|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 7:57:43 GMT 9
Vật liệu trong kiến trúc cổ Việt Nam Tạ Hòang Vân Kiến trúc hang động, mái đá là những ngôi nhà đầu tiên của loài người. Tiếp đó, việc sống trong nhà hay lều rồi lập thành làng là hiện tượng gắn với lối sống định cư trên cơ sở sản xuất nông nghiệp hay bán nông nghiệp. Sách Lĩnh Nam chích quái viết: Đất nhiều gạo nếp, lấy ống tre để nấu cơm (cơm lam), gác gỗ làm nhà (nhà sàn) để tránh khỏi hổ lang làm hại... Từ khi con người thoát ra khỏi đời sống bầy đàn hang động thì loại hình nhà sàn tỏ ra hợp lý và thông dụng với cư dân sống ở những nơi có địa hình dốc. Những nghiên cứu sau này đã chứng minh loại hình kiến trúc đình còn giữ lại nhiều nét kiến trúc xa xôi, mà vật liệu kiến trúc là một nét đáng chú ý.
Việc sử dụng vật liệu gỗ được coi là bước đột phá của kỹ thuật xây dựng, do tính năng mềm, bền chắc của nó, đồng thời cũng là vật liệu dễ tìm tại di chỉ Đông Sơn, đã phát hiện thành phần gỗ của kiến trúc nhà ở, gồm những cột nhà, rui tre, những thanh gỗ đẽo vạc thô sơ, nhiều cột gỗ dựng đứng trên nền đất có tỉ lệ khác nhau (được phỏng đoán như chân của cột nhà sàn phối hợp trong một vì nhà). Kỹ thuật liên kết chủ yếu là lạt buộc, con sỏ, mộng xuyên lỗ, mộng ngoãm, gồm ngoãm tự nhiên (chạc cây) và ngoãm nhân tạo (vết cản ở thân cột để thắt thêm một đoạn gỗ). Ở dấu tích ngôi nhà sàn có bộ khung bằng gỗ, lợp ngói có niên đại khoảng những thế kỷ đầu, vật liệu xây dựng được tìm thấy gồm nhiều mảnh ngói và mảnh đồ đựng bằng sành lẫn trong đất san nền và chiếc then cửa. Ngói có 2 loại: ngói ống và ngói vũm lòng máng tại xã Mộc Bắc, Duy Tiên, Hà Nam (3). Như vậy, gỗ là thành phần cơ bản trong kiến trúc nhà ở. Gỗ được chia thành nhiều loại: xoan, đinh, lim, sến, táu... có độ bền, chống mối mọt, mục nát của thiên nhiên nhiệt đới. Vì kèo chồng rường phù hợp với loại gỗ xoan; gỗ lim, táu hợp với các cột cái, cột quân, cột hiên và bẩy đỡ vì tính năng to chắc và tính chịu lực của nó. Rui mè sử dụng loại gỗ mỏng hơn, thậm chí dùng tre, nứa (đã được ngâm tẩm). Họ nhà tre dùng làm đòn tay, rui mè, chọn những thanh đều dóng (có sức bền đồng thời có ý nghĩa mỹ quan). Trong kết cấu bộ khung nhà, bương vầu làm cột nhà vì thân to dày, đốt ngắn chịu sức nén khoẻ; tre đằng ngà làm đòn tay vì thân đặc, dẻo dai chịu sức kéo tốt; mai thẳng và dày dùng làm sàn nhà; nứa mỏng hơn đập dập để lợp mái nhà.
Ở vùng núi, người dân sử dụng chủ yếu là tre, vừa làm khung nhà, vừa làm phên giậu che chắn. Tận dụng các thành phần của cây tre để làm nhà còn là một nghệ thuật trong kỹ thuật lắp dựng và chống mối mọt. Ngoài việc ngâm tre trong nước khoảng một năm, người dân còn hun khói cho bền, chống mối. Ở vùng đồng bằng, gỗ được sử dụng phổ biến trong các kết cấu chính của công trình.
Các công trình kiến trúc cổ đều làm bằng gỗ lim có thể chịu đựng khí hậu nhiệt đới qua nhiều thế kỷ. Loại cột có đường kính to nhất 70 - 80cm được coi là tiêu chuẩn chung của cột đình làng. Sử dụng gỗ trong kiến trúc liên quan đến “lối kéo cột” quen thuộc của từng vùng. Trung Bộ có lối nhà rội, nhà rường; Bắc Bộ có lối nhà chồng rường trên 3 hay 4 hàng cột. Những xà nhà lớn chồng lên nhau, có những “trụ non” hay “đất rường” ken vào kẻ tận cùng bằng “con cung” ở gần góc mái và thay thế vì kèo tam giác là một lối vì kèo không quen biết trong kiến trúc cổ truyền của người Việt. Kỹ thuật tinh xảo đã tạo nên những mộng vững chắc ở đầu cột, nhất là ở chỗ nối với câu đầu, kẻ ngồi và xà thượng. Vì kèo nọ giằng với vì kèo kia bằng một hệ thống xà (xà thượng, xà tứ); gần mặt tảng, các “địa thu” nối liền chân cột nọ với chân cột kia, tất cả tạo nên một bộ khung bằng gỗ tháo lắp dễ dàng và không biết đến một cái đanh nào bằng sắt”(4). Trong kiến trúc Việt cổ truyền, khung nhà hoàn toàn bằng gỗ thì tường ngăn cũng làm bằng những ván “liệt bản” nối liền nhau bằng những “đố búp măng” hay những đố gỗ lớn chạm trổ công phu.
Đồ đất nung gồm những vật liệu làm từ đất, được chế biến và tạo thành phẩm khi qua lửa, có độ bền lớn và khả năng tồn tại lâu dài, được phân chia thành 2 loại chính: gạch xây tường (gồm cả gạch lát nền): gạch hoa, gạch trổ thủng, gạch chạm nổi; và ngói: ngói bản, ngói âm dương, ngói mũi hài/ vảy cá/ vảy rồng... Quá trình phát triển và kỹ thuật chế tác sản phẩm làm từ đất nung ngày càng cao thì kỹ thuật xây dựng của người Việt càng tiến tới hoàn thiện. Đồ đất nung đã trở thành một phần quan trọng trong kiến trúc Việt Nam. Các loại gạch có hình dáng khác nhau thì có những chức năng khác nhau. Gạch hình chữ nhật, được tìm thấy nhiều nhất và thường xây tường nhà, lát nền (vách mộ tại các ngôi mộ cổ). Kích thước của chúng thay đổi qua thời kỳ: thế kỷ I - VI có 3 cỡ: 50x25x6cm, 45x21x8cm, 28x13x7cm; thế kỷ VII - IX, kích thước gạch nhỏ hơn: 25x13x3cm; thế kỷ X: 30x16x4cm; thế kỷ XII - XIII: 38x19,5x6cm; thế kỷ XV-XVI loại gạch vồ màu đỏ hoặc xám: 43x25x10cm; 43x28x22,5cm; 38x17x11cm. Gạch múi bưởi (hình múi cam, hình lưỡi búa), thực chất là loại gạch hình chữ nhật nhưng một cạnh rìa được làm thu nhỏ hơn cạnh rìa đối diện từ 1 - 2 cm, có tác dụng cuốn vòm ở những cửa mộ, quách mộ hay cửa nhà, tạo độ cong tự nhiên. Gạch hình vuông, có hai mặt lớn hình vuông và chuyên dùng để lát nền, trước thế kỷ X nó có kích thước trung bình 25x25cm. Nhưng đến thế kỷ thứ X, gạch vuông, tìm thấy và phổ biến trong các vị trí kiến trúc của kinh đô Hoa Lư, có kích thước rất lớn: 35x35x6 đến 9cm. Gạch ốp tường có hình trang trí trên cả một mặt lớn và được xây ốp vào tường, ít có chức năng thực dụng. Khoảng thế kỷ thứ X, mới tìm thấy một viên gạch trang trí mặt người ở mộ Đầm Xuyên, một viên chạm nổi hình ác thú ở Luy Lâu (Bắc Ninh). Ở Tháp Nhạn tìm thấy những viên gạch ốp tường in hình ba vị Phật ngồi trên toà sen, chạm hình voi... có kích cỡ 28x15,5x5,5cm. Một số viên gạch đặc biệt có kết cấu khác với loại gạch thông dụng về kích thước lớn, được dùng trong các vị trí đặc biệt của kiến trúc. Những miền không được thiên nhiên ưu đãi, đất trộn rơm, trấu được sử dụng làm tường nhà hay hàng rào quanh vườn ở thôn quê. Đất lấy từ đồng ruộng, ao vườn trong khuôn viên sống, trộn với trấu, pha nước, nhào bằng chân hay để trâu dẫm nát rồi theo khuôn gỗ đắp từng lớp theo chiều dài của tường. Những ngôi nhà ở châu thổ Bắc Bộ có mặt tường trong nhẵn, quét vôi trắng, cùng với nhà bằng đất, có nơi láng một lượt vữa bằng vôi sò dưới mái rơm dày trên dưới 30cm, chống lại cái nóng bức của mùa hè và chống cháy rất hiệu quả. Vùng Nam Bộ, đất sét được dùng làm mái nhà, một lớp đất được đổ trên rui mè, rồi mới lợp một lớp mái gối lên trên (dày trên dưới 30 cm), làm thành một cái vỏ chống cháy.
Trang trí trên gạch rất thường gặp ở loại gạch lát nền, ốp tường, chủ đề chính là dạng hoa cúc, hoa chanh. Sang đến thế kỷ XVI - XVIII là những trang trí hoa dây hình sin, hình chữ đinh, mảnh vây rồng hay râu rồng men xanh, vàng (thế kỷ XVII - XVIII). Loại gạch phù điêu thường dày và to, có viên nặng tới 50 - 60kg như gạch xây tháp Bình Sơn (Vĩnh Phúc). Tùy theo yêu cầu, công dụng và vị trí đặt gạch trong kiến trúc để tạo dáng đơn giản hay phức tạp cho công trình. Về nghệ thuật, các viên gạch được trang trí công phu trong bố cục cũng như họa tiết, hình tượng. Ngoài những viên gạch hoàn chỉnh, còn có những viên gạch mà tự thân nó không toát lên được vẻ đẹp nhưng khi phối hợp chúng lại với nhau đã tạo hiệu quả thẩm mỹ cao.
Ngói là vật liệu tạo nên bộ mái, phần bao bọc quan trọng nhất của công trình. Trước thế kỷ thứ X, phổ biến nhất là loại ngói ống, còn gọi là ngói uyên ương (5), gồm 2 phần: phần dương (ngói ống) có hình ống tre hay ống nứa bổ đôi và ngói âm (ngói bản) hình lòng máng. Khi lợp, phần ngói ống úp xuống móc khớp với phần ngói bản lật ngửa. Loại ngói này còn có hai phần phụ, được sử dụng nhiều ở hàng ngói lợp hiên: đầu ngói và yếm ngói. Kết thúc hàng ngói ống là đầu ngói hình bán viên hay hình tròn. Kết thúc với hàng ngói bản lợp hiên là yếm ngói gần với hình tam giác. Đầu ngói ống được trang trí công phu hình hoa sen, dây cúc, mặt hề... Ngói mũi hài/ ngói mũi sen/ ngói dẹt/ ngói bản có tráng men màu, lợp trên mái trông như sóng gợn hoặc lớp vảy rồng/ vảy cá. Các công trình kiến trúc có niên đại sớm, những viên gạch được gắn bờ nóc đều có hình đầu rồng, phượng theo bố cục giống hình ngọn lửa. Tại khu Khải Thánh Văn Miếu (Hà Nội) đã phát hiện 2.063 mảnh gạch và ngói có dấu vết kiến trúc thời Lý - Trần rồi được tu bổ, xây dựng lớn vào các thời Lê - Mạc (6). Loại ngói uyên ương có niên đại trước thế kỷ X, nhưng vẫn được tận dụng, thậm chí có sản xuất (rất hạn hẹp) ở thời kỳ Lý - Trần. Tại khu di tích Lam Kinh (Thanh Hóa), dấu vết công trình kiến trúc có kết cấu 4 hàng chân cột với những cột sỏi gia cố chân tảng và những viên gạch trang trí hoa dây có niên đại thế kỷ XV - XVI. Nhiều gạch trang trí hoa dây, ngói mũi phong cách Kê Sơn, ngoài ra còn có hệ thống rãnh thoát nước lộ thiên. Ngói mũi màu vàng, gạch mũi nhô, tạo đơn giản (7). Ngói mũi - một dạng ngói thường gặp trong kiến trúc chịu ảnh hưởng Chăm. Thân ngói bẻ uốn cong vuông góc với thân thường cao 0,02-0,03m, tương tự độ dày của viên ngói, có màu đỏ nhạt hoặc màu vàng nhạt, độ cứng không cao (8).
