|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 3:57:01 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang
Dược Thảo Dược Thảo đã giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sức khỏe con người từ nhiều ngàn năm, khi mà y học tây phương chưa xuất hiện. Dược thảo dùng cây thuốc để phòng bệnh và chữa bệnh. Theo cơ quan Y Tế Thế Giới, một sản phẩm được coi là dược thảo khi thành phần chính gồm một bộ phận của thảo mộc nằm trên không hay dưới đất, trong hình dạng nguyên thủy hay sau khi được chế biến. Khi có pha lẫn hoá hay khoáng chất thì sản phẩm đó không còn là dược thảo nữa. Cũng theo cơ quan này, hiện nay có tới 80% dân chúng trên thế giới dùng dược thảo. Kỹ nghệ chế biến dược thảo, bốc thuốc rất phát triển, thịnh vượng, thu vào nhiều chục tỷ Mỹ Kim. Riêng tại Hoa Kỳ, vào năm 1998, dân chúng Hoa Kỳ tiêu hơn 4 tỷ mỹ kim để mua các lọai dược thảo. Từ năm 1990 tới 1997, số người dùng dược thảo tăng 380%, số người đi khám bác sĩ giảm, mà số người đi khám bệnh thầy thuốc không chính thống lại tăng. Dược thảo được bầy bán khắp nơi, ngay cả trong tiệm chuyên bán âu dược. Những môn thuốc cuả Mẹ Thiên Nhiên như lá, củ, rễ, vỏ, hoa đã mau chóng trở nên phương tiện trị liệu ưa thích của người dân. Họ mua để chữa các bệnh như cảm cúm, đau nhức, tiểu đường, tới bệnh trầm trọng hơn như ung thư các loại, tê liệt tứ chi. Với cơ quan Thực Phẩm Và Dược Phẩm Hoa Kỳ (FDA) thì dược thảo được xếp hạng thực phẩm phụ, như đã quy định trong Dietary Supplement Health and Education Act năm 1994. Dược thảo được bầy bán không cần thử nghiệm, nghiên cứu như âu dược, mặc dù dược thảo có tính cách trị bệnh và cũng có tác dụng phụ. Dược thảo không được quảng cáo là có công dụng trị bệnh mà chỉ được nói chung chung về ích lợi của sản phẩm, thí dụ thuốc làm lợi tiểu tiện, bổ gan, tăng cường miễn nhiễm... Khi thuốc bị coi là không an toàn thì cơ quan này sẽ không cho bầy bán. Đa số dược thảo hiện có trên thị trường đều được sản xuất theo kinh nghiệm đã dùng hay dựa vào những bài thuốc được lưu truyền trong giòng họ và được coi như đáng tin cậy. Vì dược thảo không được cơ quan FDA cấp bằng đặc quyền chế tạo, nên các nhà sản xuất không chịu bỏ vốn cho chi phí nghiên cứu khoa học như âu dược. Ngoài ra còn các vị lương y cổ truyền tiếp tục chẩn mạch, bốc thuốc phục vụ bệnh nhân. Để đáp ứng nhu cầu, đòi hỏi của dân chúng, chính quyền các quốc gia cũng bắt đầu lưu ý, dành ngân khoản, lập cơ quan nghiên cứu công dụng và an toàn cuả dược thảo. Gần đây, Viện National Institutes of Health, Hoa Kỳ, đã thành lập một trung tâm nghiên cứu về dược thảo cũng như các phương tiện trị liệu không chính thống, và đã dành nhiều ngân khoản cho việc nghiên cứu này. Đó là do áp lực cuả người tiêu thụ dược thảo mồi ngày một tăng, vì nhiều lý do như: -âu dược quá đắt, đôi khi không công hiệu, mà lại có nhiều tác dụng độc hại, không muốn; -dân chúng thích dược thảo có nguồn gốc trực tiếp từ cây cỏ hơn là âu dược hóa chất; -bất bình với nhóm tài phiệt bao thầu quản trị y tế giới hạn việc sử dụng tây y để kiếm nhiều lợi nhuận. Năm 2008, Cơ Quan Y Tế Thế Giới cũng lập một ủy ban để phối hợp với các quốc gia ngõ hầu hệ thống hóa và hữu hiệu hóa môn trị bệnh cổ truyền giá trị này. . Một vài đặc điểm về dược thảo. Trước khi dùng dược thảo để trị bệnh, tưởng cũng nên tìm hiểu một vài dữ kiện về loại thuốc này: 1-Sự an toàn của dược thảo. Ý kiến chung coi dược thảo an toàn hơn âu dược, ít gây chứng bệnh phụ và rất ít khi gây tai nạn tử vong. Tuy nhiên dược thảo vẫn là một loại thuốc, khi dùng ta cần cẩn thận, không nên nghĩ vì nó là cây thiên nhiên thì không có hại. Cam Thảo (licorice) là một trong những thuốc cây cỏ dùng nhiều nhất trên khắp thế giới để chữa bệnh lở bao tử, ho, suyễn, nhưng nếu dùng lâu ngày, có thể gây cao huyết áp, nhức đầu, mệt mỏi. Khi mới dùng lần đầu, nên dùng với phân lượng nhỏ rồi tăng dần cho tới liều chỉ dẫn bởi nhà sản xuất. Một thí dụ khác là cà phê, một loại họ thảo ta dùng mỗi buổi sáng để nâng cao tinh thần. Nếu uống hai ly mỗi sáng thì có tác dụng tốt như ý muốn, năm ly là có nhức đầu, nóng nẩy, 15 ly thì bắt đầu thấy ù tai, chóng mặt. Dược thảo bán trên thị trường không được thử nghiệm về sự tinh khiết và hiệu nghiệm, nên đôi khi có lẫn chất không cần như phấn hoa, phấn lá có thể gây dị ứng hoặc cây thuốc đã bị hư mục. 2-Công hiệu của dược thảo. Các nhà sản xuất cũng như hơn 4 tỉ người đang dùng dược thảo đều cho là cây thuốc công hiệu trong việc trị bệnh và ngừa bệnh. Đã có nhiều nghiên cứu khoa học hỗ trợ ý kiến này. Có điều là tác dụng của dược thảo thường từ từ, nhẹ nhàng, cần thời gian lâu để có hiệu quả, do đó tốt trong việc phòng bệnh. Dược thảo, với nhiều chất thuốc khác nhau, có tác dụng vào nhiều bộ phận cơ thể hơn là âu dược, với một dược chất có tác dụng tập trung vào một số dấu hiệu triệu chứng hoặc một bệnh. Dược thảo thường không đủ mạnh để trị cấp cứu, nhất là các bệnh do vi khuẩn gây ra, do đó kháng sinh vẫn là thuốc căn bản. 3-Dược thảo không gây ghiền. Thường thường cây thuốc gây ghiền như cây á phiện, cần sa... không được phép bán công khai tại tiệm thuốc âu dược hay tiệm thuốc thiên nhiên. Ngoài ra dược thảo không có kích thích tố hay chất chống viêm steroid, nhưng một vài dược thảo có tác dụng hỗ trợ sự sản xuất các chất này trong cơ thể. 4-Nguồn gốc dược thảo. Theo các nhà sản xuất, thì dược thảo đều do cây cỏ được trồng trong môi trường có kiểm soát, đôi khi không dùng hoá chất diệt sâu bọ, cỏ dại hoặc phân bón nên phẩm chất tốt, thiên nhiên. Nhiều khi cây mọc hoang cũng được dùng để chế thành thuốc. 5-Chọn lựa dược thảo Như đã nói ở trên, nhà sản xuất không cần chứng minh sự an toàn và công hiệu của dược thảo khi tung ra thị trường, mà chỉ khi nào có chuyện xẩy ra thì thuốc đó mới bị bỏ đi. Tiêu chuẩn bào chế của mỗi nhà sản xuất đều khác nhau, nên tỷ lệ dược liệu đều thay đổi. Tỷ lệ này cũng thay đổi tuỳ theo cây cỏ được trồng ở địa dư nào, được hái vào mùa nào, được tồn trữ ra sao và phần nào (rễ, thân hay lá) của cây được xử dụng để chế thuốc. Những điều này gây khó khăn không ít cho người tiêu thụ khi mua thuốc. Vì thế các nhà sản xuất đã tổ hợp với nhau để thống nhất bào chế. Khi mua, nên lựa sản phẩm do sự liên kết với các công ty ở Âu châu, vì thường thường họ có cơ sở nghiên cứu đầy đủ về phân lượng, tinh khiết và công hiệu. Cũng nên lựa sản phẩm cũng có nhãn hiệu với chỉ dẫn cách dùng, tác dụng phụ, loại cây cỏ, ngày hết hạn. Những điều cần lưu ý khi dùng dược thảo,. Tại Hoa Kỳ, Tây y được xây dựng trên căn bản sinh hóa học hiện đại. Cơ Quan Thực Phẩm Và Dược Phẩm, với nhiệm vụ điều hợp thực dược phẩm, bảo vệ sức khoẻ con người, thường nhìn dược thảo với con mắt dè dặt, nghiêm khắc. Họ cho là dược thảo không có công dụng trị liệu và nguy hiểm. Một luật gia than phiền là hiện giờ có hai hệ thống dược phẩm: Một hệ thống muốn được bầy bán phải chứng minh có công hiệu trị liệu và tuân theo luật lệ; hệ thống kia được bán tự do, không cần kê khai giá trị. Bác Sĩ Marcia Angel, chủ bút tập san Y học uy tín New England Journal of Medecine khẩn khoản kêu nài dân chúng đừng tự chữa bệnh, dùng dược thảo vì thuốc có nhiều thành phần không khai báo được pha thêm vào như chì, thạch tín, rất nguy hiểm. Còn giáo sư dược khoa nổi danh Varro Tyler cho là sự nghiên cứu về dược thảo của các quốc gia Âu Châu rất đáng tin cậy, tuy nhiên, độc tính dài hạn của thuốc cần được theo dõi, tác dụng phụ có hại thường được che dấu, giảm thiểu. Dù vậy, dược thảo vẫn được người dân tiêu thụ, vì niềm tin có bệnh thì vái tứ phương, vì có ngay khi cần, không phải mất công lấy hẹn, ngồi chờ bác sĩ, cũng như khi gặp trọng bệnh mà Tây Y bó tay. Tuy nhiên cũng nên lưu ý mấy điều để tránh chuyện chẳng lành: 1- Thông báo cho bác sĩ nếu đang dùng dược thảo để tránh tác dụng không tốt giữa âu dược và thuốc cỏ cây. Không dùng ginkgo biloba (Bạch Quả) với thuốc trị đau nhức Aspirin, thuốc ngừa tai biến não Ticlid, Persantine; âu dược trị trầm cảm với St John Wort... 2- Không dùng dược thảo khi mang thai, nuôi con bằng sữa mẹ, không cho con nhỏ dùng dược thảo vì ở trẻ em và thai nhi, gan chưa đủ sức vô hiệu hóa độc chất cuả dược thảo. Xin đan cử một thí dụ: Khi uống một ly cà phê, người lớn chỉ cần 5 giờ để loại khỏi cơ thể mà con nít cần đến cả 80 giờ. 3- Tuy dược thảo có nguồn gốc thiên nhiên nhưng không thiên nhiên với cơ thể con người. Cho nên thuốc có thể gây bất lợi khi dùng, nhất là vì thiếu kiểm soát nên thành phần không thống nhất, phẩm chất không tinh khiết, đôi khi pha lẫn chất có hại cho cơ thể. 4- Không nên dùng dược thảo quá dăm tuần lễ vì an toàn dùng dài hạn chưa được chứng minh, cũng như không dùng quá nhiều vì nguy cơ gây độc cho gan và thận. Cũng không nên dùng nhiều dược thảo khác nhau một lúc vì tác dụng tương phản của thuốc. 5- Dược thảo cũng có tác dụng phụ như bạch quả gây xuất huyết; mã hoàng (ephedra) gây tăng huyết áp, nhức đầu, rối loạn nhịp tim; St John wort làm chóng mặt, mệt mỏi khô miệng, mất định hướng... Và cuối cùng là không nên quá tin tưởng ở lời quảng cáo, giới thiệu của nhà sản xuất vì những lời này không được cơ quan trách nhiệm xác định giá trị, đồng thời cũng nên tìm hiểu về đặc tính trị liệu của loại dược thảo đang dùng. Bác Sĩ Nguyễn Ý Đức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 4:29:46 GMT 9
Sớm Khám Phá Ung Thư Ruột Già
Vietsciences- Nguyễn Ý Đức Từ năm 2000, tháng Ba mỗi năm đã được các tổ chức chống ung thư tại Hoa Kỳ chọn là tháng để bà con ”đề cao cảnh giác” với bệnh ung thư Ruột Già-Trực Tràng và nhớ yêu cầu bác sĩ làm các xét nghiệm để sớm tìm ra bệnh. Thống kê cho biết, năm 2008, có 139,000 người lớn tại Hoa Kỳ được chẩn đoán bị ung thư ruột già với hơn 50.000 tử vong. Theo Hội Ung Thư Hoa Kỳ, phân nửa số tử vong này có thể được cứu sống nếu mọi người hiểu rõ bề bệnh, phòng tránh các nguy cơ gây ra bệnh và làm các thử nghiệm tìm bệnh đều đặn. Các thử nghiệm sàng lọc này có thể sớm nhận diện bướu thịt (polyp) đáng ngại hoặc u tiền ung thư để loại bỏ trước khi chúng chuyển sang bệnh hiểm nghèo. Vậy thì những thử nghiệm đó là gì và được thực hiện như thế nào, chúng ta cùng nhau tìm hiểu. 1-Khám hậu môn với ngón tay Thử nghiệm đầu tiên mà thầy thuốc sẽ làm là khám hậu môn để coi mặt trong ruột có trơn tru, có cái u cái mụn nào không; rút ngón tay ra có chút máu dính vào bao cao su. Với chiêu thức ngoáy tay, thầy thuốc cũng kiểm tra coi cái tuyến tiền liệt của các ông xem có sưng, có gồ ghề. Với vài giọt hóa chất, thầy thuốc thử phân coi có vết máu. Thử nghiệm này rất giản dị, không đau đớn mà lại rẻ tiền nhưng hữu ích thì “thần sầu”. Thần sầu vì có thể giúp ta sớm tìm ra những 10% nan bệnh, sớm điều trị, nâng cao kết quả, nhiều hy vọng lành bệnh. Do đó, ta nên làm mỗi năm. Nếu thử nghiệm thấy có máu thì thầy thuốc sẽ tìm cách trực tiếp nhìn vào trong ruột 2-Tìm máu ẩn trong phân Trong điều kiện bình thường, phẩn không có máu và đàm. Phẩn có máu là dấu hiệu của một bệnh nào đó của ống tiêu hóa. Máu có thề đỏ tươi, bầm đen hoặc nâu sẫm tùy theo vị trí bệnh xa hay gần hậu môn. Gần (trực tràng, trĩ) thì đỏ, xa (ruột non, bao tử) thì bầm vì đã bị vi khuẩn biến thành hóa chất hematin có mầu đen. Máu đỏ tươi thường là do trĩ hậu môn, trĩ mạch lươn dưới da chung quanh hậu môn, bướu thịt hoặc ung thư ruột già, trực tràng. Máu bầm đen trong các bệnh loét dạ dày, đứt mạch máu ở ruột già, dùng quá nhiều aspirin hoặc rượu, uống thuốc chống đông máu. Số lượng máu có thể nhiều hoặc ít như trường hợp máu ẩn (occult blood). Máu ẩn có rất ít trong phẩn mà mắt thường không thấy và chỉ tìm ra được khi nhìn qua kính hiển vi hoặc thử nghiệm hóa học. Nguồn gốc máu ẩn có thể từ loét viêm dạ dày, viêm đường ruột, trĩ, ung thư hoặc polyp trong ruột già. Để thử nghiệm, phẩn được lấy trong ba ngày liên tiếp và đựng trong hộp đặc biệt do phòng thí nghiệm cung cấp. Giao hộp phẩn cho phòng thí nghiệm để họ tìm máu. Ba ngày trước và trong thời gian lấy phẩn, bệnh nhân cần theo hướng dẫn như sau: -Tránh dùng vitamin C hoặc tiêu thụ quá nhiều thực phẩm chứa sinh tố này như chanh, cam vì sinh tố này cho kết quả dương tính sai. -Tránh ăn nhiều thịt đỏ có nhiều heme, thực phẩm có nhiều enzym peroxidase như nấm, broccoli, giá đậu, sú lơ, táo, cam, chuối, dưa cantaloupe, nho. Các chất này có thể làm cho kết quả thử nghiệm dương tính sai -Nên ăn thực phẩm có nhiều chất xơ như đậu, rau để khối phẩn mềm lớn. -Tránh thuốc kích thích dạ dày, ruột gây ra xuất huyết như thuốc chống acit, thuốc có chất steroid, thuốc chống viêm đau có chất aspirin, rượu. -Tránh uống sinh tố có chất sắt. Kiếm máu ẩn trong phẩn có khả năng tìm ra polyp và ung thư ruột già khá sớm. Tuy nhiên, kết quả dương tính không có nghĩa là đã bị ung thư vì có nhiều nguyên do khác gây ra xuất huyết đường ruột. Thí dụ khi dùng thuốc aspirin, ibuprofen, trong bệnh loét dạ dày, viêm ruột…Đo đó, bệnh nhân có máu ẩn trong phân cần được xác định với phương pháp nội soi, quan sát đường ruột. Giới chức y tế đề nghị tìm máu ẩn trong phẩn mỗi năm một lần. 3-Nội soi ruột già Có người ví Nội soi ruột già là tiêu chuẩn vàng (golden standard) để sàng lọc ung thự ruột già-trực tràng. Đây là phương pháp khảo sát mặt trong của toàn thể trực tràng với một ống dây quang học bằng nhựa mềm dễ uốn, có đèn sáng dẫn đường và máy chụp hình. Đưa ống sâu vào hậu môn, điều chỉnh máy, bác sĩ có thể làm một vòng thám hiểm bất cứ góc cạnh nào của ruột và mao tôn cương: qua đèn, nhìn ruột rõ như ban ngày, nào là gồ ghề bướu thịt, loét lở thành ruột, bê bết máu tươi đều thấy hết, ngoại trừ bầy vi sinh vật lúc nhúc cộng sinh. Nhắc lại là trong trường hợp bình thường, lòng ruột già trơn mềm như mặt trong của má. Hình ảnh ruột được chiếu trên màn hình TV để phân tích và có thể lưu trữ. Nội soi được làm tại bệnh viện hoặc phòng nội soi ngoại chẩn, trung bình kéo dài từ 30-60 phút và do bác sĩ chuyên ruột-bao tử thực hiện. Bệnh nhân được cho dùng liều thuốc an thần để giảm lo âu, khó chịu, do đó cần người lái xe đưa về nhà sau khám nghiệm. Trước khi làm nội soi, bệnh nhân được cho thuốc tẩy rửa ruột sạch sẽ để bác sĩ dễ quan sát. Đây là điểm mà nhiều người e ngại vì phải uống một lọ thuốc xổ cộng thêm 3 lít nước để rồi tiêu chẩy soèn soẹt. Hiện nay có thuốc tẩy rửa dạng viên cho nên việc sửa soạn ít khó chịu hơn. Một ngày trước thử nghiệm, bệnh nhân không ăn thực phẩm mà chỉ uống nước trong không bã. Nếu thử nghiệm vào buổi sáng, không ăn uống gì sau nửa đêm. Nếu là buổi chiều thì uống thuốc tẩy xổ theo đúng hướng dẫn. Không nên uống aspirin hoặc thuốc chống viêm 5 ngày trước thử nghiệm để tránh nguy cơ xuất huyết khi polyp được cắt bỏ. Cho bác sĩ hay nếu có vấn đề dị ứng, uống thuốc loãng máu, đang bị bệnh tiểu đường, có thai, cho con bú sữa mẹ hoặc khó khăn chích tĩnh mạch. Sau thử nghiệm, bệnh nhân cảm thấy tưng tức ở bụng, nhưng hết sau vài giờ. Dăm giờ sau thử nghiệm, bệnh nhân có thể ăn lại như thường lệ. Mục đích của nội soi gồm có: -Đánh giá các u bướu, loét lở, thu hẹp lòng ruột già khi chụp hình X-quang ruột; -Chẩn đoán viêm ruột; -Tìm nguyên nhân gây ra tiêu chảy khi các thử nghiệm thông thường không thành công; -Tìm nguyên nhân xuất huyết đường tiêu hóa, đặc biệt trong bệnh thiếu máu do thiếu sắt; -Chẩn đoán ung thư ở người có thân nhân bị ung thư hoặc bướu thịt; -Cắt bỏ bướu thịt, chữa xuất huyết ruột hoặc lấy vật lạ trong ruột. Nội soi được áp dụng khi có một trong các bất thường như thay đổi thói quen đại tiện, máu trong phẩn, đau bụng liên tục, người từ 50 tuổi trở lên. Hội Ung Thư đề nghị những ai trên 50 tuổi nên làm nội soi ruột già mỗi 7-10 năm. Người có rủi ro ung thư ruột già cần thực hiện sàng lọc này gần hơn, tùy theo ý kiến của bác sĩ điều trị. Bình thường, phương pháp rất an toàn, hãn hữu lắm mới có khó khăn như lủng ruột. Nếu có u bướu, bác sĩ sẽ thực hiện sinh thiết (biopsy) để xác định tế bào ung thư, chụp x-quang xương, CT scan…rồi điều trị. Mặc dù nội soi ruột là phương thức sàng lọc hữu hiệu, nhưng số người thực hiện cũng khá khiêm nhường. Lý do là nhiều người ngại đau, ngại phải uống thuốc tẩy sổ để làm sạch ruột và lý do quan trọng hơn là chi phí nội soi khá cao. Nếu bảo hiểm không đài thọ thì bệnh nhân phải bỏ tiền túi ra trang trải. 4-Nội soi trực tràng Một dụng cụ đơn giản hơn máy nội soi ruột già là máy nội soi ruột sigma (sigmoidoscope) được dùng để quan sát phần dưới của ruột già và trực tràng. Khoảng 50% ung thư hoặc bướu thịt xuất hiện ở phần trên ruột già. Một ống mềm uốn cong, đầu có gắn máy thu hình nhỏ với đèn được đưa vào hậu môn. Qua thiết bị, bác sĩ quan sát phần dưới ruột già và trực tràng để tìm ra bất thường. Coi vậy ta thấy có nhiều cách để sàng lọc tìm kiếm ung thư ruột già, nhưng căn bản chỉ có hai loại được giới chức y tế khuyên cần làm theo định kỳ: Đó là tìm máu ẩn trong phẩn (Fecal occult blood test) và nội soi ruột già (Colonoscopy screening). Kết luận Theo bác sĩ Durado D. Brooks, Giám đốc khoa ung thư nhiếp tuyến và ruột già thuộc Hội Ung Thư Hoa Kỳ thì “Ung thư ruột già là một trong những ung thư duy nhất có thể phòng tránh qua khám nghiệm đều đặn”. Cơ quan Kiểm Soát Bệnh Hoa Kỳ (CDC) cũng có cùng ý kiến. Ngoài ra nghiên cứu cho hay, 90% người được sàng lọc khám phá ra ung thư ruột già sớm có tỷ lệ sống sót 5 năm, trong khi đó nếu khám phá trễ số người sống sót còn có 10%. Do đó, các giới chức y tế đều nhắc nhở dân chúng để ý tới dấu hiệu báo động của bệnh, cấp kỳ thông báo cho bác sĩ và làm các thử nghiệm sẵn có đề truy tìm “ung tặc”, càng sớm càng tốt. Điều đáng ngại là, theo Hội Ung thư Hoa Kỳ, chỉ có 30% người được khuyến khích làm thử nghiệm tìm kiếm bệnh chịu thực hiện lời khuyên. Đó là điều đáng tiếc vậy. Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức Texas-Hoa Kỳ. www.bsnguyenyduc.com
|
|
|
Post by NhiHa on May 2, 2011 6:35:19 GMT 9
Ráy tai không phải chuyện đơn giản! Nhiều bệnh nhân đã từng chịu những hậu quả nghiêm trọng do lấy ráy như : ngứa tai, nhiễm trùng, thối tai, thủng màng nhĩ-gây điếc, thậm chí bị lây nhiễm các bệnh xã hội nguy hiểm.Ráy tai, dân gian thường gọi là “cứt ráy”, hàng ngày đang gây ra những nỗi phiền toái, ngứa ngáy khó chịu cho hàng triệu người nhưng chưa có giải pháp xử lý xác đáng. Do đó, những thói quen thông thường như: dùng các vật cứng, thậm chí dùng chung các dụng cụ lấy ráy vv... đang được sử dụng nhằm cố gắng chống lại những phiền toái khó chịu kể trên. Đây là những thói quen sai lầm. Những hệ lụy lâu dài cho sức khỏe thính giác và những hậu quả nghiêm trọng như đã nói, đang diễn ra triền miên trên một số đông trong cộng đồng dân cư. Hiểu đúng về “ráy” ? Dựa trên các nghiên cứu khoa học về tai và ráy tai cho thấy hiện nay, việc nhận thức và phân biệt giữa các thuật ngữ: “dịch ráy”, “ráy” và “cứt ráy” chưa rõ ràng, tất yếu dẫn đến việc xử lý những hệ lụy do “cứt ráy” gây ra còn lúng túng và thiếu căn cứ. Thuật ngữ cerumen (dịch ráy) thường bị coi là đồng nghĩa với earwax (ráy), nhưng nói một cách chính xác, nó không phải vậy. Cerumen, được đề cập ở đây, nó chỉ là sản phẩm được tiết ra bởi các tuyến dịch ráy (ceruminous glands) ở trong ống tai ngoài, và nó chỉ là một thành phần của “ ráy”. Các thành phần khác bao gồm các vảy da bị chết trên lớp da bề mặt của ống tai, mồ hôi, bã nhờn và các chất ngoại sinh từ bên ngoài khác nhau có thể lọt vào , ví dụ: các hạt bụi , nước bẩn khi tắm, keo xịt tóc, dầu gội đầu, kem cạo râu, dầu tắm, mỹ phẩm và tương tự. Thành phần chính của “ ráy” là các tế bào da chết. ( Giải phẫu tuyến ráy theo : AnatomyAtlases.org ) Dịch ráy có chứa các glycopeptid (kháng sinh), các lipid( bôi trơn), acid hyaluronic và acid sialic ( tạo môi trường acid), các enzyme lysosome (tác dụng phá cấu trúc các vi khuẩn) và các immunoglobulin (miễn dịch). Dưới lớp da lót của 2/3 ống tai phía ngoài, có chứa các tuyến dịch ráy và các nang lông, các tuyến bã nhờn và các tuyến mồ hôi( yếu-nhẹ). Các tuyến nhờn được dẫn thẳng vào các nang lông. Hỗn hợp dịch của 3 loại tuyến kể trên thường có màu vàng sẫm mới thực sự có tác dụng là “vệ sĩ” bảo vệ tai. Nó có thuộc tính bảo vệ, kết hợp với lông tai bắt dính bụi, hiệu quả diệt khuẩn bằng việc giúp duy trì một môi trường có tính acid trong ống tai ngoài, đồng thời, nó cũng góp phần bôi trơn và bảo vệ ống tai, giữ cho tai khỏi nước và viêm nhiễm. Hỗn hợp dịch được trộn lẫn với các tế bào da chết cùng với các chất ngoại sinh từ bên ngoài lọt vào trong ống tai tạo thành “ráy” và nó chỉ còn tác dụng của một “vệ sĩ –đang suy yếu” . Tác dụng bảo vệ giảm đi cho tới khi nó bị oxy hóa hoàn toàn, hết công dụng của “vệ sĩ” và trở thành chất thải. Chất thải bị cũ và khô đi trên trên bề mặt da của ống tai theo dân gian thường gọi là “cứt ráy” là phải loại bỏ. Nó được tự động thải ra ngoài để nhường lại vai trò “vệ sĩ” cho hỗn hợp dịch mới được tiết ra. (Các nhà khoa học chuyên ngành Tai-Mũi –Họng gọi cơ chế tự động đào thải “cứt ráy” là cơ chế di trú). Khi cơ chế tự động đào thải bị trục trặc, lập tức xuất hiện chứng bệnh: “cứt ráy” bị dính lại và tích lũy trong ống tai. Quá trình này bắt đầu tiến triển, lan rộng, lúc đầu gây ngứa ngáy khó chịu, sau phát triển thành các lớp “cứt ráy” bám dính đầy trong ống tai, thậm chí tạo ra các nút “cứt ráy” cứng dính chặt vào màng nhĩ gây ra nhiều nỗi phiền toái và những hậu quả khó lường. Nếu xử lý không đúng cách sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng cho sức khỏe thính giác. NHÓM TÁC GIẢ: Tiến sỹ: Phạm Ninh Hưng , Bác sỹ: Phạm Bá Chiểu, Dược sĩ: Trương Quốc Thống ,cùng các đồng sự. Móng Chân Mọc Vào Thịt (Ingrown Toenail)VienDongDaily.Com Chứng móng chân mọc vào thịt rất thường thấy, là tình trạng chỗ góc hoặc cạnh của móng chân mọc vào phần thịt mềm kế bên gây ra đau, đỏ, sưng và, đôi khi, nhiễm trùng. Chứng này thường xẩy ra nơi ngón chân cái. Thường thì bạn có thể tự chữa chứng này nhưng nếu bị đau nhiều hay vết thương lan rộng, bạn có thể phải nhờ bác sĩ thực hiện một vài thủ thuật để giảm bớt sự khó chịu và giúp tránh được các biến chứng. Nếu bị bệnh tiểu đường hoặc bệnh khác khiến máu lưu thông đến bàn chân kém đi, bệnh nhân có nguy cơ cao bị các biến chứng. Triệu chứng Gồm có: - Đau ở ngón chân một hoặc cả hai bên của móng - Đỏ xung quanh móng chân - Sưng xung quanh móng - Nhiễm trùng mô xung quanh móng chân Khi nào nên đi khám bệnh Nên gặp bác sĩ nếu quý vị: - Bị bệnh tiểu đường hoặc bệnh suy tuần hoàn chân hay đau và nhiễm trùng Nguyên nhân Gồm có: - Mang giày chật làm các móng chân chạm nhau - Cắt móng chân quá ngắn hoặc không cắt thẳng ngang - Bị thương ở móng chân - Móng chân cong bất thường Biến chứng Nếu không phát hiện ra và điều trị, chứng móng chân mọc vào thịt có thể lây sang các xương bên dưới, đưa đến nhiễm trùng xương nghiêm trọng. Nếu bệnh nhân có bệnh tiểu đường thì biến chứng còn nghiêm trọng hơn vì lưu thông của máu và dây thần kinh điều khiển bàn chân có thể bị suy yếu. Vì vậy, bất kỳ chấn thương chân nào dù nhỏ như vết cắt, trầy, chai, sẹo hoặc móng chân mọc vào thịt, cũng có thể không lành được và có thể dẫn đến nhiễm trùng. Một vết loét khó lành có thể cần phải được cắt bỏ để ngăn bị hoại tử của mô do sự gián đoạn trong lưu lượng máu đến đó. Điều trị Bệnh nhân bị chứng móng chân mọc vào thịt có thể tự chữa bằng nhiều cách như ngâm chân thường xuyên trong nước ấm và bôi kem trụ sinh. Nếu vẫn bị đau sau vài ngày hoặc có mủ và sưng đỏ lan rộng, nên đến gặp bác sĩ . Một phần của móng chân có thể phải được cắt bỏ và bệnh nhân có thể phải uống trụ sinh chống nhiễm trùng. Phương pháp điều trị gồm có: - Nâng móng lên. Nếu móng chỉ hơi mọc vào trong (bị sưng đỏ và đau nhưng không có mủ), bác sĩ có thể đặt bông băng, dây chỉ răng (dental floss) hay hoặc một thanh nẹp nhỏ dưới cạnh của móng chân để tách móng khỏi phần da phủ lên trên móng, giúp móng chân mọc lên trên da. - Cắt bỏ một phần móng chân. Khi móng chân mọc vào thịt nhiều hơn (sưng đỏ, đau và có mủ), bác sĩ có thể phải cắt bỏ phần móng mọc vào thịt. Trước khi cắt, bác sĩ có thể chích thuốc tê để tạm thời làm tê liệt ngón chân. - Cắt bỏ một phần móng và mô thịt chung quanh. Nếu bị móng chân mọc vào thịt nhiều lần, bác sĩ có thể đề nghị cắt bỏ một phần của móng chân và mô dưới da để tránh phần móng chân này mọc trở lại. Thủ thuật này có thể thực hiện bằng hóa chất, tia laser hoặc các phương pháp khác . Bác sĩ cũng có thể khuyên bạn sử dụng kem trụ sinh tại chỗ hoặc uống trụ sinh để điều trị, nhất là khi ngón chân bị nhiễm trùng hoặc có nguy cơ bị nhiễm trùng. Tự chữa Chứng móng chân mọc vào thịt có thể được tự chữa ở nhà bằng những cách sau: - Ngâm chân trong nước ấm khoảng 15 đến 20 phút, hai hoặc ba lần một ngày. Ngâm làm giảm sưng và giảm đau . - Đặt miếng bông băng nhỏ hoặc dây chỉ răng (dental floss) bên dưới phần móng chân mọc ngược vào thịt sau khi ngâm chân. Cách này sẽ giúp móng mọc lên trên phần da thay vì tiếp tục mọc sâu vào trong thịt . Thay đổi bông hoặc floss hàng ngày cho đến khi bớt đau và đỏ. - Bôi kem trụ sinh (Bacitracin hay Neosporin) ngay tại chỗ đau và sưng đỏ. - Đi giày hở mũi hoặc dép cho đến khi ngón chân đỡ hơn. - Dùng thuốc giảm đau. Nếu đau quá nhiều có thể uống thuốc giảm đau mua tự do như acetaminophen (Tylenol) hoặc ibuprofen (Advil, Motrin IB hoặc hiệu khác) cho đến khi bạn có thể gặp bác sĩ. - Xem xét kỹ bàn chân. Nếu bạn có bệnh tiểu đường, nên xem xét kỹ chân hàng ngày để xem có dấu hiệu của móng chân mọc vào thịt hoặc các vấn đề về chân khác . phòng chống Phòng ngừa - Cắt móng chân thẳng ngang. Không cắt cong để phù hợp với hình dạng của mặt trước ngón chân. Nếu đến tiệm làm móng, hãy yêu cầu cắt móng chân thẳng ngang. Nếu có vấn đề lưu thông máu trong bàn chân của bạn do bệnh tiểu đường hoặc bệnh mạch máu ngoại vi, nên đến bác sĩ chuyên về bàn chân (podiatrist) thường xuyên để được cắt móng chân đúng cách nếu bạn không thể tự cắt. - Giữ móng chân dài vừa phải. Cắt móng chân ở mức ngang bằng với đầu ngón chân Nếu cắt móng chân quá ngắn, sức ép từ đôi giày lên mô ngón chân có thể làm móng mọc vào trong thịt. - Mang giày vừa vặn. Giày chật sẽ đặt áp lực quá nhiều vào ngón chân hoặc ép các ngón chân khiến móng chân phải mọc vào các mô xung quanh. Nếu bị suy yếu dây thần kinh đến chân, bệnh nhân có thể bị mất cảm giác và không nhận ra là giầy quá chật. Nên chọn giầy cẩn thận và chỉ mang giầy vừa vặn thoải mái, tốt nhất là từ một cửa hàng giày chuyên về giày dép cho những người có vấn đề về bàn chân. - Mang giày bảo vệ. Nếu công việc khiến bạn có nguy cơ bị thương ngón chân, nên mua giày bảo vệ, thí dụ như giày bằng thép ở phần ngón, để bảo vệ ngón chân của bạn.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 22, 2011 4:11:43 GMT 9
ThởVietsciences-Nguyễn Ý-Đức Hô Hấp hoặc Thở là sự trao đổi không khí giữa cơ thể với môi trường xung quanh. Trong động tác này, dưỡng khí oxy được đưa vào và thán khí CO2 được loại ra khỏi cơ thể. Dưỡng khí cần thiết để chuyển hóa thực phẩm ra năng lượng, cung cấp nhiên liệu cho các sinh hoạt của cơ thể. Không khí trong lành chứa 20% oxy. Thán khí là sản phẩm của sự chuyển hóa kể trên, mà khi quá cao sẽ gây ra nhiều bất lợi cho sức khỏe. Nơi xảy ra sự trao đổi oxy và thán khí là hệ thống vi huyết quản bao quanh phế nang. Mỗi bên phổi có khoảng 300 triệu phế nang mà khi trải phẳng ra, có thể phủ kín một nửa cái sân quần vợt. Mỗi phút ta thở trung bình 15 lần. Một ngày ta thở ra hít vào 18.925 lít không khí. Mặc dù thở là một động tác không chủ động, nhưng con người có thể cố tình thay đổi nhịp thở vì nhu cầu nào đó. Chẳng hạn hít vào một hơi dài để lặn sâu dưới nước (nín thở qua sông) hoặc sắp đi qua vùng ô nhiễm mùi hôi. Nhưng không tự quyên sinh bằng cách ngưng thở vì những phản xạ tự chủ bắt ta phải thở hít thở ngay, để duy trì sự sống của con người. Nhịp thở nhanh chậm tùy theo nhu cầu oxy của cơ thể và cũng tùy theo sự tích tụ thán khí cao hay thấp. Nói chung là tùy theo mức độ hoạt động cơ thể. Nhịp thở cũng thay đổi tùy theo cảm xúc. Khi hân hoan hớn hở, tức giận cành hông thì hơi thở dồn dập. Khi buồn rầu chán nản thì hơi thở uể oải, kéo dài thườn thượt. Những khi đó, ta có thể tập để điều hòa nhịp thở, thay đổi tâm trạng. Ngoài ra, có “cơn đói không khí” (air hunger), trong đó ta cảm thấy như ngộp thở, bèn thở rất nhanh và sâu với hậu quả là chóng mặt quay cuồng, đổ mồ hôi, tim đập nhanh, tay chân tê dại. Nguyên do là khi thở dồn dập như vậy, thán khí trong máu xuống quá thấp, đưa tới mất cân bằng nồng độ acid/kiềm. Để điều trị, nạn nhân thường được cho hít thở vào một bao giấy kín, để lấy lại một chút thán khí, nhờ đó tình trạng trở lại bình thường. Những cơ quan liên quan tới sự thở a-Mũi và các xoang của xương mặt Không khí đựơc hít vào thở ra qua hai lỗ mũi. b-Khí quản Khí quản là ống dẫn không khí, chạy từ họng (pharynx) xuống dưới. Nằm dưới mũi và miệng, họng là một thành phần của hệ tiêu hóa và hô hấp vì họng chuyên chở cả không khí lẫn thực phẩm. Ở phía dưới, họng sẽ chia ra làm hai nhánh: thực quản để dẫn thực phẩm, khí quản dẫn không khí. Tiểu thiệt (epiglottis) là một nắp sụn mỏng hình lá, có màng nhầy bao che khí quản để tránh thức ăn lạc đường vào phổi khi ta nuốt. Ấy vậy mà đôi khi ăn vội vàng hoặc cười nói huyên thuyên khi ăn, thực phẩm cũng lạc lối rơi vào khí quản, chạy tọt xuống phổi, gây ra sặc sụa. Chất nhờn tiết ra từ các tế bào của khí quản tiếp tục làm ẩm không khí và gạt bỏ vật lạ lẫn trong không khí mà lông mũi chưa loại hết. Đó là đàm, sẽ rơi vào dạ dày hoặc được ho bắn ra ngoài. c-Phế quản Là ống dẫn không khí từ khí quản xuống phổi. Khí quản chia làm 2 phế quản chính, rồi các phế quản nhỏ hơn, tận cùng bằng những túi nhỏ gọi là phế nang. Phế nang là nơi diễn ra sự trao đổi không khí: oxy từ không gian được hấp thụ và carbon dioxit trong mao mạch phổi được đưa vào phổi rồi thải ra ngoài. d-Phổi là một túi xơ đàn hồi có thể nở ra và ép vào qua sự chuyển động của xương lồng ngực và cơ hoành trong khi hô hấp. Dung tích của phổi khoảng trên dưới 6 lít, nhưng chỉ có khoảng 500 ml không khí tham dự vào việc hô hấp. Ngoài ra, phổi cũng có vai trò quan trọng trong việc điều hòa thân nhiệt qua sự bốc hơi trong hơi thở. Sự Hô Hấp Hô hấp có 3 động tác: a-Hít vào có tính cách chủ động, ngắn dài theo ý muốn để mang không phí vào phổi. Trong khi hít vào thì cơ liên sườn thư giãn, lồng ngực mở rộng, nâng lên cao đồng thời cơ hoành hạ thấp khiến cho phổi có cơ hội tăng dung tích để chứa tối đa không khí. b-Nín thở một thời gian ngắn để trao đổi không khí ở phế nang: oxy từ không khí chuyển sang hồng huyết cầu theo máu về tim rồi được phân phối cho các tế bào; thán khí từ cơ thể được phổi đưa ra ngoài. c-Thở ra thụ động để loại thán khí. Trong động tác này, cơ hoành đẩy lên cao, lồng ngực trở về vị trí cũ, không khí được đẩy ra. Nhịp thở trung bình là 15 nhịp trong một phút. Khi cơ thể vận động nhiều thì nhịp thở tăng để đáp ứng nhu cầu dưỡng khí và thải thán khí của cơ thể. Không như nhịp tim mà ta không kiểm soát được, con người có thể điều chỉnh nhịp hít thở nhanh chậm tùy theo nhu cầu. Ở người khỏe mạnh, khi ngủ hoặc lao động nhẹ đều thở ra hít vào bằng mũi. Khi vận động mạnh hơn thì có thể hít vào bằng mũi và thở ra hoặc bằng mũi hoặc miệng để lấy thêm dưỡng khí. Các nhà chuyên môn y học luôn luôn nhắc nhở là nên hít vào thở ra bằng mũi vì những lợi điểm sau đây: a-Niêm mạc của mũi có chất nhờn và những sợi lông. Xoang thông với mũi và sản xuất ra nhiều chất nhờn. Không khí được các vi huyết quản chứa đầy máu ở mũi làm ấm nóng. Chất nhờn làm không khí ẩm hơn trước khi vào phổi. Không khí khô và lạnh có thể gây kích thích khó chịu cho phổi. Lông mũi, chất nhờn chặn sự xâm nhập của các vật lạ có hại như vi khuẩn, bụi bậm rồi loại bỏ ra khỏi cơ thể khi ta hắt hơi. hoặc đưa xuống bao tử để được tiêu hủy. Thành ra, không nên cắt xén quá ngắn những sợi lông này. b-Lỗ mũi nhỏ hơn miệng cho nên không khí ra từ từ, nhờ đó phổi có thì giờ lấy oxy và nhả CO2. c-Với chức năng khứu giác, mũi phân biệt được mùi của không khí nhờ đó tạm hoãn thở trong khoảnh khắc để tránh hít vào khí có mùi độc hại gây khó chịu. d-Với những sợi lông và chất nhờn, hô hấp qua mũi sẽ tránh được các bệnh nhiễm virus, vi khuẩn, bụi bậm ô nhiễm, giảm thiểu rủi ro viêm đường hô hấp như dị ứng, hen suyễn, sưng phổi, viêm họng… e-Thở bằng mũi tạo ra chất nitric oxide ở các xoang mặt, là chất làm dãn huyết quản, máu tràn đầy, đưa tới tăng sự trao đổi không khí. Chất này cũng hiện diện trong dược phẩm nhóm nitroglycerin điều trị chứng Đau Thắt Ngực (angina) và trong Viagra để tạo sự cương cứng của cơ quan sinh dục nam, nhờ tác dụng dãn mạch máu. Mũi có nhiều vai trò khá quan trọng, cho nên cũng cần được chăm sóc bằng các phương thức như sau: -Lâu lâu dùng ngón tay bịt một bên lỗ mũi, hít vào thở ra mạnh dăm lần, rồi làm tương tự với mũi bên kia để lỗ mũi thông, loại trừ vật lạ. Cũng có thể hít các chất camphor, dầu cù là Nhị Thiên Đường cho thông mát lỗ mũi. -Cũng lâu lâu vục mặt vào nước lạnh tinh khiết, hít vào một chút nước để rửa mũi rồi hỉ ra hoặc cho chẩy xuống miệng, nhổ ra ngoài. Nhớ đừng hít quá mạnh, đến nỗi sặc sụa, nước chui vào khí quản xuống phổi, ngộp thở. Có thể dùng nước muối sinh lý mua ở dược phòng. Việc chăm sóc, rửa mũi này đặc biệt có lợi cho những ai sống ở nơi ô nhiễm không khí, bụi bặm, tràn ngập mùi săng dầu nhớt, sơn xe hoặc vào mùa dị ứng phấn hoa đồng thời cũng giảm khô mũi vì thời tiết thay đổi, ngồi lâu trong máy điều hòa không khí, trên máy bay.. Trong khi đó, nếu thường xuyên thở bằng miệng sẽ mất các ích lợi kể trên, đồng thời còn làm miệng khô, ngáy khi ngủ, ngưng thở tạm thời (apnea). Với trẻ em, thở miệng có thể đưa tới hư răng, hàm răng lệch khớp. Nhiều người khó tính còn gán cho những ai thở bằng miệng là “đần”, là “ngớ ngẩn”, nhất là khi đương sự nằm ngủ mà miệng há hốc để thở, nhớt dãi quanh mép. Đây là một gán ghép có tích cách nhạo báng, nên tránh. Cũng nên để ý tới khái niệm “thở bụng” và “thở ngực”. Bé sơ sinh thường thở bụng trong đó cơ hoành đóng vai trò quan trọng. Khi hít vào, cơ hoành hạ thấp, bụng phình ra, hút nhiều không khí vào phía dưới của phổi, nơi mà sự lấy oxy-thải C02 có cường độ cao nhất. Với đà tăng trưởng, con người bỏ thói quen này và thở qua lồng ngực trong đó hơi thở thường nông và nhanh, đưa tới giảm trao đổi không khí. Nếu phối hợp cả hai cách thì sự hô hấp hoàn hảo hơn. Thở để thư giãn Ngoài nhu cầu “hô hấp để sống còn”, thở còn thường được dùng để xả stress, thư giãn tinh thần khi có những lo âu buồn phiền rồi giảm huyết áp, nhịp tim, cơ bắp bớt căng. Nhưng thở cũng phải đúng cách. Bác sĩ Andrew Weil, Đại học Harvard phát biểu rằng: “Nếu phải giới hạn lời góp ý của tôi đối những ai muốn sống một cách khỏe mạnh với một mẹo thực tế duy nhất thì lời khuyên đó chỉ giản dị là làm sao học thở cho đúng cách”. Thở đúng cách phải là hơi thở sâu, chậm và dài trong đó cơ hoành có vai trò chính. Sau đây, xin gợi ý một phương thức tương đối giản dị, dễ áp dụng có thể thực hiện bất cứ lúc nào cảm thấy cần. 1-Tư thế có thể là nằm, ngồi hoặc đứng. Toàn thân thư giãn, xương sống ngay thẳng. 2-Đặt một bàn tay lên bụng để có thể cảm nhận sự phình ra thót vào của bụng. 3-Chậm rãi hít vào bằng mũi. Tập trung vào đường đi của hơi thở từ mũi xuống ống dẫn khí, vào phổi đồng thời hạ thấp cơ hoành để bụng phình hút vào nhiều không khí. Sự tập trung này cũng để tránh nhiễu ý ngoại cảnh. 4-Nhín hơi thở trong vài giây. 5-Từ từ thở ra bằng mũi. Khi không khí đã ra gần hết thì thư giãn một vài giây rồi hít thở lại. Kết luận Đã có nhiều nghiên cứu cho hay, cảm xúc có ảnh hưởng lên nhịp thở. Nhịp thở nhanh và sâu khi tức giận; nhanh và nông khi sợ hãi; chậm-sâu khi thư giãn, hạnh phúc; chậm- nông khi buồn chán. Như vậy thì thở đúng cách Tiếp tục tập thở như vậy cho tới khi nhịp thở trở thành thói quen trong đời sống hàng ngày. Hoặc khi nào căng thẳng tinh thần thì ngồi tĩnh lặng hít thở sâu dài mươi phút là thấy thư giãn thảnh thơi ngay.. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Texas-Hoa Kỳ
|
|
|
Post by NhiHa on May 27, 2012 7:34:37 GMT 9
Trái Dứa, Sỏi Thận, Phèn Chua
Nguyễn Ý Đức Mới đây có thân hữu hỏi ý kiến về bài thuốc chữa sỏi thận bằng dứa với phèn chua như sau: “Mẹ tôi 52 tuổi, bị bệnh sỏi thận, có người mách chữa bệnh này bằng cách: lấy một quả dứa cắt một đầu rồi đục giữa quả xuống sâu 3cm, lấy 2 thìa cà phê bột phèn chua cho vào rồi đậy nắp lại. Đun quả dứa đến khi chín nhuyễn lấy ra 2 ly, buổi tối uống 1 ly cho bàng quang mềm ra và sỏi vỡ ra. Đến sáng hôm sau thức dậy uống ly còn lại cho sỏi tan ra, nằm nghỉ 30 phút sau đó đi tiểu, nước tiểu khai và đục như nước vo gạo. Xin cho hỏi có đúng như vậy không?”.
