|
Post by Huu Le on Nov 29, 2006 5:35:42 GMT 9
Vì sao con người không bất tử? 01.04.2006 Hình chỉ có tính chất minh họa Cuộc sống và cái chết đã được lập trình sẵn bởi gene di truyền, tựa như trong mỗi chúng ta đã có sẵn “đồng hồ” ấn định tuổi thọ. Nhiều nhà khoa học cho rằng, sự sống chết của con người được kiểm soát bằng con số 50 nghiệt ngã. Có ý kiến cho rằng đời người là một khối lượng vật chất, tồn tại như một ngọn nến được đốt lên khi chào đời và sẽ tắt khi nến cháy hết; hoặc như chiếc đồng hồ chạy pin, khi pin hết thì đồng hồ ngừng lại. Nhiều người lại cho rằng tất cả là do gene. Con số 50 nghiệt ngã Theo một số nhà khoa học, sự điều hòa chức năng, kể cả sự lão hóa được kiểm soát không phải bởi các đồng hồ sinh học đặc biệt vốn có của toàn cơ thể mà rất nhiều “đồng hồ” đặt ở trong từng tế bào. Bằng chứng là phát kiến năm 1961 của tiến sĩ Hayflik ở Đại học Tổng hợp Florida (Mỹ). Trước đây, các nhà khoa học vẫn cho rằng tế bào trong các mô nuôi cấy có số lần phân chia không hạn chế, tức là bất tử. Nhưng Hayflik đã chứng minh rằng chỉ có các tế bào ung thư mới bất tử, còn các tế bào bình thường chỉ phân chia đến giới hạn 50 + 10 lần rồi chết đi. Nếu ta dùng nhiệt độ rất thấp để làm ngừng phân chia, rồi một thời gian sau hoạt hóa trở lại, nó vẫn nhớ số lần phân chia trước khi ngừng và tiếp tục cho đến con số giới hạn. Hayflik đã làm đông lạnh loại tế bào đã chia được 30 lần. Sau khi rã đông, chúng chỉ thực hiện có 20 lần chia nữa rồi ngừng lại. Hiệu ứng này về sau được mang tên Hayflik. Tác giả của phát minh này cũng như nhiều nhà khoa học khác một thời gian dài sau đó không giải thích được nguyên nhân hành động này của tế bào. Chuỗi xoắn kép so le Phân tử ADN được cấu thành từ hai chuỗi xoắn polynucleotit, chuỗi nọ xoắn quanh chuỗi kia. Chúng được hai nhà khoa học trẻ Watson và Crick tìm ra và đem lại giải Nobel cho họ. Cho đến năm 1973, nhà khoa học Alexei Olovnikov (Liên Xô cũ) đưa ra giả thuyết là cứ mỗi lần phân chia tế bào, phân tử ADN (acid dezoxyribonucleic) lại ngắn đi một ít. Khi sự rút ngắn này đụng đến một gene quan trọng cho sự sống thì tế bào chết. Ông giải thích: Các phân tử ADN của mỗi tế bào khi phân chia thì hai sợi xoắn kép giãn ra, tách đôi để tạo ra chuỗi xoắn mới. Hai dãy enzym tích tụ từ quá trình này không đủ khả năng lặp lại toàn bộ cả hai sợi phân tử ADN. Một trong hai sợi xoắn kép bao giờ cũng bị ngắn hơn sợi kia. Cứ mỗi lần tách ra là phân tử ADN lại mất một ít thành phần của nó, giống như miếng da lừa của chàng họa sĩ trong tiểu thuyết cùng tên của Banzac (đại văn hào Pháp) biết thực hiện lời nguyện của chàng, nhưng cứ sau mỗi lần ước là miếng da lại co nhỏ đi. Sự co ngắn không tránh khỏi của các phân tử ADN được Olovnikov gọi là sự “co mép lề” hay “cắt khúc cuối”. Ông giải thích hiện tượng này như sau: Các chuỗi ADN con được tạo thành do di chuyển của men ADN-polymeraza dọc theo chuỗi mẹ. Các trung tâm nhận biết và trung tâm xúc tác của men này nằm cách nhau. Khi trung tâm nhận biết (ví như đầu tàu hỏa) đi đến chuỗi ADN mẹ thì trung tâm xúc tác (toa cuối đoàn tàu) ngừng ở cách đoạn cuối ADN một khoảng và khoảng còn lại đó không được sao chép. ADN còn bị thu ngắn là do việc tổng hợp các chuỗi sao chép được bắt đầu với những phân tử ARN (acid ribonucleic) ngắn. Sau khi tổng hợp xong, chuỗi sao chép ARN được loại ra, vì vậy bản sao thường ngắn hơn bản gốc. Thước đo cuộc đời Hiện tượng “co mép lề” ADN đã diễn ra như thế nào, cho đến nay các phương tiện thực nghiệm chưa cho phép khẳng định chính xác. Nhà khoa học nữ Barbara Mc Clintock, người từng được giải Nobel về y học, khi nghiên cứu về ngô đã thấy rằng nhiễm sắc thể (có trong nhân tế bào, được tạo thành từ ADN, ARN và protein) trở nên không ổn định một cách lạ lùng khi bị phân chia ra. Nhà khoa học Herman Muller cũng có những nhận định tương tự khi nghiên cứu loài ruồi giấm. Các đầu mút của nhiễm sắc thể bình thường phải tồn tại một cấu trúc phân tử nào đó có tác dụng ổn định chúng. Và Herman Muller gọi chúng là “telomeres” (theo tiếng Hy Lạp, telo có nghĩa là cuối, còn meres là phần). Chính telomeres nằm ở chuỗi tế bào sẽ chết, chiều dài của telomeres tỷ lệ với tuổi thọ này không? Nhiều phòng thí nghiệm ở Mỹ và một số nước hiện đang lao vào tìm lời giải đáp. Các telomeres như một thứ bảo hiểm làm chậm hiệu ứng của thời gian đối với các nhiễm sắc thể. Ngày nay, với những kỹ thuật hiện đại, người ta đã có thể tách riêng các telomeres ra khỏi chuỗi ADN, làm rõ sự rút ngắn telomeres, cũng như đo được nhịp điệu co ngắn của telomeres chia tế bào. Người có tuổi càng cao thì telomeres của họ càng ngắn. Theo tính toán, telomeres của nguyên bào sợi người, nơi sản sinh ra chất colagen, cứ mỗi năm mất khoảng 20 phân tử. Khi các telomeres trở nên quá ngắn thì các nhiễm sắc thể sẽ kém bền vững, chúng không thể bám vào được màng nhân tế bào, bị dính vào nhau và có hình dạng kỳ dị. Hậu quả là các tế bào không thể phân chia được nữa. Các nhà nghiên cứu đang bắt đầu đánh giá kích thước của telomeres như một “thước đo” chuẩn xác tuổi thọ của các tế bào. Thậm chí nhà khoa học Calvin Harley còn cho rằng nếu khi sinh ra, telomeres của một người nào đó ngắn hơn bình thường, thì các tế bào của người đó sẽ có tuổi thọ ngắn hơn một cách tương ứng. Có lẽ không lâu nữa, khoa học sẽ tìm ra “thước đo cuộc đời”, bản chất của vấn đề tuổi thọ để tìm cách tăng thời gian sống cho loài người. -------------------------- Tác giả bài viết là BS. Vũ Hướng Văn. Bài viết đăng trên Tạp chí Sức Khỏe và Đời Sống. ykhoavn
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 29, 2006 5:40:53 GMT 9
Cho trẻ uống thuốc đúng cách 15.11.2006 Khi cho trẻ uống thuốc viên, nhiều bà mẹ nghiền nhỏ thuốc rồi chia liều, trộn lẫn đường cho trẻ dễ uống. Đây là một quan niệm sai lầm vì có thể làm giảm tác dụng của thuốc. Thuốc dạng viên nén, viên nang trong nhiều trường hợp phải giữ nguyên vẹn viên khi uống, nếu phân nhỏ, tháo nang uống sẽ có hại hoặc giảm tác dụng của thuốc. Nhiều loại thuốc có viên bao chỉ tan trong ruột (khi uống thuốc, vào đến dạ dày lớp bao mới bung, những viên nhỏ như hòn bi sẽ lăn xuống ruột rồi tan ra). Nếu tháo bỏ lớp bao này, thuốc chưa kịp đến ruột đã bị tan hết thì sẽ không có tác dụng. Do đó, không nên nhai, nghiền nát những loại thuốc viên bao tan trong ruột. Với trẻ nhỏ nếu uống cả viên sợ hóc, có thể bỏ vỏ bao bên ngoài, nhưng không được nghiền những viên nhỏ bên trong ra, nếu không sẽ giảm tác dụng. Có thể mua các loại thuốc được chế theo dạng si rô, có vị ngọt, thơm cho trẻ dễ uống. Khi uống thuốc dạng nước, nếu trẻ đang khóc không chịu uống, cha mẹ tuyệt đôi không bịt mũi để đổ thuốc vào miệng trẻ, nếu không nguy cơ bị sặc thuốc rất cao, rất nguy hiểm. Việc chọn thuốc cho trẻ em phải thận trọng hơn so với người lớn vì ở trẻ, nhất là trẻ sơ sinh các cơ quan như gan, thận, hệ thần kinh trung ương, hệ tim mạch... chưa phát triển hoàn chỉnh. Vì thế, sự hấp thụ, phân bổ, chuyển hóa và đào thải thuốc không hoàn toàn thuận lợi, rất dễ xảy ra hiện tượng thuốc gây độc tính. Khi cho trẻ uống thuốc cần tuân thủ liều chỉ định chặt chẽ. - Khi uống thuốc chỉ nên dùng nước đun sôi để nguội. Việc dùng sữa, nước hoa quả... thay thế nước lọc khi uống thuốc là không khoa học. - Sữa bò có nhiều kali và sắt. Những chất này khi gặp một số thuốc sẽ phản ứng, tạo ra một số tạp chất ổn định hoặc khó tan, gây cản trở cho sự hấp thụ thuốc của lòng ruột và dạ dày. Thậm chí, có những loại thuốc còn bị những chất này phá hủy. - Trong nước quả, nhất là nước cam, chanh có thành phần axit tương đối nhiều. Khi dùng nước hoa quả để uống thuốc có thể làm xảy ra một số phản ứng hóa học dẫn đến thay đổi tính chất của thuốc. (Theo Gia Đình & Xã Hội
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 29, 2006 6:09:44 GMT 9
Bệnh tật nhìn từ quan điểm của thuyết tiến hóa 06.10.2006 Đối phó với một bệnh tật, chúng ta thường hay đặt câu hỏi “tại sao” (tại sao tôi mắc bệnh này?). Câu hỏi có thể được tiếp cận bằng hai giải thích: một là giải thích căn nguyên trực tiếp, và hai là giải thích bằng thuyết tiến hóa, hay có thể gọi là nguyên nhân sâu xa. Những câu trả lời trực tiếp, thường thấy trong sách giáo khoa và được dạy trong các trường y, mô tả những cơ chế bệnh nguyên, bệnh sinh đưa đến bệnh tật mà khoa học biết được. Những câu trả lời này cần thiết, nhưng chưa đủ. Chúng ta cần biết đến những nguyên nhân sâu xa, những câu trả lời dựa vào lí thuyết tiến hóa của Charles Darwin, mô tả những tiến trình tiến hóa của các cơ phận trong cơ thể cũng như hành vi con người ngày nay. Mục tiêu chủ yếu của y khoa Darwin (hay còn gọi là Darwinian Medicine) là tìm hiểu và giải thích tại sao chúng ta mắc bệnh. Kiến thức y học chủ yếu dựa vào nền tảng của sinh lí học. Sinh lí học chủ yếu quan tâm đến việc phân tích cơ chế hoạt động và những tương tác của các bộ phận trong cơ thể con người. Một khi một bộ phận nào đó trong cơ thể có vấn đề hay bị trục trặc, thông qua sinh lí học, bằng lập luận về cơ chế bệnh học, chúng ta có thể hiểu được tại sao nó xảy ra, và qua cơ chế bệnh sinh đó, chúng ta có thể tìm cách chữa trị. Thành ra, có thể nói rằng chiến lược căn bản của y khoa ngày nay là khảo sát sự tương tác lẫn nhau giữa các thành tố trong một hệ thống vừa mở vừa kín, đó là: môi trường-con người (ngoại sinh và nội sinh) thông qua các đặc tính di truyền, cơ chế sinh lí của cơ thể; và phản ứng của chúng trong quá trình đáp ứng với bệnh tật của cơ thể đó trong mối quan hệ hỗ tương với môi trường xung quanh. Nói nôm na, cách chẩn đoán và điều trị bệnh cũng giống như giới kĩ sư tìm hiểu sự vận hành và cách sửa máy móc cơ khí khi gặp phải sự cố. Nói chung, đây là một chiến lược logic, và trong quá khứ đã thành công rực rỡ trong việc khám phá ra nhiều biện pháp chữa trị hữu hiệu cho nhiều căn bệnh ngặt nghèo. Nhưng dù thành công, chiến lược này không cung cấp cho chúng ta một bức tranh toàn diện về bệnh tật, bởi vì nó chú trọng vào việc chữa trị căn bệnh hơn là chữa trị con người với căn bệnh. Nói cách khác, phương pháp phân tích cơ chế bệnh nguyên bệnh sinh theo trường phái y học Tây phương dường như bỏ quên phần con người trong phương trình bệnh tật. Chúng ta phải đi vượt qua câu hỏi “Cơ phận này vận hành ra sao” để đặt câu hỏi “Tại sao có cơ phận này”. Đứng trên quan điểm tiến hóa, cơ thể con người là một bộ máy mà trong đó các cơ phận được thiết kế tinh vi đến mức tuyệt vời, nhưng lại là những thiết kế dựa vào những thỏa hiệp giữa lợi và hại. Hãy lấy mắt, có khi được ví von là “cửa sổ của linh hồn”, làm một ví dụ. Mắt là một vật thể có thể nói là một kì quan, với giác mạc được cấu trúc bằng những mô sáng trong và được uốn cong cong một độ vừa phải, với mống mắt có chức năng điều chỉnh độ sáng tối và thủy tinh thể đóng vai trò của một cái kính lúp “chăm sóc” tầm xa gần của mắt, và hai cơ phận này làm việc nhịp nhàng với nhau để lượng sáng làm nổi bật tiêu điểm một cách chính xác trên bề mặt của võng mạc. Nhưng dù ngưỡng mộ một kì quan như thế, chúng ta vẫn thấy thiết kế mắt có vài khuyết điểm đáng kể. Khuyết điểm lớn nhất của mắt là cả mạch máu và thần kinh mắt bó chung lại thành một bó và đi vào trực diện qua võng mạc (vì cấu trúc mắt nhỏ mà cần có đặc tính thấu quang cao, cho nên mọi sắp xếp cần phải hợp lý theo tiến hoá), do đó chỉ cần một chèn ép nhỏ thì mù mắt xảy ra chỉ trong giây phút, điển hình là gặp trơng trường hợp viêm động mạch mắt. Điểm thứ hai, chúng ta có thể thấy ở mắt, để nhìn được hình ảnh một cách trung thực và chính xác, mắt của chúng ta cấu trúc hoàn toàn như một cái máy ảnh (hay đúng hơn máy ảnh đã nhại lại tuyệt đối nguyên lý cấu trúc của mắt). Như vậy toàn bộ bộ phận quang học của mắt phải tuyệt đối trong suốt bao gồm giác mạc, dịch kính. Như thế thì mắt không được có vẩn đục, cho nên trong mắt rất ít hệ thống mạch máu hay nói đúng hơn là không có. Mọi việc nuôi dưỡng mắt đều thông qua con đường thẩm thấu. Như thế, chỉ cần ta thiếu nước mắt thôi, mắt chúng ta rơi vào tình trạng nguy hiểm rồi. Cơ thể con người là một công trình với nhiều mâu thuẫn đồng tồn như thế. Nói một cách ví von nó tồn tại như một cặp phạm trù đối lập mà hỗ tương: · Trong khi van tim được cấu trúc cực kì tinh vi, thì chúng ta cũng có cái răng khôn (mọc vào tuổi đã khôn lớn, khoảng 18-20 tuổi, nên gọi là răng khôn), nó chẳng có chức năng gì mấy, mà khi mọc lại gây ra lắm phiền phức đặc biệt trên những người có cung hàm ngắn, khi đó chúng ta đành gọi là “răng khôn mọc dại”. · Các mảng DNA có nhiệm vụ ra chỉ thị cho việc phát triển khoảng 10 tỉ tỉ tế bào để làm nên cơ thể con người, nhưng cũng chính DNA làm cho cơ thể suy đồi và dẫn đến cái chết. · Hệ thống miễn dịch của cơ thể có thể nhận dạng và tiêu diệt hàng triệu loại vi khuẩn và “kẻ thù ngoại bang”, song lắm khi cơ thể chúng ta lại chết vì chính hệ thống miễn dịch của chúng ta, trong các trường hợp sốc phản vệ hay quá mẫn, khi đó cơ thể chúng ta bị rơi vào tình cảnh “quân ta sát hại quân mình”. · Lại lấy ví dụ cũng về mắt: như đã đề cập ở trên, nhãn cầu chúng ta là một bộ phận quang học kín, rất ít có quan hệ với các cơ phận xung quanh. Do dó dù là “con cháu trong nhà” nhưng hệ thống miễn dịch của cơ thể không bao giờ có “số đăng bộ” của các bộ phận nhỏ ở bên trong nhãn cầu cả. Khi bị chấn thương nhãn cầu, nhãn cầu vỡ ra, các chất bên trong này thâm nhập vào mạch máu. Hệ miễn dịch cơ thể lúc này kiểm tra thấy rằng đây là những kẻ “ngoại bang” xâm nhập, do đó hệ miễn dịch trung ương bắt đầu sản xuất ra hàng loạt đội quân đặc nhiệm tấn công những “kẻ ngoại bang” này; và vô hình chung, chúng tấn công luôn bên mắt còn lại, và hậu quả là bệnh nhân bị mù. Trường hợp này trong y khoa gọi là “nhãn viêm đồng cảm”. Nhận ra những mâu thuẫn trên chúng ta cảm thấy như cơ thể con người được thiết kế bởi một nhóm kĩ sư lỗi lạc nhưng thỉnh thoảng lại bị can thiệp bởi những tay phá hoại vụng về. Thế nhưng, những “phi lí” và mâu thuẫn như thế chỉ trở nên hợp lí khi chúng ta chịu khó nhìn vấn đề qua lăng kính của Darwin. Nhà di truyền học danh tiếng Theodosius Dobzhansky từng nói: "Trong sinh học không có cái gì có ý nghĩa cả, nếu chúng ta không đặt nó vào bối cảnh của quá trình tiến hóa." Sinh học là nền tảng của y học, và sinh học tiến hóa (Evolutionary biology) là nền tảng của sinh học; cho nên có thể nói rằng chúng ta cần phải hiểu sinh học tiến hóa để hiểu y học. Tuy nhiên, sinh học tiến hóa chỉ mới được công nhận là một khoa học cơ bản của y học trong vài năm gần đây (từ thập niên 1990s) mà thôi. Việc nghiên cứu các vấn đề y khoa trong bối cảnh quá trình tiến hóa có khi còn được gọi là Darwinian Medicine (Y học Darwin) hay Evolutionary Medicine (Y học tiến hóa). Đại đa số các nghiên cứu y khoa trong thời gian qua nhằm đi tìm nguyên nhân của bệnh tật và tìm thuật chữa trị. Ngược lại, y học tiến hóa đặt câu hỏi tại sao cơ thể con người được thiết kế như hiện nay để chúng ta mắc những bệnh như ung thư, tiểu đường, xơ vữa động mạch, phiền muộn, ho, v.v… Thành ra, y học tiến hóa cung cấp cho chúng ta một viễn cảnh lớn hơn, góc nhìn rộng hơn, nhằm giải thích bổ sung các kết quả của nghiên cứu y học. Chọn lọc tự nhiên Hai cụm từ chủ đạo trong y học tiến hóa là chọn lọc tự nhiên (natural selection) và “tiến hóa”. Chọn lọc tự nhiên thực ra là một nguyên lí (không phải là một lí thuyết) hết sức đơn giản nhưng dễ dẫn đến hiểu lầm. Ngày xưa, khi Charles Darwin đề xuất nguyên lí chọn lọc tự nhiên, ông chắc chắn chưa biết đến gien; ông chỉ quan tâm và dựa vào những khác biệt về đặc điểm của con người. Thành ra, ông phát biểu những ý kiến về chọn lọc tự nhiên dựa vào những thay đổi về đặc điểm con người với thời gian và một vài ý tưởng mơ hồ về “mã số” di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Nhưng ngày nay chúng ta biết đến gien và DNA cấu trúc của gien. Chúng ta biết rằng con người có khoảng 30.000 đến 35.000 gien, và gien tương tác với môi trường để tạo nên những đặc điểm khác nhau giữa con người. Nguyên lí chọn lọc phát biểu rằng nếu những người với gien A có nhiều con cái hơn những người với gien B, thì về lâu về dài gien A sẽ trở nên phổ biến trong dân số hơn gien B, và gien B sẽ trở nên hiếm thấy trong dân số. Do đó, nói đến chọn lọc tự nhiên là nói đến (a) sự biến thiên về thông tin chứa trong gien làm nên những khác biệt về đặc tính một sinh vật; (b) sự khác biệt về khả năng tái sản sinh của sinh vật, do hệ quả của (c) thay đổi thông tin trong gien qua nhiều thế hệ. Chìa khóa để hiểu chọn lọc tự nhiên là nhận thức rằng sinh vật không thay đổi, nhưng thông tin và gien trong sinh vật thay đổi theo thời gian. Với nhận thức như trên, chúng ta hãy xét qua những giải thích của y học Darwin. Tôi sẽ chia những giải thích này thành 4 nhóm: cơ chế phòng vệ, cạnh tranh với các sinh vật khác, cơ chế thỏa hiệp, và thích ứng với môi trường mới. Tiến hóa của cơ chế phòng vệ Nhiều triệu chứng của bệnh tật (hay ngay cả bệnh tật) là do các tác nhân gây bệnh (pathogens) hay những bất bình thường trong cơ thể gây nên, hay còn gọi là tác nhân ngoại sinh hoặc nội sinh. Nhiễm trùng, bại liệt, bệnh vàng da, hay một cơn tai biến là một vài ví dụ cho phát biểu trên. Nhưng một số biểu hiện khác thì không phải do bất bình thường trong cơ thể mà do các cơ chế phòng vệ gây nên, và các cơ chế này được quá tiến hóa để bảo vệ chúng ta khi phải đương đầu với một mối hiểm nguy. Chẳng hạn như ho, đau đớn, ói mửa, tiêu chảy, mệt mỏi, và lo lắng. Có thể nhiều người trong chúng ta cho rằng đây là những bệnh, nhưng trong thực tế có thể chúng là những cơ chế phòng bệnh! Ho có lẽ là một chứng thông thường nhất mà ai trong chúng ta đều kinh qua. Nhưng tại sao chúng ta ho? Câu trả lời liên quan đến cơ chế phòng vệ của cơ thể. Thật vậy, ho có thể là một cơ chế phòng vệ hữu hiệu nhất, bởi vì nó giúp cho việc tống xuất những độc chất ra ngoài cơ thể. Nhiều nghiên cứu cho thấy những người không có khả năng thải các dị vật trong đường hô hấp và phổi thường bị chết vì viêm phổi. Và điều rõ ràng nhất, trong các trường hợp bị viêm phổi trong giai đoạn cấp tính, nếu bệnh nhân không ho được hoặc dùng thuốc cắt cơn ho, tiến trình bệnh sẽ kéo dài hơn và nhiều trường hợp chết vì ứ đọng đờm giãi gây tắc nghẽn thông khí. Khả năng đau đớn và lo lắng là những “sản phẩm” của quá trình chọn lọc tự nhiên. Nỗi lo lắng và đau đớn là hai “chứng” hay đi đôi với nhau mỗi khi chúng ta kinh qua một sự mất mát lớn (như có người thân trong gia đình qua đời), và do đó chúng thường gắn liền với những cảm nhận tiêu cực. Thế nhưng khả năng chịu đựng đau đớn và lo lắng cũng có lợi ích của nó. Nếu không có lợi, có lẽ chúng ta chẳng bao giờ có khả năng lo lắng hay chịu đựng đau đớn. Đau đớn là một cơ chế phòng vệ. Đau đớn, dù làm cho biết bao chúng ta phải khốn đốn, thực chất là một tín hiệu báo động cho cơ thể biết là các mô và tế bào đang trong tình trạng nguy hiểm hay đang bị tổn thương. Phản ứng đau là một dấu hiệu báo cho bộ não chúng ta biết, và điều khiển lí trí chúng ta phải dừng hoạt động các bộ phận đó lại để cho chúng có thời gian hồi phục. Những người không biết đau đớn thường chết sớm (trước tuổi 30), và không có cơ hội lưu truyền gien cho thế hệ mai sau. Chẳng hạn như những người với chứng rỗng tủy sống (syringoyelia), do hư hỏng dây thần kinh phát đi tín hiệu đau đớn, có thể cầm một tách cà phê cực nóng và uống bình thường, hay có thể để cho điếu thuốc lá cháy dần đến ngón tay mà không hề cảm thấy đau đớn gì cả. Hay nhưng với các bệnh nhân bị phong (leprosy), các dây thần kinh cảm giác (đau, nóng) bị tổn thương, làm cho các chi không còn biết “sợ” là gì, hậu quả dẫn đến các bệnh nhân bị cụt dần các đốt ngón tay ngón chân, do đó mà gọi là phong cùi! Thành ra, ngăn ngừa đau đớn một cách vô ý thức bằng thuốc có thể dẫn đến nhiều hậu quả khó lường.
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 29, 2006 6:12:37 GMT 9
Sợ hãi cũng là một cơ chế phòng về có lợi ích. Phần đông chúng ta đều cảm thấy sợ hãi trước những sinh vật nguy hiểm như rắn, rết, nhện, hay lo sợ khi đứng trên một tòa nhà cao ngất trời. Tiến hóa và chọn lọc tự nhiên đã làm cho chúng ta phải tìm cách tránh những hiểm nguy này. Bộ não của thỏ được “chương trình hóa” để tránh chó sói, và cũng không ngạc nhiên khi biết bộ não chúng ta cũng có một khả năng tương tự. Nhưng sợ hãi cũng là một quá trình học hỏi qua tiến hóa, và bài học có khi sai, có khi đúng, cho nên chúng ta thỉnh thoảng vẫn phải trả một giá đắt cho sự sợ hãi. Giáo sư tâm lí học Susan Mineka từng tiến hành một nghiên cứu thú vị: khi khỉ được nuôi trong chuồng chúng không hề biết sợ rắn, chúng còn dám bước qua con rắn để kiếm chuối làm thức ăn; nhưng khi chúng được cho xem một video mà trong đó khỉ phản ứng sợ hãi trước con rắn, chúng trở nên sợ rắn kể từ đó và không dám lại gần rắn nữa! Một cơn sốt, không chỉ đơn giản gia tăng tỉ lệ nội tiết, mà còn có công dụng điều chỉnh nhiệt độ cơ thể. Gia tăng nhiệt độ làm cho việc tiêu diệt các tác nhân gây bệnh (pathogens) hay độc tố nhanh chóng và dễ dàng hơn. Và chính nhiệt độ cơ thể tăng là một cơ chế làm thay đổi môi trường sống tối ưu của vi khuẩn, làm cho chúng mau chết. Nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy ngay cả khi thằn lằn (có máu lạnh), khi được cấy vi khuẩn làm cho chúng nhiễm trùng, thường tìm đến các khu vực ấm áp cho đến khi cơ thể chúng tăng vài độ. Nếu ngăn chận những thằn lằn đến những vùng ấm áp, chúng có nguy cơ chết nhanh vì nhiễm trùng. Một nghiên cứu tương tự của Evelyn Satinoff (Đại học Delaware) trên chuột cao tuổi cũng cho thấy một kết quả tương tự: khi chuột bị cho nhiễm trùng, chúng thường tìm đến những nơi có nhiệt độ cao để sống sót. Nhưng nhận thức được những lợi ích của các cơ chế phòng vệ cũng không hẳn hiển nhiên như các trường hợp trên. Nhiều người trong chúng ta thường kinh qua những phản ứng tưởng như vô thưởng vô phạt trước những đau đớn, sốt, tiêu chảy, hay ói mửa. Muốn hiểu những phản ứng này, cần phải phân tích hệ thống chi phối các phản ứng của cơ thể theo lí thuyết nhận dạng tín hiệu (signal-detection theory). Nhiều độc tố lưu chuyển trong cơ thể thường xuất phát từ bao tử. Một sinh vật có thể tống xuất nó một cách hữu hiệu là bằng cách ói mửa, nhưng cũng phải trả một cái giá “dương tính giả”, tức là cơ chế ói mửa được khởi động, nhưng trong cơ thể không có độc tố, và hành vi này tốn mất vài calories năng lượng. Thế nhưng nếu cơ chế phòng vệ không được phát động trong khi trong cơ thể có độc tố thì cái giá phải trả có khi còn đắt hơn nhiều: tử vong. Chọn lọc tự nhiên, do đó, có xu hướng điều chỉnh các cơ chế cực kì bén nhạy theo nguyên lí nhận dạng tín hiệu vừa nói trên. Một hệ thống phòng cháy được xem là đáng tin cậy nếu nó báo động bất cứ lúc nào có khói hay có lửa, nhưng nó cũng có thể cho ra báo động giả (như khói xuất phát từ một lò nướng!) Tương tự, trong cơ thể con người cũng có rất nhiều hệ thống báo động như thế, nhưng có nhiều khi chúng cũng báo động một cách không cần thiết, và chúng ta đôi khi phải khổ sở vì những báo động “giả” này. Nguyên lí này giải thích tại sao việc khống chế các cơ chế phòng vệ thường dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng. Bởi vì phần lớn những phản ứng xuất phát từ những mối đe dọa nhỏ, việc can thiệp vào những cơ chế phòng vệ thường vô hại; chỉ khi nào các cơ chế phòng vệ lớn bị khống chế thì hệ quả mới nghiêm trọng. Ở đây ta hiểu nôm na, là sự tiến hoá của các cơ phận của cơ thể cũng tuân theo một nguyên tắc “thà đánh nhầm còn hơn bỏ sót!”
Xung đột với các sinh vật khác Một phần lớn bệnh tật là hệ quả của sự cạnh tranh sinh tồn giữa các sinh vật. Một ví dụ hiển nhiên nhất là cạnh tranh giữa con người và vi khuẩn và những tác nhân gây bệnh. Có thể lấy sự cạnh tranh giữa thỏ và chó sói để minh họa cho ý tưởng này. Nếu có một gien (hay đột biến gien) làm cho chó sói chạy nhanh hơn các thú vật khác, chó sói sẽ bắt thỏ dễ dàng, và gien này sẽ trở nên phổ biến hơn trong các thế hệ sau. Và đối với thỏ, hậu quả của hiện tượng này là càng ngày càng có ít thỏ sống sót, và những thỏ sống sót cũng ở trong tình trạng nguy hiểm. Chỉ có những chú thỏ chạy thật nhanh mới sống sót lâu dài, và chọn lọc tự nhiên sẽ làm tăng gien làm cho thỏ chạy nhanh hơn. Ngay trong loài thỏ, thỏ rừng (hare) có độ tinh quái và tốc độ chay nhanh hơn gấp nhiều lần so với thỏ nhà khù khờ. Tương tự trong con người, chọn lọc tự nhiên không thể cung cấp cho chúng ta một cơ chế phòng vệ toàn năng chống lại tất cả những độc tố và tác nhân gây bệnh, bởi vì những độc tố và tác nhân gây bệnh này thường tiến hóa nhanh hơn cơ thể con người! Chẳng hạn như vi khuẩn E. coli, với tỉ lệ tái sản sinh cực nhanh (một ngày tiến hóa của chúng bằng thời gian tiến hóa của con người khoảng 1000 năm), và vì thế chúng có thừa thời gian để tồn tại và tấn công vào con người, trong khi đó, hệ thống phòng vệ của cơ thể, dù là tự nhiên (nội lực) hay do sử dụng thuốc, không có đủ thời gian để đối phó với những kẻ thù mới. Chính vì thế mà cho đến ngày nay, giới khoa học gia còn vẫn đang phải bó tay với tình trạng kháng thuốc rất nhanh của vi khuẩn đối với bất kỳ một thế hệ thuốc mới nào ra đời. Hay cho đến nay, chưa ai biết nếu ngăn chận chứng sổ mũi bằng thuốc có hiệu quả làm ngắn thời gian bệnh tật hay không? Các loại thuốc chống sổ mũi hoàn toàn không có tác dụng chữa bệnh mà nó chỉ làm cho giảm tiết dịch của tế bào mà thôi, trong khi đó lợi bất cập hại. Sổ mũi chính là cơ chế phòng vệ của cơ thể, nước mũi tiết ra là để tẩy rửa vi trùng; rồi chúng ta phải hắt xì hơi để tống xuất mầm bệnh ra ngoài. Trong khi đó dùng thuốc chống chảy mũi, chống hắt xì hơi, là chúng ta giam hãm mầm bệnh lại trong cơ thể mình, tiến trình bệnh lý còn có nguy cơ kéo dài hơn nhiều. Nhiễm trùng là hệ quả của sự cạnh tranh vì sinh tồn giữa hai sinh vật: giữa kí sinh vật (vi khuẩn) và kí chủ (tức cơ thể của chúng ta mà vi khuẩn sống nhờ). Con người nói chung đã chinh phục nhiều tác nhân gây bệnh với những thuốc như thuốc kháng sinh và vắc-xin. Chiến thắng của con người tương đối nhanh và có vẻ như hoàn toàn, như lời tuyên bố đầy tự tin của Bộ trưởng y tế Mĩ, William H. Stewart, vào năm 1969: "Bây giờ chúng ta có thể nói rằng bệnh truyền nhiễm đã được khống chế hoàn toàn. Đã đến lúc chúng ta đóng sổ căn bệnh này." Thế nhưng kẻ thù, và với sức mạnh của chọn lọc tự nhiên, đã làm cho lời tuyên bố đó trở thành khôi hài! Thực tế phũ phàng là các tác nhân gây bệnh có khả năng thích nghi với bất cứ hóa chất nào mà con người dùng để tiêu diệt chúng. Một nhà khoa học nói một cách chua chát: "Cuộc chiến đã kết thúc, nhưng kẻ thắng trận là kẻ thù của chúng ta." Hiện tượng đề kháng thuốc kháng sinh là một minh chứng cổ điển cho sức mạnh của chọn lọc tự nhiên. Vi khuẩn có những gien giúp cho chúng sinh sôi nẩy nở, mặc cho sự hiện diện của thuốc kháng sinh chúng tái sản sinh rất nhanh, và do đó các gien có chức năng đề kháng thuốc kháng sinh có cơ hội bành trướng hoạt động khắp nơi. Tiến sĩ Joshua Lederberg (Rockefeller University, giải Nobel) từng làm nghiên cứu cho thấy kí sinh trùng có thể chuyền từ kí sinh chủ này sang kí sinh chủ khác, thậm chí còn phát sinh thêm một vài mảng DNA nhiễm trùng. Ngày nay, một số vi khuẩn gây bệnh lao ở New York có khả năng đề kháng chống lại tất cả ba nhóm điều trị bằng thuốc kháng sinh; thời gian sống sót của các bệnh nhân mang những vi khuẩn này không lâu hơn so với thời gian mà bệnh nhân TB sống sót vào một thế kỉ trước. Nhiều người, kể cả giới thầy thuốc và khoa học gia, vẫn tin rằng tác nhân gây bệnh trở nên “hiền lành” hơn sau khi chúng sống chung với kí sinh chủ một thời gian dài. Thoạt đầu mới nghe qua thì thuyết này có vẻ có lí. Một sinh vật có khả năng giết chết kí chủ một cách nhanh chóng khó mà tìm một kí chủ mới để tồn tại; thành ra, chọn lọc tự nhiên có vẻ “tử tế” với những tác nhân gây bệnh ôn hòa. Chẳng hạn như bệnh giang mai, một bệnh cực kì độc hại khi lần đầu lan đến Âu châu, sau vài thế kỉ tồn tại, bệnh này trở nên “lành” hơn. Mức độ độc hại của tác nhân gây bệnh là một câu chuyện đời, có lúc thăng trầm, tùy thuộc vào lựa chọn nào có lợi cho gien của chúng. Bởi vì các tác nhân gây bệnh (như vi khuẩn) truyền từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác, và nếu mức độ độc hại thấp thì chúng có thể đem lại lợi ích, bởi vì chúng “cho phép” kí chủ (bệnh nhân) mạnh khỏe để tiếp xúc với nhiều kí sinh vật khác, và do đó chúng sẽ có thời gian và cơ hội tồn tại lâu hơn. Nhưng đối với vài bệnh, như sốt rét chẳng hạn, vi khuẩn cũng có thể truyền từ bệnh nhân này sang bệnh nhân khác, nhưng chỉ trong những bệnh nhân suy kiệt, mất gần hết năng lực. Đối với các tác nhân gây bệnh như thế, chúng thường dựa vào những “sinh vật trung gian” (như muỗi chẳng hạn), và một mức độ độc hại cao có thể đem lại lợi ích trong một tình huống nào đó. Nguyên lí này có liên quan đến việc kiểm soát và khống chế bệnh truyền nhiễm trong các bệnh viện, nơi mà bàn tay nhân viên y tế có thể là những trung gian dẫn đến việc sản sinh ra những loại vi khuẩn nguy hiểm. Với trường hợp bệnh dịch tả, nguồn nước công cộng đóng một vai trò của con muỗi. Khi nước uống và tắm rửa bị nhiễm do các chất thải và phóng uế từ bệnh nhân bị liệt không đi đứng được, chọn lọc tự nhiên có xu hướng tăng cường độ độc hại, bởi vì càng nhiều trường hợp tiêu chảy càng nâng cao khả năng bành trướng của kí sinh vật ngay cả khi bệnh nhân bị chết nhanh chóng. Nhưng khi tình hình vệ sinh cải thiện, chọn lọc tự nhiên có xu hướng chống lại những vi khuẩn gây bệnh tiêu chảy (như phẩy khuẩn tả) để ưu tiên cho sự tồn tại của loài vi khuẩn yếu hơn như vi khuẩn El Tor. Trong điều kiện này, một khi kí chủ bị chết cũng có nghĩa là vi khuẩn chết theo. Nhưng một kí chủ bệnh nhẹ hơn và còn năng động hơn, thì vi khuẩn có cường độ độc hại thấp và có thêm cơ hội lây truyền sang nhiều ki sinh chủ khác và sống lâu hơn. Một ví dụ khác tương đối hiển nhiên hơn là một khi tình hình vệ sinh trở nên tốt sẽ làm cho vi khuẩn độc hại như trực khuẩn Lỵ dòng flexerie bị loại khỏi môi trường và thay vào đó là một vi khuẩn “hiền lành” hơn là trực khuẩn Lỵ dòng sonnei. Nhận thức được những tình huống tế nhị như thế có thể giúp ích cho việc hoạch định chính sách y tế công cộng. Dựa vào lí thuyết tiến hóa chúng ta có thể tiên đoán rằng dùng kim chích sạch và khuyến khích an toàn sex có thể cứu sống nhiều nạn nhân nhiễm HIV nhiều hơn là dùng thuốc để tiêu diệt HIV. Nếu hành vi con người tự nó có thể ngăn ngừa (hay giảm thiểu tỉ lệ) truyền nhiễm HIV, thì những chi vi khuẩn không giết chết “chủ nhà” của chúng (tức bệnh nhân) có khả năng tồn tại lâu dài hơn những vi khuẩn độc hại thường hay chết theo với gia chủ của chúng. Thành ra, ý thức được điều này có thể làm thay đổi tình hình HIV hiện nay. Nếu nhìn nhận vấn đề dưới góc độ y học tiến hoá, thì điều này hoàn toàn logic và dễ hiểu. Virút HIV nó đã tồn tại qua chọn lọc tự nhiên, thích nghi được với ký chủ qua thích ứng tự nhiên. Chúng ta cũng phải bằng cái tự nhiên để mời “những vị khách không mời” này ra khỏi cơ thể chúng ta thì hẳn là hiệu quả và an toàn hơn nhiều khi chúng ta dùng một hoá chất nhân tạo để tác động vào vi rút; một phần có thể thuốc của chúng ta chính là một sự khuyến khích cho virút HIV đột biến nhanh hơn, sớm hơn để thích nghi với hoàn cảnh sống mới, mặt khác chúng ta hại mình bằng những hoá chất đó. Xung đột với các vi sinh vật khác không chỉ giới hạn trong các tác nhân gây bệnh hay vi khuẩn. Trong quá khứ, con người thường phải đương đầu với dã thú, những “kẻ thù” không ngần ngại dùng con người làm bữa ăn cho chúng. Ngoại trừ vài nơi trên thế giới, những dã thú ăn thịt người ngày nay không còn là mối đe dọa cho sự sinh tồn của con người nữa. Ngày nay, chúng ta đang đương đầu với những sinh vật nhỏ hơn như nhện và rắn chẳng hạn. Một điều khá trớ trêu là chúng ta sợ hãi những sinh vật nhỏ bé vì những ám ảnh về nguy cơ tiếp xúc với chúng. Sự thật là có một sinh vật còn nguy hiểm hơn cả những dã thú hay những sinh vật có khả năng đầu độc: sinh vật đó chính là … con người. Con người gây chiến tranh, đánh phá chém giết nhau, không phải để ăn thịt mà để kết bạn, để tìm thêm thuộc địa và tài nguyên thiên nhiên. Những cuộc xung đột bạo động giữa con người thường xảy ra trong phái nam, nhất là thời còn trẻ tuổi, và qua những xung đột này con người tổ chức thành từng nhóm riêng lẻ để phục vụ cho mục đích gây hấn. Chính vì thế chúng ta thấy quân đội gồm đại đa số là thanh niên, và con người phải trả một cái giá đắt cho việc tổ chức thành nhóm này! Ngay cả những mối quan hệ mật thiết giữa con người cũng có khi gây nên những xung đột có ý nghĩa y khoa. Chẳng hạn như lợi ích tái sản sinh của người mẹ và trẻ sơ sinh, thoạt đầu thì có vẻ theo chiều hướng “đôi bên cùng có lợi”, nhưng nếu xem xét kĩ thì có thể ngược lại. Nhà sinh vật học Robert L. Trivers trong một bài viết năm 1974 từng đưa ra một nhận xét rằng khi đứa con của người mẹ lên vài ba tuổi, lợi ích di truyền của bà mẹ đòi hỏi hay khuyến khích bà mẹ nên có thai một lần nữa, trong khi đó lợi ích của đứa trẻ là được tiếp tục nuôi dưỡng. Ngay từ khi còn trong bụng mẹ, cuộc “tranh chấp” đã xảy ra. Đứng trên quan điểm ưu thế của bà mẹ, kích thước tối ưu của bào thai phải nhỏ hơn một chút so với kích thước mà bào thai và người cha mong muốn. Sự mâu thuẫn lợi ích này, theo David Haig (Harvard University) làm cho cuộc chạy đua giữa bào thai và bà mẹ trong việc điều chỉnh áp suất máu và lượng đường trong máu, thỉnh thoảng có thể làm cho bà mẹ bị cao huyết áp và tiểu đường trong khi mang thai.
