sách xã hội thích đáng để hàn gắn vết thương lòng của dân tộc, tạo nên sự hòa họp, hòa giải dân tộc, mà nhiều khi còn làm \cho tình trạng bất hòa tăng lên. Tôi cứ nghĩ, nếu cứ tiếp tục quản lý đất nước theo ý thức hệ “địch – ta” như thế này thì đến trăm năm nữa người Việt cũng không hòa giải dân tộc được. Phải có cái tâm , cái tầm lớn mới tạo ra được một Nhà nước của 85 triệu dân Việt Nam, chứ như bây giờ mới chỉ là NHÀ NƯỚC CỦA MỘT NỬA.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on May 14, 2013 8:33:17 GMT 9
30-4-1975: Thắng cuộc hay tội đồ?Chiến tranh Việt Nam kết thúc ngày 30-4-1975. Cho đến nay, cộng sản Việt Nam (CSVN) thường tự hào họ là bên thắng cuộc. Nhân mùa Quốc hận năm nay, có lẽ nên thử trở lại vấn đề ai là bên thắng cuộc trong cuộc chiến 1960-1975? 1. Thế nào là bên thắng cuộc? Trước hết cần phải xác định thế nào là thắng cuộc thì mới có thể biết bên nào thắng cuộc? Thông thường, bên thắng cuộc là bên thực hiện được mục đích do chính bản thân đặt ra trước khi tham chiến. Những bên tham chiến vừa qua là: Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) hay Bắc Việt Nam (BVN), Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam (MTDTGPMN), Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) hay Nam Việt Nam (NVN). Ngoài ra, phía BVN có Liên Xô và Trung Quốc viện trợ và gởi quân làm cố vấn và bảo vệ BVN. Phía NVN có Hoa Kỳ viện trợ và gởi quân tham chiến. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và MTDTGPMN tuy hai mà một, do đảng Lao Động (LĐ) điều khiển. Tại Hà Nội, từ 5-9 đến 10-9-1960, diễn ra Đại hội đảng LĐ lần thứ III, được mệnh danh là “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà”, đưa ra hai mục tiêu lớn của đảng LĐ là xây dựng BVN tiến lên xã hội chủ nghĩa và “giải phóng hoàn toàn miền Nam…” (Lê Mậu Hãn chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập III, Hà Nội: Nxb Giáo Dục, 2001, tt. 154-155.) Sau Đại hội nầy, đảng LĐ thành lập MTDTGPMNVN, ra mắt tại Hà Nội ngày 12-12-1960 và ra mắt tại xã Tân Lập, quận Châu Thành, tỉnh Tây Ninh (vùng chiến khu Dương Minh Châu) ngày 20-12-1960. Trong chế độ dân chủ, quyền tuyên chiến, quyền quyết định chiến tranh, một vấn đề tối quan trọng, liên hệ đến vận mạng đất nước, thuộc về quốc hội, đại diện toàn dân quyết định. Ở BVN, quyết định chiến tranh và tuyên chiến, lại do đảng LĐ quyết định, chứ không do quốc hội, chứng tỏ rõ ràng rằng đảng LĐ nắm quyền tuyệt đối ở BVN, và nhà cầm quyền Hà Nội chỉ là bù nhìn của đảng LĐ mà thôi. Thế là BVN khởi binh đánh NVN. Tuy viện cớ thống nhất đất nước, nhưng thực sự đảng LĐ quyết tâm đánh chiếm miền Nam vừa vì tham vọng bành trướng cố hữu của CS, vừa làm tay sai quốc tế cho Liên Xô và Trung Quốc. Lê Duẫn bí thư thứ nhất đảng LĐ, đã từng nói: “Ta đánh Mỹ là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, Nxb. Văn Nghệ, California, 1997, tr. 422 và tiết lộ của Nguyễn Mạnh Cầm, ngoại trưởng CSVN từ 1991 đến 2000, trong cuộc phỏng vấn của đài BBC ngày 24-1-2013.) Liên Xô (LX) và Trung Quốc (TQ) đều mang đặc tính chung của các nước CS là luôn luôn chủ trương bành trướng, bá quyền. Tại LX, ngày 15-10-1964, Leonid Brezhnev đảo chánh và lên làm thư ký thứ nhất đảng CSLX thay Nikita Khrushchev. Brezhnev, tăng cường viện trợ BVN, gởi quân và chuyên viên sang giúp BVN. Đây là khởi đầu chủ trương can thiệp mới của Liên Xô, mà về sau các nước Tây phương gọi là chủ thuyết Brezhnev, theo đó. “Nguyên lý Xô viết về luật quốc tế khẳng định quyền của Cộng đồng Cộng sản can thiệp bất cứ ở đâu mà các lực lượng nội tại và ngoại lai thù địch đối với chủ nghĩa cộng sản tìm cách biến đổi sự phát triển một nước theo chủ nghĩa xã hội hướng về chủ nghĩa tư bản, một tình thế được xem có tính cách đe dọa đối với tất cả các nước cộng sản.” (The New Lexicon Webster’s Encyclopedic Dictionary of English Language, Nxb. Lexicon, New York, 1988, mục “Brezhnev Doctrine”.) Trung Quốc ở sát ngay phía bắc của Việt Nam. Từ năm 1950, TQ giúp CSVN vừa vì sự cầu viện của CSVN và của Hồ Chí Minh, vừa vì lợi ích an ninh bản địa TQ. Mao Trạch Đông đã từng nói: “Không thể chỉ nói Trung Quốc giúp Việt Nam, phải nói rằng Việt Nam cũng giúp Trung Quốc là sự giúp đỡ lẫn nhau.”(La Quý Ba, “Mẫu mực sáng ngời của chủ nghĩa quốc tế vô sản”, trong Ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch. Montreal: Nxb. Tạp chí Truyền Thông (in lại), số 32 & 33, 2009, tr. 27.) Thật vậy, từ năm 1956, mối bang giao TQ – LX rạn nứt. Liên Xô bao vây TQ ở phía bắc và phía tây. Phía tây nam, Ấn Độ chận TQ. Phía đông (biển Thái Bình) là hàng rào ba nước đồng minh của Hoa Kỳ và ký hiệp ước phòng thủ song phương với Hoa Kỳ là Nam Triều Tiên, Nhật Bản và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Nếu để cho Hoa Kỳ bao vây luôn BVN, thì TQ bị chận hết các đường ra biển. Vì vậy, TQ giúp BVN chẳng những do ý thức hệ CS và sự cầu viện của BVN, nhưng đồng thời cũng do TQ bị bao vây các mặt, trừ một phần phía nam TQ là BVN. Năm 1954, chính phủ Quốc Gia Việt Nam không đồng ý chia hai đất nước, nhưng nghiêm chỉnh thi hành hiệp định Genève (20-7-1954). Thủ tướng Ngô Đình Diệm tuyên bố thành lập nền Cộng Hòa năm 1955. Việt Nam Cộng Hòa theo chế độ tự do dân chủ, dầu hạn chế vì chiến tranh, duy trì nền văn hóa dân tộc cổ truyền, hệ thống giáo dục khai phóng, cởi mở, quyết tâm chiến đấu để bảo vệ nền tự do dân chủ ở NVN, chống lại cuộc xâm lăng của BVN. Tuy nhiên, vì yếu sức, VNCH phải nhờ đến sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Sau thế chiến thứ hai, từ năm 1946, trên thế giới bắt đầu xảy ra chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và CS. Hai khối tư bản và CS tranh chấp quyết liệt trên toàn cầu. Tuy vậy Hoa Kỳ và Liên Xô tránh đụng độ trực tiếp vì cả hai đều thủ đắc võ khí nguyên tử, sợ chiến tranh nguyên tử xảy ra thì cả hai đều thiệt hại. Tình trạng tranh chấp căng thẳng nhưng không đánh nhau nầy, gọi là chiến tranh lạnh. Trong chiến tranh lạnh, Liên Xô và khối CS dùng chiêu bài giải phóng dân tộc để tuyên truyền và bành trướng thế lực. Hoa Kỳ và khối tư bản cho rằng khi một nước bị CS chiếm quyền, thì các nước lân bang dần dần sẽ bị mất vào tay CS, nghĩa là một quân cờ domino sụp đổ, thì các quân cờ domino khác cũng sụp theo. Đó là nguồn gốc thuyết domino tại các nước Tây phương, nhất là Hoa Kỳ. Vì vậy, khi TQ (ngày 18-1-1950) rồi LX (ngày 30-1-1950) thừa nhận nhà nước VNDCCH do Hồ Chí Minh làm chủ tịch, thì Hoa Kỳ (ngày 4-2-1950) và Anh (ngày 7-2-1950) thừa nhận chính phủ QGVN do Bảo Đại làm quốc trưởng. Từ đó, Hoa Kỳ giúp Pháp và QGVN chống lại CSVN. Sau hiệp định Genève, Việt Nam bị chia hai. Để ngăn chận làn sóng CS ở Đông Á, nhất là ngăn chận Trung Quốc xuống phía nam, Hoa Kỳ vận động ký kết Hiệp ước Hỗ tương Phòng thủ Đông Nam Á (Southeast Asia Collective Defence Treaty) tại Manila, thủ đô Phi Luật Tân, ngày 8-9-1954. Từ đó ra đời Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (Southeast Asia Treaty Organization, SEATO), gồm các nước Australia (Úc), France (Pháp), New Zealand (Tân Tây Lan) Pakistan (Hồi Quốc), Philippines (Phi Luật Tân), Thailand (Thái Lan), United Kingdom (Anh), và United States of America (Hoa Kỳ). Trong phụ bản (protocol) của hiệp ước SEATO, ba nước Cambodia (Cao Miên), Laos (Lào) và NVN được liệt kê trong vùng lãnh thổ được SEATO bảo vệ. Hoa Kỳ dựa vào phụ bản nầy để minh chứng sự ủng hộ của họ đối với các chế độ chống cộng ở Đông Nam Á, và giúp xây dựng NVN thành một “tiền đồn chống cộng”. Lúc đầu, Hoa Kỳ chỉ gởi cố vấn sang giúp NVN. Từ năm 1965, Hoa Kỳ đưa quân trực tiếp tham chiến. Tuy nhiên, vào cuối thập niên 60, tình hình thay đổi. 1) Giới phản chiến Hoa Kỳ hoạt động mạnh, yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ rút quân khỏi Việt Nam. 2) Trong khối CS, cuộc tranh chấp LX-TQ càng ngày càng trầm trọng. Chính phủ Hoa Kỳ liền thay đổi chính sách ngoại giao toàn cầu. Khi lên cầm quyền năm 1969, tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon quyết định rút quân ra khỏi NVN bằng kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh nhằm yên lòng dân chúng Hoa Kỳ; đồng thời Nixon thay đổi chính sách ngoại giao đối với khối CS, hòa hoãn với Trung Quốc và Liên Xô, đào sâu sự chia rẽ giữa LX và TQ. Richard Nixon sang thăm TQ từ 21-2 đến 28-2-1972, và ký kết với thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai bản Thông cáo chung Thượng Hải (Shanghai) ngày 28-2-1972, làm nền tảng cho chính sách của cả hai bên về Đông Á cho đến ngày nay. Tiếp theo, Richard Nixon thăm Liên Xô từ 22 đến 30-5-1972, cùng Leonid Brezhnev ký kết hiệp ước SALT (Strategic Arms Limitation Treaty = Hiệp ước giới hạn võ khí chiến lược) ngày 26-5-1972, và hứa hẹn sẽ cho Liên Xô quy chế tối huệ quốc (most favored nation). Sau hai cuộc viếng thăm nầy, Hoa Kỳ ký hiệp định Paris ngày 27-1-1973, đơn phương rút quân khỏi Việt Nam. Quốc hội Hoa Kỳ giảm viện trợ cho VNCH. Quân đội VNCH thiếu nhiên liệu, thiếu phương tiện chiến đấu, đành buông súng; VNCH sụp đổ ngày 30-4-1975. 2. Ai là bên thắng cuộc Dựa trên mục đích của các bên tham chiến và diễn tiến tình hình chiến tranh Việt Nam được sơ lược trên đây, vấn đề đặt ra là ai là bên thắng cuộc trong cuộc chiến 1960-1975? Trước hết và rõ ràng nhất, sau cuộc chiến vừa qua, người CS thường huyênh hoang tự hào là họ là kẻ thắng cuộc. Quả thật, ngày 30-4-1975, VNCH sụp đổ, VNDCCH chiếm được NVN, thực hiện mục tiêu “giải phóng” miền Nam đã được đề ra trong Đại hội III đảng LĐ ở Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Tuy nhiên, sau khi CS làm chủ toàn bộ đất nước, CS có thật sự là bên thắng cuộc hay không? Ngay tức khắc, sau khi CS chiếm NVN, khoảng 150,000 người di tản ra nước ngoài. Tiếp đến là phong trào vượt biên. Dầu CS kiểm soát gắt gao, khoảng trên 1,500,000 bỏ nước ra đi bằng tất cả các phương tiện, “cây cột đèn cũng muốn ra đi”, trong đó khoảng 500,000 người bỏ mình ở biển Đông. Biển Đông trở thành nghĩa địa biển lớn nhất thế giới. Ở trong nước, nhiều phong trào nổi lên chống đối CS đều bị đàn áp. Như thế, CS chiến thắng bằng súng ống, chiếm được đất đai, nhưng hoàn toàn thất bại về nhân tâm, không chiếm được lòng người, không thống nhất được lòng dân. Những người ra đi bị ghép tội “phản động”, chạy theo bơ sữa “đế quốc Mỹ” năm 1975, sau đó bỗng chốc trở thành “khúc ruột ngàn dặm”, “Việt kiều yêu nước”. Nhà nước CS kêu gọi hòa giải hòa hợp với “khúc ruột ngàn dặm”, nhưng chỉ có một nhóm người đếm được trên đầu ngón tay, tìm kiếm chút hư danh, về nước nói là “đóng góp xây dựng đất nước”, trong khi đại đa số người Việt hải ngoại chẳng có nhu cầu hòa giải hòa hợp với CS toàn trị. Về Việt Nam du hí thì có, nhưng về Việt Nam để giúp chế độ CS thì không. Như thế, CSVN có phải là “bên thắng cuộc” hay không? Phải vay nợ súng ống thì mới có súng ống chiến đấu. Cộng sả n Vay nợ LX và TQ. Vay nợ thì phải trả nợ. Sau năm 1975, CSVN trả nợ LX, giao hải cảng Cam Ranh cho LX và muốn chạy theo LX để xù nợ TQ, liền bị TQ dạy cho một bài học năm 1979, làm 6 tỉnh biên giới tan hoang. Năm 1990, khối Đông Âu sụp đổ, CSVN quay qua đầu phục TQ ở Thành Đô (TQ), đưa đến các hiệp ước 1999 và 2000, mất đất mất biển. Sau đó còn nhiều chuyện tiếp theo, thuê rừng, khai thác bauxite, tấn công ngư dân… Sau năm 1975, một điểm nổi bật là hầu hết người BVN, từ cán bộ, bộ đội, đến thường dân, khi vào Nam đều học theo cách sống của người Nam, chứ hầu như người Nam không học theo người Bắc. Người Bắc (1975) thích ăn bận theo người Nam, đua đòi thời trang miền Nam, nghe nhạc Nam mà CS gọi là “nhạc vàng”, đọc sách Nam, từ tiểu thuyết trữ tình, tiểu thuyết kiếm hiệp đến văn chương, triết học, và làm tất cả các cách để thành người Nam. Ngay cả những cán bộ cao cấp trong Bộ chính trị đảng LĐ (năm 1976 cải danh thành đảng CS) cũng từ bỏ bộ áo quần đại cán cao cổ để ăn bận Âu phục theo kiểu người Nam. Chẳng những thế, hầu như toàn thề BVN cũng được Nam hóa, trang bị bằng sản phẩm của NVN, nghĩa là được đồng hóa theo NVN. Cho đến nay, CSVN muốn trở lại con đường của NVN, duy chỉ muốn bảo vệ quyền lực đảng CSVN. Ngang đây, cũng tạm đủ để cho thấy CSVN có phải là kẻ thắng cuộc hay không? Về phần VNCH, ngày 30-4-1975, quân đội VNCH bị thiếu tiếp liệu, súng ống, đành phải ngưng chiến đấu. Chính phủ VNCH sụp đổ. Cộng sản đặt ách thống trị lên NVN. Tuy nhiên, dân chúng còn bị kẹt lại ở trong nước, vẫn quy hướng về chính thể VNCH, vẫn mong muốn hít thở không khí tự do dân chủ của VNCH, luôn luôn tưởng nhớ VNCH, nghĩa là linh hồn VNCH vẫn còn đó. Vì bị đàn áp, dân chúng đành lặng thinh, nhưng ai ai cũng mong sẽ có ngày giải trừ CS, tái xây dựng chế độ Cộng hòa. Vậy làm thế nào giải thích hiện tượng nầy? Phải chăng VNCH chỉ tạm thời thất bại năm 1975 nhưng vẫn chưa bị tiêu diệt. Anh linh VNCH còn đó. Ai cũng tin sẽ có ngày VNCH phục sinh. Thời gian sẽ trả lời. Về các nước ngoài: Hoa Kỳ mang tiếng là đã bị CSVN đánh cho “Mỹ cút”, nhưng thật sự Mỹ không cút, Mỹ cũng chẳng “tháo chạy” (như tựa đề quyển sách Khi đồng minh tháo chạy), mà phải nói cho thật đúng diễn tiến lịch sử là Mỹ tức Hoa Kỳ ngưng, không tiếp tục hiện diện ở Việt Nam vì thay đổi chiến lược toàn cầu của họ, và Hoa Kỳ đã thành công trong các mục tiêu chiến lược của họ: Rút quân khỏi Việt Nam, giải quyết chuyện nội bộ Hoa Kỳ, bắt tay với Trung Quốc, và cuối cùng chiến thắng cuộc chiến tranh lạnh với LX khi LX sụp đổ năm 1991. Riêng nội bộ Hoa Kỳ, nhân dân Hoa Kỳ mất gần 60,000 thanh niên ưu tú trong chiến tranh Việt Nam. Đổi lại Hoa Kỳ thí nghiệm nhiều loại võ khí tối tân tại Việt Nam, kể cả những chuyến oanh kích thử nghiệm đầu tiên của B52. Tư bản kỹ nghệ võ khí Hoa Kỳ thu lợi như thế nào thì không được thống kê đầy đủ. Ngoài ra, một số đồng minh của Hoa Kỳ cũng hưởng lợi: Nhật Bản phục hưng nhanh chóng nền kỹ nghệ sau thế thiến thứ hai nhờ cung cấp hàng tiêu dùng cho Việt Nam, nhất là cho quân nhân Hoa Kỳ phục vụ tại Việt Nam. Thái Lan, Mã Lai, Phi Luật Tân nhờ VNCH làm lá chắn ngăn chận làn sóng CS và các nước nầy kịp phục hồi kinh tế và an ninh để chống lại sự bành trướng của TQ. Trung Quốc thu lợi nhiều mặt. Trước hết, thông qua chiến tranh Việt Nam, TQ bắt tay được với Mỹ năm 1972, được Mỹ thừa nhận chỉ có một nước TQ, công nhận Đài Loan là một phần lãnh thổ TQ, công nhận không kiếm cách làm chủ khu vực châu Á-Thái Bình Dương, và chống đối bất kỳ nước nào hay nhóm nước nào muốn làm bá chủ vùng nầy, ý ám chỉ Liên Xô. Đó là những điều TQ mong muốn nhất. Về biển Đông, Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận Hoàng Sa và Trường Sa là của TQ để TQ viện trợ cho BVN đáng NVN. Vì vậy năm 1974, nhân cơ hội VNCH bị Mỹ bỏ rơi, bị BVN tấn công dồn dập, TQ ra tay cướp đoạt Hoàng Sa thuộc lãnh thổ VNCH. Sau năm 1975, khi CSVN chạy theo LX, muốn trốn nợ TQ. Trung Quốc liền đánh 6 tỉnh biên giới năm 1979, dạy cho CSVN một bài học. Vì vậy, khi Đông Âu lung lay, CSVN qua Thành Đô xin đầu hàng TQ năm 1990, đưa đến hai hiệp ước 1999 và 2000. Trung Quốc chiếm đất, chiếm biển của Việt Nam. Như vậy, tuy không được tiếng là bên thắng cuộc, nhưng TQ là kẻ thu hoạch nhiều nhất sau chiến tranh Việt Nam. Liên Xô viện trợ cho BVN không kém gì TQ. Đầu năm 1975, viện trợ của LX cho BVN để BVN đánh NVN tăng gấp bốn lần so với trước. (Henry Kissinger, Years of Renewal, New York: Simon & Schuster, 1999, tr. 481.) Sau năm 1975, Việt Nam gia nhập khối COMECON (Council for Mutual Economic Assistance tức Hội đồng Tương trợ Kinh tế) ngày 27-6-1978. Ngày 3-11-1978, Lê Duẫn, tổng bí thư đảng CSVN, sang Liên Xô và ký với Leonid Brezhnev, tổng bí thư đảng CSLX, Hiệp ước Hai mươi lăm năm Hỗ tương và Phòng thủ giữa hai nước. Từ sau hiệp ước nầy, hải quân Liên Xô bắt đầu tiến vào sử dụng hải cảng Cam Ranh làm căn cứ tại Viễn đông. Có hai ảnh hưởng gián tiếp đáng ghi nhận sau chiến tranh Việt Nam: 1) Khi rời bỏ Việt Nam năm 1975, Hoa Kỳ chủ trương để lại nguyên vẹn và không phá hủy tất cả máy móc thiết bị mà Hoa Kỳ giao lại cho VNCH. Cộng sản rất mừng tiếp nhận được những chiến lợi phẩm nầy. Sau ngày 30-4-1975, đại diện các nước CS trên thế đến thăm viếng NVN, chúc mừng sự thành công của CSVN, rất ngạc nhiên về những chiến lợi phẩm nầy, sự tiến bộ vượt bậc về khoa học, kỹ thuật, y khoa của Hoa Kỳ so với Liên Xô mà lâu nay Liên Xô bưng bít, giấu kín. Nhờ đó, các nước Đông Âu mới biết rõ sự cách biệt giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, khiến họ giảm tin tưởng đối với đàn anh Liên Xô và bắt đầu nhìn về phía Hoa Kỳ, nhập cảng sản phẩm của Hoa Kỳ, tạo tâm lý thuận lợi cho sự sụp đổ của khối CS. 2) Làn sóng vượt biên vĩ đại của người Việt Nam chạy ra nước ngoài tỵ nạn CS sau năm 1975, khiến cho lương tâm thế giới, nhất là các nước Tây Âu, lâu nay thiên tả là một “thời trang”, bừng tỉnh về giấc mộng “xã hội chủ nghĩa”, ghê sợ và chán ghét các chế độ CS. Các nước Tây Âu quay qua giúp đỡ các phong trào kháng chiến ở các nước CS Đông Âu, góp phần dần dần đưa đến sự sụp đổ của hệ thống CS Đông Âu. Kết luận Đặt kết quả chiến tranh Việt Nam trong chiều rộng của không gian và trong chiều dài của thời gian, mà vẫn khó có thể thẩm định ai là bên thắng cuộc. Tuy nhiên chắc chắn có hai điều rất rõ ràng: 1) Toàn dân Việt Nam ở cả Bắc và Nam Việt Nam đều thua cuộc về nhiều mặt. Ngoài thiệt hại vật chất, nhà cửa, ruộng vườn, hàng triệu gia đình tan nát vì chủ nghĩa CS, hàng triệu người tử vong vì chiến tranh do CS gây ra, nền văn hóa và đạo đức suy đồi trầm trọng. 2) Thủ phạm của tấn thảm kịch nầy chính là kẻ đã du nhập chủ nghĩa CS ngoại lai bạo tàn, chính là kẻ đã rước voi về giày mồ tổ tiên, chính là kẻ chủ trương gây chiến để phục vụ quyền lợi ngoại bang và chỉ làm lợi cho ngoại bang dù là CS hay tư bản. Chúng là những tên phản quốc dâng đất, dâng đảo, dâng biển cho kẻ thù phương bắc. Đám nầy không ai khác hơn là tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN. Sau năm 1975, chúng dần dần lộ diện. Chúng mất trắng tất cả vốn liếng chính trị mà chúng đã dày công lừa phỉnh toàn dân Việt Nam và thế giới. Chúng không phải là bên thắng cuộc. Chúng chẳng những trở thành kẻ thua cuộc, mà chúng còn là tội đồ dân tộc. Lịch sử sẽ ghi tội, hậu thế sẽ đời đời lên án. (Toronto, Quốc hận 2013) © Trần Gia Phụng
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 10, 2014 8:32:23 GMT 9
Nguyên do chính khiến VNCH sụp đổ 1975Đào Văn Tướng Westmoreland tuyên bố (tại Nam Cali tháng 9, 1995), vì mục tiêu chiến lược của Mỹ, nên ông ta không được tiến quân ra Bắc, không được phá đường mòn HCM[23]. Vậy đâu là mục tiêu chiến lược của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam? Nguồn: Center of Military History (1983) Để trả lời câu hỏi trên người viết đã tìm kiếm tài liệu, đúc kết thành bài viết này để gửi đến người đọc hầu có chứng cớ dễ dàng đưa ra nhận định về vần đề mà Tướng Westmoreland nêu ra vào năm 1995. Nhưng trước khi bàn đến đề tài trên, người viết xin bổ túc thêm thông tin về câu hỏi đã nêu “Ai ra lệnh rút quân khỏi Pleiku-Kontum 1975”[1]. Các đoạn văn viện dẫn, được trích từ cuốn The Final Collapse của tác giả Cao Văn Viên. Về nguyên nhân VNCH bị sụp đổ, trong cuốn The Final Collapse tác giả tường thuật khá chi tiết nguyên nhân xa gần dẫn đến sự thất bại của cuộc chiến Việt Nam, thí dụ như tin tức về hậu cần, thiếu thiết bị quân sự cung ứng cho chiến tranh, mà theo tác giả cũng là nguyên do đẫn đến sự thất bại. Và còn nguyên do nào khác dẫn đến việc VNCH bị sụp đổ hay không, xin đọc hết bài viết này với tài liệu dẫn chứng trích từ tài liệu Tối Mật Tòa Bạch Ốc, giải mật và công bố 2002, và The Pentagon Papers, tài liệu tối mật về chiến tranh Việt Nam được Bộ Quốc Phòng giải mật và công bố vào ngày 13 Jun. 2011 [2] sẽ rõ. Một đoạn văn trong tác phẩm của Đại Tướng Viên viết: “Không ai thấy rõ vấn đề hơn tổng thống Thiệu. Khi người khách cuối cùng của quốc hội Hoa Kỳ rời Việt Nam, tổng thống Thiệu biết ngay VNCH không còn hy vọng gì về khoản tiền 300 triệu quân viện phụ cấp. Tổng thống Thiệu cũng biết quân viện cho VNCH trong tương lai sẽ ít hơn chứ không thể nhiều hơn và tổng thống Thiệu dựa nhiều quyết định của ông vào những suy luận đó: những gì ông ta cương quyết từ chối hành động trong suốt hai năm qua, bây giờ ông phải làm. Tổng thống Thiệu quyết định tái phối trí quân đội dựa vào phần đất VNCH có thể bảo vệ được. [...] Với những quyết định có sẵn, ngày 11 tháng 3-1975 một ngày sau khi Ban Mê Thuột bị tấn công tổng thống Thiệu mời thủ tướng Trần Thiện Khiêm, cố vấn an ninh quốc gia, trung tướng Đặng Văn Quang và tác giả đến dinh tổng thống để ăn sáng và bàn luận. Sau khi bữa ăn được dọn ra và các người hầu rời bàn, tổng thống Thiệu lấy ra một bản đồ nhỏ và bắt đầu cuộc thảo luận với những tường trình về tình hình chiến sự mà ba người khách đã hoàn toàn tường tận. Nói xong về tình hình chiến sự, tổng thống Thiệu đi ngay vào vấn đề với quyết định: “Với khả năng và lực lượng chúng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ chúng ta muốn bảo vệ. Như vậy, chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thật sự quan trọng.”