Post by Vĩnh Long on Jul 22, 2007 10:06:08 GMT 9
Những món quà vô gia của ngýời Chãmpa
Nguyễn Ðức Hiệp
Qua hàng ngàn nãm, những di sản ngýời Chãmpa ðể lại trên ðất nýớc Việt Nam, ngoài vãn hóa và kiến trúc, còn có các di sản ðịa vật và kinh tế.
Quảng Nam có lụa Phú Bông
Có khoai Trà Ðóa có sông Thu Bồn
Mã Ðoan Lâm (Ma Tuan-Lin), sử gia ngýời Trung Hoa thế kỷ 13 viết về các dân tộc phía Nam Trung Quốc dựa vào sử của nhà Lýõng, Hán và Tùy ðã miêu tả nhý sau về những ngýời và phong tục dân Lâm Ấp vào thế kỷ thứ 4. Ðây có thể coi là tài liệu cổ nhất và lý thú nhất về dân tộc học nói về ngýời Ðông Nam Á bằng tiếng Hán (trích từ G. Coedes [1], dịch từ tiếng Hán ra Pháp rồi sang Anh ngữ từ bản “Ethnographie des peuples etrangers a la Chine, ouvrage compose au XIIIe siecle de notre ere, trans., Marquis d' Hervey, Geneva, 1883).
“Cý dân ở ðây xây týờng nhà bằng gạch nung, phết trên gạch là một lớp vôi. Nhà ðýợc xây trên một nền hay sân gọi là kan-lan (chú thích: kan-lan tiếng Chãm nghĩa là nền sân, hiện nay ngýời Chãm gọi sân tháp Chãm là kan-lan). Cửa nhà thýờng ðặt ở hýớng Bắc, ðôi khi ở phía Ðông hay Tây không có một qui tắc nhất ðịnh nào. Ðàn ông và ðàn bà không có một y phục nào khác ngoài một ðoạn vải ki-peh quấn quanh ngýời. Họ khoét lỗ bông tai ðể ðeo các vòng trang sức nhỏ. Những ngýời có chức sắc ðều ði chân ðất. Những phong tục này cũng ðýợc theo ở výõng quốc Phù Nam và tất cả các výõng quốc khác phía xa quá Lâm Ấp. Vua ðội nón cao trang trí với hoa màu vàng và chung quanh viền nón ðýợc tỉa gọn với núm tua bằng lụa. Khi ra ngoài nhà vua cýỡi voi; ði trýớc là các kèn tù và và trống, vua ðýợc che dýới một dù làm bằng vải ki-peh, chung quanh là nô tì cầm cờ xí cũng ðýợc làm bằng vải ki-peh.
Ðám cýới lúc nào cũng ðýợc tổ chức vào ngày thứ tám của trãng. Chính ngýời con gái ði hỏi con trai, vì con gái ðýợc xem là thứ yếu. Hôn nhân giữa những ngýời cùng họ không bị ngãn cấm. Những ngýời ngoại quốc này có cá tính dữ dằn và ác. Vũ khí của họ gồm có cung, tên, kiếm, giáo, và nỏ làm bằng gỗ tre.
Nhạc cụ họ dùng rất giống nhạc cụ của chúng ta: ðàn tì bà, ðàn bầu 5 giây, sáo v.v... Họ cũng dùng kèn tù và và trống ðể báo hiệu cho dân chúng.
Họ có mắt to và sâu, mũi thẳng và cao, tóc quãn ðen. Ðàn bà búi tóc trên ðỉnh ðầu thành hình nhý búa rìu... (chú thích: ðây ðúng là ngýời thuộc giống Austronesia ở dọc quần ðảo Malay, Indonesia...).
Nghi lễ tang của vua bắt ðầu 7 ngày sau khi vua mất, còn các quan ðại thần thì 3 ngày sau khi mất, và ngýời dân thýờng 1 ngày sau khi chết. Bất kể chức týớc của ngýời mất, thi hài ðều ðýợc bó lại cẩn thận, sau ðó ðýợc mang ðến bờ biển hoặc bờ sông giữa nhạc trống và ðiệu múa, và ðýợc hỏa thiêu trên dàn củi. Sau khi thi hài của vua ðýợc hỏa táng, xýõng cốt còn lại ðýợc bỏ vào hủ làm bằng vàng và ném xuống biển. Còn xýõng cốt của các quan lại thì ðựng trong hủ bạc và ném xuống cửa sông. Với thýờng dân, hủ ðất ðựng cốt ném xuống sông là ðủ (chú thích: ðây ðúng là phong tục xýa của ngýời Chãm Indonesian với nguồn gốc vãn hóa sông, nýớc, biển).
