|
Post by Huu Le on Aug 11, 2006 9:37:29 GMT 9
Ngô Minh "Ba phút sự thật" của Phùng Quán (Trich Talawas ) Nhà xuất bản Văn nghệ (TP H C M -SaiGon) vừa ấn hành tập ký Ba phút sự thật của nhà văn Phùng Quán, tập hợp mười lăm bài ký thấm đẫm nhân văn của cố nhà thơ nổi tiếng. “Ba phút sự thật” là bài viết ngắn về anh hùng dân tộc Cuba Ăng-tô-ni-ô Êch-xê-va-na đã vạch kế hoạch đánh chiếm Đài phát thanh Quốc gia để có 3 phút nói lên sự thật, vạch mặt chế độ độc tài Batista. Từng câu chuyện dù rất ngắn của Phùng Quán bao giờ cũng toát lên triết lý nhân văn sâu sắc, găm vào trí nhớ người đọc. Ví dụ, kết thúc bài viết ngắn “Ba phút sự thật”, anh viết: "Câu chuyện dạy tôi một bài học lớn về nghệ thuật ngôn từ. Cả những đề tài lớn lao nhất như sự thật, như chân lý, đều có thể diễn đạt trong vòng 180 giây đồng hồ với điều kiện tác giả phải sẵn sàng đem mạng sống trả giá cho những giây đồng hồ quý báu đó” (tr. 15). Vâng, để nói lên sự thật, viết về sự thật, chính Phùng Quán đã đánh đổi cả tuổi thanh xuân của mình! Vâng, Ba phút sự thật là sự thật của nhiều mảng đời buồn đau chưa từng được nói ra của những con người nổi tiếng tài hoa bạc phận. Cuốn sách có xuất xứ từ tập bản thảo Chuyện Phùng Quán do tôi sưu tầm và tuyển chọn trong hai năm 2004-2005, gồm các bài viết của các nhà văn nhà thơ, bạn đọc cả nước về văn chương và cuộc đời Phùng Quán và những bài viết của nhà văn Phùng Quán mới được sưu tầm và biên soạn từ chồng lai cảo anh để lại. Đầu năm 2006, tôi gửi bản thảo cho anh Nguyễn Đức Bình, giám đốc NXB Văn Nghệ. Trước đó năm 2002, tôi cũng đã sưu tầm và tuyển chọn tập Nhớ Phùng Quán dày 532 trang do NXB Trẻ và Công ty Văn hóa Phương Nam ấn hành. Tập Nhớ Phùng Quán cũng tập hợp nhiều bài viết xúc động của các nhà văn bạn bè anh Quán sau khi anh qua đời và tập hợp một số thơ và những bài ký của Phùng Quán. Cuốn sách rất được bạn đọc trong nước tìm mua và ca ngợi. Đọc tập bản thảo, anh Nguyễn Đức Bình điện ra Huế bàn với tôi rằng: “Tập Chuyện Phùng Quán rất xúc động, nhưng có kết cấu hơi giống với cuốn Nhớ Phùng Quán, nên sợ bạn đọc không chú ý. Nên chăng anh tập hợp cho nhà xuất bản cuốn sách gồm những bài viết của Phùng Quán về những nhân vật nổi tiếng, như thế chắc bạn đọc sẽ đón nhận hơn, còn các bài viết của bạn bè về Phùng Quán tôi cứ giữ đây, sẽ sử dụng sau”. Tôi đồng ý với anh Bình. Tôi điện ra cho chị Vũ Thị Bội Trâm; chị Trâm mừng lắm, vì chị muốn in một cuốn sách về những bài viết của anh mà không biết in ở đâu. Chị lụi cụi chép gửi vào cho tôi bài “Một năm lao động ở công trường Cổ Đam” và một số bài khác. Tôi tập hợp bài, viết lời giới thiệu, bản lý lịch văn học Phùng Quán, chú thích những chỗ cần thiết rồi gửi cho Nguyễn Đức Bình. Thế là bản thảo cuốn sách Ba phút sự thật của Phùng Quán được hình thành. Được sự đồng ý của chị Vũ Thị Bội Trâm, vợ nhà thơ, NXB Văn Nghệ đã tiến hành in ấn trong thời gian rất nhanh. Làm bản thảo tháng 3, đến cuối tháng 5 /2006 sách đã in xong, Công ty Văn hóa Phương Nam nhận phát hành toàn bộ. Sau khi sách phát hành, Nguyễn Đức Bình điện ra bảo tôi nên nhờ một số nhà văn viết bài giới thiệu, vì anh sợ cuốn sách bị “đánh”. Quả thực đọc từng bài viết của anh Quán, những “vấn đề” có thể bị chìm đi trong câu chuyện, nhưng khi tập hợp thành sách thì những “vấn đề” ấy lại cộm lên, nên Bình ngại là phải. Tôi động viên Bình, không sao đâu, vì tất cả các bài viết của anh Quán đều tâm huyết và rất trách nhiệm với cuộc đời. Nhà văn Nguyễn Khắc Phê ngay tức khắc viết bài giới thiệu trên báo Tuổi Trẻ. Đến nay sau khi sách ra được gần hai tháng, chị Bội Trâm và tôi nhận được rất nhiều cú điện thoại khen sách nay, chưa thấy có ai phê phán gì. Ba phút sự thật là những trang kỷ niệm, hồi ức của nhà văn Phùng Quán về những người bà con thân thuộc, về đồng đội, đồng nghiệp văn nghệ sĩ nổi tiếng của mình như Tố Hữu, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Hữu Đang, Văn Cao, Hồ Vi, Trần Đức Thảo, Phùng Cung, Tuân Nguyễn, Văn Cao...; viết về những chiến sĩ cách mạng Cuba; những hồi ức về những chiến sĩ cảm tử quân trong những ngày đánh Pháp ở Huế, hồi ức về những ngày đi lao động cải tạo của nhà văn ở công trường Cổ Đam, Hà Nam, v.v... Đọc Ba phút sự thật ta càng hiểu thêm tâm trạng của Phùng Quán trong những ngày sau vụ Nhân văn-Giai phẩm, hiểu thêm về tình cảnh khốn khó của những người trí thức yêu nước một thời. Qua những trang ký cháy bỏng tâm can, ta càng hiểu thêm nhân cách cao thượng và lòng chung thủy như nhất của ngòi bút