|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:03:46 GMT 9
Thư Pháp là gì ? (Trích từ web Dactrung )
Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ... (Ông Đồ-Vũ Đình Liên).
Ông đồ trong bài thơ trên đây bày mực tàu giấy đỏ để hành nghề viết chữ và tặng chữ cho khách qua đường. Nghề của Ông không cần đến những văn chương chữ nghĩa cao siêu. Bất quá là những chữ phổ cập trong đại chúng như:"Phúc, Lộc, Thọ, Kim Ngọc Mãn Đường, Ngũ phước lâm môn v.v.... Tuy nhiên những chữ này phải được viết thực đẹp để có thể mang về nhà dán lên vách, lên cột như những bức tranh. Yêu cầu về nghề nghiệp của Ông đồ này là phải có hoa tay: Hoa tay thảo những nét Như phượng múa rồng bay Muốn viết được thứ chữ như phượng múa rồng bay đó, người viết cần phải có một Thư Pháp. THƯ PHÁP (Calligraphy-callégraphie) là cách viết chữ đẹp-một trong những bộ môn nghệ thuật rất trí tuệ và tao nhã. Cách đây hơn 35000 năm, người tiền sử đã để lại nhiều bức vẽ đầu tiên trong các hang động. Nhưng nếu chỉ biết vẽ thì chưa đủ trí tuệ để đưa con người thoát ra khỏi thời kỳ ăn lông ở lỗ. Chỉ đến khi chữ viết xuất hiện mới chứng tỏ con người đã có một bước ngoặt để tiến vào những nền văn hóa, văn minh. Chữ viết nảy sinh từ nhu cầu làm sổ sách, kế toán, những văn tự xưa nhất dưới dạng ký hiệu xuất hiện ở vùng đồng bằng Mesopotamia vùng Trung Cận Đông vào khoảng 4000 năm trước tây lịch. Chữ Hán của người Trung Hoa xuất hiện chậm hơn vào khoảng 2000 năm trước tây lịch. Huyền thoại về chữ viết của người Trung Hoa cho rằng người xưa đã quan sát dấu chân chim, chân thú để lại trên tuyết hay trên cát mà sáng tác ra dạng chữ Hán. Trong số những dấu tích xưa nhất của chữ Hán, có thứ chữ khắc trên mai con rùa gọi là giáp cốt văn mang nội dung của Kinh Dịch được xác định niên đại vào khoảng từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XI trước tây lịch. Nghe nói sau này, ở Trung Quốc có học giả Quách Mạt Nhược là người có thể đọc và hiểu được thứ giáp cốt văn ấy. Chữ viết của người Nhật có từ thế kỷ thứ V trước tây lịch, có nguồn gốc từ chữ Hán, do người Trung Hoa đưa vào qua Kinh Phật. Trong một thời gian dài đến XIII thế kỷ, người Nhật đã phải sử dụng chữ Hán. Mãi đến đầu thế kỷ thứ IX, một số các mệnh phụ phu nhân trong triều đình sáng tác ra một kiểu chữ riêng gọi là Hiragana, mượn từ chữ Hán nhưng đơn giản hóa đi nhiều và tạo ra hình kiểu Nhật Tương tự như thế, Hàn Thuyên và các nhà ngữ học tiên phong của nước ta đã sáng tác ra chữ Nôm. Ở phương Tây, chữ Anh, chữ Pháp bắt nguồn từ các cổ tự Ả Rập, Hy Lạp, La Mã. Tại thư viện Charles Quint, còn lưu trữ những văn bản viết theo kiểu tràng giang đại hải, câu chữ viết liên tục, không có khoảng cách giữa các từ hoặc các chương. Mãi đến năm 1637, nghề in đã phát triển ở châu Âu mới thấy xuất hiện lần đầu một quyển sách “ thông minh” được trình bày theo quy cách hiện đại. Đó là quyển Phương Pháp Luận ( Discours de la Méthode) của René Descartes viết bằng tiếng Pháp. Như thế, chữ viết là một quá trình phát triển phức tạp và lâu dài, xem ra nhân loại đã tốn không biết bao nhiêu trí tuệ và tâm huyết. Song song với việc sáng tạo ra con chữ, người ta còn phải sáng tạo ra cách viết chữ. Lúc đầu và đơn giản nhất là dùng ngón tay viết trên cát hay trên mặt đất. Muốn giữ lâu hơn thì viết lên những tảng đất sét, tảng đá, trên gỗ. Người Trung Hoa thời xưa chép sử trên những mảnh tre. Người Đạo Bà La Môn (ở Ấ n Độ)chép kinh bằng cách dùng bút lửa viết lên phiến lá bối, da dê. Khi đã phát minh ra giấy thì dùng bút lông, bút cây, bút tre, bút sắt, bút bi. Và bây giờ, trên máy vi tính chữ viết không đươc tạo hình bằng bút mà bằng “bit”. Bất cứ thứ chữ viết và cách viết nào lúc đầu cũng phải xuất hiện dưới dạng chân phương. Khi mọi người đã quen tay, quen mắt người viết mới chú ý đến cách trình bày đẹp hơn. Cách viết chữ đẹp dần dần được nâng lên hàng nghệ thuật, tức là thư pháp. Trong thư pháp, người viết gửi gắm “Cái tôi” của mình vào đó rất nhiều. Cái gửi gắm vào đó không chỉ có hoa tay mà còn có 3 yếu tố Tinh, Khí Thần.Tinh là tinh hoa, nghệ thuật đôi tay cầm bút-Thần là sự nhập tâm nhíp tâm vào con chữ đưa hồn người viết và hồn con chữ hòa là 1-Không những thế mà còn có cả Khí lực của người viết tạo nên đường nét dứt khóat và bay lượn của con chữ thể thiện đc mọi điều tinh hoa. Do đó, người không có bản sắc tâm hồn và cá tính mạnh mẽ thì không thể có một thư pháp. Trung Quốc là một nước có nhiều nhà thư pháp lớn. Trong số đó nổi tiếng nhất là Vương Hy Chi đời Tần. Sách Tần thư chép: năm Vĩnh Hòa thứ 9 ngày mồng ba tháng ba họ Vương cùng 41 danh sĩ đương thời họp mặt ở Lan Đình huyện Cối Kê tỉnh Triết Giang nhân dịp này Vương Hy Chi tự tay viết bài Tự Tập Thành 28 hàng 324 chữ đẹp đến nỗi mọi người điều mê mẩn. Sau Vương Hy Chi đến Vương Duy đời Đường, tài tử đại gia Tề Hoàng Mế Sái đời Tống. Sau này, tiểu thuyết gia Kim Dung giàu tưởng tượng còn đem cả kiếm thuật, võ thuật vào thư pháp, thêu dệt nên lắm chuyện ly kỳ trong Hiệp Khách Hành hoặc Cô Gái Đồ Long. Gạt bỏ những điều bịa đặt hoang đường, cái có thực trong các câu chuyện trên là một nghệ thuật thư pháp đã đạt đỉnh cao của người Trung Hoa. Người Việt Nam có Cao Bá Quát "Văn Siêu,Thánh Quát"là một nhà thư pháp thuộc hàng đệ nhất danh gia(bút tích vẫn còn tại Hồ GƯơm Hà Hội ngay cửa đi vào). Bạn đọc Áo Trắng đã có dịp nhìn thấy bút tích Cao Bá Quát được giới thiệu trong quán sách nói của ông đồ số xuân Bính Tý vừa qua. Còn hiện nay thì có giai thoại về thư pháp của nhà thơ Hoàng Trung Thông. Hồi đó, nhà thơ Hoàng Cầm mở quán bán rượu nếp làng Vân ở Hà Nội, Hoàng Trung Thông vốn sính rượu vào đấy uống say mèm trong cơn đại tuý, Hoàng Trung Thông đứng dậy viết lên vách tường của quán rượu một chữ TỬU tuyệt đẹp. Tiếc rằng thư pháp của ông ngoài một chữ TỬU ấy không biết còn để lại những gì nữa chăng? Chữ quốc ngữ mà chúng ta đang dùng tuy là thứ văn tự non trẻ và mang ký tự La Tinh nhưng càng ngày càng có nhiều người viết nâng lên ngang hàng thư pháp. Chèo Vỡ Sông Trăng của Minh Đức Triều Tâm Ảnh là một dạng thư pháp chữ quốc ngữ mang nét chữ Latinh và cái thần của thư pháp Trung Hoa. Lối chữ của Trịnh Công Sơn dùng để chép lời trong các bản nhạc của anh cũng là dạng thư pháp được nhiều bạn trẻ ưa thích bắt chước viết theo khá giống. Có người cho rằng thư pháp là bộ môn nghệ thuật cao minh hơn hội họa một cái đầu. Điều đó thì chưa thể khẳng định. Có điều ngày nay tranh là một mặt hàng đại trà trên thị trường còn thư pháp, thư họa thì khó kiếm hơn nhiều. Người biết viết đã hiếm và người biết thưởng thức cũng hiếm.
Thư thả tâm hồn nhẹ bút đen Pháp thân vô nhiễm tung hồn bút Bút , mực quyện hòa nương khói mây Nghiêng xưa vững Thể,đồng Chân Triện Thảo dịu lưu tâm phóng Việt ngôn.
KB-Huyền Mặc
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:07:17 GMT 9
Nghệ thuật Thiền Họa Ðông Phương Ngọc Bảo
1.- Từ Tranh Cổ Ðiển Ðến Tranh Thiền:
Xưa nay trong lãnh vực hội họa, mỗi khi đề cập đến môn họa truyền thống của phương Ðông thì người ta thường nghĩ đến nền hội họa cổ của Trung Hoa. Tranh cổ Trung Hoa có lịch sử lâu đời và mang màu sắc dân tộc đậm đà, tạo nên một phong cách đặc trưng đối với nền hội họa thế giới.
Từ thời đồ đá, cách nay khoảng 6000 năm, trên gốm sứ Trung Hoa đã thấy xuất hiện các đường nét hoa văn. Có thể nói đây là thứ tranh cổ sớm nhất của Trung Hoa. Nếu tính từ bức tranh lụa cuối đời Chu được tìm thấy trong di chỉ mộ thời Chiến Quốc thì nên hội họa Trung Hoa có lịch sử trên hai ngàn năm. Ðời Hán (trên 105 trước TL - 220 sau TL) lần đầu tiên xuất hiện tranh vẽ người và trong cung đình đã có những họa sĩ chuyên nghiệp. Thời Tam Quốc, Lưỡng Tấn (tức Tây Tấn và Ðông Tấn), Nam Bắc triều, do Phật giáo truyền vào nước Trung Hoa nên thấy xuất hiện những bức tranh tường mang tính tôn giáo, chẳng hạn bức tranh tường "Ðôn Hoàng" nổi tiếng trên thế giới. Ðời Ðường, Tống, tranh sơn thủy và hoa điểu (hoa chim) phát triển độc lập, cực mạnh với hai trường phái: tả chân và tả ý. Thời Nguyên (1279 - 1368) trở về sau, loại tranh tả ý chiếm địa vị quan trọng. Các họa sĩ bắt đầu tạo nên những tác phẩm nghệ thuật kết hợp được bốn yếu tố: thi, thư (phép viết chữ), họa, ấn (đóng dấu). Ðến thời Minh (1368 - 1660) và kế đến thời cận đại nhà Thanh, nền hội họa tiếp tục phát triển với nhiều danh họa và các trường phái khác nhau.
Hội họa Trung Hoa truyền thống - thường được gọi là Quốc họa - bao gồm ba đề tài căn bản: sơn thủy, hoa điểu và nhân vật. Về hình thức biểu hiện cũng chia thành ba trường phái: trường phái tả chân, trường phái tả ý, và trường phái dung hợp. Tả chân là vẽ công phu, tỉ mỉ, kết cấu chặt chẽ, hình tượng giống như thật; tả ý là vẽ ít bút mực mà lột tả được cái thần của sự vật, tạo nên tính khái quát cao độ. Còn dung hợp có nghĩa vừa tả chân vừa tả ý nên kết hợp được tinh hoa của hai trường phái kia.