Trồng bông dệt vải
Ngýời Chãm rất giỏi dệt vải lụa màu và sản xuất nhiều “vải bông ki-pei”. Ngýời ta ðã tìm thấy ở nhiều di tích Sa Huỳnh những “con lãn” bằng ðất nung là cùng với màu sắc hoa vãn trên vải lụa và nhiều dọi xe sợi bằng ðất nung. Trong 31 ðồ triều cống cho nhà Minh, có tới 13 ðồ vật bằng vải bông nhý vải in hoa ðỏ, vải in hoa cải củ, vải bông trắng, vải bông ðen, khãn tay, khãn vấn ðầu... Áo dài của phụ nữ Việt bây giờ, giống in hệt áo của phụ nữ Chàm, chỉ khác áo Việt xẻ cao ðến eo, còn áo Chàm may kín.
Món quà quí từ ðảo xa
“Khoai ðất lạ”, thịnh hành với ðất cát ven biển, sông, cũng nhý mía, vốn có nguồn gốc quê hýõng từ hải ðảo Thái Bình Dýõng và Châu Mỹ, ðýợc cý dân Nam Ðảo Mã Lai du nhập vào khu vực hàng hải Ðông Nam Á. Quê hýõng của cây bông là Ấn Ðộ. Cý dân cổ Sa Huỳnh, cý dân Chãm cổ thýờng xuyên có mặt ngoài khõi, ngoài ðảo xa. Vì thế họ ðã có sự giao lýu kinh tế vãn hóa với thế giới hải ðảo Thái Bình Dýõng và Ấn Ðộ Dýõng. Họ ðã nhập và thuần hóa các thực vật ðể trồng trọt nhý khoai, mía, bông và xây dựng ðýợc các vùng ðặc sản mà ngày sau ngýời Việt thừa kế: khoai Trà Ðóa, ðýờng mía Quảng Ngãi, bông Ðiện Bàn, Phan Rang, Phan Rí...( 2)
Quà tiên: lúa Chiêm
Lúa Chiêm từ Champa ðã ðýợc ðýa vào Việt Nam từ thế kỷ 10. Theo Lê Quý Ðôn (3) nhiều loại lúa từ Chiêm Thành ðã ðýợc mang vào Trung Quốc nhý lúa tẻ có lông, lúa tẻ chín sớm (lúa tiên), lúa tiễn tử (lúa 60 ngày, lúa chín trễ hõn gọi là lúa 80 ngày, lúa 100 ngày). Lúa Chiêm từ Việt Nam ðã lan qua Trung Quốc tạo nên một cuộc cách mạng kinh tế lớn lao. Có thể so sánh ðây là cuộc cách mạng xanh (green revolution) ðầu tiên trýớc cuộc cách mạng xanh sau này ở thế kỷ 20. Vua Tống Chân Tông (998-1022) ðã mang lúa Chiêm vào Trung Quốc, sau này ðã ðýợc áp dụng khắp nõi ở Nam Trung Quốc, ngýời Trung Quốc gọi loại lúa này là “lúa tiên”. Lúa Chiêm Thành, theo sử Trung Quốc, ðýợc nhà Tống mang áp dụng vào ðầu thế kỷ 11, bắt ðầu từ tỉnh Phúc Kiến, mang ðến Triết Giang ðể cấy trồng sau những vụ mất mùa do hạn hán và ðể tãng thêm thu hoạch. Lúa Chiêm Thành tãng trýởng và chín rất nhanh nên có thể trồng ðýợc hai vụ lúa trong nãm. Nãng suất vì thế rất cao. Ðến thời nhà Minh thì các tỉnh phía Nam sông Dýõng Tử từ Triết Giang, Phúc Kiến ðến Hải Nam ðều dùng lúa Chiêm Thành. Cuộc cách mạng sản xuất nông nghiệp ðã ðýa ðến sự tãng trýởng nhanh chóng về dân số và kinh tế với sự bành trýớng và xuất hiện của các trung tâm ðô thị mới. Ngýời Trung Quốc còn gọi lúa Chiêm Thành là lúa do trời ban cho (lúa tiên). Ðại Việt và Trung Quốc lớn mạnh cũng một phần do sự phát triển nông nghiệp qua lúa Chiêm.
