|
Post by NhiHa on Mar 7, 2007 9:13:35 GMT 9
Cha Đẻ Ngành Nhiếp Ảnhfudozon.com/xem-anh/phong-canh-con-nguoi-dong-que-chau-a--117--16164.htmlMột trong những ảnh nguyên mẫu Daguerre (daguerréotype) đã làm xáo trộn lịch sử ngành nhiếp ảnh Những chuyên gia Pháp và Mỹ tranh luận về việc bức chân dung chụp đầu tiên của nhân loại do Louis Daguerre ký năm 1837. Bức chân dung nhỏ xíu chỉ nằm gọn trong lòng bàn tay nhưng hiệu quả của nó như một trái bom đã làm xáo trộn thế giới vi mô của những chuyên gia. Ðó là một khuôn mặt trắng bệch của một người đàn ông, tóc bù xù, mắt mở to, khắc trên một tấm chì phủ bạc mà khi muốn coi, phải nghiêng một cách kiên nhẫn mới thấy những nét của ông ta nổi lên, cũng như trong cái gương vậy. Sau lưng tấm ảnh có ghi năm 1837 bằng thủ bút, luôn luôn kèm theo tên tác giả là Louis Daguerre. Louis Daguerre sáng tác ngành máy ảnh chung với Niépce, nhưng đã đăng riêng tên mình vào phương thức sáng chế và trình ra cho công chúng năm 1839. Bức ảnh này hiện nằm trong tay Marc Pagneux, người buôn ảnh nổi tiếng và là chủ nhân bức ảnh nguyên mẫu đặc biệt này: "Nó không phải chỉ là một bức ảnh mà là một vật thuộc lịch sử khoa họ" Bức ảnh đã được in ra -tức là đã tiết lộ- trong báo Le Monde và bài Nghiên cứu phim ảnh (Études photographiques) do nhà sử học nghệ thuật André Gunthert và kỹ sư Jacques Roquencourt viết. Những phản ứng đầu tiên không phải từ Pháp, mà từ Hoa kỳ, một nước sản sinh nhiều nhà nghiên cứu về phương thức Daguerre. Nhiều người không tin, nghi ngờ khi chưa thấy ảnh, có người thì chào đón phát minh. Chữ ký, ngày chụp, tính chất chung đã biện hộ cho sự chính xác của vật, nhưng cũng có những người chờ phân tích tấm bảng đồng mới tin được. Sự khám phá này cụ thể hóa cho lời tuyên bố của chính Daguerre hồi tháng Hai năm 1838: ớc Pháp (Niépce và Daguerre) và nước anh (Talbot) bàn cãi về phát minh ngành nhiếp ảnh. Các nhà sử học Hoa Kỳ xâu xé nhau từ mười lăm năm nay vụ tấm ảnh xưa nhất khoảng năm 1839, giờ đây tấm ảnh này sớm hon tới hai năm. Sự chính xác của bức hình này đã không những có sớm hơn ai năm mà chỉ cần ngồi hai phút để chụp, trong khi đó Daguerre, năm 1939, muốn chụp hình, phải ngồi im dưới nắng trong 15 phút Hình: Niépce và bức ảnh đầu tiên cuả nhân loại Chính Niépce là người đã chụp được hình cái mái nhà vào khoảng năm 1827 tuy rằng hơi mờ nhưng là hình xưa nhất trong lịch sử ngành nhiếp ảnh. Năm 1829 Niépce cộng tác với Daguerre để phát triển phương thức chụp hình của ông. Nhưng ông mất năm 1833 nên Daguerre đã giành lấy phát minh đó một mình. Niépce đã phát minh ra phương thức chụp ảnh và Daguerre đã dùng nó để làm thương mại. Gunthert và Jacques Roquencourt nhận xét: Niépce dễ thương hiền lành đã phát minh ngành nhiếp ảnh và Daguerre là kẻ dữ đã hưởng một mình bằng cách thương mại hóa phương thức của Niépce. Niépce là người chơn chất, dân miền tỉnh (Chalon-sur-Saône) còn Daguerre ở tại Paris, là dân ăn chơi, là nhà kinh doanh giàu có, một nhân vật ít được cảm tình Nguyễn Vũ Ngân Hà
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 1, 2009 15:48:52 GMT 9
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh qua ðời suu tamNgày 4 tháng 6 nãm 2009. “Cây ðại thụ” trong làng nhiếp ảnh Việt Nam - Nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh ðã qua ðời tại nhà riêng, hýởng thọ 102 tuổi. Suốt hõn 70 nãm cầm máy, trải qua những biến cố và cả những sự kiện trọng ðại nhất của ðất nýớc, Võ An Ninh bằng niềm ðam mê, trách nhiệm lớn lao của một ngýời nghệ sĩ ðã ghi lại những khoảnh khắc lịch sử, những vẻ ðẹp của thiên nhiên, con ngýời trên khắp mọi miền Tổ quốc bằng một con mắt rất khác, con mắt của một ngýời ðầy ýu tý và chứa chan tình quê hýõng, ðất nýớc. Gia tài ðồ sộ của ông với hàng nghìn tác phẩm mãi là tài sản vô giá của lịch sử và nghệ thuật Việt Nam. Một trong số những bức ảnh về nạn ðói nãm 1945 của NS Võ An Ninh, gây tiếng vang mạnh mẽ trong công luận. Ít ngýời biết ðýợc rằng, ðể có ðýợc những hình ảnh về nạn ðói Ất Dậu nãm 1945, Võ An Ninh ðã phải ðánh cýợc cả mạng sống của chính mình. Khi ðó hàng ngày, Võ An Ninh ðạp xe trên ðoạn ðýờng Hà Nội - Thái Bình, cả ði và về lên tới trên 140km với quyết tâm ghi bằng ðýợc thảm cảnh ngýời dân chết ðói, bất chấp những nguy hiểm từ phía quân Nhật. Vì nếu chúng bắt gặp bất kỳ ai chụp ảnh ghi lại tội ác của chúng thì chắc chắn, ngýời ðó sẽ bị chúng bắt và bắn chết ngay. Ông chụp nhiều lắm, dù ðầu óc tê dại vì ðau thýõng. Nhiều hôm, về ðến nhà ông không thể ãn cõm vì mất cảm giác ðói! Nhýng Võ An Ninh vẫn còn ðầy ðủ ý thức ðể xây dựng bộ phóng sự ảnh có một không hai ðể ghi lại một thời ðiểm ðau thýõng của dân tộc, và tố áo tội ác của phát xít Nhật với thế giới. Việt Hùng Theo VTV Nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh: Ất Dậu 60 nãm trýớc TTCN - Hõn ba nãm trýớc, những ngày cuối tháng chạp nãm Tân Tỵ là khoảng thời gian buồn bã, ðau thýõng ðối với gia ðình cụ Võ An Ninh và ðại gia ðình nhiếp ảnh. Ban tổ chức lễ tang chúng tôi ðã chuẩn bị xong ðiếu vãn, di ảnh, thông tin báo chí…, gia ðình cũng ðã ðặt mua áo quan… Sau ba ngày chết lâm sàng ở bệnh viện Chợ Rẫy, cụ Võ mở mắt: “Tôi sống lại rồi à, ðể tôi kể chuyện cho mà nghe…”. Trýa ngày 2-3-2005, tại nhà riêng, nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh ở tuổi 100 râu tóc nhý tiên ông, vẫn tinh týờng, minh mẫn ngồi kể chuyện chụp ảnh nạn ðói nãm Ất Dậu… Tấn thảm kịch với dân tộc Việt - nạn ðói nãm Ất Dậu xảy ra cách nay tròn 60 nãm, với con số 2 triệu ngýời chết vì ðói trên tổng số 13 triệu dân quả là cực kỳ khủng khiếp! Vốn giàu cảm xúc, nghệ sĩ nhiếp ảnh Võ An Ninh lúc ấy ðang tuổi 40 ðã phải cố nuốt nýớc mắt vào trong, dấn býớc trên các nẻo ðýờng ðói ãn bằng chiếc xe ðạp và chiếc máy ảnh Ðức hiệu Zeiss Ikon (sản xuất nãm 1928, ông mua với giá 32,5 ðồng, một số tiền rất lớn khi ấy) thực hiện thiên phóng sự ảnh về cảnh ngộ ðau thýõng, thảm khốc của dân tộc. Một nửa bàn chân ðã mất sau một tai nạn, mỗi ngày ông ðạp xe ðoạn ðýờng Hà Nội - Thái Bình, ði và về trên 140km, quyết tâm ghi bằng ðýợc thảm cảnh ngýời dân chết ðói. Bởi lẽ lúc ấy nếu ðể quân phát xít Nhật trông thấy ông cầm máy ảnh chụp tội ác của chúng thì chắc chắn chúng sẽ bắt và ðánh chết ông ngay! Cụ Võ nói: “Chẳng ai còm mãng(*), chẳng ai bảo, tôi tự lãn vào làm. Ðây là tang tóc chung của dân tộc, tôi tự thôi thúc mình phải chụp, làm ảnh…, trýớc tiên công bố cho ðồng bào cả nýớc chia sẻ, kế ðến tố cáo tội ác trýớc dý luận thế giới…”. Lãn lộn từng ngày, ông tìm ðến những nõi có ngýời chết. Trên ðýờng ði, có ai mách chỗ có ngýời ðói, ngýời chờ chết ðang nằm lãn ra ðýờng, ông ðến ngay; có những nõi thây ngýời ðã thối rữa, cũng có những ngýời bò lê trên ðýờng tìm ãn bất cứ thứ gì họ cho là ãn ðýợc…, có những nhóm ngýời dìu nhau từng býớc về Hà Nội ðể tìm ðến các hội, tổ chức cứu ðói, nhiều ngýời trong số họ ðã ngã quị dọc ðýờng vì kiệt sức! Cảnh xác ngýời chồng chất trên xe bò, trong số ðấy có ngýời còn cố giãy chân thều thào: “Tôi…chýa…chết…!”. Còn cả cảnh thu dọn xác chết thả xuống hố ðể chôn. Mỗi ngày ði sãn ảnh, ông Võ phải vứt bỏ một bộ quần áo vì tất cả bị ðẫm mùi tử khí! Ông chụp nhiều lắm, dù ðầu óc tê dại vì ðau thýõng. Nhiều hôm, về ðến nhà ông không hề ãn cõm vì mất cảm giác ðói! Nhýng Võ An Ninh còn ðầy ðủ ý thức ðể xây dựng bộ phóng sự ảnh có một không hai này. Chụp về ông tráng phim, làm ảnh ngay. Những bức ảnh cỡ 18x24cm ðầu tiên ông ðem ðến trụ sở Hội Hợp Thiện - một hội từ thiện lớn ở Hà Nội lúc bấy giờ, vào thẳng phòng họp, ông nói ngay: “Trời õi, các cụ õi, ngýời chết ðói nhiều lắm rồi, các cụ còn chờ họp bàn gì nữa, có hình ảnh ðể thập mục sở thị ðây, phải cứu ngay thôi các cụ õi!”. “Chết nỗi, chúng tôi nào ðã biết ðến nông nỗi này!...” – thế là các vị tai mắt ở TP Hà Nội, hội viên của Hội Hợp Thiện, gửi ngay ảnh của Võ An Ninh vào Sài Gòn, trýng bày ngay trên phố Catinat (ðýờng Ðồng Khởi hiện nay) ðể quyên tiền cứu ðói. Hình ảnh những thân hình gầy guộc ðói ãn, trõ xýõng, những cụ già, em bé trần truồng nằm co quắp và chết trong ðói lạnh ðã gây xúc ðộng mạnh mẽ nõi ngýời xem trong nýớc và tố cáo trýớc dý luận thế giới. Và ðông ðảo bà con ðã góp tiền, gửi lýõng thực, thực phẩm cứu ðói… Phóng sự còn tiếp tục với những ảnh hậu ðói: những “núi” sọ ngýời, những bia khắc ghi mộ tập thể… ở chợ Hàng Da, nhà mồ Giáp Bát. Bộ ảnh quí với trên 50 ảnh ðã và ðang ðýợc lýu trữ, trýng bày trong nhiều bảo tàng, sách, trên nhiều thýớc phim ðiện ảnh trong nýớc và quốc tế. Tôi không thể nào quên ánh mắt ngời sáng của cụ Võ lúc chào chia tay cụ: “Õn Giời, tôi thọ ðến hôm nay; có phúc, ðýợc con cái nuôi nấng, chãm sóc tôi khỏe mạnh thế này là một ðền bù quí báu nhất rồi còn gì…! Tôi chẳng ýớc gì hõn…” . ÐỒNG ÐỨC THÀNH
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 5, 2009 1:55:59 GMT 9
Võ An Ninh: Nhiếp ảnh và cuộc đời Nguyễn Đức Hiệp Ngày 4 tháng 6, 2009, nhà nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh từ giả cõi đời, thọ 103 tuổi. Mắc dầu trong các năm gần đây, được biết sức khoẻ cụ đã yếu, trí nhớ cũng đã kém và ít khi tiếp bạn bè, nhưng ở xa khi nghe tin cụ mất, tôi cũng mất vài phút lặng đi và nghĩ nhiều đến một người nghệ sĩ không những tận tâm với nghệ thuật mà còn với đời, với xã hội chung quanh. Những ai đã tiếp xúc với cụ đều thấy ở cụ một con người rất dễ dãi vui tính với mọi người không phân biệt tuổi tác, giai cấp, giới tính. So với cụ, tôi là thuộc hàng con cháu, sinh sau cụ đúng một nửa thế kỷ, nhưng cũng không vì thế mà không là người có dịp được trao đổi ý kiến, làm bạn đồng hành với cụ trong nhiều chuyến đi “điền dã” khắp Saigon chụp ảnh, thăm bạn bè, người quen của cụ. Nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh, tên thật là Vũ An Tuyết, sinh ngày 16 tháng 6 năm 1907 tại phố Hàng Gai, Hà Nội. Ngay từ hồi còn trẻ chưa đến tuổi đôi mươi, Võ An Ninh đã mê chụp ảnh. Đạp xe đạp khắp Hà Nội chụp ảnh. Dưới thời Pháp thuộc, Võ An Ninh làm phóng viên nhiếp ảnh của Sở Kiểm Lâm. Năm 1935, bức ảnh “Buổi sáng trên đê sông Hồng” đoạt Giải ngoại hạng trong cuộc thi do Hội khuyến khích Mỹ thuật và Kỹ nghệ Việt Nam SADAEI (Société Annamite d’encouregement à l’Art et l‘Industrie) tổ chức. Võ An Ninh đi khắp mọi miền đất nước Bắc-Trung-Nam để chụp ảnh. Năm 1938, ảnh “Đẩy thuyền ra khơi” được giải thưởng ngoại hạng triển lãm ảnh Paris – Pháp. Và tại Huế, Võ An Ninh được tặng Huy chương vàng cho cuộc triển lãm ảnh cá nhân đầu tiên của ông. Cuối năm 1938, ông được Bằng khen của triển lãm ảnh nghệ thuật quốc tế Bồ Đào Nha cho tác phẩm “Chợ bán nồi đất”. Đây cũng là giai đoạn tuổi trẻ sung sức nhất của Võ An Ninh, lúc này ông sắm xe gắn máy phân khối cao (150cc) chạy khắp Hà Nội và vùng phụ cận chụp ảnh. Bấy giờ chỉ có vài chiếc xe loại này ở Việt Nam mà thôi. Ông đồ viết câu đối Tết (Hà Nội, 1940) Ở Hà Nội, ông có nhiều ảnh nổi tiếng về Hồ Gươm như Hồ Gươm buổi sương mai (1935), Hồ Gươm trong bốn ảnh "Hà Nội bốn mùa" . Để có những bức này, ông phải mất nhiều công phu và thời gian để “đạt” bức ảnh ưng ý. Ngoài ra ông có những bức ảnh gợi nhớ về Hà Nội của những ngày thanh lịch xa xưa: Trong vườn si đền Voi Phục (1942), Gió nồm (Đê sông Hồng, 1948), Nhớ xưa (1944), Thu về (1960), Cúc Nghi Tàm (1956), Thiếu nữ Hà Nội (1960), Bậc đá đền Voi Phục (1956), Chùa Láng (1941), Cụ đồ viết câu đối Tết (1940), Tranh Tết làng Hồ (1941), Phố Hàng Buồm (1940), Mái nhà cổ phố Hàng bạc (1956), Cửa Ô Quang Chưởng (1940), Gò Đống Đa (1942), Lầu Khuê Văn và bia Tiến sĩ ở Văn Miếu (1945), Bình Minh trên bãi Phúc Xá (1944), Xe tay ngoại thành (1935), Thu hoạch vụ chiêm (1935), Đông về (Từ Liêm, 1935), Bến thuyền cầu đất (1935), Chợ bán nồi đất (Bưởi, 1935), Chợ Đồng Xuân (1956), Sen Tây Hồ (1941), Thiếu Nữ Hà Nội (1960) Hồ Gươm buổi sương mai (1935), Trong cuộc đời nhiếp ảnh của mình, Võ An Ninh đi khắp mọi nơi trên đất nước ghi lại những khoảnh khắc nghệ thuật vô giá. Một số các tác phẩm để lại: Lăng Hùng Vương (Phú Thọ, 1940), Đỉnh Phăn Xi Păng (Sapa), Buổi sáng ra ruộng muối (Hải Hậu, Nam Định 1945), Bến xưa (Lai Châu, 1952),Núi Tản, Sông Đà (Sơn Tây, 1940), Hương lúa (Hà Đông, 1950), Sông Bạch Đằng (Quảng Yên, 1956), Sảy lúa (Phú Thọ, 1965), Vết tích thành nhà Mạc (Lạng Sơn, 1968), Thác Bản Giốc (Cao Bằng, 1960), Nước ròng bãi Trà Cổ (Móng Cái, 1955), Hồ Ba Bể (Bắc Cạn, 1956), Đi chợ về (Hà Đông, 1953), Điếm canh đầu làng (Nam Định, 1958), Thợ săn Êđê (Buôn Ma Thuột, 1943), Voi tây nguyên (1943), Thiếu nữ Êđê (1943), Suối nắng rừng thông (Đà Lạt, 1951), Cồn cát mủi Né (Phan Thiết, 1945), Nước mắm Phan Thiết (1945), Thiếu nữ Huế (1930), Biển Bạc (Đà Nẵng, 1948), Núi Bà Đen (Tây Ninh, 1952), Bãi thuyền (Vũng Tàu, 1950), Khu phố Ninh Kiều (Cần Thơ, 1948), Ông già Nam bộ (1950), Thốt nốt Hà Tiên (1950), Rừng tràm Long An (1990), Sông Tiền (Mỹ Tho, 1975), Rạch Gầm (Tiền Giang, 1985), Dân chài Xóm Mũi (1976), Rừng đước Cà Mau (1976). Điếm canh đầu làng (Nam Định, 1958) Trong thời kỳ chiến tranh, năm 1972 khi pháo đài bay B-52 đánh phá Hà Nội ác liệt nhất vào những ngày gọi là những "đêm không ngũ", Võ An Ninh cũng như nhiều nhà nhiếp ảnh khác không sợ hiểm nguy để ghi ảnh. Với cụ Võ thì lại rất bình tỉnh với chiếc xe đạp, chiếc nón cối và máy ảnh trung thành của mình đi như đi dạo thong dong khắp Hà Nội tìm khoảnh khắc cơ hội của người nghệ sĩ cũng như những ngày bình thường khác mà thôi trong cuộc đời nhiếp ảnh của cụ. Năm 1987 tôi gặp và hân hạnh biết cụ và một số các nhà nhiếp ảnh ở Hội Nhiếp ảnh Tp Hồ Chí Minh, cơ sở ở 122 đường Sương Nguyệt Ánh mà lúc đó do anh Lâm Tấn Tài còn quản nhiệm. Thời ấy cụ đã hơn 80, tóc và râu dài trắng bạc trông giống như một ông tiên, gây rất nhiều ấn tượng với tôi. Tôi thích nhất là bức ảnh cụ ngồi với một bình rượu và đang chăm chú đánh cờ trên núi mà cụ có nhã ý tặng. Đúng thật là một ông tiên xuất thế. Cụ ngần ấy tuổi nhưng ngày nào cụ cũng đạp xe đạp đi khắp nơi, rất khỏe và tráng kiện. Đó là chưa kể một bàn chân của cụ đã bị cưa mất sau một tai nạn vào năm 1939 khi cụ cởi xe gắn máy ở Hà Nội thì bị một xe tải của một hảng Tây đụng. Cụ được chở vào nhà thương nhưng bàn chân bị cán nát nên phải cưa đi. Sau đó cụ kiện hãng Tây, không nghĩ là sẽ có kết quả gì khi đất nước vẫn còn thuộc Pháp cũng như đi kiện củ khoai, thế mà lại thắng kiện và được đền 3000 đồng Đông Dương, thời đó rất cao. Nhờ đó cụ mua được một mảnh đất và xây một căn nhà 2 tầng ở số 36 phố Tuệ Tĩnh. Sau này lúc vào Saigon, con cháu cụ bán đi và hiện nay là một nhà hàng. Trong những chuyến đi với cụ Võ An Ninh, cụ lúc nào cũng mang theo một máy chụp ảnh xưa cũ từ những năm 1930. Từ chiếc máy bạn đường suốt đời này mà nhiều bức ảnh đã trở thành nổi tiếng. Trong nhà ở Saigon, trên căn phòng của cụ ở lầu một (tầng trệt là cửa hàng bán bàn ghế, giường tủ của các con cháu), cụ có treo một bức ảnh tâm đắc và nổi tiếng “Đôi nét thủy mặc Sapa": cảnh núi buổi sáng sớm hơi sương, đầy mây ở Sapa. Trong những dịp về Saigon, tôi đều đến thăm cụ, ngồi trong phòng nhìn ra từ ban công hàng cây dọc đường Ngô Gia Tự, thật ấm cúng và cảm thấy như đây là nhà của lòng mình vậy. Một trong những kỷ niệm mà tôi nhớ đến nhiều là chuyến đi đạp xe đạp đến khu Bà Quẹo gần phi trường đến thăm nhà thơ Chế Lan Viên. Trước đây trong các anh em văn nghệ sĩ cùng thời và trước kia là bạn với Chế Lan Viên, có nhiều người (nhất là các văn nghệ sĩ trong Nhân Văn Giai Phẩm) không thích ông nữa vì họ thấy rằng ông không còn đến thăm các bạn nữạ và đã bỏ rơi các anh em lúc đó đang bị phê bình và cô lập. Vào thời điểm này Chế Lan Viên đã thay đổi và có lẽ đã hối hận với cách cư xử của mình với các anh em bạn bè văn nghệ sĩ xưa của mình. Tôi nhớ có đọc bài của ông trên báo trong dịp sau khi coi xong cuốn phim "Sám hối" của Cộng Hoà Armenia (thuộc Liên Sô cũ) về xã hội Stalin, Breznev, ông đã nói lên cảm nghĩ của mình rất thật, tự cho mình cũng phải "ăn cá" để sám hối. Ông cũng đã chỉ trích nhẹ nhàng Tố Hữu và lần đầu tiên bênh vực các anh em bạn bè cũ trong nhóm Nhân Văn bị hoạn nạn trong một bài giới thiệu cho một cuốn sách thơ về Huế. Cụ Võ An Ninh đạp xe đạp rành rõi đi vào nhiều đường, ngõ hẻm mà thú thật lúc đó mặc dầu tôi cũng khá quen khu vực mà phải đuổi theo cực nhọc một ông già tóc trắng bạc phơ không lộ ra vẻ mệt mỏi. Trong sân vườn nhiều cây trái, ngồi uống trà cùng với cụ Võ An Ninh và Chế Lan Viên, tôi để ý Chế Lan Viên rất hào hứng có vẻ như trở lại phong cách xưạ của một thi sĩ. Một trong những điều ông muốn làm lúc ấy là lập một nhà bảo tàng hay nhà lưu niệm cho thi sĩ Hàn Mặc Tử ở Qui Nhơn. Ngược lại, cụ Võ An Ninh, trầm ngâm với tách trà sau đó đi dạo quanh vườn, ngắm nghía đủ góc cạnh với cái camera của Đức hiệu Zeiss Ikon rất cũ kỹ (1928) trong tay với cuộn phim đen trắng (cụ không dùng phim màu). Cụ hầu như không còn để ý đến những người đang nói chuyện nữa và tâm trí của cụ, của một nhà nhiếp ảnh đang tìm cơ hội của một giây phút nào đó. Hôm đó cụ chụp vài tấm ở vườn và trước khi ra về có chụp cho chúng tôi một bức ảnh kỷ niệm. Bức ảnh đen trắng này tôi vẫn quí giữ như báo vật từ một nhà nhiếp ảnh đầy phong cách Võ An Ninh. Võ An Ninh, Mộc Châu (1986) Phải nói là trong bộ sưu tập hình ảnh đồ sộ đến hơn 10000 ảnh của nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh, ngoài giá trị nghệ thuật, còn có rất nhiều ảnh có giá trị lịch sử. Ở thành phố Saigon trong giai đoạn 1946-1950, cụ có mặt và ghi lại nhiều hành ảnh như các cuộc biểu tình chống Pháp, chống viếng thăm đầu tiên cảng Saigon của chiến hạm Mỹ Anderson và Sticken. Dưới mắt nhân bản của nhà nghệ sĩ, cụ chụp các ảnh của nhiều người kể cả các thủy thủ non trẻ Mỹ đi trên phố Saigon. Một trong số những bức ảnh chụp ở Saigon có giá trị về nghệ thuật và tư liệu xã hội như "Chợ bến thành và bến xe thổ mộ" (1949), “Cụ đồ viết câu đối Tết” (Saigon, 1950), "Lăng ông ngày tết" (1952), "Nhà thờ Hồi giáo" (1950), "Khói hương chùa bà, Chợ Lớn" (1953), “Thiếu nữ Saigon” (1951), “Qua Cầu” (Thủ Đức, 1953), "Lẻ loi" (1941), "Sóng đôi" (1942), "Vườn Tầm Vông ngoại thành" (1950), "Ngày xá lợi" (1951), "Đêm phục sinh" (1950), "Bình minh trên sông" (1952). Sau ngày giải phóng không lâu, cụ vào Saigon ở hẳn, tiếp tục sự nghiệp nhiếp ảnh và gắn bó với thành phố cho đến khi cụ mất. Năm 1981, Võ An Ninh có triển lãm các tác phẩm nhiếp ảnh rất thành công và không lâu sau đó ở Hà Nội năm 1983. Năm 1991, một số các ảnh trong bộ sưu tập của cụ được Thông Tấn Xã Việt nam xuất bản (*). Cuốn sách in đen trắng trong đó có nhiều bức ảnh bất hủ trong làng nhiếp ảnh Việt Nam. Ủy ban Nhân dân Thành phố Hỗ Chí Minh đã tặng cụ là công dân danh dự của thành phố. Một bộ tư liệu quí giá khác trong bộ sưu tập ảnh của cụ là những cảnh trong nạn đói năm Ất Dậu 1945 mà cụ ghi lại như một chứng nhân những gì mà thực dân Nhật-Pháp đã gây nên ở miền bắc nước ta. Cảnh người chết đói ở đường phố Hà Nội, trên đường từ các tỉnh (mà nặng nhất là Thái Bình) vào thủ đô, xác người đầy được hốt trên xe đẩy.. Xem những hình ảnh này tôi không khỏi xúc động và kinh tởm tội ác của phát xít Nhật và thực dân Pháp. Đây là bộ sưu tập duy nhất và đầy đủ ở Việt Nam về nạn đói 1945. Năm 1994, đài truyền hình Nhật NHK khi làm tư liệu về người Nhật ở Đông Dương trong thế chiến thứ 2 đã đến gặp cụ Võ An Ninh và xin được dùng các ảnh này cho chương trình của họ. Về sau này, có một số người Nhật đến thăm hay làm việc ở Việt Nam có đến nhà để xem bộ sưu tập Võ An Ninh. Họ đều xúc động và xin lỗi về những hành động của quân đội Nhật trước đây. Trong những năm gần đây đầu thế kỷ 21, cụ yếu nhiều, đi đứng khó khăn nhưng cụ rất thích bè bạn đến thăm và đi ra ngoài. Vì thế nhiều lúc các con cháu cụ (có người từ Pháp về) đều phải dẫn cụ đi ra ngoài thăm thú và hòa nhập với xã hội. Ngay công viên trước nhà hát lớn thành phố, có những lúc người dân Saigon nếu để ý sẽ thấy một cụ già tóc, râu bạc dài thanh thản ngắm nhìn cảnh vật và sinh hoạt sinh động chung quanh trong lúc ngồi xe lăn do một người nhà đẩy. Rất ít người biết đấy là nhà nhiếp ảnh lão thành Võ An Ninh, một người mặc dầu ở tuổi sắp xa trời xa đất nhưng cũng muốn hòa nhịp với xã hội. Và theo tôi là cụ nhìn để đón bắt một phút nào đó một thần hồn của đời sống chung quanh dưới con mắt của một người nghệ sĩ. Nhà nhiếp ảnh Võ An Ninh mất đi để lại nhiều nuối tiếc của bao người trong và ngoài nước. (*) Ảnh Võ An Ninh, Nhà in Thông Tấn Xã Việt Nam, 1991.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 24, 2009 10:55:43 GMT 9