Đá là loại vật liệu thô sơ nguyên thủy đầu tiên được loài người sử dụng. Thời Lê sơ đã sử dụng một số chân tảng đá của thời Lý - Trần để xây dựng một nền móng khác (trong Hậu Lâu khu vực thành Hà Nội). Đặc trưng của chân tảng là hình khối vuông, giật 2 cấp: cấp mặt tảng tròn, chung quanh chạm 16 cánh sen thon dài và cấp bệ tảng hình vuông để trơn. Chất liệu chính là loại đá cát màu xám hoặc đá có màu trắng phấn. Ngoài ra, loại vật liệu đá còn dùng ở bộ phận làm hai cối cổng, có lỗ mộng tròn.
Đá được sử dụng nhiều trong tạo tác các vật linh hoặc các tượng thờ, với những hình bờm lượn sóng, đuôi uốn lượn mềm mại, trở thành những hình tượng sinh động, đáng yêu. Đá sử dụng nhiều ở các công trình công cộng dân gian, điển hình là cầu, loại hình kiến trúc độc đáo, bền vững, có giá trị thẩm mỹ cao. Ví như Cầu đá Thọ Vinh (Hải Hưng), vật liệu xây dựng chủ yếu là đá xanh hạt mịn, độ rắn cao được làm ở 3 bộ phận chính là trụ cầu, dầm cầu và mặt cầu (9). Hay 10 cây cầu đá ở Hải Anh (Hải Hậu, Nam Định). Ở các khu di tích lớn (quần thể tập trung nhiều lăng mộ), đá được sử dụng trong các bộ phận hay công trình cụ thể như bậc thềm, chân tảng, cột, mi cửa hay lớn hơn là các toà thành. Ở loại hình này, chức năng cơ bản của nó là tính bền vững cao. Tường thành nhà Hồ, xây bằng đất nện nhưng bên ngoài được bao bởi lớp tường đá tảng nặng trên 15 tấn. Hệ thống cổng thành xây bằng đá xẻ dạng cuốn tò vò nay vẫn đứng vững. Đá phong phú về chủng loại: đá vôi, đá ong, đá xám... nhưng được ưa chuộng nhất vẫn là loại đá xanh làm chân tảng, bệ thờ. Dân gian ưa đá ong vì tính năng mềm, dễ tạo dáng, có khả năng chống chọi với thiên nhiên, dùng để xây móng đình đền chùa, làm tường nhà, cổng nhà, thậm chí còn sử dụng trực tiếp trong việc xây nhà. Đá ong dễ tạo được thẩm mỹ chung cho công trình, không cần đến một loại vật liệu phụ nào bao che bên ngoài, tự thân nó đã toát lên vẻ đẹp qua thời gian. Những lăng mộ ở các tỉnh phía Nam được xây khá nhiều bằng đá ong, cắt gọt theo những hình trang trí dân gian, kết hợp khéo léo với vật liệu đá vôi sắc cạnh, nhẵn mặt và chạm gờ chỉ, hoa lá. Loại đá này nằm dọc vùng biển miền Trung Bộ cũng được sử dụng xây tường. Khi còn ở dưới đất, đá mềm có thể dùng mai sắn ra, gặp không khí nó trở nên rắn chắc. Những ngôi nhà dân gian, các công trình tôn giáo ở Bắc Bộ là nơi ta bắt gặp nhiều nhất dạng đá này. Thành Sơn Tây xây thời Nguyễn được ốp bằng đá ong. Lăng Nguyễn Diễn ở Bắc Ninh xây toàn bằng đá ong màu nâu thẫm.
Các loại đá cuội, đá dăm được dùng để gia cố nền móng như móng chùa Lạng, móng tháp Chương Sơn, mộ Lê Lan Xuân (Tam Nông, Vĩnh Phú); đá hộc dùng để lát nền như mộ Thái sư Lê Văn Thịnh (Bắc Ninh); các loại đá núi lớn dùng để bó kè các bậc thềm với kích cỡ rất lớn (60x50cm), như nền chùa Dạm, chùa Phật Tích gồm 4 tầng rộng hàng nghìn mét vuông. Chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh còn dùng nhiều đá để xây bó vỉa thềm nhà, các viên đá đều có hình tròn được gia công nhẵn, mặt trước chạm rồng, có xẻ rãnh để bưng ván gỗ.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 7:57:59 GMT 9
Đá được dùng khá phổ biến để kê chân cột ở các công trình kiến trúc. Các chân đá tảng phổ biến là hình khối hộp vuông chạm hoa sen. Trong các công trình kiến trúc tôn giáo, ngoài việc làm chân kê nó còn được dùng làm cột. Đôi khi được làm cầu nhỏ hay xây tháp (chùa Tức Mạc); làm tường kè như ở chùa Dạm hoặc lan can có mảng điêu khắc như ở chùa Bút Tháp... hết thảy đều sống động, tinh xảo. Các lan can vịn, bậc cấp cũng được làm bằng đá (thời Lý). Đá được gia công thành nhiều kiểu loại khác nhau. Đá bó nền tháp, khối hình chữ nhật hoặc chỏm tháp năm cạnh, hai tầng trong lõm vát hình vòng cung. Đá bó bậc lên xuống, hình hộp chữ nhật, hình thang vuông có chạm sóng nước. Đá chèn bậc hình hộp chữ nhật. Tay vịn thành bậc hình thang vuông chạm tiên nữ dáng hoa. Đá bó các tầng và thân tháp hình hộp chữ nhật tiết diện vuông. Đá ghép tường tháp gồm các loại hình vuông, hình hộp, hình tròn, hình lá đề, mặt ngoài có trang trí, mặt trong có chuôi hoặc thân gia công qua loa để gắn với thân tháp. Đá ghép cửa tháp, như mi cửa, trụ cửa, chân, thân cửa, mặt trên cửa cuốn có nhiều dáng: hình hộp, hình vành khăn, hoặc kết hợp với nhau tạo vòm cửa được uốn cong. Các loại đấu để đỡ xà cũng có đuôi gắn vào thân tháp, mặt trên tạc liền khối các hình tượng chim thần, nữ thần chim hoặc đầu rồng ngậm đấu.
Kim loại, trong các công trình kiến trúc cổ, ít được sử dụng, có lẽ do tính chất đặc thù của nó. Tại khu di tích Lam Kinh đã phát hiện ra những chiếc đinh sắt dùng để liên kết kiến trúc. Nó được sử dụng nhiều hơn vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhất là sau ảnh hưởng của kiến trúc Pháp. Dân gian sử dụng các đinh nhỏ trong liên kết các cấu kiện (rất hiếm hoi vì các cấu kiện đều tra mộng, thậm chí đinh chốt làm bằng gỗ). Đầu đao của mái có dùng một mảnh sắt hình giống đầu lưỡi cày thay vì trước đây người ta phải đúc hay nung gốm. Ở giai đoạn sau, kim loại được kết hợp với các vật liệu khác tạo thành các vật liệu hỗn hợp có nhiều công dụng và độ bền cao.
Sơn, ở các công trình kiến trúc cổ, được sử dụng có phần hạn chế. Người ta tận dụng ngay màu sắc của vật liệu gốc. Ví như mái thì tận dụng màu đỏ của ngói; các hàng chân cột để nguyên đúng màu gỗ hay sử dụng nền đất nện. Vật liệu dân gian thường dùng là sơn ta và sơn son thếp vàng (phổ biến trong các công trình tôn giáo tín ngưỡng), đáp ứng yêu cầu về màu sắc trang trí hơn là bảo vệ gỗ. Tuy nhiên, sơn ta cũng có tác dụng chống ẩm và bảo vệ gỗ rất tốt. Vôi, sử dụng chủ yếu là nguyên màu gốc, có độ bền tốt, nhưng không có màu sắc sặc sỡ, chủ yếu là màu trắng và màu vàng. Màu trắng của vôi được pha cùng các phụ gia khác được lấy từ cây cối, hoa lá.
Những chất kết dính khác cũng được sử dụng khá linh hoạt. Khi những vật liệu hiện đại như xi măng chưa xuất hiện thì ông cha ta đã sử dụng một thứ vữa được chế bằng phương pháp thủ công, nguyên liệu mang đặc thù của địa phương. Ví như ốc vặn đốt thành than luyện với vỏ cây dè rớt, hoặc dùng mật luyện kỹ với vôi vỏ sò. Vùng Nghệ An dùng vỏ hến rây kỹ, trộn cát, thâm mật xấu, giấy bản ngâm ướt hay rơm nếp và trộn với nhựa lá cây bớt lời. Mật, đường lấy từ mía, người ta đã làm một chất dẻo để nặn phù điêu rồng phượng, hoa đá trang trí những cột trụ hay hình lưỡng long chầu nguyệt ở chùa. Chất dẻo này cũng để nặn những hình khối mềm mại, đổ khuôn sản xuất hàng loạt chi tiết trang trí, khi khô rất rắn, có thể chịu nắng, mưa. Có nơi lấy cơm nếp trộn với gạch non tán nhỏ rây kỹ cùng với lá khoai luyện thành một thứ vữa gọi là “sơn man”, thường dùng để gắn áo quan, cũng có địa phương quen dùng cơm nếp nát nấu với nhựa thông. Ngoài ra, cát, đất sét và chất kết dính cũng là những vật liệu được sử dụng thường xuyên trong việc xử lý nền và kết nối gạch, đá.
Thành công của nghệ thuật kiến trúc Việt đó là tính sáng tạo trong việc vận dụng các nguyên liệu sẵn có sự hoàn thiện vật liệu khi sử dụng với trình độ kỹ thuật cao, khắc phục những điều kiện tiêu cực của khí hậu nhiệt đới.
Song, cùng với truyền thống đó phải kể đến kết quả của quá trình tiếp thu, dung hợp những sáng tạo của các nước mà từ lâu văn hóa Việt Nam đã chịu ảnh hưởng khá sâu sắc. Có thể thấy những dấu vết văn hóa ngoại lai trên vật liệu xây dựng từ cổ truyền cho đến hiện đại. Dấu ấn của văn hóa Trung Hoa khá sâu đậm trên các hiện vật gốm, gạch, đá và đặc biệt là trang trí kiến trúc. Từ một số cấu kiện, kết cấu, bố cục, hình khối đến kỹ thuật chế tác, kỹ thuật lắp dựng cũng được người Việt học hỏi nhưng đã cải biến và uốn nắn lại, do đó mang sắc thái riêng. Các môtíp và biểu tượng trang trí được thể hiện dưới dạng đất nung hay những trang trí trên kết cấu công trình ít nhiều mang phong cách Chăm, Ấn Độ. Nhìn chung, các vật liệu cũng như kiến trúc thời Lý - Trần chịu ảnh hưởng của hai luồng văn hóa này rất sâu đậm. Kiến trúc stupa Ấn Độ thường có một cột gỗ cách điệu bằng hình tượng hoa sen (nguyên tắc được lưu giữ ở kiến trúc chùa Một Cột).