[3] Trong cuốn sách The Final Collapse có thuật lại hai phiên họp trước khi rút quân khỏi Pleiku và Kontum. Đó là phiên họp ngày 11 tháng 3 năm 1975, xác nhận có sự hiên diện của TT Thiệu, TT Khiêm, Tướng Quang và Tướng Viên, coi như đó là phiên họp trù bị. Còn phiên họp tại Cam Ranh ngày 14 tháng 3 năm 1975, có ghi (đoạn này). Có nghĩa là các nhân vật có mặt trước đó 3 ngày thời đều tháp tùng Tổng Thống Thiệu đến họp tại Cam Ranh ngày 14.3.1975[4] Với phần trích dẫn bổ túc tin tức của Tướng Viên nêu trên hy vọng vần đề khá rõ rệt, ai phải chịu trách nhiệm về vụ ra lệnh rút quân, và Thủ Tướng TT Khiêm biết hay không biết việc rút quân tưởng đã sáng tỏ, người viết bài xin nhường bạn đọc thẩm định. (Cuốn sách của Tướng Viên nêu trên phát hành 1983). Về tinh thần chiến đấu… tác giả Cao Văn Viên nhận định: “Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền Nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là kết quả trực tiếp của kế hoạch tái phối trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy.” Nhưng có tinh thần chiến đấu mà không có phương tiện thì… “Đó là cái nhìn về phương diện quân sự trong giai đoạn ngắn hạn. Sau Ban Mê Thuột tác giả nghĩ CSBV sẽ làm áp lực để có được một chánh phủ liên hiệp; và tổng thống Thiệu có thể chấp nhận. Nhưng dù chuyện đó có xảy ra, đó chỉ là một hoàn cảnh hòa hoãn tạm bợ nhất thời: cộng sản sẽ tiếp tục tìm cách lấy thêm đất qua chiến thắng quân sự để bắt VNCH nhượng bộ thêm về chính trị. Liệu VNCH có chịu nỗi những áp lực đó trong một thời gian dài hay không” Tác giả nghĩ câu trả lời sẽ tùy thuộc vào số quân viện của Hoa Kỳ cung cấp cho VNCH. Một sự thật không thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6-1975 nếu không nhận được số quân viện phụ trội. Và một quân đội sẽ không thể nào chiến đấu nếu không có những trang bị cần thiết để chiến đấu.”[3] Phương tiện phục vụ cho quân đội thì lại bị lệ thuộc vào nước ngoài, vì VNCH không có khả năng tự lực… Trong khi đó thì Quốc Hội Mỹ cắt ngân khoản viện trợ quân sự… Đoạn văn Tướng Viên viết về khả năng quân đội VNCH còn cầm cự nổi trong ngắn hạn nếu không triệt thoái Pleiku và Kon tum, nhưng trong dài hạn thì cần có viện trợ quân sự từ phía Mỹ. Điều này phù hợp với ước tính tình báo cuả viên chức DIA, là nếu có đủ phương tiện quân sự thì quân Bắc Việt khó có thể mở cuộc tổng tấn công trong thời gian khoảng 6 tháng tới. Nguồn: Michael B. Petersen / DIA Đoạn văn trên được trích từ cuốn The Viet Nam Cauldron[5] của Michael B. Petersen do cơ quan Tình Báo Quân Đội Mỹ công bố năm 2012. Trong tài liệu này cũng bàn về sự cắt giảm viện trợ cho VNCH phù hợp với những chi tiết mà Tướng Viên nêu ra. Còn nguyên nhân nữa làm Sàigòn thất thủ là sự rút quân đội Mỹ ra khỏi VN thể theo yêu cầu cuả Trung Cộng vì quyền lợi chung của hai nước Mỹ – TQ. Điều này được ghi lại trong biên bản phiên họp giữa TS Kissinger và Thủ Tướng Chu Ân Lai ngày 9 tháng 7 năm 1971: oạn văn trên trích trong các biên bản chuyến đi TQ của TS Kissinger năm 1971. (Trích tài liệu Tòa Bạch Ốc)[6] Sang năm 1972, Tổng Thống Nixon chính thức thăm TQ, và biên bản phiên họp giưã Tổng Thống Nixon và Thủ Tướng Chu có đoạn ghi: Tổng Thống Nixon cũng nhắc lại lời đề nghị của Thủ Tướng Chu là sớm giải quyết vấn đề VN, và rằng vần đề VN sẽ không còn chia rẽ hai nước… (Trích tài liệu Tòa Bạch Ốc)[7]. Ngoài ra còn một lý do rút quân Mỹ khỏi VN, đó là: Về phía Trung Quốc coi vấn đề VN không quan trọng bằng vần đề Liên Xô, Thủ Tướng Chu muốn biết quan điểm của Mỹ đối với Liên Xô… Trả lời về vấn đề Liên Xô, Tổng Thống Nixon cho biết nếu tiếp tục chiến tranh thì lợi thế sẽ nghiêng về phía Liên Xô, vì Liên Xô muốn Mỹ xa lầy tại VN. (Trích tài liệu Tòa Bạch Ốc)[8] Về chuyện Mỹ-Trung hợp tác chống Liên Xô Vào năm 1979 Ông Đặng Tiểu Bình đi Mỹ, Ông ta hô hào chống Liên Xô, kêu gọi Mỹ hợp tác “trói con gấu Bắc cực”, và có đoạn ghi trong cuốn Mưu Lược Đặng Tiểu Bình như sau: “Trong tình hình không có hy vọng hòa hoãn với Liên xô, Đặng không thể không kế thừa chiến lược quốc tế của những năm cuối đời Mao Trạch Đông: Liên hiệp với Mỹ để cùng ngăn chặn dã tâm bành trướng của Liên xô. Phương pháp này quả nhiên đem lại hiệu quả. Qua việc Đặng sang thăm Mỹ đầu năm 1979, Liên xô giữ thái độ im lặng khi Trung quốc dạy bài học cho Việt Nam.”[9] Phó TT Đặng Tiểu Bình và TT Jimmy Carter ký kết quan hệ ngoại giao January 29, 1979. Nguồn: OntheNet Cho nên có thể nói, chiến tranh tại Việt Nam có ảnh hưởng đến sự tan rã cuả khối Xô Viết 1989, và có thể coi đây cũng là mục tiêu chiến lược của Mỹ khi đem chiến tranh chống giải phóng (Counter – Insurgency Program – CIP) [10] vào Việt Nam năm 1961 nhằm chống Liên Xô, vì trước đó, năm 1960 Liên xô đã chọn VN để phát động chiến tranh giải phóng[11] như tài liệu The Pentagon Papers[12] được Bộ Quốc Phòng Mỹ giải mật 13/6/2011 đã phơi bày. (Mặt Trận DTGPMNVN ra đời 20/12/1960). Một yếu tố khác liên quan đến tiêu đề tưởng cũng nên ghi lại để rộng đường dư luận. Phía Mỹ đã hai lần từ chối không ký kết thỏa ước quân sự hỗ tương (Mutual Defense Treaty) với VNCH. Lần đầu vào năm 1957[13] Lý do từ chối phía Mỹ viện cớ vì VNCH đã nằm trong khối SEATO – Thế nhưng, Phi Luật Tân là nước cũng nằm trong khối SEATO[14] thì Mỹ lại ký kết Mutual Defense với nước Phi ngày 30/8/1951[15]. Ngoài ra Mỹ cũng ký kết Thoả Hiệp Quân Sự Hỗ Tương với các nước khác trong vùng như Nam Hàn, Nhựt Bản và Đài Loan [16]; Và lần thứ hai vào năm 1961 VNCH nhắc lại yêu cầu Mỹ ký Thỏa Hiệp Quân Sự[17], và VNCH chỉ muốn nhận viên trợ quân sự, mà không muốn Mỹ đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam [18]. Kết cuộc dẫn đến cuộc đảo chánh 1963, và Chính Phủ kế nhiệm đã chấp thuận cho Mỹ đưa quân vào Việt Nam để Mỹ thực hiện chiến lược CIP. Điều này phù hợp với Counter – Insurgency Program của Mỹ đề ra 1961, chứng tỏ rằng Mỹ chỉ xử dụng VNCH như là chiến trường nhằm chống Liên Xô qua chiến tranh giải phóng do Liên Xô khởi xướng (1960). Sau 48 năm kể từ ngày lật đổ Chính Phủ Ngô Đình Diệm (1963), ngày 13/6/2011 phía Bộ Quốc Phòng Mỹ cho công bố tài liệu tối mật về chiến tranh Việt Nam đã chính thức thừa nhận hoàn toàn chịu trách nhiệm về cuộc đảo chánh 1963, và còn thừa nhận “việc lật đổ Chính phủ Diệm đã làm tăng trách nhiệm của chúng ta là đã can dự vào sự hình thành nên một nước Việt Nam mà thực chất là không có người lãnh đạo”[19]. (Ngoài ra, còn một yếu tố về vụ lật đổ chế độ Đệ I VNCH, theo CIA, Ông Nhu đề ra “giải pháp” Bắc – Nam 1963[20]. Nếu giải pháp Bắc-Nam thành hiện thực thì CIP program của Mỹ dùng VN để chống Liên Xô sẽ không thể áp dụng được, vì Chính phủ Diệm chống việc đưa quân đội Mỹ vào VN, và tự tìm đường lối hòa giải với miền Bắc để chấm dứt chiến tranh). Nay thì nền Đệ I và Đệ II VNCH đã sụp đổ, người viết xin ghi lại câu nói của ông Ngô Đình Nhu trước khi bị sát hại (1963), “… bởi vì ông ta (Ngô Đình Diệm) từ chối là một chính phủ bù nhìn.” (parce qu’il refuse d’être un gouvernement puppet)[21] và tuyên bố từ chức của TT Thiệu (1975): “…thất hứa, thiếu công bằng, thiếu tín nghĩa, vô nhân đạo, đốt một đồng minh đang chịu đau khổ …” [22] để suy xét về số phận của một nước nhược tiểu. Bài do tác giả gởi. DCVOnline biên tập và minh hoạ. [1] Ai ra lệnh rút quân khỏi Pleiku-Kontum 1975, Tướng Phú hay TT Thiệu và tài liệu CIA (2009) viết gì về vụ này? [2] Tài liệu bị báo chí phanh phui 1971 nhưng không đầy đủ. Toàn bộ tài liệu The Pentagon Papers được giải mật và công bố vào ngày 13 Jun. 2011 và lưu bản văn tại Văn khố quốc gia online: www.archives.gov/research/pentagon-papers/[3] – Trích trong bản dịch cuốn sách cuả tác giả Cao Văn Viên, do Nguyên Kỳ Phong dịch, đây là phần trích đoạn Những Ngày Cuối Cua VNCH đăng trên tờ Viet Báo vào năm 2008, (và toàn bản dịch cuốn: Những Ngày Cuối của VNCH – Nguyên tác- The Final Collapse). [4] Trích trong The Final Collapse do Trung Tâm U S Army Center Military History đã post online, tuy nhiên khi vô link này thời phải download sách hơi mất công, cho nên để tiện lợi cho bạn đọc tham khảo, người post bài đã upload sách vô đây The Final Collapse, Gen Cao Van Vien. Cũng xin nói thêm, nếu bạn đọc muốn tìm sách về chiến tranh VN thì vô link sau, ghi tên sách hay tên tác giả: www.history.army.mil/catalog/search.html, thí dụ: ghi chữ Cao Van Vien thời sách của tác giả sẽ hiên ra và download xuống…, hoặc ghi chữ Vietnam War thời môt số sách cuả các Tướng Mỹ khác sẽ hiên ra – hiên nay trong trang web của Quân Sử Hoa Kỳ online chỉ mới có sách của Tướng Viên – Trong khi hiện nay có một số Tướng lãnh VN cũng viết sách nhưng không tìm thấy trong trang Quân Sử online này.) [5] Michael B. Petersen, The Vietnam Cauldron Defence Intelligence in the War for South East Asia, DIA (2102) [6] Tài liệu Tối Mật Tòa Bạch Ốc: TL.1 và các tài liệu khác liên quan: TL. 2,TL. 3 [7] Tài liệu Tối Mật Tòa Bạch Ốc: TL 1 – Feb. 22, 72 [8] Tài liệu Tối Mật Tòa Bạch Ốc TL 1-Feb. 22, 72 và các biên bản khác liên quan đến chuyến đi TQ của TT Nixon 1972, xin post tất cả ra đây để bạn đọc tiện bề tham khảo:TL-2-Feb. 23.72, TL.3-Feb. 24.72, TL.4-Feb.23.72 [9] Muu Luoc Dang Tieu Binh – chương 7. [10] (The Kennedy Counter Insurgency Program) The problems of dealing with Moscow were far more pressing than those related to Vietnam. A feeling that America’s position in the world had been eroded by the USSR prevailed; Kennedy was particularly determined to regain American strength, prestige and influence. Anything which could be construed as American weakness vis-a-vis the USSR was to be avoided. This affected policy toward Vietnam. [Trích đọan trong: The Kennedy Counterinsurgency Program - Pentagon Papers - p.IV.B.1 - trang 1 - số bên góc trái là trang 10/197) (công bố 2011)] [11] In November 1960, the Moscow Conference of Communist and Workers’ Parties of Socialist Countries once again declared its support of the sort of “just” war the DRV intended to prosecute. The United States was identified as the principal colonial power, and the right and obligation of communist parties to lead struggles against colonial powers was detailed. By the time Khrushchev cited that Declaration in his “wars of national liberation” speech, the “liberation war” for South Vietnam was nearly a year and a half old. (Trích đọan trong: Origins of the Insurgency – Pentagon Papers,p.IV.A.5 – trang 30 – số bên góc trái là trang 34/373) (công bố 2011) [12] The Pentagon Papers (DoD released 13.Jun.2011 – Full version), (open coi ngay mục lục, sau đó muốn coi từng chương thì download) [13] VNCH xin ký Thỏa Hiệp Quân Sự: 1957 [14] South East Asian Treaty Organization [15] Mutual Defense Treaty với nước Phi Luật Tân [16] Nam Hàn, Nhật Bản, và Đài Loan [17] Oct. 1961 Taylor Mission to Vietnam. On the 18th, Diem said he wanted no U.S. combat troops for any mission. He repeated his request for a bilateral defense treaty, more support for ARVN and combat-support equipment (helicopters, aircraft, etc.) [Trích đọan trong: The Kennedy Counterinsurgency Program - Pentagon Papers - p.IV.B.1- trang 14, số bên góc trái là trang 23/197) (công bố 2011)] [18] [Trích đọan trong: The Kennedy Counterinsurgency Program - Pentagon Papers - p.IV.B.1 - trang vi, số bên góc trái là trang 8/197) (công bố 2011)] 1961 (The Kennedy Counter Insurgency Program) – Negotiations with Diem came to an end in May, not because the issues had been resolved, but because the U.S. decided to forget trying to pressure Diem for a while and instead try to coax him into reforming by winning his confidence. - – - Consequently, the U.S. bargaining position was feeble. Further, Gaibraith at least, and probably others, advised Kennedy that there was not much point to bargaining with Diem anyway, since he would never follow through on any promises he made. (Galbraith favored promoting an anti-Diem military coup at the earliest convienient moment.) Kennedy ended up settling for a set of promises that fell well short of any serious effort to make the aid program really contingent on reforms by Diem. Since the war soon thereafter began to look better, Kennedy never had any occasion to reconsider his decision on combat troops; and no urgent reason to consider Galbraith’s advice on getting rid of Diem until late 1963. [19] [Trích đoạn trong The Pentagon Papers: Overthrow of Ngo Dinh Diem--IV-B-5-1 - Released 13 Jun. 2011 - số trang viii, hay là 12/126] For the military coup d’etat against Ngo Dinh Diem, the U.S. must accept its full share of responsibility. (Về cuộc đảo chánh lật đổ Ngô Đình Diệm, chính phủ Mỹ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Từ Tháng 8 – 1963, chúng ta đã ban hành nhiều biện pháp, nhằm cho phép, tán thành, khuyến khích các tướng lãnh người Việt đứng ra làm cuộc đảo chánh và chúng ta hứa hẹn sẽ hoàn toàn hậu thuẫn một Chính phủ kế nhiệm. Tháng 10-1963 chúng ta trực tiếp cự tuyệt và cắt đứt viện trợ dành cho Diệm, bật tín hiệu đèn xanh cho phe tướng lãnh. Chúng ta kín đáo duy trì liên lạc với phe đảo chánh xuyên suốt quá trình từ lúc lên kế hoạch cho đến khi tiến hành cuộc đảo chánh, chúng ta đã duyệt kế hoạch hành động của họ và đề ra thành phầntân chính phủ. Cho nên, sau 9 năm cầm quyền của Chính phủ Diệm đã bị chấm dứt bằng sự đổ máu. Vì thế, sự đồng lỏa của chúng ta trong việc lật đổ Chính phủ Diệm đã làm tăng trách nhiệm của chúng ta là đã can dự vào sự hình thành nên một nước Việt Nam mà thực chất là không có người lãnh đạo) “ For the military coup d’etat against Ngo Dinh Diem, the U.S. must accept its full share of responsibility. Beginning in August of 1963 we variously authorized, sanctioned and encouraged the coup efforts of the Vietnamese generals and offered full support for a successor government. In October we cut off aid to Diem in a direct rebuff, giving a green light to the generals. We maintained clandestine contact with them throughout the planning and execution of the coup and sought to review their operational plans and proposed new government. Thus, as the nine-year rule of Diem came to a bloody end, our complicity in his overthrow heightened our responsibilities and our commitment in an essentially leaderless Vietnam.” [20] [Trích đoạn trong CIA: Giải pháp hoà giải Bắc - Nam 1963 - trang 2-đoạn 2- tài liệu giải mật 2001] Theo CIA: Hai ông Diệm, Nhu, ngoài việc chống đưa quân đội Mỹ vào Việt Nam, còn tự ý liên hệ với miền Bắc nhằm đề nghi một giải pháp hoà giải… “Do đó, ở một thời điểm nào đó, họ có thể tìm ra một giải pháp chung sống với miền Bắc, do họ tin rằng giải pháp hòa giải với những người cùng một dân tộc vẫn hay hơn là cúi đầu trước áp lực của ngọai bang (Mỹ) (They might at some juncture seek to work out a modus vivendi with the North, out of belief that a deal with kindred peoples was better than submitting to foreign (US) pressures.) [Trích đoạn trong: CIA: Giải pháp hoà giải Bắc-Nam 1963 - trang 2, đoạn 3) (Bản văn thiết lập ngày 14.9.1963 và cuộc đảo chánh ngày1.11.1963 - giải mật và công bố Apr. 2001] Cho nên, việc hai ông Diệm, Nhu tự ý đi tìm thỏa hiệp với miền Bắc được coi như là chiếc đinh cuối cùng đóng vào cỗ quan tài chôn vùi chế độ Đê I VNCH bởi… các tướng lãnh Miền Nam VN… “ If it became known that Diem and Nhu seriously intended to seek an accommodation with the North, this might well precipitate a coup attempt by certain South Vietnamese military leaders.” [21] – Video clip: Ông Ngô Đình Nhu lên tiếng về các vụ biểu tình 1963. Nguyên văn lời tuyên bố của ông Nhu trong video trích dẫn: “l’affaire bouddhiste et l’affaire des étudiants ont été montées de toutes pieces et répercutées de facon orchestrée et puissante pour intoxiquer l’opinion interieure comme l’opinion internationale contre le gouvernement du Sud Vietnam parce que ce gouvernement combat le communisme et parce qu’il refuse d’être un gouvernement puppet.” [22] – Video clip: Diễn văn từ chức của TT Nguyễn Văn Thiệu, 21.4.1975 [23] – Tướng Westmoreland có đến Nam Cali và dành cho đài Radio Little Sàigòn phỏng vấn V/v Tết Mậu Thân 1968 – và v/v tiến quân ra Bắc, do Việt Dũng phỏng vấn 9/1995 và bài phỏng vấn loan trên báo Hồn Việt 10/1995: Tướng Westmoreland: Chúng tôi đã biết trước cuộc tổng công kích sẽ xảy ra. Và tôi sẽ thú tội với mọi người khi nghĩ lại, là tôi đáng lý ra đã phải loan báo những tin tức này đến mọi người. Và tôi biết rất rõ ràng những chi tiệt. Tôi biết biết rõ ràng khi nào họ sẽ tấn công, và tôi cũng có đầy đủ những chi tiết để tiên đoán hậu quả của cuộc tấn công này. Đây là con đường tiếp tế huyết mạch của miền Bắc vào Miền Nạm. Không may cho chúng ta Ông Averell Harriman là một người rất có uy tín trong thời gian đó, và có thời gian từng giữ chức vụ phụ tá Tổng Trưởng Ngoại giao, và là cố vấn của Tổng Thống. Ông Averell rất là cứng rắn khi cho rằng cuộc chiến không được lan rộng ra khỏi lãnh thổ miền Nam và điều này đã trở thành chủ trương của Hoa Kỳ trong suốt thời gian tham gia cuộc chiến tại miền Nam, là chúng ta không phát triển cuộc chiến ra ngoài phạm vi lãnh thổ này. Chúng tôi đã có những cuộc xâm nhập bí mật vào đường mòn HCM và tấn công những đơn vị Bắc Việt dùng con đường này để tiếp tế cho Miền Nam, nhưng chúng tôi không bao giờ được quyền đế cắt đứt con đường này dù chúng tôi dư sức làm điều đó, vi` con đường này là mạch sống của địch quân và việc cắt đứt con đường này sẽ giảm thiểu các chiến lược của chúng tôi rất nhiều. Câu hỏi: Vậy đâu là mục tiêu chiến lược của Mỹ khi mở chiến tranh chống giải phóng (CIP) tại Việt Nam? Để trả lời cho câu hỏi này người viết bài đã đi sưu tầm tài liệu và đúc kết thành bài viết trình bầy nêu trên.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 29, 2014 0:56:09 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ - Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR Giới thiệu: “Sàigòn thất thủ” là tựa đề một loạt ký sự được đăng tải liên tục suốt gần một tháng trên Nhật Báo Sankei trong mục “Đặc Phái Viên của Thế Kỷ 20” từ ngày 29/10 cho đến ngày 27/11/1998. Người thực hiện loạt ký sự này là ký giả Komori Yoshihisa, một đặc phái viên kỳ cựu của Nhật Bản đã có mặt tại Sài Gòn trước và sau thời điểm 30/4/1975. Ông Komori Yoshihisa từng là ký giả của tờ báo Mainichi được biệt phái đến Sài Gòn từ năm 1972 với tính cách là trưởng ban biên tập tại Sài Gòn. Sau đó, đến năm 1987, ông chuyển sang làm việc cho tờ báo Sankei. Cũng qua loạt bài viết liên quan đến sự kiện “Sài Gòn Thất Thủ”, năm 1976 ông Komori Yoshihisa đã nhận được giải thưởng danh giá “Phóng Viên Quốc Tế” Vaugh/Ueda Prize do hai cơ quan truyền thông Mỹ- Nhật UPI và Dentsu sáng lập. Hiện nay, ông đã 72 tuổi và nổi tiếng là một nhà bình luận thời cuộc thế giới kiêm công việc giáo sư danh dự tại trường đại học quốc tế Akita ở Nhật Bản. Ngoài ra, ông cũng từng được biết là một võ sư hướng dẫn môn Nhu Đạo tại đại học Georgetown ở thủ đô Washington, Hoa Kỳ. Vì được chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử liên quan đến chuyện Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam Việt Nam cũng như nội tình của chính phủ Sài Gòn lúc đương thời, ông đã có cái nhìn rất trung thực và đứng đắn về cuộc chiến Việt Nam -vốn rất phức tạp trong một tình thế tương tranh gay gắt mà phe Cộng sản chiếm phần ưu thế lúc bấy giờ, hơn nữa còn bị đảng Cộng sản Việt Nam xuyên tạc bóp méo để đánh lừa dư luận thế giới. Nhận thấy tính cách giá trị lịch sử của loạt bài này, dù đã được viết hơn 15 năm trước, xin giới thiệu phần trích lược trong số 23 bài ký sự của ông Komori Yoshihisa qua phần chuyển dịch của Khôi Nguyên. Cũng cần nhắc lại, trước đây các phần chuyển dịch này của Khôi Nguyên từng được một số báo chí, trang web người Việt hải ngoại đăng tải và đọc lại. Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên Sài Gòn Thất Thủ - Kỳ 1: “Kẻ ở, người đi và một sự thật bình thường”@on the Net honvietradio.blogspot.com.au/2014/03/sgtt-ky-1-ke-o-nguoi-i-va-mot-su-that.html“Nếu 500 ngàn trong tổng số 3 triệu dân Sài Gòn cầm súng chiến đấu với một tinh thần quyết tử thì chắc là quân cộng sản Bắc Việt phải chuốc lấy những thất bại nặng nề, và Sài Gòn sẽ trở thành một Stalingrad thứ hai. Lúc đó, dư luận thế giới bắt buộc phải quan tâm để đưa đến những cuộc thương thuyết về vấn đề ngưng chiến tại Việt Nam”. Ngồi trước mặt tôi và sau lưng là những người lính cận vệ trong bộ quân phục Không Quân hùng dũng, cựu tướng Nguyễn Cao Kỳ với một giọng chắc nịch và quả quyết, đã nói như vậy trong buổi phỏng vấn vào ngày 25/4/1975 tại nhà thờ Lộc Hưng ở ngoại ô thành phố Sài Gòn. Ông Kỳ vốn là một nhân vật nổi tiếng vì trước đó đã giữ những chức vụ quan trọng trong chính quyền miền Nam như Tư Lệnh Không Quân, Thủ Tướng, Phó Tổng Thống. Ông đã được biết qua báo chí thế giới bằng hình ảnh một người đàn ông có dáng gầy, cao vừa phải, dung mạo đẹp trai, và nhất là bộ ria đen nhánh. Vợ ông là một phụ nhữ xinh đẹp, xuất thân từ giới tiếp viên hàng không. Tuy nhiên, từ năm 1971, trong cuộc tranh đua quyền lực, ông Kỳ đã bại dưới tay ông Nguyễn Văn Thiệu, một nhân vật từng sát cánh với ông lúc trước. Vì thế, ông đã bị hất văng ra khỏi chính trường miền Nam. Sau đó, người ta ít thấy ông Kỳ xuất hiện và cho đến gần thời điểm nguy ngập vào mùa Xuân năm 1975, ông Kỳ đã lên tiếng chỉ trích những thất sách về mặt quân sự cũng như sự thối nát về mặt chính trị của chính quyền Sài Gòn. Vào ngày 25/4/1975 nói trên, trong một buổi tập họp được Ủy Ban Hành Động Cứu Nước do linh mục Trần Hữu Thanh lãnh đạo đứng ra tổ chức, ông Kỳ đã đến tham dự và phát biểu. Khi ông Kỳ dùng xe jeep đến nhà thờ Lộc Hưng thì nơi đây đã có gần 3 ngàn giáo dân tụ tập sẵn ngoài sân từ bao giờ. Địa phận Lộc Hưng vốn là nơi cư trú của đa số người Công Giáo miền Bắc tỵ nạn Cộng sản di cư về đây từ năm 1954. Trước khi đến đây, ông Kỳ đã nhận trả lời phỏng vấn của những phóng viên ngoại quốc như chúng tôi. “Nếu đồng báo nhất trí đoàn kết, thì chúng ta sẽ còn con đường sống. Chúng ta phải cương quyết chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Quân cộng sản chỉ chờ đợi nơi chúng ta tự chia rẽ và tự tan rã mà thôi. Tôi sẽ ở lại Sài Gòn và chiến đấu cho tới chết. Tôi muốn nói lên quyết tâm này với dân chúng Sài Gòn. Những người bỏ chạy ngay bây giờ trước khi quân địch tấn công vào đều là những kẻ hèn nhát”. Đứng trên bục gỗ trước máy phóng thanh, lời kêu gọi của ông Kỳ vang dội đến mấy ngàn giáo dân Công Giáo như càng làm tăng thêm dũng khí cho họ. Lúc này, quân Bắc Việt đã tràn đến những cứ điểm phòng thủ cuối cùng quanh vòng đai Sài Gòn sau khi nuốt gọn Xuân Lộc. Và Sài Gòn đang trong tình trạng hồi hộp, căng thẳng về một cuộc tổng công kích cuối cùng của quân Bắc Việt vào ngay lòng thủ đô. Tuy vậy, lúc nghe ông Kỳ diễn thuyết, tôi cũng cảm thấy yên tâm phần nào vì miền Nam vẫn có thể tránh khỏi một cuộc chiến bại toàn diện. Thế nhưng vào sáng ngày 29/4/1975 ông Kỳ đã dùng trực thăng tháo chạy ra ngoại quốc, bỏ lại sau lưng những lời thề hứa chiến đấu quyết tử mà ông từng hùng hồn tuyên bố trước đó bốn ngày. Từ lúc ông Kỳ bỏ chạy cho đến giây phút cuối cùng khi Sài Gòn rơi vào tay quân Bắc Việt, chỉ đúng một ngày. Trong khoảng thời gian này, số những tướng lãnh cùng binh sĩ VNCH ở lại chiến đấu cũng không phải là ít và có những vị tướng đã hy sinh. * Dọc theo quốc lộ 13, cách Sài Gòn khoảng 50 km về hướng Bắc là căn cứ Lai Khê do sư đoàn 5 VNCH trấn giữ. Đây là một trong năm sư đoàn được phối trí theo thế chiến lược bảo vệ vòng đai thủ đô Sài Gòn. Lúc này, Tổng Tham Mưu chỉ huy quân Bắc Việt là tướng Văn Tiến Dũng đã huy động tất cả 5 quân đoàn gồm 15 sư đoàn với quân số khoảng 200 ngàn để chọc thủng những tuyến phòng thủ vòng đai cuối cùng hầu tiến chiếm Sài Gòn. Đúng vào buổi sáng 30/4/1975, sư đoàn 5 của VNCH đã phải hứng chịu những áp lực nặng nề trước sức tấn công mãnh liệt của quân đoàn 1 Bắc Việt, cuối cùng vì lực lượng quá ít so với quân số hùng hậu của quân Bắc Việt, sư đoàn 5 tan vỡ và vị Tư Lệnh sư đoàn là tướng Lê Nguyên Vỹ đã tự kết liễu vận mạng bằng cái chết hiên ngang, bất khuất. Tướng Lê Nguyên Vỹ, TL SĐ5 BB Mặt khác, tại cứ địa Củ Chi cách Sài Gòn khoảng 30km về hướng Tây Bắc, sư đoàn 25 của VNCH cũng bị tấn công dữ dội và ngã gục trước quân đoàn 3 Bắc Việt. Tư Lệnh sư đoàn là tướng Lý Tòng Bá vì muốn bảo vệ sinh mạng binh sĩ nên đã chịu hàng và bị bắt làm tù binh. Tướng Lý Tòng Bá, TL SĐ25 BB Ngay cửa khẩu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long là căn cứ Tân An nằm ở hướng Tây Nam Sài Gòn được sư đoàn 22 VNCH trấn thủ cũng không tránh khỏi sự tấn công mãnh liệt của lực lượng Bắc Việt và đã bị tiêu diệt. Kế đến là lực lượng những binh sĩ còn lại của sư đoàn 18 dưới sự chỉ huy của tướng Lê Minh Đảo đang trấn đóng tại phía Đông Sài Gòn đã bị đột kích bằng chiến thuật biển người của quân đoàn 2 Bắc Việt. Sau khi thất thủ, tướng Lê Minh Đảo bị bắt làm tù binh. Tướng Lê Minh Đảo, TL SĐ18 BB Trong tình thế hiểm nghèo này, chỉ còn lại lực lượng duy nhất của sư đoàn 7 ở Mỹ Tho là tương đối có khả năng kéo về Sài Gòn tiếp ứng nhưng vì các trục lộ giao thông đã bị địch quân cắt đứt nên ngay sau khi Sài Gòn thất thủ, sư đoàn 7 VNCH cũng đành phải đầu hàng. (*ghi chú của HVR: Tư lệnh SĐ7BB, Tướng Trần Văn Hai đã tự vẫn ngay trong doanh trại đơn vị) Tướng Trần Văn Hai, TL SĐ7BB Tiếp theo tại Cần Thơ, Bộ Tư Lệnh Quân Khu 4 của VNCH là nơi kiểm soát toàn bộ khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đã tận lực trong việc bảo vệ và tiếp ứng cho hai sư đoàn 9 và 21 đang bị uy hiếp trầm trọng, nhưng kết cuộc cũng đành phải bó tay. Vị Tư Lệnh quân khu là tướng Nguyễn Khoa Nam cùng Tư Lệnh Phó là tướng Lê Văn Hưng đã chọn cái chết để bảo vệ khí tiết ngay tại căn cứ Cần Thơ. Tướng Nguyễn Khoa Nam, TL QĐ4 QK4 Tướng Lê Văn Hưng, TLP QĐ4 QK4 * Đối với tôi, thì việc trong hàng ngũ những tướng lãnh và nhân viên cao cấp của chính quyền miền Nam, người nào bỏ chạy, người nào ở lại tử thủ đã trở thành đối tượng cho sự suy nghĩ về những phương cách xử thế ở đời và là một bài học kinh nghiệm cho bản thân. Những người thường hô hào chiến đấu chống cộng tới cùng, hoặc kêu gọi sự đoàn kết và lòng yêu nước theo chủ nghĩa dân tộc một cách kịch liệt nhất, lại là những người chạy trốn sớm nhất. Ngược lại, những người có vẻ như thân Mỹ hay thân Pháp lẽ ra phải nhanh chân chạy thoát thì lại hy sinh ở lại chiến đấu. Thêm một lần nữa, tôi cảm nhận được một sự thật rất bình thường là “nếu chỉ dựa vào lời nói của một người, ta sẽ không thể phán đoán hành động của họ như thế nào”. Sau ngày Sài Gòn thất thủ hai năm, tôi được chuyển sang làm đặc phái viên ở Hoa Kỳ và đã có dịp ghé thăm nơi ở mới của ông Nguyễn Cao Kỳ tại California. Từ lúc được chính phủ Hoa Kỳ tiếp nhận cho định cư, ông Kỳ đã mở một siêu thị để kinh doanh ở gần thành phố Los Angeles cách nhà ông khoảng chừng 20km, một ngôi nhà thuộc hạng sang trọng đối với tiêu chuẩn của vùng này. Sau khi nhấn chuông, tôi được ông Kỳ đích thân mở cửa đón tiếp. Trong bộ quần áo màu vàng nâu, ông Kỳ có dáng vẻ của một vị trưởng giả và nếu gọi là có sự thay đổi nơi ông thì có lẽ chỉ là màu của bộ ria nay đã trở thành màu tro nhạt. Ông tiếp tôi tại phòng khách và nhận trả lời cuộc phỏng vấn. Sau khi kể lại những khó khăn ban đầu từ lúc ông cùng vợ và 6 người con 4 trai 2 gái đặt chân tới đây, ông hồi tưởng lại chuyện chiến tranh: “Tôi đã từng chủ trương rằng, hòa hợp hòa giải với thế lực cộng sản kết cuộc chỉ là một ảo tưởng. Điều này hoàn toàn đúng. Vì vậy, đối với cộng sản chỉ có chọn lựa một trong hai con đường: hoặc đầu hàng, hoặc chiến đấu tới cùng. Về điểm này có thể nói là những nhận thức của Tổng Thống Thiệu rất đúng đắn và chính xác”. Tuy nhiên, ông Kỳ đã không chiến đấu tới cùng với cộng sản. Việc ông vừa tuyên bố sẽ tử thủ tại Sài Gòn sau đó lại bỏ chạy như vậy, quả thật đã khiến tôi khó đề cập đến vì thái độ biểu hiện của ông quá chai cứng: “Tôi đã cố gắng đến cuối cùng và biết rằng miền Nam sẽ hoàn toàn thất trận nên phải ra đi. Vả lại, tôi cũng chỉ là một dân thường mà thôi. Nếu như lúc đó tôi ở vào vị trí trọng yếu của chính quyền thì chắc chắn tôi sẽ ở lại tử thủ. Tuy vậy, đối với những chiến sĩ VNCH đã chiến đấu đến giờ phút cuối thì tôi rất kính phục và không biết phải dùng lời lẽ gì để biểu hiện cho sự kính phục này”. Nói tóm lại, những lời biện minh, giải thích của ông Kỳ cho dù nghe ở một góc độ nào chăng nữa, quả thật người ta cũng không cảm nhận được ý nghĩa gì cả! *
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 29, 2014 1:09:00 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ - Kỳ 2: “Xuân Lộc, một chiến thắng ngắn ngủi làm nức lòng dân”@on the Net Xuân Lộc là một thành phố chính yếu của tỉnh Long Khánh, có vị trí cách thủ đô Sài Gòn khoảng 60km về hướng Đông Bắc. Ở vào thời điểm cuối cùng của cuộc chiến Việt Nam thì trận đụng độ tại nơi này giữa quân đội Bắc Việt và VNCH được coi như là một trận chiến khốc liệt nhất trước khi miền Nam Việt Nam hoàn toàn bị thất thủ. Đây là trận chiến duy nhất mang tính cách quy mô toàn diện trong giai đoạn cuối của kế hoạch xâm chiến miền Nam, qua đó quân Bắc Việt đã tận dụng hết toàn bộ lực lượng quân chính quy với những hỏa lực hùng hậu nhất nhằm tấn công triệt để quân đội VNCH hầu tạo thế quyết định chiến trường. Phù hiệu SĐ18BB Nhưng có một điều mỉa mai và đau lòng đối với chính quyền Sài Gòn là qua trận chiến ác liệt này mặc dù sư đoàn 18 bộ binh của VNCH dưới sự chỉ huy của dũng tướng Lê Minh Đảo đã chiến đấu thật kiên cường và đẩy lui những đợt sóng tấn công ào ạt của địch hoàn thành sứ mạng bảo vệ Xuân Lộc trong một chiến thắng oanh liệt cũng như chiến thắng này đã đưa tên tuổi của tướng Lê Minh Đảo trở thành một vị anh hùng trong quân sử VNCH, nhưng chỉ một thời gian ngắn ngủi sau đó chính quyền Sài Gòn phải sụp đổ tan tành. Tướng Lê Minh Đảo Thành phố Xuân Lộc có khoảng 100 ngàn dân cư, được những đồn điền cao su dày đặc bao bọc xung quanh. Trong thành phố, người ta thấy có rất nhiều tiệm buôn nho nhỏ xen kẽ với nhà cửa dân chúng và sự nổi bật của những ngôi nhà thờ nghiêm trang, cung kính như làm tăng thêm phần thanh nhã, êm đềm vốn là đặc tính của phong cảnh nơi này. Tôi cũng đã có nhiều dịp dùng xe đi ngang thành phố Xuân Lộc mỗi khi phải thực hiện phóng sự tại các tỉnh cao nguyên Trung phần và các thị trấn ven biển của miền Trung. Mức độ tấn công của quân Bắc Việt vào Xuân Lộc đã thực sự trở nên ác liệt từ ngày 9/4/1975, tức thời điểm trước khi Sài Gòn thất thủ đúng 3 tuần lễ. Đầu tiên, để uy hiếp và trấn áp tinh thần của sư đoàn 18 bộ binh VNCH, quân Bắc Việt đã dùng loại pháo 130 ly liên tục pháo kích vào những cứ điểm đóng quân của sư đoàn này và hầu hết những địa điểm trong ngoài thành phố Xuân Lộc. Loại pháo 130 ly này có xạ trình đến 27 km do Liên Xô và Trung Quốc phối hợp chế tạo và là một trong những vũ khí có sức công phá dữ dội nhất của quân Bắc Việt. Sau khi Sài Gòn bị rơi vào tay quân đội Bắc Việt, tôi đã được chúng kiến tận mắt loại pháo 130 ly này với một số lượng không sao đếm hết. Đồng thời, với kích thước to lớn của nó, cũng đã cho thấy phần nào hỏa lực hùng mạnh của quân Bắc Việt. Đại bác 130 ly của CSBV Với chiến thuật vừa pháo kích, vừa cho xe tăng bộ đội xâm nhập vào Xuân Lộc, cộng sản Bắc Việt trong chiến lược tấn công nơi này đã sử dụng toàn bộ lực lượng binh sĩ thuộc quân đoàn 4. Đây là một quân đoàn được hình thành từ việc sát nhập 3 sư đoàn quân Bắc Việt gồm sư đoàn 6, sư đoàn 7 và sư đoàn 341. Quân đoàn 4 của Bắc Việt có vị trí đóng quân tại những vùng phụ cận biên giới Campuchia, nằm về hướng Bắc của thủ đô Sài Gòn. Qua việc tận dụng cả lực lượng chính quy của quân đoàn 4 trong mục tiêu đánh chiếm Xuân Lộc đã cho thấy phía Bắc Việt rất coi trọng địa điểm này trên quan niệm vị trí chiến lược xung yếu. Đó là, nếu chiếm được Xuân Lộc thì những lộ quân của Bắc Việt xuất phát từ đây sẽ dễ dàng phối hợp cùng những tuyến quân xâm nhập từ phía Đông Nam để chọc thủng các hàng rào phòng thủ cuối cùng quanh thủ đô Sài Gòn. Từ đó, Xuân Lộc đã trở thành mục tiêu hàng đầu trong chiếc lược tấn công của Bắc Việt. Mặt khác, nếu nhìn từ Sài Gòn ta sẽ thấy Xuân Lộc quả thật là một thành trì quan trọng nằm ở hướng Đông, có khả năng che chở cho cả thủ đô vì nó là giao điểm của quốc lộ số 1 dọc theo các bờ biển Trung phần và quốc lộ số 2 từ các tỉnh cao nguyên miền Trung. Nếu cho quân thẳng tiến vào Nam thì phải đi theo 2 tuyến đường quốc lộ nói trên nên Bắc Việt có nhu cầu phải giải tỏa nút chặn chiến lược trọng yếu Xuân Lộc. Cũng vì vậy mà lúc đương thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã hạ lệnh cho quân đội VNCH phải tử thủ Xuân Lộc bằng mọi giá. Sau khi chịu đựng những đợt pháo kích liên tục như bão táp mưa sa của quân Bắc Việt, lực lượng phòng thủ sư đoàn 18 VNCH với tương quan quân lực kém hẳn địch thủ là 1 đối 3 bắt đầu tổ chức những đợt phản công đánh trả lại một cách hữu hiệu. Và thật đáng kinh ngạc, những chiến sĩ sư đoàn 18 đẩy lui không biết bao nhiêu đợt tấn công xâm nhập vào Xuân Lộc của địch với gần 1000 xác quân Bắc Việt và mấy chục chiến xa phải bỏ lại tại thành phố đầy lửa đạn này. Chiến xa CSBV bị bắn hạ tại Xuân Lộc Trong tình thế liên tiếp mấy ngày liền bị vây hãm như vậy, chính quyền Sài Gòn đã phái một số quân tinh nhuệ thuộc Sư đoàn Nhảy Dù lúc đó đang đóng tại phía Bắc Sài Gòn, dùng trực thăng đến Xuân Lộc để tiếp ứng. Dưới sự chỉ huy tài tình của dũng tướng Lê Minh Đảo, những chiến sĩ VNCH đã kiên cường cố thủ cũng như phản kích mạnh mẽ. Đối với họ, sự nhận thức về Xuân Lộc là một cứ điểm vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ thủ đô Sài Gòn đã tạo nên một tinh thần quyết tử cao độ. Kết quả, sau ba ngày tấn công tới tấp vào Xuân Lộc, quân Bắc Việt đã bị nhiều tổn thất nặng nề nên đành phải ngưng chiến. Liên quan đến sự kiện này, tướng Văn Tiến Dũng của Bắc Việt, tổng tham mưu cuộc tấn công Xuân Lộc, đã viết: “Tại Xuân Lộc, lần đầu tiên quân đội ta chạm phải một đội quân quyết tử của địch. Tuy quân ta đã nhiều lần xâm nhập được vào trong thành phố và tạo được thế uy hiếp mạnh mẽ nhưng đều bị đánh lui trở lại. Điều này chứng tỏ quân đoàn 4 của ta đã không lượng định được chính xác sức đề kháng kiên cường của địch”. Chiến lợi phẩm của CSBV bị tịch thu Tù binh CSBV tại Xuân Lộc tháng Tư 1975 Thế là phía Bắc Việt đã thú nhận sự thất bại qua cuộc công kích vào Xuân Lộc lần đầu tiên và ngược lại đối với quân VNCH thì đây là trận chiến thắng mang nhiều ý nghĩa to lớn trong việc củng cố niềm tin của dân chúng miền Nam. Do đó, chính quyền Sài Gòn đã truyền đạt và phổ biến rộng rãi đến các cơ quan truyền thông ngoại quốc cũng như người dân miền Nam về chi tiết trận chiến thắng ở Xuân Lộc Dĩ nhiên là người dân Sài Gòn rất hoan hỷ và càng tăng niềm hy vọng, tin tưởng nơi khả năng chiến đấu, bảo vệ lãnh thổ của quân đội VNCH. Sau chiến thắng tại Xuân Lộc, tôi đã có dịp gặp hai viên sĩ quan trẻ tuổi phụ trách việc thông tin cho sư đoàn 18 tại văn phòng hãng thông tấn UPI ở Sài Gòn. Hai viên sĩ quan này vừa đưa tôi xem những hình ảnh của trận chiến Xuân Lộc vừa nói: “Sư đoàn 18 Number One!”, vì họ đã đánh lui được một phần lớn quân cộng sản Bắc Việt. Tại thành phố Sài Gòn, không khí thật náo nức và nhộn nịp trong nỗi hân hoan chào mừng chiến thắng Xuân Lộc, một sự chiến thắng không ngờ. Với thắng lợi này, đa số dân chúng thủ đô đều nghĩ rằng quân Bắc Việt sẽ mỏi mệt và cần một thời gian khá dài để dưỡng sức, nhất là nếu có tướng Lê Minh Đảo thì Sài Gòn sẽ bình yên vô sự. Cho đến này 13/4/1975 thì sinh hoạt tại Xuân Lộc đã tương đối trở lại bình thường với đường phố tấp nập xe cộ, người qua lại đông đúc. Cảnh mua bán rộn rịp, tưng bừng hẳn lên, hầu như họ đã quên rằng cách đó chỉ mấy chục cây số, quân Bắc Việt vẫn còn đóng chốt và chuẩn bị cho những cuộc tấn công khác. Quả nhiên, quân Bắc Việt sau một thời gian ngắn ngủi tạm ngưng chiến đã dồn hết nỗ lực để bao vây chặt chẽ các khu vực chiến lược xung quanh Xuân Lộc tạo thế cô lập đối phương bằng cách cắt đứt các tuyến đường tiếp vận huyết mạch. Lúc này, 3 sư đoàn thuộc quân đoàn 2 Bắc Việt đã từ những vùng ven biển miền Trung kéo quân tiến đến Xuân Lộc để tăng cường thế công và tổng cộng có 3 sư đoàn của phía Bắc Việt với quân số đầy đủ vây hãm duy nhất một sư đoàn 18 của VNCH. Sau đúng một ngày cầm cự, chịu đựng không nổi trước chiến thuật áp đảo của địch, sư đoàn 18 VNCH đã bắt đầu triệt thoái khỏi thành phố Xuân Lộc vào ngày 20/4/1975. Sau đó, sư đoàn này được tái tập trung và đóng quân phòng thủ ngay sát nách Sài Gòn về phía Đông, nhưng đã quá muộn màng vì quân Bắc Việt gỡ được nút chận Xuân Lộc và các tuyến quân Nam tiến của họ đã tựa như thế chẻ tre tiến công ào ạt về Sài Gòn khiến cho quân đội miền Nam bị tan rã thành từng mảnh, từng mảnh. Dũng tướng Lê Minh Đảo, Tư Lệnh sư đoàn 18 cùng các binh sĩ của ông chiến đấu đến giờ phút cuối cùng nên bị quân Bắc Việt bắt giữ. So với một số tướng lãnh VNCH đã tháo chạy từ những ngày trước đó, tướng Lê Minh Đảo đã được dân chúng ngưỡng mộ và ca ngợi tinh thần dấn thân vì nước của ông. Tướng Lê Minh Đảo Sau ngày miền Nam sụp đổ, tướng Lê Minh Đảo cũng như đa số sĩ quan cao cấp của VNCH đã bị nhà cầm quyền cộng sản giam giữ tại các trại tù khổ sai, cưỡng bức lao động. Kết cuộc, nhờ vào sự can thiệp của chính phủ Hoa Kỳ, sau mười mấy năm tù đầy, tướng Lê Minh Đảo đã được sang Mỹ để đoàn tụ cùng gia đình vào năm 1994. Người Hùng Xuân Lộc năm nào nay đã trở thành người hùng cô đơn với nhiều tâm sự mà ít người thấu hiểu. Sài Gòn Thất thủ - Kỳ 3: Hoa Kỳ triệt thoáiĐS Graham Martin @on the Net Lần đầu tiên bắt tay với ông Graham Martin, vị đại sứ của Hoa Kỳ tại miền Nam Việt Nam, tôi đã có một cảm giác lạ kỳ mà cho tới nay tôi vẫn không thể nào quên được, vì nơi lòng bàn tay của ông ta không có một chút sức lực nào tập trung vào đó cả. Tôi đã được gặp ông Martin lúc ấy vào khoảng thời gian cuối năm 1973 tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ đặt ngay trung tâm thành phố Sài Gòn. Sau này nghe kể lại tôi mới biết ông Martin vì bị trọng thương do một tai nạn giao thông trước đó đã lâu nên lực bóp của bàn tay đã trở nên yếu hẵn. Ông Martin là vị đại sứ cuối cùng của Hoa Kỳ tại miền Nam. Với thân hình gầy ốm, trông ông tôi có cảm giác như ông là một người không được sáng sủa cho lắm. Chuyên về ngành ngoại giao, ông đã làm đại sứ Hoa Kỳ tại Pháp, Ý và Thái Lan. Vào tháng 7/1973, ông Martin lúc đó đã 67 tuổi được bổ nhiệm đến Sài Gòn. Tuy ông là một người thường hay đau yếu bệnh hoạn, nhưng ông rất kỳ vọng vào chính quyền Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và có lập trường chống cộng rất triệt để đối với thế lực của MTGPMN. Trong lúc Quốc Hội Hoa Kỳ có những do dự trước việc tiếp tục trợ giúp quân sự, kinh tế cho chính quyền Sài Gòn thì đại sứ Martin cũng là người đã có nỗ lực vận động nhiều nhất để yêu cầu Hoa Kỳ nên tái viện trợ cho VNCH. Đại sứ G. Martin trình ủy nhiệm thư tháng 7/1973 @on the net Có giả thuyết cho rằng sở dĩ ông nhiệt tâm trong vấn đề này vì ông có một người con trai là binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đã tử trận tại Khe Sanh vào năm 1968 trong cuộc đụng độ với quân Bắc Việt. Sau khi hiệp định Ba Lê được ký kết, ông Martin đã đưa ra một kế hoạch với chủ trương là nếu Hoa Kỳ nếu Hoa Kỳ tiếp tục viện trợ thật dồi dào cho VNCH trong khoảng 5 năm nửa thì miền Nam sẽ trở thành một quốc gia có tư thế chính thức trong khối tự do và đủ sức bảo vệ lãnh thổ của mình. Vì vậy, ông lại càng được sự ủng hộ của chính quyền miền Nam. Đến thời điểm tháng 3/1975, khi quân Bắc Việt mở những cuộc tiến công như vũ bão trên các địa bàn rộng lớn, tạo thế nguy ngập cho chính quyền miền Nam thì mọi người rất trông đợi cũng như hy vọng tràn trề vào quyết định của Quốc Hội chính phủ Hoa Kỳ lúc đó đang thảo luận việc viện trợ khẩn cấp 700 triệu mỹ kim cho miền Nam để đảo ngược cục diện. Nhưng không ngờ Quốc Hội Hoa Kỳ đã lạnh lùng cắt đứt luôn toàn bộ nguồn viện trợ cơ bản. Riêng cá nhân ông Martin vẫn tin tưởng rằng cho dù Bắc Việt với thế lực đại quân số có tấn công trực tiếp vào Sài Gòn đi nữa thì miền Nam cũng chưa đến nỗi mất hết hy vọng nên ông đã vận động những cuộc thương thuyết để giải quyết vấn đề và cho đến phút cuối ông vẫn chống lại những mệnh lệnh triệt thoái toàn diện từ Washington. Công điện ĐS Martin gửi NT Kissinger ngày 28/4/1975 ĐS Martin-Tướng Weyand-NT Kissinger-TT Ford 1975 @on the Net Đối với phía Hoa Kỳ, cuộc triệt thoái cuối cùng của họ chính thức bắt đầu từ lúc 2 giờ trưa ngày 29/4/1975. Họ đã dùng trực thăng quân sự để di tản các nhân viên chính phủ Hoa Kỳ tại Sài Gòn cũng như những nhân viên, cán bộ, binh sĩ của chính quyền miền Nam cùng thân nhân đến chiến hạm của Đệ Thất Hạm Đội Hải Quân Hoa Kỳ đang đậu tại biển Đông tiếp giáp với cửa khẩu sông Sài Gòn. @on the Net Trong khi đó, đối với những ngoại quốc ở Sài Gòn, Hoa Kỳ đã dùng ám hiệu để thông báo về một cuộc triệt thoái cuối cùng bằng cách cho phát thanh liên tục bản nhạc “White Christmas” ngay tại vùng đất nhiệt đới nóng bức này. Tuy nhiên, vì muốn ở lại cho đến giờ phút cuối cùng với một số ít nhân viên phụ tá, ông Martin đã yêu cầu chính phủ Hoa Kỳ cho kéo dài thêm thời gian cuộc triệt thoái nói trên. Nhưng cho đến lúc nhận được những mệnh lệnh trực tiếp và nghiêm khắc từ cố vấn Kissinger thì ông Martin đã không còn cách nào khác nên đành rời khỏi Sài Gòn vào lúc 4 giờ sáng ngày 30/4/1975. Vì vậy, ông Martin là người Mỹ cuối cùng theo đúng danh nghĩa đã rời khỏi Việt Nam. Theo tôi, ý nghĩa của cuộc triệt thoái này được kết luận rằng đó là những dấu hiệu sau cùng cho thấy sự can thiệp của cường quốc Hoa Kỳ vào VN từ thập niên 1950 đã hoàn toàn không đạt được mục đích gì và Hoa Kỳ phải ra đi trong sự thất bại, nhưng nếu mục kích quang cảnh sự di tản của Hoa Kỳ thì nhiều người thường có những nhận định thật lầm lẫn như “Những người Mỹ cuối cùng đã bị đánh bại trước thế lực của quân Bắc Việt và dùng trực thăng tẩu thoát trước khi Sài Gòn thất thủ”. Bởi vì trên thực tế, quân đội Hoa Kỳ đã rút quân khỏi VN từ hai năm trước đó và đối với họ thì những liên hệ trực tiếp về quân sự với cuộc chiến tranh VN đã thực sự chấm dứt từ lúc đó. Nói cách khác, Hoa Kỳ đã tuân theo đúng tinh thần của hiệp định Ba Lê và triệt thoái toàn bộ quân đội vào năm 1973. Tôi cũng đã chứng kiến cảnh những người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi VN vào ngày 29/3/1973. Quân đội Hoa Kỳ thực sự có mặt tại VN vào năm 1962 khi những viện trợ về nhân lực, vũ khí được gửi đến VN từ căn cứ Okinawa tại Nhật Bản. Năm 1964, lực lượng TQLC Hoa Kỳ đổ bộ vào Đà Nẵng đánh dấu sự kiện lần đầu tiên Hoa Kỳ đưa những chiến sĩ bộ binh của mình vào VN. Từ năm 1968 đến 1969, tổng số quân lính của Hoa Kỳ trú đóng tại VN đã lên đến hơn 540.000 người và từ cuối tháng 3/1973 những liên hệ quân sự này đã hoàn toàn chấm dứt. Nghi thức tiển biệt cuối cùng để đưa quân đội Hoa Kỳ về nước được chính quyền miền Nam tổ chức tại căn cứ không quân ở phi trường Tân Sơn Nhất vào ngày 29/3/1973 dưới những cơn gió thật lớn, thổi mạnh mà cho đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ. Tướng Cao Văn Viên -Tướng Federick Weyand- 1973 Lúc đó, đứng ngay cạnh tôi là nhà văn Kaiko Takeshi cũng đang ghi chép để thực hiện bài phóng sự về buổi lễ này. Tướng Cao Văn Viên, Tổng Tham Mưu Trưởng VNCH đã đọc bài diễn văn bằng Anh ngữ để chuyển lời cảm tạ của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tướng Frederick Weyand, vị Tư Lệnh Quân Đội Hoa Kỳ đặc trách viện trợ quân sự cho miền Nam đã đọc lời từ biệt bằng tiếng VN một cách ấp úng như sau: “Quân đội của quý vị nay đã có đủ khả năng chiến đấu để tự bảo vệ và điều này đã được chứng thực rõ ràng”. Dĩ nhiên là lời nói này hoàn toàn không đúng với hiện thực, nhưng trên thực tế có 516 quân nhân các cấp của Hoa Kỳ mới chính là những quân nhân cuối cùng rời khỏi VN sau đó. Đa số họ là những sĩ quan, cố vấn và hạ sĩ quan của Bộ Tư Lệnh Hoa Kỳ tại VN. Trong tư thế điềm nhiên, những quân nhân Hoa Kỳ trông rất bình thản leo lên máy bay C-141 để về nước. Tuy vậy, cũng có một số người đã tuôn rời dòng lệ xúc cảm. Vì thế, sau này khi Sài Gòn thất thủ sự chú ý của tôi đã hướng về sự kiện người VN di tản nhiều hơn sự di tản của những người Mỹ cuối cùng tại đây. Vào ngày 29 đến ngày 30/4/1975, số người Hoa Kỳ dùng trực thăng rời khỏi Sài Gòn ước chừng khoảng 1000 người và phần lớn là nhân viên ngoại giao, chuyên viên kỹ thuật chỉ có một số ít là dân thường. Riêng những người có mang vũ khí đều là những tướng tá và binh sĩ có nhiệm vụ bảo vệ toà Đại Sứ, con số này chỉ vỏn vẹn có 10 mấy người mà thôi. Ngược lại, trong cùng thời điểm này các trực thăng Hoa Kỳ đã thực hiện cuộc di tản cho gần 10.000 người VN, tức gấp 10 lần số người Mỹ vằ nếu tính luôn vài ngày trước đó thì Hoa Kỳ đã giúp đỡ việc di tản cho người VN gấp 10 mấy lần nhân số của họ. Nói khác hơn, Hoa Kỳ đã tận lực trong trách nhiệm cuối cùng của mình khi Sài Gòn hấp hối. Xế trưa ngày 29/4/1975, từ văn phòng làm việc ở một cao ốc, tôi đã nhìn thấy từ xa những cảnh di tản hỗn loạn, ồn ào trên các đường phố Sài Gòn. Trên bầu trời vang dội những âm thanh gay gắt của loại trực thăng AH-1G Cobra và Cobra bay khắp nơi trong thành phố. Nhìn từ cửa sổ, tôi trông thấy quang cảnh chính diện trên sân thượng của Trung Tâm Văn Hóa Pháp có nhiều người VN cả nam lẫn nữ đang đứng xếp hàng nối đuôi nhau như một đàn kiến và từng người một leo lên chiếc thang của những trực thăng Hoa Kỳ bay đến rồi đáp xuống tại đây. Nói chung là ở vào cục diện cuối cùng của cuộc chiến tranh VN, điều khẳng định xác thực là Hoa Kỳ không phải là một nhân vật chính mà đây chỉ là sự xung đột làm chuyển đổi lịch sử giữa một bên phòng thủ là miền Nam và một bên tấn công để xâm chiếm là phía Bắc Việt.