Nhiếp ảnh Việt ngày càng cũ mòn Tác giả: Hoài Hương Nhìn vào các cuộc thi ảnh trong nước với sự bảo trợ của Hội NSNAVN thấy rõ ràng sự đi xuống của chất lượng ảnh. Sự sáng tạo có thể nói là “dậm chân tại chỗ” . Các chủ đề, đề tài gần như không thay đổi cho dù đã nhiều năm trôi qua: Việt Nam, đất nước, con người. Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam (NSNAVN)-Vietnam Asociation of Photographic Artists (VAPA), chính thức thành lập tháng 12/1965. Ngày 8-9/12/1965, Đại hội lần thứ I Hội NSNAVN được tổ chức tại Hà Nội với 71 thành viên sáng lập. Ngày 22-24/12/2009, Đại hội nhiệm kỳ thứ 7 Hội NSNAVN được tổ chức tại Hà Nội với trên 500 đại biểu thay mặt cho hơn 800 NSNA trong toàn quốc. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam - Anh là ai? Hội NSNAV ban đầu là Đoàn nhiếp ảnh thuộc Hội Văn nghệ VN được thành lập ở chiến khu Việt Bắc thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Ngày 15/3/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành sắc lệnh 147-SL, thành lập "Doanh nghiệp quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh VN”. Đây chính là đánh dấu sự có mặt của những người làm nghề nhiếp ảnh, trong đó có những NSNAVN bước vào đời sống văn hóa nghệ thuật, góp phần vào công cuộc kháng chiến và kiến quốc của đất nước. Sau Hiệp định Geneve năm 1954, các NSNAVN từ nhiều nguồn đã chung tay đoàn kết phục vụ sự nghiệp chung của đất nước, xây dựng XHCN ở Miền Bắc và cùng đồng bào Miền Nam đấu tranh cho sự nghiệp thống nhất Tổ quốc. Tháng 2/1957, đại hội Văn nghệ toàn quốc họp tại Hà Nội, Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật VN ra đời, trong đó có nhiếp ảnh, lúc đó là “Ban liên lạc NSNAVN”. Và với nhiều hoạt động tích cực đóng góp cho nền nghệ thuật nhiếp ảnh VN, họ đã khẳng định được sự có mặt và vị trí đối với nền văn hóa nghệ thuật VN. Tháng 12/1965, Hội NSNAVN được thành lập. Hình minh họa. Tên ảnh: Don Quảng Ngãi (tác giả: Nguyễn Văn Đảnh). Nguồn ảnh: suutamvagioithieu.com Kể từ đó, qua 6 kỳ đại hội vào nhiều thời điểm khác nhau trong diễn trình lịch sử của đất nước, các NSNAVN đã đồng hành cùng nhân dân và dân tộc. Thời kỳ chiến tranh, NSNAVN cũng là chiến sĩ, không chỉ làm tốt nhiệm vụ người nghệ sĩ-chiến sĩ với tổ quốc mà còn góp phần chuyển những thông điệp lên án chiến tranh phi nghĩa, khơi gợi tinh thần yêu chuộng hòa bình của bạn bè 5 châu 4 biển ủng hộ cuộc kháng chiến giành độc lập và tự do, thống nhất VN. Thời kỳ hòa bình, họ cũng đã góp phần làm đẹp, làm phong phú thêm cuộc sống tinh thần của xã hội, hơn nữa còn góp phần đưa hình ảnh VN ra với bạn bè quốc tế giới thiệu những vẻ đẹp của đất nước, con người, văn hóa VN… Những giải thưởng ảnh trong nước và quốc tế mà NSNAVN đọat được khó đếm hết. Đó cũng là minh chứng cho sự trưởng thành và vị trí của NSNAVN trong đời sống văn hóa nghệ thuật. Nhưng không thể tự ru ngủ thỏa mãn hay quá tự tin vào những gì mà NSNAVN đạt được qua các giải thưởng, nhất là từ năm 2005 - nhiệm kỳ 6 của Hội NSNAVN đến nay, để nói rằng nghệ thuật nhiếp ảnh VN đang sánh vai với các quốc gia phát triển khác. Nhìn vào các cuộc thi ảnh trong nước với sự bảo trợ của Hội NSNAVN thấy rõ ràng sự đi xuống của chất lượng ảnh. Sự sáng tạo có thể nói là “dậm chân tại chỗ” . Các chủ đề, đề tài gần như không hề thay đổi cho dù đã nhiều năm trôi qua: Việt Nam, đất nước, con người. Ảnh đoạt giải vẫn cứ nhà máy, cánh đồng, bà già, người dân tộc, ruộng bậc thang, những cảnh đẹp thiên nhiên bất di bất dịch…. Chỉ khác là ảnh ngày càng được photoshop kỹ càng, nhìn bắt mắt hơn, nhưng giả tạo và vô lý cũng nhiều hơn... Quan trọng nhất là ảnh đoạt giải ít được ai nhớ. Nhìn vào các giải thưởng quốc tế, thì hầu như các NSNAVN chỉ loanh quanh với các cuộc thi do FIAP- Liên đòan nhiếp ảnh nghệ thuật quốc tế, hay PSA- Hội Nhiếp ảnh Mỹ bảo trợ. Và ảnh mang đi thi, phần lớn là sự lặp lại, ít ảnh mới, cho nên nếu nhìn vào số lượng giải thưởng thì nhiều nhưng số ảnh thì không bao nhiêu - 1 ảnh có thể đạt vài chục giải thưởng ảnh do FIAP bảo trợ. Còn như ở các cuộc thi của những tập đoàn về nghệ thuật nhiếp ảnh, các bảo tàng nghệ thuật danh tiếng quốc tế… bảo trợ thì chỉ thường thấy có NSNA quốc tịch ngoại gốc Việt –Việt kiều tham gia, gần đây nhất có một vài NSNAVN đã bắt đầu tiếp cận, đạt giải thưởng, nhưng chưa đạt được thành tích cao như mong muốn. Nếu như trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, Mỹ, những NSNAVN đã tạo dựng được vị trí của nhiếp ảnh VN đối với thế giới, thì sau 35 năm hòa bình, vị trí của nhiếp ảnh VN thật sự vẫn chưa phải là một điểm được chú ý trong bản đồ nghệ thuật nhiếp ảnh thế giới. Vì nếu tính những tác phẩm ảnh được lưu trong các bảo tàng nghệ thuật quốc tế danh tiếng, hay những bức ảnh mà cả thế giới phải sững sờ, run rẩy hay ám ảnh…- một trong tiêu chí đánh giá sự thành công và phát triển của nghệ thuật nhiếp ảnh, thì quả thật VN còn vắng mặt. Phải chăng NSNAVN, cho dù đã được trang bị về kỹ thuật không thua gì các NSNA quốc tế, nhưng chưa đủ khả năng, hay tầm để tiếp cận với nghệ thuật nhiếp ảnh thế giới, khi mà họ có nhiều dòng, nhiều thể lọai, nhiều phong cách, nhiều ý tưởng phong phú… để sáng tạo và thể hiện thành tác phẩm nghệ thuật? Hay NSNAVN không đủ dũng cảm để thay đổi những gì đã có, đã đạt được, mà những điều đó như là con đường có sẵn, không dám mở một con đường mới vì sợ mất danh tiếng? Hay đây là một trong những tồn tại đáng báo động của NSNAVN, họ đã cùn, mòn, lập lại vô hồn những thứ có sẵn, sự sáng tạo bế tắc? Chưa kể có nhiều NSNAVN sáng tạo nghệ thuật không cần thực tế cuộc sống, có khi chỉ cần trong phòng và một máy vi tính với phần mềm photoshop, thậm chí chỉ cần “một cái khay” như của một NSNAVN vừa được FIAP phong tước cao nhất. Đổi mới để có chất lượng “Đổi mới & hội nhập” là tiêu chí chung của rất nhiều ngành, Hội NSNAVN cũng không thể khác được, nếu như muốn có một nhiệm kỳ mới hoạt động thật sự hiệu quả cả về chất lượng nghệ thuật và ảnh hưởng xã hội từ tác phẩm nhiếp ảnh nghệ thuật. Bầu được ban lãnh đạo mới lấy tiêu chuẩn chính trị, liêm chính, chí công vô tư, có trình độ quản lý, trình độ chuyên môn tốt, có uy tín và khả năng đoàn kết, tập họp hội viên, có số lượng và cơ cấu thích hợp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của Hội trong những năm tới. Thực hiện tốt việc chuyển giao thế hệ lãnh đạo hội - Mục đích, yêu cầu & phương châm đại hội (- Nguồn vapa.org.vn) Phải chăng đây sẽ là một nhiệm kỳ với một ban lãnh đạo Hội NSNAVN trẻ hóa? Liệu họ có được sự đồng thuận, gắn kết, uy tín để lãnh đạo Hội nhiệm kỳ mới đổi mới thật sự? Đây là câu hỏi mà cũng là hy vọng. "Nhiệm vụ trung tâm là tiếp tục phấn đấu tạo ra nhiều tác phẩm nhiếp ảnh có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, giàu tính nhân văn, tiếp thu truyền thống dân tộc vá tinh hoa văn hóa nhân loại, đóng góp tích cực vào việc xây dựng một nền văn hóa VN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới VN; Thực hiện tốt phương châm lấy tác phẩm nhiếp ảnh tốt, hoạt động nhiếp ảnh lành mạnh đẩy lùi những họat động văn hóa, văn nghệ tiêu cực đồi trụy, phi nhân tính, đẩy mạnh sáng tác, nghiên cứu lý luận phê bình, quảng bá tác phẩm nhiếp ảnh tới công chúng trong nước và nước ngoài…"- Mục đích, yêu cầu và phương châm đại hội -(Nguồn vapa.org.vn) Nhìn vào nhiệm vụ và mục tiêu này, vẫn chưa thấy có gì khác biệt với sự chung chung, lặp lại như các nhiệm kỳ trước trong hoạt động nghệ thuật. Mong rằng kết thúc đại hội sẽ có những tín hiệu vui cho các NSNAVN trong họat động sáng tạo nghệ thuật.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 8:17:04 GMT 9
Đường nét Trần Công Nhung Toán học định nghĩa đường là do nhiều điểm hợp lại. Hình ảnh một sợi chỉ căng thẳng cho ta khái niệm một đường. Khi nói đến đường thẳng, đường tròn, đường cong, đường gãy...là nói đến đường trong kỹ hà học, dùng để chứng minh các bài toán hình học. Tóan học chỉ có "Đường" mà không có "Nét" và chẳng mang ý nghĩa gì về nghệ thuật. Trước giờ tôi chỉ mới thấy có mỗi nhà thơ Nguyên Sa đưa đường thẳng vào cảm xúc tình yêu. Nếu tôi không lầm thì câu thơ như vầy: "Anh sẽ đến với em bằng con đường ngắn nhất, ngắn hơn con đường thẳng". Đường thẳng ở đây trở nên dễ thương cách lạ lùng. Nhờ nó mà ta thấy rõ mối tình say đắm thiết tha như thế nào. "Nét", chỉ có trong nghệ thuật, chỉ có nơi con người. "Nét" tượng trưng cho một ý niệm đẹp, duyên dáng, bóng bẩy. "Nét" thuộc về tinh thần, về tình cảm. Nó chủ quan và mông lung bất định..."Nét" là yếu tố căn bản của thẩm mỹ. Ngày xưa đi học, môn tập viết coi vậy mà khó nhất. Không những viết cho ngay hàng thẳng lối mà còn phải có nét. Ngòi bút lá tre, khi ấn mạnh cho nét đậm, khi kéo nhẹ cho nét nhạt, có thế chữ viết mới đẹp.. Ta cũng thường nghe nói: "Đời người trong nét bút" và khoa xem chữ ký cũng đã căn cứ vào nét chữ mà đoán vận mệnh con người. Nhìn một người thiếu nữ, ta để ý đến"nét" hơn là "đường". Nét dịu dàng, nét thanh tú, nét duyên dáng.....Đôi khi cũng nhắc đến đường, "đường cong tuyệt mỹ". Nhưng, "đường" thì biểu hiện một cái gì đó rất giới hạn và chóng qua. "Đường" có dài mấy rồi đi cũng đến cùng. "Đường" có khởi đầu và có kết thúc, nó không bền, không vững như "nét". Người xưa nói "Cái nết đánh chết cái đẹp". Nết là "nét" (trừu tượng), đẹp là "đường" (cụ thể). Đẹp mà không có nết thì kém sức thu hút và người ta bảo đẹp vô duyên. Khi nói "đẹp lão" có nghĩa là nhan sắc đã tàn phai nhưng nơi khóe mắt, nụ cười vẫn còn lại những nét riêng biệt mà một thời đã làm cho biết bao nhiêu người xao xuyến. Câu nói thường nghe: "Bà cụ chắc ngày xưa đẹp lắm" chứng tỏ "nét" còn mà "đường" đã mất. "Nét" biểu hiện tính nghệ thuật mạnh nhất khi ta xem một họa phẩm thủy mạc, một bức đại tự (chữ Hán). "Nét vẽ có thần", "Nét bút tài hoa", không ai nói: "Đường vẽ đẹp",hay "Đường bút tuyệt vời". Trong nhiếp ảnh, "Đường" đi đôi với "Nét". Nhiều tác phẩm nhiếp ảnh mang tên "Đường Nét". Nhưng tác phẩm "Đường Nét" thì chụp cái gì? Có phải chỉ cần có hình ảnh những đường ngang dọc, xiên qua chéo lại là mang ngay tên "Đường Nét". Khi nói đến "Đường Nét" ta thấy có hai phần: "Đường" thuộc hình thức, "Nét" nói về nội dung (ý nghĩa, nghệ thuật..). Nếu một tác phẩm chỉ gồm những đường ngang dọc hoặc xiên chéo như một bức họa đồ mà đề "Đường nét" thì tôi nghĩ tác giả đã không hiểu gì về "Đường Nét" và đã lạm dụng từ ngữ hoặc bắt chước nói theo. "Đường" trong nhiếp ảnh là phần cụ thể của sự vật, "Nét" là biểu hiện cảm xúc, tâm hồn của người chụp. Nếu người chụp làm việc như cái máy, tất sẽ không nhìn ra "Nét". Nghĩa là không có cái nhìn. Một hình ảnh rất thường nhưng nhờ "khóe nhìn" của người chụp, tác phẩm sẽ có những "nét" độc đáo. Ngược lại, dù chủ đề có là hoa hậu mà nhìn một cách khô khan mộc mạc thì tác phẩm chỉ là tấm ảnh vô hồn. Có nhiều người chơi ảnh nhưng lại chỉ "chụp hình". Tác phẩm chỉ có "Đường" mà không có "Nét". Một tác phẩm đẹp lộng lẫy nhưng "vô cảm". Đẹp theo kiểu họa đồ, đẹp máy móc, đẹp theo cách biến chế ...Tôi cho loại ảnh này chỉ để trang trí nhà hàng hoặc dùng trong kỹ nghệ quảng cáo. Một tác phẩm "Đường Nét" phải tạo được một cảm xúc nào đó nơi người xem. Ít ra cũng gợi được chút suy tư.... chứ không như xem một bản đồ. Xem một bản đồ thì không ai cảm xúc mà chỉ thấy nhức đầu. Nếu một tác phẩm "Đường Nét" chỉ để cho vui hay lạ mắt, đó không còn là tác phẩm nhiếp ảnh nghệ thuật nữa. Với những thành công của kỹ thuật máy móc mà một bạn trẻ tự hào và cho đó là nghệ thuật thì rồi đây chẳng ai cần đến nhiếp ảnh gia hay họa siõ, nhạc siõ nữa. Tác phẩm bấy giờ sẽ là những thứ đóng hộp như mì gói và chắc chắn giá không đắt. Đấy là những tác phẩm chỉ có "Đường" mà không có "Nét". Nhận xét một tác phẩm ảnh nghệ thuật phải điểm qua nhiều yếu tố, từ bố cục, ánh sáng, màu sắc, và một yếu tố buộc phải có là Đường Nét. Một hôm có người cho tôi xem một lô ảnh chụp một người con gái trong nhiều position khác nhau, nhiều dáng điệu khác nhau. Từ đi đứng đến chân dung, ảnh rất sắc, đúng sáng, màu đẹp. Anh hăm hở xin ý kiến: - Nhờ bác nhận xét giùm. Tôi xem qua một lượt, người mẫu quả là đẹp. Ảnh rất xứng đáng đưa vào Album gia đình. Tôi nói: - Cháu có biết cái đẹp nơi người con gái là gì không? Cái khó chụp nơi người con gái là gì ? Có phải chụp rõ mặt mũi tay chân là đẹp? Người bạn trẻ tỏ vẻ lúng túng. Xin ý kiến, tưởng được trả lời, lại bị hỏi lại. Tôi an ủi: - Học là phải suy nghĩ tìm tòi, phải "đầu tư động não" không nên làm như mì ăn liền. Cháu có nghe mấy bác sĩ trả lời trên Radio? " Không thể chẩn bệnh cho toa qua đài phát thanh". Không những thế, ngày trước có một triết gia (nếu tôi không lầm) còn bảo phải lấy tiền bệnh nhân thật cao, thuốc bán thật đắt, bệnh mới mau lành. Đi tìm nghệ thuật còn khó hơn. Phải nhẫn nại, chịu khó và hy sinh nhiều thứ. - Thưa bác, cháu thấy có anh bạn chụp đại lọai cũng như vầy mà ảnh được vào quốc tế. - Cháu nói không sai, nhiếp ảnh gia LLS có nói :"Nhiều khi cái ảnh nơi này được huy chương, nơi khác ăn cái hột dzịt". Hai nữa cũng tùy "loại quốc tế". - Tùy loại quốc tế là sao bác. - Mỗi tổ chức nhiếp ảnh đều có "cốt cách" riêng, "mục đích" riêng. Đã có lần xem một số tác phẩm của anh em, tôi cứ thẳng thắn nhận xét. Tác phẩm thuộc loại chưa sạch "nước cản". Không dè đó là những tác phẩm đã được acceptance quốc tế. Có lẽ các anh em không vui và nghi ngờ sự hiểu biết của tôi, nhưng dường như cũng chỉ được "quốc tế địa phương" lần đó thôi. - Như vậy, thưa bác làm sao biết giá trị một tác phẩm. - Chà, cái này thì phải dựa trên nhiều yếu tố, nó dông dài lắm. Tôi chỉ khuyên cháu đã chơi thì cố gắng tạo cho mình một bản lãnh, và tự tin. Đừng để bị ám thị vào những hào quang giả tạo. Trở lại vấn đề "Đường Nét", không có "Đường Nét chay" trong nhiếp ảnh. Do đó tác phẩm "Đường Nét" rất khó tạo. Một tác phẩm nhìn vào thấy toàn đường nhưng do tác giả nhìn ra nét' nghệ thuật nên vẫn cho người xem cảm xúc. Nét do đường kết hợp mà thành. Cũng có thể lợi dụng đường nét của bối cảnh ta đưa chủ đề vào, như thế, giải quyết một công hai việc. Những tác phẩm không thuần túy "đường nét", "đường nét" lại càng quan trọng hơn.... Trong sinh hoạt hàng ngày, đề tài nào cũng phong phú đường nét. Chúng ta phải tìm cho ra nét đặc biệt của chủ đề khi bấm máy. Chụp một em bé, một thiếu nữ, một cụ già, cái khó vẫn là nhìn được "nét" độc đáo, chứ không phải chụp cho đầy đủ rõ ràng. Trước cùng một đề tài nhưng mỗi người một tâm trạng, mỗi người một cách nhìn (đường nét riêng) nên sẽ không có hai tác phẩm y hệt nhau "Đường nét" do đâu mà ra ? Tất nhiên là do từ hình thể của chủ đề. Trái banh có đường tròn, cây cột có đường thẳng. Đó là những vật thể đơn thuần, nhưng khi đứng trước những chủ đề phức tạp, tỉ như cảnh trời chiều. Mặt trời mỗi lúc một xuống, tạo những tia nắng như nan quạt, cảnh vật nhuốm màu hoàng hôn, biến đổi..ta phải nhanh mắt bắt kịp giây phút cảnh vật có nét nghệ thuật nổi bật nhất. Có loại đề tài như khoả thân chẳng hạn, nhìn cho ra "nét" nghệ thuật mới "ăn tiền". Ảnh khỏa thân không phải để khai thác các cơ phận của người nữ mà chỉ mượn đường nét cơ thể để cho một giá trị nghệ thuật tạo hình. Khi một nhà nhiếp ảnh nào đó đã nhìn ra "đường nét" của một chủ đề, ta đừng vội cóp pi, hãy suy nghĩ tìm ra cái mới. Chắc chắn đề tài còn đường nét nhìn dưới góc độ khác không kém phần nghệ thuật. Nghệ thuật là sáng tạo. Sao chép không phải nghệ thuật, sao chép là công việc của người thư ký. Hiện nay, giới làm nghệ thuật sao chép (reproduction) khá phổ biến. Tại California có ngay một công ty chuyên đưa sang Trung Quốc đặt hàng sao chép, nhân công bên đó rẽ mạt, chép lại một tác phẩm lớn chỉ mất 20 USD, nhiều họa sĩ dùng cách này rồi chỉ ký vào, xem như chính mình sáng tác. (Họa sĩ business) Có lần tôi được xem những tác phẩm của một nhiếp ảnh gia, trong số có một tác phẩm y trang tác phẩm nhiếp ảnh gia NNH đã chụp trước 75, chỉ khác, trước kia đen trắng, nay màu. Tôi cảm thấy khó chịu, vì xem một thứ hàng giả. Hỏi ra là do thầy dàn giựng và có bao nhiêu học trò, có bấy nhiêu tác phẩm giống nhau. Đường nét nơi tác phẩm là phần thể hiện tần số cảm xúc, là biểu hiện trình độ nghệ thuật của mỗi người, nói nôm là "tay nghề". Con người, nhất là người làm nghệ thuật phải có tần số cảm xúc cao hơn người thường, có thế mới bắt được những dao động của vạn vật tong vũ trụ, mới ghi lại được dáng vẻ đổi thay mỗi mùa, mới thấy: Màu nắng hay là màu mắt em, bàn tay xanh xao đón ưu phiền... (Nắng Thủy Tinh của TCS). Người cầm máy còn vất vả hơn trong khi đi tìm đường nét, nhiếp ảnh cần những cảm xúc qua dao động cụ thể, cảm xúc thật, không ngồi nhà tưởng tượng. Và, những lúc bị lôi đi bởi cảm xúc, người nhiếp ảnh chẳng khác gì người lính ngoài trận địa, súng đã nổ, chỉ biết tiến lên, không từ nan bất cứ khó khăn nào. Đường là thể xác, Nét là tâm hồn . Thể xác dù có hào nhoáng bao nhiêu, cũng tàn tạ theo thời gian, còn tâm hồn, mãi mãi không phai mờ. Trần Công Nhung August 2008 Thuyền trên sông Lam (Ảnh Trần Công Nhung) Hoàng hôn Việt Bắc (Ảnh Trần Công Nhung)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 4:06:36 GMT 9