Âm nhạc
Vãn hóa Chãm có ảnh hýởng vào xã hội Việt Nam, nhất là trong ðời Lý-Trần. Chiêu Vãn Výõng Trần Nhật Duật là một thí dụ ðiển hình. Giỏi âm nhạc, Trần Nhật Duật cũng có niềm say mê ðặc biệt các ngôn ngữ nýớc ngoài. Ông rất thích chõi với ngýời nýớc ngoài, tìm hiểu phong tục, tập quán, vãn hóa và triết lý của họ. Từ Thãng Long, ông thýờng cýỡi voi ðến chõi thôn Da-da-li - một thôn gồm ngýời Việt gốc tù binh Chiêm Thành (Champa), sau gọi trệch là thôn Bà Già, có lẽ ở mạn Cổ Nhuế, Từ Liêm - có khi ba bốn ngày mới về. Vãn hóa Chãm nhất là về âm nhạc, triết lý không những lôi cuốn ông mà có ảnh hýởng sâu rộng trong xã hội, vãn hóa Việt Nam trong các triều ðại Lý, Trần. Các ðiệu nhạc cung ðình, chèo và quan họ trong dân gian ðều có nguồn gốc ảnh hýởng từ vãn hóa Chãm (4)(5). Một số kiến trúc chùa ðình thời Lý-Trần trong giai ðoạn này cũng có mang nét ảnh hýởng kiến trúc Chiêm Thành nhý một số hình týợng chim thần Garuda (5). Triết và ðạo lý giữa hai dân tộc Việt Nam-Chiêm Thành cũng giao lýu và ảnh hýởng nhau. Thái Thýợng Hoàng Trần Nhân Tông lúc về hýu cũng ðã không ngại ðýờng xa thân hành qua Chiêm Thành ðể bàn bạc, trao ðổi, học hỏi vãn hóa ðạo Phật và sống chung nhý anh em với vua quan Chiêm Thành trong một thời gian (3).
Kiến trúc
Theo An Nam Chí Lýợc của Lê Tắc, tháp Bảo Thiên 11 tầng ở hồ Hoàn Kiếm là do tù binh Chãm xây dựng. Nhiều chùa ở Hà Nội nhý chùa Châu Lâm, quận Ba Ðình có các týợng “bà banh”, một số týợng ðứng trên bệ ðá có ðiêu khắc chim thần Garuda. Ngay cả ở Thanh Hóa, Nghệ An ngýời Chãm ðã cý ngụ từ thế kỷ 7-9 ðể lại ði tích “nhạn tháp” ở Nghệ An. Dọc sông và bờ biển Thanh Hóa ðã tìm thấy các di tích ðiêu khắc Chãm. Mai Hắc Ðế nổi dậy chống Trung Quốc ở thế kỷ 8 chống Trung Quốc có cha là ngýời Chãm, mẹ Việt.
Tiếng nói
Ngôn ngữ Chãm còn ðể vết ảnh hýởng trên các dân tộc Tây Nguyên. Từ thuở xýa, ngýời Chãm ở bờ biển ðã tiến vào vùng Tây Nguyên nõi các dân tộc nói tiếng Mon-Khmer (nhánh Bahnaric) cý ngụ. Qua ðó một số các dân tộc chuyển ngữ và nói các ngôn ngữ mà ngày nay ta gọi là Jarai, Rhade, Roglai... Những ngôn ngữ này, cùng với tiếng Chãm, ðýợc gọi chung là ngôn ngữ Chamic. Vào thế kỷ 12, Vua Jaya Harivarman ðánh chiếm vùng Tây Nguyên của ngýời Thýợng mà các bia ký Chãm thýờng gọi là ngýời Kiratas. Rải rác trên Tây Nguyên có các tháp (nhý Yang Prong, Ðắc Lắc), các týợng, tác phẩm ðiêu khắc tìm ðýợc ở Yang Kum (kontum), Drang-Lai (Ðắc Lắc).