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 29, 2006 6:17:59 GMT 9
Cân bằng lợi và hại
Hầu như mỗi cơ phận của cơ thể con người đều được “thiết kế” để phòng chống bệnh tật, nhưng với một cái giá. Chẳng hạn như tại sao cánh tay của chúng ta không mạnh hơn để phòng chống gãy xương? Xương tay có thể thiết kế dày hơn để chống gãy xương khi chúng ta té, nhưng nếu xương tay được làm cho dày hơn, sự năng động và khéo léo của tay sẽ bị giảm và cổ tay sẽ không linh động được. Tại sao sinh đẻ là một quá trình đau đớn? Tại sao quá trình sinh đẻ lại quá phức tạp? Câu trả lời “trực tiếp” mà sách giáo khoa giải thích là bởi vì đường kính của khung xương chậu của người mẹ chỉ bằng hay dài hơn một chút so với đường kính của đầu của thai nhi. Khung xương chậu lại là một loại xương bán khớp, có nghĩa là nó không hẳn là một xương liền mà không hẳn khớp; nó chỉ giãn nở ở phụ nữ trong giai đoạn cuối của thai kỳ và trong quá trình sinh nở. Xung quanh khớp, xương này là hàng ngàn đầu dây thần kinh cảm giác. Khi đó, đường ra của thai nhi hẹp, dẫn đến sự đau đớn cho người mẹ, và quá trình sinh đẻ có khi trở nên phức tạp khi bài toán khung chậu và kích thước đầu thai nhi không giải quyết được qua “cơ chế cơ học”. Tuy nhiên, trong khi có thai, cơ thể người mẹ tiết ra kích thích tố relaxin giúp làm cho cổ tử cung giãn nở đôi chút, và qua đó làm giảm mức độ phức tạp của quá trình sinh đẻ. Với những câu trả lời như thế sinh viên có vẻ hài lòng, mặc dù trong thực tế đó là những câu trả lời chưa đầy đủ, nếu không muốn nói là có tính “che đậy”. Thật vậy, những sinh viên nào tò mò chắc chắn sẽ hỏi thêm “Tại sao đầu của thai nhi lại quá lớn so với khung xương chậu”, hay “Tại sao cổ tử cung của người mẹ không rộng hơn”? Đây là những câu hỏi không thể trả lời bằng sinh lí học, mà phải được tiếp cận từ thuyết tiến hóa. Khoảng 2,5 triệu năm trước đây, một loài sinh vật tiến hóa và tách rời thành 2 nhóm sinh vật, trong đó một nhóm tiến hóa thành con người hiện đại ngày nay. Khoảng 500 ngàn năm trước đây, tổ tiên của chúng ta đã có bộ óc và sọ lớn như bộ óc và sọ của chúng ta ngày nay. Tuy nhiên, giống cái đã tiến hóa với một xương chậu tròn trĩnh hơn trước đây để cho việc sinh nở dễ dàng hơn. Nhưng có một hạn chế trong quá trình tiến hóa và thích ứng với môi trường sống – đó là con người đi đứng bằng hai chân. Nếu khung xương chậu quá rộng, việc đi đứng (rất quan trọng trong thời săn bắt) sẽ trở nên khó khăn và thiếu hiệu quả. Thành ra, có thể nói kích thước của khung xương chậu là một kết quả của sự cân bằng (hay “thỏa hiệp”) giữa lợi và hại của các đặc tính con người trong quá trình tiến hóa. Sự thoả hiệp này thể hiện ở điểm “không thể được cả hai”, và người phụ nữ chỉ đau khi sinh nở thôi, còn để cái khung chậu có hẹp tí chút thì lại có lợi cho cả một quãng đời sống dài. Tại sao chúng ta đi đứng bằng hai chân? Nhiều giải thích đã được đề ra: đi đứng bằng hai chân có lợi ích sử dụng dụng cụ, vũ khí và bồng bế con. Đi đứng bằng hai chân có nhiều lợi ích, nhưng chúng ta vẫn phải trả giá bởi vì xương sống được thiết kế tối ưu cho sinh vật đi bằng bốn chân, và khi đứng thẳng một lực ép lớn đè nặng trên các đĩa của đệm phần dưới xương cột sống làm đau đớn và có khi tàn phế. Thật vậy, đau lưng là một trong những chứng thường hay gặp nhất trong tất cả các bệnh tật. Có thể thời gian tiến hóa của con người chưa đầy đủ để hóa giải những tác hại này. Một đặc tính khác nếu mới biết qua thì có vẻ như là một thích nghi không tốt: đó là chúng ta thiếu lông (so với các động vật khác như chó và mèo). Có thuyết cho rằng thiếu lông có một ích lợi là làm tăng khả năng ra mồ hôi. Cũng có giải thích khác cho rằng trong quá trình tiến hóa tổ tiên chúng ta tiêu ra khá nhiều thời gian sống trong môi trường sông nước. Dù cho cách giải thích thế nào đi nữa thì thiếu lông cũng có một vài bất lợi, nhất là đối với những người có da nhợt tái, như hay dễ bị cháy nắng và dễ bị ung thư da, thậm chí chết vì ung thư. Có thể xem hội chứng rối loạn thần kinh (manic depressive) nằm trong khuôn khổ giữa lợi và hại. Chứng rối loạn thần kinh có nguồn gốc từ đột biến gien và ảnh hưởng đến khoảng 1% dân số. Hệ quả của chứng rối loạn thần kinh cực kì nguy hiểm: 20% người mắc chứng này tự tử và 20% thì có nguy cơ chết vì các bệnh khác. Chọn lọc tự nhiên có lẽ chống lại các gien gây nên chứng rối loạn thần kinh, cho nên nếu các gien này tồn tại thì chắc chúng cũng có một vài lợi ích. Lợi ích gì ? Qua nhiều thế kỉ người ta biết rằng những người mắc chứng rối loạn thần kinh thường là những người có óc sáng tạo rất cao. Do đó, có lẽ chính các gien gây nên chứng rối loạn thần kinh cũng có lợi ích của chúng về mặt sáng tạo. Bệnh hồng cầu liềm (sickle cell disease) là một ví dụ khác về sự tương quan giữa lợi và hại của gien. Gien gây nên bệnh hồng cầu liềm cũng là gien có lợi ích chống lại bệnh sốt rét. Bệnh này do một gien có tên là hemoglobin (Hb) gây ra. Gien Hb có hai biến thể (alleles: S và A) làm nên ba dạng (genotypes): SS, SA và AA. Biến thể S thường hay tìm thấy trong các sắc dân sinh sống ở các vùng nhiệt đới và Phi châu nơi bệnh sốt rét còn hoành hành, nhưng tại các sắc dân da trắng rất hiếm (dưới 1%) người mang biến thể S. Những người có dạng gien SS rất dễ bị mắc bệnh hồng cầu liềm, nhưng nguy cơ bị bệnh sốt rét thì hầu như không đáng kể! Thích ứng với cái mới Môi trường mà chúng ta đang sống rất khác với môi trường mà chúng ta từng được thiết kế để sống hàng trăm ngàn năm trước đây. Phần lớn những bệnh chúng ta hay gặp ngày nay chỉ phố biến trong vòng 100 năm qua do thay đổi môi trường sống, một phần lớn khác phát sinh từ khi con người bắt đầu làm cuộc cách mạng nông nghiệp (khoảng 15 đến 20 ngàn năm trước đây tại Đông Nam Á). Trước thời cách mạng nông nghiệp, con người sống chủ yếu từng nhóm 10 – 50 người bằng nghề săn thú và hái trái cây hoa quả. Vào thời kì đó, muối còn rất hiếm và đường chỉ có từ trái cây chín hay mật ong, và béo phì có lẽ chưa tồn tại. Nhưng ngày nay chúng ta sống trong một môi trường hoàn toàn khác. Chỉ cần dạo một vòng bệnh viện chúng ta có thể thấy rất nhiều bệnh hiểm nghèo do chính con người gây nên. Tai biến mạch máu não, chẳng hạn, là do chứng vữa xơ động mạch, một vấn đề trở nên rất phổ biến chỉ trong thế kỉ này nhưng rất hiếm trong thời con người còn sống trong cuộc sống săn bắt và hái lượm. Nhiều nghiên cứu dịch tễ học chỉ ra hàng tá yếu tố nguy cơ mà chúng ta có thể tránh để giảm nguy cơ bệnh tim, như hạn chế chất béo, ăn nhiều rau xanh, vận động thường xuyên. Nhưng ở phương Tây, trong khi hàng trăm hệ thống nhà hàng ăn liền khấm khá ra và bành trướng thêm, thì thực phẩm “diet” (tiết thực) lại mòn mỏi đợi trong siêu thị để chờ khách hàng đến chiếu cố, và các thiết bị tập thể dục trở thành những cái móc treo quần áo thời trang đắt tiền. Tỉ lệ người Mĩ quá cân hiện đang lên đến con số 30%, và đang gia tăng. Chúng ta biết cái gì tốt và cái gì xấu cho sức khỏe chúng ta, nhưng tại sao phần đông chúng ta lại tiếp tục đi theo con đường thiếu lành mạnh và có hại cho sức khỏe? Nhân tố nào đã đi đến những quyết định thiếu sáng suốt như thế? Trả lời: bộ não. Mà bộ não thì được hình thành để đối ứng và thích nghi với một môi trường rất khác với môi trường chúng ta đang sống. Ở vùng hoang mạc Phi châu, nơi mà tổ tiên chúng ta được “thiết kế” và hun đúc, chất béo, muối và đường thường rất hiếm và quí. Thời đó, những ai có cơ hội tiêu thụ nhiều chất béo có lợi thế sống sót rất đáng kể. Nói cách khác, những người này có cơ may thoát khỏi những đợt đói khát từng tiêu diệt hầu hết những người đồng tộc ốm yếu hơn. Và chúng ta, hậu duệ của họ, vẫn mang trong người những thói quen ham mê chất béo cho đến ngày nay, nhưng ngày nay chất béo không phải là cái gì quá hiếm hoi nữa. Những “đam mê tiền sử” này -- được thôi thúc bằng những quảng cáo hấp dẫn của các công ti thực phẩm khổng lồ, những công ti cũng tìm cách sống sót vào nỗ lực bán những gì chúng ta muốn tiêu thụ -- dễ dàng đánh bại tri thức và ý chí của chúng ta. Thật là trớ trêu khi con người phải lao động hàng chục thế kỉ để tạo ra những môi trường sống với sữa và mật thừa thãi, để rồi phải chứng kiến sự thành công của chúng ta gây nên những bệnh tật hiểm nghèo và dẫn đến cái chết. Càng ngày chúng ta càng lệ thuộc vào nhiều hóa chất, nhất là rượu và thuốc lá. Những hóa chất gây ra rất nhiều bệnh tật, làm tốn kém đến ngân sách gia đình và nhà nước, cũng như nạn tử vong non. Mặc dù con người trong quá khứ vẫn sử dụng các hóa chất trợ thần kinh (psychoactive substances), nhưng tác hại chỉ trở nên hiển nhiên khi khi chúng ta tiếp xúc với một môi trường mới: đó là sự có mặt của các loại thuốc mới có thể tiêm trực tiếp vào cơ thể. Phần lớn những hóa chất này, kể cả nicotine, côcain và thuốc phiện, là những sản phẩm của quá trình chọn lọc tự nhiên đã được tiến hóa để phòng chống cây cỏ và côn trùng. Bởi vì con người có chung một di sản tiến hóa cùng côn trùng, cho nên phần lớn những hóa chất này ảnh hưởng đến hệ thống thần kinh. Trong vài thập niên gần đây bệnh ung thư vú đang trên đà gia tăng. Ngoài vài trường hợp do các yếu tố di truyền gây ra, xu hướng này có thể là hệ quả của sự thay đổi môi trường và cách sống của chúng ta. Tiến sĩ Boyd Eaton và đồng nghiệp tại Đại học Emory cho biết tỉ lệ ung thư vú trong các xã hội được xem là "lạc hậu" chỉ bằng một phần nhỏ so với tỉ lệ ở các nước "văn minh" như Mĩ và Âu châu. Họ giả thuyết rằng thời gian giữa tuổi có kinh và tuổi có thai lần đầu là một yếu tố nguy cơ số một. Ngoài ra, yếu tố nguy cơ khác là thời gian từ lúc tuổi có kinh đến tuổi mãn kinh. Trong thời con người còn sống bằng săn hái, tuổi có kinh là khoảng 15 hay thậm chí muộn hơn nữa, và sau đó vài năm là có thể mang thai và sau 2 hay 3 năm nuôi con, lại có thai lần nữa. Thời gian giữa lúc nuôi con và mang thai lần nữa là thời gian nồng độ kích thích tố cao nhất và có thể có ảnh hưởng tiêu cực đến nguy cơ bị ung thư vú. Trong các xã hội hiện đại, ngược lại, tuổi có kinh lần đầu là 12 hay 13, có lẽ một phần là do lượng chất béo đầy đủ cho phép người phụ nữ có khả năng nuôi dưỡng một bào thai – và lần có thai đầu tiên có lẽ vài thập niên sau đó hay không bao giờ. Một người phụ nữ thời săn hái có lẽ có 150 lần kinh nguyệt trong đời, trong khi đó một người phụ nữ trung bình trong xã hội hiện đại có 400 lần kinh nguyệt hay thậm chí cao hơn. Như đã lưu ý trên, mắt của động vật có xương sống được “bố trí” ngược. Mắt của con mực, ngược lại, không có cấu trức ngược đời này, với mạch máu và dây thần kinh bố trí ở phía ngoài, xuyên qua những nơi cần thiết và ghim xuống cái võng mạc để không dễ dàng bị tháo gỡ. Cấu trúc sai lầm của mắt con người là do một nhầm lẫn may rủi; mấy trăm triệu năm về trước, lớp tế bào nhạy cảm trước ánh sáng trong tổ tiên chúng ta được đặt ở vị trí khác với tổ tiên của mực. Hai thiết kế tiến hóa theo hai chiều hướng khác nhau, và cho đến nay không có con đường trở lại!
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 29, 2006 6:19:45 GMT 9
Tiến hóa và y học tiến hóa Y khoa là một ngành nghề thực tế hơn là lí thuyết. Để điều trị bệnh nhân người bác sĩ muốn biết tại sao bệnh nhân mắc bệnh và phải làm gì để bệnh nhân hết bệnh. Đứng trước bệnh nhân, người bác sĩ thực hành không cần đặt câu hỏi tại sao một cộng đồng mắc bệnh như bệnh nhân này. Bệnh nhân đến phòng mạch bác sĩ với một móng chân sưng vì có quá nhiều acid uric, và bác sĩ cần phải lập tức giúp đỡ bệnh nhân. Còn việc nồng độ acid uric cao lại có thể bảo vệ chúng ta chống lại lão hóa thì chẳng ăn nhập gì đến chuyện gây ra cái móng chân đau trong trường hợp này cũng như không nằm trong phương trình của điều trị bệnh nhân. Thế nhưng y học tiến hóa có thể giúp cho bác sĩ trong nhiều vấn đề thực tế. Chẳng hạn như nhận thức được rằng tiêu chảy, cảm cúm, đau đớn, ói mửa, và lo lắng là những cơ chế phòng vệ có ích cho con người giúp cho bác sĩ điều trị những bệnh này một cách tinh vi hơn. Một mặt, nhận thức này buộc bác sĩ phải suy nghĩ cẩn thận trước khi quyết định có nên dùng thuốc để làm tê liệt những cơ chế phòng vệ hay không. Đối với y tế công cộng, tiếp cận bệnh tật qua quan điểm của thuyết tiến hóa có ý nghĩa quan trọng, bởi vì nó giúp cho những người hoạch định chính sách suy nghĩ về thay đổi môi trường sinh sống của một dân số. Chẳng hạn như nhận thức rằng những sinh vật có khả năng lây truyền bệnh giữa các kí chủ (bệnh nhân) bại liệt là những sinh vật nguy hiểm có thể giúp ích cho việc phát triển chính sách y tế công cộng. Sử dụng condom không những chỉ phòng ngừa lây truyền các bệnh liên quan đến tình dục, mà còn làm giảm cường độ độc hại của tác nhân gây bệnh. Một bệnh lây truyền qua tình dục làm cho con người chết sớm hay tê liệt sớm thường có xu hướng tăng cường độ độc hại nếu bệnh nhân có nhiều quan hệ tình dục với nhiều người khác nhau; nhưng nếu bệnh nhân sử dụng các phương tiện bảo vệ hay tránh “phiêu lưu” với tình dục thì, theo thuyết tiến hóa, cường độ độc hại của tác nhân gây bệnh có thể giảm. Những nguyên lí này rất có ích cho việc phát triển vắc-xin để phòng chống bệnh tật. Đối với nghiên cứu y khoa và giáo dục y khoa, y học tiến hóa đặt ra rất nhiều chủ đề nghiên cứu thú vị. Hiện nay, mở bất cứ sách giáo khoa y học nào chúng ta đều thấy những lí giải về bệnh tật dưới những tiêu đề như dấu hiệu và triệu chứng, các phát hiện từ nghiên cứu y học, các chẩn đoán khả dĩ, quá trình phát triển của bệnh, biến chứng, dịch tễ học, nguyên nhân, sinh lí học, điều trị, và hệ quả. Nhưng chưa có sách giáo khoa nào có tiêu đề dành cho các lí giải về bệnh tật dưới ánh sáng của y học tiến hóa. Nhiều nhà nghiên cứu y học cho rằng đó là một thiếu sót. Một lí giải bệnh tật đầy đủ phải trả lời những câu hỏi sau đây: · Khía cạnh nào của hội chứng của căn bệnh là trực tiếp xuất phát từ bệnh, và khía cạnh nào xuất phát từ các cơ chế phòng vệ của cơ thể? · Nếu căn bệnh là do một phần di truyền thì tại sao các gien gây bệnh tồn tại? · Có phải các yếu tố liên quan đến môi trường sống cũng góp phần gây nên căn bệnh? · Nếu căn bệnh liên quan đến nhiễm trùng thì khía cạnh nào của căn bệnh là có lợi cho kí chủ (bệnh nhân) và khía cạnh nào có lợi cho kí sinh trùng? Các tác nhân gây bệnh sử dụng “chiến lược” nào để làm tê liệt hệ thống phòng vệ của cơ thể? · Những di sản tiến hóa nào hay những dàn xếp gữa lợi và hại nào làm cho chúng ta mắc bệnh? Những câu hỏi đơn giản như thế có thể giúp cho chúng ta một số định hướng để nghiên cứu y học trong tương lai. Ngay cả đối với cảm lạnh cũng đặt ra một số đề tài thú vị: sử dụng aspirin sẽ đem lại hiệu quả hay tác hại gì? Hệ quả của việc sử dụng thuốc hít vào mũi (inhalers) hay các thuốc chống nghẹt mũi ra sao? Một thách thức cho y học tiến hóa là đánh giá hiệu quả của các chất chống oxy hóa (anti-oxidants) như vitamin C, vitamin E và beta-carotene. Y học cổ truyền từ lâu cho rằng những chất này có hiệu quả chống lại bệnh tim mạch, ung thư, và thậm chí làm giảm lão hóa. Đến nay đã có nhiều kết quả từ các nghiên cứu lâm sàng nhất quán với quan điểm cổ truyền trên, nhưng một nghiên cứu qui mô khác vào năm 1994 lại cho thấy các chất trên có thể làm tăng nguy cơ ung thư ở vài người! Nhưng đứng trên nguyên lí của y học tiến hóa, chúng ta có thể lí giải rằng chọn lọc tự nhiên có thể làm cho nồng độ hóa chất chống oxy hóa trong cơ thể nâng cao ngay cả chúng có thể gây ra một số bệnh. Nồng độ axít uric thường cao hơn ở các sinh vật sống lâu và ở những người với bệnh gout. Rất có thể chọn lọc tự nhiên làm tăng nồng độ axít uric hay các hóa chất khác kể cả bilirubin, bởi vì đây là những hóa chất chống oxy hóa có thể làm chậm quá trình lão hóa ở những sinh vật sống lâu. Đây là những đề tài đơn giản mà chúng ta có thể khai thác trong tương lai. Như chúng ta đã thấy qua vài trường hợp trình bày trên đây, chọn lọc tự nhiên hay tiến hóa không phải nhằm mục đích tối ưu hóa sức khỏe của sinh vật, mà chỉ quan tâm đến sự tái sản sinh của gien. Những gì đem lại lợi ích cho gien không có nghĩa là sẽ đem lại lợi ích cho sinh vật, cho chúng ta. Thành ra, một gien có thể làm cho chúng ta có khả năng tái sản sinh tốt, và gien đó sẽ trở nên phổ biến hơn trong các thế hệ mai sau, nhưng cũng chính gien đó có thể gây tác hại khác đến sức khỏe của chúng ta! Trong phần cuối của cuốn sách nổi tiếng “Origin of Species” (Nguồn gốc của các chủng loại), Charles Darwin tiên đoán rằng công trình của ông sẽ dẫn đến nhiều nghiên cứu quan trọng trong một tương lai gần. Sau gần 200 năm, tiên đoán của Darwin đang dần dần trở thành sự thật. Mặc dù dưới ánh sáng của lí thuyết Darwin, sinh học tiến hóa nay chỉ mới đang trong giai đoạn phôi thai, và mới được công nhận là một bộ môn khoa học cơ bản của y khoa. Hiện nay, y học tiến hóa chỉ tồn tại ở mức độ lí thuyết, nhưng những giải thích sâu sắc của y học tiến hóa có thể dẫn đến một cuộc cách mạng trong y học hiện đại. Nếu không hiểu thấu đáo được sự năng động của quá trình tiến hóa, chúng ta sẽ không thể nào hiểu đúng nguồn gốc của bệnh tật. Ghi chú: 1. Phần lớn bài viết này là tóm tắt quyển sách “Why we get sick: The new science of Darwinian medicine” của Randolph M. Nesse và George C. Williams, Nhà xuất bản Vintage Books , New York, 1994. Có thể nói Nesse và Williams là hai nhà khoa học khởi xướng thuyết y học tiến hóa hay y học Darwin. Randolph M. Nesse là một bác sĩ tâm thần và giữ chức giáo sư y khoa, Đại học Michigan. George C. Williams là giáo sư sinh thái học và tiến hóa (ecology and evolution) thuộc đại học Stony Brook (State University of Stony Brook). 2. Ngoài cuốn sách trên, một số dữ kiện được trích ra từ các tài liệu sau đây: Harris EE, Malyango AA. Evolutionary explanations in medical health profession courses: are you answering your students “why” questions? BMC Medical Education 2005, 5:16 doi:10.1186/1472-6920-5-16; Wick G, et al. A Darwinian-evolutionary concept of age-related diseases. Experimental Gerontology 2003; 38:13-25; Nesse RM, Williams GC. on Darwinian medicine. Life Science Research (published in China) 1999; 3:1-17, and 1999; 2:79-91. 3. Tác giả cám ơn Bác sĩ Nguyễn Đình Nguyên đã đọc qua bản thảo, biên tập và góp ý vài phần trong bài viết.
Tác giả bài viết: GS Nguyễn Văn Tuấn, Viện Y khoa Garvan, Sydney – Úc
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 27, 2006 16:04:52 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang
Tự Ðo Ðường Huyết
--------------------------------------------------------------------------------
Bài Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC
E-Mail : bsnguyenyduc@khoahoc.net
21 tháng 12 năm 2006
nguồn "www.khoahoc.net"
--------------------------------------------------------------------------------
Hầu hết các bệnh nhân tiểu đường đều được bác sĩ hướng dẫn về cách đo đường glucose trong máu tại nhà. Cách thử này rất dễ thực hiện với một dụng cụ nho nhỏ mua ở tiệm thuốc tây hoặc tai các siêu thị với giá khoảng trên dưới 100 mỹ kim. Máy có thể mang theo mình đi bất cứ nơi nào.
Tự đo đường là việc làm rất hữu ích vì bệnh nhân cần biết lượng đường huyết ít nhất mỗi ngày một lần. Người chữa bệnh bằng insulin nên thử nhiều lần trong ngày để gia giảm liều lượng thuốc tùy theo mức độ đường trong máu.
Việc thử rất giản dị: chích đầu ngón tay với một kim nhọn để lấy một giọt máu. Ðặt giot máu lên trên một miếng giấy thử đặc biệt rồi đưa miếng giấy đó vào máy đo đường. Giấy thử có phủ một lớp hóa chất glucose oxidase, dehydrogenase hoặc hexokinase. Chỉ sau thời gian ngắn ngủi vài chục giây, máy đã cho biết ngay lượng đường trong máu vào lúc thử.
Mục đích:
Theo các nhà y học, tự đo đường glucose trong máu có những ích lợi như sau:
a- Ðo đường huyết có thể góp phần vào việc duy trì đường ở mức độ bình thường.
b- Biết lượng glucose trong máu cao thấp ra sao để tránh những rủi ro, vì chỉ số này thay đổi nhiều lần trong ngày. Ðường huyết quá thấp có thể đưa tới chóng mặt, đổ mồ hôi, run rẩy, té xỉu. Ðường huyết quá cao đưa tới các tổn thương cho tim, thận, dây thần kinh, mắt...
c- Thay đổi chăm sóc điều trị ở người bệnh tiểu đường đang điều trị với dược phẩm,
d- Quyết định nhu cầu insulin ở phụ nữ có thai bị bệnh tiểu đường tạm thời.
đ- Thay đổi số lượng insulin cần chích để giữ đường huyết ở mức độ trung bình,
e- Biết ảnh hưởng của vận động cơ thể, dinh dưỡng, căng thẳng, bệnh tật...đối với đường huyết.
Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy, tự theo dõi đường huyết có thể giảm thiểu rủi ro biến chứng bệnh tiểu đường ở mắt tới 76%, ở thận tới 50%, thần kinh tới 60%...
Máy đo đường huyết
Máy đo đường huyết tại nhà đầu tiên được Anton H Clements xin bằng sáng chế vào tháng 9 năm 1971. Hiện nay, trên thị trường có khoảng 30 loại máy đo đường huyết với các đặc tính khác nhau về:
-Kích thước lớn nhỏ của máy
-Máy có tự ghi lại các kết quả thử nghiệm.
-Số lượng máu cần lấy để thử.
-Tốc độ thử nhanh hay chậm
-Giá tiền mua máy
-Giá tiền giấy thử
Mỗi máy có những đặc điểm riêng có thể giúp người đo sử dụng dễ dàng, có thể lấy máu ở chỗ khác ngoài ngón tay, có màn hình lớn dễ nhìn, có tiếng nói đọc kết quả và hướng dẫn cách dùng máy...
Hiện nay, có loại máy tân tiến mà bệnh nhân có thể lấy máu ở nơi khác ngoài ngón tay, như ở cánh tay; máy có màn hình lớn dễ đọc kết quả, có tiếng nói cho biết kết quả. Ngoài ra cũng có máy chích da bằng tia laser không đau, máy cho phép đưa que giấy thử vào máy rồi mới nhỏ giọt máu lên giấy. Nhiều máy có thể chứa cả trăm kết quả thử nghiệm đã dễ bề so sánh, theo dõi lượng đường đo nhiều lần trong ngày. Một vài máy cũng có thể chuyển kết quả vào ổ vi tính.
Máy có thể mua ở tiệm thuốc tây hoặc siêu thị và gồm có:
1-Máy đo đường huyết (blood glucose meter)
2-Que thử. Nên để ý là mỗi loại máy dùng que thử riêng biệt cho máy đó.
3-Mũi kim nhọn để chích lấy máu với cán giữ kim.
4-Bông gòn sạch để lau da và cầm máu nơi chích kim.
Khi mua dụng cụ, nên để ý mấy điểm sau đây :
a--Kiểm soát ngày hết hạn dùng trên hộp đựng que thử. Không dùng que thử đã hết hạn vì kết quả sẽ không chính xác.
b--Coi mã số (code number) trên hộp que thử có đúng như mã số ghi trên máy.
Tại Hoa Kỳ, Cơ Quan Thực Dược Phẩm kiểm tra tất cả các máy đo và giấy thử trước khi nhà sản xuất đưa ra bán. Cơ quan này đòi hỏi máy phải cung cấp chính xác kết quả đường huyết ở các mức độ từ cao tới thấp, thử nghiệm có bị ảnh hưởng bởi các loại thuốc hoặc sinh tố mà người bệnh đang dùng.
Sau khi máy được đưa ra thị trường, Cơ Quan còn tiếp tục theo dõi phẩm chất của máy coi có gây ra khó khăn cho người dùng và đôi khi họ cũng tới thanh tra cơ sở sản xuất.
Cơ Quan tiếp nhận tất cả nhận xét phê bình về máy do người tiêu thụ, giới chức y tế cung cấp. Nếu người dùng gặp trở ngại với máy, xin thông báo cho cơ quan này cũng như nhà sản xuất hay ngay.
Hầu hết các bảo hiểm sức khỏe đều trả tiến mua máy và giấy thử. Ðôi khi, máy thử được biếu không, nhưng người bệnh phải mua đúng loại giấy thử của máy đó. Nhiều khi giấy thử đắt hơn tiền máy.
Thực hiện thử máu
Mỗi loại máy đều có bản hướng dẫn cách sử dụng mà ta nên đọc kỹ và làm đúng theo đó. . Cất giữ bản hướng dẫn này để khi cần đến có thể coi lại. Theo quy định của giới chức y tế, nhà sản xuất phải có bản hướng dẫn cả về máy lẫn giấy thử.
Trước khi thử, nên quan sát cách sử dụng máy từ một người đã quen dùng. Sau đây là cách thức thử :
1-Rửa sạch tay với nước ấm và xà bông rồi lau cho thật khô. Chỉ một chút xíu thức ăn, đường, nước dính trên ngón tay là kết quả đã sai đi.Ta có thể chùi đầu ngón tay với cồn, nhưng cần lau khô trước khi chích máu.
2-Ðặt mũi kim vào cán giữ kim.
3-Lấy que thử khỏi hộp, và đậy hộp lại ngay, để tránh que khỏi bị ẩm vì hút hơi nước trong không khí. Ðôi khi que thử được cất giữ trong máy. Cần bảo đảm là que thử thích hợp với máy đo. Không dùng que thử từ chai đã nứt vỡ, quá hạn dùng.
4-Chích ngay phía cạnh ngón tay. Ðừng chích đầu ngón tay vì sẽ lấy được rất ít máu và cũng đau hơn. .
5-Nhỏ giọt máu lên điểm chính của que thử. Ðể máu tự nhiên nhỏ xuống, đừng bóp vì kết quả sẽ khác đi. Một vài loại máy cho ta đặt que vào máy trước khi nhỏ giọt máu.
6-Ðè cục bông gòn sạch lên chỗ kim chích để máu khỏi chẩy.
7-Ðưa que thử vào máy cho tới khi nào cảm thấy đầu que đụng vào đáy của máy.
8-Ðọc và ghi kết quả cũng như giờ thử máu để biết rõ lượng đường huyết trong ngày và để gia giảm thuốc chữa tiểu đường nếu cần.
Sau khi thử, đừng bỏ kim chích cũ vào thùng rác, để tránh kim châm tay người khác.Cất kim chích đã dùng vào một chai nhựa, để riêng rồi vứt bỏ vào nơi an toàn.
Kết quả
Ða số các máy có thể đo đường huyết ở mức độ thấp nhất là 0 cho tới cao như 600mg/dl. Cũng nên để ý là, thử đường huyết có thể là từ toàn bộ máu hoặc chỉ trong huyết tương. Ða số các phòng thí ngiệm thử đường trong huyết tương sau khi hút máu ở tĩnh mạch, còn ở nhà, thử đường trong máu lấy ở mao quản. Ðường trong huyết tương thường cao hơn đường trong máu từ 10-15%.
Lấy máu ở đầu ngón tay cho kết quả đường huyết chính xác hơn là ở nơi khác, như cánh tay, cẳng tay, bắp đùi, vì sự thay đổi đường trong máu xuất hiện rất mau trên mao mạch ở đầu ngón tay.
Nên lưu ý là: mỗi máy có chỉ dẫn nơi chích máu riêng cho máy đó, vì thế cần chích kim ở nơi mà máy đó chỉ định. Không phải bệnh nhân nào cũng chích máu chỗ khác ngoài ngón tay được. Nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi thay đổi nơi chích máu.
Ðường huyết thay đổi rất nhanh sau khi ăn, vận động cơ thể hoặc sau khi chích insulin.
Kết quả bình thường khi đường huyết ở mức độ:
-90mg/dl tới 130mg/dl (hoặc 5mmol/L- 7.2mmol/L) trước khi ăn.
-dưới 200mg/dl (11mol/l) hai giờ sau khi ăn.
Kết quả có thể không chính xác nếu :
-Cồn lau lẫn vào máu. Nếu lau ngón tay với cồn, nên đợi ngón tay khô hẳn trước khi chích kim.
-Nước hoặc xà bông dính trên đầu ngón tay.
-Giọt máu lớn quá hoặc nhỏ quá.
-Que thử bị ẩm ướt.
Kết quả thử nghiệm chính xác hay không là tùy theo loại máy, giấy thử cũng như người thực hiện có làm đúng như hướng dẫn. Ngoài ra, kết quả còn tùy thuộc vào mấy điểm sau đây :
-Số lượng hồng huyết cầu (hematocrit): người có hồng cầu cao thì đường huyết thấp hơn ở người có hồng cầu trung bình. Ngược lại, khi hồng cầu thấp thì kết quả thử nghiệm đường cao hơn.
-Một vài hóa chất nhu acid ascorbic, acid uric...làm thay đổi kết quả thử nghiệm. Do đó, nên coi kỹ bảng hướng dẫn để tránh các chất có ảnh hưởng tới việc đo đường huyết.
-Thời tiết, độ ẩm, nhiệt độ, độ cao so với mặt biển cũng ảnh hưởng tới giấy thử và kết quả. Cần cất giữ máy đo theo chỉ dẫn của nhà sản xuất.
-Máy đo có thể cho kết quả không đúng nếu cơ thể thiếu nước, đang trong tình trạng căn thẳng.
- Dùng giấy thử khác hiệu có thể cho kết quả không chính xác. Nên mua loại giấy thử cùng hãng với nhà sản xuất máy
Thường thường máy đo đáng tin cậy để theo dõi và điều trị tiểu đường, nhưng máy cũng không toàn hảo. Kỹ thuật dùng trong máy đo tại nhà không chính xác bằng thử nghiệm được thực hiện tại bệnh viện hoặc các phòng thí nghiệm.
Khi nào đo ?
Một số bệnh nhân tiểu đường có thể cần phải đo đường huyết nhiều lần trong ngày hơn bệnh nhân khác, tùy theo chỉ định của bác sĩ điều trị. Tự thử đường huyết được áp dụng cho tất cả bệnh nhân tiểu đường, đặc biệt là bệnh nhân đang điều trị bằng insulin. Vai trò của thử nghiệm này đối với tiểu đường loại 2 đang điều trị bằng chế độ dinh dưỡng thì chưa được xác định.
Hội Tiểu Ðường Hoa Kỳ khuyên bệnh nhân loại 1 thử đường ba hoặc trên ba lần mỗi ngày. Có thai đang điều trị với insulin thử hai lần mỗi ngày. Với loại 2, hội này chưa đưa ra lời khuyên thử bao nhiêu lần, nhưng nếu có thử thì việc kiểm soát đường huyết sẽ dễ dàng hơn.
Thường thường, nên đo đường trước bữa ăn, 2 giờ sau mỗi bữa ăn, trước khi lên giường ngủ, lúc 3 giờ sáng và bất cứ khi nào thấy trong người có dấu hiệu đường lên cao, xuống thấp.
Nên đo thường xuyên hơn nếu thay đổi thuốc hạ đường, khi có căng thẳng tâm thần hoặc bệnh hoạn...
Rủi ro
Thử máu tại nhà chỉ gây ra một vài rủi ro nhẹ như :
1-Có thể bị nhiễm vi khuẩn chỗ kim chích da nếu không rửa tay sạch trước khi lấy máu.
2-Sau nhiều lần chích tại cùng một chỗ, da có thể cứng lại. Muốn tránh rủi ro này, nên thoa với kem mềm da.
3-Hơi đau nơi chích kim nhiều lần. Ðể tránh đau :
a-Chỉ nên chích bên cạnh ngón tay, vì chích đầu ngón tay sẽ đau hơn và lấy được rất ít máu. Ðừng chích ở ngón chân để tránh bệnh nhiễm cho da chân.
b-Ðừng nặn đầu ngón tay để lấy máu, mà hạ thấp bàn tay xuống khoảng năm giây đồng hồ để máu dồn xuống.
c-Mỗi khi lấy máu, chích ở các đầu ngón tay khác nhau để tránh cứng da và đau.
d-Nếu vẫn đau đầu ngón nay, nên dùng loại máy lấy máu ở cánh tay hoặc bàn tay.
Hiện nay, các nhà sản xuất đang nghiên cứu để hoàn tất máy đo mà không cần chích máu đầu ngón tay, chẳng hạn như rọi một tia sáng đặc biệt lên da là biết ngay chỉ số đường huyết. Vừa không đau, vừa nhanh. Nhưng giá tiền mua máy cao hơn, có khi tới cả ngàn mỹ kim.
Giữ gìn máy
Một vài máy cần lau chùi định kỳ để có kết quả chính xác.
Dùng một miếng vải nhỏ, thấm nước với xà bông để lau và tránh gây hư hao cho các bộ phận của máy. Không nên lau bằng cồn, trừ khi có hướng dẫn của nhà sản xuất. Một số máy có dấu báo hiệu khi nào cần lau chùi, một số máy khác lại phải do nhà sản xuất làm công việc bảo trì này.
Lâu lâu nên kiểm tra máy với dung dịch chuẩn có kèm theo với máy.
Ðể bảo đảm độ chính xác của máy, nhà sản xuất cũng hướng dẫn cách kiểm tra máy với một dung dịch chuẩn kèm theo máy. Xin đọc kỹ hướng dẫn này hoặc nhờ bác sĩ điều trị hoặc nơi bán máy chỉ cho cách kiểm tra.
Ngoài ra, không nên để máy chỗ nóng quá hoặc lạnh quá, lau chùi máy thường xuyên, thay pin theo chỉ dẫn của nhà sản xuất máy.
Thử glucose trong nước tiểu
Trong điều kiện bình thường, nước tiểu không có glucose. Khi đường huyết lên quá mức trung bình, thận sẽ thải glucose trong nước tiểu và có thể đo được.
Trước đây, khi chưa có máy đo đường trong máu, thử glucose trong nước tiểu là phương tiện thường dùng. Dụng cụ thử chỉ giản dị có que thử có thấm một hóa chất đặc biệt. Khi nhúng que vào nước tiểu, hóa chất này sẽ tác dụng với glucose và làm thay đổi mầu của que. So sánh mầu này với mầu mẫu trên hộp đựng que thử để biết mức độ glucose trong nước tiểu.
Cách thử này không trung thực lắm vì chỉ cho biết kết quả khi đường huyết lên cao trên 180mh/dl. Như vậy khi đường huyết thấp thì không thử được. Ngoài ra, nước tiểu có thể nằm trong bọng đái nhiều giờ trước khi tiểu tiện và thử, nên không phản ảnh lượng đường trong máu khi thử.
Do đó, ngày nay ít người dùng cách thử này.
Kết luận
Nghe nói rằng, ngày xửa ngày xưa, chỉ khi nào thấy kiến bu kín vào nước tiểu của mình, thì các cụ mới biết là mắc bệnh đi đái ra đường. Thế là các cụ vội vàng ăn thêm mấy muổng đường mỗi ngày để bù thất thoát. Tới khi bệnh nặng, thì mới hái cây cỏ thiên nhiên về chữa bệnh. Ấy vậy mà các cụ vẫn « bách niên giai lão » với nhau, chẳng thấy ai than phiền rối loạn cương dương, kém khoái cảm...
Chẳng bù với ngày nay, máy móc tối tân, kỹ thuật tiến bộ, chỉ dăm chục giây tới vài phút thử nghiệm, cân đolà đã biết chính xác bệnh tật của mình. Vậy mà nhiều người không tận dụng, để cho đường huyết lên cao, mắt mờ, tim nhược, thận hỏng, chân tê...
Thật là điều đáng tiếc vậy !!!