Ðể thưởng thức được cái hay, cái đẹp của tranh Trung Hoa, chúng ta cần lưu ý một số đặc điểm:
a.- Ðường nét để tả tình: Trong khi hội họa phương Tây lấy lớp lang, sáng tối của màu sắc để diễn tả hình tượng thì hội họa Trung Hoa lấy đường nét để tạo hình. Ðiểm này có liên quan đến văn tự chữ Hán của Trung Hoa. Như chúng ta biết, chữ Hán là loại chữ khối vuông tượng hình được viết bằng bút lông, cho nên mỗi chữ Hán có thể coi là một bức tranh được vẽ bằng đường nét. Trong lĩnh vực hội họa, các hoạ sĩ tả được hình tượng mà còn qua nét bút thẳng, cong, nặng, nhẹ, đậm, nhạt, khô, ướt... thể hiện được các cung bậc của cảm xúc.
b.- Trử tình tả ý: Hội họa Trung Hoa rất chú trọng đến ý cảnh và ý đạt được "trong thơ có họa, trong họa có thơ" (thi trung hữu họa). Thí dụ, có họa sĩ vẽ bức tranh với chủ đề "Chùa cổ trong rừng thẳm". Trong tranh chỉ vẽ cảnh núi non, dòng suối bạc mà không có hình ảnh ngôi chùa nào cả. Tuy nhiên, lại có một nhà sư đang lấy nước suối khiến người xem tranh tưởng tượng ra có một ngôi chùa cổ ẩn hiện đâu đó. Vì vậy mà bức tranh đầy ý thơ... Trên tranh thường có đề thơ, đây là một nét độc đáo của tranh Trung Hoa. Câu thơ làm cho chủ để tranh thêm sâu sắc, gợi cho người xem những liên tưởng phong phú.
c.- Ðiểm nhìn phân tán: Tranh họa của phương Tây bao giờ cũng có một tiêu điểm (focus) nhất định: đen trắng, mờ tỏ, gần xa đều phụ thuộc vào chỗ đứng của họa sĩ. Tranh Trung hoa thì phá vỡ luật gần xa, chỉ một tờ giấy hoặc một bức lụa nhỏ người ta có thể vẽ lên đó toàn cảnh Vạn Lý Trường Thành, dãy Côn Luân cao ngất. Tư thế của nguời họa sĩ không bao giờ cố định: khi thì nhìn nghiêng, lúc lại cúi nhìn; biến không gian vô hạn thành không gian hữu hạn, thâu tóm được cả đất trời vào một bức tranh nhỏ bé. Tuy nhiên tranh Trung Hoa không phản lại hiện thực. Họa sĩ chỉ xử dụng màu sắc và đường nét tổ chức lại cảnh sắc thiên nhiên để đạt mục dích làm thỏa mãn ý niệm của người xem tranh. Chúng ta nhận thấy bút pháp này cũng được thể hiện trong hội họa truyền thống của Ấn Ðộ, Ba Tư... Nó giúp họa sĩ phát huy trí tưởng tượng một cách tư do phóng khoáng, phá vỡ giới hạn tầm nhìn không gian...
c.- Ước lệ tượng trưng và tỷ dụ: Do không bị lệ thuộc vào không gian và thời gian nên tranh Trung Hoa thường lấy cây cỏ để biểu thị bốn mùa, lấy mặt trăng và cây nến để biểu hiện ban đêm (dường như không có bức tranh nào vẽ cảnh đêm đen). Có khi họa sĩ đề cây mai, cây thông, cây trúc, hoa cúc... vì các hình ảnh này theo quan điểm mỹ học phương Ðông là tượng trưng cho khí tiết cao đẹp của con người. Ngoài ra người ta còn dùng hoa mẫu đơn để ví với mỹ nhân, dùng chim uyên ương để ví với hạnh phúc lứa đôi, vẽ chim khách để tượng trưng điều tốt lành. Nếu không hiểu được tính ẩn dụ đặc trưng của người Trung Hoa thì khó mà thấy hết được ý vị của tranh Tàu.
Những bức tranh tả ý mang màu sắc trừu tượng, chẳng hạn một nét chấm có khi tượng trung cho hòn đá hoặc cây cối, một nét mác (qua câu) có thể là núi, là vách núi; nhưng nó khác hội họa trừu tượng hiện đại của phương Tây vì nó gần thế giới hiện thực. Người ta còn nhận định là hội họa trừu tượng hiện đại của phương Tây chỉ lấy cảm thụ chủ quan của tác giả làm tiêu chuẩn, phá vỡ chân thực (the true of life) của thế giới hiện thực.
e.- Ðề thơ và đóng dấu: Sau khi hoàn thành xong bức tranh, họa sĩ Trung Hoa thường đề thơ và đóng dấy lên bức tranh thì mới gọi là hoàn chỉnh cuối cùng. Do vậy mà người ta gọi bức tranh Trung Hoa là một công trình nghệ thuật kết hợp giữa thi, thư, họa và ấn. Con dấu son in vào tranh thường dùng lối chữ triện rất mỹ thuật tạo nên một mỹ cảm đặc biệt. Chúng ta thường thấy trong một bức tranh có từ hai con dấu trở lên. Một con dấu là tên họ hay biệt hiệu của họa sĩ, còn những con dấu khác đôi khi chỉ là câu thơ hoặc đoản ngữ mà họa sĩ muốn mượn nó để làm phong phú thêm chủ đề cho tác phẩm.
Ngoài màu đen ra, tranh cổ Trung Hoa còn xử dụng màu son, xanh lam, bột vàng, bột bọc làm từ khoáng sản và các màu thanh thiên, hoàng anh, hồng nhạt... làm bằng thực vật. Màu sắc có nguồn gốc từ khoáng sản rất bền, ngàn năm sau vẫn còn mới, không phai biến màu.
2.- Vào Cõi Tranh Thiền:
Nhìn chung, họa truyền thống của Trung Hoa gồm các chủ đề ước lệ quen thuộc được thể hiện với màu sắc đậm nhạt thích mắt, thậm chí những màu tươi vui rực rỡ. Các chủ để này được lặp đi lặp lại đây đó đến sáo mòn, đại loại như hoa (đào, mai, lam, cúc, sen, thủy tiên, mẫu đơn, tử đằng, quỳnh); điểu cầm (phụng, hạc, ưng, công, trĩ, két, quạ, chim cút, vịt trời, gà, vịt, ngan, ngỗng); muông thú (hổ, ngựa, lừa, trâu, bò, nai, dê); linh thú (long, lân); côn trùng (bướm, chuồn chuồn, dế, bọ ngựa, sâu, kiến); thủy tộc (cá, tôm, cua); cây cối (tùng, bách, tre, trúc, phong, ngô đồng, dương liễu); phong cảnh (mây nước, sông núi, biển cả, thác ghềnh, khe suối); nhân vật (truyền thuyết và hiện thực); trái cây (đào tiên, phật thủ...) v.v... Những chủ đề này được các hoạ sĩ khai thác triệt để suốt bao thế kỷ qua. Có những danh họa chuyên vẽ đá hoặc hoa mai, hoặc trúc hay lan... Chính vì vậy mà nền hội họa Trung Hoa lâm vào tử hải (biển chết), người họa sĩ cảm thấy lúng túng như lạc trong mê đồ, vì dường như bất kỳ ý tưởng nào cũng là cũ kỹ mà các tiền bối đã khai thác tận dụng hết rồi. Loại tranh này chẳng còn gì tân kỳ nữa, rốt cuộc chỉ còn là những màu sắc trang trí nội thất mà thôi.
Sau khi tổ sư Bồ Ðề Ðạt Ma (Bodhidharma) từ Ấn Ðộ sang Trung Hoa vào năm 520. Thiền tông Trung Hoa ra đời và ngày càng phát triển mạnh. Ðến đời Nam Tống (thế lỷ thứ XII), Thiền du nhập đất nước Nhật Bản. Thiền đã ảnh hưởng đậm nét trong tâm hồn hai dân tộc Hoa - Nhật suốt bao thế kỷ trong sinh hoạt đời sống hàng ngày cũng như trong học thuật.
Thiền đã thổi vào nền hội họa truyền thống Trung Hoa một luồng sinh khí mới, cứu lấy ngành nghệ thuật này thoát khỏi "tử hải". Cách thể hiện Thiền "minh tâm kiến tánh" là nguồn cảm hứng bất tận cho người nghệ sĩ. Hội họa là một thứ "ngôn ngữ phi ngôn ngữ", mà ngôn ngữ hội họa há không thể tự chỉ nhân tâm sao? Rõ ràng có thể xem hội họa là phương tiện để thể nghiệm Thiền. Nhưng tôn chỉ của Thiền là bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền, cho nên phải thể hiện sao cho hội họa trở thành một thứ phương tiện để có thể tải được tư tưởng thâm sâu của Phật giáo. Ðể bạn đọc có thêm nhận định về ý nghĩa của Thiền trong lĩnh vực nghệ thuật, xin trích dẫn một đoạn trong tác phẩm The Art of Zen (Nghệ thuật Thiền), mà tác giả Stephen Addiss (Harry N. Abram phát hành, Inc., New York, 1989) đã nêu những điều nghịch lý đặc trưng trong Thiền như sau:
Thiền ẩn chứa nhiều sự kiện trái ngược nhau (paradox). Thiền là "vô tự" nhưng tính đến nay thì số lượng sách viết về Thiền nhiều vô kể. Thiền là "cá thể" (individual) tuy nhiên vẫn thường cần có thiền sư hướng dẫn. Thiền là "thực tiển" (down-to-earth) bàng bạc trong cuộc sống hàng ngày, tuy nhiên phải được thực hành nghiêm ngặt tại hầu hết các thiền viện (monasteries). Thiền mang tính trang nghiêm nhưng chứa đựng lắm nụ cười hóm hỉnh (humor). Thiền đòi hỏi hiện thực (being) hơn là biểu tượng (representing), tuy nhiên lại được cảm truyền qua nhiều hình thức nghệ thuật (vườn thiền, hoa thiền hay Hoa đạo "Kwado", trà thiền hay trà đạo "Chanoyu", tranh thiền). Thiền hướng dẫn cho chúng ta không chỉ "nghe" (hearing) mà phải biết "lắng nghe" (listening); không chỉ biết "nhìn" (looking" mà phải biết "thấy" (seeing); không chỉ "nghĩ" (thinking) mà thôi mà cần phải dấn thân "kinh qua" (experience); và trên tất cả: không nên chỉ bám víu vào những điều hiểu biết suông mà phải chấp nhận và hoan hỷ hòa nhập vào thế giới trước mặt.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:10:28 GMT 9
3.- Ðặc Trưng Nghệ Thuật Thiền Họa:
Những đặc điểm nổi bật của Thiền họa là sự đơn giản tối đa tưởng chừng phi nghệ thuật, sự hướng nội, sự trống trải đầy gợi ý, sự bất toàn trong viên mãn (như lời Lão Tử: "Ðại thành nhược thuyết") và được thể hiện theo phong cách đặc biệt: tiết giảm nét bút và để nhiều khoảng trống trên giấy - gọi là bút pháp một góc (one corner style). Như chúng ta đã biết, môn họa Trung Hoa nhìn chung có hai loại bút pháp trái ngược nhau: "công bút" và "ý bút", có thể độc dụng hay kiêm dụng trong tranh. Công bút tức là lối vẽ công phu trau chuốt từng chi tiết nhỏ. Ý bút là bút pháp tả ý chấp nhận màu sắc, nhưng trong Thiền họa bút pháp này ly khai màu sắc, chỉ có mực đen giấy trắng mà thôi. Người Nhật gọi là "sumine" (mặc hội: vẽ bằng mực đen), người Trung Hoa gọi là "mặc họa".
"Mặc" là mực đen làm bằng bồ hóng tức muội than của gỗ tùng và khói dầu trộn với chất keo dẻo đun lỏng rồi đúc thành thỏi để nguội. Bút lông (mao bút) làm bằng lông thú như: cừu, chồn, sói, chuột, thỏ tùy theo loại bút (nét nhỏ, mạnh thì dùng lông nhỏ; nét lớn thì dùng lông cừu). Giấy vẽ là loại giấy cực mỏng, đặc biệt là giấy Tuyên thường được gọi là "xuyến chỉ". Từ đời Tống trở về trước, tranh Trung Hoa chủ yếu dùng lụa làm chất liệu nền. Từ đời Tống về sau, do kỹ thuật làm giấy tinh xảo hơn, bắt đầu xuất hiện loại giấy Tuyên. Nhìn chung, vẽ sơn thủy và tả ý thì chủ yếu dùng giấy; vẽ nhân vật, hoa điểu lại dùng lụa để đạt sự tinh vi tỉ mỉ. Nhưng dù lụa hay giấy, cả hai đều là chất liệu lý tưởng vì hút mực dễ dàng. Ðiều này khác với lối họa sơn dầu ở Tây phương.
Một chất liệu mong manh dễ rách như giấy được chọn làm công cụ thể hiển cảm hứng nghệ thuật bởi những cảm hứng này phải được tải đi thật nhanh, nếu ngọn bút dừng lại lâu, giấy sẽ bở rách vì quá ẩm ướt. Ðường nét cần phải nhanh, tiết giảm tối đa và chỉ thể hiện những gì thật cần thiết. Một nét bút phóng ra là phải duy nhất, dù nó thế nào đi nữa thì người nghệ sĩ cũng không được dặm vá, tô điểm hay sửa chữa. Nó phải tự do, linh động, không gò ép, không tẩy xóa hay đồ lại. Người nghệ sĩ cứ để mình chuồi đi theo dòng cảm xúc một cách tự nhiên, tự phát tuyệt đối. Cánh tay, bàn tay, ngọn bút chính là một tổng thể và dường như có bàn tay vô hình nào đó dẫn dắt đi. Thiền họa dường như thực hiện bởi bản khả năng phi kiểm soát đầy khổ luyện. Nếu giữa giấy và bút có xen vào sự suy tư lý luận nào đó, điều này sẽ phá hỏng tác phẩm. Chúng ta sẽ lầm nếu cho rằng tranh Thiền chỉ là những nét nguệch ngoạc cẩu thả vô lối. Ðường nét của Thiền họa là cái gì bất toàn, nó bất chấp luật phối cảnh (perspective) và luật vẽ bóng (chiaroscuro) vốn là luật cơ bản của hội họa Tây phương. Ðiều cốt yếu là cái thần của sự vật phải thể hiện được trên giấy, do đó nét bút phải sống động như là nhịp đập của một sinh thể.
