Post by Huu Le on Aug 20, 2006 8:14:03 GMT 9
Pablo Picasso (1881 - 1973) nhà danh họa bậc nhất thế kỷ 20
T/G: Phạm Văn Tuấn
Năm 1907, Picasso và Braque khởi đầu một phong trào hội họa gọi là Trường Phái Lập Thể (Cubism). Đây là kết quả từ lời nói xác định của họa sĩ Paul Cezanne: “Bạn phải nhìn thấy trong thiên nhiên các khối trụ, khối cầu và khối chóp nhọn “. Picasso đã theo sát lời nói này và từ đó, trong các bức tranh của Picasso, đường lối lập thể phân tích (analytical cubism) đã làm thay đổi các hình dạng thiên nhiên thành các thể hình học căn bản và rồi về sau, dẫn tới đặc tính diễn tả đồng thời (simultaneity) tức là các diện khác nhau của một đề tài được trình bày đồng thời với nhau và đè lên nhau.
Pablo Picasso đã khai phá một loạt đường hướng hội họa, mỗi thứ lại khác hẳn các thứ kia và quan tâm tới vài vấn đề đặc biệt trong cách mô tả đời sống hay trong phong cách diễn tả nội tâm. Picasso cũng là một trong các nghệ sĩ hội họa đã khai triển loại vẽ trừu tượng qua đó chỉ có các phẩm chất chọn lọc của đề tài mới được dùng trong bức vẽ hoàn tất.
Pablo Picasso là một nhà danh họa gốc Tây Ban Nha nhưng đã sống gần như trọn đời tại nước Pháp. Ngày nay hầu như không một họa sĩ nào không chịu ảnh hưởng của ông. Với các đặïc tính cực kỳ thực nghiệm và sáng tạo, Pablo Picasso được nhiều người coi là nhà danh họa quan trọng bậc nhất của thế kỷ 20.
1/ Các năm đầu.
Pablo Picasso sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881 tại Málaga, Tây Ban Nha, là con của ông Jose Ruiz Blasco và bà Maria Picasso Lopez. Khi ông Blasco giảng dạy môn hội họa tại La Coruna thì Picasso đã được cha dạy vẽ ở tuổi lên 10, lúc gia đình mới dọn qua nơi này. Tài năng thiên phú đã cho phép cậu nhỏ Pablo làm nhiều thí nghiệm về các điều học hỏi rồi phát triển các cách diễn tả mới bằng các bức họa chứng tỏ Pablo đã vượt qua khả năng của chính người cha ruột. Cũng tại La Coruna, trước tham vọng của cậu con trai, ông Blasco đã dành cho cậu các phương tiện hội họa, các người mẫu và giúp cậu con thể hiện tài năng tối đa nhờ thế, các tác phẩm đầu tiên của Pablo đã xuất hiện trong cuộc triển lãm khi cậu mới được 13 tuổi.
Vào mùa thu năm 1895, gia đình Blasco dọn tới Barcelona, cậu Pablo theo học tại Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật La Llotja và tại nơi này, ông Blasco đã đảm nhận chức vụ giảng dạy Hội Họa lần cuối. Sống tại thành phố lớn thứ hai của nước Tây Ban Nha và theo học Viện Nghệ Thuật, Pablo đã sớm được công nhận là một họa sĩ trẻ có tài và vào năm 1897, bức họa “Khoa học và Từ thiện“ (Science and Charity) đã đoạt giải thưởng danh dự tại Madrid trong một cuộc triển lãm mỹ thuật. Cũng vào mùa thu năm này, Pablo theo học Hàn Lâm Viện Hoàng Gia tại San Fernando nhưng vì cảm thấy lối giảng dạy tại nơi đây tầm thường, Pablo đã dành thời giờ ghi lại đời sống chung quanh bằng các bức họa mô tả quang cảnh đường phố, các nhân vật trong các quán cà phê, nơi các nhà chứa. Khi tới thủ đô Madrid, Pablo đã có nhiều dịp thăm viếng các viện bảo tàng, suy ngẫm về các bức họa nổi danh của Velazquez, El Greco, Goya … mà sau này các nhân vật của các họa sĩ cổ điển Tây Ban Nha đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm của Picasso nhưng dưới các hình thức khác.