Người trồng mầm nhiếp ảnh ở Việt Nam
Phanxipăng Đặng Huy Trứ 鄧輝著 (1825 - 1874) từng được Phan Bội Châu tôn vinh qua bộ sách Việt Nam quốc sử khảo biên soạn năm Mậu Thân 1908: đó là một trong những "người trồng mầm khai hóa" cho nước nhà. Mầm do Đặng Huy Trứ ươm gieo mang tên nhiếp ảnh.Sơ lược hành trạng Đặng Huy Trứ Suốt hơn một thế kỷ, từ khi vua Tự Đức nghi ngờ Đặng Huy Trứ "lập mưu khác", sau đó lại có một số người trong gia tộc ông - như Đặng Huy Cát và Đặng Hữu Phổ - bị "xử lý" vì tham gia cuộc khởi nghĩa của vua Hàm Nghi vào năm Ất Dậu 1885, danh tính cùng hành trạng lẫn trước tác của Đặng Huy Trứ ít được nhắc tới. Về sau, vài tài liệu chép tiểu sử ông thì quá vắn tắt mà lại tồn tại những chi tiết chưa tỏ tường. Chẳng hạn tập I Lược truyện các tác gia Việt Nam của nhiều soạn giả (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1971) viết về Đặng Huy Trứ: "Không rõ ông sinh và mất năm nào". Mãi đến thập niên 1990 trở đi, nhờ nhiều nhà nghiên cứu nỗ lực tìm tòi, con người và sự nghiệp một bậc sĩ phu đa tài thuộc thế kỷ XIX ngày càng được phục hiện đầy đủ, rỡ ràng. Đặng Huy Trứ tự Hoàng Trung, hiệu Tĩnh Trai và Vọng Tân, là một danh nhân xuất thân từ Thừa Thiên - Huế. Tổ quán ông ở làng Hiền Sĩ (huyện Phong Điền), đoạn gia đình dời qua làng Bác Vọng (huyện Quảng Điền), rồi lại sang lập nghiệp nơi làng Thanh Lương (huyện Hương Trà). Chính tại ngôi làng Thanh Lương này, Đặng Huy Trứ chào đời ngày 16-5-1825 tức 19 tháng 3 Ất Dậu. Dưới nếp nhà "thế gia nho nghiệp", Đặng Huy Trứ ngay thuở thiếu thời sớm nổi tiếng hiếu hạnh, thông minh, chăm học. Niên hiệu Thiệu Trị thứ III (Quý Mão 1843), mới 18 tuổi, Đặng Huy Trứ đã đỗ cử nhân. 22 tuổi, Đặng Huy Trứ thi tiến sĩ trúng cách, song xét lại bài thi thì thấy... phạm trường quy rất nặng: phạm húy. Thế là ông hỏng tuột, bị truất cả tiến sĩ lẫn cử nhân! Đặng Huy Trứ bèn về quê mở trường dạy học hơn chục năm ròng. Đó là giai đoạn Đặng Huy Trứ thể hiện tấm gương sáng của bậc lương sư đầy năng lực và giàu tâm huyết, mà hậu thế có thể nghiền ngẫm qua di cảo của ông. Ví như sách giáo khoa mang tiêu đề Học vấn tân do Đặng Huy Trứ soạn để dạy bao lứa môn đồ. 32 tuổi, Đặng Huy Trứ mới nhận mệnh triều đình ra tham chính. Khởi sự là phụ trách quân thứ tại tỉnh Quảng Nam vào năm Tự Đức thứ X (Đinh Tị 1857). Kế tiếp, ông được điều ra Thanh Hóa làm thông phán ở dinh Bố chánh, rồi nhiếp biện phủ Quảng Hóa và phủ Hà Trung, đến năm Kỷ Mùi 1859 được bổ nhiệm tri huyện Quảng Xương. Bước vào hoạn lộ trong tình hình đất nước khó khăn mọi bề, Đặng Huy Trứ luôn hết sức chu toàn bổn phận, luôn tìm cách giúp dân "xóa đói, giảm nghèo". Viết bài trâm Tự răn khi làm quan, ông nêu cho bản thân mình nói riêng, cho hàng ngũ quan lại nói chung, phải triệt để tuân thủ 3 điều lớn: thanh liêm, cần cù, thận trọng. Sáng tác hàng loạt áng thơ, Đặng Huy Trứ cũng thường xuyên bộc bạch nỗi niềm yêu nước thương dân. Đây là đôi câu trích dịch từ bài Vũ thọ tiên của ông: Lo dân, chỉ muốn dân đều sướng, Thân nhỏ mà sao trí lự đầy! Nhận thấy tài đức của Đặng Huy Trứ, triều đình Huế triệu ông về kinh đô làm Hàn lâm viện trước tác, rồi giao trọng trách Ngự sử lĩnh chương ấn khoa binh. Ông còn lần lượt trải qua những chức vụ đáng kể: bố chánh Quảng Nam, biện lý Bộ Hộ, thương biện tỉnh vụ Hà Nội, khâm phái thương biện quân vụ Sơn - Hưng - Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hóa và Tuyên Quang), v.v. Năm Đinh Mão 1867, làm bình chuẩn sứ ở Hà Nội - một chức quan trông lo việc xuất nhập khẩu - thì Đặng Huy Trứ soạn Từ thụ yếu quy bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của giới "cha mẹ dân". Riêng nạn hối lộ, ông thẳng thắn vạch ra 104 kiểu. Văn bản này hiện vẫn còn ý nghĩa thời sự, do đó năm 1992, NXB Pháp Lý và Hội Khoa học lịch sử Việt Nam đã ấn hành dịch phẩm. Trước sự xâm lăng của thực dân Pháp, Đặng Huy Trứ sôi sục hờn căm, thể hiện bằng mấy vần: Vận nước xiết buồn đau Chí lớn càng giữ vững Người định ắt thắng trời Địch, ta chẳng chung sống! Ngày 7-8-1874 tức 25 tháng 6 Giáp Tuất, tại mặt trận kháng Pháp ở Đồn Vàng thuộc tỉnh Phú Thọ, Đặng Huy Trứ mất, hưởng dương 49 tuổi. Ông di chúc: con cháu không được ra làm quan; hãy chôn ông ngay tại chiến địa để ông được nằm cạnh các nghĩa binh. Vua Tự Đức ngờ rằng Đặng Huy Trứ "lập mưu khác" nên buộc đưa thi hài ông về Huế để xét nghiệm, thấy vô tội nên cho mai táng tại làng quê Hiền Sĩ, nay là xã Phong Sơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Mọi chuyện chẳng dễ chìm vào quên lãng. Năm 1990, nhóm Trà Lĩnh gồm một số nhà nghiên cứu đã sưu tầm và biên dịch 282 bài thơ lẫn 31 bài văn của Đặng Huy Trứ cùng nhiều chi tiết về nhân thân ông để ấn hành cuốn Đặng Huy Trứ - con người và tác phẩm. Tháng 5-1993, Đại học Sư phạm Huế phối hợp với Bảo tàng tổng hợp Thừa Thiên - Huế và Ủy ban nhân dân (UBND) huyện Phong Điền tổ chức Hội thảo khoa học về Đặng Huy Trứ, bước đầu đánh giá thân thế và sự nghiệp của bậc sĩ phu yêu nước này. Cũng năm đó, mộ phần Đặng Huy Trứ nơi làng Hiền Sĩ cùng nhà thờ họ Đặng ở làng Thanh Lương được Bộ Văn hóa và Thông tin công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia. Từ ấy đến nay, một số vấn đề liên quan Đặng Huy Trứ được khảo sát kỹ càng hơn. Hầu hết giới nghiên cứu đều thống nhất nhận định: Đặng Huy Trứ là bậc trí thức chân chính, là thầy giáo mẫu mực, là tác gia tiêu biểu của văn học Việt Nam thời cận đại. Không chỉ thế, ông còn được xem là nhà chính trị - quân sự - kinh tế - ngoại giao lỗi lạc và liêm khiết. Đặng Huy Trứ cũng là người khai sinh ngành nhiếp ảnh trên đất nước Việt Nam. Tháng 6-1996, UBND TP. Huế quyết định đặt tên Đặng Huy Trứ cho con đường dài 1.050m chạy giữa hai phường Phước Vĩnh và Trường An, từ ngã ba Thánh Giá tới đường Ngự Bình. Đường nọ nguyên là lối mòn dẫn vào cồn mồ Trường Cởi, năm 1990 trở đi thì dần được mở rộng và rải nhựa. Tháng 10-2005, Hội Nhiếp ảnh Thừa Thiên - Huế lạc quyên để đúc tượng đồng Đặng Huy Trứ nhằm dựng trong khuôn viên trường trung học phổ thông Đặng Huy Trứ ở huyện Hương Trà vào niên khóa 2006-2007. Theo lời nhiếp ảnh gia Phạm Văn Tý - chủ tịch Hội - phát biểu đêm chủ nhật 3-9-2006, pho tượng chân dung Đặng Huy Trứ do điêu khắc gia Mai Văn thể hiện, nghệ nhân Nguyễn Văn Tuệ đúc đồng, kinh phí 30 triệu đồng, dựng ngày 15-3-2007. Cảm Hiếu Đường: hiệu ảnh đầu tiên của cả nước Trong đời mình, Đặng Huy Trứ ra nước ngoài ít nhất cũng 2 lần. Lần đầu đi sứ Trung Hoa. Lần sau sang Quảng Châu, Hương Cảng (Hong Kong) và Áo Môn (Macao) nhằm xúc tiến việc ngoại thương vào năm Mậu Thìn 1868, lúc ông làm bình chuẩn sứ Hà Nội. Chính lần công du nước ngoài này, Đặng Huy Trứ rất thích thú tiếp xúc với nhiếp ảnh - bộ môn nghệ thuật mới xuất hiện ở phương Tây - nên đã bỏ công tìm hiểu, đoạn quyết định mua trang thiết bị nghề ảnh đưa về Tổ quốc. Có tài liệu ghi rằng Đặng Huy Trứ từng sắm toàn bộ máy móc, phim, giấy, hóa chất, cùng phụ kiện và phụ liệu cần thiết tại Quảng Đông, đồng thời thuê mướn luôn thợ ảnh lành nghề ở Trung Hoa bấy giờ sang Việt Nam nhằm thực hiện lẫn truyền thụ kỹ thuật. Chưa xác định được thợ ảnh đó bao nhiêu người và họ tên gì. Ngày mùng 2 tháng 2 năm Kỷ Tị, tức 14-3-1869, thực sự là mốc xuất phát cho việc phổ biến nhiếp ảnh khắp cõi Việt: Đặng Huy Trứ khai trương hiệu ảnh Cảm Hiếu Đường ở phố Thanh Hà, Hà Nội. Đó là hiệu ảnh đầu tiên trên toàn quốc. Hiện nay, theo quyết định của Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam, ngày 14-3 hằng năm được chọn làm Ngày Nhiếp ảnh Việt Nam. So với lịch sử nền nhiếp ảnh thế giới, nếu tính từ năm 1839 - năm mà Louis Daguerre được kết nạp vào Viện Hàn lâm khoa học quốc gia Pháp nhờ phát minh quy trình xử lý ảnh mang tên "daguerretype" và cũng là năm Sir John Herschel tìm được cách cố định hình ảnh bằng sulfat natri - thì rõ ràng hồi ấy, nghệ thuật nhiếp ảnh Việt Nam khởi hành chẳng chậm mấy: sau 3 thập niên. Đáng tiếc xiết bao, hiện chẳng bảo lưu được tấm hình nào chụp hiệu Cảm Hiếu Đường! Sản phẩm của Cảm Hiếu Đường thuở nọ lập tức gây tiếng vang khắp gần xa. Thời gian sau, triều đình nhà Nguyễn cử ông Trương Văn Sán xuất dương học "tiểu phép chụp hình" và quy cố hương vào mùa hè năm Mậu Dần 1878. Vua Tự Đức hạ lệnh khiến Bộ Công lập một cơ sở gần cửa Thượng Tứ tại kinh đô Huế để ông Sán chụp ảnh - không chỉ chụp vua cùng hoàng thân quốc thích, mà còn phục vụ quan lại và cả thứ dân, miễn rằng họ thích và chịu trả tiền. Có thể xem tiệm Văn Sán là hiệu ảnh đầu tiên tại Huế và là hiệu ảnh thứ nhì ở Việt Nam. Nhận thấy người Việt quá thích chụp ảnh, một gia đình người Hoa đến Hà Nội mở hiệu ảnh Dung Chương nơi phố Hàng Bồ vào năm Canh Dần 1890, dần phát triển thêm các cơ sở khác nữa như hiệu Dụ Chương nơi phố Hàng Điếu, hiệu Thiên Chân nơi phố Hàng Quạt. Nguyễn Đình Khánh - một người Việt quê làng Lai Xá (huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây) - xin học nghề trong hiệu Dụ Chương năm 1890, đến năm 1896 mở tiệm riêng nơi phố Hàng Da với biển hiệu Khánh Ký. Nhiều hiệu ảnh do người Việt làm chủ lần lượt xuất hiện tại các tỉnh thành, những gia đình thượng lưu bấy giờ còn "tậu" máy hình để "chơi" riêng, nhờ đó nghệ thuật nhiếp ảnh dần phổ cập từ Bắc chí Nam. Đến nay, ở Việt Nam, ngành nhiếp ảnh phát triển mạnh cả chất lẫn lượng và giới cầm máy tự hào có "tổ nghề" là một nhà văn hóa nổi tiếng: Đặng Huy Trứ. Cuối tháng 5-1996, Hội Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam họp ban chấp hành, mở hội nghị Phát triển phong trào nhiếp ảnh, về làng Thanh Lương để long trọng tổ chức lễ dâng hương và đặt phù điêu Đặng Huy Trứ tại nhà thờ họ Đặng. Mọi năm, cứ đến ngày sinh nhật và húy nhật "tổ nghề", đông đảo nghệ sĩ nhiếp ảnh thuộc nhiều thế hệ từ khắp mọi miền lại về đây chiêm bái chân dung Đặng Huy Trứ với tấm lòng "ăn quả nhớ người trồng mầm". Trong khu vực di tích quốc gia này, nên chăng thành lập một Viện Bảo tàng nhiếp ảnh Việt Nam? Tượng đồng Đặng Huy Trứ của điêu khắc gia Mai Văn được dựng giữa sân trường trung học phổ thông Đặng Huy Trứ ở huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ảnh: Phanxipăng Đã đăng trên Thế Giới Mới 453 (10-9-2001)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:08:36 GMT 9
Xem Ảnh(VienDongDaily.Com - 18/03/2008) La Ngà, ảnh Lê Nguyên Anh Cầm cọ thì xem tranh, cầm máy thì xem ảnh. Đấy là vấn đề bình thường của nghề nghiệp. Nhưng xem là một việc, diễn giải lại là việc khác. Thế gian thường có vài cách nói để phê phán những người làm công việc phê bình: “Vẽ rắn thêm chân, thêm mắm dặm muối, có ít xít nhiều, cả vú lấp miệng em, méo mó nghề nghiệp”, v.v. Ngụ ý cho rằng người phê bình phịa ra, nói cho quá chứ thực thì sự việc hay vấn đề không như vậy. Trong đời sống chuyện như thế xẩy ra hàng ngày, không riêng gì nhiếp ảnh hội họa mà mọi sinh hoạt của xã hội, từ chợ búa đến nghị trường. Có thế mới sinh ra nhiều tranh cãi, phản biện, làm cho cuộc sống sinh động hơn, sáng tỏ hơn. Nhiếp ảnh là bộ môn nghệ thuật thường khác nhau về quan niệm sáng tác. Do đó có nhiều “trường phái”, nhiều khuynh hướng đôi lúc trái ngược nhau. Ảnh phóng sự báo chí khác với ảnh chân dung nghệ thuật, ảnh nhìn bởi một nhiếp gia phương Tây khác với một nhiếp ảnh gia nặng về phong tục tập quán phương Đông, lại còn sự khác biệt về chủ đích sáng tác của những người chung một miền. Trước đây khi viết về nhiếp ảnh gia Lê Anh Tài, tôi có nói qua sự đổi thay trong khuynh hướng sáng tác của ông, tác phẩm của ông ghi lại cái nhìn khác nhau qua từng thời kỳ mà không có gì nghịch lý. Với nhiều người khác cũng thế. Hôm nay mời độc giả xem tác phẩm của một vài nhiếp ảnh gia trong nước sáng tác khoảng thời gian sau này. Những tác phẩm theo tôi mang nét mới lạ so với loại tác phẩm nghệ thuật chuyên đề “Thôn nữ cười ôm bó lúa, tay cầm liềm...” một thời khá lâu kể từ sau 75. Những tác phẩm này tôi bắt gặp trên một trang Web. Tác phẩm của 3 nhiếp ảnh gia: Lê Nguyên Anh, Trần Thanh, Nguyễn Trần Vũ. Cả 3 nhà nhiếp ảnh đều thể hiện tác phẩm cùng một cái nhìn hiện thực. Sự vật được ghi nhận như có trước mặt, tuy vậy cảm nhận mỗi người có phần khác nhau. 1. Lê Nguyên Anh với tác phẩm La Ngà. Ai đã đi từ Sài Gòn lên Đà Lạt bằng xe ô tô, tất thế nào xe cũng dừng bên cầu La Ngà cho khách ngắm cảnh làng nổi. Những người thích nhiếp ảnh sẽ được dịp no mắt no máy. Đi từ đầu cầu bên này qua bên kia, có muôn trùng góc cạnh để chụp, không ai giống ai. Lê Nguyên Anh đã chọn hai mái nhà nổi riêng một góc để bố cục tác phẩm của mình. Sự vật dưới mắt Lê Nguyên Anh đã được đơn giản tối đa. Từ màu sắc đến đường nét. Trong cái “mood” đơn giản tỉnh lặng đó vẫn ẩn hiện nét động (khoảng mặt sông soi bóng mái nhà). Như chúng ta đã biết mỗi người tùy tâm trạng mà sự vật được nhìn cách khác nhau. Ngày xưa Thi Hào Nguyễn Du cũng đã viết: “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Tâm thế nào thì cảnh thế ấy. Đối với Lê Nguyên Anh cuộc đời không nên rắc rối phức tạp, không nên màu mè. Thần thánh hóa một ông bình vôi thì bình vôi vẫn bình vôi. Tôi thích cái đơn giản chân chất trong ảnh của Lê Nguyên Anh. Về khía cạnh nghệ thuật, Lê Nguyên Anh đã vận dụng kỹ thuật để cái nhìn mới mẻ hơn mà không phương hại đến tổng thể tác phẩm. Tiến bộ khoa học (nhiếp ảnh) giúp mỗi cá nhân mỗi tâm thức dễ dàng thể hiện cái nhìn riêng biệt của mình. Chúng ta có thể thấy qua màu sắc và đường nét trong ảnh đã lược bỏ rất nhiều. Sự vật nhìn từ con “mắt tâm” khác xa sự vật nhìn từ con “mắt máy”. Nhiều người thật thà cho rằng các nhà nhiếp ảnh ưa hoang đường vẽ chuyện (khuynh hướng sáng tác trừu tượng (Abstract) lại khác) chứ cảnh vật có gì! Nếu không có gì thì xưa nay biết bao người làm văn học nghệ thuật tốn giấy mực, film ảnh, cọ sơn…để chơi sao? Trở về với ảnh La Ngà, tôi thấy tác giả nói lên được cảnh vắng lặng lẻ loi nhưng sống động (mái nhà lớn và bóng nước), sống trong bối cảnh xám đen nghèo đói và chịu đựng mà tươm tất. Cảm nhận sau cùng là câu tục ngữ “Đói cho sạch rách cho thơm”. (Kỳ tới: Ảnh 2 tác giả Trần Thanh và Nguyễn Trần Vũ) Trần Công Nhung
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:09:44 GMT 9
Xem ảnh (2)(VienDongDaily.Com - 24/03/2008) Rổ, ảnh Trần Thanh Trong bài trước, chúng ta có đưa ra quan niệm sáng tác của người xưa: “Đông là Đông, Tây là Tây”, ý nói tư tưởng Đông Tây khó mà gặp nhau. Từ đó mọi hành động suy nghĩ về đời sống khó có trùng hợp. Nhưng, nhiều thập niên qua, nhờ khoa học thông tin phát triển, văn hóa nghệ thuật khắp nơi trên hành tinh này đã có nhiều cơ hội gặp gỡ trao đổi, học hỏi nhau. Ngày nay không ai còn lạ gì một nhiếp ảnh gia Việt Nam có những tác phẩm rất “Tây”, tác phẩm mang tính khai phá mới mẻ, không còn gò bó trong khuôn khổ bài bản hay quan niệm luân lý cổ. Nói như thế không có nghĩa tác phẩm được sáng tác bừa bãi cẩu thả không luật lệ. Chúng ta cũng biết thi ca đã đi từ Thơ Cổ qua Thơ Mới rồi Thơ Tự Do. Dù bài thơ không niêm luật nhưng giá trị vẫn được công nhận. Nhiếp ảnh cũng thế. Điều đáng nói là tác giả có tạo cho người thưởng lãm rung cảm thực sự hay không. Hôm nay chúng ta thử xem tác phẩm của Trần Thanh và Nguyễn Trần Vũ: Nét chung: Khuynh hướng của hai nhà nhiếp ảnh là xoay ống kính vào sinh họat đời thường: Chăn nuôi và bãi cá. 2. Trần Thanh với tác phẩm màu: Rổ. Những chiếc rổ tre màu vàng sậm như hun khói, chất đầy xe để chuyển đi. Chủ đề chính là rổ mặc dù có hai người hiện diện trong hình. Nhìn vào ảnh mà chúng ta bị lôi cuốn bởi chi tiết nào thì đó chính là chủ đề. Ở đây rõ ràng màu sắc, khối lượng và đường nét, nói chung các yếu tố làm nên tác phẩm, đều thuộc về rổ. Tác giả đặt máy ở giữa và nhìn từ dưới lên, do đó “khuếch đại” thêm khối luợng của ảnh, cho người xem cảm giác vẻ vĩ đại và bề thế của chủ đề. Đằng sau chủ đề là bầu trời vần vũ mây đen, đây cũng là điểm hay của tác giả. Tác giả chọn đúng thời điểm và vị trí để diễn tả tối đa phần nội dung: Một cuộc sống vất vả, lành mạnh và chịu đựng. Giả sử background của ảnh là bầu trời xanh mây trắng, nắng rực rỡ thì sao? Chắc chắn người xem sẽ thấy ảnh đẹp nhưng đẹp vô hồn, vì đã không có những chủ điểm tôn vinh cho chủ đề, làm chủ đề nhẹ đi và chỉ là một ảnh bình thường. Bây giờ xét về khí cạnh sáng tạo, sáng tạo tức là đưa ra cái mới mẻ, nhưng “Rổ” thì mới mẻ gì, ai chả biết rổ? Cái mới theo tôi, chính là cách nhìn của người cầm máy. Trước hết tác giả đã mạnh dạn chọn một chủ đề rất đời thường ( từ sắc màu đến vẻ dáng), thứ đến lại nhìn chủ đề một cách mộc mạc chân phương, nhìn ngay chính diện. Loại bố cục này đơn giản nhưng khó vì không dựa trên qui luật rõ ràng và thường chỉ dùng để đóng khung những hình ảnh nghiêm chỉnh. Đây là cách nhìn mang tính mới mẻ (Tây phương), lối nhìn phá cách như có lần tôi đã đề cập khi viết về nhiếp ảnh gia Lê Anh Tài. Với một người chỉ thuộc luật bố cục (3/3) cổ điển sẽ không bấm máy cảnh chồng chất rổ rá này. Không chừng còn chê là vụng về thô thiển. Như đã nói, chủ đích của tác giả muốn đưa cái tầm thường của đời sống vào nghệ thuật, sự vật tầm thường lại nhìn theo lối thường, lối chung chung của mọi người, thì chắc chắn không “ăn khách”. Trần Thanh đã nhìn trực diện sự vật với tính toán riêng của mình. Chúng ta để ý từ dưới chân ảnh, những vành rổ nghiêng chéo, sấp ngửa, chồng dần lên (động) theo hình tháp, làm một đế rất vững cho khối rổ (tĩnh) bên trên (xe). Để giải thích sự liên kết giữa hai trạng thái tĩnh động, tác giả có sẵn hai công nhân đang thao tác.(đây cũng là điểm mới mẻ trong bố cục). Và như thế, với chủ đề này nếu nhìn theo cách cổ điển sẽ khó chụp vô cùng, hoặc chỉ chụp được một vài chi tiết của toàn cảnh mà thôi. Tóm lại theo tôi, Rổ là tác phẩm nhiếp ảnh nghệ thuật rất đáng thưởng lãm, một tác phẩm mới mẻ trong một chủ đề quá quen, nhưng nhờ cách nhìn của tác giả đã làm cho người xem khá thích thú. (Kỳ sau: Theo Đàn, ảnh Nguyễn Trần Vũ) Trần Công Nhung Xem ảnh (3)(VienDongDaily.Com - 01/04/2008) Theo Đàn, ảnh Nguyễn Trần Vũ Hai kỳ trước chúng ta đã xem hai tác phẩm ảnh màu của Lê Nguyên Anh và Trần Thanh, hôm nay tôi xin giới thiệu một ảnh đen trắng, tác phẩm Theo Đàn của Nguyễn Trần Vũ (NTV). Chủ đề ảnh của NTV cũng là hình ảnh dân dã: Cừu. Phan Rang là nơi chuyên nuôi cừu, tôi đã có lần chụp cừu nhưng không may như NTV gặp được đàn cừu đi đầy đường. Lại 2 đàn, đàn sau “Theo Đàn” trước. Trước hết xin nói ngay cách nhìn của tác giả, đây cũng là cách nhìn “thẳng thừng”, nhìn chính diện, không xiên xẹo tránh né hay chọn lựa gì cả. Nhìn như kể lại nguyên câu chuyện. Ai nhìn vào cũng thấy ngay cừu là cừu…Tôi cho là cái nhìn rất mới (vì dám nhìn). Tác giả rất tinh ý chọn thể loại ảnh đen trắng cho đề tài, nhờ tính chất đơn sắc, ánh sáng và đường nét của đám cừu nổi hẳn và tách bạch, không con nào dính con nào. Hình ảnh đám cừu tạo thành một dạng “pattern” vừa lạ mắt vừa đẹp và linh động chứ không xơ cứng như “pattern” trang trí. Những ảnh cừu tôi đã xem là cừu từng đàn dài, hay từng đám gặm cỏ ven đồi, ít có cảnh cừu “hành quân” trên đường lộ như vầy. Con đường cũng là chủ điểm cần cho bức ảnh. Chính nhờ con đường nối hai dàn cừu trước và sau, làm cho tác phẩm Theo Đàn càng thêm ý nghĩa. Nếu hai đàn cừu trên cánh đồng thì chuyện lại khác xa. Nhưng chủ đích của tác giả ở đây có lẽ muốn nhấn mạnh vẻ đẹp của đàn cừu, một vài hàng sau cùng thấy rõ cừu, còn toàn bộ là những quả banh tròn lúp thúp. Nhờ ánh sáng không gắt nên sự tương phản vừa phải, tạo nét hiền hậu ngoan ngoản của đàn cừu. Tôi thích lối nhìn của NTV, có thể nói anh đã thoát ra khỏi những luật tắc cơ bản để ghi nhận cảnh vật theo con mắt của mình. Có thể có một số người khó chịu về lối nhìn “bốp chát” của NTV cũng như của Trần Thanh và Lê Nguyên Anh. Như đã nhận xét, các nhiếp ảnh gia này đều chọn chủ đề phù hợp với cách sáng tác của mình, nói khác đi, họ đã có được khóe nhìn tương xứng với chủ đề. Tất nhiên trong sáng tác có muôn vàn cách thể hiện tác phẩm, và ba tác phẩm chúng ta đã xem cũng có thể “gia giảm điều chỉnh” để tác phẩm “đạt” hơn hoặc mới hơn...Đấy lại phải bước qua phần hai của vấn đề xem ảnh. Trần Công Nhung