Lối họa của tranh Thiền khác lối họa sơn dầu Tây phương. Loại họa sơn dầu đòi hỏi một bố cục nghiêm chỉnh có quy tắc và hệ thống. Vải bố, sơn dầu là những chất liệu mạnh mẽ cho phép họa sĩ tẩy xóa, cạo sửa dễ dàng. Lối họa Tây phương ví như tấm vải triết lý hoàn bị mà các sợi chỉ hợp lý của nó đan kết chặt chẽ với nhau. Nó ví như một giáo đường tôn nghiêm mà tường, cột, nền toàn bằng đá tảng rắn chắc. Ngược lại Thiền họa có vẻ nghèo nàn, hình thức sơ sài, đường nét giản ước, chất liêu mỏng manh đến vậy, thế nhưng người Ðông phương lại nhìn thấy trong đó một nhịp sống kỳ diệu ẩn tàng sau từng nét, từng chấm, từng mảng đậm nhạt qua từng nét bút thể hiện một sự vật nào đó tưởng chừng vô nghĩa như gốc cây, hòn đá, cánh hoa, con chim trên cành, ngọn lau trĩu tuyết... nhưng lại chuyển tải được sự sống mà không cần giảng giải. Một cành hoa huệ cô đơn hay đóa sen trong gió là hình ảnh sống động của một tâm hồn thuần phác nguyên sơ. Một lá thuyền câu nhỏ bé trên mặt nước mênh mông cho chúng ta ấn tượng sâu sắc hình ảnh biển cả bao la và sự hiện hữu một tâm hồn sâu kín hoà nhập với cuộc sống vĩnh hằng vô ngại giữa nhịp sống đời dâu biển...
Thiền họa không phải là chụp ảnh, mô phỏng hay sao chép một thực thể. Một nét chấm hay một đường "không tượng trưng" cho con chim hay ngọn núi, mà cái chấm đó chính là con chim, đường cong đó chính là ngọn núi, bởi vì Thiền họa là sáng tạo. Một sự vật trong tranh Thiền phải giống thực mà không thực, phải viên mãn mà dường như khiếm khuyết. Người nghệ sĩ buông xả mọi nỗ lực chụp hình nguyên dạng sự vật, mà phải sáng tạo một sinh thể ngoài sự tưởng tượng. Thái độ của nghệ sĩ Thiền hoạ đối với nghệ thuật cũng là thái độ của Thiền đối với cuộc sống. Ðó là lý do tại sao hầu hết các tác giả của tranh Thiền đều là Thiền sư hay thiền sinh.
Nét bút của nghệ sĩ Thiền họa phải dứt khoát như tia chớp, không có tô sửa. Bởi vì một sự vật chỉ đẹp khi nó không bị ràng buộc hay câu thúc. Cái đẹp đó nằm trong sự buông xả. Cơ nhục được vận dụng vẽ một đường hay một chấm nhưng đàng sau đó là sự vô tâm. Với sự vô tâm niệm của nghệ sĩ Thiền, tác phẩm nghệ thuật hình thành. Thiền họa chụp bắt cái thần của sự vật đương lúc nó vận hành. Ðiều này có vẻ khó bởi vì vạn vật luôn chuyển vận không bao giờ dừng lại ở trạng thái tĩnh lặng. Nhưng người nghệ sĩ Thiền họa có thể làm được diều này nếu biết nắm bắt sự sống từ trong nội tâm hơn là ngoại cảnh. Khi tác phẩm hình thành, những nét bút phóng phát trực tiếp từ nội tâm không bị tạp niệm ngăn trở đó chính là một sinh thể.
Thiền họa khước từ màu sắc, bởi vì màu sắc gợi nên một thực thể trong thiên nhiên mà Thiền họa không chấp nhận một sự tái hiện nào hoàn toàn hay bất hoàn toàn. Nếu chủ trương hội họa là sao chép mô phỏng tái hiện giống y như một sự vật thì không gian hai chiều của trang giấy sẽ không thể hiện được trung thực điều gì, và màu sắc khó đạt đương nguyên dạng sự vật đó. Ngoài ra nếu người họa sĩ lại cố vẽ cho thực giống thực thể đó thì cũng chỉ là sự mô phỏng tái hiện rất "tội nghiệp" mà thôi.
Mặt khác, Thiền họa không cho phép sự trì hoãn. Sự diên trì của ngọn bút sẽ phá hỏng tờ giấy vốn mong manh yếu ớt. Trì hoãn có nghĩa là thay đổi, là toan tính, là lý sự, là câu thúc, mà đó không phải là tinh thần của Thiền họa. Luôn luôn có một nét nào đó xuất hiện bất ngờ đột ngột trong Thiền họa. Nơi mà chúng ta tưởng sẽ có một đường hay một chấm thì lại chẳng có gì. Nhưng sự thiếu vắng đó chẳng hề gây thất vọng mà nó gợi ý cho người thưởng ngoạn những cảm xúc mạnh mẽ hơn nhiều. Thế nên bút pháp một góc khiến cho tranh Thiền có nhiều khoảng trống thoáng và đầy gợi ý. Một trang giấy nhỏ có thể hàm ẩn cả vũ trụ. Một nét ngang ngụ ý cho sự mênh mông của không gian, một vòng tròn gợi ý cho sự vĩnh hằng của thời gian. Ngoài ra cả hai còn gợi nên sự vô biên và sự sống nữa.
Tranh tôn giáo không hẳn là tranh Thiền. Cho nên tranh họa chân dung chư Phật, thậm chí chân dung các Tổ thiền hay thiền sư, vẫn không nên miễn cưỡng xếp vào loại Thiền họa, ngoại trừ đôi bức đặc biệt. Một số tranh tuy hiện thực với lối công bút nhưng giàu hương vị Thiền thì cũng có thể gọi là Thiền họa được.
Bước vào cõi tranh Thiền là bước vào một thế giới u mặc đầy gợi ý. Người nghệ sĩ Thiền họa thường là thiền sư hoặc thiền sinh - chẳng những muốn ký thác vào tranh cái tâm nguyện theo dấu bước của chư Tổ bằng cách minh hoạ chân dung, hành trạng của các ngài, mà còn muốn gởi cho tha nhân một thông điệp ẩn tàng qua những hình ảnh đơn sơ đời thường tưởng chừng vô nghĩa với nét bút tiêu sái (trong sạch, thanh cao) ngõ hầu gợi cho tha nhân về sự giải thoát tâm thức. Trong chừng mực nào đó, Thiền họa có thể xem là một phương tiện chứng ngộ. Chức năng của Thiền họa gần giống với chức năng công án Thiền.
Kể từ Thiền Phật giáo du nhập Trung Hoa, Nhật Bản, tinh thần của Thiền tông đã đem đến cho nền hội họa mỗi nước sự khởi sắc và có một hương vị thâm trầm. Hương vị Thiền giúp Thiền họa trở thành một mảng tranh độc đáo và có một vị trí quan trọng trong nền Quốc họa. Người thưởng ngoạn tranh Thiền trong phút giây tĩnh lặng trầm ngâm bên tách trà ngát hương, dù đã nhiều lần ngắm thưởng một bức tranh nào đó, nhưng rồi sẽ có một lần trót thấy mình chới với, bởi bức tranh mới quá, lạ quá, cơ hồ như mới thấy lần đầu. Một chân lý vi diệu vừa được khám phá. Ðó là khoảnh khắc của sự bừng tỉnh, như căn phòng kín tối tăm đã lâu, nay được mở toang mọi cửa nẻo đón ánh quang huy của một ngày mới, ngọn đèn vừa thắp lên sau bao năm tháng bỏ quên lăn lóc trong bóng tối âm thầm.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:11:10 GMT 9
4.- Thư Pháp:
Trên thế giới, mỗi nước đều có lối viết chữ riêng. Người Trung Hoa gọi "Thư pháp" hay "Thư đạo", người Nhật gọi "Thư sơ" (Kalizome), người Anh, Úc, Mỹ gọi là "Calligraphy", người Pháp gọi là "Calligraphie".
Ðược gọi là thư pháp khi người viết chữ đạt khả năng viết nên nét chữ bay bướm, đậm nhạt huyền ảo để bài thơ truyền đạt hết ý tưởng, gởi gấm được rung động, xúc cảm qua nét thư pháp uyển chuyển thần tình như trường hợp của Thôi Hộ đề thơ.
Theo nhà biên khảo Lê Văn Lân: "Những kiểu chữ như rồng bay phượng múa mà chúng ta thấy trước đây ở Việt Nam chỉ là một trong con số 100 đến 120 kiểu chữ thư pháp, phát xuất từ Trung Hoa vào thế kỷ thứ năm, thứ sáu thời Nam Bắc triều. Những kiểu chữ này được dùng để trang trí trên hững bức bút thiếp bằng lụa, trên những bia kỷ niệm, những bức trướng liễn chúc tụng vào ngày Xuân, sinh nhật hay vào dịp đỗ đạt, thăng quan... tên gọi của nó là Tập thể thư".
Theo Yujiro Makata, tác giả quyển The Art of Japanese Calligraphy (Nghệ thuật thư pháp Nhật Bản) thì Tập thể thư là một tập hợp các kiểu chữ Hán pha trộn với nhau, vừa chữ triện (Tensho) vừa chữ lệ (Reisho), thịnh hành ở Trung Hoa vào thời Nam triều, đời Tề (479 - 502), đời Lương (502 - 557), kéo dài cho đến đời Ðường (618 - 713). Tập thể thư truyền qua nhật Bản được gọi là Zattaisho.
Thư pháp Trung Hoa hoàn toàn không phải là một kỹ thuật viết chữ máy móc mà là một nghệ thuật siêu đẳng. Người viết chữ Nho là một nghệ nhân trải qua quá trình luyện tập lâu dài và liên tục, đem cả tâm huyết, tinh thần ký thác trên giấy. Những vật dụng dùng để viết, do đó được trân trọng kén chọn và giữ gìn. "Văn phòng tứ bảo" - như tên gọi - gồm bốn món quý: mực, nghiên, giấy, bút. Mỗi thứ được chế tạo đặc biệt theo nhiều trình độ khác nhau của người xử dụng.
Cái đẹp của thư pháp Trung Hoa đôi khi không nằm trong sự cân đối (symmetry) mà nằm trong sự không cân đối đầy đồng tính (dynamic asymmetry) như tác giả Trương Di nhận định trong quyển Chinese Calligraphy: "Một chữ in thường có nét sắc, gọn, rõ ràng, đầy tính máy móc mà người ta có thể dùng Compas (đinh quy), thước, bút chì nhọn để vẽ lại đúng như thế. Nhưng đó là những chữ "chết". Ngòi bút lông thì khác, nó linh động với cái sống của nó. Sự sống bổi hổi bồi hồi của ngọn bút là làm ra những nét lúc dày lúc mỏng, lúc nhu lúc cương, lúc khoan lúc nhặt, lúc thẳng lúc cong để diễn tả dịch tính rất động của thiên nhiên..."
Thư pháp của Trung Hoa và thư pháp của Nhật Bản được xem như một dạng của Thiền họa trong thế giới nghệ thuật Thiền.
Trong Trà đạo (Chanoyu) của người Nhật, nghệ thuật thư pháp giữ vai trò quan yếu. Sau khi khiêm cung cúi khom người để bước qua cửa trà thất - cửa chỉ cao độ một thước - khách cúi lạy một cách kính cẩn bức họa hay liễn chữ treo trên vách cạnh lẵng hoa ở về phía của căn sàn gian Tokonoma như là một nghi thức cung kính đối với cổ đức, với Thiền tổ.
Tinh thần của Trà đạo bao gồm cả bốn chữ: Hòa - Kính - Thanh - Tịnh (Wa, Kei, Sei, Jaku). Trà sư Nakano Karumo từng nói: "Tinh thần Chanoyu là để làm sạch lục căn. Làm sạch bằng cách ngắm tranh hay liễn chữ treo nơi sàn gian Tokonoma, ngắm hoa trong lọ đang tỏa hương thơm dịu: thị giác, khứu giác người ta được sạch; nhờ lắng nghe tiếng nước sôi réo trong ấm sắt và tiếng nhỏ giọt tí tách từ trong ống tre: thính giác người ta được sạch; nhờ nếm trà: khẩu vị người ta được sạch; và nhờ cầm trên tay những trà cụ: xúc giác người ta được sạch. Khi các giác quan được thanh như thế, tâm ta tự nó cũng được thanh tịnh thoát khỏi phiền trược. Nghệ thuật uống trà rốt ráo chính là tu luyện tinh thần, và ước nguyện riêng tôi là mọi thời trong ngày không tách biệt khỏi tinh thần Trà đạo".
5.- Thiền Họa Và Công Chúng:
Cách đây không lâu, lần thứ nhất trong cuộc triển lãm về tranh Thiền được tổ chức tại Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Boson, tiểu bang Massachusetts (Hoa Kỳ), đã thu hút đông đảo giới trí thức. Douglas Davis, một nhà báo Mỹ đã nhận định về cuộc triển lãm như sau:
Daisetz T.Suzuki, nhà truyền bá Thiền học nói: "Thiền hoàn toàn đơn giản; nếu các tôn giáo khác nói than thì đen, Thiền nói than không đen".
