Post by Huu Le on Aug 20, 2006 9:36:04 GMT 9
Kiến trúc của Trung Quốc
Vietsciences - Lê Anh Minh 04/08/2006
( Đọc thêm Kiến Trúc Chàm xin vào website : vannghe.forumup.us/viewtopic.php?t=10&mforum=vannghe )
NỘI DUNG
1. KIẾN TRÚC CỦA TRUNG QUỐC
2. VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
3. HOÀNG CUNG
4. PHẬT TỰ VÀ ĐẠO QUÁN
5. KIẾN TRÚC CHO KIẾP SAU
6. NGHỆ THUẬT HOA VIÊN VƯỜN CẢNH
1. KIẾN TRÚC CỦA TRUNG QUỐC
Người Trung Quốc sử dụng đủ loại vật liệu xây dựng như gỗ, đá, gạch, ngói, đất bùn, và kim loại. Từ thời xa xưa, họ chủ yếu dùng gỗ để xây nhà ở và kỹ thuật thiết kế và xử lý các kết cấu gỗ của họ thực là tài tình. Tại di chỉ Hà Mẫu Độ tỉnh Chiết Giang, người ta đã khai quật được những mảnh gỗ bắt mộng vào nhau, và chúng được giám định là xuất hiện trên 6500 năm.
Mái ngói men (lưu ly ngoã) đặc trưng của Trung Quốc
Đời Hạ, Thương, Chu, đã xuất hiện kết cấu kiến trúc xây nhà xung quanh và sân ở giữa. Kỹ thuật đầm đất và kết cấu gỗ đã phát triển cao nhờ các công cụ bằng đồng, bằng sắt đã xuất hiện. Kinh đô lấy cung điện nhiều bậc thềm làm chính, xung quanh có tường thành bằng đất nện. Đời Tần và đời Hán, do sự thống nhất đất nước và giao thông thuận lợi hơn, kỹ thuật xây dựng phát triển do sự giao lưu giữa các địa phương. Giới thống trị đã xây dựng rất nhiều đền đài, lăng mộ, thành trì, công trình thuỷ lợi, v.v... Đời Tấn và Nam Bắc Triều, kỹ thuật xây dựng dung hợp các cách thức của các dân tộc, và cả nước ngoài nữa. Đạo giáo và Phật giáo phát triển, cho nên các kiến trúc tôn giáo mới mẻ xuất hiện. Đời Đường, kiến trúc đạt đến sự tinh vi và thuần thục rất cao. Việc chế tạo ngói tráng men (lưu ly ngoã) đã xuất hiện từ đời Nam Bắc Triều nay có tiến bộ hơn ở đời Đường và được sử dụng rộng rãi hơn. Đời Tống là thời kỳ chuyển biến của kỹ thuật xây dựng. Phong cách kiến trúc trang trọng và giản dị của đời Đường chuyển sang phong cách hoa mỹ cầu kỳ vào đời Tống. Vào đời này bắt đầu xuất hiện tác phẩm Doanh Tạo Pháp Thức của Lý Giới. Đây là sách giáo khoa về kỹ thuật xây dựng, trình bày toàn bộ quá trình xây dựng, từ thao tác đo đạc tính toán nền móng, tính toán vật liệu, thiết kế, thi công, trang trí, v.v... Sang đời Minh và Thanh, nghề làm gạch phát triển, và gạch được sử dụng rất nhiều trong các công trình xây dựng, từ nhà ở của dân đến đền đài, cung điện, thành quách, cầu đường, v.v...