Và cũng có hướng dẫn của một vị lương y là “Để chữa sỏi tiết niệu, người ta lấy 1 quả dứa gọt vỏ, khoét 1 lỗ và cho vào đó một ít phèn chua (0,3g) rồi cho nước vào đậy nắp lại ninh trong 3 giờ. Sau đó ăn các miếng dứa và uống cả nước. Dùng liên tục trong 7 ngày liền, nhiều trường hợp cho kết quả tốt”.
Trước khi góp ý, xin tìm hiểu về món ăn khá thông dụng này là trái dứa. Dứa là trái cây của miền nhiệt đới, có nguồn gốc từ các quốc gia ở Trung và Nam Mỹ. Khi Christopher Columbus thám hiểm Mỹ châu, thấy dứa trồng ở quần đảo Guadeloup rất ngon, bèn mang về cống hiến nữ hoàng Tây Ban Nha Isabella Đệ Nhất. Từ đó, dứa được đem trồng ở các thuộc địa của Tây Ban Nha, nhất là các quốc gia thuộc khu vực Thái Bình Dương. Cây dứa thân ngắn, lá dài và cứng với gai mọc ở mép, quả có nhiều mắt; phía trên có một cụm lá. Nông trại trồng dứa quy mô lớn đầu tiên trên thế giới được thiết lập ở Hawai vào năm 1885. Quần đảo này dẫn đầu về sản xuất dứa trên thế giới cho tới năm 1960. Sau đó, Phi Luật Tân là nước trồng nhiều và xuất cảng nhiều nhất. Các quốc gia khác ở Đông Nam Á châu cũng sản xuất một khối lượng dứa khá lớn. Nhờ kỹ thuật canh tác hàng loạt cho nên nhu cầu dứa được cung cấp đầy đủ với giá phải chăng. Dứa có quanh năm, nhưng nhiều nhất là vào tháng 6 tháng 7. Trung bình từ lúc trồng tới lúc thu hoạch là 18 tháng. Dứa thường được hái khi đã chin, sẵn sàng để ăn. Dinh dưỡng Dứa có nhiều sinh tố C, chất xơ pectin và chất gum. Một ly dứa tươi cung cấp 25mg sinh tố C; 0,1mg thiamine; 16mcg folate; 0,15mcg sinh tố B 6; 17mg magnesium; 0,5mg sắt; 2gr chất xơ và 80 calori. Dứa còn có chất bromelain, một loại enzyme tiêu hóa giống như papain của đu đủ. Bromelain có tác dụng làm mềm và phân hóa chất đạm ra nhừng phân tử nhỏ để cơ thể có thể sử dụng, cấu tạo tế bào đồng thời cũng tạo cho thịt hương vị thơm ngon. Br có thể gây ra dị ứng da cho người tiêu thụ. Dứa đóng hộp còn giữ được sinh tố C nhưng bromelain bị hơi nóng thiêu hủy. Áp dụng y học Theo American Cancer Society, dứa có chất Bromelain mà một số nghiên cứu cho là có công dụng hỗ trợ trong điều trị một số bệnh như: -Có thể dùng bromelain chung với thuốc điều trị ung thư để giảm thiểu tác dụng phụ của xạ trị, như là viêm cuống họng và miệng; -Vì bromelain là một enzyme chuyển hóa chất đạm cho nên có thể dùng thêm để hỗ trợ tiêu hóa cho những người thiếu enzyme này; -Bromelain có tác dụng ngăn ngừa tiểu cầu dính với nhau, cho nên có thể dùng thêm để tránh tình trạng máu đóng cục; -Nghiên cứu khác cho hay bromelain có tác dụng chống viêm sưng trong bệnh viêm khớp, viêm xoang, vết thương do sâu bọ cắn hoặc chống nhiễm trùng khi da thịt bị phỏng… Tuy nhiên, Hội Ung Thư Hoa Kỳ cũng nhấn mạnh là cần nhiều nghiên cứu khác nữa để xác định các công dụng này. Ăn dứa Dứa tươi có hương vị nồng ngọt, rất thích hợp để làm món tráng miệng kích thích tiêu hóa hoặc làm món ăn vặt. Miếng dứa phía đít, gần phía gốc thường ngon hơn phần khác, vì như kinh nghiệm của ông cha ta là “dứa đằng đít, mít đằng cuống”. Sau khi gọt vỏ, khía xéo để bỏ mắt, dứa được bổ dọc làm tám hoặc cắt khoanh tròn mỏng vừa phải, rắc thêm một nhúm đường, bỏ tủ lạnh độ 15 phút rồi mang ra ăn thì tuyệt hảo. Nước dứa hòa với đường ngọt húp vào lạnh mát cả người. Nhiều người lại thích chấm dứa với tí muối ớt, ăn vào vừa ngọt, vừa mặn, hơi cay, rất thỏa mãn khẩu vị đồng thời làm bớt rát lưỡi. Dứa còn dùng để xào nấu với thịt cá. Món canh chua cá lóc, dứa xanh thêm vài ngọn ngổ thì cơm ba nồi cũng hết. Khi nấu, hơi nóng làm mềm dứa vì chất cellulose tan rã, dứa hút gia vị và chất ngọt của thịt cá. Một đĩa xá lách trộn thập cẩm thêm vài miếng dứa thái nhỏ ăn càng ngon. Năm 1892, một người Anh là Đại úy John Kidwell lần đầu tiên sản xuất dứa đóng hộp. Dứa thường được hái khi đã chín mùi, mà phải chuyên trở xuất cảng đi xa, mau hư cho nên được đóng hộp cho dễ di chuyển. Dứa đóng hộp là dứa đã chín từ dưới cuống trở lên, do đó thường cần đến ba quả mới được một hộp dứa có phẩm chất tốt. Dứa hộp được cho thêm nước đường nên có nhiều calori. Ngoài ra còn dứa sấy khô hoặc nước dứa ép cũng là những món ăn thức uống ngon, bổ. Mua dứa Mua dứa tươi lựa trái to, nặng nước, toát ra mùi thơm của dứa, lá trên cuống còn xanh. Khi gõ, dứa phát ra một âm thanh đặc, quả dứa cầm thấy chắc tay, không chỗ nào mềm. Vỏ dứa có thể hơi xanh hoặc vàng cũng không sao. Dứa lớn nhỏ đều có chung giá trị dinh dưỡng như nhau. Tránh dứa đã có mùi lên men vì quá chin bắt đầu ủng. Dứa có thể cất giữ trong tủ lạnh hoặc ở ngoài. Lưu ý Dứa rất lành. Đôi khi dứa có thể gây dị ứng nhẹ ở da vì có chất bromelain . Tại các tiệm bán “thực phẩm tốt” Health Food lại có bán viên Bromelain và được giới thiệu là chữa được bệnh tim, phong khớp và vài bệnh khác. Dứa có chất tyrosine. Một vài u bướu hạch nội tuyến cùng tiết ra nhiều tyrosine. Vì thế, mấy ngày trước khi thử máu tìm u bướu này lại ăn dứa thì thử nghiệm có thể sai lệch, cho kết quả dương tính mà thực ra không có. Một vài nghiên cứu khoa học cho hay là trên mắt vỏ dứa có một hóa chất không tốt cho sức khỏe. Vì thế, tốt nhất là nên tránh ăn mắt dứa. Sỏi thận và dứa Bây giờ, xin trở lại với Sỏi thận và dứa cộng với phèn chua. Sỏi thận là một vật rắn đặc thành hình từ nhiều hóa chất khác nhau trong nước tiểu: -Sỏi calcium oxalate chiếm 80% các loại sỏi thận và đa số là do di truyền, calcium không dùng trong việc tạo xương và loại ra theo nước tiểu. Ngoài ra tiêu thụ quá nhiều thực phẩm chứa nhiều oxalate như rau spinach, cocoa, đậu phọng, các loại hạt, ớt, nước trà; ăn nhiều muối hoặc dùng bổ sung calcium viên cũng tăng tủi ro loại sạn này. Sạn calci rất cứng. -Sỏi với chất struvite (Magnesium ammonium phosphate) thường thấy trong bệnh nhiễm trùng đường tiểu tiện, đặc biệt là ở nữ giới và được điều trị bằng cách tiêu diệt tác nhân gây bệnh. -Sỏi với chất uric acit do tiêu thụ nhiều chất đạm động vật thịt, cá, gà gây ra vì các thực phẩm này cho chất purine, tiền thân của uric acit. Giới hạn các thực phẩm này và tăng độ kiềm của nước tiểu có thể giảm thiểu nguy cơ gây sạn. -Sỏi với các chất amino acit cystine, rất hiếm. Đây là bệnh bẩm sinh trong đó thận không tái hấp thụ được chất cystine. Chất này luân lưu trong nước tiểu và kết tụ thành sỏi. Chữa trị bằng cách uống nhiều nước để loại cystine ra ngoài đồng thời giảm độ acit của nước tiểu. Nam giới bị sỏi thận gấp đôi nữ giới và thường thấy vào tuổi từ 30 tới 50. Một đời sống quá tĩnh tại, bệnh nhân cao huyết áp, tiểu đường và mập phì cũng tăng rủi ro bị sạn thận. Nghiên cứu mới đây cho hay tình trạng hâm nóng toàn cầu đưa tới khô nước cũng làm tăng rủi ro sỏi thận. Ngay cả các phi hành đoàn bay trong không gian cũng tăng rủi ro này vì họ ít uống nước Hiện nay, y học thực nghiệm chữa sỏi thận bằng nhiều cách và căn cứ vào các chất kết tinh thành sỏi. Do đó, khi tiểu ra sạn cần cất giữ sạn và đưa cho phòng thí nghiệm để phân tích thành phần cấu tạo. Nếu sạn còn nhỏ, uống nhiều nước để loại sạn qua nước tiểu là cách hữu hiệu nhất. Với sỏi lớn, có thể đưa một dụng cụ nhỏ vào thận, nghiền sạn rồi gắp sạn ra hoặc đập vụn sạn với sóng nước (shock wave lithotripsy). Nên nhớ có thể phòng tránh sạn bằng cách uống nhiều nước. Khi nước tiểu loãng thì sạn khó mà kết tụ với nhau. Khi nước tiều đục vàng thì sạn sẽ kết tụ. Cũng nên nhớ rằng loại sạn thận calcium oxalte rất cứng khó mà có chất nào có thể khiến chúng hóa nhỏ tiêu tan. Về chữa sỏi thận với dứa và phèn chua, chúng tôi đã cố gắng tìm xem có kết quả nghiên cứu nào xác định hoặc hỗ trợ công dụng trị sỏi thận theo kinh nghiệm dân chúng hoặc theo lý luận của một số nhà y học cổ truyền với dứa và phèn chua, nhưng mà chưa có cơ duyên tìm ra. Sách những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của giáo sư Đỗ Tất lợi có ghi là dân chúng còn dùng rễ cây dứa làm thuốc lợi tiểu, chữa tiểu tiện khó khăn, đái ra sỏi thận. Có lẽ là uống nhiều nước rễ cây dứa có thể đẩy các tinh thể tạo sỏi trong nước tiểu ra ngoài cơ thể. Bệnh viện chuyên trị bệnh thận Devasya Kidney bên Ấn Độ khuyên dân chúng muốn giúp thận lành mạnh nên tiêu thụ các loại nước dứa, chanh, cà rốt, chuối …nhưng không giải thích tại sao. Cũng có lẽ là uống nhiều các loại nước này. Tuy nhiên có nhiều ý kiến cho rằng thực phẩm có nhiều ảnh hưởng lợi và bất lợi đối với sự thành hình sỏi thận. Chẳng hạn: -Với sạn calcium oxalate, nên giảm thiểu tiêu thụ món ăn có nhiều oxalate như chocolat, caffeine, các loại hạt, hạt tiêu đen, rau spinach, dâu, các loại đậu; đồng thời nên bớt muối, đường. Nên tiêu thụ chuối, gạo đỏ, oat, rye, bắp, cám, barley. nước trái cranberry, dứa, chanh cam. Bệnh nhân loãng xương cần bổ sung calci nên dùng loại calcium citrate. Dứa tương đối có ít oxalate calcium, một hóa chất của sỏi calcium. -Với sạn uric acid, nên giới hạn tiêu thụ đạm động vật có nhiều purine/acit uric như thịt bò, thịt cừu, gà, cá sardine, gan và thực vật như nấm, pumpkins, cauliflower, các loại đậu, rượu bia, rượu vang để giảm uric acid. . -Với sạn cystine, giới hạn cá vì có nhiều methionine. Về bài thuốc dứa-phèn chua, chúng tôi nghĩ là ta có thể dùng dứa. Uống nhiều nước dứa có thể khiến cho các tinh thể tạo sỏi tiết niệu loãng ra, không kết tụ với nhau và loại ra ngoài qua tiểu tiện. Nhưng cũng xin nhắc lại rằng nhiều loại sỏi thận là những tinh thể kết tụ với nhau, khá cứng, đập mạnh mới làm vỡ được. Riêng phèn chua thì nên cân nhắc một chút. Phèn chua là muối kép của nhôm và potassium. Đây là chất mà dân chúng thường dùng để làm cho nước có vẩn đục trở thành trong: muối nhôm kết tụ các vẩn đục này, lắng xuống đáy, nhờ đó nước trở thành trong và dùng được. Tìm kiếm, chúng tôi chưa thấy ý kiến nào nói đến công dụng của phèn chua đối với sỏi thận, ngoại trừ một số thân hữu cho hay họ cũng đã dùng dứa với phèn chua và có kết quả. Tuy nhiên, theo giáo sư Nguyễn Lân Dũng, Việt Nam, thì phèn chua không có công dụng gì trong việc làm tan sỏi tiết niệu (Sách Hỏi Gì- Đáp Nấy). Đồng thời có người thắc mắc là liệu phèn chua có làm cho các chất calci trong nước tiểu dễ dàng kết tụ với nhau để đưa tới sạn. Ngoài ra, một số nghiên cứu cho hay muối nhôm, tuy không độc, nhưng nếu tiếp xúc lâu ngày với lượng quá cao trong nước uống có thể gây ra rối loạn cho sự sinh đẻ, cho hệ thần kinh. Mới đây, vài nghiên cứu sơ khởi cho rằng chất nhôm có thể là rủi ro gây ra bệnh Alzheimer. Cho nên, để an toàn, có lẽ cũng chẳng nên dùng phèn chua với hy vọng “bàng quang mềm ra và sỏi vỡ ra “. Mong nhận được ý kiến của quý vị có nhiều hiểu biết. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Texas- Hoa Kỳ. www.bsnguyenyduc.com
|
|
|
Post by NhiHa on May 27, 2012 7:37:58 GMT 9
Trái thơm huyền diệu Võ Thị Diệu Hằng Trái thơm vị chua, ngọt, ngoài việc dùng để ăn tráng miệng, làm nước uống, làm bánh, người ta còn dùng để trị bệnh Tên thông thường: Pineapple, Ananas, Nanas, Pina. Tên khoa học: Ananas comosus, họ Bromeliaceae Cùng giống: Ananas ananassoides , Ananas bracteatus... I/ Nguồn gốc: Nguồn gốc từ Brazil và Paraguay, được người da đỏ trồng , lan rộng từ Trung và Nam Mỹ đến miền Tây trước khi Christopher Columbus tìm thấy trái thơm trên hòn đảo Guadaloupe (1493) rồi đưa về Tây Ban Nha. Sau đó người Tây Ban Nha mang trái thơm theo tàu, để thủy thủ khỏi bị bịnh Scorbut, thành ra trái thơm được phổ biến khắp thế giới. Họ nhập trái thơm vô Phi Luật Tân và có thể qua tới Hawaii và Guam những thập niên đầu thế kỷ thứ 16 . Trái thơm được nhập qua nước Anh năm 1660 và được trồng trong nhà kiếng khoảng năm 1720. Vào năm 1800 người ta bắt đầu trồng và bán ở Açores, Australie, ở Hawaii và Nam Phi châu. Thái Lan và Phi luật Tân hiện nay là những nước sản xuất thơm quan trọng nhất. Ngày nay thơm được trồng trong hầu hết các nước vùng nhiệt đới, không những tại Nam Mỹ, Trung Mỹ, Caraibes mà còn ở Úc, các đảo của Thái Bình Dương và nhiều nước châu Á và Châu Phi Người Pháp gọi là "ananas" từ chữ "nana nana" của người da đỏ và thổ dân Paraguay, có nghĩa là "thơm", . Người Tây Ban Nha đặt tên là piña vì nó giống trái thông. Người Anh lấy ý nghĩa này và đặt tên trái này là pineapple. Thơm là trái cây nhiệt đới, thích hợp với môi trường ẩm thấp, nhưng có thể chịu đựng tới nhiệt độ 28°F (-2°C), nhưng ở nhiệt độ lạnh, cây lớn chậm và trái chua Hoa thơm Hoa hơm rụng đi, thành mắt thơm II/ Thành phần Trái thơm chứa nhiều enzyme: pectase, invertase, peroxydase, desmolases và nhất là broméline, enzyme đặc biệt nhất của trái thơm. Chất này có trong trái thơm, cộng thơm và lá thơm. Sở dĩ nó làm mềm thịt là nhờ nó có khả năng chia cắt các protéine ra làm những phân tử đơn giản hơn tức là nhỏ hơn (cũng như thể nó "tiêu hóa" giùm ta phần đầu) Thành phần trung bình cho 100 g thơm Thành phần (g) Glucide 11.6 Protide 0.50 Lipide 0.20 Acide hữu cơ 0.90 Nước 84.8 Chất xơ 1.40 Khoáng chất (mg) Potassium (K) 146.0 Phosphore (P) 11.00 Calcium (Ca) 15.00 Magnésium (Mg) 5.000 Lưu huỳnh (S) 3.000 Sodium (Na) 2.000 Sắt (Fe) 0.300 Đồng (Cu) 0.080 Kẽm (Zn) 0.090 Manganèse (Mn) 0.400 Fluor (F) 0.010 Iode (I) 0.010 Vitamin (mg) Vitamin C (ac. ascorbique) 18.00 Provitamin A (carotène) 0.060 Vitamin B1 (thiamine) 0.080 Vitamin B2 (riboflavine) 0.030 Vitamin B3 ou PP (nicotinamide) 0.300 Vitamin B5 (ac. panothénique) 0.160 Vitamin B6 (pyridoxine) 0.090 Vitamin B9 (ac. folique) 0.014 Vitamin E (tocophérols) 0.100 So sánh khả năng thủy giải: Enzyme Khả năng thủy giải tương đương Pancréatine 100 mg Trypsine 24 mg Chymotrypsine 1 mg Bromélaïne 45 mg Papaïne 60 mg III/ Công dụng của broméline Broméline hiện diện trong thân, lá, cuống thơm nhiều hơn trong thịt trái thơm. Người ta ly trích chất broméline từ vỏ trái thơm, cuống thơm, cọng thơm... , còn thịt trái thơm dùng để ăn. Ngoài việc phân cắt protéine, (các bạn đừng sợ, vì dạ dày có chất nhờn che chở), ngày nay broméline được trích ra để điều chế thuốc tây, để trị nhiều chứng bịnh. Có hai cách trị liệu: - Uống: làm giảm đau khớp, làm cho dễ tiêu hóa, tham dự vào việc giải tỏa sự bế tắt đường hô hấp, chữa bịnh viêm xoang, bịnh viêm tĩnh mạch, bớt sự trở lại chứng nhồi máu và những cơn viêm họng, giúp cho một số thuốc hấp thụ được, hỗ trợ cho việc trị các khối ung thư - Xức bên ngoài: giúp mau lành sẹo các vết thương dưới da: broméline dùng để làm lành vết thương và thành sẹo nhanh chóng sau khi giải phẫu hay bị thương vì thể thao. IV/ Những nghiên cứu lâm sàng: 1) Chữa trị chấn thương Dùng broméline để chữa bệnh sưng phù sau khi bị chấn thương. Dùng với liều lượng cao, sẽ làm giảm đau, sưng phù. Năm 1960 một nghiên cứu trên 146 võ sĩ quyền anh đau vì bị đụng giập và bọc máu thì 78% được chữa trị với broméline thì sau 3-4 ngày là hết ,trong lúc không dùng broméline thì chỉ 14% người lành. Số còn lại thì những người uống broméline hoàn toàn lành hẳn sau 8 ngày so với 14 ngày cho những người không dùng broméline. 2) Chữa thấp khớp: Hôm tháng 2 vừa qua, những nhà khoa học đã thử nghiệm một tổng hợp mới và hy vọng rằng chất broméline có thể làm giàm đau nhức các chứng thấp khớp (Arthrose) nơi đầu gối hay bả vai a) Đau nhức xương đầu gối Các nhà khoa học phân tích kết quả của 10 cuộc nghiên cứu trên tác dụng của chất broméline trên chứng đau khớp đầu gối, với lượng hàng ngày là 60 mg tơi 1890 mg. Một trong số 10 nghiên cứu đó mang lại kết quả là broméline làm giảm sưng cho 18 bệnh nhân trong số 29 người đau chứng thấp khớp. Một nghiên cứu khác để mở ngõ cho mọi người tham gia, dùng broméline 200 mg, hay 400 mg mỗi ngày và họ cảm thấy rằng sự cử động các khớp xương dễ dàng hơn và đồng thời giảm bớt sự cứng ngắc. b) Đau nhức bả vai: Có hai nghiên cứu lâm sàng trên thấp khớp nơi bả vai là cho bệnh nhân dùng liều lượng 540 mg broméline mỗi ngày thì hình như có hiệu quá gấn như chất diclofénec V / Ăn trái thơm có làm giảm cân không ? Người ta quảng cáo rằng ăn thơm làm giảm cân vì chất broméline là một "enzyme tiêu mỡ" . Nhưng thực tế thì những cây họ broméliacée có chứa enzyme broméline hầu hết ở trong thân cây, trong cuống, lõi thơm nhưng có ít trong thịt trái thơm. Broméline là một protéase nên chỉ tác dụng trên các protéine. Công dụng của broméline không đáng kể so với các enzyme do cơ thể chúng ta tạo ra. Bởi vậy ăn thơm hay uống các viên thuốc broméline trích từ cây thơm, đều không có tác dụng làm giảm cân.
|
|
|
Post by NhiHa on May 27, 2012 7:40:27 GMT 9
Chuột RútBS Nguyễn Ý Đức Đang đắm mình trong giấc ngủ say, đột nhiên ông Vân thấy bắp chân co giựt liên hồi rồi đau nhức từ gót chân lên đầu gối, đau chịu không nổi, như cắt thịt đứt da. Ông nhăn nhó ôm chân la làng. Bà Vân nằm bên cạnh vội vàng nhổm dậy, kiếm hộp dầu cù là thoa thoa, bóp bóp, an ủi. Mấy phút sau, cơn đau giảm dần nhưng bắp chuối còn mỏi. Ông bà Vân không ngủ trở lại được, bèn rủ nhau dậy nấu nước sôi pha trà Thái Nguyên uống, nhắc lại chuyện đời xưa Sáng hôm sau lật đật đi bác sĩ để tìm hiểu nguyên do, điều trị. Từ mấy tuần lễ nay, chân ông cứ bị đau thắt như vậy nhiều lần. Thưa đó là ông Vân đã bị chứng “chuột rút” ở bắp thịt dưới chân. Ông Vân chẳng phải là người duy nhất với “nửa đêm thức giấc đau chân” như vậy. Cùng lúc đó có cả triệu người khác cũng đang ôm chân nhăn nhó. Con chuột nó rút cơ bắp chuối của quý thân hữu và nó không chịu nhả ra, cơ liên tục co cứng, gây đau. Tiếng Hồng Mao gọi là “leg cramp”, tiếng lóng “Charley horse” người mình gọi giản dị là “Chuột rút” hoặc “Vọp bẻ”. Vậy Chuột Rút là gì? Chuột rút là sự co đột ngột, ngoài ý muốn và gây đau ở một bắp thịt làm cho cử động khó khăn. Chuột rút có thể xẩy ra ở bất cứ bắp thịt nào, nhưng thường thấy ở bắp chuối giữa đầu gối và cổ chân, bắp thịt đùi và hông (cơ đùi trước và đùi sau giữa đầu gối và hông), dọc theo bàn tay, bàn chân và cơ bụng. Cơ co có thể chỉ lâu vài giây đồng hồ tới vài phút nhưng cũng có thể hết đi rồi co trở lại. Bệnh thường xẩy ra vào ban đêm khi đang ngủ hoặc mới thức giấc; sau khi vận động, sử dụng cơ bắp lâu dài. Bệnh thấy ở mọi giới mọi tuổi nhưng nhiều hơn ở trẻ em và lão niên trên 65 tuổi, người mập phì , vận động viên thể dục thể thao, nam nhiều hơn nữ. Nguyên Nhân Nguyên nhân của chuột rút chưa được biết rõ, có thể là là do vận động quá mức hoặc trong tình trạng tĩnh tại quá lâu như khi ngủ ban đêm, khi ngồi lâu cùng vị trí. a-Chuột rút ban đêm có thể vì: -Ban ngày đứng lâu trên mặt bằng cứng, cơ bắp không hoạt động, cứng nhắc -Có tật ở bàn chân, như trường hợp không có độ cong của mu bàn chân, gót chân nằm phẳng trên mặt đất (flat-foot) khiến cho bắp thịt luôn luôn căng -Thiếu nước trong cơ thể -Người hơi mập, chân chịu sức nặng liên tục -Mang giầy quá chật, gót quá cao -Mất cân bằng chất điện giải trong máu -Tác dụng của một số dược phẩm như thuốc statin, prednisone, thuốc lợi tiểu chữa cao huyết áp làm giảm K và magnesium trong máu, -Thiếu K, Na. vì ói mửa, tiêu chẩy, đổ nhiều mồ hôi -Chuột rút trong các bệnh tiểu đường, Parkinson, đường huyết thấp, thiếu hồng cầu, bệnh tuyến giáp hoặc nội tiết, bệnh thận đang lọc máu... -Rối loạn tuần hoàn, bệnh mạch máu chi dưới khi đi lại nhiều b-Chuột rút sau khi vận động thường thấy ở các bắp thịt lớn, kéo dài tới vài chục giây đồng hồ. Nguyên do có thể vì: -Cơ bắp mệt mỏi -Vận động quá lâu, quá mạnh -Vận động khi thời tiết quá nóng hoặc quá lạnh -Mất chất điện giải trong cơ thể như K, magnesium, muối natri, calcium. -Tích tụ acid lactic trong bắp thịt sau khi vận động lâu dài. - Mới đây có giải thích cho rằng, rối loạn dẫn chuyền tín hiệu giữa cơ bắp và dây thần kinh bị rối loạn, cho nên dù não bộ muốn cơ thư giãn sau khi co nhưng cơ vẫn tiếp tục co, gây ra đau. Theo giải thích này, người ngồi làm việc lâu, ngồi không ngay ngắn đúng vị thế cũng hay bị chứng co cứng cơ đau nhức này. c-Sách Danh Từ Y Học do bác sĩ Lê Khắc Quyến soạn có ghi nhiều chứng chuột rút liên quan tới một số nghề nghiệp khác nhau như chuột rút thợ cạo, chuột rút người đánh máy, chuột rút văn sĩ, chuột rút người hầu bàn, chuột rút điện báo viên, chuột rút người vắt sữa bò, chuột rút diễn giả...Đây là những công việc mà người thực hiện phải dùng đi dùng lại một số bắp thịt. Riêng trường hợp chuột rút nhà diễn giả, chắc là hăng say, miệng dính chặt vào micro, nói thao thao bất tuyệt, nên con chuột trong bắp thịt lưỡi mệt mỏi, co cứng. Điều trị Thường thường chuột rút không kéo dài lâu và không gây ra hậu quả trầm trọng. Tuy nhiên, khi đang lái xe, điều khiển máy móc hoặc đang bơi lội thì tai nạn có thể xảy ra. Sau đây là một số phương thức nên áp dụng để giải tỏa cơn đau: -Nhẹ nhàng thoa bóp bắp thịt bị co -Khi chuột rút ở bắp chuối, nhè nhẹ vươn duỗi cơ theo chiều đối ngược: kéo đầu ngón chân và bàn lên phía trần nhà, hướng về đầu gối. -Khi co cơ bắp đùi, nhờ người kéo thẳng chân ra, nâng cao gót chân đồng thời ấn đầu gối xuống. -Khi co cơ xương sườn, nên hít thở sâu để thư giãn cơ hoành đồng thời xoa bóp nhẹ các bắp thịt quanh ngực -Tắm nước nóng để thư giãn bắp thịt -Thong thả đạp xe đạp chừng dăm phút trước khi đi ngủ -Đặt một cái chăn ở cuối chân giường để các ngón và bàn chân khỏi chúi xuống trong khi ngủ. Bàn chân chúi xuống làm căng thẳng bắp chuối. -Mang giày thích hợp, không bó chặt bàn chân, gót giày không quá cao. -Bơi lội cũng giúp nhả duỗi cơ bắp, giảm co cứng cơ. -Mang tất đàn hồi hơi ép vào mạch máu để tránh máu ứ đọng ở tĩnh mạch hạ chi. Có người nói để một cục xà bông dưới khăn phủ giường để tránh chuột rút. Xin quý thân hữu áp dụng thử coi và “công bố” kết quả cho bà con biết mà làm theo. Thuốc Quinine sulfate được coi như khá công hiệu để điều trị chuột rút, nhưng có nhiều tác dụng ngoại ý không tốt (ù tai, rối loạn thị giác, chóng mặt, buồn nôn, giảm tiểu cầu, rối loạn nhịp tim), cho nên cần được sự hướng dẫn và theo dõi của bác sĩ khi dùng. Vì lẽ đó, từ năm 1995, Cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ cấm bán tự do các loại thuốc bổ (tonic) có chất quinine. Đang có thai, bệnh thận, bệnh tim không được dùng quinine. Dược phẩm có hoạt chất diphenhydramine hydrochloride (benadryl), sinh tố E, thuốc thư giãn cơ (equanil, miltown), veramil hydrochloride (Calan, Isoptin, Verelan), chloroquine phosphate (Aralen Phosphate) và hydroxychloroquine sulfate (Plaquemil sulfate) cũng có đôi chút công hiệu. Phòng ngừa Phòng bệnh hơn chữa bệnh, cho nên xin hiến vài mẹo vặt để phòng tránh: -Uống nước đầy đủ. Liên hệ nhân quả giữa thiếu nước và chuột rút chưa được biết rõ, nhưng khi cơ thể thiếu nước thì chuột rút xẩy ra. Vì thế, cần uống nước đầy đủ trước, trong khi và sau khi tập luyện cơ thể và trước khi đi ngủ buổi tối. -Thư giãn cơ bắp trước và sau mỗi lần vận động cơ thể. -Tập vươn duỗi chân mỗi buổi sáng, trước khi ăn và trước khi đi ngủ vào buổi tối: a-Đứng thẳng cách xa tường 15 cm, gót chân chạm đất b-Giữ gót chân chạm mặt đất, ngả mình về phía trước, hai bàn tay chống lên tường c-Đẩy hai bàn tay lên trên, giống như lau tường, càng cao càng tốt d-Giữ nguyên vị trí trong 30 giây, rồi buông tay xuống, thư giãn. Nhắc lại các động tác trên năm lần. -Khi ngồi, co bàn chân về phía đầu gối càng cao càng tốt. Làm như vậy để máu dễ dàng lưu thông ở bắp chuối Trước khi vận động cơ thể, nên dành mươi phút “hâm nóng” toàn thân và “vươn duỗi” cơ bắp để tránh chuột rút. Chuột rút bắp chân khi có thai Phụ nữ có thai thường hay bị chuột rút vào tháng thứ sáu của thai kỳ và kéo dài khi bụng ngày càng lớn. Khó khăn thường xảy ra vào ban đêm. Nguyên nhân chưa được biết rõ. Có ý kiến cho là vì : -Thiếu calcium, phospho, magnesium, - Do các cơ ở dưới chân phải mang sức nặng quá lâu của dạ con, thai nhi nên mệt mỏi hoặc -Thai nhi và tử cung lớn dần, cơ và dây chằng tử cung căng giãn - Sức nặng và độ lớn của tử cung ảnh hưởng lên các mạch máu ở hạ chi. Để tránh khó khăn này: -Không nên đứng hoặc ngồi tréo chân quá lâu -Vươn duỗi bắp thịt cẳng chân (bụng chân, bắp chuối) nhiều lần trong ngày và trước khi đi ngủ. -Cử động khớp cổ chân, các ngón chân trong khi ngồi, ăn cơm, đọc sách báo hoặc coi TV -Chậm rãi đi bộ nếu bác sĩ không cấm -Tránh làm việc quá mệt mỏi, nằm nghỉ khi cần -Uống nước đầy đủ. -Tắm nước ấm trước khi đi ngủ để thư giãn bắp thịt Nếu đang bị chuột rút, có thể thoa bóp bắp thịt hoặc chườm với bình nước nóng; vươn duỗi bắp chuối, kéo bàn chân và ngón chân về phía ống quyển, nhẹ nhàng đi lại để bắp thịt thoải mái, tránh chúi đầu ngón chân khi thả lỏng bắp thịt... Có ý kiến cho là dùng thêm calcium hoặc magnesium cũng giúp giảm thiểu chuột rút, nhưng nên hỏi ý kiến bác sĩ trước khi dùng. Nếu chuột rút kéo dài, xảy ra nhiều lần thì nên đi bác sĩ để tìm ra căn nguyên và điều trị, vì đôi khi có thể là do cục máu hạ chi. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Ý Đức.com Bệnh Thống Phong (Gout) và Các Bệnh KhácBác Sĩ Phạm Anh Dũng, ABFP Santa Maria, California, USA Bệnh Thống Phong (Gout) là một loại đau phong thấp với những cơn viêm khớp xương tái diễn (recurrent arthritis) do sự kết đọng (deposit) của tinh thể (crystals) chất uric acid trong khớp xương. Khớp xương hay bị thống phong nhất là khớp ở gốc (base) của ngón chân cái. Những khớp khác trong cơ thể cũng có thể bị thống phong như khủy tay, đầu gối, bàn tay, bàn chân, mắt cá chân, vai... Bệnh thống phong xẩy ra nhiều ở đàn ông, khoảng 20 lần nhiều hơn so với đàn bà. 90 phần trăm bệnh nhân là đàn ông trên 40 tuổi. NGUYÊN NHÂN VÀ HIỂM HỌA (RISK) Thống phong gây ra vì lượng uric acid trong máu lên cao, có thể là vì cơ thể sản xuất quá nhiều uric acid quá, hay vì sự xuất thải uric acid do thận bị suy giảm, hoặc vì cả hai lý do. Khi chất uric acid trong máu lên cao, tinh thể uric acid kết đọng ở khớp xương và gây ra viêm khớp. Chất uric acid có trong đố ăn có chất purines, nhưng phần lớn do chính cơ thể sản xuất. Những hiểm họa (risks) làm người ta dễ bị thống phong: . Xử dụng thuốc lợi tiểu, thí dụ thông dụng như hydrochlorothiazide hay furosemide. . Dùng vài thứ thuốc như niacin, cyclosporine... . Một vài bệnh về máu như ung thư máu (leukemia) và bệnh dư máu (polycythemia)... . Đàn ông hơn 60 tuổi. . Gia đình đã có người bị thống phong (family history of gout). . Mập ù (obesity). . Bệnh tuyến giáp trạng, bệnh thận, thiếu máu, cao áp huyết, đái đường... . Bị thương (trauma), giải phẫu, quang tuyến trị liệu (radiation therapy)... . Ăn nhiều thức ăn có nhiều uric acid như cá sardines, gan, thận, óc... . Uống nhiều rượu ĐỊNH BỆNH A. Triệu chứng (symptoms) va dấu hiệu (signs): . Đau nhiều và đột ngột ở một khớp bị xưng, thường là ở khớp xương tại gốc ngón chân cái hay ở một khớp xương lớn hơn. . Thường cơn đau bắt đầu vào ban đêm và thường chỉ ở một khớp (monoarticular). . Khớp xương bị viêm sẽ bị sưng, đỏ, nóng và đau. . Da chung quanh khớp có màu đỏ và bóng (shiny). . Sốt (fever) đôi khi xẩy ra. B. Thử nghiệm: . Tìm tinh thể uric acid trong khớp bằng cách lấy dung dịch trong khớp xương để tìm tinh thể dưới kính hiển vi. . Thử ngiệm lượng uric acid trong máu. Tuy nhiên thử nghiệm có thể sai lầm vì lượng uric acid có thể bình thường trong những cơn đau cấp tính và ngược lại nhiều người có lượng uric acid cao nhưng không bao giờ bị đau cả. . Quang tuyến định bệnh thường sẽ bình thường (normal) lúc đầu. VIỄN ẢNH (OUTCOME) VÀ BIẾN CHỨNG (COMPLICATIONS) Lần đầu tiên bị thống phong cấp tính (acute), cơn đau kéo dài khoảng vài ngày. Nếu không chữa trị, cơn đau rất dễ tái diễn. Nếu chữa cho giảm lượng uric acid trong máu, cố giảm hay tránh những hiểm hoạ các cơn đau sẽ thưa bớt đi hay hết hẳn. Nếu để lâu ngày, không chữa trị có thể sẽ bị biến chứng: . Khớp bị biến dạng (deformed), tàn tật (crippled). . Sạn ở thận (uric acid stones). . Viêm những giây chằng (ligaments), gân (tendon) và xương. CHỮA TRỊ Mục đích chính của trị liệu là làm giảm viêm và tìm những hiểm họa, nếu có, để tránh. Cần tránh sự tái diễn cơn đau, bằng cách làm giảm uric acid trong máu. Đồng thời cũng cần để ý để đề phòng những tổn thương, đôi khi nguy hiểm, có thể gây ra vì thuốc chữa. A. Tổng quát (general measures) . Nằm nghỉ ngơi (bed rest) rất quan trọng. . Chườm nước đá hay chai có nước ấm vào khớp bị viêm. B. Thuốc chữa 1. Chữa bệnh cấp tính: . Thuốc chống sưng đau (NSAIDs) như indomethacin, ibuprofene, naproxene. . Thuốc colchicine. . Thuốc kích thích tố vỏ tuyến thượng thận (glucocorticosteroids) như prednisone. 2. Chữa ngừa bệnh bằng cách làm giảm lượng uric acid trong máu: . Allopurinol là thuốc làm giảm sự sản xuất uric acid trong cơ thể. . Probenecid làm tăng sự xuất thải uric acid khỏi cơ thể theo đường thận. Những thuốc này có thể gây nhiều phản ứng không thuận lợi (side effects) khá nặng. C. Dinh dưỡng (diet) . Tránh ăn thức ăn có nhiều chất purine gan, thận, óc, cá sardines... . Uống nhiều nước khoảng 12 ly nước một ngày để làm nước tiểu loãng ra và ngừa sạn thận. . Tránh uống rượu nhất là rượu bia hay rượu vang đỏ (red wines). . Nếu mập ù hãy cố giảm cân đúng cách. Giảm cân không đúng cách, quá nhanh cũng có thể dễ bị đau thống phong. THĂM, GỌI BÁC SĨ GIA ĐÌNH KHI: . Có triệu chứng bệnh để được định bệnh và chữa bệnh. . Sau 3 ngày chữa bệnh mà vẫn còn đau. . Trong khi uống thuốc chữa có xẩy ra: sốt hơn 101 độ F; nổi ban (skin rash), đau cổ họng, lưỡi đỏ hay chảy máu lợi (bleeding gum); ói mủa, đi cầu lỏng và nhiều lần. . Những triệu chứng gì lạ khác có thể là do thuốc chữa bệnh thống phong gây ra. *************************************** Gout - Căn bệnh của các “quý ông” [09/07/2007] Gout là căn bệnh rất thường gặp ở đàn ông, đặc biệt là các quý ông có chế độ ăn uống quá thừa chất. Căn bệnh này nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời sẽ gây ra hậu quả khôn lường. Sau đây xin đưa ra một vài kiến thức cơ bản về căn bệnh này. 1. Nguyên nhân gây bệnh Nguyên nhân gây ra bệnh Gout là do sự dư thừa hàm lượng axit uric trong máu. Axit uric sinh ra do quá trình phá vỡ các protein và thường được thận bài tiết ra, có trong nước tiểu. Khi cơ thể không thể tự đào thải được lượng axit uric dư thừa, chúng sẽ kết lại thành các tinh thể đóng ở các khớp và gây đau đớn. Bệnh gout thường chỉ “gõ cửa” các quý ông, còn đối với phụ nữ rất hiếm và hầu như không mắc căn bệnh này. Đặc biệt nam giới trong độ tuổi trên 45 nguy cơ mắc bệnh càng cao. Những người béo mập, thường xuyên uống rượu và dùng thuốc lợi tiểu cũng rất dễ mắc Gout. 2. Triệu chứng của bệnh Vùng mắc bệnh thường có biểu hiện sưng, tấy đỏ và rất đau. Bệnh thường phát nhất là ở ngón chân cái, sau đó là các khớp cổ chân, khớp gối, khớp bàn chân, và các vùng xung quanh các khớp khác. Nước tiểu có màu lạ. Hiện tượng này thường kéo dài từ 4 đến 10 ngày, rồi kết thúc. Nếu không được phát hiện sớm và chữa trị kịp thời sẽ dẫn đến viêm khớp mãn tính, làm suy yếu chức năng gan, thận, các động mạch và tim. 3. Cách chữa trị Việc chữa trị phần lớn phụ thuộc vào mức độ của bệnh. - Bệnh ở giai đoạn cấp tính: Thuốc NAIDS và Non Steroid (một loại thuốc kháng viêm), được dùng để làm giảm sưng phồng và giảm đau. Trong trường hợp NSAID không đem lại hiệu quả nhanh chóng, các bác sĩ sẽ khuyên bạn nên dùng Corticosteroid. Colchicine không những công hiệu nhanh mà còn có tác dụng điều trị các bệnh về tim mạch. - Bệnh Gout mãn tính. Điều trị bệnh gout mãn tính rất cần phải có sự kiên trì. Allopurinol là thuốc thuờng dùng để điều trị bệnh gout mãn tính. Thuốc giúp giảm sự hình thành các axit uric và urocosuric. Tuy nhiên xin lưu ý bạn rằng, chế độ ăn uống (tránh ăn nhiều chất đạm và uống rượu bia) có ảnh hưởng đáng kể tới việc điều trị bệnh. Theo Dân Trí
|
|
|
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 7:19:59 GMT 9
Lý do ngoại tình (VienDongDaily.Com - 05/10/2012) TS. Trần Mỹ Duyệt/Viễn Đông
Dưới cái nhìn của tâm lý hôn nhân, tâm lý gia đình thì “ngoại tình” chính là một căn bệnh mà nhiều người đã mắc phải, và kết quả là tan vỡ hạnh phúc, tan vỡ gia đình. Thống kê được thực hiện bởi Liar Cathers Private Investigation cho biết như sau: - 22% đàn ông có vợ đã ít nhất một lần gian dối vợ. - 14% đàn bà có chồng đã ít nhất một lần có liên hệ tình dục ngoài hôn nhân. - 70% đàn bà có chồng đã gian dối khi không hoàn toàn biết rõ về tình huống. - 81% đàn bà có chồng công khai thừa nhận sự bất trung với người khác phái. - 57% đàn ông có vợ và đàn bà có chồng thừa nhận đã lẳng lơ, tán tỉnh với người khác trên internet. - 31% người có gia đình gặp người trên online và kết quả là đã gian dối với người đó. Ngoài ra, cũng theo thống kê trên, thì: - Phần lớn những người ngoại tình đều ở lứa tuổi trẻ. - Ngoại tình đưa đến 17% các cuộc ly dị. Cũng theo các nhà chuyên môn, người đàn ông ngoại tình vì cảm thấy thiếu thốn, hoặc thừa thãi trong gia đình. Tình cảm vợ chồng lạnh nhạt. Những phân tích cho thấy, nhiều người đàn ông ngoại tình vì thấy mình bị vợ bỏ rơi, coi thường, và xa cách. Trong nhiều trường hợp, người vợ đã không dành thời giờ cho chồng, không có những đáp ứng nhu cầu sinh lý. Đối với họ, thời giờ cho chồng là thứ yếu và là sau hết. Người chồng là người sau cùng được hỏi han tới, được quan tâm nếu như nàng đã hoàn tất xong công việc ở sở, công việc ở nhà, và hằng trăm thứ linh tinh khác với con cái, bạn bè. Ngoài ra, còn tùy thuộc vào lúc nào nàng muốn, nàng hài lòng, và nàng thích thì nàng mới chiều chuộng, mới thăm hỏi, và âu yếm. Riêng đối với nữ giới, thì lý do ngoại tình là vì nàng đã mất sự kính trọng dành cho chồng. Chồng đã đánh mất nét đẹp thần tượng của mình bằng những lời ăn, tiếng nói, bằng thái độ cư xử, hoặc bằng lối sống ích kỷ... Ngoài ra, nàng còn muốn chứng minh cho chồng biết là nàng vẫn còn hấp dẫn và vẫn có người khác đang ở ngoài kia chờ nàng. Đặc biệt, cuộc sống lứa đôi nhàm chán, thiếu hấp dẫn từ phía người chồng. Nhưng như Evà và Adong đứng trước cây trái cấm, cả hai phái đều muốn chứng tỏ khả năng và sức chịu đựng của mình, và nghĩ rằng mình không dễ gì bị sa ngã. Bản thống kê không cho biết rõ thành phần tuổi tác nhưng chỉ cho biết thông thường những trường hợp ngoại tình xảy ra trong lúc tuổi trẻ. Tuổi có nhiều nhu cầu, nhiều tự ái, và dĩ nhiên cũng có nhiều khả năng tự tin vì cho rằng mình tài, mình đẹp, mình thành công, và mình cần phải được người khác chú ý, hoặc muốn chứng tỏ khả năng chinh phục người khác phái. Tóm lại, tự tin thái quá, thiếu trưởng thành tình cảm, và thái độ nhàm chán là những lý do chính khiến đưa đến tình trạng ngoại tình.