Phùng Quán. Đây là cuốn sách chân thực và xúc động từ trang đầu đến trang cuối. Phùng Quán (1932-1995) là nhà văn để lại nhiều dấu ấn khó quên trong lịch sử văn học Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XX. Anh là một nhà văn chiến sĩ trọn đời trung thành với lý tưởng mà mình đã chọn từ thuở thiếu thời: Đi theo Vệ quốc Đoàn chiến đấu vì Tổ Quốc, nhân dân; dù phải vượt qua vô vàn tai ương đau khổ suốt 30 năm trời từ sau vụ Nhân văn. Thế nhưng anh không hề thù oán ai, vẫn cặm cụi viết, và vẫn “viết ngay viết thẳng từ dòng đầu tới dòng cuối”, luôn xưng tụng đất nước, xưng tụng nhân dân, xưng tụng tình yêu bằng những tác phẩm văn chương cuốn hút, bốc lửa, thiết tha và nhân bản. Phùng Quán đã để lại trong lòng bạn bè, đồng nghiệp một nhân cách cao cả, một lòng tin yêu đồng đội sâu sắc, một tấm gương lao động hết mình... với gần trăm tác phẩm thơ, trường ca, truyện thơ, tiểu thuyết, truyện tranh được nhiều thế hệ bạn đọc mến mộ. Nhắc đến Phùng Quán ai cũng nhớ tiểu thuyết Vượt Côn Đảo viết khi anh mới 22 tuổi, được tái bản gần chục lần, cho đến bộ tiểu thuyết ngàn trang Tuổi thơ dữ dội, được tái bản lần thứ năm (lần tái bản gần đây nhất là năm 2005, do NXB Kim Đồng thực hiện), được đạo diễn Vinh Sơn dựng thành phim cùng tên làm xúc động hàng triệu triệu khán giả Việt Nam trong và ngoài nước. Bộ phim Tuổi thơ dữ dội được giải bạc tại Liên hoan Phim Việt Nam năm 1990. Tuổi thơ dữ dội xuất hiện 32 năm sau sự kiện Nhân văn đã nhận được giải thưởng Hội Nhà văn, chứng tỏ sự kiên trung trước sau như một của ngòi bút Phùng Quán đối với con đường mà anh đã chọn! Nhắc đến Phùng Quán ai cũng nhớ những bài thơ gan ruột như “Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo” viết về chị Võ Thị Sáu, bài thơ “Lời mẹ dặn” nổi tiếng một thời: Yêu ai cứ bảo là yêu Ghét ai cứ bảo là ghét Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu thành ghét Dù ai cầm dao dọa giết Cũng không nói ghét thành yêu... Và những bài thơ “Hôn”, “Chống tham ô lãng phí”, Trăng Hoàng cung, “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”... đọc lên như nghe lời kinh nguyện cầu cho thân phận nhà thơ, thân phận con người: ... Đã đi với nhân dân Thì thơ không thể khác Dân máu lệ khốn cùng Thơ chết áo đắp mặt... Ngoài tiểu thuyết, thơ, Phùng Quán là cây viết ký viết báo bậc thầy. Sinh thời những bài ký, bài báo của Phùng Quán bao giờ cũng thu hút người đọc; được các báo in đi in lại. Như bài “Đầu năm xông đất nhà thơ Tố Hữu”, tạp chí Cửa Việt của Hoàng Phủ Ngọc Tường in rồi, sau đó báo Tiền Phong in lại. Một số bài viết của anh đã được giới thiệu trên các báo, nhưng cũng có những bài viết chưa công bố bao giờ, nằm trong lai cảo, do vợ nhà văn cung cấp. Chuyện vô cùng cảm động về “Người bạn lính cùng tiểu đội”. Đó là thiên ký sự tài hoa, xúc động viết về một quãng đời đầy tai ương, khốn khổ của nhà thơ Tuân Nguyễn, một người bạn cùng quê, cùng đơn vị chiến đấu thân thiết nhất của Phùng Quán trong kháng chiến chống Pháp. Tuân Nguyễn là một nhà thơ rất mới mẻ. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, anh đã có những câu rất lạ: Sóng Sông Hồng bỗng xanh màu Danube Nhạc bồng bềnh trôi tới các vì sao Trời lung linh khẽ chao mình theo nhịp Những người nước lạ phải lòng nhau. Tuân Nguyễn làm biên tập ở Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, anh say mê Dostoevsky, Chekhov... và đang căm cụi viết cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của đời mình. Đang viết dở thì năm 1963, anh bị bắt vì tội “xét lại”, và bị tù 9 năm. Có một chi tiết vừa khôi hài vừa đau đớn được Phùng Quán kể lại. Khoảng năm 1963, Tuân Nguyễn còn sống độc thân. Để có tư liệu viết tiểu thuyết, anh năn nỉ xin Phùng Quán một đồng tiền vàng. Đồng tiền vàng là tên của một loại bao cao su do Tiệp Khắc sản xuất hồi đó, chỉ được bán phân phối trong của hàng mậu dịch. Tuân Nguyễn xin “xem thực tế” để miêu tả tính cách nhân vật trong tiểu thuyết. Phùng Quán không có, bèn nhờ một người bạn tìm cho Tuân Nguyễn một đồng tiền vàng. Cái ngày mà Tuân Nguyễn cầm được đồng tiền vàng trong tay, hồ hởi về phòng làm việc, là cái ngày mà anh bị công an bắt. Đồng tiền vàng trong túi quần, anh chưa kịp bóc ra coi thì bị còng tay và đồng tiền vàng bị tịch thu. 9 năm sau, khi ra tù, Phùng Quán hỏi, Tuân Nguyễn vẫn chưa hề biết đồng tiền vàng ấy mặt ngang mũi dọc thế nào! Thiên ký sự còn kể nhiều chuyện Tuân Nguyễn ở trong tù không khác gì Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn (tr. 140-197).