Những người phát ngôn của Thiền đã châm chọc thế giới bằng các lời giảng châm biếm khó hiểu như trên qua hàng thế kỷ, làm lúng túng những ai hăng hái tìm hiểu về Thiền ở phương Ðông (nơi xuất phát của Thiền), cũng như ở phương Tây - nơi qua nhiều thập kỷ gần đây, các lối chiêu dụ của Thiền lan tỏa trong hàng ngũ trí thức và thanh niên Mỹ. Nhưng cuối cùng, ngày nay khuôn mặt Thiền đã lộ rõ để mọi người nhìn thấy bằng mắt hoặc chiêm ngưỡng bằng tri thức. Lần đầu tiên trên thế giới, nghệ thuật sáng tạo bởi Thiền và lấy cảm hứng tư Thiền được trưng bày rộng rãi ở Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Boston, Hoa Kỳ, gồm 81 bức họa phẩm, thư pháp và một phiến đá lớn điêu khắc được khai quật tại khu bảo tàng ở Nhật, một số tác phẩm có niên đại xa xưa từ thời Thiền mới du nhập vào nước Nhật từ Trung Hoa.
Kết luận đầu tiên rút ra tại cuộc triển lãm ở Boston - do hai người phụ trách Viện Bảo Tàng là Tan Fontein và Money Hickman tổ chức với sự hợp tác của chính phủ Nhật - là Thiền tự thân không có gì nghiêm khắc nhiều so với bất cứ tôn giáo nào trên thế giới. Các họa sĩ được chia thành hai nhóm: nhóm Thiền sư hoặc đệ tử của thiền và nhóm họa sĩ lấy cảm hứng ở Thiền học. Ðể qua những tranh chân dung trang trọng và phong cảnh, các tác phẩm do hai nhóm trên sáng tạo chứng tỏ một tinh thần nhất quán, kín đáo, khô và kỳ quái. Những khuôn mặt thể hiện Thiền nói lên môt điều nhưng trang nghiêm và thanh thản, theo phong cách nghệ thuật Thiên Chúa giáo trung cổ hoặc vô số các chân dung của đức Phật được thờ phượng khắp phương Ðông. Khuôn mặt Thiền cười mỉm, cười vui, nhăn nhó và ngáp.
Thường thì Thiền sư được đặc tả qua hành động hầu như lửng lơ (như đang ngủ, đang chẻ các đốt tre), lạ lùng (như nằm dài bên cạnh con hổ), hoặc đả phá tính chấp thủ trong tôn giáo (như đốt kinh Phật). Việc đả phá tôn giáo từ lâu đời là biểu tượng của lịch sử Thiền đã bắt đầu tại Trung Hoa vào thế kỷ thứ VII, chỉ ra con đường giác ngộ không phải qua kinh kệ, hình thức nghi lễ mà bằng chính kinh nghiệm trực tiếp cá nhân.
Ông Fontein giải thích: "Các Thiền sư ngày xưa bị xem là những người điên. Họ phóng túng, khoáng đạt đến gần như là những con người hài hước, phản đề của Phật giáo chính thống".
Lòng khao khát của Thiền đối với kinh nghiệm nguyên sơ thể hiện rõ qua thư pháp của các họa sĩ cũng như qua chủ đề của họ. Nét cọ nhanh, giản dị, đầy đặn tựa hồ thoát khỏi các chi tiết tỉ mỉ lẫn màu sắc xa xỉ trong họa phẩm và thư pháp. Họa sĩ Thiền giống như những "họa sĩ hành động" Mỹ của thập niên 1950, muốn trước hết phải nắm bắt được tinh thần khoáng đạt khi sáng tác. Một phần họ được quy định theo truyền thống "đề thơ" trong nền hội họa Trung Hoa được khai sinh vào thế kỷ thứ IX nhưng họ vẫn bám theo nó một thời gian sau khi Thiền rời khỏi đất nước Trung Hoa để vào Nhật Bản.
Bức tranh do Gibon Sengai phác họa vào thế kỷ thứ XVIII có sự giản dị trong sáng của một bức vẽ trẻ con; cuộn giấy chữ viết (thư pháp} cùng thời của nhà sư Rwkan xử dụng nét chữ Nhật vẽ "thiên địa" không giống gì hơn nét cọ bị kéo lê của Franz Kline.
Tác phẩm mang tính cốt lõi của Thiền là bức "Bồ Ðề Ðạt Ma một nét" vẽ vào thế kỷ XIV, trong đó tác giả giữ nét bút liên tục trên giấy cho đến khi hoàn thành, nét vẽ phác mộc mạc về một thiền sư thanh đạm mà cuộc sống của người được mô tả phía trên bức vẽ như sau: "Giường tôi lạnh khi tôi nằm ngủ đêm. Áo tu bằng giấy cây đậu, mùng ngủ cũng bằng giấy. Theo đức Ðạt Ma và hành động khi hoàn cảnh yêu cầu".
Người Nhật biến Thiền thành một thứ kỷ cương trong sinh hoạt ở các chùa chiền, với những nghi lễ tinh tế và thậm chí cả kinh kệ. Nhưng ngày nay Thiền vẫn như thuở ban đầu, khẳng định sự ưu tiên cho kinh nghiệm chứ không phải sách vở, khẳng định sự chiêm nghiệm chớ không phải học hỏi. Ông Fontein cũng phát biểu: "Thiền dứt khoát chống lại sự tri thức theo cách riêng của mình". Vậy tại sao đám đông sinh viên và giảng viên đại học đã lũ lượt kéo vào Viện Bảo Tàng Boston? Tại sao có sự quan tâm rộng lớn về Thiền trong giới trí thức? Câu trả lời thật rõ ràng và một lần nữa cũng thật nghịch lý: "Thiền lôi cuốn trí óc bằng cách từ chối nó, giống như các họa sĩ của Thiền thành công vì tranh tránh được các kỹ xảo".
Tham khảo:
- Tranh Trung quốc của Lê H. Tiêu. - Tranh Thiền của Lê Anh Minh. - Chinese Paintings and Calligraphy by Elizabeth Hammer. - The Art of Zen by Stephen Addiss. - Zen Circles of Illumination by Belinda Sweet.
(Sưu tầm)
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:12:29 GMT 9
Chuyện Thư Pháp Lê Kỉnh Tâm
Thư pháp là bộ môn nghệ thuật viết chữ đặc biệt trong văn hóa Trung Quốc.
Chữ Trung Quốc là loại chữ tượng hình. Người Trung Hoa nói: "Thư họa đồng nguyên", có nghĩa là chữ viết và môn vẽ cùng một nguồn gốc.
Khi chữ viết lưu hành đến độ hoàn mỹ thì người Trung Quốc có nhiều lối chữ viết khác nhau, thông thường có tám lối chữ là: Triện, Trựu, Bát phân, Lệ, Chân, Thảo, Phi bạch, Hành thư(1). Trong các lối viết thì chữ Thảo một lối viết nhanh và giản lược là khó đọc nhất. Ðến Thích Hoài Tố, lối chữ này bay bổng theo tâm ý, thoát hẳn mọi khuôn sáo trước đó, và nghệ thuật Thảo thư càng thêm tinh diệu, kỳ ảo.
Họa sĩ thường cũng là người giỏi thư pháp, trong nhiều bức tranh, tác giả phóng bút đề thơ, từ lên khoảng trống trên tranh và chính bút tích này càng làm họa phẩm thêm giá trị.
Khi đạo Phật vào Trung Quốc, tức thì thư - họa cũng đã đi vào đời sống tôn giáo. Mối quan hệ giữa Phật giáo và thư - họa thâm thiết về hai phương diện:
1.- Tăng nhân có nhiều bậc là nhà thư pháp. 2.- Thư gia có nhiều người là tín đồ đạo Phật.
Nếu Phật giáo đã xử dụng thư - họa như một phương tiện thiết thực để gây ảnh hưởng, truyền bá giáo lý, thì thư - họa cũng đã lấy đề tài từ Phật giáo để làm phong phú thêm nội dung nghệ thuật. Sau đời Tùy - Ðường, khi Thiền tông phát triển mạnh thì triết lý Thiền lại thâm nhập vào thư - họa, làm phong cách nghệ thuật này thêm sinh động mới lạ.
Những danh họa hay thư gia - người viết chữ đẹp - là những nghệ sĩ, họ rất được vua chúa kính nể, dân gian ngưỡng mộ.
Ðời Tần, việc học viết chữ rất thịnh, phong trào học tập thư pháp rộ lên trong hành khanh sĩ, nhưng trổi nhất vẫn là Vương Chi Hi, ông viết đẹp cả tám lối chữ. Họ Vương kết thân với nhà sư Ấn Ðộ là Ðạt Ma Ða La và đã giúp ngài xây dựng chùa Qui Tông.
Từ triều Hán đến Ðường, thời nào cũng có nhiều thư gia xuất hiện, các nhà thư pháp Phật giáo được biết đến nhiều nhất là Trí Vĩnh, hậu duệ bảy đời của Vương Chi Hi, trụ trì chùa Vĩnh Hưng (Chiết Giang). Bút pháp tinh diệu khác hẳn cổ nhân. Nổi tiếng có Thối Bút Gia tức là bài văn chôn cây bút cùn tích tụ trong mấy mươi năm, và Thiết Môn Hạn - cửa sắt dùng thay cửa gỗ vì lúc nào cũng đông người chen nhau ở cửa để vào học viết; Thích Biện Quang, Lục Hi Thanh ca ngợi rằng hạ bút là rồng rắn quẫy mình; Văn Phạm học Trí Vĩnh đạt được tinh thần tự tại; Cảnh Vân thông thuọôc kinh luận, thiện xảo chữ Thảo từng theo học Trương Ðiên; Thích Mộng Qui trụ trì chùa Ðông Lâm, bút lục khỏe khoắn rất mực tú lệ.
Thư gia đặc biệt kiệt xuất trong đời Ðường là Thích Hoài Tố, được mệnh danh là Cuồng Thảo trong làng thư pháp.
Hoài Tố tên chữ là Tạng Chân, sinh năm 737, xuất gia năm 19 tuổi. Từ bé đã say mê thư họa, khi xuất gia ông càng dốc chí luyện chữ.
Ðể có đủ giấy tập việt, Hoài Tố phải xử dụng đến lá chuối - mỗi ngày ông viết 50 tàu chuối, quanh chùa phải trồng toàn chuối để có đủ lá mà viết. Do đó, chỗ sư trụ trì có tên là Lục Thiên am là vậy. Mặt khác, khi viết bút cùn thì quẳng vào một nơi, lâu ngày thành một đống lớn - chỗ ấy gọi là Bút Sơn. Hiện Bác Vật viện ở Bắc Kinh còn giữ được bảy kiện văn bút của sư.
Ðời Tống có Chính Thiền sư, đời khen là tuyệt mỹ. Còn chữ của Tô Ðông Pha lại cực kỳ tiêu sái, tương truyền quan cùng triều Hàn Tôn Luân mỗi lần nhận được tấm thiệp của Ðông Pha là đem đến điện súy Diệu Lân đổi lấy vài chục cân thịt dê.
Ðời Nguyên có Giác Ẩn nổi tiếng là cuồng thảo, còn Tuyết Am lại giỏi về Hành thảo. Ðời Minh có sư Tuyết Phong, đương thời xưng tán là Thi thiền thảo thánh. Ðời Thanh có tám đại sơn nhân thì Thạch Ðảo và Thạch Lăng là hai cao tăng thiện xảo thư pháp đương thời.
Hẳn nhiên, nghệ thuật thư pháp không chỉ hạn cục ở Trung Quốc, mà từ lâu nó cũng đã phát triển sang các nơi khác như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên là những quốc gia ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc, và tài năng thư gia ở các quốc gia này càng làm thuật thư pháp thêm phong phú.
Ghi chú: (1) Vân Ðài Loại Ngữ - Lê Quí Ðôn.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:13:35 GMT 9
Trò chuyện với một số nhà thư pháp Phật Tử Trương Ðạm Thủy
1.- TRƯƠNG HÁN MINH : Vẽ, niềm say mê không cưỡng nổi...
Họa sĩ Trương Hán Minh sinh năm 1951 tại Saigon, anh là hội viên Hội Mỹ Thuật Việt Nam, Ủy Viên Ban Chấp Hành Hội Mỹ Thuật và hội Văn Hóa các dân tộc TP.HCM; tham gia hoạt động Mỹ Thuật năm 1980. Tác phẩm của anh được liệt vào danh họa của thế giới người Hoa Tranh của anh có mặt ở Bảo Tàng Văn Hóa các dân tộc tại Hà Nội và đã được triển lãm trong và ngoài nước hơn 25 lần; đã xuất bản bộ Tranh Thủy Mặc Trương Hán Minh 1, 2, 3.
- Từ lòng mê say và sở thích ngay từ tấm bé, nó như là dòng máu chảy trong người tôi, nên bất cứ ở đâu luôn suy nghĩ hình dung ra một bố cục của một bức tranh để khi cầm bút thì phác họa. Lúc còn nhỏ ngồi ở đâu, cầm cái gì trên tay tôi đều muốn vẽ. Vẽ là niềm say mê mà không sao tôi cưõng nổi.
Một bức tranh mà tôi muốn vẽ bao giờ nó cũng mang một tính cách, một ý nghĩa. Tuy cũng là sông nước, là mây, là núi, là chim, là hoa, là cây v.v... nhưng nó được phối hợp với mực với nước hòa vào trang giấy xuyến chỉ để hình thành một bức tranh mà cảm xúc của người xem có thể cùng hòa vào tâm trạng của tác giả. Những bức tranh của tôi luôn luôn mang một màu sắc dân tộc Việt Nam.