Cuộc hội ngộ với văn minh phương Tây đã làm cho kiến trúc Việt Nam có sự chuyển mình sâu sắc. Ngoài việc tận dụng những vật liệu sẵn có, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong phong cách kiến trúc Đông Dương, người phương Tây (đặc biệt là người Pháp) đã có công hoàn thiện thêm những chất liệu đó. Sự kết hợp các vật liệu truyền thống thô sơ, gặp rất nhiều ở những công trình cổ, cũng được lặp lại khá độc đáo ở những loại hình kiến trúc mới. Rõ rệt nhất là sự “chung đụng” rất hiệu quả giữa vật liệu xây mới và vật liệu truyền thống, làm bộ mặt kiến trúc hứng khởi, rạng rỡ hơn, hiện đại mà vẫn phù hợp với môi trường.
Trải rộng trong không gian và kéo dài theo thời gian, những công trình kiến trúc dù có hình thức, chức năng, nội dung sử dụng khác nhau nhưng khởi nguyên đều bằng những nguyên liệu có nguồn gốc bản địa. Đá, gỗ, gạch và các vật liệu hoàn thiện hơn đã được con người biến thành công trình mang tính nghệ thuật cao với kinh nghiệm chắt lọc kết hợp với kế thừa, tiếp thu những sáng tạo và khoa học kỹ thuật mới.
_______________
1, 2. Tạ Đức, Nguồn gốc và sự phát triển của kiến trúc, biểu tượng và ngôn ngữ Đông Sơn.
3. Dấu tích ngôi nhà sàn đầu công nguyên, Những PHMVKCH 1998.
4. Ngô Huy Quỳnh, Đặc trưng kiến trúc Việt, T/c Dân tộc học số 1/1980.
5. Theo cách gọi của HS. Trần Khánh Chương
6. Khu Khải Thánh Văn Miếu Hà Nội 9-1999
7. Trịnh Ngữ, Lê Huy Lạng, Nguyễn Văn Đoàn, Khai quật Thái Miếu thuộc trung tâm di tích lịch sử Lam Kinh, Thanh Hóa, Những PHVMKCH 2000, tr.329-330.
8. Lê Đình Phùng, Tống Trung Tín, Ngói mũi lá của ChămPa.
9. Tống Trung Tín, T/c KCH số 3-1982. -------------------------------------------------------------------------- HL Suu Tam
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 8:00:19 GMT 9
Nhà thờ Trung Lao: Kiến trúc Đông - Tây kết hợp Bên cạnh tháp Phổ Minh, chùa Keo Hành Thiện, Nam Định còn một công trình kiến trúc độc đáo không kém. Đó là nhà thờ Trung Lao, tọa lạc tại thôn Trung Lao, xã Trung Đồng, huyện Nam Ninh. Nhà thờ được khởi công xây dựng năm Mậu Tý 1888, tới năm Mậu Tuất 1898 thì lạc thành. Kiến trúc nhà thờ được làm theo lối cổ, chú trọng phát triển bề rộng, ít vươn lên tầm cao; không gian bên trong khi nào cũng ôn hòa, mát mẻ. Nhà thờ có chiều dài 50m, rộng 16m, gồm 11 gian, được xây bằng gạch, mái lợp ngói đỏ hình vẩy rồng, còn gọi là ngói Nam. Toàn bộ nội thất cung thánh đường đều được làm từ lõi gỗ lim do thợ mộc lành nghề thực hiện. Cột của nhà thờ là những thân gỗ lim có đường kính từ 70cm đến 80cm được để mộc mạc, không trang trí. Các vì kèo, xà khóa, xà cân nâng đỡ cây long cốt được chạm trổ rất công phu với hoa văn hoa lá, nét chạm khỏe, mạnh mẽ nhưng lại rất uyển chuyển, tạo sự nhẹ nhàng, thanh thoát. Cây long cốt được sơn mầu đỏ, khắc niên đại xây dựng nhà thờ bằng chữ Hán. Tường nhà thờ được trang trí hoa văn theo kiểu tứ quý với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Nội điện tôn trí tượng Đức mẹ Maria cùng các vị thánh trên một bệ thờ lộng lẫy với hai mầu vàng, đỏ. Bệ thờ là một công trình điêu khắc hết sức công phu, được trau chuốt tới những chi tiết nhỏ nhất. Gam mầu nóng của bệ thờ kết hợp với gam mầu nâu của gỗ khiến cho nội điện có một vẻ đẹp hoành tráng nhưng cũng rất uy nghiêm, tạo cho người bước vào cảm giác ấm áp, bình an. Có thể nói, nhà thờ Trung Lao là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc phương Tây và phương Đông. Sự kết hợp đó tạo nét rất riêng cho công trình. Đã 116 năm trôi qua, nhà thờ Trung Lao vẫn còn nguyên vẹn như ban đầu, chưa phải trùng tu một lần nào. Việt Khang
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 8:04:09 GMT 9
Kiến trúc sư,họ là ai ? Nguyễn Trọng Huấn SCL : Gần 20 năm sau bản THAM LUẬN TẠI ĐẠI HỘI KIẾN TRÚC SƯ VIỆT NAM HÀ NỘI – THÁNG 4 NĂM 1987 của KTS Nguyển Trọng Huấn vẩn còn nhiều giá trị.Bản Tham luận này Do một cuộc gặp gỡ riêng tư giữa TS Nguyễn Đình Thống,KTS Nguyễn trọng Huấn và Anh Nguyễn Hòa SCL được tác già chuyển khi tình cờ trao đổi về Kiến trúc trong tình hình hiện nay.
Những điều tôi nói sau đây rất có thể bị xem như ngớ ngẩn khi khẳng định rằng : “ Kiến trúc là một nghệ thuật “, và ở nước ta, từng có thời, có những công trình kiến trúc được xem là “ Tác phẩm nghệ thuật “. Điều đó chắc chắn như sáng hôm nay mặt trời vừa mọc vậy.
Có lẽ không ai có ý định tranh cãi cùng tôi khi tôi khẳng định rằng : “ Gác Khuê văn là một kiến trúc nghệ thuật. Lăng Minh Mạng, lăng Tự Đức, tổng thể công trình cung điện Huế là một tổng thể kiến trúc nghệ thuật !”
Cùng với tháp Bình Sơn, tháp chuông chùa Cổ Lễ, gác chuông chùa Keo, Văn miếu, tháp chàm Trà Kiệu, Mỹ sơn vv ... và nhiều công trình lớn nhỏ khác đã từng có thời làm nên một nền nghệ thuật kiến trúc Việt nam độc đáo, rực rỡ, chẳng thua kém bao nhiêu những nền nghệ thuật kiến trúc của các dân tộc khác, quốc gia khác cùng thời.
Nhưng :
Tháp Rùa không phải là một kiến trúc nghệ thuật ! Nhà bia trong lăng Tự Đức ở Huế không phải là một kiến trúc nghệ thuật, thánh thất Cao Đài ở Tây Ninh không phải là một kiến trúc nghệ thuật. Và nhiều công trình kiến trúc một thời làm nên bộ mặt thủ đô Hà nội, Huế, Sài gòn và nhiều thành phố khác ở nước ta chưa phải là những kiến trúc nghệ thuật.
Ý kiến này, chí ít là của riêng tôi.
Như vậy là có những kiến trúc nghệ thuật, có những kiến trúc chẳng nghệ thuật gì cả và còn có cả những kiến trúc phản nghệ thuật. Đơn giản là không phải tất cả những khung vải được trát màu đều được gọi là tranh, là “tác phẩm” nghệ thuật tạo hình, không phải cứ ghép chữ thành vần thì gọi là “thi ca”, ghép âm thành điệu thì được coi là “âm nhạc”. Đặc thù của sản phẩm nghệ thuật có chỗ giống và không giống với các sản phẩm khác. Và lao động nghệ thuật cũng có những cái chung, riêng, giống và không giống với lao động sản xuất, lao động bình thường.
*
chắc rằng sẽ không ai nỡ rầy la khi tôi nói lên tại Đại hội này những suy nghĩ chân thật và ngây thơ trên đây của mình. Nhưng tôi thành thật e ngại rằng nhiều đồng nghiệp đáng kính sẽ phẫn nộ khi tôi nói :
” Nền nghệ thuật kiến trúc mang bản sắc Việt nam từng một thời rực rỡ đã chết, đã đi qua cùng với những người thợ cả vô danh đã hóa thân trong những kiệt tác kiến trúc của đất nước, của dân tộc, không màng lợi danh.”
Lịch sử thành văn của ta ghi lại rất nhiều tên tuổi những người viết văn, làm thơ bên cạnh những danh nhân đánh giặc, giữ nước, giữ làng mà gần như không giữ lại tuổi tên của một nhà kiến trúc nào ! Việt sử thông giám cương mục, Quốc sử quán triều Nguyễn là trường hợp duy nhất có chép một cái tên : “VŨ NHƯ TÔ”, đời Lê Tương Dực, lấy mía xếp mô hình đền đài trăm nóc và là tác giả Cửu Trùng đài dưới danh hiệu “một người thợ khéo ở Cẩm Giàng”. Còn chúng ta biết đến NGUYỄN AN , tác giả quy hoạch thành Bắc kinh và Cố cung là một người Việt bị bắt đưa về Trung quốc trong đám thợ thuyền khi Hồ Quý Ly thất bại, là nhờ Minh sử.
Nghề kiến trúc và xây dựng ở nước ta xưa, theo truyền thống vốn đồng nhất trong vai trò người thợ, vừa thiết kế, vừa thi công, kể cả trang trí, chạm trổ, như một loại hình lao động tự do. Và chính bằng tâm hồn của người nghệ sỹ, và một tính cách hoàn toàn phóng khoáng được thể hiện qua bàn tay tài, khéo, cảm hứng nghệ thuật của người xưa, trải qua thời gian, năm tháng, trải qua thời tiết, rêu phong vẫn như còn ngưng đọng trên những đầu đao run rẩy chùa Tây Phương, những đường diềm chạm trổ như thêu hoa dệt gấm trên gác chuông chùa Keo, trong cái vững chãi vĩnh hằng của tháp chuông chùa Thiên Mụ. Tác phẩm nghệ thuật trường tồn, còn tác giả hầu như hoá thân vào gỗ đá, để lại cho muôn đời con cháu những cảm hứng đã một lần ngưng đọng.
Nền nghệ thuật kiến trúc Việt nam một thời huy hoàng đó đã lụi tàn mau chóng vì không còn đất sống trong thân phận tôi đòi của một dân tộc đã bị tước đoạt quyền độc lập khi người Pháp hoàn tất cuộc xâm lăng vào cuối thế kỷ thứ XIX, và đã du nhập vào Việt nam một cách sống khác, một kỹ thuật xây dựng khác và một hệ thống quan niệm khác về cái đẹp.
Trong cuộc giao hoà Đông-Tây đó, lăng Khải Định ở Huế là sản phẩm vụng về của một ông Tây nói tiếng ta. Còn sự bùng nổ những công trình xây dựng của các thế hệ thầu khoán ít được học hành buổi đầu thế kỷ XX đã tạo nên bộ mặt kiến trúc đô thị Việt nam theo kiểu người Việt nói tiếng bồi. Nền nghệ thuật kiến trúc chân chính Việt nam đã hòa nhập vào một thế giới mới không phải với những giá trị trong sâu thẳm truyền thống của chính mình, mà nhanh chóng, vội vàng, vụng về sao chép một khuynh hướng xa lạ đến từ những chân trời xa xôi khi chưa kịp hiểu biết và nhận thức nó một cách thấu đáo. Riêng chứng vọng ngoại này của người Việt nam không chỉ trong kiến trúc. Cách tiếp thu ảnh hưởng từ bên ngoài hoàn toàn khác với cách tiếp nhận mà người Nhật đã làm.