Tới mùa xuân năm 1898, Pablo bị bệnh và phải điều dưỡng vài tháng tại làng Horta de Ebro, khi trở lại Barcelona vào đầu năm 1899, Pablo đã trở nên một con người mới, mập mạp hơn, biết nói tiếng Catalan và đoạn tuyệt với cách huấn luyện của trường hội họa và các chương trình do gia đình đặt ra. Cũng từ đây, Pablo quyết định dùng tên mẹ để ký trên các tác phẩm là P. R. Picasso để rồi tới năm 1901, lại bỏ luôn chữ giữa là Ruiz, họ của cha.
Tại Barcelona, Pablo gia nhập nhóm các nghệ sĩ và văn sĩ Catalan, những người hướng về thành phố Paris là kinh đô nghệ thuật. Họ thường lai vãng quán cà phê Els Quatre Gats (4 con mèo), với lối sinh hoạt và trang trí dập khuôn theo quán “Con Mèo Đen “ của thành phố Paris. Chính tại quán nghệ sĩ này, Pablo đã trưng bày các tác phẩm lần thứ nhất vào tháng 2 năm 1900 với hơn 50 chân dung, diễn tả bằng các phương tiện khác nhau. Cũng trong một kỳ triển lãm tại Barcelona, tác phẩm “Các lúc cuối cùng“ (Last Moments) với sắc độ tăm tối, u ám, mô tả sự viếng thăm của một tu sĩ bên giường của một người đàn bà hấp hối, đã được chấp nhận vào nhóm họa phẩm Tây Ban Nha trưng bày trong cuộc Triển Lãm Quốc Tế tại Paris năm 1900. Rồi do lòng ham muốn được thử thách các tác phẩm hội họa và do muốn có kinh nghiệm về “Kinh Đô Aùnh Sáng“, Pablo đã cùng một người bạn học tên là Carles Casagemas qua Pháp, cư ngụ tại xóm Montmartre, thuộc thành phố Paris.
Mọât trong các khám phá đầu tiên của Pablo Picasso trong lần cư ngụ tại Paris từ tháng 10 tới tháng 12 là “màu sắc“, không phải các màu vàng, các màu nâu của phong cảnh Tây Ban Nha, không phải màu đen của chiếc khăn mỏng trùm trên đầu các phụ nư õ… mà là các màu sắc rực rỡ, màu vàng của Van Gogh, các màu sắc đặc biệt của một thành phố đang cử hành cuộc hội chợ quốc tế. Picasso đã dùng than, phấn tiên, màu nước, màu dầu để ghi lại các lối sống nơi thủ đô của nước Pháp như họa phẩm “Các tình nhân trên đường phố “(Lovers in the Street -1900). Picasso đã thử nghiệm lối vẽ chấm nét (dotted style) của trường phái ấn tượng (Impressionism) và đã bị ảnh hưởng bởi các họa sĩ T. A. Steilen người Thụy Sĩ, Toulouse-Lautrec nhà hậu ấn tượng người Pháp (Post-Impressionist) và bởi cả Isidre Nonell, một họa sĩ bạn nhiều tuổi hơn và có tài năng từ Barcelona. Tác phẩm quan trọng nhất trong thời kỳ này của Picasso là bức họa “Sàn quay Galette” (le Moulin de la Galette -1900).
Vào tuổi 18 và khi sống tại Paris từ giữa tháng 10 tới tháng 12 năm 1900, Picasso đã bán được 3 tác phẩm hội họa nhỏ, vẽ cảnh đấu bò rừng, hai bức bằng sơn dầu, một bức bằng bột màu (gouache) cho Berthe Weill, lấy 100 đồng tiền franc vàng. Một người cùng xứ tên là Petro Manach đã đề nghị trả mỗi tháng cho Picasso 150 đồng franc vàng để đổi lấy các sáng tác. Đây không phải là một số tiền lớn nhưng đối với tuổi của Picasso lúc bấy giờ lại sống ở một xứ sở xa lạ, đối với giá sinh hoạt thời đó, thì sự trả giá đó rất đáng kể.