Khi cầm bút vào vẽ là dồn tất cả nội tâm vào cây bút. Lúc bình yên như mặt hồ, lúc gợn sóng nhấp nhô như những chiếc thuyền lướt sóng ra khơi, lúc thì như thác lũ cuồn cuộn chảy giữa suối ngàn; cũng có lúc lại bay bổng như những đám mây trôi. Lúc khác thì vui tươi như chim hót, lúc thì rực rỡ như những cánh hoa mẫu đơn... Nói chung, tranh cũng sống như chính cuộc sống vui buồn lẫn lộn...
2.- CHÍNH VĂN: Sáng tạo với tôi cũng như một phương thức thực tập lời Phật dạy...
Chính Văn sinh năm 1948 tại tỉnh Ðồng Tháp, hội Viên Hội Mỹ Thuật Việt Nam. Anh từng học Tây họa, sau đó học thủy mặc với họa sĩ Lê Tùng Niên. Tác phẩm của anh được triển lãm nhiều lần tại TP. HCM và tại Văn Miếu, Hà Nội.
- Nhân duyên nào đưa anh tiếp cận được với nền mỹ thuật Phật giáo?
- Tôi tìm đọc kinh sách Phật giáo từ năm 15 - 16 tuổi. Ðứt quảng nhiều lần, mãi đến đầu thập niên 80, nhân duyên sinh hoạt Phật sự tại Thiền viện Vạn Hạnh, được thực tập Thiền, đọc kinh sách, nghe giảng. Sống với nghề trang trí quảng cáo, tôi quyết định học vẽ tranh thủy mặc, vì thích và nhận ra nó gần gũi với mỹ thuật Phật giáo; cầm cọ từ những năm trung học, chắc là có... chủng tử?
- Tranh và thư pháp của anh có những nét rất riêng và phảng phất tinh u mặc của Thiền. Vậy anh đã thể hiện nó vào tác phẩm của mình như thế nào?
- Thiền vốn nhiều "cửa" lại "vô môn"; mỗi cửa lại nhiều "ải", mỗi ải thật khó nắm bắt. Thiền gì đây? Theo tôi, vấn đề đó, người có đủ thẩm quyền trình bày phải là người vừa có bản lĩnh hội họa, vừa là người thực hành thiền có ít nhiều kinh nghiệm nội tại. Tôi chưa vượt qua trọn vẹn giai đoạn căn bản "sổ tức quán". Biết nói gì đây? Thôi thì như thế này:
- Giản dị, khiêm hạ, trực nhận sắc bén, mẫn cảm... và nghèo là đời sống và khí chất của thiền gia. Tác phẩm mỹ thuật mang bản sắc Thiền cũng như vậy, thuật ngữ hội họa gọi là "cách điệu", như bức chữ "Tâm" mà anh cảm nhận, là có thần lực và tất nhiên đẹp theo phong cách nghệ thuật Á Ðông. Tâp trung tâm ý, sau khi thai nghén, cây bút lông hạ xuống một nhát là xong. Nếu không ra hồn thì vứt đi, vẽ lại. Nắm bắt không được thì nỗ lực tiếp tục. Còn cảm nhận nghệ thuật xin nhường lại cho người xem.
- Trong quá trình sáng tạo, Thiền - hay nói chung là tư tưởng Phật giáo - đã ảnh hưởng như thế nào đến tư duy nghệ thuật của anh?
- Tôi học nhiều nhưng thực hành chẳng bao nhiêu, tổi nghề chưa quá 10 năm, sáng tác thì đa dạng, dẫu hướng về Phật pháp, nhưng đâu phải tranh nào cũng có mùi "Thiền"? Cũng may nhờ viết thư pháp nhiều, hỗ trợ cho nhau, tôi tự tin và mạnh dạn hơn. "Ðặt chánh niệm trước mặt", tập trung tâm ý khá dễ. Ðiều cần biết đã biết, biết rõ tư tưởng vận hành ra sao, trước nghiên mực, cây bút lông và tờ giấy trắng.
- Và kể từ đó anh trở thành là một trong số những họa sĩ được công chúng biết đến nhiều qua thể loại tranh thủy mặc và thư pháp về chủ đề Phật giáo; vậy anh có thể cho biết công việc sáng tạo nghệ thuật của anh đã tác động như thế nào đến sự thăng tiến trong đời sống tâm linh chính mình?
- Tôi chỉ là một họa sĩ bình thường. Những gì tôi làm như là thực tập lời Phật, Tổ dạy. Ðời sống gia đình đâu dễ gì "khi xúc chạm việc đời, tâm không động, không sầu", đâu "trắng bạch như vỏ ốc" được. Là họa sĩ, làm sao "đối cảnh vô tâm" cho được. Dẫu sao được "làm nghề không rắc rối" và sống "chánh mạng" là phước lắm rồi.
3.- SONG NGUYÊN: Làm sao thể hiện được tiếng chuông chùa trên giấy?
Song Nguyên tên thật là Nguyễn Ðức Tín, sinh năm 1937 tại Huế. Tác phẩm của anh đã được triễn lãm nhiều lần tại Hà Nội, Huế, TP. HCM, Hoa Kỳ và Trung Quốc.
- Anh cho biết anh đến với nghệ thuật "mặc hội" từ lúc nào?
- Các đây khá lâu, chúng tôi trong một buổi nghe thầy N.H. giảng kinh Bát Nhã, thầy lấy một tờ giấy còn trắng tinh hỏi chúng tôi thấy gì trên đó. "Dạ thưa chẳng có gì cả", chúng tôi đáp. Lần theo ngón tay lướt nhẹ trên tờ giấy, thầy thong thả giải thích: "Góc trên là rừng tre trúc, góc dưới này là đám người khai thác, chặt đốn tre. Giữa này là một nhóm người đang nghiền nát những thân tre thành bột và họ đang làm giấy. Bây giờ các em nhắm mắt và nhìn lại có phải thế không?" Quả đúng như lời thầy, hiển hiện trước mắt chúng tôi là một bức tranh linh động.
Từ đó tôi ngộ ra: cùng một sự kiện, một sự vật rất đơn giản nhưng cái nhìn, cái thấy của người tu Phật thì không như con mắt người thường. Nó thu hút tôi mãnh liệt từ đó.
- Anh là một nhà thơ có nhiều tác phẩm mang phong vị Thiền, vậy trong thư pháp "chất Thiền" được anh thể hiện như thế nào?
- Theo thiển ý, Thiền là cái gì khó mà nắm bắt được. Khi xong một tác phẩm, mình cho đó là Thiền chẳng hạn, chẳng qua trong thời gian sáng tác tâm mình thể hiện qua nét cọ một cách nhẹ nhàng, thanh thoát và thánh thiện. Có những điều thấy nghe trước mắt mà khó nắm bắt được bóng hình. Tôi xin kể lại một giai thoại giữa một nhà thơ Trung Quốc và một nhà thơ Nhật Bản thách nhau tả tám cảnh hồ Omni làm ví dụ. Một hôm, họ ở bên hồ Omni cùng thưởng ngoạn cảnh trí u mặc ở đây và cùng nhau làm thơ. Họ ra điều kiện: thơ dài tối đa tám câu thôi nhưng phải đủ cả tám cảnh hồ. Nhà thơ Nhật chỉ làm có ba câu:
Omni tám cảnh, Bảy chìm trong sương mù, Tiếng chuông chùa /O/ ngân.
Bảy cảnh bị sương che và cảnh cuối cùng là từng hồi chuông của một ngôi chùa ngân nga. Làm sao thể hiện hình bóng tiếng chuông chùa trên trang giấy? Làm sao "vẽ" được tiếng vỗ của bàn tay Bashô:
Tôi vỗ bàn tay, Dưới trăng mùa hạ, Tiếng dội về, ban mai!
(Sưu tầm)
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:14:30 GMT 9
Thư Pháp & Nhân Cách Lê Anh Dũng
Chữ Hán: Thư là viết chữ; Pháp là cách thức. Hiểu ngắn gọn, thư pháp là cách viết chữ. Trong ngôn ngữ phương Tây (chẳn hạn tiếng Anh), từ calligraphy gồm calli + graphy. Calli do gốc Hy Lạp kalli, phát sinh từ kallos (vẽ đẹp); graphy do gốc Hy Lạp graphen (viết chữ). Vậy thư pháp là cách viết chữ đẹp. Xét như thế, thư pháp rõ ràng không phải là một nghệ thuật của riêng một dân tộc nào; mọi dân tộc đã có chữ viết đều có thể tạo ra thư pháp cho mình.
Thời xưa, khi nghề in chưa có (hoặc đã có mà chưa tinh vi), những văn kiện quan trọng hay tác phẩm thiêng liêng đều cần những nhà thư pháp (calligraphers) nắn nót, trau chuốt từng nét một. Các bản hiến pháp của nhiều nước phương Tây từng được viết bằng bút lông ngỗng là một thí dụ. Ðặc biệt với kinh điển của nhiều tôn giáo, các nhà thư pháp còn dốc lòng tôn kính, trọn gìn trai giới và kiêng tửu sắc trong suốt những ngày tháng tỉ mỉ chép kinh thành những tác phẩm mỹ thuật, mà ngày nay một số kiệt tác còn may mắn giữ được đã trở thành tài sản văn hóa vô giá của các viện bảo tàng tên tuổi trên thế giới.
Như nói trên, thư pháp không bao giờ là độc quyền của một hệ thống chữ viết nào. Họa sĩ Từ Băng (Trung Quốc) từng đến New York dạy cho người Mỹ viết thư pháp bằng tiếng Anh, rất được hoan nghênh (1996). Từ lâu, người Việt đã sớm biết "cách tân" thư pháp chữ Hán thành thư pháp chữ Việt
Lời cầu nguyện của thi hào R. Tagor đã được vị danh sĩ đất Hà Tiên dịch ra song thất lục bát rồi viết bằng bút lông với mực nho trên cánh quạt giấy (1959), được trân trọng lưu giữ ở Ấn Ðộ. Mỗi nhà thư pháp tên tuổi đều có bút pháp riêng. Về mặt mỹ học, người ta lý luận rằng bút pháp đó có thể mang những tinh chất như: gân cốt, khí lực, uyển chuyển, cân xứng (quân chỉnh) v.v... Vậy căn cứ vào đâu để nhận ra thư pháp nào đẹp hay chưa đẹp? Người xem cần phải biết khá nhiều lý thuyết và kỹ thuật của các "nhà" rồi mới đủ sức cảm nhận cái đẹp của thư pháp không? Trộm nghĩ, cái gì tự nó là đẹp, được cảm thụ trực tiếp và tự nhiên, há phải đợi những biện giải chi li với rườm rà phân tích!
Người viết vốn dĩ từ chỗ xuất kỳ bất ý mới có thể để lại đời nét mực thần với dường bút thánh. Người thưởng ngoạn cũng nên lấy tâm không để lĩnh hội tài hoa. Ðứng trước bức thư pháp, hãy buông xả mọi định kiến và dư luận; hễ tự lòng ta thấy nó đẹp và thực sự thích thú thưởng ngoạn, thế là đủ lắm rồi, dẫu ai kia khác ý thì cũng mặc tình, nào có sao đâu!
Nét chữ thể hiện nết người. Rèn thư pháp chính là rèn nhân cách. Từ xa xưa các sách dạy thư pháp Trung Quốc đều chủ trương rằng: "Học tập thư pháp có thể tu thân, dưỡng tánh, trui luyện tâm tình". Từ đó, họ kính cẩn tôn thư pháp lên thành Ðạo (Thư pháp giả, đạo dã), để rồi ở xứ sở mà thậm chí uống trà cũng là đạo thì người Nhật có nệ chi mà chẳng gọi thư pháp là thư đạo (shodo)!
Người khổ luyện thực hành thư pháp có thể dùng cái đẹp của chữ và mực để rèn dũa tâm hồn đã đành, mà người chơi thư pháp cũng có thể mượn nét bút tài hoa của người khác để trau tria đời sống tinh thần. Với chủ định này, giờ đây chữ Hán, chữ Việt hay là tiếng Pháp, tiếng Anh chi chi chăng nữa cũng chẳng còn ngăn ngại, miễn sao thực tâm thích cái đẹp của tấm chữ để rồi chọn treo nơi nào mình hay chạm mắt tới. Ngày ngày, ra vào thấy chữ là ngắm nghía trầm ngâm, ngẫm nghĩ răn lòng...
Tùy xu hướng tâm linh, tùy nhu cầu tình cảm, và tùy mục đích đang đeo đuổi mà chọn một chữ, lựa một câu trong thiên kinh vạn quyển của văn hoáa Ðông Tây, cổ kim nhân loại. Giữa buổi lừa lọc, xa hoa có người treo chữ Tín, chữ Kiệm. Bậc chức trọng quyền cao biết giữ cái tâm có thể treo cả câu Quan nhất thời, dân vạn đại. Biết võ vẽ chữ Nho, treo hai chữ Tích thời chỗ học hành hay nơi làm việc, ấy là tự răn mình phải quý tiếc ngày giờ, đừng lãng phí thời gian. Lắm khi chỉ trơ trọi một chữ Nhẫn tung hoành trên giấy mà hàm súc biết bao ý tình hối ngộ của kẻ quen tánh nóng giận buông lung, đang gắng tập kềm thúc ngọn lửa lòng sân nộ.
Lấy chữ làm tranh, mượn cái đẹp ngoại vật hiển bày để làm phương tiện trau dồi cho nên cái đẹp nội tâm tàng ẩn, đó là một trong nhiều cách Học Làm Người. Tự mình nhắc nhở mình bằng lời lẽ trang trọng treo trên vách, ý thức đó và hành vi đó mới đẹp làm sao? Thư pháp và Nhân cách, hai cái đẹp cứ ngỡ rằng biệt lập cách ngăn mà hóa ra vẫn liên hệ tương quan nhiều lắm vậy.