Tự tin thái quá Mặc dù chỉ có 22% đàn ông có vợ, và 14% đàn bà có chồng thực sự có những hành động ngoại tình, tức là có những trao đổi tình dục, xác thịt với người đàn bà, đàn ông khác không phải là vợ, là chồng. Nhưng đã có tới 81% đàn bà có chồng công khai với người khác phái là mình đã có những cử chỉ lẳng lơ, tán tỉnh.Trong khi 57% đàn ông có vợ và đàn bà có chồng cũng đã công khai thừa nhận mình đã tán tỉnh người khác trên online. Điều này cho thấy ngoại tình trong tư tưởng nhiều hơn ngoại tình thật sự. Và nó cũng dễ hiểu vì “tư tưởng dẫn đến hành động”. Trước tiên người ngoại tình nuôi tư tưởng ngoại tình, vui thích với tư tưởng ngoại tình và sau đó, bằng những thôi thúc ham muốn bên trong, khi một cơ hội dù rất nhỏ xảy tới, họ sẽ ngoại tình trong hành động. 70% đàn bà có chồng ngoại tình trong tình trạng phân vân, hoặc không rõ ràng đã cho thấy rằng trong nhiều trường hợp ngoại tình, người ta bị thôi thúc và ảo tưởng về hành động của mình hơn là thực sự biết rõ mình đang làm gì. Ở đây cũng nêu lên một tâm lý tự nhiên về phía nữ giới, đó là sống và hành động nhiều dựa trên tình cảm. Nhưng điều quan trọng đối với hành động ngoại tình, là những người ngoại tình tự cho mình không thể bị sa ngã. Tâm lý này cũng vẫn là tâm lý dẫn đến nhiều sự thất bại, sa ngã ê chề trong đời thường không riêng gì tư tưởng và hành động ngoại tình. Bình thường, người tự cao tự đại là người ít khi nhận mình có lỗi, nhận mình yếu kém. Họ luôn luôn tìm cách che đậy và thổi phồng mình lên bằng những chiến thắng, bằng những thành công, và giá trị hão huyền. Chính vì tự cho mình là không thể sa ngã, nên khi hoàn cảnh đến họ không có lựa chọn nào hơn là chấp nhận sa ngã. Đối với họ, chấp nhận sa ngã cũng là một hành động cho biết họ là nhất.
Thiếu trưởng thành tình cảm Dù cắt nghĩa theo chiều hướng nào thì những hành động như tán tỉnh, ve vãn người này người khác dù trước mặt hay trên online cũng chỉ là một hành động phản ảnh thái độ thiếu trưởng thành về mặt tình cảm. Tục ngữ Việt Nam diễn tả thái độ này là: “Thả mồi bắt bóng”, “Đứng núi nọ trông núi kia”. Khi một người tự thấy mình thiếu thốn, hay tự đặt mình trong tình trạng thiếu thốn là người ấy đang sống trong tâm lý bất ổn. Trong trường hợp ngoại tình, hành động này được diễn tả qua những lời nói, ánh mắt, nụ cười, cử chỉ ve vuốt, tán tỉnh một người khác. Thông thường, thái độ này cho thấy người ngoại tình đang say mê, đánh đổi những gì mình đang có, và nghĩ rằng mình đang chọn lựa một cái gì tốt hơn, dễ yêu hơn, dễ mến hơn. Điều này cũng chứng tỏ tâm lý bất ổn về hạnh phúc gia đình, về tình cảm đối với chồng hoặc với vợ. Tại sao tôi lại phải đi ve vãn, tán tỉnh một người? Phải chăng tôi đang thiếu hạnh phúc và nhìn thấy người ấy hạnh phúc mà tôi muốn chiếm hữu. Tôi không thoả mãn với những gì tôi đang có nên nay nhìn thấy người ấy có những gì tôi đang tìm kiếm nên muốn khỏa lấp những cái đó? Hay đó là hành động tham lam, mà sự tham lam ấy tự nó ai cũng biết là không được phép. Theo tâm lý đạo đức, nếu một hành động mà ta tự ý thức được là tội lỗi và không được phép làm mà vẫn làm, hoặc cố tình cắt nghĩa cách này cách khác để mà làm, lúc ấy ta không phải là người trưởng thành về đạo đức. Thí dụ, ai cũng biết gian lận thuế, gian lận tiền trợ cấp xã hội là điều không được phép, nhưng bằng cách này, cách khác ta vẫn làm thì hành động ấy không chỉ là một hành động vi phạm luật pháp, mà theo cái nhìn tâm lý đạo đức, nó nói lên người làm điều ấy là ấu trĩ hoặc thiếu trưởng thành về đạo đức. 17% trường hợp ngoại tình đã kết thúc bằng ly dị. Nếu thống kê ly dị hiện nay là 50% thì tỷ số 17 trên 50 cũng là một tỷ số cao. Có nghĩa là ngoại tình cũng đóng góp phần lớn cho lý do ly dị của nhiều người. Ngoài ra, 70% đàn bà có chồng mà dối gạt chồng trong tình trạng mình không làm chủ được mình, và 31% những người đã gặp gỡ trên online đã kết thúc bằng hành động gian dối với người đó đã cho biết trong những hoàn cảnh như vậy, tâm lý và tình cảm những người này đã không trưởng thành đủ. Họ đã thả mồi bắt bóng, bỏ đi cái mình đang có để tìm lấy những gì mình muốn lấy mặc dù trên thực tế vẫn chưa biết chắc điều này có tốt, có đẹp, và có hạnh phúc hơn những gì mình đang có.
Tâm lý nhàm chán Nếu tâm lý tự tin thái quá đưa đến những lối sống ảo tưởng và ảo vọng, tuyệt vọng khi sa ngã; tình cảm thiếu trưởng thành làm cho suy nghĩ trở nên ấu trĩ, sống và cư xử một cách bất nhất, thiếu suy nghĩ, thì tâm lý nhàm chán thường đưa đến thái độ “có mới nới cũ”, “đứng núi này trông núi kia”, hoặc “gần chùa gọi bụt bằng anh”. Nhàm chán vẻ đẹp của nhau. Đây là thái độ thông thường. Trong thực tế, rất nhiều người đã phàn nàn về điều này: “Ngày xưa anh ấy mê tôi đẹp, nhưng bây giờ tôi già rồi nên anh ấy chê”. Nhàm chán cách thức diễn tả tình cảm của nhau: “Hôn với hít, không lãng mạn gì cả!”. Nhàm chán cách thức yêu đương, ân ái. Câu truyện mà nhiều người đã biết, đó là một cặp vợ chồng vào xem xinê, khi thấy trên màn ảnh anh tài tử hôn cô đào một cách say đắm, người vợ đã ghé vào tai chồng: - Anh coi kìa, người ta hôn nhau say đắm thế đấy! Nghe vậy, người chồng cũng ghé vào tai vợ, anh nói: - Em ơi! Thằng cha ấy hôn say đắm như vậy vì nó được trả tiền! Nói chung, thái độ nhàm chán vẫn là kết quả của một quan niệm và lối sống ấu trĩ, và ích kỷ. Vì nghĩ là mình nhàm chán nên muốn đi tìm cái gì mới. Vì chính mình nhàm chán nên không muốn thay đổi. Một bên muốn có những đổi mới, một bên cảm thấy mệt mỏi vì đổi mới nên đã đưa đến tình trạng có kẻ muốn đi tìm của lạ, còn người khác thì chán nản, và buông xuôi. Nhưng dầu sao đi nữa, ngoại tình vẫn là một hành động phản đạo đức: Đạo đức xã hội, đạo đức gia đình và đạo đức cá nhân. Ngoại tình là một hành động, một lối sống thiếu trưởng thành về tâm lý, và ở một nghĩa nào đó, nó cũng là hành động ấu trĩ cả về mặt tâm linh, đạo đức. - (TMD)
|
|
|
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 7:21:12 GMT 9
Khi người yêu ngoại tình (VienDongDaily.Com - 28/09/2012) TS. Trần Mỹ Duyệt/Viễn Đông
Ban đã nghe, đã nói, đã nghĩ tới nhiều lần hai chữ “ngoại tình”. Hãy thử tưởng tượng. Chỉ là tưởng tượng thôi nếu một ngày nào đó bạn khám phá ra người vợ hay người chồng của mình đã qua mặt mình, đã thỉnh thoảng hay thường xuyên ăn vụng mà mình nay mới biết. Cảm nghĩ và phản ứng của bạn sẽ như thế nào? Giận dữ. Xách súng hay dao đến nhà tình địch. Đánh ghen. Cãi vã. Tranh luận tay đôi với tình địch. Ngăn cản không cho vợ hay chồng tiếp xúc với người tình địch. Hoặc ly dị… Trước khi những giải pháp trên được nghĩ tới, và trước khi mọi cái xấu xa nhất có thể xảy tới cho bạn hoặc cho người thân yêu của bạn, chúng ta hãy đọc qua tâm sự của một người và những câu góp ý trên một diễn đàn được mở rộng, mà tác giả cũng là người phụ trách.
Em đang yêu bạn của chồng em! Ở vào trường hợp em, em phải làm gì? Chuyện xảy ra đã 4, 5 tháng nay và đến lúc này em cảm thấy như lạc vào mê hồn trận. Em không biết mình sai hay đúng, say hay tỉnh. Nhưng cũng có những lúc lắng đọng tâm hồn, em thấy mình sai. Ngặt một nỗi em không thể kiềm chế được lòng mình. Em xin những ai đang đứng ở bên ngoài cuộc và với cái nhìn khách quan giúp em. Chuyện xảy ra là vợ chồng em sống với nhau rất hạnh phúc. Nhưng bỗng dưng em tự nhiên rung cảm về một người. Không ai khác là bạn thân của chồng em. Chúng em đã lén lút đi chơi với nhau, và đã 2 lần vào hotel với nhau. Cả chồng em và vợ anh ấy không ai biết chuyện tình cảm này. Nhưng linh tính em cho hay trước sau gì thì chồng em cũng biết, vì gần đây anh ấy bày tỏ tình cảm lộ liễu quá ngay trước mặt chồng em. Thí dụ, khi hai vợ chồng chúng em đi ăn chung, anh ấy như quên vợ của anh ấy mà để ý đến em một cách hết sức tỉ mỉ. Ngoài ra, ánh nhìn của anh ấy chỉ đắm đuối nhìn em. Em thấy sợ hãi và xấu hổ. Em sợ chồng em biết. Em sợ mất chồng. Nhưng em lại không biết làm gì để chấm dứt, để ngăn chận sự tấn công của anh ấy. Có một lực gì đang thu hút, trói buộc em lại với anh ấy. Những ai đã có kinh nghiệm, đã trải qua những thử thách như em xin giúp em. Người em khờ dại.
Quả thật, tìnhcảm éo le của người trong câu hỏi trên đã kéo theo được sự quan tâm của nhiều người kinh nghiệm và có uy tín trong đó gồm các giáo sư, phó tế và linh mục giáo sư. Và nếu để ý đọc và suy nghĩ những ý kiến của các vị, bạn sẽ tìm ra hai chân lý này:
Người đàn bà trong cuộc đang thả mồi bắt bóng, sống trong cái ảo tưởng và ảo giác của tình cảm lãng mạn bao gồm sự thôi thúc của dục vọng. Cô ta sẽ đắc tội với chồng của cô, với vợ của người bạn, và hậu quả sẽ là một mối hối hận, mặc cảm triền miên. Trong khi chếnh choáng với men tình mới, cô ta hẳn sẽ không nhận ra thêm một điều này nữa, đó là sống với một kẻ vô nhân, bất nghĩa, bất tín, và bất tính cũng đã đủ đau khổ lắm rồi. Trường hợp này, cả hai cùng mang đầy mặc cảmvô nhân, bất nghĩa, bất tín, và bất trung sống với nhau thì liệu còn hỏa ngục nào ghê gớm hơn nữa!!! Và sau đây là những ý kiến rất khôn ngoan, xây dựng và tình người, mời cô bình tĩnh để đọc và suy nghĩ: 1. Người em khờ dại quý mến, Trong trường hợp này có lẽ nên tìm mọi cách để cách ly một thời gian không phone, không mail, không message, không gặp mặt. Nếu mà hai vợ chồng tổ chức riêng một weekend từ Thứ Sáu tới chiều Chủ Nhật tại một tu viện nào đó với sự giúp đỡ của một vài cặp Nazareth để lắng nghe, tâm tình, chia sẻ, đặc biệt là chầu Thánh Thể hâm nóng lại tình yêu với Chúa và với nhau may ra mới thoát khỏi sức hút đang trói buộc người em khờ dại. Vài hàng chân tình góp ý. Nh. ### 2. Đọc tâm sự của “Người em khờ dại” tôi thiết nghĩ “Người em khờ dại” không có khờ dại chút nào, trái lại rất khôn ngoan, bằng cớ là “Người em...” biết tính toán: Lén lút... vào hotel... có linh tính rất nhạy bén, sợ trước sau gì chồng cũng sẽ biết... biết sợ hãi, biết xấu hổ và biết sợ mất chồng... nhưng lại có lòng tham, thèm của lạ... Xin góp ý: “Người em khờ dại” mà đã biết tính toán, suy nghĩ và lo xa như vậy thì hãy dùng sự “Khờ Dại” ấy mà suy nghĩ đến hậu quả và tương lai. Hãy quyết tâm chọn và giữ chắc “Cái” mình đang có trong tay. Chớ tham “bắt cá hai tay” sẽ có ngày trắng tay và mất hết mọi sự. Hãy hạnh phúc với những gì mình đang có. Để không phải hối tiếc về những gì mình đã đánh mất. Bình an, Phó tế Phillip M. ### 3. Đọc qua tâm sự, tôi xin góp ý: - Tất cả chúng ta đều cầu nguyện cho người chị em này. - Người chị em nào đó cũng hãy cầu nguyện. - Cần đến sự cố vấn chuyên môn hay một người khôn ngoan, sáng suốt. Riêng đối với“người chị em”: - Sao ta “đành làm vỡ” một tổ ấm? - Đang sợ “mất chồng” nghĩa là vẫn yêu chồng và chồng cũng “rất đáng yêu”. - Đang làm vỡ tình bạn của chồng, điều đáng quí. - Bất công với chồng và người vợ của người bạn chồng. - Một “mối tình vụng trộm” sẽ dẫn tới đâu? - Tan nát và hối hận! - Hãy nghĩ đến tương lai và nhất là “nghĩ về sự chết”! Cầu chúc người chị em tìm được bình an và khôn ngoan. Trong Thánh Gia, Lm. TDT ### 4. Người em dại khờ thân mến! “Thiên thu ghi tạc tình sông núi Hạnh phúc muôn đời nghĩa phu thê”. Tôi xin mượn lời bài thơ trên để nhấn mạnh đến nét văn hóa đậm tình người của dân tộc Việt mà xuyên suốt 4000 không ai là người Việt mà không biết. Có lẽ người em dại khờ vì một chút ham mê, rung động mà quên đi nghĩa đạo vợ chồng thật có lỗi lắm thay! Tuy chúng ta sống vào thời đại mới nam nữ bình quyền, không coi trọng về truyền thống mấy; nhưng sống “song hôn” hay sống “ngoài giá thú” như người em dại khờ kể, với luật pháp Mỹ là có tội rồi (mình không biết luật pháp Việt Nam ra sao!) Tôi rất mừng là người em dại khờ còn biết “sợ hãi” và “xấu hổ”; vì chưng sợ hãi ở đây có nghĩa là em sợ “tội” với Trời và với người, hay nói cách khác trong lương tâm sâu thẩm em vẫn tâm niệm về cái tốt, cái đẹp và cái thánh thiện của một con người ngay thẳng. Hãy để lương tâm đánh thức em. Em hãy tránh xa và cố tìm quên cuộc tình vụng trộm đầy tội lỗi, nếu không sự xấu hổ hơn nữa sẽ còn đến với em và với cả hai gia đình của em và của bạn của chồng em. Hãy chỗi dậy từ sự u mê với sự quyết tâm vì an bình cho tương lai và hạnh phúc của gia đình và con cái của mình. Em tưởng tượng thêm những việc gì sẽ xảy ra khi em vẫn tiếp tục đeo cuộc tình này, với người đàn ông không có trách nhiệm với gia đình hắn. Hãy quên đi mọi việc và vững bước trong sự dốc lòng chừa. “Chồng ta áo rách ta thương Chồng người áo gấm áo hoa mặc người”. Mến chúc người em dại khờ cố vượt qua tội lỗi để làm lại chính mình không còn sống trong sự lo sợ và xấu hổ nữa. Biết Văn ### 5. Người em khờ dại quí mến, Em hãy gấp rút trở về đường ngay nẻo chính, đừng đi xa hơn nữa, nguy hiểm vô cùng ! Chị sẵn sàng giúp em. Hãy liên lạc với chị quasố điện thoại... Thân mến, T.N ### 6. Người em biết suy nghĩ thật đáng thương, Đã nghĩ tới vấn đề có nghĩa là Cô đang đặt mình ở một ngã ba đường, "bỏ thì thương, vương thì tội", cho nên mới xin giúp đỡ ở nơi các bậc đã từng trải và giầu kinh nghiệm. Nhưng trên thực tế vấn đề này rất là hiếm khi xẩy ra đối với những con người Đạo Đức, biết Lẽ Phải trong cuộc sống, không thể nghĩ đến Cái Tôi và chiều theo Cái Tôi của mình được. Xin góp ý: - Tìm mọi cách tránh mọi sự tiếp xúc, dưới mọi hình thức. Phải biết Hy Sinh... - Cầu nguyện rất nhiều, xin Chúa giúp sức cho. - Cố gắng quên Cái Tôi để chỉ nghĩ đến chồng của mình. Cái mình đang có trong tay mà thôi. Xin Chúa bảo vệ Gia Đình nhỏ bé này đang đứng bên bờ vực thẳm. P.N (Đã kết hôn được 46 năm và vẫn Yêu Thương Nhau hết mình) ### Phần lớn những người ngoại tình đều không nghĩ rằng hành động lăng nhăng của mình sẽ đem lại hậu quả nghiêm trọng. Và họ thường hay lập luận rằng, đây chỉ như đi vào một pha phiêu lưu tình cảm đầy thích thú nhưng cũng lắm rủi ro. Nếu bị bắt gặp thì chối. Nếu không chối được thì thề độc để che đậy. Và nếu thề độc mà vẫn không làm người yêu tin nữa thì hành động phủ đầu bằng cách phản ứng ngược lại, đổ lỗi cho chồng hoặc cho vợ là vu khống, ghen tương bừa bãi. Cũng có một số người khi bước vào cuộc phiêu lưu tình cảm này chỉ đơn giản nghĩ rằng mình thử chơi một lần cho biết coi xem mình còn đẹp, còn hấp dẫn, còn mặn mà đến đâu. Và coi xem khả năng chinh phục phái nữ của mình còn ngon lành, còn thu hút, và còn khả năng chinh phục không. Dù dưới bất cứ hình thức nào đi nữa, thì hành động ngoại tình vẫn được coi là một hành động vô trách nhiệm, thiếu tự trọng, thiếu sáng suốt, và nguy hiểm. Nó chính là sự sa ngã nghiêm trọng trong đời sống hôn nhân, và cho biết, con người không nên đùa chơi với ái tình; đặc biệt, khi mình đang sống trong đời sống hôn nhân. Ngoài sự hồi hộp, lo sợ hành động của mình có thể bị lộ tẩy, bắt gặp bất cứ lúc nào, thì hậu quả của nó vẫn là một hậu quả hết sức bi đát, đó là đánh mất niềm tin và sự kính trọng của người phối ngẫu. Theo Michael Baisden, tác giả tác phẩm “Không bao giờ thỏa mãn: Tại sao và làm thế nào người đàn ông ngoại tình” (Never Satisfied: How and Why Men Cheat), thì tin tưởng là sợi dây bền chặt và quan trọng để nối kết vợ chồng trong đời sống hôn nhân. Năm 1999, các nhà chuyên môn về giao tế ước tính rằng 3 trong số 4 người đàn ông, và 1 trong số 2 người phụ nữ đã có những giao du tình cảm vụng trộm. Mười năm sau, ngày 12 tháng 2 năm 2009, trong một chương trình truyền hình rất nổi tiếng The Oprah Winfrey Show, M. Gary Neuman, một cố vấn gia đình đã ước tính 1 trong 2,7 người đàn ông đã ngoại tình mà vợ không bao giờ biết. Nếu con số ước tính này đúng thì phần đông những người sống trong đời sống hôn nhân, đều đã có kinh nghiệm về hành động bất chính này. Điều xấu xa nhất đối với hành động ngoại tình không phải là bị bắt quả tang, bị chồng hoặc vợ đánh ghen, cãi vã, đuổi ra khỏi nhà, và ly dị. Sự tệ hại của hành động này như vừa trình bày là việc đánh mất niềm tin của vợ hay chồng của mình. Bởi vì không giống như bất cứ chuyện gì khác, việc làm mất đạo đức và thiếu trách nhiệm này là một việc làm cho người trong cuộc đánh mất giá trị nhân cách của mình. Nó là một hành động không có lời bào chữa chính đáng. Không có lý do biện minh. Không dễ dàng để bỏ qua, và tha thứ. Cũng theo Michael Baisden, khi người đàn ông ngoại tình thì may còn có cơ hội được tha, nhưng khi người phụ nữ ngoại tình thì cơ hội được tha hầu như không có. Đó là định kiến và ảnh hưởng xã hội, mặc dù đó là định kiến bất công đối với phụ nữ. Và đó cũng là lý do giải thích một khi người phụ nữ ngoại tình thì nàng rất khó để được đón nhận, thông cảm, và tha thứ. Theo ý kiến của các nhà chuyên môn, thì hậu quả thông thường nhất của hành động ngoại tình là tự mình làm mất đi hình ảnh đáng kính trọng của chính mình. Làm mất đi sự tự tin, và tâm thức sống trưởng thành. Và nhất là làm mất đi phẩm chất một lương tâm đạo đức. Như đã trình bày, đó chỉ là một số những ý kiến mang tính cách luân lý, đạo đức, và tổng quát. Điều này cũng đã cho thấy ngoại tình là một việc làm hoàn toàn phản lại đạo đức, phản lại luân lý. Dĩ nhiên, nó cũng kéo theo hậu quả tai hại về mặt tâm lý, tình cảm, văn hóa, và xã hội nữa. Nhìn đạo đức xã hội, mặc cảm tội lỗi này khiến cho người ngoại tình trở nên bạc nhược thiếu ý chí và rất dễ tiếp tục việc làm sa ngã của mình. Theo Andrey B. Chapman, một cố vấn chuyên nghiệp, thì người ngoại tình cũng giống như con nghiện. Họ bị vướng mắc, thèm khát, lệ thuộc và khổ sở khi thiếu nó như những con nghiện khi thiếu rượu, thiếu thuốc, thiếu xì ke, ma túy... - (TMD) TS. Trần Mỹ Duyệt/Viễn Đông
|
|
|
Post by nguyendonganh on Oct 26, 2012 7:21:59 GMT 9
Phải làm gì khi vợ hay chồng ngoại tình?! (VienDongDaily.Com - 24/10/2012) TS. Trần Mỹ Duyệt/Viễn Đông
Trong lãnh vực trị liệu, ngoại tình cũng được coi như một hội chứng bất thường của tâm lý hôn nhân, và do đó, việc trị liệu cũng được căn cứ trên từng trường hợp và từng mỗi cá nhân. Tuy nhiên, người xưa vẫn thường nói: “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, vì thế điều mà vợ chồng nên làm cho nhau là giúp nhau tránh khỏi bị “cám dỗ” tức là có những tư tưởng ngoại tình trước khi hành động ấy xảy ra, bằng cách:
Luôn luôn làm mới lại tình yêu Nhiều cặp vợ chồng sống và cư xử với nhau một cách máy móc, thụ động. Coi đời sống hôn nhân, vợ chồng, coi tình yêu như một cái gì đã được khuôn đúc sẵn, đã được đóng khung và vì thế không cần thiết để làm mới mẻ, để làm tươi mát lại. Những câu nói tiêu cực như: “Tôi như vậy chịu không chịu thì bỏ”. “Vợ chồng với nhau còn bày đặt lãng mạn, chiều chuộng, nũng nịu”. “Con người tôi từ trước giờ vẫn thế, có gì mà cần đổi mới”. Đối với những cặp vợ chồng này những buổi hội thảo, những cuộc trao đổi ý kiến về đời sống hôn nhân, những cuộc tiếp xúc học hỏi để thăng hoa đời sống hôn nhân là những việc làm vớ vẩn, không cần thiết.
Hạnh phúc với những gì mình đang có Những gì mình đang có là thật. Và những gì mình đang mơ ước để có là giả tạo hoặc chưa chắc chắn. Rất tiếc, phần lớn những gia đình đang gặp rắc rối về hôn nhân đều sống ngược lại với nguyên tắc này. Vợ hay chồng hoặc cả hai cứ mơ ước cái mình chưa có làm có, và coi thường hoặc bỏ đi những gì mình đang có. Thí dụ, một người vợ, người chồng tốt. Một mái ấm gia đình hạnh phúc. Một bầy trẻ ngoan hiền, dễ dạy. Sống theo quan niệm “chạy theo bóng hình” ấy, nên mới xảy ra những so sánh, những ngấm ngầm thèm thuồng cái mình chưa có, mặc dù biết những cái đó cũng chỉ là một trái cấm trong vườn địa đàng hôn nhân. Thánh Kinh kể lại sau khi Adam và Eva nghe theo lời dụ dỗ của con rắn và đã ăn trái cấm, lập tức mắt ông bà mở ra và họ biết mình “trần truồng”. Thật ra, trước đó ông bà cũng đã trần truồng nhưng là sự trần truồng mà không “hổ ngươi”, không xấu hổ. Nhưng sự trần truồng sau này đem lại cho ông bà cảm nghiệm xấu hổ về chính cái trần truồng của mình. Đó cũng là lúc hai vợ chồng đánh mất hạnh phúc, đánh mất tình yêu dành cho nhau vì một người thứ ba. Họ không còn vui vẻ, nói cười, thoải mái như xưa. Họ không còn tay trong tay đi đó đây như xưa. Và họ không còn coi những giây phút bên nhau là hạnh phúc như xưa. Đơn giản vì lúc này họ biết mình đang trần truồng, tức là họ biết họ đang nuôi những tư tưởng phản bội, và ngoại tình.
* Đừng tạo điều kiện cho chồng hoặc vợ ly dị Để tránh cho nhau hay tránh cho chính mình khỏi bị cám dỗ về một bóng hình nào đó, cách tốt nhất vẫn là không nên tạo ra những điều kiện để bị rơi vào những cám dỗ ấy. Một trong những sai lầm rất lớn trong đời sống hôn nhân có thể dễ dàng dẫn đến ngoại tình, đó là thái độ thiếu tôn trọng, thiếu lắng nghe, và thiếu quan tâm săn sóc cho nhau. Nhiều người sau khi đã rơi vào tình trạng ngoại tình rồi tuy có hối hận, nhưng vẫn đổ thừa cho chồng hoặc vợ là vì họ mà mình đã ngoại tình. Vì anh, vì em không tôn trọng tôi nên tôi bị thu hút và bị chinh phục bởi người khác. Họ là người đã làm cho tự ái của tôi, cái tôi của tôi được xoa dịu. Họ cho tôi biết tôi là ai, và tôi có thể làm được gì. Họ cho tôi biết tôi quan trọng, tôi không phải tầm thường, tôi không bị bỏ xó, bị chà đạp, bị coi thường. Vì anh, vì em không lắng nghe tôi mà chỉ bắt tôi phải nghe em hoặc nghe anh nên tôi muốn có một người biết đồng cảm và biết lắng nghe. Tôi cũng có những thao thức, những suy tư và những vấn nạn cần được lắng nghe, cần được chia sẻ. Em hay anh đã không cho tôi sự lắng nghe và chia sẻ đó. Vì anh, vì em không quan tâm, săn sóc tôi. Không để ý đến sức khỏe, đến mức chịu đựng, và nhỏ mọn như miếng cơm, manh áo, giấc ngủ của tôi nên tôi cần tìm một nơi nương tựa, một bóng mát cuộc đời. Tôi tìm đến người thứ ba trước hết không phải vì tiền, vì dục vọng, nhưng rõ ràng là vì nhu cầu cần được săn sóc. Tôi muốn nghe những lời nói dịu dàng. Tôi muốn được cư xử bằng những thái độ dịu dàng… Nhưng câu hỏi quan trọng ở đây là “Phải làm gì khi người chồng hoặc người vợ ngoại tình?”.
Bình tĩnh để đối phó Phản ứng đầu tiên của người chồng hay người vợ khi biết hay khám phá ra sự phản bội của người phối ngẫu thường là giận dữ và lên án. Đây là thái độ và phản ứng thông thường rất tự nhiên, và dễ hiểu. Nhưng những phản ứng có tính cách tiêu cực ấy, đôi khi chỉ đổ “thêm dầu vào lửa”. Do đó, thái độ và phản ứng tích cực và hữu hiệu lúc này là sự im lặng và bình tĩnh. Về mặt tự nhiên, im lặng và bình tĩnh không làm cho người chồng hay người vợ ngoại tình thêm cớ để cho rằng hành động của họ là đúng. Và tình địch của ta lúc này cũng đang theo dõi ta sẽ phải cân nhắc hoặc “gờm” ta. Cả hai người chồng, người vợ ngoại tình cũng như tình địch của ta sẽ rất khó xử và hoang mang vì không biết ta đang nghĩ gì trong đầu và sẽ phản ứng như thế nào? Điều gì sẽ xảy ra cho họ? Trong thực tế, thái độ và phản ứng bình tĩnh rất khó áp dụng. Nhưng dù khó cũng phải làm, vì đây là những phương pháp hữu hiệu nhất trong trường hợp này. Về mặt tâm lý, khi ta bình tĩnh và im lặng thì phản ứng tự vệ người chồng hoặc người vợ ngoại tình sẽ bị đặt vào thái độ “kìm hãm” hoặc “xét lại”. Họ không dám hung hăng con bọ xít, huênh hoang, thách thức hoặc lớn lối với ta. Vì ta không tạo cho họ cơ hội hành động như vậy. Họ không có lý do đổ thừa và cho rằng vì ta mà họ phải đi tìm người này, người khác. Theo từ ngữ bình dân tức là ta đang “chơi trội”, “chơi cha” hơn người ngoại tình và tình địch của ta.
Tự tin và giải quyết có phương pháp Tiếp đến là ta phải tự tin để bắt tay giải quyết vấn đề. Ngoại tình cũng được ví như căn bệnh ung thư, nó không thể dùng những thuốc xoa bóp bên ngoài, hoặc các loại thuốc lang băm, châm cứu mà trị được. Nó cần được chẩn đoán chính xác, dùng trụ sinh hoặc nếu cần phải dùng những phương pháp trị liệu mạnh, tiến bộ của y khoa. Ý thức rằng cả ta và chồng hoặc vợ ta cần phải trị liệu sẽ giúp ta không tự tôn, cũng không tự ty quá mức để phủ nhận sự việc và tầm quan trọng của vấn đề. Phải thâm tín rằng tôi (chính tôi), chồng hoặc vợ tôi cần sửa chữa, thay đổi chứ không đổ lỗi cho người tình địch của mình. Người tình địch nhiều khi chỉ lại là nạn nhân. Cứ cho rằng họ có lỗi, những cái lỗi lớn và quan trọng nhất vẫn là tôi và chồng hay vợ tôi. Và cả hai phải sửa đổi, phải chữa trị trước. Điều này sẽ giúp ta không quá nóng nảy, ghen tức, hoặc mù quáng đối với tình địch, hoặc đối với chồng hay vợ của mình để quên rằng mình (tôi) phải sửa đổi, phải thay đổi nếu như muốn lấy lại chồng hay vợ mình từ tay người khác. Chửi bới, cãi vã, khóc lóc, đánh ghen, hoặc đòi ly dị không phải là những giải pháp hữu hiệu để giải quyết vấn đề.
“Tôi đã làm gì lỗi?” Sau khi đã bình tĩnh, đã định thần trở lại, lúc này là lúc chính ta phải tự xét mình. Biết đâu trong những năm chung sống, trong những cách thức nói năng, hành động đã làm cho tình yêu bị sứt mẻ, hoặc ít nhất cũng trở thành nhàm chán. - Thể lý: Rất nhiều người, đặc biệt là đàn bà con gái ngày nay cậy vào cái dao, cái kéo của các văn phòng thẩm mỹ. Chống mũi cao, bơm ngực, mông và môi, sửa và cắt mắt, sửa và nạo cằm, hút mỡ bụng, và sửa cả bộ phận sinh dục. Tất cả đều được tân trang với hy vọng chồng, hay người nào đó sẽ để ý. Những phụ nữ này đã nhầm. Tất cả những thứ đó không bền bỉ và tồn tại theo thời gian. Một tư tưởng rất hay cho tình trạng này, đó là: “Người đàn bà sau 40 nên nhồi phấn tâm hồn hơn là nhồi phấn trên mặt”. Đó là nguyên tắc sống hạnh phúc đời hôn nhân. Tuy nhiên, cũng phải đề cập đến quan niệm “bất cần đời”, “vô trách nhiệm” của cả đàn ông cũng như đàn bà sau khi kết hôn. Bê bối, luộm thuộm, nhem nhuốc. Từ đỉnh đầu đến bàn chân, móng chân, móng tay dơ bẩn, đầu tóc bù xù, râu ria lởm chởm, áo quần bê bối, thân thể, mồm miệng hôi hám. Cứ việc ăn, cứ việc nhậu mặc cho thân xác mập ú, béo phì, bụng bị mỡ mãng trông rất tồi tàn, dị hợm. Những người này quên mất nguyên tắc: “Đàn ông chết vì mắt”. Trong thế giới ngày nay kể cả đàn bà cũng “chết vì mắt!”. Nếu se sua, đỏm dáng. Nếu chỉ quan tâm chăm sóc cái sắc đẹp bề ngoài mà quên đi vẻ đẹp tâm hồn là một sai lầm, thì việc bê bối, bỏ qua không quan tâm đến vẻ đẹp tự nhiên của mình cũng là một khuyết điểm rất lớn, một tội lớn trong tương quan vợ chồng, trong hôn nhân. - Tâm lý: Tâm lý khác biệt là một trong những lý do quan trọng (lý do chính) đưa đến những bất đồng, cãi vã, và chia rẽ trong đời sống hôn nhân. Đây cũng là lý do chính dẫn đến các cuộc ly dị. Từ ngữ chuyên môn gọi là “những khác biệt không hàn gắn được”. Do đó, trong đời sống hôn nhân, để tìm ra những điểm dị biệt và đồng thuận trong tâm lý sống giữa vợ chồng là điều luôn luôn phải làm mọi ngày. Phải chấp nhận sự khác biệt. Phải biết nâng đỡ nhau. Và phải sửa sai những điểm khác biệt có thể đưa tới hòa hợp và tương đồng. Trong những ngày đầu mới quen nhau, yêu nhau những điểm khác biệt thường được san bằng bằng tình cảm và tình yêu nồng nàn. Nhưng khi tình cảm đã lắng đọng, và tình yêu đã đi vào trách nhiệm và hành động thì những khác biệt kia nay trở thành một thách đố cần phải vượt qua. Coi thường hoặc không chấp nhận khác biệt là một khuyết điểm lớn trong hạnh phúc hôn nhân. - Sinh lý: Sinh lý hay hành động tình dục cũng là một trong những điểm then chốt của đời sống hôn nhân. Với cái nhìn tâm sinh lý, sinh lý là một nhu cầu và cũng là một bản năng. Thiếu quân bình, bị dồn nén, hoặc không được thoả mãn sinh lý là một trong những lý do đưa tới ngoại tình. Tùy theo tuổi tác, tình trạng sức khoẻ, và tình trạng hôn nhân, sinh lý luôn luôn cần thiết cho mối tương quan, gần gũi và nên một của hai vợ chồng. Nếu vì bất cứ lý do gì có sự trục trặc về sinh lý dù là từ người chồng hay người vợ, thì việc trị liệu đều trở nên rất cần thiết. Đừng đơn sơ nghĩ rằng không có nó thì cũng xong. Hoặc từ chối mãi ông xã cũng quen. Thực tế đã chứng minh rằng có nhiều người đàn bà cướp chồng người khác, ngoại tình không phải vì bất cứ lý do gì như đẹp trai, có tài, học thức, và tiền bạc nhưng chỉ vì một lý do duy nhất là được thỏa mãn những đòi hỏi và nhu cầu sinh lý. Một cách tương tự, phần lớn những lần vụng trộm của đàn ông có vợ cũng chỉ vì ở nhà vợ ngăn cản, cấm đoán, và từ chối. - Tài chánh: Một số ít ngoại tình vì vấn đề tài chánh túng thiếu, nhưng đây không phải là lý do chính và nghiêm trọng. Tuy nhiên, điều cần thiết ở đây là thái độ thụ động, ươn lười của người chồng hoặc người vợ. Thí dụ, tình trạng nghiện ngập, hút sách, cờ bạc, thất nghiệp do lười biếng, do không cố gắng, và không chịu khó. Tình trạng kinh tế khó khăn cộng thêm sự lười biếng, vô trách nhiệm của người chồng hay người vợ, cũng có thể là một lý do cần phải suy nghĩ trong trường hợp vợ ngoại tình. - Sự giúp đỡ chuyên môn: Sự giúp đỡ chuyên môn là một trong những phương thức trị liệu rất cần thiết cho đời sống hôn nhân liên quan đến ngoại tình. Thông thường, sự trị liệu này đòi hỏi cả hai vợ chồng. Và nó cũng đòi hỏi sự thành thật, cộng tác của vợ chồng sớm bao nhiêu có thể khi có những triệu chứng ngoại tình. Ngoài ra, sự trị liệu chuyên nghiệp của các bác sĩ tâm lý, các văn phòng tâm lý, sự giúp đỡ chuyên môn cũng có thể hiểu rộng thành những lời khuyên, những lời cố vấn của cha mẹ, anh chị em, bạn hữu. Đặc biệt, của những vị lãnh đạo tinh thần. Tâm lý trị liệu không đặt nặng giá trị của việc gọi hồn, bùa ngải, nhằm giải quyết những khủng hoảng trong đời sống hôn nhân trong đó có vấn đề ngoại tình, tuy nhiên, vẫn nhấn mạnh tầm quan trọng tâm linh, đó là cầu nguyện. - Cầu nguyện: Sau cùng, cầu nguyện là một trong những phương pháp tâm linh mạnh mẽ nhất, hữu hiệu nhất giúp giải quyết những trường hợp ngoại tình. Ai cũng biết trái tim con người được Thượng Đế dựng nên, và chỉ mình Ngài mới có chìa khóa đóng hoặc mở nó. Đặt niềm tin nơi Thượng Đế, qua lời cầu xin thành khẩn là ta nhờ vào Đấng đang cầm chìa khóa đóng mở con tim chồng hoặc vợ ta để nhờ Ngài hoán chuyển và hướng dẫn. Tuy nhiên, điều cần thiết nhất vẫn là chính ta phải là người chủ động. Ta phải làm hết sức mình, trong khả năng, và sự hiểu biết để giải quyết tình trạng hôn nhân của mình. Thượng Đế vẫn có đó, nhưng tiên vàn: “Do your best. And God will take care the rest”. Đó là nguyên tắc cầu nguyện hữu hiệu và thực tế. - (TMD)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2012 8:42:21 GMT 9
Marijuana, thuốc, ma túy hay món giải trí? BS.LyLeTran @ Website Thu Vien Viet Nam
Ngày 13 tháng Mười Một vừa qua, Colorado và Washington, hai tiểu bang đầu tiên của liên bang Hoa Kỳ, đã ban hành đạo luật hợp thức hóa việc dùng marijuana để "giải trí" (từa tựa các món ăn thức uống mang thống khoái cho con người). Khoảng 1/3 các tiểu bang khác đã cho phép dùng marijuana để "chữa bệnh". Những người cổ động cho rằng marijuana có tác dụng giảm đau và được dùng để chữa bệnh nhân bị ung thư đang trải qua hóa trị và xạ trị. Kẻ chống đối thì biểu rằng chưa có tài liệu khoa học chứng minh sự an toàn khi dùng marijuana lâu dài, và khi chưa biết thì không nên cho sử dụng tự do. Các thí dụ gần gũi là rượu và thuốc lá; hai món này đem lại sự sảng khoái nhưng gây nghiện ngập, rượu gây mất tri thức khi quá chén; thuốc lá gây ung thư phổi, phổi trướng… và cứ như thế, bên bênh, bên chống cãi nhau tưng bừng cả chục năm nay.
Thực ra, câu hỏi chính, theo ý riêng, là việc hợp thức hóa marijuana kia có làm cho bá tánh hoan hỷ không? Nghĩa là người dùng, người sản xuất, buôn bán marijuana không bị bắt bớ, giam cầm nữa, và xã hội sẽ bớt đi những tệ đoan chung quanh việc lén lút buôn bán marijuana?
Theo tài liệu của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ (the National Cancer Institute), marijuana có tên khoa học là Cannabis, một loại cây thảo mọc khắp nơi trên thế giới. Từ thủa xa xưa, 3000 năm trước, loại cỏ này đã được dùng như dược phẩm, chữa trị bệnh tật. Cannabinoids là các hóa chất có dược tính trong cây marijuana. Cannabinoid có tác dụng tại nhiều nơi trên cơ thể, kể cả hệ thần kinh trung ương (central nervous system) và hệ đề kháng (immune system). Cannabinoid còn có tên là "phytocannabinoids"; hoạt chất chính của marijuana là delta-9-tetrahydrocannabinol hay "delta-9-THC". Chất này tạo ra cảm giác "lâng lâng" bay bổng (hay "high") khi dùng. Một hoạt chất khác từ cây marijuana là cannabidiol, có tác dụng giảm đau và giảm phản ứng viêm mà không gây khoái cảm như delta-9-THC.