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 11, 2006 9:38:27 GMT 9
Bài “Đầu năm xông đất nhà thơ Tố Hữu”, Phùng Quán kể lại lần đầu tiên sau 32 năm cậu cháu quay lưng lại với nhau, kể cả khi cháu cưới vợ, cậu cũng không thèm tới. Bây giờ khi nhà thơ Tố Hữu đã không còn là phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng nữa, vợ chồng Phùng Quán mới mạnh dạn đến thăm người cậu của mình. “Tết này trước cổng biệt thự của nhà thơ quang cảnh vắng teo. Không có chiếc ô tô con nào, không công an cũng chẳng lính cảnh vệ. Cái cổng sắt mọi ngày nom như hẹp lại, hai cánh cửa khép hờ, ai vào cứ việc đẩy cửa mà vào y như thể dân thường...”. Phùng Quán đề nghị cậu đọc thơ, Tố Hữu đọc cho cháu nghe một bài thơ mới viết với giọng thơ khác lạ, thể hiện tâm trạng của ông trước cơn lốc thị trường. “Đầu đề bài thơ là ‘Anh bộ đội mua đồng hồ’. Xin lưu ý là ‘anh bộ đội’ nghe - Có anh bộ đội mua đồng hồ / Thiệt giả không rành anh cứ lo / Đành hỏi cô nàng, cô tủm tỉm; - từ “tủm tỉm của tôi là đắt lắm đấy, - Giả mà như thật khó chi mô!” Cậu cháu trò chuyện vui vẻ. Khi tiễn vợ chồng Phùng Quán ra cổng, nhà thơ Tố Hữu nói với vợ Phùng Quán: “Thằng Quán nó dại...”. Khi ra gần đến cổng sắt, nhà thơ dừng lại, nói tiếp như vẫn không dứt dòng suy nghĩ của mình: “Mà cậu cũng dại...” (tr. 22). Chuyện “Bản hùng ca bị mối xông và 17 bộ hài cốt liệt sĩ” là những trang viết hào hùng và cảm động về Trung đội cảm tử Vệ quốc Đoàn của Trung đoàn Trần Cao Vân đã hy sinh tập thể rất cao cả trong những ngày toàn quốc kháng chiến khốc liệt ở thành phố Huế. Phùng Quán viết bài này khi nghe tin công nhân xây dựng đã đào được 17 bộ hài cốt Việt Minh khi xây dựng trụ sở Uỷ ban Khoa học Kỹ thuật Thừa Thiên Huế trên đường Hà Nội. Viết xong, Phùng Quán chép lại một bản chép tay nắn nót đề tặng: “Các bạn trẻ ở Uỷ ban Khoa học Kỹ thật Thừa Thiên Huế”. Không hiểu sao, nhà văn Nguyễn Khắc Phê lại giữ bản chép tay này. Biết tôi đang tập hợp bài cho cuốn sách của Phùng Quán, anh Phê đã bàn giao lại bài viết với nét chữ bút sắt chấm mực của Phùng Quán cho tôi quản lý.
Bài “Cuộc hàng trình cuối cùng của một triết gia” viết về nhà triết học Trần Đức Thảo, một người nổi tiếng, đã từng xuất bản nhiều tác phẩm triết học ở Pháp, ở Anh, ở Mỹ, Tây Ban Nha, ở Nhật, ở Đức, ở Hungari... “Năm 1952, triết gia đã từ bỏ tất cả vinh quang, tiền bạc, tiện nghi và phương tiện nghiên cứu học thuật, trở về Tổ Quốc theo con đường Paris-Luân Đôn-Praha-Moskva-Việt Bắc để cùng được ăn rau tàu bay với chiến sĩ và cùng run những con sốt rét rừng... Và triết gia đã từng nhận công tác tại văn phòng Tổng Bí thư rồi ủy viên Ban Văn Sử Địa - nay là Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, phó Tổng Giám đốc Trường Đại học Sư phạm Văn khoa, chủ nhiệm khoa sử Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, chuyên viên cao cấp của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. Ông mất ở Pháp, bình tro đưa về Hà Nội bằng máy bay.” “Về đến Hà Nội, vì không gia đình vợ con và không có cơ quan nào và trường đại học nào trước đây đã từng công tác và giảng dạy nhận về để nhờ hoặc để quản, nên triết gia phải tạm trú tới 50 ngày dưới một gầm cầu thang của nhà tang lễ thành phố” (tr. 45-46), cô đơn, lạnh lẽo, không có người phúng viếng nhang đèn… Nhiều lần đọc bài viết của Phùng Quán về nhà triết học Trần Đức Thảo, lần nào tôi cũng ứa nước mắt.
Rồi chuyện ông Nguyễn Hữu Đang trong bài viết “Những ngày cuối năm tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập” rất xúc động. Nguyễn Hữu Đang là người chỉ huy dựng Lễ đài Độc lập 2-9-1945, Trưởng Ban tổ chức Lễ ra mắt của Chính phủ Hồ Chí Minh, sau thời gian đi tù ở cao nguyên Hà Giang (sau vụ Nhân văn-Giai phẩm), ông được tha về quê ở Thái Bình suốt 15 năm không gia đình, vợ con, phải đi nhặt từng chiếc vỏ bao thuốc lá để “làm hàng đối lưu” đổi cho trẻ con lấy từng con cóc để giết thịt, băm nhỏ, bỏ vào chai để ăn dần bồi dưỡng tuổi già. Người “trai tân” 80 tuổi này đi nhặt cái xô tôn thủng đáy, tấm gỗ dán, hai cái vại muối dưa sứt miệng người ta vứt ngoài bờ tre về làm bàn ghế. Ông bảo: “Hai cái vại còn tốt như thế này mà đem quẳng bụi tre... Tôi nhặt về cọ rửa sạch sẽ, lật đít lên, làm thành cái ghế ngồi vừa vững chãi lại vừa mát. Chú ngồi thử mà xem, có khác gì ngồi trên đôn sứ đời Minh?” (tr.127). Rồi bao chuyện oái oăm, cảm động về nhà thơ Hồ Vi, về Phùng Cung, Đoàn Phú Thứ, Văn Cao…, những trí thức đi theo cách mạng bị loại ra ngoài lề cuộc sống!