Kiến trúc bên trong Tử Cấm Thành:
Một góc bên trong Tử Cấm Thành Lan can đá chạm trổ Sư tử đá và mái cung điện
2. VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
«Bất đáo Trường Thành phi hảo hán» là câu nói cửa miệng của người Trung Quốc. Vạn lý Trường Thành (tức Trường Thành) là công trình kiến trúc vĩ đại nhất, là một trong những biểu tượng mạnh mẽ nhất của Trung Quốc, và là niềm tự hào của dân tộc này. Trường Thành bắt đầu từ ải quan Gia Dụ (Cam Túc) ở phía tây, uốn khúc chập chùng chạy sang phía đông đến ải quan Sơn Hải (Hà Bắc). Trường Thành đã xuất hiện trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc. Nó nguyên là các bức tường của các nước thời Chiến Quốc dùng ngăn giặc. Trong trận chiến cổ đại, quân dội dựa vào kỵ binh, bộ binh, và chiến xa (ngựa kéo). Do đó các tường thành này rất quan trọng để ngăn chặn quân địch. Trước khi Tần thống nhất Trung Quốc, tường thành của nước Tần bắt đầu từ Lâm Triệu (huyện Mân, Cam Túc ngày nay) ở phía tây, chạy qua Cố Nguyên ở đông bắc và đến Hoàng Hà. Tường thành của nước Triệu từ Cao Quyết (huyện Lâm Hà, Nội Mông ngày nay) chạy đến đất Đại (huyện Úy, Hà Bắc ngày nay). Và tường thành của nước Yên từ Tạo Dương (Độc Thạch, Sơn Hà Bắc ngày nay) chạy đến Liêu Đông. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất 6 nước năm 221 tcn, ông cho gia cố các tường thành cũ và xây nối liền chúng với nhau.
Năm 221 tcn, vừa mới thống nhất Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng Đế sai tướng Mông Điềm kéo quân đánh Hung Nô, chiếm cứ vùng Hà Nam. Để ngừa Hung Nô tiến xuống phía nam, vua Tần sai xây dựng thêm và gia cố ba tường thành cũ (của Tần, Triệu, và Yên). Việc này cũng do tướng Mông Điềm chỉ huy coi sóc trong mười năm, huy động rất nhiều công sức lao động của quân lính, dân chúng, và phạm nhân. Ngoài việc nối liền ba tường thành cũ, vua Tần cho mở rộng thêm về hướng bắc. Những triều đại về sau (trừ đời Thanh) đều góp phần gia cố tu bổ thêm Trường Thành.
Vạn lý Trường Thành
Đời Hán, Trường Thành được nối dài sang phía tây đến ải quan Ngọc Môn, để phòng bị giặc từ phía Tây Vực. Dọc theo Trường Thành có nhiều trại quân và nhiều tháp canh gọi là phong hoả đài. Chế độ biên phòng này rất nghiêm nhặt. Nếu thấy giặc, ban ngày thì đốt khói, ban đêm thì đốt lửa báo tin cho nhau, từ xa mấy trăm dặm quân cứu viện có thể đến ngay được.
Đời Nam Bắc Triều, vua Tuyên Vũ Đế của Bắc Nguỵ cho xây thêm một đoạn thành 1000 km từ phía tây sang đông, tức là từ Ngũ Nguyên (thuộc Nội Mông ngày nay) đến Xích Thành (thuộc Hà Bắc ngày nay). Đời Bắc Tề cũng tu sửa Trường Thành, đặt thêm các trạm biên phòng nơi xung yếu. Đời Tùy huy động trăm vạn nhân công tu bổ Trường Thành để chống rợ Đột Quyết.
Sau khi triều đại Nguyên sụp đổ, biên giới phía bắc không an ninh, phía đông bắc có giặc Nữ Chân quấy phá, do đó triều đình nhà Minh đã tu bổ Trường Thành một cách qui mô để ngăn ngừa giặc tràn xuống phía nam. Việc tu bổ này tiến hành suốt 100 năm. Trường Thành đời Minh dài 6 ngàn km, chạy dài từ ải quan Gia Dụ đến Áp Lục giang. Dọc theo Trường Thành, triều đình nhà Minh đặt 9 trại quân đồn trú tại Cam Túc, Cố Nguyên, Ninh Hạ, Diên Tuy, Thái Nguyên, Đại Đồng, Tuyên Phủ, Bào Châu, và Liêu Đông. Đến đời Thanh, vì giai cấp thống trị là người Mãn Châu, tức là đối tượng từng bị Trường Thành cản trở trong các triều đại trước, do đó họ không quan tâm tu bổ Trường Thành.