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:14:14 GMT 9
Chủ Đề trong Nhiếp Ảnh (1) (VienDongDaily.Com - 08/04/2008) Bài và ảnh: Trần Công Nhung Khi đưa máy ảnh lên ngắm tất nhiên chúng ta đã có chủ đích chụp cái gì, không ai nhìn vào máy, bấm máy mà lại không biết cái mình chụp. Chính sau giây phút bấm máy hình ảnh vẫn còn đọng lại trong trí, có khi ám ảnh người chơi cho đến lúc ra ảnh mới thôi. Cái mà chúng ta chọn lựa để chụp, đó là chủ đề. Tùy theo nội tâm, tùy theo chủ đích của mỗi người mà chủ đề ảnh được chọn lựa khác nhau. Trước cùng một cảnh vật không phải ai cũng chọn chung một chủ đề. Chủ đề cũng có thể thay đổi từng lúc theo cảm hứng của người cầm máy. Một người nhạy cảm và có cái nhìn rành mạch dứt khoát thường quyết định nhanh trong việc chọn chủ đề cho tác phẩm, người mới tập chơi, thường loay hoay tìm kiếm, ngắm lui ngắm tới, tự hỏi “Chụp cái gì, chọn thứ gì, gì cũng đẹp cả, biết bỏ cái nào”, chưa quen trong cách nhìn nên sinh lúng túng. Khi bị khựng trong việc chọn chủ đề thì rất dễ mất cơ hội “làm bàn”. Bởi thế trong những chuyến đi săn ảnh chung, người thì được nhiều tác phẩm, người không có tấm nào. Vậy chủ đề trong nhiếp ảnh là gì? Chúng ta đã biết, việc chọn chủ đề tùy theo trình độ và cảm thức của mỗi người. Người thiên về mô tả sinh hoạt xã hội, người thiên về tình cảm, người thích diễn đạt một ý tưởng, một cảm xúc, có người ngả hẵn về trừu tượng... Do đó có những nhà nhiếp ảnh chỉ chuyên về một loại đề tài. Chụp người, chụp cảnh, chụp dã thú, v.v. Như vậy hình tượng của chủ đề rất đa dạng, khó có một mẫu mực tiêu biểu. Tuy nhiên chúng ta có thể đưa ra một vài trường hợp để thấy rõ hơn. Bước đầu chụp ảnh, chủ đề bao giờ cũng là con người. Đi thực tập sáng tác mà không có người mẫu là không xong. Con người dễ nhận ra, dễ xếp đặt, hơn nữa, giữa người mẫu và người ảnh dễ có những cảm ứng giao hòa về cảm xúc, một yếu tố quan trọng cho tác phẩm. Người mẫu là một khuôn mặt đẹp duyên dáng, có nét độc đáo khác thường (một thiếu nữ đương thì, một lão ông râu tóc bạc phơ) lại càng lôi cuốn người chụp, giúp người chụp nhạy bén hơn. Làm nghệ thuật mà lúc nào cũng “bằng chân như vại” (cứng đơ), thì khó có tác phẩm mê người xem, lôi cuốn người đọc. Người mẫu được đặt vào bối cảnh chọn sẵn, bao nhiêu máy ảnh hướng về chủ đề. Trước một hoạt cảnh ngày mùa nơi thôn dã, hay giữa đường phố đông người, người ảnh sẽ focus vào cái gì. Câu hỏi mở ra vô số cách nhìn khác nhau tùy vào tâm thức mỗi người. Những người mới vào làng ảnh, lòng còn tươi rói chất nghệ thuật, chắc chắn sẽ có cái nhìn dung dị, độ lượng, sẽ đưa chủ đề (người mẫu) vào một khung trời thoáng rộng, có nhà cửa cây cối, có xe cộ với bao người qua lại tấp nập rộn rạng, người mẫu được sống trong một khung cảnh quen thuộc của xã hội mình. Những tay ảnh thâm niên hơn, tâm hồn không còn bồng bột sẽ đóng khung chủ đề vào một góc nào đó của họat cảnh, lại cũng có những người cầm máy đã thấm mệt với nhân tình thế thái thì nhìn chủ đề dưới góc độ nghiệt ngã hơn, đẩy chủ đề vào một bóng tối, cắt một nửa người, có khi chỉ còn lại chòm tóc bay trước gió như muốn trả lại tất cả cho đời mà theo hư không. Chẳng ai giống ai, đó là yếu tính của sáng tạo trong nghệ thuật. Nhưng, hoàn toàn không phải vin vào lẽ đó mà “sáng tác” một cách bừa bãi. (Còn tiếp) Hình 1: Nhìn ôm đồm quá. Hình 2: Chỉ chọn những gì cần thiết.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:18:57 GMT 9
Chủ đề trong nhiếp ảnh (2) (VienDongDaily.Com - 15/04/2008) Bài và ảnh: Trần Công Nhung Năm 74, trong một buổi thực tập sáng tác, tôi đưa một số anh em lên xóm dừa Chợ Mới (Nha Trang). Thấy có nếp nhà tranh vách đất, thềm đá lổ đổ khá hay. Tôi nhờ một bà già ngồi trước thềm khâu áo. Bài học ai cũng thuộc, bây giờ là phút thể hiện cái nhìn của mỗi người. Lúc ra ảnh, hầu như ai cũng giống nhau. Ảnh nào cũng có nguyên ngôi nhà, có cả Bàn Thiên trước sân, cây cối quanh vườn, chủ đề (bà già) còn lại tí ti. Khi được hỏi chụp vậy để làm gì ? Thử phân tích cái đẹp trong ảnh. Không ai nói được, và ai cũng thấy cái hớ của mình. Đã ôm đồm quá nhiều để cuối cùng chẳng nói được bao nhiêu. Nghệ thuật luôn gắn liền với cuộc sống, thế nên thường bị cuộc sống chi phối. Người cầm máy cứ tưởng ảnh cũng như cuộc đời, có bao nhiêu cũng ôm hết vào mình. Nghệ thuật là tôn vinh cái cốt lõi của sự vật. Ban đầu người sáng tác cố giữ trung đạo cho đến khi mình trở thành Siêu Sao, lúc ấy, “đường ta ta cứ đi”. Trong tác phẩm, nếu con người là chủ đề thì tất yếu con người phải có vai trò xứng đáng, nghĩa là khi xem ảnh, vị trí con người trong tác phẩm phải được nổi bật. Chứ không phải lấy con người làm chủ đề rồi muốn đặt vào xó xỉnh nào trong ảnh cũng được. Trong các hoạt cảnh xã hội: Bến tàu, sân ga, nơi sân trường hay trong đình chợ, con người bao giờ cũng là chủ đề của ảnh. Sự khéo léo hơn nhau ở đây là biết chọn lựa chắt lọc, sắp xếp cho một chủ đề, nghĩa là nói được cái dụng ý của người cầm máy. Có những tác phẩm nhìn vào thấy người là người, màu sắc đẹp, nhưng không nói được điều gì cả, một tấm ảnh vô tội vạ. Chủ đề là trái tim của tác phẩm, là tâm sự của tác giả, là câu chuyện gởi đến người xem. Xem một tác phẩm mà không nhận ra chủ đề thì sẽ không hiểu tác giả nói gì, diễn đạt cái gì, tất nhiên tác phẩm sẽ không tạo được cảm xúc nơi người xem, người xem luôn luôn là kẻ xa lạ đối với tác giả. Nhưng làm sao để chủ đề được nổi bật, được nhận ra? Chúng ta đã sang vấn đề khác: Bố cục, đường nét, ánh sáng, những vấn đề trước đây tôi đã nói qua, có dịp sẽ bàn lại. Có người đặt câu hỏi: “Có thật sự lúc nào ảnh cũng cần có chủ đề, và chủ đề phải là con người”? Tất nhiên là không. Có muôn trùng loại chủ đề, từ nhân dáng con người, cỏ hoa sông núi, đến những ý nghĩ trừu tượng, đều có thể là những chủ đề của người làm nghệ thuật. Lắm khi có sự hiện diện của con người lại làm hỏng tác phẩm. Một ngọn lá, một phiến đá, một đóa hoa tàn cũng có thể làm chủ đề, điểm chính là nói cho được dụng tâm của người sáng tác. Có những tác phẩm nhìn qua chẳng thấy gì là chủ đề, nhưng lại tạo được rung cảm sâu đậm nơi người xem. Vấn đề xem ra không đơn giản, chúng ta sẽ trở lại trong những kỳ tới . Chủ Đề Trong Nhiếp Ảnh (3) (VienDongDaily.Com - 22/04/2008) Bài và ảnh: Trần Công Nhung Khi đã chọn con người cho Chủ Đề Nhiếp Ảnh, con người có vị trí sáng bật trong tác phẩm. Đó là điều ai cũng có thể hiểu và chấp nhận cách dễ dàng. Nhưng trong nghệ thuật, đặc biệt về Nhiếp Ảnh, chủ đề không hề bị gò bó giới hạn bởi hình ảnh con người. Mỗi buổi sáng mở cửa sổ nhìn ra ngoài, ta thấy không biết bao hình ảnh của tạo vật trước mắt, vóc dáng và màu sắc thay đổi theo từng mùa. Cây bàng lá đỏ suốt tháng cuối Thu, nay chỉ trơ những cành khẳng khiu trên nền trời Đông ảm đạm. Gặp ngày mưa phùn gió bấc, dòng sông im lìm, một vài con thuyền bất động... Nếu bất chợt chúng ta thấy xao xuyến thì tất cả có thể trở thành chủ đề cho “tác phẩm” mà không nhất thiết phải có sự hiện diện của con người. Không phải chạy tìm người mẫu. Lúc này không cần nhớ bài học, không cần nhớ sách vở, hãy quên hết các bậc thầy để cho lòng khơi dậy những cảm hứng chân thật, chỉ có mình với cảnh, và thể hiện những rung động sống thực lên mặt film. Chủ đề trong những trường hợp vừa kể có thể chỉ là chiếc lá còn sót lại trên cành cây khô, chỉ một hai con đò trên giòng sông mênh mông vắng lặng. Chủ đề, trong nhiều trường hợp lại phát xuất từ trong tâm tưởng của mình chứ không nơi sự vật, chính từ nguồn gốc rung động đó, người ảnh buộc phải kiếm tìm một góc độ cho thích hợp, một nguồn sáng cho ăn khớp với cảnh vật đề hình thành tác phẩm. Chủ đề đôi khi chỉ là một gợi nhớ từ một kỷ niệm xa xưa, nhìn cánh chim bay, nhìn con tàu nhả khói, bỗng dưng kỷ niệm biệt ly lại về, người cầm máy thấy xao xuyến như thấy Tác Phẩm đâu đây. Có sự khác biệt giữa chủ đề và ý đồ của tác giả. Chủ đề là mặt hiện. Hiện là phần thực thể trong ảnh, ý đồ của tác giả mặt ẩn, điều tác giả muốn gởi gắm qua tên gọi, hoặc qua cảm xúc khi xem ảnh. Những tác phẩm có chủ đề rõ ràng, tên tác phẩm chỉ ngay chủ đề như: Hoa Sen, Thu Vàng..., xem ảnh là thấy hoa sen, thấy lá vàng chứ không thấy gì khác. Đôi khi chủ đề ảnh rõ ràng nhưng ý người chụp muốn nói cái gì đó, ẩn tàng sâu hơn chứ không là chính vật chụp. Như hình ảnh chiếc lá vàng rơi lơ lửng, tùy tâm trạng từng người có thể: Ly Biệt, Hợp Tan..Hình Ảnh Cuộc Đời... Tác phẩm mà chủ đề rất bâng quơ, khó nói, tác giả thường gọi “Vô Đề”, bởi chỉ đích danh cái gì đó thì tác phầm sẽ mất ý nghĩa. Chẳng hạn ảnh chụp cái mũ cạnh chiếc nón lá, nếu tựa đề “Nón Mũ” thì sỗ sàng vô duyên, nếu đề “Gặp gỡ” thì cường điệu lố bịch...”Vô Đề” để người xem tự tìm. Những trường hợp như vậy rất nhiều, không nên quá khe khắt để rồi gắn cho tác phẩm những tên rất kêu nhưng rất “cải lương” mà không nói được gì. Có một bạn trẻ mang đến tập sách Đường Vào Nhiếp Ảnh (ĐVNA), anh lật ngay trang 168 và đặt câu hỏi: - Bác có thể giải thích hộ cháu về bức ảnh Motherly Love ? Tôi cầm cuốn sách khá dày, liếc qua thấy tác giả đã phân tích tác phẩm “Tình Mẫu Tử” của nhiếp ảnh gia Cao Đàm, tôi hỏi lại: - Em muốn giải thích về gì, tôi thấy tác giả đã viết đây. - Dạ, về chủ đề của tác phẩm, cháu thấy tác giả bảo chủ đề của ảnh là bà mẹ lu mờ chứ không phải em bé rõ nét, như vậy có trái với lý thuyết sách vở không? Trước câu hỏi bất ngờ, tôi phải “hoãn binh chi kế “: - Em cho tôi mượn cuốn sách vài hôm, sau khi xem xong tôi sẽ có ý kiến.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:22:30 GMT 9
Chủ đề trong nhiếp ảnh (4) (VienDongDaily.Com - 29/04/2008) Bài và ảnh: Trần Công Nhung Người bạn trẻ ra về, tôi đọc ngay quyển sách. Không rõ tập 1 như thế nào, riêng tập 2 quả thật chứa đựng nhiều “đỉnh cao của trí tuệ” nhiếp ảnh. Chương “Đi tìm cái đẹp”, đã khiến tôi ù tai, hoa mắt. Tác giả bảo: “Tôi có cảm thấy đẹp thực thì mới đẹp. Tôi không thể a dua”.(ĐVNA trang 22). Nhưng ngay sau đó tôi phải chạy theo tác giả đến thăm từng bậc thầy để nghe những lời huấn dụ về cái đẹp: Phạm Quỳnh, Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Hiến Lê, Sainte Beuve, Boileau, Platon, Võ Phiến, Kiệt Tấn, Picasso, George Braque, Ansel Adams, Brett Weston, Point Lobos, Catier Bresson, Larteguy, Robert Doisneau, v.v. (còn nhiều nữa). Tôi như người bị ngộp nước, không hiểu tác giả dẫn mình đi đâu. Chỉ cảm thấy tác giả quả là con người vĩ đại phi thường. Phải phi thường mới quen biết dữ vậy. Cũng may, cuối bài tác giả đã cụ thể con đường đi tìm cái đẹp bằng tác phẩm của chính tác giả: “Hoa và đàn 5”, một tác phẩm bình dị đến độ ngây ngô chứ không bí hiểm xa vời như những điều tác giả viết. Theo tôi, chỉ có các bậc thượng thừa may ra mới vào nổi con đường tác giả vẽ. Nhưng một quyển sách “Sáng Tác – Lý Luận – Phê Bình Nghệ Thuật” không thể đơn giản nhận xét dăm ba dòng. Mấy hôm sau người bạn trẻ trở lại. - Thưa Bác, sách vở dạy: Chủ đề là phần chính của ảnh, chủ đề bao giờ cũng được ghi lại cách rõ nét nhất, và được đặt ở điểm mạnh... - Điều em nói rất đúng. - Trong tác phẩm “Tình Mẫu Tử” rõ ràng đứa bé đang ngủ là chủ đề, tại sao tác giả cuốn sách lại bảo không phải? Trước hết, khi xem một tác phẩm nhiếp ảnh, chúng ta nên có một tinh thần độc lập khách quan, nói cách khác, hãy xem chính tấm ảnh. Thông thường nhiều người hay bị tự kỷ ám thị. Hễ nghe đến tên tuổi đã cho là tuyệt hảo rồi. Và cũng vì tinh thần ấy, nhiều người bàn đến nghệ thuật thường trưng mượn ý tưởng của các bậc thầy Đông Tây, rồi lén đứng vào một bên. Người đọc, nhất là những người mới làm quen với nghệ thuật đâm ra khiếp, không khiếp cũng hoang mang. Theo tác giả một hồi là không còn biết mình đi đâu, cũng không tìm được đường về. Nhìn phía nào cũng thấy tác giả mà không nhìn ra điều tác giả mô tả, “Tự nhiên trong lòng sinh ra một thứ kinh sợ, sợ cái tối vĩnh tối đại của tác giả” (nhại văn Hoàng Ngọc Phách). Không khéo sẽ “Tẩu hoả nhập ma”. Thật tình tôi thấy khó giải thích cho người bạn trẻ. Chúng ta thử đọc qua phần nhận xét của người viết sách: ”... Cái bí hiểm nâng ảnh Cao Đàm thành một tác phẩm bất hủ là cái màn. Vâng, chính cái màn nó che bà mẹ đi. Bà mẹ trở nên cái bóng mờ. Vậy nó là nội dung hay hình thức? Như cái màn, bà mẹ trở thành bà mẹ của tất cả các đứa trẻ. Bà mẹ trở thành bà mẹ Việt Nam muôn đời, muôn thuở. Bà mẹ chung của nhân loại. Một biểu tượng tuyệt vời do sự mờ nhòe. Mới xem ảnh thì tưởng là hài nhi là chủ đề, vì em bé rất nét, em nằm sải tay ngủ rất say, hồn nhiên vô tội; nhưng em không là chủ đề, chính bà mẹ ngồi chong đèn rất khuya để may áo, vá áo, xa xa kia mới thật là chủ đề. Mà bà lại mờ mờ, nho nhỏ, gầy gầy. Trước mặt bà là một ngọn đèn dầu và một ấm nước. Nước thì chắc là nguội lắm. Đan lâu quá thì phải khát nước. Có lẽ đêm đã về khuya. Có lẽ dầu đèn gần cạn, bấc đèn gần tàn. Ngày mai bà còn mơ mơ bao công việc. Ngày mai bà còn bao nhiêu vớ đề vá, áo để may, cơ hồ như chẳng bao giờ dứt cả. Trên tường có treo một bức ảnh mờ mờ. Gia đình có vẻ tiểu tư sản (thời 1950 hay 1960). Thời đó, đèn dầu hôi kerosene còn thịnh hành. Ảnh có tỏ có mờ, có ẩn dụ, có chủ đề, có chiều sâu văn hóa...” Tôi có cảm tưởng tác giả cuốn sách là người hàng xóm của bà mẹ trong ảnh. Vì tác giả biết rõ mọi chuyện của bà mẹ. Biết nước đã “nguội lắm”, biết “dầu đèn gần cạn, bấc đèn gần tàn”, biết ngày mai “còn bao nhiêu vớ để vá, áo để may”. (Những điều này có cần thiết cho việc xem ảnh không?)... Tác giả mô tả thật tỉ mỉ những chi tiết của ảnh mà người xem không thấy, hay thấy mà ngược với tác giả. Chẳng hạn bà mẹ trong ảnh mập tròn, đầy đặn thế kia mà bảo “nho nhỏ gầy gầy”. Phải nói như vậy để ảnh có “chiều sâu văn hóa” (!) chăng. Tôi mà có tài viết như tác giả tôi sẽ viết thêm như vầy: “... và tuy ngồi vá áo trong đêm khuya nhưng tâm hồn người mẹ đang theo từng bước của người cha ngoài chiến địa. Mẹ ở nhà một nắng hai sương, cha nơi chiến trường đầy lửa đạn. Hậu phương có mẹ, tiền tuyến có cha, tất cả hy sinh cho tương lai tuổi trẻ, v.v.”, cứ thế thì chẳng mấy chốc cuốn sách lên ngàn trang. Xem ảnh hóa ra đọc tiểu thuyết nghị luận! Chủ đề trong nhiếp ảnh (5) (VienDongDaily.Com - 06/05/2008) Bài và ảnh: Trần Công Nhung [Bên mái chùa] “Tán” như thế cũng đã quá dài, bây giờ trở lại vấn đề người bạn trẻ đặt ra: Tác phẩm “Tình Mẫu Tử”, chủ đề là gì? Theo tôi, bất cứ ông Tây bà Đầm nào xem ảnh này cũng đều nhận chủ đề của ảnh là em bé. Lý thuyết căn bản về nhiếp ảnh chắc chắn xác nhận điều này. Và tôi nghĩ người chụp cũng cho như thế. Nhiếp ảnh gia có lẽ mất khá nhiều thì giờ để chụp được giấc ngủ say của bé. Bé ngủ thật chứ không phải giả bộ. (Xem các chi tiết trên khuôn mặt). Từ ánh sáng, độ nét, vị trí, đều chứng tỏ em bé mới là chủ đề ảnh. Tất cả còn lại chỉ là bối cảnh thứ yếu. Rõ ràng nhiếp ảnh gia đã cố ý đưa tất cả phần phụ vào vùng mờ nhòe. Cái mà người ảnh muốn xây dựng là em bé, chính em bé mới là chủ đề. Riêng bối cảnh, nếu được, tôi sẽ cho bà mẹ ngồi phía xa bên góc trái để khỏi đè lên chủ đề, và nên chọn người mẹ gầy. Người bạn trẻ tuy đã hài lòng nhưng còn hỏi vặn: - Vậy bác nghĩ sao lời nhận xét của người viết sách? - Chúng ta nên tôn trọng ý kiến của mọi người. Không nên quá thắc mắc về những lời bàn. Không riêng gì nhiếp ảnh, các địa hạt khác cũng lắm hiện tượng như thế. Điều làm tôi phân vân là chính nhiếp ảnh gia Cao Đàm “phải hãnh diện” về cuốn sách và ông còn hy vọng tác giả “viết tiếp sách cho những người tự học”. Nếu tự học mà thành công với loại sách như thế, chắc chắn người học thuộc loại thần đồng. Chủ đề trong nhiếp ảnh bao giờ cũng cụ thể và được xác định bằng những nguyên tắc căn bản trong nghệ thuật tạo hình. Còn chủ đích hay ý đồ của người chụp gởi gắm trong tác phẩm thì khôn cùng. Lắm khi người xem gán cho tác phẩm những ý tưởng mà chính tác giả không bao giờ nghĩ đến. Ngược lại, cũng có những tác phẩm được xây dựng từ những ý tưởng rất đặc biệt của tác giả mà người xem ít khi suy đoán ra. Mọi diễn biến trên đời đều tương đối vì nó lệ thuộc vào nhiều yếu tố của cuộc sống. Nghệ thuật càng phức tạp hơn, phê bình nhận xét chẳng qua chỉ là cảm nhận chủ quan của cá nhân trong một hoàn cảnh nhất định. Xã hội đổi thay, văn hoá đổi thay, đời sống không ở mãi trong khuôn khổ cố định, con người sẽ suy nghĩ khác, cảm xúc khác. Tôi xin mượn lời một vị giáo chủ để kết bài: “Đến mà nghe chứ đừng có tin”. Xem ảnh cũng thế, đừng bị ám thị bởi những lời bàn của bất cứ ai, cho dù đó là bậc thầy. Vien Dong Daily News