Hồi ức “Một năm lao động ở công trường Cổ Đam” (Hà Nam) giúp bạn đọc hiểu thêm những năm tháng Phùng Quán đã trải qua nỗi đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần như thế nào. Câu chuyện được kể với giọng văn hài hước, làm cho người đọc cười ra nước mắt. Thời gian sau khi bị Nhân văn-Giai phẩm, Phùng Quán phải đi cải tạo lao động ở rất nhiều nơi. “Từ năm 1958, tôi đã phải đi nhiều đợt lao động ở hợp tác xã nông nghiệp Thái Lai (Thái Bình), công trường nhà máy đường Việt Trì (Phú Thọ), nông trường cao su-cà phê Thắng Lợi ở Thọ Xuân (Thanh Hóa)... Đợt nào tôi cũng gặp phải chuyện trục trặc, oan ức, đều bị cơ quan quản lý nhận xét là ‘chưa tiến bộ’, ‘chưa khắc phục được tư tưởng Nhân văn’, đôi khi còn có ‘ý định ngóc đầu dậy’”... “Năm 1964 cho đến đầu năm 1965, tôi tiếp tục được Hội Văn nghệ cử đi lao động cải tạo ở công trường trạm bơm điện Cốc Thành, Cổ Đam. Trạm bơm điện Cốc Thành vào loại lớn nhất miền Bắc ngày đó... Tôi phải lao động ở đội mộc rồi chuyển sang đội bê tông. Lao động nặng mà không có tiền ăn sáng, tôi đói mềm người. Tôi lại xấu máu đói. Hễ đói là tay chân bủn rủn, mồ hôi vã ra như tắm. Mặc dù lúc nào tôi cũng đinh ninh trong dạ là phải hết sức cố gắng, phải thật quyết tâm phấn đấu để mau chóng thoát khỏi cái cảnh trợ cấp 27 đồng một tháng. Nhưng rồi tôi lại gặp phải vài chuyện trục trặc không đâu, làm mất toi công sức lao động hơn một năm trời. (tr. 95-98).
Xin trích một câu chuyện “trục trặc không đâu” ấy:
“Hường (đội trưởng đội mộc - cốp pha - NM) có cái thú là mê sáng tác ca khúc. Nghĩa là đặt lời mới theo một số làn điệu dân ca quan họ. Hường khoe với tôi... bài hát theo điệu ‘Trèo lên trái núi Thiên Thai’. Hường hát luôn: ‘Ra đường phải thắt xanh tuya này xanh i í i ì tuya...’.
Ngày Tết sắp đến. Công trường thông báo sẽ tổ chức một đêm văn nghệ quần chúng, tiết mục tự biên tự diễn. Hường say sưa sáng tác bài hát cho đêm văn nghệ. Nội dung bài hát là ca ngợi đội mộc đóng cốp pha đúng kỹ thuật, năng suất cao. Bài hát theo điệu ‘Tình bằng có cái trống cơm’.
Đã lâu quá rồi tôi không còn cả bài hát, chỉ nhớ câu đầu: ‘Tình bằng có cái búa đinh, khen ai khéo gõ ấy mới đinh nên đinh, ấy mới đinh nên đinh...’. Nhưng rồi hình như công việc đặt lời cho bài hát của anh không được suôn sẻ, gặp phải chỗ bí. Tôi để ý, nhiều lúc đang làm việc Hường bỗng ngẩn ra, buông đục, bỏ cưa, bỏ rìu, rút trong túi áo ra tờ giấy nhàu nát, trải lên mặt tấm ván, nhấm nhấm nước bọt cây bút chì thợ mộc vót nhọn hoắt mà lúc nào anh cũng cài trên vành tai, cúi xuống tờ giấy gạch gạch xóa xóa, miệng lẩm nhẩm hát cái gì đó tôi không nghe rõ lời, trán cau lại.
Cũng là người sáng tác nên tôi thông cảm ngay. Điệu này là anh ta đang bí đây. Tôi thấy thương anh, muốn giúp anh gỡ bí. Bước đến gần, tôi hỏi: ‘Sáng tác gặp khó khăn à? Thử nói xem anh bí chỗ nào, tôi có thể giúp anh được không? Tôi không rành sáng tác bài hát lắm, nhưng việc đặt lời cho bài hát nói cũng gần với văn thơ’. Anh chỉ đầu bút chì vào tờ giấy, nói: ‘Mình đang vấp cái chỗ: lội, lội, lội sông ấy mấy đi tìm..., không biết đặt cái tiếng gì vào đó cho đúng giọng. Mình muốn dùng chữ đóng, đóng, đóng hay cưa, cưa, cưa, nhưng đều không đúng điệu dấu nặng. Nghĩ nát cả óc mà không ra. Tôi góp ý: Hay anh dùng chữ đẽo, đẽo, đẽo. Nếu hát lên thì đẽo có thể hát thành đẹo, người nghe cũng hiểu.
Anh gật gù: ‘Đúng, đúng. Ý kiến của cậu hay’. Vượt qua được chỗ bí, anh hoàn thành được bài hát ngay chiều hôm đó...
Đêm văn nghệ, bài hát của đội mộc làm cho mọi người cười vỡ trời vì khi hát đến chỗ đẹo, đẹo đẹo, khán giả ngồi bên dưới sân khấu liền rộ lên hát theo đéo, đéo, đéo muốn vỡ hội trường. Ban tổ chức phải la hét đến khản cổ mới giữ lại được trật tự, nhưng không sao giữa yên được hoàn toàn. Thỉnh thoảng bên dưới khán giả vẫn rúc rích: đéo, đéo, đéo...
Hường bị giám đốc công trường gọi lên xạc cho một trận tơi bời, kết tội anh là cố ý phá rối đêm văn nghệ chào mừng thắng lợi của công trường. Hường hoảng quá phải thú thật: ba tiếng đẽo, đẽo, đẽo ấy là cậu Phùng Quán nó góp ý kiến cho tôi. Lúc đầu tôi định đặt là cưa, cưa, cưa, nhưng hẳn bảo hát là đẽo... nó đúng điệu hơn...
Giám đốc công trường gầm ghè: ‘Đấy đồng chí cứ khen hắn là hiền nữa đi. Nó xỏ mũi đồng chí mà đồng chí không biết. Tôi đã cảnh giác với đồng chí nhiều lần mà đồng chí đều bỏ ngoài tai, không nghe!’’’
Tất cả những áng văn ấy được Phùng Quán viết với một giọng văn tự sự pha hài rất chuyên nghiệp, lão luyện, kết cấu đầy kịch tính, dẫn người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Đọc Ba phút sự thật của Phùng Quán bạn đọc sẽ hiểu thêm số phận bi tráng mà cao thượng của những người trí thức; càng hiểu thêm sự nhân hậu của cây bút Phùng Quán “một đời lao lực, một đời cay cực, một đời thơ”.