Trong suốt 20 năm qua, các nhà dược học đã nghiên cứu về dược tính của marijuana. Tế bào não bộ và các tế bào của hệ miễn nhiễm chứa thụ thể (receptor) cho Cannabinoid; nói một cách khác, cannabinoids có thể "bám" vào các tế bào kể trên qua thụ thể và tạo tác dụng trên các tế bào này.
Hiện nay, Cannabinoids được dùng để tiết giảm phản ứng phụ của hóa trị và biến chứng của ung thư. Những tác dụng khác có thể bao gồm: o Ngăn phản ứng viêm (Anti-inflammatory) o Ngăn chặn sự tăng trưởng của tế bào o Ngăn chặn sự tăng trưởng của các mạch máu nuôi ung bướu o Tính kháng sinh chống siêu vi khuẩn (Antiviral)
Việc sử dụng marijuana xuất hiện trong y học Âu Mỹ vào thế kỷ XIX, và dùng như một loại thuốc chống viêm, giảm đau, giảm co giật và giảm kinh phong. Hiện nay, chỉ có hai loại cannabinoids (dronabinol và nabilone) được phép bán trên thị trường Hoa Kỳ như thuốc giảm nôn mửa do hóa trị gây ra. Ngoài ra, dùng marijuana là việc làm bất hợp pháp.
Cannabis có thể dùng như thuốc uống hoặc hít qua phổi. Cỏ marijuana được cắt nhỏ trộn lẫn trong bánh trái hoặc làm trà; hoạt chất chính delta-9-THC được biến thái qua gan, ngấm vào máu. Khi hút hoặc hít, cannabinoids ngấm vào máu qua phổi, lượng hoạt chất thường ít hơn so với khi uống, ăn. Phản ứng phụ của marijuana có thể bao gồm: tăng nhịp tim, hạ huyết áp, giảm sự thắt bắp thịt, giảm sự hoạt động của bộ máy tiêu hóa (thức ăn không tiêu), chóng mặt, trầm cảm, loạn thị và hoảng loạn. Cannabinoid có thể gây nghiện ngập và khi lên cơn ghiền, người nghiện có các triệu chứng sau đây: bẳn gắt, đứng ngồi không yên, tháo mồ hôi, bốc hỏa, buồn nôn và đau bụng. Tài liệu từ tạp chí Addiction cho thấy việc dùng marijuana lâu ngày ảnh hưởng đến trí nhớ và việc học hỏi. Trẻ em dùng marijuana (3-4 ngày / tuần) bị suy giảm IQ và có khuynh hướng "chống báng" xã hội chung quanh. Khi khôn lớn, trí nhớ, khả năng tập trung bị tiết giảm và trí não bị trì trệ, chậm lụt. Những người có thân nhân bị bệnh tâm thần, khi dùng marijuana thường dễ bị hoảng loạn, trầm cảm và đôi khi phát điên loạn (psychosis) So với thuốc lá, thuốc phiện, tỷ lệ nghiện ngập của marijuana tương đối thấp, khoảng 9% người dùng thường xuyên bị ghiền.
Về mặt luật pháp, năm 1937, Cannabis bị đánh thuế theo đạo luật "the Marijuana Tax Act", mỗi ounce (khoảng 28 grams) marijuana dùng như thuốc men chịu thuế 1 mỹ kim trong khi phân lượng tương tự dùng để "giải trí" phải chịu thuế 100 mỹ kim! Năm 1942, Cannabis bị xóa tên trong Dược Điển Hoa Kỳ (the U.S. Pharmacopoeia) vì những lo âu về tính an toàn. Năm 1951, Quốc Hội ban hành the Boggs Act, liệt Cannabis vào nhóm "ma túy" (narcotic). Theo đạo luật the Controlled Substances Act of 1970, marijuana được xếp nhóm "Schedule I drug", tương tự như heroin, LSD, mescaline, methaqualone, và gamma-hydroxybutyrate (GHB).
Mặc dù luật liên bang cấm dùng Cannabis, 17 tiểu bang và District of Columbia (Washington DC) cho phép sử dụng cannabinoid như thuốc men. Trở lại với việc hợp thức hóa marijuana như một loại thuốc lá, dùng để "giải trí", quốc hội tại tiểu bang Washington đã chuyển một tệ đoan thành một vấn nạn y tế công cộng bằng cách nhìn nhận sự sử dụng marijuana. Cấm đoán qua việc trừng phạt, bắt bớ giam cầm những hoạt động liên quan đến marijuana không chấm dứt được tệ đoan này và còn kéo theo các tội ác khác. Khi việc sử dụng marijuana trở thành công khai, việc sản xuất buôn bán đều công khai, sẽ không còn những đứa nhỏ bị dùng để vận chuyển, những người di dân bị lạm dụng… Từa tựa như việc cấm sản xuất buôn bán rượu năm xưa, khi để người dân tự do chọn lựa, các hoạt động liên quan đến rượu không còn mang theo những tội ác nữa.
Người dùng hoàn toàn tự do quyết định lấy cuộc đời họ, không khác chi người uống ly rượu hay hút bao thuốc lá. Cha mẹ, thày cô có thể ngang nhiên giải thích những lợi / hại của việc dùng marijuana để hướng dẫn con trẻ dễ dàng hơn. Riêng với Washington, tiểu bang này đã áp dụng một mô hình y tế công cộng khá hoàn hảo trong việc hợp thức hóa marijuana, một mặt nhìn nhận ảnh hưởng xấu của marijuana, mặt khác cung cấp tài liệu hướng dẫn người dùng cách phòng ngừa hoặc tiết giảm các ảnh hưởng tệ hại này.
Tiểu bang Washington ban hành đạo luật nhiều phần quan trọng như:
1) Hợp thức hóa marijuana nhưng chính phủ kiểm soát cách trồng tỉa, sản xuất và buôn bán. Các cơ sở này đều phải có giấy phép hành nghề của tiểu bang. Việc quảng cáo nhắm đến trẻ em hoàn toàn bị cấm chỉ.
2) Tiền thuế thu được từ các cơ sở làm ăn liên quan đến marijuana được sử dụng vào các chương trình giáo dục, dựa trên khoa học hơn là đạo đức. Muốn hướng dẫn trẻ em ta cần các tài liệu chính xác, rõ ràng và dễ hiểu. Sự hiểu biết sẽ giúp trẻ em quyết định đúng đắn.
3) Mở các chương trình hướng dẫn, giải nghiện (detox) trong cộng đồng giúp đỡ người nghiện marijuana muốn cai thuốc.
4) Mở các chương trình như Marijuana Help Line giúp đỡ những người cần giúp đỡ.
5) Đặt chương trình nghiên cứu về việc sử dụng marijuana về mặt xã hội, để tìm hiểu ảnh hưởng của loại thuốc này. Trẻ em có bị cuốn hút vào việc dùng marijuana hay không, tội ác nào liên quan đến marijuana…Kết quả sẽ được công bố hàng năm.
6) Đặt chương trình nghiên cứu y học tại hai đại học của tiểu bang, các chuyên viên sẽ tìm hiểu cặn kẽ về hậu quả lâu dài khi dùng marijuana; mức lượng nào thì an toàn, mức lượng nào thì gây bệnh tật… Các kết quả nghiên cứu sẽ giúp các nhà lập pháp sửa chữa cập nhật các điều luật cho phù hợp với xã hội đang chuyển mình.
Không ủng hộ marijuana nhưng Dế Mèn ủng hộ việc làm của tiểu bang Washington, hợp thức hóa một sản phẩm được ưa chuộng để kiểm soát và phòng ngừa các hậu quả một cách hữu hiệu.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 13, 2013 7:59:37 GMT 9
Viêm gan B (Hepatitis B)BS LyLeTran @website Thu Vien Viet Nam Viêm gan B do nhiễm trùng siêu vi khuẩn Hepatitis B (Hepatitis B virus hoặc HBV). Viêm gan B là chứng bệnh thông thường nhất trong nhóm viêm gan do nhiễm trùng từ siêu vi khuẩn; nhóm này bao gồm viêm gan A, B, C, D và E. Viêm gan nói chung có nhiều nguyên nhân, ngoài sự nhiễm trùng siêu vi khuẩn, căn bệnh này có thể do một số thuốc men hoặc dược thảo, nghiện rượu lâu năm, mỡ đóng trong gan hoặc do sự tiếp cận với một số hóa chất. Viêm gan B lan truyền qua việc tiếp cận với máu và các chất lỏng trong cơ thể (body fluid như tinh dịch, âm thủy, huyết thanh…) từ người bị nhiễm trùng. Ta có thể bị nhiễm trùng khi: • Giao hợp với người bị nhiễm trùng mà không dùng áo bọc (condom). • Dùng chung kim chích với người bị nhiễm trùng để chích, lấy máu… • Xâm mình mẩy bằng kim châm không được sát trùng cẩn thận. • Dùng chung các vật dụng cá nhân như dao cạo râu, bàn chải răng, kim châm cứu, kim xâm mình với người bị nhiễm trùng. Ngày trước, tiếp máu và ghép bộ phận là các nguyên nhân thông thường gây nhiễm trùng siêu vi khuẩn viêm gan B. Ngày nay, máu và các bộ phận (để) ghép được thử nghiệm kỹ lưỡng nên không còn là nguyên nhân gây bệnh. Các giai đoạn của việc nhiễm trùng: - Triệu chứng xuất hiện trong khoảng 60 đến 90 ngày sau khi bị nhiễm trùng (incubation period). Trong giai đoạn này, máu, tinh dịch và âm thủy (kể cả kinh nguyệt), dù còn tươi hay đã khô, đều gây nhiễm trùng mạnh mẽ. - Giai đoạn sau khi có triệu chứng: nhiều tuần lễ sau khi triệu chứng xuất hiện và biến mất, máu và các chất lỏng từ cơ thể vẫn tiếp tục gây bệnh. • Máu chứa một lượng siêu vi khuẩn viêm gan B cao nhất. • Máu và chất lỏng từ cơ thể dù đã khô vẫn có thể gây truyền nhiễm ít nhất cả tuần lễ sau đó. Khi bị viêm gan B cấp tính, người bệnh hết truyền nhiễm sau khi cơ thể đã tạo ra kháng thể chống lại siêu vi khuẩn viêm gan B; nhiều tuần lễ sau khi nhiễm trùng. Khi bị viêm gan B mãn tính, bệnh nhân có thể gây truyền nhiễm suốt đời khi siêu vi khuẩn tác hiện (active). Người mẹ nhiễm trùng có thể truyền bệnh cho hài nhi khi sanh nở. Do đó, sản phụ nếu nghi ngại rằng mình bị nhiễm trùng, hãy đi thử nghiệm. Nếu sản phụ bị nhiễm trùng, hài nhi có thể được chủng ngừa để ngăn việc nhiễm trùng. Ta không bị nhiễm trùng siêu vi khuẩn viêm gan B qua những cuộc tiếp xúc có tính cách giao tế như bắt tay, hôn, hắt hơi, ho, hoặc ăn uống chung. Ta có thể bị nhiễm trùng mà không hay biết vì không có triệu chứng nào; hoặc chỉ có những triệu chứng không rõ ràng như khi bị cảm cúm. Tuy nhiên, khi đã nhiễm trùng, ta có thể lây bệnh cho kẻ khác. Hầu hết người lớn sau khi nhiễm trùng bị vàng da, đau bụng, tiêu chảy một vài tuần, sau đó bình phục. Đây là chứng viêm gan B cấp tính (acute hepatitis B). Đôi khi, siêu vi khuẩn gây nhiễm trùng mãn tính (kinh niên) hay chronic hepatitis B. Qua thời gian, chứng nhiễm trùng này có thể gây hư hoại gan hoặc dẫn đến ung thư gan. Trẻ em và hài nhi khi bị nhiễm trùng thường bị viêm gan B mãn tính. TRIỆU CHỨNG Nhiều người bị nhiễm trùng siêu vi khuẩn viêm gan B mà không hay biết vì không có triệu chứng nào. Khi bị nhiễm trùng cấp tính, dưới phân nửa (<50%) bệnh nhân có thể chịu những triệu chứng sau: • Mệt mỏi, mất sức. • Lên cơn sốt nhẹ. • Nhức đầu. • Không muốn ăn uống. • Buồn nôn hoặc ói mửa. • Đau bụng âm ỉ tại vùng bụng trên phía bên phải (nơi gan tọa lạc). • Tiêu chảy hoặc táo bón. • Đau bắp thịt và khớp xương. • Da mẩn đỏ. • Vàng mắt và vàng da (jaundice). Vàng da chỉ xuất hiện sau khi các triệu chứng khác biến mất. Hầu hết những bệnh nhân bị nhiễm trùng siêu vi khuẩn viêm gan B không có triệu chứng nào và chỉ phát hiện khi thử máu định kỳ hoặc khi hiến máu. Chẩn bệnh Các loại thử nghiệm bao gồm: • Kháng sinh (antigen hay Ag) và kháng thể (antibodies hay Ab) viêm gan B giúp bác sĩ đoan quyết việc có bị nhiễm trùng không, nhiễm trùng hiện tại, nhiễm trùng từ trước nhưng căn bệnh không tác hiện, hoặc đã chủng ngừa hay không. Bác sĩ cũng có thể thử máu để tìm dấu vết viêm gan B qua DNA (HBV DNA). Di tính này cho thấy việc siêu vi khuẩn đang tăng trưởng và có thể gây truyền nhiễm. • Thử nghiệm tìm kiếm xem loại siêu vi khuẩn nào gây viêm gan, viêm gan A, viêm gan B, viêm gan C, hoặc Epstein-Barr (siêu vi khuẩn gây chứng mệt mỏi mãn tính, chronic fatigue, infectious mononucleosis, hay "mono") nếu loại thử nghiệm DNA không thấy dấu vết của siêu vi khuẩn viêm gan B. • Những loại thử nghiệm tìm kiếm nguyên nhân của viêm gan nếu không bị nhiễm trùng siêu vi khuẩn. • Những loại thử nghiệm tìm kiếm nhiễm trùng do viêm gan D cùng với viêm gan B (co-infection). Bác sĩ có thể thử máu để lượng mức hư hoại của gan qua các loại thử nghiệm sau: • Bilirubin, albumin, và prothrombin time định lượng mức hoạt động của gan. • Alanine aminotransferase (ALT), aspartate aminotransferase (AST), alkaline phosphatase, và lactic dehydrogenase (LDH) định lượng xem gan có bị hư hoại hay viêm không. Khi bị viêm gan B mãn tính, và trước khi chữa trị, bác sĩ có thể dùng một số thử nghiệm khác: • Chụp quang tuyến như CT scan, MRI hoặc dùng siêu âm: • Bác sĩ có thể trích mô gan để làm sinh thiết, biopsy, tìm xem gan bị hư hoại đến mức độ nào. Chữa trị Hầu hết người bị viêm gan B tự bình phục, không cần thuốc men. Triệu chứng biến mất từ từ khi người bệnh nghỉ ngơi, ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, hoàn toàn tránh uống rượu và dùng ma túy cho đến khi cơ thể phục hồi (thời gian này có thể kéo dài đến 3-4 tháng). Khi cần bác sĩ dùng thuốc men giúp giảm bớt triệu chứng và chỉ dùng các loại thuốc men ít ảnh hưởng đến gan như khi càn giảm bớt các cơn ngứa ngáy. Để tránh truyền nhiễm, người bệnh cần ngủ riêng, không dùng chung dao cạo, bàn chải răng, dùng condom khi giao hợp hoặc ngừng giao hợp cho đến khi hồi phục. Trong một số trường hợp ngoại lệ, bác sĩ dùng thuốc men để chữa viêm gan B cấp tính khi: • Kết quả thử máu cho thấy một số kháng sinh như HBeAg vẫn hiện diện sau 12 tuần. • Lượng các phân hóa tố từ gan (liver enzyme) cao hơn bình thường, dấu hiệu của sự hư hoại tại gan. • Lượng DNA của siêu vi khuẩn viêm gan B lên cao, có nghĩa là lượng siêu vi khuẩn len cao (high viral load). Với những người mới tiếp cận với siêu vi khuẩn viêm gan B, bác sĩ có thể dùng hepatitis B immunoglobulin (HBIG) và 3 liều thuốc chủng ngừa viêm gan B (hepatitis B vaccine) để chữa trị (có tính cách phòng ngừa, empirical therapy) trong vòng 7 ngày sau khi bị đâm bởi kim chích (needelstick) từ người nhiễm trùng; hoặc trong vòng 2 tuần lễ sau khi giao hợp với người bị nhiễm trùng. HBIG ngừa nhiễm trùng cho đến khi thuốc chủng ngừa có tác dụng. Chữa trị càng sớm, việc phòng ngừa nhiễm trùng càng hiệu quả. Việc chữa trị chứng viêm gan B mãn tính tùy thuộc vào nhiều yếu tố: việc nhiễm trùng diễn tiến nhanh chóng, gan có bị hư hoại hay không. Hầu hết những người bị viêm gan B mãn tính đều có thể sống đời sống bình thường khi cẩn thận, giữ gìn sức khỏa và đi khám bệnh để được bác sĩ theo dõi định kỳ. Mục đích của việc chữa trị là ngưng sự hư hoại của gan bằng cách chấm dứt sự tăng trưởng của siêu vi khuẩn. Hiện nay, ta có một số thuốc men dùng để chữa trị viêm gan B nhưng các dược phẩm này không hoàn toàn hiệu quả cho mọi bệnh nhân. Hãy thảo luận với bác sĩ xem các dược phẩm này có thích hợp hay không trước khi bắt đầu chữa trị. Các thuốc kháng sinh dùng chữa trị viêm gan B bao gồm: • Interferons như interferon alfa-2b và pegylated interferon alfa-2a. Đây là loại thuốc chích, phản ứng phụ bao gồm lên cơn sốt, mệt mỏi, nhức đầu, rụng tóc, và đôi khi trầm cảm. Khi bị xơ gan, cần ngưng dùng interferon. • Nucleoside reverse transcriptase inhibitors (NRTIs) như adefovir, entecavir, lamivudine, telbivudine, và tenofovir là các thuốc uống, dùng cả năm trời. Đôi khi thuốc trở nên hết công hiệu (resistant) và cần đổi thuốc. Các loại thuốc này tương đối ít phản ứng phụ. Căn bệnh viêm gan B có thể tái phát sau khi chữa trị thành công. Khi siêu vi khuẩn viêm gan B gây hư hoại gan hoàn toàn, bệnh nhân có thể cần ghép gan để duy trì sự sống. Phòng ngừa Dùng thuốc chủng ngừa viêm gan B là cách phòng ngừa hữu hiệu nhất. Loại chủng ngừa này gồm 3 hoặc 4 lần chích thuốc. Người lớn, trẻ em, hầu như mọi người cần chủng ngừa viêm gan B. Hiện nay, loại thuốc chủng ngừa Twinrix được dùng chích ngừa cho viêm gan A và viêm gan B. Ngoài ra, các phương pháp phòng ngừa hữu hiệu khác bao gồm: • Dùng áo bọc (condom) khi giao hợp. • Đừng dùng chung kim chích, kim châm hoặc kin xâm. • Dùng găng tay latex khi phải sờ mó máu và chất lỏng từ cơ thể người khác. • Đừng dùng chung vật dụng cá nhân như dao cạo, bàn chải răng … • Tránh giao hợp với người ta không biết rõ tình trạng sức khỏe Đôi khi, bác sĩ có thể thử máu sau khi chích thuốc chủng ngừa để lượng phản ứng của cơ thể qua mức kháng thể trong máu. Người bị liệt kháng (sức đề kháng của cơ thể bị suy uyêu1 hoặc mất hẳn) không thể tạo kháng thể chống lại vi sinh. Cần gặp bác sĩ ngay nếu bị viêm gan B và mất nước vì ói mửa trầm trọng hoặc có các triệu chứng của hoại gan như sau: • Khó chịu, bẳn gắt • Lẫn, mất sự tinh tế • Ngầy ngật, không tỉnh táo. • Chân tay, mặt mũi sưng phù (edema). • Xuất huyết từ miệng mũi, hậu môn hoặc bầm tím dưới da. • Vàng da & vàng mắt. *Tài liệu của Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ - 2013 Chứng viêm gan C (Hepatitis C, HCV) Viêm gan C là một loại nhiễm trùng siêu vi khuẩn, loại siêu vi khuẩn gây viêm gan (HCV). Người bị nhiễm trùng thường không có triệu chứng nào cho đến nhiều thập niên về sau. Vì không có triệu chứng nên người bị nhiễm trùng không hay biết và bác sĩ chỉ tìm ra bệnh khi có dấu hiệu viêm gan hoặc ngẫu nhiên qua việc thử máu định kỳ. Siêu vi khuẩn gây viêm gan C là loại siêu vi khuẩn gây ảnh hưởng nặng nề nhất so với các loại siêu vi khuẩn gây viêm gan khác. Viêm gan C lan truyền qua máu, thường thấy trong những người chích ma túy và dùng chung kim chích. Triệu chứng Nhiễm trùng siêu vi khuẩn viêm gan C thường không gây triệu chứng hay có dấu hiệu nào trong thời kỳ bắt đầu. Khi triệu chứng hoặc dấu hiệu xuất hiện, thường là những triệu chứng nhẹ, tựa như bị cảm cúm như: • Mệt mỏi • Sốt • Buồn nôn hoặc không muốn ăn • Đau trong bắp thịt và khớp xương • Đau tại vùng bụng (gan) • Nước tiểu đậm đặc • Phân nhạt màu • Vàng da • Ngứa ngáy • Tâm trí kém minh mẫn, lẫn • Hôn mê, hoặc • Xuất huyết từ nội tạng • Khi xơ gan xuất hiện, biến chứng này đi kèm với một số triệu chứng khác như: Lòng bàn tay đỏ hồng vì các mạch máu nở lớn; các mạch máu dưới da trên mặt, ngực, vai nổi đỏ trông giống mạng nhện; bụng trướng, chân sưng úng nước; bắp thịt teo lại; và xuất huyết từ đường tiêu hóa. Ở giai đoạn cuối, người bệnh trở nên lẫn và hôn mê. Sự lan truyền và giai đoạn tiềm ẩn (incubation) Giai đoạn tiềm ẩn kéo dài khoảng 2 tuần – 6 tháng sau khi bị nhiễm trùng; nhưng người bị nhiễm trùng có thể truyền bệnh trong bất cứ giai đoạn nào ngay cả khi không có triệu chứng. Viêm gan C có thể lan truyền qua một số trường hợp sau: • Dùng chung kim chích để chích ma túy • Truyền máu và nhận bộ phận ghép trước năm 1992; ngày nay, máu và các bộ phận ghép được thử nghiệm kỹ lưỡng nên hiếm khi gây nhiễm trùng. • Sanh nở: hài nhi từ người mẹ bị viêm gan C có thể bị nhiễm trùng trong lúc sinh nở. • Qua việc giao phối; không như viêm gan B, sự lan truyền của viêm gan C qua việc giao phối rất hiếm khi xảy ra. Biến chứng a) xơ gan; b) ung thư gan - Hình ảnh của Mayo Clinic Ngoài xơ gan, viêm gan C còn có thể gây ung thư gan. Tại Nhật Bản, 75% số bệnh nhân bị ung thư gan đều có dấu hiệu của viêm gan C. Thời gian dẫn đến biến chứng ung thư gan sau khi nhiễm viêm gan C là +/-28 năm. Ung thư gan xuất hiện khoảng 8-10 năm khi bị xơ gan từ viêm gan C. Khoảng 2.5% những bệnh nhân nhiễm viêm gan C kinh niên sẽ bị ung thư gan. Các yếu tố rủi ro dẫn đến ung thư gan sau khi bị nhiệm trùng viêm gan C bao gồm tuổi tác (50+ tuổi), xơ gan, giới tính nam, lượng alpha-fetoprotein lên cao, nghiện rượu, cũng bị nhiễm sieeu vi khuẩn viêm gan B (HBV) hoặc HIV. Các yếu tố gia tăng tỷ lệ rủi ro bị nhiễm viêm gan C • Làm việc trong ngành y tế, sờ mó đến máu. • Chích ma túy, dù chỉ một lần • Nhiễm trùng HIV • Xỏ lỗ tai, lỗ mũi hoặc xâm mình bằng kim không được khử trùng kỹ lưỡng • Truyền máu hoặc nhận bộ phận ghép từ những năm trước 1992 • Truyền huyết thanh chứa chất đông máu (clotting factor) từ những năm trước 1987 • Lọc máu lâu dài • Người mẹ bị nhiễm viêm gan C Khi nào thì đi khám bệnh? • Khi nghi ngại là mình bị nhiễm trùng viêm gan C • Có các yếu tố rủi ro như chích ma túy • Có các triệu chứng của viêm gan C • Thử máu tại nhà, và kết quả cho thấy bị nhiễm trùng viêm gan C. Bác sĩ sẽ phải tìm kiếm chi tiết hơn để định bệnh chính xác. Sửa soạn trước khi đi khám bệnh: Thời gian gặp bác sĩ thường giới hạn, do đó nên sửa soạn cẩn thận qua việc: • Ghi chép chi tiết các triệu chứng xảy ra • Ghi chép các chi tiết về sự thay đổi trong sinh hoạt hàng ngày. • Lập danh sách các món thuốc đang dùng, liều lượng sử dụng kể cả các nón dược thảo, thức ăn phụ, thuốc bổ. • Nếu cần, đi khám bệnh cùng với người thân để được giúp đỡ thu góp các lời chỉ dẫn cần thiết. • Ghi chép sẵn các câu muốn hỏi bác sĩ. Nên hỏi bác sĩ những điều sau đây: • Lượng siêu vi khuẩn viêm gan C trong cơ thể tôi là bao nhiêu? • Siêu vi khuẩn viêm gan C đã gây hư hoại gan hay chưa? • Tôi có cần chữa trị hay không? • Việc chữa trị bao gồm những phương cách nào? • Mỗi phương cách chữa trị có lợi / hại ra sao? • Theo ý bác sĩ thì các chữa trị nào thích hợp nhất cho tôi? • Tôi đang dùng các loại thuốc… Chúng có ảnh hưởng gì đến việc chữa trị viêm gan C hay không? • Thân nhân tôi có cần thử máu tìm viêm gan C không? • Tôi có thể gây bệnh viêm gan C cho kẻ khác hay không? • Tôi cần làm gì để bảo vệ người chung quanh khỏi bị viêm gan C? • Tôi có cần gặp bác sĩ chuyên khoa không? Phí tổn là bao nhiêu và bảo hiểm của tôi có trả không? • Bác sĩ có sách vở, giấy chỉ dẫn nào để tôi mang về đọc thêm không? Có trang nhà nào để tôi tham khảo thêm không? • Khi nào thì tôi cần tái khám? • Tôi có thể uống rượu không? • Tôi cần tránh những loại thuốc men nào? Ngoài các câu hỏi trên, đừng ngần ngại hỏi bác sĩ các chi tiết mà bạn chưa hiểu rõ. Bác sĩ sẽ cần hỏi một số chi tiết và có thể bao gồm các câu hỏi sau đây: • Khi nào thì triệu chứng bắt đầu? • Các triệu chứng xuất hiện liên tục hay chỉ thỉnh thoảng? • Triệu chứng nặng nhẹ ra sao? • Có điều gì khiên các triệu chứng giảm nhẹ? Có điều gì khiến triệu chứng trở nặng? • Có được truyền máu bao giờ không? Khi nào? • Có khi nào tự chích thuốc không có toa bác sĩ? • Có bao giờ bị chứng vàng da hoặc bị viêm gan không? Thử nghiệm và chẩn đoán Người bị nhiễm trùng thường không có triệu chứng nào cho đến nhiều năm về sau, hoặc chỉ hay biết khi đi thử máu định kỳ, khi hiến máu. Trước khi thử máu, bác sĩ sẽ giải thích lý do và các yếu tố liên quan đến viêm gan C. Các loại thử nghiệm viêm gan C: • Thử máu tìm sự hiện diện của kháng thể (antibody hay Ab) chống lại siêu vi khuẩn viêm gan C, có thể biết kết quả trong vòng 20 phút. Loại thử nghiệm này cho biết ta có tiếp cận (exposure) với siêu vi khuẩn viêm gan C hay không. • Thử máu để đo lượng siêu vi khuẩn viêm gan C (viral load) hiện diện trong cơ thể • Thử máu tìm sự hiện diện của siêu vi khuẩn viêm gan C qua các di tính (RNA), loại thử nghiệm này cho thấy đang bị nhiễm trùng viêm gan C hay không. • Thử máu để tìm loại siêu vi khuẩn viêm gan C (genotype), loại thử nghiệm này giúp bác sĩ quyết định việc chữa trị. Hiện nay, có loại thử nghiệm viêm gan C tại nhà (Home testing for hepatitis C: “the Home Access Hepatitis C Check kit”) để tìm kiếm xem ta có bao giờ tiếp cận (exposure) với siêu vi khuẩn viêm gan C hay không. Cần thảo luận với bác sĩ về kết quả của loại thử nghiệm này. Để tìm kiếm xem gan có bị hư hoại gì không, bác sĩ có thể dùng các loại thử nghiệm sau đây: • Thử máu đo lượng phân hóa tố từ gan để ước tính mức hoạt động của gan (Liver function tests). • Trích mô gan để xem siêu vi khuẩn có gây hư hoại gan hay không và nếu có, hư hoại đến mức độ nào. • Dùng CT scan, MRI, hoặc siêu âm (ultrasound) để tìm kiếm dấy vết của ung thư. Ngoài ra, bác sĩ có thể thử máu để tìm kiếm các chứng nhiễm trùng khác như HIV, viêm gan B. Chữa trị Bác sĩ có thể chữa trị hoặc chỉ theo dõi định kỳ tùy theo các yếu tố sau: • Gan bị hư hoại đến mức độ nào • Tình trạng sức khỏe hiện tại • Các chứng bệnh khác đang bị • Lượng siêu vi khuẩn viêm gan C hiện diện trong cơ thể • Loại siêu vi khuẩn viêm gan C nào (genotype) đã gây nhiễm trùng Chữa trị không hẳn là một phương cách hoàn hảo vì các loại thuốc sử dụng hiện nay mang theo nhiều phản ứng phụ nặng nề, khá đắt tiền và không hẳn là hữu hiệu cho mọi bệnh nhân. Chữa trị viêm gan C cấp tính: Hầu hết bệnh nhân không được chữa trị vì họ không có triệu chứng nào để đi khám bệnh và thử nghiệm. Ngoại trừ một số trường hợp như người vừa bị đâm bởi kim chích từ bệnh nhân bị viêm gan C, việc chữa trị có thể giúp ngăn ngừa nhiễm trùng kinh niên. Cách chữa trị để phòng ngừa này y học chưa rõ hiệu quả ra sao. Chữa trị viêm gan C kinh niên: Khi bị nhiễm viêm gan C kinh niên, nhưng gan chưa bị hư hoại, bệnh nhân có thể không cần chữa tri. Khi có dấu hiệu suy gan, bác sĩ có thể dùng chung một số thuốc để kháng bệnh. Dù chữa trị hay không, bệnh nhân vẫn cần được theo dõi định kỳ để kiểm nghiệm sự diễn tiến của bệnh trạng. Các loại dược phẩm đang được dùng để trị viêm gan C bao gồm interferon, dùng chung với ribavirin và một loại thuốc kháng sinh khác như boceprevir (Victrelis) hoặc telaprevir (Incivek). Bệnh nhân được chữa suốt 6 -12 tháng. Căn bệnh có thể tái phát sau một thời gain “lành” bệnh; bác sĩ có thể chữa trị lần nữa hoặc ngưng luôn tùy theo tình trạng của bệnh tật và bệnh nhân chịu đựng lần chữa trị ra sao. Khi gan hư hoại đến thời kỳ cuối, bệnh nhân có thể cần ghép gan mới. Đây không phải là cách chữa trị vĩnh viễn vì siêu vi khuẩn viêm gan C vẫn tiềm ẩn trong cơ thể. Việc ghép gan chỉ giúp kéo dài đời sống của bệnh nhân. Hiện nay, chưa có thuốc chủng ngừa viêm gan C mặc dù đã có thuốc chủng ngưa viêm gan A và viêm gan B. Bác sĩ có thể chủng ngừa để tránh các chứng bệnh kể trên gây hư hoại thêm cho gan. Nhiễm viêm gan C có thể thay đổi đời sống của bệnh nhân, và họ có thể cần tìm cách đối phó qua việc thay đổi cách sinh hoạt hàng ngày. Những phương cách này giúp bệnh nhân sống khỏe mạnh hơn và giúp thân nhân phòng ngừa việc lây bệnh. Bác sĩ có thể chỉ dẫn như sau: • Ngưng uống rượu, rượu gia tăng độ hư hoại của gan. • Tránh các loại thuốc men gây hư hoại gan. Cần thảo luận với bác sĩ về các loại thuốc này, kể cả các món thuốc bán tự do (the over-the-counter medication). • Duy trì sức khỏe qua việc chọn lựa những món ăn đủ chất dinh dưỡng như rau, trái cây; tập thể dục hàng ngày và ngủ đủ giấc. • Giúp người chung quanh phòng ngừa việc tiếp cận với máu từ người bệnh bằng cách băng kín các vết thương; đừng dùng chung dao cạo râu, bàn chải răng. Đừng hiến máu. Đừng tặng bộ phận để ghép. Đừng hiến tặng tinh trùng và nhất là nói cho nhân viên y tế biêt về việc nhiễm trùng của mình để họ cẩn thận hơn. Y Học Hoán đổi (Alternative medicine) Chưa có cách chữa trị nào trong Y Học Hoán Đổi hoặc Y Học phụ trội (complementary medicine) hữu hiệu trong việc chữa trị viêm gan C. Milk thistle đang được một số người dùng để giảm vàng da và những chứng suy gan khác. Nếu bạn muốn thử dùng milk thistle, hãy thảo luận với bác sĩ. Phòng ngừa Phòng ngừa việc nhiễm trùng viêm gan C bằng những cách sau đây: • Ngưng dùng ma túy. Nếu đã dùng ma túy và không thể ngưng, đừng dùng chung kim chích cũng như các vật dụng để dùng ma túy khác. • Hãy cẩn thận với việc xỏ lỗ tai, lỗ mũi hoặc xâm mình. Chọn một nơi có tên tuổi, và cần biết rõ cách người xâm tẩy trùng dụng cụ ra sao. Phải dùng kim mới, còn nguyên trong bao bọc. • Hãy cẩn thận với việc châm cứu, đừng để người châm kim dùng kim đã sử dụng. Phải dùng kim mới, còn nguyên trong bao bọc. • Dùng phương pháp an toàn khi giao hợp. Đừng giao hợp với những người có nhiều bạn tình. Đừng giao hợp với người ta không biết rõ tình trạng sức khỏe ra sao. *Tài liệu của Mayo Clinic và Viện Y Tế Quốc Gia Hoa Kỳ - 2013
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 13, 2013 8:06:17 GMT 9
Viêm gan do siêu vi khuẩn (viral hepatitis)
Bác Sĩ Trần Lý Lê
Bài I -Tổng quát
Đây là những chứng viêm gan do nhiễm trùng từ siêu vi khuẩn. Có nhiều loại siêu vi khuẩn gây viêm gan: A, B, C, D, và E. Tất cả các siêu vi khuẩn kể trên gây viêm gan cấp tính (acute hepatitis). Riêng siêu vi khuẩn B, C, và D còn có thể gây viêm gan mãn tính (kinh niên, chronic hepatitis), kéo dài đến suốt đời. Viêm gan mãn tính có thể dẫn đến chứng xơ gan (cirrhosis), suy gan (liver failure) và ung thư gan (liver cancer, hepatoma).
Một số siêu vi khuẩn khác cũng gây nhiễm trùng gan nhưng ít xuất hiện như cytomegalovirus, Epstein-Barr virus, herpesvirus, parvovirus và adenovirus.
Triệu chứng thường bao gồm:
• Vàng da, vàng mắt • Mệt mỏi, mất sức • Đau bụng • Không muốn ăn uống • Buồn nôn, ói mửa • Tiêu chảy • Sốt • Nhức đầu Tuy nhiên, có một số bệnh nhân không bị triệu chứng nào.
Viêm gan A
Viêm gan A truyền từ người này sang người khác qua thức ăn, nước uống ô nhiễm bởi phân từ người bị bệnh. Hiếm khi bệnh lan truyền qua máu.
Những người dễ bị viêm gan A:
• Du lịch, nhất là qua những vùng đất lạc hậu, chậm tiến • Chung sống, giao hợp với người bị bệnh • Sống tại những vùng bị dịch hoặc nơi trẻ em không được chủng ngừa • Nhà giữ trẻ: trẻ em và cả người chăm sóc trong trận dịch • Đồng tính nam phái • Dùng ma túy
Phòng ngừa:
Thuốc chủng ngừa viêm gan A tạo sự miễn nhiễm cho người lớn và trẻ em trên 1 tuổi. Trung Tâm Kiểm Soát và phòng Ngừa Bệnh Tật (CDC) khuyến cáo nên chủng ngừa cho trẻ em tuổi từ 12-23 tháng và chủng ngừa cho những người lớn dễ bị nhiễm trùng. Có thể dùng immune globulin để tạo sự đề kháng chống lại viêm gan A trước khi hoặc trong vòng 2 tuần lễ khi tiếp xúc với người bệnh hoặc đến nơi đang có trận dịch.
Tránh dùng nước máy khi du lịch, giữ vệ sinh kỹ lưỡng khi ăn uống cũng giúp ngăn ngừa viêm gan A.
Chữa trị: Việc chữa trị thường không cần thiết, chứng viêm gan A tự phục hồi.
Viêm gan B
Viêm gan B lan truyền qua máu bị nhiễm trùng, qua việc giao hợp với người bị bệnh, từ mẹ đến hài nhi.
Những người dễ bị viêm gan B:
• Chung sống hoặc giao hợp với người bệnh • Nam nhân đồng tính • Giao hợp với nhiều người • Dùng ma túy qua kim chích • Di dân và con cái từ những nơi bị nhiễm trùng viêm gan B • Hài nhi từ người mẹ bị bệnh • Chuyên viên Y Tế • Người dùng máy lọc thận • Nhận máu trong những năm trước 1987, khi chưa có những phương cách thử nghiệm máu từ người tặng • Du lịch quốc tế
Phòng ngừa:
Thuốc chủng ngừa viêm gan B tạo tính đề kháng. Hài nhi, trẻ em chưa chủng ngừa, người lớn đều cần chủng ngừa viêm gan B. Những người chưa được chủng ngừa cần cẩn thận khi tiếp xúc với máu và dịch thể (chất lỏng từ cơ thể như tinh dịch, nước miếng…) của kẻ khác. Nghĩa là dùng “áo mưa” (condom) khi giao hợp, tránh dùng chung bàn chải đánh răng, dao cạo, kéo cắt móng tay chân với người bị bệnh.
Chữa trị:
Hiện tại, cách chữa trị bao gồm alpha interferon và peginterferon; các thuốc này làm chậm sự sinh sản của siêu vi khuẩn và gia tăng sức đề kháng của cơ thể và những loại kháng sinh như lamivudine, adefovir dipivoxil, entecavir và telbivudine. Những loại thuốc khác còn trong vòng thử nghiệm. Hài nhi từ người mẹ bị bệnh cần được chữa trị với viêm gan B immune globulin và chủng ngừa trong vòng 12 tiếng sau khi ra đời để ngừa nhiễm trùng.
Những người bị viêm gan B mãn tính thường không cần dùng thuốc kháng sinh vì, tùy theo tuổi tác, cơn nhiễm trùng sẽ tự dứt. Hài nhi bị nhiễm trùng thường trở thành mãn tính; nhưng người trẻ tuổi khi bị nhiễm trùng cấp tính thường khỏi bệnh.
Viêm gan C
Viêm gan C thường lan truyền qua máu, đôi khi lan truyền qua việc giao hợp và mẹ-hài nhi.
Những người dễ bị viêm gan C:
• Dùng ma túy qua kim chích • Giao hợp với người bị bệnh • Giao hợp với nhiều người • Chuyên viên Y Tế • Hài nhi từ người mẹ bị bệnh • Người dùng máy lọc thận • Nhận máu trong những năm trước tháng Bảy năm 1992 khi việc truy tìm dấu viêm gan C trong máu người tặng chưa được sử dụng • Nhận chất đông máu (clotting factor) trong những năm trước 1987, khi chưa có những phương cách thử nghiệm máu
Ngăn ngừa:
Hiện nay chưa có thuốc chủng viêm gan C. Cách ngăn ngừa duy nhất là giảm các yếu tố truyền nhiễm; nghĩa là không dùng chung kim chích, những vật dụng cá nhân như bàn chải đánh răng, dao cạo, kéo cắt móng tay với người bị bệnh.
Chữa trị:
Viêm gan C mãn tình được chữa trị bằng peginterferon và thuốc kháng sinh ribavirin. Khi chứng viêm gan C cấp tính không tự thuyên giảm trong vòng 2-3 tháng, nên dùng cách chữa trị kể trên.
Viêm gan D
Viêm gan D lan truyền qua máu. Chứng nhiễm trùng này chỉ xuất hiện khi bị viêm gan B cùng lúc hoặc đã bị viêm gan B trong quá khứ.
Những người dễ bị viêm gan D:
• Những người bị hoặc đã bị viêm gan B • Dùng ma túy qua kim chích • Nhận chất đông máu (clotting factor) trong những năm trước 1987, khi chưa có những phương cách thử nghiệm máu
Ngăn ngừa:
Những người chưa bị viêm gan B nên chủng ngừa. Tránh việc tiếp xúc với máu, dịch thể, không dùng chung kim chích, những vật dụng cá nhân như bàn chải đánh răng, dao cạo, kéo cắt móng tay với người bị bệnh.
Chữa trị:
Viêm gan D mãn tính được chữa trị bằng peginterferon; các cách chữa trị khác còn nằm trong vòng thử nghiệm.
Viêm gan E
Viêm gan E lan truyền qua thức ăn, nước uống bị ô nhiễm với phân của người bệnh. Chứng viêm gan E rất hiếm thấy tại Hoa Kỳ.
Những người dễ bị bệnh:
• Du lịch quốc tế, nhất là đến những vùng đất nghèo khó, lạc hậu • Sinh sống trong những vùng bị dịch viêm gan E • Chung sống hoặc giao hợp với người bị bệnh
Ngăn ngừa:
Không có thuốc chủng ngừa viêm gan E. Cách ngăn ngừa duy nhất là tiết giảm sự lan truyền qua việc tránh dùng nước máy khi du lịch, giữ vệ sinh trong việc ăn uống và tiếp xúc với người địa phương.
Chữa trị:
Viêm gan E tự thuyên giảm sau nhiều tuần hoặc nhiều tháng.