Phải hàng chục năm sau, trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương mới cho ra đời thế hệ kiến trúc sư Việt nam đầu tiên. Và cũng là lần đầu tiên có sự phân công xã hội trong kiến trúc- xây dựng, tách người thầy ra khỏi người thợ, khoa học hơn nhưng cũng xa vời truyền thống hơn.
Rất tiếc là những thế hệ kiến trúc sư đầu tiên này đang trên đường tìm tòi, thử nghiệm, chưa kịp làm quen với nghề thì đã phải cùng dân tộc, cùng đất nước “ xếp bút nghiên lên đường tranh đấu.”
Rõ ràng là trong cuộc tiếp thu những ảnh hưởng từ bên ngoài, so với nghệ thuật tạo hình, cùng một “lò Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương” thì giới kiến trúc sư tỏ ra thích ứng chậm hơn. Bên những công trình lớn ở Hà nội, Sài gòn, Huế vv ... do các kiến trúc sư Pháp vẽ, bên mảng kiến trúc thầu khoán rộng lớn, các công trình ít ỏi và khiêm tốn mà thế hệ các anh để lại, còn mang nhiều vẻ rụt rè, e ấp buổi dò đường, tìm kiếm một thế giới quan, tìm kiếm một phong cách. Thế hệ kiến trúc sư Việt nam đầu tiên đã không đủ thời gian cần thiết để tự khẳng định mình, và xã hội Việt nam cũng chưa kịp làm quen với một loại hình lao động mới :” Lao động sáng tạo của người kiến trúc sư “.
Không biết có phải vì thế không mà buổi sinh thành chính thức của ngành kiến trúc Việt nam với tư cách là một hoạt động Quốc gia, kiến trúc đã được xếp chung trong cùng một bộ, có tên là Bộ Thủy lợi và Kiến trúc ( Có lẽ được hiểu là cùng một ngành thổ, mộc như nhau ) và phương châm chỉ đạo của ngành là :” Bền vững – Rẻ tiền - Thích dụng – Mỹ quan trong điều kiện có thể “.Yếu tố kinh tế -kỹ thuật đứng đầu, còn nghệ thuật, được đặt thứ tư, sau cùng, và cũng chỉ trong giới hạn được chăng hay chớ ! Hoạt động quy hoạch và kiến trúc, có vai trò và tác động rộng lớn và sâu sắc trong đời sống xã hội không thể coi nhẹ thì vẫn chỉ là một thành phần “ăn theo, nói leo” trong cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng xây dựng!
Và từ đó đến nay, đối với xã hội chúng ta, kiến trúc là gì và kiến trúc sư, họ là ai ? vẫn tồn tại như một nghi án, chưa dễ gì một sớm một chiều có thể làm sáng tỏ !
*
sau hơn ba mươi năm hoạt động, đến nay, toàn bộ hệ thống tổ chức ngành cũng chỉ mới có hai đơn vị mang danh hiệu kiến trúc, hai đơn vị rất vô hại, không tác động được bao lăm trong sự nghiệp kiến trúc nước nhà : Hội Kiến trúc sư Việt nam và Trường Đại học Kiến trúc. Riêng Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội, một thời đã được sáp nhập thành một khoa của Trường Đại học Xây dựng, thuộc hệ thống quản lý của Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp, đồng hạng với các trường đại học kỹ thuật khác, không tính đến đặc thù nghề nghiệp. Sau ngày giải phóng , có thêm Trường Đại học Kiến trúc Sài gòn, nay là Đại học Kiến trúc thành phố Hồ chí Minh. Và điều trớ trêu là trong rất nhiều năm, hai trường đại học này, một trường được giao cho một kỹ sư vật liệu, một trường giao cho một kỹ sư kết cấu làm hiệu trưởng trong nhiều năm. Còn các cơ quan hành nghề kiến trúc được giao cho kỹ sư các ngành khác, có khi chẳng liên quan gì đến kiến trúc làm giám đốc, lãnh đạo thì nhiều vô kể, không thể đếm hết. Có cả một viện quy hoạch-kiến trúc lớn mà người lãnh đạo trong nhiều năm là một phó tiến sỹ mà đề tài khoa học khi bảo vệ luận án là một đề tài về cống rãnh.
Thân phận Hội Kiến trúc sư Việt nam lại còn “bèo, mây” hơn cả cô Kiều ! Lúc thì thuộc hệ thống chỉ đạo của Bộ Xây dựng, lúc lại thuộc Ban Công nghiệp trung ương, lúc lại thuộc sự ”bảo trợ “ (?) của Ủy ban Xây dựng cơ bản Nhà nước, khi lại về với Ban Văn hoá -Văn nghệ trung ương, long đong không bút nào tả xiết ! Chỉ riêng một điều, ngần ấy năm, hầu như Bộ Văn hoá chưa bao giờ coi kiến trúc là một bộ phận hợp thành của văn hoá Việt nam trong tất cả chủ trương và việc làm cụ thể của mình ! Trong gia đình văn hoá, kiến trúc được xem như một người bà con nghèo. Điều đó không phải là không có lý khi cho đến tận ngày hôm nay, bản thân người kiến trúc sư, trong phân loại lao động, vẫn được xem là một loại “kỹ sư thiết kế”, “kỹ sư kiến trúc” thuộc “thang lương kỹ sư” !
Trong Mặt trận Liên hiệp Văn học – Nghệ thuật mà Hội Kiến trúc sư là một thành viên đã không phải không có nhiều cái nhìn ngờ vực. Tại sao lại có”một ông sư” lọt vào tổ chức của “các ông sỹ” ? Còn trong Liên hiệp các hội Khoa học – Kỹ thuật không thể giải thích được tại sao lại có một tổ chức thuộc sự chỉ đạo của Ban Văn hoá – Văn nghệ trung ương ?!
Đặc thù nghề nghiệp này không có trong bất cứ ngành văn hoá nghệ thuật nào, cũng như trong bất cứ ngành khoa học kỹ thuật nào và thực trạng đó để lại trong giới kiến trúc một di chứng lâu dài, cực kỳ tai hại : “Thái độ nhẫn nhục”
Có thể vì sự thâm nhập quá nhanh và khá sâu của khoa học, kỹ thuật vào kiến trúc đã gây nên tội nợ, đã làm mờ nhoà đi yếu tố biểu hiện, yếu tố sáng tạo hình tượng vốn là đặc trưng của kiến trúc, của sáng tạo nghệ thuật, mà ở nước ta, gần như ai cũng làm kiến trúc được. Một kỹ sư kết cấu, một kỹ sư thi công, một kỹ sư cấp thoát nước, thậm chí mấy ông thợ nề cũng có thể thiết kế và chỉ đạo thiết kế. Nhiều kỹ sư đô thị các ngành, kể cả kỹ sư điện đã và đang sáng tác đồ án kiến trúc quy hoạch một cách rất tự nhiên ! “Lộng giả thành chân “, lâu ngày đâm quen dẫn đến mặc cảm tự kỷ :” Ở nước ta, thiết kế kiến trúc, nôm na gọi là vẽ kiểu là việc ai chả làm được, chỉ cần biết chút ít kỹ thuật xây dựng !
Những chuyện tuế toái trong kiến trúc và kiến trúc sư còn nhiều và là đặc điểm nổi bật trong cung cách tổ chức hệ thống các cơ quan làm kiến trúc của ta hiện nay là :
“ Không phải người kiến trúc sư chịu trách nhiệm về tác phẩm của chính mình, mà ông viện trưởng, ông giám đốc cùng bộ máy giúp việc kềnh càng cuả ông ta với những thủ tục phiền toái, phức tạp và lạc hậu trong qúa trình xét duyệt đồ án để “lấy ý kiến tập thể” mà trong thành phần xét duyệt đó có những người không biết kiến trúc là gì, có khi kể cả chính ông giám đốc !”
Kiến trúc sư đang làm một cái nghề mà gần như ai cũng có quyền ban cho “vài lời dạy bảo rất thiện chí” miễn là có tổ chức và có quyền !
Tôi không có ý định phản bác gì mấy ông giám đốc, trong họ có những người rất đáng kính trọng, nhưng rõ ràng là cung cách làm ăn hiện nay đã và đang hạ thấp vai trò của người kiến trúc sư đối với chính công trình của họ và như thế cũng chính là hạ thấp vai trò của họ trong xã hội, đối với xã hội. Cách quản lý hiện nay là cách tốt nhất để thủ tiêu cá tính, loại trừ phong cách, triệt tiêu mọi hứng thú tìm tòi trong sáng tác kiến trúc.
Khi người kiến trúc sư không trực tiếp chịu trách nhiệm nghề nghiệp, chịu trách nhiệm xã hội về chính tác phẩm của mình đã mang nặng đẻ đau thì mặc nhiên, chính chúng ta đã kéo lùi sự phân công lịch sử, kéo người thầy ra khỏi người thợ và biến kiến trúc sư thành một thứ thợ khác “THỢ VẼ”.
Tất nhiên còn nhiều vấn đề quan trọng nữa như vấn đề đào tạo và sử dụng kiến trúc sư, vấn đề nghiên cứu, lý luận, phê bình tiếp sau đường lối, chủ trương phát triển kiến trúc.
Xin được trích sau đây một câu trong “Nghị quyết của Ủy ban Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô” mà tạp chí Kiến trúc của Hội Kiến trúc sư Việt nam đăng lại trong số tháng 4 – 1987 (trang 15):
“ ... Kiến trúc có tác động thường xuyên đến ý thức xã hội, là phương tiện giáo dục đạo đức, thẩm mỹ một cách hữu hiệu cho nhân dân và hình thành thế giới quan cộng sản. Các tác phẩm kiến trúc là kết quả lao động chung của các kiến trúc sư, các nhà bác học, những người xây dựng, thể hiện sự thống nhất của nghệ thuật, khoa học và kỹ thuật, văn hoá, vật chất và tinh thần của xã hội “.