Để có được cuốn sách, chị Vũ Thị Bội Trâm, người vợ thủy chung, người mà khi yêu Phùng Quán, gia đình và cơ quan can ngăn, đã khẳng khái: “Tôi tin anh ấy là người tốt, thời gian sẽ trả lời”. Chị Bội Trâm năm nay 75 tuổi, cách đây hơn 20 năm chị bị ung thư vú, thế mà đêm đêm giương mục kỉnh, lục tìm, đọc và chép lại từng tờ di cảo của chồng giúp cho người làm sách. Riêng bản thân tôi, từ hơn 11 năm nay, có tư liệu nào về Phùng Quán, của Phùng Quán là sưu tầm cho bằng được, rồi cất giữ, chờ ngày công bố. Chúng tôi tin rằng cuốn Ba phút sự thật sẽ mang đến cho bạn đọc nhiều chi tiết mới mẻ, cảm động về đời thường của những nhân vật “nổi tiếng” mà lâu nay chúng ta ít có điều kiện tìm hiểu. Đọc sách chúng ta càng trân trọng tài viết ký và tấm lòng thủy chung như nhất với cuộc đời của nhà thơ Phùng Quán.
Cuốn sách còn có 40 trang Phụ lục, gồm các bài viết về gia đình của Phùng Quán ở Huế, về chị Bội Trâm, người vợ nhà văn yêu chồng đến tận cùng, những giai thoại về Phùng Quán, những bức ảnh quý giá về cuộc đời nhà văn; đặc biệt có phần “Phùng Quán - tiểu sử văn học” tương đối đầy đủ để bạn đọc hiểu thêm nhà văn yêu mến của chúng ta đã sống và viết cật lực như thế nào.
Cám ơn Nhà xuất bản Văn nghệ đã mang đến cho bạn đọc một cuốn sách quý.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 11, 2006 9:39:28 GMT 9
Phùng Quán - Tiểu sử văn học
Họ tên khai sinh đồng thời là bút danh văn học: Phùng Quán. Tuổi nhỏ ở làng thường được gọi là Bê. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam thế hệ đầu tiên 1956. Năm 1958, tham gia Nhân văn-Giai phẩm, bị kỷ luật. Đến ngày 3-2-1988, Phùng Quán được Hội Nhà văn Việt Nam ra văn bản “phục hồi Hội tịch”.
Sinh: Tháng 1 năm 1932 (Tân Mùi), tại làng Thanh Thủy Thượng, tổng Dạ Lê, nay là xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên-Huế.
Tham gia Vệ quốc Đoàn tháng 1-1946 tại một đơn vị trinh sát thuộc Trung đoàn 101 Trần Cao Vân, tỉnh Thừa Thiên. Tham gia nhiều trận đánh ác liệt ở địa phương. Sau đó gia nhập thiếu sinh quân Liên khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV, giữ chân hậu cần, bếp núc, kéo phông màn và đọc thơ diễn tấu cho bộ đội nghe. Thời gian này Phùng Quán được đi học thiếu sinh quân và Trường Quân chính, tham gia đoàn phóng viên quân đội về Sầm Sơn, Thanh Hóa để thông tin về sự kiện trao trả từ binh. Nhờ chuyến đi này, Phùng Quán có tư liệu quý để viết tiểu thuyết đầu tay Vượt Côn Đảo và Trường ca Võ Thị Sáu. Năm 1954, được điều về cơ quan sinh hoạt Văn nghệ Quân đội, thuộc Tổng cục Chính trị, tiền thân của tạp chí Văn nghệ Quân đội, 4 Lý Nam Đế, Hà Nội.
Sau vụ Nhân văn, Phùng Quán bị kỷ luật, ra ngoài biên chế nhà nước, bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn, rời tạp chí Văn nghệ Quân đội, được Hội Nhà văn trợ cấp 27 đồng/ tháng (lương tối thiểu công chức lúc đó là 36 đồng), đi lao động cải tạo tại các nông trường, công trường và địa phương ở Thái Bình, Nam Hà, Thanh Hóa, Việt Trì... Năm 1964, sau khi hoàn thành chương trình “lao động cải tạo”, Phùng Quán được chuyển về công tác tại Phòng Tuyên truyền (Bộ Thủy lợi), Vụ Văn hóa Quần chúng (Bộ Văn hóa), Nhà Văn hóa Trung ương. Ở Bộ Văn hóa, nhiều năm anh được phân công đi tăng gia sản xuất tại rừng núi Bắc Thái. Về hưu 1985.
Năm 1962, Phùng Quán lấy vợ là Vũ Thị Bội Trâm. Sau khi lấy nhau cho đến năm 1981 (20 năm) hai vợ chồng vẫn ở hai nơi: anh ở tại nhà mẹ nuôi tên là Trưởng Dơi ở làng Nghi Tàm, xã Quảng An, Hà Nội. Mẹ Trưởng Dơi có một người con là liệt sĩ, mẹ đã được công nhận Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng. Hàng ngày Phùng Quán viết văn rồi mượn tên thân hữu bạn bè để in, lấy nhuận bút và câu trộm cá Hồ Tây bán lấy tiền nuôi con. Từ năm 1978-1980, Phùng Quán ở trong một căn phòng nhỏ 4 m2 do Bộ Văn hóa phân ở 80 Lê Văn Hưu, Hà Nội, còn vợ vẫn ở nhà bố mẹ là ông Vũ Huy Ngọ và bà Nguyễn Thị Minh ở 3 phố Hàng Cân, Hà Nội. Từ năm 1981 đến nay, thường trú tại Khu tập thể Trường Chu Văn An, 10 Thụy Khuê, Hà Nội. Căn nhà nguyên là cái xưởng trường, Sở Giáo dục Hà Nội, Ban giám hiệu và Công đoàn Trường Chu Văn An cấp cho chị Vũ Thị Bội Trâm. Ở đây Phùng Quán đã tự tay đục đẽo dựng một cái “Chòi ngắm sóng” bằng gỗ, lợp lá gồi. Đây là chỗ mà hằng ngày anh tiếp đón bạn bè, uống rượu đọc thơ. Trên chòi ngắm sóng có dán, treo rất nhiều thơ, tranh ký hoạ của các nhà thơ, họa sĩ trong cả nước tặng Phùng Quán. Từ năm 2003, khu “chòi ngắm sóng” bị giải tỏa. Gia đình chị Vũ Thị Bội Trâm được cấp một khu nhà tại chung cư Vĩnh Phúc, Phòng 204, Khu D3, Chung cư Vĩnh Phúc, Quận Ba Đình, Hà Nội. Đây là căn hộ đàng hoàng nhất mà chị Bội Trâm được ở trong cuộc đời của mình, nhưng anh Phùng Quán không còn nữa...