Những điểm chính yếu:
1. Viêm gan do siêu vi khuẩn do siêu vi khuẩn A, B, C, D, hoặc E 2. Tùy theo loại siêu vi khuẩn, bệnh lan truyền qua qua thức ăn hoặc nước uống nhiễm độc, tiếp xúc với máu người bệnh, giao hợp với người bệnh hoặc từ mẹ-hài nhi. 3. Chủng ngừa viêm gan A và viêm gan B để tránh bệnh tật 4. Không có thuốc chủng ngừa cho viêm gan C, viêm gan D, viêm gan E, cần tiết giảm sự truyền nhiễm qua cách sống vệ sinh, giữ gìn sức khỏe. 5. Viêm gan A và viêm gan E tự lành bệnh không cần chữa trị. Viêm gan B, viêm gan C, viêm gan D có thể thành bệnh mãn tính và trầm trọng, chữa trị qua một số thuốc men.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 13, 2013 8:44:44 GMT 9
Giấc ngủ, sinh lý, bệnh lý và chứng mất ngủBác Sĩ Trần Lý Lê, Thư Viện Toàn Cầu (www.tvvn.org) Ngủ ngon giấc và ngủ đầy đủ giúp cơ thể khỏe khoắn, tâm trí làm việc đắc lực hiệu quả hơn. Giấc ngủ quan trọng như thế nhưng chẳng mấy ai quan tâm đến giấc ngủ trừ khi cơ thể bất an và mỏi mệt. Ngủ ngon giấc và ngủ đầy đủ được xem như “bình thường” và các chuyên gia về Thần Kinh đang khảo nghiệm về sự liên quan giữa giấc ngủ bình thường và tình trạng sức khỏe. Tài liệu sơ khởi cho thấy rằng khi thiếu ngủ (ngủ không đủ giấc hay dưới 6 tiếng mỗi ngày) hoặc khi ngủ quá nhiều (hơn 9 tiếng mỗi ngày) đều có hại cho sức khỏe. Như thế, ta cần ngủ bao nhiêu tiếng mỗi ngày? Tùy theo tuổi tác và tình trạng sức khỏe toàn diện, trung bình: • Trẻ em cần 16 tiếng mỗi ngày • Tuổi dậy thì cần 9 tiếng mỗi ngày • Người lớn 7-8 tiếng mỗi ngày; tuy nhiên có một số chỉ cẩn ngủ khoảng 5 tiếng và một số khác cần ngủ đến 10 tiếng mỗi ngày. • Phụ nữ mang thai cần ngủ nhiều hơn trong 3 tháng thai nghén đầu tiên Khi thiếu ngủ đêm trước, cơ thể đòi hòi được ngủ bù ngày hôm sau. Nghĩa là khi mất ngủ, cơ thể có một món nợ, sleep debt, một trương mục thời giờ bị hao hụt, và cơ thể sẽ đòi lại những thời giờ hao hụt kia. Cơ thể con người có thể làm quen hoặc thích ứng với nhiều tình huống, việc thiếu ngủ là điều cơ thể không thể thích ứng được dù ta có thể “quen” với việc ít ngủ nhưng khả năng làm việc, phản ứng, sự suy luận … đều giảm sút khi cơ thể thiếu ngủ kinh niên. Khi vào tuổi vàng (65 tuổi trở lên), cơ thể ngủ những giấc ngắn, và “nhẹ” (dễ thức giấc) hơn khi còn trẻ mặc dù vẫn cần ngủ khoảng 8 tiếng mỗi ngày. Dấu hiệu của sự thiếu ngủ: Cơ thể có nhiều cách báo hiệu cho ta biết khi chưa được ngủ đầy đủ: • Khi ta cảm thấy mệt mỏi, ngầy ngật trong lúc làm việc • Nếu ta chỉ cần đặt lưng 5 phút là có thể đi vào giấc ngủ • Thiếp ngủ những giấc ngắn (microsleep) trong lúc thức Thiếu ngủ có hại cho cơ thể, đưa con người vào tình trạng suy nhược nhất là khi việc thiếu ngủ trở thành kinh niên. Những người thiếu ngủ không thể điều khiển một cách chính xác các cử động hay phản ứng của mình. Đã có khá nhiều tài liệu chứng minh rằng khi thiếu ngủ, con người lái xe hay làm những cử động đòi hỏi sự phối hợp giữa mắt nhìn và cử động tay chân một cách vụng về lúng túng như những người say rượu. Thiếu ngủ gia tăng ảnh hưởng của rượu trên cơ thể, dễ say, dễ mất thăng bằng, và dễ gây tai nạn hơn. Sự mệt mỏi đã gây ra 100,000 tai nạn và 1,500 cái chết hàng năm từ tai nạn lưu thông. Sự ngầy ngật buồn ngủ là bước chót trước khi não bộ chìm vào giấc ngủ, lái xe khi đang ngầy ngật dễ gây tai nạn. Caffeine và những loại thuốc kích thích thần kinh hệ không thể chống lại sự ngầy ngật do thiếu ngủ kinh niên. Nếu ta không thể giữ mắt nhìn tập trung vào một điểm trước mặt, không thể ngừng ngáp, hoặc nếu ta không thể nhớ được đã đi qua vài dặm trước, đây là dấu hiệu rất rõ rằng rằng ta quá buồn ngủ để có thể lái xe một cách an toàn! Giấc ngủ có lợi gì cho cơ thể? Các chuyên gia đang tìm hiểu về ích lợi của giấc ngủ trong cơ thể con người. Nhưng ích lợi của giấc ngủ đã được khẳng định qua những cuộc thử nghiệm trong loài vật. Chuột sống trung bình từ 2-3 năm. Những con chuột thiếu giấc ngủ sâu (Rapid Eye Movement, REM) sống khoảng 5 tuần lễ; và những con chuột bị mất ngủ toàn diện, chợp mắt, ngủ nhẹ, hay ngủ sâu, chỉ sống sót khoảng 3 tuần lễ! Những con chuột này có thân nhiệt thấp, có những vết lở tại đuôi và bàn chân. Những vết lở này có thể do sự hư hại của hệ đề kháng từ việc thiếu ngủ kinh niên. Và như thế việc thiếu ngủ ảnh hưởng đến hệ đề kháng nặng nề. Giấc ngủ rất cần thiết cho sự hoạt động bình thường của hệ thần kinh. Thiếu ngủ gây mệt mỏi cho thân xác và sự ngầy ngật của trí não khiến ta không thể tập trung ý nghĩ. Việc thiếu ngủ kinh niên đưa đến mất trí nhớ, suy giảm khả năng làm việc và nhất là không thể làm những bài toán đơn giản. Nếu việc thiếu ngủ tiếp diễn, cơ thể sẽ đi vào trạng nửa mơ nửa tỉnh, thính giác và thị giác mất sự bén nhạy, ta có thể nghe thấy những âm thanh hoặc nhìn ra những ảo giác (hallucination) và tâm tính trở nên bất thường, lúc vui lúc buồn lúc giận dữ lúc vui vẻ… (mood swing). Giấc ngủ, một trạng thái "động" Cho đến thập niên 50, ta mới bắt đầu hiểu được rằng giấc ngủ không phải là một trạng thái "thụ động", ù lì, "không làm gì" của cơ thể. Thực ra trong giấc ngủ nhiều bộ phận của não bộ hoạt động cật lực. Những chất tạo ra hoặc lưu truyền tín hiệu giữa các thần kinh được gọi là neurotransmitter. Những chất này kiểm soát trạng thái "ngủ" hay "tỉnh thức" bằng cách ảnh hưởng đến những phần não bộ khác nhau. Tế bào thần kinh tại brainstem (nối não bộ với cột tủy sống) tạo ra serotonin và norepinephrine, hai chất này giữ một phần não bộ hoạt động, nững thần kinh khác bắt đầu chuyển tín hiệu khi cơ thể ở trạng thái "ngủ". Một số chuyên gia cho rằng lượng adenosine trong máu từ từ gia tăng khi ta thức, đến một mức độ nào đó thì cơ thể trở nên mệt mỏi, và khi cơ thể "ngủ", adenosine từ từ giảm sút. Như thế, adenosine được xem như một hóa chất trong cơ thể ảnh hưởng đến và kiểm soát chu kỳ "thức-ngủ". Giả thuyết đang được tìm hiểu và thử nghiệm. Một số chuyên gia cho rằng giấc ngủ cho các tế bào thần kinh hoạt động lúc thức một cơ hội nghỉ ngơi và hồi phục. Khi mất ngủ, những tế bào thần kinh này mất hết năng lực và không còn hoạt động hữu hiệu nữa. Giác ngủ cũng cho não bộ một cơ hội để các thần kinh nối tiếp hoạt động bằng không sẽ trở nên vô dụng. Trong trẻ em và tuổi dậy thì, giấc ngủ sâu trùng hợp với việc tiết ra growth hormone, nội tiết tố chính điều khiển sự tăng trưởng của cơ thể. Rất nhiều loại tế bào khác cũng gia tăng hoạt động hoặc đi vào trạng thái nghỉ ngơi trong giấc ngủ, ngay cả việc thoái hóa của một số protein. Protein là thành phần căn bản của tế bào, cần thiết cho sự tăng trưởng, việc sửa chữa các chức năng bị hư hại; giấc ngủ sâu giảm sự thoái hóa của protein, do đó giúp tế bào hồi phục. Tại não bộ, những bộ phận kiểm soát cảm tính, suy luận, phân tích, làm toán, và ngay cả giao tiếp với môi trường chung quanh... đều ngừng hoạt động khi cơ thể đi vào giấc ngủ, các cấu trúc này có cơ hội hồi phục sau một ngày làm việc mệt nhọc. Hoạt động - nghỉ ngơi là một chu kỳ quan trong và cần thiết cho hầu hết mọi cấu trúc, bộ phận trong cơ thể. Trong giấc ngủ, cơ thể con người trải qua 5 giai đoạn: 1, 2, 3, 4, và rapid eye movement hay REM. Những giai đoạn này này đi theo một chu kỳ, từ 1-REM, rồi trở lại với giai đoạn 1. Xem hình vẽ: Trong giấc ngủ, trung bình cơ thể trải qua 50% trong giai đoạn 2, 20% trong giai đoạn REM, và 30% thời gian còn lại ở những giai đoạn kia. Ngược lại, ở trẻ sơ sinh, 50% giác ngủ nằm trong giai đoạn REM. Giai đoạn 1, giấc ngủ “nhẹ”, dễ thức giấc. Mắt ta cử động rất chậm và các cơ hoạt động chậm. khi bị đánh thức ở giai đoạn này, ta có thể nhớ lại một vài hình ảnh trước khi chìm vào giấc ngủ. Một số người ghi nhận cảm giác co thắt của các bắp thịt, hypnic myoclonia, trước khi có cảm tưởng mình sắp bị ngã quỵ. Những cử động bất chợt này tương tự như những cử động “nhảy nhổm” khi ta giật mình. Khi cơ thể đi vào giai đoạn 2, cử động cuả mắt ngưng lại và những luồng sóng tại não bộ (brain wave) cũng chậm lại (đo được qua điện từ). Thỉnh thoảng não bộ nổi một lớp sóng dồn, rapid burst, có tên là “sleep spindle”. Trong giai đoạn 3, các luồng sóng tại não bộ di động rất chậm, delta wave, xen lẫn vởi những lớp sóng nhỏ và nhanh. Vào giai đoạn 4, não bộ chỉ phát ra những delta wave. Khi cơ thể chìm trong giấc ngủ ở giai đoạn 3 và 4, khó đánh thức người đang ngủ, những giai đoạn này được gọi là giấc ngủ “sâu” (deep sleep). Trong giấc ngủ sâu, mắt và các bắp thịt của cơ thể trong trạng thái “không cử động”. Người lớn khi bị đánh thức ở giai đoạn này thường bỡ ngỡ, không tỉnh táo, phải mất vài phút mới định thần. Một số trẻ em trong giấc ngủ sâu bị đái dầm (mất sự kiểm soát của bàng quang), gặp ác mộng hay mộng du (sleep walking). Khi cơ thể chuyển qua REM, hơi thở trở nên nhanh hơn, cạn, không đều; mắt chuyển động nhanh, theo nhiều hướng, chân tay trở nên tê liệt trong một khoảnh khắc. Nhịp tim gia tăng, huyết áp cũng gia tăng, và ở nam nhân dương vật trở nên cương cứng. Khi thức giấc trong giai đoạn này, người ta thường kể lại những giấc mơ quái đản và vô nghĩa. Giai đoạn REM thứ nhất thường xảy ra khoảng 70-90 phút sau khi ta thiếp ngủ. Giấc ngủ có đầy đủ một chu kỳ thường kéo dài 90-110 phút. Chu kỳ ngủ thứ nhất mỗi đêm thường có giai đọan REM ngắn và giai đoạn ngủ sâu kéo dài hơn. Khi cơ thể tiếp tục ngủ, giai đoạn REM gia tăng trong khi giai đoạn 3 & 4 thu ngắn lại. Đến sáng, cơ thể ta thường trải qua hết các giai đoạn 1, 2, và REM. Những người bị đánh thức sau khi thiếp ngủ vài phút thường không thể nhớ lại họ đã làm gì trước khi thiếp đi, sleep-related amnesia. Đây là lý do ta quên những câu chuyện xảy ra giữa đêm khi bị đánh thức, rồi ngủ trở lại. Giấc ngủ và sự tỉnh táo ảnh hưởng bởi các chất dẫn truyền tin tức, neurotransmitter, của não bộ; do đó thức ăn hay dược phẩm ảnh hưởng đến các chất này thường khiến ta tỉnh táo hay ngầy ngật buồn ngủ và có giấc ngủ ngon hay không. Caffeine và các chất kích thích (thuốc trị cảm cúm, ho…) thần kinh hệ khiến ta mất ngủ hay không thể đi vào giấc ngủ. Những loại thuốc chữa trầm cảm ngăn cơ thể đi vào giai đoạn REM. Những người hút thuốc lá nhiều ngủ những giấc ngủ nhẹ, ít giai đoạn REM; đôi khi thức giấc sau 3-4 tiếng vì cơ thể thiếu nicotine (nicotine withdrawal). Những người mất ngủ thường giải quyết bằng cách uống rượu, gọi là “night-cap”. Mặc dù rượu khiến cơ thể dễ chìm vào giấc ngủ hơn, nhưng rượu lại làm giảm giai đoạn 3 &4 và REM khiến cơ thể không hoàn toàn hồi phục. Và những người uống rượu thường có những giấc ngủ “nhẹ” dễ thức giấc. Cơ thể mất khả năng điều hòa thân nhiệt trong giai đoạn REM, khi chỗ ngủ nóng quá hoặc lạnh quá, ta thức giấc giữa giai đoạn REM. Khi giai đoạn REM bị cắt đứt trong đêm trước, cơ thể không đi theo chu kỳ ngủ bình thường vào đêm sau, lúc thiếp ngủ sẽ đi thẳng vào giai đoạn REM để bù lại, cho đến khi cơ thể lấy lại đủ giai đoạn REM cần thiết. Những người được đưa vào “giấc ngủ” bằng thuốc mê hay trong trạng thái hôn mê được gọi là “ngủ” nhưng họ không thể thức giấc. Não bộ không phát ra những làn sóng phức tạp của giấc ngủ. Ngược lại não bộ trong tình trạng hôn mê thường phát những làn sóng chậm, yếu và đôi khi máy móc không thể ghi nhận. Giấc mơ và REM sleep Trung bình, cơ thể con người chìm vào giấc mơ khoảng 2 tiếng trong giấc ngủ hàng đêm. Các chuyên gia chưa giải thích được tại sao ta nằm mơ hoặc cơn mơ xảy ra như thế nào. Khi khoa học ghi nhận hiện tượng "rapid eye movement" hay REM xảy ra lúc hài nhi ngủ say, thì ta hiểu được rằng kinh nghiệm mà cơ thể trải qua (nói, hành động, sự việc... xảy ra trong giấc ngủ say) là trạng thái có tên "giấc mơ"; những giấc mơ này chỉ xảy ra khi cơ thể đi vào REM sleep. REM sleep bằt đầu với những tín hiệu xuất phát từ pons, một cấu trúc của não bộ. Những tín hiệu này được chuyển đến một bộ phận khác, thalamus, sau đó được chuyển đến vỏ đại não (cerebral cortex), phần não bộ làm công việc học hỏi, suy luận, xếp đặt các dữ kiện. Pons cũng chuyển tín hiệu những hoạt động đến các tế bào thần kinh trong cột tủy sống, và các bắp thịt trong thân thể đi vào trạng thái "không hoạt động" (temporal paralysis). Xem hình vẽ cấu trúc não bộ: REM sleep kích thích vùng não bộ có nhiệm vụ học hỏi. Đây là một chức năng quan trọng, cần thiết cho sự phát triển của trẻ em; và cũng là lý do tại sao trẻ em cần ngủ nhiều và cần được ngủ say vì trong giấc ngủ say, não bộ của chúng hoạt động tích cực trong việc học hỏi. Khi cơ thể đi vào REM sleep, các tế bào hoạt động để tạo ra protein. Một cuộc khảo sát ghi nhận rằng REM sleep ảnh hưởng đến việc học hỏi. Khi giấc ngủ trong giai đoãn REM bị cắt đứt, những người được huấn luyện về một công việc sẽ không thể nhớ được rằng mình đã được huấn luyện và không biết cách làm công việc kia. Các chuyên gia khảo cứu về giấc ngủ và não bộ đặt giả thuyết là vỏ đại não thu nhận những tín hiệu từ pons trong giấc ngủ trong giai đoạn REM, xếp đặt và phối hợp các tin tức này với nhau, khi tỉnh giấc, não bộ có một "câu chuyện" liền lạc với nhau (do não bộ làm việc lúc cơ thể chìm vào giấc ngủ). Giả thuyết này đang được khảo sát. Giấc ngủ và nhịp sống hàng ngày (circadian rhythm) Nhịp sống hàng ngày thay đổi theo tâm tình và tình trạng sức khỏe của con người. Hầu như mọi nhịp sống đều bị điều khiển bởi chiếc đồng hồ của cơ thể (biological clock). Chiếc đồng hồ này là cấu trúc có tên suprachiasmatic nucleus hay SCN (xem hình vẽ trên) tại hypothalamus của não bộ. SCN là một đôi cấu trúc nhỏ bằng đầu kim, chứa khoảng 20,000 tế bào thần kinh. Ánh sáng thu nhận bởi photoreptor (tế bào tiếp nhận ánh sáng) từ retina của mắt chuyển tín hiệu đến SCN. Tín hiệu từ SCN lại được chuyển đến các vùng não bộ khác, kể cả tuyến tùng (perineal gland). Khi nhận tín hiệu của ánh sáng, tuyến tùng ngưng việc chế tạo nội tiết tố melatonin. Lượng melatonin gia tăng khi cơ thể ở trong bóng tối (ngày tàn), khiến cơ thể mệt mỏi, buồn ngủ. SCN cũng điều hành các chức năng khác ăn khớp với nhịp độ của chu kỳ thức-ngủ như thân nhiệt, mức nội tiết tố, lượng nước tiểu, và sự thay đổi của huyết áp. Khi lấy đi ánh sáng và những dấu hiệu khác của môi trường chung quanh, các chuyên gia tìm thấy rằng chiếc đồng hồ trong cơ thể con người hoạt động trong chu kỳ 25 tiếng chứ không phải 24 tiếng. Tuy nhiên, ngày-đêm là một chu kỳ 24 tiếng của mặt trời nên chiếc đồng hồ của cơ thể cũng thích nghi theo môi trường sống. Nhịp sống hàng ngày, vì thế, cũng thích nghi theo những tín hiệu tiếp nhận được, chẳng hạn như âm thanh từ đồng hồ báo thức, tiếng động từ xe đổ rác buổi sớm mai, giờ ăn uống… Các chuyên gia gọi những tín hiệu về thời gian của môi trường sống là “zeitgebers” (tiếng Đức cho chữ “time giver”). Những người di chuyển từ múi giờ này sang múi giờ khác, nhịp sống hàng ngày sẽ rối loạn, thân thể mệt mỏi, tâm trí không còn minh mẫn, một trạng thái có tên là “jet lag”. Thí dụ, người sống ở miền Đông Hoa Kỳ khi di chuyển sang miền Tây, cách nhau 3 múi giờ, sẽ cảm thấy mệt mỏi, buồn ngủ vào lúc 7-8 giờ địa phương vì chiếc đồng hồ trong cơ thể họ báo hiệu đã 10-11 giờ đêm! Phải 3, 4 nagy2 sau cơ thể mới có thể quen thuộc với thời khắc mới. Để giảm bớt ảnh hưởng của “jet lag”, các bác sĩ đã thử một vài kỹ thuật dùng ánh sáng để đánh lừa chiếc đồng hồ trong cơ thể bằng cách bật đèn rất sáng, đến mức chói mắt, một vài giờ trước khi muốn thức giấc. Kỹ thuật này vặn lại đồng hồ trong cơ thể theo giờ giấc địa phương. Những người luôn thay đổi giờ làm việc từ ngày qua đêm hoặc ngược lại cũng gặp những triệu chứng tương tự như “jet lag”. Tỷ lệ của các chứng bệnh tim mạch, tiêu hóa, tâm thần đều gia tăng, có thể liên quan đến sự mất ngủ thường xuyên. Những người mù thường bị chứng mất ngủ suốt cuộc đời vì retina không thu nhận ánh sáng, nên không có chu kỳ ngày-đêm. Giấc ngủ và bệnh tật Giấc ngủ và những chứng bệnh liên quan đến giấc ngủ ảnh hưởng đến rất nhiều người. Chứng đột quỵ (stroke) và suyễn thường xảy ra vào ban đêm, hoặc lúc gần sáng có thể do sự thay đổi của nội tiết tố, nhịp tim, và những trạng thái khác lien quan đến giác ngủ. Giấc ngủ cũng ảnh hưởng đến chứng động kinh: giai đoạn REM ngăn những làn sóng não bất thường lan từ vùng não bộ này sang vùng não bộ khác; trong khi giấc ngủ sâu (giai đoạn 3 & 4) thường kích thích các làn sóng não lan nhanh hơn. Việc mất ngủ khởi đầu những cơn động kinh trong một số bệnh nhân bị kinh phong. Các tế bào thần kinh kiểm soát giác ngủ có liên hệ mật thiết với hệ miễn nhiễm. Khi bị nhiễm trùng, cơ thể đòi ngủ nhiều hơn lúc bình thường: Những cytokine (sinh hóa chất tiết từ hệ miễn nhiễm khi cơ thể bị nhiễm trùng) là những chất gây buồn ngủ. Giấc ngủ giúp cơ thể bảo tồn khí lực và hệ miễn nhiễm dùng những năng lực này để chống lại sự nhiễm trùng. Giấc ngủ bị xáo trộn trong tất cả mọi chứng bệnh tâm thần, kể cả bệnh trầm cảm và điên loạn (schizophrenia). Những người bị trầm cảm thường thức giấc rất sớm và khó có thể bắt đầu giấc ngủ. Thời gian ngủ ảnh hưởng rất sâu xa đến triệu chứng của bệnh tâm thần. Giảm thời gian ngủ có thể dùng như một cách chữa trầm cảm nhưng chính việc mất ngủ gây trầm cảm cho một số người khác. Khi bi mất ngủ hoàn toàn trong nhiều ngày liên tục, những người bình thường và khỏe mạnh có thể trở nên điên loạn, gặp những ảo giác (hallucination); và sự mất ngủ cũng gây xáo trộn, khiến những bệnh nhân bị manic depression trở nên quá khích (tâm thần bị kích thích quá mức). Ngoài ra, việc mất ngủ cũng liên quan đến một số bệnh tật khác kể cả Alzheimer, ung thư, chấn thương não bộ, hay đột quỵ vì sự xáo trộn của các chất dẫn tín hiệu (neurotransmitter) ảnh hưởng đến giấc ngủ, hoặc do các loại thuốc men sử dụng. Khi chứng mất ngủ khởi đầu, sẽ gây thêm sự chán nản và buồn bực. Bệnh nhân có thể cần dùng các loại thuốc giảm đau nhiều hơn vì khi mất ngủ, họ cảm thấy đau đớn hơn và cơn đau xảy ra thường xuyên hơn. Khi chữa trị chứng mất ngủ, các bác sĩ sẽ phải tìm kiếm và chữa trị cùng lúc các chứng bệnh liên quan kể trên. Chứng mất ngủ Mất ngủ là một việc ảnh hưởng đến sức khỏe, khiến con người buồn ngủ trong lúc cần thức làm việc và thiếu khí lực. Khi bị mất ngủ trong thời gian dài, con người trở nên buồn rầu hoặc nóng nảy, khó chịu; khó tập trung tư tưởng ý nghĩ, học hỏi và ghi nhớ, và không hiệu quả trong công việc. Chứng mất ngủ xảy ra khi ta không thể đi vào giấc ngủ hoặc không thể ngủ cho đủ giấc. Khi bị mất ngủ, ta thức giấc với một thân thể mệt mỏi, đầu óc thiếu minh mẫn và tâm thần bất an, buồn rầu. Chứng mất ngủ đi từ nhẹ đến nặng tùy theo việc mất ngủ có thường xuyên không và bao nhiêu lâu. Chứng mất ngủ kinh niên được định nghĩa là mất ngủ ít nhất 3 lần mỗi tuần và kéo dài trong 1 tháng. Khi chứng mất ngủ kéo dài ngày này sang tháng khác, cơ thể bị kiệt lực và rất khó chữa. Có 2 loại mất ngủ, thông thường nhất là chứng mất ngủ “thứ phát” (do nguyên nhân nào khác đưa đến việc mất ngủ, secondary cause) và chứng mất ngủ “nguyên phát” (chứng mất ngủ không do một nguyên nhân khác đưa đến, primary cause). I. Chứng mất ngủ “thứ phát”: Đây thường là nguyên nhân của bệnh tâm thần (psychological), não bộ (neurological), hoặc các bệnh tật khác. Những chứng bệnh tâm thần gây mất ngủ gồm có bệnh trầm cảm, lo âu hồi hộp (anxiety), chứng “sau cơn khủng hoảng tâm thần” (post-traumatic stress disorder) Những chứng bệnh tại não bộ gây mất ngủ gồm có Parkinson, Alzheimer… Những nguyên nhân đưa đến việc mất ngủ: - Bệnh tim mạch: sự khó thở từ chứng trụy tim (heart failure) hay suyễn gây mất ngủ - Cơ thể đau đớn từ những chứng bệnh như nhức khớp xương, nhức đầu, đau bắp thịt, chứng ăn không tiêu acid đi ngược từ dạ dày lên thực quản (acid reflux)… - Tuyến giáp trạng làm việc quá mức bình thường (tim đập nhanh và đập mạnh) - Dùng các loại thuốc men ảnh hưởng đến não bộ, mất ngủ là một trong những phản ứng phụ - Caffeine, thuốc lá, thuốc lào, rượu, và những thứ ảnh hưởng đến trí não (thuốc trị suyễn, dị ứng, chữa cảm cúm…) - Các chứng bệnh như chứng rung chân (restless leg syndrome), môi trường sống khó có một giấc ngủ bình an, thói quen về giấc ngủ bị đảo lộn. II. Chứng mất ngủ “nguyên phát”: Không có nguyên nhân nào rõ rệt nhưng người bệnh vẫn mất ngủ. Khi cuộc sống bị đảo lộn, con người có thể bị chứng mất ngủ từ những bất an, căng thẳng tâm thần trầm trọng. Khi di chuyển liên tục từ những vùng đất khác múi giờ, giấc ngủ và giờ làm việc bị đảo lộn sẽ đưa đến chứng mất ngủ. Ngay cả khi những nguyên nhân này không còn nữa, chứng mất ngủ vẫn có thể tiếp tục triền miên. Những ai thường bị mất ngủ? Mất ngủ là một chứng bệnh thông thường, 1 trong 3 người lớn bị mất ngủ, ít nhất một lần mỗi tháng. Một trong 10 người bị chứng mất ngủ kinh niên. Mất ngủ ảnh hưởng đến phụ nữ nhiều hơn nam nhân, và mất ngủ xảy ra ở mọi lứa tuổi. Những người mất ngủ thường xuyên là những người: - Gặp nghịch cảnh khiến tâm thần căng thẳng, bất an - Bị trầm cảm hay những chứng bệnh tâm thần khác - Làm việc vào ban đêm hay công việc làm bị thay đổi giờ giấc thường xuyên - Di chuyển liên tục giữa những nơi có múi giờ khác nhau (jet lag). Triệu chứng & dấu hiệu của chứng mất ngủ: Triệu chứng chính là khó đi vào giấc ngủ (nằm thao thức, trằn trọc), chỉ có thể ngủ những giấc ngắn, hoặc cả hai. Chẩn bệnh: Bác sĩ dựa trên triệu chứng và khám nghiệm để chẩn bệnh. Bác sĩ có thể hỏi những câu hỏi về tình trạng sức khỏe, bệnh sử của những chứng bệnh cũ, và lập danh sách những món thuốc đang dùng kể cả thảo mộc và các loại dinh dưỡng phụ. Những câu hỏi khác có thể bao gồm thói quen về công việc làm, việc tập thể dục, việc hút thuốc lá, uống rượu, du lịch…kể cả những câu hỏi về sự thay đổi trong cuộc sống hàng ngày. Khi mất ngủ thường xuyên, nên ghi chép về giấc ngủ để có thể trình bày với bác sĩ khi đi khám bệnh: - Việc mất ngù có thường xuyên không? - Đã mất ngủ như thế bao nhiêu lâu? - Khi nào thì đi ngủ? Khi nào thức giấc kể cả ngày nghỉ? - Trằn trọc bao nhiêu lâu mới đi vào giấc ngủ? - Thức giấc trong đêm bao nhiêu lần mỗi đêm? Bao nhiêu lâu sau đó mới có thể ngủ trở lại? - Nếu ngáy khi ngủ, có bị thức giấc vì ngộp thở không? Có cảm giác hụt hơi? - Khi thức giấc có sảng khoái không? Mệt mỏi như thế nào lúc ban ngày? - Đã bao nhiêu lần ngủ thiếp đi trong khi làm việc? Bao nhiêu lần ngầy ngật muốn thiếp ngủ trong khi làm việc, nhất là lái xe? Bệnh nhân cần ghi chép những câu trả lời trong 2 tuần lễ, thân nhân có thể giúp người bệnh ghi chép những câu trả lời trên. Bác sĩ cũng có thể hỏi thêm chi tiết về giấc ngủ như: - Ông/bà có lo lắng về giấc ngủ không? Ngủ không đủ? Ngủ không ngon giấc? - Ông/bà có ăn uống hoặc dùng thuốc men trước khi đi ngủ? - Ông/bà có thói quen nào trước khi đi ngủ? - Nơi ngủ ánh sáng, tiếng động, nhiệt độ ra sao? - Những thứ gì tại nơi ngủ khiến ông / bà mất ngủ? (TV, máy điện toán, đài phát thanh…) Bác sĩ có thể cần thử nghiệm bằng cách dùng “polysomnogram”, một dụng cụ đo hơi thở, cử động, nhịp tim, và các tác động tại não bộ trong giấc ngủ. Bệnh nhân sẽ cần ngủ qua đêm tại trung tâm thử nghiệm. Chữa trị chứng mất ngủ: Thay đổi thói quen hàng ngày có thể khôi phục lại giấc ngủ. Với chứng mất ngủ kinh niên, bệnh nhân cần thay đổi nhiều và thay đổi lớn trong thói quen hằng ngày (cognitive-behavioral therapy). Sự lo âu bất an sẽ kéo dài chứng bệnh mất ngủ. Một vài loại dược phẩm an thần sẽ giúp bệnh nhân dễ ngủ hơn và bắt đầu lại một chu kỳ thức-ngủ thích hợp hơn. Thay đổi thói quen trong đời sống: Để phục hồi giấc ngủ an lành, bệnh nhân cẩn thay đổi một số thói quen như việc dùng những món ăn thức uống gây mất ngủ và tập thói quen giúp giấc ngủ đến dễ dàng hơn. Nơi ngủ cần yên tĩnh, tối và ấm áp đủ để dễ ngủ. Tránh những thứ sau đây: - Caffeine, thuốc lá, những loại thuốc có tính kích thích thần kinh vào giờ đi ngủ - Những loại thuốc men ảnh hưởng đến giấc ngủ (thuốc cảm cúm, dị ứng…) - Rượu giúp cơ thể đi vào giấc ngủ nhanh hơn nhưng giấc ngủ từ rượu thường nhẹ (thiếu rapid eye movement hay REM, tạm dịch là giấc ngủ sâu) và dễ thức giấc giữa đêm. Những thói quen nên tập luyện: - Tạo cho mình một số thói quen trước khi đi ngủ để đem lại sự thoải mái cho cơ thể và bình an cho tâm thần như đọc sách, nghe nhạc êm dịu hoặc tắm nước nóng. - Không tập thể dục, ăn uống những bữa ăn lớn hoặc uống rượu - Nơi ngủ cần yên tĩnh, tối, không bị quấy rầy - Đi ngủ và thức giấc đúng giờ mỗi ngày, ngay cả ngày lễ, ngày nghỉ. - Nếu có thể, theo một chương trình làm việc nhất định, tránh thay đổi giờ làm việc liên tục Cognitive-Behavioral Therapy Loại trị liệu nhằm thay đổi tư tưởng, ý nghĩ và hành động gây mất ngủ và có thể giảm lo âu hồi hộp. - Những cách giúp cơ thể và tâm thần thoải mái, bớt căng thẳng (relaxation & biofeedback) trước giờ đi ngủ, giúp cơ thể kiểm soát hơi thở, nhịp tim, sự co thắt của bắp thịt và tâm cảm - Thay đổi những ý nghĩ đen tối lo âu bằng những ý tưởng tốt lành, nối kết việc nằm trên giường với giấc ngủ ngon. - Chuyên viên Tâm Lý sẽ hướng dẫn những phương cách thay đổi ý nghĩ giúp giấc ngủ dễ dàng hơn, mục đích là giúp tâm thần trầm lắng. - Giới hạn thời gian nằm trên giường nếu không đi vào giấc ngủ; Phương cách này tạo ra một thời khóa biểu cho cơ thể, và trở thành thói quen cần thiết cho giấc ngủ ngon. Cách chữa trị này thường qua 2-3 tháng trước khi thấy kết quả. Dược phẩm: Rất nhiều loại thuốc men gây buồn ngủ, đôi khi bác sĩ dùng những loại thuốc này để giúp bệnh nhân đi vào giấc ngủ. Các loại thuốc ngủ sẽ tạo giấc ngủ nhưng khi thức dậy, bệnh nhân thường ngầy ngật, không minh mẫn. Không nên dùng các loại thuốc ngủ quá lâu (2-3 tháng liên tục). Một vài loại thảo mộc chứa melatonin và L-tryptophan được xem như thuốc ngủ nhưng chưa được chứng minh về hiệu quả cũng như sự an toàn. Khi sử dụng, ta sẽ phải rất cẩn thận.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 13, 2013 8:47:34 GMT 9
Những điều cần biết về ung thư tuyến nhiếp hộ (prostate) Tài Liệu của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ Bác Sĩ Trần Lý Lê, tvvn.org Hàng năm tại Hoa Kỳ khoảng 186 ngàn người bị ung thư tuyến nhiếp hộ, đây là loại ung thư thường thấy nhất trong nam phái, sau sau ung thư da. Tuyến nhiếp hộ là một phần của bộ phận sinh dục trong phái nam, nằm trước trực tràng (rectum) và sau bàng quang. Tuyến nhiếp hộ bọc quanh ống tiểu (urethra), ống dẫn nước tiểu thoát ra ngoài từ bàng quang. Bình thường tuyến nhiếp hộ lớn khoảng 4 cm, cỡ một trái đậu óc trăn (walnut). Khi tuyến nhiếp hộ sưng trướng, sẽ xoắn chặt ống tiểu gây ra bí tiểu hoặc ngừng hẳn việc tiểu tiện. Tuyến nhiếp hộ tiết ra chất lỏng tạo nên một phần của tinh dịch (seminal fluid). Khi xuất tinh, tinh dịch đưa tinh trùng ra ngoài cơ thể. Các nội tiết tố nam (androgens) khiến tuyến nhiếp hộ tăng trưởng; tinh hoàn (testicles) là những tuyến chính tiết ra các nội tiết tố nam, kể cả testosterone. Tuyến thượng thận cũng tiết ra testosterone, với một lượng thấp. Xem hình sau: Tế bào ung thư Ung thư khởi đầu từ tế bào, đơn vị căn bản của mọi mô, mô tạo thành bộ phận. Bình thường, tế bào khỏe mạnh sinh sản và tăng trưởng tạo ra những tế bào con khi cần thiết. Khi tế bào khỏe mạnh già lão hoặc bị hư hoại, chúng chết, và các tế bào mới thay thế. Đôi khi, quá trình sinh-tử trật tự kể trên bị đảo lộn. Tế bào mới xuất hiện trong khi cơ thể không cần đến, hoặc tế bào già lão, hư hoại không chết như đã định, sự tích tụ của các tế bào mới và cũ tạo thành khối gọi là "khối u“, bướu hay "tumor“. Khối u (bướu) có thể "lành“ (benign) hoặc "độc“ (malignant). Bướu lành thường không độc hại như bướu độc. Bướu lành: • Ít khi gây tử vong • Thường không cần giải phẫu để cắt bỏ • Không ăn lậm (invasive) đến các mô lân cận • Không lan xa đến những bộ phận khác trong cơ thể Bướu độc: • Có thể gây tử vong • Có thể tái phát sau khi đã được cắt bỏ, chữa trị • Có thể ăn lậm đến các mô lân cận • Lan ra các bộ khác Tế bào ung thư lan rộng bằng cách tách rời từ khối u đầu tiên. Các tế bào này theo mạch máu (blood vessel) hoặc mạch bạch huyết (lymph vessel) đến mọi bộ phận trong cơ thể. Tế bào ung thư có thể “bám“ vào các bộ phận và sinh sản, tạo nên một khối u mới, có thể gây hư hoại các bộ phận này. Sư lan tràn của tế bào ung thư gọi là “metastasis“. Benign prostatic hyperplasia (BPH): Là một loại bướu lành gây ra bí tiểu khi tuyến nhiếp hộ quá lớn, xoắn chặt ống tiểu. Chứng BPH thường thấy ở phái nam, tuổi 50 trở lên, đa số không cần chữa trị, nhưng đôi khi, cần chữa trị để giúp bệnh nhân tiểu tiện dễ dàng. Những yếu tố gia tăng nguy cơ bị ung thư tuyến nhiếp hộ: Y học chưa biết rõ nguyên nhân của ung thư tuyến nhiếp hộ và cũng không thể giải thích tại sao người này bị ung thư mà người khác không bị ung thư. Dù chưa biết rõ nguyên nhân gây ung thư, giới y học đã nhận ra những yếu tố liên quan đến ung thư tuyến nhiếp hộ, càng có nhiều yếu tố này, tỷ lệ ung thư càng cao (risk factors): • Tuổi tác: Tỷ lệ ung thư gia tăng với tuổi tác, tại Hoa Kỳ, chứng ung thư này thường thấy ở nam phái tuổi 65 trở lên. • Tỷ lệ ung thư gia tăng khi có cha, anh, con trai bị ung thư tuyến nhiếp hộ. • Chủng tộc: Người da đen có tỷ lệ ung thư cao hơn người da trắng, chứng ung thư này ít thấy ở người da vàng. • Những sự thay đổi ở tế bào tuyến nhiếp hộ gia tăng tỷ lệ ung thư như chứng prostatic intraepithelial neoplasia (PIN); đây là các tế bào bất thường khi quán sát dưới kính hiển vi Một số những biến thái trong di thể: Các chuyên gia nhận ra rằng sự thay đổi tại một số vị trí trên nhiễm sắc thể (chromosome) liên quan đến ung thư tuyến nhiếp hộ, nghĩa là tỷ lệ ung thư cao hơn, nguy cơ bị ung thư tuyến nhiếp hộ gia tăng theo tỷ lệ thay đổi của di thể, nhất là sự hiện diện của các di thể như BRCA1 và BRCA2. Có một hoặc nhiều yếu tố kể trên chưa hẳn là sẽ bị ung thư tuyến nhiếp hộ; nhiều người có một số các yếu tố kể trên nhưng không hề bị ung thư. Các yếu tố khác đang được thẩm xét. Có tài liệu cho rằng việc thắt ống dẫn tinh có thể gia tăng nguy cơ bị ung thư tuyến nhiếp hộ nhưng chưa có tài liệu nào chứng minh đuọc điều này. Các tài liệu khác cho rằng uống rượu, hút thuốc lá, thuốc lào, BPH, bị bệnh hoa liễu, mập phì, ít vận động hoặc ăn uống nhiều mỡ súc vật ... gia tăng nguy cơ bị ung thư tuyến nhiếp hộ, những yếu tố này đang được thẩm định, chưa có kết quả. Một vài cuộc khảo cứu chú trọng đến việc thẩm định các yếu tố ngăn ngừa ung thư tuyến nhiếp hộ như sinh tố E, selenium, trà xanh ... Kết quả chưa được công bố. Triệu chứng Bệnh nhân có thể không gặp triệu chứng nào hoặc gặp một hay nhiều triệu chứng sau: -Khó khăn trong việc tiểu tiện: • Bí tiểu, không thể bắt đầu hoặc không thể ngừng việc tiểu tiện • Cần đi tiểu nhiều lần, nhất là về đêm • Giòng nước tiểu bị ngắt quãng • Đau rát khi tiểu tiện -Dương vật không thể cương cứng. -Máu trong nước tiểu hoặc tinh dịch -Đau lưng, hông hoặc hai đùi Những triệu chứng này không hẳn hoàn toàn do ung thư, nhưng cần đi khám bệnh để bác sĩ truy tìm nguyên nhân. Truy tìm và chẩn bệnh Bác sĩ có thể truy tìm ung thư tuyến nhiếp hộ trước khi bệnh nhân có triệu chứng. Khi khám bệnh, bác sĩ sẽ ghi nhận bệnh sử cá nhân và cả thân nhân trong gia tộc và khám toàn khoa. Bác sĩ có thể dùng: Khám hậu môn (digital rectal exam): Bác sĩ đeo găng và dùng ngón tay đưa qua hậu môn khám xét tuyến nhiếp hộ. Đo lượng prostate-specific antigen (PSA) trong máu: Khi lượng PSA lên cao, có thể do BPH, viêm tuyến nhiếp hộ (prostatitis) hoặc do ung thư. Từ cả hai cách truy tìm kể trên, bác sĩ có thể tìm ra sự "bất thường" tại tuyến nhiếp hộ nhưng không thể xác quyết là ung thư hay không và cần tìm kiếm bằng những phương pháp thử nghiệm khác. Ngoài việc khám xét tuyến nhiếp hộ (digital rectal exam), thử máu, thử nước tiểu, bác sĩ có thể dùng những cách thử nghiệm khác: • Transrectal ultrasound: bác sĩ dùng "que thăm" (probe) đưa qua hậu môn, trực tràng để dò tìm những "âm thanh" (sound wave) dội lại từ tuyến nhiếp hộ, và máy móc sẽ "chuyển" (echo) những âm thanh này thành hình ảnh của tuyến nhiếp hộ gọi là sonogram. • Sinh thiết: Bác sĩ dùng kim xuyên qua trực tràng (rectum) lấy ra nhiều mảnh tuyến nhiếp hộ đem thử nghiệm, cách này gọi là transrectal biopsy. Đôi khi siêu âm được dùng để giúp việc trích mô chính xác hơn. Sinh thiết là phương pháp chính xác nhất để chẩn bệnh ung thư. Bác sĩ Bệnh Lý xem xét các tế bào dưới kính hiển vi để tìm kiếm sự bất thường. Quý vị có thể đặt những câu hỏi sau trước khi bác sĩ trích mô (làm sinh thiết): - Trích mô ảnh hưởng đến việc chữa trị ra sao? - Bác sĩ chọn phương thức nào để trích mô? - Việc trích mô kéo dài bao nhiêu lâu? Tôi sẽ thức trong khi làm sinh thiết? Có đau đớn lắm không? - Làm sinh thiết có rủi ro không? Có gây ra việc lan tràn ung thư không? Tôi có bị xuất huyết? Nhiễm trùng? - Chừng nào thì tôi biết kết quả? Ai sẽ là người giải thích kết quả cho tôi hiểu? - Nếu tôi bị ung thư, ai sẽ là người nói chuyện với tôi về những bước sắp tới? Và bao giờ? Nếu không tìm thấy dấu vết ung thư từ việc làm sinh thiết, quý vị hãy hỏi bác sĩ xem có cần cần tái khám định kỳ hay không. Khi tìm ra ung thư, bác sĩ bệnh lý (pathologist) thường ghi nhận và phân loại các tế bào ung thư (tumor grading), việc xếp loại này cho biết tế bào ung thư khác những tế bào bình thường nhiều hay ít, sự khác biệt càng nhiều, tế bào ung thư có khuynh hướng tăng trưởng và lan tràn càng mạnh. Các bác sĩ bệnh lý có thể dùng hệ thống phân loại G1 - G4, hoặc dùng Gleason score. Dưới kính hiển vi, mỗi vùng tế bào được thẩm định và phân loại với một con số từ 1-5, sau đó, bác sĩ tìm hai loại tế bào xuất hiện nhiều nhất, cộng "điểm" của hai loại này tạo ra Gleason score, khi chỉ thấy 1 loại tế bào, bác sĩ sẽ tính làm 2 lần và cộng điểm; Gleason score từ 2-10. Chỉ số Gleason được xem là "cao" khi số điểm tổng cộng là 10, loại bướu có chỉ số Gleason cao có khuynh hướng tăng trưởng và lan nhanh hơn. Một hệ thống xếp loại khác dùng "mức độ" G1- G4; G4 là loại bướu có khuynh hướng tăng trưởng và lan nhanh nhất. Định kỳ ung thư Trước khi chữa trị, bác sĩ cần biết thời kỳ của ung thư. Việc định kỳ ung thư dựa trên kích thước của khối u, đã lan hay chưa và nếu có, đã lan đến đâu. Để định thời kỳ của ung thư, bác sĩ cần dùng một hoặc nhiều cách thử nghiệm sau: • Bone scan: Bác sĩ chích một lượng hóa chất chứa xạ trị vào máu, hóa chất theo máu luân lưu khắp cơ thể, đọng tại xương, một dụng cụ khác, scanner, sẽ tìm và đo lượng xạ trị, rồi chiếu lại trên màn ảnh hoặc phim. Những hình ảnh này sẽ cho thấy ung thư hiện diện tại xương hay không hoặc những sự "bất thường" khác tại xương. • CT scan: Máy chụp hình các bộ phận tại khoang bụng dưới, tìm dấu vết sưng trướng hạch bạch huyết gần tuyến nhiếp hộ. Bác sĩ có thể dùng "thuốc nhuộm" (contrast) chích vào tĩnh mạch hoặc bơm vào trực tràng dưới dạng để nhận rõ các bộ phận này • MRI: Một loại máy chụp hình khác, chụp hình các bộ phận trong cơ thể.Bác sĩ có thể xem xét các hình ảnh trên màn hình và in ra phim ảnh. các hình ảnh này có thể cho thấy sự sưng trướng của các hạch bạch huyết lân cận và sự bất thường của các bộ phận khác. Khi ung thư tuyến nhiếp hộ lan ra các bộ phận khác, thường tìm thấy tại hạch bạch huyết lân cận. Nếu hạch bạch huyết có dấu hiệu ung thư có nghĩa là đã lan đến xương hoặc các bộ phận khác. Khi ung thư lan đến các bộ phận khác, khối u mới có cùng tế bào ung thư như khôi u đầu tiên, ung thư tuyến nhiếp hộ lan đến xương vẫn là ung thư tuyến nhiếp hộ, không phải ung thư xương, và được gọi là ung thư di căn. Các thời kỳ ung thư tuyến nhiếp hộ: • Thời kỳ I (Stage I): Ung thư không thể tìm thấy bằng cách khám bệnh, tìm thấy khi chữa BPH qua giải phẫu. Ung thư nằm tại tuyến nhiếp hộ. "Mức độ" G1 hoặc chỉ số Gleason 4 (hoặc thấp hơn). • Thời kỳ II: (Stage II): Tế bào ung thư đã khác tế bào bình thường nhiều hơn, nhưng khối u vẫn còn nằm tại tuyến nhiếp hộ. Bác sĩ có thể tìm thấy khi khám bệnh hoặc qua đo siêu âm. • Thời kỳ III (Stage III): Ung thư đã lan ra ngoài tuyến nhiếp hộ, có thể tìm thấy tại túi tinh dịch (seminal vesicles), nhưng chưa lan ra đến những hạch bạch huyết lân cận. • Thời kỳ IV (Stage IV): Ung thư đã lan ra đến bàng quang, trực tràng hoặc những bộ phận lân cận (ngoài seminal vesicles), hoặc hạch bạch huyết, xương... Chữa trị Bệnh nhân bị ung thư tuyến nhiếp hộ lựa chọn cách chữa trị thích hợp, cách chữa trị này không hẳn hoàn hảo với bệnh nhân khác. Những cách chữa trị này bao gồm "theo dõi bệnh trạng" (active surveillance" hoặc "watchhful waiting"), giải phẫu, xạ trị, nội tiết tố, và hóa chất trị liệu. Bệnh nhân có thể dùng nhiều cách chữa trị kể trên. Việc chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ tùy thuộc vào thời kỳ của ung thư, loại ung thư, triệu chứng và tình trạng sức khoẻ chung của người bệnh. Bệnh nhân và bác sĩ sẽ thẩm định, so sánh cách chữa trị, phản ứng phụ, nhất là những phản ứng phụ liên hệ đến phần tình dục của người bệnh và sự thoải mái trong những ngày còn lại. Quý vị có thể muốn tham dự thử nghiệm lâm sàng, và có thể thảo luận với bác sĩ của mình. Bác sĩ có thể giới thiệu quý vị đến một chuyên viên, hoặc quý vị có thể nhờ bác sĩ giới thiệu đến chuyên viên. Những chuyên viên chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ bao gồm: bác sĩ giải phẫu tiết niệu (urologic oncologist), bác sĩ chuyên khoa ung thư, bác sĩ xạ trị ung thư hoặc bao gồm cả chuyên viên điều dưỡng về ung thư và dinh dưỡng. Trong bất cứ thời kỳ ung thư nào, bệnh nhân cũng cần được giảm đau và giảm triệu chứng, giảm phản ứng phụ, và áp lực tinh thần. Loại chữa trị này được gọi là “supportive care”, “palliative care” hoặc chữa trị triệu chứng. Trước khi chữa trị, quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ: • Tôi bị ung thư loại nào? Ở trong thời kỳ nào? Ung thư đã lan xa chưa? Nếu có, đã lan đến đâu? • Có bao nhiêu cách chữa trị? Bác sĩ đề nghị cách nào? Tôi có được chữa trị bằng nhiều cách không? • Tôi có phải vào bệnh viện không? Sau khi rời bệnh viện, tôi sẽ được chăm sóc ra sao? • Biến chứng và phản ứng phụ là những gì? Ta sẽ phòng ngừa hoặc chữa trị ra sao? • Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả? • Có cần phải thay đổi hoạt động trong đời sống hằng ngày không? Có ảnh hưởng đến mặt tình dục hay không? Nếu có, sẽ ảnh hưởng như thế nào? Làm cách nào để giảm bớt những phản ứng phụ này? Có ảnh hưởng đến việc bài tiết không? Việc tiểu tiện? Việc đại tiện? • Tôi có hồi phục hoàn toàn không? Bao nhiêu lâu thì hồi phục? • Tôi cần đi khám bệnh định kỳ không? • Việc chữa trị có tốn kém nhiều không? Bảo hiểm của tôi có trả không? • Tôi có nên tham dự thử nghiệm lâm sàng không? Theo dõi bệnh trạng ("chờ xem") Bệnh nhân có thể chọn cách "chờ xem" nếu việc chữa trị có nhiều cái hại (phản ứng phụ) hơn cái lợi. Bác sĩ cũng có thể đề nghị việc "chờ xem" nếu bệnh nhân bị ung thư trong thời kỳ bắt đầu và ung thư là loại tăng trưởng chậm; hoặc khi bệnh nhân đã cao tuổi và mang nhiều chứng bệnh khác. Chọn việc 'chờ xem" không có nghĩa là ngưng mọi việc chữa trị, việc làm này chỉ có nghĩa là chọn lựa việc chờ đợi để tránh phản ứng phụ của việc chữa trị. Chọn giải phẫu hay xạ trị không bảo đảm rằng bệnh nhân sẽ sống lâu hơn so vơi bệnh nhân chọn cách "chờ xem". Nếu quý vị và bác sĩ đồng ý chọn cách 'chờ xem", bác sĩ sẽ khám bệnh thường xuyên mỗi 3-6 tháng. Sau khoảng 1 năm, bác sĩ có thể làm sinh thiết để thẩm định lại chỉ số Gleason, lúc ấy, nếu chỉ số Gleason gia tăng, mức PSA gia tăng hoặc có triệu chứng, bệnh nhân có thể bắt đầu việc chữa trị, qua xạ trị, giải phẫu hoặc một cách chữa trị khác. Việc "chờ xem" để tránh phản ứng phụ của xạ trị, giải phẫu nhưng sự lựa chọn này cũng có một vài rủi ro. Trong một vài bệnh nhân, việc "chờ xem" có thể khiến ung thư lan ra bộ phận khác nhưng ngược lại, việc chịu đựng cuộc giải phẫu hoặc xạ trị mang lại nhiều khó khăn khi đã cao tuổi. Nếu quý vị chọn cách "chờ xem" nhưng đổi ý vì lo âu, hãy thảo luận với bác sĩ sự lo âu của mình. Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi chọn cách "chờ xem": • Nếu chọn việc chờ đợi, tôi có thể đổi ý không? • Có an toàn để tôi chờ đợi không? • Việc thăm bệnh định kỳ có thường xuyên không? Tôi sẽ cần loại thử nghiệm nào? Tôi có cần làm sinh thiết lại không? • Làm thế nào để biết rằng ung thư lan ra? • Giữa những lần thăm bệnh, tôi cần báo tin cho bác sĩ biết về những triệu chứng gì? Giải phẫu Đây là cách chữa trị thường dùng cho ung thư tuyến nhiếp hộ thời kỳ I-II, một loại chữa trị tại chỗ (local therapy), đôi khi dùng cho ung thư trong thời kỳ III - IV. Bác sĩ cắt bỏ một phần hoặc toàn thể tuyến nhiếp hộ. Trước khi cắt bỏ tuyến nhiếp hộ, bác sĩ cắt bỏ hạch bạch huyết tại khoang bụng, nếu tế bào ung thư hiện diện tại hạch bạch huyết náy, có thể là ung thư đã lan đến các bộ phận các trong thân thể. Khi ung thư đã lan tràn, bác sĩ có thể sẽ không cắt bỏ tuyến nhiếp hộ mà sẽ dùng các cách chữa trị khác. Có nhiều phương cách giải phẫu để chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ. Mỗi cách có cái lợi / hại riêng, quý vị có thể bàn thảo với bác sĩ trước khi quyết định loại giải phẫu nào thích hợp nhất. Giải phẫu: Bác sĩ mở một đường tại khoang bụng dưới và cắt bỏ khối u. Có hai cách: • Radiacal retropubic prostatectomy: Bác sĩ cắt bỏ toàn bộ tuyến nhiếp hộ và những hạch bạch huyết lân cận qua một đường mổ tại bụng dưới. • Radical perineal prostatectomy: Bác sĩ cắt bỏ toàn bộ tuyến nhiếp hộ với một đường mổ đi qua túi đựng tinh hoàn (scrotum) và hậu môn. Laparoscopic prostatectomy: Bác sĩ dùng phương pháp nội soi, cắt một lỗ hổng nhỏ ở bụng để truyền dụng cụ và cắt bỏ khối u. Robotic laparoscopic surgery: Bác sĩ cắt bỏ tuyến nhiếp hộ qua những đường cắt nhỏ, dụng cụ nội soi và người máy được dùng để mổ; bác sĩ điểu khiển người máy qua màn hình máy điện toán. Cryosurgery: Bác sĩ chuyển dụng cụ qua vết cắt giữa túi tinh hoàn và hậu môn. Dụng cụ được đông cứng để hủy tế bào ung thư bằng hơi lạnh. Phương cách này đang được thử nghiệm tại một vài trung tâm Y tế trên thế giới Transurethral resection of the prostate (TURP): Bác sĩ cắt bỏ một phần tuyến nhiếp hộ bằng một dụng cụ đặt qua ống tiểu (urethra), khối u được cắt bằng điện. TURP không cắt bỏ hoàn toàn tuyến nhiếp hộ và có thể không cắt bỏ hoàn toàn khối ung thư, nhưng sẽ cắt bỏ phần ung thư làm nghẽn ống tiểu. Thời gian cần thiết để phục hồi không đồng nhất cho mọi bệnh nhân, hầu hết bệnh nhân ở lại bệnh viện 2-3 ngày. Bệnh nhân sẽ cần thuốc giảm đau vài tuần sau khi mổ. Trước cuộc giải phẫu, quý vị có thể thảo luận với bác sĩ về thuốc men dùng sau khi mổ, bác sĩ có thể gia giảm thuốc khi cần thiết. Sau khi mộ, ống tiểu cần thời gian để lành, bệnh nhân có thể dùng ống dẫn nước tiểu (catheter) nối từ bàng quàng đến túi đựng bên ngoài cơ thể. Ống dẫn sẽ nằm trong ống tiểu khoảng 5 ngày đến 3 tuần lễ. Bệnh nhân sẽ được chỉ dẫn cách tự chăm sóc. Đôi khi cuộc giải phẫu có thể gây hư hoại thần kinh chung quanh tuyến nhiếp hộ, sự hư hại này có thể gây liệt dương. Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể áp dụng kỹ thuật "gìn giữ thần kinh" (nerve sparing surgery) để giữ lại phần thần kinh kiểm soát việc căng cứng dương vật. Khi khối u quá lớn và nằm ngay tại những thần kinh này, bác sĩ không thể áp dụng kỹ thuật kể trên. Liệt dương có thể vĩnh viễn. Quý vị hãy thảo luận với bác sĩ về thuốc men và những cách tiết giảm phản ứng phụ liên quan đến tình dục. Nếu tuyến nhiếp hộ bị cắt bỏ, quý vị sẽ không có tinh dịch nữa kể cả khi khoái cảm tột độ. Nếu muốn tiếp tục việc sinh sản, quý vị có thể giữ tinh trùng tại "ngân hàng" trước khi giải phẫu. Trước khi giải phẫu, quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ: -Bác sĩ sẽ thực hiện cách giải phẫu nào cho tôi? -Tôi sẽ ra sao sau khi mổ? - -Nếu đau đớn, có thể dùng thuốc gì? -Tôi sẽ ở lại bệnh viện bao nhiêu lâu? -Tôi có bị phản ứng phụ lâu dài hay không? Tỷ lệ rủi ro bị liệt dương hoặc mất kiểm soát bàng quang là bao nhiêu? -Khi nào thì tôi có thể trở lại sinh hoạt bình thường? - Tôi có cần đi kham bệnh định kỳ thường xuyên không? Xạ trị: Dùng năng lượng cao (high energy) để diệt tế bào ung thư, một loại chữa trị tại chỗ cho mọi thời kỳ của ung thư tuyến nhiếp hộ. Bệnh nhân trong thời kỳ đầu có thể dùng xạ trị thay cho giải phẫu. Xạ trị có thể được sử dụng trước, sau khi giải phẫu hoặc ngay cả khi không giải phẫu và dùng để giảm đau đớn. Có hai loại: • Ngoại xạ trị (external radiation): Nguồn phóng xạ bên ngoài cơ thể, từ một máy phát quang, bệnh nhân thường được chữa 5 ngày mỗi tuần trong nhiều tuần lễ. Đôi khi bác sĩ sử dụng three-dimensional conformal radiation therapy, loại chữa trị này chính xác và bảo vệ được những tế bào bình thường nằm gần khối u. • Nội xạ trị (internal radiation, implant radiation, brachytherapy): Nguồn phóng xạ đựng trong vật chứa nhỏ gọi là "hạt". Những hạt phóng xạ này được đặt vào khối u trong cơ thể qua kim chích. Hạt phóng xạ tiết ra quang tuyến trong nhiều tháng và không cần phải tháo bỏ khi hết chất phóng xạ. Đôi khi bệnh nhân được chữa trị với cả hai loại xạ trị trị liệu kể trên. Phản ứng phụ tùy thuộc vào lượng và loại xạ trị, thường biến mất một thời gian ngắn sau khi xạ trị. Trong thời gian chữa trị, bệnh nhân rất mệt mỏi nên nghỉ ngơi dưỡng sức là điều quan trọng nhưng vẫn nên vận động thân thể để chóng bình phục. Nếu dùng ngoại xạ trị, phản ứng phụ thường thấy là tiêu chảy và tiểu rắt. Một số bệnh nhân nhân gặp trở ngại trong việc tiêu tiểu rất lâu sau khi chữa trị. Vùng da nơi chiếu phóng xạ thường đỏ rát và khô, lông rụng và có thể không mọc lại. Nội xạ trị có thể gây mất kiểm soát bàng quang nhưng trở ngại này sẽ tiết giàm sau vài tháng. Ngoại và nội xạ trị có thể gây liệt dương. Quý vị nên thảo luận với bác sĩ trước khi chữa trị. Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu cuộc xạ trị: -Tại sao tôi cần loại chữa trị này? -Bác sĩ chọn loại xạ trị nào cho tôi? Cả hai loại xạ trị có cần thiết không? -Khi nào thì việc chữa trị bắt đầu? Khi nào thì xong? Chữa trị bao nhiêu lần? -Tôi sẽ bị ảnh hưởng ra sao? Tôi có cần vào bệnh viện không? Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi và sau khi chữa trị? -Tôi có thể tự đến nơi chữa trị hay không? -Làm thế nào để biết là xạ trị có hiệu quả hay không? -Có phản ứng phụ nào lâu dài hay không? -Khi nào thì tôi có thể trở lại sinh hoạt bình thường? - Tôi có cần đi kham bệnh định kỳ thường xuyên không? Nội tiết tố trị liệu (hormone therapy) Bệnh nhân có thể dùng nội tiết tố trị liệu trước, trong khi hoặc sau xạ trị. Nội tiết tố trị liệu thường dùng để chữa ung thư tái phát. Tế bào ung thư tuyến nhiếp hộ cần nội tiết tố nam để tăng trưởng, loại chữa trị này ngăn chặn nguồn nội tiết tố nam. Nội tiết tố trị liệu dùng thuốc men hoặc giải phẫu: Giải phẫu: Orchiechữa trịomy: Bác sĩ cắt bỏ tinh hoàn, nơi tiết ra những nội tiết tố nam, nhất là testosterone Thuốc men: Bác sĩ có thể dùng dược phẩm để ngăn cơ thể tạo ra nội tiết tố: • Luteneizing hormone-releasing hormone (LH-RH): Loại thuốc này ngăn tinh hoàn tiết nội tiết tố nam, leuprolide, goserelin và triptorelin bán trên thị trường dược phẩm quốc tế. Lượng testosterone xuống từ từ. Thiếu testosterone, khối u thu nhỏ hoặc tăng trưởng chậm lại. Loại thuốc này còn có tên là gonadotropin-releasing hormone (GnRH) agonist. • Antiandrogens: Loại thuốc ngăn tác dụng của nội tiết tố nam như flutamide, bicalutamide, nilutamide. • Những dược phẩm khác: Các loại thuốc ngăn tuyến thượng thận sản xuất testosterone như ketoconazole và aminogluthitimide. Sau khi cắt bỏ tinh hoàn hay dùng những loại thuốc LH-RH, cơ thể không còn testosterone từ tinh hoàn. Tuy nhiên, tuyến thượng thận vẫn tiếp tục sản xuất testosterone, và bác sĩ cần dùng nhiều loại thuốc khác nhau để ngăn chặn hoàn toàn những nguồn testosterone, gọi là total androgen blockade, kết quả chữa trị không mấy khả quan hơn so với việc dùng LH-RH. Nội tiết tố trị liệu tạo ra những phần ứng phụ như liệt dương, "bốc hỏa" lên mặt (hot flashes) và mất sự ham muốn tình dục. Loại chữa trị này cũng gây loãng xương, bác sĩ có thể dùng thuốc để tiết giảm sự loãng xương và ngăn ngừa gẫy xương. Loại thuốc LH-RH có thể gia tăng triệu chứng vài ngày sau khi bắt đầu chữa trị, để ngăn ngừa, bác sĩ có thể dùng chung với loại antiandrogen. LH-RH như leuprolide có thể gia tăng mỡ tích tụ trong cơ thể, nhất là vùng bụng, và lượng đường huyết cũng như cholesterol cũng có thể gia tăng. Những yếu tố này có thể dẫn đến chứng tiểu đường và bệnh tim mạch nên bác sĩ sẽ cần theo dõi bệnh trạng kỹ lưỡng và thường xuyên. Loại antiandrogen có thể gây buồn nôn, ói mửa, tiêu chảy hoặc khiến vú sưng trướng. Đôi khi, loại dược phẩm này tạo ra biến chứng tại gan (triệu chứng bao gồm đau bụng, vàng mắt hoặc nước tiểu đậm màu). Một số bệnh nhân bị ngộp thở và suy tim. Một số bệnh nhân khác gặp trở ngại trong việc điều tiết thị giác giữa bóng tối và ánh sáng. Khi dùng ketoconazol lâu dài, bệnh nhân có thể bị suy gan. Aminoglutethimide có thể tạo ra mề đay, ngứa ngáy trên da. Ung thư tuyến nhiếp hộ dù đã lan tràn đến những bộ phận khác, vẫn có thể cầm cự trong 2-3 năm với nội tiết tố trị liệu. Sau đó, ung thư tái phát và bác sĩ sẽ cần sử dụng những phương cách khác. Những phương cách này phần đông còn nằm trong vòng thử nghiệm. Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị bằng nội tiết tố: -Tôi sẽ được chữa trị bằng loại nội tiết tố nào? Bác sĩ chọn giải phẫu hay dược phẩm? Tại sao? - Nếu dùng dược phẩm, khi nào thì bắt đầu? Khi nào thì chữa trị xong? - Nếu dùng giải phẫu, tôi sẽ phải ở lại bệnh viện bao nhiêu lâu? - Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả? -Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào? Có cách nào phòng ngừa không? -Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không? -Sau khi trị liệu, tôi có phải khám bệnh đình kỳ thường xuyên không? Hóa chất trị liệu Khi nội tiết tố trị liệu không còn hiệu quả để ngăn chặn sự tăng trưởng của ung thư tuyến nhiếp hộ, bác sĩ sẽ cần dùng hóa chất để chữa trị. Các hóa chất này thường được truyền qua tĩnh mạch, bệnh nhân được chữa trị tại trung tâm y tế, văn phòng bác sĩ hoặt tại nhà; một vài bệnh nhân cần ở lại bệnh viện. Phản ứng phụ tùy thuộc vào loại và lượng hóa chất sử dụng. Nói chung, hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư nên sẽ ảnh hưởng đến những tế bào tăng trưởng nhanh chóng: - Tế bào máu: Khi hóa chất chữa ung thư hạ thấp số tế bào máu khỏe mạnh, bệnh nhân dễ bị nhiễm trùng, bầm tím hoặc chảy máu dễ dàng, và mệt mỏi, mất sức. Bác sĩ cần thử máu để đo lường số tế bào máu. Khi lượng tế bào xuống thấp, bác sĩ có thể dùng thuốc kích thích tủy xương chế tạo tế bào mới nhanh chóng hơn hoặc sẽ được truyền máu. - Tế bào bọc quanh chân tóc: Hóa chất gây rụng tóc. Tóc sẽ mọc trở lại sau khi chữa trị, tóc mới có thể khác màu hoặc thay đổi thể dạng. - Tế bào lót các bộ phận tiêu hóa: Hoá chất có thể gây kém ăn, buồn nôn và ói mửa, tiêu chảy, lở miệng. Những phản ứng phụ khác có thể là ngộp thở và giữ nước khiến cơ thể sưng trướng., bác sĩ có thể dùng dược phẩm để giúp cơ thể thải bớt nước. Hóa chất cũng có thể gay phong ngứa, mề đay ngoài da hoặc gây cảm giác kim chích tại đầu ngón tay, chân. Hầu hết các phản ứng phụ này sẽ tiết giảm khi cuộc trị liệu hoàn tất. Quý vị có thể đặt câu hỏi với bác sĩ trước khi bắt đầu chữa trị hóa chất: -Tôi sẽ được chữa trị bằng loại thuốc nào? khi nào thì bắt đầu? Khi nào thì xong? -Tôi cần làm gì để tự chăm sóc trong khi chữa trị? -Mục đích của việc chữa trị là gì? Làm thế nào để biết rằng việc chữa trị có hiệu quả? -Tôi cần báo cho bác sĩ biết về những phản ứng phụ nào? Có cách nào phòng ngừa không? -Tôi có cần làm gì để sửa soạn cho việc chữa trị không? Việc chữa trị ảnh hưởng đến sinh hoạt hằng ngày ra sao? Ý kiến thứ nhì Trước khi bắt đầu việc chữa trị, quý vị có thể tham khảo một bác sĩ khác để lấy ý kiến về chẩn đoán và chữa trị. Nhiều hãng bảo hiểm sẽ trả chi phí này nếu quý vị hoặc bác sĩ yêu cầu. Quý vị cần một thời gian để thu góp tài liệu, y sử, các kết quả thử nghiệm và sắp xếp buổi tham khảo với một bác sĩ khác. Việc chờ đợi thường không ảnh hưởng đến kết quả của việc chữa trị. Để an tâm hơn, quý vị có thể thảo luận về việc chờ đợi này với bác sĩ của mình. Nhiều cách để tìm một bác sĩ cho ý kiến thứ nhì: Hỏi bác sĩ của mình, hỏi chi tiết tại bệnh viện, những tổ chức y tế địa phương, trường Y khoa… để lấy tên một vị bác sĩ chuyên khoa. Dinh dưỡng Dinh dưỡng rất quan trọng trong mọi giai đoạn, trước khi, trong khi và sau khi chữa trị ung thư. Bệnh nhân cần một lượng đầy đủ calorie, protein, sinh tố, và khoáng chất. Khi cơ thể được bồi bổ đúng mức, bệnh nhân thường cảm thấy dễ chịu hơn. Tuy nhiên, bệnh nhân có thể gặp khó khăn trong việc ăn uống vì nhiều nguyên nhân, mệt mỏi, biếng ăn hoặc khó nuốt thức ăn. Khi dùng hóa chất trị liệu, bệnh nhân có thể không còn nếm được thức ăn, hoặc cho rằng thức ăn không còn hương vị, thơm ngon như trước. Bệnh nhân cũng có thể chịu các phản ứng phụ như biếng ăn, buồn nôn, ói mửa, hoặc tiêu chảy. Có nhiều cách để bồi bổ cơ thể khi không thể ăn uống đầy đủ. Hãy thảo luận với chuyên viên về dinh dưỡng (registered dietitian) để chọn cách dinh dưỡng thích hợp với đầy đủ calorie, protein, sinh tố (vitamins), và khoáng chất (minerals). Khi có thể, nên duy trì sự hoạt động, đi bộ, yoga, bơi lội hoặc những hoạt động khác có thể gia tăng năng lực. Nên thảo luận với bác sĩ về việc vận động cơ thể và báo cho bác sĩ biết khi việc vận động gây đau đớn. Thăm bệnh định kỳ Sau khi chữa trị, bệnh nhân sẽ cần được khám bệnh định kỳ. Ngay cả khi không có dấu hiệu nào về ung thư tái phát, vẫn cần thăm bệnh vì mầm ung thư có thể còn sót lại trong cơ thể. Khám bệnh định kỳ giúp bác sĩ kiểm soát theo dõi diễn tiến của bệnh trạng, các loại thử nghiệm như thử máu, chụp hình phổi, CT scan, nội soi hoặc những loại thử nghiệm khác. Báo cho bác sĩ biết nếu bị bệnh giữa những buổi khám bệnh định kỳ. Khi tái khám, bác sĩ thường khám hậu môn và đo lượng PSA. Khi lượng PSA gia tăng có nghĩa là ung thư tái phát. Bác sĩ có thể làm sinh thiết, thử bone scan, CT scan, MRI hoặc các loại thử nghiệm khác. Những nguồn hỗ trợ Chứng bệnh nan y như ung thư có thể thay đổi cuộc sống của người bệnh và cả thân nhân. Những thay đổi này khó thích nghi và chấp nhận, nên điều dễ hiểu là bệnh nhân cũng như những người thân yêu thường trải qua những giai đoạn khó khăn, phân vân, bất an, buồn rầu. Người bệnh có thể lo âu về gia đình, công việc làm, hoặc sinh hoạt hàng ngày kể cả việc chịu đựng và thích nghi với việc trị bệnh, những chuyến ra vào bệnh viện, phản ứng phụ và những phí tổn trị liệu. Sống với căn bệnh nan y, người bệnh thường sợ hãi, tự trách, giận dữ hoặc buồn rầu. Những cảm tính này sẽ khiến đời sống nặng nề buồn thảm hơn. Bệnh nhân có thể tìm những nguồn hỗ trợ chia sẻ qua quý vị hữu, thân nhân, chuyên viên tâm lý hoặc cả những bệnh nhân khác. Nguồn hỗ trợ có thể bao gồm: Bác sĩ, y tá, những chuyên viên trong nhóm trị liệu có thể trả lời hầu hết những câu hỏi liên quan đến bệnh trạng. Chuyên viên xã hội, chuyên viên tâm lý hoặc những vị lãnh đạo tôn giáo có thể giúp đỡ phần tinh thần. Chuyên viên xã hội có thể giới thiệu hoặc chỉ dẫn những nguồn tài trợ, việc chuyên chở, trị liệu tại nhà… Những nhóm hỗ trợ: bệnh nhân và người thân gặp gỡ các bệnh nhân khác và thân quyến họ để chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm về căn bệnh và việc chữa trị. Những nhóm hỗ trợ này có thể gặp gỡ qua sự họp mặt, điện thoại, hoặc qua internet. Các chuyên viên tại 1-8-4-CANCER (điện thoại miễn phí trên lãnh thổ Hoa Kỳ) có thể giúp bệnh nhân tìm những chương trình hỗ trợ, dịch vụ và các tin tức, tài liệu liên quan đến ung thư. Sự hứa hẹn của ngành khảo cứu ung thư Bác sĩ tại Hoa Kỳ đang thực hiện nhiều cuộc thử nghiệm lâm sàng. Thử nghiệm lâm sàng được hoạch định với mục đích trả lời các câu hỏi quan trọng về cách trị liệu hữu hiệu nhất. Những tìm hiểu khoa học đã tạo được nhiều lợi ích, giúp con người sống lâu hơn, và khoa học tiếp tục tìm kiếm. Các chuyên gia đang tìm kiếm phương pháp ngăn ngừa ung thư, cách tìm ra bệnh sớm hơn, cũng như cách trị liệu hiệu quả hơn. Các chuyên gia đang thử nghiệm nhiều phương cách trị liệu dùng riêng rẽ hoặc dùng chung với nhau: - "Chờ xem": Bác sĩ đang so sánh cách chữa trị bằng giải phẫu và xạ trị với việc "chờ xem". Kết của của cuộc khảo nghiệm này sẽ giúp bác sĩ và bệnh nhân chọn lựa cách chữa trị tốt nhất cho ung thư tuyến nhiếp hộ trong thời kỳ đầu. - Cryosurgery: cách chữa trị này cũng đang được thử nghiệm xem hiệu quả lâu dài đến đâu khi dùng để chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ vào thời kỳ đầu. - High intensified focused ultrasound (HIFU): Bác sĩ đang thử nghiệm cách trị liệu này trong bệnh nhân bị ung thư thời kỳ đầu. Bác sĩ đặt que thăm (probe) tại trực tràng và chuyển sóng siêu âm đến khôi u, nhiệt độ tiêu diệt tế bào ung thư. - Xạ trị: Lượng và thời gian chữa trị đang được khảo sát xem bao nhiêu chất phóng xạ và thường xuyên đến đâu thì hiệu quả cao nhất. Xạ trị dùng chung với nội tiết tố có gia tăng hiệu quả hay không. Nội tiết tố trị liệu: Bác sĩ đang tìm hiểu cách dùng nội tiết tố trị liệu, theo thời khó biểu nào thì hiệu quả cao nhất và dùng chung với các loại trị liệu khác có gia tăng hiệu quả hay không. - Hóa chất trị liệu: Bác sĩ tìm hiểu kiếm các loại thuốc mới, các cách dùng chung nhiều loại thuốc, và lượng thuốc mới. - Sinh hóa tố trị liệu: Bác sĩ đang thử nghiệm cách dùng sinh hoá tố như "vaccine" để chữa trị ung thư tuyến nhiếp hộ. Ngoài ra các chuyên gia cũng tìm cách tiết giảm phản ứng phụ của việc trị liệu như loãng xương, bốc hỏa và liệt dương. Trang nhà của viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ có phần tin tức về thử nghiệm lâm sàng: h*tp://www.cancer.gov/clinicaltrials. Tại đây ngoài các tin tức về thử nghiệm còn có những chi tiết về các cuộc thử nghiệm lâm sàng về ung thư. Nguồn tài liệu, tin tức từ viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ. Quý vị có thể lấy tin tức cho chính mình, thân nhân hoặc bác sĩ của mình. Điện thoại (miễn phí trên lãnh thổ Hoa Kỳ): 1-800-4-CANCER (1-800-422-6237). Điện thoại dành cho những người lãng tai: 1-800-332-8615 Trang nhà của viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ cung cấp tin tức về cách ngăn ngừa ung thư, truy tìm, chẩn đoán, chữa trị, di tính học, thử nghiệm lâm sàng. Ngoài ra còn có những dữ kiện về các chương trình khảo cứu, chương trình tài trợ và cả thống kê về ung thư. Trang nhà: h*tp://cancer.gov Nếu quý vị cần thêm chi tiết hoặc các dữ kiện khác, hãy dùng “online contact form” tại: h*tp://www.cancer.gov/contact hoặc gửi điện thư về: cancergovstaff@mail.nih.*** (thay thế *** bằng “gov”) Tài liệu Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ cung cấp những tài liệu (ấn bản, tạp chí) về ung thư, những tài liệu này bằng tiếng Anh và Tây Ban Nha. Quý vị có thể đặt mua (ấn phí tối thiểu) qua điện thoại, trên trang mạng hoặc bằng thư từ, hoặc vào trang nhà kể trên, và tự in phụ bản cho mình. Thư từ gửi về: Publications Ordering Service National Cancer Institung thưe Suite 3035A 6116 Executive Boulevard, MSC 8322 Bethesda, MD 20892-8322 Chữa trị ung thư (Cancer Treatment) - Hóa chất trị liệu và quý vị (Chemotherapy and You) - Xạ trị và quý vị (Radiation Therapy and You) - Làm thế nào để tìm một bác sĩ hoặc nơi trị liệu nếu quý vị bị ung thư (How To Find a Doctor or Treatment Facility If You Have Cancer) - Câu hỏi và câu trả lời về targeted therapy (Targeted Cancer Therapies: Questions and Answers) - Câu hỏi và câu trả lời về cách trị liệu ung thư bằng ánh sáng (Photodynamic Therapy for Cancer: Questions and Answers) Sống với ung thư (Living With Cancer) - Cách ăn uống dành cho người bị ung thư (Eating Hints for Cancer Patients) - Giảm đau đớn (Pain Control) - Thích ứng với ung thư thời kỳ sau cùng (Coping With Advanced Cancer) - Những ngày sắp tới: Đời sống sau khi chữa trị ung thư (Facing Forward Series: Life After Cancer Treatment) - Những ngày sắp tới: Những cách tạo sự thay đổi cho ung thư (Facing Forward Series: Ways You Can Make a Difference in Cancer) - Dành thời giờ: Hỗ trợ những người bị ung thư (Taking Time: Support for People with Cancer) Khi ung thư tái phát (When Cancer Returns) - Những tổ chức cung cấp dịch vụ giúp những người bị ung thư và thân nhân họ (National Organizations That Offer Services to People With Cancer and Their Families) Thử nghiệm lâm sàng (Clinical Trials) - Tham dự thử nghiệm lâm sàng (Taking Part in Cancer Treatment Research Studies) - Những yếu tố nguy hại (Risk Factors) Người chăm sóc bệnh nhân (Caregivers) - Khi người thân yêu được chữa trị bệnh ung thư: hỗ trợ người chăm sóc (When Someone You Love Is Being Treated for Cancer: Support for Caregivers) - Khi người thân yêu bị ung thư ở giai đoạn cuối: Hỗ trợ người chăm sóc (When Someone You Love Has Advanced Cancer: Support for Caregivers) - Những ngày sắp tới: Khi cuộc chữa trị ung thư của người thân chấm dứt (Facing Forward: When Someone You Love Has Completed Cancer Treatment) * Tài liệu của Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ No. 08-1576, tháng Mười Một 2008
|
|
|
Post by nguyendonganh on Aug 30, 2013 10:07:32 GMT 9
Những loại gan động vật tốt bạn nên ănGan động vật nếu được tiêu thụ ở mức vừa phải có thể là nguồn quan trọng cung cấp các vitamin thiết yếu cho cơ thể hàng ngày. Gan động vật không chỉ chứa nhiều vitamin mà còn chứa hàm lượng lớn protein. Nhiều nước đã sử dụng thịt gà, bò, cá thu, và nhiều nội tạng của chúng cho các món ăn của họ. Nội tạng có hàm lượng cholesterol cao. "Tuy nhiên, gan của chúng lại rất giàu sắt và vitamin. Một khẩu phần nhỏ là đủ để cung cấp cho cơ thể mỗi tháng một lần", theo Hiệp hội Tim mạch Mỹ. Dưới đây là danh sách gan động vật giàu chất dinh dưỡng cho một chế độ ăn uống lành mạnh. Gan bê Gan bê không giống thịt của chúng. Nhiều người thấy rằng bê có mùi vị tốt hơn so với thịt bò bởi tuổi thọ của bê thấp và là động vật có nhiều khả năng khỏe mạnh, không có độc tố. Gan bê chứa vitamin A cần thiết và quan trọng đối với mắt, da, răng, xương và mô mềm. Nó cũng giúp tăng cường hệ miễn dịch của cơ thể. Vitamin B6 và B12 có trong gan bê giúp hình thành tế bào hồng cầu khỏe mạnh. Gan vịt Gan vịt cũng tương tự gan ngỗng, là thực phẩm phổ biến ở Pháp và đôi khi tương đối đắt. Gan vịt giàu protein, khoáng chất và vitamin bao gồm nguyên tố đồng, vitamin A, và 9 axit amin thiết yếu. Đồng là nguyên tố vi lượng cần thiết cho cơ thể con người. Chúng còn rất quan trọng trong việc xây dựng xương, kích thích hoóc môn, và điều chỉnh nhịp tim của bạn. Hiệp hội Ung thư Mỹ đã chỉ ra rằng đồng có tính chống ôxy hóa và có thể giúp chống lại bệnh ung thư. Gan cá thu Những lợi ích từ loại gan này là tinh dầu có trong chúng. Tinh dầu trong gan cá thu đã được sử dụng để điều trị nhiều bệnh. Giống như nhiều loại tinh dầu cá, nó chứa các chất dinh dưỡng như beta-carotene, vitamin A, vitamin D, axit omega-3, và chứa chất béo bão hòa ít hơn so với những loại dầu khác. Vitamin D rất quan trọng đối với sự hấp thụ canxi. Tinh dầu trong gan cá thu rất quan trọng trong việc giúp đỡ để chống lại sự thiếu hụt vitamin này và giúp ngăn ngừa bệnh tật, như bệnh còi xương. Gan gà Phải đảm bảo rằng đó là những lá gan gà hữu cơ (gà được chăn nuôi bằng phương thức hữu cơ). Nếu không, bạn có nguy cơ ăn phải những loại gan chứa đầy chất kích thích và độc tố. Gan gà hữu cơ chứa vitamin B12, nếu cơ thể có sự thiếu hụt vitamin này có thể gây ra bệnh thiếu máu. Vitamin B12 có thể ngăn ngừa mất trí nhớ, thúc đẩy tâm trạng và năng lượng, làm chậm quá trình lão hóa, và tăng cường hệ thống miễn dịch cho cơ thể. Vì gan gà có lượng vitamin A thấp hơn so với gan bê hay gan vịt, nên bạn cần ăn gan gà thường xuyên hơn. Theo VnExpress
|
|
|
Post by nguyendonganh on Dec 4, 2014 17:20:34 GMT 9
Triệu chứng ở người bị vẹo vách ngăn mũi23-04-14 Vách ngăn mũi là một bộ phận nằm ngăn đôi 2 hốc mũi, được cấu tạo bởi sụn phần trước và xương tủ lạnh cũ phần sau, chiều dài vách ngăn xấp xỉ 8cm. Vẹo vách ngăn là một trong những nguyên nhân gây nghẹt mũi, khó chịu, cần có sự trợ giúp của thầy thuốc... Có nhiều phương pháp phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn. Kinh điển nhất vẫn là phương pháp xén bỏ vách ngăn dưới niêm mạc. Vẹo vách ngăn bắt đầu xuất hiện ở 6 tuổi, cũng có thể thấy ở trẻ con 2 - 3 tuổi, mặc dù rất hiếm, thường gặp ở người có sống mũi cao. Nguyên nhân của vẹo vách ngăn là do bẩm sinh, sự rối loạn phát triển và chấn thương. Các kiểu vẹo vách ngăn như: vẹo một bên chữ C, vẹo sang 2 bên chữ S, mào vách ngăn, gai vách ngăn, dày vách ngăn. Các triệu chứng thường gặp ở người bị vẹo vách ngăn là nghẹt mũi về đêm, khi nằm ngủ, nhất là khi lạnh hay lúc thay đổi thời tiết. Nghẹt mũi đổi bên, nghiêng bên nào nghẹt bên đó... Để phát hiện bệnh nhân bị vẹo vách ngăn, bác sĩ sẽ thăm khám thông thường qua dụng cụ banh mũi trước, khám qua nội soi tai mũi họng, chụp X-quang hoặc CT Scan mũi xoang, đo sóng âm mũi, đo khí áp mũi. Nếu bị bệnh, bác sĩ sẽ điều trị nội khoa, chủ yếu điều trị triệu chứng giảm nghẹt mũi, giảm đau đầu, điều trị viêm xoang kèm theo như thuốc co mạch, kháng sinh, kháng viêm... Không phải vẹo vách ngăn nào cũng phẫu thuật, vì có một số rất lớn các trường hợp vẹo vách ngăn vẫn được cơ thể thích nghi. Tuy nhiên, một số trường hợp cần phải can thiệp phẫu thuật như nghẹt mũi ở những bệnh nhân có vách ngăn vẹo nhưng không có bằng chứng nghẹt mũi do polype, dị ứng, quá phát cuốn mũi, bệnh phổi mạn tính và thất bại với điều trị nội khoa, tắc lỗ thông xoang, chấn thương làm vẹo - gãy - trật khớp... Có nhiều phương pháp phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn. Kinh điển nhất vẫn là phương pháp xén bỏ vách ngăn dưới niêm mạc (phẫu thuật Killian), kế đó là phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn có chọn lọc, phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn có đặt lại sụn. Ngày nay, người ta còn phẫu thuật chỉnh hình vách ngăn qua nội soi. ThS.BS Phan Dư Lê Lợi (khoa Tai mũi họng, Bệnh viện Hoàn Mỹ SG) Nhiễm độc chìVienDongDaily.Com BS Nguyễn Thị Nhuận . Nhiễm độc chì xảy ra khi chì tích tụ trong cơ thể, thường trong khoảng thời gian nhiều tháng hoặc nhiều năm. Ngay cả một lượng chì nhỏ cũng có thể gây ra vấn đề sức khỏe nghiêm trọng. Trẻ em dưới 6 tuổi đặc biệt dễ bị ngộ độc chì, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển tinh thần và thể chất. Ở mức độ rất cao, nhiễm độc chì có thể gây tử vong. Sơn có chứa chất chì và bụi chì trong các căn nhà xây đã lâu năm là những nguồn gây nhiễm độc chì ở trẻ em. Các nguồn khác bao gồm không khí, nước và đất bị ô nhiễm. Người lớn làm việc với pin, làm trong kỹ nghệ xây cất nhà cửa hoặc làm việc trong tiệm sửa xe hơi cũng có thể tiếp xúc nhiều với chì. Nhiễm độc chì có thể chữa được, nhưng nên dùng một số biện pháp phòng ngừa đơn giản để giảm thiểu việc bị nhiễm chì, giúp bảo vệ bản thân và gia đình. Thời gian đầu, việc ngộ độc chì có thể khó nhận ra - ngay cả những người có vẻ khỏe mạnh cũng có thể có nồng độ chì trong máu cao. Các dấu hiệu và triệu chứng thường không xuất hiện cho đến khi lượng chì nguy hiểm được tích lũy. Các triệu chứng ngộ độc chì ở trẻ em - Chậm phát triển - Học khó khăn - Hay cáu gắt - Ăn mất ngon - Giảm cân - Trông trì trệ và mệt mỏi - Đau bụng - Nôn - Táo bón - Mất thính lực Các triệu chứng ngộ độc chì ở trẻ sơ sinh Những em bé tiếp xúc với chì trước khi sinh có thể gặp: - Học khó khăn - Tăng trưởng chậm lại Các triệu chứng ngộ độc chì ở người lớn Mặc dù đa số nguy cơ nhiễm chì xẩy ra ở trẻ em, nhiễm độc chì cũng là mối nguy hiểm cho người lớn. Các dấu hiệu và triệu chứng ở người lớn có thể gồm có: - Huyết áp cao - Đau bụng - Táo bón - Đau khớp - Đau bắp thịt - Hoạt động tâm thần bị suy giảm - Đau, tê hoặc ngứa ran tay chân - Đau đầu - Mất trí nhớ - Rối loạn tâm trạng - Số lượng tinh trùng giảm, tinh trùng bất thường - Xẩy thai hoặc sinh non ở phụ nữ mang thai Chì có nơi đâu? Chì là một kim loại có tự nhiên trong lớp vỏ của trái đất, nhưng những hoạt động của con người như khai thác mỏ, đốt các nhiên liệu hóa thạch và sản xuất - đã khiến cho chì thông dụng hơn. Chì đã từng là một thành phần quan trọng trong sơn và xăng và vẫn được sử dụng trong các loại pin, hàn, ống, gốm sứ, vật liệu lợp mái nhà và một số mỹ phẩm. Chì trong sơn Việc sử dụng các loại sơn có chì cho nhà, đồ chơi trẻ em và đồ nội thất trong gia đình đã bị cấm ở Hoa Kỳ kể từ năm 1978. Tuy nhiên, sơn có chất chì vẫn còn nằm trên các bức tường và đồ gỗ trong nhiều ngôi nhà và căn hộ cũ. Hầu hết nhiễm độc chì ở trẻ em là do chúng ăn những mảnh sơn có chì bị tróc ra. Ống nước và hàng hóa đóng hộp nhập cảng Ống dẫn nước bằng chì, đường ống nước bằng đồng và ống đồng hàn bằng chì có thể cho ra các mảnh chì vào nước. Và mặc dù hàn chì trong thực phẩm đóng hộp đã bị cấm ở Hoa Kỳ, nó vẫn được sử dụng ở một số nước khác. Những phương thuốc cổ truyền Một số trường hợp ngộ độc chì đã được truy ra là từ việc sử dụng các loại thuốc truyền thống, thí dụ như: - Greta hoặc azarcon: Chất bột mịn màu cam này - còn được gọi là calcium san hô và san hô biển - là một phương thuốc gốc từ Tây Ban Nha dùng chữa rối loạn dạ dày, táo bón, tiêu chảy và ói mửa. Nó cũng được sử dụng để làm dịu đau khi em bé mọc răng. - Litargirio: Còn được gọi là litharge, bột mầu hồng đào này được sử dụng như một chất khử mùi, đặc biệt là ở Cộng Hòa Dominican. - Ba- Baw- san: Phương thuốc từ Trung Quốc này được sử dụng để điều trị đau bụng ở trẻ sơ sinh. - Ghasard: Một chất bột màu nâu, ghasard được sử dụng như một loại thuốc bổ ở Ấn Độ. - Daw Twa: Phương thuốc trợ giúp tiêu hóa sử dụng ở Thái Lan, daw Twa chứa hàm lượng chì và arsenic cao. Các nguồn khác của chì Chì cũng có thể đôi khi được tìm thấy trong: - Đất : Chì nằm trên mặt đất là từ xăng pha chì hoặc sơn có chì, có thể tồn tại trong nhiều năm. Đất nhiễm chì vẫn còn là một vấn đề lớn trên xa lộ và trong một số môi trường đô thị. Đất gần những bức tường của ngôi nhà cũ có thể chứa chì. - Nước: Ống nước đồng hàn chì là một nguồn gây ô nhiễm nước uống trong gia đình. - Bụi trong nhà. Bụi trong nhà có thể chứa chì từ các mảnh vụn sơn có chất chì hoặc từ đất bị ô nhiễm đưa vào từ bên ngoài. - Đồ gốm: Men sứ trên một số đồ gốm, đồ sứ có thể chứachất chì và chì có thể xâm nhập vào thực phẩm. - Đồ chơi: Chì đôi khi được tìm thấy trong đồ chơi và các sản phẩm khác được sản xuất ở các nước ngoài nước Mỹ. - Mỹ phẩm truyền thống: Kohl là một mỹ phẩm truyền thống, thường được sử dụng như bút kẻ mắt. Thử nghiệm các mẫu khác nhau của kohl cho thấy có hàm lượng chì cao. Các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ nhiễm độc chì: - Lứa tuổi: Trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ có nhiều nguy cơ tiếp xúc với chì hơn là trẻ em lớn hơn. Chúng có thể nhai mảnh vụn sơn, và tay chúng có thể bị dính bụi chì. Trẻ nhỏ cũng hấp thụ chì dễ dàng hơn và bị nguy hại nhiều hơn so với người lớn và trẻ lớn. - Sống trong một căn nhà cũ: Mặc dù việc sử dụng các loại sơn có chì đã bị cấm từ những năm 1970, các căn nhà và các tòa nhà cũ thường giữ lại tàn dư của sơn này. Những người làm việc sửa chữa các ngôi nhà cũ có nguy cơ nhiễm chì cao hơn. - Một số hobby: Làm kính màu cần sử dụng của hàn chì. Sơn sửa lại đồ nội thất cũ có thể làm bạn tiếp xúc với lớp sơn có chì. - Quốc gia xuất xứ: Những người sống ở các nước đang phát triển có nguy cơ cao bị nhiễm độc chì vì những nước này ít có những quy định nghiêm ngặt về việc tiếp xúc với chì. Các gia đình người Mỹ nhận con nuôi từ nước khác có thể cần cho chúng thử máu xét nghiệm nhiễm độc chì. - Chì có thể gây hại cho thai nhi, do đó phụ nữ có thai hoặc phụ nữ có khả năng có thai nên đặc biệt cẩn thận để tránh tiếp xúc với chì. Tiếp xúc với mức độ thấp của chì vẫn có thể gây ra thiệt hại theo thời gian, đặc biệt là ở trẻ em. Nguy cơ lớn nhất là việc phát triển não bộ bị ảnh hưởng, một thiệt hại không thể xoay ngược lại được. Hàm lượng chì cao hơn có thể gây tổn hại cho thận và hệ thần kinh ở cả trẻ em và người lớn. Hàm lượng chì rất cao có thể gây co giật, bất tỉnh và có thể tử vong. Nếu bạn nghĩ bạn hay con bạn đã bị nhiễm chì, hãy gặp bác sĩ hoặc liên lạc với bộ phận y tế công cộng tại địa phương. Thử nghiệm máu có thể giúp xác định nồng độ chì trong máu. Mức chì trong máu được đo bằng microgram trên mỗi deciliter (mg / dL). Kết quả ở mức 5 mcg / dL hoặc cao hơn cho thấy bệnh nhân có thể đã vượt mức độ an toàn của chì trong máu và cần được kiểm tra định kỳ. Nếu nồng độ quá cao - 45 mcg / dL hoặc cao hơn - bệnh nhân cần được điều trị. Phòng ngừa Nên áp dụng những biện pháp phòng ngừa sau: - Rửa tay và đồ chơi. Trẻ em có thể đem chì vào người từ tay có dính bụi nhiễm chất chì. Để giảm bớt nguy cơ này, nên rửa tay cho trẻ sau khi chúng chơi ngoài trời, trước khi ăn và trước khi đi ngủ. Rửa đồ chơi của chúng thường xuyên. - Lau sạch bụi trên các bề mặt. Làm sạch sàn nhà bằng cách lau ướt và lau bàn ghế, cửa sổ và các bề mặt bụi bặm khác bằng vải ẩm. - Bỏ phần nước đầu đi. Nếu nhà bạn có hệ thống ống nước cũ, nên để phần nước đầu chảy trong ít nhất một phút trước khi sử dụng. Không sử dụng nước nóng từ vòi để pha sữa cho em bé hoặc để nấu ăn. - Không cho trẻ em chơi trên đất. Nên cho các em chơi trong sandbox được đậy lại khi không sử dụng. Trồng cỏ hoặc dùng mùn phủ kín nơi đất trống. - Ăn uống lành mạnh: Bữa ăn thường xuyên và dinh dưỡng tốt có thể giúp ít hấp thụ chì hơn. Trẻ em cần có đủ calcium và sắt trong thức ăn. Sửa nhà Nếu sửa vặt vãnh hoặc sửa cho đẹp một căn nhà được sơn bằng sơn có chì, nên dùng những biện pháp phòng ngừa sau: - Đừng cạo sơn bằng cách chà xát, rất nguy hiểm vì một lượng lớn các hạt nhỏ chứa chất chì sẽ văng ra và mọi người có thể hít chúng vào phổi. - Không sử dụng ngọn đuốc mở để loại bỏ sơn. Ngọn lửa này làm bắn ra những hạt chì nhỏ mà chúng ta có thể hít phải. - Che sơn cũ. Có thể rất khó loại bỏ sơn chì cũ. Nếu sơn dính chặt và không có nhiều sứt mẻ, có thể sơn chồng lên. Bạn cũng có thể sử dụng các tấm vách thạch cao hoặc đồ bọc kín tương tự như sơn chồng lên. - Mặc quần áo và mang thiết bị bảo hộ. Thay quần áo, đi tắm và gội đầu khi ngưng việc. Không giũ quần áo làm việc hoặc giặt chung với quần áo khác. - Cẩn thận nơi ăn. Không ăn hoặc uống trong một khu vực nơi có bụi chì.