3. HOÀNG CUNG
Cung điện là nơi vua giải quyết việc nước cũng như cư ngụ. Mỗi cung điện của vua đều tượng trưng cho vương quyền. Tất cả các toà nhà (đôi khi cả trăm căn) đều được thiết kế và xây dựng sao cho phản ánh được cái uy quyền tối cao đó. Thời cổ đại, cung điện luôn là trung tâm của thủ đô. Qua phát hiện khảo cổ, người ta thấy cung điện đầu đời Thương được xây dựng trên gò đất và gồm tám gian, kết cấu khung gỗ, bên ngoài có tường bao bọc. Cung điện gồm có đường (nơi họp triều) và thất (nơi ở). Di chỉ Ân khư (tại An Dương) cho thấy cung điện đời Ân-Thương (tức cuối đời Thương) gồm ba khu: khu phía bắc là nơi cư ngụ của vương thất; khu giữa là khu trung tâm với qui mô lớn, làm tông miếu và hành chính; và khu phía nam là nơi cúng tế. Ba khu xếp theo một trục đối xứng, theo thiết kế gọi là «tiền điện, hậu tẩm» (phía trước là cung điện, phía sau là phòng thất để ở). Do đó có thể thấy đây là tiền thân của các hoàng cung về sau. Đời Chu, bố cục của hoàng cung là «tiền triều, hậu tẩm, tả tổ, hữu tắc» (phía trước làm nơi họp triều, phía sau làm nơi nghỉ ngơi, phía trái thờ tổ tiên tức tông miếu, phía phải thờ xã tắc). Đa số khu hoàng cung đều có tường thành vây bọc, gọi là «thành cung» (cung điện có thành bao bọc).
Nhà Thái Miếu
Cửa và trần nhà của Nhân Thọ Điện (trong Di Hoà Viên)
Hoàng cung đời Tần và đời Hán cũng theo phong cách tiền điện hậu tẩm, các cung điện phân bố rải rác, nối với nhau bằng các đường nhỏ. Hoàng cung Tây Hán ở Trường An lấy cung Vị Ương của vua làm chính, gọi là tiền điện. Hoàng cung Đông Hán ở Lạc Dương lấy Thái Cực Điện làm tiền điện. Hoàng cung đời Nguỵ, Tấn, và Nam Bắc Triều cũng noi theo đời Đông Hán, lấy Thái Cực Điện làm tiền điện, nhưng áp dụng bố cục tam triều, xếp trên trục dọc nam bắc: đại triều, nhật triều, và thường triều. Đại triều là cổng chính (Thừa Thiên Môn); nhật triều là Thái Cực Điện, và thường triều là Lưỡng Nghi Điện. Hoàng cung đời Đường ở Trường An tuân thủ bố cục tam triều và tiền triều hậu tẩm, tả tổ hữu xã. Phía sau hoàng cung là vườn hoa, bên trái là Dịch Đình, bên phải là Đông Cung (nơi thái tử ở); phía nam hoàng thành có cơ quan cấm vệ, nhà Thái Miếu (thờ tổ tiên) và nhà Thái Xã (thờ xã tắc). Kiến trúc hoàng cung Tống, Liêu, Kim cũng bắt chước đời Đường.
Hoàng cung đời Thanh trên trục nam bắc với cấu trúc «ngũ môn tam điện» (năm cửa, ba cung điện) gồm lần lượt: Thiên An Môn (cửa chính hoàng thành), Đoan Môn, Ngọ Môn, Thái Hoà Môn, Thái Hoà Điện, Trung Hoà Điện, Càn Thanh Môn, Càn Thanh Cung. Từ Thiên An Môn đến Ngọ Môn là khu ngoại triều; Thái Hoà Môn và Thái Hoà Điện là khu nội triều; Càn Thanh Môn đến Càn Thanh Cung là khu yên triều (hay tẩm). Trung Hoà Điện là nơi vua chuẩn bị cử hành đại triều. Bảo Hoà Điện là nơi thiết đãi yến tiệc. Ngoài ra còn các nơi ở của vua (Càn Thanh Cung), hoàng hậu (Khôn Ninh Cung), phi tần cung nữ (6 cung ở phía đông và tây), hoàng tử (ngũ sở).