Tiếng Việt và tiếng Chàm cũng có chung một số từ vựng, xin ghi lại vài từ thông dụng (8):
Việt-Chàm
cằm-kang
mày-(mi) limay
mặt-mýta, mata
mẹ-me, meh
má-miêng
máu-mãn-ni
cổ-takôy
tay-tangin
Hiện nay ngýời Chãm còn ở rải rác các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Nghiên cứu về vãn hóa và vãn minh Champa ðýợc chú ý hõn gần ðây ở trong nýớc qua các công trình của Inrasara, Ngô Ðãng Doanh, Trần Kỳ Phýõng... Kho tàng vãn minh và vãn hóa Chãm bắt ðầu ðýợc khai thác trở lại. Ngoài ra ở các thôn Chãm còn có những vãn tự viết trên lá buông truyền từ nhiều ðời, hiện chýa ðýợc sử dụng thiết thực. Ngoài Inrasara (7) những bài viết giá trị về vãn hóa Chãm, ðầu nãm 2004, tôi có ðọc trên báo ở Việt Nam nói về ông Lâm Gia Tịnh, ngýời Chãm, trýớc ðây là thành viên biên soạn từ ðiển Chãm-Việt-Pháp, xuất bản nãm 1971, nay ðã về hýu ở Ninh Thuận ðã bỏ ra cả ðời ðể sýu tầm thý tịch cổ trên lá buông và chữ viết của ngýời Chãm. Theo ông, thý tích cổ trên lá buông là vật gia bảo nên rất khó sýu tầm. Truyền nhau qua nhiều ðời cho ðến lúc mối mọt ðục nát thì ðem ra thả sông hoàn trả về ðất trời chứ không mua bán hoặc biếu tặng. Ngýời ta không hiểu nội dung thý tịch nói gì nhýng phải giữ lại vì sợ mang tội với ngýời xýa. Phần lớn thý tịch cổ trên lá buông chép lại các chuyện cổ tích, các sự kiện, ðạo bùa, sấm truyền, tập tục xýa... Những bó lá buông thýờng ðýợc cất giữ trên mái nhà. Dù chiến tranh loạn lạc hay bất trắc ngýời Chãm cũng nghĩ ðến lá buông trýớc tiên. Hy vọng trong nay mai, kho tàng này sẽ ðýợc sử dụng ðúng mức và nhân lực nghiên cứu vãn hóa Chãm sẽ ðýợc tãng cýờng và hỗ trợ thêm.
Nguyễn Ðức Hiệp
Qua hàng ngàn nãm, những di sản ngýời Chãmpa ðể lại trên ðất nýớc Việt Nam, ngoài vãn hóa và kiến trúc, còn có các di sản ðịa vật và kinh tế.
Quảng Nam có lụa Phú Bông
Có khoai Trà Ðóa có sông Thu Bồn
Mã Ðoan Lâm (Ma Tuan-Lin), sử gia ngýời Trung Hoa thế kỷ 13 viết về các dân tộc phía Nam Trung Quốc dựa vào sử của nhà Lýõng, Hán và Tùy ðã miêu tả nhý sau về những ngýời và phong tục dân Lâm Ấp vào thế kỷ thứ 4. Ðây có thể coi là tài liệu cổ nhất và lý thú nhất về dân tộc học nói về ngýời Ðông Nam Á bằng tiếng Hán (trích từ G. Coedes [1], dịch từ tiếng Hán ra Pháp rồi sang Anh ngữ từ bản “Ethnographie des peuples etrangers a la Chine, ouvrage compose au XIIIe siecle de notre ere, trans., Marquis d' Hervey, Geneva, 1883).
“Cý dân ở ðây xây týờng nhà bằng gạch nung, phết trên gạch là một lớp vôi. Nhà ðýợc xây trên một nền hay sân gọi là kan-lan (chú thích: kan-lan tiếng Chãm nghĩa là nền sân, hiện nay ngýời Chãm gọi sân tháp Chãm là kan-lan). Cửa nhà thýờng ðặt ở hýớng Bắc, ðôi khi ở phía Ðông hay Tây không có một qui tắc nhất ðịnh nào. Ðàn ông và ðàn bà không có một y phục nào khác ngoài một ðoạn vải ki-peh quấn quanh ngýời. Họ khoét lỗ bông tai ðể ðeo các vòng trang sức nhỏ. Những ngýời có chức sắc ðều ði chân ðất. Những phong tục này cũng ðýợc theo ở výõng quốc Phù Nam và tất cả các výõng quốc khác phía xa quá Lâm Ấp. Vua ðội nón cao trang trí với hoa màu vàng và chung quanh viền nón ðýợc tỉa gọn với núm tua bằng lụa. Khi ra ngoài nhà vua cýỡi voi; ði trýớc là các kèn tù và và trống, vua ðýợc che dýới một dù làm bằng vải ki-peh, chung quanh là nô tì cầm cờ xí cũng ðýợc làm bằng vải ki-peh.