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 29, 2014 1:18:53 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ: Kỳ 4: Hư cấu về MTGPMN@on the Net “Tại lãnh thổ miền Nam VN, thế lực chống lại chính quyền Sài Gòn và lực lượng quân đội Hoa Kỳ là thế lực nào? Những người đã dùng hình thức quân sự để tấn công quân đội và chính phủ miền Nam là ai?”. Đó là những câu hỏi trực tiếp liên quan đến bản chất của cuộc chiến tranh VN mà mỗi khi đặt vấn đề này, chúng ta cần phải nhận thức cho rõ ràng. Đối với một đặc phái viên của tờ báo Mainichi ở Sài Gòn lúc đó như tôi thì sau khi đặt chân đến đây, đó là những vấn đề trọng yếu hàng đầu mà tôi thường suy nghĩ để tìm hiểu. Những người đấu tranh ở miền Nam tự xưng là MTGP và thế lực này đã chủ trương rằng chính phủ miền Nam vốn chỉ là một sản phẩm của thực dân Pháp trước đó và sau này trở thành chính quyền bù nhìn của chủ nghĩa đế quốc Mỹ để được nhận viện trợ, vì vậy họ đã tuyên bố chống lại chính phủ miền Nam trong mục đích đánh đuổi ngoại bang, giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ, giành lại độc lập quốc gia. @on the Net Vào năm 1960, thế lực này đã chính thức kết thành một tổ chức gọi là MTGPMN. Tổ chức này đưa ra chủ trương rằng những hoạt động của họ là đấu tranh vì tự do độc lập cho dân tộc, chứ không đặt dưới một chủ nghĩa hay ý thức hệ nào khác. So với phía Bắc Việt, họ là một tổ chức riêng biệt của những người dân thuần túy ở miền Nam. Đương thời, MTGPMN đã sử dụng các hình thức quân sự để chiến đấu với chính quyền ông Ngô Đình Diệm, mặt khác họ còn thực hiện không biết bao hành vi khủng bố để tạo áp lực khiến cho chính quyền lúc đó cũng có phản ứng lung lay dao động. Tuy nhiên, ông Diệm với sự viện trợ của Hoa Kỳ từ trước đó, đã thành công trong việc củng cố thế lực và tăng cường sức mạnh quân đội nên chính quyền miền Nam tương đối tạo được nền tảng vững chắc. Năm 1969, MTGP tuyên bố thành lập chính phủ CMLTMNVN để khuếch trương thế lực chính trị và tạo thế hiện hữu song hành cùng chính phủ VNCH. Đương nhiên, họ cũng vẫn tuyên bố là “không hề dính líu với phía Bắc Việt cũng như tại miền Nam không hề có sự hiện diện chiến đấu của quân lính cộng sản Bắc Việt”. Những tuyên bố trên đây quả là điều hư cấu vĩ đại, hay nói khác đi đó là sự nguỵ tạo lịch sử to lớn do phía Bắc Việt dựng nên vì trong lịch sử hơn 30 năm của cuộc chiến VN từ đầu chí cuối đều là do quân đội Bắc Việt dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản VN gây ra. Hình một binh sĩ chính quy của CS Bắc Việt tử trận ngày 12 tháng 8 năm 1968 tại ngọn đồi Nui Dinh. Nguồn: vvaansw.org Đạo quân này đã giữ một vai trò chính yếu trong tất cả những cuộc tấn công về quân sự lẫn chính trị để chống lại miền Nam VN. Ngoài ra, lồng trong cuộc chiến đấu với mục đích vì độc lập tự do của dân tộc mà họ nêu ra, quân Bắc Việt còn được trang bị bằng những ý thức hệ của chủ nghĩa Mác- Lênin một cách cuồn tín nhằm thực hiện một cuộc cách mạng theo khuynh hướng chủ nghĩa cộng sản. Ngay chính đảng cộng sản VN sau khi chiếm được miền Nam cũng đã bộc lộ một cách trắng trợn đến mức làm cho mọi người phải kinh ngạc về cái gọi là “cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc” của MTGPMN vốn thuần túy dân tộc không bị áp đặt dưới một ý thức hệ chính trị nào, khi cho thấy đây chỉ là tấm bình phong ngụy tạo bằng cách khai tử lập tức tổ chức MTGPMN. Hội nghị "Hiệp thương thống nhất" 27-11-1975 Việc những người thực hiện cuộc đấu tranh cách mạng vì lòng tin của họ trên quan điểm chính nghĩa và họ tự đặt ra những điều hư cấu để tác động vào mặt tuyên truyền hầu đạt được mục đích chiến thắng tuy là một điều hết sức tự nhiên, nhưng đối với những người thứ ba đứng ngoài cuộc chiến, tức không có liên hệ gì lại đi thông tin và truyền đạt rộng rãi những điều tuyên truyền mang tích cách hư cấu này thì nó lại là một vấn đề khác. Đó chính là trường hợp của đa số những người trí thức và giới báo chí truyền thông Nhật Bản. Tuy có nhiều người biết hoặc không biết về sự thật hay sự ngụy tạo của ý nghĩa cuộc chiến tranh VN nhưng dường như tất cả vẫn mặc nhiên chấp nhận và loan tải một cách không suy xét, tức là “nghe sao nói vậy”. Bản thân tôi cũng xuất thân từ môi trường hiểu biết cũng như những nhãn quan chính trị của Nhật Bản rồi sau đó lại được có cơ hội sống tại VN nên việc tôi tương đối nhận thức được mức độ cách biệt giữa sự chân thật và ngụy tạo nơi cuộc chiến VN cũng không có gì là lạ lùng. Và giờ đây nghĩ lại, quả thật là trong 3 năm rưỡi ở VN đã cho tôi rất nhiều kinh nghiệm về những lường gạt chính trị vĩ đại này qua việc từng chiếc mặt nạ trá hình lần lượt bị rơi xuống phơi bày những sự thật rõ ràng. Đường mòn HCM Đơn vị chính quy CSBV trên đường vào Nam Võ Nguyên Giáp và các Tướng CSBV trên đường mòn HCM Khi quyết định sống ở Sài Gòn, tôi đã cố gắng nhớ tiếng Việt và tiếp xúc với thật nhiều người bản xứ. Đầu tiên, tôi đã hiểu rằng việc người dân ở đây gọi thế lực chống lại chính quyền miền Nam bằng danh từ “cộng sản” vốn là điều thông thường. Và ai cũng biết rằng thế lực của cộng sản với phía Bắc Việt thật ra chỉ là một cho nên sự nhận thức này của họ được suy diễn rộng ra như vậy cũng là mang tính cách đương nhiên. Nhưng ở Sài Gòn cũng có người gọi lực lượng cộng sản là lực lượng cách mạng. Tuy nhiên, trong giới truyền thông Nhật Bản lại thường sử dụng từ ngữ “lực lượng giải phóng” để ám chỉ những thành phần chống lại chính phủ miền Nam. Mặc dù tổ chức MTGPMN được gọi tắt là MTGP, nhưng ta không thể nào gán ghép từ ngữ “giải phóng” vào những danh xưng như “quân giải phóng”, “phe giải phóng”, “lực lượng giải phóng” để gọi tên các thế lực chống đối miền Nam một cách tùy tiện và chủ quan như vậy được. Ngay cả giới truyền thông quốc tế như các hãng thông tấn AP, UPI, AFP v.v.., họ cũng chỉ dùng các từ như “quân Bắc Việt”, “phía cộng sản”, “việt cộng” hoặc “lực lượng cách mạng” mà thôi. Theo sự hiểu biết giới hạn của tôi, thì họ không bao giờ sử dụng các từ ngữ “quân giải phóng”, “phe giải phóng”, “lực lượng giải phóng” để nói về MTGP hoặc quân đội Bắc Việt cả. Biểu tình phản đối chiến tranh VN tại Nhật, 27-4-1965 Do đó, danh xưng MTGP chỉ là một trường hợp đặc biệt, vì ý nghĩa của ngôn từ giải phóng đã mang theo một tác động tâm lý về mặt tuyên truyền rất hiệu quả là cởi mở sự trói buộc để trở thành tự do. Có nghĩa là tự thân của từ ngữ này đã vô hình chung mang một ý nghĩa rất chủ quan. Trong một cuộc đấu tranh, nếu ta gọi một bên là phe giải phóng thì tất nhiên ta đã coi bên kia là phía trói buộc, đàn áp tự do và chẳng khác nào ta đã nhận định chủ quan để phân chia ra hai bên gồm một bên thiện và một bên ác, trong khi ta lại chưa rõ hư thực thế nào. Và nếu như vậy thì ta đặt trường hợp ở bán đảo Triều Tiên xảy ra cuộc chiến do phía Bắc Hàn thực hiện việc Nam tiến để đánh lại quân đội Hoa Kỳ và Đại Hàn thì lúc đó giới truyền thông Nhật cũng gọi quân Bắc Hàn là “quân giải phóng” hay “lực lượng giải phóng” hay sao? Vì từ trước đến nay, Bắc Hàn luôn đề xướng một cuộc giải phóng để đánh đổ chính quyền Đại Hàn và chủ nghĩa đế quốc Hoa Kỳ. Rõ ràng là khi Bắc Hàn đưa ra chủ trương giải phóng như vậy, ta đã nhận thấy tính phi hiện thực nơi lập trường cực đoan của họ vì khách quan mà nhìn nhận thì Bắc Hàn mới chính là nơi cần được giải phóng. Ngược lại, đứng trên lập trường dư luận quốc tế, Nhật Bản là một quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ lẫn Đại Hàn thì nếu trường hợp Đại Hàn bị bại dưới tay Bắc Hàn, liệu giới truyền thông có thấy được sự kỳ dị của “sự giải phóng” này không? Và lúc đó nên gọi là “sự kiện” gì đây? Cải táng nạn nhân bị Việt Cộng thảm sát, Huế 1968 Tóm lại, những lực lượng đấu tranh tự xưng mình là lực lượng giải phóng, lực lượng cách mạng chỉ phản ảnh sự chủ quan về cách nhìn nơi cuộc chiến đấu mà họ cho là có chính nghĩa. Cũng như nếu nhìn ngược lại từ phe đối lập thì phe giải phóng hoặc phe cách mạng cũng chỉ là những thành phần phản loạn mà thôi. Cho nên khi người thứ ba đứng ngoài cuộc chiến gọi một bên là lực lượng giải phóng thì chỉ cho thấy một sự phán đoán không trung thực và thiên kiến. Đặc biệt là trong thời gian chiến tranh tại VN tất cả báo chí toàn quốc Nhật Bản đều lấy tin tức liên quan từ hãng thông tấn Kyodo một cách thật cực đoan, mà hãng Kyodo cũng chỉ dịch lại những bài ký sự của những hãng thông tấn ngoại quốc như UPI, AP một cách sai lạc về từ ngữ, vì trong khi nguyên văn tiếng Anh là “quân Bắc Việt”, “quân cộng sản” thì ban dịch thuật của Kyodo lại chuyển dịch thành “quân giải phóng”, “lực lượng giải phóng” khiến dư luận Nhật Bản vốn đã mù mờ về cuộc chiến VN càng trở nên lệch lạc thêm nhiều hơn. Nếu thực sự họ có ý đồ bẻ cong ngòi bút dịch thuật như vậy thì họ đã trở thành những nhà báo thiên kiến quá đáng, không làm tròn chức năng của người ký giả trong lĩnh vực truyền thông quốc tế. Sài Gòn Thất Thủ: Kỳ 5: Sự bắt đầu của màn chung kếtNgày 10/3/1975, thị xã Ban Mê Thuột của tỉnh Đắc Lắc ở cao nguyên Trung phần miền Nam Việt Nam sau khi bị quân Bắc Việt đột kích và tấn công dữ dội đã thất thủ. Tính từ ngày này cho đến vỏn vẹn 50 ngày sau đó thì thủ đô Sài Gòn cũng chịu chung số phận như Ban Mê Thuột, đưa đến sự sụp đổ toàn diện của chính quyền miền Nam và mở đầu cho giai đoạn chấm dứt cuộc chiến Việt Nam kéo dài hơn 30 năm. Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia nhận được viện trợ về kinh tế lẫn quân sự từ Hoa Kỳ một cách liên tục. Tuy một phần lãnh thổ bị quân Bắc Việt chiếm đóng, nhưng quốc gia này vẫn kiểm soát được khoảng 20 triệu dân và có khoảng 1 triệu quân nhân, đồng thời được sự công nhận của hơn 90 quốc gia trên thế giới lúc bấy giờ. Việt Nam Cộng Hòa đã hứng chịu sự de dọa và công kích của phía Bắc Việt trong suốt một thời gian dài để rồi cuối cùng sau một chiến dịch tấn công quân sự quy mô trong vòng 50 ngày của đối phương, quốc gia này đã bị tiêu diệt hoàn toàn. Đây là một sự kiện hiếm có đối với nền lịch sử cận đại của thế giới. Trong những giai đoạn chuyển biến quan trọng cuối cùng của cuộc chiến tranh Việt Nam, tôi đã có mặt ở Sài Gòn với nhiệm vụ thông tin. Thời gian 3 năm làm công tác phóng viên tại đây, đối với tôi là một chuỗi ngày dài với những bận rộn về viết lách, những lúc di động cấp tốc để bám sát chiến trường, những nỗi khủng hoảng lo sợ về tình hình chiến cuộc căng thẳng, những phẫn nộ về các mưu mô chính trị, những cảm xúc trước tình cảnh bị thương v.v..., tất cả đều là những sự kiện mà đối với sự suy nghĩ thông thường của một đặc phái viên, có nằm trong mơ tôi cũng không thể tưởng tượng được các diễn biến đột ngột và khích động này. Từng đợt sóng cuồng ào ạt dâng lên trong tình thế dầu sôi lửa bỏng, có lúc tạm lắng yên và tưởng đâu nó sẽ trở lại bình thường nhưng chỉ trong khoảng khắc cường độ sôi động của chiến trường lại tăng lên gấp bội, đưa đến những cục diện phũ phàng. Cuộc chiến tranh Việt Nam là như vậy đó. Thị xã Phước Bình, tỉnh Phước Long Đối với miền Nam, trong ngày Tết Nguyên Đán năm 1975 đã xảy ra một điềm bất thường là việc thị trấn Phước Bình của tỉnh Phước Long cách Sài Gòn khoảng 130km về hướng Bắc đã bị quân Bắc Việt chiếm đoạt . Phước Bình vốn là một thị trấn nhỏ nằm trong vùng núi non hiểm trở. Kể từ khi hiệp định Ba Lê được ký kết, tại nơi đây không xảy ra một cuộc giao tranh quân sự nào cả. Vì thế, đây là một hành động vi phạm trắng trợn điều khoản cơ bản hiệp định Ba Lê của phía Bắc Việt, nhưng họ vẫn tiếp tục mở rộng địa bàn tấn công và sau đó đã làm chủ tình hình toàn bộ tỉnh Phước Long. Trâng tráo hơn nữa là phía Bắc Việt đã tuyên bố rằng vì quân đội miền Nam vi phạm hiệp định Ba Lê nên họ phải tấn công bằng quân sự như vậy. Nhưng về sự kiện này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu lại có hành động khó hiểu là không cho viện binh đến Phước Long để tiếp cứu. @ on the Net Xét về mặt chiến lược, Phước Long là một cứ địa nằm dọc theo biên giới Campuchia, có dân số ít ỏi lại thiếu tài nguyên, đồng thời nó cũng nằm sát ngay khu vực của đường mòn HCM nên khá bất lợi trong việc đưa quân đến đây để phản kích lại quân Bắc Việt. Nhưng điều quan trọng hơn là có lẽ ông Thiệu đã muốn chứng minh cho Hoa Kỳ thấy rằng Bắc Việt đang ngang nhiên vi phạm hiệp định Ba Lê và uy hiếp miền Nam, như vậy, Hoa Kỳ sẽ không thể ngưng viện trợ được. Đây chính là một sách lược của ông Thiệu. TT Nguyễn văn Thiệu và TT Richard Nixon @ nixonlibrary.gov Tuy nhiên, phía Hoa Kỳ đã không có một phản ứng gì về việc này, hay nói đúng hơn là ngoài việc lên tiếng chỉ trích, phê phán Bắc Việt vi phạm hiệp định Hoa Kỳ đã không có một hành động can thiệp nào và Quốc Hội Mỹ vẫn tiếp tục chương trình cắt giảm ngân sách viện trợ cho miền Nam. Bởi vì lúc đó, Tổng Thống Nixon, người từng tuyên bố: “Hoa Kỳ sẽ không ngồi yên nhìn Bắc Việt vi phạm hiệp định ngưng bắn”, đã phải từ chức sau vụ tai tiếng “Watergate” và dư luận dân chúng Hoa Kỳ cũng đang tạo áp lực mạnh mẽ lên Quốc Hội về việc yêu cầu chính phủ chấm dứt những hành động can thiệp vào Việt Nam. @ The New York Times Đối với những nhân vật đầu não của Bắc Việt thì thái độ của Hoa Kỳ lúc này chính là một yếu tố quyết định trong kế hoạch tấn công quy mô cuối cùng để chiếm lấy miền Nam và nó cũng mang ý nghĩa chiến lược có tầm vóc lịch sử. Theo hồi ký của Văn Tiến Dũng, thời điểm này Bắc Việt đã hoàn tất một kế hoạch tổng tấn công quy mô sau khi phán đoán về phương tiện chiến đấu giảm sút của quân đội Việt Nam Cộng Hòa vì bị Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ. Tuy vậy, phản ứng của Hoa Kỳ vẫn còn là chìa khoá quyết định thành bại của kế hoạch tổng tấn công cho nên theo nhận định này thì nếu Hoa Kỳ tiếp tục ứng viện cho miền Nam bằng những cuộc oanh tạc miền Bắc thì quân cộng sản Bắc Việt sẽ có khó cơ hội chiến thắng. Đây quả là một chiến lược khôn khéo tránh đối đầu trực tiếp với Hoa Kỳ của phía Bắc Việt và cũng vì vậy mà họ đã tung quân đánh chiếm Phước Long để dò thử phản ứng của Hoa Kỳ. Thế nhưng, sau khi chiếm được Phước Long một cách dễ dàng thì Bắc Việt đã đi đến quyết định là cho dù Hoa Kỳ có phản ứng ra sao đi nữa thì họ vẫn không lùi bước. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử cuộc chiến, Bắc Việt đã có một quyết định dứt khoát tấn công triệt để. Võ Nguyên Giáp, Hà Nội 1-1975 @ on the Net Trước đó, vào ngày 8/1/1975, bộ chính trị trung ương đảng lao động Việt Nam, tức đảng cộng sản VN đã dự định trong kế hoạch tấn công nói trên rằng: “Sẽ bắt đầu tổng công kích miền Nam vào mùa Xuân năm 1975 và trong vòng hai năm, tức đến giữa năm 1976 sẽ giải phóng hoàn toàn miền Nam”. Tóm lại, cuộc tấn công Ban Mê Thuột vào tháng 3/1975 đã chính thức mở màn cho chiến dịch tổng tấn công này. Để thực hiện cuộc tổng tấn công, Văn Tiến Dũng đã bí mật rời khỏi Hà Nội vào tháng 2/1975 vào Nam bằng những con đường mòn bí mật mới được thiết lập tại phía Đông dãy Trường Sơn. Tại đây, Văn Tiến Dũng đã trực tiếp chỉ huy những cuộc tấn công bất ngờ vào Ban Mê Thuột và lúc đó ở chung quanh tỉnh Pleiku, một trong các cứ địa hiểm yếu của miền Trung cũng đã bị bao vây chặt chẽ bởi đại quân của Bắc Việt với mục địch ngụy trang cho một cuộc tấn công chính thức vào đây hầu phân tán sự phòng thủ của quân đội VNCH tại Ban Mê Thuột. Tuy nhiên, trên thực tế đã có tới 3 sư đoàn quân Bắc Việt đã hiện diện sẵn để chuẩn bị cho những cuộc tấn công bất ngờ vào Ban Mê Thuột. Trong khi đó, thành phần chủ lực của VNCH là sư đoàn 23 được điều động về Pleiku để tiếp ứng tạo thành một lực lượng phòng thủ hùng hậu duy nhất tại đây. Điều này cho thấy sự thay đổi mục tiêu tấn công trong lúc có đầy đủ binh lực với thế áp đảo đối phương của Bắc Việt, lần đầu tiên đã trở thành một điều căn bản trong chiến lược của họ. Cùng thời điểm này, tại quân khu 2 bao gồm toàn thể miền Trung, quân VNCH đang hiện diện với quân số tương đương với 2 sư đoàn nhưng Bắc Việt cũng đã phối trí tại đây tới 5 sư đoàn. Với tương quan lực lượng về quân số như vậy, dĩ nhiên là những trận tập kích sau đó vào Pleiku của quân Bắc Việt được coi như sẽ dễ dàng tạo áp lực nặng nề cho quân đội VNCH. Hơn nữa, Pleiku lại là một cứ điểm quan trọng của Bộ Tư Lệnh Quân Khu 2 VNCH nên ai cũng nghĩ rằng quân đội miền Nam sẽ tử thủ để bảo vệ cứ địa này. Trong tình thế khẩn cấp như vậy, vào buổi sáng ngày 16/3/1975 khi tôi đang có mặt ở Sài Gòn thì phóng viên kỳ cựu Nguyễn Gia Thôi của đài phát thanh chính phủ miền Nam hớt hãi báo tin cho tôi biết rằng: “Ông ơi, tại Pleiku hình như đã xảy ra chuyện gì rồi, vì đột nhiên những tin tức truyền từ đó về đây đã hoàn toàn bị cắt đứt. Nhưng quân cộng sản vẫn chưa tấn công vào Pleiku kia mà? Thật là khó hiểu quá”. Đối với tôi thì đây là một nguồn tin có tính cách liên quan đến biến chuyển lịch sử bại trận hoàn toàn của quân đội miền Nam. Thì ra, ông Thiệu bỗng nhiên ra lệnh bỏ Pleiku và triệt thoái cao nguyên, rút hết toàn bộ quân đội đang phòng thủ ở miền Trung về Nam. Ông Thiệu đã nhận định là vì Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ nên quân đội miền Nam đã không đủ vũ khí đạn dược để chiến đấu cùng quân số hùng hậu của quân BV. Sau khi rút quân từ miền Trung, quân đội VNCH sẽ tập trung để tạo thành tuyến phòng thủ bao bọc các nơi đông dân cư ở ven biển và thủ đô Sài Gòn trong một chiến thuật triệt để tử thủ phần đất miền Nam còn lại. Thế nhưng, chiến thuật này đã hoàn toàn thất bại vì đội quân triệt thoái của miền Nam đã tựa như những mảnh băng sơn tan rả và bị chôn vùi dưới cơn hồng thủy lánh nạn của người dân miền Trung lúc đó thật ào ạt và mãnh liệt. Nói khác đi là quân đội VNCH đã mất đi thế lực chiến đấu. Sự kiện này đối với Văn Tiến Dũng chẳng khác nào một cơ hội bằng vàng vì “bất chiến tự nhiên thành” và theo kế hoạch về một tình thế khống chế toàn bộ miền Trung sẽ bắt đầu từ năm 1976 nay lại hoàn thành sớm hơn dự định. Vì vậy, Văn Tiến Dũng đã ra lệnh cho toàn quân Bắc Việt truy kích ráo riết các tuyến đường tháo lui của quân đội miền Nam. Vào lúc này, Hà Nội đã dốc hết toàn lực để sớm đánh chiếm Sài Gòn bằng cách đưa thêm quân số của quân đoàn 2 cùng dân quân tự vệ vượt qua vĩ tuyến17 để đột nhập Quảng Trị và Huế, đồng thời còn tận dụng cả lực lượng dân quân trừ bị khiến cho số lượng nhân viên trong bộ máy hành chính và sản xuất đã giảm xuống còn 1/3. Nói chung là Hà Nội đã rót hết lực lượng chiến đấu vào miền Nam với tổng cộng 20 sư đoàn dân quân lúc đó đang trên đường Nam tiến. Kết quả là phía miền Nam đã từ từ mất Huế, Đà Nẵng và các khu vực chung quanh Sài Gòn cũng lần lượt bị rơi vào vòng kiểm soát của quân Bắc Việt. Trong quá trình này đã có tới mấy triệu người dân miền Nam phải bỏ chạy lánh nạn cũng như có biết bao thảm cảnh bi thương thống khổ đã xảy ra khắp nơi tại miền Nam Việt Nam.