Vietsciences - Lê Anh Minh 04/08/2006
( Đọc thêm Kiến Trúc Chàm xin vào website : vannghe.forumup.us/viewtopic.php?t=10&mforum=vannghe )
NỘI DUNG
1. KIẾN TRÚC CỦA TRUNG QUỐC
2. VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
3. HOÀNG CUNG
4. PHẬT TỰ VÀ ĐẠO QUÁN
5. KIẾN TRÚC CHO KIẾP SAU
6. NGHỆ THUẬT HOA VIÊN VƯỜN CẢNH
1. KIẾN TRÚC CỦA TRUNG QUỐC
Người Trung Quốc sử dụng đủ loại vật liệu xây dựng như gỗ, đá, gạch, ngói, đất bùn, và kim loại. Từ thời xa xưa, họ chủ yếu dùng gỗ để xây nhà ở và kỹ thuật thiết kế và xử lý các kết cấu gỗ của họ thực là tài tình. Tại di chỉ Hà Mẫu Độ tỉnh Chiết Giang, người ta đã khai quật được những mảnh gỗ bắt mộng vào nhau, và chúng được giám định là xuất hiện trên 6500 năm.
Mái ngói men (lưu ly ngoã) đặc trưng của Trung Quốc
Đời Hạ, Thương, Chu, đã xuất hiện kết cấu kiến trúc xây nhà xung quanh và sân ở giữa. Kỹ thuật đầm đất và kết cấu gỗ đã phát triển cao nhờ các công cụ bằng đồng, bằng sắt đã xuất hiện. Kinh đô lấy cung điện nhiều bậc thềm làm chính, xung quanh có tường thành bằng đất nện. Đời Tần và đời Hán, do sự thống nhất đất nước và giao thông thuận lợi hơn, kỹ thuật xây dựng phát triển do sự giao lưu giữa các địa phương. Giới thống trị đã xây dựng rất nhiều đền đài, lăng mộ, thành trì, công trình thuỷ lợi, v.v... Đời Tấn và Nam Bắc Triều, kỹ thuật xây dựng dung hợp các cách thức của các dân tộc, và cả nước ngoài nữa. Đạo giáo và Phật giáo phát triển, cho nên các kiến trúc tôn giáo mới mẻ xuất hiện. Đời Đường, kiến trúc đạt đến sự tinh vi và thuần thục rất cao. Việc chế tạo ngói tráng men (lưu ly ngoã) đã xuất hiện từ đời Nam Bắc Triều nay có tiến bộ hơn ở đời Đường và được sử dụng rộng rãi hơn. Đời Tống là thời kỳ chuyển biến của kỹ thuật xây dựng. Phong cách kiến trúc trang trọng và giản dị của đời Đường chuyển sang phong cách hoa mỹ cầu kỳ vào đời Tống. Vào đời này bắt đầu xuất hiện tác phẩm Doanh Tạo Pháp Thức của Lý Giới. Đây là sách giáo khoa về kỹ thuật xây dựng, trình bày toàn bộ quá trình xây dựng, từ thao tác đo đạc tính toán nền móng, tính toán vật liệu, thiết kế, thi công, trang trí, v.v... Sang đời Minh và Thanh, nghề làm gạch phát triển, và gạch được sử dụng rất nhiều trong các công trình xây dựng, từ nhà ở của dân đến đền đài, cung điện, thành quách, cầu đường, v.v...