Bác sĩ Nguyễn Ý Ðức
Texas-Hoa Kỳ
Ý Kiến xin gửi về : bsnguyenyduc@khoahoc.net
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2010 20:00:22 GMT 9
Đôi lời về loạn Cương Dương
Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC Bất lực sinh lý của người nam thực ra không phải lŕ vấn đề mới lạ. Nó đă được nói tới từ thuở xa xưa. Danh y Ba Tư Avicenna vŕo thế kỷ thứ X đă lưu ý lŕ bệnh tiểu đường có thể gây ra bất lực. Sách y học cổ Trung Hoa đă ghi nhiều loại thuốc để kích thích khả năng lŕm těnh. Nguyęn nhân tâm lý của bất lực đă dược S. Freud diễn tả từ năm 1912. Năm 1926, bác sĩ T.W. Hughes ở Atlanta, Georgia đă kể ra tới hơn mười nguy cơ đưa tới bất lực, như mộng tinh vŕ xuất tinh quá độ, bệnh lậu, co hẹp miệng dương cụ, thủ dâm, lo âu, trầm buồn, quá bận bịu với công việc, hoang dâm vô độ hoặc tiết dục quá lâu, bệnh của trứng dái... Vŕ có một thời, người ta tin rằng bất lực lŕ do trời phạt hoặc do kẻ thů trů ếm. Nęn đă có chuyện đi cầu nguyện thánh thần hoặc xin giải bůa chuộc lỗi. Danh từ "Loạn Cương Dương" (Erectile Dysfunction) mới được y giới sử dụng từ năm 1992 để thay thế cho từ ngữ Bất Lực Těnh Dục (Impotence). Theo nghĩa thông thường, bất lực ám chỉ một người nam hoặc nữ thiếu sức mạnh, quyền lực hoặc sinh lực. Trong y khoa, bất lực těnh dục diễn tả vấn đề khó khăn trong đời sống sinh lý người đŕn ông, không hoŕn tất được việc giao hoan vě sự yếu mềm của dương cụ. Được gán cho từ nŕy, người nam thấy có một mặc cảm tội lỗi về một sự kiện ngoŕi ý định, đồng thời cũng lŕm giảm phần nŕo cái giá trị lŕm người của họ. "Bất lực" hơi có tính cách thŕnh kiến, miệt thị, trong khi đó, từ ngữ "loạn cương dương" nhẹ nhŕng vŕ hướng tới khía cạnh khoa học về một bệnh mŕ người nam có thể mắc phải, như khi họ mắc phải các bệnh khác. Loạn cương dương có thể xẩy ra cho bất cứ người nŕo, hoặc lâu dŕi hoặc tạm thời ngắn hạn. Đa số bệnh nhân chỉ âm thầm chịu đựng chứ không dám khai nói với ai, ngay cả với thầy thuốc gia đěnh vě ngại ngůng, mắc cỡ. Nó lŕ một thực thể không được vui lắm, cho nạn nhân cũng như người bạn đường. Nó ít khi đưa tới nguy hiểm cho tính mệnh. Một số người có thể sống với nó vě họ không cần đến sự thỏa măn thú vui xác thịt. Trở ngại do loạn cương dương Loạn cương dương có thể gây ra một số trở ngại cho cuộc sống người đŕn ông. Trước tięn, vě không giao hợp được, họ có thể mất khả năng lŕm cha. Cũng nęn phân biệt sự mất khả năng giao hợp nŕy với sự vô sinh, không có con được của người đŕn ông (sterility). Nhưng với sự tiến bộ của y khoa học hiện đại, với thụ tinh nhân tạo, thụ tinh trong phňng thí nghiệm, thě trở ngại nŕy được giải quyết dễ dŕng. Loạn cương dương có thể đưa tới căng thẳng cho sự hňa hợp của cặp vợ chồng. Người chồng thě bực bội với sự rối loạn sinh lý của měnh, trở nęn sợ hăi, lo âu, buồn chán. Người phối ngẫu thě tuyệt vọng trước vấn nạn của người chồng, đôi khi nghĩ tới sự không chung thủy với těnh lang vě nhu cầu đňi hỏi sinh lý của měnh. Người có loạn cương dương thường cũng có vŕi vấn đề sức khỏe khác trầm trọng, như các bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch ảnh hưởng tới công việc lŕm ăn. Họ trở nęn kém tập trung, kém suy xét, kém sáng kiến vě ám ảnh với sự bất lực của měnh. Họ cũng tốn kém nhiều tiền cho các môn thuốc được giới thiệu lŕ "cải Lăo hoŕn Đồng". Có nhiều người vě bất lực sinh lý, trở nęn hung bạo hoặc tự cô lập, thụ động. Đồng thời nhiều chứng minh cho thấy sự thỏa măn těnh dục lŕm con người đang hung dữ trở nęn thuần hậu hơn. Người cao tuổi cũng thường có vấn đề với khả năng lŕm těnh nęn đời sống của họ không được xuôi xả cho lắm. Nguy cơ đưa tới loạn cương dương Trong loạn cương dương, nguyęn lý chính yếu lŕ do trở ngại, hoặc trong việc lưu chuyển máu tới dương vật hoặc rối loạn thần kinh chuyển tín hiệu kęu gọi sự cương của bộ phận nŕy. Sau đây lŕ một số nguy cơ đưa tới loạn cương dương: 1- Trở ngại lưu thông máu thě có thể lŕ do động mạch dẫn máu vŕo dương cụ bị thu hẹp, cứng, nghẹt. Thuốc lá thường lŕm động mạch co hẹp nęn hút nhiều thuốc lá có thể lŕ một nguy cơ. 2- Ảnh hưởng tới thần kinh như rượu, důng ít thě kích thích mŕ důng nhiều thě lŕm giảm. Shakespeare đă có nhận xét: "Rượu khơi động sự ước muốn nhưng lấy đi khả năng diễn xuất lŕm těnh". 3- Crack, Cocaine, thuốc phiện důng ít thě kích thích nhưng důng nhiều đến ghiền cũng lŕ nguy cơ đưa tới không cương. Cần sa thě lŕm giảm số tinh trůng chứ không ảnh hưởng mấy tới sự cương của dương cụ. 4- Một vŕi dược phẩm như các thuốc về tim mạch Aldomet, Inderal, Lopressor, Serpasil; thuốc an thần, trị trầm cảm Valium, Librium, Thorazine, Equanil, Elavil, Tofranil; các thuốc chống dị ứng, thuốc ngủ Barbiturates; thuốc bao tử Tagamet; do tác dụng phụ của bức xạ trị liệu cũng đều đưa tới yếu xěu sinh lý. 5- Do giải phẫu chấn thương chạm tới dây thần kinh điều khiển cương dương hoặc do chấn thương cột sống 6- Vŕi bệnh của hệ thần kinh như Đa Xơ Cứng (Multiple Sclerosis), u bướu năo, bệnh tổng quát cơ thể như tiểu đường, thận suy đều lŕ nguy cơ của bất lực sinh lý. 7- Các chứng tâm lý như lo âu, trầm cảm, bất đồng xô xát trong těnh nghĩa vợ chồng, e ngại kém tŕi nghệ đều đưa tới kém cương dương. 8- Nhiều người cňn tin lŕ thủ dâm cũng đưa tới bất lực vŕ mộng tinh. Giải quyết vấn nạn Từ nhiều ngŕn năm trước con người đă khổ công těm kiếm môn thuốc công hiệu để lŕm giảm vấn nạn nŕy. Cổ nhân ta có những bŕi thuốc "Nhất dạ lục giao", những "Tam Tinh Hải Cẩu", nhưng mọi cố gắng đều ít kết quả. May mắn thay, trong những năm vừa qua, với sự tiến bộ của y khoa học hiện đại, khó khăn nŕy của người nam đă được lŕm sáng tỏ vŕ đă có nhiều phương tiện để giúp phục hồi. Nhờ đó, nhiều nạn nhân đă hůng dũng nhập cuộc mây mưa rồi sau đó cao giọng ngâm: "Đời không ái ân, đời vô vị Kiếp sống không yęu, kiếp sống thừa". (1) Sự xuất hiện của thuốc vięn VIAGRA vŕo tháng 3 năm 1998 đă mang lại nhiều niềm vui cho hầu hết những nạn nhân của loạn cương dương. Khi chưa có thuốc vięn nŕy, thě người bất hạnh phải důng bơm cho Nó to lęn, gắn chim plastic, nhét thuốc vŕo ống tiểu (MUSE), chích thuốc vŕo dương cụ (Caverject, Edex) trước khi hŕnh sự. Kích thích tố Testosterone, thuốc Yohimbine, prostaglandine E1 cũng cňn được důng. Theo kinh nghiệm của nhiều người đă důng, thuốc chích rất công hiệu vě cương lực có thể kéo dŕi cả ngŕy, thỏa măn được nhiều đối tượng. Nhưng cứ nghĩ đến việc phải chích vŕo chỗ đó khiến nhiều người đă ngại vě đau. Thuốc nhét ống tiểu cũng tốt nhưng mau tŕn (mươi phút) vŕ đắt (hơn hai chục đô xanh một huờn). Testosterone chỉ nęn důng khi mức độ kích thích tố trong máu thấp vŕ cần được sự theo dői của thầy thuốc vě důng nhiều có thề lŕm rắc rối thęm cho các bệnh của nhiếp hộ tuyến. Yohimbine được coi như rất công hiệu cho loạn cương dương do tiểu dường gây ra nhưng có thể gây ra cao huyết áp, chóng mặt, nhức đầu. Viagra vừa dễ důng vừa kéo dŕi hiệu lực mŕ giá cả cũng vừa phải (mười đồng tiền Mỹ một vięn) Xin nhắc lại lŕ để có cương dương, cần có sự phối hợp của lňng ước muốn těnh dục, của tế bŕo xốp vŕ các mạch máu ở cơ quan sinh dục vŕ của một chuỗi những phản ứng hóa học tại hiện trường. Tín hiệu ước muốn těnh dục từ năo bộ được chuyển xuống "thằng nhỏ" khiến nó tiết ra một hỗn hợp hóa chất GMP. Hóa chất nŕy lŕm lớp tế bŕo xốp ở dương cụ nở ra, máu theo động mạch mở rộng trŕn ngập cơ quan, khiến nó cương lęn cho tới khi máu rút lui qua tĩnh mạch, sau khi ái ân thỏa măn. Trong diễn tiến nŕy, ở người loạn cương dương, một phản ứng hóa học xẩy ra tại chỗ với chất enzyme phosphodiesterase-5 (PDE-5) lŕm GMP tan hŕng, khiến tế bŕo xốp không nở đủ lớn để ngăn chặn sự thất thoát máu qua tĩnh mạch. Hậu quả lŕ đứa nhỏ xěu xuống mau lẹ. Chính ở chỗ khó khăn nŕy mŕ Viagra ra tay: nó ngăn sự hủy hoại GMP, máu vŕo nhiều mŕ không thoát đi, nęn dương cụ cương lâu hơn. Đó lŕ cơ chế tác dụng của Viagra. Viagra rất công hiệu, nhưng cũng có vŕi trở ngại. Nhŕ bŕo chế lưu ý bệnh nhân lŕ không nęn důng Viagra nếu đang důng thuốc Nitroglycerin chữa bệnh đau thắt tim, sợ rằng có thể lŕm hạ huyết áp quá mức. Ngoŕi ra, cũng nęn cẩn thận khi mới hồi phục Tai Biến Động Mạch Năo, Nhồi Máu Cơ Tim hoặc đang bị cao huyết áp, lở bao tử, ruột, ung thư máu, các bệnh của vőng mạc. Ngoŕi ra, cách đây ít lâu, một tai nạn rơi máy bay đă được điều tra coi có phải do thuốc Viagra gây ra hay không. Máy bay do một nam tŕi tử Mỹ lái gặp nạn khi ông ta đáp xuống phi trường Maryland. Chính quyền đă yęu cầu thử nghiệm y khoa coi xem ông ta có důng thuốc Viagra không. Theo báo cáo, thuốc nŕy ảnh hưởng tới khả năng nhěn mầu sắc của phi công, khiến họ không phân biệt được mầu xanh vŕ mầu xám, lŕ mŕu của đčn được důng tręn phi đạo cũng như trong phňng lái. Hăng bŕo chế thuốc cũng cho hay lŕ trong thời gian thử nghiệm thuốc nŕy ở đŕn ông, có 3% số người cho hay có loạn thị giác khi nhěn mầu xanh-xám. Cũng nęn lưu ý lŕ tręn thị trường có những thuốc với tęn gần giống như Viagra, chẳng hạn thuốc Veagra, khiến người tięu thụ dễ nhầm lẫn. Thŕnh ra để cho an toŕn, ta nęn tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi důng Viagra. Với thuốc Viagra, nửa giờ trước khi ra quân, chỉ việc chięu một vięn. Nęn nhớ lŕ thuốc giảm hiệu lực nếu ăn uống quá thịnh soạn hoặc ăn nhiều thực phẩm mỡ béo. Quan hệ hơn cả lŕ để cho có công hiệu, Viagra cần sự trợ lực, hợp tác của con người: sự ước muốn ái ân của đương sự cộng với sự kích thích, khęu gợi từ đối tượng. Chứ không phải chỉ uống một vięn, lęn giường nằm đợi lŕ nó lęn. Bác sĩ Nguyễn Ý-ĐỨC BÁC SĨ GIẢI ÐÁP VỀ CHUYỆN ẤY...Giáo Sư Y Học Ferederic Rossiter - Dịch Thuật Nguyễn Anh Tuấn Bác sĩ giải đáp về chuyện ấy... Tên chính của cuốn sách là "Vợ chồng - Bách khoa toàn thư về tình dục" do giáo sư y học Ferederic Rossiter viết. Giáo sư Iustas Trecser nói: "Ðại đa số người ta nghĩ rằng, họ đã biết tất cả những gì cần biết trong lĩnh vực tình dục. Các bác sĩ khẳng định sự sai lầm trong quan niệm đó". Giáo sư Têôđô Vande-Vanđe đi xa hơn khi ông nói rằng tình dục là cơ sở của hôn nhân. Và đa số các cặp vợ chồng không biết những điều tối thiểu về tình dục. Cuốn sách này với khả năng có thể nhằm đem lại cho người đọc các thông tin tương đối đầy đủ về tình dục. Những khái niệm đã có từ trước đến nay có thể đã trở nên lạc hậu, mặc dù còn lâu mới có thể trả lời mọi câu hỏi có liên quan đến tình dục. Sự xem sách vở qua quýt gây ra tác hại to lớn cho những người không có hiểu biết tối thiểu hoặc có những khái niệm sai lầm về tình dục, cuộc sống của họ bị ám ảnh bởi sự dốt nát, những khuôn phép hoặc sự sợ hãi giả dối, thậm chí ngay cả các bà mẹ không dám nói cho những cô con gái của mình về sự tồn tại của một hiện tượng sinh lý bình thường như kinh nguyệt. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi các cô gái như vậy khi lớn lên sẽ trở thành những người vợ thiếu sự cân bằng về thần kinh. Hình thức trò chuyện giữa bác sĩ với hai vợ chồng được sử dụng để đạt được sự liên hệ chặt chẽ giữa ta với bạn đọc. Thường thì người phụ nữ mong đợi rằng ông chồng của cô ta sẽ luôn luôn hành động như một hiệp sĩ hào hiệp, luôn sẵn sàng làm một việc gì đó cao thượng vì danh dự của cô ta, tuôn ra những lời biết ơn. Sau đó khi biết rằng những hành vi của ông chồng không giống như những hy vọng thầm kín của cô ta, cô ấy bắt đầu nghĩ rằng nguyên nhân là do cô, cô không có sự quyến rũ cần thiết về tình dục để có thể gây hưng phấn cho chồng bằng những biện pháp bình thường. Người vợ như vậy sống trong thế giới của ước mơ, mà cơ hội để tạo ra một gia đình êm ấm không lớn lắm, khi mà cô ấy chưa ý thức được sai lầm của bản thân. Vệ sinh thân thể có ý nghĩa rất lớn trong hôn nhân, đúng hơn là trong sinh hoạt tình dục của nam giới và phụ nữ. Một số phụ nữ dùng phun xịt nước hoa cũng không thể thay thế cho việc rửa ráy các cơ quan sinh dục hàng ngày. Các yếu tố khác như hơi thở hôi hám, cặp chân bốc mùi có vai trò rất tồi tệ trong sinh hoạt tình dục. Sự sạch sẽ của cơ thể là niềm tự hào của mỗi người. Không hoà hợp về tình dục là một trong những vấn đề quan trọng nhất mà các cặp vợ chồng thường gặp phải. Trong một cuốn sách gần đầy về sinh hoạt tình dục của phụ nữ đưa ra số liệu 75% các cuộc ly hôn là do sự không thoả mãn như một yếu tố quan trọng khi giao hợp.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2010 20:02:13 GMT 9
1. Chồng: Liệu có phải sự không hoà hợp về tình dục là đặc điểm chỉ của các cặp vợ chồng mới cưới không?
Bác sĩ: Không hoàn toàn như vậy. Thường thì các cặp vợ chồng đã chung sống vài năm mới phát hiện ra sự không thoả mãn khi giao hợp. Anh có thể không tin, có những phụ nữ đã lấy chồng 20 năm, sinh được một vài đứa con, nhưng trong suốt thời kỳ ấy không một lần nào đạt được cực khoái, mặc dù đó là người phụ nữ hoàn toàn bình thường và khoẻ mạnh. 2. Vợ: Thưa bác sĩ, điều đó khó có thể tin được trong thực tế. Lẽ nào một phụ nữ có 20 năm kinh nghiệm tình dục mà lại không bao giờ có được khoái cảm?
Bác sĩ: Anh chị có biết rằng, có rất nhiều yếu tố có thể làm ảnh hưởng tới điều đó. Trong thực tế đó là một vấn đề đối với các bác sĩ tâm lý học, bởi vì thường người phụ nữ không thừa nhận hoặc giấu sự lo lắng mới xuất hiện. Nguyên nhân chính của tình trạng đó, rõ ràng do các phụ nữ không được giáo dục đúng ở tuổi trẻ con. Người ta dạy họ rằng tình dục là sự ghê tởm đáng hổ thẹn, cần thiết phải chịu đựng bản năng thú vật của đàn ông. Những phụ nữ đó không thích sự gần gũi về tình dục và về bản năng không muốn được nhận sự khoái cảm. Chỉ khi nào người phụ nữ hiểu rằng, giao hợp là hoạt động cần thiết và lành mạnh thì cô ta mới có được khoái cảm và giải thoát khỏi những bệnh do tưởng tượng, làm cản trở những sự âu yếm, vuốt ve của người chồng đối với cô ta. 3. Vợ: Mặc dù mẹ tôi đã giảng giải cho tôi tất cả những gì mà bà cho là cần thiết, vậy mà có nhiều điều tôi vẫn cảm thấy khó hiểu.
Bác sĩ: Ðiều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Không ai là người có thể biết tất cả về tình dục, ngay cả bác sĩ cũng vậy. 4. Chồng: Chúng ta cũng biết nhiều điều, nhưng hoá ra vẫn có nhiều vấn đề trong lĩnh vực tình dục, còn chưa biết hết được, và điều đó làm chúng tôi thấy lo ngại.
Bác sĩ: Sự lo ngại xuất hiện bởi lẽ mỗi người phải va chạm với nhiều vấn đề khác nhau, nhiều phức tạp nảy sinh khi mong muốn tìm câu trả lời cho các vấn đề ấy. Nói đúng ra, những vấn đề gây lo lắng cho các cặp vợ chồng trẻ không nhiều chủ yếu đó là phóng tinh sớm, không đạt được khoái cảm trọn vẹn. 5. Vợ: Ðiều đó có nghĩa là bác sĩ cho rằng cả vấn đề đó có thể giải quyết được?
Bác sĩ: Thật bất hạnh là không phải mọi vấn đề đều có thể giải quyết được, chủ yếu là do bệnh nhân đến gặp bác sĩ để tìm lời khuyên hoặc chữa chạy thì quá muộn. Nếu như bệnh nhân đến đúng lúc thì có mọi khả năng để đạt được kết quả theo yêu cầu. 6. Chồng: Chúng tôi mới cưới nhau cách đây một tháng, chúng tôi muốn được hỏi bác sĩ một vài câu hỏi nảy sinh giữa chúng tôi trong thời gian đó.
Bác sĩ: Thực tế sau ngày cưới mỗi người đều có các vấn đề cần hỏi. Các cặp vợ chồng trẻ không đủ sức tự mình trả lời các câu hỏi nảy sinh. Ðáng tiếc, là đôi lúc và tiếc rằng đại đa số không quan tâm tới việc được giúp đỡ một cách tử tế, mà lại hy vọng hoặc cho rằng các vấn đề của họ sẽ tự qua đi. Trong thực tế có những vấn đề sẽ qua đi, nhưng hôn nhân là một hành động rất nghiêm túc, phải được xem xét rất thận trọng. Thế anh chị có vấn đề gì phải lo lắng? 7. Chồng: Thật khó hiểu, tại sao những người vợ và người chồng cần phải biết họ sẽ sống với nhau? Liệu bác sĩ có cho rằng điều đó sẽ tự qua đi không?
Bác sĩ: Ðúng, điều đó hoàn toàn đúng, nhưng rất ít các cuộc hôn nhân hạnh phúc, nếu hai vợ chồng thiếu hiểu biết trong vấn đề này. Những dự định tốt đẹp và các bản năng tự nhiên chưa đủ để tạo ra một gia đình bền vững. Các số liệu đáng lo ngại về các vụ ly hôn như một ví dụ đơn giản và rõ ràng khẳng định một cách hùng hồn rằng việc đi đến hôn nhân không phải đơn giản như đa số các cặp vợ chồng trẻ thường nghĩ. 8. Chồng: Ồ, chúng tôi không nghĩ rằng bác sĩ sẽ bàn luận về vấn đề đó với cả hai chúng tôi. Tôi thì thế nào cũng được, nhưng vợ tôi có vẻ không được tiện lắm.
Bác sĩ: Tôi không nghĩ thế. Không người phụ nữ bình thường nào lại không tìm vấn đề tình dục đáng e thẹn để bàn luận với chồng, với bác sĩ hoặc với một nhóm người từ góc độ văn hoá, có khoa học. Cảm thấy mình có lỗi trong các điều kiện đó - có nghĩa là thừa nhận một vài sai lệch như việc cấm đoán. Tôi sẽ nói chuyện này với cả hai người mới đúng hơn; có phải vậy không, thưa cô? 9. Vợ: Tôi cũng nghĩ thế, bác sĩ nói hoàn toàn đúng.
Bác sĩ: Thôi được, chúng ta có thể bắt đầu sau câu chuyện mào đầu với các dụng cụ, có nghĩa là nói về sự giao hợp, các cơ quan sinh dục, tôi cho rằng, hai người đã tìm hiểu nhau khá kỹ rồi chứ? 11. Chồng: Vâng, tất nhiên rồi. Lẽ nào điều đó không bình thường?
Bác sĩ: Tất nhiên là bình thường, nhưng anh chị sẽ lấy làm ngạc nhiên nếu như có một số cặp vợ chồng lại không làm điều đó. Họ không bao giờ nhìn thấy nhau khoả thân và lấy làm tự hào về điều đó.
Anh chị thấy đấy, vấn đề đặt ra không phải để cho sự tò mò. Một số người có thái độ rất khó chịu đối với việc khoả thân: Mặc dù chẳng có gì đáng hổ thẹn trong một cơ thể con người khoả thân cả, cơ thể này phải được che kín ở mọi nơi, mọi lúc nhưng không phải trong hôn nhân.
Thật kỳ lạ, khi nhiều người, kể cả những người có vợ có chồng không hề biết đến chức năng của các bộ phận sinh dục của cơ thể. Thời thơ ấu người ta dạy trẻ gọi các bộ phận ấy bằng đủ các tên biệt danh khác nhau. Trên đường phố, bạn trẻ chỉ biết những tên gọi bậy bạ của các bộ phận ấy và chức năng của việc giao hợp và nhiều quan hệ vợ chồng khác nữa. Ở nhà thường người ta dạy bọn trẻ gọi các cơ quan sinh dục là "nó", "bộ phận ấy", "cái ấy", hoặc các thuật ngữ khác gây sự ngượng ngùng khi phát âm. Thật bất hạnh là tất cả những bí mật ấy bọn trẻ ít khi quên. Tình cảm ngượng ngùng hoặc xấu xa phát triển tạo ra thái độ xấu đối với các cơ quan sinh dục và sự giao hợp. Sự không đầy đủ trong việc giáo dục đúng đắn ở nhà được "bù đắp" ở trường học bằng cách dạy rằng tình dục "là cái gì đó" thấp hèn, khó có thể thay thế được bằng một thái độ lành mạnh, bình thường. Cơ quan sinh dục của đàn ông gọi là dương vật. Nó được treo bình thường trước bìu dái dù ở trạng thái bình thường hoặc cương cứng. Khi hưng phấn tình dục nó phồng to và cương cứng ở một góc khoảng 200 so với âm đạo của phụ nữ. Ðó là trạng thái cương cứng và hưng phấn.
Chính sự cương cứng tạo ra lượng máu tràn vào khoang rỗng của dương vật. Có thể tưởng tượng dương vật từ phía trong như một cục bông có lượng hút nhất định. Khi ảnh hưởng gợi dục mất đi hoặc diễn ra sự phóng tinh, sự cương cứng mất đi và dương vật trở lại dạng ban đầu và độ dài bình thường.
Trước hết nói vài nét về cơ quan sinh dục. Sự khác nhau giữa cơ quan tình dục nội tạng và ngoại tạng. Các cơ quan nội tạng đảm bảo sự hình thành cuộc sống mới (thai nghén), còn các cơ quan ngoại tạng tham gia vào việc giao hợp và đem lại cho con người những cảm giác tình dục.
Sự phân chia đó ở người đàn ông chỉ mang tính tương đối, chẳng hạn như bìu dái lại thuô,c cơ quan ngoại tạng nhưng tinh hoàn nằm trong bìu dái và dương vật là những cơ quan tình dục ngoại tạng. Dương vật gồm đầu và ba khoang xương hang, khi bị kích thích về tình dục sẽ chứa đầy máu. Hệ thống van phức tạp trong các hang đó cho phép máu chảy vào các khoang xương và chảy ra khỏi đó. Lúc đó dương vật phồng to lên (to ra khoảng 2-3 lần) và trở nên cương cứng. Sau đó việc lưu thông máu ra vào phụ thuộc vào việc xuất tinh, sau khi xuất tinh các van lại đảm bảo việc máu rút ra khỏi dương vật phủ kín bằng màng da có kích thước khác nhau. Nhiều dân tộc (theo phong tục hoa*.c tôn giáo) da bao qui đầu thường bị cắt bỏ ở tuổi thanh thiếu niên.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2010 20:03:00 GMT 9
Lịch sử cắt da bao qui đầu của dương vật đã có cách đây hàng ngàn năm. Việc cắt da bao qui đầu thường gắn với các tôn giáo nhất định. Nhưng, cũng như các tập tục tôn giáo khác, việc cắt bỏ này, tất nhiên còn có ý nghĩa về mặt vệ sinh nữa. Nó được phổ biến rộng rãi ở các nước thuộc phía nam của trái đất - Trung cận đông; châu PHi, trong các bộ lạc người Hindu, Hồi giáo. Với khí hậu nóng nực, các bựa sinh dục sẽ hình thành rất nhanh gây ra các quá trình viêm nhiễm khác nhau. Việc cắt bỏ da bao qui đầu giúp cho tránh được các bệnh khó chịu đó. Ngoài ra, qui đầu dương vật được lột trần, trong quá trình cọ xát với quần áo sẽ bớt độ nhạy cảm với các kích thích bên ngoài giúp cho kéo dài quá trình giao hợp. Hiện nay hầu hết các cậu bé ở Mỹ, không phụ thuộc vào màu da và tôn giáo thường cắt bỏ da bao qui đầu từ tuổi thiếu niên. Giáo sư Gioóc-Matơ - một trong những nhà nghiên cứu ung thư học, giám đốc viện ung thư và miễn dịch di truyềnhọc cho biết: "Việc cắt bỏ da qui đầu không chỉ có tác dụng đối với đàn ông, mọi người đều biết rằng: những phụ nữ có chồng cắt bỏ bao qui đầu tỷ lệ bị ung thư cổ tử cung ít hơn so với các phụ nữ khác". "Phong trào vì sự nghiệp phụ nữ" cho rằng việc cắt bao da qui đầu dương vật là một trong những đòi hỏi quan trọng của tổ chức này. - Việc cắt bỏ bao da qui đầu dương vật rất dễ dàng đối với bất cứ bác sĩ nào trong các ca mổ có liên quan tới các tục lệ tôn giáo, ngược lại giúp cho hàng triệu đàn ông khỏi bị các bệnh viêm nhiễm, sự bất hoà trong gia đình và việc phòng trừ ung thư đường sinh dục. - Nếu như người đàn ông không cắt bỏ bao da qui đầu thì họ phải đặt biệt lưu ý giữ vệ sinh nhất là khi khí hậu nóng nực. Hàng ngày nên rửa sạch qui đầu và bên trong của bao da không để xuất hiện các bựa sinh dục. - Chiều dài dương vật mang tính cá nhân riêng, từ 6 đến 8 cen-ti-met khi bình thường và tới 14 - 16 cen-ti-met khi ở trạng thái cương cứng. Nếu lưu ý tới độ sâu của âm đạo của phụ nữ từ 8 - 10 cen-ti-met thì với kích thước nhỏ nhất của dương vật cũng có thể làm kín khoảng trống của âm đạo trong lúc giao hợp. Ðường niệu đạo chạy dọc theo thân dương vật, theo đường này nước tiểu và tinh trùng được tiết ra. Theo đường niệu đạo có nhiều tuyến tiết dịch, các tuyến dịch này hoạt động mạnh khi bị kích thích về tình dục. Tuyến dịch này làm ướt đường niệu đạo. - Bìu dái là một túi cơ nhiều tầng trong đó có tinh hoàn (tinh dịch). Tinh hoàn là cơ quan sinh dục nội tạng của đàn ông có vài chức năng. Tại đây là nơi tạo ra tinh trùng và thực hiện chức năng hoóc môn. Tinh hoàn phiá trái của tất cả đàn ông nằm trong bìu dái thấp hơn tinh hoàn bên phải và lớn hơn một chút về kích thước. Tinh hoàn có một bộ phận thừa là nơi tích tụ và hình thành tinh trùng. Cơ quan sinh dục nội tạng cũng gồm ống dẫn tinh, túi đựng tinh, tuyến tiền liệt và một vài tuyến tiết dịch khác. Tuyến tiền liệt nằm ở phần dưới của bọng đái ngay trên đầu niệu đạo. Ống dẫn tinh nằm dọc theo tuyến tiền liệt. Tuyến tiền liệt tiết dịch vào thời điểm phóng tinh, co mạnh lại và phun dịch vào thành phần của tinh dịch, người ta cho rằng thiếu dịch này, tinh dịch không thể vượt ra khỏi niệu đạo được. Ý nghĩa và vai trò của tuyến tiền liệt đối với hoạt động của cơ thể người đàn ông rất quan trọng, tới mức người ta gọi đó là trái tim thứ hai của người đàn ông. - Nguyên nhân chủ yếu làm viêm nhiễm tuyến tiền liệt là do cơ thể bị lạnh, kể cả việc tắm nước lạnh lâu. Các tuyến sinh dục cũng như các tuyến nội tạng khác của tiết dịch rất nhạy cảm với nóng và lạnh. Mọi người đều biết rằng nhiệt độ cao sẽ làm dãn các cơ của bìu dái, nơi chứa đựng các tuyến sinh dục, ngược lại nhiệt độ thấp sẽ làm co các cơ của bìu dái. Tuyến tiền liệt cũng rất nhạy cảm với độ lạnh. Trong số nhiều người "thích tắm tuyết" cũng hay gặp bệnh viêm tuyến tiền liệt. - Các cơ quan sinh dục của đàn ông tạo ra dịch lỏng (tinh dịch). Thành phần của tinh dịch rất phức tạp: trong đó có dịch tinh hoàn và phần phục của chúng ở túi đựng tinh và tuyến tiền liệt. Thành phần của tinh dịch là tinh trùng. Việc tạo ra tinh trùng và hoóc môn nam bắt đầu khi xuất hiện thời kỳ phát dục và kéo dài tới tận tuổi già. - Mỗi lần phóng tinh khoảng 6 triệu mi-li-lit tinh dịch được phóng ra. Trong tinh dịch có hàng chục thành phần hoóc môn, các hợp chất khoáng, các chất nem, vitamin và các hợp chất. Số lượng và thành phần tinh dịch phụ thuộc vào trạng thái chung và tâm sinh lý của người đàn ông, việc ăn uống và độ dài của thời gian sinh hoạt tình dục. Tinh dịch có mùi đặc biết giống như mùi hoa Thiên trúc sư.
- Trong lúc giao hợp trong âm đạo, qui đầu của dương vật cọ xát vào cổ tử cung hoặc nằm bên cạnh cổ tử cung vì thế khi phóng tinh tinh dịch sẽ chảy thẳng vào co6? tử cung. Sau khoảng 10 phút tinh dịch sẽ biến thành nước còn tinh trùng sẽ thâm nhập vào lòng tử cung. Chúng chuyển động theo lòng tử cugn và lọt vào buồng trứng. Tinh dịch là một trong những chất phức tạp nhất của cơ thể và sự phá vỡ hoạt động của các cơ cấu riêng biệt trong bộ máy sinh dục có thể làm ảnh hưởng tới chất lượng và sự toàn vẹn của tinh dịch. 12. Chồng: Quá trình phát dục bắt đầu thế nào ở nam giới và nữ giới?
Bác sĩ: Khoảng độ 13 – 14 tuổi các chàng trai và cô gái bắt đầu xuất hiện sự ham muốn đối với người khác giới. Sự ham muốn do mang tính chất chưa rõ ràng, sau đó khi tới độ tuổi 17 – 25 đạt được sự phát triển đáng kể. Ham muốn đó được coi là ham muốn tình dục.
Sự phát dục theo người ta thường gọi là thời kỳ chuyển tiếp giữa tuổi trẻ con và tuổi trưởng thành. Thời kỳ này kéo dài thường khoảng 3 – 5 năm. Trong thời kỳ này các tuyến nội tiết phát triển mạnh tạo ra các hoóc môn, các hoóc môn này thâm nhập vào máu và gây ra những thay đổi nhất định trong cơ thể và các mô. Hoạt động của các tuyến nội tiết phụ thuộc vào hoạt động của hệ thần kinh trung ương và là một thể thống nhất.
Sự thay đổi trong cơ thể các thiếu niên và thiếu nữ bắt đầu từ giai đoạn trưởng thành (tình dục), mang tên gọi của các dấu hiệu tình dục thứ yếu. Những cơ quan và tuyến tình dục chủ yếu được hình thành ở trẻ em nói chung, nhưng chỉ đến giai đoạn phát triển này mới bắt đầu diễn ra sự phân lập rõ rệt trong tâm lý và cấu tạo cơ thể của hai giới.
Sự trưởng thành về tình dục giữa thiếu niên và thiếu nữ kết thúc có phần khác nhau. Có thể chia làm 2 thời kỳ ở các thiếu nữ.
Thời kỳ thứ nhất - đó là sự bộc phát các tuyến vú và cơ quan sinh dục đồng thời với sự phát triển của cơ thể và chiều cao. Thời kỳ này kết thúc bằng sự xuất hiện kinh nguyệt lần đầu tiên.
Thời kỳ thứ hai gồm giai đoạn cuối của việc thay đổi cơ thể thiếu nữ, sự chậm lại về phát triển cơ thể và chiều cao và bắt đầu hình thành các điều kiện để thụ thai. Trong tâm lý của thiếu nữ cũng diễn ra sự thay đổi - xuất hiện sự e thẹn, điệu đà và hay tự ái...
Ở thiếu niên nam có thể chia làm 3 giai đoạn trưởng thành tình dục. Kết thúc ở lứa tuổi 16 - 18 bằng việc nổi hầu ở cổ, sự sần ở mặt, vỡ giọng, sự tăng trưởng của các cơ bắp. Cơ thể hình thành các nét đàn ông.
Thời kỳ chuyển tiếp từ trẻ con thành thiếu niên diễn ra khá nhanh nên mặc dù bên ngoài chàng thiếu niên có vẻ người lớn nhưng vẫn giữ được nhiều nét trẻ con, nhất là trong tính cách. Ðó là một "đứa trẻ lớn tuổi".
Cần phải thấy rằng, sự chín muồi cơ quan sinh dục ở đàn ông và đàn bà bắt đầu sớm hơn các điều kiện nhất thiết để xây dựng gia đình. Trên thực tế, ở độ tuổi 12-13 ở các cậu bé đã xuất hiện tinh dịch và các cô thiếu nữ đã thấy kinh nguyệt. Trong độ tuổi này không thể nói sinh hoạt tình dục được, mặc dù tính đa tình xuất hiện khá sớm, thậm chí trước cả khi bắt đầu phát dục nữa.
Tinh hoàn (tuyến tinh) ở đành ông và buồng trứng ở phụ nữ tạo ra những chất đặc biệt. Ðó là các hoóc môn có tính hoạt động sinh học. Các hoóc môn với một lượng rất nhỏ, sau khi xâm nhập vào máu có ảnh hưởng tơí toàn bộ hoạt động của cơ thể nói chung. Sự tích cực của hoóc môn được lựa chọn: Mỗi hoóc môn chỉ có thể có tác dụng tới một chứa năng nhất định.
Sự xâm nhập của các hoóc môn tuỳ vào máu kích thích sự phát triển các dấu hiệu của sự cấu tạo về mặt tâm lý tính cách, làm cho đàn ông khác biệt với đàn bà, đảm bảo sự bộc lộ bản năng tình dục.
Ở thời trung cổ khi đạo đức tuyệt dục đóng vai trò chủ đạo, người ta định đè bẹp bản năng tình dục mạnh mẽ của con người. Nhưng không ai làm được điều đó. Dưới chế độ phong kiến, trong các cung đình đóng kín, trong các buổi tiệc tùn man rợ, các ông quan lại truyền cho nhau các thói xấu tinh tế. Và các thể chế về sau các thắng lợi chống lại "sự suy đồi về đạo đức" chỉ là các thắng lợi tiệc tùng. Chúng ta có thể ngạc nhiên vì sự ngây thơ của các "chiến sĩ" đấu tranh chống suy đồi ấy.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2010 20:03:52 GMT 9
13. Chồng: Lông mu có ý nghĩa thực tế nào không?
Bác sĩ: Lông mu không hề có ý nghĩa quan trọng nào. Ðó chỉ là một trong những dấu hiệu của thời kỳ trưởng thành về tình dục ở hai giới. Ở phươNg Ðông phụ nữ cạo lông mao, như họ thường nói vì những cách nhìn nhận theo thẩm mỹ. 14. Chồng: Liệu sự liên quan nào giữa số lượng của lông mu với tính khí không?
Bác sĩ: Không có. 15. Chồng: Tôi thật vui mừng khi được nghe thấy điều đó. Vợ tôi có nhiều lông, dày hơn của tôi và tôi nghĩ rằng cô ấy có tính khí mạnh mẽ hơn tôi, và có lẽ tôi sẽ rất vất vả để làm thoả mãn được cô ấy. 16. Vợ: Thưa bác sĩ cái gì gây ra sự phóng tinh của đàn ông?
Bác sĩ: Tuyến tiền liệt điều khiển sự phóng tinh. Ðể hiểu được điều ấy, cần phải biết nhiều hơn về hoạt động của tinh trùng. Dịch do người đàn ông tiết ra gọi là tinh dịch. Ngoài ra còn một vài loại dịch khác. Các thành phần chủ yếu được tạo ra ở tuyến tiền liệt và chỉ được hoà lẫn cùng tinh trùng trước lúc phóng tinh.
Khi còn có sự kiểm soát đối với tuyến tiền liệt sẽ không có sự phóng tinh, khi sự kiểm soát đó mất đi, tuyến này sẽ hoạt động như một chiếc bơm một chiều đẩy tinh dịch ra ngoài thành dòng. 17. Chồng: Thưa bác sĩ, nếu người thường xuyên có thể phóng tinh được liệu có bị vô sinh không?
Bác sĩ: Có thể, bởi lẽ vô sinh không phải do ít tinh dịch mà do lượng tinh trùng trong tinh dịch không đủ. 18. Chồng: Thế làm thế nào người ta biết được trong tinh dịch có đủ tinh trùng hay không?
Bác sĩ: Chỉ có cách soi dưới kính hiển vi. Nhân đây tôi cũng xin nói rằng sự có mặt của tinh trùng trong tinh dịch không nhất thiết là người đàn ông có thể làm người đàn bà thụ thai được vì tinh trùng của anh ta có thể không được toàn vẹn so nhiều lý do khác nhau. Nghiện rượu chẳng hạn, có thể huỷ hoại tinh trùng hoặc làm cho tinh trùng mất khả năng hoạt động. Việc nghiên cứu tinh trùng dưới kính hiển vi cũng có thể xác định được những tinh trùng bị phế phẩm. 19. Vợ: Nếu tinh trùng chảy ra theo cùng một ống dẫn với nước tiểu, liệu chúng có thể lẫn lộn nhau không? Bác sĩ: Ðó là một câu hỏi hiếu kỳ. Ðiều đó làm cho không ít cả đàn ông với đàn bà lấy làm ngạc nhiên. Nước giải được tích tụ trong bọng đái và chảy qua ống nằm dọc theo dương vật ở gần mặt dưới của dương vật. Trong lúc tiểu tiện nếu người đàn ông đặt tay xuống mặt dưới của dương vật có thể cảm thấy việc chảy nước ra. Khi cương cứng thường các van nước giải đóng lại, vì thế nước giải không thể ra khỏi bọng đái được. Ðiều đó được làm để làm sạch niệu đạo cho tinh dịch từ tuyến tiền liệt tràn vào. Như vậy cả nước giải và tinh dịch đều đi qua niệu đạo, nhưng mọi việc đều bình thường vì chỉ có một trong hai thứ được đi qua mà thôi. 20. Chồng: Trong giai đoạn mào đầu của trò chơi tình dục ở đầu dương vật có tiết ra một ít dịch. Cái đó có bình thường không? Một số người nói rằng đó là dịch nhờn có phải vậy không?
Bác sĩ: Ðúng vậy. Ðiều đó hoàn toàn bình thường, người ta gọi đó là dịch tiết giáo đầu. Dịch này do một số tuyến trong niệu đạo tiết ra. Ðó là dịch lỏng sạch giống như lòng trắng trứng gà.
Nhiệm vụ của nó là làm bôi trơn qui đầu dương vật để có thể dễ dàng đưa dương vật vào âm đạo.
Ngoài ra, cả vợ lẫn chồng cần phải làm quen với các cơ quan sinh dục của phụ nữ. Cơ quan nội tạng người ta gọi là âm đạo gồm môi to, môi nhỏ, lồi giữa hai mu, âm vật là niệu đạo. Lông mu của phụ nữ thường mọc xung quanh mu, nếu như chúng dầy và dài có thể che kín hẳn âm đạo và cả âm vật nữa. Ngay dưới âm va6.t là các múi lớn. Ðó là các lớp xốp da chạy xuống phía dưới và gặp nhau ngay cạnh hậu môn. Mặt trong của chúng có lớp màng mỏng làm ẩm và tránh kích thích khi đi bộ...
Dịch của phụ nữ do các tuyến nhỏ nằm ở cửa vào âm đạo và thành bên trong của các mô tiết ra. Các tuyến này nối các lỗ với âm đạo và niệu đạo vạch ra các môi lớn, có thể nhìn thấy màu hồng nhạt.
Những môi lớn, có nhiệm vụ che âm đạo. Khi hưng phấn tình dục, các môi này lệch sang bên đôi chút do lượng máu bổ sung được dẫn đến. Ðiều đó tạo điều kiện cho dương vật có thể vào được âm đạo. Việc mở rộng môi có thể thực hiện được khi áp dụng những tư thế giao hợp nhất định giữa các môi to còn có hai lớp màng xếp nhỏ được gọi là môi nhỏ, các môi này nhỏ hơn so với các môi to bên ngoài. Ở một số phụ nữ chúng rất khó phát hiện, ở một số khác chúng lại rất to. Bề mặt bên trong của môi nhỏ lưu trữ dịch nhờn, dịch này xuất hiện ở mức độ nào đó, khi người phụ nữ hưng phấn do những ý nghĩ của mình hay các hành dộng của đàn ông gây ra. Các môi đó có vô số các đầu dây thần kinh, cũng giống như ở bao gui đầu của dương vật. Các dây thần kinh đó tạo ra cảm giác dễ chịu nếu như chúng bị kích thích. 21. Chồng: Thưa bác sĩ, liệu ông có quên nói về âm vật không? Tôi nghĩ đó cũng là một bộ phận rất quan trọng của phụ nữ.
Bác sĩ: Vâng, anh nói đúng khi phát hiện ra điều đó. Ðây là một trong những vùng gợi dục quan trọng nhất của phụ nữ. Như anh cũng biết, âm vật nằm giữa giao điểm phía trên của hai môi lớn, phải vạch môi lớn mới đến được âm vật, điều đó phụ thuộc vào hình dạng của âm đạo cũng như độ lớn của âm vật. Một số phụ nữ kêu ca rằng âm vật của họ quá dài và thực tế có thể giao hợp, sử dụng âm vật như một dương vật phụ (những phụ nữ đồng tính luyến ái). Sự có mặt dương vật dưới dạng thô sơ ở một số phụ nữ cũng giống như sự xuất hiện vú và núm vú thô sơ ở một số nam giới. 22. Chồng: Thưa bác sĩ các cơ quan tình dục nội tạng và ngoại tạng của phụ nữ cũng rất khác nhau về vị trí và chức năng?
Bác sĩ: Các cơ quan ngoại tạng gồm có màng trinh là vách ngăn giữa cơ quan ngoại tạng và cơ quan nội tạng, âm vật, các mu to và mu bé và một vài tuyến khác. Trong lần giao hợp đầu tiên màng trinh được coi như tấm vách ngăn sẽ bị chọc thủng. Song cũng có lúc gặp những màng trinh dai mà khi giao hợp không chọc thủng được.
Màng trinh không hề bị một sức ép nào về mặt sinh lý cả. Màng trinh quá dày cũng làm ảnh hưởng tới việc giao hợp, nhiều khi phải nhờ tới giải phẫu để giải quyết vấn đề này. Có thể việc giữ gìn màng trinh có sự ảnh hưởng của hai yếu tố: tổ tiên của chúng ta cách đây hàng ngàn năm bắt đầu hoạt động tình dục khá sớm (khi mới xuất hiện ham muốn về tình dục) khi đó màng trinh vẫn còn rất dầy và xương cụt vẫn chưa phát triển đầy đủ.
Theo tục lệ một vài dân tộc, chẳng hạn như ở Ấn Ðộ, Trung Quốc, và dân Indi ở Brazin. Thổ dân ở Cam trát ca, nhiều quần đảo Philipine và các nơi khác, màng trinh được phá thủng từ tuổi thiếu niên hoặc trước khi đi lấy chồng. Song ở các nước theo đạo giáo và Hồi, màng trinh nguyên vẹn được coi là biểu hiện của sự trinh tiết.
Âm vật là sự đồng dạng thô sơ của dương vật. Trong lúc giao hợp âm vật trở nên cương cứng, chứa đầy máu làm tăng kích thước lên. Âm vật cũng như dương vật có thân hang, có bao qui đầu nhưng tất cả đều bé hơn so với của đàn ông. Các mu to và mu bé cũng có sự khác nhau. Mu bé phát triển trong thời kỳ phát triển sinh dục còn trước đó là chưa rõ. Khi giao hợp mu bé cùng to ra về kích thước vì cấu tạo của nó cũng có các cơ hang như thân âm vật.
Cơ quan sinh dục ngoại tạng gồm hai mu to khép kín từ hai phía trên bên trong có các tuyến Báctôni, còn phía ngoài được phủ kín bởi lớp lông mao.
Cơ quan sinh dục nội tạng của nữ gồm: âm đạo, tử cung, vòi trứng và buồng trứng.
Âm đạo là cơ quan có dạng ống có đàn hồi, dài khoảng 8-10 cen-ti-met. Một đầu âm đạo bắt đầu từ màng trinh còn đầu kia kéo dài tới tận tử cung. Thành âm đạo cấu tạo từ vài lớp cơ có khả năng co giãn, lớp cơ này đóng vai trò quan trọng trong lúc sinh nở cũng như khi giao hợp. Ðầu thứ hai của âm đạo chạy tới cổ tử cung là khối cơ có dạng hình quả lê, nơi phát triển của bào thai. Theo hai phía từ tử cung vào xương chậu nhỏ có các vòi trứng (ống trứng) dẫn tới buồng trứng.
Buồng trứng là tuyến tình dục của nữ. Có hai buồng trứng, trong đó hình thành các tế bào của trứng từ các tế bào đó sau khi được các tinh trùng thụ thai sẽ phát triển thành bào thai.
Trứng chín khoảng từ ngày 11 đến ngày 17 của hai thời kỳ kinh nguyệt, kinh nguyệt có cùng với sự phát dục ở nữ giới và kéo dài tới lúc mãn kinh. Các hoóc môn tình dục cũng được hình thành trong buồng trứng. Trong buồng trứng có khoảng 100.000 tế bào trứng, nhưng trong cuộc đời của một phụ nữ chỉ khoảng 500 trứng có thể chín được. Các tế bào trứng có hình tròn là tế bào lớn nhất trong cơ thể con người với đường kính 0,2 milimet. Các tế bào trứng không thể tự di động được. 23. Vợ: Âm vật của tôi là nơi đầu tiên làm thức tỉnh tình cảm về tình dục. Thưa bác sĩ, phải chăng đó là chức năng trực tiếp của âm vật?
Bác sĩ: Không hoàn toàn như vậy. Ðể kích thích về mặt tình dục các em bé gái thì có thể đúng, nhưng ở những người phụ nữ lớn tuổi, nguồn gốc này chỉ xuất hiện vào thời điểm hưng p hấn cực điểm. Ðiều đó diễn ra bởi đầu âm vật cũng như đầu dương vật đều có những dây thần kinh hết sức nhạy bén. Ngoài ra, các đầu dây thần kinh này của âm vật có nhiều hơn nên cũng nhạy cảm hơn.
Do độ nhạy cảm cao, đa số các cô bé gái làm quen với cảm giác gợi dục trước hết thông qua âm vật. Ðó có lẽ cũng là một trong những nguyên nhân đẩy những cô bé trẻ tới việc thủ dâm. 24. Vợ: Thưa bác sĩ cô bạn gái tôi nói rằng, cô ấy không được thoả mãn về tình dục và cho rằng, nguyên nhân là do từ 11 tuổi cô ấy làm thủ dâm. Liệu thủ dâm có phải là nguyên nhân của sự lãnh đạm về tình dục không?
Bác sĩ: Cô đặt câu hỏi không được đúng lắm. Nếu như cô bạn gái của cô thích thủ dâm, điều đó có nghĩa là cô ấy đạt được sự cực khoái, và nói về lãnh đạm tình dục là không cần thiết.
Vấn đề khác là ở chỗ sự thoả mãn đó không do giao hợp gây ra. Ðiều đó cũng có thể. Sự đánh giá về thủ dâm được thay đổi nhiều nhất trong tất cả các khiá cạnh của hoạt động tình dục. Nói sơ qua về lịch sử. Từ "thủ dâm" gắn liền với nhân vật Ônan trong kinh thánh. Theo kinh thánh thì Ônan theo tục lệ thời cổ phải lấy vợ của người anh đã chết, nhưng Ônan đến chỗ người chị dâu, không muốn có con với chị ta nên để tinh trùng chảy xuống đất. Vì vậy hành động của Ônan không có gì chung với khái niệm về thủ dâm (như quan niệm của chúng ta).
Thủ dâm - là sự tác động tới các vùng tình dục của cơ thể mà không có sự tham gia của người ngoài với mục đích làm thoả mãn nhu cầu tình dục vủa bản thân. Ðôi khi lại nảy sinh ra câu hỏi khác: Ðánh giá thế nào là hành vi của những người đàn ông và đàn bà khi giao hợp họ có tác động tới các vùng tình dục của bản thân? Liệu đó có phải là thủ dâm không? Không, không phải, vì các động tác đó nằm trong tổng thể các trò chơi tình dục hoặc đối với một số phụ nữ các động tác đó cần thiết giúp cho việc đạt được cực khoái.