(Trích đăng tập san Hoa Nghiêm)
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:15:31 GMT 9
Thư pháp - thú chơi thời hiện đại
Hình ảnh các "ông đồ" trẻ đang cho chữ.
Vài năm gần đây, những ngày giáp Tết, Hà Nội lại tấp nập người đi xin chữ. Người sành sỏi phải đến nhà xin bằng được chữ của cụ Hòa, cụ Bách, cụ Quảng, còn ra Văn Miếu, người ta cũng dễ gặp những "ông đồ" trẻ tuổi trải chiếu ngồi cho chữ. Nét chữ đẹp, khéo, không kém phần cứng cỏi, họ chỉ ở lứa tuổi ngoài 20.
Nói đến thư pháp thì ai cũng nghĩ ngay đến hình ảnh ông đồ áo dài, khăn đóng, nghiêm trang múa ngọn bút lông để tạo nên những nét chữ mực Tàu thần kỳ trên tấm liễu đỏ. Những nghệ sĩ thư pháp người Hoa xuống "tấn" dùng "nội công" bay nhảy như phim kiếm hiệp để viết trên những tấm liễu, tấm phướn khổ rộng dài cả chục thước. Nghệ thuật thư pháp thường gắn liền với "sự di dưỡng tinh thần", người viết chữ phải dùng ý chí đặt vào đầu ngòi bút. Cái tâm phải tĩnh mới thổi được hồn cốt vào mỗi nét chữ. Nghề chơi lắm công phu nên người ngoài nhìn vào thứ nghệ thuật cao khiết đó chỉ "kính nhi viễn chi". Người trẻ tuổi lại càng "e ngại" bởi dùng nhãn tiền để ngắm đã là điều không đơn giản, huống chi việc "nhập môn".
Nhưng có điều lạ, ngay trên đất Hà thành người ta dễ gặp những người trẻ tuổi dám mạo hiểm như thế. Đào Thái Hồng Phúc, người đoạt giải thưởng Tài năng trẻ thư pháp tại Festival Huế 2004, mới bước vào tuổi 30 nhưng tên anh đã được những người sành chơi biết đến. Niềm đam mê thư pháp đến với anh khi còn là một cậu bé. Mặc bạn bè gán cho mình những biệt hiệu "hâm", "dở hơi", anh tự tìm tòi mọi sách vở học Hán Nôm, rồi luyện thư pháp. Đào Thái Hồng Phúc không nhớ những nét chữ đầu tiên đã lấy đi của anh bao nhiêu giấy mực, thời gian và tâm lực. Anh tâm sự: "Mọi người thường bảo sao mình cứ sống như ông già, vô vị như thế. Không bạn bè, thú vui gì, chỉ quay quẩn với mấy cái chữ viết đi rồi viết lại. Nhưng khi đến với thư pháp mới thấy, phải mất cả đời để hiểu được nó, và có lẽ phải tốn thêm vài trăm năm mới có thể nhận mình là nhà thư pháp".
Bản chất chữ Hán có yếu tố tạo hình nên qua nhiều thế kỷ, người Trung Quốc sáng tạo ra các loại chữ viết theo các kiểu khác nhau. Về cơ bản có Tứ thảo: Chân, Thảo, Lệ, Chiết, và ở mỗi loại, người viết lại phải học lại từ đầu từng bộ thủ hay cách viết. Rồi phải tuân theo Tam pháp, trong đó bút pháp với từng nét cơ bản từ ngang bằng sổ thẳng, tự pháp là kết cấu của từng chữ và rộng hơn là chương pháp. Một nghệ thuật đòi hỏi nhiều, khắt khe như thế cho nên cũng rất kén người chơi.
Người có tài chữ không chỉ dừng lại ở việc viết chữ đúng, luyện quen tay, người viết ngoài một số nguyên tắc chung còn thể hiện sự sáng tạo và tính cách trong nét chữ. Anh Tuấn, một người đến với thư pháp Hán Nôm khá muộn, cho biết: "Các cụ nói nét chữ là nét người, cho nên nếu tinh ý xem chữ cụ Hòa viết sẽ khác với chữ cụ Quảng. Có những người viết chữ rất bay, nhưng có người lại có kiểu viết chắc, tuân thủ các đường nét rõ ràng. Và nếu là người nóng vội, nhiều tính toán thì sẽ không bao giờ viết được".
Các "ông đồ" thời hiện đại không áo the khăn xếp như ngày xưa nhưng khi đã "vận" mình vào thú chơi này dường như họ cũng tìm lại được chính bản thân. Anh Nguyễn Văn Thức, cử nhân khoa Hán Nôm, trường ĐH Khoa học xã hội Nhân văn, nói: "Từ ngày luyện viết thư pháp, tôi cảm thấy những suy nghĩ của mình có chiều sâu hơn và hiểu hơn giáo lý của đạo Phật. Lúc hướng được ngòi bút theo sự điều khiển của lý trí thấy mình đi được vào tận cùng con người mình". Câu nói có vẻ già trước tuổi ấy lý giải vì sao để tạo nên một bức thư pháp chỉ với một chữ "Nhẫn", "Tâm" hay "Đức"... người viết lại phải khổ luyện, tốn nhiều giấy mực đến thế.
Theo lời cụ Hòa, người viết chữ đẹp có tiếng hiện nay chỉ có khoảng hơn chục người trẻ tuổi thực. Trong nhịp sống gấp gáp của cuộc sống thời hiện đại, những Đào Thái Hồng Phúc, Đức Dũng, Nguyễn Thanh Sơn... vẫn âm thầm tìm cho mình một lối đi riêng. Họ không coi thư pháp là một nghề để kiếm sống nhưng dành cho nó phần lớn thời gian và công sức. Anh Thức vẫn ở nhà thuê, làm đủ mọi công việc từ dịch thuật đến viết bia, dạy thêm, tối về lại lem nhem cùng giấy mực. Hồng Phúc theo y học cổ truyền và giờ đây, anh có cửa hàng nho nhỏ bốc thuốc Đông y. Nhiều người biết đến tên tuổi anh đã tìm đến nhà theo học thư pháp, cả người đã có tuổi và không ít thanh niên. Một lớp học khoảng hơn hai mươi người cũng giúp anh tăng phần thu nhập. Đặc biệt vào dịp lễ tết, có dịp trổ tài "múa chữ", Phúc có thể kiếm vài chục triệu từ chính sở thích "kỳ quái" mà anh đã công phu luyện tập. Anh tâm sự đầy lạc quan: "Khi tôi theo học thư pháp Hán Nôm, bố mẹ đều can ngăn, bảo bây giờ làm gì còn ai quan tâm đến loại chữ nghĩa ấy nữa. Nhưng tôi tin trong vài năm nữa, nghệ thuật này sẽ phát triển mạnh. Giới trẻ khi đã biết được một điều gì đó về thư pháp, họ sẽ rất quan tâm".
Những người mê thư pháp thường chọn cho mình một thú vui để cân bằng cuộc sống. Người chơi đàn, người thích vẽ tranh, nghe nhạc. Có điều, họ là một số ít người dám chấp nhận thú chơi thử thách cao, đòi hỏi sự công phu và kiên nhẫn. Một thứ nghệ thuật không dành chỗ cho những tham vọng vật chất, và vô tình họ trở thành những người níu giữ lại nét đẹp văn hóa ngàn xưa của dân tộc. Nét đẹp mà gần một thế kỷ trước nhà thơ Vũ Đình Liên từng lo lắng: "Những người muôn năm cũ/ hồn ở đâu bây giờ". Ngày hôm nay, ông đồ thời hiện đại sẽ không phải chứng kiến cảnh "Giấy đỏ buồn không thắm/ mực đọng trong nghiên sầu". Xã hội đang tìm lại họ, và nghệ thuật thư pháp sẽ không còn là quá vãng.
Thu Hà /Theo: vnexpress.net
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:20:48 GMT 9
THƯ PHÁP Xin được giới thiệu với các bạn một bộ môn nghệ thuật đang phát triển bên Việt Nam, đó là môn Thư pháp. Ở Việt Nam thuở xưa, vào mỗi dịp Xuân về, người dân hay đến nhà những « Thầy Ðồ » hay những người « hay chữ » để xin chữ về treo như một bức tranh, vừa là món đồ trang trí nhưng cũng vừa là món ăn tinh thần. Thầy đồ hay người hay chữ cho chữ bằng cách viết một hay nhiều chữ trên một tờ giấy lớn, với nội dung mang tính cách chúc tụng hay giáo dục, nét chữ thường được khen là đẹp như rồng bay phượng múa. Lối viết như vậy được gọi là Thư Pháp. Thư Pháp là phương pháp viết chữ (đẹp). Cụ Ðồ xưa: Thư pháp là một môn nghệ thuật phát xuất từ Trung Hoa và đã được các nước Nhật, Triều Tiên, Việt Nam âm thầm chấp nhận và lặng lẽ duy trì. Ðối với phương Tây, thư pháp được thực hiện bằng nhiều phương tiện : bút sắt, cọ, thước, compa, êke...Con chữ được nắn nót theo chuẩn mực và tỷ lệ. Ðó là cái đẹp của các con chữ theo thị giác người sử dụng hệ chữ La Tinh. Ðối với người phương Ðông, nói đến môn Thư pháp, người ta thường nghĩ đến cách viết chữ Hán với phong cách đặc biệt... Với cây bút lông, mực và giấy người Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ vươn lên đỉnh cao với lý thuyết phong phú, mang tính triết học, thiền học. Ở Việt-Nam vào thời điểm nầy, có lẽ ngoại trừ một số người lớn tuổi thâm Nho mới đọc được chữ Hán, chữ Nôm, chớ còn hầu hết là không đọc được. Bởi vậy tại sao ta không viết thư pháp bằng tiếng Việt ? Viết chữ Việt cũng đẹp vậy, bởi vì sao giải thích được : « Sao là đẹp ? Sao là không đẹp ? » (KTS Nguyễn Thanh Sơn) « Biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta, chắc gì gọi là đẹp đối với kẻ khác !... biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta bây giờ chắc gì gọi là đẹp đối với ta sau nầy” (Trang Tử). Thư pháp bằng tiếng Việt: Theo các bậc khoa giáp thời xưa, việc chọn một câu văn một bài thơ để viết lên trang giấy là việc cần hết sức cẩn trọng. Vì ngoài việc thể hiện nét bút tài hoa, năng khiếu viết chữ, nội dung một bức thư pháp còn cho thấy tư tưởng, kiến thức, tâm hồn của người viết. Khi cầm bút, ngoài thể hiện những đường nét rồng bay phượng múa, các thư pháp gia còn phải "nhiếp tâm" với những gì mình sắp sửa viết ra. Phong trào viết Thư pháp bằng tiếng Việt đã được khôi phục một cách mạnh mẽ từ khoãng 10 năm nay. Bên Việt Nam nhiều Câu Lạc Bộ viết Thư pháp được thành lập trong các thành phố lớn, đã có nhiều "Thư pháp gia" tổ chức những cuộc triển lãm thư pháp như những hoạ sĩ triển lãm tranh vẽ. Tôi xin giới thiệu với bạn sơ lược về bộ môn nầy. Mới nhìn qua, chúng ta có thể nghĩ là bộ môn nầy khá dễ, muốn viết sao cũng được, miễn cho đẹp thì thôi ! Thật ra môn Thư pháp cũng có nhiều qui tắc, sau đây là vài nguyên tắc chánh. Chương pháp: tức là nguyên cứu phương pháp phân bố chữ với chữ, hàng với hàng, và các hàng với toàn bộ bức thư pháp. Một bức thư pháp thành công hay không là do ở chương pháp. -Ðầu câu không thụt vô. -Các hàng đều và dài bằng nhau -Một chữ lẻ loi không đứng thành một hàng -Khoảng trống ở hàng cuối không dài hơn phân nửa chiều dài của hàng -Không dùng dấu chấm câu. Hình dạng bức thư pháp: Có bốn hình dạng chánh -Hình chữ nhật đứng (Trung đường) -Hình chữ nhật ngang (Hoành phi) -Hình vuông (Ðấu phương) -Hình mặt quạt (Phiến diện) (coi hình dưới đâÿ) Ấn chương (hay con dấu, con triện) là một nét văn hoá rất độc đáo của người Trung Quốc. Ấn chương là một yếu tố quan trọng của một bức thư pháp hay một bức họa. Ðặt đúng vị trí, ấn chương tăng thêm gía trị của tác phẩm, ngược lại sẽ làm hỏng nó. Nghiên cứu kỷ ấn chương, người ta có thể giám định một bức thư họa là chính bản hay ngụy tạo. Nguyên tắc khắc ấn triện là khắc chìm hoặc khắc nổi : -Khắc chìm khi in ra có nét chữ trắng trên nền đậm. -Khắc nổi, khi in ra có nét chữ đậm trên nền lợt. -Loại nữa chìm nữa nổi
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:23:10 GMT 9
Vị trí đặt con dấu:
Trong các thư tác của người Trung Hoa xưa có nhiều vị trí được qui ước để đóng dấu như :
-Ðóng ở bên phải, phía trên thư tác gọi là Nhân chương -Ðóng ở thắc lưng thư tác gọi là Yêu chương -Ðóng ở phía dưới, bên trái thư tác gọi là Danh chương
Tùy theo thư tác có khổ lớn hay nhỏ, dài hay ngắn mà có thể đóng một, hai, hoặc ba dấu triện. Vị trí các dấu triện đều có ý nghĩa riêng của nó.