Kiến trúc bên trong Tử Cấm Thành:
Một góc bên trong Tử Cấm Thành Lan can đá chạm trổ Sư tử đá và mái cung điện
2. VẠN LÝ TRƯỜNG THÀNH
«Bất đáo Trường Thành phi hảo hán» là câu nói cửa miệng của người Trung Quốc. Vạn lý Trường Thành (tức Trường Thành) là công trình kiến trúc vĩ đại nhất, là một trong những biểu tượng mạnh mẽ nhất của Trung Quốc, và là niềm tự hào của dân tộc này. Trường Thành bắt đầu từ ải quan Gia Dụ (Cam Túc) ở phía tây, uốn khúc chập chùng chạy sang phía đông đến ải quan Sơn Hải (Hà Bắc). Trường Thành đã xuất hiện trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc. Nó nguyên là các bức tường của các nước thời Chiến Quốc dùng ngăn giặc. Trong trận chiến cổ đại, quân dội dựa vào kỵ binh, bộ binh, và chiến xa (ngựa kéo). Do đó các tường thành này rất quan trọng để ngăn chặn quân địch. Trước khi Tần thống nhất Trung Quốc, tường thành của nước Tần bắt đầu từ Lâm Triệu (huyện Mân, Cam Túc ngày nay) ở phía tây, chạy qua Cố Nguyên ở đông bắc và đến Hoàng Hà. Tường thành của nước Triệu từ Cao Quyết (huyện Lâm Hà, Nội Mông ngày nay) chạy đến đất Đại (huyện Úy, Hà Bắc ngày nay). Và tường thành của nước Yên từ Tạo Dương (Độc Thạch, Sơn Hà Bắc ngày nay) chạy đến Liêu Đông. Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất 6 nước năm 221 tcn, ông cho gia cố các tường thành cũ và xây nối liền chúng với nhau.
Năm 221 tcn, vừa mới thống nhất Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng Đế sai tướng Mông Điềm kéo quân đánh Hung Nô, chiếm cứ vùng Hà Nam. Để ngừa Hung Nô tiến xuống phía nam, vua Tần sai xây dựng thêm và gia cố ba tường thành cũ (của Tần, Triệu, và Yên). Việc này cũng do tướng Mông Điềm chỉ huy coi sóc trong mười năm, huy động rất nhiều công sức lao động của quân lính, dân chúng, và phạm nhân. Ngoài việc nối liền ba tường thành cũ, vua Tần cho mở rộng thêm về hướng bắc. Những triều đại về sau (trừ đời Thanh) đều góp phần gia cố tu bổ thêm Trường Thành.
Vạn lý Trường Thành
Đời Hán, Trường Thành được nối dài sang phía tây đến ải quan Ngọc Môn, để phòng bị giặc từ phía Tây Vực. Dọc theo Trường Thành có nhiều trại quân và nhiều tháp canh gọi là phong hoả đài. Chế độ biên phòng này rất nghiêm nhặt. Nếu thấy giặc, ban ngày thì đốt khói, ban đêm thì đốt lửa báo tin cho nhau, từ xa mấy trăm dặm quân cứu viện có thể đến ngay được.
Đời Nam Bắc Triều, vua Tuyên Vũ Đế của Bắc Nguỵ cho xây thêm một đoạn thành 1000 km từ phía tây sang đông, tức là từ Ngũ Nguyên (thuộc Nội Mông ngày nay) đến Xích Thành (thuộc Hà Bắc ngày nay). Đời Bắc Tề cũng tu sửa Trường Thành, đặt thêm các trạm biên phòng nơi xung yếu. Đời Tùy huy động trăm vạn nhân công tu bổ Trường Thành để chống rợ Đột Quyết.
Sau khi triều đại Nguyên sụp đổ, biên giới phía bắc không an ninh, phía đông bắc có giặc Nữ Chân quấy phá, do đó triều đình nhà Minh đã tu bổ Trường Thành một cách qui mô để ngăn ngừa giặc tràn xuống phía nam. Việc tu bổ này tiến hành suốt 100 năm. Trường Thành đời Minh dài 6 ngàn km, chạy dài từ ải quan Gia Dụ đến Áp Lục giang. Dọc theo Trường Thành, triều đình nhà Minh đặt 9 trại quân đồn trú tại Cam Túc, Cố Nguyên, Ninh Hạ, Diên Tuy, Thái Nguyên, Đại Đồng, Tuyên Phủ, Bào Châu, và Liêu Đông. Đến đời Thanh, vì giai cấp thống trị là người Mãn Châu, tức là đối tượng từng bị Trường Thành cản trở trong các triều đại trước, do đó họ không quan tâm tu bổ Trường Thành.