*
Như vậy là , để có được trong nhiều năm tới một nền nghệ thuật kiến trúc Việt nam hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc như ta hằng mong muốn, việc đầu tiên cần làm theo ý chúng tôi là :
“ Trả lại cho họ, những kiến trúc sư, vai trò chủ thể sáng tạo ở vị trí trung tâm của trách nhiệm chính trị, xã hội, trách nhiệm về kinh tế, văn hoá và nghệ thuật mà họ là người đầu tiên và cuối cùng chịu trách nhiệm trước thời gian và lịch sử “.
tháng 4 - 1987
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 10:37:39 GMT 9
Những ngôi đình Việt Nam Bất kỳ một làng quê nào ở Việt Nam cũng có một ngôi đình. Đình là ngôi nhà công cộng của làng quê thời xưa, dùng làm nơi thờ Thành Hoàng và họp việc làng Đó là một ngôi nhà to, rộng được dựng bằng những cột lim tròn to thẳng tắp đặt trên những hòn đá tảng lớn. Vì, kèo, xà ngang , xà dọc của đình cũng làm toàn bằng gỗ lim. Tường đình xây bằng gạch. Mái đình lợp ngói mũi hài, bốn góc có bốn đầu đao cong. Trên nóc đình là hai con rồng chầu mặt nguyệt. Sân đình được lát gạch. Trước đình có hai cột trụ cao vút, trên đình được tạc hình con Nghê. Trong đình, gian giữa có bàn thờ, thờ một vị thần của làng gọi là Thành Hoàng. Một chiếc trống cái cũng được để trong đình để đánh vang lên theo nhịp ngũ liên thúc giục dân làng về đình tụ họp bàn tính công việc của làng. Vào những ngày lễ, tết, dân làng đến đình thắp hương tế lễ nhộn nhịp, cầu mong Thành Hoàng và Trời Đất giúp cho mưa thuận gió hòa, cày cấy, làm ăn thuận tiện và có nhiều phúc lành. Mùa xuân đến, sân đình trở thành sân khấu hát chèo, hoặc để đấu vật, chọi gà, múa hát giao duyên. Xung quanh đình, thường có những câ đa cổ thụ vẫy gọi chim về làm tổ, ríu rít âm thanh, có giếng nước rộng trong vắt để làm nước ăn, nước uống và để các cô gái làng xinh đẹp đến soi gương làm duyên. Trước đình thường có một hồ nước trồng sen, hương thơm ngào ngạt. Đình làng còn là nơi trai thanh nữ tú trong làng đến để hẹn hò tình yêu. Ngôi đình làng Việt Nam cổ kính, trang nghiêm, ẩn mình sau lũy tre xanh mướt là một tác phẩm nghệ thuật của con người hòa nhập trong làng quê. (VS)
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 10:40:43 GMT 9
Những ngôi Chùa Việt Nam
Chùa là cơ sở hoạt động và truyền bá Phật giáo. Tuy nhiên, chùa Việt Nam ngoài thờ Phật còn thờ thần (Chùa Thầy ở Hà Tây và Chùa Láng ở Hà Nội thờ Từ Đạo Hạnh và Lý Thần Tôn), thờ tam giáo (Phật – Lão – Khổng), thờ Trúc Lâm Tam tổ v.v.
Để chỉ chùa thờ Phật, trong tiếng Việt còn có từ "chiền" (chữ Nôm: 廛 hoặc 纏)... Một số người cho rằng từ "chiền" có thể có gốc từ cetiya của tiếng Pali hay caitya của tiếng Phạn, cả hai dùng để chỉ điện thờ Phật.
Theo câu tục ngữ Việt Nam "đất vua, chùa làng", các ngôi chùa đa số là thuộc về cộng đồng làng xã. Xây chùa bao giờ cũng là một việc trọng đại đối với làng quê Việt Nam. Việc chọn đất xây chùa thường bị chi phối bởi quan niệm phong thuỷ. "Xây dựng chùa, phải chọn đất tốt, ngày tốt, giờ tốt. Đất tốt là nơi bên trái trống không, hoặc có sông ngòi, ao hồ ôm bọc. Núi hổ (hay tay hổ) ở bên phải phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại, hoặc có hình hoa sen, tràng phướn, long báu hoặc có hình rồng, phượng, quy, xà chầu bái. Đó là đất dương cơ ái hổ (nền dương có tay hổ) vậy. Nước thì nên chảy quanh sang trái. Nếu đảo ky, thì mạch nước lại vào ở phía trước. Trước mặt có minh đường hay không có đều được cả. Phía sau không nên có núi áp kề, thế là đất tốt..."[1]
Chùa Việt Nam thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc như tre, tranh cho đến gỗ, gạch, ngói... Nhưng người ta thường dành cho chùa những vật liệu tốt nhất có thể được. Vật liệu cũng như tiền bạc dùng cho việc xây dựng chùa thường được quyên góp trong mọi tầng lớp dân cư, gọi là của "công đức". Người ta tin là sẽ được hưởng phúc khi đem cúng vật liệu hay tiền bạc cho việc xây dựng chùa. Trên những cột gỗ lim không bị mối mọt, một số chùa khắc rõ tên người đóng góp. Ngoài ra các tên này cũng được ghi ở các bàn thờ bằng đá hoặc trên các đồ sành, sứ như bát hương, bình hoa, chân đèn... trong một danh sách dài.
Ngày bắt đầu xây dựng chùa cũng như ngày khánh thành đều là những thời điểm có ý nghĩa trong đời sống nhân dân làng quê Việt Nam. Thường có những nghi lễ đặc biệt trong những ngày này.
Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình mà là một quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí những ngôi nhà này mà người ta chia thành những kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Hán có dạng gần với mặt bằng kiến trúc chùa. ( WKP)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 8, 2007 12:15:12 GMT 9
Một kiến trúc độc đáo Ngôi nhà 100 cột ở Long An Hồ Đắc Duy Từ quán nước của chị ba Cọp nằm sâu trong ấp , người phụ nữ có cái tên khá lạ tai đã chỉ cho tôi lối vào khu di tích văn hóa lịch sử quốc gia : Ngôi nhà có 100 cột. Từ con đường làng đất đỏ , trước mặt một cái chợ nhỏ , một lối mòn mới được bê-tông hóa ngoằn ngoèo vừa đủ cho một chiếc xe Honda chạy , khó khăn lắm tôi mới đến được cổng trước mặt tiền đường của ngôi nhà , đây là một ngôi nhà với một lối kiến trúc độc đáo không giống với bất cứ một ngôi nhà nào ở trong vùng đã tồn tại hơn 100 năm Ngôi nhà tọa lạc trên một diện tích đất là 3222 m², gọi là khu vực tôn tạo, nằm trong một doi đất cù lao ngày xưa được mệnh danh là Long Hựu thôn, tổng Lộc Thành , tỉnh Chợ Lớn nay gọi là xã Long Hựu Đông , huyện Cần Đước tỉnh Long An Chủ nhân ngôi nhà hiện tại là ông Trần văn Ngộ cựu hiệu trưởng trường tiểu học Long Hựu, là cháu nội của cụ Trần Văn Hoa, người thiết kế khai sinh ra ngôi nhà này. Bà Ngõ, vợ thầy hiệu trưởng là một bà giáo nhanh nhẩu vui tính và hiếu khách, đã dẫn tôi đi thăm khắp cùng ngôi nhà. Trưa hôm đó ở lại ăn cơm với gia đình thầy hiệu trưởng, tôi ngỏ ý là muốn viết về ngôi nhà độc đáo này và xin hẹn tháng sau tôi sẽ trở lại sau khi tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu liên quan di tích này. Từ ngã ba Bình Chánh, hướng đông, có một lối đi về Tân Lân - thị trấn Cần Đước, sau khi qua khu vực thị tứ, còn cách bến phà Mỹ Lợi khoảng 3 cây số bên trái, có một con lộ đất đỏ thẳng tắp chạy dài đến bến phà Kinh Nước Mặn Ngôi nhà có 100 cột cách bến phà đúng 13 cây số. Kinh Nước Mặn là một thủy lộ rất quan trọng của vùng này, ghe thuyền đi lại tấp nập, phần nhiều là xà lan chở cát và chở container hàng hóa... Tôi đến ngôi nhà 100 cột lần thứ hai vào lúc 10 giờ sáng. Từ đầu ngõ đi vào, một bảng ghi đây là khu di tích xiêu vẹo với những nét chữ ố màu thời gian. Nhà có 160 ột với diện tích 882 m² ( 21m x 42m ) được khởi công xây dựng từ 1898 và hoàn tất năm 1903 trong đó 2 năm để xây nền móng và 3 năm để chạm trổ trang trí hoa văn nội thất do một nhóm gồm có 17 nghệ nhân , đa số thuộc làng Mỹ Xuyên được chủ nhân mời từ kinh đô Huế vào. Họ phải mất gần một tháng mới tới được nơi, có lúc thì theo đường bộ, có khi thì dùng ghe bầu. Ngoài hành lý thì dụng cụ, đồ nghề mang theo là cả một vấn đề đối với nhóm nghệ nhân này. Nghe nói là ông Trần Văn Hoa phải đích thân ra tận Huế để bàn bạc với các nghệ nhân về thiết kế bản vẽ, vật liệu xây dựng và thời gian thi công. Ông Hoa phải ở lại Huế ròng rã hơn nửa năm để nghiên cứu các ngôi nhà rường, các kiến trúc bằng gỗ, hoa văn, chạm trổ ... có tính cách dân dụng. Mẫu thiết kế là ưu tư hàng đầu của ông và nhóm nghệ nhân Huế vì nó phải thể hiện được cái triết lý đông phương âm dương, phong thủy. Lại vừa phải lồng ghép tính chất địa phương rất đa dạng của Nam bộ vào trong kiến trúc ngôi nhà, để tạo ra một dáng vẻ độc đáo, một tác phẩm nghệ thuật đương đại của vùng này. Là một phú hộ ,là thành viên của Hội đồng Quản hạt vùng Chợ Lớn và cũng là một hương sư của làng Long Hựu và với đam mê của một người nghệ sĩ, ông Hoa đã dành ra một số tiền rất lớn đối với một cá nhân để xây dựng nên ngôi nhà này. Điều mà ít người có thể làm được, chỉ có những công trình kiến trúc đình chùa miếu mạo có sự góp công góp của của nhiều người mới thực hiện nổi. Nỗi đam mê đó được 17 nghệ nhân Huế hưởng ứng nồng nhiệt. Họ giã từ kinh đô khăn gói lên đường vào Nam, bỏ lại sau lưng vợ con, bạn hữu, công việc ... Ròng rã hơn ba năm công việc mới hoàn tất, họ trở về quê hương. Trong lúc đó, có người thì cha mẹ đã qua đời, con cái có người đã thành gia thất. Nhưng họ đã để lại cho Long Hựu thôn một kiệt tác về lối kiến trúc nhà dân dụng điển hình và hôm nay ngôi nhà đã trở thành một di tích lịch sử văn hóa của vùng đồng bằng sông Cửu Long , một tài sản văn hóa của cư dân Cần Đước - Long An. Nhà 100 cột , măt tiền hướng tây bắc là một kiến trúc điêu khắc mang đậm nét phong cách kiểu nhà rường Huế ở Long An còn tồn tại, giữ gần như nguyên vẹn cho đến hôm nay. Nhà được xây dựng với chất liệu hoàn toàn bằng gỗ như cẩm lai, mun, gỗ đỏ ... mái lợp ngói âm dương đại - tiểu có 3 lớp , lóp trong cùng bắng ngói trắng có tính cách nhiệt tác dụng như một trần nhà nên dù bên ngoài nắng nóng mà trong nhà vẫn mát rượi . Nền nhà cao khoảng 0,9m bằng đá , nền lát gạch