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 29, 2014 1:24:09 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ: Kỳ 6: Những cảm nhận sâu sắc về sự tàn ác của chủ nghĩa cộng sảnÔng Trần Văn Đỗ, circa 1990 @ On the Net honvietradio.blogspot.com.au/search/label/chi%E1%BA%BFn%20tranh%20vi%E1%BB%87t%20nam“Lẽ ra hai miền Nam Bắc Việt Nam đã được tiếp tục chung sống một cách lâu dài theo tinh thần của hiệp định đình chiến Genève, nhưng vì phía Bắc Việt đã chủ trương dùng quân sự thôn tính miền Nam nên đã bắt đầu cho một cuộc chiến kéo dài cho đến ngày hôm nay”. (Cựu Ngoại trưởng VNCH Trần Văn Đỗ) Người đã từng 3 lần giữ chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao của miền Nam là ông Trần Văn Đỗ, một nhân vật mà thỉnh thoảng gợi lên nơi tôi sự tưởng tượng về hình ảnh của loài chim hạc trắng vì dáng người ông cao ốm, mảnh mai nhưng cử động nhanh nhẹn, cộng thêm mái tóc bạc mềm mại và khuôn mặt trắng, thon dài. Tóm lại, tất cả những biểu hiện bên ngoài nơi ông đã khiến cho tôi có cảm giác như vậy. Cho đến thời điểm cận ngày Sài Gòn thất thủ, tôi vẫn thường ghé thăm ông và được nghe ông nói chuyện về tình hình chính trị cũng như về mặt ngoại giao của VNCH. Nhà ông ở một căn apartment không lớn lắm nằm trên đại lộ Hồng Thập Tự gần ngay Dinh Độc Lập. Những lúc gặp gỡ như vậy, ông thường nói chuyện rất dài và lúc nào cũng tiếp đãi khách bằng những ly trà nóng thơm mùi hoa lài. Và nếu càng nghe ông phân tích về những biến chuyển tình thế của từng giai đoạn, ta sẽ càng cảm nhận sâu sắc thêm về ý nghĩa của cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông Đỗ sinh năm 1931 tại miền Bắc Việt Nam. Ông đã tốt nghiệp đại học Y khoa tại Paris nên được coi là một trong những nhân tài ưu tú của VN dưới thời Pháp thuộc. Sau đó, ông đã phục vụ cho Pháp lẫn Việt Nam qua cương vị bác sĩ và cho đến năm 1951 khi vua Bảo Đại trở thành nguyên thủ quốc gia thì ông được tuyển nhiệm làm chức vụ Giám Đốc Quân Y. Vào năm 1954, ông Đỗ là người đại diện cho chính phủ miền Nam VN tại hội nghị Génève, đồng thời kiêm luôn chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao cho đến năm sau đó, tức năm 1955 khi chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm được thành lập. Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ 1967 @ on the Net Sau khi chính quyền ông Ngô Đình Diệm bị lật đổ qua cuộc đảo chính năm 1963 thì đến năm 1965, ông Đỗ trở thành Phó Thủ Tướng trong nội các của Thủ Tướng Phan Huy Quát. Từ đó cho đến năm 1967, mặc dù chỉ trong một thời gian ngắn nhưng ông cũng đã giữ chức Bộ Trưởng Bộ Ngoại Giao lần thứ hai. Với quá trình thay đổi chức vụ của ông Đỗ liên tục như vậy, cũng phần nào cho thấy sự phức tạp của dòng lịch sử cận đại Việt Nam. BS Trần Văn Đỗ và Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu TTK/UBLĐQG 1967 @ on the Net Lúc tôi quen biết được ông thì ông cũng đã khoảng 70 tuổi và mỗi khi tôi ngỏ ý được tiếp kiến thì ông đều vui vẻ, sảng khoái nhận lời. Qua những lần gặp gỡ đó, ông Đỗ tuy vốn có trình độ Anh ngữ cao, nhưng ông đã sử dụng lối giải thích thật dễ hiểu để phân tích cho tôi nghe về tình hình và lịch sử VN cũng như những vấn đề liên quan đến cục diện quốc tế. Có lần ông đề cập đến việc quân đội Nhật xâm chiếm bán đảo Đông Dương trong thời Pháp thuộc như sau: “Quân đội Nhật khi đến VN thì kể cả sĩ quan và binh linh đều có một tinh thần kỷ luật cao độ và uy thế của họ đã áp đảo hẳn quân đội Pháp thời bấy giờ. Tôi rất ngưỡng mộ tinh thần tôn trọng kỷ luật của họ”. Đối với tôi, những điều đã được học hỏi từ trước đến nay về hành động xâm chiếm Đông Nam Á của quân đội Nhật được coi như là một chuyện không đúng nên nhận xét của ông Đỗ đã khiến tôi thật bất ngờ. Có lẽ là một người đã từng trải và có nhiều kinh nghiệm về lịch sử nên ông tỏ ra có lập trường dứt khoát nơi sự thiện cảm đối với tinh thần kỷ luật quân đội Nhật. Rồi kế đến, những nhận xét của ông về hội nghị Génève lại càng súc tích và sâu sắc hơn. Ông nói rằng với cương vị đại diện cho phái đoàn miền Nam Việt Nam lúc đó, ông đã không có một sự nhượng bộ nào để làm mất danh dự cho quốc gia mình và hội nghị Génève 1954 nhằm giải quyết những vấn đề phức tạp tại Việt Nam trong một tình thế hỗn loạn khi quân đội Pháp đang chiến đấu chống lực lượng Việt Minh do HCM lãnh đạo khởi đầu cho giai đoạn 1 của cuộc chiến tranh Việt Nam. Hội nghị Geneve 1954 @ on the Net Trong hội nghị này đã có sự tham dự của đại diện các nước như Ngoại Trưởng Bidault của Pháp, Ngoại Trưởng Eden của Anh, Ngoại Trưởng Motolov của Liên Xô, Ngoại Trưởng Dulles của Hoa Kỳ. Phía Trung Quốc và Bắc Việt cũng cử hai đại diện là Thủ Tướng Chu Ân Lai và Thủ Tướng Phạm Văn Đồng. Đại diện 4 nước CS tại hội nghị Geneve 1954 Nam Il (Bắc Hàn) Molotove (liên Sô) Chu Ân Lai (Trung Cộng) P V Đồng (CSVN) Tại hội nghị Genève đã ký kết một bản hiệp định đình chiến giữa các phe tham chiến ở Việt Nam và đưa ra một bản tuyên ngôn cuối cùng quy định về việc tạm thời chia cắt Việt Nam ra làm hai miền và hai năm sau đó sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử để thống nhất quốc gia. Nhưng trên phương diện áp buộc của luật pháp quốc tế thì chỉ có việc đình chiến là được thực hiện còn bản tuyên ngôn cuối cùng nói trên thì không một đại diện nước nào chịu ký kết vào đó cả. Hơn nữa, phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa cũng biểu quyết phản đối bản tuyên ngôn này, và vì vậy ông Đỗ đã nhấn mạnh rằng: “Lẽ ra hai miền Nam Bắc Việt Nam đã được tiếp tục chung sống một cách lâu dài theo tinh thần của hiệp định đình chiến Génève, nhưng vì phía Bắc Việt đã chủ trương dùng quân sự thôn tính miền Nam nên đã bắt đầu cho một cuộc chiến kéo dài cho đến ngày hôm nay”. Ông cũng cho rằng qua hiệp định Ba Lê được ký kết năm 1973, trên thực tế Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa coi như đã đầu hàng quân Bắc Việt: “Hiệp định Génève đã thành công hơn hiệp định Ba Lê rất nhiều vì nó quy định được việc rút quân của phía Bắc Việt và người dân hai miền Nam Bắc đều được tự do chọn lựa nơi sinh sống của mình. Còn thì hiệp định Ba Lê chỉ đề cập đến việc quân đồng minh triệt thoái khỏi lãnh thổ Việt Nam và chấp nhận sự hiện diện của quân xâm lăng Bắc Việt tại miền Nam Việt Nam. Trong khi Hoa Kỳ với 500.000 binh sĩ mà không diệt được quân Bắc Việt, còn chúng tôi với lực lượng đơn độc làm sao có thể thắng được kẻ địch. Tóm lại, với nỗ lực ngoại giao của ông Kissinger vị cố vấn tối cao của một cường quốc hạng nhất thế giới là Hoa Kỳ trong ba năm qua là sự lãng phí vô ích và rốt cuộc chỉ nhận được kết quả là sự đầu hàng mà thôi”. Ngoại trưởng Mỹ Kissinger và Lê Đức Thọ, bên lề hội nghị Paris 1973 @ on the Net Ông Đỗ đã vạch cho ra cho tôi biết về bản chất thật sự của cuộc chiến tranh Việt Nam, đó là một cuộc chiến được kết hợp bởi sự chiến đấu giành lại độc lập dân tộc với một cuộc cách mạng mang đặc tính chủ nghĩa cộng sản cũng chủ trương giành lại độc lập, nhưng chủ nghĩa cộng sản có thật sự tốt hay không hoặc chủ nghĩa cộng sản có đại diện cho chính nghĩa hay không thì đó còn là một nghi vấn. Hơn nữa, để lật đổ chế độ thực dân tại sao lại chỉ áp dụng phương pháp cách mạng đặc tính của chủ nghĩa cộng sản. Ông Đỗ còn giải thích rõ cho tôi nghe về lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp. Sau khi bị đặt dưới ách thống trị của thực dân Pháp kể từ những năm đầu thập niên 1880, tinh thần đấu tranh vì độc lập của người Việt Nam ngày càng dâng cao mãnh liệt. Đương thời, những tổ chức kháng chiến chống Pháp có hệ thống chặt chẽ là Việt Nam Quốc Dân Đảng, Việt Nam Quang Phục Hội, đảng Đại Việt v.v... Vì những tổ chức này không tiêm nhiểm tư tưởng cộng sản nên được gọi là những lực lượng chủ nghĩa dân tộc. Trong khi chủ thuyết Mác Lênin do HCM đề xướng tại Việt Nam, lúc đó đang có những liên hệ mật thiết với khối cộng sản quốc tế. Còn những lực lượng chủ nghĩa dân tộc đối với phe theo chủ thuyết Mác Lênin thì có hai lập trường một là không màng đến, hai là coi như kẻ địch. Và ông Trần Văn Đỗ là một trong những nhân vật tiếp nối hệ phổ của những người đã từng có kinh nghiệm đấu tranh thuộc đảng Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng đương thời đang ở Sài Gòn như ông Trần Văn Tuyên Dân Biểu Hạ Viện Quốc Hội, ông Đặng Văn Sung Thượng Nghị Sĩ Quốc Hội, giáo sư Nguyễn Ngọc Huy v.v... Sau khi quân Nhật đầu hàng vào năm 1946, các thế lực kháng chiến Việt Nam đã kết hợp lại để thành lập chính phủ liên hiệp kháng chiến và một cán bộ của Việt Nam Quốc Dân Đảng là ông Trần Văn Tuyên đã cho biết về kinh nghiệm liên hiệp với phe HCM như sau: “Trong chính phủ liên hiệp, đảng cộng sản Việt Nam đã dùng tất cả những thủ đoạn để loại trừ các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc”. HCM và chính phủ Liên hiệp kháng chiến 1945 @ on the Net Âm mưu của đảng cộng sản Việt Nam là, đầu tiên, để chống lại kẻ thù chung thực dân Pháp họ đã kêu gọi sự tập hợp của những lực lượng kháng chiến theo chủ nghĩa dân tộc hầu lợi dụng những thành phần này để bành trước thế lực, sau đó phe cộng sản lại giết hại bất cứ những ai không đi theo chủ nghĩa cộng sản như họ, để độc quyền thao túng vũ đài chính trị tại Việt Nam. Ông Nguyễn Ngọc Huy và ông Đặng Văn Sung cũng đã đưa ra nhiều bằng chứng xác thực về trường hợp những nhà cách mạng dân tộc không theo chủ nghĩa cộng sản thời đó đã bị phe Việt Minh, tức cộng sản dùng các thủ đoạn tinh vi để lường gạt hoặc sát hại. Tóm lại, đối với những thế lực chính trị không đồng thuận cùng tử tưởng với chủ nghĩa cộng sản thì họ đã cảm nhận đến xương cốt và hiểu biết một cách sâu sắc về bản chất tàn ác của chủ nghĩa cộng sản. Vào thời điểm cuối cùng tháng 4/1975 trong tình thế nguy ngập, ông Đỗ đã rời khỏi Sài Gòn đi tỵ nạn ở ngoại quốc và cho đến những giây phút cuối ông vẫn lên tiếng chỉ trích, phê phán hành động phản bội đồng minh của phía Hoa Kỳ. Từ lúc Sài Gòn thất thủ cho đến 15 năm sau đó, tôi vẫn tiếp tục liên lạc với ông Đỗ đã định cư tại Pháp và sống chung với người con trai là bác sĩ có phòng mạch tại Paris. Cứ khoảng hai năm một lần tôi đều đến viếng thăm ông. Nhà ông ở trong một chung cư gần đại lộ Victor Hugo và vẫn như lúc còn ở Sài Gòn ông luôn tiếp đãi tôi bằng những ly trà thơm dịu mùi hoa lài cùng với lối ăn mặc chỉnh tề. Ông phân tích cho tôi nghe chuyện chiến tranh Việt Nam. Mặc dù đã là quá khứ nhưng tôi cứ tưởng như những chuyện đang xảy ra trước mắt mình. Vào mùa Thu năm 1990, thật là hiếm hoi khi tôi nhận được thư ông nhắn rằng: “Xin mời anh đến để chúng ta cùng nói chuyện”. Và tôi lập tức bay sang Pháp thăm ông. Thời điểm này, Việt Nam đang sa lầy vào cuộc chiến Campuchia và tình hình quốc nội đang gặp phải nhiều khó khăn cùng cực. Qua cuộc gặp gỡ này, ông Đỗ có vẻ như già yếu hẳn đi, ông nói: “Việt Nam hiện nay tựa như một căn nhà đang chìm đắm tai ương hoạn nạn”. Cuộc gặp ông lần đó đã để lại trong tôi một tình cảm lạ kỳ, thật khó tả. Một tháng sau, tôi nhận được tin ông Đỗ đã qua đời. * (Ghi chú của HVR: Thân phụ ông Trần Văn Đỗ là cụ Trần Văn Thông, từng làm Tổng đốc Nam Định 17 năm. Cậu ruột ông là cụ Bùi Quang Chiêu, người sáng lập Đảng Lập Hiến Đông Dương. Ông là em ruột luật sư Trần Văn Chương, nguyên Đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ thời đệ nhất Cộng Hòa, bà Trần Lệ Xuân vợ Cố vấn Ngô Đình Nhu gọi ông là chú).
|
|
|
Post by Can Tho on May 20, 2014 8:24:23 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ: Kỳ 7: Vai trò lịch sử quái dị của hiệp định Ba Lê
Saigon, Continetal Hotel, 1973 @fpsjmya.org Vào buổi sáng sớm ngày bắt đầu có hiệu lực của hiệp định Ba Lê, bầu trời Sài Gòn được tô điểm bằng những màu sắc xanh trong thật đẹp, tôi đã dùng xe hơi chạy vòng quanh Dinh Độc Lập nên ngắm nhìn được những quang cảnh này. Trong bầu không khí êm đềm lúc đó, những hồi chuông thánh thót vang lên từ Nhà Thờ Đức Bà nằm đối diện với cục Bưu Điện Sài Gòn tựa như báo hiệu chính thức cho cuộc ngưng bắn được quy định nơi hiệp định Ba Lê. Hiệp định Ba Lê là một bản văn quy định về việc đình chiến và những thủ tục tất yếu để tiến hành việc hòa giải dân tộc giữa hai miền Nam Bắc VN. Đây cũng là một bản văn làm xôn xao dư luận quốc tế về một giải pháp chấm dứt cuộc chiến tranh tại VN. Ngoài đường phố lúc đó, xe cộ, người ta bắt đầu di chuyển nhộn nhịp và đa số người dân nơi đây đều tỏ vẻ nhẹ nhỏm như trút đi những gánh lo âu mang nặng bấy lâu nay. Riêng tôi cũng cảm thấy thoải mái, thanh thản vì nghĩ rằng từ nay chiến tranh đã thực sự chấm dứt và hòa bình sẽ được tái lập trên mảnh đất Việt Nam đầy đau thương này. Đó là ngày 28/1/1973. Nhưng sự đình chiến chính thức theo như quy định của hiệp định Ba Lê đã không được thực hiện đúng đắn dù chỉ trong một ngày. Và mỗi điều duy nhất được nghiêm chỉnh thực hiện theo hiệp định này là quân đội Hoa Kỳ đã triệt thoái toàn diện khỏi VN mà thôi. Trong khi đó, cuộc chiến huynh đệ tương tàn của hai miền Nam Bắc vẫn cứ tiếp diễn cho đến hai năm sau, quân Bắc Việt đã vi phạm trắng trợn hiệp định Ba Lê, xâm chiếm miền Nam bằng các hành động quân sự. Kết quả là họ đã tiêu diệt chính quyền miền Nam. Vì vậy nếu trở lại thời điểm ngày 28/1/1973 nói trên thì những hồi chuông vang lên hôm đó, chẳng khác nào là hồi chuông điếu tang báo hiệu cho sự sụp đổ của miền Nam. Từ cuối tháng 3/1972 trước đó, qua chiến dịch tổng tấn công của Bắc Việt vào ba thành phố Kontum, An Lộc, Quảng Trị đã trở thành những chiến địa ác liệt nổi tiếng làm chấn động cả thế giới. Tuy thoạt đầu quân Bắc Việt đã chiếm cứ được Quảng Trị và một số nơi khác, nhưng sau đó trước sự phản công kiên cường của quân đội miền Nam, quân Bắc Việt phải tháo lui và không giữ được một thành phố nào đã từng chiếm đóng cho đến hết mùa Xuân năm đó. Trong suốt thời gian này, quân đội Hoa Kỳ đã trợ giúp cho miền Nam bằng những cuộc oanh tạc và pháo kích vào cứ địa của quân Bắc Việt ở miền Bắc do các oanh tạc cơ xuất phát từ những hạm đội ngoài khơi. Lúc này, tôi cũng bám sát từng chiến trường để thực hiện những bài ký sự nóng bỏng dưới những làn đạn pháo đầy trời. Tại chiến trường Quảng Trị, tôi đã nhặt được tập nhật ký của một binh sĩ quân Bắc Việt tử trận tên Nguyễn Đình Tạo, trong đó có ghi lại rằng anh ta đi chiến đấu nơi chiến trường miền Nam để lại vợ ở Hà Nội và lúc nào cũng tưởng nhớ mùi hoa lài nơi cố hương của mình, vì lý tưởng dân tộc anh ta quyết chiến đầu dù phải hy sinh tính mạng. Khi tôi được người phiên dịch đọc lại cho nghe những điều này thì lần đầu tiên tôi có cảm giác về tính chất của cuộc chiến này là nếu hai bên chịu ngồi lại nói chuyện với nhau thì họ sẽ hiểu rõ nhau hơn. Sau đó, tình hình sôi động chiến trường đã tạm thời lắng dịu trong lúc tại Sài Gòn, những tin đồn về một cuộc đàm phán đình chiến và việc quân đội Hoa Kỳ rút lui khỏi VN đã bắt đầu lan rộng. Tháng 7/1972, cố vấn Tổng Thống Hoa Kỳ là ông Kissinger đã tổ chức những cuộc đàm phán bí mật cùng Lê Đức Thọ, ủy viên bộ chính trị trung ương đảng Lao Động, nay là đảng cộng sản. Những cuộc “đi đêm” ngày càng kéo dài với nội dung đàm phán hoàn toàn được giữ kín trong vòng bí mật. Và cứ mỗi lần đàm phán xong, chính bản thân ông Kissinger hoặc người phụ tá là ông Alexander Haig lại bay đến Sài Gòn để hội đàm cùng Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu trên tư cách là một vị đặc sứ. Những lúc như vậy thì các đặc phái viên như chúng tôi thường đến phi trường Tân Sơn Nhất để phỏng vấn ông Haig hoặc ông Kissinger nhưng tuyệt nhiên cả hai ông đều không tiết lộ một chút nào chi tiết nào liên quan đến cuộc đàm phán cả. Công việc chính của những người làm phóng viên chiến trường như chúng tôi chỉ là ghi lại những điều tai nghe mắt thấy dưới vòm trời lửa đạn, cho nên các tin tức liên quan đến những nhà ngoại giao và chính trị gia cùng các cuộc tiếp xúc qua lại giữa họ thì công việc của chúng tôi đã trở thành những người đi lượm lặt từng mảnh vụn tin tức để cháp nối thành những suy luận vá víu. Lúc này, coi như việc Hoa Kỳ muốn rút khỏi Việt Nam một cách toàn diện đã hầu như được minh bạch hóa. Đồng thời, Hoa Kỳ vẫn giữ tư thế viện trợ kinh tế và quân sự cho miền Nam, nhưng còn cuộc chiến đấu với miền Bắc thì sẽ giao lại cho người VN trên tinh thần rút lui trong danh dự và không bỏ rơi đồng minh. Dĩ nhiên là dư luận miền Nam đã phản đối mạnh mẽ những hành động đàm phán qua mặt mình như vậy của Hoa Kỳ và chỉ trích rằng Hoa Kỳ với mục đích đòi Bắc Việt trao trả tù binh cũng như muốn rút quân sớm ra khỏi Việt Nam nên ép buộc chính quyền miền Nam phải ký kết những hiệp định đầy bất lợi. Theo chính phủ miền Nam thì tại sao có điều kỳ quặc là song song với việc quân đội Hoa Kỳ triệt thoái khỏi thì sự kiện bộ đội Bắc Việt với quân số đông đảo đang hiện diện ở miền Nam lại không được đề cập đến? Trong quá trình phản đối kịch liệt phía Hoa Kỳ về vấn đề này, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã đặc biệt trọng dụng người cháu của ông là Hoàng Đức Nhã. Ông Nhã là một thanh niên cao lớn, đẹp trai và được đào tạo tại Hoa Kỳ. Với một trình độ Anh ngữ lưu loát, ông Nhã đã đưa ra những nghị luận phản bác lại khuynh hướng triệt thoái của Hoa Kỳ trong tư thế là chẳng thèm coi nỗ lực đi đêm của Kissinger vào đâu cả. Điều này khiến dư luận Hoa Kỳ không có thiện cảm với ông Nhã nhưng ngược lại tại quốc nội, ông Nhã lại chiếm được cảm tình của chính giới và dân chúng miền Nam. Vì vậy, giai đoạn này đã trở thành thế kèn cựa qua lại đưa đến tình trạng không thể nào hình thành được việc ký kết một hiệp định theo ý muốn của Hoa Kỳ. Về phía Bắc Việt, sau quá trình đi đêm đã tưởng đâu là Hoa Kỳ sẽ ép được chính phủ miền Nam ưng thuận việc ký kết nên đối với cục diện bất thành họ đã bất mãn và vào ngày 26/10/1972 đài phát thanh Hà Nội đột nhiên bộc lộ công khai những chi tiết về thảo án của hiệp định ngưng chiến được thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Bắc Việt trước đó. Việc này đã làm cho Hoa Kỳ bực tức và đi đến quyết định cứng rắn là đe dọa cắt đứt viện trợ nếu chính quyền miền Nam không đồng ý hợp tác về vấn đề này. Tuy nhiên, sau đó Bắc Việt lại đưa ra thêm một số yêu sách khiến Hoa Kỳ càng phẫn nộ và đã dằn mặt bằng một cuộc oanh tạc quy mô trên một số khu vực trung tâm của miền Bắc. Đó là cuộc dội bom vào cuối năm 1972 đến đầu năm 1973 được gọi là “cuộc oanh tạc Giáng Sinh”. Trải qua những giai đoạn như vậy, kết cuộc hiệp định ngưng chiến giữa hai miền Nam Bắc và việc Hoa Kỳ ngưng oanh tạc cùng với việc Bắc Việt trao trả tù binh Mỹ đã được sự đồng ý của các phe tham chiến. Mặt khác, theo hiệp định này về mặt chính trị thì tại miền Nam dưới sự giám sát của quốc tế sẽ tổ chức một cuộc tổng tuyển cử tự do để dân chúng tự lựa chọn chính thể. Thêm nữa, chính phủ miền Nam và chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam (CMLTMNVN) sẽ cùng một thế lực chính trị thứ ba trên nguyên tắc ba phe bình đẳng để thành lập nghị hội toàn quốc hòa giải dân tộc, và các thành viên trong nghị hội sẽ ra ứng cử trong cuộc tổng tuyển cử nói trên. Ngày 27/1/1973, hiệp định này đã được ký kết tại Paris giữa đại diện bốn bên gồm Hoa Kỳ, chính quyền Sài Gòn, Bắc Việt và chính phủ CMLTMNVN với tên gọi chính thức hiệp định về việc chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình tại Việt Nam, hay còn gọi tắt là hiệp định Ba Lê với niềm hy vọng tràn trề về cuộc đình chiến tại Việt Nam. Trong giai đoạn Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu phản đối việc ký kết hiệp định, chính phủ Nhật Bản đã cực lực phản đối hành động này của ông Thiệu qua lời chỉ trích rằng ông Thiệu chỉ là một thứ trở ngại cho nền hòa bình, đồng thời Nhật Bản với chủ trương là nếu Hoa Kỳ rút quân ra khỏi Việt Nam thì người Việt Nam với nhau sẽ dễ dàng thương lượng và thực hiện việc hòa giải dân tộc, đã gần như là áp đảo tinh thần ông Thiệu qua những lời kêu gọi hãy nhanh chóng ký kết vào hiệp định ngưng bắn Ba Lê. Nhưng trên thực tế chỉ có việc Hoa Kỳ triệt thoái toàn diện và phía Bắc Việt trao trả tù binh được coi như thi hành đúng đắn theo tinh thần của hiệp định Ba Lê, còn lại những gì gọi là hòa giải dân tộc hoặc lập lại một nền hòa bình vĩnh cửu tại Việt Nam v.v... được ghi trong hiệp định đều là những điều mơ tưởng. Như vậy, hiệp định Ba Lê đã mang một ý nghĩa gì? Tôi chợt nhớ đến lời nhận định của ông Joe Freed, một ký giả chuyên nghiệp kỳ cựu đã từng sống ở Sài Gòn trên 10 năm của nhật báo New York Daily News, như sau: “Hiệp định Ba Lê? Ồ! Đó chỉ là một sự lường gạt trắng trợn và nó giống như một tấm giấy thông hành cấp cho Hoa Kỳ được phép rời khỏi Việt Nam mà thôi. Việc Hoa Kỳ nhận lại tù binh cũng chỉ là một hình thức tạm thời làm cho vẻ hợp lệ trên mặt giấy tờ. Còn lại sau đó, Hoa Kỳ bỏ mặc cho miền Nam ra sao cũng được, miễn là Hoa Kỳ cứ tiếp tục viện trợ cho miền Nam để giải quyết vấn đề của mình”. Nhưng Hoa Kỳ đã không viện trợ cho miền Nam như những lời cam kết và hiệp định Ba Lê đã hoàn thành một vai trò lịch sử quái dị, mở đường cho cuộc chiến thắng của quân Bắc Việt cũng như tạo động lưc mạnh mẽ cho sự sụp đổ của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
|
|
|