Cha: Phùng Văn Nguyện, học Đệ Tam niên Trường Quốc học, tham gia truy điệu cụ Phan Châu Trinh, đòi thả cụ Phan Bội Châu, tham gia bãi khóa, biểu tình chống Pháp năm 1926. Sau đó bị bắt giam, bị kết án 2 năm tù treo, bị bồi thường 3 năm tiền học bổng. Ông trốn vào Sài Gòn, đổi tên là Phùng Quý Đông, thi đỗ vào ngành công chức Pháp, làm việc ở Kho bạc Sài Gòn mấy năm, sau đó tưởng yên, xin chuyển về quê công tác để lấy vợ, nhưng bị phát hiện và bị mật thám Pháp bắt và bị giam ở nhà lao Đà Nẵng, bị tra tấn chết trong tù vào năm 1932, khi con trai Phùng Quán mới biết bò.
Mẹ: Công Tằng Tôn Nữ Thị Tứ, thường gọi là bà Phán (vì chồng làm thông phán), dòng Hoàng phái (theo đế hệ triều Nguyễn: Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh... thì bà thuộc hệ Bửu). Bà là một phụ nữ có nhan sắc và chữ nghĩa. Mới lấy chồng sinh con chưa được 1 năm, thì chồng bị Pháp giết, bà ở vậy nuôi con cho đến khi con đi theo Vệ quốc Đoàn, rồi thờ chồng, đợi con cho đến lúc chết ở Cố Đô Huế năm 1970, ngày giỗ là ngày 2 tháng Giêng âm lịch.
Vợ: Vũ Thị Bội Trâm, sinh năm 1932, giáo viên dạy văn trường Chu Văn An từ năm 1970. Về hưu năm 1985. Hiện sống thờ chồng với đồng lương hưu.
Con gái đầu: Phùng Đỗ Quyên, sinh năm 1963, lấy chồng là cán bộ Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, hiện ở Viên Chăn, đã có 2 con. Con trai út: Phùng Quân, sinh năm 1968, hiện ở với mẹ.
Nhà văn Phùng Quán mất lúc 16 giờ 50 ngày 22 tháng 1 năm 1995 (giờ Canh Thân), tức ngày 22 Tháng Chạp (ngày Quý Sửu) năm Giáp Tuất tại nhà riêng với căn bệnh hiểm nghèo xơ gan cổ trướng, thọ 64 tuổi. Mộ của anh nằm tại quê vợ, thôn Kiều Mai, xã Phú Diễn, huyện Từ Liêm, Hà Nội. Đã được chị Vũ Thị Bội Trâm xây cất đàng hoàng bằng tiền nhuận bút Tuổi thơ dữ dội do Nhà xuất bản Kim Đồng tái bản 1997.
Tác phẩm chính đã xuất bản
Vượt Côn Đảo. Tiểu thuyết, 1954: Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân 1954, tái bản 4 lần; Nhà xuất bản văn học Thiếu nhi Liên Xô dịch 1956; Nhà xuất bản Thuận Hóa tái bản lần thứ 5, 1987, in 50.200 bản; Giải thưởng Hội Văn nghệ Việt Nam (1954- 1955).
Võ Thị Sáu. Trường ca, 1955. Tái bản 3 lần. Giải nhất cuộc thi sáng tác hưởng ứng Đại hội Liên hoan Thanh niên Sinh viên Thế giới ở Warszawa (Ba Lan). Nhà xuất bản Phụ nữ Việt Nam 1955.
Tôi muốn mời đến Tổ quốc tôi. Thơ, 1955. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1955; Báo Phụ nữ Liên Xô dịch và in, 1957.
Cuộc đời một đôi dép cao su. Truyện thiếu nhi, NXB Thanh niên, 1956.
Thạch Sanh cháu Bác Hồ. Truyện thiếu nhi, NXB Thanh niên, 1955; Nhà xuất bản Thượng Hải (Trung Quốc) dịch và in năm 1956.
Bên bờ Hiền Lương. Bút ký, Nhà xuất bản Văn nghệ, 1955; Nhà xuất bản Thượng Hải (Trung Quốc) dịch và in năm 1956.
Như con cò vàng trong cổ tích. Tập truyện thiếu nhi, (tác phẩm ký bút danh Vũ Quang Khải, em trai vợ, lúc đang làm cán bộ ở Diễn Châu, Nghệ An); Giải nhất cuộc thi sáng tác văn học nghệ thuật kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lenin do hãng Thông tấn Nôvôxti (Liên Xô) tổ chức năm 1970; Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên xuất bản, 1987.
Em gái nhỏ và chim bồ câu. Truyện thơ
Vĩnh Linh, lịch sử văn hóa (ký tên tác giả là Nguyễn Huy). Nhà xuất bản Văn hóa, năm 1982. In 6.100 bản.
Dũng sĩ chép còm. Truyện thiếu nhi; Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, đang in với bút danh Trần Vỹ Dạ (do nhà thơ Thanh Tịnh chuyển). Khi Phùng Quán được phục hồi hội tịch mới đổi lại tên Phùng Quán (in 40.000 cuốn), tái bản tại NXB Kim Đồng.
Tuổi thơ dữ dội. Tiểu thuyết; Nhà xuất bản Thuận Hóa in lần đầu 1983, với tên sách Buổi đầu thử thách, tập 1 (ký tên Đào Phương), in 5.150 bản. In lần thứ 2 năm 1988 đổi lại tên Tuổi thơ dữ dội thành 3 tập, 800 trang, số lượng in mỗi tập 20.000 bản. Nhà xuất bản Kim Đồng tái bản lần thứ nhất năm 1997, thành 6 tập khổ 10,2 x15,2 cm. Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh tái bản lần 2. Đến nay bộ tiểu thuyết này đã được tái bản 5 lần. Giải thưởng (giải A) Hội Nhà văn Việt Nam 1987; Xưởng phim Giải phóng dựng thành phim Tuổi thơ dữ dội do đạo diễn Vinh Sơn thực hiện. Phim được Huy chương Bạc tại Liên hoan Phim Việt Nam tại Nha Trang, năm 1990 và được Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng tặng giải thưởng nhân kỷ niệm 50 năm ngày Thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam 1994.