3. HOÀNG CUNG
Cung điện là nơi vua giải quyết việc nước cũng như cư ngụ. Mỗi cung điện của vua đều tượng trưng cho vương quyền. Tất cả các toà nhà (đôi khi cả trăm căn) đều được thiết kế và xây dựng sao cho phản ánh được cái uy quyền tối cao đó. Thời cổ đại, cung điện luôn là trung tâm của thủ đô. Qua phát hiện khảo cổ, người ta thấy cung điện đầu đời Thương được xây dựng trên gò đất và gồm tám gian, kết cấu khung gỗ, bên ngoài có tường bao bọc. Cung điện gồm có đường (nơi họp triều) và thất (nơi ở). Di chỉ Ân khư (tại An Dương) cho thấy cung điện đời Ân-Thương (tức cuối đời Thương) gồm ba khu: khu phía bắc là nơi cư ngụ của vương thất; khu giữa là khu trung tâm với qui mô lớn, làm tông miếu và hành chính; và khu phía nam là nơi cúng tế. Ba khu xếp theo một trục đối xứng, theo thiết kế gọi là «tiền điện, hậu tẩm» (phía trước là cung điện, phía sau là phòng thất để ở). Do đó có thể thấy đây là tiền thân của các hoàng cung về sau. Đời Chu, bố cục của hoàng cung là «tiền triều, hậu tẩm, tả tổ, hữu tắc» (phía trước làm nơi họp triều, phía sau làm nơi nghỉ ngơi, phía trái thờ tổ tiên tức tông miếu, phía phải thờ xã tắc). Đa số khu hoàng cung đều có tường thành vây bọc, gọi là «thành cung» (cung điện có thành bao bọc).
Nhà Thái Miếu
Cửa và trần nhà của Nhân Thọ Điện (trong Di Hoà Viên)
Hoàng cung đời Tần và đời Hán cũng theo phong cách tiền điện hậu tẩm, các cung điện phân bố rải rác, nối với nhau bằng các đường nhỏ. Hoàng cung Tây Hán ở Trường An lấy cung Vị Ương của vua làm chính, gọi là tiền điện. Hoàng cung Đông Hán ở Lạc Dương lấy Thái Cực Điện làm tiền điện. Hoàng cung đời Nguỵ, Tấn, và Nam Bắc Triều cũng noi theo đời Đông Hán, lấy Thái Cực Điện làm tiền điện, nhưng áp dụng bố cục tam triều, xếp trên trục dọc nam bắc: đại triều, nhật triều, và thường triều. Đại triều là cổng chính (Thừa Thiên Môn); nhật triều là Thái Cực Điện, và thường triều là Lưỡng Nghi Điện. Hoàng cung đời Đường ở Trường An tuân thủ bố cục tam triều và tiền triều hậu tẩm, tả tổ hữu xã. Phía sau hoàng cung là vườn hoa, bên trái là Dịch Đình, bên phải là Đông Cung (nơi thái tử ở); phía nam hoàng thành có cơ quan cấm vệ, nhà Thái Miếu (thờ tổ tiên) và nhà Thái Xã (thờ xã tắc). Kiến trúc hoàng cung Tống, Liêu, Kim cũng bắt chước đời Đường.
Hoàng cung đời Thanh trên trục nam bắc với cấu trúc «ngũ môn tam điện» (năm cửa, ba cung điện) gồm lần lượt: Thiên An Môn (cửa chính hoàng thành), Đoan Môn, Ngọ Môn, Thái Hoà Môn, Thái Hoà Điện, Trung Hoà Điện, Càn Thanh Môn, Càn Thanh Cung. Từ Thiên An Môn đến Ngọ Môn là khu ngoại triều; Thái Hoà Môn và Thái Hoà Điện là khu nội triều; Càn Thanh Môn đến Càn Thanh Cung là khu yên triều (hay tẩm). Trung Hoà Điện là nơi vua chuẩn bị cử hành đại triều. Bảo Hoà Điện là nơi thiết đãi yến tiệc. Ngoài ra còn các nơi ở của vua (Càn Thanh Cung), hoàng hậu (Khôn Ninh Cung), phi tần cung nữ (6 cung ở phía đông và tây), hoàng tử (ngũ sở).