Post by Can Tho on May 20, 2014 8:35:53 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ: Kỳ 8: Người phóng viên miệng lưỡi và cuộc chiến thắng vô nghĩaBùi Tín Lần đầu tiên gặp gỡ ông Bùi Tín, một nhân vật cao cấp trong quân đội Bắc Việt đã làm đảo ngược sự tưởng tượng trong đầu tôi vì tác phong của ông ta thật bình dân qua cách ăn mặc xuề xòa quần áo cũ kỹ. Nhưng phải nhìn nhận rằng ông Tín rất có tài ăn nói, cũng như sự diễn tả điệu bộ của ông khi trình bày vấn đề trông thật linh động và lôi cuốn người nghe. Tuy thế, đằng sau những câu ứng khẩu đối đáp lanh lẹ, thỉnh thoảng chứa đựng những ý tưởng khôi hài dí dỏm, hoặc châm biếm mỉa mai, người ta cũng cảm nhận được một quyền lực nào đó nơi ông. Hơn nữa, kèm theo những lời nói thao thao bất tuyệt cử chỉ và hành động của ông Tín lúc nào cũng có vẻ như muốn thị uy trước đối phương nên có thể kết luận rằng Bùi Tín đã hoàn thành xuất sắc vai trò của một nhân vật tuyên truyền do phía Bắc Việt đưa ra nhằm tranh thủ dư luận thế giới lúc bấy giờ. Thế nhưng, sau khi Sài Gòn thất thủ, Bùi Tín cũng lại là một nhân vật phê phán mạnh mẽ sự mỉa mai của cuộc chiến thắng mang tính cách lịch sử này. * Trước thời điểm chính quyền miền Nam hoàn toàn sụp đổ khoảng hai năm, ngày 4/2/1973 với tư cách một phát ngôn viên của phái đoàn quân sự Bắc Việt mang cấp bậc Trung Tá, Bùi Tín đã hiện diện ngay tại thủ đô Sài Gòn. Bởi vì theo kết quả của hiệp định Ba Lê được ký kết vào tháng Giêng 1973, phái đoàn đại diện Bắc Việt đã được phái vào Sài Gòn để hội đàm cùng phía Hoa Kỳ và chính quyền miền Nam về các vấn đề triệt thoái, đình chiến nhằm giải quyết cuộc chiến Việt Nam. UBLHQS4B-Camp Davis-TSN Trong những cuộc hội đàm như vậy, thông thường nhân viên của phái đoàn Bắc Việt chỉ được cho phép hiện diện trong căn cứ quân sự tại Tân Sơn Nhất, nhưng vào ngày 4/2/1973 nói trên họ đã đối diện phái đoàn Hoa Kỳ và miền Nam tại trung tâm thủ đô Sài Gòn lần đầu tiên. Và có lẽ vì trải qua những năm tháng dài của cuộc chiến huynh đệ tương tàn, đại diện của hai miền Nam Bắc đã gặp nhau lần đầu tại chốn công khai như vậy nên thái độ và cử chỉ của đôi bên kể cả những tướng lãnh Hoa Kỳ đều tỏ ra nghiêm nghị và cứng nhắc. Nhưng chỉ có mình Bùi Tín là khác hẳn với mọi người khi khuôn mặt ông ta lúc nào cũng tươi cười, cử động lại nhanh nhẹn ăn nói hoạt bát và ông ta dùng cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt để trò chuyện cùng các ký giả ngoại quốc cũng như những tướng lãnh đại diện của miền Nam một cách rất tự nhiên thoải mái. Lúc đó, Bùi Tín còn đến trước mặt những sĩ quan cảnh bị của miền Nam đang túc trực tại đó, vỗ vai họ rồi chìa tay ra tỏ lòng thân thiện khiến họ ngại ngùng, nghiêng qua một bên. Trông thấy tình cảnh đó, Bùi Tín liền hướng về phía những ký giả ngoại quốc nói lớn bằng một tràng tiếng Pháp sành sõi: “Chúng tôi đã tích cực như thế này để mưu tìm cách hòa hợp hòa giải dân tộc, quý vị có thấy không nào?”. Tóm lại, Bùi Tín chẳng những đã đóng trọn vai trò của mình trong suốt quá trình hội đàm như vậy mà cho đến gần hai tháng sau đó ông ta lại diễn tiếp một màn xuất sắc. Đó là vai trò đại diện cho Bắc Việt để xác nhận sự triệt thoái cuối cùng của nhóm binh lính và các tướng lãnh Hoa Kỳ tại căn cứ không quân Tân Sơn Nhất vào ngày 29/3/1973. Bùi Tín, TSN, 1973 @on the Net Trong khi những sĩ quan và quân nhân Hoa Kỳ đứng xếp hàng im lặng và lần lượt bước lên khu trục cơ C-141 thì Bùi Tín với bộ quân phục màu cỏ xanh, hai cầu vai và trước túi áo mang đầy những huân chương quân hàm đỏ chói, đầu đội chiếc kết thật to vừa tươi cười vừa thoăn thoắt tiến đến bên họ trò chuyện huyên thuyên. Sau khi lượt qua danh sách những quân nhân Hoa Kỳ lên máy bay đến người cuối cùng là Đại Đội Trưởng Bộ Binh, Bùi Tín còn mang tặng ông ta một tấm mành tre sơn phết nhiều màu sắc lộng lẫy và viên Đại Đội Trưởng này vừa nhận món quà kỷ niệm vừa đáp lễ lại Bùi Tín bằng những cái bắt tay thân thiện. Nhưng thực sự người cuối cùng bước lên máy bay chính là Đại Tá Point O’Dell Tư Lệnh căn cứ Hoa Kỳ tại Tân Sơn Nhất. Lúc đó, vừa trông thấy Đại Tá O’Dell đặt chân lên cửa hông máy bay, Bùi Tín đã nhanh chóng chạy đến bên ông đưa quà kỷ niệm và mời ông bắt tay. Tuy nhiên, Đại Tá O’Dell đã không đáp ứng gì, vừa im lặng lắc đầu vừa cuối mặt tiến lên bậc thang. Với dáng vóc cao lớn tựa như võ sĩ đô vật, nhưng lúc này Đại Tá O’Dell cũng không ngăn được dòng lệ xúc cảm và mọi người tại hiện trường đều nhìn thấy rõ quang cảnh này. Trong khi đó, trên khuôn mặt Bùi Tín vẫn không dứt những nụ cười khoan khoái và đứng nhìn mãi theo chiếc máy bay C-141 cất cánh bay vút lên không trung cho đến khi mất dạng trong mây. Hình ảnh này đã tạo cho Bùi Tín một tư thế tựa như một người hùng đại diện cho Bắc Việt đánh đuổi những người Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam. * Chưa hết, ở ngay vào thời điểm Sài Gòn thất thủ, Bùi Tín còn diễn thêm một vai trò mang tính cách lịch sử quan trọng. Ngày 30/4/1975, sau khi quân Bắc Việt tiến vào Dinh Độc Lập rồi quản thúc tất cả những viên chức, tướng lãnh cùng Tổng Thống Dương Văn Minh tại đây. Lúc đó, Bắc VIệt đã ủy thác cho Bùi Tín nhiệm vụ xác nhận sự đầu hàng của chính quyền Tổng Thống Dương Văn Minh, trong tư cách một vị tư lệnh quân đội cao cấp của họ hiện diện trong Dinh Độc Lập. Bùi Tín & Dương Văn Minh, 30/4/1975 @ AFP Và kết quả đã được diễn tiến qua cuộc đối thoại ngắn gọn giữa hai bên như sau: Tổng Thống Dương Văn Minh nói: “Chúng tôi đã ở đây chờ đợi từ sáng sớm để bàn giao quyền hành cho chính phủ cách mạng”. Bùi Tín đáp lại: “Các anh không có gì để mà bàn giao cả vì chính quyền của các anh đã bị đánh tan”. Sau đó Tổng Thống Dương Văn Minh được đưa đến đài phát thanh và bị ép phải đọc lời tuyên bố đầu hàng. Ở điểm này, người ta thấy rằng lời tuyên bố “chính quyền của các anh bị đánh tan” của Bùi Tín đã chẳng khác nào một lời cáo tri lịch sử nhằm gửi đến dư luận quốc tế để nhấn mạnh về sự chấm dứt của cuộc chiến tranh Việt Nam. Riêng tại Hoa Kỳ cho đến nay nếu nói về cuộc chiến tranh Việt Nam thì ngay cả quyển sách được nhiều người đón nhận nhất là “Lịch sử Việt Nam” của tác giả Stanley Karnow cũng đề cập đến vai trò lịch sử của Bùi Tín khi hướng dẫn ông Dương Văn Minh đầu hàng. Dựa theo những điều căn bản trong quyển sách này, một chương trình phóng sự tài liệu truyền hình do Anh-Mỹ- Pháp hợp tác đã được thực hiện với tựa đề “Việt Nam” và trong phần cuối cùng cũng đã chiếu lại những hình ảnh lúc Tổng Thống Dương Văn Minh đầu hàng kèm theo những lời phỏng vấn của Bùi Tín. Đồng thời, ngay cả chính phía Bắc Việt cũng phải dựa theo lời tường thuật từ các bài ký sự của Bùi Tín để khẳng định cuộc chiến đã được kết thúc một cách êm đẹp qua những lời đối thoại giữa Bùi Tín và ông Dương Văn Minh. Nói cách khác, trên phương diện lịch sử Hà Nội đã chẳng có một dị luận nào đối với lời tuyên bố của Bùi Tín cả. * Trong ngày Sài Gòn thất thủ và tiến vào Dinh Độc Lập, Bùi Tín còn mang thêm một tư cách khác là ký giả của báo Quân Đội Nhân Dân, tức cơ quan ngôn luận của quân đội Bắc Việt. Trước kia, vào năm 1945 khi mới 18 tuổi, Bùi Tín cũng đã tham gia tổ chức Việt Minh trong phong trào kháng chiến chống Pháp và gia nhập đảng cộng sản VN. Bố ông Tín sinh sống tại thành phố Huế và từng giữ chức Bộ Trưởng Bộ Tư Pháp trong chính quyền vua Bảo Đại do quân Nhật dựng nên trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến, sau đó lại tham gia hội đồng chính phủ của HCM và được bầu làm chủ tịch quốc hội. Qua phần lý lịch, cũng đã cho thấy Bùi Tín xuất thân từ gia tộc danh môn. Bùi Bằng Đoàn trước 1945 Bùi Bằng Đoàn sau 1945 Võ Nguyên Giáp, Hồ Chí Minh, Bùi Bằng Đoàn (1948) @on the Net Năm 1954, Bùi Tín tham gia trận chiến Điện Biên Phủ với chức vụ đại đội trưởng và bị trọng thương, sau đó Tín được miễn công tác chiến đấu và trở thành một ký giả hoặc đôi khi làm phát ngôn viên của quân đội Bắc Việt. Vì vậy, có lẽ trong cuộc tổng công kích Sài Gòn, Bùi Tín đã kiêm nhiệm luôn vai trò vừa là ký giả vừa là một bộ đội đột nhập vào tới Dinh Độc Lập chăng? Sau chiến tranh, Tín leo lên tới chức chủ bút tờ Quân Đội Nhân Dân rồi đến năm 1982 lại chuyển qua làm việc cho tờ báo Nhân Dân, cơ quan tuyên truyền của đảng cộng sản VN với chức vụ phó chủ bút tòa soạn (Phó Tổng Biên tập - chú thích của HVR). Ngoài ra, về mặt quân đội Tín còn được thăng lên cấp bậc Đại Tá. Đến đây, có thể nói Tín đã tiến đến tột đỉnh của con đường thăng quan tiến chức và trở thành một trong những nhân chứng lịch sử của Bắc Việt từng chứng kiến cảnh rút quân cuối cùng của người Hoa Kỳ cũng như cảnh đầu hàng toàn diện của chính quyền miền Nam Việt Nam. Nhưng bước vào thập niên 1990 thì nhà cầm quyền Hà Nội lại đột nhiên công kích họ Bùi bằng cách loan tải trên đài phát thanh quốc doanh của họ những lời lẽ như: “Bùi Tín đã tự tuyên truyền bị đặt về chuyện ông ta là người đầu tiên xác nhận sự đầu hàng của địch tại Dinh Độc Lập”, hoặc thậm chí hơn là: “Những lời tuyên truyền láo khoét của Bùi Tín chẳng khác nào ếch ngồi đáy giếng muốn phình bụng to bằng con bò”. Chẳng những thế, Hà Nội còn tuyên bố rằng việc Tín đột nhập vào Dinh Độc Lập đã xảy ra sau khi Bắc Việt điều đình cho ông Dương Văn Minh đầu hàng và chuyện Tín bị thương trong trận Điện Biên Phủ là điều hoàn toàn bịa đặt. Trước sự công kích của Hà Nội, Tín đã trốn sang Pháp xin tị nạn vào năm 1990 và bắt đầu phản kích lại bằng những lời tố cáo đảng cộng sản VN độc tài và đàn áp dân chúng. Trong những lời tố cáo này, Bùi Tín luôn nhấn mạnh đến vấn đề tự do chính trị, tự do kinh tế và đưa ra những tính tất yếu của chủ nghĩa dân chủ và chủ nghĩa đa nguyên. Vào mùa Thu năm 1991, tôi đã gặp lại Bùi Tín tại thủ đô Washington, Hoa Kỳ. Khi tôi đặt câu hỏi: “Nếu hiện nay ông thường đề cập đến tự do và dân chủ thì ông nghĩ sao về cuộc chiến tranh trước đây đã đánh tan một chính quyền từng nêu cao ý nghĩa của tự do và dân chủ tuy nó không hoàn toàn giống với giá trị quan như ông suy nghĩ?”. Và Bùi Tín đã trả lời như sau: “Cuộc chiến đó là một chiến thắng rỗng tuếch và vô nghĩa, lòng tôi vô cùng đau đớn xót xa khi nghĩ rằng có lẽ nhưng đồng đội của tôi đã hy sinh tính mạng cho sự thắng lợi vô nghĩa này."
|
|
|
Post by Can Tho on May 20, 2014 8:41:28 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ - Kỳ 9: Bí ẩn nan giải của lịch sửLịch sử tựa như một vở kịch lớn mà trong đó có biết bao điều bí ẩn dù trải qua một thời gian dài nhưng vẫn chưa được sáng tỏ. Và những hành động của vị phó Thủ Tướng trẻ Nguyễn Văn Hảo trong thời điểm trước và sau ngày Sài Gòn thất thủ cũng được coi là một trong những điều bí ẩn này. Lần đầu tiên tôi gặp ông Hảo là vào mùa Xuân năm 1974, tức khoảng một năm trước khi Sài Gòn rơi vào tay quân cộng sản BV. Lúc đó ông giữ chức Tổng Giám Đốc Quỹ Phát Triển Nông Nghiệp của chính phủ miền Nam. Đây chính là thời điểm mà những ảo tưởng về một nền hòa bình thực sự do hiệp định Ba Lê mang lại đã được dư luận đặt niềm tin mạnh mẽ và chính phủ cùng các xí nghiệp Nhật Bản cũng đặt kỳ vọng rất nhiều vào tương lai phát triển kinh tế của miền Nam VN. Do đó, với học vị tiến sĩ tốt nghiệp tại hai trường đại học nổi tiếng là Harvard của Hoa Kỳ và Genève của Thụy Sĩ, ông Hảo được coi là một kinh tế gia hàng đầu tại miền Nam VN và rất được chính quyền Sài Gòn trọng dụng. Qua cuộc phỏng vấn, tôi đã lắng nghe ý kiến của ông Hảo về những triển vọng tươi sáng của nền kinh tế miền Nam VN. Ông Hảo đã để lại ấn tượng nơi tôi về một nhân vật đặc biệt với cặp kính cận dầy và là người có đầu óc rất nhạy bén khi trả lời những câu hỏi từ giới phóng viên chúng tôi. Vào cuối năm 1974, qua sự lựa chọn cẩn thận và sự tín nhiệm của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, ông Hảo được giao chức vụ phó Thủ Tướng đặc trách về kinh tế kiêm Bộ Trưởng Bộ Canh Nông & Kỹ Nghệ. Do chỉ ở vào lứa tuổi 30 nên ông Hảo được dư luận ngưỡng mộ và gọi ông là vị phó thủ tướng thanh niên. Nội các Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn (14/4/1975) TT N B Cẩn (giữa), PTT N V Hảo (bên trái TT NBC) Và ông Hảo còn có nhiều hành động kỳ lạ hơn trong lúc chính quyền Sài Gòn đang trải qua những cơn sóng gió đưa đến cảnh diệt vong. Vào ngày 21/4/1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố thoái nhiệm rồi sau đó cùng Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm và thân nhân của họ rời khỏi VN. Lý ra, với chức vụ là một phó Thủ Tướng trong chính quyền Tổng Thống Thiệu, việc ông Hảo rời bỏ VN đi lánh nạn tại ngoại quốc là điều bình thường đương nhiên. Nhưng trên thực tế, ông Hảo vẫn ngang nhiên ở lại và còn mạnh dạn tham gia trong quá quá trình chuyển giao quyền lực cho chính quyền mới ngay sau đó. Sau khi TT Nguyễn Văn Thiệu từ chức, Phó TT Trần Văn Hương lên kế nhiệm chức vụ nguyên thủ quốc gia và yêu cầu phía Bắc Việt đàm phán về một thỏa thuận đình chiến. Thế nhưng BV đã từ chối cho rằng dù ông Thiệu đã từ chức nhưng trên cơ bản chính quyền của TT Trần Văn Hương vẫn còn là cơ chế thuộc chính quyền TT Nguyễn Văn Thiệu. Đồng thời, BV còn có những tuyên bố lấp lửng có vẻ như muốn cho dư luận thấy rằng họ chỉ đồng ý thương thảo với một chính quyền thuộc thành phần thứ ba của ông Dương Văn Minh. Nhưng thực sự, đây là chỉ là một hình thức đánh lừa dư luận miền Nam và thế giới. Tuy vậy, vị đại sứ Pháp tại miền Nam VN là ông Jean Mérillon lại phán đoán rằng phía BV sẽ chịu đàm phán theo điều kiện này nên đã dùng đủ mọi cách khuyên TT Trần Văn Hương từ chức. Và không hiểu tại sao ông Hảo lại có liên quan mật thiết đến tình hình phức tạp trong giai đoạn này qua vai trò con thoi với những nỗ lực điều đình thương lượng giữa TT Trần Văn Hương, đại sứ Jean Mérillon, tham tán viên cố vấn kinh tế Denny Ellerman của tòa đại sứ Hoa Kỳ. Theo lời tuyên bố của ông Hảo thì lúc ban đầu ông cũng hoài nghi về sự phán đoán của Pháp nhưng sau đó ông cũng tin rằng việc thành lập chính quyền Dương Văn Minh là con đường duy nhất để sinh tồn. * Vào buổi tối 24/4/1975, tôi đã ngồi xem ông Hảo xuất hiện trên truyền hình với những lời kêu gọi và trấn an người dân miền Nam rằng: “Mọi người hãy bình tĩnh vì sự bình tĩnh và tinh thần tôn trọng kỹ luật là điều cần thiết nhất trong lúc này. Chúng ta không cần phải bỏ chạy. Bản thân tôi xin thề là sẽ ở lại Sài Gòn và gia đình tôi cũng vậy”. Lời thề hứa và thái độ tỏ vẻ chân thật của ông Hảo đã phần nào tạo được sự tin tưởng nơi dân chúng. Lúc đó, trong chính quyền TT Trần Văn Hương, ông Hảo cũng tạm thời tiếp nhận vai trò thay thế Bộ Trưởng Kinh Tế. Và chính nhờ vai trò này ông Hảo đã ngăn chận việc vận chuyển một số lượng lớn vàng khối của chính phủ VNCH ra hải ngoại. Qua đó, những lời phát biểu và hành động của ông Hảo trong quá trình cản trở việc đưa vàng ra ngoại quốc cho đến nay vẫn còn những điều bí ẩn. Vào thời điểm đầu tháng 4/1975, chính phủ miền Nam VN đang sở hữu 16 tấn vàng khối có trị giá đương thời khoảng 1 trăm mấy chục triệu mỹ kim. Trong lúc tình thế ngày càng nguy ngập, ngân hàng trung ương đã có kết hoạch chuyển số vàng này từ ngân khố quốc gia sang ngân hàng New York hoặc Génève nhờ cất giữ dùm. Lúc đó, việc các quốc gia đang phát triển gửi vàng cho những ngân hàng ngoại quốc là chuyện bình thường. Ban đầu, ngân hàng trung ương được sự đồng ý của Tổng Thống và chuẩn bị xúc tiến việc thuê một chuyến bay của Thụy Sĩ để vận chuyển vàng. Đây được coi là kế hoạch khẩn cấp dự trù cho trường hợp nếu Hoa Kỳ ngưng viện trợ thì chính phủ miền Nam VN sẽ dùng số vàng này để mua vũ khí đạn dược đáp ứng cho cuộc chiến tự vệ trước sự xâm lăng của quân BV. Tuy nhiên, trong lúc tình hình chiến sự leo thang, phía Thụy Sĩ đã từ chối vận chuyển số vàng này với lý do là không bảo đảm được mức độ an toàn cho chuyến bay. Vì vậy, chính phủ Sài Gòn đã nhờ Hoa Kỳ vận chuyển bằng máy bay quân sự qua lời yêu cầu chính thức từ TT Trần Văn Hương gửi đại sứ Hoa Kỳ tại miền Nam VN là ông Graham Martin. Theo đó, kế hoạch vận chuyển được xếp đặt chu đáo là vàng khối sau khi được bao bọc kỹ lưỡng sẽ đưa lên các máy bay quân sự của Mỹ xuất phát từ căn cứ Clark ở Philippines bay đến căn cứ Tân Sơn Nhất. Thế nhưng, ngay trong lúc số vàng sắp được chuyển đi thì ông Hảo lại xen vào, cản trở kế hoạch này bằng cách thuyết phục TT Trần Văn Hương rằng nếu sau khi chính quyền ông Dương Văn Minh được thành lập mà họ biết được kế hoạch này thì ông Hương sẽ bị buộc tội phản quốc. Do đó, kế hoạch đưa vàng đi đã bị xoay hướng. Liên quan đến sự kiện này thì những lời chứng ngôn sau đó của các nhân vật can dự đều có nhiều điểm khác biệt. Nhưng điều xác thực là ông Hảo đã ra tay ngăn chận việc chuyển 16 tấn vàng ra khỏi Sài Gòn, ngay trước giờ chính quyền miền Nam sụp đổ. * Cũng trong lúc này, vào ngày 28/4/1975 tôi đã nhìn thấy ông Hảo tại một góc phố Sài Gòn. Ông Hảo ngồi ở phía sau trong chiếc xe hơi Citroen màu trắng, đưa cặp mắt bình thản nhìn quang cảnh bên ngoài hai ven đường trong khi hầu hết dân chúng Sài Gòn đều đang tất bật tìm cách di tản. Phía sau xe của ông Hảo là chiếc xe Jeep chở những người lính cận vệ mang vũ khí. Trông ông Hảo vẫn còn giữ được phong cách của một vị Thủ Tướng. Dường như ông Hảo cũng đã nhìn thấy tôi đang đứng trên đường. Và sau đó tôi đã hiểu ra rằng tại sao trong lúc đang ngồi trong chiếc xe chạy chậm rãi thì ông Hảo chợt một thoáng biến sắc với vẻ mặt mất đi nét trầm tĩnh. Bởi vì, chỉ hai ngày sau đó tức ngày Sài Gòn thất thủ, tôi đã gặp lại ông Hảo trong Dinh Độc Lập. Cùng với thành phần viên chức cao cấp của chính quyền ông Dương Văn Minh đã đầu hàng quân BV, ông Hảo cũng bị câu thúc tại nơi đây như họ. Trong một căn phòng tại đây, tôi nhìn thấy ông Hảo ngồi im lặng với dáng điệu suy tư trầm ngâm. Nếu không phải một thành phần quan trọng trong chính quyền ông Dương Văn Minh, có lẽ ông Hảo đã không xuất hiện tại Dinh Độc Lập vào lúc này. Và đây cũng là một điều bí ẩn. Sau ngày Sài Gòn thất thủ, ông Hảo được chính quyền mới khởi dụng với tư cách nhà cố vấn kinh tế. Không hiểu có phải vì chính quyền mới muốn sử dụng kiến thức kinh tế của ông Hảo hoặc thưởng công cho ông trong việc ngăn chận gửi vàng ra nước ngoài mà so với các giới chức cao cấp của cựu chính quyền, ông Hảo lại được Hà Nội hậu đãi đặc biệt nhất. Tuy nhiên, vào 7 năm sau là năm 1982, ông Hảo, sau khi được nhà đương cuộc Hà Nội cho xuất ngoại, đã rời khỏi VN. Tại nơi trú ngụ đầu tiên là nước Pháp, ông Hảo tuyên bố: “Tôi đã kỳ vọng vào việc hòa hợp hòa giải dân tộc, nhưng lại thất vọng trước sự độc tài chính trị của chủ nghĩa cộng sản”. Đến năm 1984, ông Hảo sang định cư tại Hoa Kỳ nhờ sự bảo lãnh của gia đình. Tóm lại, cứ mỗi lần nhớ lại quá trình hành động của ông Hảo trong tình hình phức tạp trước và sau ngày Sài Gòn thất thủ, tôi lại thấy đó là điều càng bí ẩn hơn. * Phụ chú của người dịch: Liên quan đến sự kiện 16 tấn vàng của chính quyền Sài Gòn trong suốt 26 năm từ năm 1975 cho đến khi ông Thiệu qua đời, Hà Nội vẫn luôn rêu rao và bịa đặt tin Tổng Thống Thiệu ra đi mang theo 16 tấn vàng mà ông đã vơ vét. Ngay cả khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu qua đời, báo Thanh Niên, báo Nhân Dân, và các cơ quan truyền thông khác của đảng cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục lôi chuyện 16 tấn vàng để bôi nhọ Tổng Thống Thiệu. Nhưng kết cuộc, sự thật cũng được sáng tỏ để trả lại thanh danh cho TT Nguyễn Văn Thiệu khi ngay tờ Tuổi Trẻ cũng là một cơ quan truyền thông của đảng cộng sản VN phải bắt buộc tìm hiểu trong loạt phóng sự điều tra được đăng từ ngày 26/4/2006. Báo Tuổi Trẻ của phía VN đã phỏng vấn các nhân chứng trực tiếp liên quan đến 16 tấn vàng, và cuối cùng đã hiểu rằng cựu Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu không hề đánh cắp số vàng này. Tuy nhiên, ông đã qua đời từ trước đó, vào năm 2001. Trong hồi ký "Đại thắng mùa xuân", tướng VC Văn Tiến Dũng cũng khẳng định ông Nguyễn Văn Thiệu đã mang 16 tấn vàng ra khỏi Việt Nam. Theo báo Tuổi Trẻ thì “có quá ít tài liệu trong nước đề cập một cách chính xác và đầy đủ về chuyện này sau năm 1975”. Tờ Tuổi Trẻ cho biết “Mọi nguồn tin đều không bênh vực cho ông Thiệu khiến ông ra đi mang theo một cái án là kẻ ăn cắp tài sản quốc gia”. Theo Luật sư Lê Công Định, từ sau năm 1975, rất nhiều ấn phẩm trong nước đã thay nhau đổ tội và kết án ông Thiệu trong “vụ án” bịa đặt này với những “bằng chứng chắc chắn như thể chính các tác giả đều tận mắt trông thấy". Trong khi đó, trải qua nhiều năm sau chiến tranh, những người biết rõ số phận của 16 tấn vàng tại các cơ quan cầm quyền của nhà nước VN đã không hề đính chính tin đồn. Sau này, qua loạt phóng sự điều tra của báo Tuổi Trẻ khi được hỏi tại sao lâu nay nhà nước Việt Nam không đính chính, ông Lữ Minh Châu, cựu Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã trả lời một cách trâng tráo rằng: “Mình biết rất rõ là số vàng đó vẫn còn, đã được kiểm kê cẩn thận và đưa vào tài sản quốc gia, nhưng không đính chính vì đó là tin đồn đăng trên báo chí, có ai đặt câu hỏi chính thức với nhà nước đâu”. Sau hơn 30 năm, vào tháng 12 năm 2005 hồ sơ mật được phép giải mã, chính phủ Anh công bố Hồ sơ Bộ Ngoại giao trong đó có phần nói về chuyện vị lãnh đạo của chính quyền Việt Nam Cộng Hoà chuyển sang sống tại khu ngoại ô của London như thế nào. Tuy nhiên, hồ sơ này không hề nhắc đến đến số vàng nào được ông Thiệu mang tới Anh. Trả lời phỏng vấn của BBC ngày 28/12/2005, cựu Tổng Trưởng Kế Hoạch Nguyễn Tiến Hưng nói rằng số tiền vàng này chưa mang ra khỏi Việt Nam, nhưng ông không phải là nhân chứng của sự kiện. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn, người giữ chìa khóa kho vàng và là thành viên ban lãnh đạo Nha Phát Hành Ngân Hàng Quốc Gia thời điểm tháng 4 năm 1975, thì số lượng tiền vàng kiểm kê đều khớp với sổ sách tới từng chi tiết nhỏ. Cũng theo báo Tuổi trẻ, các ông Huỳnh Bửu Sơn, Lê Minh Kiêm là các nhân chứng trực tiếp bàn giao vàng cho chính quyền mới. Đầu tháng 6 năm 1975, Huỳnh Bửu Sơn, người giữ chìa khóa kho vàng, và Lê Minh Kiêm, người giữ mã số của các hầm bạc được lệnh của Ban Quân Quản Ngân Hàng Quốc gia cùng đã kiểm kê các kho tiền và vàng của chế độ VNCH . Kết quả, tất cả số tiền và vàng nằm trong kho đều đúng với sổ sách từng chi tiết nhỏ. Ông Huỳnh Bửu Sơn kể về cuộc kiểm kê kho vàng lần cuối cùng khi bàn giao cho chính quyền mới: “Tất cả những thoi vàng đều là vàng nguyên chất, mỗi thoi nặng 12-14 kg, trên mỗi thoi đều có khắc số hiệu và tuổi vàng (thường là 9997, 9998). Các thoi vàng được cất trong những tủ sắt có hai lớp khóa và được đặt trên những kệ bằng thép, mỗi kệ được xếp khoảng năm, sáu thoi vàng. Nhưng qua năm tháng, bị nặng trĩu trước sức nặng của vàng, các kệ thép cũng bị vênh đi. Các đồng tiền vàng được giữ trong những hộp gỗ đặt trong tủ sắt. Đó là những đồng tiền vàng cổ có nhiều loại, được đúc và phát hành từ thế kỷ 18, 19 bởi nhiều quốc gia khác nhau... Ngoài giá trị của vàng nguyên chất, các đồng tiền này còn được tính theo giá trị tiền cổ, gấp nhiều lần giá trị vàng nội tại của nó. Tất cả số vàng thoi và tiền vàng cổ đều được theo dõi chi tiết từng đơn vị, số hiệu, tuổi vàng, số lượng ghi trong một sổ kiểm kê do bộ phận điện toán của ngân hàng theo dõi định kỳ hằng tháng và hằng năm, hoặc bất cứ khi nào có thay đổi xuất nhập tồn kho."