Sau hai tháng sống tại Paris, Picasso trở về Tây Ban Nha với Casagemas rồi tới Madrid, làm giám đốc mỹ thuật (art editor) cho một tờ báo mới có tên là Arte Joven. Nhưng cũng vào lúc này, Casagemas đã trở lại Paris với ý định bắn chết người yêu nhưng không thành, nên đã quay súng vào đầu mình, tự sát. Sự việc này đã ảnh hưởng khá nhiều tới Picasso, có lẽ vì ân hận đã bỏ rơi một người bạn, ông đã trải qua một xúc động mạnh. Vài tháng sau vào năm 1901, Picasso đã vẽ hai “Chân dung chết “ (death portraits) của Casagemas cũng như hai cảnh đám tang (Mourners và Evocation) và rồi vào năm 1903, Casagemas lại xuất hiện trong tác phẩm “Đời Sống“ (La Vie).
2/ Thời kỳ Xanh và Hồng.
Thời gian từ 1901 tới giữa năm 1904, khoảng thời gian ngắn hơn 3 năm là giai đoạn Picasso sáng tác bằng “màu xanh“, một màu áp đảo trong các tác phẩm hội họa và màu xanh thường được coi là màu phản ánh các hoàn cảnh vật chất của Picasso thời bấy giờ.
Thời Kỳ Xanh (the Blue Period) của Picassso có lẽ bắt đầu khi họa sĩ sống tại Madrid từ tháng 2 tới tháng 4 năm 1901, khi mà Picasso khởi đầu bằng màu lạnh, đặc biệt với các sắc lục (green) và sắc xanh (blue tones) như trong các tác phẫm “Người đàn bà mặc áo xanh“ (Woman in Blue), ký tên P. Ruiz Picassso, và “Bà áo xanh“ (Lady in Blue), ký tên Picasso. Vào thời kỳ này, các chủ đề và đường hướng vẽ (styles) khác hẳn với những thứ tương tự vài tháng sau. Picasso thường hay vẽ các cô gái làng chơi đội chiếc mũ rộng vành. Vào lúc đầu của Thời Kỳ Xanh, Picasso đã tiến vào môi trường hội họa như là một nghệ sĩ thiên về đường nét (lines) và xây dựng (construction) hơn là thiên về màu sắc và Picasso đã làm phát triển tài năng qua cách dùng nhiều sắc độ (tones) của cùng một thể mầu.
Màu nóng là đặc tính của các bức họa của miền bắc châu Âu trong khi các họa sĩ miền nam trong đó có họa sĩ Tây Ban Nha, lại ưa dùng màu lạnh và mặc dù sống tại Paris, Picasso vẫn tưởng nhớ tới Málaga với biển xanh, với mặt trời đỏ và khí hậu ấm áp còn Paris là nơi để học hỏi và làm việc, là ngã tư đường của các tư tưởng mới.
Picasso đã đi qua lại giữa Barcelona và Paris, mang theo chất liệu để sáng tác. Vào tháng 4/1901, Picasso đã trưng bày các họa phẩm bằng phấn tiên (pastels) trong cuộc triển lãm đơn độc tại Sala Parés ở Barcelona rồi vào cuối tháng 6 năm đó, phòng triển lãm Ambroise Vollard tại Paris cũng trình bày 64 họa phẩm của Picasso cùng với tác phẩm của Francisco Iturrino, môt họa sĩ người miền Basque và cũng kể từ lúc này, Pablo Picasso chỉ ký tên là Picasso mà không là P. Ruiz Picasso. Các cuộc triển lãm kể trên rất thành công, số tranh bán được khá nhiều.
Khi thăm viếng nhà tù Saint Lazare tại Paris trong năm 1901/02, Picasso đã vẽ các phụ nữ tội phạm như trong tác phẩm “Tô súp“ (the Soup-1902). Tại Barcelona trong các năm 1901/03, họa sĩ cũng mô tả các người ăn xin mù lòa hay cô đơn, những kẻ lang bạt (Crouching Woman-1902, Blind Man’s Meal-1903, Old Jew and a Boy-1903).
Cuối cùng Picasso quyết định di chuyển hẳn qua sống tại thành phố Paris vào mùa xuân năm 1904 và từ nay, các tác phẩm của ông đã bộc lộ sự thay đổi về tinh thần và đặc biệt, thay đổi về các đường hướng nghệ sĩ và trí thức. Picasso đã cùng với một người bạn mới, một thi sĩ tên là Guillaume Apollinaire, quan tâm tới những gánh xiếc dạo, những người làm trò và đây là những đề tài với các tác phẩm như “Thiếu nữ giữ thăng bằng trên trái banh“ (Girl balancing on a Ball-1905), “Người diễn viên“ (the Actor-1905).