Người du kích hói đầu. Truyện thiếu nhi, 1990.
Tiếng đàn trong rừng thẳm. Truyện thiếu nhi, 1991.
Đôi bạn tật nguyền kỳ lạ. Truyện thiếu nhi, NXB Thuận Hóa, 1991, in 4000 cuốn.
Trăng Hoàng cung, tiểu thuyết thơ, Thanh Vân xuất bản, California, 1993.
Bản hùng ca về 17 Vệ quốc Đoàn. Tủ sách Tuổi hồng, NXB Trẻ, 1993.
Thơ Phùng Quán. Tập thơ, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 1995. Tái bản có bổ sung phần di cảo (300 trang), NXB Văn học, năm 2003 do vợ nhà thơ bỏ vốn ra in.
Ngàn cánh hạc giấy. Truyện tranh, lời Phùng Quán, tranh màu Lê Anh Vân, NXB Văn hóa Dân tộc in 10.000 bản năm 1992, được sự tài trợ của tổ chức The Japan Foundation. Đây là truyện tranh duy nhất Phùng Quán ký tên mình.
Chiếc cối giã trầu bằng thép. Truyện tranh, 1984, tranh Huy Toàn, truyện Phùng Quán, ký tên Thanh Tịnh, NXB Văn hóa Dân tộc 1988.
Thần hổ Chăm Pa. Truyện tranh, ký tên Thanh Tịnh, tranh Trương Hiếu, NXB Văn hóa Dân tộc 1986.
Tượng A Vooc Hồ bằng gỗ trầm hương. Truyện tranh, ký tên Thanh Tịnh, tranh Đỗ Xuân Doãn. NXB Văn hoá Dân tộc 1986.
Tiếng đàn đá. Truyện tranh, ký tên Thanh Tịnh, tranh Huy Toàn, NXB Văn hoá Dân tộc 1986.
Chuyện Tây Nguyên bên bờ Đanuyp xanh. Truyện tranh, ký tên Thanh Tịnh, tranh Huy Toàn, NXB Văn hóa 1986.
Pắc Bó đón Bác về. Truyện tranh. Ký tên Thanh Tịnh, tranh Nguyễn Bích, NXB Văn hóa Dân tộc.
Ba phút sự thật. Ký, NXB Văn nghệ, 5-2006, sách dày 280 trang, ịn 2000 cuốn.
Ngoài các tác phẩm nêu trên, Phùng Quán còn có khoảng 60 truyện tranh ký tên khác (không mượn tên) trong đó có các tên sách như sau: Ông già giết voi dữ, NXB Văn hóa 1982; Chiếc thuyền buồm bay, NXB Văn hóa 1984; Siêu Ly trở về, NXB Văn hóa 1984; Dòng suối mang tên em, NXB Văn hóa 1982; Tiếng đàn trong đêm khuya, NXB Văn hóa 1984; Người phụ nữ Tày dũng cảm, NXB Văn hóa 1978; Vàng A Sìn kể chuyện đánh giặc, NXB Văn hóa 1978; Tòng Văn Kim và đồng đội, NXB Văn hóa 1978; Thiên tình sử Điện Biên, NXB Văn hóa 1984; Dòng sông mất tích, NXB Văn hóa 1986; Hạt muối đỏ, NXB Văn hóa 1985; Như những dũng sĩ trong truyền thuyết, NXB Văn hóa 1980; Tiếng chuông Thiên Mụ, NXB Văn hóa Dân tộc 1987; Tên thám báo và hai em bé, NXB Văn hóa 1981; Từ cõi chết trở về, NXB Văn hóa 1986; Người cầm cờ lệnh của Vua Quang Trung, NXB Văn hóa 1986; Bức chân dung Lenin, NXB Văn hóa Dân tộc 1987; Một mình vào hang cọp, NXB Văn hóa 1986; Ngày gặp gỡ, NXB Văn hóa 1985; Chàng Ná, NXB Văn hóa 1980; Bốn anh em tài giỏi, NXB Văn hóa 1988, v.v… Theo hồi ức của Phùng Quán thì nhà văn còn viết một thiên hùng ca Huyệt lửa chôn chung với 1000 câu thơ về Trung đội cảm tử Huế năm 1946, đã bị mối xông. Năm 30 tuổi anh viết tác phẩm Nước ta có một người mù, ký tên khác, NXB Thanh Niên định in, nhưng phát hiện ra là Phùng Quán viết nên không in. Sau khi được phục hồi Hội tịch Hội Nhà văn, Phùng Quán hỏi thì NXB cho biết đã làm thất lạc bản thảo (!?).
Phùng Quán còn có nhiều tác phẩm khác viết về nghệ thuật sáng tác và diễn tấu, truyện ngắn, truyện thiếu nhi ký tên những người quen biết như Thanh Tịnh, Phương Văn, Vũ Quang Khải v.v… và nhiều bài báo cảm động, in trên các báo Văn nghệ, Người Hà Nội, NXB Văn hóa, NXB Văn hóa Dân tộc, Tiền phong… mà chúng tôi mới sưu tầm được một phần.
Gác Phổ Minh, những ngày World Cup tháng 6-2006 (Trich Talawas )
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 11, 2006 9:46:37 GMT 9
BAO - t/g Song Thao (Trich doan ve Tuan Nguyen - Phung Quan ) .......................... Bao cao su ngày nay nằm lềnh khênh khắp các tiệm thuốc tây, hàng tạp hóa, quầy khách sạn, nhà nghỉ, và thậm chí cả trong những chiếc máy bán hàng tự động đặt trong các phòng vệ sinh nam. Chỉ cần với tay một cái là có ngay. Vậy mà vẫn có người khốn đốn vì duyên nợ với chiếc bao tình này. Đó là một nhà thơ miền Bắc tên Tuân Nguyễn. Trong hồi ký Người bạn lính cùng một tiểu đội (Văn Học, California, số tháng 9 & 10 / 2005), nhà thơ Phùng Quán đã kể về anh nhà thơ đặc biệt này, người đã phê bình thơ của Phùng Quán là “hai mươi câu đầu để giữ gìn trật tự, hai mươi câu cuối chuẩn bị cho người nghe vỗ tay, còn đoạn giữa là vè! Cậu phải học luật thơ Đường làm cái vốn cơ bản, sau đó phát huy thành các thể thơ tự do mới hy vọng thơ có thể khá lên được!”. Thế còn thơ của Tuân Nguyễn như thế nào? Chúng ta thử đọc một bài thơ ngắn, bài “Nghe nhạc Strauss”.