Thái độ đối với thủ dâm trong nhiêu giai đoạn lịch sử khác nhau cũng rất khác nhau. Thời cổ, khi chưa xuất hiện giáo hội, thủ dâm chưa bị coi như một thói xấu. Lúc đó để tự thoả mãn người ta chế ra những dụng cụ và phương tiện đặc biết. Ðạo giáo cũng như tôn giáo hoàn toàn phủ nhân khả năng tự thoả mãn cũng như một số nhu cầu khác. Nhà thơ bằng mọi cách khuyến khích người ta đè nén ham muốn của thể xác. Thời đó xuất hiện các tác phẩm, khẳng định rằng thủ dâm có thể gây ra nhiều bệnh tật.
Mãi đến cuối thế kỷ XIX người ta mới tiến hành các thử nghiệm khoa học nghiêm túc về ảnh hưởng của thủ dâm đối với cơ thể con người. Y học hiện đại đối với việc tự thoả mãn ra sao? Trước hết để chứng minh được rằng thủ dâm hoàn toàn không gây ra bệnh gì thì khoa học vẫn chưa được biết tới. Ðiều đó có nghĩa là không thể coi thủ dâm là căn bệnh được.
Nhiều người đàn ông cho rằng sự xuất hiện liệt dương có liên quan tới việc thủ dâm thời trẻ. Việc tự kết luận như vậy là hoàn toàn sai lầm. Liệt dương xuất hiện do những nguyên nhân hoàn toàn khác.
Có thể khẳng định chắc chắn rằng, đối với người lớn thủ dâm vô hại. Ngoài ra, trong những gia đoạn nhất định của cuộc sống thủ dâm còn có nghĩa ổng định (chẳng hạn như khi bị cách ly bắt buộc, hay đi công tác dài ngày...)
Trong các đánh giá sự thủ dâm của thanh thiếu niên có một số khác biệt. Thủ dâm tất nhiên không làm ảnh hưởng tới sức khoẻ song việc kích thích các khu tình dục kéo dài trở thành thói quen có thể gây ảnh hưởng không tốt đối với hoạt động tình dục sau này. Vì trong thời kỳ phát triển diễn ra sự xuất hiện các phản xạ có điều kiện cố định trở thành thói quen trong suốt cuộc đời sau này.
Sau đây là một ví dụ trong thực tế.
Vào độ 9 tuổi cô bé gái vô tình phát hiện ra việc gây kích thích âm vật dẫn đến những cảm giác dễ chịu. Hàng ngày cô bé lại làm điều đó, nhiều khi phải thủ dâm ở buồng tắm hoặc nhà vệ sinh. Ðến năm 18 tuổi cô gái đi lấy chồng. Trong suốt thời gian giao hợp không lúc nào đạt được sự khoái cực. Hiện tuổi 26, cô gái chỉ có cực khoái khi tự thủ dâm. Cả cô ta và chồng cô đều cố tác động âm vật trong lúc giao hợp cũng đều vô hiệu. Trong sức khoẻ của người vợ không hề có sự sai lệch nào cả. Ðó là một phụ nữ xinh đẹp tươi tắn.
Rõ ràng, trong trường hợp này người phụ nữ đã có các phản xạ có điều kiện cố định (nói một cách khác là thói quen) đối với việc kích thích các khu tình dục. Ở đây vẫn có thể đạt được sự hoà hợp nếu như người phụ nữ biết chắc chắn rằng người chồng không những thông cảm mà sẽ vui mừng được giúp vợ đạt sự cực khoái.
Những người đàn ông thích thủ dâm từ sớm cũng hình thành sự cố định việc kích thích nhân tạo đối với dương vật. Những người này chỉ đạt được sự cương cứng khi phải kích thích thêm dương vật bằng tay. Việc đó có thể do người đàn bà hoặc anh ta tự làm. Chỉ sau khi đó mới xuất hiện sự cương cứng cần thiết để tiến hành giao hợp trọng vẹn được. Nếu như sự chuẩn bị như trên không có, có thể làm cảm giác người đàn ông bị liệt dương. Người vợ cần phải thông cảm rằng người chồng cần có sự kích thích thêm dương vật bằng tay. Tóm lại, đối với đàn bà cũng như đàn ông sự kích thích các vùng tình dục là bình thường và cần thiết.
Người lớn thì không cần thiết phải chữa chạy thủ dâm làm gì, còn thanh thiếu niên cần tuân thủ các đòi hỏi về giữ vệ sinh, nhất thiết phải luyện tập thể dục thể thao.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2010 20:04:45 GMT 9
25. Vợ: Tôi biết một số phụ nữ, thưa bác sĩ, họ nói rằng chẳng có cảm giác gì khi dùng tay sờ vào âm vật. Tại sao lại như vậy?
Bác sĩ: Âm vật cũng được che kín bởi một lớp biểu bì cũng giống như dương vật, và là bản sao của nó. Âm vật thâm chí cũng được nâng lên một góc nhất định khi hưng phấn. Nếu phụ nữ không thấy hưng phấn khi kích thích âm vật, thường thì đó là do lớp bì bị dính xuống phía dưới da bị bẩn. Giống như bao da qui đầu ở đàn ông nơi qui tụ các chất thải, nhưng các chất thải gây cho phụ nữ tai hại hơn như việc cản trở việc làm hưng phấn âm vật. Ðiếu khó chịu ấy có thể dễ dàng được loại bỏ. 26. Vợ: Liệu âm vật có đáp ứng sự kích thích nếu nó không bị bẩn không?
Bác sĩ: Nhất thiết phải có sự đáp lại. Nếu điều đó không xẩy ra, có nghĩa là có cái gì đó phức tạp hơn. Thường đó là do tâm lý bẩm sinh. Trường hợp hay gặp nhất ở các phụ nữ ở tuổi thiếu niên hay thủ dâm và cho rằng đó là thói xấu và tội lồi. Do những ý nghĩ đó họ luôn cảm thấy có lỗi trong việc làm của quá khứ hoặc sự ngượng ngùng khi người đàn ông lặp lại với họ thói xấu và tội lỗi đó, còn họ không bị hưng phấn khi đàn ông tác động đến cơ quan đó. 27. Chồng: Thưa bác sĩ. Thế nào là kích dục? Chúng có vai trò gì để sinh hoạt tình dục được tốt đẹp?
Bác sĩ: Các vùng kích thích tình dục (nhạy cảm tình dục) bao gồm các bộ phận trên cơ thể mà khi dùng tay, môi, các bộ phận sinh dục hoặc các vật khác chạm vào sẽ làm xuất hiện và tăng sự hưng phấn ham muốn tình dục. Những khu kích dục đặc trưng của phụ nữ là các bộ phận sinh dục ngoại tạng, trước hết là âm vậtm mu to và mu nhỏ của âm đạo, cũng như vòm miệng, dái tai, núm vú, bẹn, chân, bàn chân, cổ.
Vùng kích dục có thể là các khu vực trên cơ thể. Sự đụng chạm bằng tay vào các vùng này gây ra cảm giác dễ chịu, nhưng sự kích động manh hơn nếu dùng lưỡi, răng, hoặc môi tác động tới các vùng kích dục. Tai và dái tai cũng rất bị hưng phấn, khi kích thích tai được coi là những người mạnh mẽ và làm thoả mãn họ không phải dễ dàng. Ðối khi người đàn ông sai khi vuốt ve tai của phụ nữ thì phải chuyển ngay sự vuoất ve sang các vùng kích dục khác. Không nên vội vàng. Những động tác này nằm trong trò chơi tình dục, không thể thiếu được. Một bộ phận khác của cơ thể cũng rất nhạy cảm với kích thích đó là cổ, đặc biệt khoang hõm dưới tai.
Hôn - là một nhân tố rất quan trọng trong trò chơi tình dục, các cặp vợ chồng không hơn nhau hoặc ít hôn nhau là phạm sai lầm về sự thiếu kinh nghiệm của họ. Hôn cũng có nhiều cách, đa dạng, kiểu hôn phiá ngoài môi không được coi là biểu hiện tình dục, thường được sử dụng khi bạn bè hoặc người thân đón hay tiễn biệt nhau. Kiểu hơn đa tình nhất là kiểu hôn như người Pháp gọi "Nụ hôn của tâm hồn" các cặp tình nhân hôn nhau hở miệng, dùng lưỡi đẩy đi đẩy lại trong miệng nhau, nơi được coi là khu kích dục quan trọng của phụ nữ và của nhiều đàn ông. Kiểu hôn này không phải ai cũng thích cả. Việc lựa chọn kiểu hôn do đàn ông quyết định chiều theo ý muốn của đàn bà. Sự kích động do hôn gây ra diễn ra chủ yếu từ cùi tay tới vòng ngực, từ bàn chân lên các bộ phận sinh dục.
Trên toàn bộ bề mặt cơ thể phụ nữ rãi khắp các đầu dây thần kinh rất nhạy cảm mà khi chạm tới các điểm này gây nên cảm giác dễ chịu và sự hưng phấn. Vùng kích dục nổi bật của phụ nữ là vú và các nụm vú trở nên cương cứng. Khi kích thích mạnh sẽ rất hưng phấn. Nhưng nói chung núm vú của người phụ nữ dễ nhạy cảm hơn núm vú của đàn ông. Nhiều phụ nữ trong lúc giao hợp các núm vú và các tuyến vú đều cương cứng.
Bộ ngực của phụ nữ không phải vô tình là biểu tượng của nữ tính. Ðiều đó gắn liền với các tuyến vú đảm bảo sự sống của đứa trẻ trong những tháng đầu tiên sau khi ra đời. Thời kỳ đó đứa trẻ uống sữa được tiết ra từ các tuyến vú. Ỏ đây, cũng như sự thai nghén, sự thông thái của t nhiên thật tuyệt vời - khoái cảm khi hình thành một cuộc sống mới dường như hoà cùng sự sung sướng của người phụ nữ khi cho con bú. Nhưng hoạt động tình dục của con người rất đa dạng và thường không trực tiếp gắn liền với việc thụ thai. Vì vậy viếc kích thích các núm vú gây ra hưng phấn và thoả mãn không có liên quan tới việc nuôi con. Thời điểm hưng phấn của các núm vú phụ nữ không phụ thuộc vào độ to nhỏ của tuyến vú và của núm vú. Cũng có những phụ nữ mà khi kích thích núm vú không gây nên hưng phấn, song số đó rất ít. Ngược lại cũng có những phụ nữ mà chỉ cần kích thích núm vú ấy làm cho họ đạt được cực khoái, những người này thuộc nhóm người có tính khí mạnh mẽ. Sự hưng phấn có phản xạ trong các cơ quan sinh dục gây ra do việc kích thích mặt trong của hông. Phụ nữ bị hưng phấn mạnh nếu người đàn ông hôn hoặc kích tích các khu đó. Khu này cũng rất quan trọng và các vùng kích dục khác có th ể chỉ dẫn đến sự nhạy cảm của một trong hai người. Khu kích dục này có thể làm cả hai người cùng bị hưng p hấn. Nhiều phụ nữ bị kích động mạnh nếu vừa hôn vừa đè mạnh vào vùng dưới hông trên đầu gối. Các khu này cũng như bọng chân, sườn khi hôn hoặc vuốt ve bình thường lại không gây ra hưng phấn.
Vùng kích dục đặc trưng của nam giới là các bộ phận sinh dục ngoại tạng. Nếu kích tích kéo dài các cơ quan đó có thể dẫn đến cực khoái. Ðặc biệt qui đầu của dương vật rất nhạy cảm, phần dưới dương vật bọng đái và mặt trong của qui đầu. Thực tế sau 2-5 phút kích tích đầu và thân dương vật sẽ dẫn đến phóng tinh kèm theo khoái cảm. Lúc đó không quan trọng việc kích thích bằng cách nào. 28. Chồng: Trước đây tôi thường nghĩ rằng âm đạo của phụ nữ là nơi của các cảm giác tình dục.
Bác sĩ: Mặc dù phụ nữ có thể nhận được khoá cảm do kích thích âm đạo, nhưng nó thường không mạnh mẽ như khoái cảm tích tụ ở đầu âm vật. Có những tư thế giao hợp nhất định cho p hép đành ông kích thích âm vật, nhờ đó mà phụ nữ có thể nhận được khoái cảm ở cả hai nơi. Phần nhạy cảm nhất của âm vật nằm ở phần dưới chỗ biểu bì với tận cùng của âm vật. Cũng giống như ở dương vật vậy. 29. Vợ: Một cô bạn gái quen tôi kể rằng, màng trinh của cô ấy không bao giờ bị thủng ngay cả khi cô ấy sinh nở nữa. Ðiều đó có thể không?
Bác sĩ: Có thể có. Một số phụ nữ có màng trinh rất mềm nó có thể căng ra được. Nhưng đại đa số phụ nữ mà màng trinh không được chọc thủng sau một lần giao hợp, nó sẽ mất dần dần. 30. Vợ: Bác sĩ nói rằng, lỗ âm đạo thường được khép kín bở các môi lớn.
Bác sĩ: Vâng, đúng vậy. Ngay cả khi vạch các môi mới có thể nhìn thấy lỗ hoặc như người ta thường gọi là cửa tử cung. Trên thực tế đó là một vòng cơ giữ cho lỗ âm đạo khép kín. Khi có sự kích thích tình dục các cơ đó thả lỏng bớt để dương vật có thể đi qua, ngoài ra có những trường hợp khi phụ nữ bị những dạng rối loạn nhất định, thường là rối loạn tâm lý gây cản trở việc giãn ra của các cơ tạo mức độ cần thiết để dương vật có thể đi qua được. Khi các cơ này hoạt động bình thường, người phụ nữ có thể sử dụng chung khi giao hợp, kẹp chặt cần hoặc đầu của dương vật trong lúc giao hợp. 31. Vợ: Thưa bác sĩ, khi hưng phấn về tình dục thì cái gì diễn ra trong các cơ quan sinh dục của đàn ông và đàn bà?
Bác sĩ: Khoảng 16-17 tuổi sự ham muốn về tình dục đạt độ phát triển khá cao được xác định bằng sự hưng phấn và ham muốn - sự tăng trưởng sinh dục. Khi đó các điều kiện để thoả mãn ham muốn tự nhiên về sinh dục không có. Vì vậy lập gia đình như đã nói ở trên, thường bắt đầu không sớm hơn 18 tuổi, đa số các trường hợp còn muộn hơn nữa. Xuất hiện khoảng cách giữa sự ham muốn tình dục và khả năng thực tế để thoả mãn ham muốn đó. Ðó là một trong những sự mất cân đối quan trọng trong isnh hoạt tình dục tự nhiên của con người.
Bản thân cơ thể con người tìm cách cân bằng hoạt động của các tuyến tình dục, "làm giảm bớt" ham muốn tình dục. Hiện tượng di mộng tinh xuất hiện ở các thiếu niên. Di mộng tinh xảy ra thường xuyên, có lúc đêm nào cũng có, kèm theo các cơn mơ về tình dục cũng có hiện tương tương tự ở các cô thiếu nữ. Những hiện tượng đó hoàn toàn phù hợp sinh lý và tự nhiên. Song thường di mộng tinh cũng không làm giải toả được sinh lý, các cô cậu thiếu n iên thường sử dụng biên ph áp nhân tạo gây kích thích các cơ quan tình dục. Ðó là hiện tượng thủ dâm.
Ham muốn được gần gũi về thể xác được hiện thực hoá trong giao hợp. Thường sau 3-4 phút sau khi bắt đầu giao hợp là sự chuyển động nhất định của cơ thể, sẽ xuất hiện cực khoá. Cực khoái - là mức độ cao nhất của cảm giác khoái lạc, hình thành vào thời điểm kết thúc giao hợp (hoặc các động tác khác thay cho giao hợp).
Một số phụ nữ không có sự ham muốn giao hợp và không đạt được cực khoái. Hiện tượng đó được goại là lãnh dục hoặc lạnh lùng về tình dục. Trong các trường hợp khi người đàn ông nhận thấy sự cương cứng kém của dương vật hoặc phóng tinh sớn (khoảng 1-2 phút sau khi bắt đầu giao hợp), lúc đó có thể nói về sự yếu kém tình dục. Liệt dương hoặc các triệu chứng liệt dương. Nguyên nhân dẫn đến sự lãnh dục và liệt dương rất đa dạng.
Ðôi khi cũng thường gặp các trường hợp khi gặp gỡ với phụ nữ, người đàn ông thấy sự cương cứng dương vật, sau đó một lúc sự cương cứng tự mất đi mà không có xuất tinh. Sự cương cứng đó có thể xuất hiện trong lúc ôm ấp, hôn hít, vuốt ve nhau. Hiện tượng này gây ra sự khó chịu trong các cơ quan tình dục, vì vậy nên tránh các trường hợp như vậy nếu không có điều kiện tiến hành giao hợp.
Có thể, do nhiều nguye6n nhân khác nhau, con người bắt buộc phải cách ly khỏi sinh hoạt tình dục. Ở tuổi trẻ sự cách ly này hoàn toàn vô hại đối với cơ thể.
Trong những thời kỳ nhất định của cuộc đời, đặc biệt những ngày sau khi cưới, các cặp vợ chồng tiến hành nhiều lần giao hợp. Những lần giao hợp kéo dài hoặc cuồng nhiệt có nhiều người cho là sự thái quá. Việc đánh giá ở đây mang tính cá nhân sâu sắc, có thể đối với một số người là thái quá còn đối với những người khác lại cho là bình thường. 32. Chồng: Cần phải xử sự thế nào cho đúng trong đêm tân hôn?
Bác sĩ: Vai trò chủ đạo trong việc xử sự đêm tân hôn thường thuộc về người chồng. Song cũng không loại trừ việc, ông chồng hoàn toàn thiếu kinh nghiệm trong sinh hoạt tình dục và đêm tân hôn đối với anh ta cũng đồng thời là khỏi điểm của đồi sống tình dục. Do ảnh hưởng của sự hồi hợp, lo lắng có thể làm dương vật, không thể cương cứng được. Ðó không phải triệu chứng của liệt dương, mà là hiện tượng tạm thời. Khoảng vài ngày sau sự cương cứng sẽ trở lại bình thường và sinh hoạt tình dục sẽ phát triển tốt. Trong tường hợp đó người vợ trẻ không nên tỏ ra không bằng lòng hoặc ngạc nhiên.
Song, đại đa số các trưo8`ng hợp sinh hoạt tình dục của các cặp vợ chồng trẻ diễn ra suông sẻ từ ngày đầu chung sống.
Khó có thể khuyên những lời khuye6n uc. thể và các cư xử trong đêm tân hôn, nhưng nhất thiết phải biết tự chủ, có các trò chơi tình dục chuẩn bị từ trước, sự âu yếm và tế nhị của cả hai người. Trong lần giao hợp đầu tiên tứ thế thuận lợi nhất của người vợ sao cho hướng của dương vật và âm đạo trùng hợp nhau. Ðể làm được như vậy cần để người vợ kê gối xuoấng dưới mông (để nâng cao xương chậu) co chân lại hết cỡ tới đầu gối hoặc dùng chân quặp eo chồng. Trong lần giao hợp đầu tiên có thể bị chảy máu do màng trinh bị chọc thủng. Trong trường hợp đó sau đó không nên tiếp tục lặp lại việc giao hợp nữa. Ðể làm được điều đó thật không dễ dàng, song nếu ông chồng muốn nhanh chóng đạt được sự hoà hợp trong sinh hoạt tình dục thì nên nghe theo lời khuyên này: bởi vì người vở trẻ trông đợi lần giao hợp đầu tiên với sự lo lắng, căng thẳng, nỗi sợ bị đau đớn. Dễ hiểu là trong lần giao hợp đầu tiên người vợ khó mà cảm nhận được cảm giác sung sướng. Một thời gian trôi qua, cả hai cùng bước vào thế giới tình dục. Ðêm tân hôn - được coi như tiền đề, đêm tân hôn chưa phải là khoái lạc mà chỉ là sự hiểu biết nhau đầu tiên. Ai mà không hiểu điều đó sẽ phạm phải sai lầm nghiêm trọng, mà sau này phải trả một giá đắt. Hoặc là sự lạnh lùng về tình dục của người vợ, hoặc sự ghê tởm của cô ta đối với sự gần gũi về tình dục.
Nếu trong những ngày sau, sự ra máu vẫn còn tiếp tục, thì cần cách ly thêm 2-3 ngày. Khi có cảm giác hơi đau của người vợ, chồng phải lập tức chấm dứt việc dập tiếp theo và sau đó nhẹ nhàng đưa dương vật vào lưu ý tới độ sâu đưa vào. Ðộ lớn của dương vật căng cứng lúc nào cũng lớn hơn độ sâu của âm đạo, vì thế thời gian đầu thường chỉ cho dương vật vào được một nửa. Khi cho hẳn toàn bộ dương vật vào sẽ gây ra đau do sức ép lên vùng cổ tử cung.
Trong những tháng đầu tiên khi mới bắt đầu sinh hoạt tình dục, nếu độ nhờn ở cửa âm đạo không đủ, có thể dùng kem vadơlin hoặc nước bọt bôi vào dương vật.
Sẽ ra sao, nếu người vợ đã có kinh nghiệm tình dục trước khi cưới? Ðiều đó không thể có ảnh hưởng tới sinh hoạt vợ chồng được. Trước kia, thời trung cổ, các hiệp sĩ, trước khi đánh trận, thường mặc cho các bà vợ "thắt lưng chung thủy", làm bằng sắt hoặc bạc. Thắt lưng này che kín các bộ p hận sinh dục của phụ nữ, chỉ để lại các lỗ nhỏ cho các nhu cầu tự nhiên. Thắt lưng được khoá lại và chàng hiệp sĩ cầm chìa khoá theo người. Phong tục này thể hiện sự bắt buộc vợ phải giữ gìn sự trong trắng, chung thủy với chồng. Ngày nay mọi việc đã khác hẳn. Vì vậy cũng không có gì là quan trọng khi trước lúc cưới, cô dâu đã có quan hệ tình dục với người khác. Có thể lúc thành công mà vẫn ham mê những hình thức sinh hoạt tình dục lạ kỳ nhất.
Thông minh hơn, nếu như chàng rể đánh giá tư cách của cô dâu trước khi hai người quen nhau và những quan hệ trước đó chứ đừng tự dằn vặt mình bởi những lo lắng không đâu vào đâu.
Người chồng trẻ đáng yêu, lịch sự, có văn hoá cần ph ải từ từ đưa vợ mình vào thế giới tình dục, đừng có đốt cháy giai đoạn muốn làm cái cần làm trong 2-3 tháng trong vòng một vài ngày. Thái độ thô bạo của người đàn ông trước khi giao hợp, khi mà anh ta chỉ nghĩ tới sự thoả mãn như cầu của bản thân, có thể làm cho người vợ trẻ sợ hãi sự gần gũi về tình dục. Những người phụ nữ trẻ, trong các trường hợp như vậy thường mất tự chủ và phục tùng theo ý muốn của các ông chồng. Cách xử sự đúng nhất của người chồng là phải dựa trên sự âu yếm và vuốt ve.
Người vợ thông minh và tế nhị cũng không nên để chồng biết kể cả khi giao hợp lần đầu tiên không làm cô ấy thoả mãn (thường là như vậy). Riêng việc vợ giúp chồng cảm nhận được khoái cảm, cũng là sự bù đắp đáng kể đối với cô ta.
Ðể việc giao hợp diễn ra tốt đẹp cần phải có sự mong muốn của cả hai vợ chồng đạt được thoả mãn một cách tối đa và ý thức được rằng hai người đều có ham muốn lẫn nhau.
Nếu một người chỉ nghĩ về mình và sự thoả mãn của bản thân, còn người kia chỉ đóng vai trò thứ yếu, thì có thể nói rằng: sinh hoạt tình dục vợ chồng không thể đem lại sự thoả mãn thực sự được. Trong những ngày đầu mới chung sống như người ta thường gọi "Tuần trăng mật". Các cặp vợ chồng thường giao hợp nhiều lần trong ngày. Có những đôi vợ chồng thiếu sự hiểu biết về sinh lý, lại cho rằng, trong một ngày không nên giao hợp lại. Tất nhiên, có nhiều cách phụ thuộc vào đặc điểm cá nhân, nhưng có điều cần lưu ý - nếu người chồng xuất tinh sớm (sớm hơn hai phút) thì nhất định nên tiến hành giao hợp lại.
Nhiều cặp vợ chồng thất vọng vì người vợ không đạt được độ cực khoái trong thời gian giao hợp. Ðiều đó cũng không lấy gì làm lạ cả. Nhiều phụ nữ bắt đầu cảm thấy khoái cảm chỉ một thời gian sau, sau khi bắt đầu sinh hoạt tình dục.
Sau khi thoả mãn ham muốn, các đôi vợ chồng yêu nhau không thể thờ ờ với nhau được. Trong mọi trường hợp cần có sự biết ơn vì đã được khoái cảm. Sự biết ôn đó có thể biểu hiện bằng sự âu yếm, ôm ấp hoặc những lời lẽ dịu dàng.
Lời nói có vài trò rất quan trọng trong đời sống của con người. Các bác sĩ biết các trường hợp, khi một lời nhận xét thiếu suy nghĩ có thể gây ra bệnh tật, hoặc làm cho một số bệnh khác trở nên khó chữa hơn.
Vai trò của lời nói cũng rất quan trọng trong việc giữ gìn hài hoà về tình dục. Không khi nào, không lúc nào được để cho vợ hoặc chồng trách móc nhau vì không có ham muốn đạt được sự thoả mãn. Và người vợ nên an ủi, động viên người chồng kể cả khi cô ta không nhận được sự thoả mãn sau khi gần gũi nhau.
Khung cảnh nơi diễn ra sự giao hợp cũng có ý nghĩa quan trọng.
Cần sự tách biệt hoàn toàn, để không ai, không cái gì có thể ngăn cản vợ chồng được thoải mái, xử sự theo như ý muốn. Nếu ở phòng bên cạnh, chẳng hạn, có người thân ở, nghe thấy nhau rõ, cặp vợ chồng sẽ sợ rằng, người ta nghe thấy họ. Trong các điệu kiến đó nhiều khi đạt được sự hoà hợp sẽ rất khó, thậm chí không thể được.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2010 20:05:43 GMT 9
Khi mà không có các nguyên nhân, cản trở hành vi và thái độ của cặp vợ chồng yêu nhau, sự gần gũi về tình dục đem lại sự thoải mái trọn vẹn về tâm hồn và thể xác, tạo ra cho họ tình cảm tự tin vào sức lực và khả năng của bản thân, làm tăng sự hưng phấn, khả năng làm việc, đảm bảo trạng thái, mà được coi là sự toàn vẹn về tình dục. 33. Chồng: Cần chuẩn bị cho việc giao hợp ra sao? Liệu bác sĩ có lời khuyên gì đặc biệt không?
Bác sĩ: Sự chuận bị giao hợp bắt đầu sớm hơn khá lâu trước khi có trò chơi tình dục, khi hai người kích tích các khu kích dục của nhau, ôm ấp, vuốt ve lẫn nhau.
Sự gần gũi người biết rõ mình, sự chờ đợi khoái c?m khêu gợi ham muốn tình dục và hưng phấn mạnh của cả đàn ông và đàn bà. Âm điệu của giọng nói, cái nhìn âu yếm, sự giúp đỡ nhau cởi bỏ quần áo và nhiều cái khác - càng làm tăng thêm ham muốn. Ham muốn được hợp nhất tăng nhanh trong tiềm thức của cả hai người ai cũng muốn hợp nhất với người kia.
Ý nghĩa và vai trò của trò chơi tình dục sau đó khó có thể đánh giá hết được. Trong đa số các trường hợp khó hy vọng đạt được sự cực khoái của phụ nữ nếu không có sự chuẩn bị đầy đủ.
Những người đàn ông, sau khi xuất hiện sự cương cứng của dương vật, lập tức muốn đưa dương vật vào âm đạo, họ phạm sai lầm cơ bản.
Nét đặc thù trong hưng phấn tình dục của đàn ông cổ chỗ - nó càng bộc phát nhanh bao nhiêu thì lại càng nhanh dịu xuống bấy nhiêu sau khi đã đạt được cực khoái.
Sự hưng phấn tình dục của phụ nữ diễn biến khác hẳn. Nó có hung tăng chậm dẫn. Sự hưng phấn mạnh mẽ của phụ nữ do kích tích âm vật gây nên, mu nhỏ, vòm miệng, cửa vào âm đạo. Vậy sự kích tích tới các khu kích dục này là yếu tố quan trọng và không thể thiếu được của khúc dạo đầu tình yêu và giao hợp. Các vùng kích dục khác như bổ trợ cho kích thích đó. Song trong lúc giao hợp một số phụ nữ cần có sự kích tích các khu phụ cận khác, chẳng hạn như núm vú, bầu vú.
Các bộ phận khác của vùng kích dục nổi bật của phụ nữ gây ra những vấn đề về tâm lý nhất định đó là vùng hậu mông hoặc vòm miệng. Trong trường hợp sự giao hợp không thể làm phụ nữ đủ hưng phấn dẫn đến cực khoái, mà kích thích các vùng kích dục chính nhiều khi về phương diện đạo đức rất khí vượt qua được. Ðó là vấn đề không đơn giản, chỉ có sự thông cảm tuyệt đối giữa vợ chồng mới giải quyết được.
Phương pháp gây hưng phấn tình dục của phụ nữ luôn thay đổi và phụ thuộc trước hết vào thái độ với người bạn tình.
Như đã nói ở trên, âm vật nằm ở phần trên của âm hộ, ở chỗ giao nhau của mu to và mu nhỏ. Nếu người phụ nữ không bị kích tích tì âm vật (cũng như dương vật) nằm ở trạng thái hoàn toàn yên tĩnh. Khi người phụ nữ hưng phấn thì âm vật trở nên cứng giống như sự cương cứng của dương vật. Mặc dù về mặt số lượng và chất lượng giữa chúng khác xa nhau.
Rõ ràng, không thế có số liệu chính xác, bao nhiêu phụ nữ đạt được các cực khoái nhời sự kích thích âm vật và các vòng chung quanh âm vật, nhưng điều chắc chắn là hơn một nửa số phụ nữ cần có sự kích thích khu vực này, để đạt được cực khoái.
Ðiều đó có thể xảy ra khi ôm chặt, khi vùng mu bị ép chặt vào phần trên cửa âm đạo, hoặc khi mát-xa riêng âm vật. Những người phụ nữ như vật được coi là chậm kích thích và những người đó sau khi đạt được cực khoái không cần vuốt ve thêm hoặc ham muốn nào khác.
Có một số phụ nữ có cảm giác hưng phấn mạnh khi bị kích thích không chỉ âm vật mà toàn bộ các vùng các cơ quan sinh dục. Khi đưa dương vật vào âm đạo, những chuyển động mạnh (dập) sẽ dẫn tới cực khoái và khoái cảm cùng có thể tới đồng thời. Nếu như sự cực khoái của đàn ông tới trước và bắt đầu sự teo nhỏ lại của dương vật, hành động đúng nhất của người đàn ông oà phần tiếp tục dập, vì người phụ nữ cũng sẽ đạt được cực khoái.
Dù cá tính trường hợp của phụ nữ có khác mấy đi nữa sự tác động khéo léo, nhẹ nhàng của đàn ông tới các khu kích dục nói riêng và kết hợp nói chung, rất có ý nghĩa đối với giai đoạn chuẩn bị cho giao hợp. Tất nhiên, khuyên những lời khuyên cụ thể phải cư xử thế nào là rất khó.
Nhưng có thể xác định cách thức hành động, nếu khi biết rõ các đặc điểm sinh lý và tâm lý của đối tác tình dục. Ðại đa số phụ nữ thích chồng âu yếm và dịu dàng, mặc dù cũng có những người thích những nụ hôn nóng bỏng, tính khí tình dục mạnh mẽ, không có nghĩa là cần có những hạnh động thô bạo mà không phải sự âu yếm. Sự thô bạo và đau đớn chỉ phù hợp với một số ít các cặp, có lẽ không phải là qui định mà chỉ là ngoại lệ. Dù sao, sự dịu dàng, âu yếm thì phụ nữ nào mà chẳng thích.
Ðàn ông cũng như đàn bà có thể rất muốn người mình yêu sờ mó các vùng kích dục bằng tay hoặc bằng lưỡi, nhưng lại sợ, điều đó có thể bị coi như dấu hiệu của sự suy đồi, hoặc tồi tệ hơn là sự chế giễu. Trong các trường hợp, cuộc sống gia đình bị đe doạ, không nhận được điều mong muốn trong hôn nhân, các cặp vợ chồng sẽ tìm chúng ở bên ngoài.
Trong trò chơi tình dục bao gồm các tác động đa dạng tới các khu tình dục. Nhưng ở giai đoạn đầu không cần sự va chạm trực tiếp của các cơ quan sinh dục. Ðàn ông cũng như đàn bà kích tích các vùng kích dục mà không có sự va chạm tới các cơ quan tình dục. Thời điểm khơi mào diễn ra trong vòng từ 10-15 phút.
Ngay ở thời cổ Ấn Ðộ, người ta đã dạy rằng, để chuẩn bị cho việc làm tình thời gian phải dài gấp 9 lần so với thời gian làm tình. Sự thông duệ của lời khuyên đó vẫn còn có hiệu lực. Tất nhiền có thể chỉ sau 5 phút người phụ nữ đã sẵng sàng bắt đầu giao hợp, nhưng khoảng thời gian sau đó cũng đem lại cho cô ta sự khoái cảm bổ sung. Có không ít phụ nữ mà sự kích thích các vùng kích dục, trò chơi tình dục đem lại cho họ sự khoái cảm mà ngay cả sự cực khoái cũng không thể thay thế được, bởi sự cực khoái của ngững người phụ nữ này diễn ra rất nhanh. Vì vậy họ muốn kéo dài quá trình hưng phấn, để kéo dài sự xuất hiện cực khoái, đôi khi ngay cả trước khi xuất hiện cực khoái họ thích chấm dứt sự kích thích các vùng kích dục, bởi vì họ biết rằng sau cực khoái sẽ xuất hiện sự thoả mãn. Người đàn ông muốn những người đàn bà này đạt được sự cực khoái nhanh, hành động không đúng.
Ðối với những đại diện của phái yếu rất quan trọng "sự thu mình lại" mong muốn cảm nhận sự rung động bao trùm lấy họ. Người phụ nữ không trò chuyện trong lúc cực khoái, mắt cô ta nhắm lại. Ðàn ông giao hợp lúc nào cũng mở mắt và thích ngắm cơ thể phụ nữ.
Ðàn bà không phải là công cụ khoái cảm của đàn ông, mà trước hết là đối tác bình đẳng, và người chồng đang yêu đạt được sự thoả mãn về tư tưởng nếu anh ấy làm cho người vợ đạt được cực khoái. Cũng như người vợ làm cho chồng được khoái cảm cũng có được sự thoả mãn về tâm lý.
Có ý kiến cho rằng, phụ nữ hưng phấn chậm hơn so với đàn ông, điều đó về cơ bản là đúng. Nhưng cần nhớ rằng, một nửa là do các yếu tố tâm lý có liên quan tới đạo đức và thói quen của phụ nữ. Ngoài ra người ta không chời đợi sự tích cực của phụ nữ như đàn ông. Không thể quên rằng - giao hợp đó là sự gẫn gũi nhất giữa đàn ông và đàn bà, hành vi trong lúc giao hợp là khó quên được. Vì thế sự thô bạo, bỉ ổi của một ai trong 2 người trong khúc mào đầu của tình yêu khi hành động hoàn toàn do lý trí điều khiển, sẽ có ảnh hưởng tới quan hệ giữa hai vợ chồng sau này. 33. Vợ: Bác sĩ có cho rằng, người đàn ông phải sờ nắm ngực phụ nữ để cô ấy được thoả mãn trọn vẹn khi giao hợp không?
Bác sĩ: Trong đa số các trường hợp điều đó là hoàn toàn có lý.
Núm vú rất nhạy cảm với các sờ mó không chỉ của đàn ông mà ngay cả bản thân. Một số cô gái có thể tự mình làm thoả mãn bản thân bằng cách xoa bóp núm vú của mình. Bằng cách đó các cô đồng tính luyến ái có thể dùng lười hoặc sờ nắn vú của nhau để đạt được khoái cảm. 34. Vợ: Một phụ nữ buộc phải dừng cho con mút vú, vì điều đó gây cho cô ta hưng phấn mạnh. Cô ấy nói rằng có thể đạt được cực khoái do đứa bé của cô ta.
Bác sĩ: Ồ, điều đó thậm chí rất phổ biến. Giáo sư Dicsơn nói rằng núm vú cũng có thể cương cứng như bầu vú, trừ các trường hợp núm vú mềm và bằng phẳng, nhưng khi bị kích tích trở nên cứng. 35. Chồng: Liệu có sự liên quan nào giữa kích thước của bộ ngực phụ nữ với tính khí của cô ta không?
Bác sĩ: Không có sự liên quan nào cả. Ðiều đó vẫn còn là sự hồ nghi chung, ngày nay số phụ nữ muốn có được mục đích ấy, muốn có cặp vú đồ sộ ngày càng tăng. Cặp vú thực sự trở thành biểu tượng của tình dục, bộ ngực càng lớn thì càng gây được ham muốn tình dục mạnh mẽ hơn. 36. Vợ: Thưa bác sĩ, tại sao bác sĩ lại nói rằng, bô ngực lại trở thành biểu tượng tình dục của phụ nữ?
Bác sĩ: Có thể, bởi vì đó là bộ phận về mặt thể chất có sự khác biệt rõ nhất của phụ nữ so với đàn ông. Cặp vú của phụ nữ cũng giống như dương vtt của nam giới là biểu tượng của hai giới nhờ việc dễ nhận thấy chúng. Bộ ngực trở thành biểu tượng cũng vì lẽ ở phụ nữ không có các bộ phận sinh dục khác mà mắt thường c' thể nhìn thấy được, nên bộ ngực nghiễm nghiên thu hút sự chú ý của đàn ông đối với sự khác biệt duy nhất mà phụ nữ có được. 37. Chồng: Tại sao việc khoả thân bộ ngực thường bị coi như sự quyến rũ hoặc không lịch sự cho lắm?
Bác sĩ: Ðể hiểu thật sự rõ ràng trong vấn đề này tôi cần phải nói rằng, điều đó không phải có liên quan chỉ riêng những nước có văn hoá mà cũng không đôi riêng với một nước nào cả. CÁc chuẩn mực đạo đức ngay cả trong môt. nước cũng khác nhau, bở ingay cả việc để hở ngực, có nơi họ tán thành việc để hở ở chỗ này, có nơi lại cho rằng nên để hở ở chỗ khác. Chúng ta nói tới việc hở ngực trong một xã hội bình thường ngay cả khi trong nội bộ xã hội đó áp dụng các nguyên tắc hoàn toàn khác nhau trong việc để hở ngực, trong những điệu kiện nhất định.
Chúng ta lấy môt. ví dụ, chẳng hạn như phòng trào của những người khoả thân hoàn toàn. 38. Chồng: Bác sĩ có cho rằng, sự khoả thân hoàn toàn cặp vú của phụ nữ gây kích tích về mặt tình dục không?
Bác sĩ: Tất cả phụ thuộc vào các điều kiện, khi diễn ra điều đó. Trong trại những người khoả thân hoàn toàn, chẳng hạn, điều đó không hề tạo nên một sự sửng sốt nào cả, trừ những người mới nhập trại, mà cũng chỉ trong một thời gian ngắn. Cuối cùng thì vú cũng chỉ là vú, nếu được nhìn nó thoả thích, nó cũng không gợi dục gì hơn chân và tay. Nhưng dù sao, vú đối với đàn ông vẫn là bộ phận thích thú hơn so với các bộ phận khác của cơ thể, vì thế như tôi đã nói, vú là bộ phận của nữ giới rõ rệt. Anh chị cũng cần hiểu rằng, có sự khác nhau giữa việc nhìn cặp vú phụ nữ từ góc độ vẻ đẹp nghệ thuật hay các mô-tip tình dục. 39. Vợ: Liệu sự lộ liễu đó có làm người ta nghĩ xấu về người làm việc đó không?
Bác sĩ: Không hẳn như thế, nhưng không nên như thế. Nếu mà như thế thì có lẽ tất cả những người hở ngực trên thế giới đều là những người suy đồi nhất, trong khi đó nhiều dẫn chứng thực tế lại chứng minh rằng những người suy đồi nhất là những người mặc quần áo kín đáo nhất. 40. Vợ: Nếu như núm vú của phụ nữ tịt sâu vào trong bầu vú hoặc không có núm vú rõ rệt thì liệu chỗ đó có thể hưng phấn được khi đàn ông sờ năn vào đí không hoặc dùng lười để kích thích?
Bác sĩ: Rất đúng, có thể được, sự thoả mãn cao trong các trường hợp này có thể đạt được bằng cách cắn nhẹ. Ðiều đó tạo cho phụ nữ cảm giác dễ chịu. 41. Chồng: Liệu dùng cách cắn nhẹ có làm hưng phấn núm vú ở dạng bình thường không?
Bác sĩ: Ðiều đó gây hưng phấn rất mạnh đối với các núm vú, cũng như âm vật đã được kích thích. Cả hai bộ phận này rất nhạy cảm và có phản xạ mạnh khi dùng miệng cắn. Tất nhiên, việc đó cũng tuỳ thuộc vào từng phụ nữ cụ thể. Một số người không cảm thấy khoái cảm bằng cách đó, trong khi đó những người khác có tính khí yếu hơn do không kìm giữ được khoái cảm có thể mím chặt miệng hoặc kêu lên. 42. Chồng: Không biết một số đàn ông nghĩ rằng sờ nắn và hôn các cặp vú của các bà vợ là không hay lắm không? Một người đàn ông nói với tôi rằng anh ta cho đó là sự tồi bại?
Bác sĩ: Vâng, anh nói đúng. Việc tán thành hay không tán thành nhiều hành vi gợi dục dựa trên trình độ học vấn con người. Ðiều đó có vẻ hơi lạ lùng, nhưng sự tổng kết các tài liệu chỉ ra rằng, những hành vi như đã nói ở trên thường phẩ biến ở những người mà giáo sư Kindi gọi là "lớp trên" (có trình độ) và những người đàn ông ở "lớp dưới" có ít hơn. 43. Vợ: Liệu cặp vú của các cô gái đồng tính luyến ái có sức quyến rũ đối với đàn ông không?
Bác sĩ: Theo quy luật thì đúng là như vậy. Mặc dù nhiều ví dụ chỉ ra rằng nhiều cô gái đồng tính luyến ái không tích các cô bạn tình sờ nắn vú họ. Người phụ nữ mà không thích được người khác sờ, hôn vú của họ là những bạn tình có tính nam giới. Người phụ nữ này là đối tác rất tích cực, đóng vai trò của nam giới. Cô ta, rõ ràng sẽ có lợi thế khi cắn hoặc sờ vú của đối tác tình dục, mặc dù cô ấy không cho đối tác sờ vú cô ta. 44. Vợ Lẽ nào một phụ nữ lại có thể quan tâm tới vú của một phụ nữ khác. Ðiều đó luôn làm cho tôi thấy ngạc nhiên, thưa bác sĩ?
Bác sĩ: Có rất nhiều nguyên nhân. Mỗi trường hợp đều có những nguyên nhân đặc biệt. Trường hợp thường hay gặp là việc cho con ngừng bú mẹ quá sớm. Ðứa trẻ không phản đối, khi người ta tách nó khỏi vú mẹ. Vì thế kinh nghiệm đó gây tác hại cho người phụ nữ trong tương lai và không ph ải mọi phụ nữ đều quên được điều đó. 45. Chồng: Bác sĩ có nói rằng, người phụ nữ phải làm hở vú trong bầu không khí gần gũi càng nhiều càng tốt không? Tôi muốn nói đến các bà vợ.
Bác sĩ: Tôi sẽ dành vài phút để nói về việc khoả thân trong hôn nhân, nhưng sau đây, khi chúng ta sẽ bàn tới nó. 46. Vợ: Tôi xin trích lời bác sĩ nói rằng, mỗi người vợ cần p hải quan tâm giữ gìn cho cặp vú của mình có sức quyến rũ.
Bác sĩ: Nếu cô ta muốn giữ gìn được tình yêu của chồng mình thì đó hoàn toàn đúng. Ðiều đó nhắc tôi một việc mà tôi quên chưa nói với anh chị: đàn ông quan tâm tới hình dáng của cặp vú phụ nữ cũng như kích thước của nó. Các cặp vú to thường xệ xuống cùng năm tháng làm mất vẻ quyến rũ trước đây. Vì vậy người đàn ông có bà vợ có vú to cũng không có ưu thế gì hơn. Các cặp vú có kích thước vừa hoặc nhỏ có thể có sức cuốn hút hơn đối với nam giới, nếu như người phụ nữ biết quan tâm giữ gìn hình thức của chúng, dùng áo lót tốt, nếu cần có các bài tập thể dục phù hợp. Có nhiều phương pháp khác nhau để khôi phục vẻ đẹp và hình dáng của cặp vú phụ nữ. Mỗi người cần hỏi về vấn đề này ở các bác sĩ, tốt nhất là các bác sĩ phụ khoa. 47. Vợ: Bác sĩ có thể nói về các loại kem có chứa các hoóc môn. Tôi đọc nhiều về việc chúng có thể làm to các kích thước của vú. Liệu các loại kem này có làm cho vú tăng sự quyến rũ đối với đàn ông không?