Do trạng thái của tâm hồn, do sự gợi cảm, Picasso đã dùng màu Xanh để diễn tả tình cảm bi quan của ông vào cuối thế kỷ, thời kỳ u ám sống với thiếu thốn, đói khát và lạnh giá tại một nơi xa quê hương ấm áp. Nhưng cuối cùng vào năm 1904, các hoàn cảnh cá nhân của Picasso đã thay đổi, nhất là khi nàng Fernande Olivier trở nên người tình của họa sĩ. Cũng vào thời gian này, Picasso có những bạn thân như Max Jacob, Gertrude và Leo Stein người Mỹ và nhất là với Georges Braque mà sau đó, Picasso đã khởi đầu một lối vẽ cấp tiến trong thế kỷ 20, đó là đường lối Lập Thể (cubist style). Sự có mặt của cô nàng Fernande Olivier đã gợi hứng cho họa sĩ vẽ các tác phẩm như “Người đàn bà với các ổ bánh“ (Woman with Loaves-1909), “Đầu một người đàn bà“ (Head of a Woman-1909) và “Người đàn bà với các trái lê“ (Woman with Pears-1909).
Vào khoảng cuối năm 1904, các sắc độ Xanh trong tác phẩm của Picasso lại được thay thế bằng các ánh vẻ hồng, nâu và nâu đất. Đây là “Thời Kỳ Hồng“ với các đề tài di chuyển từ những quán cà phê, quán nhậu của thành phố sang những người hát dạo, các kẻ làm xiếc của miền quê, những con người sinh hoạt trên mọi nẻo đường với cách diễn tả khách quan hơn. Tác phẩm gây ấn tượng nhất với thể loại màu mới, nhẹ nhàng, là tấm “Gia đình người làm xiếc“ (the Family of Saltimbanques-1905) trên đó từng nhân vật, được đặt trong một khung cảnh thưa thớt, đủ nói lên nỗi cô đơn cuả họ. Cũng vào thời gian này, do nghiên cứu về ngành điêu khắc cổ sơ của bán đảo Iberian, Picasso đã làm phát triển ảnh hưởng đó bằng các tác phẩm “Chân dung của Gertrude Stein“ (Portrait of Gertrude Stein-1906) và “Chân dung tự họa“ (Self-Portrait with Palette-1906).
T/G: Phạm Văn Tuấn
Năm 1907, Picasso và Braque khởi đầu một phong trào hội họa gọi là Trường Phái Lập Thể (Cubism). Đây là kết quả từ lời nói xác định của họa sĩ Paul Cezanne: “Bạn phải nhìn thấy trong thiên nhiên các khối trụ, khối cầu và khối chóp nhọn “. Picasso đã theo sát lời nói này và từ đó, trong các bức tranh của Picasso, đường lối lập thể phân tích (analytical cubism) đã làm thay đổi các hình dạng thiên nhiên thành các thể hình học căn bản và rồi về sau, dẫn tới đặc tính diễn tả đồng thời (simultaneity) tức là các diện khác nhau của một đề tài được trình bày đồng thời với nhau và đè lên nhau.
Pablo Picasso đã khai phá một loạt đường hướng hội họa, mỗi thứ lại khác hẳn các thứ kia và quan tâm tới vài vấn đề đặc biệt trong cách mô tả đời sống hay trong phong cách diễn tả nội tâm. Picasso cũng là một trong các nghệ sĩ hội họa đã khai triển loại vẽ trừu tượng qua đó chỉ có các phẩm chất chọn lọc của đề tài mới được dùng trong bức vẽ hoàn tất.
Pablo Picasso là một nhà danh họa gốc Tây Ban Nha nhưng đã sống gần như trọn đời tại nước Pháp. Ngày nay hầu như không một họa sĩ nào không chịu ảnh hưởng của ông. Với các đặïc tính cực kỳ thực nghiệm và sáng tạo, Pablo Picasso được nhiều người coi là nhà danh họa quan trọng bậc nhất của thế kỷ 20.
1/ Các năm đầu.