tàu hình lục giác , chính diện có 3 bậc cấp đi vào nhà , bậc cấp chính nằm giữa có 6 bậc tượng trưng cho sinh lão bệnh tử sinh lão dùng cho bậc trưởng thượng hay gia chủ đi vào , còn bậc cấp 2 bên chỉ có 5 bậc tượng trưng cho sinh lão bệnh tử sinh dùng cho hàng con cháu Kết cấu của toàn bộ ngôi nhà gồm có : ngôi nhà chính có 3 gian 6 chái, phần trước là được thiết kế kiểu " ngoại khách nội tự " nghĩa là phía ngoài cùng là phòng khách , phía sau là nơi thờ tự . Phần sau và các chái để ở và sinh hoạt , phòng ăn nhà bếp , sân sau diện tích 100 m2 nằm gọn trong tòa nhà phía sau có 2 dãy lu chứa nước Ngôi nhà phụ , phần trước là lẫm lúa . phần sau là nhà ở của gia nhân và nhà kho Nhà 100 cột có lối kiến trúc kiểu xuyên trính ( còn gọi là nhà dâm trính , nhà chày cối , nhà rường ...) các bộ phận kết cấu chính như trính, trống đều chạy chỉ , uốn cong kiểu nhà rường Huế , nơi giao nhau giữa trính và trống dể đở đòn dong nóc nhà được biểu tượng bằng hình chày cối kiểu thức của một Linga-Youni Quan sát bản vẽ của Trung tâm thiết kế và Tu bổ di tích ở mặt cắt A-A và B-B, mới thấy được cái tài hoa độc đáo về thiết kế bên trong của ngôi nhà. Còn trên sơ đồ mặt bằng, sẽ biết được vị trí của 100 cột và mới thấy cái cao cường uyên thâm của các nghệ nhân, khi tính toán cách phân bố lực chịu trên mỗi cột của dàn mái ngói , 8 vỉ kèo của ngôi nhà chính và 18 vỉ kèo của các chái , rui thật khoa học ... Đây là một kiểu nhà truyền thống phổ biến và ưu điểm là bộ khung nhà rất chắc chắn điển hình cho lối kiến trúc nhà ở của những lớp người giàu có, phú hộ vùng Nam bộ vào cuối thế kỷ XIX. Ngôi nhà có 3 gian (xem sơ đồ mặt bằng), gian giữa và 2 gian trái phải, thiết kế gồm có 3 phần : trước, giữa, sau. - Phần trước làm chỗ tiếp khách và làm việc: phía trước hai bên có hai bàn quay, sau là bàn dài âm bên trái, bàn dài dương bên phải, ở giữa là trường kỷ chạm điển tích nho sóc. - Phần giữa là nơi thờ tự; bên trái bàn thờ bằng gỗ mun thờ ông Trần văn Hoa, bên phải thờ con ông Hoa và giữa thờ ông bà thân sinh. Bàn thờ bằng gỗ lim. - Phần sau là phòng ngủ Phòng khách và nơi thờ tự được ngăn với nhau bởi những ván gỗ khắc chạm. Có thể xem đó là toàn bộ công trình nghệ thuật. Ở đó, liễn, đối, hoành, phi ... được khắc họa với những nội dung cực kỳ phong phú, các đề tài được lấy ra trong Khổng Giáo, Phật giáo, truyền thống văn hóa đạo đức của dân tộc, cảnh đẹp thiên nhiên, sự vận động của đất trời. Những lời khuyên dặn về đạo đức cách sống của con người đã được phát họa qua nghệ thuật khắc chạm, kiến trúc của các nghệ nhân. Nó được thể hiện bởi trình độ thượng thừa của các nghệ nhân từ bố cục, đề tài, xử lý vấn đề kỹ thuật cũng như cách trình bày đa dạng, sinh động và độc đáo. Sự sáng tạo nhiều kiểu thức của nghệ thuật trang trí từ cặp lồng đèn kéo quân cho đến bộ salon hình thúng. Ngoài những "mô-típ" cổ điễn, các yếu tố Nam bộ cũng được lồng ghép một cách khéo léo nằm bên cạnh các đồ án phương tây được chạm khắc với nhiều kỹ thuật như chạm lộng, chạm nỗi, chạm bong hênh...với các thủ pháp kỹ xảo điêu luyện. Ở giữa có bức hoành với dòng: "Sơn trang cổ tận", hai bên là: Thiện tối lạc. Hàng cột bên trái bức liễn "Hướng sơn, y thắng cuộc; bên trái " Phi điểu, khảo tráng kỳ quan", hàng cột bên phải: "Thiên địa náo trường xuân; Mậu trúc mai thanh khai hảo cảnh" tranh Mai - Điểu... Những hình ảnh hoa trái, con vật ... tượng trưng cho sự may mắn, an lành, phú quý, hạnh phúc như Mai, Lan, Cúc, Trúc .... Phước, Lộc, Thọ như dơi, ngũ quả, nai, tùng, các loại trái cây ở Nam Bộ như: bình bát, măng cụt, khế ngọt, chuối sứ, mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài ... Trên các vỉ kèo đều được chạm trổ rất tinh xảo công phu như đầu rồng , chim phượng , vân hóa long , lưỡng long hồi thủ... Những vật dụng như : bàn thờ, ghế nghi, trường kỷ, bàn quay, ghế tròn quay, tủ, ván, giá áo, gương soi, lồng ấp bình nước ... đều được chạm khắc, chạy chỉ sắp xếp theo ngũ hành âm dương. Những vật dụng sinh hoạt cá nhân mang màu sắc phương tây như thau chậu, lavabo rửa mặt, nhà vệ sinh, két sắt, ghế xích đu, giường tủ , chén bát mà nơi sản xuát là các hảng danh tiếng ở Trung Quốc , Nhật Bản... Dụng cụ nhà bếp như tủ garde-manger, chén bát nồi niêu, soong chảo, rế kiền, bếp núc, cối xay bột bằng đá thanh, giếng nước, lu khạp chứa nước, lẫm lúa là những vật dụng đa số được sản xuất tại địa phương. Ngôi nhà 100 cột là một tác phẩm kiến trúc độc đáo kiểu nhà rường của Huế mang sắc thái Nam Bộ. Thiết kế hoa văn, trang trí mang đậm tư tưởng Nho giáo - Phật giáo và truyền thống đạo lý dân tộc và tính cách của địa phương, thể hiện qua nét khắc gỗ các trái cây đặt sản của vùng sông nước phương Nam "Cầu vừa đủ xài" Và cũng để nhắc nhở cho hậu thế về một nghệ thuật khắc họa trên gỗ độc đáo mà chỉ có những nghệ nhân thuộc vào bậc danh sư, tay nghề thuộc loại thượng thừa mới có thể thực hiện được qua các kỷ thuật chạm lộng , chạm nổi , chạm bong kênh, chạm nổi trên nền chạm lộng... Các tác phẩm điêu khác trong ngôi nhà 100 cột ở Long Hựu thôn là thực hiện "điêu khắc trên không" nghĩa là các nghệ nhân phải đeo tòng teng lên mái nhà hoặc đứng trên thang để khắc chạm, chứ không phải ngồi ở dưới đất chạm khắc để lắp ghép như bây giờ. Dấu chỉ mà chủ nhân và các nghệ nhân để lại cho con cháu mai sau là một câu đố nằm ở hai đầu kèo gian sau bên phải. Cái thú của khách đi tham quan là phải giải cho ra câu đố, đó là cái nét độc đáo có một không hai của ngôi nhà 100 cột này. Thật đáng buồn là ngôi nhà 100 cột, một di tích văn hóa lịch sử quốc gia với những nét độc đáo hiếm thấy, nó gần bị lãng quên mặc dù đã được tu sửa một lần, hiện nay xuống cấp trầm trọng bởi sự tàn phá của thời gian và mối mọt, đang có nguy cơ có thể sụp đổ bất kỳ lúc nào, nhất là dãy phía sau vách tường đã rạn nứt, cột kèo xiêu vẹo.Một phần của ngôi nhà đã bị phá hủy mà thực tế hiện nay ngôi nhà phụ và lẫm lúa đã không còn từ hơn nửa thế kỷ trước Xin hãy giữ gìn, tôn tạo trước khi các cột chống đỡ èo uột, nhếch nhác, tạm bợ sụp gãy như hình ảnh mà chúng tôi ghi nhận được trong bài này. Hồ Đắc Duy **************************** Chủ nhân căn nhà đang cần sự giúp đỡ để duy tu Mọi liên lạc xin gởi về : Ông Trần văn Ngộ Xã Long Hựu Đông Huyện Cần Đước - Tỉnh
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 8, 2007 12:21:01 GMT 9
Lê Bá Thanh Ngôi chùa Khơme Nam Bộ là một công trình kiến trúc có nhiều giá trị thẩm mỹ, là không gian thiêng liêng tập hợp các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa nghệ thuật. Ngoài chức năng thỏa mãn những nhu cầu sinh hoạt của đời sống, nó còn đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ cho nhân dân. Ngôi chùa là một tập hợp toàn vẹn các yếu tố tạo hình, kết hợp chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau trong một thể thống nhất. Đóng góp dựng chùa, nuôi chùa được coi như một khoán ước đảm bảo hạnh phúc cho cuộc sống hiện tại và vĩnh hằng sau này của mỗi kiếp người. Người Khơme không tiếc công sức, vật liệu quý cùng với sự khéo léo của đôi tay dành cho chùa, vì thế chùa trở thành trung tâm của phum, sóc. Đến vùng người Khơme cư trú, ta dễ dàng nhận thấy sự tương phản giữa những ngôi nhà lá đơn sơ của người dân với sự nguy nga đồ sộ của ngôi chùa được thể hiện như một tác phẩm nghệ thuật giữa cảnh quan đồng bằng. Nghệ thuật kiến trúc Khơme Nam Bộ còn lưu lại cho đến ngày nay tập trung vào hơn 500 ngôi chùa nằm rải rác khắp các địa phương có người Khơme cư trú. Những ngôi chùa cổ kính ẩn hiện dưới những hàng cây dầu, cây sao xanh tốt. Nhiều ngôi chùa xuất hiện từ rất sớm như: chùa Âng, chùa Samrôngêk, chùa Phướng ở Trà Vinh, chùa Kl'eang ở Sóc Trăng có niên đại khoảng từ 400 đến 600 năm cách ngày nay và nhiều chùa có niên đại muộn hơn được xây dựng theo một nguyên tắc nhất định, nhưng tùy thuộc vào điều kiện kinh tế của từng phum mà có sự lớn nhỏ khác nhau. Ngày nay, hầu hết các ngôi chùa Khơme ở đồng bằng sông Cửu Long đều đã được xây dựng và trùng tu lại. Thật khó xác định được chính xác niên đại của từng ngôi chùa. Những ngôi chùa có niên đại lâu đời nhất cũng không còn để lại cuốn tiểu sử nào đầy đủ hơn những câu chuyện dân gian hay lời kể của các vị sư trong chùa. Thông thường mỗi ngôi chùa được sửa chữa hoặc xây dựng lại toàn bộ hay từng phần, trong mỗi thời kỳ khác nhau, gắn liền với sự phát triển của lịch sử xã hội. Từ đó mà hình dáng, kiểu thức của các ngôi chùa cũng biến đổi. Những vật liệu hiện đại đã góp phần làm ảnh hưởng nặng nề đến kiến trúc ngôi chùa. Vì nó được xây dựng mới, không theo truyền thống mà chỉ tuân theo một số nguyên tắc kiến trúc nhất định nên những ngôi chùa mới xây hoàn toàn khác so với những ngôi chùa cũ. Nói chung, những nguyên tắc cơ bản vẫn được duy trì, những đặc thù và đặc trưng của truyền thống dân tộc vẫn được giữ vững. Chính điện của chùa nằm dọc theo hướng Đông - Tây và ở vị trí trung tâm. Việc xây dựng những ngôi chùa này bao giờ cũng phải đúng quy cách, kích thước nhất định như: Chiều dài bằng hai lần chiều rộng, chiều