Ðám cýới lúc nào cũng ðýợc tổ chức vào ngày thứ tám của trãng. Chính ngýời con gái ði hỏi con trai, vì con gái ðýợc xem là thứ yếu. Hôn nhân giữa những ngýời cùng họ không bị ngãn cấm. Những ngýời ngoại quốc này có cá tính dữ dằn và ác. Vũ khí của họ gồm có cung, tên, kiếm, giáo, và nỏ làm bằng gỗ tre.
Nhạc cụ họ dùng rất giống nhạc cụ của chúng ta: ðàn tì bà, ðàn bầu 5 giây, sáo v.v... Họ cũng dùng kèn tù và và trống ðể báo hiệu cho dân chúng.
Họ có mắt to và sâu, mũi thẳng và cao, tóc quãn ðen. Ðàn bà búi tóc trên ðỉnh ðầu thành hình nhý búa rìu... (chú thích: ðây ðúng là ngýời thuộc giống Austronesia ở dọc quần ðảo Malay, Indonesia...).
Nghi lễ tang của vua bắt ðầu 7 ngày sau khi vua mất, còn các quan ðại thần thì 3 ngày sau khi mất, và ngýời dân thýờng 1 ngày sau khi chết. Bất kể chức týớc của ngýời mất, thi hài ðều ðýợc bó lại cẩn thận, sau ðó ðýợc mang ðến bờ biển hoặc bờ sông giữa nhạc trống và ðiệu múa, và ðýợc hỏa thiêu trên dàn củi. Sau khi thi hài của vua ðýợc hỏa táng, xýõng cốt còn lại ðýợc bỏ vào hủ làm bằng vàng và ném xuống biển. Còn xýõng cốt của các quan lại thì ðựng trong hủ bạc và ném xuống cửa sông. Với thýờng dân, hủ ðất ðựng cốt ném xuống sông là ðủ (chú thích: ðây ðúng là phong tục xýa của ngýời Chãm Indonesian với nguồn gốc vãn hóa sông, nýớc, biển).
Trồng bông dệt vải
Ngýời Chãm rất giỏi dệt vải lụa màu và sản xuất nhiều “vải bông ki-pei”. Ngýời ta ðã tìm thấy ở nhiều di tích Sa Huỳnh những “con lãn” bằng ðất nung là cùng với màu sắc hoa vãn trên vải lụa và nhiều dọi xe sợi bằng ðất nung. Trong 31 ðồ triều cống cho nhà Minh, có tới 13 ðồ vật bằng vải bông nhý vải in hoa ðỏ, vải in hoa cải củ, vải bông trắng, vải bông ðen, khãn tay, khãn vấn ðầu... Áo dài của phụ nữ Việt bây giờ, giống in hệt áo của phụ nữ Chàm, chỉ khác áo Việt xẻ cao ðến eo, còn áo Chàm may kín.