Pablo Picasso sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881 tại Málaga, Tây Ban Nha, là con của ông Jose Ruiz Blasco và bà Maria Picasso Lopez. Khi ông Blasco giảng dạy môn hội họa tại La Coruna thì Picasso đã được cha dạy vẽ ở tuổi lên 10, lúc gia đình mới dọn qua nơi này. Tài năng thiên phú đã cho phép cậu nhỏ Pablo làm nhiều thí nghiệm về các điều học hỏi rồi phát triển các cách diễn tả mới bằng các bức họa chứng tỏ Pablo đã vượt qua khả năng của chính người cha ruột. Cũng tại La Coruna, trước tham vọng của cậu con trai, ông Blasco đã dành cho cậu các phương tiện hội họa, các người mẫu và giúp cậu con thể hiện tài năng tối đa nhờ thế, các tác phẩm đầu tiên của Pablo đã xuất hiện trong cuộc triển lãm khi cậu mới được 13 tuổi.
Vào mùa thu năm 1895, gia đình Blasco dọn tới Barcelona, cậu Pablo theo học tại Hàn Lâm Viện Nghệ Thuật La Llotja và tại nơi này, ông Blasco đã đảm nhận chức vụ giảng dạy Hội Họa lần cuối. Sống tại thành phố lớn thứ hai của nước Tây Ban Nha và theo học Viện Nghệ Thuật, Pablo đã sớm được công nhận là một họa sĩ trẻ có tài và vào năm 1897, bức họa “Khoa học và Từ thiện“ (Science and Charity) đã đoạt giải thưởng danh dự tại Madrid trong một cuộc triển lãm mỹ thuật. Cũng vào mùa thu năm này, Pablo theo học Hàn Lâm Viện Hoàng Gia tại San Fernando nhưng vì cảm thấy lối giảng dạy tại nơi đây tầm thường, Pablo đã dành thời giờ ghi lại đời sống chung quanh bằng các bức họa mô tả quang cảnh đường phố, các nhân vật trong các quán cà phê, nơi các nhà chứa. Khi tới thủ đô Madrid, Pablo đã có nhiều dịp thăm viếng các viện bảo tàng, suy ngẫm về các bức họa nổi danh của Velazquez, El Greco, Goya … mà sau này các nhân vật của các họa sĩ cổ điển Tây Ban Nha đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm của Picasso nhưng dưới các hình thức khác.
Tới mùa xuân năm 1898, Pablo bị bệnh và phải điều dưỡng vài tháng tại làng Horta de Ebro, khi trở lại Barcelona vào đầu năm 1899, Pablo đã trở nên một con người mới, mập mạp hơn, biết nói tiếng Catalan và đoạn tuyệt với cách huấn luyện của trường hội họa và các chương trình do gia đình đặt ra. Cũng từ đây, Pablo quyết định dùng tên mẹ để ký trên các tác phẩm là P. R. Picasso để rồi tới năm 1901, lại bỏ luôn chữ giữa là Ruiz, họ của cha.
Tại Barcelona, Pablo gia nhập nhóm các nghệ sĩ và văn sĩ Catalan, những người hướng về thành phố Paris là kinh đô nghệ thuật. Họ thường lai vãng quán cà phê Els Quatre Gats (4 con mèo), với lối sinh hoạt và trang trí dập khuôn theo quán “Con Mèo Đen “ của thành phố Paris. Chính tại quán nghệ sĩ này, Pablo đã trưng bày các tác phẩm lần thứ nhất vào tháng 2 năm 1900 với hơn 50 chân dung, diễn tả bằng các phương tiện khác nhau. Cũng trong một kỳ triển lãm tại Barcelona, tác phẩm “Các lúc cuối cùng“ (Last Moments) với sắc độ tăm tối, u ám, mô tả sự viếng thăm của một tu sĩ bên giường của một người đàn bà hấp hối, đã được chấp nhận vào nhóm họa phẩm Tây Ban Nha trưng bày trong cuộc Triển Lãm Quốc Tế tại Paris năm 1900. Rồi do lòng ham muốn được thử thách các tác phẩm hội họa và do muốn có kinh nghiệm về “Kinh Đô Aùnh Sáng“, Pablo đã cùng một người bạn học tên là Carles Casagemas qua Pháp, cư ngụ tại xóm Montmartre, thuộc thành phố Paris.