|
|
|
Post by Can Tho on May 20, 2014 8:46:31 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ: Kỳ 10: Nữ kịch sĩ Kim Cương là ai?Khi viết về cuộc chiến tranh VN thì trên quan điểm của kẻ chiến thắng lẫn người chiến bại đều ghi lại trong sử liệu của mình những điểm rõ ràng minh bạch và những điều mơ hồ khó hiểu khi đối chứng với lịch sử. Tiền đề này đã được nêu lên trong phần đầu của loạt bài ký sự “Sài Gòn Thất Thủ” để chúng ta có một cái nhìn trung thực hầu tìm hiểu và nhận định đúng đắn về cuộc chiến tranh VN. Trường hợp nói về Kim Cương (KC), một nữ diễn viên kịch nghệ nổi tiếng ở miền Nam cùng những hoạt động của cô ta có liên quan đến các sự kiện quan trọng và biến cố Sài Gòn Thất Thủ cũng là những điều mơ hồ mà người ta muốn tìm hiểu. Lần đầu tiên tôi gặp cô KC trong một buổi tiếp tân và sau khi đám đông người vây quanh cô tản đi tôi mới thấy cô đứng một mình. Đó là vào dịp mùa Xuân năm 1973, sau khi hiệp định Ba Lê được ký kết, chính phủ Nhật Bản đã gửi một phái đoàn văn hóa đến thăm miền Nam trong tinh thần gặp gỡ một nước VN thời hậu chiến. Chính quyền Sài Gòn đã tổ chức một buổi tiếp tân để chào đón phái đoàn văn hóa Nhật Bản tại Pen Club, một hội trường nằm trong trung tâm TP Sài Gòn. Trong phần nghi thức tại hội trường, có người phụ nữ xuất hiện với chiếc áo dài màu trắng thuần khiết nhưng nổi bật những nét lộng lẫy kiêu sa đã đến chào hai vị niên trưởng đại diện phái đoàn Nhật Bản là ông Morita và ông Miura một cách thật lịch sự. Cho đến khi thấy người phụ nữ này đứng một mình với nụ cười dịu dàng tôi không dằn được tính hiếu kỳ đến bên cô ta vào chào xã giao bằng một câu Anh ngữ. “Xin lỗi, tôi không biết nói tiếng Anh”, cô ta đã trả lời tôi bằng Pháp ngữ vvới một giọng phát âm chuẩn xác và êm dịu. Sau đó, nhờ có sự góp mặt của một đặc phái viên báo Sankei tại Sài Gòn rất thông thạo tiếng Pháp là ký giả Kondo, chúng tôi đã nói chuyện về văn nghệ và nền điện ảnh của miền Nam. Đến khi ký giả Kondo nói nhỏ vào tai tôi rằng người phụ nữ này chính là nữ kịch sĩ KC nổi tiếng khắp miền Nam thì tôi mới giật mình vì ấn tượng ban đầu của tôi về cô ta đã quá đơn giản. Tôi không ngờ cô ta là một nhân vật đặc biệt như vậy. KC xuất thân tại tỉnh Gò Công trong một gia đình có ba đời đều đi theo ngành diễn kịch và từ thuở bé KC đã sớm làm quen với sân khấu kịch nghệ. KC chẳng những đã thể hiện tài năng xuất sắc qua các vở bi hài kịch tâm lý, xã hội thời đại mà trên lĩnh vực truyền hình và điện ảnh cô còn là một nữ nghệ sĩ trứ danh, nổi tiếng khắp toàn quốc. Sở trường của KC là chuyên thủ diễn vai chính của nhân vật gặp phải định mệnh éo le, khắc nghiệt nhưng lúc nào cũng lạc quan không chịu thua số phận và luôn nhẫn nại, cố gắng vượt qua những thử thách to lớn để đạt đến nguyện vọng cuối cùng. Có lẽ qua điều này, KC đã muốn nói lên sự đồng cảm với thân phận của đa số phụ nữ VN thời bấy giờ trong bối cảnh một quốc gia chịu nhiều bất hạnh do hậu quả chiến loạn kéo dài. Chính vì vậy mà chương trình thoại kịch KC xuất hiện đều đặn trên đài truyền hình Sài Gòn thời đó đã thu hút được nhiều sự ái mộ của khán giả. Tuy nhiên, đàng sau hậu trường sân khấu KC lại có một đời tư sinh hoạt rất cô đơn trong hoàn cảnh độc thân chưa lập gia đình. Tôi đã đến nhà cô xin phỏng vấn và thực hiện một bài ký sự về nền kịch nghệ cũng như điện ảnh của miền Nam lúc đương thời. KC đã mời tôi dùng cơm tối và trong lúc nói chuyện cô ta cũng cố gắng chịu đựng những câu phát âm bập bẹ bằng tiếng Việt lẫn tiếng Pháp của tôi. Đồng thời, cô cũng chỉ cho tôi biết rất nhiều về phong tục tập quán của người miền Nam cùng những nét đặc trưng của xã hội Sài Gòn. Một nhân vật diễn viên nổi tiếng lúc đó ở Sài Gòn như KC mà hoàn toàn không nói được tiếng Anh thì quả là điều hiếm có. KC nói rằng dù sao đi nữa thì cô không thể nào có được một chút thiện cảm với Hoa Kỳ và cô cũng lên tiếng phê phán sự hạn chế kịch nghệ của chính quyền ông Thiệu. “Tôi hoàn toàn không có một hy vọng gì ở tương lai cả. Cho nên, nếu tôi chết bất cứ lúc nào đi nữa thì cũng là một điều tốt thôi”, KC tâm sự. Khi nge từ chính miệng một kịch sĩ nổi danh và được nhiều sự ái mộ nồng nhiệt của mọi người thốt lên những điều bi quan chán nản như vậy, tôi không khỏi bàng hoàng sửng sốt. Sau đó, vì công việc bận bịu tôi không có dịp gặp lại KC và chỉ nghe được tin là cô đã lập gia đình cùng một người đàn ông dưới tuổi mình tên là Túc, Trung Úy Hải Quân thuộc lực lượng trừ bị của quân đội VNCH. Các nghệ sĩ Saigon dự mít-ting mừng CSBV, tháng Năm 1975 Sau ngày Sài Gòn thất thủ đúng một tuần lễ, tôi lại gặp KC vào ngày 7/5/1975 tại Dinh Độc Lập cũ trong một buổi tập họp để chào mừng chiến thắng của quân BV. Lúc này, hầu hết những nghệ sĩ tài tử nổi tiếng của miền Nam đã đi ra ngoại quốc nên sự hiện diện của KC trở thành một khuôn mặt nổi gây nhiều chú ý cho các ký giả ngoại quốc như chúng tôi. KC xuất hiện trong chiếc áo dài màu xanh đậm và qua những tia nắng gắt chiếu rọi từ ngoài sân, tôi đã nhìn thấy những vết nhăn ẩn hiện nơi khoé mắt trên khuôn mặt của cô. Khi nhìn thấy tôi, KC nở một nụ cười hiền hòa và phía trên chỗ cô đang đứng là một tấm băng rôn có ghi hàng chữ: “Hội Liên Hiệp Nghệ Sĩ Yêu Nước”. Sau đó, tôi cũng có gặp hai vợ chồng KC một vài lần. Qua đó, cô thường tỏ lời hoan nghênh sự chiến thắng của chính quyền mới nên tôi không hiểu là cô có thực tâm khi nói như vậy không? Tuy nhiên, trong khoảng thời gian này, KC rất được chính quyền mới trọng dụng qua việc cô được tuyển chọn là thành viên của ủy ban quân quản TP Sài Gòn trước đó và ủy ban nhân dân cách mạng TP sau này. Từ đó, những lời đồn về việc KC là một cán bộ cộng sản nằm vùng, trên thực tế đã mang cấp bậc Trung Tá của lực lượng quân đội BV ngày càng lan rộng. Kim Cương và Chế Lan Viên Khoảng một thời gian ngắn tiếp đó, vào một buổi sáng nọ tôi cũng tình cờ gặp lại KC. Cô ta liền bảo rằng thật là đúng lúc và mời tôi dùng điểm tâm tại một quán ăn nhỏ nằm sát ngay chợ Bến Thành rồi nói: “Chồng tôi đã bị bắt đi học tập cải tạo, tôi không biết phải làm sao bây giờ”. Thì ra nhà cầm quyền cộng sản đã bắt đầu một cuộc cải tạo tư tưởng bằng cách giam giữ các cựu quân nhân, viên chức của chính quyền miền Nam tại những trại tập trung ở vùng rừng núi. “Nếu cô là một chiến sĩ của phe cách mạng thì chồng cô lẽ ra phải được hưởng những ưu đãi khác biệt chứ?”, tôi đã hỏi KC như vậy nhưng cô ta đã phủ nhận và cho biết đó là những chuyện bịa đặt, hoàn toàn vô căn cứ và biểu hiện của cô lúc này trông buồn bả, ưu sầu cộng thêm những nét dè dặt có vẻ như lo sợ. KC cũng hỏi ngược lại tôi rằng: “Thế thì anh nghĩ gì về việc chính quyền mới tại sao lại ưu đãi một người đã sống dưới chế độ cũ như tôi?”. Nhưng quả thật sau đó, KC với tư cách là một kịch sĩ đã rất được nhà cầm quyền cộng sản VN trọng dụng vì trong khi tất cả những đoàn kịch được thành lập từ trước của miền Nam đều bị cấm hoạt động thì chỉ mỗi đoàn kịch KC là được nhìn nhận và cho phép lưu diễn. Vào tháng 8/1975 lần đầu tiên sau khi Sài Gòn thất thủ đoàn kịch KC đã tái xuất hiện trước công chúng tại tòa nhà Quốc Hội cũ bị đổi thành nhà hát lớn thành phố, qua vở tuồng được coi là kiệt tác chủ lực của đoàn kịch này mang tựa đề “Lá Sầu Riêng”. Trong vai một thiếu nữ nghèo khổ, KC đã diễn xuất thật thần kỳ bằng những giọng nói ngọt ngào, chất phát đặc thù của thổ âm người miền Nam cùng với những điệu bộ diễn đạt các khía cạnh tâm lý buồn, vui, hờn, giận, cảm, thương một cách thật xuất sắc nên khiến khán giả phải khóc cười theo từng pha diễn xuất của cô. Kim Cương diễn kịch Liên Sô (sau 1975) Thời gian thấm thoát trôi qua, đúng 23 năm sau tại Sài Gòn nay đã đổi tên, tôi đã tái ngộ cùng KC vào tháng 9/1998. Trải bao ngày tháng, nhưng dáng vẻ bên ngoài của KC vẫn không có gì là thay đổi cho mấy khiến tôi càng ngạc nhiên sửng sốt. Lúc đó, KC còn là người trông coi một đoàn kịch với nhân số tới 70 người nhưng cô cho biết rằng khán giả ngày nay đã không còn yêu chuộng bộ môn kịch nghệ như xưa nữa. KC đã ly hôn, còn người con trai của cô cùng ông Túc cũng đã trưởng thành và đi du học ở Canada. Cô còn cho hay rằng người con này lúc nhỏ đã từng bị bắt cóc và súyt chút nữa thì mất mạng. Kim Cương trên sân khấu 2012 Tuy vậy, KC vẫn nhấn mạnh là nước VN đang có những bước tiến căn bản vững chắc. Mặt khác, cô cũng đã đặt một câu hỏi tế nhị với tôi là: “Trong thời điểm ngay trước lúc chiến tranh kết thúc, bản thân tôi đã không biết phải xử trí như thế nào mới gọi là đúng. Nếu như lúc đó tôi hỏi anh câu này, anh sẽ trả lời ra sao?”. Lần này thì đến lượt tôi cũng không thể nào hiểu được sự chọn lựa về tương lai của KC ở trước và sau khi Sài Gòn thất thủ. Thật sự cô ta là ai và đã nghĩ những gì?....
|
|
|
Post by Can Tho on May 20, 2014 8:53:38 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ: Kỳ 11: Cảm nghĩ của người dân về chính quyền Sài Gòn và MTGPMNSai Gon before 1975 Trong thời gian sống tại miền Nam VN, một vùng đất chiến tranh lửa đạn triền miên, tôi đã cố gắng tìm hiểu xem những thường dân tại đây họ nghĩ gì về cuộc chiến dai dẳng này. Vì lý do đó, nên trong thời gian hoàn toàn chưa hiểu rõ vấn đề tôi đã học tiếng Việt và làm quen với những phong tục tập quán nơi này hầu tạo thêm điều kiện để tìm hiểu cho cặn kẽ. Và cứ mỗi lần hiểu biết thêm một vấn đề tôi lại càng thêm ngạc nhiên truớc những sự thật đang diễn ra hàng ngày tại đây. * Hầu hết những người tôi đã tiếp xúc và hỏi thăm thì họ đều cho rằng không ưa thích chính quyền của ông Thiệu nhưng đối với cộng sản thì sự chán ghét của họ còn tăng gấp bội. Đặc biệt là ít thấy ai bày tỏ sự căm ghét hay sợ hãi quân đội Hoa Kỳ và có thể nói ngược lại là đa số dân chúng đều có thiện cảm đối với Hoa Kỳ. Như vậy, rõ ràng là những điều tôi nhận thức được tại Nhật Bản đã hoàn toàn không đúng với sự thật ở đây. Tại sao báo chí Nhật Bản lại nhận định vấn đề sai lệch như vậy? Đương nhiên là một câu hỏi quay cuồng trong đầu tôi bắt đầu từ đó. Thật ra thì lần đầu tiên nghe được những người dân miền Nam trình bày ý kiến như trên, tôi đã nghĩ rằng họ nói dối vì đối với luật pháp của VNCH, MTGPMN là một tổ chức nằm ngoài vòng pháp luật cho nên nếu họ tỏ vẻ ủng hộ thì sẽ bị quy tội phạm pháp và muốn tỏ bày cho người ngoại quốc vốn đã không hiểu rõ vấn đề thì lại càng thêm phần nguy hiểm. Hơn nữa, tôi lại nghĩ rằng những người thực sự không có thiện cảm với phe MTGPMN chỉ là thuộc tầng lớp giàu có. Vì thế, tôi lại càng muốn tìm hiểu thật kỹ lưỡng chuyện này. Nhưng càng tiếp xúc với nhiều giai tầng trong xã hội cũng như càng nhớ tiếng Việt bao nhiêu thì tôi càng thấy được sự chán ghét, sợ hãi, kinh khiếp của họ đối với lực lượng tự xưng là cách mạng, tức MTGPMN bấy nhiêu. Mỹ Tho trước 1975 Lúc này, tôi đã hiểu rõ đó là những tiếng nói và sự suy nghĩ chân thật của họ. Chẳng hạn như trường hợp của một cô gái khoảng 20 tuổi, tên Mai, đang làm việc tại một tiệm bán đồ trang trí Tây phương ở Sài Gòn và là bạn của một nữ nhân viên người VN đang làm việc trong văn phòng tòa soạn của tôi. Mai đã thuật lại kinh nghiệm bản thân thời thơ ấu với phe cách mạng như sau: “Năm tôi 10 tuổi thì đã những người du kích của MTGPMN vì họ biết cha mẹ tôi có một tiệm buôn lớn ở Mỹ Tho nên đòi gia đình tôi phải trả tiền chuộc. Lúc bấy giờ những vụ bắt cóc như vậy xảy ra rất là nhiều. Trong 5, 6 ngày liền tôi đã bị họ trói chặt tay chân, bịt mặt lại rồi nhốt tại một đảo nhỏ ở miền Tây. Cùng bị giam giữ với tôi tại nơi này có một người đàn ông đã bị họ sát hại. Và có lẽ suốt đời tôi không bao giờ quên được tiếng kêu la kinh hãi của ông ta khi bị những người của MTGPMN giết chết. Người đàn ông nói trên, có lẽ vì phản bội lại những đồng chí của mình nên bị hành quyết và ông ta bị đâm bởi một vật gì rồi thét lên những tiếng kêu thất thanh trước khi tắt thở. Sau đó, nhờ cha mẹ cô Mai trả tiền chuộc nên cô được phóng thích nhưng những tiếng kêu la của người đàn ông nọ lúc nào cũng như văng vẳng bên tai và Mai không thể nào quên được những âm thanh khủng bố sợ hãi đó." Cô Mai đã cho tôi biết như vậy. Dân miền Nam chạy nạn Cộng sản @ Life Magazine Dĩ nhiên là trên thực tế phía chính quyền miền Nam cũng đã từng giết hại kẻ địch và phía quân đội Hoa Kỳ cũng tổ chức những cuộc truy sát quân du kích của MTGPMN qua các chiến dịch quân sự, bởi vì chiến tranh vốn là một cuộc tàn sát lẫn nhau. Tuy nhiên, nếu chỉ đưa ra một mặt của vấn đề nói về những gì gọi là chính nghĩa nhân từ của phe cách mạng rồi vội vàng kết luận dân chúng ủng hộ cách mạng thì quả là một điều không công bằng và không trung thực. Mặt khác, nếu nhìn thấy trên những cánh tay của một số chiến sĩ trẻ thuộc quân đội VNCH có xâm hàng chữ “sát cộng” thi ta sẽ cảm nhận được lòng hận thù sâu sắc được hình thành theo ngày tháng kéo dài của cuộc chiến này. Bởi vì họ là những người có thân nhân, bạn bè đã hy sinh trong cuộc chiến. TQLC Sát Cộng Một điều quan trọng trong cuộc chiến tranh VN là sự sát hại lẫn nhau đã không phân biệt riêng nơi chiến trường mà còn lan rộng đến người thường dân nên nó đã trở thành một hình thái rất phức tạp. Nếu ta nhận định được trên qian niệm rộng rãi như vậy về cuộc chiến này, ta sẽ càng hiểu rõ tại sao đa số dân chúng miền Nam tuy không mấy hài lòng với chính quyền ông Thiệu nhưng lại càng chán ghét và sợ hãi phe cách mạng cộng sản nhiều hơn. Thế nhưng, có thể nói một cách chắc chắn rằng những nguyên nhân đưa đến sự sợ hãi căm ghét này xuất phát từ sự cảm nhận trực tiếp của người dân chứ không phải họ bị ảnh hưởng tuyên truyền hoặc tự nhận thức trên một phương diện lý luận nào cả. Ngoài ra, đối với đa số thị dân Sài Gòn, việc họ trình bày những nhận thức chính trị của mình về đặc tính của thể chế cộng sản như quyền tự do và quyền tư hữu cá nhân bị hạn chế, bị tước đoạt, hoặc các phần tử đối lập với cộng sản sẽ bị tiêu diệt v.v...rất là ít ỏi. Vì vậy, giới quan sát ngoại quốc và dư luận quốc tế đều có cảm nhận rằng sự căm ghét phe cách mạng cộng sản của người dân là do ảnh hưởng từ những chính sách tuyên truyền của chính quyền ông Thiệu hoặc Hoa Kỳ. Nhưng thực sự, người dân cũng nghe rất nhiều sự tuyên truyền của phe MTGP và những người cộng sản. * Nếu trở ngược lại thời gian xuất phát những tư tưởng và hành động biểu lộ việc chống cộng thì phải nói đến biến cố năm 1954 khi hiệp định Genève được ký kết, chia cắt VN làm hai miền Nam Bắc, tạo nên một cuộc di cư ào ạt của người dân miền Bắc. Di cư 1954 Lúc đó có khoảng 1 triệu người, đa số là giáo dân Công Giáo, ở miền Bắc vì chán ghét sự cai trị độc tài của một đảng phái theo chủ nghĩa cộng sản nên họ đã chọn lựa con đường di cư vào Nam để sống dưới một chế độ tự do hơn. Nói cách khác, đây là một cuộc bỏ phiếu bằng chân của người dân miền Bắc. Đương nhiên là họ đã có nhiều kinh nghiệm dưới chế độ cộng sản mặc dù chỉ trong một thời gian tương đối ngắn sống dưới ách cai trị của đảng cộng sản VN do HCM thành lập. Một trong những lý do chính khiến họ di cư vào Nam là dưới chế độ cộng sản vô thần, tự do tín ngưỡng và tôn giáo đã bị đàn áp dữ dội. Những giáo dân miền Bắc này có tự tin là họ hiểu rất rõ về bản chất của chế độ cộng sản. Di cư 1954 Cách Sài Gòn khoảng 30km về hướng Đông Bắc là nơi tập trung sinh sống của hầu hết giáo dân miền Bắc di cư vào Nam. Nơi đây được gọi là thị xã Hố Nai, một vùng đất chống cộng nổi tiếng nằm trong khu vực khá hẹp dọc theo quốc lộ 1 và có vài ngôi nhà thờ lớn nên khi dùng xe hơi để đến đây, người ta rất dễ dàng tìm thấy. Trong thị xã có nhiều nơi chế tạo và sản xuất gia cụ cũng như các cửa hàng đủ loại nên đã cho thấy sự sinh hoạt sầm uất tại nơi này. Hố Nai có khoảng 70.000 dân cư với tất cả đều là giáo dân Công Giáo và được chia làm 7 địa phận, mỗi địa phận đều có một nhà thờ đặt dưới sự quản hạt của một vị linh mục, tựa như đơn vị hành chánh cá biệt. Có rất nhiều linh mục đã từng là những chiến sĩ chống cộng, cầm súng trực tiếp chiến đấu với quân VM trước đó. Nhưng những người giáo dân Công Giáo này cũng đã phản đối mạnh mẽ và tổ chức nhiều cuộc đấu tranh biểu tình chống chính quyền ông Thiệu. Điểm này cũng là một điều phức tạp đối với nhận thức về cuộc chiến tranh VN. Nhà thờ Kẻ Sặt, Hố Nai trước 1975 Vào tháng Giêng 1973 sau khi hiệp định Ba Lê được ký kết thì linh mục Chân Tín đứng ra thành lập và lãnh đạo một tổ chức đối lập chống chính phủ gọi là Ủy Ban Yêu Cầu Cải Thiện Chế Độ Lao Tù Miền Nam VN nhằm mục đích đòi hỏi ông Thiệu phải phóng thích những tù nhân chính trị và cải thiện chế độ đối xử với tù nhân. Trong khi đó, linh mục Trần Hữu Thanh cũng đã lãnh đạo “Phong trào chống tham nhũng” với những hoạt động chống lại chính quyền ông Thiệu. Từ năm 1974, những tổ chức nói trên đã thực hiện các cuộc biểu tình quy mô để kêu gọi bài trừ tham nhũng và đòi ông Thiệu phải từ chức. Hơn nữa, vào mùa Xuân 1975, trong khi chính quyền ông Thiệu đang bị lung lay do cuộc tổng công kích của quân BV thì linh mục Trần Hữu Thanh lại thành lập thêm Uỷ Ban Hành Động Cứu Quốc với những lời kêu gọi dân chúng đảo đảo chính quyền ông Thiệu và đưa ra chủ trương là nếu Sài Gòn thành lập được một chính quyền mới để thực hiện hòa hợp hòa giải dân tộc thì quân cộng sản BV sẽ ngưng tấn công và chịu đàm phán. Đương nhiên là phe cách mạng lúc nào cũng hỗ trợ cho các tổ chức, phong trào chống chính phủ thuộc nhóm Công Giáo này. Linh Mục Trần Hữu Thanh,1975 Tuy nhiên, sau khi chiếm trọn miền Nam thì các tổ chức Công Giáo nói trên đã bị chính quyền mới đàn áp và tiêu diệt một cách không thương tiếc. Khoảng hai tháng, sau khi Sài Gòn thất thủ tôi có viếng thăm linh mục Trần Hữu Thanh tại một ngôi nhà thờ trong thành phố thì thấy ông đang ngồi im lặng trong căn phòng tối của thánh đường này. Lúc đó ông ta trở nên hoàn toàn khác biệt với linh mục Thanh trước đây đã từng hô hào kịch liệt đả đảo chính quyền ông Thiệu. “Tóm lại thì mọi việc cũng đã qua rồi”, linh mục Thanh thốt lên những lời nhỏ nhẹ, chậm rãi nhưng cũng không kém phần bi thương, thống cảm.