Thư pháp Việt ngữ không hoàn toàn theo qui ước đóng dấu của người Trung Hoa mà theo cách thực hành sau đây :
Khi tác giả vừa là tác giả nội dung (Ý) vừa là tác giả hình thức (Hình) ; hoặc tác giả Hình nhưng Ý là các câu văn thơ cổ (hết bản quyền) thì con dấu ở vị trí dưới, phải. Hoặc có thể thêm một dấu ở trên, trái như dấu treo. Như vậy được gọi là Toàn triện.
Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ...) nhưng chưa có sự đồng ý của tác giả đó thì con dấu của tác giả Hình đặt bên dưới, phải, còn bên trái ghi tên tác giả Ý và người viết phải ghi « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Bán triện
Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ...) có sự đồng ý của tác giả Ý thì được quyền đóng dấu ở dưới, bên phải nhưng phải đề tên tác giả Ý phía trên cao, bên trái ; và người viết phải ghi chữ « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Ðồng triện.
Trường hợp ngoại lệ : vì lý do bố cục mà người viết không thể sắp xếp được vị trí nơi đóng dấu thì được đặt dấu ở vị trí khác nhưng phải ghi rõ tác giả về Ý. Vị trí nầy tạm gọi là Ngoại triện.
Các kiểu chữ trong Thư pháp
Trong thư pháp việt ngữ hiện nay xuất hiện 5 kiểu chữ chánh:
Chữ Chân Phương, tạm gọi là Chân Tự, là cách viết rõ ràng dễ đọc, rất giống chữ thường.
Chữ Cách Điệu, tạm gọi là Biến Tự, là cách viết biến đổi từ chữ Chân Phương mà ra nhưng các chữ cái hơi được biến dạng một chút để tạo ra cái lối viết riêng của mình.
Chữ Cá Biệt, tạm gọi là Cuồng Thảo, là lối viết Thư Pháp mà người phóng bút « nhiếp tâm » giữa tư tưởng và quản bút. Lối viết chữ nầy thể hiện cá tính của người viết, nhìn vào kiểu chữ nầy, người xem dễ biết tác giả mà không cần phải xem bút ký. Kiểu chữ nầy thường viết liền lạc trong một nét nên khó đọc.
Chữ Mô Phỏng là lối viết mô phỏng dựa theo kiểu chữ của nước ngoài. Có người viết chữ Việt nhìn vào ngỡ chữ Tàu, hay chữ Ả Rập, chữ Miên, v.v...
Chữ Mộc bản là kiểu chữ giống như chữ khắc trên mộc hoặc như kiểu thợ sắp chữ của nhà in mà khi viết thì theo một phương pháp đảo lộn, khi xem phải dùng gương phản chiếu. Nhìn vào chữ có dạng Hán-Nôm nhưng đó lại là chữ Việt viết ngược.(Rất tiếc, hình quá mờ nên không đưa lên trang web được)
Ngoài ra trong một số tranh Thư Pháp còn có hình ảnh minh họa về thiên nhiên, trong đó phần tranh có thể chiếm khoãng không gian lớn hơn phần chữ. Với đặc trưng nầy Thư Pháp trở thành Thư Họa.
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 18, 2006 11:24:17 GMT 9
THƯ PHÁP
Xin được giới thiệu với các bạn một bộ môn nghệ thuật đang phát triển bên Việt Nam, đó là môn Thư pháp.
Ở Việt Nam thuở xưa, vào mỗi dịp Xuân về, người dân hay đến nhà những « Thầy Ðồ » hay những người « hay chữ » để xin chữ về treo như một bức tranh, vừa là món đồ trang trí nhưng cũng vừa là món ăn tinh thần. Thầy đồ hay người hay chữ cho chữ bằng cách viết một hay nhiều chữ trên một tờ giấy lớn, với nội dung mang tính cách chúc tụng hay giáo dục, nét chữ thường được khen là đẹp như rồng bay phượng múa. Lối viết như vậy được gọi là Thư Pháp. Thư Pháp là phương pháp viết chữ (đẹp).
Cụ Ðồ xưa:
Thư pháp là một môn nghệ thuật phát xuất từ Trung Hoa và đã được các nước Nhật, Triều Tiên, Việt Nam âm thầm chấp nhận và lặng lẽ duy trì.
Ðối với phương Tây, thư pháp được thực hiện bằng nhiều phương tiện : bút sắt, cọ, thước, compa, êke...Con chữ được nắn nót theo chuẩn mực và tỷ lệ. Ðó là cái đẹp của các con chữ theo thị giác người sử dụng hệ chữ La Tinh.
Ðối với người phương Ðông, nói đến môn Thư pháp, người ta thường nghĩ đến cách viết chữ Hán với phong cách đặc biệt... Với cây bút lông, mực và giấy người Trung Hoa đã đưa nghệ thuật viết chữ vươn lên đỉnh cao với lý thuyết phong phú, mang tính triết học, thiền học.
Ở Việt-Nam vào thời điểm nầy, có lẽ ngoại trừ một số người lớn tuổi thâm Nho mới đọc được chữ Hán, chữ Nôm, chớ còn hầu hết là không đọc được.
Bởi vậy tại sao ta không viết thư pháp bằng tiếng Việt ? Viết chữ Việt cũng đẹp vậy, bởi vì sao giải thích được : « Sao là đẹp ? Sao là không đẹp ? » (KTS Nguyễn Thanh Sơn)
« Biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta, chắc gì gọi là đẹp đối với kẻ khác !... biết đâu cái gọi là đẹp đối với ta bây giờ chắc gì gọi là đẹp đối với ta sau nầy” (Trang Tử).
Thư pháp bằng tiếng Việt:
Theo các bậc khoa giáp thời xưa, việc chọn một câu văn một bài thơ để viết lên trang giấy là việc cần hết sức cẩn trọng. Vì ngoài việc thể hiện nét bút tài hoa, năng khiếu viết chữ, nội dung một bức thư pháp còn cho thấy tư tưởng, kiến thức, tâm hồn của người viết. Khi cầm bút, ngoài thể hiện những đường nét rồng bay phượng múa, các thư pháp gia còn phải "nhiếp tâm" với những gì mình sắp sửa viết ra.
Phong trào viết Thư pháp bằng tiếng Việt đã được khôi phục một cách mạnh mẽ từ khoãng 10 năm nay. Bên Việt Nam nhiều Câu Lạc Bộ viết Thư pháp được thành lập trong các thành phố lớn, đã có nhiều "Thư pháp gia" tổ chức những cuộc triển lãm thư pháp như những hoạ sĩ triển lãm tranh vẽ. Tôi xin giới thiệu với bạn sơ lược về bộ môn nầy.
Mới nhìn qua, chúng ta có thể nghĩ là bộ môn nầy khá dễ, muốn viết sao cũng được, miễn cho đẹp thì thôi ! Thật ra môn Thư pháp cũng có nhiều qui tắc, sau đây là vài nguyên tắc chánh.
Chương pháp: tức là nguyên cứu phương pháp phân bố chữ với chữ, hàng với hàng, và các hàng với toàn bộ bức thư pháp. Một bức thư pháp thành công hay không là do ở chương pháp.
-Ðầu câu không thụt vô. -Các hàng đều và dài bằng nhau -Một chữ lẻ loi không đứng thành một hàng -Khoảng trống ở hàng cuối không dài hơn phân nửa chiều dài của hàng -Không dùng dấu chấm câu.
Hình dạng bức thư pháp: Có bốn hình dạng chánh
-Hình chữ nhật đứng (Trung đường) -Hình chữ nhật ngang (Hoành phi) -Hình vuông (Ðấu phương) -Hình mặt quạt (Phiến diện) (coi hình dưới đâÿ)
Ấn chương (hay con dấu, con triện) là một nét văn hoá rất độc đáo của người Trung Quốc.
Ấn chương là một yếu tố quan trọng của một bức thư pháp hay một bức họa. Ðặt đúng vị trí, ấn chương tăng thêm gía trị của tác phẩm, ngược lại sẽ làm hỏng nó. Nghiên cứu kỷ ấn chương, người ta có thể giám định một bức thư họa là chính bản hay ngụy tạo.
Nguyên tắc khắc ấn triện là khắc chìm hoặc khắc nổi :
-Khắc chìm khi in ra có nét chữ trắng trên nền đậm. -Khắc nổi, khi in ra có nét chữ đậm trên nền lợt. -Loại nữa chìm nữa nổi
Vị trí đặt con dấu:
Trong các thư tác của người Trung Hoa xưa có nhiều vị trí được qui ước để đóng dấu như :
-Ðóng ở bên phải, phía trên thư tác gọi là Nhân chương -Ðóng ở thắc lưng thư tác gọi là Yêu chương -Ðóng ở phía dưới, bên trái thư tác gọi là Danh chương
Tùy theo thư tác có khổ lớn hay nhỏ, dài hay ngắn mà có thể đóng một, hai, hoặc ba dấu triện. Vị trí các dấu triện đều có ý nghĩa riêng của nó.
Thư pháp Việt ngữ không hoàn toàn theo qui ước đóng dấu của người Trung Hoa mà theo cách thực hành sau đây :
Khi tác giả vừa là tác giả nội dung (Ý) vừa là tác giả hình thức (Hình) ; hoặc tác giả Hình nhưng Ý là các câu văn thơ cổ (hết bản quyền) thì con dấu ở vị trí dưới, phải. Hoặc có thể thêm một dấu ở trên, trái như dấu treo. Như vậy được gọi là Toàn triện.
Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ...) nhưng chưa có sự đồng ý của tác giả đó thì con dấu của tác giả Hình đặt bên dưới, phải, còn bên trái ghi tên tác giả Ý và người viết phải ghi « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Bán triện
Khi tác giả Hình viết Ý của tác giả khác (văn, thơ...) có sự đồng ý của tác giả Ý thì được quyền đóng dấu ở dưới, bên phải nhưng phải đề tên tác giả Ý phía trên cao, bên trái ; và người viết phải ghi chữ « thủ bút » hoặc « viết ». Vị trí nầy tạm gọi là Ðồng triện.
Trường hợp ngoại lệ : vì lý do bố cục mà người viết không thể sắp xếp được vị trí nơi đóng dấu thì được đặt dấu ở vị trí khác nhưng phải ghi rõ tác giả về Ý. Vị trí nầy tạm gọi là Ngoại triện.
Các kiểu chữ trong Thư pháp
Trong thư pháp việt ngữ hiện nay xuất hiện 5 kiểu chữ chánh:
Chữ Chân Phương, tạm gọi là Chân Tự, là cách viết rõ ràng dễ đọc, rất giống chữ thường.
Chữ Cách Điệu, tạm gọi là Biến Tự, là cách viết biến đổi từ chữ Chân Phương mà ra nhưng các chữ cái hơi được biến dạng một chút để tạo ra cái lối viết riêng của mình.
Chữ Cá Biệt, tạm gọi là Cuồng Thảo, là lối viết Thư Pháp mà người phóng bút « nhiếp tâm » giữa tư tưởng và quản bút. Lối viết chữ nầy thể hiện cá tính của người viết, nhìn vào kiểu chữ nầy, người xem dễ biết tác giả mà không cần phải xem bút ký. Kiểu chữ nầy thường viết liền lạc trong một nét nên khó đọc.
Chữ Mô Phỏng là lối viết mô phỏng dựa theo kiểu chữ của nước ngoài. Có người viết chữ Việt nhìn vào ngỡ chữ Tàu, hay chữ Ả Rập, chữ Miên, v.v...
Chữ Mộc bản là kiểu chữ giống như chữ khắc trên mộc hoặc như kiểu thợ sắp chữ của nhà in mà khi viết thì theo một phương pháp đảo lộn, khi xem phải dùng gương phản chiếu. Nhìn vào chữ có dạng Hán-Nôm nhưng đó lại là chữ Việt viết ngược.(Rất tiếc, hình quá mờ nên không đưa lên trang web được)
Ngoài ra trong một số tranh Thư Pháp còn có hình ảnh minh họa về thiên nhiên, trong đó phần tranh có thể chiếm khoãng không gian lớn hơn phần chữ. Với đặc trưng nầy Thư Pháp trở thành Thư Họa.
Trong một số người viết thư Pháp, có nhiều người là họa sĩ, họ thường biến chữ thành tranh, tranh là hình ảnh của chữ. Lối viết nầy rất khó. Thí dụ như :
Ta có thể hình dung ra được khuôn mặt của Ðức Phật
Sau đây là chữ "Phật" của Trần Bá Linh:
Chữ "Lệ rơi" của Tuấn Hạ :
Và cuối cùng là chữ "Mẹ" của Chính Văn:
Nếu ta nhìn kỷ thì có thể "thấy" hình dáng người mẹ tóc dài xõa lưng, đứng đưa lưng lại và dang tay ra để đở một đứa bé, đứa bé nầy nhìn ngang, nằm co lại như còn trong bụng mẹ.
Sách tham khảo và trích lục:
-Sổ tay thư pháp của KTS Nguyễn Thanh Sơn. Nhà xuất bản Văn Nghệ TP HCM.
-Hồn chữ Việt, Về nghệ thuật thư pháp của Thiện Duyên, Câu Lạc Bộ Yêu Thích Thư Pháp Quận ? TP HCM.