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:26:15 GMT 9
Đường nét trong nhiếp ảnh (1) (VienDongDaily.Com - 13/05/2008) [Đồi cát Dead Valley] Bài và ảnh: Trần Công Nhung Toán học định nghĩa đường là do nhiều điểm hợp lại. Hình ảnh một sợi chỉ căng thẳng cho ta khái niệm một đường. Khi nói đến đường thẳng, đường tròn, đường cong, đường gãy... là nói đến đường trong kỹ hà học, dùng để chứng minh các bài toán hình học. Tóan học chỉ có "Đường" mà không có "Nét" và chẳng mang ý nghĩa gì về nghệ thuật. Trước giờ tôi chỉ mới thấy có mỗi nhà thơ Nguyên Sa đưa đường thẳng vào cảm xúc tình yêu. Nếu tôi không lầm thì câu thơ như vầy: "Anh sẽ đến với em bằng con đường ngắn nhất, ngắn hơn con đường thẳng". Đường thẳng ở đây trở nên dễ thương cách lạ lùng. Nhờ nó mà ta thấy rõ mối tình say đắm thiết tha như thế nào. "Nét", chỉ có trong nghệ thuật, chỉ có nơi con người. "Nét" tượng trưng cho một ý niệm đẹp, duyên dáng, bóng bẩy. "Nét" thuộc về tinh thần, về tình cảm. Nó chủ quan và mông lung bất định..."Nét" là yếu tố căn bản của thẩm mỹ. Ngày xưa đi học, môn tập viết coi vậy mà khó nhất. Không những viết cho ngay hàng thẳng lối mà còn phải có nét. Ngòi bút lá tre, khi ấn mạnh cho nét đậm, khi kéo nhẹ cho nét nhạt, có thế chữ viết mới đẹp. Ta cũng thường nghe nói: "Đời người trong nét bút" và khoa xem chữ ký cũng đã căn cứ vào nét chữ mà đoán vận mệnh con người. Nhìn một người thiếu nữ, ta để ý đến"nét" hơn là "đường". Nét dịu dàng, nét thanh tú, nét duyên dáng... Đôi khi cũng nhắc đến đường, "đường cong tuyệt mỹ". Nhưng, "đường" thì biểu hiện một cái gì đó rất giới hạn và chóng qua. "Đường" có dài mấy rồi đi cũng đến nơi. "Đường" có khởi đầu và có kết thúc, nó không bền, không vững như "nét". Người xưa nói "Cái nết đánh chết cái đẹp". Nết là "nét", đẹp là "đường". Đẹp mà không có nết thì kém sức thu hút và người ta bảo đẹp vô duyên. Khi nói "đẹp lão" có nghĩa là nhan sắc đã tàn phai nhưng nơi khóe mắt, nụ cười vẫn còn lại những nét riêng biệt mà một thời đã làm cho biết bao nhiêu người xao xuyến. Câu nói thường nghe: "Bà cụ chắc ngày xưa đẹp lắm" chứng tỏ "nét" còn mà "đường" đã mất. "Nét" biểu hiện tính nghệ thuật mạnh nhất khi ta xem một họa phẩm thủy mạc, một bức đại tự (chữ Hán). "Nét vẽ có thần", "Nét bút tài hoa", không ai nói: "Đường vẽ đẹp",hay "Đường bút tuyệt vời". Trong nhiếp ảnh, "Đường" đi đôi với "Nét". Nhiều tác phẩm nhiếp ảnh mang tên "Đường Nét". Nhưng tác phẩm "Đường Nét" thì chụp cái gì? Có phải chỉ cần có hình ảnh những đường ngang dọc, xiên qua chéo lại là mang ngay tên "Đường Nét". Khi nói đến "Đường Nét" ta thấy có hai phần: "Đường" thuộc hình thức, "Nét" nói về nội dung (ý nghĩa, nghệ thuật). Nếu một tác phẩm chỉ gồm những đường ngang dọc hoặc xiên chéo như một bức họa đồ mà đề "Đường Nét" thì tôi nghĩ tác giả đã không hiểu gì về "Đường Nét" và đã lạm dụng từ ngữ hoặc bắt chước nói theo. "Đường" trong nhiếp ảnh là phần cụ thể của sự vật, "Nét" là biểu hiện cảm xúc, tâm hồn của người chụp. Nếu người chụp làm việc như cái máy, tất sẽ không nhìn ra "Nét". Nghĩa là không có cái nhìn. Một hình ảnh rất thường nhưng nhờ "khóe nhìn" của người chụp, tác phẩm sẽ có những "nét" độc đáo. Ngược lại, dù chủ đề có là hoa hậu mà nhìn một cách khô khan mộc mạc thì tác phẩm chỉ là tấm ảnh vô hồn. Có nhiều người chơi ảnh nhưng lại chỉ "chụp hình". Tác phẩm chỉ có "Đường" mà không có "Nét". Một tác phẩm đẹp lộng lẫy nhưng "vô cảm". Đẹp theo kiểu họa đồ, đẹp máy móc, đẹp theo cách biến chế ...Tôi cho loại ảnh này chỉ để trang trí nhà hàng hoặc dùng trong kỹ nghệ quảng cáo mà thôi. Đường nét trong nhiếp ảnh (2) (VienDongDaily.Com - 19/05/2008) Bài và ảnh: Trần Công Nhung [Bóng đổ] Mới đây trong một chuyến đi săn ảnh nhân bàn về kỹ thuật, tôi có nhắc lại câu nhận xét của một nhiếp ảnh gia thuộc hàng hậu bối mà chính tôi được nghe. Ông ta bảo "Kỹ thuật của cụ Mùi (nhiếp ảnh gia lão thành đã qua đời) là thứ trẻ con”. Tôi không đồng ý, vì nhận xét này để lộ hai điều: Thứ nhất là thái độ trịch thượng, ông chưa hề có một tác phẩm kỹ thuật để có thể ngồi cùng bàn với cụ Mùi, thì tư cách gì mà phê phán. Điều thứ hai chứng tỏ nhà nhiếp ảnh này chỉ thấy giá trị kỹ thuật ở "Đường" mà không thấy ở "Nét". Có một bạn trẻ kịch liệt lên tiếng bênh vực lập trường của nhà nhiếp ảnh. Bạn ấy bảo: - Ổng nói không sai, vì tôi biết ổng có đi học mấy khóa nhiếp ảnh ở College, tôi cũng đã học 4-5 năm. Trong đại học người ta dạy đủ mọi thứ kỹ thuật. Kỹ thuật của cụ Mùi đúng là chẳng thấm gì so với bây giờ. Tôi thấy anh này có vẻ tự hào về sở học của mình và nông nổi. Một người học gia chánh với hàng chục vua bếp mà không nấu được một món ra hồn thì bằng cấp nhà bếp cũng chỉ để treo chơi. Anh bạn trẻ cố dẫn ra những bậc thầy tiếng tăm trong trường anh học để đánh bạt thứ kỹ thuật mà anh cho là đa phần các nhà nhiếp ảnh Việt Nam chỉ học lóm để trộ nhau. Thế là trên xe dường như mọi người đều chỉa mũi dùi về phía anh. Một người hỏi vặn: - Anh nói vậy chắc lâu nay anh có nhiều tác phẩm lắm. - Tôi chỉ có hình chứ không có tác phẩm. Tôi không bao giờ nói hình mình chụp là tác phẩm. Ai muốn xem hình cỡ nào tôi cũng có, đen trắng hay màu. Nhưng phải người xứng đáng mới cho xem. Đến đây, tôi thấy anh bạn trẻ đã để lộ cái tâm ngã mạn. Tôi nói cho anh bớt tự ái: - Em nói chí lý, khiêm nhường như vậy là đáng khen. Các nhà nhiếp ảnh Việt Nam trước đây tự mày mò tìm ra các thứ kỹ thuật trong buồng tối, đúng vậy. Vì cả nước Việt chỉ có mấy trường đại học dạy chữ, lấy đâu có trường dạy kỹ thuật nhiếp ảnh. Nhưng kỹ thuật của họ là để thể hiện nghệ thuật chứ không phải để biểu diễn như những nhà ảo thuật trong đoàn xiếc. Họ không làm việc như các nhà khoa học. Cái giá trị của nhà nhiếp ảnh là ở tác phẩm chứ không phải cái biết thuần tuý hay ở công trình nghiên cứu. Tất nhiên cái gì cũng có phần ngoại lệ, cũng có đôi người lợi dụng kỹ thuật để lòe chơi. Anh bạn trẻ làm thinh nhưng xem ra còn ấm ức lắm... và cứ kéo Ansel Adams và mấy giáo sư của anh vào vòng tranh luận... Một tác phẩm "Đường Nét" phải tạo được một cảm xúc nào đó nơi người xem. Ít ra cũng gợi được chút suy tư... chứ không như xem một bản đồ. Xem một bản đồ thì không ai cảm xúc mà chỉ thấy nhức đầu. Những đường ngang dọc chi chít trên bản đồ đôi lúc thấy cũng lạ nhưng đấy không là đường nét của tác phẩm. Nếu một tác phẩm "Đường Nét" chỉ để cho vui hay lạ mắt, đó không là tác phẩm nghệ thuật nữa. Với những thành công của kỹ thuật máy móc mà anh bạn trẻ tự hào và cho là nghệ thuật thì rồi đây chẳng ai cần đến nhiếp ảnh gia hay họa sĩ, nhạc sĩ nữa. Tác phẩm bấy giờ sẽ là những thứ đóng hộp như mì gói và chắc chắn giá không đắt. Đấy là những tác phẩm chỉ có "Đường" mà không có "Nét". Đường nét trong nhiếp ảnh (3) (VienDongDaily.Com - 27/05/2008) Bài và ảnh: Trần Công Nhung [Đường nét] Một hôm có người cho tôi xem một lô ảnh chụp một người con gái trong nhiều position khác nhau, nhiều dáng điệu khác nhau. Từ đi đứng đến chân dung, ảnh rất sắc, đúng sáng, màu đẹp. Anh hăm hở xin ý kiến: - Nhờ bác nhận xét giùm. Tôi xem qua một lượt, người mẫu quả là đẹp. Ảnh rất xứng đáng đưa vào Album gia đình. Tôi nói: - Cháu có biết cái đẹp nơi người con gái là gì không? Cái khó chụp nơi người con gái là gì? Có phải chụp rõ mặt mũi tay chân là đẹp? Người bạn trẻ tỏ vẻ lúng túng. Xin ý kiến, tưởng được trả lời, lại bị hỏi lại. Tôi an ủi : - Học là phải suy nghĩ tìm tòi, phải "đầu tư động nảo" không nên làm như mì ăn liền. Cháu có nghe mấy bác sỹ trả lời trên Radio? " Không thể chẩn bệnh cho toa qua đài phát thanh". Không những thế, ngày trước có một triết gia (nếu tôi không lầm) còn bảo phải lấy tiền bệnh nhân thật cao, thuốc bán thật đắt, bệnh mới mau lành. Đi tìm nghệ thuật còn khó hơn. Phải nhẫn nại, chịu khó và hy sinh nhiều thứ. - Thưa bác, cháu thấy có anh bạn chụp đại lọai cũng như vầy mà ảnh được vào quốc tế. - Cháu nói không sai, nhiếp ảnh gia LLS có nói :"Nhiều khi cái ảnh nơi này được huy chương, nơi khác ăn cái hột dzịt". Hai nữa cũng tùy "loại quốc tế". - Tùy loại quốc tế là sao bác. - Mỗi tổ chức nhiếp ảnh đều có "cốt cách" riêng, "mục đích" riêng. Năm trước đây có mấy người cho tôi xem một số tác phẩm tôi cứ thẳng thắn nhận xét. Tác phẩm thuộc loại chưa sạch "nước cản". Không dè đó là những tác phẩm đã được acceptance quốc tế. Có lẽ các anh em không vui và nghi ngờ sự hiểu biết của tôi, nhưng dường như cũng chỉ được "quốc tế địa phương" lần đó thôi. - Như vậy, thưa bác làm sao biết giá trị một tác phẩm. - Chà, cái này thì phải dựa trên nhiều yếu tố, nó dông dài lắm. Tôi chỉ khuyên cháu là chơi thì cố gắng tạo cho mình một bản lãnh, tự tin. Đừng để bị ám thị vào những hào quang giả tạo. Trở lại vấn đề "Đường Nét", không có "Đường Nét chay" trong nhiếp ảnh. Do đó tác phẩm "Đường Nét" rất khó tạo. Có thể lợi dụng đường nét của bối cảnh ta đưa chủ đề vào, như thế, giải quyết một công hai việc. Trong những tác phẩm không thuần túy "đường nét" chúng ta cũng cần để ý "đường nét". Chụp một em bé, một thiếu nữ, một cụ già, cái khó vẫn là nhìn cho ra cái "nét" độc đáo, chứ không phải chụp cho đầy đủ rõ ràng. "Đường nét" do đâu mà ra? Tất nhiên là do từ hình thể của chủ đề. Trái banh có đường tròn, cây cột có đường thẳng. Đó là những vật thể đơn thuần, nhưng khi đứng trước những chủ đề phức tạp, tỉ như cảnh trời chiều. Mặt trời mỗi lúc một xuống, tạo những tia nắng như nan quạt, cảnh vật nhuốm màu hoàng hôn, biến đổi..ta phải nhanh mắt bắt kịp giây phút cảnh vật có nét nghệ thuật nổi bật nhất. Có loại đề tài như khoả thân chẳng hạn, nhìn cho ra "nét" nghệ thuật độc đáo mới "ăn tiền". Ảnh khỏa thân không phải để khai thác các cơ phận của người nữ mà chỉ mượn đường nét trên cơ thể họ mà thôi. Khi ta thấy một nhà nhiếp ảnh nào đó đã nhìn ra một "đường nét" của một chủ đề, xin đừng vội cóp pi, suy nghĩ để tìm ra cái mới. Nghệ thuật đi liền với sáng tạo. Sao chép không phải nghệ thuật, đó là công việc của người thư ký. Có lần tôi được xem những tác phẩm của một nhiếp ảnh gia, trong số có một tác phẩm y chang tác phẩm nhiếp ảnh gia NNH đã chụp trước 75, chỉ khác là, trước kia đen trắng, nay màu. Tôi cảm thấy khó chịu, vì xem một thứ hàng giả. Hỏi ra là do thầy dàn dựng và có bao nhiêu học trò, có bấy nhiêu tác phẩm giống nhau. Đường nét nơi tác phẩm là thể hiện tần số cảm xúc, là biểu hiện trình độ nghệ thuật của mỗi người, nói nôm là "tay nghề". Một Radio tốt là một Radio "nhạy cảm", nghĩa là có đủ mọi tần số để bắt tất cả các đài. Trái lại sẽ cho âm thanh không rõ ràng, lắp ba lắp bắp. Không trúng trật vào đâu. Tôi nghĩ "Nghệ sĩ Nhiếp ảnh" cũng vậy. Vien Dong Daily News
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:28:25 GMT 9
Mắt người và mắt máy (VienDongDaily.Com - 03/06/2008) Bài và ảnh: Trần Công Nhung [Thiếu nữ Thái Tây Bắc] Lúc nhìn sự vật, mỗi người nhìn một cách khác nhau mặc dầu về cơ thể học, mắt người đều cấu tạo giống nhau. Có sự sai biệt là do khác nhau về nhận thức. Một người có học Hội Họa, có học Nhiếp Ảnh sẽ nhìn cảnh vật khác với người không học. Bởi vậy lắm khi đứng trước một cảnh vật, có người khen đẹp nức nở trong lúc người chơi ảnh chẳng thấy gì đáng chụp, nghĩa là chẳng đẹp chút nào. Trái lại, có những cái người chê xấu thì nhiếp ảnh gia lại bấm máy say mê. Như thế về phương diện Nhiếp Ảnh xấu đẹp, nghệ thuật hay không, là do cái nhìn khám phá chứ chẳng phải do máy móc. Đưa một cái máy thật tốt cho một người không am hiểu Nhiếp Ảnh thì cũng chẳng khác gì giao bút máy vàng cho người mù chữ vậy. Thế nên, cái nhìn (mắt) của người ảnh là chính, cái nhìn của máy ảnh (ống kính) là phụ. Máy chỉ làm công việc trung gian ghi nhận chuyển đạt sự vật. Nói như vậy không có nghĩa máy thế nào cũng được. Máy càng tốt càng giúp sự diễn đạt của người chơi càng cao. Có một điều khác biệt nữa giữa Mắt và Máy: Mắt bị sự vật (hình dáng, màu sắc) đánh lừa nhưng Máy thì không, Máy thấy sao ghi lại vậy, không bị chi phối bởi tình cảm. Điều này rất dễ thấy: Khi lớp học đứng trước một phong cảnh hoặc một đề tài nào thì mắt người ảnh bị thu hút trước, nào hình dáng, đường nét màu sắc, chuyển động... làm cho mắt thấy đẹp tức khắc (lóa mắt), sau đó, máy làm công việc ghi hình. Khi ra ảnh chẳng thấy nghệ thuật đâu chỉ thấy màu sắc, người vật loạn xạ, không sao chọn lựa được. Để tránh tình trạng trên, bất cứ trước cảnh vật nào, người chơi ảnh (nhất là thời kỳ tập sự) cũng bình tĩnh quán xét: Chụp cái gì? Loại bỏ cái gì? Chụp như thế nào? Đứng góc độ nào đắc ý nhất? v.v. Thời gian đầu dĩ nhiên là chậm chạp, nhưng khi thói quen đã trở thành phản xạ thì mọi việc diễn tiến rất nhanh, có khi chỉ trong nháy mắt. Điều quan trọng để có một phản xạ trong việc sáng tác là giáo khoa căn bản phải nằm lòng và phải được thực tập nhuần nhuyễn. Có những người cầm máy năm ba năm mà vẫn mò mẫm chọn lựa tác phẩm sau mỗi chuyến sáng tác một cách quá vất vả, chẳng hơn gì người mới tập chụp, có khi còn chẳng biết lấy, bỏ như thế nào. Đó là do sự tự mãn, nghĩa là cho mình đã biết rồi không cần học hỏi gì nữa. Kết quả của nghệ thuật không như của khoa học. Khoa học làm một cuộc thí nghiệm là thấy ngay kết quả với những con số rõ ràng. Trái lại nghệ thuật là thể hiện rung động của tâm hồn lên tác phẩm, khó mà mô tả hay qui định như thế nào. Nó là một phản-ứng-tức-thì giữa người sáng tác và sự vật, giữa người xem và tác phẩm. Nói nghe có vẻ mơ hồ, nhưng đã là phản ứng của tâm hồn thì làm sao cụ thể được. Chỉ nhờ qua trung gian tác phẩm. Từ nội tâm hiện lên "cửa sổ" (đôi mắt) là một công đoạn, từ "cửa sổ" ra tác phẩm còn qua nhiều "công đoạn" khác mà người cầm máy phải tự tìm tòi học hỏi, chiêm nghiệm, chứ không thể dùng thế lực sai khiến hay hóa phép được. Trong sáng tác cũng có yếu tố hên xui, nhưng quan trọng vẫn do chúng ta có nhìn thấy, có nhận ra giá trị sự vật hay không. Kim cương hột xoàn mà cho là sỏi đá thì phỏng có ích lợi gì? Ngược lại phô trương những thứ trang sức giả thì cũng chỉ để vui mắt chốc lát thôi, không phải là của báu để đời. Vien Dong Daily News
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:29:31 GMT 9
Đợi Chờ(VienDongDaily.Com - 09/06/2008) Ảnh: “Đợi Chờ” của Trần Thanh Sơn Bài: Trần Công Nhung Khi chụp ảnh màu hay đen trắng, điều quan trọng là chọn bối cảnh để đưa chủ đề vào. Giáo khoa bao giờ cũng khuyên nên có một bối cảnh giản dị, màu sắc đằm một chút, chớ quá sặc sỡ so với chủ đề. Mục đích tạo sắc độ nổi bật cho chủ đề. Có bối cảnh rồi thì chủ đề tùy người chụp. Tùy ý tưởng người chơi, muốn nói gì, muốn trình bày quan niệm cái đẹp của mình như thế nào, v.v. Đặt chủ đề vào điểm mạnh là có tác phẩm. Nghĩa là "trả đúng bài", còn hay dở là chuyện khác. Lần này chúng ta cùng xem tác phẩm của Trần Thanh Sơn: Đợi Chờ. Thoạt nhìn, chủ đề đập ngay vào mắt người xem. Sự tương phản màu sắc rõ rệt mà không gắt, không như tương phản giữa trắng và đen. Những thân cây màu xám pha xanh, loáng thoáng những vệt trắng, chiếc áo dài đỏ vẽ xuống một sọc. Màu áo đỏ lại được tách ra khỏi mặt đất đầy vỏ cây nâu thẫm. Màu sắc tách bạch rõ ràng, chủ đề và bối cảnh không chi tiết nào lẫn lộn. Hậu cảnh lại “out focus” và sắc độ nhẹ hơn, nên những đường nét phụ của ảnh (thân cây) vẫn được nhận ra rõ. Những đường nét này đã tạo chiều sâu cho ảnh. Bố cục rất chỉnh, nghĩa là chủ đề nằm ngay boong đường mạnh (1/3). Đi vào chi tiết, Trần Thanh Sơn có ưu điểm về chỉnh nét (nét từ cây đầu đến cây cuối), bấm máy ở thế ngồi, làm cho chủ đề cao lên, hàng cây chạy xéo, tạo hiệu quả viễn cận sâu. Sơn bấm máy đúng lúc có ngọn gió thổi qua, tà áo tung lên, vẽ một mảng màu đỏ linh động, người mẫu sống hơn. Toàn ảnh im lìm, nhờ mảng màu này mà ảnh trở nên động. Ảnh tĩnh mà động, động trong lòng (mong chờ) và động ngoài trời (gió thổi). Một chi tiết nữa cũng không kém phần quan trọng, đó là mái tóc đen tuyền. Nhờ mái tóc đen mà tất cả các phần khác được nổi bật. Từ khuôn mặt đến màu áo, hàng cây... Nếu thay vào mái tóc đen, trùm chiếc khăn màu trắng thì bức ảnh sẽ hỏng hoàn toàn. Trong nhiếp ảnh màu đen giữ vai trò chính yếu, nó làm nổi tất cả những màu khác, nó tạo sự tương phản cho ảnh, nó đẩy sắc độ các màu khác lên. Màu đen làm cho ảnh mạnh và vững vàng. Điểm nữa là Sơn theo dõi biến chuyển của người mẫu và bấm máy đúng lúc. Chúng ta đang hướng dẫn người mẫu trong trạng huống chờ đợi nôn nao mà ai đó bảo cười đi thì hỏng hết. Ảnh chụp sẽ chỉ còn một hình kỷ niệm tầm thường. Tóm lại, Đợi Chờ là một tác phẩm khá thành công theo phong cách cổ điển. Nhưng nếu mở rộng phía trên tí nữa thì ảnh sẽ hay hơn.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:30:38 GMT 9
Thỏ Con(VienDongDaily.Com - 17/06/2008) Ảnh: "Thỏ Con" của Bùi Hồng Nghi Bài: Trần Công Nhung Đi vào nghệ thuật là đi vào sáng tạo, dù là Hội Họa, Âm Nhạc hay Nhiếp Ảnh. Nếu không, chúng ta chỉ làm công việc của người thợ làm bánh, nghĩa là cứ sẵn khuôn, muốn “sáng tác” bao nhiêu cũng được, không cần động não. Sáng tạo trong nhiếp ảnh dường như đòi hỏi nhiều điều kiện hơn ở các bộ môn khác. Trong Hội Họa hay Văn Chương đối tượng mô tả như luôn luôn có sẵn, nghệ sĩ chỉ cần sống thực với hoàn cảnh ghi nhận cảm xúc rồi vận dụng trí tưởng tượng để phong phú hóa đề tài, tôi có thể nghĩ như vậy. Trong Nhiếp Ảnh - Nhiếp Ảnh Nghệ Thuật - còn đòi hỏi người chơi ảnh thêm sự khéo tay tạo dựng, cụ thể hóa những tưởng tượng, những cảm xúc của mình, rồi từ đó qua ống kính trải tâm tư mình lên giấy ảnh. Đi vào chủ đề hôm nay mời các bạn xem ảnh Thỏ Con của Bùi Hồng Nghi: Ở thôn quê người ta thường gọt cam gọt bưởi để vỏ từng giây cho trẻ làm mũ đội chơi hoặc khoanh lại thành trái cây rỗng ruột. Trước giờ tôi chỉ mới thấy trái cây trong tranh ảnh tỉnh vật, chưa hề thấy ai biến trái cây thành tác phẩm như trường hợp Thỏ Con của Bùi Hồng Nghi. Ba quả cam được gọt vỏ, vỏ chỉ gọt một nữa và để thành giây dài. Bằng trí tưởng tượng và sự khéo tay Hồng Nghi xếp 3 quả cam nằm hàng ngang rồi dùng đèn chiếu để có những bóng đổ nổi bật trên nền phong, tạo ra dáng ba chú Thỏ Con. Điểm nghệ thuật nổi bật ở đây là thực và hư : Nhìn vào tác phẩm, cái tạo cho ta ấn tượng mạnh, không phải 3 quả cam (thực) mà chính là 3 Thỏ Con (hư) cái Thực chỉ là hoa văn trang trí, cái Hư là cái mà tác giả muốn nói, muốn gởi đến người thưởng ngoạn. Bóng đổ của cam cho ta dáng thỏ thật rõ nét, đề tài lại chỉ thẳng, giúp cho người xem tăng thêm phần tưởng tượng. Nhờ title, người xem đến thẳng với chủ đề cách dứt khoát. Title thường có hai lối đặt, hoặc chỉ thẳng, hoặc gợi ý. Trường hợp trên đây Hồng Nghi đã dùng lối đặt tên mô tả thẳng sự việc. Nếu ví von mà đặt: “Quanh Co Cuộc Đời” hoặc “Éo Le” thì nghe thật cải lương và không nói được gì. Tác phẩm Thỏ Con thuộc thể loại tỉnh (still life) nhưng đường nét rất động. Những đường cong lên xuống đột ngột cho ta liên tưởng động tác di chuyển của thỏ. Màu sắc chỉ có trắng, xanh da trời, màu vàng cam, đơn giản và hiền lành. Điều làm cho người xem suy nghĩ là màu sắc và ánh sáng trong tác phẩm. Bóng đổ không đen mà xanh? Bằng cách nào mà ánh sáng phía trước lại xanh (tối) phía sau lại trắng (sáng)? Vật chụp đặt cách nào mà như là treo lơ lửng? Về bố cục cũng có nhiều ưu điểm, chân trời ở 1/5, các mảng màu xanh đậm nhạt đều ở vào 1/3 2/3, 4/5 các đường ngang, tạo được một bố cục mạnh. Một chi tiết cố ý sắp xếp rất hay, là võ quả cam thứ ba bên phải được kéo lên cao làm cho chân ảnh không đơn điệu, và tạo thăng bằng ba mảng màu lưng thỏ. Nhìn chung đường nét rất linh động, cho ta cảm giác mới mẻ vui tươi. Thỏ Con là một tác phẩm “bắt mắt” mang tính sáng tạo rõ rệt. Trong cuộc thi ảnh quốc tế lần thứ 36 của hội S4C (Southern California Coucil of Camera Clubs) Thỏ Con (Bunnies) là một trong 80 ảnh màu của các nhiếp ảnh gia khắp thế giới được tuyển chọn (accepted) triển lãm tại Rosemead Community Center và tại South Bay Camera Club vào các ngày 12,14 tháng 8, 2007. Vien Dong Daily News