|
|
|
Post by Can Tho on May 24, 2014 6:26:13 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ – Kỳ 12Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR 1975aTại sao hầu hết mọi người đều phải trốn khỏi một tổ quốc đã được quân Bắc Việt giải phóng? Rời bỏ thủ đô Phật giáo biểu tình đòi thi hành HĐ Paris 1973 (*). Nguồn: Inflation, Corruption, Hunger Build Pressures Against Thieu. Published in American Report, November 25, 1974. By John Spragens, Jr. “Anh có thể làm chồng của tôi hay không?” “Cái gì?” “Không sao đâu, đó chỉ là trên mặt giấy tờ mà thôi. Tôi hứa sẽ không gây phiền phức gì cho anh đâu.” Nhìn khuôn mặt quen thuộc của cô gái Việt Nam trước mặt, tôi giật mình khi nghe cô ta ngỏ lời yêu cầu bất ngờ như vậy. Cô là nhân viên của một hãng du lịch gần nơi văn phòng làm việc của tôi trong thành phố Sài Gòn. Tôi và cô chỉ quen biết qua những lần gặp gỡ có tính cách xã giao vì chỗ làm việc gần nhau. Và lần này cô đích thân đến văn phòng của tôi để nhờ giúp đỡ với vẻ mặt khẩn thiết và giọng nói chân thành, nhỏ nhẹ nên tôi biết cô ta không nói đùa. Đó là chuyện xảy ra vào cuối tháng 3/1975 trước khi thủ đô Sài Gòn thất thủ một tháng. Thời điểm này, áp lực quân sự của Bắc Việt đã đè nặng lên các tỉnh cao nguyên Trung phần bằng những trận tấn công kịch liệt vào hai thành phố lớn của miền Nam là Huế và Đà Nẵng khiến Sài Gòn lâm vào tình trạng hoảng hốt lo sợ, đưa đến tâm lý người dân nơi đây càng muốn rời khỏi Việt Nam đi ra ngoại quốc để lánh nạn cộng sản. Từ trước đó, việc xuất ngoại của người dân miền Nam đã bị hạn chế rất nghiêm ngặt chỉ trừ những hợp đặc biệt như vì công vụ, đi du học theo học bổng, thăm viếng thân nhân ở ngoại quốc, ra nước ngoài để trị bệnh v.v…, còn lại những mặt khác thì rất khó khăn. Tuy nhiên, lợi dụng một điểm đặc biệt của một số giới chức cao cấp của chính quyền miền Nam là tham nhũng nên người nào có tiền và hối lộ thật nhiều thì cũng sẽ được cấp giấy phép xuất cảnh. Cho nên có thể nói là tại miền Nam vào thời bấy giờ, đa số người dân Sài Gòn đều không có khả năng để đi ra nước ngoài, Cuối cùng, chỉ còn mỗi trường hợp là kết hôn với người ngoại quốc mà thôi. Do đó, số phụ nữ Việt Nam mang nguyện vọng xuất cảnh theo diện kết hôn này đã bất chợt tăng lên thật nhiều. Người chết trên đường di tản (QL I) vào 12 tháng 4, 1975. Nguồn Bettmann/Corbis Trường hợp của tôi khi ấy cũng còn đang độc thân và sống tại Việt Nam từ ba năm trước nên tôi có rất nhiều người quen biết và họ cũng đã thường nhờ tôi giúp dùm việc xuất cảnh theo đường kết hôn. Không riêng gì phụ nữ mà ngay cả những người đàn ông làm chủ các hãng xưởng, tiệm buôn, vì muốn đi Nhật nên nhờ tôi giới thiệu dùm cho họ những nhân viên Tòa đại sứ Nhật Bản ở Sài Gòn. Cho đến ngay cặp vợ chồng chủ nhân cao ốc nơi tôi mướn phòng làm việc chỉ có hai người con trai còn trẻ cũng nhờ tôi giúp đỡ đưa con họ đi ra nước ngoài. Tuy vậy, đối với những trường hợp phức tạp tại nước ngoài như thế, người Nhật Bản đã không giúp được gì cả, mà dù cho có cũng chỉ là một số ít nào đó thôi. Thật ra lúc đó tôi không tán thành chuyện người Việt Nam từ bỏ quê hương của mình một cách đơn giản như vậy vì tôi cho rằng dù tình thế xảy ra thế nào đi chăng nữa thì việc người Việt Nam sống trên đất Việt Nam cũng là một điều đương nhiên và hợp lý. Cho đến khi có một cô gái làm nhân viên ngân hàng quốc gia là bạn với vị giáo sư dạy tiếng Pháp cho tôi đến nhờ vả việc xuất cảnh thì tôi đã trình bày cho cô ta nghe những điều suy nghĩ như trên và khuyên cô ta nên ở lại. Nhưng sau khi nghe tôi nói vậy, cô ta vốn bình thường là người đoan trang, nhu mì lại chợt giận dữ rồi lớn tiếng nói với tôi: “Việc sống dưới chế độ cộng sản có được hay không là do sự phán đoán và quyết định của tôi. Hôm nay tôi đến để nhờ anh chớ không phải để tranh luận với về vấn đề rời bỏ Việt Nam ra đi là đúng hay sai.” Nghe cô ta nói đến đây, tôi chỉ biết ngậm miệng lại không dám giải thích tiếp tục nữa. *** Bắt đầu từ trung tuần tháng 4/1975, chiến cuộc tại Việt Nam càng trở nên sôi động và nguy ngập nên chính quyền Sài Gòn đã ra lệnh cấm toàn diện việc xuất cảnh, cho dù những người có quyền thế hoặc giàu có tới đâu cũng không thể rời khỏi Việt Nam lúc này. Dĩ nhiên, đây là một quyết định hợp lý vì trước nguy cơ tồn vong của miền Nam việc cần thiết nhân lực ở lại để phòng thủ là chuyện cấp bách hơn bao giờ hết. Thế nhưng, phương sách này được áp dụng vào trong một thời điểm đã quá muộn và người dân Sài Gòn đã tìm cách xuất cảnh bằng những hình thức khác cho dù đó là bất hợp pháp. Tình hình chiến sự càng sôi sục bao nhiêu thì tình trạng xuất cảnh càng thay đổi bấy nhiêu. Từ ngày 20/4/1975 Hoa Kỳ đã bắt đầu sử dụng các vận tải cơ C-130 và C-141 để tiến hành kế hoạch di tản, đặc biệt là kế hoạch di tản này trên nguyên tắc khác với một cuộc di tản cuối cùng mang tính cách triệt thoái toàn diện. Và theo dự tính ban đầu thì Hoa Kỳ chỉ di chuyển phụ nữ và trẻ em là thân nhân, gia đình của những nhân viên Tòa đại sứ cùng một số ít người Mỹ còn lưu lại Việt Nam lúc đó. Nhưng trước tình thế quá khẩn cấp, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải cho di tản hết toàn bộ những nhân viên thuộc cơ quan xí nghiệp Mỹ, kể cả những người Việt Nam có quan hệ hôn nhân với người Mỹ và thân nhân của họ. Đồng thời, cũng có một số người trước đây đã hợp tác với quân đội Hoa Kỳ và những người thuộc diện đào thoát từ phía quân Bắc Việt để hợp tác cùng chính quyền miền Nam cũng được Hoa Kỳ cho di tản trong kế hoạch này vì Hoa Kỳ phán đoán rằng họ sẽ bị chính quyền mới trả thù sau khi chiếm được miền Nam. Vì lý do này, tình trạng di tản theo các diện được Hoa Kỳ chấp nhận đã trở nên hỗn loạn và lan rộng khắp miền Nam khiến những người phóng viên ngoại quốc chúng tôi cũng không kém phần lo lắng. Leo hàng rào vào tòa Đại sứ Mỹ tại Saigon (29/4/1975). Nguồn AP Khi các máy bay của Hoa Kỳ đáp xuống căn cứ không quân tại phi trường Tân Sơn Nhất, người ta đã thấy một đoàn người thật đông đảo kể cả nam, phụ, lão, ấu vây quanh để tranh nhau bước lên máy bay. Lúc này, tôi đã hiểu được tâm trạng lo sợ của người dân miền Nam nên đã giới thiệu rất nhiều bạn bè với những nhân viên liên hệ của các cơ quan thuộc chính phủ Hoa Kỳ cũng như đã ký vào đơn kết hôn cho dù không rõ sự tình sẽ ra sao. Do tình trạng hỗn loạn của cuộc di tản này kéo dài cho đến ngày cuối cùng khi Sài Gòn thất thủ nên quang cảnh những người dân thủ đô hối hả tranh nhau xuất cảnh đã tựa như những đợt sóng người cuốn xoáy theo chiều hướng hỗn độn và ầm ĩ. Đến ngày 29/4/1975 thì lệnh giới nghiêm 24/24 được ban hành khiến người dân có phần nào e dè và sự di chuyển trên các đường phố đã tương đối giảm sút. Nhưng ngày hôm sau đó, tức ngày 30/4/1975 thì dân chúng thành phố đã hiểu rõ rằng chính quyền Sài Gòn đang từng giây từng phút bị sụp đổ nên đa số đã rời khỏi nhà và tìm cách trốn chạy. Bản thân tôi vì có giấy phép đặc biệt không giới hạn vì lệnh giới nghiêm nên tôi đã dùng xe hơi chạy khắp thành phố Sài Gòn để quan sát tình hình. Tóm lại, quang cảnh lúc đó thật là hỗn tạp với tiếng khóc la ầm trời của những đoàn người tay bồng bế trẻ em, tay xách nặng hành lý đủ loại, dìu dắt thân nhân vừa chạy gấp rút vừa biểu hiện sự hoảng sợ kinh khiếp khiến tôi phải bàng hoàng. Chỉ nội khu vực trung tâm thành phố, tôi đã chứng kiến hàng ngàn người trong tình cảnh chạy loạn như vậy. Không phải, hàng vạn người thì đúng hơn. Nói cách khác, cảm giác của tôi lúc đó tựa như một người bất lực đứng nhìn một xã hội, một quốc gia như miền Nam bây giờ đang từ từ rạn nứt, tan vỡ một cách đau thương với nỗi luyến tiếc vô vàn. Nỗi lo sợ kinh hoàng của những người ở Sài Gòn còn được bộc lộ nơi những người dân thật bình thường mà từ trước đến nay họ chẳng biết gì gọi là kỳ vọng nơi sự bảo vệ của Hoa Kỳ và quân đội miền Nam. Tất cả đều hốt hoảng, bỏ chạy tán loạn. Đứng trước những tình cảnh này, một người đã sống quen thuộc và trở nên thân thiết với nơi đây như tôi đã không sao dằn được cơn xúc cảm mãnh liệt. Di tản trên nóc trụ sở CIA bằng Air America tại 22 đường Gia Long, Saigon, April 29, 1975. Nguồn: hubert-van-es Cho đến lúc các vận tải cơ và trực thăng đưa người di tản cất cánh thì vẫn còn rất nhiều người tụ tập quanh tòa đại sứ Hoa Kỳ và phi trường Tân Sơn Nhất. Mặt khác, trên sông Sài Gòn các thuyền bè xuất hiện đông đảo và đầy chật người trên đó. Ngay cả các tàu chở hàng cũ kỹ cũng không còn chỗ trống. Người dân định dùng đường biển để vượt thoát khỏi nơi này. Nhưng tại sao người dân miền Nam lại bất chấp sự nguy hiểm đến tính mạng mà rời bỏ quê hương yêu dấu của họ như thế? Đành rằng là sau một cuộc chiến kéo dài, kẻ bại trận phải lo sợ sự trả thù của người chiến thắng là một trong những lý do đương nhiên, nhưng phía CSBắc Việt cũng đã luôn tuyên bố là họ tiến vào Sài Gòn để giải phóng người dân miền Nam thoát khỏi ách nô lệ và bóc lột kia mà! Như vậy thì tại sao hầu hết mọi người đều phải trốn khỏi một tổ quốc đã được quân Bắc Việt giải phóng? Nếu chúng ta giải thích được câu hỏi trên một cách chính xác, tất đã hiểu rõ được ý nghĩa của cuộc chiến tranh Việt Nam. Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR (Kỳ tới: Kỳ 13: Áp lực từ chức) Nguồn Sài Gòn Thất Thủ – Kỳ 12. Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR. DCVONline: (*) Điều 11 Hiệp định Paris 1973: “Ngay sau khi ngừng bắn, hai bên miền Nam Việt Nam sẽ thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc, xóa bỏ thù hằn, cấm mọi hành động trả thù và phân biệt đối xử với những cá nhân hoặc tổ chức đã hợp tác với bên này hoặc bên kia, bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân: tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do tổ chức, tự do hoạt động chính trị, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, tự do cư trú, tự do làm ăn sinh sống, quyền tư hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh.” [Article 11: Immediately after the cease-fire, the two South Vietnamese parties will: -achieve national reconciliation and concord, end hatred and enmity, prohibit all acts of reprisal and discrimination against individuals or organizations that have collaborated with one side or the other; -ensure the democratic liberties of the people: personal freedom, freedom of speech, freedom of the press, freedom of meeting, freedom of organization, freedom of political activities, freedom of belief, freedom of movement, freedom of residence, freedom of work, right to property ownership, and right to free enterprise....]
|
|
|
Post by Can Tho on May 28, 2014 5:14:44 GMT 9
Sài Gòn Thất Thủ – Kỳ 13Komori Yoshihisa & Khôi Nguyên @ HVR Trong bài diễn văn từ nhiệm, tuy ông Thiệu đã tuyên bố sẽ ở lại đến giây phút cuối cùng với binh sĩ để chiến đấu chống những người cộng sản nhưng chỉ 4 ngày sau, vào đêm 25/4/1975, ông đã cùng cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và gia đình họ di tản khỏi Việt Nam đến Đài Loan lánh nạn. Áp lực từ chức Nhà cũ của song thân Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu tại thôn Tri Thủy, xã Tri Hải, huyện Ninh Hải, tỉnh Ninh Thuận, Việt Nam. Nguồn: NGười Việt TV. Người giữ chức Tổng Thống của VNCH trong thời gian 7 năm rưỡi là ông Nguyễn Văn Thiệu lúc thiếu thời rất yêu thích môn bóng bàn. Trong thời gian còn ngồi trên ghế nhà trường, ông chưa hề thua một trận đấu bóng bàn nào nhờ vào chiến pháp đặc biệt là không bao giờ mạo hiểm tấn công đối thủ khi biết rằng có nhiều rủi ro bị phản công và ông luôn kiên nhẫn bám sát từng tình huống, chờ đợi thời cơ lúc đối phương để lộ sơ hở mới ra tay tấn công một cách triệt để. Nếu nói về những giai thoại trong quãng đời tuổi trẻ của ông Thiệu, có lẽ chỉ có chừng ấy câu chuyện và đây quả là một điều thật lạ lùng đối với một nhân vật nổi tiếng như ông. Đồng thời, điều này được cho là phần nào đã phản ảnh đúng với cá tính sâu sắc, thận trọng, điềm tĩnh, tuân giữ kỷ luật và không thích những hình thức phá cách vượt ra khuôn khổ quy định của ông Thiệu. Gia đình TT Nguyễn Văn Thiệu: Tuấn Anh, TT Thiệu, Quang Lộc, bà Nguyễn Thị Mai Anh Nguồn: Tạp Chí Duyên Dáng Việt Nam. Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu sinh trưởng trong một gia đình nông gia tại Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận ở ven biển miền Trung. Ông xuất thân từ trường Tây ở Huế và có thời gian từng được bổ làm quan lại địa phương. Sau đó, ông gia nhập quân đội miền Nam trong giai đoạn cuối thời kỳ Pháp thuộc và có những bước thăng tiến thuận lợi. Kế đến, khi người Pháp rời khỏi VN, ông Thiệu còn được huấn luyện quân sự tại Hoa Kỳ. Ông kết hôn với một phụ nữ thuộc gia đình giàu có ở miền Nam và do ảnh hưởng từ người vợ, ông trở thành một tín đồ Công Giáo. Vào thời điểm xảy ra cuộc đảo chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm, ông Thiệu với cấp bậc đại tá đang giữ chức Sư đoàn trưởng sư đoàn 5 bộ binh trấn đóng tại khu vực phía Bắc thủ đô Sài Gòn. Nhờ vào những hoạt động của sư đoàn 5 này đóng góp phần quyết định cho sự thành công của cuộc đảo chính nên ông Thiệu rất được chính quyền mới sau đó trọng dụng. Hơn nữa, nơi cục diện phức tạp của chính trường miền Nam với những cuộc đấu đá “quyền mưu thuật sách” trong giới tướng lãnh quân đội tại thủ đô Sài Gòn, những phán đoán tinh tế và cẩn trọng của ông Thiệu đã giúp ông tránh né được nhiều sự xung đột va chạm với đối phương và cuối cùng đến năm 1965, ông chính thức được giao phó chức vụ nguyên thủ quốc gia. Hai năm sau, qua một cuộc tuyển cử dân chủ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cùng Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đạt được kết quả đắc cử. Từ đó, ông Thiệu được cho là đã được sự trợ giúp của phía Hoa Kỳ để loại bỏ những đối thủ cạnh tranh trên chính trường và đặt nền tảng cho một triều đại vững chắc nên đến 1971 ông lại tái đắc cử chức vụ Tổng Thống VNCH. Tr. tướng Nguyễn Văn Thiệu, CT Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia (1965). Nguồn: OntheNet Tôi đã có cơ hội được nói chuyện một cách tự do, thân mật với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu vào ngày 5/3/1975. Đó là dịp ông Thiệu đồng ý tiếp xúc riêng với một nhóm ký giả Nhật Bản tại Dinh Độc Lập. Lúc này, trong nhóm phóng viên đồng nghiệp người Nhật, do tôi là người có thời gian làm việc lâu nhất tại Sài Gòn nên được cử làm trưởng nhóm và được ngồi gần ông Thiệu trong vai trò điều hợp nhóm ký giả Nhật Bản. Từ buổi tiếp kiến Tổng Thống này cho đến chưa đầy hai tháng sau thì chính quyền của ông Thiệu bị diệt vong quả là điều mà có nằm mơ chúng tôi cũng không thể nào ngờ được. Lồng trong những luồng gió mát mẻ thổi nhẹ vào căn phòng rộng rãi ở tầng ba Dinh Độc Lập là nơi Tổng Thống Thiệu đón tiếp nhóm ký giả Nhật Bản, chúng tôi đã nhìn thấy ông bước vào phòng cùng một vài cận vệ đi theo bên cạnh. Tuy ông Thiệu có thân hình nhỏ nhắn nhưng phong thái rất uy nghi và nghiêm chỉnh trong bộ Âu phục màu xám đậm vừa vặn bó sát người ông cùng với những bước chân vững chắc đầy nội lực. Đương thời, tuy ông Thiệu chỉ mới 52 tuổi nhưng hầu như phân nửa mái đầu của ông đã phủ tóc bạc trắng. Trong thời gian ba năm làm việc tại Sài Gòn, tôi đã nhiều lần nhìn thấy ông Thiệu nhưng lần này tôi có cảm tưởng như tóc ông đã bạc đi nhiều lắm. Tổng Thống Thiệu nở nụ cười thân thiện nhìn về hướng chúng tôi và đến bắt tay từng người một. Có thể nói rằng theo dư luận quốc tế lúc đó ông Thiệu là một trong những vị nguyên thủ quốc gia ít được thiện cảm từ thế giới vì bị chỉ trích là một nhà độc tài thường bắt bớ bỏ tù những người có chủ trương đối lập với chính quyền Sài Gòn cũng như để mặc cho tình trạng tham nhũng hoành hành trong nội bộ guồng máy hành chính. Thế nhưng, ở mặt khác ông cũng được coi là một nhà lãnh đạo phi thường khi giữ vững được sự đoàn kết dân tộc trong công cuộc chiến đấu bảo vệ miền Nam trước sự xâm lăng của quân CSBV bằng những cuộc tấn công bằng quân sự do khối cộng sản quốc tế yểm trợ. Đồng thời, ông còn lèo lái đất nước một cách khéo léo trong tình thế phức tạp của mối quan hệ đồng minh với phía Hoa Kỳ. Và trong cuộc gặp gỡ nhóm phóng viên Nhật Bản chúng tôi nói trên tại Dinh Độc Lập, ông Thiệu cũng đã lên tiếng phê phán Hoa Kỳ một cách kịch liệt như sau: “Trong thời điểm ký kết hiệp định Ba Lê, cả Tổng Thống Nixon lẫn tiến sĩ Kissinger đều hứa chắc là sẽ tiếp tục viện trợ quân sự cho miền Nam trong giới hạn của nhu cầu chiến trường. Thế nhưng, cho đến nay họ vẫn cứ mặc cả với chính sách cắt giảm viện trợ chẳng khác gì việc trả giá mua bán rau cải ở ngoài chợ”. Với trình độ Anh ngữ lưu loát, Tổng Thống Thiệu giải thích rằng đối với sự vi phạm trắng trợn hiệp định Ba Lê của quân CSBV, miền Nam cần thiết được viện trợ 1 tỷ 600 triệu mỹ kim trong năm 1975 nhưng Hoa Kỳ đã giảm xuống còn 700 triệu và thậm chí cắt bớt chỉ còn 300 triệu. Trong lúc bày tỏ sự bất mãn đối với sự thất hứa của chính phủ Hoa Kỳ, điệu bộ của ông Thiệu cũng rất linh hoạt với các động tác khoa tay nhịp nhàng và sắc mặt ông trở nên màu đỏ nhạt cho thấy sự bộc lộ chân thành và sức thu hút nơi lối trình bày của ông. Từ lần đó, tôi lại có dịp nghe ông Thiệu lên tiếng chỉ trích lối hành xử vô trách nhiệm của chính phủ Hoa Kỳ vào bốn mươi mấy ngày sau, tức vào ngày 21/4/1975. Chỉ trong bốn mươi mấy ngày này, vận mệnh của miền Nam đã thay đổi quá nhanh chóng khi đột nhiên ông Thiệu phạm vào sai lầm chiến lược bỏ ngỏ vùng chiến thuật xung yếu ở miền Trung với lệnh triệt thoái cao nguyên, rút hết quân đội phòng thủ, được ban hành từ ngày 10/3/1975. Điều này càng tạo cơ hội cho quân CSBV có điều kiện thực hiện cuộc tổng công kích đánh chiếm toàn bộ miền Nam qua những lộ quân ào ạt tiến vào từ cửa ngõ miền Bắc, miền Trung truy kích đường tháo lui của quân đội VNCH như thế sóng tràn không gì cản nổi. Cùng lúc, BV còn tiếp tục đưa ra những tuyên bố bịp bợm là nếu ông Thiệu từ chức thì họ sẵn sàng ngồi vào bàn đàm phán để thương thảo về việc đình chiến trong tinh thần hòa hợp hòa giải dân tộc. Tuy chiến thuật của ông Thiệu là tập trung toàn bộ quân lực tại miền Nam để hình thành một lực lượng phòng thủ triệt để trong tình thế quyết tử một mất một còn, nhưng ông lại bị dư luận quốc nội quy trách nhiệm trong việc để mất miền Trung, cũng như bị phía Hoa Kỳ và Pháp chỉ trích ông không chịu đối thoại với quân CSBV. Từ đó, đã tạo thành những áp lực trực tiếp buộc ông phải từ chức. Trong suốt gần một tháng trời, những áp lực từ chức này đã khiến ông Thiệu vất vả chống đỡ nhưng cuối cùng vẫn không thể chịu đựng nổi nên vào buổi tối 21/4/1975, ông đã xuất hiện trên truyền hình để đọc bài diễn văn từ nhiệm. So với bài diễn văn nhậm chức cách đó 7 năm rưỡi, lần này ông Thiệu diễn thuyết qua hình thức ứng khẩu với thời gian dài hơn rất nhiều. Ông nói: “Cuối năm 1972, chính quyền Hoa Kỳ đã tạo nhiều áp lực ép tôi phải ký kết vào một bản hiệp ước mới. Khi tôi bày tỏ ý kiến là tuyệt đối không thể có chuyện ký kết một thỏa hiệp nào với những người cộng sản thì Hoa Kỳ đe dọa sẽ cắt đứt viện trợ. Sau đó, Tổng Thống Nixon phải đích thân đưa ra lời hứa rằng ông ta bảo đảm Hoa Kỳ sẽ viện trợ ở mức độ cần thiết sau khi hiệp định được ký kết trong trường hợp quân CSBV vi phạm hiệp định và Hoa Kỳ chắc chắn sẽ can thiệp nếu CSBV tiếp tục tấn công miền Nam.” Nhưng người mà ông Thiệu đề cập đến là Tổng Thống Nixon đã từ chức vào năm trước đó vì vụ tai tiếng “Watergate”. Ông Thiệu còn tiếp lời: “Tuy hiệp định Ba Lê đã hình thành nhưng Hoa Kỳ lại cắt giảm viện trợ. Trong khi phía cộng sản BV vẫn tiếp tục nhận được viện trợ dồi dào từ Trung cộng, Liên Xô thì những tổn thất của chúng ta như mất chiến xa, mất đại pháo đã không được Hoa Kỳ bù đắp.” Đây quả là những lời trần tình bi thống của ông Thiệu cho thấy rõ ràng những thỏa thuận giữa chính quyền của ông và chính phủ Hoa Kỳ đã không được đối phương tôn trọng với kết quả là ông nhận trách nhiệm phải từ chức vì phía Hoa Kỳ không thực hiện lời cam kết tiếp tục viện trợ cho miền Nam. Bên cạnh đó, ông cũng nhấn mạnh rằng những chủ trương của phía CSBV như: “Nguyễn Văn Thiệu chỉ là một thứ cản trở tiến trình lập lại hòa bình ở VN” chỉ là những khẩu hiệu tuyên truyền nhằm đánh lừa dư luận Hoa Kỳ và thế giới. *** Quả nhiên, những gì mà Bắc Việt tuyên bố việc thương thảo đình chiến nếu ông Thiệu từ chức chỉ hoàn toàn là giả tạo nhưng lúc đó cả thế giới đều ngây thơ tin rằng sau khi ông Thiệu từ chức thì hòa bình sẽ được tái lập ở Việt Nam theo quy định của hiệp định Ba Lê. Trong bài diễn văn từ nhiệm, tuy ông Thiệu đã tuyên bố sẽ ở lại đến giây phút cuối cùng với binh sĩ để chiến đấu chống những người cộng sản nhưng chỉ 4 ngày sau, vào đêm 25/4/1975, ông đã cùng cựu Thủ tướng Trần Thiện Khiêm và gia đình họ di tản khỏi Việt Nam đến Đài Loan lánh nạn.
|
|