-Hướng dẫn viết thư pháp của Phạm Thanh Hiệp. Câu Lạc Bộ Yêu Thích Thư Pháp Quận I, TP HCM.
-Thư pháp nhập môn, tập I và II của Trung Tâm văn hóa quận 8, Câu Lạc Bộ Thư Pháp, Phạm Công Út biên soạn.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Oct 29, 2007 3:48:51 GMT 9
Hà Minh Đôi điều về thư pháp Tôi hiểu sự bất bình của ông Trần Trí Dõi trước sự lan tràn của phong trào thư pháp Quốc ngữ, nhưng kết luận rằng “Nếu ai muốn dùng chữ Quốc ngữ để ‘vẽ vời’ đều… trực tiếp làm bẩn chữ Quốc ngữ” như trong bài “Không được mạo danh thư pháp để làm bẩn chữ Quốc ngữ!” trên mạng Vietimes ngày 2/10/2007 là quá nặng nề, có thể xúc phạm tới một nhóm những người yêu thư pháp Việt. Tôi không phải là người hâm mộ món “mao bút thư pháp” nhưng không vì thế mà không phát biểu quan điểm của mình về những phát ngôn quá nặng nề và thiếu công bằng. Xin được trao đổi và làm rõ hai điều: 1) Thư pháp Quốc ngữ có phải là thư pháp không, hay "mạo danh" thư pháp? 2) Quan niệm về nghệ thuật: Thế nào là: vẽ vời làm bẩn chữ Quốc ngữ ? 1. Về khái niệm “thư pháp” Khái niệm thư pháp (calligraphy) hay nghệ thuật viết chữ đẹp trong các ngôn ngữ Âu Tây bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp (κάλλος kallos "beauty" = đẹp + γραφή graphẽ "writing" = viết). Chắc chắn không chỉ có Trung Quốc độc quyền viết thư pháp: ngược lại, thư pháp Trung Quốc chỉ là một bộ phận của thư pháp thế giới và của châu Á: Shufa 書法 (tiếng Trung), Seoye 書藝 (tiếng Triều Tiên), Shodō 書道, (Thư đạo, tiếng Nhật). Thư pháp châu Á dùng bút lông mực Tàu còn đựoc gọi là “Mao bút thư pháp” (Brush_Ink Calligraphy). Thư pháp được định nghĩa khá rộng, từ chữ viết tay (hand writing - manuscript) đến tạo hình nghệ thuật bằng chữ (aesthetic - artistic expression of letters or alphabet). Khi phát biểu: “Theo ý kiến của riêng cá nhân tôi, cách viết chữ Việt theo hệ Latin không thể gọi là thư pháp được. Có lẽ tại Việt Nam, chỉ cách viết chữ Hán mới có đủ các điều kiện để gọi là “thư pháp” vì đây là chữ tượng hình", ông Trần Trí Dõi dường như đã tự "trói" mình vào phạm vi hẹp của môn thư pháp: cứ phải viết Hán tự bằng bút lông mực Tàu, giấy bản (xuyến chỉ). Về mặt lý thuyết, viết chữ đẹp bằng bút lông (hay bất cứ bút gì) và chữ Hán hay bất cứ chữ gì đều bình đẳng và đều được gọi là "thư pháp". Như vậy thư pháp chữ Quốc ngữ rất chính danh, không có gì là mạo danh như khẳng định trong bài nói trên: "Ngoài chữ Quốc ngữ, chữ Hán và chữ Nôm, thư pháp còn được chuyển tải qua tiếng Anh, tiếng Đức và chưa biết chừng sẽ có cả thư pháp… chữ Arab cũng nên. Vậy nên có rất nhiều người đang làm bẩn chữ Quốc ngữ bằng cách mạo danh thư pháp." Thư pháp Ả rập Thư pháp La tinh (Contemporary Western Calligraphy- Wikipedia) Thư pháp chữ Hán của (Mễ Phế) và Thư pháp Việt Nam) Theo tôi, thú chơi thư pháp là thú chơi hoài cổ: Như cụ Tú Xương đã nói [1] , khi chữ Quốc ngữ được truyền bá ở nước ta là lúc bút lông đã hết vai trò lịch sử của nó, hết rồi cái thời lều chõng, khoa cử trường ốc, chuyển sang thời buổi "Ú ớ u ơ ngọn bút chì", thực ra thời đó đã có bút sắt, bút Parker,… rồi sau này bút bi (cổ ngôn gọi là bút chì "nguyên tử"). Cho nên mực tầu giấy đỏ mới dần dần vào quên lãng như "những người muôn năm cũ/ hồn ở đâu bây giờ". Có một bộ phận hoài cổ muốn phục dựng thú chơi thư pháp bằng cách dùng bút lông (mao bút) để viết chữ Quốc ngữ, và sự cải biên sáng tạo đã dẫn họ đi tới việc kết hợp giữa cái mới là chữ Quốc ngữ và cái cũ là mực Tàu giấy bản và bút lông với lối viết của thư pháp chữ Hán. Tương tự như sự chuyển tiếp từ "vọng cổ hoài lang" sang "tân cổ giao duyên", gọi nôm na là "cải lương", hay từ chèo truyền thống sang chèo hiện đại... Nếu phủ nhận cái này sẽ phải phủ nhận những cái kia. Nguyễn Đình Đăng: “Sự ra đời của chữ Quốc ngữ” (Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh) 2001 Thư pháp Quốc ngữ chẳng qua là thư pháp bút lông cải tiến: viết chữ Quốc ngữ bằng bút lông, do đó có nét đậm nét nhạt, có "phi bạch"…, trong chừng mực nào đó cũng là sáng tạo, như danh họa Bùi Xuân Phái dùng sơn dầu vẽ phố cổ Việt Nam, kết hợp Đông Tây. Điều đó không có gì cao siêu lắm nhưng cũng không đến nỗi "ô uế" như ông Trần Trí Dõi quan niệm. Ông Nguyễn Đình Đăng [2] , nhà khoa học kiêm họa sĩ dùng lối vẽ phương Tây của danh họa Salvador Dalí để vẽ đề tài Á đông (“Cái chết siêu việt của ông Nguyễn Văn Vĩnh”), không ai cười chê. 2. Quan niệm về cái Đẹp Thư pháp Quốc ngữ vận dụng một số thủ pháp của thư pháp chữ Hán, nên hiệu ứng tạo ra có thể là những hình tượng khá loằng ngoằng khó đọc, có nét đậm, nét nhạt, có nét xuớc, nét nhòe, có nét móc, nét xổ. Không phải thứ nghệ thuật nào cũng dễ hiểu, nhưng vì không hiểu một nghệ thuật nào đó mà vội vã kết luận rằng đó là thứ phi nghệ thuật thì thật là nông nổi. Nghệ thuật nào mà cũng "dễ hiểu", và "ngang bằng xổ ngay" thì chỉ là thứ nghệ thuật "bình dân học vụ". Tôi không bênh vực thư pháp Quốc ngữ nhưng tôi không thấy những người phản đối nó đưa ra được chứng lý rằng nó phi nghệ thuật. Trần Dần đã nói "cái đèm đẹp giết chết cái đẹp" là theo nghĩa đó. Có thể thư pháp Việt Nam mới chỉ là thứ "đèm đẹp" thôi, nhưng nên đối xử công bằng với nó. Còn về việc “Chưa có một sự công nhận chính thức nào của những người quản lý văn hóa tại Việt Nam dành cho bộ môn viết chữ Quốc ngữ”: theo tôi, không nên lấy tiêu chí của các nhà quản lý văn hóa ra mà áp dụng cho tất cả các bộ môn văn học nghệ thuật. Họ không phải lúc nào cũng đúng cả đâu, những "giải thưởng" muộn màng trao cho nhóm cựu Nhân văn- Giai phẩm đã cho thấy điều đó. Về tính dễ hiểu và khó hiểu trong nghệ thuật tạo hình: những bức tranh lập thể, dada, siêu thực có dễ hiểu không? Dalí, Picasso, Ernst, Miro có loằng ngoằng không? Bức tranh "Con bò mùa thu" chẳng hạn: có người bảo đây là "con trâu mùa hạ" hoặc thậm chí "con nghé giữa trưa"… đó là cách cảm thụ của từng người, miễn sao người sáng tạo ra nó là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã rung cảm bằng trái tim và gửi gắm tâm tư mình vào trong đó. Ai có quyền phán rằng Nguyễn Quang Thiều vẽ như vậy là làm bẩn hội họa? Hay tệ hơn nữa, “cấm” ông ấy cầm bút vẽ? Thời nhà Minh, Đái Tiến là một danh họa vào bậc thượng thừa, thủ lĩnh “Triết phái”, vì ông người Hàng Châu Triết Giang. Nhà vua cấm dùng màu đỏ, ông lại vẽ thuyền và ngư dân mặc áo đỏ, trái ý vua, cuối cùng bị hạ ngục, chết trong đói rét chỉ vì một hôn quân vô lại và ích kỷ. Bản thân tôi đã xúc động và khóc khi chiêm ngưỡng bức tranh của Đái Tiến. Bức "Con bò mùa thu của Nguyễn Quang Thiều" (VietNamNet) "On White II" của Kandinsky Guernica của Picasso Ngay cả trong thư pháp Trung Quốc, không phải kiểu nào cũng "dễ đọc dễ nhớ": Chữ chân phương là khải thư, chữ viết câu đối, liễn là triện thư, chữ viết thường nhật, ký tên, lạc khoản v.v… là hành thư, và lại có thảo thư, thậm chí cuồng thảo như thư pháp siêu xuất của các bậc thiền sư: Hoài Tố, Bát Đại Sơn Nhân... rồi thư pháp Thiền hoạ (Zen painting) vừa rất đơn giản vừa rất "loằng ngoằng" và rất khó hiểu. Thư pháp Tề Bạch Thạch - thư họa gia kiệt xuất Trung Quốc, và bên cạnh là thư pháp "thiền" của Chu Đáp, tức Bát Đại Sơn Nhân - thư họa gia siêu đẳng, người khởi loạn và đánh đổ quan niệm thư họa cung đình, một nhà sư ẩn dật và là thầy tinh thần của Tề Bạch Thạch. Người Nhật phát triển môn phái Thiền họa (bắt nguồn từ Trung Quốc), trong đó Lương Khải là một trong những vị khai sáng - ông vẽ Lục tổ Huệ Năng chặt trúc - theo Nguyễn Việt Hà là để quật vào mông những đồ đệ chưa "đốn ngộ", sau khi nhận vài roi hoát nhiên “đạt ngộ” và hiểu ra sự “loằng ngoằng” kia). Phong cách Thiền họa Nhật Bản Người ta dùng khải thư để giao dịch văn bản và dạy trẻ em, không ai dùng cuồng thảo là cung bậc cuối của nghệ thuật viết chữ mà dạy trẻ. Nếu quan niệm như các tác giả bài viết nói trên thì thư pháp Mao Trạch Đông đáng bị Tề Bạch Thạch chê rằng "làm bẩn thư pháp". Cộng đồng những nhà thư pháp Việt Nam là những người có chút lòng ngưỡng mộ nghệ thuật thư pháp Trung Quốc mà ai cũng biết là nổi tiếng trừu tượng và cầu kỳ đến mức hoang đường, như kiểu viết hết mấy chum mực mới thành tài, khắc hết hàng nghìn con dấu mới thành triện khắc gia, đến như thư họa danh gia kiêm ấn chương Tề Bạch Thạch cũng chỉ dám nhận mình là "Tam bách thạch ấn lão ông" (ông già ba trăm triện đá) bởi vì ông quá yêu môn hội họa và triện khắc. Hội họa thì đẹp về hình thức, còn thư pháp, ấn chương thì đẹp về nội dung, tức triết lý sâu sa. Thú thực người ngoại đạo nhìn thư pháp “giun dế” của Hoài Tố hay Chu Đáp sẽ rất ngạc nhiên, khi biết nhà Christie’s bán nó với giá hàng trăm ngàn đô. Cũng như những bức ký họa nguệch ngoạc của Picasso, những ấn chương “méo mó” của Tề Bạch Thạch đều là những “cổ vật” rất có giá. Thiết nghĩ, trong lúc xã hội còn nhiều tiêu cực, lại có những người trẻ tuổi quần tam tụ ngũ không phải để đánh bạc, rượu chè, xóc đĩa, hay bia ôm, mà "dĩ trà hội hữu", ngâm vịnh, bàn luận chuyện thư pháp để lấy chút thăng bằng trong cuộc sống, đó là điều hết sức lành mạnh, đáng khuyến khích. Nếu thư pháp Quốc ngữ không có giá trị gì, tất nhiên số người hâm mộ sẽ tự động giảm sút, không nhất thiết phải dùng biện pháp cưỡng chế. Xin kết luận: Thư pháp Quốc ngữ chẳng làm bẩn chữ Quốc ngữ, cũng không ảnh hưởng gì không tốt cho chữ Quốc ngữ, nó đơn giản chỉ là một trào lưu nghệ thuật, một thú chơi hoài cổ lành mạnh, không nên bị bôi bác, miệt thị và tuyệt đối không dùng biện pháp cấm đoán. Talawas -------------------------------------------------------------------------------- [1]Nghe nói khoa này sắp đổi thi Các thầy đồ cổ đỗ mau đi! Dẫu không bia đá còn bia miệng Vứt bút lông đi, giắt bút chì! (Thơ Tú Xương)
|
|