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:31:57 GMT 9
Hững Hờ(VienDongDaily.Com - 14/03/2008) Hững Hờ, ảnh Trần Nhi Khi đi sáng tác ảnh bao giờ chúng ta cũng sẵn các dự tính. Có thể mang theo người mẫu để giàn dựng những điều suy tính lâu nay. Đến bất cứ một nơi nào ít nhiều chúng ta cũng mường tượng trước một số đề tài. Và khi đã sắp xếp chuẩn bị kỹ thì tất nhiên sẽ được đền bù xứng đáng, nghĩa là sẽ phẩm. Tuy vậy cũng có lúc gặp hình ảnh bất chợt, nếu nhanh trí vẫn có thể “làm bàn” cách mỹ mãn. Ảnh Hững Hờ của Nhi chụp bằng máy Pentax K1000, ống kính 80-200 khẩu độ 11 tốc độ 125 film Kodakolor 200Asa lúc 3 giờ chiều, trời mùa Thu. Ta thấy phương tiện và điều kiện chụp ảnh rất bình thường không có gì cầu kỳ khó khăn. Một người con gái, một cô chim mái (tôi nghĩ thế) đứng ngoảnh mặt về hai hứơng khác nhau trong tư thế yên lặng, ta có cảm tưởng cả một vùng không gian đang lắng nghe tâm tư của người thiếu nữ. Nàng đang thả hồn về phương trời nào đây hay chờ đợi một bóng hình? Nắng thu vàng rơi nhẹ trên chiếc áo khóac có đủ ấm cho chăng ? Đối lại dáng chim đứng tỉnh queo, mắt ráo hỏanh, dường như không có một chút cảm thông với kẻ sau lưng mình. Thật Hững Hờ! Bầu trời xanh rất nhạt. Đơn giản, đường nét chỉ có hai chiều dọc ngang mà sao càng nhìn chúng ta càng như bị níu lại. Một tâm trạng cô đơn, một mong chờ vô vọng. Nghĩa là tác phẩm như tóat ra cái gì đó tạo cho người xem mối cảm xúc thật lạ. Nàng chim mái tình cờ mà giữ vai trò không kém quan trọng. Cứ tưởng tượng nếu chim bay đi thì ảnh sẽ thế nàỏ? - Mất thăng bằng, không còn tương phản chủng loại, không còn tương phản suy tư, mất đi vế phụ, là nghệ thuật không còn, chỉ còn kỷ niệm. Từ chỗ này chúng ta mới thấy gía trị của giây phút bấm máy, người ảnh tỏ ra nhạy bén cấp kỳ. Trước một đề tài lọai Snapshot người ảnh không có thì giờ để chọn lựa suy tính mà phải phản ứng tức khắc, chẳng khác gì trong Nhà Thiền,”Tức Hỏi Tức Đáp”. Suy nghĩ là sai. Một tay ảnh “vốn liếng” yếu chắc chắn không bắt được tác phẩm Hững Hờ. Điều đáng tiếc là chủ đề bị đóng khung hơi sát, bầu trời không mây nên chiều sâu của ảnh không có. Cái túi xách cũng không cần thiết, chỉ làm rối đường nét của ảnh, chòm tóc chìa ra dưới cằm cũng không nên. Tuy vậy Hững Hờ vẫn là một tác phẩm có thể trình làng để cho “Quan trên trông xuống người ta trông vào” mà không sợ điều tiếng. Trần Công Nhung
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:34:01 GMT 9
Duyên dáng trong nhiếp ảnh(VienDongDaily.Com - 19/01/2009) Bài và ảnh: Thái Minh Trung, M.D. LTS: Vào ngày thứ Bảy, 24 tháng Giêng 2009, Hội Ảnh Nghệ Thuật Việt Ảnh sẽ tổ chức một buổi triển lãm nhiếp ảnh lúc 10 giờ sáng tại thiền viện Sùng Nghiêm, 11561 Magnolia Street, Garden Grove, CA 92841, (714) 323 3002. Xin mời quý độc giả đến xem hình triển lãm. Nhiều người hiểu lầm rằng khi ta có máy ảnh và ống kính tốt thì tự nhiên hình sẽ ra đẹp. Nhưng thật ra không hẳn như thế. Máy ảnh và ống kính tốt chỉ là những công cụ giúp hình rõ nét và có độ sáng đúng mức mà thôi. Đứa trẻ nào sanh ra cũng tập nói và tập đi được, lời nói và bước đi có thể ví như kỹ thuật của nhiếp ảnh. Mặc dù phát âm và đi đứng vững chắc nhưng không hẳn cái duyên dáng có sẵn trong tiếng nói hay bước chân. Nhiếp ảnh cũng thế, nếu muốn có tính chất nghệ thuật trong ảnh thì ta phải học hỏi và luyện tập những yếu tố tạo ra nghệ thuật trong bức ảnh. Cũng như duyên dáng là cái hồn của cơ thể, nghệ thuật là tình cảm và tinh thần của bức ảnh. Bức ảnh không có nghệ thuật làm người xem dễ chán và sẽ không thu hút được sự chú ý của họ. [Một bức ảnh đẹp vì cho thấy ánh sáng] Cái nhìn Yếu tố quan trọng nhứt tạo ra một bức ảnh nghệ thuật là cái nhìn của nhiếp ảnh gia. Khi nói đến nhìn, không phải mở mắt ra là nhìn được. Đôi khi con mắt người ta mở trân trân mà không thấy. Sự chú ý rất quan trọng trong nhiếp ảnh nghệ thuật. Sự chú ý giúp nhiếp ảnh gia quan sát những diễn biến của đời sống chung quanh để có thể chụp ra một tấm hình tạo sự xúc động cho người thưởng thức. Hình nghệ thuật có thể ví như món ăn tinh thần đem lại sự tỉnh thức cho người xem. Ta có thể đi qua khung cảnh nào đó cả trăm lần đến độ nhàm chán. Nhưng khi nhiếp ảnh gia chụp cùng một khung cảnh ở một góc cạnh và ánh sáng nào đó, nó bất chợt trở nên khác lạ và có sự thu hút lạ thường. Bức ảnh nghệ thuật đó như một tiếng chuông xoáy vào tâm hồn người xem làm họ tỉnh thức và nhìn ra vẻ đẹp trong cuộc sống hàng ngày. Muốn có cái nhìn duyên dáng của nghệ thuật, chúng ta phải cởi bỏ những ưu phiền khi cầm máy ảnh trên tay. Máy ảnh bây giờ trở nên một công cụ đưa ta sang một thế giới mầu nhiệm của ánh sáng. Một số người thích tụng kinh hay cầu nguyện để cho tâm hồn lắng dịu lại sau những bão táp của cuộc đời. Đối với nhiếp ảnh gia nghệ thuật thì những tấm hình nghệ thuật là những câu kinh kệ hay lời cầu nguyện tuyệt diệu đưa ta đến thế giới của chân, thiện và mỹ. Ánh sáng và mầu sắc Khi bạn biết nói chuyện với ánh sáng thì cả một chân trời mầu nhiệm sẽ mở ra trước mặt bạn. Ánh sáng rất quan trọng trong nhiếp ảnh. Ảnh ra tầm thường hay tuyệt mỹ là do bạn chọn lựa ánh sáng. Khi bạn tập dùng ngôn ngữ của ánh sáng trong nhiếp ảnh thì đến một lúc nào đó bạn cảm thấy rất gần gũi với tính linh thiêng của tạo hóa. Lúc đó bạn kết hợp được ánh sáng tỉnh thức trong tâm với ánh sáng vô tận bên ngoài. Khi làm được như vậy thì những suy tư buồn phiền trở thành vô nghĩa trước vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên. Ánh sáng lúc nào cũng là một chủ đề làm cho con người quan tâm. Lúc tổ tiên ta còn ăn lông ở lỗ thì ánh sáng đồng nghĩa với sự sống. Có vô số nguy hiểm có thể xảy ra trong màn đêm. Có lẽ vì thế hoàng hôn lúc nào cũng gợi cho loài người một cảm giác buồn man mác. Có lẽ đâu đó còn phảng phất trong tâm tư nỗi lo âu mất mát khi đêm đến. Có phải vì thế mà khi ta bị căng thẳng trong cuộc sống thì tối lại bị mất ngủ vì màn đêm trong tiềm thức tượng trưng cho nguy hiểm chăng? Ta phải thức để canh chừng. Ngược lại khi mặt trời lên, mùa xuân đến, là những khoảng thời gian được coi là an toàn vì có nhiều ánh sáng, hoa quả và mùa màng dư thừa. Như bạn thấy đó, sự hiện diện của ánh sáng lúc nào cũng đem lại niềm vui và hạnh phúc cho con người. Sự hiện diện của ánh sáng còn đi đôi với màu sắc. Màu sắc cũng là dấu hiệu của sự sinh sản ở muôn loài, sinh vật lẫn thực vật. Vì thế ánh sáng và màu sắc có khả năng đem đến niềm vui và hy vọng trong tâm thức con người. Khi người nghệ sĩ tập nói chuyện bằng ánh sáng và màu sắc thì niềm vui chung quanh họ sẽ vô tận. Chúng ta rất có phước sanh sống vào thời đại khoa học kỹ thuật trên đà phát triển. Lúc nào ánh sáng thiên nhiên hay nhân tạo cũng bao quanh ta. Vì thế mà những cơ hội chụp hình không bao giờ thiếu, từ sáng tới tối. Cái thiếu sót là do ta không biết nhìn ra và tận dụng những cơ hội này. Nếu tổ tiên ta mà được sống chỉ một giây phút trong xã hội ban đêm tràn đầy ánh sáng nhân tạo của thời nay thì chắc chắn là họ tin rằng họ đã đầu thai lên thiên đàng. Đa số chúng ta coi thường điều đó, vì thế mất cơ hội tận hưởng cái hạnh phúc do ánh sáng đưa đến. Ta còn cái phước nữa là ở thời đại này ta có máy ảnh digital, chụp ra coi liền lại được, không phải chờ chụp hết cuốn phim và đem ra tiệm rửa hình. Hình ra không như ý muốn, ta có thể điều chỉnh lại tức thời nên không bị bỏ lỡ cơ hội chụp. Với loại máy ảnh này, khả năng tiến bộ của ta sẽ vượt bực thế hệ trước trong nháy mắt. Tâm hồn ta mở rộng thật nhiều khi tập nhìn ánh sáng. Ta tập thức dậy sớm để nhìn ánh mặt trời đầu tiên của một ngày mới. Ánh sáng đẹp nhất trong ngày là ánh sáng vài tiếng sau khi mặt trời mọc và trước khi mặt trời lặn. Những nhiếp ảnh gia kỳ cựu gọi thời điểm này là thời điểm vàng trong nhiếp ảnh. Đa số những ảnh phong cảnh thắng giải đều được chụp vào thời điểm này. Lúc này cảnh vật có màu sắc đậm đà rất đẹp. Những phần tương phản sáng tối cũng rất mỹ thuật. Loại ánh sáng này làm giọt sương ban mai long lanh trên cọng cỏ non và làm những hàng dừa in bóng dài trên bãi biển vắng thơ mộng. Chỉ đợi vài tiếng sau, khi mặt trời lên cao thì sự mầu nhiệm của ánh sáng nghiêng dần dần biến mất. Đây là thời điểm khách du lịch cầm máy đi ra chụp hình. Những hình chụp vào trưa sẽ tạo ít ấn tượng nghệ thuật và màu sắc bị lợt lạt rất nhiều. Ánh sáng đầu tiên của ngày có thể ví như nụ cười e ấp của một thiếu nữ. Rồi khi mặt trời lên cao đến đỉnh trời thì nụ cười đó trở thành nụ cười chào hàng của cô tiếp viên, không còn duyên dáng dễ thương nữa. Khi ta tập nhìn ánh sáng và màu sắc đẹp đẽ chung quanh thì dần dần những ý tưởng bi quan bị tan biến. Kiếp sống ta không còn hạn hẹp trong những ý muốn cá nhân không thành, tạo sự bực bội lẩn quẩn trong đầu ta. Ta có cái nhìn rộng hơn vì biết thưởng thức sự rộng lượng của thiên nhiên. Ánh sáng không ích kỷ, lúc nào cũng trao tặng người nghệ sĩ muôn vạn màu sắc tuyệt đẹp. Ánh sáng, khác với vật chất, lúc nào cũng vô tận. Có muôn người chụp mà không bao giờ hết. Càng nhiều người chụp thì ta càng có nhiều tác phẩm nghệ thuật. Ánh sáng không hạn hẹp như tiền bạc, danh lợi và sắc đẹp, người này được khiến cho người kia mất. Người vui trên chiến thắng thì có kẻ đau khổ trong thất bại. Cho nên khi ta làm quen với ánh sáng thì tâm hồn ta sẽ nếm được sự đẹp đẻ, không lo nghĩ của tâm tĩnh lặng. Những bức ảnh Khi bạn làm quen với ánh sáng rồi thì những tấm hình không quan trọng. Thú vui của nhiếp ảnh gia nghệ sĩ là không ngừng sáng tác với ánh sáng vô tận. Tấm hình có thể đẹp, được nhiều người trầm trồ khen ngợi và có thể được trúng giải. Nhưng tấm hình không phải là sở đắc của nhiếp ảnh gia. Nó chỉ là một cửa sổ giúp cho người xem quên tức thời những buồn lo để đi vào thế giới huyền diệu của mỹ thuật. Bức ảnh chỉ là viên sỏi để lại cho đời, nhân đó mà có người tìm được con đường dẫn đến thế giới chân thiện và mỹ. Nếu bỏ viên sỏi đó vào đôi giày để làm tâm đắc thì nó chỉ làm ta đau chân chớ không có ích lợi gì. Khi ta chọn một tác phẩm làm tâm đắc và bực bội khi tác phẩm đó bị chê thì ta vô tình mở cửa cho trần thế vào làm ô nhiễm cái thế giới nhẹ nhàng của ánh sáng rồi. Điều quan trọng nhứt là bạn tập được sự đẹp đẽ trong tâm hồn mình để tạo ra nhiều tác phẩm nghệ thuật khác nữa. Vien Dong Daily News
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:39:55 GMT 9
Vài ảnh đẹp cuối khóa(VienDongDaily.Com - 27/08/2007) Lê Văn Khoa Nghệ thuật là vô biên. Người tìm vào nghệ thuật nhiều vô kể., nhưng số người thành đạt tương đối khiêm nhường. Hội Ảnh Nghệ Thuật Việt Nam trong ngót 30 năm nay đã khai giảng thật nhiều lớp ảnh, thu nhận đến trên 3500 học viên. Gần dây nhất Hội đã làm lễ bế giảng lớp ảnh Căn Bản hôm Chúa Nhật vừa qua, ngày 29 tháng Bảy năm 2007 tại Viện Việt Học, thị xã Westminster, California. Nhiếp ảnh gia Nguyễn Học Hải, trưởng ban giảng huấn đã khen ngợi tinh thần hiếu học và kỷ luật của toàn thể học viên mà kết quả mỹ thuật cũng như kỹ thuật đã biểu hiện qua tác phẩm nạp trình của học viên. Ông cũng cảm tạ sự tận tâm của ban giảng viên gồm có các nhiếp ảnh gia Nguyễn Thị Phương Châm, Phạm Thanh Huỳnh, Trần Tuấn, Nguyễn Thanh Sơn, Võ Thành Tài (cá nhân ông cũng là một giảng viên nòng cốt của lớp học). Với tư cách Hội Trưởng của Hội Ảnh Nghệ Thuật Việt Nam, nhiếp ảnh gia Lê Văn Khoa khuyến khích học viên tiếp tục trên con đường nghệ thuật và sánh vai với người đi trước để tham gia vào các cuộc thi ảnh quốc tế mà trong hai năm qua hội đã chiếm huy chương vàng và được liệt vào danh sách 10 Hội Ảnh Trội Nhất (top ten) Thế Giới (2006), và Huy Chương Vàng cho Hội Ảnh có nhiều ảnh đẹp nhất (2007). Lễ phát giải sẽ diễn ra vào tháng Mười năm nay tại Áo. Trong cuộc thi cuối khóa Căn Bản này, các học viên có tên sau đây được trúng giải: Nguyễn Đình Phương Giải Nhất và 1 tưởng lệ Nguyễn Thị Mai Giải Nhì Bùi Thúy Hồng Giải Ba và 1 tưởng lệ Sue Công Tưởng lệ Nguyễn Thi Nhường -nt- Nguyễn Hồng Vân -nt- Trần Nguyên Khôi -nt- Bùi Thanh Mai -nt- Lê Thái -nt- Lê Vũ Chương -nt- Nguyễn Duy Long -nt- Tôi có vài nhận xét nhỏ về ba ảnh trúng giải Nhất, Nhì và Ba. Khi để cả ba ảnh bên cạnh nhau, tôi thấy có nhiều điểm thú vị. Trước hết, nhìn ba ảnh này không ai dám nghĩ đó là ảnh của học viên Cấp Một, hay là Lớp Căn Bản Nhiếp Ảnh của Hội Ảnh Nghệ Thuật. Những tay ảnh thiện nghệ cũng ước ao mình là chủ nhân của các ảnh này. Không hẹn mà nên, không sắp mà thành, ba ảnh đều thuộc loại tĩnh vật, đi theo một thứ tự gần-xa thật khéo. Tôi xin đi theo thứ tự này để xem ảnh chứ không phải xem giải thưởng. Ảnh 1 “Bình Hoa” (Giải Nhì) của Nguyễn Thị Mai là một ảnh chụp gần, bên trong nhà, bên cạnh cửa sổ. Ánh sáng dịu, hoa lan vàng nhạt với vài chiếc lá dài rủ xuống theo cành hoa thật dài, thật tha thướt, thật mềm mại. Người xem ảnh bị nhốt lại trong khung cảnh vài thước vuông. Ta chỉ được thấy chừng này. Cửa sổ gợi ý cho một sự đóng khung bình hoa. Bình hoa nâu sậm đặt trên trường kỷ đen, trên mặt bàn lót nhung xanh, trước cửa sổ hình chữ nhật khép kín, có ánh sáng trắng xuyên qua mành cửa trên tường màu ấm dịu, cho cảm giác thật thanh thỏa. Bình hoa bóng láng, phản ánh cửa sổ tạo thành hình thể lạ, hấp dẫn và làm nhẹ bớt những mành cửa sổ thẳng cứng và trắng. Bình hoa với khối lượng lớn được đặt đúng vị trí trong bố cục để giữ thăng bằng cho lá và hoa giúp ảnh không bị lệch. Trong ảnh này những chất cứng và chất mềm, màu sáng và màu sậm rất cân phân. Lan là loại hoa cao sang được cắm vào bình hoa thuộc loại sang, trường kỷ, cửa sổ và cả vách nhà đều sang trọng trong nét cũ và mới cách hài hòa đáng khen. Ngày Tết mà có bình hoa như thế này trong nhà là điều ao ước của mọi người. Ảnh 2 “Nhớ Xưa” (Giải Nhất) của Nguyễn Đình Phương. Trong ảnh này ta từ trong nhà nhìn ra ngoài. Tầm mắt vẫn bị giới hạn, nhưng được nhìn xa hơn ảnh trước. Tất cả vật thể thấy được trong ảnh đều lớn hơn ảnh trước. Chủ đề là lu nước, bị đóng khung hẳn hoi chứ không phải một gợi ý như ảnh trên. Lu nước được đạt nằm ở một phần ba bên dưới theo chiều cao của ảnh, nhưng lại nằm đúng ở giữa, nhìn theo chiều ngang. Tuy nhiên ánh sáng và bóng tối đã chi phối sự đúng giữa này. Ta thấy chủ đề bị đóng khung hai lớp và cái vòm của hành lang bên kia gợi ý một cái khung thứ ba. Ảnh này cũng phan lẫn chất liệu cũ và mới. Lu nước có vẻ mới nhưng vòm cửa, tường và nền gạch đều rất cũ. Chính nhờ những dấu vết cũ nên ảnh có nhiều chi tiết phụ và nhiều màu sắc nhẹ tăng thêm sự hòa hợp và sống động cho ảnh. Ánh sáng cao, xéo giúp lu nước nổi rõ trên nền sậm hơn của phần tường được che nắng. Những miếng gạch ló vòng lu nước thêm phần hòa hợp với các vòm cung. Tuy nhiên tôi tiếc vì phần gạch lót đường quá sáng tạo thành góc thước thợ phá bớt nét trang trọng của chủ đề rất nhiều. Với kỹ thuật ngày nay, ta có thể hạ sắc độ xuống không khó lắm và sẽ tăng giá trị của ảnh thêm lên nhiều. Ảnh gợi cho người xem một sự hoài cổ.Nhớ Xưa ngoại ra đây rửa rau bên lu nước này. Nhớ Xưa cô em gái ra đây xắn ống quần rửa chân. Và còn bao nhiêu nỗi nhớ bỗng chốc quay về. Một chút gì mất mát trong lòng mà ta không thể tìm thấy trên phần đất này của địa cầu. Ảnh 3 “Thanh Tịnh” (Giải Ba) của Bùi Thúy Hồng. Qua ảnh này người xem không còn bị đóng khung nữa. Ta nhìn ảnh ở trong phòng, nhìn ra ngoài sân và bây giờ ta cùng nhìn vào vô tận. Nhờ nhìn vào vô tận ta thấy một sự thoải mái, thanh thản, lắng động tâm hồn. Nóc nhà thờ trắng theo kiến trúc Byzantine của Đông Âu, trồi lên trên rừng cây xanh im bóng trong ánh sáng thật thấp, dịu của chiều hôm gợi cho người xem một cảm giác lâng lâng buồn, xa vắng, lắng đọng trong trầm mặc. Ảnh được cắt theo bố cục dài (panorama) gợi ý cho sự rộng lớn của khu rừng. Chủ đề không bị một sự chi phối nào, một sự tranh giành ảnh hưởng nào và người xem không bị chia trí để tìm tìm những chi tiết phụ có thể hấp dẫn không kém chủ đề. Trong ảnh này những chi tiết phụ đều chìm xuống hết để tôn vinh chủ đề, nghiễm nhiên, sừng sững giữa cảnh rộng bao la. “Thanh Tịnh” tuy là ảnh đa sắc nhưng có ảnh hưởng của loại ảnh đơn sắc, toàn màu lạnh, thích hợp cho không khí thiền tịnh, xa lánh tất cả những ganh đua, tranh giành, cướp giựt, chém giết của đời. Ảnh cho ta một sự thư giãn cần thiết trong cuộc sống ngày nay. Một sự tương phản lý thú giữa ba ảnh ta vừa xem, tôi đoán ảnh 1 và ảnh 3 có chất liệu hoặc màu sắc mềm mại là của hai người ảnh nữ. Ảnh số 2 chất liệu cứng, hẳn nhiên là của người ảnh nam. Tôi có lời chúc mừng thành công cho ba tác giả Nguyễn Đình Phương, Nguyễn Thị Mai và Bùi Thúy Hồng.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:42:56 GMT 9