cao bằng chiều dài, mái và thân là hai phần bằng nhau. Các diện tích khung cửa, nhà ở và điện thờ cũng phải tuân theo quy định đó, chóp nóc thường thấy là một tam giác cân, nhọn, chiều đứng dài hơn 1/4. Chùa nào cũng có hành lang (chơn tiên) bao quanh điện. Chính điện có 4 cửa chính ở hai hướng Đông - Tây cùng bảy hoặc chín cửa sổ ở hướng Nam và Bắc, đó là những quy tắc cơ bản nhất của kiến trúc chùa Khơme. Người Khơme quan niệm kiến trúc quay về hướng Đông với ý nghĩa Phật ngự ở phía Tây nhìn về hướng Đông ban phúc. Các ngôi chính điện không những mở nhiều cửa sổ mà quanh bốn hướng bao giờ cũng có những dãy hành lang cao, rộng và thoáng mát. Kết cấu kiến trúc chính điện là hỗn hợp gỗ, gạch ngói… hai hàng cột cái bằng gỗ quý cao vượt lên ở giữa tạo nên những bộ vì, gồm hai kẻ hai bên, tất cả các lực đều được dồn lên nó và áp vào các đầu cột chốn đặt trên xà ngang nối giữa hai đầu cột cái, tạo thành bộ mái ở giữa chính điện cao vút. Từ đầu các cột cái, các kề, xà vách nối ra tường xây xung quanh tạo lớp mái thứ hai và lớp mái thứ ba ra đầu cột hiên, che kín hành lang. Kết cấu chính điện chùa Khơme với bộ mái ba lớp, các góc đầu đao đuôi rồng cao vút uốn lượn cho ta cảm giác mềm uyển chuyển, tạo không gian thông thoáng và lấy được nhiều ánh sáng cho bên trong chùa. Nhìn chung, các ngôi chùa Khơme ở Nam Bộ là những công trình kiến trúc độc đáo, cho đến nay tuy có nhiều thay đổi nhưng vẫn giữ được bản sắc riêng mang nặng dấu ấn dân tộc. Những ngôi chùa trên đã chứng minh cho sự biến chuyển đó, nhưng phong cách mang tinh thần Khơme truyền thống vẫn là cốt yếu, bởi những quan niệm về nhân sinh quan, vũ trụ quan trong triết lý Phật giáo tiểu thừa đã chi phối mạnh mẽ đời sống tinh thần của mỗi người dân. Chính điều này đã can thiệp vào tất cả các lĩnh vực liên quan đến nghệ thuật tạo hình khiến cho ngôi chùa với một kiểu thức cơ bản vẫn được duy trì trong diễn trình lịch sử dân tộc nói chung và của tộc người Khơme nói riêng. Ngôi chính điện của chùa được quy vào một tam giác cân, điều này không chỉ áp dụng cho kiến trúc mà ngay cả điêu khắc cũng hầu như tuân thủ theo tiêu chuẩn trên. Người Khơme quan niệm hình tam giác là sự hoàn thiện nhất, ở đó chứa đựng cái đẹp hoàn mỹ và tuyệt đối. Tam giác tương ứng với nghĩa biểu trưng của con số 3, trong đạo Hinđu thần linh tối thượng cũng hiện hình thành 3: Brahma - Visnu - Siva; Đạo Phật có câu: Hoàn kết trong tam bảo Treraphona: phật - pháp - tăng; thế giới có ba thành phần: Bhu-Bhuvas-Swar thời gian phân ba Trikala: quá khứ - hiện tại - tương lai. Hình tam giác còn gắn liền với ngọn lửa thiêng của đạo Hinđu, mà đức Phật thay bằng ngọn lửa bên trong, nó đồng thời là tri thức xuyên suốt, là sự giác ngộ và sự hủy bỏ cái vỏ bọc bên ngoài… Bởi vậy con số 3 nói riêng và số lẻ nói chung là số được trân trọng gắn liền với nhà Phật. Các cửa sổ và cột chùa là những con số 3-5-7-9. Trên bàn thờ Phật có lọng 3 tầng biểu hiện tam bảo, 5 tầng biểu hiện 5 sự hóa thân của Phật, 7 tầng là phải trải qua 7 kiếp con người mới chết (?), số 9 là số không gian nhà chùa. Như vậy tổng thể ngôi chùa được hợp vào một tam giác cân như một quy ước có tính tượng trưng triết học. Người Khơme coi trọng số chẵn trong sinh hoạt hàng ngày. Trong các ngày cưới, người Khơme không đi đón dâu vào ngày lẻ, lễ vật nhà trai dẫn sang nhà gái là bốn nải chuối, bốn chai rượu, bốn gói trà, bốn gói trầu…; lễ hỏa táng cũng kiêng ngày lẻ. Lối xử lí kiến trúc mái chùa bằng sự thay đổi của cấp mái từ trên xuống với những góc 600, 1200 kết hợp với hàng cột hiên thanh thoát vuông góc với mặt nền chùa, cùng sự góp mặt của các môtíp trang trí Kẽnnâr, Krũd…, trong tư thế một đường cong với hai tay đỡ mái chùa tạo nên sự chuyển động phong phú, khoẻ khoắn, phóng khoáng lại vừa tinh tế và bay bổng lên cao hòa vào trời xanh. Sức nặng của mái chùa được giảm nhẹ bằng cách xử lí hai cấp mái, kết hợp với hàng cột hiên thanhmảnh, tam cấp nền chắc chắn và tĩnh liên hoàn với nhau theo kiểu thực - hư - thực. Có thể nói, tổng thể kiến trúc ngôi chùa như một tác phẩm điêu khắc, với ba phần cơ bản: mái, cột - thân chùa - nền, tam cấp (là ba phần khối: thực - hư - thực hoặc: đặc - loãng - đặc, dương - âm - dương). Ngoài ra, có sự cộng hưởng của nhiều chi tiết trang trí góp phần giảm nhẹ sức nặng chung của ngôi chùa. Tất cả ngôi chùa là một tam giác biến thể mang ý nghĩa triết học cao siêu tượng trưng cho sự tinh tế sâu lắng trong một suy tư đầy ý vị. Nguyên tắc này phần nào đã ăn sâu vào tiềm thức của người Khơme và nghệ thuật Khơme. Bởi vậy, ngôi chùa trải qua thời gian với nhiều lần làm mới hoặc sửa chữa vẫn không khác biệt với chuẩn mực, quy định cũ. Các diêm mái, góc giữa hai mái, đầu cột, chân cột, cánh cửa, mí cửa, xà ngang, dọc và trần nhà… đều được khai thác năng động bằng những hình ảnh điêu khắc lấy cảm hứng chủ yếu từ cuộc đời đức Phật và hoa lá mây nước trong đời sống cộng đồng người Khơme… Bởi vậy tất cả đều hài hòa và không làm mất đi công năng của chùa. Kiểu thức này có tính nguyên tắc chặt chẽ và được coi là yếu tố truyền thống và mang tính ước lệ. Đây chính là điều kiện để duy trì một ngôi chùa theo nguyên tắc truyền thống, đồng thời có thể phát huy khả năng sáng tạo đặc biệt trong việc xử lý năng động các chi tiết nhằm tôn lên vẻ đẹp tổng thể. Đứng từ xa ngắm lại, ngôi chùa ẩn hiện trong những lùm cây xanh ngắt, với sông nước ngang dọc mênh mang; vươn lên khoẻ mạnh, nổi bật trên nền mây trắng như ước vọng hướng tới thanh cao; tâm tư tình cảm, khát vọng hòa điệu trong cái hoàn mỹ tuyệt đối, giống như sự giác ngộ và hủy bỏ cái vỏ bên ngoài. Nhìn từ góc độ nghệ thuật, ngôi chùa là một công trình nghệ thuật kiến trúc đặc trưng của người Khơme. Nhìn từ góc độ tâm linh, ngôi chùa là đỉnh cao của thăng hoa tôn giáo. Cái đẹp hiện ra trong cái thiêng liêng Phật tính. Nghệ thuật kiến trúc của ngôi chùa phần nào nói lên được tâm tư tình cảm, óc sáng tạo và khiếu thẩm mỹ đặc biệt của người Khơme Nam Bộ. Đó là văn hóa của người Khơme Nam Bộ. L.B.T
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 30, 2010 19:05:13 GMT 9
Ý nghĩa của nhà ba gian là gì? Nhà 3 gian 2 chái Nguồn: chudu24.com -------------------------------------------------------------------------------- Nhà ở của Việt nam ngày xưa thường cất theo lối ba gian với 3 cửa lớn, nếu muốn rộng hơn để có chỗ làm bếp, nhà tắm thì người ta cất thêm chái hai bên hông nhà, gọi là nhà ba gian hai chái hoặc không cần nhiều thì người ta chỉ che thêm một bên gọi là nhà ba gian một chái. Nhưng điểm chính vẫn là nhà ba gian. Tuy không ngăn thành từng phòng như lối xây nhà hiện nay, nhưng ở căn nhà ba gian, bước vào nhà, ta có thể nhận ra căn nhà chia làm 3 phần rất cân phân: Gian giữa là nơi để bàn thờ, 2 bên để hai cái sập gụ hoặc giường… Trước bàn thờ người ta có thể đặt bàn khách. Nhà lớn hơn thì phía sau ba gian này, hai bên có hai phòng, giữa là hành lang để ra bếp và nhà tắm. Cuối nhà thì có bếp một bên, nhà tắm một bên và giữa được đặt một bàn ăn, đến giờ ăn, cả nhà quay quần ấm áp bên nhau, ngoài không nhìn thấy trong, trong kín đáo êm đềm. Thật là một bức tranh đẹp. Tại sao lại 3 gian mà không 2 gian, 4 gian, 6 gian? Lão Tử có câu: “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật...” Sao không nhất hay nhị sinh vạn vật mà phải tới con số tam mới sinh vạn vật? Có phải con số ba này là con số đầu mối nắm hai đầu âm dương để điều hoà chúng, để vận hành chúng theo một chiều trật tự không? Tôi không biết nhưng chắc chắn đây là số ba kỳ diệu, số ba điều hoà. Và căn nhà ba gian nằm trên sự suy gẫm này mà tạo thành. Âm dương là đầu mối của vạn vật, âm dương quyện lẫn vào nhau, càn khôn mới chuyển động, vận hành. Cầm nắm hai đầu âm dương là thái cực. Dương, tính nóng, nhẹ, sáng, là phần động, là sinh khí; Âm, tính lạnh, nặng, tối, là phần tĩnh, là tử khí. Tuy đối nghịch nhau nhưng chúng lại hoà hợp nhau như một bản giao hưởng với âm dương nhịp nhàng phối hợp. Thái cực cầm nắm hai đầu mối âm dương này khiến chúng giao lưu trong vòng trật tự, không rối loạn. Theo nguyên lý này, nhà ba gian được thiết lập. Gian bên trái là dương, gian bên phải là âm và gian giữa chính là thái cực vậy. Âm dương phối hợp nhịp nhàng, vào ra uyển chuyển trong quy luật nhờ sự cầm nắm của thái cực, đó là căn bản làm nên căn nhà ba gian, do đó tạo nên thế vững vàng cho ngôi nhà. Ba gian cũng tượng trưng cho phúc, lộc, thọ (hoặc Thiên, Địa, Nhân, v.v...) Vì vậy người xưa tin rằng chỉ có căn nhà ba gian mới đem lại hạnh phúc êm ấm cho người trong nhà. (chắc vì đã có 3 ông Phúc, Lộc, Thọ che chở?) Có lẽ vì vậy mà gia đình xưa ổn định, trật tự. Từ khi du nhập lối xây cất mới, những kiểu nhà song lập được dựng lên (chỉ có âm dương mà không có thái cực cầm nắm), thiết kế nhà theo mỹ thuật Âu tây, nền tảng gia đình của Việt nam lung lay dần? Có phải vậy chăng? Việt nam ta có câu, “Sống cái nhà, thác cái mồ”; Xem như thế, đối với người Việt nam, cái nhà thật quan trọng thay! Ngày nay, nhìn lại, ai là người đẩy chúng ta ra khỏi căn nhà thân