Mọât trong các khám phá đầu tiên của Pablo Picasso trong lần cư ngụ tại Paris từ tháng 10 tới tháng 12 là “màu sắc“, không phải các màu vàng, các màu nâu của phong cảnh Tây Ban Nha, không phải màu đen của chiếc khăn mỏng trùm trên đầu các phụ nư õ… mà là các màu sắc rực rỡ, màu vàng của Van Gogh, các màu sắc đặc biệt của một thành phố đang cử hành cuộc hội chợ quốc tế. Picasso đã dùng than, phấn tiên, màu nước, màu dầu để ghi lại các lối sống nơi thủ đô của nước Pháp như họa phẩm “Các tình nhân trên đường phố “(Lovers in the Street -1900). Picasso đã thử nghiệm lối vẽ chấm nét (dotted style) của trường phái ấn tượng (Impressionism) và đã bị ảnh hưởng bởi các họa sĩ T. A. Steilen người Thụy Sĩ, Toulouse-Lautrec nhà hậu ấn tượng người Pháp (Post-Impressionist) và bởi cả Isidre Nonell, một họa sĩ bạn nhiều tuổi hơn và có tài năng từ Barcelona. Tác phẩm quan trọng nhất trong thời kỳ này của Picasso là bức họa “Sàn quay Galette” (le Moulin de la Galette -1900).
Vào tuổi 18 và khi sống tại Paris từ giữa tháng 10 tới tháng 12 năm 1900, Picasso đã bán được 3 tác phẩm hội họa nhỏ, vẽ cảnh đấu bò rừng, hai bức bằng sơn dầu, một bức bằng bột màu (gouache) cho Berthe Weill, lấy 100 đồng tiền franc vàng. Một người cùng xứ tên là Petro Manach đã đề nghị trả mỗi tháng cho Picasso 150 đồng franc vàng để đổi lấy các sáng tác. Đây không phải là một số tiền lớn nhưng đối với tuổi của Picasso lúc bấy giờ lại sống ở một xứ sở xa lạ, đối với giá sinh hoạt thời đó, thì sự trả giá đó rất đáng kể.
Sau hai tháng sống tại Paris, Picasso trở về Tây Ban Nha với Casagemas rồi tới Madrid, làm giám đốc mỹ thuật (art editor) cho một tờ báo mới có tên là Arte Joven. Nhưng cũng vào lúc này, Casagemas đã trở lại Paris với ý định bắn chết người yêu nhưng không thành, nên đã quay súng vào đầu mình, tự sát. Sự việc này đã ảnh hưởng khá nhiều tới Picasso, có lẽ vì ân hận đã bỏ rơi một người bạn, ông đã trải qua một xúc động mạnh. Vài tháng sau vào năm 1901, Picasso đã vẽ hai “Chân dung chết “ (death portraits) của Casagemas cũng như hai cảnh đám tang (Mourners và Evocation) và rồi vào năm 1903, Casagemas lại xuất hiện trong tác phẩm “Đời Sống“ (La Vie).
2/ Thời kỳ Xanh và Hồng.
Thời gian từ 1901 tới giữa năm 1904, khoảng thời gian ngắn hơn 3 năm là giai đoạn Picasso sáng tác bằng “màu xanh“, một màu áp đảo trong các tác phẩm hội họa và màu xanh thường được coi là màu phản ánh các hoàn cảnh vật chất của Picasso thời bấy giờ.
Thời Kỳ Xanh (the Blue Period) của Picassso có lẽ bắt đầu khi họa sĩ sống tại Madrid từ tháng 2 tới tháng 4 năm 1901, khi mà Picasso khởi đầu bằng màu lạnh, đặc biệt với các sắc lục (green) và sắc xanh (blue tones) như trong các tác phẫm “Người đàn bà mặc áo xanh“ (Woman in Blue), ký tên P. Ruiz Picassso, và “Bà áo xanh“ (Lady in Blue), ký tên Picasso. Vào thời kỳ này, các chủ đề và đường hướng vẽ (styles) khác hẳn với những thứ tương tự vài tháng sau. Picasso thường hay vẽ các cô gái làng chơi đội chiếc mũ rộng vành. Vào lúc đầu của Thời Kỳ Xanh, Picasso đã tiến vào môi trường hội họa như là một nghệ sĩ thiên về đường nét (lines) và xây dựng (construction) hơn là thiên về màu sắc và Picasso đã làm phát triển tài năng qua cách dùng nhiều sắc độ (tones) của cùng một thể mầu.
Màu nóng là đặc tính của các bức họa của miền bắc châu Âu trong khi các họa sĩ miền nam trong đó có họa sĩ Tây Ban Nha, lại ưa dùng màu lạnh và mặc dù sống tại Paris, Picasso vẫn tưởng nhớ tới Málaga với biển xanh, với mặt trời đỏ và khí hậu ấm áp còn Paris là nơi để học hỏi và làm việc, là ngã tư đường của các tư tưởng mới.