Bác sĩ: Các biện pháp được gọi là hoóc môn, nói cách khác, chúng đều vô hiệu. Ðúng ra chúng có thể đem lại lợi ích nào đó cho một số phụ nữ, nhưng chỉ đối với những người bị thiếu hoóc môn. Bằng chứng là các cơ quan tình dục thứ yếu không phát triển đầy đủ: không chỉ vú bé, cổ tử cung hẹp và âm đạo nhỏ. Các loại thuốc này không những vô tác dụng mà còn có thể nguy hiểm tới tính mạng hoặc gây ra vô sinh. Tôi không định doạ dẫm chị đâu, chị tứ thử nhờ bác sĩ kiểm tra nhằm làm rõ việc chữa trị này có đem lại lợi ích gì không. Chị có thể thấy rằng các loại kem này có tác dụng tốt như đã nói khi họ quảng cáo, thì xung quanh ta chắc chắn sẽ không còn những người có vú bé nữa, tất nhiên ở nơi như các xưởng phim những diễn viên có cặp vú to được đánh giá cao. Song cũng còn những người khác có cặp vú trung bình hoặb bé nữa. 48. Vợ: Có thể trả lại hình dáng đẹp cho những người phụ nữ có cặp vú to quá cỡ không?
Bác sĩ: Có thể, có một số phương pháp làm cho vú bé lại và có hình dáng đẹp hơn. Trong đó có cả sự can thiệp bằng phẫu thuật nữa nhưng chỉ là các ca phẫu thuật đơn giãn, không để lại các sẹo gây khó chịu. Mới đây người ta dùng phương pháp mới để nâng các cặp vú to bị sệ bằng một dụng cụ này rất mềm mại, không gây viêm nhiễm, khi ca phẫu thuật kết thúc. Ca mổ được tiến hhành từ phía dưới vú nên không nhìn thấy sẹo. Cặp vụ được n âng cao tuỳ ý và sẽ định hình tại đó. 49. Vợ: Thưa bác sĩ, điều đó có nghĩa là, đa số các vấn đề có liên quan tới bộ ngực của phụ nữ đều có thể bằng cách này hay cách khác giải quyết được có phải không?
Bác sĩ: Ðúng vậy. Nếu như người phụ nữ muốn trở thành bạn tình đầy quyến rũ đối với đàn ông, cô ta phải sử dụng các ưu thế có sẵn bẩm sinh từ kích thước cho tới hình dáng, nếu như cô ta không có ưu thế gì nổi bật thì cô ấy phải làm tất cả những gì có thể để cải thiện những gì mà cô ta sẵn có.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2010 20:06:36 GMT 9
51. Chồng: Thưa bác sĩ, điều gì diễn ra trong các cơ quan tình dục của đàn ông và đàn bà trong lúc giao hợp?
Bác sĩ: Hành vi tình dục của con người bị chi phối bởi một mục đích chính - đạt được sự thống nhất về tình dục. Các thay đổi về sinh lý và nội tạng diễn ra trong cơ thể con người khi giao hợp rất đa dạng. Các biểu hiện bên ngoài dưới dạng kích thích tình dục, sự cương cứng, phóng tinh và cực khoái - không phải là gì khác ngoài các phần riêng biệt trong hệ thống phản xa thống nhất về hành vi của con người.
Trong lúc giao hợp có thể chia làm vài thời kỳ nối tiếp nhau ở đàn ông cũng như ở đàn bà. Trong từng thời kỳ có những thay đổi nhất định trong các cơ quan sinh dục và trong cơ thể nói chung. TRong nhiều trường hợp nhiều giai đoạn có thể không xuất hiện. Chẳng hạn vì những nguyên nhân nào đó mà mất sự kích thích, thì giao hợp có thể kết thúc sớm không có giai đoạn cực khoái.
Trong giai đoạn hưng phấn cả hai người chủ yếu sử dụng các hành động vuốt ve ôm ấp, hôn, những lời yêu đương, sự đúng chạm tới cơ thể khoả thân. Các cơ quan sinh dục phát triển độ nhạy cảm, đặc biệt qui đầu dương vật và âm vật. Ở cửa vào âm đạo tiết tr dịch nhầy. Ðàn ông bắt đầu sự cương cứng của dương vật, mặc dù độ cương cứng chưa đủ để đưa dương vật vào âm đạo.
Nhân tố chủ yếu, cần thiết cho giao hợp là sự cương cứng của dương vật. Cương cứng - là quá trình phản xa có điều kiện. Dùng nỗ lực của ý chí không thể làm xuất hiện sự cương cứng được. Ngoài ra, càng tỏ ra cố làm cương cứng dương vật có thể làm tắt ngấm hoặc kìm hãm quá trình cương cứng.
Quá trình hưng phấn chuyển thành quá trình căng thẳng nhất về tình dục. Lúc đó sự cương cứng dương vật của đàn ông trở nên rõ hơn. Ở các mu nhỏ của phụ nữ dồn máu đến, làm phồng các mu này to gấp vài lần so với bình thường và có màu đỏ sẫm. Thành âm đạo tiết ra dịch nhờn làm ướt âm đạo. Ðàn ông ham muốn được đưa dương vật và âm đạo và đàn bà muốn được tiếp nhận dương vật.
Bắt đầu sự chuyển động của các cơ (dập) làm hưng phấn các vùng kích dục của cả hai người.
Sự kích thích của âm vật diễn ra từ từ, chậm hơn nhiều so với sự cương cứng của dương vật đàn ông. Âm vật to dần lên và trở nên rất nhạy cảm. Yếu tố tâm lý rất quan trọng trong việc kích thích âm vật, nhiều khi việc kích thích đầu và vùng xunh quanh âm vật làm cho âm vật cương hơn so với yếu tố tâm lý. Ðiều đó giải thích cho những trường hợp khi người phụ nữ đạt được sự cực khoái với người đàn ông được cô ta yêu hoặc lựa chọn. Trong lúc giao hợp ít có trường hợp dương vật cọ xát trực tiếp với âm vật (trừ trong tư thế "phụ nữ ở trên"). Nhưng thường thì sự cọ xát như vậy cũng chưa đủ nên cả đàn ông hoặc đàn bà phải có sự kích thích bổ sung đầu âm vật.
Các chuyển động giao hợp ngày càng tăng và bắt đầu giai đoạn khoái cực, trung bình từ lúc bắt đầu giao hợp cho tới lúc đạt được cực khoái thường là 3-4 phút. Nhưng đó cũng chỉ là số liệu tương đối, đôi khi đặc biết khi gặp nhau sau một thời kỳ xa cách hoặc các cặp vợ chồng trẻ mới lấy nhau cực khoái có thê/ diễn ra nhanh hơn, đồng thời các cuộc giao hợp lại có thể làm dài thêm giai đoạn cực điểm tình dục. Ở thời điểm cực khoái ở các cơ vùng hậu môn, tuyến nước đái hoặc vùng tiền tử cung của phụ nữ có hiện tương co lại tự nhiên. Có thể mặt đỏ lên, các tuyến vú cứng lại, đầu vú phồng lên, nhưng ngay sau khi đạt được cục khoái trở nên mềm. Nếu núm vú vẫn cứng, điều đó chứng tỏ người phụ nữ không đạt được cực khoái. Trong cực khoái của phụ nữ cũng phân chia làm 3 thời kỳ. Ở thời kỳ đầu, kéo dài rất chớp nhoáng, dường như sự nhạy cảm có sự dừng lại, sau đó xuất hiệm cảm giác man mát hoặc tiết dịch. Hiện tượng đó giống như sự phóng tinh của phụ nữ. Sau đó chuyển sang thời kỳ hai bắt đầu vùng xương chậu. Sau đó lan ra khắp cơ thể cảm giác ấm nóng. Thời kỳ thứ ba bắt đầu sự co thắt tử cung và vùng xương chậu. Người ta cho rằng nếu người phụ nữ cảm thấy 8-12 lần co thắt là cực khoái mạnh còn từ 3-4 lần là cực khoái vừa phải.
Có hai dạng cực khoái khác nhau: - Cực khoái do kích thích âm vật, do va chạm vào âm vật. - Cực khoái do dương vật được đưa vào và chuyển động trong âm đạo. Nhưng điều đó không có nghĩa là khi cực khoái âm đạo không cầm tác động vào âm vật. Ða số phụ nữ cho rằng họ đạt được cực khoái mạnh nhất khi đồng thời đưa dương vật vào âm đạo và đồng thời kích thích âm vật hoặc các vùng kích dục khác. Vì thế khi người ta cho rằng 2 dạng cực khoái đối lập nhau là không đúng.
Khi giao hợp ở vỏ não của thần kinh trung ương truyền đến nhiều kích thích khác nhau không những do tác động trực tiếp tới các vùng kích dục, mà còn do dáng vẻ bên ngoài của người bạn tình, các chuyển động, cử chỉ, giọng nói, lời lẽ của anh ta... Nhiều đôi vợ chồng thường sử dụng làn điệu hoặc bản nhạc quen thuộc để gợi cảm xúc hưng phấn. Tất cả điều đó cho ta biết rằng, hệ thống phản xạ có điều kiện có ý nghĩa rất quan trọng để đạt được cực khoái bằng sự vuốt ve, các nụ hôn hoặc sự ôm ấp mà không cần đưa dương vật vào âm đạo hoặc tác động tới âm vật.
Trong thời điểm cực khoái các cơ niệu đạo của đàn ông co thắt lại để đẩy tinh dịch ra ngoài. Tinh dịch phụt ra với khoảng cách 0,8 giây, sau 3-4 lần co thắt sức mạnh và tần số co thắt giảm dần. Tinh hoàn và bọng đái cũng tham gia giao hợp. Các cơ của bầu dái co lại, tinh hoàn được nâng lên do sự co lại tự nhiên của các cơ treo. Ðiều đó cho phép người đàn ông thực hiện việc phóng tinh đầy đủ hơn (trọn vẹn hơn).
Trong thời gian cực khoái, người đàn ông có cảm giác nhất định phải phóng tinh và không kìm giữ được. Trong thời điểm đó độ nhạy cảm dường như biến mất, sau đó xuất hiện khoái cảm rất rõ nét. Nếu việc phóng tinh đã bắt đầu thì bằng ý chí, người đàn ông cũng không thể ngăn cản được. Khoái cảm cao nhất đạt được nếu người đàn ông giao hợp với người phụ nữ anh ta yêu, khi tinh dịch được hồi phục lại đủ lượng cần thiết (khoảng 2-3 ngày sau lần phóng tinh sau cùng). Nếu người đàn ông sinh hoạt tình dục với khoảng cách quá ngắn thì khoái cảm của những lần phóng tinh về sau càng giảm sút hơn. Ở người phụ nữ thì những lần cực khoái càng về sau càng mãnh liệt hơn những lân trước.
Ðạt được cực khoái sẽ đem lại cho cả hai người cảm giái thoải mái về cả tinh thần và thể chất. Nói một cách bóng bây như phụ nữ sau khi đạt được cực khoái nói: "Mỗi tế bào trong cơ thể tôi đều được thoả mãn".
Ngược lại, trong khi giao hợp nếu không đạt được cực khoái, có thể làm giảm sự sảng khoái, tăng sự bực bội, gây ra những cảm giác kh chịu ở các cơ quan sinh dục. Khi cực khoái, trong cơ thể diễn ra những thay đổi rất quan trọng. Nhịp tim đôi lúc lên tới 180 nhịp/phút (giống như các vận động viên khi căng thẳng về thể lực) huyết áp tăng 40-80 mililit của cột đo bằng thủy ngân, tăng sự tuần hoàn của phổi...
Sau cực khoái đến giai đoạn phát triển ngược lại. Ở giai đoạn này xuất hiện sự thả lỏng của toàn bộ cơ thể, sự cương cứng mất đi, hơi thở trở lại bình thường, màu da trở lại như cũ, xuất hiện mong muốn được nghỉ ngơi. Sự đụng chạm tới các vùng kích dục có thể gây cảm giác khó chịu.
Khả năng hưng phấn tình dục tiếp theo mang tính cá thể, thường ở đàn ông hay xuất hiện sau khi đạt được cực khoái khoảng vài giờ.
Tất cả các giai đoạn được miêu tả ở trên thường không phải lúc nào cũng được bộc lộ rõ nét, chúng có thể diễn ra rất nhanh và lập tức chuyển sang giai đoạng khác. 52. Chồng: Thưa bác sĩ, người đàn ông hoặc đàn bà phải làm thế nào, nếu như một người muốn được giao hợp, còn người kia lại không thích, chẳng hạn do mệt hoặc ốm đau.
Bác sĩ: Sau khi xuất tinh và cực khoái, xuất hiện giai đoạn không hưng phấn tình dục, khi mà không có bất cứ sự kích thích nào tới các vùng kích dục có thể tạo ra sự hưng phấn được. Vai trò sinhlý của người đàn ông là thụ tinh cho phụ nữ. Cih? có tinh trùng của lần đầu tiên là khoẻ mạnh nhất, tinh trùng của các lần sau kít có khả năng làm thụ thai được.
Vì vậy, nếu sau khi phóng tinh không có ham muốn tình dục thì nó sẽ xuất hiện sau đó một thời gian. Phải biết chờ đợi.
Nếu phụ nữ không sẵn sàng giao hợp, mà đàn ông lại ham muốn thì đơn giản hơn. Có thể bằng cách bôi nước bọt hoặc vadơlin vào các cơ quan sinh dục. Nhưng cần nhớ rằng sự thiếu ham muốn hoặc không có dịch nhờng tiết ra của phụ nữ trong lúc giao hợp là điều bất ổn trong sinh hoạt tình dục. Nếu người đàn ông có sự cương cứng của dương vật, những lo lắng đó đều vô căn cứ - khi đàn bà vuốt ve sẽ xuất hiện sự cương cứng. Ðộ dài của cuộc giao hợp trong các trường hợp này có thể kéo dài hơn bình thường nếu người đàn ông có ham muốn giao hợp mạnh mẽ.
Còn nếu nói về bệnh tật, ở đây theo tôi mọi việc đều rõ ràng, khi người ốm, sẽ chẳng còng lúc nào mà nghĩ tới sinh hoạt tình dục nữa. 53. Vợ: Thưa bác sĩ, liệu có thể cho rằng mục đích chính của hôn nhân là để duy trì nòi giống không?
Bác sĩ: Thường là thế. Có một vài ngoại lệ. Chẳng hạn như các cặp vợ chồng có tuổi, đã qua tuổi sinh đẻ, những cặp vợ chồng có một hoặc hai người bị vô sinh và các trường hợp khác. 54. Chồng: Ðiều đó có nghĩa là bác sĩ cho rằng hoàn toàn bình thường nếu người ta lập gia đình ngay cả khi họ không thể có con được?
Bác sĩ: Tất nhiên. Một số người khẳng định rằng hôn nhân tồn tại chỉ để duy trì nòi giống. Tất nhiên, những người đó có quyền có các quan điểm như vậy, nhưng rất may là họ chỉ được mốt số ít người chia sẻ quan điểm đó mà thôi. 55. Chồng: Ngoài ra, thưa bác sĩ, ông có cho là bình thường khi các cặp vợ chồng sử dụng các biện pháp tránh thai, khi không muốn có con không?
Bác sĩ: Tất nhiên là đúng. Kế hoạch hoá gia đình là cần thiết trong xã hội phức tạp của chúng ta. Trong nhiều trường hợp đó là biện pháp duy nhất để ngăn chặn việc sinh ra trong một gia đình một đứa trẻ không bình thường. Những đứa trẻ đó chẳng đem lại mọi niềm vui nào cả. Trong trường hợp tốt nhất, chúng có thể bị tù tội, quản thúc. Ðó là lời bình luận đáng buồn, đôi khi tình trạng sức khoả của phụ nữ tới mức các lần sinh nở tiếp sau có thể đe doạ tính mạng của họ. 56. Vợ: Thưa bác sĩ, ông nói rằng, không nên quên các đòi hỏi về tình dục, ông muốn nói tới cả đàn ông và đàn bà? Bản thân tôi biết một số phụ nữ, họ nói với tôi rằng, họ sống rất thoải mái mà không cần tới đàn ông.
Bác sĩ: Ðúng vậy, có một số phụ nữ, kể cả những người đã có chồng tuyên bố như vậy. Việc nghiên cứu kỹ càng sinh hoạt tình dục của họ với đàn o6ng chỉ ra một số hình thức đè nén tình dục. Ðôi khi họ không coi đó là hình thức thoả mãn tình dục và vì thế có ý thức hoặc vô ý thức họ tự lừa dối bản thân. Có những phụ nữ có ham muốn tình dục yếu và họ thoả mãn bằng một lần giao hợp trong ba tháng, hoặc đôi lúc một lần trong một năm. Một số người có quan hệ lén lút với tình nhân, nhưng lại không muốn thừa nhận các quan hệ ấy, khi họ chưa bị bắt quả tang. Những lời tuyên bố theo kiểu đó từ phía một số các phụ nữ và đặc biệt những người đã có chồng thường được phát ngôn trên cơ sở tâm lý. Chẳng hạn, họ muốn tạo ra cảm giác rằng họ rất đoan chính và cho rằng tình dục là ghê tởm. Nhiều người đàn ông sau khi đối mặt với những phụ nữ đó, có thể trở lại những điều hoàn toàn trái ngược. 57. Chồng: Liệu có phương pháp tránh thai nào đảm bảo được 100% không?
Bác sĩ: Có lẽ, không có. Nhưng có một số phương pháp rất gần với tỷ lệ đó. Một số bác sĩ khẳng định rằng việc sử dụng đúng bao cao su đảm bảo hiệu quả 100%. Bao cao su cần phải được kiểm tra trước khi sử dụng. Các bao mới có thể thổi thành bóng và bất cứ lỗ thủng nào cũng có thể phát hiện được.
Nạo thai là một biện pháp rất nguy hiểm đối với phụ nữ. Bất cứ cuộc nạo thai nào, thậm chí dù được làm ở các cơ quan y tế, có thể gây ra các quá trình viêm nhiễm mà không có bất kỳ triệu chứng nào hết. Khi có thai, cơ thể của người phụ nữ chuẩn bị cho việc sinh nở, diễn ra việc thay đổi các hoạt động trong cơ thể. Nạo thai làm gián đoạn đột ngột quá trình sinh lý bình thường. Ðiều đó không thể không có ảnh hưởng tới sức khoẻ của người phụ nữ. Ngoài ra trong lúc nạo thai diễn ra việc nạo vòm tử cung bằng dụng cụ đặc biệt, điều đó dẫn tới những thay đổi loạn dưỡng của vòm tử cung và những quá trình viêm nhiễm có thể xảy ra trong vòi trứng. Quá trình viêm nhiễm trong vòi trứng có thể phá hoại khả năng co bóp, làm xuất hiện các mép dính cản trở chuyển động của trứng và khả năng gặp gỡ với tinh trùng của chúng. Ðây chính là sự xuất hiện vô sinh. Chính vì thế mỗi một phụ nữ cần phải làm quen với các phương pháp tránh thai phụ thuộc vào tình trạng sức khoẻ của phụ nữ, cấu tạo sinh lý của các cơ quan sinh dục, vị trí của chúng ở xương chậu nhỏ, các điệu kiến sống, lao động và nhiều yếu tố khác nữa. Phương pháp sinh học là một trong những phương pháp khá phù hợp do hai nhà bác học, ông Claus người Séc và ông Ôgiô người Nhật đề ra vào những năm 40 của thế kỷ qua. Phương pháp này dựa trên nguyên tắc: trong một kỳ kinh nguyệt của phụ nữ có những ngày thuận lợi cho việc thụ tinh và có những ngày khó có thể xảy ra thụ tinh. Những ngày thuận lợi để thụ tinh được coi là những ngày sát ngày rụng trứng, có nghĩa là vào khoảng giữa ngày 11 đến ngày 17. Vào những ngày khác rất hiếm xảy ra thụ tinh. Sự đảm bảo 100% rằng trong thời kỳ khác cũng không thể thụ tinh được càng khó, nhưng nhiều cặp vợ chồng sự dụng biện pháp sinh học để tránh thai rất có hiệu quả.
Như mọi người đều biết, trứng rụng ra khỏi buồng trứng chỉ có thể thụ tinh được trong vòng 1 ngày, còn tinh trùng chỉ có khả năng sống trong âm đạo không quá 2 ngày. Vì vậy có thể dễ dàng lập lịch những ngày an toàn có thể giao hợp mà không sợ có thai. Cần biết rằng phương pháp tránh thai này chỉ sử dụng trong các trường hợp khi vòng kinh đều và hơn 20 ngày (vòng kinh dưới 20 ngày thì không thể sử dụng được phương pháp này).
Xác định ngày nào là ngày "an toàn" và ngày "không an toàn" bằng cách: lấy ngày của vòng kinh trừ đi 18 ngày (đó sẽ là ngày cuối cùng của thời kỳ "nguy hiểm nhất", chẳng hạn vòng kinh thường kỳ của phụ nữ là 30 ngày, có nghĩa là toàn bộ thời kỳ nguy hiểm kéo dài từ ngày 12 đến ngày 19 của vòng kinh.
Ðôi khi có thể sử dụng phương pháp sinh học với các vòng kinh khác nhau trong năm, song lúc đó thời kỳ "nguy hiểm" trở nên ngắn hơn. Có thể bằng cách lấy vòng kinh kéo dài nhất trừ đi 18 ngày, còn vòng kinh ngắn nhất trừ đi 11 ngày. Chẳng hạn vòng kinh ngắn nhất trong năm là 24 ngày, ngày dài nhất là 50 ngày có nghĩa là thời kỳ "nguy hiểm" sẽ là từ ngày thứ 6 đến ngày 19 giữa hai kỳ kinh nguyệt.
Trong những ngày có khả năng thụ tinh cao, cần sử dụng các biện pháp tránh thai khác, tốt nhất là phương pháp cơ học - sử dụng bao cao su. Trong những năm gần đầy người ta sử dụng các hoóc môn, thuốc viên, huyết thanh tránh thai... Các loại thuốc viên có tác dụng tạo ra trong cơ thể các hoóc môn có tác dụng kìm hãm không cho trứng chín và rụng trứng. Có nhiều thay đổi trong các cơ quan sinh dục của phụ nữ, nhưng chúng hoàn toàn vô hại đối với cơ thể.
Loại thuốc nào phù hợp với người đàn bà này hay người đàn bà khác là do bác sĩ phụ khoa quyết định. Tự động dùng thuốc không cần lời khuyên của bác sĩ là không nên. Ngày nay hàng triệu phụ nữ trên thế giới sử dụng phương pháp tránh thai sinh học. Hiệu quả của nó cũng rất cao. Nhưng cũng thường xuyên nhớ uống thuốc viên, do những bận rộn hàng ngày, các bà có thể quên uống hoặc quên mua thuốc đúng lúc.
Nhằm tránh thai cũng có thể sử dụng một phương pháp đơn giản và có hiệu quả là rửa tinh trùng ra khỏi âm đạo ngay sau khi giao hợp. Tinh dịch sau khi phóng tinh có sang kết dịch sau đó cô đặc lại trong vòng khoảng 10 phút lúc này tinh trùng không chuyển động nên tận dụng thời điểm này đẩy tinh dịch ra ngoài.
Sau khi giao hợp, người phụ nữ ở tư thế "ngồi xổm" rửa âm đạo bằng nước ấm. Cho thêm vào nước một chất nào giết tinh trùng bằng cách tạo môi trường axít vì tinh trùng chỉ có thể di động trong môi trường kiềm.
Có thể dùng các dung dịch sau: 2 thìa canh dấm (đã pha với 1 lít nước), một thìa canh thuốc tím 2% với 1 lít nước, 1 thìa canh axít salixilit với một lít nước, 2 thià con bột axít bôrít với 1 lít nước, thuộc Gramixibin với tỷ lệ 1:1000 (1 gram / 1 lít nước).
Có vô số các loại thuốc tránh thai hoá học. Chúng được dùng dưới dạng bi, đặt vào âm đạo trước khi giao hợp. Vỏ bọc ngoài của chúng dưới ảnh hưởng của thân nhiệt sẽ tan ra và các hoá chất này làm cho tinh trùng mất khả năng thụ tinh. Một số phụ nữ cắt một lát chanh mỏng đặt vào âm đạo trước khi giao hợp như một phương pháp tránh thai. Hiệu quả của nó khá tốt và hoàn toàn vô hại đối với sức khoẻ.
Các phương tiện tránh thai cơ học cũng được sử dụng rộng rãi. Mục đích của các phương pháp này là ngăn sự thâm nhập của tinh trùng vào tử cung. Ðàn ông sử dụng bao cao su theo phương pháp do bác sĩ người anh Cônđom đề ra từ thế kỷ XVII.
Ngày nay bao cao su được làm từ cao su tự nhiên rất mỏng và các nguyên liệu tổng hợp khác. Bao cao su đảm bảo tráng thai có khi tới 100% (trong trường hợp bao cao su bị rách thì người phụ nữ cần thục rửa âm đạo). Khi sử dụng bao cao su cần tuân thủ các điều kiện sau: bao cao su không được để quá 2 năm, trước khi sử dụng phải thử bằng cách thổi, cho bao cao su vào dương vật phải đến tận cùng từ chỗ đựng tinh dịch. Trước khi sử dụng nên bôi mặt ngoài mỡ vadơlin để tránh cho bao khỏi bị rách.
Nhiều cặp vợ chồng từ chối không dùng bao cao su, họ cho rằng chnng làm giảm cảm giác. Nhược điểm của bao cao su là khi dùng chúng làm mất tác dụng tích cực của hoóc môn tình dục trong tinh dịch đối với sự cực khoái của phụ nữ. Nhưng dù sao bao cao su trong nhiều trường hợp là phương ph áp tiện lợi để tránh thai. Chẳng hạn, sau khi xa cách lâu ngày, khi sự ham muốn khó kìm hãm được bằng lý trí hoặc không có thời gian để chuẩn bị cho việc thụt rửa, trong lúc nghỉ phép, khi không có các điều kiện cần thiết đề phòng tránh thai, hoặc khi có ccc quan hệ tình dục vô tình nhằm tránh khả năng bị lây bệnh...
Bao cao su cũng rất có lợi đối với đàn ông hay bị phóng tinh nhanh, chúng làm giảm bớt độ nhạy cảm của đầu dương vật (dùng bao cao su chỉ khi dương vật có độ cứng tốt). Ngoài ra, bao cao su còn là phương tiện phòng chống có hiểu quả bệnh SIDA (AIDS).
Trong số các biện pháp cơ học còn có phương pháp đặt vòng tránh thai, chúng tạo thành vách ngăn trước cổ tử cung, các vòng này được làm bằng cao su mỏng, có vòng mềm còn vành cứng xung quanh. Bác sĩ hoặc bà đỡ sẽ dạy cho phụ nữ tự đặt vòng, trước khi đặt vào nên bôi qua mỡ Gramisilin.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 28, 2010 20:07:29 GMT 9
57. Vợ: Thưa bác sĩ. Nhiều phụ nữ đặt vào tử cung "dây mayxo", những người khác sợ, cho rằng chúng có thể gây ra viêm nhiễm tử cung. Có phải vậy không?
Bác sĩ: Ý tưởng dùng dụng cụ bên trong tử cung không phải là mới mẻ.
Nhưng sử dụng những dụng cụ tương tự... trước đây bị gián đọan do thiếu các dụng cụ cần thiết.
Chỉ sau khi các thành tựu của hoá học dẫn đến việc sản xuất các vật liệu ma sát bằng chất dẻo tổng hợp thì phương pháp này thuận tiện hơn so với các phương pháp khác ở chỗ: không cần thường xuyên uống thuốc, đặt thuốc, thụt rửa trước hoặc sau khi giao hợp.
Chỉ cần một lần đặt vòng có tác dụng trong một vài năm. Dụng cụ bên trong tử cung có độ dày 1-2 milimet. Trước khi sử dụng nó ở dạng sợi chỉ. Sau khi được đưa vào tử cung nó sẽ không ở dạng ban đầu mà ở dạng dây mayxo hoặc bản lề. Dụng cụ này được đưa vào tử cung vào những ngày đầu tiên của chu kỳ hanh kinh. Việc đưa dụng cụ này vào tử cung do những bác sĩ có chuyên môn thực hiện. Trong những ngày đầu tiên phụ nữ có thể bị cảm giác khó chịu ở bụng dưới, cảm giác này sẽ nhanh chóng bị mất đi. Trong những ngày này phụ nữ không được làm lao động nặng.
Cơ cấu hoặc của dụng cụ bên trong tử cung dựa trên cơ sở, sau khi được đặt vào tử cung chúng sẽ làm tăng nhanh chuyển động của trứng trong ống dẫn trứng vì thế mà trứng sẽ không kịp chín. Người ta cũng cho rằng phương pháp này cản trở việc làm ổ của trứng nơi cổ tử cung.
Nhưng không phải tất cả mọi phụ nữ đều có thể đặt được dụng cụ này. Có những phản ứng do quá trình viêm nhiễm các cơ quan sinh dục. Các dụng cụ này cũng không nên sử dụng khi bị rối loạn chu kỳ kinh nguyệt. Những người phụ nữ chưa sinh nở lần nào cũng không nên đặt dụng cụ này bở vì trường hợp này đặt dụng cụ sẽ rất khó khăn. Sau khi nạo thai phải đặt sau khi có kinh nguyệt rồi mới được đặt dụng cụ này, còn sau khi sinh đẻ phải sau ít nhất 3 tháng. Việc đặt dụng cụ bên trong tử cung có thể loại bỏ được bệnh hẹp tử cung, vì vậy sau khi tháo vòng sẽ làm tăng khả năng có thai. Khi cần tháo bỏ dụng cụ này chỉ cần đến các trạm xá phụ nữ là tháo được.
Hiệu quả của phương pháp này đạt 95-98%. Dụng cụ này có thể nằm trong tử cung 2-3 năm. Sau khi tháo bỏ thì phải 2-3 tháng sau mới có thể đặt được vòng mới. Nhiều phụ nữ rất thích dụng cụ tránh thai bên trong tử cung vì nó cho phép sinh hoạt tình dục thoải mái, và khi giao hợp toàn bộ ý nghĩ của 2 vợ chồng nhằm thoả màn ham muốn tình dục của nhau. 58. Vợ: Tôi thấy nhiều cặp vợ chồng sử dụng phương pháp giao hợp gián đoạn. Có thể dùng phương p háp này để tránh thai không?
Bác sĩ: Giao hợp gián đoạn không nên coi là một phương pháp tránh thai, vì nó là hành động trái tự nhiên. Giao hợp là sử giải toả sinh lý mạnh mẽ nhất, trong lúc giao hợp toàn bộ cơ thể, trong đó có hệ thần kinh ở trạng thái hưng phấn tột điểm. Khi các cặp vợ chồng áo dụng việc giao hợp gián đoạn thì người chồng luôn luôn "cảnh giác" để không bỏ qua việc xuất hiện phóng tinh. Dễ hiểu rằng những ý nghĩ đó làm kìm hãm hoạt động tự nhiên, thuần nhất của cơ thể. Nỗi lo sợ đàn ông có thể không kìm giữ được sự phóng tinh cũng làm ý thức của người đàn bà bị ảnh hưởng làm cô ta khó có thể đạt được sự cực khoái. Nếu như sử dụng việc giao hợp gián đoạn trong một thời gian dài. Có thể sẽ có các hậu quả nghiêm trọng. Ðặc biệt những người có tính khí mạnh mẽ sẽ bị ảnh hưởng khi sự phá vỡ quá trình tự nhiên diễn ra rất khí khăn. Sự giao hợp gián đoạn có thể gây ra sự cương cứng yếu ớt hoặc phóng tinh nhanh của đàn ông. Ở đàn bà sẽ có sự lãnh đạm giả tạo, mất cảm giác cực khoái. Mọi người cũng biết rằng, các hoóc môn và các thành phần khác có trong tinh dịch xuất ra trong khi giao hợp có tác dụng tốt đối với sự cực khoái của phụ nữ, làm cho bình thường hoá việc trao đổi chất. Khi giao hợp gián đoạn các thành phần của tinh dịch không thâm nhập vào cơ thể người phụ nữ. Ðó chính là tác hại của việc giao hợp gián đoạn. 59. Chồng: Tinh trùng sống được trong âm đạo được bao lâu?
Bác sĩ: Chưa có biện pháp đo chính xác nào được quãng thời gian ấy. Vào khoảng từ 24 giờ đến 48 tiếng đồng hồ. 60. Vợ: Theo như bác sĩ nói thì trong một chu kỳ hành kinh, người phụ nữ chỉ có thể có thai trong một khoảng thời gian rất ngắn.
Bác sĩ: Ðúng vậy. Ở đây điều khó nhất là chúng ta không thể xác định chính xác khi nào trứng rụng. Nếu như biết chính xác điều đó thì có thể kiểm soát được việc sinh đẻ. 61. Chồng: Khi có thai có bình thường nếu sử dụng các tư thế đặt biệt lúc giao hợp không?
Bác sĩ: Vâng, hoàn toàn bình thường. Ðặc biết lưu ý hai tư thế sau:
Thứ nhất, khi phụ nữ quì chống tay, chồng quì từ phía sau. Thứ hai, khi phụ nữ nằm ngửa, còn chồng nằm nghiên vuông góc với vợ. Trong tư thế thứ hai, chồng nâng chân vợ lên khỏi người mình. Sau đó đưa dương vật vào. Cả hai tư thế này có ưu điểm là, trọng lượng của cơ thể đàn ông không đè lên bụng của phụ nữ. 62. Vợ: Sự khác nhau giữa khái niệm thai nhi và bào thai ở chỗ nào?
Bác sĩ: Trong 3 tháng đầu đứa trẻ chưa sinh được gọi là bào thai, sau đó nó được gọi là thai nhi. 63. Vợ: Dấu hiệu đầu tiên báo hiệu cho người phụ nữ có thai là gì?
Bác sĩ: Thường thì đó là sự mất kinh. Một số phụ nữ cảm thấy biểu hiện ở cặp vú. Các núm vú trở nên nhạy cảm, bầu vú trở nên to và đau. 64. Vợ: Sau khi có thai, phụ nữ còn có thể có hành kinh được không?
Bác sĩ: Có thể, trong một số trường hợp, phụ nữ vẫn có thể có kinh nguyệt trong một vài tháng sau khi có thai, nhưng lượng máu tiết ra thường yếu và ít hơn so với bình thường. 65. Chồng: Tôi có cảm giác rằng, người phụ nữ không cảm thấy gì đặc biệt khi có thai?
Bác sĩ: Ðúng vậy, cô ta không biết rằng mình đã có thai. 66. Vợ: Có lâu không để biết người phụ nữ có thai?
Bác sĩ: Các dấu hiệu về sinh lý khi có thai xuất hiện dần dần. Khi được 5 đến 6 tuần cổ tử cung mở và các thay đổi khác trong cơ quan sinh đẻ của phụ nữ khó có thể nhận biết được tới khoảng 8 tuần. Trước đó các dấu hiệu khác nhau có thể gây ra sự nhầm lẫn. 67. Vợ: Khi nào thì người phụ nữ cảm thấy đứa trẻ ở trong mình?
Bác sĩ: Khi thai được 5 tháng có thể nghe được tim thai của đứa bé. Sau đó, người phụ nữ bắt đầu cảm thấy sự vận động và sự sống bên trong cơ thể mình. 68. Chồng: Mới đây tôi có đọc một bài báo viết về một phụ nữ đẻ con, thậm chí không biết mình có thai. Ðiều đó có thể có trong thực tế không?
Bác sĩ: Ðiều đó đôi lúc cũng xảy ra. Tôi có đọc về một vài trường hợp, riêng bản thân tôi thì chưa gặp một ca nào như vậy cả. Ðiều đó thật khó tin, tôi đồng ý với anh về điểm này. 69. Vợ: Nhưng, thưa bác sĩ, lẽ nào người phụ nữ lại không hiểu điều gì đã xảy ra?
Bác sĩ: Chủ yếu do sự kém hiểu biết. Những phụ nữ như vậy thì biết rất ít về việc sinh đẻ và họ thường sống ở những vùng lạc hậu, xa xôi hẻo lánh. Ðôi lúc việc đó xảy ra trong những điều kiện đặc biệt, chẳng hạn như chu kỳ hành kinh vẫn bình thường. 70. Chồng: Có nhiều phụ nữ sợ việc sinh đẻ không?
Bác sĩ: Ðáng tiếc là có rất nhiều. Việc sinh đẻ hiện nay không nên sợ hãi vì khoa học hiện đại tạo ra cho phụ nữ kỳ thuật sinh đẻ rất dễ dàng và an toàn, mức độ trẻ chết khi sinh đẻ rất thấp và ngày càng ít đi. 71. Vợ: Có phải có một số phụ nữ không hề có khoái cảm gì khi giao hợp không?
Bác sĩ: Ðúng thật vậy, có nhiều phụ nữ không hề có khoái cảm trong các quan hệ tình dục với đàn ông do sự lo sợ bị có thai. Sự sợ hãi đó hai dạng: sợ có đứa trẻ không mong muốn và sợ đau đớn khi sinh đẻ. 72. Vợ: Khoảng bao nhiêu lâu sau khi đẻ người phụ nữ có kinh trở lại?
Bác sĩ: Ðiều đó phụ thuộc chủ yếu vào việc người phụ nữ có cho con bú không. Nếu có, thì đa số trường hợp kinh nguyệt trở lại hoạt động bình thường sau 3 đến 6 tuần sau khi sinh đẻ. Nếu người phụ nữ không cho con bú thì kinh nguyệt trở lại hoạt động khoảng sau 2 tháng. Ðó là sau lần đẻ con so. Các lần sau khoảng cách về thời gian sẽ tăng lên. 73. Vợ: Khi nào thì người phụ nữ bắt đầu có sữa?
Bác sĩ: Sữa của người phụ nữ thường xuất hiện trước khi đẻ. Sau đó vài ngày bắt đầu có sữa. Trước đó, các núm vú tiết ra dịch trong màu vàng đục. 74. Chồng: Người phụ nữ có thể có thai mà không cần giao hợp không?
Bác sĩ: Người ta có biết tới các trường hợp như vậy. Tôi muốn nói đến, tất nhiên không phải thụ tinh nhân tạo, mà việc vô tình tinh trùng lọt vào âm đạo của phụ nữ, hoặc hiện tượng bình thường khi một người phụ nữ có chồng, mới sinh hoạt tình dục có thể thu thai cho một phụ nữ khác khi hai người này có quan hệ đồng tính luyến ái với nhau. 75. Vợ: Liệu có phải tất cả những người đồng tính luyến ái đều áp dụng những việc tương tự thế không?
Bác sĩ: Không, chỉ có một số thôi. Có nhiều loại đồng tính luyến ái khác nhau. Một số có thể chịu đựng quan hệ khác giới, còn một số khác lại không chịu được. Ngoài ra, còn có những người lưỡng giới, họ có thể chấp nhân khoái cảm của hai giới. Các cô gái đồng tính cũng có thể có thai, đặc biệt khi họ gần gũi với đàn ông. Sự gần gũi đó bao gồm việc cọ sát dương vật vào âm đạo hoặc sự phóng tinh do tránh đưa dương vật vào âm đạo. Nói một cách khác, tinh trùng sót lại ở cửa âm đạo, có thể tìm đường vào ống dẫn trứng và gặp gỡ với trứng của phụ nữ. 76. Vợ: Bác sĩ nó rằng, đàn ông cũng có thể bị vô sinh, ngay cả khi họ có thể phóng tinh được. Ðàn bà có thể bị vô sinh không, nếu cô ta vẫn có kinh nguyệt?
Bác sĩ: Có thể. Không phải tất cả phụ nữ có trứng rụng trong thời kỳ kinh nguyệt. Quá trình kinh nguyệt không có liên quan với việc thụ thai, mà liên quan tới việc tách màng tử cung, nếu điều đó không xảy ra trong kỳ kinh nguyệt trước đó. Có trường hợp đối lập, khi người phụ nữ không có kinh nguyệt do các nguyên nhân gắn với hoạt động của tuyến dịch nội tiết có thể có thai được. Có những trường hơ,p đối với cả đàn ông và đàn bà. Khi có tinh trùng, nhưng do chất lượng kém nên việc thụ thai và sinh đẻ cũng không được. Như tôi đã nói, bệnh nghiện rượu sẽ làm yếu tinh trùng. Ðôi lúc cũng do các khuyết tật bẩm sinh. Các khuyết tật đó của tinh trùng có thể phát hiện được dưới kính hiển vi, và thường thì các bác sĩ có thể xoá bỏ được các khuyết tật đó. Ðối với các phụ nữ đã triệt sản cũng có thể chữa được bằng cách đó.
Tôi muốn anh chị chú ý tới một chi tiết quan trọng. Tôi muốn nói tới trách nhiệm tình dục. Các số liệu chỉ ra rằng, đa số các vụ ly hôn ở toà án là do phụ nữ phát đơn. Nguyên nhân thường gặp là sự có mặt của một phụ nữ khác mà người ta thường gọi là nhân tình. Một nguyên nhân khác là không hoà hợp được với nhiều mô típ khác nhau, nhưng chủ yếu vẫn là sự không hoà hợp về tình dục. Các cặp vợ chồng thường ít hoà hợp về tình dục. Các cặp vợ chồng thường ít khi dẫn ra nguyên nhân thực sự của việc ly hôn. Thường họ không nghi ngờ về sự khác biệt thật sự tồn tại giữa họ với nhau, hoặc đơn giản hơn là không thừa nhận chúng. Nhưng chủ yếu cũng vẫn là các bất đồng trong quan hệ tình dục. 77. Vợ: Bằng chứng là trong đa số các trường hợp ly hôn do phụ nữ phát đơn, điều đó có nghĩa, phụ nữ không bằng lòng về sinh hoạt tình dục hơn so với chồng họ?
Bác sĩ: Có thể, và không khó gì để có thể hiểu, tại sao lại như vậy. Người phụ nữ có người chồng cẩu thả, thiếu kinh nghiệm, có thể giả bộ như được hài lòng về các quan hệ tình dục để làm ông chồng yên tâm. Nếu người đàn ông không chịu thay đổi, trong sinh hoạt tình dục chỉ nghĩ đến bản thân, sớn hay muộn người vợ bắt đầu mệt mỏi vì việc thường xuyên phải dối trá và cô ta bắt đầu chán ngán những đòi hỏi của ông chồng, kho6ng làm cho cô ta thoả mãn. 78. Chồng: Thưa bác sĩ, bác sĩ có ý kiến gì khi như một số người thường nói, hiện nay tình dục trong hôn nhân được nhấn mạnh quá, và tình dục, hơn bao giờ hết vẫn là cơ sở của hôn nhân?
Bác sĩ: Sự nhấn mạnh quá, đó tất nhiên là vấn đề quan điểm. Trong đa số các trường hợp những tuyên bố đó do những người mà ta có thể gọi họ là bảo thủ phát ngôn ra. Nói rằng, trước đây ít hơn hoặc nhiều hơn cũng khó. Thường chân lý nằm ở giữa hai điểm cực của các quan điểm đối với vấn đề này. Nguyên nhân chủ yếu của những phát biểu đó là do rất tiếc, hành vi tự do quá mức của cả đàn ông và đàn bà hiện nay, khi tình dục được đưa ra bàn luoân và được tán thành. Nói một cách khác, tình dục thu hút sự chú ý hơn nhiều so với sự cần thiết, do những mới lạ do tự do phát sinh tạo ra. Cuối cùng thì ngay cả tình dục cũng có thể trở nên nhàm chán. 79. Chồng: Mặc dù vậy, có nhiều số liệu về tình dục coi đó như nguyên nhân cơ bản của biết bao sự khó chịu và ca 'c vụ ly hôn, liệu bác sĩ có nghĩ rằng vấn đề này có hơi bị khuyếch đại quá không?
Bác sĩ: Nhiều người cũng nghĩ vậy, chỉ trừ các bác sĩ. Tôi có thể nói rút ra từ kinh nghiệm của bản thân, và từ các cuốn sách tôi cho lại là sự thật. 80. Vợ: Vậy còn tình yêu, thưa bác sĩ, nếu như hai người yêu nhau? Liệu tình yêu có giúp họ vượt qua mọi khó khăn không?
Bác sĩ: Có lẽ nào mỗi người cưới nhau và ly hôn lại không nghĩ đến điều đó, nếu họ thực sự đang yêu hoặc đã yêu nhau? 81. Vợ: Vâng, đúng như thế thật.
Bác sĩ: Nhưng khi đó còn chưa rõ liệu điều đó có thể không đúng, nói chung, sự hiểu biết về tình yêu. Tình yêu là khái niệm rất rộng. Mỗi người có ý kiến riêng của mình về thế nào là tình yêu, nó hình thành, tồn tại và mất đi như thế nào. 82. Vợ: Thôi được, thưa bác sĩ, lẽ nào tình yêu thực sự bản thân nó chưa phải là một cái gì đó sao? Bác sĩ đừng nói với tôi rằng, tình yêu có cái gì đó rất giống với tình dục.
Bác sĩ: Tôi sợ, điều đó đúng như vậy. Giáo sư Vinhem Stecken nói rằng, bất cứ tình yêu nào cũng có cơ sở là tình dục và chỉ có tình dục. Tất nhiên, ông muốn nói tới thứ tình yêu mà gọi là tình yêu lãng mạn. Nó luôn luôn gắn liền với tình dục, với sự thoả mãn các nhu cầu tình dục của mỗi một đối tác. Bây giờ cho ph ép to ^i được hỏi cô, ý kiến của cô về tình yêu là thế nào? 83. Vợ: Tôi có cảm tưởng rằng, khi hai người hạnh phúc bên cạnh nhau và vui sướng cùng nhau, đó là tình yêu.