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 20, 2015 16:37:34 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang: Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Kỹ Thuật Thông Tim Nói là “Thông Tim” thì cũng không chính xác lắm. Đúng ra là thông Động Mạch Vành nuôi dưỡng trái tim thân yêu của chúng ta. Thay vì trơn tru mở rộng thì động mạch đã bị thoái hóa, tắc nghẽn với nhiều chất khác nhau bám vào thành của huyết quản. Động Mạch Vành (coronary artery) bao bọc trái tim như một cái vương miện với hai nhánh phải và trái và nhận máu trực tiếp từ Động Mạch Chủ (aorta). Tế bào tim được tiếp tế oxy và chất dinh dưỡng từ động mạch vành. Nếu vì một lý do nào đó mà động mạch này bị nghẹt thì sự nuôi dưỡng bị trở ngại, tim thiếu dưỡng khí, báo động bằng cơn đau thắt ngực (angina). Trong đa số các trường hợp, tắc nghẽn là do chất béo bám vào mặt trong của thành động mạch. Đó là bệnh Vữa Xơ Động Mạch. Ngày nay, nhiều người cứ nói vữa xơ là hậu quả của nếp sống dư thừa trong thời buổi văn minh tiến bộ hiện đại. Thực ra dấu hiệu vữa xơ đã tìm thấy ở xác ướp bên Ai Cập cả nhiều ngàn năm về trước. Vữa xơ động mạch (atherosclerosis) là bệnh trong đó các mảng gồm nhiều chất khác nhau bám vào mặt trong thành động mạch khiến cho sự lưu thông của máu bị gián đoạn. Thành phần chính của mảng này là chất béo, chất cholesterol cộng thêm các chất phụ khác như calcium, tế bào xơ. Mảng xơ vữa có thể tan vỡ, đưa tới chứng huyết khối. Vữa xơ là một diễn tiến phức tạp, phát triển chậm, xuất hiện từ tuổi nhỏ và trầm trọng lên với thời gian. Theo nhiều khoa học gia, bệnh bắt đầu với sự tổn thương ở lớp tế bào trong cùng của động mạch. Theo Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, ba rủi ro đã được chứng minh làm tổn thương lòng động mạch là: - 1.Mức độ cholesterol và triglyceride trong máu lên quá cao; -2.Cao huyết áp; -3.Ảnh hưởng của hút thuốc lá. Ngoài ra vữa xơ còn hay xảy ra ở người béo phì, mắc bệnh tiểu đường, có nhiều căng thẳng tâm thần và không vận động cơ thể. Di truyền cũng tham dự phần nhỏ. Nếu cả cha lẫn mẹ bị vữa xơ thì con có nhiều triển vọng bị bệnh. Cũng còn phải kể tới tuổi tác và giới tính. Người dưới năm mươi tuổi ít vữa xơ hơn người trên tuổi này. Trước khi mãn kinh, phụ nữ ít bị vữa xơ hơn nam giới nhờ sự bảo vệ của kích thích tố nữ, nhưng từ tuổi mãn kinh thì nam nữ bị vữa xơ bằng nhau. Vữa xơ có thể thấy ở các động mạch cỡ trung và lớn. Nếu ở động mạch vành nuôi dưỡng tim thì đưa tới thiếu máu cơ tim; động mạch cảnh nuôi dưỡng não bộ sẽ có tai biến mạch máu não, động mạch nuôi dưỡng chi dưới với hoại tử chi; động mạch võng mạc đưa tới khiếm thị, mù lòa... Tắc nghẽn thì phải kiếm cách thông, giống như thông ống cống nước từ bếp ra vườn. Nhưng thông cống chỉ việc tống cây sào dài vào hoặc đổ nửa lít nước hóa chất là xong. Còn mạch máu thì nằm ở xa lại mỏng manh, khó mà đạt tới. Cũng đã có nhiều dược phẩm để giải tỏa tắc nghẽn nhưng công hiệu chậm. Cho nên nếu thông được như thông cống thì hay biết mấy. Thế là các nhà y khoa học lại vắt tay lên trán, tìm kiếm kỹ thuật, thuốc men. Và mở đầu với sự tò mò , mạo hiểm của một sinh viên nội trú y khoa người Đức, anh Werner Frossmann. Đó là vào năm 1929. Từ lâu, anh ta vẫn muốn tìm cách để thám hiểm trái tim mà không gây ra thương tổn gì. Sau khi đã có một ý niệm, anh trình bầy với các vị thầy, các vị đàn anh về điều anh định làm. Nhưng mọi người đều không tin tưởng và cấm không cho anh thực hiện ý tưởng điên rồ đó trong bệnh viện. Anh bèn năn nỉ một nữ điều dưỡng viên cho mượn một ống thông. Anh đưa ống thông từ mạch máu ở khuỷu tay của mình, luồn dần lên tim. Đặt ống xong, anh lại năn nỉ một đồng nghiệp điện tuyến, chụp cho một tấm hình X -Quang ngực. Và thấy đầu ống thông đã an toàn nằm ở tim mà không gây ra khó khăn gì cho sức khỏe của mình. Werner hăm hở tường trình sự việc với ông thầy. Chẳng những không được khen mà còn bị khiển trách, không cho thực tập ngành tim tại bệnh viện. Anh ta đành học về tiết niệu và tiếp tục lén lút nghiên cứu, thọc thêm tới 15 lần nữa vào tim mạch của mình. Nghiên cứu được anh công bố trong y giới, nhưng không ai để ý. Buồn tình, anh về một tỉnh lẻ, hành nghề y, kiếm bạc cắc cho qua ngày. Rồi một ngày đẹp trời của năm 1956, Werner được mời ra nhận giải Nobel với hai nhà Tim học Andreas Frderic Coumand và thingyinson W. Richards. Hai vị bác sĩ này đã dựa trên kết quả các mạo hiểm trước đây của Werner để tìm cách chữa tắc nghẽn động mạch. Năm 1941, hai ông đã thành công trong việc dùng ống thông tim để đo lưu lượng máu từ tim ra. Các nhà y khoa học tiếp tục nghiên cứu. Tới năm 1977 thì bác sĩ Andreas Gruentzig của Bệnh Viện Đại Học Zurich, Thụy Sĩ, là người đầu tiên thực hiện kỹ thuật thông mạch máu bằng bóng (balloon) ở người. Sau đó, bác sĩ Gruentzig sang định cư tại Hoa Kỳ, tiếp tục tìm hiểu về bệnh tim và làm giầu trí thức cho quốc gia này. Balloon làm bằng một loại plastic gọi là polyethylene terephthalate (PET) rất bền bỉ và thay đổi hình dạng dễ dàng Ngày 3 tháng 8 năm 1994, cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ công nhận Balloon-Expandable –Stent do bác sĩ Richards Schatz chế biến để làm thông và mở rộng động mạch tim bị tắc nghẽn vì mỡ đóng lên. Ngày nay, cả triệu bệnh nhân nghẹt tim được thông bằng kỹ thuật này. Kỹ thuật rất phổ thông, được mang ra dùng tại hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Phương pháp thông tim giản dị và dễ thực hiện hơn là giải phẫu bắc cầu (by-pass surgery), nhưng một trở ngại là từ 30 – 50% bệnh nhân cần thông lại vì nghẹt mạch có thể tái diễn. Và một phương tiện mới có tên là stent được các nhà chuyên môn đặt để tránh sự tái tắc nghẹt này. Xác định tắc nghẽn mạch máu. Vữa xơ động mạch được xác định bằng kỹ thuật chụp tim thông X-Quang (cardiac catheterization). Đây là một kỹ thuật rất hữu ích và khá chính xác để biết tình trạng tốt xấu của hệ thống tuần hoàn. Một ống hướng dẫn bằng plastic mềm nhỏ được đưa vào mạch máu ở cánh tay hoặc ở bẹn. Ống được đẩy dọc theo mạch máu để vào lòng trái tim hoặc động mạch nuôi tim. Một loại hóa chất cản quang đặc biệt được chuyền vào ống hướng dẫn. Chất này giúp ta nhìn rõ được tình trạng trong lòng mạch máu hoặc các phòng trái tim qua máy X-Quang. Chụp X-Quang mạch máu được áp dụng trong các trường hợp sau: -Khi có dấu hiệu đau động mạch tim như là cơn đau trước ngực; -Đau không biết nguyên nhân ở ngực, cằm, cổ, cánh tay mà các thử nghiệm khác đều không xác định được tại sao; -Khi có cơn đau mới xảy ra ở ngực; -Không có triệu chứng gì nhưng vài thử nghiệm khác cho là có thể bị bệnh tim mạch; -Khi sẽ có phẫu thuật không liên hệ tới tim mạch nhưng có thể có rủi ro bệnh tim trong khi giải phẫu; -Khi sẽ có giải phẫu về van tim; -Khi đã có bệnh tim bẩm sinh; -Khi đang bị suy tim; -Khi có chấn thương ngực hoặc một bệnh tim nào đó. Thông Tim-Đặt Lưới Khi tình trạng vữa xơ động mạch tim không có kết quả tốt với thay đổi nếp sống, dược phẩm, hoặc khi cơn đau tim càng ngày càng trầm trọng thì bác sĩ có thể đề nghị làm thông tim- đặt lưới (angioplasty balloon). Trước khi thực hiện, bệnh nhân sẽ được khám tổng quát và làm một số thử nghiệm như: 1-Chụp một phim x-Quang đen trắng của lồng ngực. Việc này rất dễ thực hiện nhưng cho ta nhiều điều cần biết: hình dạng lớn nhỏ của trái tim, của đại động mạch và tĩnh mạch phổi; tình trạng toàn hảo của hai lá phổi, màng phổi và phế quản. 2-Làm Điện Tâm Đồ. Mỗi làn trái tin đập một nhịp thì có những dòng điện phát ra từ một số tế bào đặc biệt của trái tim. Luồng điện chạy khắp tim, khiến tim co bóp. Điện tâm đồ ghi lại các sinh hoạt điện năng này. Nhìn hình tâm đồ, bác sĩ có thể chẩn đoán các rối loạn về nhịp đập của tim; cấu tạo bất thường to nhỏ của tim, sự nuôi dưỡng của tế bào tim với oxy; có tiền sử hoặc đang có cơn đau tim; theo dõi tình trạng tim khi đang giải phẫu hoặc khi thông động mạch. 3-Thử nghiệm máu để coi mức cao thấp của cholesterol lành HDL, cholesterol dữ LDL; của các yếu tố giúp máu bớt loãng prothrombine, fibrinogen; các diêu tố tim CPK, LDH, Troponin mà khi lên cao có thể là dấu hiệu của cơn đau tim... Tới ngày thông tim thì được nhắn nhủ không ăn từ nửa đêm hôm trước, điều chỉnh liều lượng hoặc ngưng một vài loại thuốc đang dùng, nhất là thuốc loãng máu, thuốc tiểu đường. Kỹ thuật sẽ được một bác sĩ chuyên khoa tim có tu nghiệp thêm về phương pháp này thực hiện với sự tiếp tay của một nhóm chuyên viên điều dưỡng và kỹ thuật. Kỹ thuật thường được làm ở một trung tâm y tế có đơn vị tim mạch, để phòng hờ trường hợp cần cấp cứu giải phẫu tim. Thông tim thường thực hiện ở động mạch đùi, đôi khi động mạch cánh tay hoặc cổ tay. Bệnh nhân không cần gây mê tổng quát mà chỉ một chút thuốc tê được chích vào háng để giảm đau. Do đó ta tỉnh táo trong suốt thời gian phương pháp được thực hiện. Một vết cắt nhỏ trên da ở bẹn được rạch và một ống ngắn nhỏ được đẩy vào động mạch. Qua ống này, một ống thông hướng đạo dài hơn, có thể uốn cong, được luồn vào trong. Dưới sự hướng dẫn của X- quang, ống thông được đưa lên động mạch tim, nơi bị nghẹt. Ống đi lên rất nhẹ nhàng, ta không cảm thấy đau gì, ngoại trừ một chút thôn thốn ở bẹn mà thôi. Nếu đau thì cho bác sĩ hay ngay để họ đối phó. Một chút dung dịch mầu cản quang được bơm vào ống, tới động mạch vành để chụp hình X quang, coi tắc nghẽn lớn nhỏ ra sao. Rồi một ống khác nhỏ hơn đầu có mang một bong bóng xẹp được chuyền vào trong ống hướng đạo. Khi lên tới chỗ bị tắc nghẽn, thì bong bóng được bơm phồng lên. Lúc này máu tới tim sẽ giảm chút ít và ta thấy hơi đau nhói nơi ngực. Bong bóng được bơm phồng lên, xẹp xuống vài lần, sẽ đè vào nơi động mạch dính đầy chất béo, làm lòng động mạch mở rộng. Xong nhiệm vụ, bóng được làm xẹp trở lại. Công hiệu của nong bóng không vĩnh viễn. Theo thống kê, có tới 1/3 bệnh nhân có thể bị nghẹt trở lại trong vòng vài tháng. Để ngăn ngừa tái tắc nghẽn, một lưới gọi là stent nhỏ xíu được phát minh. Lưới nằm trên ống hướng đạo bong bóng, được đưa tới chỗ nghẹt. Bóng được bơm phồng, lưới mở ra và bám ép vào thành động mạch. Lưới an toàn nằm đó suốt đời người như một cái giá chống đỡ không cho động mạch nghẹt trở lại. Lưới làm bằng hợp kim không rỉ, không hư hao, không di chuyển và không trở ngại khi ta đi qua máy rà kim loại ở phi trường hoặc chup X-Quang cơ thể.. Ống hướng dẫn được rút ra và phương pháp thông tim đặt lưới hoàn tất. Trước sau chỉ mất vài giờ đồng hồ, đôi khi chỉ ba mươi phút dưới bàn tay điêu luyện của một chuyên viên đặt ống giầu kinh nghiệm. Thường thường ta cần nằm lại nhà thương khoảng 24 giờ để bác sĩ theo dõi tình trạng sau giải phẫu. Các ống đều được rút ra. Vết cắt trên da nơi bẹn và động mạch được băng bó để tránh chẩy máu, nhiễm trùng và để vết thương mau lành. Tim được tâm điện đồ theo dõi, để phát hiện và phòng ngừa biến chứng. Nên nằm nghỉ, chân duỗi thẳng Một vài thuốc chống huyết cục như aspirin, thuốc kháng tiểu cầu, thuốc an thần được bác sĩ biên toa. Nên uống thuốc theo liều lượng, thời gian mà bác sĩ đã dặn. Về nhà, nên nghỉ ngơi, tránh làm việc quá nặng trong dăm ngày, uống nhiều nước để loại chất mầu cản quang. Để ý các dấu hiệu bất thường như chẩy máu, nhiễm trùng sưng đỏ, đau nơi vết thương ở bẹn, nhiệt độ cơ thể lên cao, trong người mệt mỏi, đau ngực, khó thở. Thông báo cho bác sĩ ngay. Vài tuần sau, khi bác sĩ đồng ý, ta có thể đi làm trở lại được. Và nhớ giữ ngày tái khám theo hẹn của bác sĩ. Thế là từ nay ta không còn đau ngực, không còn lo ngại cơn suy tim, tai biến não, tàn phế cơ thể. Nhiều người thấy da dẻ hồng hào, mặt mũi tươi rói, sinh hoạt gia tăng, yêu đời hơn. Nhưng nên lưu ý lành mạnh nếp sống, bỏ hút thuốc lá, ăn nhiều rau trái cây, bớt chất béo bão hòa động vật, vận động cơ thể đều đặn, giảm cân nếu quá mập phì, chữa các bệnh kinh niên như cao huyết áp, cao cholesterol, bệnh tiểu đường. Và nhẹ nhàng sống trong niềm vui của Tâm Thân An Lạc với gia đình, thân hữu. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Texas-Hoa Kỳ. www.bsnguyenyduc.comwww.youtube.com/user/Drnguyenyduc/video
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 16, 2015 3:40:18 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang: Nắng Tháng Tám, Rám Trái Bưởi
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
Viễn cư, chẳng nghe tiếng Cuốc quê hương mà sao Hè cũng nóng:
“Cái nóng nung người, nóng nóng ghê”. Quốc Văn Giáo Khoa Thư.
Nắng là ánh sáng mang thêm sức nóng của mặt trời trực tiếp chiếu xuống. Bình thường thì nắng bức tăng dần từ sáng tới cao độ là trưa rồi giảm dần tới chiều và ban đêm.
Ánh nắng rất cần cho sự sinh tồn của mọi sinh vật. Không có nắng làm sao có sự quang hợp để biến khí carbon và nước thành thực phẩm nuôi thảo mộc. Mà không có thảo mộc thì con người và súc vật lại khốn đốn, thiếu thức ăn.
Ánh nắng cũng cần cho sức khỏe thể xác và tinh thần nữa chứ. Thường xuyên âm u là ta dễ rơi vào tình trạng trầm cảm, mất ngủ, rối loạn chuyển biến dưỡng chất cũng như sản xuất kích thích tố trong cơ thể. Cho nên mới có “ Nỗi buồn Mùa Đông”-Blue Winters của cư dân các vùng hiếm nắng.
Mà không có nắng Mai thì sao có:
“Nắng vàng giỡn trên má, Cô mơ tình nhân hôn” Nắng mai-Thanh Tịnh
Và
“Nắng lên nửa bãi chiều rồi...” để cho Huy Cận
“Ru em sẵn tiếng thùy dương đôi bờ” Ngậm ngùi.
Nhiệt độ trong không khí thường thấp hơn sức nóng mà ta cảm thấy vì ảnh hưởng của độ ẩm tương đối. Độ ẩm không khí càng cao ta càng cảm thấy nóng khó chịu hơn.
Cơ quan khí tượng đã lập ra một biểu đồ sức nóng (Heat Index Chart) trên đó có ghi nhiệt độ không khí và độ ẩm tương đối. Giao điểm đường nối của hai số này là nhiệt độ thực cảm thấy (Heat Index).
Thí dụ nhiệt độ đo trong không khí là 90 F, độ ẩm 80 thì sức nóng thật sự cảm thấy cao hơn, 113 độ F. Khi Heat Index dưới 90 độ F thì cơ thể còn chịu đựng được chứ lên trên 100 độ thì nhiều tai nạn do hơi nóng sẽ dễ dàng xảy ra.
Khi ta sống trong không gian quá nóng thì cơ thể sẽ có một số phản ứng để làm bớt nóng. Đó là:
Mạch máu giãn nở, máu dồn nhiều tới da khiến nhiệt phân tán đi. Các hạch mồ hôi hoạt động mạnh, mồ hôi tiết ra nhiều, bốc hơi làm giảm nhiệt trong cơ thể.
Khi nhiệt độ thay đổi mà các cơ chế trên không điều hòa thích nghi được hoặc khi có những nguy cơ tăng, giảm nhiệt khác thì một số bệnh liên quan tới sức nóng sẽ xảy ra. Các nguy cơ này có thể là:
* Yếu tố gây tăng nhiệt trong cơ thể gồm có: sự vận động của bắp thịt, lên kinh phong, nóng sốt do nhiễm trùng, vật vã cơ thể khi người ghiền thiếu nhớ cần sa bạch phiến hoặc do tác dụng của thuốc tâm thần.
* Yếu tố đưa đến suy yếu sự thoát nhiệt: tuổi cao, người quá mập mỡ giữ nhiệt, khô nước trong người, mặc quần áo bó sát, khi có bệnh tim, bệnh ngoài da hoặc do tác dụng của thuốc chữa bệnh tim, thuốc lợi tiểu tiện.
Các bệnh do nắng gắt gây ra
Các tai nạn này thường xảy ra vào mùa hè khi khí trời vừa nóng vừa ẩm. Lý do là sự ẩm thấp của không khí trì hoãn bốc hơi trên da.
Người già và em bé thường hay bị hơn tuổi khác vì sức đề kháng với bệnh kém hữu hiệu. Riêng nữ giới dường như ít gặp rủi ro này hơn nam giới có lẽ vì quý bà quý cô hiểu rõ khả năng chịu đựng cho nên sớm tránh né trước khi lâm nguy.
Tia nắng có thể xuyên qua lớp da không quần áo làm tổn thương cho các phân tử DNA, nhiễm thể của tế bào da. Tia cực tím của nắng gắt vào mùa Hè dễ làm da tổn thương, đưa tới mau già, ung thư da.
Sau đây là một số bệnh do nắng gắt gây ra:
1 - Ban đỏ da
Phơi lâu trong nắng, da sẽ mần đỏ, ngứa. Tuyến mồ hôi bị tắc, nở to, bể vỡ tạo ra những mụn nước nhỏ trên da. Tiếp tục phơi nắng lâu hơn thì da sẽ bị viêm, đôi khi nhiễm độc.
Để tránh khó chịu này, cần mặc quần áo rộng che cả thân hình, tránh nắng quá độ.
Khi đã nổi ban, thoa và uống thuốc chống dị ứng như Bénadryl hoặc bôi kem Caladryl.Trước đó, nên chườm khăn lạnh trên da để giảm ngứa rát.
2 - Chuột rút
Trường hợp này xảy ra ngay sau khi hoạt động mạnh dưới trời nắng, đổ mồ hôi nhiều mà lại không uống nước có đủ chất muối để thay thế. Các bắp thịt lớn, như ở bắp chân, ở bụng sẽ co rút gây ra đau nhức mà ta gọi là chuột rút (Cramp).
Để tránh chuột rút, cần uống nước có pha muối sodium trong thời gian vận động.
Không nên dùng muối viên vì muối làm sót bao tử đồng thời nước vẫn chưa được thay thế.
3 - Ngất xỉu
Hơi nóng có thể làm ngất xỉu vì mạch máu ngoại vi giãn nở, giảm lượng máu trở lại tim và lên não bộ đồng thời đổ mồ hôi nhiều đưa đến thiếu nước.
Để tránh rủi ro này, không nên phơi nắng quá lâu. Khi cảm thấy có thể bị xỉu thì di chuyển ngay vào chỗ có bóng mát và nhớ uống nhiều nước.
4 - Kiệt sức
Nhiều nhà chuyên môn tin tưởng rằng kiệt sức sẽ đưa tới trúng cảm nhiệt (Heat stroke).
Người bị kiệt sức không có dấu hiệu thần kinh nhưng bị nhức đầu, chóng mặt, ói mửa, mệt mỏi, đau nhức các bắp thịt. Hơi nóng làm cơ thể mất nước, thiếu muối vì đổ mồ hôi quá nhiều.
Lực sĩ vận động cật lực, người lao động chân tay quá sức trong môi trường nóng bức mà lại không uống đầy đủ nước là hay bị kiệt sức vì nóng.
Ngoài ra, quý lão niên đang dùng thuốc lợi tiểu để trị cao huyết áp cũng thường hay bị rối loạn này.
Để tránh kiệt sức vì nắng, nên uống nhiều nước có muối và rời khỏi nơi nắng gắt ngay.
5 - Trúng cảm nhiệt
Đây là một cấp cứu sinh tử, bệnh nhân cần được điều trị tức thì tại bệnh viện với các phương tiện hữu hiệu. Nếu chậm trễ, nạn nhân có thể bị thiệt mạng.
Trúng nhiệt (heat stroke) xảy ra khi cơ thể tiếp cận với sức nóng quá lâu mà bộ phận điều hòa thân nhiệt bị tràn ngập, không cáng đáng, thích nghi được với sức nóng.
Sau đây là một số yếu tố làm gia tăng nguy cơ trúng nhiệt:
a - Người cao tuổi, người đang bệnh hoạn suy nhược, người mập béo hoặc khi sống tĩnh tại trong căn phòng hầm hơi, nóng ẩm.
b - Trẻ em trúng cảm nhiệt khi ngồi trong xe đợi cha mẹ dưới ánh nắng gay gắt.
c - Khi ở trong nắng mà uống nhiều rượu, có bệnh tim, bị khô nước (dehydrated).
đ - Khi đang dùng một vài dược phẩm như thuốc chống dị ứng, thuốc chữa bệnh tâm thần, thuốc ngủ.
Dấu hiệu đầu tiên là bệnh nhân đổ mồ hôi rất nhiều (rồi một lúc sau lại ngưng), nhiệt độ tăng cao có khi tới 41◦ C, da nóng và khô, khó thở, tim đập nhanh, huyết áp giảm, tính tình cáu kỉnh, gây gổ, có ảo giác nghe nhìn các sự việc không có thật. Trường hợp nặng có thể đưa đến tổn thương não bộ, kinh phong, liệt bán thân, hôn mê, đôi khi chết.
Trong khi chờ đợi xe cấp cứu đưa đi bệnh viện, việc quan trọng tức thì là phải làm hạ nhiệt độ trong người nạn nhân:
a - Di chuyển họ vào nằm ở chỗ mát râm, cắt bỏ quần áo để máu huyết lưu thông và cơ thể thoáng thoát.
b - Dội hay phủ khăn thấm nước lạnh lên cơ thể.
c - Hướng gió quạt vào người nạn nhân, nhất là nơi máu lưu thông nhiều như nách, háng, cổ, để phân tán hơi nóng.
đ - Nhiều chuyên viên khuyên không nên cho nạn nhân uống nước vào lúc này.
e - Không nên cho uống thuốc hạ nhiệt như Tylenol, Aspirin vì thuốc có thể gây thêm tổn thương cho lá gan.
Phòng bệnh hơn chữa bệnh
Kinh nghiệm thường khuyên phòng bệnh hơn chữa bệnh. Các rắc rối vì hơi nóng thường hay tái phát cho nên phòng ngừa lại càng quan trong hơn.
Sau đây là một số dự phòng:
1 - Nếu biết là sẽ phải làm việc dưới nắng gắt thì trước đó vài ngày tiếp xúc dần dần với nắng để cơ thể quen đi.
2 - Không nên cố gắng quá sức mình khi làm việc trong trời nắng. Khi cảm thấy có triệu chứng rắc rối, ngưng công việc ngay và tránh vào chỗ bóng mát nghỉ ít phút cho khỏe.
3 - Uống nhiều nước pha muối trong khi ở ngoài nắng;
4 - Tránh nhiều cà phê, rượu vì những thứ này làm đị tiểu tiện nhiều khiến cơ thể mất nước;
5 - Mặc quần áo rộng rãi thoải mái, vải xốp, màu lạt để tránh giữ nhiệt và để thấm mồ hôi.
Vải ka ki màu xanh lợt là tốt vì nó phân tán chứ không hút sức nóng.
Tránh vải làm bằng hợp chất như nylon, polyester.
Mỗi khi áo ướt sũng mồ hôi thì thay áo khô ngay.
6 - Đầu đội nón rộng vành, mắt mang kính râm.
8 - Bôi kem chống nắng có độ bảo vệ cao (SPF 20 tới 30). Độ SPF càng cao, sự bảo vệ da càng lâu.
9 - Du di thời khóa biểu làm việc, nhiều giờ vào buổi sáng và xế chiều; trưa nghỉ ngơi vài giờ vừa tránh nắng vừa dưỡng sức.
10 - Không để trẻ em đợi trong xe dưới trời nắng dù đã xuống kính xe vì nhiệt độ trong xe có thể lên tới 65◦C (150◦F)
11 - Tránh tập luyện cơ thể giữa buổi trưa vừa nóng vừa ẩm thấp.
Uống nhiều nước trước khi, trong khi và sau khi tập, chứ đừng đợi tới khi khát mới uống.
Khi đang bị nóng sốt, không tập luyện vì nhiệt độ sinh ra do sự vận động cơ bắp sẽ tăng nhiệt độ trong cơ thể.
12- Làm việc dưới nắng bức, lâu lâu nên nghỉ tay, vào bóng râm thư giãn một lúc, “uống ly chanh đường” uống ly nước lạnh cho “phẻ” mát rồi hãy tiếp tục.
Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức
Texas-Hoa Kỳ (www:bsnguyenyduc.com)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 2, 2016 3:47:16 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang: Mỹ Phẩm Stem CellsBác sĩ Nguyễn Ý Đức Trước khi nói về giá trị làm đẹp của mỹ phẩm stem cells, tưởng cũng nên tìm hiểu stem cells là gì.Định nghĩa Stem Cell Stem là phần giữa chính của một cây thảo, cây bụi hoặc cây gỗ từ rễ mọc lên, gọi là thân cây. Từ thân, lá và hoa mọc ra. Stem cũng có nghĩa là cái cuống của lá hoặc hoa quả nối với thân hoặc cành. Cell là tế bào, đơn vị nhỏ nhất của một chất sống có một hạt nhân. Với cơ thể con người, Stem cells “ tế bào gốc” là những tế bào chưa phân biệt, có thể phân hóa ra cả hàng trăm loại tế bào để tạo thành các cơ quan bộ phận khác nhau, như tim, phổi, thận, não… Có 2 loại tế bào gốc: 1. Tế bào gốc từ phôi (embryonic stem cells). Phôi là sản phẩm của sự kết hợp giữa tinh trùng và trứng nữ ở tử cung trong 8 tuần lễ phát triển đầu tiên. Trong phôi có một nhóm tế bào gọi là tế bào gốc stem cells có khả năng tạo ra tế bào của tất cả các bộ phận trong cơ thể. Tiếc thay, chúng chỉ tồn tại trong dăm ngày ở phôi và cũng thấy có trong máu ở cuống rốn. Khi tách ra từ phôi, nuôi dưỡng trong phòng thí nghiệm, các tế bào này vẫn có thể phân bào và vẫn có khả năng tạo ra cả trăm loại tế bào trưởng thành khác nhau cho các bộ phận cơ thể. Do đó chúng được mệnh danh là “tế bào gốc đa năng” pluripotent stem cells. 2. Tế bào gốc người lớn, non-embryonic "somatic" hoặc "adult" stem cells Đây là những tế bào hiện diện trong đa số bộ phận cơ thể người lớn, trẻ em và thai nhi như là trong máu, não bộ, ruột, da với khả năng được định trước. Chúng có thể tạo ra tế bào của bộ phận đó như là tế bào trong máu tạo ra hồng hoặc bạch huyết cầu, trong da tạo ra tế bào da, chứ không tạo ra các tế bào khác của cơ thể. Mới đây, các khoa học gia còn tìm thấy tế bào gốc người lớn trong nhau thai và cuống rốn thai nhi. Khác với phôi tế bào gốc, tế bào gốc người lớn không nuôi dưỡng trong phòng thí nghiệm được. Các khoa học gia cũng đã tìm cách tạo ra một loại tế bào gốc gọi là iPS induced pluripotent stem cell. Họ lấy bất cứ tế bào nào từ người lớn hoặc trẻ em, “phù phép” nhân di truyền, biến chúng thành loại tế bào tương tự phôi tế bào gốc, có khả năng tạo ra bất cứ loại tế bào nào trong cơ thể. Tuy nhiên đây mới chỉ là kết quả sơ khởi, chưa được áp dụng trong thực tế. Vì phôi tế bào gốc có khả năng tạo ra bất cứ loại tế bào nào trong cơ thể, cho nên các nhà khoa học suy luận là có thể cấy tế bào gốc vào một bộ phận đang bị tổn thương. Tế bào đa năng này sẽ tạo ra một loạt tế bào mới của bộ phận đó. Sau khi ổn định, phát triển, chúng sẽ thay thế các tế bào tổn thương để làm nhiệm vụ của bộ phận đó. Chẳng hạn, khi tuyến tụy bị bệnh, không sản xuất được insulin để duy trì đường huyết bình thường, thì, nếu được cấy phôi bào gốc, tụy tạng sẽ hồi phục, lại tiếp tục sản xuất ra insulin. Áp dụng phôi tế bào gốc trong trị bệnh hiện nay đang còn trong vòng nghiên cứu, thử nghiệm. Trên nguyên tắc, trị liệu này được cho là có thể áp dụng để chữa nhiều loại bệnh như bệnh tiểu đường, bệnh Parkinson, Alzheimer, thương tích thần kinh…Tuy nhiên, con đường nghiên cứu từ phòng thí nghiệm tới bệnh viện điều trị là một con đường dài, còn nhiều việc phải làm. Trước khi áp dụng vào bệnh của con người, các khoa học gia phải nuôi dưỡng một loại tế bào thích hợp, tìm cách thử nghiệm các tế bào này, bảo đảm là an toàn ở súc vật trước khi dùng thử ở một số bệnh nhân tình nguyện. Nếu thấy hoàn toàn safe thì mới mang ra áp dụng rộng rãi. Vả lại, ghép tế bào gốc không giống như uống mấy chục viên dược phẩm. Ta có thể ngưng thuốc khi có tác dụng ngoại ý, hóa chất sẽ phai nhạt dần, nhưng khi nhận stem cells thì chúng vẫn hiện diện trong cơ thể và ảnh hưởng sẽ kéo dài suốt đời. Ấy là chưa kể hệ miễn dịch người nhận còn phản ứng, không chấp nhận “sống chung” với tế bào mới, dù tế bào gốc này có thể là ân nhân cứu mạng hoặc tế bào gốc cũng có khả năng kích thích tạo ra mô bào, u bướu không muốn có. Lại còn vấn nạn lấy đâu ra tế bào gốc đa năng. Ở phôi ư? Lấy từ phôi sẽ hủy hoại phôi đó, trái với luật pháp và đạo đức, vì phôi cũng được coi như có sự sống như con người. Vậy mà trên internet đã có cả trăm cả ngàn địa chỉ quảng cáo chữa bằng stem cells cho vô số bệnh như Alzheimer, chấn thương não, ung thư, tiểu đường, Parkinson, viêm khớp, bệnh thận, stroke thậm chí cả trong lãnh vực cải thiện sắc đẹp con người. Trong danh sách này, cơ quan Thực Dược Phẩm Hoa Kỳ FDA chỉ mới chấp thuận cho phép chuyển ghép stem cells từ tủy xương để điều trị ung thư máu bạch cầu leukemia. Lập trường của FDA là chỉ chấp nhận khi nào chuyển ghép stem cells được chứng minh là công hiệu và an toàn cho bệnh nhân. Hoặc các phương thức đang được nghiên cứu, đã xin phép và đã được FDA chấp thuận cho tiếp tục nghiên cứu. Tại Hoa Kỳ, FDA có trách nhiệm điều hòa kiểm soát tất cả các phương tiện dùng để trị bệnh, từ dược phẩm tới dụng cụ y khoa, kỹ thuật trị liệu... Trên đây là nói về stem cell trong việc điều trị bệnh, con đường đi tới cụ thể cũng còn hơi dài, có khi phải chờ cả vài chục năm nữa. Khoa học là vậy. Chậm nhưng chắc. Ấy vậy mà đôi khi còn xảy ra những rủi ro, những hậu quả không ước định được trước. Còn stem cells trong mỹ phẩm thì sao? Đây là một đề tài đang được thảo luận rộng rãi khắp nơi vì trong thập niên vừa qua, danh từ stem cells đã trở thành một nhóm chữ có tính cách kỹ thuật, chuyên môn thời thượng trong kỹ nghệ sản xuất mỹ phẩm. Stem cells xuất hiện trong tên của sản phẩm, trong danh sách thành phần cũng như lời “khuyến thị” khoe công dụng của mỹ phẩm. Stem cells được các nhà sản xuất mỹ phẩm “phong” cho là lý tưởng để chống lại sự hóa già của lớp da. Sản phẩm từ stem cells được nói gần nói xa là có thể kích thích để da tạo ra lớp da non và đảo ngược hiện tượng nhăn da. Mà da nhăn là mối ưu tư lớn của con người, là chỉ dấu của sự già nua, là không còn vẻ đẹp mịn màng mũm mĩm tươi trẻ của thời kỳ nam thanh nữ tú. Và những người ưu tư đó vội vàng đi tìm thuốc tiên, tẩy xóa vết nhăn trên mặt, trên bụng, trên đôi bàn tay gầy guộc, khô cằn. Cosmetic stem cells ra đời qua kỹ thuật stem cells technology và trở thành một kỹ nghệ lớn với lợi nhuận thương mại cả nhiều chục tỷ mỹ kim. Tranh luận về thực hư, lợi hại của cosmetic stem cells giữa các nhà sản xuất mỹ phẩm cũng như giới tiêu thụ và khoa học gia chắc còn kéo dài. Đọc hết nội dung các thảo luận này có khi mình lại hóa già trước khi có sự “đồng thuận” từ các phía. Người viết chỉ xin gửi tới bà con mấy ý kiến đáng suy nghĩ liên quan tới chuyện dài cosmetic stem cells. Trên đây, có nói stem cell technology là vì, theo các nhà chuyên môn, mỹ phẩm không chứa stem cells con người hoặc stem cells thực vật mà chỉ dựa vào kỹ thuật nghiên cứu công dụng của phôi tế bào gốc. Vì, để sống sót và hoạt động được, theo giáo sư bác sĩ Jorg Gerlach, Đại học Pittsburgh, stem cells cần được nuôi dưỡng bởi máu trong cơ thể hoặc với một chất dinh dưỡng đặc biệt, chứ không phải là bắt một nhúm stem cells bỏ vào một lọ dung dịch nào đó, tung ra thị trường để người mua thoa bôi khơi khơi lên da là da hết nhăn. Vì chúng đã chết hết rồi. Stem cells là tế bào sống, sẽ mau chóng bị tiêu hủy trong môi trường ẩm hoặc serum. Hơn nữa, cấu tạo của da rất kiên cố, đâu có thể để vật lạ xâm nhập dễ dàng như vậy. Như vậy, theo các nhà chuyên môn, cosmetic stem cells trong mỹ phẩm da có thể được hiểu là: 1. Không có stem cells từ con người mà có thể là từ thực vật. 2. Các stem cells thực vật được lấy ra từ thân (stem) của thảo mộc, do đó chữ stem trong tế bào thảo mộc không đồng nghĩa với chữ stem cells trong cơ thể con người. 3. Đây không phải là tế bào thực thụ mà chỉ là nước triết từ các tế bào thực vật được ép lấy ra rồi chế biến, cho vào mỹ phẩm. Bác sĩ bệnh ngoài da Fredric Brandt cũng đồng ý là không có tế bào gốc trong bất cứ mỹ phẩm nào mà chỉ là những chất đạm và yếu tố tăng trưởng mà các stem cells thực vật sản xuất. Stem cells phải còn sự sống thì mới hoạt động được như một stem cells, chứ khi đã được thêm vào dung dịch mỹ phẩm thì chúng đã chết ngỏm củ tỏi rồi, đâu còn hoạt động được nữa. Nhiều nhận xét khác cho hay, plant stem cells từ táo, dưa hấu, gạo làm sao mà kích thích được tế bào gốc trên da con người. Tuy nhiên vì chúng từ thảo mộc mà ra, chúng có thể có vài tác dụng như các chất antioxidant, nhưng giá cả lại quá đắt so với thực phẩm ta dùng hàng ngày. Hơn nữa chắc nhiều người cũng không muốn da mình hấp thụ những tế bào lấy ra từ táo, từ dưa. Ngoài ra, plant stem cells hoạt động khác với human stem cells, không dễ gì mà đưa plant cells vào cơ thể con người để rồi hoạt động chung với tế bào người. Đôi bên xa lạ, sẽ uýnh nhau chí tử. Tiến sĩ Bruno Bernard, một giám đốc của công ty mỹ phẩm Lancome, Pháp, chân thật thừa nhận rằng kem da “Absolue” do công ty Lancome sản xuất không có stem cells mà chỉ là nước triết táo được kỹ thuật stem cells chế biến thành mỹ phẩm. Khi bôi thoa, dung dịch này thay đổi môi trường chung quanh stem cells ở da, khiến chúng linh động hơn trong việc tạo ra tế bào mới, nhờ đó da nom trẻ trung, đầy đặn hơn (1) Nghe cũng suôi tai, vì mỹ phẩm thường đều mong muốn đạt được công dụng như vậy, là đã thỏa mãn ước muốn của giới tiêu thụ có nhu cầu làm đẹp rồi. Vì, theo FDA, mỹ phẩm chỉ là những sản phẩm được thoa, xịt lên một nơi nào đó của cơ thể để lau sạch, làm đẹp, tạo ra sự hấp dẫn hoặc thay đổi diện mạo bên ngoài mà thôi. Và cuối cùng xin mời bà con đọc ý kiến của nữ tác giả và nhà nghiên cứu về mỹ phẩm Hoa Kỳ Paula Begoun, người được mệnh danh trên khắp thế giới là “Cosmetic Cop- Sen Đầm Mỹ Phẩm” như sau: “Các công ty mỹ phẩm đều quả quyết là họ đã lấy ra từ plant stem cells nhiều chất như peptides, biến chúng trở nên ổn định để có thể hành động y như stem cells và có ảnh hưởng lên tế bào gốc người lớn có sẵn trong da. Đây là điều không tưởng bởi vì stem cells phải toàn vẹn để có thể hoạt động bình thường. Dùng peptides hoặc chất liệu khác để tác dụng lên stem cells trong da đang được nghiên cứu nhưng cho tới nay các khoa học gia còn đang vò đầu tìm hiểu làm sao thực hiện được một cách an toàn. Hiện nay, chưa có một công bố nghiên cứu khoa học chân chính nào kết luận là các chất triết từ stem cells thực vật có thể tác động lên stem cells trong da con người”. Có người cho là các ý kiến này có vẻ hơi khắt khe thì phải. Vì dù không tác động lên tế bào gốc trong cơ thể, nhưng nếu thực sự công hiệu và đủ an toàn để tô điểm làm đẹp được diện mạo bề ngoài của cơ thể thì người tiêu thụ cũng cảm thấy OK rồi. Có phải không, thưa bà con cô bác. Bác sĩ Nguyễn Ý Đức
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 19, 2016 8:15:54 GMT 9
Bệnh lupus (kỳ 1) VienDongDaily.Com BS Nguyễn Thị Nhuận .