Picasso đã đi qua lại giữa Barcelona và Paris, mang theo chất liệu để sáng tác. Vào tháng 4/1901, Picasso đã trưng bày các họa phẩm bằng phấn tiên (pastels) trong cuộc triển lãm đơn độc tại Sala Parés ở Barcelona rồi vào cuối tháng 6 năm đó, phòng triển lãm Ambroise Vollard tại Paris cũng trình bày 64 họa phẩm của Picasso cùng với tác phẩm của Francisco Iturrino, môt họa sĩ người miền Basque và cũng kể từ lúc này, Pablo Picasso chỉ ký tên là Picasso mà không là P. Ruiz Picasso. Các cuộc triển lãm kể trên rất thành công, số tranh bán được khá nhiều.
Khi thăm viếng nhà tù Saint Lazare tại Paris trong năm 1901/02, Picasso đã vẽ các phụ nữ tội phạm như trong tác phẩm “Tô súp“ (the Soup-1902). Tại Barcelona trong các năm 1901/03, họa sĩ cũng mô tả các người ăn xin mù lòa hay cô đơn, những kẻ lang bạt (Crouching Woman-1902, Blind Man’s Meal-1903, Old Jew and a Boy-1903).
Cuối cùng Picasso quyết định di chuyển hẳn qua sống tại thành phố Paris vào mùa xuân năm 1904 và từ nay, các tác phẩm của ông đã bộc lộ sự thay đổi về tinh thần và đặc biệt, thay đổi về các đường hướng nghệ sĩ và trí thức. Picasso đã cùng với một người bạn mới, một thi sĩ tên là Guillaume Apollinaire, quan tâm tới những gánh xiếc dạo, những người làm trò và đây là những đề tài với các tác phẩm như “Thiếu nữ giữ thăng bằng trên trái banh“ (Girl balancing on a Ball-1905), “Người diễn viên“ (the Actor-1905).
Do trạng thái của tâm hồn, do sự gợi cảm, Picasso đã dùng màu Xanh để diễn tả tình cảm bi quan của ông vào cuối thế kỷ, thời kỳ u ám sống với thiếu thốn, đói khát và lạnh giá tại một nơi xa quê hương ấm áp. Nhưng cuối cùng vào năm 1904, các hoàn cảnh cá nhân của Picasso đã thay đổi, nhất là khi nàng Fernande Olivier trở nên người tình của họa sĩ. Cũng vào thời gian này, Picasso có những bạn thân như Max Jacob, Gertrude và Leo Stein người Mỹ và nhất là với Georges Braque mà sau đó, Picasso đã khởi đầu một lối vẽ cấp tiến trong thế kỷ 20, đó là đường lối Lập Thể (cubist style). Sự có mặt của cô nàng Fernande Olivier đã gợi hứng cho họa sĩ vẽ các tác phẩm như “Người đàn bà với các ổ bánh“ (Woman with Loaves-1909), “Đầu một người đàn bà“ (Head of a Woman-1909) và “Người đàn bà với các trái lê“ (Woman with Pears-1909).
Vào khoảng cuối năm 1904, các sắc độ Xanh trong tác phẩm của Picasso lại được thay thế bằng các ánh vẻ hồng, nâu và nâu đất. Đây là “Thời Kỳ Hồng“ với các đề tài di chuyển từ những quán cà phê, quán nhậu của thành phố sang những người hát dạo, các kẻ làm xiếc của miền quê, những con người sinh hoạt trên mọi nẻo đường với cách diễn tả khách quan hơn. Tác phẩm gây ấn tượng nhất với thể loại màu mới, nhẹ nhàng, là tấm “Gia đình người làm xiếc“ (the Family of Saltimbanques-1905) trên đó từng nhân vật, được đặt trong một khung cảnh thưa thớt, đủ nói lên nỗi cô đơn cuả họ. Cũng vào thời gian này, do nghiên cứu về ngành điêu khắc cổ sơ của bán đảo Iberian, Picasso đã làm phát triển ảnh hưởng đó bằng các tác phẩm “Chân dung của Gertrude Stein“ (Portrait of Gertrude Stein-1906) và “Chân dung tự họa“ (Self-Portrait with Palette-1906).