Bác sĩ: Ðó là một định nghĩa rất hay, cho phép tôi được hỏi cô thêm một câu nữa. Nếu như cô hoàn toàn hạnh phúc và thoả mãn với chồng cô, nếu như cô chỉ có quan hệ sinh lý, khi đó trong ý nghĩ cô có muốn có con không? 84. Vợ: Thưa bác sĩ, như ông đã biết, chúng tôi mới cưới nhau.
Bác sĩ: Như cô thấy đấy. Ðiều đó hết sức tự nhiên và chẳng có gì phải ngượng ngùng cả. Cô là một người đàn bà bình thường có sự cuốn hút đối với đàn ông, vì điệu kiện đó đảm bảo sự duy trì nòi giống. Trong một xã hội giản đơn thì việc người phụ nữ có bao nhiêu bạn trai và thay đổi bạn trai bao nhiêu lần đều không có ý nghĩa lớn, nhưng trong xã hội hiện tại, vô cùng phức tạp của chúng ta với vô số các cấm đoán về mặt xã hội làm cho hôn nhân trở nên một sự kiến rất phức tạp và thực ra, chúng ta còn phải hy sinh nhiều cho hôn nhân. 85. Vợ: Thưa bác sĩ, tôi có một câu hỏi muốn hỏi bác sĩ, tôi không chỉ suy nghĩ mà còn bàn luận với các phụ nữ khác, nhưng không ai trong chúng tôi đồng ý với điều đó. Vấn đề là ở chỗ, nếu như vợ là người đặt vấn đề trước chồng?
Bác sĩ: Nhiều cuộc hôn nhân bị tan vỡ chính là do vấn đề này. Ða số các cô gái ở các nước phương Tây được giáo dục hoàn toàn tự nhiên đối với họ là tránh việc đặt bất cứ vấn đề nào với chồng, nhất là trong thời kỳ đầu sau khi cưới. Nhiều phụ nữ thậm chí không dám đáp lại các trò chơi tình dục do chồng khởi xướng. Trong điều kiện đó người chồng cần phải loại bỏ được sự e thẹn của vợ cho tới khi, tự cô tta tham gia các trò chơi tình dục với sự thích tú và tin tưởng, đôi khi có th ể giành lấy quyền chủ động. Ðó thường là nhiệm vụ của chồng, nhưng nhiệm vụ đó có thể thay đổi do hàng loạt nguyên nhân, trong đó chủ yếu là sự đa dạng. Tôi nhận được rất nihều thư đủ để minh hoạ điều đó. Trong một bức thư, người vợ viết rằng, hai người lấy nhau được 5 năm, trong suốt thời gian đó họ chỉ quan với một tư thế giao hợp, điều đó làm mất hết mọi hứng thú đối với sinh hoạt tình dục. Vì thế cô ấy yêu cần gửi cho cô ấy cuốn sách nói về vấn đề này, giúp cho cuộc sống hôn nhân của họ. 86. Chồng: Như người ta thường nói: Có những người đàn bà có tính cách mạnh mẽ thường kể về các ông đàn ông có thể biểu diễn các điều kỳ diệu về khả năng sinh dục. Ông có thể cho biết ý kiến của ông về việc này?
Bác sĩ: Khả năng tình dục này của con người phụ thuộc trước hết vào cấu trúc tình dục.
Cấu trúc tình dục - đó là tổng thể những đặc tính sinh lý cố định của cơ thể trên cơ sở các yếu tố di truyền và sẵn có. Cấu trúc tình dục xác định giới hạn khả năng tình dục của con người và khả năng chống lại những yếu tố độc hại khác nhau. Có thể chia làm 3 laọi cấu trúc tình dục: mạnh mẽ, vừa phải, và yếu. Ðiều dễ hiểu là so sánh khả n ăng tình dục mạnh mẽ với 1 số người đàn ông có cấu trúc tình dục yếu và khập khiễng. Ðồng thời cấu trúc tình dục chỉ nói lên khả năng tình dục của đàn ông mà không đem lại một sự đánh giá nào đó có ảnh hưởng tới sức khoẻ về thể chất của đàn ông cũng như tuổi thọ của anh ta. Hoàn toàn có thể xảy ra trường hợp khi cả hai người cùng sống trong một điều kiện nhất định, người có khả n ăng tình dục yếu hơn có thể sẽ sống lâu hơn người có khả năng tình dục mạnh mẽ. Nhưng khi đángh giá các khả năng tình dục không thể không lưu ý tới cấu trúc tình dục của người đàn ông và hành vi của anh ta trong lúc giao hợp. Có một điều chắc chắn là cấu trúc tình dục có ảnh hưởng tới tuổi thọ của đời sống tình dục, cường độ, của người mạnh mẽ hơn bất cứ yếu tố nghề nghiệp hoặc tâm ly nào khác. Ðiều đó cũng thật dễ hiểu. Mọi việc thật đơn giản - người đàn ông có cấu trúc sinh dục mạnh mẽ có khả năng sinh hoạt tình dục trong một thời gian dài bất chấp các điều kiện sống khó khăn, sự khó chịu ở nơi làm việc, bệnh tật,... Trong khi người đàn ông có cấu trúc tình dục yếu hơn ngay trong những điều kiện thuận lợi có thể cảm thấy sự sút kém khả năng tình dục.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2010 4:05:26 GMT 9
Tranh luận giữa nhà khoa học hàng đầu Việt Nam và Mỹ Nguyễn Đình Nguyên Tiêu đề này rất "bắt mắt" tôi. Tò mò xem thử, hóa ra họ "tranh luận" với nhau về vấn đề tế bào gốc, giữa nhà Khoa học hàng đầu Việt Nam, theo bản tin là ông Phan Toàn Thắng (tôi không đưa danh xưng vô đây vì như thế cho công bằng) với ông Ivring Weissman. Phát biểu của ông Weissman cho rằng việc sử dụng tế bào gốc từ cuống rốn thực ra chẳng có giá trị hữu dụng gì cho bệnh nhân, chẳng qua là một trò "Sơn Đông mãi võ", ngược lại ông Phan Toàn Thắng cho rằng: “Cho tới nay hàng trăm ngàn bệnh nhân bị bệnh máu, ung thư, bỏng nặng, loét giác mạc mắt, vết thương mãn tính, tổn thương xương sụn, nhồi máu cơ tim v..v.. được điều trị an toàn và thành công với TBG từ máu dây rốn, TBG trung mô, biểu mô là sự thực và không thể phủ nhận được”.. Phải tin ai? Muốn phải tin ai thì chúng ta phải có bằng chứng. Bằng chứng đó phải là những bằng chứng khoa học, được đăng tải trên các tập san khoa học của quốc tế có uy tín và đã được thông qua hệ thống bình duyệt. Tôi đã tiến hành tìm kiếm thông tin như ông Phan Toàn Thắng nhận định trên hệ thống tìm kiếm thông tin y khoa Pubmed.gov-một hệ thống lưu trữ tài liệu Y học của Mỹ cũng là lớn nhất của thế giới. Kết quả: zero! Tôi không tìm thấy bất cứ một nghiên cứu lâm sàng nào nói về vấn đề đó cả. Kỳ thực, mới tháng trước, các đồng nghiệp Việt Nam có công bố một bài báo nghiên cứu về nuôi cấy giác mạc bằng tế bào gốc trung mô lấy từ cuống rốn (Toai TC, Thao HD, Gargiulo C, Thao NP,Thuy TT, Tuan HM, Tung NT, Filgueira L, Strong DM. In vitro culture of Keratinocytes from human umbilical cord blood mesenchymal stem cells: the Saigonese culture. Cell Tissue Bank. 2010 Mar 27). Tuy nhiên đây chỉ mới là nghiên cứu trong phòng thí nghiệm. Cần phải hiểu rằng các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm là các nghiên cứu tiền đề hoặc nghiên cứu về cơ chế, nó khác xa với các nghiên cứu hoặc thử nghiệm trên cơ thể sống. Ngay cả nghiên cứu trên cơ thể sống là động vật cũng chưa khẳng định được gì về giá trị ứng dụng của nó lên con người cả. Cho nên các nghiên cứu ở mức độ thấp này không thể coi đó là bằng chứng khoa học để có thể mạnh miệng tuyên bố về hiệu quả của một phương pháp điều trị nào. Trong cuối bản tin, có thông tin đính kèm: "Hiện tại, nghiên cứu hợp tác giữa nhóm nghiên cứu của ông Thắng với các cơ sở khoa học hàng đầu tại Mỹ, Châu Âu và Châu Á được các chuyên gia trong và ngoài nước đánh giá đạt nhiều kết quả rất tôt. Kết quả của các công trình nghiên cứu này lần lượt được xuất bản tại các tạp chí khoa học và y học quốc tế." Quả thực, những thông tin như thế này chỉ là chuyện trà dư tửu hậu, chẳng thể nào đem ra bàn khoa học để tham khảo và bàn luận. Đành rằng "chưa có bằng chứng không có nghĩa là không có bằng chứng", nhưng đã nói chuyện khoa học là phải nói đến sự hiện hữu của bằng chứng, một khi không có thì vẫn coi như là không. Nói về tranh luận của ông Phan Toàn Thắng, tôi chỉ được đọc ở báo Việt Nam, chưa thấy ông phát biểu bằng lời hoặc đăng tải trên bất kỳ ấn bản khoa học nào trên thế giới cả. Nói lại chuyện tiêu đề bắt mắt, đã không tìm thấy bằng chứng, tôi cũng tò mò muốn xem thành tích khoa bảng giữa nhà khoa học hàng đầu Việt Nam và nhà khoa học hàng đầu của Mỹ ra sao. Đành rằng công bố một giả định hay nhận định một vấn đề, độ tin cậy không nằm ở bề dày thành tích mà nó phụ thuộc vào chất lượng thông tin. Tuy nhiên, ấn tượng ban đầu của một công bố để có thể thu hút được đồng nghiệp, thì tiếng nói đó xuất phát từ một người có bề dày thành tích cao sẽ được lưu tâm hơn. Rồi sau đó người ta mới thử phân tích mổ xẻ ai đúng ai sai. Dưới đây là kết quả tìm kiếm dựa trên hệ thống dữ liệu Web of Science về hai nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam và Mỹ Phan Toàn Thắng (VN) Ivring Weissman (Mỹ) Địa chỉ Đại học QG Singapore Đại học Stanford, Mỹ Tổng số bài báo khoa học 30 432 Tổng số lần được trích dẫn 426 47 214 Trung bình trích dẫn/bài 14,2 109,3 Chỉ số H 12 114 Ghi chú: Chỉ số H 114 có nghĩa là có ít nhất 114 bài với số lần trích dẫn 114 lần trở lên - Hide quoted text Minh họa biểu đồ Số bài báo nghiên cứu đăng tải mỗi năm Số trích dẫn trong mỗi năm Tác giả Ivring Weissman Số bài báo nghiên cứu đăng tải mỗi năm Số trích dẫn trong mỗi năm Tác giả Phan Toàn Thắng Hai ghi chú nhỏ: 1- Tôi chưa bao giờ biết ông Phan Toàn Thắng và không có xung đột quyền lợi gì với ông cả cũng như không có tư thù cá nhân. 2- Mở ngoặc thêm, theo lời tự thuật của ông Phan Toàn Thắng, ông là đồng sáng lập và có cổ phần trong hai công ty tư nhân về tế bào gốc (I'm also a co-founder and share holder of two Singapore-based biotech start-up companies: CellResearch Corporation Pte Ltd and CordLabs Pte Ltd. These companies were formed to commercialize cell research, scar, skin wound healing, as well as stem cell research and development. intelligentinformationforlife.com/phan/ ). Mọi phát biểu khoa học luôn luôn phải đặt trong bối cảnh và phải đặt câu hỏi, liệu nhà khoa học đó có dính líu gì đến quyền lợi thương mại hay có "xung đột quyền lợi" (conflicts of interest) gì không, để tránh sự nhập nhằng giữa khoa học thuần túy và khoa học thương mại Đã đăng trên ykhoa.net Tranh luận giữa nhà khoa học hàng đầu Việt Nam và Mỹ 04/04/2010 - Gần đây, ý kiến về các ngân hàng tế bào gốc (TBG) lấy từ dây rốn của trẻ sơ sinh, nhằm sử dụng trong các trường hợp mắc bệnh hiểm nghèo về sau này đều là trò lừa đảo khiến các nhà khoa học, bác sĩ, chuyên gia trong và ngoài nước quan tâm đáng kể. TIN LIÊN QUAN * Trung Quốc tạo tế bào gốc lợn đầu tiên trên thế giới * Hàn Quốc tuyên án treo nhà nghiên cứu tế bào gốc Thông tin “tế bào gốc từ màng dây rốn chữa bệnh hiểm nghèo là lừa bịp” được một số nhà khoa học hàng đầu của Mỹ trong lĩnh vực này công bố ngày 20/2. Và khi phát biểu tại hội nghị thường niên Hiệp hội vì sự tiến bộ của khoa học Mỹ (AAAS), Irving Weissman, Giám đốc Viện Y học phục hồi và tế bào gốc sinh học, thuộc trường Đại học Stanford ở California, Mỹ cho biết dây rốn chứa các tế bào gốc có thể duy trì khả năng tạo máu ở mức độ chỉ cho trẻ nhỏ. Mô tả ảnh. Nghiên cứu Tế bào gốc màng dây rốn ở Việt Nam. Ảnh: Thu Hương Theo ông Irving Weissman, tế bào gốc lấy từ dây rốn cũng có thể chuyển hóa sang tế bào mô giữa - các tế bào kiểu như sợi thủy tinh - có chút ít khả năng tái tạo sẹo, xương và chất béo, nhưng không có tác dụng tái tạo não, không thể tạo máu, không giúp gì được cho bệnh nhân tim, chẳng thể tái tạo cơ xương như nhiều người vẫn nghĩ. Phản biện những ý kiến này, PGS.TS Bác sĩ Phan Toàn Thắng (ĐHQG Singapore) cho rằng, những ý kiến xung quanh vấn đề này liên quan nhiều đến việc cạnh tranh khoa học và xung đột lợi ích giữa hai nhóm TBG Phôi và nhóm TBG Mô. Đó chỉ là ý kiến cá nhân của một người và có thể nói là không công bằng, thiếu khách quan. Vào đầu năm nay, Tiểu bang California quyết định dừng không cấp kinh phí cho các nghiên cứu liên quan tới TBG Phôi do không hiệu quả dẫn tới ảnh hưởng lớn tới quyền lợi của nhiều nhóm nghiên cứu TBG Phôi tại Tiểu bang này trong đó có nhóm của GS Weissman (người phát biểu thông tin trên) tại ĐH Stanford. Đây có thể là nguyên nhân gián tiếp khiến ông này có những lời lẽ như trên. “Khoa học TBG đang phát triển. Nghiên cứu tế bào gốc còn rất mới, mỗi loại có hạn chế ưu nhược điểm riêng, nên không thể sớm kết luận loại nào hơn loại nào. Do vậy chúng ta nên đón nhận một cách cởi mở. Cũng như khi ta có phi cơ, ô tô, xe đạp vẫn được xử dụng và có lợi thế riêng của nó, chứ không bị loại bỏ. Tôi cho rằng có trong điều trị một số bệnh chỉ có TBG Phôi mới làm được” – ông Thắng nói. Còn về ứng dụng lâm sàng, PGS Phan Toàn Thắng nhìn nhận: “Cho tới nay hàng trăm ngàn bệnh nhân bị bệnh máu, ung thư, bỏng nặng, loét giác mạc mắt, vết thương mãn tính, tổn thương xương sụn, nhồi máu cơ tim v..v.. được điều trị an toàn và thành công với TBG từ máu dây rốn, TBG trung mô, biểu mô là sự thực và không thể phủ nhận được”. Theo TS. Lê Văn Đông (Phụ trách Kỹ thuật Mekostem – Ngân hàng TBG đầu tiên ở VN), cả hai phía đề có những vấn đề hơi quá. Phía làm TBG thì một số đã lợi dụng hay mượn danh TBG để nói quá mức theo kiểu TBG chữa bách bệnh. Phía Weissman và báo chí thì nói theo kiểu "vơ đũa cả nắm" gộp hết trách nhiệm vào Ngân hàng TBG dây rốn. Mô tả ảnh. Hàng ngàn người bệnh được điều trị thành công nhờ TBG màng dây rốn.Ảnh: T.Hương Thực chất các ngân hàng TBG dây rốn chỉ có chức năng bảo quản và cung cấp tế bào (giá dịch vụ này có vài nghìn đô la) còn phần chữa bệnh bằng TBG thì do các bệnh viện thu phí bao gồm rất rất nhiều thứ để phục vụ cho một ca bệnh điều trị bằng TBG. Đó không phải là tiền mua tế bào gốc hoặc dùng TBG để chữa bệnh và thu lợi hàng trăm ngàn đô la. "Có chăng các ngân hàng TBG hưởng lợi từ việc nhiều người gửi TBG thì có hưởng được nhiều phí dịch vụ trong con số nhỏ nào đó từ 2000 USD tiền dịch vụ chứ không phải hàng trăm ngàn USD như người ta nói. Tuy nhiên, số người gửi TBG ở VN chưa nhiều" - ông Đông nói. Một mặt khác, cách dùng từ ngữ ở tít bài báo nguyên văn chỉ nói "cảnh báo" (warn) chứ không dùng từ theo kiểu của một số tờ báo trong nước là “lừa bịp”. Và Weissman đã nói việc này xảy ra ở các nước có việc quản lý y tế lỏng lẻo – TS. Đông cho biết. Sau MekoStem của Việt Nam, hai ngân hàng TBG hàng đầu Châu Á là CordLife và StemCyte hiện đã nhận chuyển giao công nghệ từ PGS Phan Toàn Thắng để cung cấp dịch vụ cho nhân dân tại Hồng Kong và Đài Loan. Hiện tại, nghiên cứu hợp tác giữanhóm nghiên cứu của ông Thắng với các cơ sở khoa học hàng đầu tại Mỹ, Châu Âu và Châu Á được các chuyên gia trong và ngoài nước đánh giá đạt nhiều kết quả rất tôt. Kết quả của các công trình nghiên cứu này lần lượt được xuất bản tại các tạp chí khoa học và y học quốc tế. Thu Hương
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 27, 2010 4:12:59 GMT 9
Trung Quốc tạo tế bào gốc lợn đầu tiên trên thế giới 03/06/2009 15:32:03 Ngày 3/6, các nhà nghiên cứu Trung Quốc cho hay họ đã tạo ra được tế bào gốc từ lợn, có thể giúp mở ra những con đường mới chữa trị bệnh tật ở người. Nghiên cứu mở ra hy vọng chữa nhiều bệnh cho con người Nhóm bác sỹ do Lei Xiao ở Viện hóa sinh và tế bào sinh vật Thượng Hải đã lấy tế bào trưởng thành ở tai và tủy xương của lợn rồi tái lập chúng để chúng trở thành những tế bào gốc đa năng. Theo nhà nghiên cứu Xiao, nghiên cứu mở ra hi vọng cho các nhà khoa học có thể dùng lợn làm vật thí nghiệm chữa bệnh và là nguồn “vật liệu” cấy ghép. Hiện chưa có nhà khoa học nào có thể tái tạo được những tế bào trên từ những tế bào xôma (tế bào không xuất phát từ mầm phôi hoặc trứng) của động vật. * Thu Hương
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2010 9:14:47 GMT 9
Vào Tuổi Mãn Kinh Bài viết là để đáp ứng yêu cầu của một số tỉ muội thắc mắc: chỉ thấy nói về những chuyện ngoại sáu mươi mà chẳng viết gì tới vấn đề nữ giới chúng tôi, sắp có hoặc đang có, khi không còn kinh nguyệt. Ý giả các vị nhắc khéo là nói chút đỉnh về thời kỳ mãn kinh. Vâng, đây là vấn đề gây ra nhiều thảng thốt cho một số tỉ muội, nên xin cùng tìm hiểu. Mãn Kinh là gì? Về phương diện sinh lý học, Mãn Kinh (menopause) là một diễn biến bình thường trong chu kỳ tăng trưởng của người phụ nữ. Đó là sự nối dài của giai đoạn có kinh nguyệt mỗi tháng với khả năng sanh đẻ sang thời kỳ mà cả hai chức năng trên đều ngưng. Nó đến tự nhiên khác chi sự có kinh lần đầu của một bé gái 12, 13 tuổi. Nhưng một số tỷ muội ta coi hết kinh như một dấu hiệu chớm vào già, một khởi đầu của cuộc đời mới. Từ nay ta sẽ không còn đẹp nữa, cơ thể xệ ra, mất vẻ duyên dáng hấp dẫn, lại không còn khả năng tạo ra những nối dõi tông đường. Cánh cửa đã khép lại, không còn tự do lựa chọn có con hay không có con... Sống trong một thời đại mà hình ảnh son trẻ hấp dẫn thể chất được đề cao thì những thay đổi khi tới tuổi mãn kinh cũng là điều mà nhiều người nữ ưu tư. Tuy nhiên cũng nhiều vị đón nhận mãn kinh với mọi hình tĩnh, thích nghi. Vì, tuổi nào ta sống theo tuổi đó, một cách tích cực. Trên lý thuyết, thời kỳ mãn kinh được coi như bắt đầu khi kinh nguyệt xuất hiện lần cuối cùng. Nhưng trên thực tế, nó phải diễn ra khi đã mất kinh được một năm với một số thay đổi cơ thể. Trong 90% trường hợp, mãn kinh ở tuổi 51; 10% sớm hơn khi mới 40. Với người được giải phẫu cắt bỏ dạ con và noãn sào, hoặc do biến chứng của hóa trị liệu, thì mãn kinh xẩy ra liền sau đó. Cơ thể người nữ khi có kinh. Chu kỳ kinh nguyệt là khoảng thời gian giữa mỗi ngày đầu của hai kinh kỳ nối tiếp nhau, thông thường là28 ngày, đôi khi thay đổi từ 23 tới 35 ngày. Vào giữa thời gian này, một trứng trong noãn sào rụng. Túi đựng trứng tiết ra nhiều estrogen hơn, làm niêm mạc tử cung dầy lên với nhiều mạch máu để sẵn sàng đón nhận trứng nếu được thụ tinh. Phải mất sáu ngày trứng mới hoàn tất cuộc di chuyển từ noãn sào xuống dạ con. Khi không có thụ tinh, niêm mạc dạ con teo tróc, máu và tế bào chảy ra ngoài: người nữ bắt đầu thấy kinh. Đã có một thời kỳ người ta coi kinh nguyệt như một cái gì không trong sạch, là sự trừng phạt của thần linh, hoặc là dấu hiệu một bất hạnh sẽ tới. Muối cà muối dưa mà phụ nữ có kinh đi qua thì dưa cà khú là cái chắc. Các cụ ta nói vậy. Trong cuộc đời ba bốn mươi năm mầu mỡ, người nữ đã trải qua cả ba bốn trăm lần thấy kinh và nhiều dịp mang nặng đẻ đau. Trong diễn tiến này, buồng trứng tiết ra các kích thích tố estrogen, progesterone mà công dụng là làm cho người nữ trở nên quyến rũ, hấp dẫn cũng như phục vụ các chức năng của cơ thể. Từ ngày xưa, người ta đã nghĩ là buồng trứng giữ vai trò quan trọng trong đời sống nữ giới. Bốn mươi năm trước đây, các bác sĩ Edward A. Doisy và Edgar Allen, St Louis Hoa Kỳ, làm thử nghiệm cắt bỏ buồng trứng của chuột cái, thì dạ con của nó teo, tính dục hết. Nhưng khi chích nước chiết trong buồng trứng, thì mọi sự trở lại bình thường. Quan sát cũng thấy là nước tiểu người nữ mang thai chứa một hóa chất có tác dụng tương tự. Từ những nhận xét khoa học, lần lần con người đã chứng minh sự hiện hữu hóa chất đó, gọi nó là kích thích tố và bào chế để dùng trong trị liệu. Thay đổi ở người nữ khi mãn kinh Mãn kinh thường bắt đầu vào tuổi 40. Đây không phải là việc xẩy ra đầu hôm sớm mai, mà đi qua một giai đoạn chuyển tiếp với kinh kỳ tháng có tháng không, dài ngắn bất thường, khi đậm khi nhạt. Hai phần ba người nữ chịu đựng nhiều thay đổi, khó chịu: Vẻ dáng con người vốn thanh tao hấp dẫn, trở thành nới rộng bề ngang với mỡ ở vòng hông, vòng bụng; ngực xệ, da nhăn khô, tóc rụng và cơ thể nặng cân hơn. Tất cả khiến người đẹp đôi khi nghĩ là đã trở nên vô hình trong đám đông. Vì: "Ta già rồi chăng! Ôi đâu còn thời kỳ hấp dẫn của thuở thanh xuân". Tế bào cơ quan sinh dục rất nhậy cảm với sự giảm thiểu của estrogen: Cửa mình teo ngắn, màng niêm khô gây ra cảm giác đau khi giao hợp khiến bạn gái đôi khi thoái thác. Nhiễm độc đường tiểu tiện cũng thường xẩy ra vì những thay đổi trên cộng với sự thay đổi môi trường sinh học ở âm hộ. Mạch máu dãn nở, máu dồn nhiều về mặt, đầu, ngực tạo ra những cơn nóng hừng hực, nhiệt độ trên da tăng đến bẩy tám độ. Cảm giác này kéo dài hai ba phút, đôi khi cả giờ. Nó trầm trọng hơn khi trong người mệt mỏi hoặc dưới ảnh hưởng của căng thẳng tâm-thân. Nhiều người đêm không ngủ được vì bị cơn nóng hành. Lại còn đổ mồ hôi, cứ phải để quạt hoặc chạy máy lạnh tối đa, đôi khi muốn nhẩy vào bồn nươc lạnh ngâm cho giảm cơn bốc hỏa. Thêm vào đó là những cơn nhức đầu như búa bổ, đau bụng ngầm ngầm rất khó chịu. Có tới 75% người nữ bị cơn hành này, và phải chịu đựng trong dăm ba năm. Điểm đáng lưu ý là phụ nữ Á châu ít bị hành hơn vì trong thực phẩm của họ có hóa chất phytoestrogen, rất nhiều trong đậu nành. Thay đổi tâm thần cũng đáng kể. Nhiều người có tâm trạng lo âu, buồn chán, không thiết gì đến sự đời. Tính tình trở nên nóng nẩy, dễ bị kích thích, hay gây gổ nhất là với chồng con. Họ thường cảm thấy bồn chồn ngồi đứng không yên. Hậu qủa xa của giảm thiểu estrogen là nguy cơ loãng xương và bệnh tim mạch. Loãng xương là một thay đổi thường xẩy trong tiến trình hóa gìa. Bất hạnh là nhiều lão nữ bị chứng này hơn khi đi vào thời kỳ mãn kinh. Xương được tạo nên bởi chất hữu cơ và nhiều khoáng chất, nhất là calcium và phosphate. Estrogen có tác dụng tăng cường phẩm chất, độ cứng của xương và có thể trì hoãn hiện tượng rỗ xương. Vào thời kỳ mãn kinh, xương trở nên sốp, ròn vì calcium tan vào dòng máu. Xương sống lưng, xương đùi rất dễ gẫy khi té nhẹ. Ngoài ra, giảm thiểu Estrogen ở tuổi mãn kinh sẽ tăng nguy cơ bệnh tim mạch, nhồi máu cơ tim. Bình thường, estrogen có tác dụng tăng lượng cholesterol lành HDL và làm giảm lượng cholesterol dữ LDL trong máu. Ứng phó với khó khăn của mãn kinh Người nữ trải qua một phần ba cuộc đời với mãn kinh. Thường thì 1/3 quý bà hết kinh rất tự nhiên, an lành. Số còn lại sẽ chịu đựng một vài khó khăn không trầm trọng lắm, ngoại trừ khi có hậu quả xấu như loãng xương. May mắn là khó khăn cũng không kéo dài và người nữ có thể thích nghi được, nếu hiểu rõ vấn đề. Nhiều nhà chuyên môn nhận thấy thay đổi về tính tình, cảm xúc trong mãn kinh đôi khi là sự tăng thêm cường độ của ưu tư sẵn có. Những ai vốn đã làm chủ được lòng mình thì cũng đối phó được với xáo trộn tâm thần do mãn kinh gây ra. Bằng chứng là khi quý bà bù đầu bận bịu với công việc ngoài đời thì ít bị ảnh hưởng này hơn người làm việc nhà, có nhiều khoảng trống thời gian để nghĩ tới khó khăn. Một vị thầy thuốc già nhiều kinh nghiệm đã nói: liều thuốc hữu hiệu nhất cho người đàn bà gặp khó khăn vào kỳ mãn kinh là những lời giải thích rõ ràng. Rằng mãn kinh không phải đánh dấu sự chấm dứt của tận hưởng tình dục, hết hấp dẫn; rằng đó chỉ là sự chuyển tiếp sang một giai đoạn mới với thú vui và tình yêu cách khác, có khi lại tốt lành hơn Điều trị. Ngày nay, tiến bộ y khoa đã mang tới nhiều phương thức trị liệu để người nữ hết kinh có thể an vui với sự chuyển tiếp này. 1-Kích thích tố thay thế Nhắc lại là ở nữ giới, estrogen bắt đầu giảm ở tuổi 30. Tới tuổi 40 là thời kỳ tiền mãn kinh, estrogen lên xuống bất thường, niêm mạc dạ con mỏng, đường kinh khi có khi không, lúc nhiều lúc ít. Tới tuổi 50 trở đi là vào thời kỳ mãn kinh, estrogen giảm trông thấy. Cho nên mãn kinh còn được gọi là "trạng thái thiếu thốn" và nẩy sinh ra trị liệu thay thế (Replacement therapy). Từ lâu, y học đã biết là estrogen có thể làm nhẹ những cơn hừng hực, những thay đổi tính tình của nữ giới vào thời kỳ mãn kinh. Estrogen có thể dùng riêng rẽ hoặc chung với progesteron. Tuy nhiên kích thích tố thay thế ( Hormone replacement Therapy-HRT) cũng gây ra vài rủi ro nếu dùng lâu, do đó việc sử dụng cần được cân nhắc kỹ cho từng cá nhân. Đồng thời quý bà cũng cần được bác sĩ theo dõi và định kỳ khám phụ khoa, làm Pap Smears và chụp hình nhũ hoa để phát hiện dấu hiệu các rủi ro. Sau đây là hướng dẫn mới về việc dùng estrogen thay thế: a-Nhiều chuyên gia vẫn đồng ý với nhau rằng: estrogen là thuốc công hiệu hiện có để làm dịu cảm giác nóng phừng, nhưng không giúp ích gì cho thay đổi tính tình, trầm cảm , hay quên và giảm ước tình. Thường thường sự nóng phừng này mất dần sau dăm năm. Estrogen có thể dùng dưới bất cứ hình thức nào như uống, chích, dán trên da. Nhiều người có thể giảm phân lượng thuốc lần lần sau 5 năm dùng. Nếu dùng dưới 5 năm thì ít có nguy cơ bị ung thư vú. Không nên dùng estrogen để trị trầm cảm, u sầu vì có nhiều thuốc khác rất tốt cho chứng bệnh này. b- Chưa có bằng chứng nào xác định là dùng HRT có thể giảm nguy cơ bệnh động mạch vành ở phụ nữ vào tuổi mãn kinh. Hội American Heart Association đã khuyên không nên dùng kích thích tố nữ để ngừa bệnh tim. c- Estrogen đã được cơ quan Food and Drug Administration chấp thuận cho dùng trong việc ngừa loãng xương chứ không để trị bệnh này. Kích thích tố làm giảm sự tiêu hao xương ở phụ nữ sau thời kỳ hết kinh. So với người không dùng kích thích tố thì những người dùng có thể giảm nguy cơ loãng xương tới 50%. d-Khi điều trị trong thời gian lâu dài, estrogen làm tăng nguy cơ ung thư vú bằng cách thúc đẩy sự tăng trưởng tế bào của cơ quan này. Phụ nữ có kinh lần đầu sớm, hết kinh trễ có nhiều nguy cơ bị ung thư vú vì lượng estrogen trong cơ thể của họ nhiều hơn và lâu hơn. 2- Dinh dưỡng tốt giúp bảo trì xương khỏi loãng và giảm nguy cơ bệnh tim Do đó ta cần ăn uống điều độ, cân bằng với đầy đủ loại sinh tố, khoáng chất calcium, phosphate, selenium, ít chất béo. Cũng nên bớt ăn gia vị cay chua để giảm cơn nóng phừng phừng. 3-Tập thể dục đều đặn làm tăng độ cứng chắc của xương cũng như làm phấn khởi tinh thần; 4-Nếu hút thuốc lá thì nên bỏ vì hóa chất của thuốc làm mãn kinh tới sớm, tăng triệu chứng mãn kinh, giảm khối lượng xương, dễ đưa đến tổn thương cho xương. 5-Mặc quần áo nhẹ, rộng rãi thoải mái; nhà cửa thoáng khí, mát mẻ để làm bớt những cơn bốc nóng. 6-Tâm tình với người cùng cảnh ngộ để chia xẻ kinh nghiệm cũng như hỗ trợ lẫn nhau; 7-Lựa một bác sĩ kinh nghiệm, tận tâm để được hướng dẫn cách dùng kích thích tố thay thế cũng như giảm thiểu các triệu chứng khác. 8-Tiếp tục đời sống tình ái, vì hành động này làm tăng máu tuần hoàn và độ ẩm ở âm hộ. Để tránh đau khi giao hợp vì hạ bộ khô mỏng, dùng vài loại kem bán tự do như Replens, K-Y jelly. 9-Về với mẹ thiên nhiên qua các môn thuốc thảo mộc, cỏ cây hoa lá. Dù khoa học chưa chứng minh công hiệu của các chất này, nhưng kinh nghiệm sử dụng lâu năm với kết quả tốt của nhân dân là bảo chứng. Quan sát cho thấy thảo mộc có kích thích tố (phytoestrogens), công hiệu như hóa chất estrogen lại ít tác dụng phụ. Phụ nữ Á châu được mô tả có ít triệu chứng mãn kinh vì ăn nhiều sản phẩm của đậu nành, chứa nhiều isoflavones và phytosterols. Các chất này có công dụng như estrogens trong việc bảo trì màng niêm âm hộ, làm bớt phừng mặt, rỗ xương và giảm LDL. Từ rễ cây củ cải ( Mexican yam ), một loại thuốc nhờn có progesterone đã được chế và có công dụng như trên. Ngoài ra các dược thảo như đương quy ( Angelica sinesis), thăng ma( Cimici fuga), sinh địa ( Rehmania), cam thảo (licorice root) cũng có một vài công dụng trong việc giảm thiểu rối loạn mãn kinh. Chất béo cá omega 3-6 cũng có những tác dụng tương tự. Kết luận Trên đây là một số giải đáp về thắc mắc của vài tỉ muội, hy vọng đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi. Nếu mãn kinh qủa thật là một vấn đề thì qúy phu nhân có rất nhiều bạn đồng cảnh, vì đâu có bà chị nào tránh được nó. Nó không phải là một bệnh hoạn, mà chỉ là một chuyển tiếp vào phần ba cuối cuộc đời. Đây là giai đoạn mà các cảm xúc, hành động của mình không do kích thích tố chi phối, mà là do mình dùng vốn liếng khôn ngoan, kinh nghiệm trường đời của mỗi người để thích nghi với hoàn cảnh. Mong rằng ai đó khéo vượt qua. BS Nguyễn Ý-ĐỨC Texas-USA
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 14, 2010 9:20:42 GMT 9
Những Thay Ðổi Của Cơ Thể Khi Về Già Với tuổi cao, sẽ có những thay đổi trong toàn bộ cơ thể con người: thay đổi về các hành động, xử thế, về bộ dáng thân hình, cũng như thay đổi về chức năng của các cơ quan.Trong bài này, chúng tôi sẽ cũng quý vị lược qua những thay đổi về hình dáng bề ngoài cuả cơ thể. Các thay đổi này nhiều khi mang đến vẻ già nua cho người cao tuổi.Những Thay Ðổi Về Hình Dáng Bề Ngoài1-Thay đổi về lông-tóc :Những thay đổi về tóc của con người có nhiều điều khó hiểu mà chưa có giải đáp và gồm có thay đổi về số lượng, mầu sắc, phẩm chất. Về mầu sắc, sự kiện tóc bạc hay tóc hoa dâm là những dấu hiệu sớm của tuổi về gìa. Tóc bạc bắt đầu từ hai bên thái dương rồi lan lên đỉnh đầu. Mới đầu, nó còn có tính cách muối tiêu,trắng đen lẫn lộn, sau đó thì muối nhiều hơn tiêu. Sở dĩ tóc thành trắng là vì loại tế bào sinh hắc tố (melanin) giảm đi, tóc thành không có mầu. Tuy được coi là một dấu hiệu sớm của tuổi về già, nhưng sự kiện bạc tóc chỉ xẩy ra ở khoảng 65% người cao tuổi, còn 35% thì hoặc tóc không bạc hay chỉ bạc khi tuổi rất cao. Có nhiều trung niên, 25-30 tuổi tóc đã bạc. Thành ra sự bạc tóc này không phải là chỉ dấu của sự hóa gìa các bộ phận trong cơ thể, cũng như không có ảnh hưởng gì tới sức khỏe hay tới tuổi thọ. Còn huyền thoaị Ngũ Tử Tư, sau một đêm trầm suy, sáng dậy tóc đã trắng sóa cũng vẫn chỉ là huyền thọai, không có căn bản gỉai thích khoa học. Rụng tóc : Rụng tóc là một hiện tượng bình thường trong tiến trình hóa gìa giống như khi da đầu bị nhiễm trùng, do ảnh hưởng của một vài loại thuốc, vài thực phẩm. Trung bình, mỗi ngày có khoảng 100 sợi tóc rụng. Lông nách và lông mu cũng rụng dần theo số tuổi cao. Ngòai ra, khi về gìa tóc khô, ròn dễ rụng vì các tuyến nhờn kém họat động. Ở nữ giới, lông tóc mọc ở cằm trên khi mà số lượng kích thích tố nữ gỉam vào thời tắt kinh. Sự mọc lông này gây nhiều ngượng ngùng cho quý bà. Ta có thể nhổ, caọ hoặc dùng các chất hóa học để làm mất những lông này. Một chi tiết cũng cần được nêu ở đây là, khi qúy bà dùng thuốc có nam kích thích tố, thì lông tóc cũng mọc ra ở mặt và thân thể, nhưng khi ngưng thuốc thì lông tóc ngưng mọc. 2- Thay đổi về da: Không có ai chết vì da trở nên gìa, mặc dù lớp da của con người thay đổi rất nhiều với tuổi cao. Ðã từ lâu, người ta căn cứ trên vóc dáng của nó để mà đoán tuổi con ngươì: Sự mất mâù da, sự nhăn cuả da, sự hư hao của da thường được coi như là phản ảnh của niên kỷ, của tình trạng sức khoẻ tổng quát. Vì, ngoài quần aó mặc, khi nhìn một người thì trước tiên ta chú ý tới lớp da của họ. 2/1 -Da nhăn.- Sự xuất hiện của lớp da nhăn đầu tiên trên cơ thể làm nhiều người hoảng hốt. Nhưng lỗi lầm đích thực của phản ứng hoảng hốt này không phải là vì những vết nhăn, mà vì xã hội ta đang sống đã đánh gía thấp người già, nam cũng như nữ. Lớp da nhăn nheo làm con ngươì trông thấy như già đi. Da trở nên nhăn nheo vì ở người già, chất collagen nằm dưới da giảm đi, chất elastin laị tăng lên, làm da mất tính đàn hồi. Chúng ta có thể đo sự mềm diụ đàn tính của da bằng cách kẹp lớp da giữa hai ngón tay trong ít giây, rồi thả ngơn tay, đo coi xem mất mấy giây để lớp da nhăn trở lại bằng phẳng. Thường thì một hai giây, nhưng ở người trên 60 tuổi, thì phải mất vài chục giâ. Sự da nhăn nheo, không có nghĩa là những cơ quan cốt yếu trong cơ thể cũng suy mòn đi. Bởi vì, ở người trẻ tuổi mà da không được chăm sóc thì da cũng vẫn nhăn nheo như thường. 2/2.- Da khô : Ở người cao tuổi, sự bài tiết mồ hôi giảm vì những tuyến mồ hôi, tuyến nhờn ít đi hoặc kém hiệu năng, làm da trở nên khô và hay ngứa. 2/3- Thay đổi khả năng điều hoà thân nhiệt: dưới lớp bì và biểu bì là một lớp da mỏng chứa nhiều chất mỡ có công dụng chống sự thất thóat thân nhiệt. Ở người cao tuổi, lớp mỡ này mất đi, nhất là ở mu bàn tay, mặt, gan bàn chân. Các cảm giác ngoài da cũng kém đi, nhất là cảm giác đau đớn nên người cao tuổi hay bị phỏng ở bàn chân. Số lượng những mạch máu nhỏ ở da gỉam ở người cao tuởi, nên người gìa chịu đựng độ lạnh kém người trẻ. Một hậu qủa có thể gây chết người vì kém chịu lạnh này là sự gỉam thân nhiệt, xẩy ra khi nhiệt độ giảm xuống dưới mức an toàn. 2/4- Chậm lành vết thương - Xúc giác giảm cộng thêm sự suy yếu của hệ thống miễn nhiễm kéo dài độ nhạy cảm của da khi tiếp xúc với hoá chất kích thích nên người gìa hay bị tổn thương về da. Ở người gìa, khả năng lành da khi bị tổn thương cũng rất chậm. 3- Thay đổi về chiều cao: -Với tuổi cao, con người như co lại, và dáng điệu ngay thẳng hiên ngang lúc trai tráng không còn nữa. Trung bình, khi về gìa, đàn ông thấp đi khoảng 2cm, đàn bà 1,5 cm. Ðây là do ảnh hưởng của một số yếu tố như sự gỉam nước trong cơ thể, các bắp thịt yếu, thay đổi vóc dáng, sự hoại cốt, xương sống hao mòn và biến dạng. Riêng ở nữ giới, nguyên nhân chính cuả ngắn chiều cao vẫn là do sự hư xương 4- Thay đổi về sức nặng của cơ thể - Kết qủa của nhiều cuộc nghiên cứu đều xác nhận là, sức nặng của cơ thể tăng lên ở tuổi trung niên rồi giảm xuống lúc tuổi gìa. Ðồng thời, tế bào mỡ tăng lên và thay thế vào chỗ những tế bào thịt bị mất đi vì ta khôngsử dụng đến chúng.Tế bào mỡ xuất hiện nhiều nhất ở vùng bụng và hông. 5- Một số những thay đổi khác- Nhận xét chung cho thấy,về gìa vòng ngực tăng lên,sống muĩ và tai dài ra môt chút.Trên xương đầu thì những khớp nối của xương dính liền laị, xương sọ dầy lên. Móng tay, móng chân mọc chậm đi, đổi mầu và có những lằn gợn gồ ghề. 6- Thay đổi về dung lượng nước trong cơ thể - Ở tuổi thanh niên, 60% sức nặng của cơ thể là nước, khi về già chỉ còn có 51%. Nữ giới cũng vậy: từ 51% lúc trẻ xuống 46% lúc về gìa. Nguyên do là số lượng tế baò hoặc mất đi hoặc teo đi. Trên đây là những thay đổi bình thường xẩy ra trong tiến trình lão hoá. Ngày nay khoa học đã chứng minh là ta có thể làm những thay đổi này chậm lại bằng cách sống theo quy luật thiên nhiên, tránh lạm dụng những chất có hại cho cơ thể, vận động cơ thể đều đặn cho khí huyết lưu thông, gân cốt thư dãn, cũng như giữ cảnh lòng luôn luôn an lạc, như lời người xưa : Lạc giả trường thọ, ưu giả dị yểu Những Thay Ðổi Về Giác Quan Tất cả ngũ quan: nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ mó đều suy giảm bắt đầu từ tuổi trung niên. Rồi với thời gian chồng chất, giác quan lần lần ra đi, để ta trong bóng tối, im lặng. Ngay thú vui đọc sách, nghe âm nhạc, nếm món ăn ngon đều trở nên khó khăn. Chúng tôi xin lần lượt tìm hiểu về những thay đổi, mất mát đó. I- Thay đổi về mắt.- Thị gíac.