Món quà quí từ ðảo xa
“Khoai ðất lạ”, thịnh hành với ðất cát ven biển, sông, cũng nhý mía, vốn có nguồn gốc quê hýõng từ hải ðảo Thái Bình Dýõng và Châu Mỹ, ðýợc cý dân Nam Ðảo Mã Lai du nhập vào khu vực hàng hải Ðông Nam Á. Quê hýõng của cây bông là Ấn Ðộ. Cý dân cổ Sa Huỳnh, cý dân Chãm cổ thýờng xuyên có mặt ngoài khõi, ngoài ðảo xa. Vì thế họ ðã có sự giao lýu kinh tế vãn hóa với thế giới hải ðảo Thái Bình Dýõng và Ấn Ðộ Dýõng. Họ ðã nhập và thuần hóa các thực vật ðể trồng trọt nhý khoai, mía, bông và xây dựng ðýợc các vùng ðặc sản mà ngày sau ngýời Việt thừa kế: khoai Trà Ðóa, ðýờng mía Quảng Ngãi, bông Ðiện Bàn, Phan Rang, Phan Rí...( 2)
Quà tiên: lúa Chiêm
Lúa Chiêm từ Champa ðã ðýợc ðýa vào Việt Nam từ thế kỷ 10. Theo Lê Quý Ðôn (3) nhiều loại lúa từ Chiêm Thành ðã ðýợc mang vào Trung Quốc nhý lúa tẻ có lông, lúa tẻ chín sớm (lúa tiên), lúa tiễn tử (lúa 60 ngày, lúa chín trễ hõn gọi là lúa 80 ngày, lúa 100 ngày). Lúa Chiêm từ Việt Nam ðã lan qua Trung Quốc tạo nên một cuộc cách mạng kinh tế lớn lao. Có thể so sánh ðây là cuộc cách mạng xanh (green revolution) ðầu tiên trýớc cuộc cách mạng xanh sau này ở thế kỷ 20. Vua Tống Chân Tông (998-1022) ðã mang lúa Chiêm vào Trung Quốc, sau này ðã ðýợc áp dụng khắp nõi ở Nam Trung Quốc, ngýời Trung Quốc gọi loại lúa này là “lúa tiên”. Lúa Chiêm Thành, theo sử Trung Quốc, ðýợc nhà Tống mang áp dụng vào ðầu thế kỷ 11, bắt ðầu từ tỉnh Phúc Kiến, mang ðến Triết Giang ðể cấy trồng sau những vụ mất mùa do hạn hán và ðể tãng thêm thu hoạch. Lúa Chiêm Thành tãng trýởng và chín rất nhanh nên có thể trồng ðýợc hai vụ lúa trong nãm. Nãng suất vì thế rất cao. Ðến thời nhà Minh thì các tỉnh phía Nam sông Dýõng Tử từ Triết Giang, Phúc Kiến ðến Hải Nam ðều dùng lúa Chiêm Thành. Cuộc cách mạng sản xuất nông nghiệp ðã ðýa ðến sự tãng trýởng nhanh chóng về dân số và kinh tế với sự bành trýớng và xuất hiện của các trung tâm ðô thị mới. Ngýời Trung Quốc còn gọi lúa Chiêm Thành là lúa do trời ban cho (lúa tiên). Ðại Việt và Trung Quốc lớn mạnh cũng một phần do sự phát triển nông nghiệp qua lúa Chiêm.
Âm nhạc
Vãn hóa Chãm có ảnh hýởng vào xã hội Việt Nam, nhất là trong ðời Lý-Trần. Chiêu Vãn Výõng Trần Nhật Duật là một thí dụ ðiển hình. Giỏi âm nhạc, Trần Nhật Duật cũng có niềm say mê ðặc biệt các ngôn ngữ nýớc ngoài. Ông rất thích chõi với ngýời nýớc ngoài, tìm hiểu phong tục, tập quán, vãn hóa và triết lý của họ. Từ Thãng Long, ông thýờng cýỡi voi ðến chõi thôn Da-da-li - một thôn gồm ngýời Việt gốc tù binh Chiêm Thành (Champa), sau gọi trệch là thôn Bà Già, có lẽ ở mạn Cổ Nhuế, Từ Liêm - có khi ba bốn ngày mới về. Vãn hóa Chãm nhất là về âm nhạc, triết lý không những lôi cuốn ông mà có ảnh hýởng sâu rộng trong xã hội, vãn hóa Việt Nam trong các triều ðại Lý, Trần. Các ðiệu nhạc cung ðình, chèo và quan họ trong dân gian ðều có nguồn gốc ảnh hýởng từ vãn hóa Chãm (4)(5). Một số kiến trúc chùa ðình thời Lý-Trần trong giai ðoạn này cũng có mang nét ảnh hýởng kiến trúc Chiêm Thành nhý một số hình týợng chim thần Garuda (5). Triết và ðạo lý giữa hai dân tộc Việt Nam-Chiêm Thành cũng giao lýu và ảnh hýởng nhau. Thái Thýợng Hoàng Trần Nhân Tông lúc về hýu cũng ðã không ngại ðýờng xa thân hành qua Chiêm Thành ðể bàn bạc, trao ðổi, học hỏi vãn hóa ðạo Phật và sống chung nhý anh em với vua quan Chiêm Thành trong một thời gian (3).