Trời chiều.(VienDongDaily.Com - 03/10/2007) Nghệ thuật và đời sống Đời sống không thể thiếu nghệ thuật. “Ăn ngon mặc đẹp” là câu cửa miệng hàng ngày. Đẹp là một đòi hỏi mà từ nghìn năm nay con người đã tốn bao công khó đi tìm. Và, hôm nay vẫn chưa ngưng tìm kiếm. Đẹp bàng bạc khắp mọi nơi trong từng góc cạnh của đời sống, từ cái nghe, cái thấy, cái cảm nhận…muôn trùng! Con người là một tổng hợp phức tạp, vật chất lẫn tinh thần, nên khi nói đến nghệ thuật là đề cập đến chuyện rất chủ quan và tế nhị. Khó có mẫu nực đo lường, người xưa đã nói “Tự cổ văn chương vô bằng cứ”. Thi hào Nguyễn Du sau khi viết xong truyện Kiều cũng khiêm nhường kết thúc bằng câu: “Lời quê chắp nhặt dong dài Mua vui cũng được một vài trống canh” Thế nhưng người đời sau đã tốn biết bao giấy mực mổ xẻ từng câu từng chữ để tìm cho ra cái đẹp ẩn dấu bên trong. Chúng ta, “người trần mắt thịt” tất nhiên không múa rìu qua mắt các học giả, các chuyên gia nhưng trong giới hạn chừng mực, cũng có thể nhận xét về những sáng tạo quanh mình. Địa hạt nghệ thuật có nhiều “khu vực”: Văn Thơ, Hội Họa, Âm Nhạc… và cả Nhiếp Ảnh, chúng ta thử trao đổi về nhiếp ảnh để cùng nhau thưởng thức cái đẹp qua ống kính của từng người, chắc chắn sẽ có nhiều điều lý thú và bất ngờ. Trong khuôn khổ Trang Ảnh Nghệ Thuật trên báo Viễn Đông, người phụ trách cố gắng giới thiệu mỗi kỳ một hai tác phẩm, hoặc bài viết, tác phẩm và bài viết có thể đến từ bạn đọc. (xin xem thể lệ đính kèm) Màu sắc và hình ảnh của cuộc sống muôn trùng và đa dạng, mỗi cá nhân từ góc nhìn của mình, với cảm quan riêng, sẽ có những hình ảnh cá biệt, những nhận định độc đáo, những cảm xúc riêng tư, chúng ta gặp nhau nơi đây để chia sẻ với nhau về điều đó. Và, chắc chắn không ai vỗ ngực tự xưng mình là thầy thiên hạ. Với tinh thần nói trên, người phụ trách xin mở đầu bằng tác phẩm: Trời chiều. Thường thường hoàng hôn khi còn mặt trời bầu trời bao giờ cũng rực rỡ, ráng trời như tích tụ tất cả sức sống trong gày: “Hoàng hôn rực ánh vàng”. Trời chiều ở đây được chụp từ trên Dinh Cô (Bà Rịa) nhìn xuống biển Long Hải. Tuy là mùa hè nhưng mấy phút trước khi ánh dương tắt hẳn, cảnh lại ảm đạm, lành lạnh như một chiều đông. Giây phút dễ tạo cho ta nhiều cảm xúc, nhất là đối với những kẻ xa nhà…và nếu ai đó từ nơi này tha phương nay đứng trước cảnh trời chiều của quê nhà thế nào cũng chạnh lòng nghĩ đến “Trở về mái nhà xưa” (Come back to Sorrento): “Ôi lãng du quay về điêu tàn” Trần Công Nhung (Oct. – 2007)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:44:12 GMT 9
Mong Manh(VienDongDaily.Com - 25/06/2008) Ảnh: “Mong Manh” của Vũ Ngọc Khuê Bài: Trần Công Nhung Chụp một ảnh ID hoặc ảnh Passport ai cũng phải theo đúng nguyên tắc qui định của sở di trú: chi tiết rõ ràng, kích thước chính xác. Như thế không cần đặt vấn đề nghệ thuật trong lọai ảnh này. Trái lại, trong ảnh nghệ thuật người chơi hoàn toàn tự do quyết định mọi yếu tố cho tác phẩm của mình. Người ảnh có quyền vận dụng mọi sáng tạo để tác phẩm mình không lẩn vào tác phẩm người khác. Nói cách khác tác phẩm phản ánh cá tính của người chụp. Ảnh Mong Manh của Vũ Ngọc Khuê được thể hiện bằng cái nhìn rất khác lạ. Khuê chọn một bông sen tàn chỉ còn lại hai cánh, hai cánh hoa mong manh, chưa biết gió thổi đi lúc nào. Màu vàng ngà chiếm ưu thế giữa gam màu xanh xám và xanh đen phơn phớt hồng. Khuê đã tính toán cẩn thận để có cái nhìn đẩy ngược từ dưới lên, gương sen tàn vươn hẳn giữa không trung, ngang hàng với những cao ốc mờ xa. Một hai đốm hồng của hoa cuối mùa không đủ làm ấm cái không gian của ảnh. Ưu điểm ta thấy rõ là Khuê đã tận dụng tối đa mảng mờ nhòe và sắc độ sáng tối để làm nổi bật chủ đề. Một bố cục không thăng bằng : Khối sắc độ mạnh 1/3 góc dưới, còn 2/3 ảnh phần trên một màu xám đục, làm lộ hẳn chủ đề trong thế nghiêng ngả. Một bố cục chênh vênh nhưng rất gợi cảm rất quyến rũ. Màu sắc không tương phản sặc sỡ nhưng nhờ cái nhìn khác lạ, nhờ khéo sử dụng khả năng tạo mờ nhòe của ống kính, ảnh Mong Manh của Khuê đã cho người xem cái cảm giác mong manh hiu quạnh và một chút thử thách hiên ngang. Cái đẹp trong nghệ thuật đôi khi không cần nhiều, rườm rà như mâm cỗ. Đôi nét thôi, nhưng phải bắt mắt, phải có cái gì đó bắt người xem dừng lại chứ không thể phớt qua. Có người sẽ hỏi sao những cao ốc ở hậu cảnh và bầu trời lại cùng trong gam màu xanh xám? Đây là một ưu điểm nữa của người ảnh. Tác giả không những tạo nhòe hậu cảnh mà còn không cho hiện lên bất cứ màu sắc nào khác nên đã chụp ảnh với nguồn sáng ngược, cao ốc phía sau hoàn toàn nằm trong trong bóng đổ, cùng sắc xám với bầu trời. Chơi ảnh không chỉ là môn tiêu khiển đơn thuần, nó còn đòi hỏi người chơi luôn luôn năng động khám phá. Phải sáng tạo thường trực để tìm cho mình một lối đi, đi bằng khả năng thật sự của mình chứ không đi bằng lý thuyết suông. Tác phẩm nghệ thuật đích thực bao giờ cũng nói lên cốt cách, bản lãnh người sáng tác. Vien Dong Daily News
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:45:25 GMT 9
Gương Sen(VienDongDaily.Com - 02/07/2008) Ảnh: Trần Mạnh Đạt Bài: Trần Công Nhung Khi nói đến cái đẹp của Hoa, thi sĩ văn sĩ thường ca tụng Hoa Hàm Tiếu (chớm nở) hoặc Hoa Mãn Khai (nở đầy) ít ai nhắc đến Hoa Tàn, mà có nhắc cũng chỉ để chê: “Buồn vì điều hoa tạ (hoa tàn) ai nhìn”.Trong nhiếp ảnh thì lại khác, qua ống kính những cái tàn tạ, khiếm khuyết đôi khi lại là chất liệu cho tác phẩm hay. Gương Sen, ảnh chụp một hoa sen không còn cánh, cọng hoa đã mềm, vẽ một đường cong làm cho phần chứa hạt (gương sen) như cúi nhìn xuống mặt hồ. Đối lại đường cong có hai đường thẳng đứng ( 2 cọng hoa khác ), phần dưới, mấy lá sen nửa tối nửa sáng, 2/3 hậu cảnh là bóng đen. Thoạt nhìn ảnh có đường nét lạ, các mảng sáng tối cũng rất bất ngờ ngọai trừ “đóa hoa tàn”, do đó người xem khó bỏ qua khi bắt gặp. Tôi thích cái gam màu ở đây: Từ màu mỡ gà chuyển qua vàng cam rồi đi vào xanh rêu để chìm trong đêm tối. Ấm áp (gương sen) chưa bao nhiêu thì lạnh (phần còn lại) đã ngập tràn. Sự pha trộn màu rất hội họa. Ảnh thật đơn giản mà tạo được cảm xúc khá sâu. Cái giá trị của nghệ thuật là người nghệ sĩ biết nhìn và tạo được tác phẩm từ những chủ đề mà người đời xem thường, cho là không có gì. Gương Sen, ngoài nghĩa đen là phần chứa hạt sen, còn nghĩa bóng: Lấy đó làm gương, một loài hoa sinh ra từ bùn lầy hôi hám vậy mà mọi người đều ưa, không phân biệt màu da tuổi tác. Người có nét duyên dáng thầm kín, ít nói và tế nhị, chọn tên Hồng Liên ( Hoa Sen Hồng ), người có đời sống tư tưởng cao siêu, ưa nghiên cứu... tên Bạch Liên (Hoa Sen Trắng). Trong thiên nhiên mùa hạ hoa tàn thì đã có sen thay thế: “Hạ thưởng lục hà trì” (Mùa hè ngắm hồ sen). Tóm tắt Nguyễn Mạnh Đạt khá thành công trong việc mang lại chất liệu nghệ thuật cho tác phẩm, đã chọn cho tác phẩm một cái tên rất khéo và ý nghĩa. Đi vào chi tiết, Tác phẩm Gương Sen cũng có những điểm cần điều chỉnh: Xê dịch máy, lách cho hoa tách rời hẳn ra, mảng sáng trên lá mạnh quá mất cả màu xanh, cắt bỏ phần sáng bên dưới... Một tác phẩm dù thành công đến mức nào chúng ta cũng cẩn thận rà soát những điểm phụ. Nhiều khi sơ ý để những “rác rến” làm giảm cái đẹp của tác phẩm. Vien Dong Daily News
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:46:30 GMT 9
Hoa Đầu Mùa(VienDongDaily.Com - 08/07/2008) Ảnh: Phạm Bá Thạnh Bài: Trần Công Nhung Hoa là một trong những đề tài rất quen thuộc đối với người chơi ảnh. Nhưng chụp cho được một tác phẩm về Hoa không phải dễ. Hoa quá gần gũi với chúng ta, trong nhà ngoài ngõ đi đâu cũng thấy Hoa, chúng ta quen ngắm hoa như ngắm áo quần. Màu sắc rực rỡ bông to và nhiều là thích rồi, chi tiền không ngại. Chẳng mấy khi chúng ta tách rời một hoa để xem, hoặc tỉ mỉ phân tích ánh sáng, đường nét nơi Hoa. Người Nhật đã nâng Hoa và Trà lên hàng Đạo (Hoa Đạo,Trà Đạo) nhưng cũng thưởng thức Hoa dưới dạng hoa bình hoa chậu (nghệ thuật cắm hoa). Hôm nay chúng ta xem ảnh hoa của Phạm Bá Thạnh: Hoa Đầu Mùa. Hoa Đầu Mùa là hoa trong hồ, một bông súng vừa đang độ nở nằm đúng điểm mạnh phần trên góc trái, chung quanh rải rác mấy chiếc lá, mặt hồ hơi chao nhẹ do đàn cá Koi tung tăng bên dưới. Nếu chỉ có thế thì đã biết bao người chụp và chụp bằng máy xịn, hoa lá nét sắc như dao cắt, trông như hoa kẽm, màu thì rực rỡ như màu trên sân khấu.. . Trong ảnh nghệ thuật không phải lúc nào cũng cần như vậy? Trong Hoa Đầu Mùa của Phạm Bá Thạnh chúng ta thấy rõ một trật tự về vị trí và sắc độ màu. Nhìn vào ảnh, phần nổi bật là Hoa, một đóa Hoa Súng trắng cánh tròn, ánh sáng khuếch tán ôm cánh hoa từ trên xuống dần vào tận chân đài hoa, tạo cho Hoa một dáng vẻ mềm mại tự nhiên. Ba cánh hoa nở trước đã trải nằm trên mặt nước, màu ửng hồng do ảnh hưởng màu cá lội chung quanh. Sắc độ màu chuyển rất nhẹ trên từng cánh hoa cộng với độ nét chính xác cho ta thấy rõ nếp xếp các cánh hoa dù là cùng một màu trắng. Phần còn lại là nước và lá. Điều ngạc nhiên là mặt nước không xanh mà tím hoa cà, vẽ những vạch đen do sự phản chiếu cảnh vật bên ngoài. Nhìn qua tưởng như thảm nhung. Những lá súng to trải ra ba góc màu xám ngã qua xanh lục và như đang bị nấu chảy, nó không còn hình dáng và màu sắc của lá hoa súng mà chúng ta thường thấỵ. “Người trong nghề” có thể ngờ đây là hiện tượng solarization (chớp sáng ) trong kỹ thuật nhiếp ảnh. Tất cả bối cảnh như giả chỉ có Hoa là thật. Nhờ vậy mà Hoa nổi bật hẳn lên. Theo tôi đây là một tác phẩm về hoa ít thấy. Trong sáng tác nghệ thuật, cũng có lúc nhờ may mắn, bắt gặp bối cảnh lạ, ánh sáng hay, làm cho đề tài trở nên độc đáo. Tác phẩm Hoa Đầu Mùa của Phạm Bá Thạnh đã được tặng Honorable Mention Award trong cuộc thi ảnh do Tổng Hội Sinh Viên tổ chức trong dịp Tết. Vien Dong Daily News
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:48:05 GMT 9
Nhiếp ảnh gia Ngọc Thái(VienDongDaily.Com - 15/07/2008) Bài: Trần Công Nhung Giếng làng, ảnh: Ngọc Thái Một hôm tôi thả bộ qua đường Văn Miếu (Hà Nội), chợt thấy căn phố nhỏ có tấm biển: “Maison des Arts” (Căn nhà Nghệ thuật). Nghĩ ngay đến những tác phẩm Hội họa, Nhiếp ảnh, Điêu khắc..., tôi bước vào. Ánh sáng yếu bằng 1/3 bên ngoài, chỉ đủ cho tôi phân biệt những tác phẩm hội họa của nhiều họa sĩ, nhiều trường phái. Ở một góc tường trong, có 4 tác phẩm của nhiếp ảnh gia Ngọc Thái. Bốn tác phẩm đen trắng cỡ 40x50cm. Trong số có tác phẩm Fairy Stream làm cho tôi thích thú nhất. Maison des Arts có nhiều phòng trưng bày toàn họa phẩm. Một người đàn bà đang bi bô tiếp một anh Tây, đợi không được, tôi hỏi một thanh niên đang lúi húi làm việc ở bàn: - Em cho tôi hỏi thăm, tác phẩm của anh Ngọc Thái chỉ bấy nhiêu? - Dạ nhiều lắm, treo rải rác các tầng trên. Tôi đi hết ba tầng lầu mỗi tầng ba bốn phòng, toàn tranh, không thấy ảnh. Tôi thở dồn và người đã toát mồ hôi. Hà nội vào mùa hè thì khiếp lắm, nóng và oi nồng, Gallery không quạt, không máy lạnh, tôi bái phục tinh thần làm việc của những người trong ngôi nhà nghệ thuật này. Trở lại tầng dưới, nhân lúc chị chủ nhân quay qua chào, tôi hỏi nhanh: - Chị có số phôn của anh Ngọc Thái? Tôi muốn hỏi thăm anh đôi điều. Chị đưa cho tôi tấm danh thiếp và giới thiệu về các hoạt động của chị cũng như những sinh hoạt sắp tới của Maisons des Arts... Cơn nóng bức đã giục tôi nói lời cảm ơn và vội bước ra ngoài. Con đường Văn Miếu chỉ một đoạn ngắn nhưng đông người đi, đây là nơi đỗ xe cho du khách vào Văn Miếu. Hướng dẫn viên du lịch hầu như không ai biết có Gallery này. Sáng hôm sau tôi gặp nhà nhiếp ảnh Ngọc Thái tại quán cà phê Bảo Khánh bên Hồ Gươm. Anh là người đưa tôi đi một vòng Tây Bắc khi tôi trở về quê hương lần đầu. Đã 8 năm chưa gặp nhau nên trong lời hẹn hò ai cũng hăm hở. Đúng 7giờ30 tôi đã nghe điện thoại reo, anh cho biết đang đợi tôi, còn tôi thì đang loay hoay tìm đường. Hà Nội đã quá quen nhưng đường vòng vèo quanh co nên tuy gần mà lắm lúc rất mất thì giờ, nhất là lúc lạc vào khu phố cổ. Tôi cho anh biết tôi đang đứng bên bờ hồ gần nhà bưu điện, không hiểu quán ở khoảng nào. Anh bảo vì đường một chiều nên phải chạy một vòng bờ hồ qua đầu đường Bà Triệu. Tôi đã phải chạy 2 vòng mới nhận ra quán. Tám năm anh vẫn thế, da dẻ hồng hào đầy đặn, lên miền núi trẻ con sắc tộc cứ tưởng là Tây. Gọi hai tách cà phê rồi đi ngay vào câu chuyện: - Hình như vừa rồi anh có cuộc triển lãm cá nhân? - Đây cũng là dịp hy hữu, chứ thường thì làm chung với nhiều anh em khác. - Hy hữu là sao? - Chuyện là thế này, có anh tùy viên văn hóa Ý (Italie) một hôm đi ngang qua nhà tôi thấy mấy bức ảnh (1), anh ta vào xem tỏ vẻ khoái nên trao đổi với tôi nhiều vấn đề. Do tiếng Anh mình không chuẩn nên hẹn hôm sau anh ta sẽ trở lại với thông dịch viên. Ông tùy viên cho biết mới đến VN được một tuần, và đang chuẩn bị tổ chức cuộc triển lãm tranh ảnh với chủ đề: “Mùa Xuân của Phụ nữ, Niềm đam mê” (The Spring of Passion for Women). Ông ta quyết định mời tôi và dành cuộc triển lãm này cho riêng cá nhân tôi. Và, ngay hôm ấy ông đã mua 5 tác phẩm của tôi. Ông ấy bảo, “Tôi mua để khi thuê được nhà riêng tôi trưng bầy”. Anh Ngọc Thái đã vui vẻ nhận lời như tâm sự ghi trong brochure: “Đây là dịp tôi không thể bỏ lỡ, vì tôi đã chụp ảnh về phụ nữ hàng thập kỷ nay. Đối với tôi, người phụ nữ là linh hồn của mỗi bức ảnh”. - Cuộc triển lãm kéo dài trong bao lâu? - Hai tuần, từ 10 đến 24 tháng tư 2008. - Anh nghĩ thế nào về khán giả trong nước và khách nước ngoài? - Người xem hầu hết đều ghi nhận nét nhẹ nhàng trong ảnh của tôi, ngay cả những chân dung của những phụ nữ miền cao khắc khổ trong công việc, nhưng, vẫn nhận ra điều gì đó không quá cay nghiệt quá sức chịu đựng của con người. Nghĩa là vẫn thấy được vẻ đẹp quen thuộc gần gũi. Tôi không như một số anh em cố “thê thảm hóa vấn đề”. - Ngoài người phụ nữ anh còn chủ đề nào khác? - Trước đây tôi thiên về phong cảnh có sự hiện diện của con người, những năm về sau tôi xoay ống kính vào chân dung. Tôi thích chân dung phụ nữ miền sơn cước. - Anh có tâm sự với người tổ chức cuộc triển lãm vừa qua: “... Đối với tôi, người phụ nữ là linh hồn của mỗi bức ảnh”. Tôi thấy người dịch dùng: “... Women are the romance of photography”, tôi thích cách nói này. Vậy mỗi khi hướng ống kính vào một khuôn mặt, một nhân dáng của phụ nữ anh có nghe xôn xao trong tâm hồn điều gì chăng? - Có chứ anh, không riêng gì tôi, đã cầm máy mà là phái nam thì làm sao không giao động trước một vẻ đẹp của loài hoa biết nói, dù là búp sen nơi đầm lầy hay bông hoa dại bên đường. - Vâng, người phụ nữ là cả một khung trời lãng mạn chỉ sợ chúng ta không đủ tài để khám phá. Cho đến nay anh vẫn phụ trách “Tours Nhiếp Ảnh”? - Tôi nghỉ đã mấy năm rồi, chỉ thỉnh thoảng có anh em nhiếp ảnh nước ngoài về thì đi cho vui thôi. - Trong tương lai anh có dự định gì mới? - Tôi đang chuẩn bị năm tới sẽ mở cuộc triển lãm với tác phẩm trắng đen chụp bằng máy Rollei 6x6. Ảnh vuông và để nguyên mép phim. - Một ý tưởng đặc biệt, xin chúc anh thành công. Nhiếp ảnh gia Ngọc Thái là một trong nhiều người cầm máy nổi tiếng sau 75. Ảnh của anh chuyên thể loại đen trắng, anh tự làm lấy tác phẩm của mình. Anh đã dự hàng chục cuộc triển lãm ảnh nghệ thuật trong cũng như ngoài nước. Anh có trên 20 giải Vàng, Bạc, Đồng, bằng Tưởng lệ Danh dự. Anh là hội viên Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh VN, Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật của Hội Nhiếp ảnh Hà Nội. Tước hiệu Quốc tế vinh dự nhất hiện nay của anh là EFIAP (Excellence Artist of Federation International). Trần Công Nhung 5-2008 (1) Nhà anh có treo biển: Black and White Gallery nên khách có thể vào xem. Ngọc Thái và phụ nữ miền sơn cước(VienDongDaily.Com - 22/07/2008) Fairy Stream, ảnh: Ngọc Thái Bài: Trần Công Nhung Từ hồi nhỏ, tôi đã mê hình ảnh cô sơn nữ, nhưng chưa hề đặt chân lên miền sơn cước, chưa bao giờ thấy dung nhan cô sơn nữ. Cho đến khi xa quê hương những năm tháng dài, lúc trở về mới có dịp gặp sơn nữ trên nương, sơn nữ bên suối, sơn nữ với bầu vú căng sữa đang cho con bú dưới ánh nắng mai, v.v. Nhưng vẫn chưa có một dịp may thật sự cận kề để chụp được tấm ảnh ưng ý. Bao nhiêu lần về Hòa Bình, qua Lai Châu mà chưa gặp dịp may, hoặc có cũng chỉ như mây bay gió thổi, chẳng bắt được gì (1). Anh em nhiếp ảnh trong nước, có thể nói sau 75 đã khai thác mảng đề tài này khá đậm, bao nhiêu huy chương quốc tế đã mang về cho làng ảnh VN. Tuy nhiên, với tôi cách nhìn người phụ nữ sắc tộc (2) của anh Ngọc Thái mới thật làm tôi thích thú như chính mình bắt gặp. Hôm nay, xin giới thiệu một vài tác phẩm của anh. Trong bài trước, có đề cập tác phẩm “Fairy Stream”, tấm ảnh chụp 4 cô thiếu nữ Thái đang tắm suối sau buổi “đi nương” (đi làm rẫy) về. Người Thái vùng Sơn La có tập tục đi nương về là xuống suối tắm gội, họ tự nhiên như ở nhà. Váy vẫn quấn nhưng mình trần. Gái Thái cô nào cũng đầu tóc dài, nhìn kiểu búi tóc có thể biết họ có chồng hay chưa (3), không như người Kinh đeo nhẫn. Hình ảnh độc đáo khi gội đầu là hình ảnh hất ngược tóc ra sau, một cầu vòng nước bạc vung từ mặt suối ra sau. Hình ảnh chỉ có trong khoảnh khắc, hên xui chỉ mấy giây, chỉ một lần. Tác phẩm loại này hiếm khi được dàn dựng (set up), đấy cũng là lý do làm cho tác phẩm có một không hai. Trong “Fairy Stream”, nhiếp ảnh gia Ngọc Thái được cái may gặp 4 cô đang tắm trong ánh nắng chiều không còn gắt, hậu cảnh tối, tiền cảnh mặt nước dao động vẽ ra đường nét của một “cơn sóng ngầm” , nhưng sau lưng các cô là một vạt bóng mây trắng êm đềm. Nhân dáng mỗi cô một khác, hai cô đứng hai cô khom, đặc biệt cô trên “đường mạnh” đang hất ngược tóc cho nước tung lên. Bốn cô gái xếp theo hàng chéo góc, chia sắc độ của ảnh thành ba mảng một cách kỳ lạ. Ảnh đi từ động (mặt nước tiền cảnh 1/3), 1/3 dành cho sắc độ của bóng mây chiều yên bình tự tại (không bị tiền cảnh khuấy động), 1/3 tối dần dành cho hậu cảnh như báo hiệu kết thúc một ngày. Trong ảnh rõ ràng con người chiếm không bao nhiêu nhưng con người sống thực và mọi màu sắc đường nét chung quanh như chỉ để tôn vinh con người. Hình ảnh cho ta cảm xúc niềm vui của một ngày, hạnh phúc hồn nhiên chỉ tìm thấy nơi miền sơn cước. Ngọc Thái còn nhấn mạnh thêm ở đây bằng cách bố cục thật chặt, không rác rến dư thừa chung quanh. Một tác phẩm độc đáo cách khách quan không xào nấu biến chế. “Fairy Stream” năm 2005 được giải Danh dự Vàng cuộc thi Môi trường về Nước của LHQ. Tạp chí Spotlight của Anh ký hợp đồng sử dụng 8 tháng. Tác phẩm này cũng được 1 trong 10 huy chương vàng FIAP tổ chứ 2 năm một lần. “Fairy Stream” đã mang về cho anh cũng như cho giới nhiếp ảnh ở quê nhà niềm tự hào với bạn bè năm châu. Trần Công nhung 5-2008 (1) Đọc bài Đi Hòa Bình QHQOK 2 in năm 2003 (2) Tôi tránh cách nói “phụ nữ dân tộc”, nó ngây ngô vô nghĩa. Độc giả trong nước cảm thông cho. Nếu người Mỹ cũng gọi những cộng đồng thiểu số là “người dân tộc’ thì rất buồn cười. (3) Đọc Điện Biên Phủ QHQOK 4