Một trong những bệnh làm cho các bác sĩ và những nhà nghiên cứu đau đầu nhất là bệnh “lupus”. Đây là một bệnh kinh niên rất nặng và phát tác ở nhiều cơ phận của thân thể như khớp xương, da, thận, máu, tim, phổi... Bệnh thường xẩy ra nhiều cho các bà, không hiểu vì sao. Tuy nhiên, với những tiến bộ của khoa học, bệnh nhân lupus hiện tại có thể có một cuộc sống khá tốt so với thời xưa.
Triệu chứng Một trong những cái lạ của bệnh này là không trường hợp bệnh nào giống trường hợp nào. Triệu chứng có thể đến từ từ hay bất thình lình, có thể nặng hay rất nhẹ, có thể thoáng qua rồi hết hoặc kéo dài vĩnh viễn. Tuy nhiên đa số mang bệnh nhẹ và bị những cơn bệnh nặng phát tác với triệu chứng nặng rồi lại hết đi một thời gian. Triệu chứng bệnh xẩy ra tùy theo lúc ấy cơ phận nào đang bị hại. Nói chung, bệnh lupus có những triệu chứng: - Mệt mỏi - Sốt - Xuống hay lên cân - Khớp xương đau, cứng, sưng lên - Nổi vết đỏ như hình cánh bướm trên mặt, che hai má và sống mũi - Nổi vết trên da khi ra nắng - Lở trong miệng - Rụng tóc - Ngón tay và ngón chân trắng hay xanh tái khi lạnh hay khi bị stress - Thở dốc - Đau ngực - Mắt bị khô - Dễ bị bầm - Bồn chồn lo lắng - Trầm cảm - Giảm trí nhớ Khi nào nên gặp bác sĩ?
Như vậy, khi bạn mọc những vết trên da, sốt kéo dài, nhức mỏi và mệt kinh niên, bạn nên gặp bác sĩ để được định bệnh. Nếu bạn đã được định bệnh lupus, bạn cần gặp bác sĩ định kỳ để theo dõi bệnh trạng thường xuyên. Mỗi khi có triệu chứng gì mới, bạn cũng cần gặp bác sĩ. Nguyên nhân Lupus là một bệnh tự miễn nhiễm (autoimmune) tức là thay vì tấn công những vật lạ xâm nhập vào như vi trùng hay siêu vi trùng, hệ miễn nhiễm của bạn lại tấn công những cơ phận lành mạnh của cơ thể bạn, gây ra hư hoại cho khớp xương, da, thận, tim, phổi, mạch máu và óc. Hiện nay người ta vẫn chưa hiểu được tại sao hệ miễn nhiễm lại phản ứng như vậy và gây ra nhiều chứng bệnh tự miễn nhiễm mà lupus là một. Có thể nguyên nhân là di truyền và môi trường cộng lại. Những nhà khảo cứu cho rằng bạn có thể bị di truyền khả năng bị bệnh lupus chứ không phải chính bệnh ấy. Khi bị di truyền khả năng bị lupus, bệnh nhân sẽ phát bệnh khi gặp phải những yếu tố khác trong môi trường, thí dụ như thuốc men hay siêu vi nào đó. Các loại bệnh lupus
Có 4 loại bệnh lupus, mỗi loại có cách chữa và dự đoán bệnh (prognosis) khác nhau. 1.Bệnh lupus toàn thân: xảy ra hầu như trên tất cả các phần thân thể. Thường nhất là da, khớp xương, phổi, thận và máu.
2.Bệnh lupus da: chỉ xẩy ra trên da. Bệnh nhân bị nổi vết hình tròn trên da mặt, cổ, đầu. Một số bệnh nhân lupus da sau đó bị bệnh toàn thân nhưng thường không thể đoán trước ai sẽ tiến tới bệnh toàn thân.
3.Bệnh lupus của trẻ sơ sinh: hiếm và chỉ xẩy ra ở trẻ sơ sinh. Người mẹ có một số kháng thể liên quan tới bệnh tự miễn nhiễm và truyền qua cho thai nhi dù mẹ không bị bệnh. Kháng thể này có thể gây ra bệnh lupus trẻ sơ sinh. Em bé có thể nổi vết trên da trong những tuần sau khi em được sinh ra. Bệnh có thể kéo dài vài tháng trước khi biến mất. Bệnh nặng hơn có thể gây ra thất nhịp tim. Ai dễ bị bệnh?
- Đàn bà dễ bị lupus hơn đàn ông. - Bệnh thường xẩy ra nhất ở khoảng tuổi 15 tới 40 tuy rằng tuổi nào cũng có thể bị bệnh. - Người da đen, Mễ và Á châu dễ bị bệnh hơn. - Ra nắng có thể khởi lên bệnh lupus da hoặc những phản ứng nội tạng nơi một số người. Tại sao thì chưa được biết rõ tuy các nhà nghiên cứu nghĩ rằng ánh sáng mặt trời có thể làm các tế bào da tiết ra một số chất đạm kết hợp với những kháng thể có sẵn trong người gây ra những phản ứng viêm. Những tế bào da cũng chết sớm hơn nơi người bệnh lupus, gây ra thêm nhiều phản ứng viêm. - Một số thuốc có thể gây ra bệnh lupus như thuốc chống bệnh điên chlorpromazine, thuốc trị bệnh cao máu hydralazine, thuốc ngừa lao isoniazid, thuốc tim procainenamide. Người ta bị bệnh lupus sau khi uống những thuốc này lâu năm. Tuy nhiên chỉ một số phần trăm nhỏ uống những thuốc này mắc bệnh. - Nhiễm siêu vi Epstein- Barr. Hầu như ai cũng đã từng mắc bệnh siêu vi E. Barr. Siêu vi này gây ra những bệnh nhẹ như sốt, đau cổ. Sau khi bệnh hết, con siêu vi này vẫn còn nằm trong những tế bào của hệ miễn nhiễm cho đến khi khởi lên lại và làm tăng nguy cơ bị bệnh lupus. - Bị nhiễm hóa chất. Một số hóa chất như thủy ngân và silica có thể gây ra bệnh lupus cho những công nhân làm trong nhà máy sử dụng những chất này. Hút thuốc cũng có thể làm tăng nguy cơ bị lupus. Biến chứng
Bệnh lupus phát ra ở nhiều nơi trên thân thể người bệnh - Thận: bệnh lupus gây ra bệnh thận rất nặng và suy thận là một trong những nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất cho bệnh nhân lupusGần ba phần tư bệnh nhân lupus sẽ bị bệnh thận trong 2 năm đầu sau khi định bệnh. Tuy nhiên có nhiều thuốc để chữa bệnh này. Triệu chứng của bệnh thận gồm có ngứa ngáy toàn thân, đau ngực, buồn nôn, ói mửa, sưng phù chân, lên cân. - Hệ thần kinh: triệu chứng gồm có nhức đầu, chóng mặt, thay đổi tính tình, bị ảo giác và làm kinh. 80% bệnh nhân lupus thần kinh có thể bị lú lẩn, trí nhớ sút giảm và khó khăn khi diễn tả ý tưởng. - Máu và mạch máu: Bệnh nhân lupus có thể bị thiếu máu, dễ chảy máu và máu khó đông. Họ cũng có thể bị viêm mạch máu, nguyên nhân của 7% các trường hợp tử vong. - Phổi: Bệnh nhân lupus dễ bị viêm màng bọc phổi khiến bị đau nhức khi thở. Bệnh nhân cũng dễ bị sưng phổi. Đa số bệnh nhân phổi có thể được định bệnh nhờ những thử nghiệm. Biến chứng phổi ít khi nặng và thường không có dấu hiệu báo trước. - Tim: Bệnh nhân lupus có thể bị viêm cơ tim, viêm động mạch vành tim hay màng bọc tim. Họ cũng dễ bị các bệnh tim mạch và dễ bị đột quỵ tim. Gần 40% bệnh nhân lupus bị bệnh cứng động mạch sớm trước tuổi so với tỉ lệ chỉ 15% cho người không bị lupus. Giữ cho huyết áp và mực cholesterol không tăng cao, không hút thuốc và vận động thân thể thường xuyên là những cách giúp giảm nguy cơ bệnh tim. - Bệnh nhiễm trùng: Bệnh nhân lupus rất dễ bị nhiễm trùng vì cả bệnh lẫn thuốc chữa đều ảnh hưởng đến hệ miễn nhiễm. Đã vậy, nhiễm trùng còn làm cho bệnh phát tác nặng lên khiến càng dễ bị nhiễm trùng thêm. Những bệnh nhiễm trùng thông thường nhất cho bệnh nhân lupus gồm có nhiễm trùng đường tiểu, những bệnh hô hấp thông thường như cảm, bệnh nhiễm vi nấm, nhiễm vi trùng salmonella, siêu vi herpes, và bệnh giời leo. Những bệnh nhiễm trùng nặng hơn như sung phổi gây khoảng 1/3 số tử vong. - Ung thư: Bệnh nhân lupus dễ bị ung thư, nhiều nhất là ung thư hạch bạch huyết loại non- Hodgkin và ung thư phổi. Thuốc làm giảm miễn nhiễm, đôi khi dùng để chữa bệnh lupus, cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư. - Mô tế bào xương bị chết: Gây ra do bệnh hay do thuốc steroid dùng chữa bệnh lupus. Máu đến nuôi xương bị giảm xuống khiến có những lỗ hổng trong xương và cuối cùng là xương bị gãy. Khớp xương háng dễ bị nhất. Khoảng 1 trong 10 bệnh nhân lupus bị biến chứng này. - Biến chứng khi mang thai: Bệnh nhân lupus dễ bị sẩy thai. Họ cũng bị bệnh nặng lên khi mang thai, dễ bị tăng huyết áp và sinh non. Bác sĩ thường khuyên bệnh nhân lupus chờ cho đến khi bệnh giảm hẳn ít nhất là được 1 năm trước khi tính chuyện có thai.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 19, 2016 8:50:17 GMT 9
Quai bị VienDongDaily.Com BS Nguyễn Thị Nhuận .
Trong vòng vài tháng nay đã có 3 trường hợp bệnh quai bị xẩy ra trong quận Cam, nơi có đông người Việt sinh sống. Các trường hợp này đều xẩy ra nơi các sinh viên đại học sống bên ngoài tiểu bang nhưng lúc bệnh thì đang ở quận Cam. Ở các nước chậm tiến, bệnh quai bị được biết đến nhiều vì rất thông thường, khác với tại Mỹ là nơi mà việc chích ngừa quai bị đã làm tỉ lệ bệnh này hạ xuống đáng kể; cho đến thời gian gần đây, cũng như bệnh sởi, bệnh quai bị có vẻ đã trở lại vì dân chúng ngày nay “ngại” chích ngừa. Quai bị là một bệnh nhiễm virus, làm sưng tuyến nước bọt ở mang tai (parotid glands) - đây là một trong ba đôi tuyến nước bọt nằm bên dưới và phía trước của tai. Bệnh có thể gây sưng một hoặc cả hai tuyến mang tai. Khác với tin tưởng trong dân gian là hễ con trai bị quai bị thì sẽ bị sưng “hòn dái” và sẽ bị vô sinh, không thể có con được, trong thực tế biến chứng này ít khi xảy ra.
Triệu chứng Người bị nhiễm virus quai bị có thể không có triệu chứng hoặc bị rất nhẹ. Triệu chứng thường xuất hiện khoảng 2- 3 tuần sau khi nhiễm virus và có thể gồm: - Sưng, đau tuyến nước bọt ở một hoặc cả hai bên mặt (viêm tuyến mang tai) - Sốt - Đau đầu - Đau bắp thịt - Cảm thấy yếu và mệt mỏi - Ăn mất ngon - Đau khi nhai hoặc nuốt Dấu hiệu chính của bệnh quai bị là tuyến nước bọt bị sưng khiến má phồng ra. Khi nghi ngờ con mình bị quai bị, cha mẹ nên đem con đi khám bệnh ngay và nên báo trước để khỏi phải ngồi chờ trong phòng đợi lâu, có thể lây bệnh cho các trẻ khác. Các loại virus và vi trùng khác cũng có thể làm sưng các tuyến mang tai, trông giống như bệnh quai bị. Nguyên nhân Nguyên nhân gây ra bệnh quai bị là virus quai bị, lây lan dễ dàng từ người này sang người khác qua nước bọt. Nếu không có miễn dịch nhờ chích ngừa, người ta có thể bị lây quai bị khi hít thở những giọt nước bọt li ti của người bệnh bắn ra sau khi hắt hơi hoặc ho. Cũng có thể lây quai bị từ việc chia sẻ đồ dùng hoặc ly uống nước với người bị bệnh quai bị. Các biến chứng 1.Viêm: Hầu hết các biến chứng từ quai bị liên quan đến việc viêm và sưng một số bộ phận của cơ thể, chẳng hạn như: - Tinh hoàn (hòn dái). Viêm tinh hoàn gây ra sưng một hoặc cả hai tinh hoàn ở người nam đã đến tuổi dậy thì. Viêm tinh hoàn gây đau, nhưng hiếm khi dẫn đến vô sinh (không có khả năng làm cha). - Tuyến tụy tạng. Viêm tụy tạng làm đau ở vùng bụng trên, buồn nôn và ói mửa. - Buồng trứng và vú. Những phụ nữ đã đến tuổi dậy thì có thể bị viêm buồng trứng hoặc vú. Khả năng sinh sản ít bị ảnh hưởng. - Óc. Virus quai bị, có thể gây ra viêm não, dẫn đến các vấn đề về thần kinh và đe dọa tính mạng. - Màng và chất lỏng xung quanh não và tủy sống. Tình trạng này, được gọi là viêm màng não, có thể xảy ra nếu virus quai bị lan ra máu và đến hệ thần kinh trung ương. 2. Các biến chứng khác - Mất thính lực. Trong trường hợp hiếm, quai bị có thể gây ra mất vĩnh viễn thính giác, ở một hoặc cả hai tai. - Sẩy thai. Mặc dù chưa được chứng minh, bị quai bị trong khi đang mang thai, đặc biệt là thời gian đầu, có thể dẫn đến sẩy thai. Chích ngừa Quai bị gây ra do virus nên thuốc trụ sinh không được dùng được chữa trị. Tuy nhiên, hầu hết các bệnh nhân, không bị biến chứng đều bình phục sau khoảng hai tuần. Bệnh nhân không còn được coi là truyền nhiễm và có thể trở lại làm việc hoặc đi học một tuần sau khi được chẩn đoán bệnh quai bị. Một người được xem là miễn dịch với bệnh quai bị nếu trước đó đã từng bị bệnh hoặc nếu đã được chủng ngừa bệnh quai bị. Thuốc chủng ngừa quai bị thường được kết hợp với sởi và ban Đức (rubella) gọi tắt là MMR. Trẻ em nên được chích ngừa bằng MMR 2 lần cách nhau 3- 4 năm trước khi đi học.
1. Không cần phải chủng ngừa nếu: - Đã chích hai liều MMR sau 12 tháng tuổi hoặc một liều MMR cộng với một liều thứ hai của thuốc chích ngừa sởi - Đã chích một liều MMR và không có nguy cơ cao tiếp xúc với bệnh sởi hoặc quai bị - Thử máu cho thấy miễn dịch với bệnh sởi, quai bị và rubella - Đàn ông sinh trước năm 1957 - Phụ nữ sinh trước năm 1957 và không có ý định có thêm con nữa
2.Ngoài ra, không nên chích ngừa MMR nếu: - Là phụ nữ mang thai hoặc dự định có thai trong vòng bốn tuần tới - Từng bị phản ứng dị ứng đe dọa đến tính mạng với gelatin hoặc neomycin - Có hệ thống miễn dịch bị tổn hại nghiêm trọng, hoặc những người đang uống corticoid
3. Những ai nên chủng ngừa MMR: - Những người không thuộc vào các trường hợp trên - Phụ nữ không mang thai trong độ tuổi sinh đẻ - Học đại học, trường dạy nghề hoặc trường sau trung học - Làm việc trong một bệnh viện, cơ sở y tế, trung tâm chăm sóc trẻ hay trường học - Sẽ đi du lịch ở nước ngoài
4.Những người nên chờ đợi ít lâu trước khi chủng ngừa MMR: - Vừa bị bệnh nặng. Nên chờ cho đến khi hồi phục. - Đang mang thai. Chờ cho đến khi sau khi sinh con.
5.Những người nên hỏi bác sĩ trước khi chích: - Người đang bị ung thư - Người bị bệnh về máu - Người có một bệnh ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch như HIV / AIDS - Người đang được điều trị bằng thuốc như steroid, có ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch - Người đã chích ngừa một thứ khác trong vòng bốn tuần qua Tác dụng phụ của thuốc chích ngừa Thuốc ngừa MMR không gây ra bệnh, và hầu hết những người chích ngừa đều không bị tác dụng phụ. Một số ít có thể bị sốt nhẹ hoặc phát ban, và một số người (đa số là người lớn) bị đau khớp một thời gian ngắn. Ít hơn 1 phần triệu liều gây ra phản ứng dị ứng nghiêm trọng. Mặc dù sự liên hệ giữa MMR và bệnh tự kỷ đã được liên tiếp đặt ra, các thông cáo từ Viện Hàn Lâm Nhi Khoa Mỹ, Viện Y Học và CDC đều kết luận rằng không có liên hệ giữa MMR và bệnh tự kỷ. Chữa trị Thời gian và nghỉ ngơi là các phương pháp điều trị tốt nhất. Có thể theo những cách sau đây để giảm bớt đau và khó chịu cũng như tránh bớt lây nhiễm. - Nghỉ ngơi cho đến khi hết sốt - Cô lập bệnh nhân để khỏi lây bệnh sang người khác. Có bệnh nhân có thể lây nhiễm một tuần sau khi xuất hiện các triệu chứng. - Dùng thuốc giảm đau như acetaminophen (Tylenol), ibuprofen (Advil, Motrin IB) để giảm bớt các triệu chứng. Người lớn cũng có thể sử dụng aspirin nhưng trẻ em và thanh thiếu niên hồi phục từ các triệu chứng giống như cúm không nên dùng aspirin ví có liên quan đến hội chứng Reye, một bệnh hiếm gặp nhưng có khả năng đe dọa tính mạng. - Đắp miếng gạc ấm hoặc lạnh để các tuyến bị sưng bớt đau. - Đeo miếng che chắn và chườm lạnh để làm bớt đau nếu bị sưng tinh hoàn. - Tránh các loại thực phẩm cần phải nhai nhiều. Ăn thức ăn mềm, chẳng hạn như khoai tây nghiền hoặc bột yến mạch nấu chín, hay dùng xúp. - Tránh các thức ăn chua như cam quýt hoặc các loại nước ép vì chúng kích thích sản xuất nước bọt. - Uống nhiều chất lỏng. - Kiểm soát xem có bị biến chứng không. Gọi cho bác sĩ nếu bệnh nhân bị: sốt 103 F (39 C) hoặc cao hơn, ăn uống khó khăn, trở nên lẫn lộn hoặc mất phương hướng, đau bụng, đau và sưng tinh hoàn.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 19, 2016 8:52:56 GMT 9
Đôi điều về bệnh lú lẫn Alzheimer"s (VienDongDaily.Com BS Nguyễn Thị Nhuận
A. Những giai đoạn tiến triển của Alzheimer's
Bệnh lú lẫn Alzheimer's tiến triển rất chậm chạp. Sự nhận biết của bệnh nhân có thể giảm dần trong vòng 7 tới 10 năm. Cuối cùng tất cả các bộ phận sinh hoạt của óc như trí nhớ, cử động, ngôn ngữ, cách cư xử, sự phán đoán và óc suy luận trừu tượng đều bị ảnh hưởng. Bệnh Azheimer's thường được chia ra 3 giai đoạn. Tìm biết về 3 giai đoạn này có thể giúp bệnh nhân và gia đình chuẩn bị cách đối phó cho tương lai. Tuy nhiên, không hẳn là bệnh nhân nào cũng theo đúng những giai đoạn này hoặc có những triệu chứng giống nhau.
1. Giai đoạn nhẹ: Bệnh nhân trong giai đoạn này thường giảm bớt trí nhớ, đôi khi không phán đoán sáng suốt và có sự thay đổi tính tình chút ít. Họ có thể giảm sự chú ý, và bỏ dở việc đang làm. Họ cũng không muốn thay đổi và ngại chuyện khó khăn và có thể bị đi lạc ngay cả ở những chỗ đã quen thuộc.
Người nào thì cũng có lúc quên một vài tiếng hay tên người trong lúc nói chuyện nhưng người bệnh lú lẫn thì quên nhiều hơn và càng ngày càng quên thêm. Họ có thể chế ra những chữ không đâu để thay thế. Họ sẽ tránh nói chuyện để khỏi mắc lỗi và càng ngày càng khép kín, nhất là trong những dịp phải giao thiệp xã hội hay phải suy nghĩ nhiều.
Bệnh nhân Alzheimer's có thể cất đồ vô những chỗ khác thường thí dụ như cất bóp vô tủ lạnh hay cho quần áo vô máy rửa chén. Họ có thể hỏi đi hỏi lại những câu hỏi và cất giữ những thứ vô giá trị. Khi mệt mỏi hoặc bực mình họ có thể nổi giận dữ dội dù thường ngày hiền lành. 2. Giai đoạn khá nặng Trong giai đoạn này, bệnh nhân không thể sắp xếp tư tưởng hay theo được những giải thích có tính lý luận cũng như không theo được những chỉ dẫn viết ra. Họ cần được giúp chọn quần áo mặc cho thích hợp với thời tiết hoặc sinh hoạt. Dần dần họ sẽ phải được giúp mặc quần áo vì họ có thể mặc đồ lót ra ngoài hay đi giầy nhầm chân. Họ cũng có thể đại tiểu tiện trong quần.
Trong giai đoạn này, người bệnh thường mất khả năng nhận diện người thân và bạn bè. Họ có thể nhầm lẫn cho con là bạn hay vợ chồng là người lạ. Họ lẩn không biết họ đang ở đâu và không biết ngày tháng. Họ quên địa chỉ hay số điện thoại của chính mình và dễ bị đi lạc vì không thể xét đoán biết mình đang ở đâu, do đó không thể để họ một mình mà phải có người trông nom trong giai đoạn này. Họ trở nên không yên, làm đi làm lại vài cử chỉ, nhất là về buổi chiều, hoặc nhắc đi nhắc lại một câu chuyện, một vài chữ hay cử động vô nghĩa, thí dụ như ngồi xé giấy.
Càng ngày họ càng không thể nói chuyện được với ai và dẫn đến những cử chỉ kỳ lạ như hoảng loạn, kết tội người khác ngoại tình hay ăn cắp.
Bứt rứt, giận dữ, khó chịu đưa tới chửi thề, đấm đá, đánh cắn, chụp giựt người khác hay la hét. 3. Giai đoạn nặng Trong giai đoạn này, người bệnh cần được giúp đỡ trong mọi mặt sinh sống. Họ không thể tự đi lại và sau cùng không thể ngồi được. Họ không biết tự đi vệ sinh, không nói rõ được. Họ không nhận biết người nhà. Họ dễ bị sặc vì khó nuốt và có thể từ chối ăn uống. Bệnh sẽ kéo dài bao lâu? Mực độ tiến triển của bệnh thay đổi tùy theo mỗi người. Một số người bệnh nặng khoảng năm năm sau khi được định bệnh. Những người khác có thể kéo dài 10 năm. Trung bình, người bệnh sống khoảng 8 tới 10 năm sau khi định bệnh. Một vài người sống lâu tới 20 năm. Đa số bệnh nhân không chết vì bệnh Alzheimer's mà chết vì những nguyên do khác như sưng phổi, nhiễm trùng đường tiểu hay biến chứng sau khi té. B. Ngăn ngừa bệnh Alzheimer's: tập thể dục là cách tốt nhất
Một báo cáo gần đây nhất của Hội bệnh Alzheimer's tiên đoán là 10 triệu người Mỹ thế hệ baby boomer tức sinh ra sau thế chiến thứ 2 sẽ bị bệnh Alzheimer's (tức tỉ lệ 1/8) khiến những người trong lứa tuổi này thấy lo sợ không ít. Hiện nay đã có vài loại thuốc làm bệnh chậm tiến triển nhưng con đường tìm ra thuốc chữa hãy còn rất gian nan. Trong lúc chờ đợi thuốc chữa bệnh, chúng ta hãy nghe các nhà nghiên cứu nói về kết quả của họ.
Càng ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy vận động thân thể mỗi ngày không những chỉ có tác dụng tốt lên hệ tim mạch và giữ cho khỏi lên cân quá nhiều mà còn có thể ngăn ngừa chứng bệnh lú lẫn quái ác. Những nghiên cứu trên dân số cho thấy tập thể dục mỗi ngày sao cho nhịp tim tăng lên trong ít nhất 30 phút có thể làm giảm nguy cơ bị bệnh.
Trong một nghiên cứu trên chuột, người ta thấy vận động thân thể có vẻ như ngăn chận được những thay đổi của óc đưa tới bệnh Alzheimer's .
Một nghiên cứu có tính chất quan sát về liên hệ giữa vận động với hoạt động của trí óc trên 6000 phụ nữ từ 65 trở lên trong vòng 8 năm, cho thấy những phụ nữ thường xuyên tập thể dục ít bị sút giảm trí óc như những phụ nữ thụ động.
Một nghiên cứu khác tại viện đại học Chicago được thực hiện trên những con chuột đã được nuôi sao cho óc bị những mảng giống như óc bệnh lú lẫn. Một số chuột được cho vận động thường xuyên, số còn lại không được vận động. Óc của những con chuột vận động nhiều có từ 50 đến 80% ít mảng plaque gây bệnh hơn những con thụ động. Chuột vận động cũng tiết ra nhiều chất phân hóa tố chống tạo ra plaque. Họ kết luận: “Vận động thân thể thường xuyên có lẽ là cách tốt nhất để ngừa bệnh Alzheimers, tốt hơn cả thuốc men, vận dụng trí óc hay thuốc bổ và ăn uống kiêng cữ. C. Cách nói chuyện với bệnh nhân Alzheimer's
Bệnh nhân Alzheimers thường dần dần mất khả năng đối thoại khiến người nói chuyện với họ không hiểu nổi họ đang nghĩ gì, nói gì. Do đó, nói chuyện với người bệnh là việc rất khó, chúng ta nên tìm hiểu rõ để bớt được sự bực dọc cho mình và cho họ. Tiến triển của bệnh: Những tuyến đường thần kinh trong óc của người bệnh Alzheimer thường bị phá hủy khiến họ không nhớ và không còn hiểu những chữ thường dùng nữa. Họ có thể cảm tưởng như biết chữ đó, có sẵn trên đầu lưỡi nhưng không thể nói ra, vì thế họ rất bực dọc. Họ có thể dùng một chữ khác để thay thế chữ định nói dù ý nghĩa khác hẳn. Hay họ có thể chế ra một chữ mới để thế chữ họ định nói. Họ cũng có thể như bị kẹt vô một cái rãnh trên máy hát, nhắc đi nhắc lại mãi một câu hỏi. Người bệnh Alzheimer's cũng có thể - Bị mất dòng suy nghĩ - Vật lộn với cấu trúc của câu, chữ cho có nghĩa - Cần thêm thời gian để hiểu bạn muốn nói gì - Chửi thề hay nói lỗ mãng Phải làm sao? - Hiểu người bệnh. Hiểu rằng họ không cố tình làm như vậy. - Cho họ thấy mình chú ý tới họ. Nhìn thẳng vào mắt họ và luôn ở gần bên để người bệnh biết là bạn đang lắng nghe và muốn hiểu họ. - Không nói chuyện ở chỗ đông người và nhiều tiếng động - Dùng chữ đơn giản, câu ngắn. Tránh nói những câu phức tạp hay đưa lời chỉ dẫn. Khi cần, nói chậm và chia thành từng đoạn một. Đưa ra quá nhiều giai đoạn cùng lúc sẽ làm bệnh nhân rối loạn thêm. - Không ngắt câu bệnh nhân có thể cần nhiều phút để trả lời. Không phê bình, vội vã, sửa lỗi họ, cãi nhau với họ. - Đưa ra vật dụng hay hình ảnh rõ ràng khi nói. Thí dụ dẫn họ đến cầu tiêu để hỏi họ cần đi hay không. - Không cãi nhau với người bệnh. Họ đã mất khả năng lý luận và phán đoán, do đó cố chứng minh họ sai chỉ là việc không tưởng, làm cả hai cùng tức giận. - Giữ bình tĩnh và thư giãn. Dù bực tức, bạn nên giữ giọng hòa nhã, bình tĩnh. Nếu lời nói và giọng nói không đi đôi với nhau, bệnh nhân sẽ khó hiểu. Giọng nói, cử chỉ của bệnh nhân nhiều khi nói lên nhiều hơn chính tiếng nói của bạn.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 19, 2016 8:55:15 GMT 9
Chứng ù tai VienDongDaily.Com “Reeeng... reeeng...reeeng...” Tiếng vang kêu hoài không ngớt, nghe khó chịu quá. Tưởng tượng đó không phải là tiếng động từ bên ngoài mà là tiếng vang từ ...bên trong tai bạn! Điều này còn khó chịu gấp bội. Và khổ hơn nữa là bạn không có cách nào làm mất đi tiếng vang ấy ngay lập tức theo ý muốn. Khi nào “nó” muốn dứt là dứt, có khi nó không bao giờ dứt, làm bệnh nhân có thể điên lên được. Ngoài tiếng reng như trên , người ta còn có thể nghe những tiếng động khác như tiếng sóng vỗ, tiếng chim hót, tiếng đập trống, tiếng âm ư... Đây là chứng ù tai, một “bệnh” khá thông thường. Người ta ước tính có tới vài triệu người Mỹ mắc chứng ù tai tới mức ảnh hưởng tới cuộc sống của họ. Chứng ù tai không phải là một bệnh mà là một triệu chứng có thể gây ra bởi nhiều bệnh khác nhau, thí dụ như bệnh giảm thính lực của tuổi già hay do chấn thương tai. Ù tai cũng có thể là triệu chứng của bệnh về hệ tuần hoàn. Thế nào là ù tai?Nếu chưa bao giờ bị ù tai, các bạn sẽ khó tưởng tượng được ù tai là như thế nào. Những bệnh nhân ù tai “nghe” thấy trong tai mình có những tiếng động bên ngoài không hề có mà chính họ đôi khi tưởng là có. Triệu chứng ù tai gồm có: · Tiếng động trong tai như tiếng reng, tiếng “zừ”, tiếng gầm, tiếng huýt sáo hay tiếng “xì”.. · Mất thính giác Những tiếng động nghe được có thể lớn hay nhỏ, cao hay thấp và có thể nghe trong một hay hai tai. Trong vài trường hợp, tiếng ù tai lớn đến nỗi bệnh nhân không nghe được những tiếng động thực sự bên ngoài. Ráy tai quá nhiều cũng có thể làm bạn ù tai nhiều hơn. Ráy tai nhiều khiến bệnh nhân không nghe tiếng động thực sự bên ngoài và làm tiếng động “bên trong” lớn hơn. Nguyên nhân của chứng ù tai Nơi tai trong (inner ear), chúng ta có hằng ngàn những tế bào thính giác có chứa điện. Trên mặt của những tế bào thính giác là những sợi lông rất nhỏ. Nếu chúng ở tình trạng “mạnh khỏe”, những sợi lông này sẽ chuyển động theo sức ép của những làn sóng âm thanh từ ngoài vào. Sự chuyển động này khiến cho những tế bào thính giác phát ra một luồng điện tới sợi thần kinh thính giác và rồi những tín hiệu này được gửi lên óc. Óc chúng ta nhận ra đây là những âm thanh. Nếu những sợi lông mỏng manh này bị hư hại, uốn cong, chúng sẽ chuyển động rối loạn không theo một chiều hướng nào cả. Do đó, những tế bào thính giác sẽ gửi lên óc những “tín hiệu” bất thường khiến óc bạn “nghe” được âm thanh không hề có. Các tế bào thính giác có thể bị hư hại do những nguyên nhân sau: · Giảm thính lực do tuổi già: bệnh này thường bắt đầu vào khoảng 60 tuổi. · Chấn thương gây hư hại tai trong: những tiếng động quá lớn, nghe từ ngày này qua ngày khác như tiếng nhạc rock, xe kéo hạng nặng, cưa máy, khí giới...có thể làm giảm thính lực nhiều. · Dùng một vài thứ thuốc quá lâu ngày thí dụ như thuốc aspirin hay một vài loại kháng sinh. Khi ngưng dùng thuốc, có thể bạn sẽ nghe trở lại. · Thay đổi của chuỗi xương nhỏ trong tai: những xương này có thể bị cứng lại khiến không vận chuyển âm thanh được vào tai trong. · Chấn thương ở cổ hay đầu có thể làm hư hại tai trong. Một vài bệnh về hệ tuần hoàn cũng có thể gây ra chứng ù tai từ bên trong: · Xơ động mạch: Với tuổi già và sự tích tụ của chất cholesterol cũng như vài loại chất mỡ khác, những mạch máu lớn gần tai giữa và tai trong của bạn sẽ bị mất tính đàn hồi tức khả năng co giãn với mỗi nhịp bóp của tim. Sự giảm tính đàn hồi này làm máu chẩy mạnh và xoáy hơn khiến tai ta có thể nghe được. · Cao huyết áp: cao huyết áp và những yếu tố khác như stress, rượu và cà phê có thể làm cho âm thanh ù tai rõ hơn. Thường, ta có thể làm âm thanh biến mất khi thay đổi vị trí đầu. · Luồng máu chẩy bị xoáy: khi động mạch hay tĩnh mạch ngay cổ bị hẹp hay bị gập lại, luồng máu chẩy bị xoáy khiến làm ra tiếng động. · Những vi quản bị dị dạng: một tình trạng gọi là dị dạng chỗ nối giữa động mạch và tĩnh mạch có thể gây ra tiếng động làm ù tai. · Bướu ở vùng đầu và cổ: ù tai có thể là một triệu chứng của bệnh này. Khi nào nên đi khám bệnh? Đa số chứng ù tai không làm hại gì cả. Tuy nhiên, nếu càng ngày càng bị ù tai nhiều, hoặc kèm theo mất thính lực và chóng mặt, bạn nên đi khám bệnh. Bác sĩ có thể giúp bạn làm giảm bớt tiếng động ù tai và cách để làm quen với tiếng động này. Nếu chứng ù tai của bạn không phải là do bệnh mất thính lực vì tuổi già, và ù tai xuất hiện cùng lúc với mất thính lực trong cùng một bên tai, có thể là bạn đã bị hư hại dây thần kinh nơi tai trong do một chấn thương nào đó, bạn cần phải được khám bệnh. Chữa bệnhCách chữa bệnh ù tai là tùy theo nguyên nhân. Nếu nguyên nhân là chứng mất thính lực do tuổi già hoặc tai bị hư hại do nghe tiếng động quá to lâu ngày, không có cách nào làm giảm tiếng động này cả. Bác sĩ có thể chỉ cách cho bạn làm quen với những tiếng động này. Nếu ù tai là do một nguyên nhân khác, thí dụ như do quá nhiều ráy tai, bác sĩ có thể lấy ráy ra để giúp bạn nghe rõ hơn và bớt ù tai. Nếu là do bệnh mạch máu, cách chữa phải hướng về những bệnh này. Nếu do thuốc uống, có thể bạn phải ngưng uống hoặc đổi qua một thứ thuốc khác. Do đó, bạn cần đi khám bệnh để tìm ra nguyên nhân. Ngoài ra bạn còn có thể theo những cách sau đây để làm giảm thiểu sự khó chịu khi phải “nghe” tiếng động ù tai: · Tránh những chất kích thích: ù tai có thể tăng lên do tiếng động quá lớn, chất nicotine trong thuốc lá, chất caffeine, nước khoáng có chứa chất quinine, rượu và aspirin. Chất nicotine và caffeine làm mạch máu co lại và tăng tốc độ luồng máu chẩy qua động mạch và tĩnh mạch. Rượu làm cho trương nở mạch máu khiến lượng máu chẩy qua lớn hơn, nhất là vùng tai trong, do đó, bạn bị ù tai nhiều hơn. · Lấp bớt tiếng động: khi trong phòng yên lặng, nên cho quạt chạy, mở nhạc êm dịu và nhỏ có thể làm giảm bớt tiếng ù tai. Người ta cũng có thể đeo một thứ máy phát ra tiếng động êm tai để che bớt tiếng ù tai . · Mang máy nghe: nếu ù tai đi theo với mất thính lực, đeo máy nghe để nghe rõ hơn có thể làm giảm bớt tiếng ù. · Giảm bớt căng thẳng: có thể dùng những cách như tập thư giãn, biofeedback hay tập thể dục để giúp giảm ù tai.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 19, 2016 8:58:08 GMT 9
Chứng đau gót chân VienDongDaily.Com BS Nguyễn Thị Nhuận
Không ít người đã từng bị chứng đau gót chân hành hạ. Một buổi sáng đẹp trời, bạn vừa thức giấc và đặt chân xuống sàn nhà thì bị đau thốn ở gót chân, đôi khi có thể đau đến không đi được, và mỗi lần bàn chân chạm đất là mỗi lần bị đau. Vậy là bạn đã bị chứng đau gót chân mà nguyên nhân thông thường nhất là viêm dây gân ở lòng bàn chân (plantar fascia). Dây gân này chạy dọc lòng bàn chân của bạn, nối xương gót với các ngón chân.
Sưng dây gân lòng bàn chân (plantar fasciitis) sẽ làm gót chân bạn đau như bị dao đâm, thường xảy ra với những bước chân đầu tiên vào buổi sáng. Khi thả lỏng bàn chân, bạn thấy bớt đau, nhưng cái đau có thể trở lại khi bạn đứng lâu hoặc đứng lên sau khi ngồi lâu.
Chứng này rất thường thấy nơi những người hay chạy (runners). Ngoài ra, những người cân nặng quá khổ, phụ nữ đang mang thai và những người hay mang giày không chắc chắn cũng dễ bị chứng đau này.
Triệu chứng Trong hầu hết các trường hợp, bệnh nhân có những triệu chứng sau: - Đau ngày càng tăng - Chỉ đau một chân, mặc dù bệnh có thể xảy ra ở cả hai chân cùng một lúc - Đau xẩy ra với các bước đầu tiên sau khi thức dậy, mặc dù cũng có thể xẩy ra khi đứng lâu hoặc đứng lên từ tư thế ngồi. - Gót chân đau như bị đâm Nguyên nhân Thông thường, dây gân lòng bàn chân hoạt động như một dây cung hấp thụ chấn động, hỗ trợ vòm cong của bàn chân. Nếu dây cung này bị căng quá độ, nó có thể bị các vết xước nhỏ. Nếu cứ bị căng và xước nhiều lần như vậy, dây gân sẽ bị viêm, sưng. Ai dễ bị sưng dây gân? Những yếu tố có thể làm tăng nguy cơ bị sưng dây gân bao gồm: - Tuổi: Người trong độ tuổi từ 40 và 60 dễ bị nhất - Phái tính: Phụ nữ bị nhiều hơn - Cách tập thể dục: Những hoạt động đặt nhiều sức căng trên gót chân và những mô kèm theo- chẳng hạn như chạy đường dài, múa ballet và nhảy aerobics - có thể góp phần gây ra sưng dây gân. - Cấu tạo bàn chân có “vấn đề”: Bàn chân phẳng (flat foot), vòm chân quá cong hoặc tướng đi bất thường có thể ảnh hưởng đến cách trọng lượng phân phối khi bạn đứng và tạo thêm căng thẳng trên dây gân. - Béo phì: Trọng lượng thân thể quá nặng tạo thêm sức đè và căng thẳng trên dây gân bạn. - Nghề nghiệp: Công nhân nhà máy, giáo viên và những người phải đi bộ hoặc đứng trên các bề mặt cứng trong thời gian dài khi làm việc có thể gây thương tích cho dây gân của họ. - Mang giày thiết kế không đúng cách: Nên tránh giày lỏng lẻo, có đế mỏng, cũng như những đôi giày không có phần hỗ trợ cho vòm cong của bàn chân hoặc không có phần lót đầy đủ để hấp thụ sốc. Nếu bạn thường xuyên mang giày cao gót, dây gân gót chân (Achilles tendon) của bạn có thể co rút và bị ngắn lại, làm những mô xung quanh gót chân bị căng và dễ tổn thương. Biến chứng Bỏ qua không chữa bệnh sưng dây gân có thể đưa đến đau gót chân kinh niên gây cản trở cho những hoạt động thường xuyên của bạn. Bạn cũng có thể bị đau chân, đầu gối, hông hoặc lưng vì sưng dây gân khiến bạn thay đổi cách đi của mình. Nên hỏi ý kiến bác sĩ gia đình và bác sĩ có thể giới thiệu bạn đến một bác sĩ chuyên khoa bàn chân hay y khoa thể thao. Phương pháp điều trị và thuốc Khoảng 90% những người bị sưng dây gân bàn chân hết bệnh với các phương pháp điều trị thông thường trong một vài tháng.
Thuốc: Các loại thuốc để giảm bớt các triệu chứng: - Thuốc kháng viêm không steroid (NSAIDs): Ibuprofen (Advil, Motrin, những hiệu khác) và naproxen (Aleve), có thể làm giảm đau và viêm, mặc dù không điều trị tận gốc. - Corticosteroid: Bác sĩ có thể dùng phương pháp Iontophoresis: dán thuốc trên chỗ đau và cho một dòng điện không đau chạy qua để giúp hấp thu thuốc. Hoặc bác sĩ có thể chích thẳng thuốc vào chỗ đau. Không nên chích nhiều lần vì có thể làm suy yếu dây gân hoặc dây gân bị vỡ, hay phần chất béo bao quanh xương gót chân bị nhỏ lại. *Phương pháp điều trị khác Stretching, các bài tập làm tăng sức mạnh hoặc dùng những dụng cụ đặc biệt có thể làm giảm bớt triệu chứng. - Thể lý trị liệu: Các bài tập căng dây gân lòng bàn chân, dây gân Achilles và làm mạnh các cơ cẳng chân khiến ổn định mắt cá và gót chân của bạn. Dùng băng dán đúng cách cũng có thể giúp hỗ trợ lòng bàn chân của bạn. - Đeo nẹp ban đêm: Bác sĩ có thể khuyên bạn đeo một thanh nẹp trải dài bắp chân và vòm cung bàn chân trong khi ngủ. Nẹp giữ dây gân lòng bàn chân và gân Achilles thẳng trong một thời gian dài, giúp căng những dây gân này. - Dụng cụ chỉnh hình: Bác sĩ có thể kê toa cho mua dụng cụ hỗ trợ vòm bàn chân để giúp phân phối áp lực trên chân đồng đều hơn. Nếu tất cả các phương pháp thông thường trên không có kết quả, có thể phải giải phẫu để chữa bệnh, nhưng điều này ít khi xảy ra. *Những phương pháp khác - Châm cứu được cho là có thể giúp chữa bệnh sưng dây gân lòng bàn chân rất hữu hiệu - Những dụng cụ hổ trợ vòm bàn chân có chứa nam châm được quảng cáo là hữu hiệu nhưng không có chứng cớ gì cho thấy điều này đúng. Tự giúp Nên theo những cách sau để làm giảm đau và khó chịu ở bàn chân của bạn: - Nghỉ không đi lại một vài ngày khi bị đau nhiều - Chườm đá: Chườm túi đá lên vùng đau trong 15 đến 20 phút, ba hoặc bốn lần một ngày hoặc sau khi hoạt động. Hoặc thử xoa bóp bằng nước đá. Lăn một ly giấy chứa đầy nước đá trên chỗ đau trong khoảng 5- 7 phút. Thường xuyên xoa bóp bằng nước đá có thể giúp giảm đau và viêm. - Bớt đi bộ hay chạy cho đến khi khỏi đau - Tập thể dục bằng những môn có tác động thấp (low impact): Thay vì đi bộ hoặc chạy bộ thì nên đổi qua đi xe đạp hay bơi lội. Bạn sẽ có thể trở lại hoạt động trước kia nếu giảm bớt đau gót chân. Tuy nhiên, một số người thấy rằng cách duy nhất để tránh đau trở lại là ngưng tập những môn có tác động cao (high impact), chẳng hạn như chạy bộ và nhảy. - Đeo thêm dụng cụ hỗ trợ vòm bàn chân trong đôi giày của bạn. - Tập những động tác làm căng vòm bàn chân. *Phòng ngừa Bạn có thể theo những cách sau đây để ngừa bệnh đau giót chân - Giữ cân nặng vừa phải khiến giảm thiểu sự căng thẳng trên dây gân. - Chọn giày tốt: Tránh đi giày cao gót. Mua giày thấp hoặc cao trung bình, có phần hỗ trợ vòm lòng bàn chân tốt và hút sốc. Đừng đi chân đất, đặc biệt là trên các bề mặt cứng. - Đừng mang giày thể thao đã mòn. Nên mua giày mới sau khi đã sử dụng khoảng 500 dặm.
|
|