Kiến trúc
Theo An Nam Chí Lýợc của Lê Tắc, tháp Bảo Thiên 11 tầng ở hồ Hoàn Kiếm là do tù binh Chãm xây dựng. Nhiều chùa ở Hà Nội nhý chùa Châu Lâm, quận Ba Ðình có các týợng “bà banh”, một số týợng ðứng trên bệ ðá có ðiêu khắc chim thần Garuda. Ngay cả ở Thanh Hóa, Nghệ An ngýời Chãm ðã cý ngụ từ thế kỷ 7-9 ðể lại ði tích “nhạn tháp” ở Nghệ An. Dọc sông và bờ biển Thanh Hóa ðã tìm thấy các di tích ðiêu khắc Chãm. Mai Hắc Ðế nổi dậy chống Trung Quốc ở thế kỷ 8 chống Trung Quốc có cha là ngýời Chãm, mẹ Việt.
Tiếng nói
Ngôn ngữ Chãm còn ðể vết ảnh hýởng trên các dân tộc Tây Nguyên. Từ thuở xýa, ngýời Chãm ở bờ biển ðã tiến vào vùng Tây Nguyên nõi các dân tộc nói tiếng Mon-Khmer (nhánh Bahnaric) cý ngụ. Qua ðó một số các dân tộc chuyển ngữ và nói các ngôn ngữ mà ngày nay ta gọi là Jarai, Rhade, Roglai... Những ngôn ngữ này, cùng với tiếng Chãm, ðýợc gọi chung là ngôn ngữ Chamic. Vào thế kỷ 12, Vua Jaya Harivarman ðánh chiếm vùng Tây Nguyên của ngýời Thýợng mà các bia ký Chãm thýờng gọi là ngýời Kiratas. Rải rác trên Tây Nguyên có các tháp (nhý Yang Prong, Ðắc Lắc), các týợng, tác phẩm ðiêu khắc tìm ðýợc ở Yang Kum (kontum), Drang-Lai (Ðắc Lắc).
Tiếng Việt và tiếng Chàm cũng có chung một số từ vựng, xin ghi lại vài từ thông dụng (8):
Việt-Chàm
cằm-kang
mày-(mi) limay
mặt-mýta, mata
mẹ-me, meh
má-miêng
máu-mãn-ni
cổ-takôy
tay-tangin
Hiện nay ngýời Chãm còn ở rải rác các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, An Giang. Nghiên cứu về vãn hóa và vãn minh Champa ðýợc chú ý hõn gần ðây ở trong nýớc qua các công trình của Inrasara, Ngô Ðãng Doanh, Trần Kỳ Phýõng... Kho tàng vãn minh và vãn hóa Chãm bắt ðầu ðýợc khai thác trở lại. Ngoài ra ở các thôn Chãm còn có những vãn tự viết trên lá buông truyền từ nhiều ðời, hiện chýa ðýợc sử dụng thiết thực. Ngoài Inrasara (7) những bài viết giá trị về vãn hóa Chãm, ðầu nãm 2004, tôi có ðọc trên báo ở Việt Nam nói về ông Lâm Gia Tịnh, ngýời Chãm, trýớc ðây là thành viên biên soạn từ ðiển Chãm-Việt-Pháp, xuất bản nãm 1971, nay ðã về hýu ở Ninh Thuận ðã bỏ ra cả ðời ðể sýu tầm thý tịch cổ trên lá buông và chữ viết của ngýời Chãm. Theo ông, thý tích cổ trên lá buông là vật gia bảo nên rất khó sýu tầm. Truyền nhau qua nhiều ðời cho ðến lúc mối mọt ðục nát thì ðem ra thả sông hoàn trả về ðất trời chứ không mua bán hoặc biếu tặng. Ngýời ta không hiểu nội dung thý tịch nói gì nhýng phải giữ lại vì sợ mang tội với ngýời xýa. Phần lớn thý tịch cổ trên lá buông chép lại các chuyện cổ tích, các sự kiện, ðạo bùa, sấm truyền, tập tục xýa... Những bó lá buông thýờng ðýợc cất giữ trên mái nhà. Dù chiến tranh loạn lạc hay bất trắc ngýời Chãm cũng nghĩ ðến lá buông trýớc tiên. Hy vọng trong nay mai, kho tàng này sẽ ðýợc sử dụng ðúng mức và nhân lực nghiên cứu vãn hóa Chãm sẽ ðýợc tãng cýờng và hỗ trợ thêm.