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 6, 2012 20:10:29 GMT 9
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Feb 8, 2012 11:11:51 GMT 9
Nói Về Cách Chọn Máy Ảnh Point-And-Shoot Huỳnh Chiếu Đẳng (6-Feb-2012) Thưa quí bạn hình như ít có bài nói về cách lựa chọn máy digital camera nhóm point-and-shoot bằng tiếng Việt, trong khi đó nhóm máy ảnh nầy được rất nhiều bà con chúng ta xài. Nhóm dSLR ít người Việt xài hơn thì, theo tôi biết, lại được hướng dẫn tường tận trong lớp nhiếp ảnh hay trong bài viết. Để cho công bằng (xã hội!) hôm nay tôi viết bài nầy biếu quí bạn i-tờ về máy ảnh. Xin hiểu cho rằng tôi cũng i-tờ về bộ môn nhiếp ảnh, nhưng ít i-tờ hơn một số bạn khác tí xíu thôi, người đi trước dẫn người di sau mới là phải phải. Tại sao chọn máy ảnh. Ô hay các bạn đi chợ mua bó hành bó rau cũng chọn thì sao lại không chọn mua máy ảnh. Câu trả lời là mua sao cho vừa như cầu và túi tiền nên phải chọn. Tiếp theo đây là mấy tiêu chuẩn chúng ta căn cứ vào đó để mua digital camera. Thật ra thì tôi biết có nhiều bạn mua máy ảnh chú ý tới những tiêu chuẫn không quan trọng mà bỏ qua tiêu chuẩn chánh yếu. đúng vậy, các bạn đọc phần dưới đây biết liền. 1. Tiêu chuẩn thứ nhất mà nhiều người lầm đó al2 cái megapixels: Hể thấy cái máy ảnh là nhiều người hỏi ngay là nó chụp được bao nhiêu megapixels. Thưa cái resolution của sensor không quan trọng và cũng không làm cho ảnh đẹp (về kỹ thuật) đâu. Máy mắc tiển semi-pro có khi có resolution nhỏ hơn máy bình dân. Thí dụ như cái máy Canon G12 có 10 Mpix thôi, trong khi cái point-and-shoot thường là Nikon Coolpix S8200 lại có resolution tới 16 Mpix. Nếu so hình chụp ra thì cái Canon G12 cho hình hay hơn nhiểu về màu sắc về độ sắc nét về dynamic, về độ trong… Vậy thì mua máy digital camera các bạn không nên chú trọng tới cái huyền thoại megapixels. Nếu chỉ in tới 5” x 7” thì chỉ cần 5 Mpix là dư rồi. Mấy hãng point-and-shoot biết thị hiếu đa số người tiêu thụ (mới chơi digital camera) thích nhiều megapixels nên tranh nhau đưa con số nầy lên làm hại tấm ảnh. Với diện tích 1/2.33” mà có resolution tới 16 Mpix thì đâu bằng cùng diện tích sensor nầy mà nó chỉ có resolution 10 Mpix. Cái G12 có diện tích sensor lớn hơn nhiều 1/1.7” vậy mà chỉ có 10Mpix thôi. Cái sensor (như là mặt film) nhỏ nhất trong hình bên dưới là cái sensor được dùng cho hầu hết máy point-and-shoot (độ lớn theo tỉ lệ tương đối). Sensor lớn cho ảnh hay hơn. Khi mua máy point-and-shoot chừng $350 trở lại thì các bạn không cần để ý tới sensor đâu vì nó là cái nhỏ nhất. Nếu mua máy point-and-shoot trên giá đó thì có thể sensor lớn hơn cở 1/1.7” tùy máy. Nên để ý tới diện tích sensor thay vì để ý tới megapixels. Canon G10, G11, G12, S100 đều có sensor 1/1.7”. Panasonic Lumix DMC-LX5, LX3… và nhiều hãng khác cũng có loại point-and-shoot mà sensor to hơn bình thường một tí. 2. Tiêu chuẩn thứ hai: Nên lưu ý tới độ wide nhiều hơn là độ zoom. Cái focal length quan trọng hơn. Thí dụ như Samsung TL500 có focal length 24-72mm (tính tương đương theo máy film 35 mm) hay hơn là cái Olympus T-100 có focal length là 36-108mm (con số đầu là focal length khi wide, con số sau là focal length khi zoom hết mức). Ở đây chúng ta tính được dộ zoom bằng cách lấy số sau chia cho số đầu. Thí dụ ở hai máy digital camera trên 72/24= 3x và 108/36=3x . Cả hai đều có optical zoom là 3x. Cả hai con số nầy đều nên để ý tới, nhưng con số nhỏ (focal length lúc mở hết wide angle) quan trọng hơn trong những cảnh vật thường ngày. Tuy nhiên nếu các bạn thích chụp những vật ở thật xa thì nên chú ý tới độ zoom lớn. Theo luật chung thì ống kính fix focus thường khi dễ chết tạo cho tốt hơn là ống kính có độ zoom lớn. Ống kính fix focal length không zoom chi cả, có sao chụp vậy, loài gắn trên máy film ngày xưa. Năm mươi năm trước mày SLR bán ra chỉ có ống kính fix focal length. Sau nầy ống kính zoom mới bắt đầu lan tràn vì tiện lợi. Đây là cái digital camera loại point-and-shoot có độ optical zoom cao nhất xưa nay 42x . Ống kính có focal length là 24-1000 mm (vô địch), Tên nó là Nikon Coolpix P510. Giá bán khoảng $430 (tháng 3 năm 2012). 3. Tiêu chuẩn thứ ba: nên để ý tới trọng lượng và độ lớn cái máy ảnh. Theo lẽ thông thường thì cái máy ảnh đi theo các bạn mới là cái máy ảnh hữu dụng. Thường cảnh vật hay sự việc muốn ghi vào máy ảnh hiện ra rất thình lình. Cell phone nằm trong túi cũng có thể chụp ảnh được, nhưng chụp bằng cell phone thì không hay bằng cái máy ảnh nhỏ rẻ tiền. Do đó khi mua máy ảnh nhớ nhìn xem trong tiệm chưng bày coi nó đẹp không vừa tay các bạn không, dễ mang theo người không. Nói chung thì tất cả các máy loại point-and-shoot đều cho ảnh từ tựa nhau, trên thang điểm trên 10 thì chúng chỉ xê xích 8-10 thôi chớ không cách biệt tới 5-10. Giá cả khác nhau là vì những option khác nhau. Nếu các bạn chọn cái digital camera point-and-shoot vừa phải không nhỏ lắm thì thường option rất nhiều. Còn như chọn cái nhỏ hơn thì option (feature) có khi ít hơn trừ vàu cái khá cao giá như Canon PowerShot S95, Canon PowerShot S100, hay Canon PowerShot Elph 310 HS, Sony và Nikon cũng có máy nhỏ như vậy nhưng option không nhiều bằng. Còn như chọn máy zoom chừng 12x tới 16x thì máy trung trung như Sony Cyber-shot DSC-HX9V có độ zoom 16x. Sony Cyber-shot DSC-HX9V ($230) Canon PowerShot S100 ($430) Hai hình nầy tương đối độ lớn với nhau. Cái S100 có nhiều option hơn là cái Hx9v Tóm lại nhìn coi cái máy có dáng vóc đẹp không các bạn có thích không dễ mang theo không. 3. Tiêu chuẩn thứ tư: để ý tới cái LCD display. Thông thường hiện nay nó thay đổi từ 2,7” tới 3,2” . Những máy hơi mắc khoảng trên dưới $200 thường có LCD là 3”. Máy mắc hơn chút xíu thì LCD cũng là 3” nhưng resolution là 461.000 pixels. Cũng có máy 3” nhưng resolution cao lắm như Sony Cyber-shot DSC-HX9V hay Nikon Coolpix S820. Canon PowerShot 510 HS có LCD 3.2 hiện nay là trên trung bình. Nikon Coolpix S8200 ($230) cái nầy lớn ngang ngang với Sony Cyber-shot DSC-HX9V. Màn ảnh LCD mịn cho ảnh rất là sắc khi xem ngang trên digital camera. Cũng có loại máy digital camera có LCD quay được như cái Canon G12, có máy cho quay LCD tới 360 độ. Những option nầy rất tiện lợi khi cần chụp vậy sát mặt đất hay những vật mà chiều hướng máy không thuận tiện. Thí dụ chụp hoa mai tứ quí ( hoa quay xuống đất) thì nếu có máy LCD quay được là số một, mấy máy LCD phía sau dính cứng thì chỉ có nước chụp hú họa. Vì hoa mai loại nầy quay xuống đất nên tấm ảnh bên dưới chụp bằng Canon PowerShot S100 có nền là bầu trời xanh. Ảnh nầy độ lới không tương đối với mấy máy trên. Nó to hơn các máy có hình bên trên. Cái Canon nầy cũng thuộc loại semi-pro trong loạt Canon Gxx. Tuy nhiên về option thì nó chỉ ngang hay có khi kém cái Canon PowerShot S10 nhỏ bằng phân nữa nó về thể tích thôi. Máy dSLR cũng có loại LCD quay được như cái Nikon D5100. Máy Panasonic Lumix DMC-FZ150 có LCD quay 360 độ. Trước khi qua tiêu chuẩn khác còn một đặc tính cũng quan trọng của LCD là touch screen, điều khiển máy ảnh bằng cách chấm ngón tay lên màn ảnh y như iPod hay iPad. Có máy hay lắm thí dụ chụp đám đông vài người chúng ta chấm ngón tay vào người nào đó thì máy focus ngay người nầy và theo dõi cho người đó luôn luôn đúng focus dù người mẫu đó di chuyển qua chỗ khác. Ngoài LCD thông thường máy ảnh ngày nay còn dùng monitor (visor) OLED. Với loại monitor nầy ảnh có màu sắc hay hơn tí xíu. OLED có tầm nhìn xiêng rộng hơn, LCD phải nhìn thằng vào màn ảnh mới thấy rõ hình. OLED cho màu trung thực hơn, độ tương phản giữa sáng tối cao hơn, ăn pin ít hơn khoảng 20% so với LCD. Nhưng ngược lại nó có cái bất lợi là LCD co1q đời sống 75000 giờ, còn OLED có đời sống chứng 12000 giờ. Thực tế quá dư thừa cho đời một cái máy digital camera thường chừng 3 năm là thay cái mới rồi. Có bao giờ các bạn vừa chụp ảnh vừa xem lại ảnh trên cái digital camera tới 12 ngàn giờ đồng hồ đâu, trừ khi các bạn đang ở trong nhà thương điên. OLED bị cái hiện tượng burning như plasma TV (như bóng neon đen đầu) . Với digital camera thì chuyện nầy cũng không tới bao giờ, chỉ có TV mới bị vì người ta coi TV mõi ngày nhiều giờ quanh năm. Tóm lại khi mua máy ảnh nhớ xem LCD bao lớn độ mịn bao nhiều (461.000 dots là trung bình, kém là 230000 dots). Chọn được OLED có resolution cao như 461000 pixels trở đi là hay nhất. 5. Tiêu chuẩn thứ năm: để ý độ ISO của sensor. Hẳn các bạn còn nhớ thời xưa chúng ta mua fil thường để ý tới ASA (ISO) coi là bao nhiêu. Thời đó film 64ASA được coi là mịn ít hột khi phóng đại, còn film nhậy 100ASA là thông thường chụp hàng ngày. Chụp ban đêm thì chỉ có film 400ASA thôi trên nữa chưa thấy. Tại sao, vì film càng nhạy (bắt sáng mạnh) thì càng có hột nhiểu khi phóng đại ra giấy. Ngày nay dộ nhạy của cái sensor cũng được đo theo kiểu của dợ nhạy film. Sensor có độ nhạy nằm trong khoảng ISO 80 tới ISO 6400 (có nhiều máy cao hơn một bậc nữa). Thông thường là 64, 100, 160, 200, 400, 640, 800, 1600, 3200, 6400, 12800. Nếu chụp với ISO thấp tấm hình sẽ trong ít hột nếu chụp với ISO cao như 6400 thì ảnh sẽ có nhiều hột và chi tiết nhỏ trên ảnh mờ dần. Các bạn thấy con số tăng nhanh nhưng thật ra chỉ tăng gần như chỉ có một f-stop thôi ISO 800 nhạy hơn ISO 400 hai lần (tức là 1 f-stop). ISO 1600 nhạy hơn ISO 400 bốn lần (tức là 2 f-stop) Tại sao chọn máy có ISO tối đa cao. Thưa như vậy các bạn ít tùy thuộc vào đèn flash. Chụp tiệc tùng ban đêm đông người bằng point-and-shoot mà dùng đèn flash thì thường tấm ảnh chụp được “hết biết luôn” bỏ thùng rác cho yên, mặt mày người mẫu xấu như ma. Nhưng nếu các bạn dùng máy dSLR thì lại là chuyện khác. Đây là tấm ảnh chụp ban đêm, cầm tay, chỉ có một ngọn đèn đường, nhìn bằng mắt cảnh vật thiếu sáng, mờ mờ, trời có mây nhưng không thấy được. Ảnh có sao để vậy và data vế tấm ảnh nầy là Dĩ nhiên trong trường hợp nầy mà các bạn mở đèn flash thì chắc chẳng thấy hay ho gì, vật ở gần sáng trưng vật ở xa tối mò. Đó là tiêu biểu của nhiều tấm ảnh chụp tiệc tùng bằng máy point-and-shoot và mở đèn flash. Có cái nguyên tắc kỳ cụ là chụp ban ngày mở flash, chụp phong cảnh ban đêm thường nên tắt flash. Do vậy khi mua máy point-and-shoot chúng ta nên chú ý tới cái ISO cao nhất là bao nhiêu. Nhưng cái cao nhất đó không dùng được đâu cho ảnh hột dữ lắm (hột là noise tiếng Mỹ). Chúng ta chúp dưới mưa tối đa một hay hai bực thì ảnh không đến nỗi nào. Tới đây tôi bày cho các bạn không i-tở nhiếp ảnh chút nào hết, tức là các bạn thích chụp hình và có máy dSLR một cái mánh tôi học được từ người bạn. đó là khi chụp ban đêm (trong phòng tiệc) các bạn set ISO cao lên (thí dụ như 1600) xong mở đèn flash hướng lên trần nhà và chi3ng flash yếu đi chừng 1/10 sức mạnh hay 1/16 sức mạnh nhất. Xong các bạn chụp thử coi sẽ biết liền. Bằng hữu chỉ cái mánh nầy là người có nhiều kinh nghiệm chụp ảnh từ lâu và đa số hình chụp được dưới con mắt tôi là quá đẹp, vị nầy không có dự triển lãm. Đây là cái mánh của người bạn đáng lý tôi biết để bụng vì chưa hỏi ý kiến bằng hữu nầy. Thôi thì nếu các bạn làm thử thấy hay nghĩa là thấy ảnh rõ từ đầu phòng tới cuối phòng như chụp ban ngày nơi đầy đủ ánh sáng thì nhớ gởi tôi ly cà phê nghe. Vậy thì chọn máy digital camera có ISO cao để bớt hay khỏi cần dùng đèn flash. Nhớ là có hai loại sensor: Loại CCD và loại CMOS. Loại CMOS dễ chế tạo rẻ tiền và hình như tới bây giờ vẫn kém hơn CCD, nhưng vui là các hãng máy ảnh đua nhau khoe là mình dùng CMOS như là một ưu điểm. Có lẽ tương lai gần CMOS bắt kịp CCD. Chuyện nầy đã bàn trong bài trước còn trong Quán Ven Đường (http://sites.google.com/site/huynhchieudang/home ). 6. Tiêu chuẩn thứ sáu: để ý đến image stabilizer. Đây là điều cần thiết lắm lắm. Máy point-and-shoot nhẹ nhỏ nên rất dễ rung tay. Máy dSLR hay máy film ngày xưa nạng trình trịch nên ít run tay hơn. Nên chọn máy có optical stazbilzation. Nguyê n tắc là khi tay run ảnh sẽ nhòe đi. Các bạn cứ tưởng tượng rọi đèn pin ra thật xa, khi các bạn run tay nhẹ thì vệt sáng chạy khá xa. Do vậy máy ảnh có một hệ thống len ngay trong ống kính khi tay run thì cái len nhỏ xíu nầy lắc theo chiều nào đó giữ cho ảnh đứng yên trên sen sor. Kính máy ảnh khi không run tay nằm ngay ngắn thế nầy, Khi máy ảnh run, cái 2nd lens nhào xuống một tí nên tia sáng màu vàng vẫn nằm ngay trên sensor không thay vị trí. Đườnh chấm chấm là trục của máy ảnh khi rung tay. Khi không run thì trục máy ảnh trùng với tia màu vàng. Nói thì dễ nhưng cấu tạo khó lắm, gyroscope định vị máy digital camera, khi cái máy lệch chút xíu thì nó ra lịnh cho bộ phận điện tử dùng nam châm điện chỉnh cho correction lens nhích theo chiều ngược sao cho ảnh cố định trên sensor. Hệ thấng trong máy Canon rất hữu hiệu, cái Canon PowerShot S100 giữ đến được 4 f-stop. Ngồi trên xe hơi chạy giồng quay phim chúng ta thấy ảnh đứng ngay không chao đảo theo xe. Nếu không có cái optical stabilizer thì ảnh lắc xem lại chóng mặt lắm. cảnh ban đêm bên trên chụp cầm tay vận tốc 1/4 mà vẫn không tấy run tay nhiều. Máy Nikon và Panasonic cũng dùng kiểu optical stabilization nầy. Đây là phát minh của Canon, xưa kia Canon cho Olympus dùng bản quyền nầy. Cách nay mươi năm những máy có zoon xa của Olympus tạo thành huyền thoại nhờ cái optical image stabilization . Sau đó Canon lấy lại lisence nên Olympus chới với phài dùng cái gọi là sensor shift corecction. Cái nầy không hữu hiệu bằng (theo tôi) cái optical stabilizer. Ngoài ra với máy dSLR thì còn thêm bất tiện khác: Với optical stabilizer ảnh vào mắt lúc lấy khung đứng yên. Còn với loại sensor shift thì ảnh lấy khung run theo máy, chỉ đứng yên trên sensor thôi. Xem hình bên dưới sẽ thấy rõ. Trên đây chỉ kể sơ thôi, khi mua máy các bạn nhìn kỹ coi có stabilzation không, nếu có thì hãng đó dùng kỹ thật nào. Chọn optical cho cả point-and-shoot và dSLR. 7. Tiêu chuẩn thứ bảy: để ý coi visdeo quay được có resolution cở nào. 1080p hay hơn 1080i hay hơn 720p. Khi quay video có zoom được không. Nhiều máy quay video không zoom được, mà nagy cò có máy sSLR zoom được (vặn tay) thì nó không focus theo. Tệ thiệt. Ngày nay tất cả point-and-shoot đều quay video được . Có máy cho quay tới hết memory có máy cho quay 60 phút mỗi đoạn, có máy chỉ cho quay tới 4GB mỗi lần thôi, muốn quay tiếp thì bấm máy cái nữa. Ngoài ra khi quay film thì nó thu được bao nhiêu frames một giây. Thông thường là 30 frames/second. Nhưng có máy thu tới 60 frames/s (Sony Cyber-shot DSC-HX9V). Tiêu chẩn film ngày xưa là 24 frames /s nên có vài máy dùng tiêu chuẩn nầy, thí dụ Canon PowerShot S100. Ngoài ra có máy quay được cái gọi là slow motion, có vài hiệu tôi chỉ nhớ hiệu nầy thôi Canon PowerShot S100 quay tới 240 frames/s. Khi chiếu lại vận tốc bình thường thì movie rất chậm, y như khi xem đá banh gặp pha cụp lạc TV chiếu chậm lại vậy. Có nhiều máy có port HDMI nhỏ (loại mini) chúng ta cấm giây HDMI trực tiếp từ digital camera tới TV thì xem được video trên HDTV. Bão đãm quí bạn là đẹp. Nhưng cũng có máy digital camera không có port HDMI đâu. 8. Tiêu chuẩn thứ tám: không phải vấn đề kỹ thuật mà là vấn đề của hcd tôi. Đó là thay vì mua máy mới ra năm nay, chúng ta mua máy ảnh của năm rồi, thường bán xuống giá. Thí dụ như cái Canon PowerShot S95 ra năm 2011 bán khoảnh $430, giờ đây bán rẻ đi $100 vì có model mới hơn là Canon PowerShot S100 ra năm 2012 (cuối năm 2011) thay thế. S100 bán $430. S95 bán $330. Hai máy không xê xích nhiều, nếu tài chánh eo hạp thì mua cái S95 cho rẻ thay vì mua cái S100. Cũng như vậy, mua iPad2 sẽ rẻ hơn mua iPad3 sáp rắp ra (chắc tháng 3 nầy). Thí dụ khác Nikon Coolpix S9100 hiện bán $330, Coolpix S8100 giờ đây bán $130. Kết luận: Những tiêu chuẩn trên theo tôi là đáng chú ý khi mua máy digital camera. Không có máy digital camera nào tốt mọi mặt và vừa tay cho tất cả mọi người. Máy camera nào cũng cần cải tiến thêm khi ra cái mới hơn. Chúng ta không thể chờ dợi cái hay nhất trong tương lai, mà buộc phải mua cái hiện có trong thị trường dù nó có 8 phần ưng ý và 2 phần chưa ưng. Cũng phải căn cứ vào nhu cầu là các bạn mua máy để chụp trong hoàn cảnh nào nhiều nhất. Đa số là họp mặt và phong cảnh, số nhỏ chụp chim chóc hoa quả thể thao trẻ con thú vật…Nếu chụp họp mặt thì mua máy có độ focal length ngắn nhất, và có độ ISO cao nhất, có stabilization hữu hiệu nhất. Còn chụp trẻ con thú nuôi hay thể thao hay chim đang bay thì cần máy nhanh nhất khi bấm nút chụp. Có máy bấm thấy nhảy liền focus lấy thước lấy ánh sáng nhanh như gió (đa số là dSLR) có máy mấm nút lấy ảnh xong, nục cười người mẫu vừa tắt thì mới nhảy, thật vô duyên mà tấm ảnh thu được cũng héo tàn. Trước khi chấm dứt câu tôi thuờng nói là máy ảnh tân tiến tốt nhất giúp cho dễ chụp ảnh, nhưng không giúp cho các bạn chụp được ảnh dẹp. Muốn chụp được ảnh đẹp thì điều cần nhất là có con mắt trời cho. Điều cần thứ hai là hiểu cái máy digital camera đang có. Các bạn không hiều cách dùng thì vô phương chụp được ảnh bắt mắt. Chụp được ảnh dẹp về kỹ thuật thì máy nào cũng làm được, trẻ con nhỏ xíu cũng chụp được, chỉ cần vặn qua automatic là đâu vô đó. Nhưng những tấm ảnh nầy chỉ đủ ánh sáng, lấy thước đúng, sắc nét. Còn nói là được nhiều người thích hay khen là đẹp thì ít khi lắm. Muốn làm quen với cái máy ảnh dù rẻ tiền ngày nay chắc cũng mất một vài tháng. Không quen với máy là không chụp được ảnh hay. Nhiều khi đi chơi, bạn bè đưa máy xịn cho tôi chụp, tôi chụp ra ảnh đâu có hay bằng cái máy rẻ tiền Panasonic S7 của tôi. Lý do tôi chua quen máy ảnh lạ. Ngày nay thấy nhiều bà con chúng ta thích chụp ảnh gây thành phong trào ngay cả trong và ngoài nước, điều nầy đáng mừng. Nếu không có phong trào chụp ảnh rần rộ như ngày nay, thì uổng cho thiên nhiên đẹp đẻ như vậy mà không được mấy ai ngó ngàng tới. Bà con cầm cái máy ảnh trong tay rồi mới thấy thiên nhiên đẹp từ cọng cây bụi cỏ phải không. Thú chơi chụp hình có lẽ là một trong những thú lành mạnh và tao nhã. Tôi hỏi các bạn một câu, có bao giờ các bạn ngâm bài thơ “nghệ sĩ bất mản” không. Bất mản là vì trước cảnh thiên nhiên đẹp như vậy mà người “nghệ sĩ” cầm máy không đủ tài không đủ sức để thu vào ống kính. Có lần nào các bạn chụp xong về bỏ vô computer xem lại muốn quăng tấm ảnh vô thùng rác luôn không. Người ta đẹp là vậy mà chụp vào máy ảnh rồi xem lại “hết biết” luôn. Tôi đùa cho vui thôi, các bạn chớ giận. Với các bạn i-tờ mới cầm máy ảnh thì các điều trên có khi đúng phải không. HCD (2-Feb-2012)
|
|