yêu ấy? Ai là người đưa chúng ta đến tình trạng lang thang vất vưởng, sống không có nơi để gởi, thác không có chỗ để về như lời nói thiết tha bao đời truyền lại, “Sống gởi, thác về ” Từ con ngựa không cương, hai-đầu-thước-kẻ, với thời gian dần trôi, cuộc đời không chỉ có “cây dài bóng mát” không chỉ có “hẹn hò đây đó” để “uống ly chanh đường”; mà cuộc đời còn có đau thương, nước mắt, lăn lộn, mất mát, chia cắt, ly biệt, tất cả những thứ đó cũng được cuộn tròn lại, xoay chuyển, nhồi nắn, biến tôi thành căn-nhà-ba-gian đó các bạn ạ. Tôi dần dần thấy những tật xấu của mình, những thái quá và bất cập của mình, đã biết “tiên trách kỷ, hậu trách nhân” để tự tu sửa bản thân, biết tự mình kềm chế những giận dữ, những kiêu căng ngã mạn, thế nhưng căn nhà-ba-gian này đôi khi cũng có những nổi bất an. Rồi có ngày căn nhà-ba-gian sẽ nhẹ nhàng buông bỏ hai đầu âm dương, trắng đen, sáng tối quay cuồng với sự nắm giữ của thái cực để mỉm cười đọc câu “Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc”. Buông bỏ điều mà người ta gọi là Nhất nguyên để đến chỗ “Không tư bản cũng không cộng sản, là tư bản mà cũng là cộng sản”. Xin các bạn chớ vội kết luận tôi là thiên cộng nhé. Tội nghiệp lắm. Tôi đang nghiền ngẫm thuyết Bất nhị của nhà Phật đó. Hi hi. Là hai-đầu-thước-kẻ hay căn-nhà-ba-gian, là tư bản hay cộng sản hoặc không tư bản, không cộng sản, tôi vẫn chỉ là một người Việt nam bình thường và tầm thường. Như muôn ngàn người Việt nam khác, tôi cũng đau buồn khi đất nước bị chia cắt, cũng khóc hận khi cái gọi là “hoà bình thống nhất” trở về trên đất nước mà hàng triệu thanh niên ưu tú bị lùa vào rừng thiêng nước độc để chết dần chết mòn trong đó; hàng triệu gia đình bị đuổi khỏi căn nhà thân yêu, căn nhà mà hằng bao đời ông cha họ đã đổ mồ hôi nước mắt mới dựng nên, để lên núi cao xây dựng cái gọi là “kinh tế mới”; rồi thì hàng triệu người bất chấp nguy khó, hải tặc, cưỡng hiếp, ngay cả phải bỏ thân mình, lần dò trong đêm tối trời, liều lĩnh xô thuyền ra biển đông, tìm đường sống trong cái chết. Sau đó phải chứng kiến cảnh biết bao thiếu nữ mơn mởn xinh tươi đứng phơi thân cho một đám ngoại nhân rửa mắt, vọc phá; đám người mà ngày xưa, những người con gái Việt nam đàng hoàng không bao giờ để mắt tới! Một dân tộc bao đời được lũy tre xanh che chở, nay vì chén cơm manh áo đã phải bán thân đi lao động xứ người. Họ còn bị cướp đoạt lương tiền mà không được đám người tự nhận là chính quyền của nhân dân bảo vệ! Mấy ngàn năm sau, dân Việt lại một lần nữa nhìn cảnh ly biệt của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ, xót xa chia đôi đàn con, đứa lên rừng, đứa xuống biển. Đến bao giờ thì mẹ Việt nam mới hết khổ đau, đón đàn con phiêu bạt trở về trong vòng tay ôm của mẹ, trong căn nhà êm ấm của cha? ********* Nhà ở VN miền quê,dù nghèo dù khá thì cũng có một lư hương ,trang thờ,hình ảnh hay bài vị để giữa nhà thờ cúng Ông Bà Tổ Tiên . Thường thì ở Miền Tây Nam Phần (ĐBCL) , nhà trung trung người ta có tấm liễn thờ khuôn kiếng Cửu Huyền Thất Tổ ,bộ tranh thờ khuôn kiếng với mấy chữ Nho như Đức Thắng Kim hay Đức Lưu Phương (phương là danh thơm ) v.v... Theo tui nghĩ ,nhàVN ở Mỹ hay các nước khác ,trong nhà mình nên có một chổ thờ cúng (tuỳ theo TG của mình ) . Nhà tui,tui tự thiết trí một bàn thờ trên nóc cái fire-place .Chính giữa là 3 chữ Đức Lưu Phương được viết theo lối giả chữ Nho . Hình cha mẹ ,tượng Phật Quan Âm ,vai cuốn sách Thánh Hiền và Danh Nhân thế giới ,có cả tượng nhỏ 2 Thiên Thần có cánh . ( Đủ thứ ,hoà đồng TG và có đốt nhang cho thơm ) . Đặc biệt , bộ thảm dưới nhà ,trên lầu tui hút bụi và giặt sạch,nhà không gian trống nhiều hơn ...đồ đạc . Lý do là cả nhà có thói quen đụng đâu (trừ bếp và phòng khách ) nằm đó . Muốn nằm chơi ,đọc sách hay ...ngủ chổ nào cũng được . Có bữa (nhứt là mùa hè ) mấy cái giường ngủ trống lỏng , mạnh ai nấy kiếm chổ mát nằm ngủ . Quen dzậy rồi . ********************** Thực tế của nhà 3 gian. Thực tế cho thấy nhà 3 gian được xây cất dựa trên những yếu tố như sau đây: - Điều kiện. - Nhu cầu ăn ở. - Văn hoá. - Kỹ thuật xây cất. 1. Điều kiện là chủ hộ phải giàu có, phải có đủ tiền bạc để xây cái nhà 3 gian. 2. Nhu cầu ăn ở. Nhà là nơi cư trú, ăn ở. Để tránh nắng, mưa, gió. Chống lại thú dữ, chống trộm cắp. Nhà sàn của đồng bào Thượng ở Tây nguyên là bằng chứng cụ thể về an toàn. Gia đình VN thường là 1 đại gia đình mà 3 thế hệ cùng sống chung dướí 1 mái nhà. Cụ thể là có đông người trong 1 "hộ khẩu". Ví dụ như ông nội có 2 bà vợ có 5 con. Con gái đi lấy chồng. Còn lại, bác và chú, mỗi gia đình có vài ba đứa con...số người đó cần phải có 1 cái nhà rộng lớn là nhà 3 gian. 3. Văn hoá. Nhà cao cửa rộng là sang trọng, là có phước, có đức, có lộc...có tiếng tâm. Chủ nhà được nở mặt nở mày, làm rạng danh gia đình, dòng họ, tổ tiên. Ngoài ra còn có tính đua đòi, bắt chước và phong thủy... 4. Kỹ thuật xây cất. Mấy ông thợ mộc, thợ hồ con cháu của Lỗ Ban cũng góp phần vào việc xây cất nhà 3 gian. Tóm lại, cho rằng nhà 3 gian được thiết lập là do cái "nguyên lý" 1, 2, 3 của Lão Tử là không đúng, bởi vì không nó có căn cứ vững chắc và không thuyết phục. Hơn nữa, chỉ có 1 con người cá biệt là Hương Cao sáng chế ra cái nguyên lý độc đáo nầy để trình bày 1 ý đồ là quan niệm sống tiêu cực, không còn ý chí đấu tranh cho những lý tưởng ước mơ của dân tộc VN. ******************************* Trích cái sai: "Có lẽ vì vậy mà gia đình xưa ổn định, trật tự. Từ khi du nhập lối xây cất mới, những kiểu nhà song lập được dựng lên (chỉ có âm dương mà không có thái cực cầm nắm), thiết kế nhà theo mỹ thuật Âu tây, nền tảng gia đình của Việt nam lung lay dần?" * GIA ĐÌNH XƯA NHƯ THẾ NÀO? - Chồng chúa, vợ tôi. - Trai năm thê bảy thiếp. - Phụ xử tử vong, tử bầt vong, bất hiếu. Vậy thì, gia đình có đặc điểm như thế, phải sống trong nhà 1 gian, 2 gian hay nhà 3 gian? Nói như thế, thì đúng là "không đúng", tức là nói sai. * DU NHẬP XÂY CẤT MỚI. Có câu:" Ăn cơm Tàu, ở nhà Tây, cưới vợ Nhật". Có nghĩa là "Nhà Tây" là một trong 3 cái ước muốn của người VN ở vào 1 thời nào đó, có lẻ là thời của nhà 3 gian, bởi vì, thời gian đó chỉ mới bắt đầu có, hoặc chưa có Nhà Tây. Nhà Tây mang lại tiện nghi và lợi ích cho gia đình. Và cũng chính cái kiến trúc nhà Tây nầy đã giết chết cái nhà 3 gian, và nhà Tây hiện vẫn còn tồn tại ở rất nhiều quốc trên thế giới, trong đó có VN. Thử hỏi, ngày nay chúng ta có cần phải duy trì cái văn hoá gia đình của cái nhà 3 gian hay không? * Nhà ba gian Gian giữa là nơi đế bàn thờ , hai bên để hai cái sập gụ hoặc giường ...trước bàn thờ người ta có thể đặt một bàn khách ( Hương Cao ) Tất nhiên là chúng ta không thể hiểu một cách máy móc là xây dựng lại y nguyên cái nhà ba gian như vậy . Như thế thì đâu còn tinh thần biến dịch (Change) của Đạo sinh nhất , nhất sinh nhị ...nữa . Nhưng tinh thần hoà hiếu của nhà 3 gian thì vẫn còn giá trị . Chính gian thứ ba , là nơi để bàn thờ (tuỳ theo TG khác nhau ) , hiếu rộng ra là nơi qui tụ Tinh Thần của tất cả con người sống trong gia đình ấy . Điểm hội tụ , điểm chung cho mọi người . Nhằm ung đúc tinh thần hoà thuận vui vẻ với nhau , cũng như tinh thần tôn trọng và bình đẳng trước các đấng Tối Cao . Đó là niềm tin thiêng liêng của những con người có một Tôn Giáo trong cuộc sống . Con người có thể sống cho lý tưởng đấu tranh ngoài xã hội . Con người có thể dứt khoát không khoan nhượng kẽ thù ngoài mặt trận . Nhưng con người không thể sống thiếu sự hoà thuận ,hoặc lạnh lùng , buồn bực trong phạm vi gia đình của mình được . Gia đình là không gian sống phần lớn cho tình thương , bảo bọc và niềm vui . Kẽ nào chưa giải quyết được xung đột bất đồng sâu sắc trong gia đình ,có cuộc sống vô trách nhiệm, không hoà hợp với người thân của mình , mà muốn đem tài trí ra giúp đời thì chỉ là láo khoét . Xã hội sẽ thật là bất hạnh , nếu có nhiều con người như vậy hoạt động cho cộng đồng . Bởi vì trước sau gì họ cũng làm hại xã hội . Chúng ta , những người không Cộng Sản , ai ai cũng có niềm tin vào TG của mình . Chúng ta gặp nhau ở sự cổ vũ của các TG đều khuyên một đời sống đạo đức tốt đẹp trong gia đình . Chính vì vậy chúng ta mới chống lại chủ trương Vô Thần của CS . Ps: Về Trung Dung Dung, dong : 11nét >> thường , thườnh ngày, việc làm thường ( dung hành) -tđ Thiều Chửu Trung Dung là trong đời thường . Đạo Trung Dung là Đạo Lý trong cuộc Đời thường . Như trong gia đình , nơi làm việc , nơi học hành v.v... Sách Trung Dung bắt đầu bằng câu : Thiên mệnh chi vị Tính , suất Tính chi vị Đạo , tu đạo chi dĩ Giáo . Đó cũng là câu nền tảng của Trung Dung . Từ đó trở về sau , chỉ là để khai triễn thêm . Như vậy sách Trung Dung cho rằng cái Tính của con người chính là do Trời ban cho , trau sửa theo cái Tính đó tức là sống theo mệnh Trời . Có gì gần gũi bằng Tính ? mà cũng có gì thâm sâu bằng Tính ? Cái khó là ở chổ này . Thứ nhất là tu tại gia thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa ca dao Câu này nói lên việc sống và cư xữ trong gia đình là ưu tiên hàng đầu . Sau đó mới đến xã hội .
|
|