- Một ngày nào đó, khi cầm tờ báo lên để đọc một mẩu tin, ta phải đẩy tờ báo xa ra một chút nữa mới đọc được, thì ta thấy có lẽ mình đã già rồi. Thật vậy, những thay đôỉ ở mắt đôi khi là những thay đổi sớm báo hiêụ tuổi về già. Những vết da nhăn chung quanh đuôi mắt , những tuí mỡ nhỏ nơi mi dưới, những quầng đen, lần lần xuất hiện. Mi mắt trên không có hạch mỡ, da sẽ trở nên khô và nhăn. Mi dưới, ngược laị, có nhiêù hạch nhờn, giừ chất nhờn, làm mi mắt sưng lên. Những cơ thịt mất tính đàn hôì, cộng với mỡ dưới da tiêu đi, tạo thành những tuí nhỏ dưới con mắt. Ðây là những thay đổi có tính cách tích tụ và không thể đảo ngược được. Nhưng săn sóc da cẩn thận có thể dữ khóe mắt trẻ lâu : dùng dâù chống nắng khi ra ngoaì nắng, mỹ phẩm làm mềm da, ngủ đầy đủ vì da dưới mắt rất mỏng manh dễ bị ảnh hưởng của mệt mỏi và tâm trạng căng thẳng (Stress), đừng ruị mắt vì làm vậy da sẽ nhăn và sệ.. Phần trắng của mắt đổi thành bớt trắng vì mạch máu nôỉ lên kèm theo những li ty khoáng chất đọng xuống. Mầu sắc tinh anh cuả con ngươi thuở tráng niên không còn nữa vì những tế bào gây mầu mất đi. Giác mạc mất độ cong. Thuỷ tinh thể, trong suốt và deỏ của thuở trẻ, trở thành đục và cứng, ánh sáng vào võng mạc giảm đi khiến ta nhìn sự vật mờ mờ. Những bắp thịt vận động mắt bớt tính đàn hồi, khả năng bắt hình của mắt gỉam. Võng mạc, nơi thu nhận hình ảnh ánh sáng, cũng thay đổi: mạch máu nuôi dưỡng võng mạc ít đi, một số tế bào sẽ chết và taọ ra những điểm mù (blind spot) của thị giác. Thị gíac bắt đầu yếu từ tuổi 45. Khả năng nhìn gần kém cũng như điều tiết cặp mắt với khoảng cách khác nhau đều khó khăn. Vì thế khi một lão bà đang chăm chú khâu vá, có người tới gần chào, bà ta ngẩng đầu lên, ngó nghiêng và phải mất cả chục giây tập trung trước khi bà nhìn rõ người chào. Phân biệt mầu sắc khó khăn nhất là với mầu xanh và mầu lục, nhìn các mầu cuả cầu vồng như mờ dần, khiến sự vật không còn đường nét và chiều sâu. Muốn đọc hàng chữ nhỏ phải mang kính lão. Nhiều người, vốn cận thị, khi về gìa không cần mang kính cận, vì nhãn cầu đổi từ hình bầu dục sang tròn triạ hơn, hình ảnh laị hiện lên gíac mạc. Tầm mắt thu hẹp, trí nhớ thị giác giảm, khả năng thị giác ưóc lượng khoảng cách không chính xác. Vì đồng tử thu hẹp, ánh sáng thu nhận giảm đi quá nửa so với tuổi trung niên khiến người già cần thêm ánh sáng để nhìn rõ sự vật. Trong bóng tối, họ cần tời gian lâu hơn để điều chỉnh thị năng, nhưng cũng hay bị chóa mắt khi ánh sáng quá chói, nên người già gặp trở ngai khi lái xe ban đêm.Chứng đục thuỷ tinh thể, do sự thay đổi cấu taọ của chất proteine <đạm chất > trong tinh thể này, thường là một bệnh của mắt, nhưng cũng có thể xẩy ra với tuổi già. Áp xuất ở trong con mắt tăng lên, gây chứng tăng nhãn áp Glaucoma. Với thi sĩ, thì đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn, khoa học gia thì coi con mắt là những tuyến di chuyển hoá năng và điện năng lên óc, với nhà dinh dưỡng, đầu bếp thì cặp mắt là thước đo coi thức ăn nào thích hợp, nhưng với người thường chúng ta thì chỉ quan tâm tới mầu mắt nâu hay xanh, hình dáng mắt bồ câu hay lá dăm...cho tới khi nào thấy thị giác bắt đầu kém thì mới ưu tư suy nghĩ tới tuổi sẽ già. Mất hay giảm thị năng có thể đưa ta tới sự thu mình với xã hội, tự cô lập rồi rơi vào tình trạng trầm cảm, buồn rầu. 2- Thay đổi về thính giác.- Diễn biến những thay đổi ở tai thường chậm chạp, không đau đớn, bắt đầu từ ngay khi mới sanh, và âm thầm liên tục trong suốt cuộc đời con người. Có những thay đổi quan trọng ảnh hưởng tới khả năng nghe, thì cũng có những thay đổi chỉ có ảnh hưởng thẩm mỹ như :tai to lên, dái tai dài ra, lông mọc trong ống tai ngoaì, nhiều dáy tai hơn, những tế baò lông ở tai trong bắt đầu hư hao, gây ra sự nghễnh ngãng hay điếc, các mạch máu nuôi tai cũng nhỏ dần. Thính giác có ba mức độ: Nghe âm thanh hậu trường (như tiếng động trong thành phố), giúp ta nhận diện không gian quanh mình, mà khi mất đi khiến ta như lạc lõng, cô đơn. Âm thanh tín hiệu báo cho ta một bất thường, nguy hiểm có thể đến như tiếng hú cuả con chó sói, mất âm thanh này đưa ta vào tình trạng bất an, cảm giác thiếu thốn. Âm thanh biểu tượng cho ta hiểu ý nghiã cuả ngôn ngữ, lời nói mà sự mất mát làm ta mất truyền thông, gây cô lập trong xã hội. Về khả năng thính giác thì nhiều nhà khoa học đều cho là có một sự mất mát không thể tránh được khi con người trở về gìa.Ở Mỹ, khoảng một nửa số người già trên 50 tuổi có khiếm khuyết về thính gíac mà đa số đều có thể điều chỉnh được. Một khiếm khuyết thính giác vĩnh viễn, không chữa được của người gìa là sự mất khả năng nghe âm thanh có tần số cao mà nguyên nhân là do sự thoái hóa của các tế bào lông ở tai trong. Ðây là hội chứng nghễnh ngãng của tuổi già (Presbycusis ), bắt đầu từ tuổi 20-30, nhưng rõ rệt vào tuổi 50. Một phần ba người trên 65 tuổi bị chứng này,và khi tới tuổi 85,thi qúa nửa mắc phải. Người cao tuổi đôi khi nghe được tiếng nói nhưng không phân biệt được ý nghĩa, nên ta cần hơi lên cao giọng một chút, đồng thời nói chậm dải, rõ ràng, với câu ngắn và nhìn vào mắt họ. Giảm hoặc mất thính giác có thể điều chỉnh được bằng giải phẫu hay mang trợ thính cụ. Có điều cần nhớ là trợ thính cụ không mang lại toàn bộ khả năng nghe mà chỉ khuếch đại âm thanh. 3- Thay đổi về khứu giác và vị giác.- Taọ hóa cho ta những khả năng để nhìn thấy ánh sáng và sự vật, để nghe những âm thanh, tiếng động, để cảm thấy sự thay đổi của hơi nóng và sức ép của không khí. Nếm và ngửi là hai khả năng để nhận ra và phân biệt vị chất hóa học. Mất khả năng ngửi một bông hồng thơm hoặc nếm một bát canh cải ngọt, là giảm biết bao nhiêu thú vui của cuộc đời. Khứu giác giúp ta khám phá những phân tử li ti mà hầu hết các loại động vật hoặc thực vật phát tiết ra dưới dạng muì vị. Khả năng này rất cần thiết cho động vật để tự vệ, để săn mồi và trong nhiều trường hợp,trong việc yêu đương. Ngửi được không phải là do caí cục thịt nhô ra giữa mặt, mà là do cả triệu những tế bào nằm trong soang muĩ. Những tế bào này thu nhận kích thích chuyển lên vùng khứu gíac ở óc để phân tích thành những mùi khác nhau. Bình thường mũi có thể phân biệt được 18 mùi nhưng nếu được huấn luyện, ta có thể ngửi được cả ngàn mùi vị khác nhau. Khả năng phân biệt các loại mùi tốt nhất lúc tuổi 20-40, rồi giảm dần với số tuổi già.Vaò tuổi bẩy tám mươi, 60% ngươì gìa mất đi một phần nào khả năng khứu giác. Nguyên nhân của sự mất mát naỳ chưa được biết rõ: có thể là hệ thống thần kinh ngửi bị hư hao với thời gian, cũng có thể là do ảnh hưởng của sự nhiễm trùng hoặc tác dụng cuả các hóa chất, ô nhiễm không khí, thay đổi thời tiết nóng lạnh bất thường. Một chứng cớ là khả năng ngửi ở những người hút thuốc lá nặng giảm rất nhiều. Vị gíac gíup ta thưởng thức những vị chua, đắng, mặn, ngọt của vật chất, của thực phẩm. Rải rác trên lưỡi, cuống họng, vòm miệng là cả ngàn những nụ vị giác để nếm, thu nhận, phân biệt các hóa chất rồi chuyển về trung tâm vị giác trên óc để phân loại. Vị giác phụ thuộc nhiều vào khứu giác, cho nên khi khả năng ngửi cuả muĩ kém thì vị giác cũng giảm theo. Khi già, vị giác đối với các chất ngọt, đắng, chua giảm đi, còn vị giác mặn thì không thay đổi mấy. Nguyên nhân sự giảm này là do các nụ vị giác teo mất, nước miếng ít đi, vệ sinh răng miệng kém. 5- Thay đổi về Xúc giác.- Ðây là cảm giác, sự hay biết khi đụng chạm hay tự mình sờ mó. Cảm giác này mang lại tình người khi chung đụng, diễn tả một an uỉ, một hỗ trợ, một thoa dịu cũng như làm nhẹ bớt sự đau đớn tâm thân. Nó cũng giúp ta nhận biết, phân biệt hình thù, chất lượng cuả sự vật. Cảm xúc này được hoàn tất nhờ nhiều bộ phận tiếp nhận nằm rải rác trên da. Khi có sự thay đổi trên da về đàn tính, nuôi dưỡng vì tuổi cao thì chức năng cảm xúc thay đổi: thời gian nhận, phân tích, đáp ứng tín hiệu sờ mó lâu hơn. Hậu quả là một vài nguy cơ tai nạn có thể xẩy ra: Một giây lưng, nịt vú quá chặt, mà ta không cảm thấy, làm trầy da. Giây giầy quá chặt làm cản trở máu lưu thông ở bàn chân. Nằm hoặc ngồi lâu ở cùng vị trí gây thương tích cho phần mềm da thịt. Kém cảm giác với độ nóng đưa tới phỏng da, mà giảm cảm giác với độ lạnh dễ gây cóng cơ thể. Rất khó mà phục hồi lại sự mất mát về xúc giác, mà người già vẫn cần sự trìu mến vuốt ve cuả người thân yêu. Hãy sưởi ấm tình già bằng những bàn tay ấm áp./.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 7:40:14 GMT 9
Vô Minh và Khoa Học Não Bộ. Vietsciences-Thái Minh Trung Vô minh là một danh từ phát xuất từ Phật giáo. Dân gian ai đi chùa thì ít ra cũng quen thuộc với khái niệm “tham, sân, si”. Si mê hay vô minh nói lên một tâm trạng thiếu sáng suốt đưa đến những hành động tội lỗi trái luân lý. Khi học đạo, người ta nghĩ rằng vô minh chỉ là một khái niệm có lẽ nghiêng về luân lý (ethics) nhiều hơn là khoa học. Gần đây, khi khoa học và tâm lý học phát triển, người ta mới bắt đầu hiểu rằng vô minh có cơ sở khoa học. Ở loài người, nguồn gốc của vô minh có thể giải thích qua sự phát triển của não bộ. Khi các nhà nhân chủng học (anthropologist) nghiên cứu sự phát triển não bộ của con người qua hàng triệu năm, bằng cách đo xương sọ từ đó suy ra dung tích của não bộ, thì nhận thấy rằng sự khác biệt giữa loài người có văn minh và loài khỉ là ở vỏ não (cortex). Não của loài người có 2 phần, phần nằm trong sâu gọi là hệ thống limbic (limbic system), phần này mọi sinh vật đều có, và phần vỏ não phát triển tột bực ở loài người. Hệ thống limbic là vùng não phát triển rất sớm, nghiêng về tình cảm và bản năng. Nhờ có bản năng nên con người nguyên thủy mới có thể sống sót và truyền giống nòi. Nói một cách khác, khi đứng trước thức ăn mà không thèm ăn, gặp người khác phái mà không có ham muốn tình dục và khi gặp kẻ thù ăn cắp thức ăn và bắt cóc vợ con mà không giận dữ thì loài người sẽ mất sự tồn tại trên thế gian và mất khả năng truyền gene lại cho thế hệ sau. Ở loài khỉ, con khỉ đực nào có nhiều testosterone (kích thích tố nam), chiến đấu chống lại những con khỉ đực khác (sân) thì sẽ có vị trí đầu đàn và có quyền giao hợp với nhiều khỉ cái (tham). Hiểu như thế, tham và sân là bản năng để con người tiền sử sống còn. Ở thế giới động vật bản năng tự nó điều chế. Thức ăn nhiều thì sanh sản nhiều, thức ăn ít thì ham muốn sinh dục ít đi và sinh sản bớt lại. Khi não bộ chưa phát triển và loài người tiền sử sống với sự điều khiển của bản năng thì chiều hướng của bản năng là bảo vệ sự sống còn của giống nòi. Tuy nhiên, trên đà tiến hóa của não bộ thì phần vỏ não (cerebral cortex) phát triển rất nhanh, nhờ đó tạo cơ hội cho sự phát triển của ngôn ngữ và ý thức (awareness). Ý thức được khoa học định nghĩa là sự nhận thức ra cá nhân và cá nhân đó khác biệt với người khác. Khi ta nhìn ta trong gương, ta nhận ra hình ảnh của chính mình, đó là ý thức cá nhân. Hình ảnh của người kế bên không phải là ta. Sự phân biệt so sánh này là nguồn gốc của cái “tôi”. Bản chất của cái tôi là ý muốn khác biệt và hơn trội người khác. Cái tôi gây ra rất nhiều vấn đề chúng ta sẽ đề cập ở phần sau. Cũng vào thời điểm này, những bộ lạc dần dần sống chung thành một xã hội. Nhờ vỏ não phát triển nên con người nguyên thủy có sự sáng tạo quy ước dùng một âm thanh để diễn tả ý nghĩ và tình cảm. Ngôn ngữ là âm thanh, phát ra rồi mất đi. Người ta chế ra chữ viết để lưu truyền ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ, chữ viết và đời sống xã hội nên những phát minh mới và hiểu biết mới của một người được nhiều người áp dụng và biến chế tốt hơn. Đây là nền tảng của khoa học. Nhờ có chữ viết nên kiến thức được lưu lại sau khi con người qua đời. Nhờ vậy sự hiểu biết của loài người lưu truyền được và phát triển cực kỳ nhanh. Giả sử ta có một thần đồng sống biệt lập trong rừng thì những phát minh khoa học sẽ không có phương tiện phát triển thành sản phẩm khoa học. Tuy nhiên sự phát triển nhanh chóng của vỏ não và sản phẩm của nó là ngôn ngữ và khoa học kỹ thuật cũng có những cái hại của nó. Con người không biết tự điều hòa như thiên nhiên. Con người có sự ý thức để hiểu biết thiên nhiên, tuy nhiên sự phát triển vượt bực của ý thức không đi đôi với sự trưởng thành của tình cảm. Từ đó mà những sản phẩm của khoa học kỹ thuật có thể làm đảo lộn cái trật tự quân bình của thiên nhiên. Hồi xưa với cây búa rìu muốn đốn cây thì không đốn được bao nhiêu nên thiên nhiên được bảo tồn. Ngày nay với công cụ tối tân, người ta có thể đốn hết khu rừng trong nháy mắt. Đây mới là cái tham, sân, si mà tôn giáo đề cập đến và con người cần thay đổi. Cái phản ứng phụ của trí khôn là cái ý muốn sở hữu. Con người muốn sở hữu đồng loại và thiên nhiên. Ngay từ thời nguyên thủy, những bộ lạc thắng trận thường bắt những người thua trận làm nô lệ cho mình. Điều này xảy ra cho tới thế kỷ thứ 19 với người da đen làm nô lệ cho chủ đồn điền da trắng. Trong tình yêu ta muốn giữ người ta yêu cho riêng mình. Cha mẹ muốn con cái làm theo ý của mình. Nếu con cái không theo thì đôi khi cha mẹ từ con ra và gán cho con là cái tên hư hỏng. Trong tôn giáo kẻ không cùng tín ngưỡng là kẻ ngoại đạo. Ở thiên nhiên, cái sở hữu quá độ như đốn rừng hay lưới cá một cách cẩu thả ảnh hưởng xấu đến môi trường sinh hóa. Ngoài ra, con người còn muốn sở hữu năng lượng (đất và nước) của quả địa cầu, chia ranh giới và gây ra tranh chấp. Đối lập và xung đột là sản phẩm của trí khôn và của cái tôi. Khi trí khôn phát triển, con người muốn mình khác với người khác vì đặc tính của trí khôn là sự sáng tạo. Nhưng sự sáng tạo này nằm trong một khuôn khổ cứng rắn. Khi ta gắng một tính từ đúng sai hay xấu tốt lên một người nào đó thì ta mất cái khả năng nhìn sự thật. Ta chỉ thấy trắng hay đen. Ta thương người theo mình (tham) và ghét bỏ người không theo mình (sân). Ta mất cái nhìn trung dung. Mất khả năng nhìn sự thật khách quan và muốn vũ trụ xoay quanh theo ý mình là nguồn gốc của vô minh và cũng là nền tảng của cái tôi. Một người có thể khôn xuất chúng nhưng vẫn có thể bị màng vô minh che đậy tâm trí. Sự nhận thức và bỏ theo quỹ đạo của cái tôi tạo ra vô số mâu thuẫn căng thẳng trong nhiều lãnh vực: gia đình, xã hội, chính trị và tôn giáo. Trong vô minh, con người có thể dùng trí khôn biện hộ cho hành động sai lầm thay vì dùng trí khôn giúp mình thay đổi để đáp ứng hoàn cảnh. Khi chưa được cái mình muốn con người sanh ra lòng tham và khi mất cái mình được thì sân hận. Đọc giả hãy thử phân tích hoàn cảnh này xem sao. Ông A di du lịch và làm quen được với ông B. Hai người nói chuyện trao đổi với nhau vui vẻ. Một ngày nào đó đất nước ông A và ông B trở thành thù nghịch. Hai người bị động viên. Khi khoác áo nhà binh lên người thì 2 người trở thành thù nghịch và sẵn sàng giết nhau mặc dù không có mối hận thù cá nhân riêng biệt. Như thế mới hiểu được cái tai hại khi chúng ta gán cho người khác cái nhãn hiệu mà không hiểu được sự thật. Chuyện như thế xảy ra rất nhiều và thịt rơi, máu đổ cũng vì hiểu lầm. Thời chiến tranh Việt Nam cũng thế, vô số người dân vô tội bị giết chết cũng vì bị gán cái tội theo “Việt cộng” hay theo “Mỹ ngụy”. Không những có những trường hợp thương tâm này ở Việt Nam mà khi ta nhìn lại lịch sử con người ta thấy những trường hợp như vậy xảy ra rất thường xuyên. Khi một chính phủ hay một cơ quan tôn giáo xác nhận một nhóm người khác là “kẻ thù” hay “ngoại đạo” rồi thì sự sát nhân hàng loạt xảy ra rất dễ dàng. Thời Trung cổ có tòa án dị giáo (inquisition tribunal) giết chết hàng loạt người không theo Thiên chúa giáo, rồi đến Thánh chiến (Crusade). Thời thực dân (colonial), người da trắng coi người da đen là dòng giống kém và đến châu Phi bắt cóc họ làm nô lệ cho các đồn điền. Vào đệ nhị thế chiến Hitler ra lệnh giết hàng loạt người Do Thái (holocaust). Gần đây hơn thì chế độ kỳ thị Apartheid ở Nam Phi vẫn không công nhận quyền lợi bình đẳng của người da đen. Sở dĩ vô minh xảy ra vì tư tưởng và trí khôn loài người chưa phát triển để đạt đến khả năng trực nhận thực tế (danh từ Phật giáo gọi là giác ngộ). Sự truyền đạt thông tin của tư tưởng rất hạn chế. Có lẽ vì thế con người thích có một khuôn mẫu hiểu biết có sẵn để nương theo. Ở những xã hội sơ đẳng (lúc đó chưa có những phương tiện truyền thông như TV và radio) thì ca dao tục ngữ là những công thức cho dân gian kém học thức nương nơi đó mà cư xử với nhau cho thích hợp. Ngoài ca dao tục ngữ thì có những chuyện cổ tích để cho người ta noi theo gương tốt. Những phương pháp truyền đạt kiến thức kể trên rất đơn sơ và chỉ thích hợp với một số nhỏ người hạn chế ở địa lý cư ngụ của những người đó. Thí dụ như ca dao về mùa màng ở miền nhiệt đới không thích hợp với dân miền ôn đới. Đọc giả nên phân biệt giữa hiểu biết và diễn đạt hiểu biết. Hiểu biết của ông thầy có thể diễn ra trong nháy mắt nhưng khi người thầy giáo dùng tư tưởng suy nghĩ để giải thích sự hiểu biết đó cho học sinh thì phải mất nhiều thời giờ hơn. Ngoài ra sự truyền đạt hiểu biết qua tư tưởng và lời nói không thể nào trung thực và đạt được 100% dữ kiện chứa trong cái trực hiểu của ông thầy. Tệ hơn đôi khi người nói một đường, kẻ hiểu một ngả. Càng cố chấp trên suy nghĩ thì sự hiểu lầm càng sâu hơn. Nếu người sở hữu kiến thức (trò) áp dụng một cách cứng rắn thì khả năng đáp ứng thực tế của họ càng kém hơn người (thầy) tạo ra kiến thức đó. Vì thế muốn xã hội tiến bộ thì trò phải hơn thầy. Nếu ông thầy sợ học trò hơn mình và không truyền đạt hết kiến thức, và người học trò không hiểu hơn thầy mình thì xã hội sẽ đi lùi. Hiểu như thế tinh thần vô ngã là thái độ cần có để xã hội phát triển. Các mạch thần kinh ở não bộ con người khác với mạch máu. Mạch máu có đường đi nhất định. Những mạch thần kinh có khả năng kết nối với nhau một cách uyển chuyển (plasticity of the nervous system). Những người bị tai biến mạch máu (stroke), mất hết một phần của não bộ nhưng vẫn có thể phục hồi một phần nào chức năng cơ thể vì các tế bào thần kinh ráp nối với nhau tạo ra mạch thần kinh mới để thông qua những tế bào thần kinh bị chết, từ đó bịnh nhân có thể sử dụng trở lại những bắp thịt bị tê liệt. Cũng như thế khi ta không cố chấp thì khả năng kết nối của hệ thống thần kinh ta dồi dào hơn. Khi sự kết nối nhiều thì khả năng hiểu nhiều khía cạnh của một sự kiện tăng theo. Khi chúng ta học hỏi và nhận thức một điều mới lạ thì những tế bào thần kinh sẽ liên kết với nhau nhiều hơn. Khi ta cố chấp vào một sự việc thì tế bào thần kinh không có sự ráp nối dồi dào, khiến ta không nhận biết được những dữ kiện khác của sự thật. Ta trở thành người mù sờ voi, chỉ thấy được một phần nhỏ của con voi và tranh chấp cãi lộn với những người khác thấy những phần khác của con voi. Vì thế ở kẻ mê tín dị đoan, não bộ của họ mất sự uyển chuyển kể trên. Chính đây là nền tảng cơ sở khoa học não bộ của vô minh. Cái khó khăn là người vô minh không bao giờ nhận ra tâm trạng đó. Cũng giống như người bị điên (psychosis), cho rằng kẻ khác bất bình thường, còn mình thì hoàn toàn bình thường. Làm sao ra khỏi cái vòng lẩn quẩn của vô minh khi mà người vô minh không nhận ra họ bị vô minh. Rồi một nhóm người vô minh tranh cãi biện luận với nhau để giành phần đúng về mình. Họ tạo thành nhiều băng đảng chính trị, chủ nghĩa quốc gia hay niềm tin tôn giáo khác nhau. Suy nghĩ càng biệt lập và khác biệt thì lòng tin tưởng lẫn nhau giữa loài người suy giảm trầm trọng và lòng lo sợ, hận thù tăng hơn. Nếu sự lo sợ tăng đến nỗi người ta mất khả năng dùng lý trí để thay đổi nhận thức thì nó trở thành cực đoan và bịnh hoạn (paranoid delusion). Đây là những cách người ta bảo vệ cái chủ nghĩa tư tưởng mà họ cho là đúng. Nói tóm lại trong sự bảo vệ quá đáng đó họ thiếu lòng tin và sự suy nghĩ sáng suốt một cách trầm trọng. Hiểu như vậy thì không có gì lạ khi hai tôn giáo chính của thế giới đề cao lòng tin (Ki tô giáo) và suy nghĩ sáng suốt (Phật giáo). Chúa và Phật có thể được coi là những bậc thánh nhân và cũng là những bác sĩ tâm lý đại tài. Sở dĩ những ấn tượng trên tâm lý của hai đạo này tồn tại đến ngày nay, có lẽ vì các vị thánh nhân này đã thấu hiểu được căn bịnh về tâm lý của loài người và nói trúng tim đen của loài người. Những vị này muốn mở đường hướng dẫn nhân loại- nói theo khoa học não bộ ngày nay- xử dụng não bộ của họ một cách hữu hiệu để tránh loài người dùng trí khôn sáng tạo vũ khí tự tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt quả địa cầu. Khi trị được si mê thì tham và sân tự nó biến đi. Chính vì tham và sân là sự hiểu lầm do si mê gây ra. Có cách nào nhanh nhứt để trị cơn si mê, giấc mộng ngàn đời của nhân loại? Như ta thấy khi nào con người còn có suy nghĩ đúng sai thì lúc đó sự tranh chấp sẽ không dừng. Suy nghĩ có thể vẽ ra ngàn lối khác nhau. Một khi suy nghĩ vẽ ra rồi thì ít khi nó chịu rời bỏ sản phẩm của nó. Con người phải tập vượt qua cái ý nghĩ chấp đúng sai. Con người phải tập lắng nghe chính mình và lắng nghe người khác. Chấp đúng sai là vội khóa mình trong một kết luận nông cạn. Khi còn suy nghĩ đúng sai thì cái suy nghĩ đó sẽ làm nhiễm (contaminate) cảm nhận sự thật. Suy nghĩ là hình bóng chứa dữ kiện của một hiện tượng đã qua. Khi ta giữ cái hình bóng đó trong tâm thì sự đáp ứng tức thời và khả năng nhận ra sự thật bị giảm đi rất nhiều. Thí dụ như ông A vừa mới cãi lộn xong với vợ mình và bực bội lái xe ra khỏi nhà. Trong tâm trí ông còn những suy nghĩ lẩn quẩn về câu chuyện không vui vừa xảy ra. Tâm ông bị phân trí và suýt nữa ông vượt đèn đỏ gây ra tai nạn. Khi vào sở ông nạt nộ với nhân viên trong sở gây ra nhiều căng thẳng. Ở trường hợp trên, ông A vì suy nghĩ về chuyện quá khứ nên mất khả năng nhận ra hiện tại, như đèn đỏ và không đáp ứng với hoàn cảnh hiện tại trong sở (nhân viên không có lỗi lầm mà bị nạt). Ở mọi hoàn cảnh trong cuộc sống, nếu ta làm chủ được những dòng tư tưởng suy nghĩ hiện ra trong đầu, không dùng những dữ kiện của quá khứ để đối phó với hiện tại hay phỏng đoán tương lai thì khả năng nhận thức tức thời tại thời điểm hiện tại (here and now) sẽ rất nhậy. Phát triển cái nhận thức tức thời không qua suy tư được gọi là thiền. Nghiên cứu cho thấy não bộ con người phản ứng với những hình bóng suy nghĩ dựng ra y như sự thật trước mặt. Rồi như thế chưa đủ, con người cố gắng diễn tả những hình bóng suy nghĩ đó bằng nghệ thuật điện ảnh. Khán giả thật sự vui buồn với cái ảo giác. Nếu ai cũng xem cái thực tế của phim ảnh là những hình bóng màu mè phản chiếu lên màn ảnh thì công nghiệp điện ảnh sẽ bị phá sản từ lâu rồi. Bây giờ độc giả hãy tưởng tượng rằng chỉ có một màn ảnh mà có đến nhiều người muốn đồng lượt chiếu phim của mình lên trên đó. Như thế những hình bóng trên màn ảnh rất rối loạn, chính sự rối loạn đó là vô minh. Ai cũng muốn la lớn là tôi hay, tôi đúng, mọi người nên theo tôi. Không ai nghe ai và không ai chịu khó tìm hiểu người khác. Đó là vô minh. Đây là thảm trạng của xã hội hiện giờ, sự thành công được đo bằng mình trội hơn người khác. Có ai biết tại sao sản phẩm tiện nghi của khoa học càng nhiều, nhưng ngược lại với dự đoán, stress và những bịnh do căng thẳng tinh thần xảy ra nhiều hơn chăng? Bây giờ muốn cho mọi người nhìn thấy ánh sáng thì chúng ta phải tắt hết phim lại. Tắt hết phim lại là để cho tâm tĩnh lặng. Khi tâm tĩnh lặng rồi thì người ta mới có cơ hội cùng nhìn về một hướng và hiểu một chuyện. Nếu tâm loạn động thì chỉ có hai người thôi mà xảy ra biết bao nhiêu chuyện phức tạp. Chỉ có một chuyện mà bị méo mó biến ra mười chuyện khác nhau. Cho nên để tâm tĩnh lặng thì màn vô minh bị mỏng dần và khả năng nhận định sự thật và thông cảm lẫn nhau tăng hơn. Khi vô minh mỏng dần thì tham biến thành trí tuệ thích hiểu biết và sân biến thành sự dũng cảm dám thay đổi tánh tình (tu). Khi vô minh mỏng dần thì não bộ sẽ có khả năng kết nối với những vùng mới lạ. Và từ đó đời sống tâm linh của nhân loại sẽ được phát triển và phong phú hơn. Tâm tĩnh lặng không phải là một cái gì trừu tượng mà hiện nay khoa học có thể dùng điện não đồ EEG để đo được. Khi ta thư giãn để tâm tĩnh lặng thì tần số rung động của não bộ giảm xuống khoảng 8- 10 Hz, tần số này gọi là tần số Alpha. Những nghiên cứu cho thấy não bộ hoạt động hữu hiệu nhứt ở tần số này. Đây cũng là cái tần số của tâm “vô ngã”. Đó là một tâm trạng sáng suốt với ý thức mở rộng để hiểu mình và hiểu người. Khi ta tập tâm tĩnh lặng ở tần số này, để mặt trời ý thức hiện ra thì những tư tưởng mây đen cố chấp của vô minh sẽ ít dần. Chúng ta rất may mắn sống ở thời điểm này. Với những kiến thức mới của khoa học não bộ, cái ranh giới giữa tôn giáo và khoa học sẽ mỏng dần. Hy vọng sẽ có một ngày người ta không còn giết lẫn nhau vì sự khác biệt tín ngưỡng. Ngày đó đa số con người sẽ sống với tần số Alpha và sẽ có tâm trạng “vô ngã”, biết lắng nghe và thông cảm lẫn nhau. Hòa bình thật sự chỉ có thể xây dựng được từ trong tâm mà thôi.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 3:40:38 GMT 9
Cắt bỏ tử cung (hysterectomy) Trich tu website ThuVienVietNam. BS.TranLyLe Tử cung hay dạ con (uterus) là bộ phận trong cơ thể người mẹ nơi cưu mang đứa con trong thời gian thai nghén. Cắt bỏ tử cung là một cuộc giải phẫu thực hiện qua việc xẻ một đường ở bụng dưới (abdominal hysterectomy). Đôi khi việc cắt bỏ tử cung còn bao gồm cả hai ống dẫn trứng (oviduct, Fallopian tube) và hai buồng trứng (ovary). Đây là cuộc giải phẫu thường thấy nhất trong phụ nữ. Cắt bỏ tử cung cũng có thể được thực hiện qua âm hộ - âm đạo (girl thingyl hysterectomy) hoặc dùng cách nội soi (laparoscopic hysterectomy). Cắt bỏ tử cung qua việc mổ bụng dưới thực hiện khi tử cung quá lớn hoặc khi bác sĩ muốn quan sát các bộ phận khác trong khoang bụng. Cắt bỏ tử cung được thực hiên khi bệnh nhân bị một trong những chứng bệnh sau: - Ung thư các bộ phận sinh dục như tử cung, cổ tử cung. Tùy theo thòi kỳ ung thư, bệnh nhân có thể được chữa trị thêm bằng xạ trị hoặc hóa chất. - U xơ (fibroid): Đây là cách chữa trị dứt chứng u xơ tử cung (không tái phát nữa). U xơ là lọai bướu lành, gây xuất huyết, thiếu máu, đau bụng dưới hoặc tạo áp suất đè nặng bàng quang (bọng đái, bọng nước tiểu). - Endometriosis: Các tế bào lót tử cung mọc lan bên ngoài tử cung hoặc buồng trứng, ống dẫn trứng, các bộ phận khác trong khoang bụng. Khi dược phẩm không hiệu quả, bác sĩ có thể cần cắt bỏ tử cung, buồng trứng và ống dẫn trứng (bilateral salpingo-oophorectomy). - Sa tử cung (uterine prolapse): Tử cung sa (xệ) xuống âm đạo khi các dây chằng và cơ giữ tử cung tại chỗ bị giãn. Sa tử cung tạo áp suất đè nặng bàng quang khiến bệnh nhân không điều khiển được sự co thắt của van bàng quang, do đó, tiểu tiện bất ngờ, không kìm hãm được; cắt bỏ tử cung để sửa chữa tình trạng này. - Xuất huyết triền miên: kinh nguyệt bị nhiễu loạn, xuất huyết quá nhiều hoặc quá lâu mỗi kỳ kinh nguyệt. Khi thuốc men không hiệu quả, bác sĩ cần cắt bỏ tử cung. - Đau bụng kinh niên: Đôi khi giải phẫu là cách chữa trị cuối để ngừng sự đau đớn nếu tử cung là nguyên nhân. Cắt bỏ tử cung chấm dứt việc mang thai. Nếu muốn duy trì sự sinh sản, bạn hãy thảo luận với bác sĩ về các cách chữa trị khác. Khi bị ung thư, cắt bỏ tử cung là cách chữa trị duy nhất trong khi các chứng bệnh khác có thể chữa trị bằng dược phẩm hoặc các phương pháp khác trước khi giải phẫu. Trước khi giải phẫu, bác sĩ sẽ thảo luận với bạn về việc cắt bỏ hay giữ lại buồng trứng và ống dẫn trứng. Các yếu tố rủi ro: Cắt bỏ tử cung là cách trị liệu an toàn tuy nhiên, đôi khi sự rủi ro có thể xảy ra. Các rủi ro bao gồm: - Máu đóng cục - Nhiễm trùng - Xuất huyết - Dị ứng với thuốc gây mê - Hư hại đường tiểu tiện, bàng quang, trực tràng hoặc các bộ phận khác trong khoang bụng và có thể cần cuộc giải phẫu thứ nhì để sửa chữa. - Mãn kinh sớm - Tử vong: rất hiếm Cần làm gì để sửa soạn? Đây là cuộc giải phẫu thực hiện tại bệnh viện, thời gian tùy thuộc vào cách giải phẫu và tình trạng sức khỏe của bệnh nhân. Nói chung, bệnh nhân ở lại bệnh viện khoảng 2 ngày. Hãy sửa soạn vài tuần lễ nghỉ ngơi để hồi phục. Trong thời gian này, tránh vận động nặng, tránh lái xe. Khi giải phẫu, bác sĩ cắt rời tử cung từ buồng trứng, ống dẫn trứng và âm đạo, cột chặt các mạch máu dẫn đến tử cung. Tử cung và cổ tử cung (cervix) đều bị cắt bỏ (total hysterectomy). Đôi khi bác sĩ giữ lại cổ tử cung (partial, supracervical hysterectomy). Ngược lại, đôi khi bác sĩ cắt bỏ cả buồng trứng và ống dẫn trứng. Trước khi giải phẫu, bác sĩ làm một số thử nghiệm tìm kiếm dấu vết của ung thư, nếu có, sẽ cần thay đổi cách giải phẫu. Các loại thử nghiệm bao gồm: - Pap smear: tìm kiếm dấu vết của các tế bào bất thường tại cổ tử cung - Endometrial biopsy" trích mô tử cung tìm dấu vết của các tế bào bất thường tại tử cung. - Siêu âm khoang bụng: đo kích thước khối u xơ, u nang tại buồng trứng ... Trước ngày mổ, bệnh nhân có thể dùng thuốc xổ để làm sạch ruột già, trực tràng; bơm nước rửa âm hộ và âm đạo (girl thingyl douche). Sau khi giải phẫu, bệnh nhân được truyền thuốc kháng sinh để giảm rủi ro nhiễm trùng. Cắt bỏ tử cung được thực hiện sau khi gây mê và bệnh nhân ngủ trong khi giải phẫu. Cuộc giải phẫu kéo dài khoảng 1-2 tiếng. Bác sĩ xẻ một đường trên bụng, đường cắt dọc thường nằm giữa thân thể, kéo dài từ dưới rốn đến xương mu; đường cắt ngang còn được gọi là "bikini line" cách xương mu khoảng 1 phân Anh. Việc cắt dọc hay ngang tùy thuộc vào những yếu tố như mục đích cuộc giải phẫu, bác sĩ có cần xem xét các bộ phận khác hay không, hoặc vết thẹo trên bụng. Sau khi giải phẫu Bệnh nhân nằm tại phòng hồi sức vài tiếng cho đến khi tỉnh sau đó chuyển về phòng bệnh. Ngày hôm sau, bệnh nhân sẽ cần ngồi dậy, đi lại cho máu huyết lưu thông, và rời bệnh viện 2-4 ngày sau khi giải phẫu. Hồi sức sau cuộc giải phẫu -Cần nghỉ ngơi khoảng 2-6 tuần lễ -Đừng nhấc, khiêng vật nặng -Chờ ít nhất 6 tuần trước khi giao hợp trở lại. -Theo lời chỉ dẫn của bác sĩ về việc tự chăm sóc Những ngày sau Cắt bỏ tử cung thay đổi một số khía cạnh trong đời sống: - Kinh nguyệt chấm dứt dù còn trong tuổi sinh sản - Những triệu chứng dẫn đến cuộc giải phẫu thường chấm dứt - Không thể mang thai - Nếu bác sĩ cắt bỏ cả buồng trứng, bạn sẽ có các triệu chứng của thời mãn kinh - Nếu giữ lại buồng trứng, việc mãn kinh sẽ xảy ra sớm hơn - Nếu còn giữ lại cổ tử cung, bạn sẽ cần khám bệnh định kỳ để làm Pap smear Những khía cạnh khác của đời sống sẽ trở lại bình thường sau khi hồi sức: - Nếu vừa ý với sinh hoạt tình dục trước khi mổ, sự hài lòng sẽ tiếp tục sau khi mổ. Một số phụ nữ hài lòng hơn khi giao hợp vì không còn đau đớn, xuất huyết nữa. - Khi các triệu chứng dẫn đến cuộc giải phẫu chấm dứt, bạn có thể sinh hoạt bình thường và tận hưởng đời sống. Đôi khi việc cắt bỏ tử cung liên quan đến "nữ tính", bạn có thể cảm thấy mất mát sau khi mổ. Những phụ nữ còn trong tuổi sinh sản khi cần cắt bỏ tử cung thường trải qua một thời gian buồn rầu hoặc trầm cảm vì mất khả năng sinh sản. * Tài liệu của Mayo Clinic & Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 3:44:39 GMT 9
Nhiễm trùng siêu vi khuẩn herpes simplex (HSV)Bác Sĩ Trần Lý Lê / ThuVienVietNam.com * Hình ảnh của H. Fisher, Getty Images Nguyên nhân Nhiễm trùng HSV thường do 1 trong 2 chủng siêu vi khuẩn: 1) Loại 1 (HCV-1): gây nhiễm trùng tại môi, miệng và mặt. Đây là loại nhiễm trùng thường thấy nhất và thường xuất hiện trong tuổi thơ. HSV-1 gây những vết lở trong miệng trông giống những bong bóng bên trong là chất lỏng, gọi là "cold sore" hay "fever blister". Loại nhiễm trùng này có thể gây nhiễm trùng tại màng bọc não bộ hay meningoencephalitis. Siêu vi khuẩn HSV-1 lan truyền qua nước miếng. Vào tuổi trưởng thành, khoảng 30-90% con người có kháng thể chống lại HSV-1. 2) Loại 2 (HSV-2): thường lan truyền qua việc giao hợp, nên còn được xem là một chứng bệnh "hoa liễu" hay "phong tình". Triệu chứng thường bao gồm các vết lở tại bộ phận sinh dục. Tuy nhiên, một số người bị nhiễm trùng không có dấu hiệu của vết lở hoặc triệu chứng nào. Khoảng 30% người lớn có kháng thể chống lại siêu vi khuẩn này. Tùy thoe phương thức giao hợp, nhiễm trùng HSV-1 có thể xuất hiện tại bộ phận sinh dục hoặc ngược lại, HSV-2 xuất hiện trong miệng, gọi là "cross-infection". Nhiễm trùng HSV có thể xuất hiện trên ngón tay, gọi là "herpetic whitlow", xuất hiện trong chuyên viên y tế, xảy ra khi mổ xẻ hay khám bệnh, nhiễm nước miếng chứa siêu vi khuẩn. Trẻ em cũng có thể bị chứng nhiễm trùng này. HSV có thể gây nhiễm trùng trong thai nhi và ảnh hưởng đến sự hình thành của đứa trẻ. Người mẹ bị nhiễm trùng trong mang thai sẽ truyền siêu vi khuẩn cho hài nhi, nhất là khi sanh nở theo cách tự nhiên, đứa trẻ "đi qua" âm đạo để chào đời. Tuy nhiên, 60-80% phụ nữ mang thai khi bị nhiễm trùng thường không có triệu chứng gì. Siêu vi khuẩn có thể lan truyền dù người bị nhiễm trùng không có triệu chứng kể cả các vết lở. Phần lớn (2/3) những người bị nhiễm trùng HSV tại bộ phận sinh dục thường bị tái phát, ít nhất là 2-3 lần mỗi năm. HSV tiềm ẩn trong cơ thể, không thể loại trừ dứt, thỉnh thoảng tái phát. Triệu chứng - Vết lở thường xuất hiện trong miệng, môi, nướu hoặc bộ phận sinh dục - Hạch bạch huyết sưng trướng tại cổ hoặc háng (thường thấy khi bị nhiễm trùng lần đầu) - Lên cơn sốt, nhất là khi bị nhiễm trùng lần đầu - Tại bộ phận sinh dục (dương vật hoặc âm hộ) thường có cảm giác kim châm hoặc phỏng rát Bác sĩ có thể chẩn đoán khá chính xác qua việc quan sát các vết lở. Tuy nhiên, việc thử nghiệm sẽ chứng nhận việc nhiễm trùng qua các loại thử nghiệm sau: 1) Thử máu để tìm kháng thể chống lại HSV (HSV antibody) 2) Tìm kháng thể tại tế bào nhiễm trùng (Direct fluorescent antibody hay DFA) Chữa trị Loại nhiễm trùng nhẹ thường tự lành bệnh, không cần chữa trị. Những người bị: a) nhiễm trùng nặng hoặc việc nhiễm trùng kéo dài, b) suy yếu hệ đề kháng, hoặc c) bị tái phát thường xuyên sẽ càn được chữa trị bằng kháng sinh như acyclovir (Zovirax), famciclovir (Famvir) và valacyclovir (Valtrex). Các vết lở thường lành sau 7-10 ngày. Riêng với những người bị suy yếu hệ đề kháng, cơn nhiễm trùng có thể kéo dài và trầm trọng hơn. Khi đã bị nhiễm trùng, siêu vi khuẩn lan đến các "nhân" tế bào thần kinh và tiềm ẩn tại đó suốt đời. Các siêu vi khuẩn này trở lại máu và gây triêu chứng. Những yếu tố "khích động" sự tái phát bao gồm Ánh nắng, sốt cao độ, áp lực trong đời sống, bị một căn bệnh gây suy yếu hệ đề kháng hoặc dùng thuốc men gây suy yếu hệ đề kháng như ung thư, HIV/AIDS hoặc corticosteroids. Biến chứng HSV có thể tạo ra một số biến chứng trầm trọng như: - Eczema herpetiform: các vết lở xuất hiện trên da khắp cơ thể - Encephalitis: viêm não bộ - Nhiễm trùng mắt (keratoconjunctivitis) - Nhiễm trùng khí quản - Viêm màng não (meningitis) - Sưng phổi Khi nào thì đi khám bệnh? Đi khám bệnh khi thấy vết lở khác thường, nhiều căn bệnh tạo ra các triệu chưng tương tự như nhau. Khi đã bị nhiễm trùng HSV, và các vết lở không lành, hãy đi khám bệnh, hoặc khi bị chứng bệnh gây suy yếu hệ đề kháng nên dễ bị nhiễm trùng như tiểu đường, bại thận, dùng corticosteroid kinh niên để chữa viêm khớp xương, suyễn... Phòng ngừa Phòng ngừa HSV rất khó vì người bệnh thường không biết mình bị nhiễm trùng khi không có triệu chứng nào. -Tránh sờ mó các vết lở - Những người bị nhiễm trùng HSV-2 nên tránh giao hợp khi có các vết lở, "áo mưa" (condom) có thể giúp giảm sự lan truyền. - Những người bị nhiễm trùng HSV nên tránh sờ mó gần gũi hài nhi, trẻ em bị suyễn hoặc những người bị suy yếu hệ đề kháng vì nhóm người này rất dễ bị nhiễm trùng và khi bị nhiễm trùng , căn bệnh thường trầm trọng hơn, kéo dài lâu hơn so với người khoẻ mạnh. - Để tránh nhiễm trùng cho hài nhi, khi sanh nở, bác sĩ cần mổ để đón đứa trẻ ra đời (tránh không "đi qua" âm đạo).
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 3:50:15 GMT 9
Giấc ngủ, sinh lý, bệnh lý và chứng mất ngủ
Bác Sĩ Trần Lý Lê, Thư Viện Toàn Cầu (www.tvvn.org) Ngủ ngon giấc và ngủ đầy đủ giúp cơ thể khỏe khoắn, tâm trí làm việc đắc lực hiệu quả hơn. Giấc ngủ quan trọng như thế nhưng chẳng mấy ai quan tâm đến giấc ngủ trừ khi cơ thể bất an và mỏi mệt. Ngủ ngon giấc và ngủ đầy đủ được xem như “bình thường” và các chuyên gia về Thần Kinh đang khảo nghiệm về sự liên quan giữa giấc ngủ bình thường và tình trạng sức khỏe. Tài liệu sơ khởi cho thấy rằng khi thiếu ngủ (ngủ không đủ giấc hay dưới 6 tiếng mỗi ngày) hoặc khi ngủ quá nhiều (hơn 9 tiếng mỗi ngày) đều có hại cho sức khỏe. Như thế, ta cần ngủ bao nhiêu tiếng mỗi ngày? Tùy theo tuổi tác và tình trạng sức khỏe toàn diện, trung bình: • Trẻ em cần 16 tiếng mỗi ngày • Tuổi dậy thì cần 9 tiếng mỗi ngày • Người lớn 7-8 tiếng mỗi ngày; tuy nhiên có một số chỉ cẩn ngủ khoảng 5 tiếng và một số khác cần ngủ đến 10 tiếng mỗi ngày. • Phụ nữ mang thai cần ngủ nhiều hơn trong 3 tháng thai nghén đầu tiên Khi thiếu ngủ đêm trước, cơ thể đòi hòi được ngủ bù ngày hôm sau. Nghĩa là khi mất ngủ, cơ thể có một món nợ, sleep debt, một trương mục thời giờ bị hao hụt, và cơ thể sẽ đòi lại những thời giờ hao hụt kia. Cơ thể con người có thể làm quen hoặc thích ứng với nhiều tình huống, việc thiếu ngủ là điều cơ thể không thể thích ứng được dù ta có thể “quen” với việc ít ngủ nhưng khả năng làm việc, phản ứng, sự suy luận … đều giảm sút khi cơ thể thiếu ngủ kinh niên. Khi vào tuổi vàng (65 tuổi trở lên), cơ thể ngủ những giấc ngắn, và “nhẹ” (dễ thức giấc) hơn khi còn trẻ mặc dù vẫn cần ngủ khoảng 8 tiếng mỗi ngày. Dấu hiệu của sự thiếu ngủ: Cơ thể có nhiều cách báo hiệu cho ta biết khi chưa được ngủ đầy đủ: • Khi ta cảm thấy mệt mỏi, ngầy ngật trong lúc làm việc • Nếu ta chỉ cần đặt lưng 5 phút là có thể đi vào giấc ngủ • Thiếp ngủ những giấc ngắn (microsleep) trong lúc thức Thiếu ngủ có hại cho cơ thể, đưa con người vào tình trạng suy nhược nhất là khi việc thiếu ngủ trở thành kinh niên. Những người thiếu ngủ không thể điều khiển một cách chính xác các cử động hay phản ứng của mình. Đã có khá nhiều tài liệu chứng minh rằng khi thiếu ngủ, con người lái xe hay làm những cử động đòi hỏi sự phối hợp giữa mắt nhìn và cử động tay chân một cách vụng về lúng túng như những người say rượu. Thiếu ngủ gia tăng ảnh hưởng của rượu trên cơ thể, dễ say, dễ mất thăng bằng, và dễ gây tai nạn hơn. Sự mệt mỏi đã gây ra 100,000 tai nạn và 1,500 cái chết hàng năm từ tai nạn lưu thông. Sự ngầy ngật buồn ngủ là bước chót trước khi não bộ chìm vào giấc ngủ, lái xe khi đang ngầy ngật dễ gây tai nạn. Caffeine và những loại thuốc kích thích thần kinh hệ không thể chống lại sự ngầy ngật do thiếu ngủ kinh niên. Nếu ta không thể giữ mắt nhìn tập trung vào một điểm trước mặt, không thể ngừng ngáp, hoặc nếu ta không thể nhớ được đã đi qua vài dặm trước, đây là dấu hiệu rất rõ rằng rằng ta quá buồn ngủ để có thể lái xe một cách an toàn! Giấc ngủ có lợi gì cho cơ thể? Các chuyên gia đang tìm hiểu về ích lợi của giấc ngủ trong cơ thể con người. Nhưng ích lợi của giấc ngủ đã được khẳng định qua những cuộc thử nghiệm trong loài vật. Chuột sống trung bình từ 2-3 năm. Những con chuột thiếu giấc ngủ sâu (Rapid Eye Movement, REM) sống khoảng 5 tuần lễ; và những con chuột bị mất ngủ toàn diện, chợp mắt, ngủ nhẹ, hay ngủ sâu, chỉ sống sót khoảng 3 tuần lễ! Những con chuột này có thân nhiệt thấp, có những vết lở tại đuôi và bàn chân. Những vết lở này có thể do sự hư hại của hệ đề kháng từ việc thiếu ngủ kinh niên. Và như thế việc thiếu ngủ ảnh hưởng đến hệ đề kháng nặng nề. Giấc ngủ rất cần thiết cho sự hoạt động bình thường của hệ thần kinh. Thiếu ngủ gây mệt mỏi cho thân xác và sự ngầy ngật của trí não khiến ta không thể tập trung ý nghĩ. Việc thiếu ngủ kinh niên đưa đến mất trí nhớ, suy giảm khả năng làm việc và nhất là không thể làm những bài toán đơn giản. Nếu việc thiếu ngủ tiếp diễn, cơ thể sẽ đi vào trạng nửa mơ nửa tỉnh, thính giác và thị giác mất sự bén nhạy, ta có thể nghe thấy những âm thanh hoặc nhìn ra những ảo giác (hallucination) và tâm tính trở nên bất thường, lúc vui lúc buồn lúc giận dữ lúc vui vẻ… (mood swing). Giấc ngủ, một trạng thái "động" Cho đến thập niên 50, ta mới bắt đầu hiểu được rằng giấc ngủ không phải là một trạng thái "thụ động", ù lì, "không làm gì" của cơ thể. Thực ra trong giấc ngủ nhiều bộ phận của não bộ hoạt động cật lực. Những chất tạo ra hoặc lưu truyền tín hiệu giữa các thần kinh được gọi là neurotransmitter. Những chất này kiểm soát trạng thái "ngủ" hay "tỉnh thức" bằng cách ảnh hưởng đến những phần não bộ khác nhau. Tế bào thần kinh tại brainstem (nối não bộ với cột tủy sống) tạo ra serotonin và norepinephrine, hai chất này giữ một phần não bộ hoạt động, nững thần kinh khác bắt đầu chuyển tín hiệu khi cơ thể ở trạng thái "ngủ". Một số chuyên gia cho rằng lượng adenosine trong máu từ từ gia tăng khi ta thức, đến một mức độ nào đó thì cơ thể trở nên mệt mỏi, và khi cơ thể "ngủ", adenosine từ từ giảm sút. Như thế, adenosine được xem như một hóa chất trong cơ thể ảnh hưởng đến và kiểm soát chu kỳ "thức-ngủ". Giả thuyết đang được tìm hiểu và thử nghiệm. Một số chuyên gia cho rằng giấc ngủ cho các tế bào thần kinh hoạt động lúc thức một cơ hội nghỉ ngơi và hồi phục. Khi mất ngủ, những tế bào thần kinh này mất hết năng lực và không còn hoạt động hữu hiệu nữa. Giác ngủ cũng cho não bộ một cơ hội để các thần kinh nối tiếp hoạt động bằng không sẽ trở nên vô dụng. Trong trẻ em và tuổi dậy thì, giấc ngủ sâu trùng hợp với việc tiết ra growth hormone, nội tiết tố chính điều khiển sự tăng trưởng của cơ thể. Rất nhiều loại tế bào khác cũng gia tăng hoạt động hoặc đi vào trạng thái nghỉ ngơi trong giấc ngủ, ngay cả việc thoái hóa của một số protein. Protein là thành phần căn bản của tế bào, cần thiết cho sự tăng trưởng, việc sửa chữa các chức năng bị hư hại; giấc ngủ sâu giảm sự thoái hóa của protein, do đó giúp tế bào hồi phục. Tại não bộ, những bộ phận kiểm soát cảm tính, suy luận, phân tích, làm toán, và ngay cả giao tiếp với môi trường chung quanh... đều ngừng hoạt động khi cơ thể đi vào giấc ngủ, các cấu trúc này có cơ hội hồi phục sau một ngày làm việc mệt nhọc. Hoạt động - nghỉ ngơi là một chu kỳ quan trong và cần thiết cho hầu hết mọi cấu trúc, bộ phận trong cơ thể. Trong giấc ngủ, cơ thể con người trải qua 5 giai đoạn: 1, 2, 3, 4, và rapid eye movement hay REM. Những giai đoạn này này đi theo một chu kỳ, từ 1-REM, rồi trở lại với giai đoạn 1. Xem hình vẽ: Trong giấc ngủ, trung bình cơ thể trải qua 50% trong giai đoạn 2, 20% trong giai đoạn REM, và 30% thời gian còn lại ở những giai đoạn kia. Ngược lại, ở trẻ sơ sinh, 50% giác ngủ nằm trong giai đoạn REM. Giai đoạn 1, giấc ngủ “nhẹ”, dễ thức giấc. Mắt ta cử động rất chậm và các cơ hoạt động chậm. khi bị đánh thức ở giai đoạn này, ta có thể nhớ lại một vài hình ảnh trước khi chìm vào giấc ngủ. Một số người ghi nhận cảm giác co thắt của các bắp thịt, hypnic myoclonia, trước khi có cảm tưởng mình sắp bị ngã quỵ. Những cử động bất chợt này tương tự như những cử động “nhảy nhổm” khi ta giật mình. Khi cơ thể đi vào giai đoạn 2, cử động cuả mắt ngưng lại và những luồng sóng tại não bộ (brain wave) cũng chậm lại (đo được qua điện từ). Thỉnh thoảng não bộ nổi một lớp sóng dồn, rapid burst, có tên là “sleep spindle”. Trong giai đoạn 3, các luồng sóng tại não bộ di động rất chậm, delta wave, xen lẫn vởi những lớp sóng nhỏ và nhanh. Vào giai đoạn 4, não bộ chỉ phát ra những delta wave. Khi cơ thể chìm trong giấc ngủ ở giai đoạn 3 và 4, khó đánh thức người đang ngủ, những giai đoạn này được gọi là giấc ngủ “sâu” (deep sleep). Trong giấc ngủ sâu, mắt và các bắp thịt của cơ thể trong trạng thái “không cử động”. Người lớn khi bị đánh thức ở giai đoạn này thường bỡ ngỡ, không tỉnh táo, phải mất vài phút mới định thần. Một số trẻ em trong giấc ngủ sâu bị đái dầm (mất sự kiểm soát của bàng quang), gặp ác mộng hay mộng du (sleep walking). Khi cơ thể chuyển qua REM, hơi thở trở nên nhanh hơn, cạn, không đều; mắt chuyển động nhanh, theo nhiều hướng, chân tay trở nên tê liệt trong một khoảnh khắc. Nhịp tim gia tăng, huyết áp cũng gia tăng, và ở nam nhân dương vật trở nên cương cứng. Khi thức giấc trong giai đoạn này, người ta thường kể lại những giấc mơ quái đản và vô nghĩa. Giai đoạn REM thứ nhất thường xảy ra khoảng 70-90 phút sau khi ta thiếp ngủ. Giấc ngủ có đầy đủ một chu kỳ thường kéo dài 90-110 phút. Chu kỳ ngủ thứ nhất mỗi đêm thường có giai đọan REM ngắn và giai đoạn ngủ sâu kéo dài hơn. Khi cơ thể tiếp tục ngủ, giai đoạn REM gia tăng trong khi giai đoạn 3 & 4 thu ngắn lại. Đến sáng, cơ thể ta thường trải qua hết các giai đoạn 1, 2, và REM. Những người bị đánh thức sau khi thiếp ngủ vài phút thường không thể nhớ lại họ đã làm gì trước khi thiếp đi, sleep-related amnesia. Đây là lý do ta quên những câu chuyện xảy ra giữa đêm khi bị đánh thức, rồi ngủ trở lại. Giấc ngủ và sự tỉnh táo ảnh hưởng bởi các chất dẫn truyền tin tức, neurotransmitter, của não bộ; do đó thức ăn hay dược phẩm ảnh hưởng đến các chất này thường khiến ta tỉnh táo hay ngầy ngật buồn ngủ và có giấc ngủ ngon hay không. Caffeine và các chất kích thích (thuốc trị cảm cúm, ho…) thần kinh hệ khiến ta mất ngủ hay không thể đi vào giấc ngủ. Những loại thuốc chữa trầm cảm ngăn cơ thể đi vào giai đoạn REM. Những người hút thuốc lá nhiều ngủ những giấc ngủ nhẹ, ít giai đoạn REM; đôi khi thức giấc sau 3-4 tiếng vì cơ thể thiếu nicotine (nicotine withdrawal). Những người mất ngủ thường giải quyết bằng cách uống rượu, gọi là “night-cap”. Mặc dù rượu khiến cơ thể dễ chìm vào giấc ngủ hơn, nhưng rượu lại làm giảm giai đoạn 3 &4 và REM khiến cơ thể không hoàn toàn hồi phục. Và những người uống rượu thường có những giấc ngủ “nhẹ” dễ thức giấc. Cơ thể mất khả năng điều hòa thân nhiệt trong giai đoạn REM, khi chỗ ngủ nóng quá hoặc lạnh quá, ta thức giấc giữa giai đoạn REM. Khi giai đoạn REM bị cắt đứt trong đêm trước, cơ thể không đi theo chu kỳ ngủ bình thường vào đêm sau, lúc thiếp ngủ sẽ đi thẳng vào giai đoạn REM để bù lại, cho đến khi cơ thể lấy lại đủ giai đoạn REM cần thiết. Những người được đưa vào “giấc ngủ” bằng thuốc mê hay trong trạng thái hôn mê được gọi là “ngủ” nhưng họ không thể thức giấc. Não bộ không phát ra những làn sóng phức tạp của giấc ngủ. Ngược lại não bộ trong tình trạng hôn mê thường phát những làn sóng chậm, yếu và đôi khi máy móc không thể ghi nhận.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 3:51:29 GMT 9
Giấc mơ và REM sleep Trung bình, cơ thể con người chìm vào giấc mơ khoảng 2 tiếng trong giấc ngủ hàng đêm. Các chuyên gia chưa giải thích được tại sao ta nằm mơ hoặc cơn mơ xảy ra như thế nào. Khi khoa học ghi nhận hiện tượng "rapid eye movement" hay REM xảy ra lúc hài nhi ngủ say, thì ta hiểu được rằng kinh nghiệm mà cơ thể trải qua (nói, hành động, sự việc... xảy ra trong giấc ngủ say) là trạng thái có tên "giấc mơ"; những giấc mơ này chỉ xảy ra khi cơ thể đi vào REM sleep. REM sleep bằt đầu với những tín hiệu xuất phát từ pons, một cấu trúc của não bộ. Những tín hiệu này được chuyển đến một bộ phận khác, thalamus, sau đó được chuyển đến vỏ đại não (cerebral cortex), phần não bộ làm công việc học hỏi, suy luận, xếp đặt các dữ kiện. Pons cũng chuyển tín hiệu những hoạt động đến các tế bào thần kinh trong cột tủy sống, và các bắp thịt trong thân thể đi vào trạng thái "không hoạt động" (temporal paralysis). Xem hình vẽ cấu trúc não bộ: REM sleep kích thích vùng não bộ có nhiệm vụ học hỏi. Đây là một chức năng quan trọng, cần thiết cho sự phát triển của trẻ em; và cũng là lý do tại sao trẻ em cần ngủ nhiều và cần được ngủ say vì trong giấc ngủ say, não bộ của chúng hoạt động tích cực trong việc học hỏi. Khi cơ thể đi vào REM sleep, các tế bào hoạt động để tạo ra protein. Một cuộc khảo sát ghi nhận rằng REM sleep ảnh hưởng đến việc học hỏi. Khi giấc ngủ trong giai đoãn REM bị cắt đứt, những người được huấn luyện về một công việc sẽ không thể nhớ được rằng mình đã được huấn luyện và không biết cách làm công việc kia. Các chuyên gia khảo cứu về giấc ngủ và não bộ đặt giả thuyết là vỏ đại não thu nhận những tín hiệu từ pons trong giấc ngủ trong giai đoạn REM, xếp đặt và phối hợp các tin tức này với nhau, khi tỉnh giấc, não bộ có một "câu chuyện" liền lạc với nhau (do não bộ làm việc lúc cơ thể chìm vào giấc ngủ). Giả thuyết này đang được khảo sát. Giấc ngủ và nhịp sống hàng ngày (circadian rhythm) Nhịp sống hàng ngày thay đổi theo tâm tình và tình trạng sức khỏe của con người. Hầu như mọi nhịp sống đều bị điều khiển bởi chiếc đồng hồ của cơ thể (biological clock). Chiếc đồng hồ này là cấu trúc có tên suprachiasmatic nucleus hay SCN (xem hình vẽ trên) tại hypothalamus của não bộ. SCN là một đôi cấu trúc nhỏ bằng đầu kim, chứa khoảng 20,000 tế bào thần kinh. Ánh sáng thu nhận bởi photoreptor (tế bào tiếp nhận ánh sáng) từ retina của mắt chuyển tín hiệu đến SCN. Tín hiệu từ SCN lại được chuyển đến các vùng não bộ khác, kể cả tuyến tùng (perineal gland). Khi nhận tín hiệu của ánh sáng, tuyến tùng ngưng việc chế tạo nội tiết tố melatonin. Lượng melatonin gia tăng khi cơ thể ở trong bóng tối (ngày tàn), khiến cơ thể mệt mỏi, buồn ngủ. SCN cũng điều hành các chức năng khác ăn khớp với nhịp độ của chu kỳ thức-ngủ như thân nhiệt, mức nội tiết tố, lượng nước tiểu, và sự thay đổi của huyết áp. Khi lấy đi ánh sáng và những dấu hiệu khác của môi trường chung quanh, các chuyên gia tìm thấy rằng chiếc đồng hồ trong cơ thể con người hoạt động trong chu kỳ 25 tiếng chứ không phải 24 tiếng. Tuy nhiên, ngày-đêm là một chu kỳ 24 tiếng của mặt trời nên chiếc đồng hồ của cơ thể cũng thích nghi theo môi trường sống. Nhịp sống hàng ngày, vì thế, cũng thích nghi theo những tín hiệu tiếp nhận được, chẳng hạn như âm thanh từ đồng hồ báo thức, tiếng động từ xe đổ rác buổi sớm mai, giờ ăn uống… Các chuyên gia gọi những tín hiệu về thời gian của môi trường sống là “zeitgebers” (tiếng Đức cho chữ “time giver”). Những người di chuyển từ múi giờ này sang múi giờ khác, nhịp sống hàng ngày sẽ rối loạn, thân thể mệt mỏi, tâm trí không còn minh mẫn, một trạng thái có tên là “jet lag”. Thí dụ, người sống ở miền Đông Hoa Kỳ khi di chuyển sang miền Tây, cách nhau 3 múi giờ, sẽ cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ vào lúc 7-8 giờ địa phương vì chiếc đồng hồ trong cơ thể họ báo hiệu đã 10-11 giờ đêm! Phải 3, 4 nagy2 sau cơ thể mới có thể quen thuộc với thời khắc mới. Để giảm bớt ảnh hưởng của “jet lag”, các bác sĩ đã thử một vài kỹ thuật dùng ánh sáng để đánh lừa chiếc đồng hồ trong cơ thể bằng cách bật đèn rất sáng, đến mức chói mắt, một vài giờ trước khi muốn thức giấc. Kỹ thuật này vặn lại đồng hồ trong cơ thể theo giờ giấc địa phương. Những người luôn thay đổi giờ làm việc từ ngày qua đêm hoặc ngược lại cũng gặp những triệu chứng tương tự như “jet lag”. Tỷ lệ của các chứng bệnh tim mạch, tiêu hóa, tâm thần đều gia tăng, có thể liên quan đến sự mất ngủ thường xuyên. Những người mù thường bị chứng mất ngủ suốt cuộc đời vì retina không thu nhận ánh sáng, nên không có chu kỳ ngày-đêm. Giấc ngủ và bệnh tật Giấc ngủ và những chứng bệnh liên quan đến giấc ngủ ảnh hưởng đến rất nhiều người. Chứng đột quỵ (stroke) và suyễn thường xảy ra vào ban đêm, hoặc lúc gần sáng có thể do sự thay đổi của nội tiết tố, nhịp tim, và những trạng thái khác lien quan đến giác ngủ. Giấc ngủ cũng ảnh hưởng đến chứng động kinh: giai đoạn REM ngăn những làn sóng não bất thường lan từ vùng não bộ này sang vùng não bộ khác; trong khi giấc ngủ sâu (giai đoạn 3 & 4) thường kích thích các làn sóng não lan nhanh hơn. Việc mất ngủ khởi đầu những cơn động kinh trong một số bệnh nhân bị kinh phong. Các tế bào thần kinh kiểm soát giác ngủ có liên hệ mật thiết với hệ miễn nhiễm. Khi bị nhiễm trùng, cơ thể đòi ngủ nhiều hơn lúc bình thường: Những cytokine (sinh hóa chất tiết từ hệ miễn nhiễm khi cơ thể bị nhiễm trùng) là những chất gây buồn ngủ. Giấc ngủ giúp cơ thể bảo tồn khí lực và hệ miễn nhiễm dùng những năng lực này để chống lại sự nhiễm trùng. Giấc ngủ bị xáo trộn trong tất cả mọi chứng bệnh tâm thần, kể cả bệnh trầm cảm và điên loạn (schizophrenia). Những người bị trầm cảm thường thức giấc rất sớm và khó có thể bắt đầu giấc ngủ. Thời gian ngủ ảnh hưởng rất sâu xa đến triệu chứng của bệnh tâm thần. Giảm thời gian ngủ có thể dùng như một cách chữa trầm cảm nhưng chính việc mất ngủ gây trầm cảm cho một số người khác. Khi bi mất ngủ hoàn toàn trong nhiều ngày liên tục, những người bình thường và khỏe mạnh có thể trở nên điên loạn, gặp những ảo giác (hallucination); và sự mất ngủ cũng gây xáo trộn, khiến những bệnh nhân bị manic depression trở nên quá khích (tâm thần bị kích thích quá mức). Ngoài ra, việc mất ngủ cũng liên quan đến một số bệnh tật khác kể cả Alzheimer, ung thư, chấn thương não bộ, hay đột quỵ vì sự xáo trộn của các chất dẫn tín hiệu (neurotransmitter) ảnh hưởng đến giấc ngủ, hoặc do các loại thuốc men sử dụng. Khi chứng mất ngủ khởi đầu, sẽ gây thêm sự chán nản và buồn bực. Bệnh nhân có thể cần dùng các loại thuốc giảm đau nhiều hơn vì khi mất ngủ, họ cảm thấy đau đớn hơn và cơn đau xảy ra thường xuyên hơn. Khi chữa trị chứng mất ngủ, các bác sĩ sẽ phải tìm kiếm và chữa trị cùng lúc các chứng bệnh liên quan kể trên. Chứng mất ngủ Mất ngủ là một việc ảnh hưởng đến sức khỏe, khiến con người buồn ngủ trong lúc cần thức làm việc và thiếu khí lực. Khi bị mất ngủ trong thời gian dài, con người trở nên buồn rầu hoặc nóng nảy, khó chịu; khó tập trung tư tưởng ý nghĩ, học hỏi và ghi nhớ, và không hiệu quả trong công việc. Chứng mất ngủ xảy ra khi ta không thể đi vào giấc ngủ hoặc không thể ngủ cho đủ giấc. Khi bị mất ngủ, ta thức giấc với một thân thể mệt mỏi, đầu óc thiếu minh mẫn và tâm thần bất an, buồn rầu. Chứng mất ngủ đi từ nhẹ đến nặng tùy theo việc mất ngủ có thường xuyên không và bao nhiêu lâu. Chứng mất ngủ kinh niên được định nghĩa là mất ngủ ít nhất 3 lần mỗi tuần và kéo dài trong 1 tháng. Khi chứng mất ngủ kéo dài ngày này sang tháng khác, cơ thể bị kiệt lực và rất khó chữa. Có 2 loại mất ngủ, thông thường nhất là chứng mất ngủ “thứ phát” (do nguyên nhân nào khác đưa đến việc mất ngủ, secondary cause) và chứng mất ngủ “nguyên phát” (chứng mất ngủ không do một nguyên nhân khác đưa đến, primary cause). I. Chứng mất ngủ “thứ phát”: Đây thường là nguyên nhân của bệnh tâm thần (psychological), não bộ (neurological), hoặc các bệnh tật khác. Những chứng bệnh tâm thần gây mất ngủ gồm có bệnh trầm cảm, lo âu hồi hộp (anxiety), chứng “sau cơn khủng hoảng tâm thần” (post-traumatic stress disorder) Những chứng bệnh tại não bộ gây mất ngủ gồm có Parkinson, Alzheimer… Những nguyên nhân đưa đến việc mất ngủ: - Bệnh tim mạch: sự khó thở từ chứng trụy tim (heart failure) hay suyễn gây mất ngủ - Cơ thể đau đớn từ những chứng bệnh như nhức khớp xương, nhức đầu, đau bắp thịt, chứng ăn không tiêu acid đi ngược từ dạ dày lên thực quản (acid reflux)… - Tuyến giáp trạng làm việc quá mức bình thường (tim đập nhanh và đập mạnh) - Dùng các loại thuốc men ảnh hưởng đến não bộ, mất ngủ là một trong những phản ứng phụ - Caffeine, thuốc lá, thuốc lào, rượu, và những thứ ảnh hưởng đến trí não (thuốc trị suyễn, dị ứng, chữa cảm cúm…) - Các chứng bệnh như chứng rung chân (restless leg syndrome), môi trường sống khó có một giấc ngủ bình an, thói quen về giấc ngủ bị đảo lộn. II. Chứng mất ngủ “nguyên phát”: Không có nguyên nhân nào rõ rệt nhưng người bệnh vẫn mất ngủ. Khi cuộc sống bị đảo lộn, con người có thể bị chứng mất ngủ từ những bất an, căng thẳng tâm thần trầm trọng. Khi di chuyển liên tục từ những vùng đất khác múi giờ, giấc ngủ và giờ làm việc bị đảo lộn sẽ đưa đến chứng mất ngủ. Ngay cả khi những nguyên nhân này không còn nữa, chứng mất ngủ vẫn có thể tiếp tục triền miên. Những ai thường bị mất ngủ? Mất ngủ là một chứng bệnh thông thường, 1 trong 3 người lớn bị mất ngủ, ít nhất một lần mỗi tháng. Một trong 10 người bị chứng mất ngủ kinh niên. Mất ngủ ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều hơn nam nhân, và mất ngủ xảy ra ở mọi lứa tuổi. Những người mất ngủ thường xuyên là những người: - Gặp nghịch cảnh khiến tâm thần căng thẳng, bất an - Bị trầm cảm hay những chứng bệnh tâm thần khác - Làm việc vào ban đêm hay công việc làm bị thay đổi giờ giấc thường xuyên - Di chuyển liên tục giữa những nơi có múi giờ khác nhau (jet lag). Triệu chứng & dấu hiệu của chứng mất ngủ: Triệu chứng chính là khó đi vào giấc ngủ (nằm thao thức, trằn trọc), chỉ có thể ngủ những giấc ngắn, hoặc cả hai. Chẩn bệnh: Bác sĩ dựa trên triệu chứng và khám nghiệm để chẩn bệnh. Bác sĩ có thể hỏi những câu hỏi về tình trạng sức khỏe, bệnh sử của những chứng bệnh cũ, và lập danh sách những món thuốc đang dùng kể cả thảo mộc và các loại dinh dưỡng phụ. Những câu hỏi khác có thể bao gồm thói quen về công việc làm, việc tập thể dục, việc hút thuốc lá, uống rượu, du lịch…kể cả những câu hỏi về sự thay đổi trong cuộc sống hàng ngày. Khi mất ngủ thường xuyên, nên ghi chép về giấc ngủ để có thể trình bày với bác sĩ khi đi khám bệnh: - Việc mất ngù có thường xuyên không? - Đã mất ngủ như thế bao nhiêu lâu? - Khi nào thì đi ngủ? Khi nào thức giấc kể cả ngày nghỉ? - Trằn trọc bao nhiêu lâu mới đi vào giấc ngủ? - Thức giấc trong đêm bao nhiêu lần mỗi đêm? Bao nhiêu lâu sau đó mới có thể ngủ trở lại? - Nếu ngáy khi ngủ, có bị thức giấc vì ngộp thở không? Có cảm giác hụt hơi? - Khi thức giấc có sảng khoái không? Mệt mỏi như thế nào lúc ban ngày? - Đã bao nhiêu lần ngủ thiếp đi trong khi làm việc? Bao nhiêu lần ngầy ngật muốn thiếp ngủ trong khi làm việc, nhất là lái xe? Bệnh nhân cần ghi chép những câu trả lời trong 2 tuần lễ, thân nhân có thể giúp người bệnh ghi chép những câu trả lời trên. Bác sĩ cũng có thể hỏi thêm chi tiết về giấc ngủ như: - Ông/bà có lo lắng về giấc ngủ không? Ngủ không đủ? Ngủ không ngon giấc? - Ông/bà có ăn uống hoặc dùng thuốc men trước khi đi ngủ? - Ông/bà có thói quen nào trước khi đi ngủ? - Nơi ngủ ánh sáng, tiếng động, nhiệt độ ra sao? - Những thứ gì tại nơi ngủ khiến ông / bà mất ngủ? (TV, máy điện toán, đài phát thanh…) Bác sĩ có thể cần thử nghiệm bằng cách dùng “polysomnogram”, một dụng cụ đo hơi thở, cử động, nhịp tim, và các tác động tại não bộ trong giấc ngủ. Bệnh nhân sẽ cần ngủ qua đêm tại trung tâm thử nghiệm. Chữa trị chứng mất ngủ: Thay đổi thói quen hàng ngày có thể khôi phục lại giấc ngủ. Với chứng mất ngủ kinh niên, bệnh nhân cần thay đổi nhiều và thay đổi lớn trong thói quen hằng ngày (cognitive-behavioral therapy). Sự lo âu bất an sẽ kéo dài chứng bệnh mất ngủ. Một vài loại dược phẩm an thần sẽ giúp bệnh nhân dễ ngủ hơn và bắt đầu lại một chu kỳ thức-ngủ thích hợp hơn. Thay đổi thói quen trong đời sống: Để phục hồi giấc ngủ an lành, bệnh nhân cẩn thay đổi một số thói quen như việc dùng những món ăn thức uống gây mất ngủ và tập thói quen giúp giấc ngủ đến dễ dàng hơn. Nơi ngủ cần yên tĩnh, tối và ấm áp đủ để dễ ngủ. Tránh những thứ sau đây: - Caffeine, thuốc lá, những loại thuốc có tính kích thích thần kinh vào giờ đi ngủ - Những loại thuốc men ảnh hưởng đến giấc ngủ (thuốc cảm cúm, dị ứng…) - Rượu giúp cơ thể đi vào giấc ngủ nhanh hơn nhưng giấc ngủ từ rượu thường nhẹ (thiếu rapid eye movement hay REM, tạm dịch là giấc ngủ sâu) và dễ thức giấc giữa đêm. Những thói quen nên tập luyện: - Tạo cho mình một số thói quen trước khi đi ngủ để đem lại sự thoải mái cho cơ thể và bình an cho tâm thần như đọc sách, nghe nhạc êm dịu hoặc tắm nước nóng. - Không tập thể dục, ăn uống những bữa ăn lớn hoặc uống rượu - Nơi ngủ cần yên tĩnh, tối, không bị quấy rầy - Đi ngủ và thức giấc đúng giờ mỗi ngày, ngay cả ngày lễ, ngày nghỉ. - Nếu có thể, theo một chương trình làm việc nhất định, tránh thay đổi giờ làm việc liên tục Cognitive-Behavioral Therapy Loại trị liệu nhằm thay đổi tư tưởng, ý nghĩ và hành động gây mất ngủ và có thể giảm lo âu hồi hộp. - Những cách giúp cơ thể và tâm thần thoải mái, bớt căng thẳng (relaxation & biofeedback) trước giờ đi ngủ, giúp cơ thể kiểm soát hơi thở, nhịp tim, sự co thắt của bắp thịt và tâm cảm - Thay đổi những ý nghĩ đen tối lo âu bằng những ý tưởng tốt lành, nối kết việc nằm trên giường với giấc ngủ ngon. - Chuyên viên Tâm Lý sẽ hướng dẫn những phương cách thay đổi ý nghĩ giúp giấc ngủ dễ dàng hơn, mục đích là giúp tâm thần trầm lắng. - Giới hạn thời gian nằm trên giường nếu không đi vào giấc ngủ; Phương cách này tạo ra một thời khóa biểu cho cơ thể, và trở thành thói quen cần thiết cho giấc ngủ ngon. Cách chữa trị này thường qua 2-3 tháng trước khi thấy kết quả. Dược phẩm: Rất nhiều loại thuốc men gây buồn ngủ, đôi khi bác sĩ dùng những loại thuốc này để giúp bệnh nhân đi vào giấc ngủ. Các loại thuốc ngủ sẽ tạo giấc ngủ nhưng khi thức dậy, bệnh nhân thường ngầy ngật, không minh mẫn. Không nên dùng các loại thuốc ngủ quá lâu (2-3 tháng liên tục). Một vài loại thảo mộc chứa melatonin và L-tryptophan được xem như thuốc ngủ nhưng chưa được chứng minh về hiệu quả cũng như sự an toàn. Khi sử dụng, ta sẽ phải rất cẩn thận.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 3:54:16 GMT 9
Chứng Lơ Đãng / Quá Năng Động (ADHD) Attention-deficit/hyperactivity disorder (ADHD) Trich tu website ThuVienVietNam/ BS TranLyLe ADHD, tạm dịch là chứng lơ đãng / quá năng động, là một chứng tật mãn tính, xuất hiện trong trẻ em và tiếp tục đến suốt đời. Các trở ngại chính do chứng tật này gây ra bao gồm "lơ đãng" không (thể) chú tâm (inattentive) đến một việc gì và năng động quá mức (hyperactive), hành động không suy nghĩ (impulsive behavior). Trẻ em bị ADHD là những đứa trẻ thiếu tự tin, gặp trở ngại trong việc giao tiếp, khó lòng duy trì mối tương thân lâu dài, và học hành kém. Cha mẹ, người phối ngẫu thường mệt mỏi, chán ngán và đôi khi bỏ rơi người bị ADHD. Việc chữa trị tâm lý bao gồm cả thuốc men khi cần thiết; dù không dứt bệnh nhưng sẽ tạo nên thói quen và huấn luyện cách hành xử thích hợp để giảm hậu quả của chứng tật kể trên. Thử nghiệm và chẩn bệnh Chuyên viên tâm thần dùng nhiều loại thử nghiệm, loại nào cũng cần đến sự ghi chép, quan sát tỉ mỉ từ thân nhân; ghi chép kỹ lưỡng sự việc sẽ giúp chẩn bệnh nhanh chóng và chính xác hơn. Việc chẩn bệnh bắt đầu từ khám bệnh toàn khoa và một số câu hỏi về tình trạng sức khỏe, triệu chứng và các trở ngại tại trường học, trong nhà và công việc làm. Trẻ em bị ADHD thường có các triệu chứng kể trên sau nhiều năm, triệu chứng xuất hiện rõ ràng hơn khi gặp tình huống khó khăn, nhất là những hoạt động đòi hỏi sự tập trung tinh thần như làm bài thi, làm toán hoặc chơi các trò chơi cần suy tính. Hầu hết các bác sĩ cho rằng ta không nên "dán" nhãn hiểu ADHD cho trẻ em trừ khi các triệu chứng kể trên xuất hiện từ thủa thơ ấu và tạo nên nhiều khó khăn trong lớp học trong nhiều năm liên tục. Triệu chứng Tài liệu của hội Chuyên Viên Tâm Thần Hoa Kỳ, The Diagnostic and Statistical Manual IV hay DSM-IV, phân loại các triệu chứng của ADHD thành 2 phần: Phần "lơ đãng" (inattentiveness) và phần quá năng động / hành động cẩu thả (hyperactivity - impulsivity). Chứng ADHD bao gồm ít nhất 6 triệu chứng về "lơ đãng" hoặc 6 triệu chứng của quá năng động; các triệu chứng này kéo dài trong thời gian ít nhất là 6 tháng, trong nhiều tình cảnh và xuất hiện trước 7 tuổi. Trẻ em bị ADHD có thể vào nhóm "lơ đãng", nhóm "quá năng động" hoặc nhóm "phức tạp" triệu chứng bao gồm cả hai nhóm kể trên (combined). Trẻ thuộc nhóm "lơ đãng" không gây náo loạn trong lớp học nên thường bị bỏ quên và đặt cho nhãn hiệu "lười biếng" hay "mải chơi" để giải thích việc học hành kém cỏi. Triệu chứng của trạng thái "lơ đãng" (inattentiveness): - Không chú tâm đến chi tiết, bài làm tại trường học thường có nhiều lỗi do "sơ ý". - Khó theo dõi một đề tài hay làm một việc cho xong - Thường có vẻ lơ đãng trong câu chuyện trực tiếp - Không theo lời chỉ dẫn trọn vẹn hoặc không hoàn tất bài làm tại trường học, công việc trong sở làm: việc cũng nửa chừng, dang dở không xong. - Gặp khó khăn trong việc xếp đặt công việc và các hoạt động; hậu quả là luôn bê trễ và thất bại. - Trốn tránh những công việc đòi hỏi sự chú ý lâu dài, chỉ có thể làm một vài công việc ngắn hạn (task) nhưng không thể hoàn tất một dự án, đòi hỏi sự xếp đặt trật tự nhiều công việc (project). - Dễ lơ là; đang làm việc a, thấy sự kiện b, sẽ bỏ a mà xoay sang b. - Thường quên nhớ lãng đãng trong sinh hoạt hàng ngày. Triệu chứng của trạng thái "quá năng động" (hyperactivity): - Tay chân luôn di động (bẻ ngón tay hoặc rung chân) hoặc xoay trở trong ghế ngồi, không thể ngồi yên một chỗ. - Thường bỏ chỗ ngồi chạy lăng xăng - Chạy quanh hoặc leo trèo một cách vô thức - Không thể chịu được sự yên lặng - Thường có vẻ như luôn luôn "đang chạy việc", hành động như thể đang bị điều khiển bởi một bộ máy, nói nhiều quá mức. Triệu chứng của trạng thái "hành đông không suy nghĩ" (impulsivity): - Vọt miệng trả lời khi câu hỏi chưa chấm dứt - Không thể chờ đến phiên mình - Ngắt lời, nói át lời, chen vào câu chuyện của người khác Những chứng tật có thể tạo ra các triệu chứng tương tự như ADHD mà bác sĩ cần phân biệt để chữa trị đúng mức: • Khó khăn trong việc học hỏi hoặc dùng ngôn ngữ • Các bệnh tâm thần ảnh hưởng đến tâm tính như hoảng loạn (anxiety hay lo âu vô cớ) hoặc trầm cảm • Tuyến giáp trạng hoạt động quá mức (Hyperthyroidism) • Chứng kinh phong (Seizure disorders) • Hội chứng nghiện rượu trong bụng mẹ (Fetal alcohol syndrome, mẹ nghiện rượu và uống rượu trong khi thai nghén) • Sút giảm thị lực hoặc thính lực (nghe hoặc nhìn không rõ) • Tourette syndrome • Chứng mất ngủ (Sleep disorders) • Asperger's disorder • Chứng tự kỷ (Autism) Các chứng bệnh kể trên có các triệu chứng như ADHD; ngoài ra, trẻ em bị ADHD cũng có thể bị một trong các chứng bệnh này. Phụ huynh, thân nhân khi nghi ngại rằng con em, người phối ngẫu bị ADHD, cần tìm bác sĩ chuyên khoa, người đã được huấn luyện kỹ lưỡng để chẩn bệnh và chữa trị chính xác. Chữa trị Hội Nhi Khoa Hoa Kỳ đề nghị một số tiêu chuẩn trị liệu sau đây: - Đặt rõ mục đích của việc trị liệu - Dùng khoa trị liệu tâm thần và cả thuốc men khi cần thiết - Khi việc trị liệu không thấy hiệu quả, hãy duyệt xét lại phần chẩn đoán, tìm kiếm xem có chứng bệnh nào khác ngoài chứng ADHD, và sau cùng chương trình trị liệu có được áp dụng đúng mức hay không. - Cần theo dõi bệnh trạng theo hệ thống đặt sẵn: mục đích đặt ra, kết quả, phản ứng phụ từ thuốc men... Xin ý kiến và sự quan sát ghi chép từ những người chung quanh, thày cô giáo, cha mẹ và ngay cả đứa trẻ. ADHD là một chứng bệnh lâu dài, dễ gây chán nản, mệt mỏi cho người thân. Chữa trị ADHD đòi hỏi sự kiên nhẫn và lòng thương yêu. Cho đến nay, chưa có loại trị liệu hoán đổi (Alternative Medicine) nào kể cả dược thảo, thức ăn phụ, chỉnh xương... được ghi nhận là hiệu quả trong việc chữa trị ADHD. Việc trị liệu bao gồm tâm thần và thuốc men được công nhận là hiệu quả nhất, các loại thuốc đã được dùng trong việc chữa trị ADHD bao gồm: - Methylphenidate (Ritalin, Concerta...) - Dexmethylphenidate (Focalin) - Amphetamine - dextroamphetamine (Adderall) Các loại thuốc này bán theo toa bác sĩ và cần được theo dõi thường xuyên. Ngoài ra các kỹ thuật huấn luyện có thể giúp đứa trẻ thay đổi phần nào: - Giới hạn những kích thích trong môi trường sống, thí dụ: tắt đài truyền thanh, truyền hình khi nói chuyện - Thảo luận riêng với thày cô giáo - Đứa trẻ cần ngủ đủ giấc - Ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng *** ADHD trong người lớn Khi ADHD không được chẩn đoán và chữa trị đúng mức, đứa trẻ khôn lớn và chứng tật này vẫn tiếp diễn dưới hình thức khác, gây khó khăn nhiều hơn trong đời sống. Sau các khó khăn như mất việc làm, hôn nhân tan vỡ ..., một người trưởng thành có thể học được cách tiết giảm hoặc tự chế để duy trì công việc làm, nhưng vẫn luôn gặp khó khăn trong đời sống gia đình. Việc "lơ đãng" trở thành nguồn gốc của các trận cãi vã. Thống kê cho thấy khoảng 50% các cuộc hôn nhân khó khăn đến từ 1 người phối ngẫu bị ADHD; người bị ADHD có tỷ lệ ly dị 50% sau khi lập gia đình. Các triệu chứng của ADHD trong hôn nhân: - Lơ đãng hay quên: quên giờ nấu ăn, quên làm công việc nhà, trễ nải trong việc đón con cái... Người vợ / chồng chịu hậu quả của sự lơ đãng, hay quên nọ và trở thành người duy nhất gánh lấy mọi trách nhiệm trong đời sống gia đình trong khi người bị ADHD trở thành 1 đứa trẻ, vô trách nhiệm và khó tin cậy vào bất cứ việc gì dù không chủ ý. - Dễ bỏ ngang công việc: Không hoàn tất bất cứ việc gì, lớn hoặc nhỏ; người phối ngẫu bị bỏ lơ và có cảm tưởng bị hắt hủi trong khi người ADHD không hiểu tại sao vợ / chồng nổi giận hoặc cứ nhắc nhở mãi để xong việc. Một vài kỹ thuật để giúp người ADHD tập trung vào công việc: 1) Dùng "flash card" đánh dấu theo thứ tự của mức cần thiết; mỗi việc 1 card. Làm xong việc thứ nhất rồi mới làm công việc kế tiếp. Danh sách những việc cần làm (to do list) sẽ là điều rất khó khăn cho kẻ ADHD đi theo, họ không thể theo nên chóng chán và bỏ ngang. 2) Sự kiên nhẫn và chịu đựng của người phối ngẫu; tiếp tục những công việc nhỏ theo thứ tự, đừng chán ngán, đừng bỏ rơi chương trình trị liệu. 3) Người phối ngẫu của kẻ ADHD cũng cần "counseling", được hướng dẫn cách duy trì sự hòa thuận và giúp đỡ việc trị liệu. * Tài liệu của Mayo Clinic, Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ
|
|