Sóng sông Hồng bỗng xanh màu Danube Nhạc bồng bềnh trôi tới các vì sao… Trời lung linh khẽ chao mình theo nhịp Những người nước lạ phải lòng nhau…
Bài thơ được đăng trên tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà văn Việt Nam vào đầu thập kỷ 1960. Lập tức bài thơ nổi tiếng. Độc giả trẻ truyền tụng cho nhau, nhiều đôi trai gái chép vào sổ tay tặng nhau. Cái bút hiệu ngược ngạo Tuân Nguyễn chẳng phải là cái tên của… Việt kiều, mà vì cái tên thật Nguyễn Tuân của anh đã bị nhà văn quá nổi tiếng Nguyễn Tuân xài rồi nên phải đảo ngược lại. Nhưng thôi, văn thơ đến đây là đủ, chúng ta nói chuyện anh chàng Tuân Nguyễn với… bao cao su! Vốn là một học sinh trường Providence, đã đỗ tú tài toán, Tuân Nguyễn vẫn rất ngây thơ với đời. Phùng Quán và anh đã có một tình bạn bất chấp thế sự. Khi Phùng Quán bị cô lập vì vụ Nhân văn - Giai phẩm, anh vẫn hồn nhiên lui tới và giúp đỡ Phùng Quán. “Trong khi bạn bè thân thích, kể cả máu mủ ruột thịt, người yêu, đều xa lánh tôi, thì Tuân Nguyễn vẫn gắn bó, cưu mang tôi. Mặc dầu lúc này anh là người có chức danh của một cơ quan quan trọng, bắt đầu có tiếng tăm trên thi đàn. Tuân mò tìm được nơi tôi tá túc, thường xuyên mang cho tôi áo quần, tem gạo, phiếu thịt, kẹo, thuốc lá căng tin… Mỗi lần đem cho như vậy, Tuân rất sợ tôi mếch lòng, tủi thân, nên bao giờ cũng tìm cách nói thác. ‘Có bộ áo quần mình thuê may hỏng, mặc rộng thùng thình cứ như áo tế. Cậu đậm người hơn mặc giùm mình cho đỡ phí’. ‘Một nhà báo ngoại quốc có nhận xét người Việt Nam ta rất có đầu óc hài hước. Hài hước ngay cả trong việc sản xuất bánh kẹo. Ngoài bao bì đề kẹo cứng thành kẹo mềm muốn chảy nước. Nếu để kẹo mềm thì cắn muốn vỡ răng. Này, cậu khỏe răng ăn giúp mình hai gói kẹo mè này!’”. Khi Tuân Nguyễn được đổi vào làm việc tại Sài gòn, anh nhường lại căn buồng ở Hà Nội cho người chủ cũ với giá nhiều năm trước khi anh mới mua là 600 đồng mặc dù giá thị trường lúc đó phải cả ngàn đồng. Ai cũng cười. Anh gân cổ lên cãi: “Mình mua của người ta sáu trăm, mình có quyền gì được bán lại một nghìn?”.
Con người thơ… lẩn thẩn như vậy nên mới xảy ra chuyện cái bao cao su. “Tôi dắt Tuân đi loanh quanh trong xóm xem hoa. Lúc sắp ra về, Tuân chợt hỏi tôi, giọng hơi ngập ngừng:
“Cậu có đồng tiền vàng không, cho mình một đồng…”
Tôi ngạc nhiên: “Đồng tiền vàng? Cậu làm như mình là tay sưu tập tiền cổ không bằng?”
Tuân đỏ mặt: “Không phải. Nó là… cái ấy ấy mà…”
Tôi chợt hiểu ra, bật cười. Cái ấy là cái bao dương vật bằng cao su của Tiệp Khắc sản xuất. Mỗi cái được đựng trong cái hộp nhỏ, tròn và dẹt, in hình đồng tiền vàng cổ trên giấy kim. Ngày đó, “đồng tiền vàng” là loại hàng cung cấp đặc biệt. Muốn mua nó phải có giấy của công đoàn cơ quan, hoặc của chi hội phụ nữ sở tại chứng nhận: người mua đã có vợ, mua để dùng cho sự sinh đẻ có kế hoạch….
Tôi hỏi Tuân: “Nhưng cậu cần đồng tiền vàng làm gì? Chắc có đối tượng nào cậu định tòm tem hẳn?”
Tuân càng đỏ mặt tợn: “…Ở cơ quan mình nghe tụi nó thì thào hỏi xin nhau đồng tiền vàng… Mình không biết hình thù nó thế nào, muốn xem cho biết. Để miêu tả khi cần đến, trong văn xuôi chẳng hạn…”
Phùng Quán làm gì có. Ông có thuộc biên chế cơ quan nào đâu. Ông chỉ Tuân đi hỏi tay H., người lúc nào cũng có tiền vàng trong túi.
“Một sự rủi ro đầy tính chất bi hài mà hình như số phận đặc biệt dành cho loại người như Tuân. Sáng ngày 21 tháng 10 năm 1964, trước giờ làm việc Tuân Nguyễn gặp H. ở cổng cơ quan. Tuân rất ngạc nhiên, H. vốn là tay “đại nghệ sĩ” thường xuyên đi muộn về sớm, thường xuyên bị thủ trưởng phê bình, sao bữa nay lại chăm chỉ thế không biết? Có lẽ hôm nay trời đi vắng!
Về sau này, mỗi lần hồi tưởng lại sự việc ngày hôm đó, Tuân không sao quên được chi tiết này. Tuân kết luận: cuộc đời mỗi người là một kịch bản phim truyện đã được số phận đạo diễn phân cảnh. H. phải xuất hiện đúng lúc đó để tăng thêm chất bi hài của truyện phim.
Sau một phút ấp úng, Tuân hỏi xin H. một đồng tiền vàng.
“Sao cậu biết là tớ có sẵn của gia bảo ấy?” H. cười, hỏi.
“Phùng Quán nó bảo thế.”
….H. rút cái ví ở túi quần sau, mở ra lấy một đồng tiền vàng mới toe đưa cho Tuân: “Trước khi dùng cậu nhớ K.T. (kiểm tra) cẩn thận, H. dặn, không lỡ nó thủng thì bỏ mẹ.”
Tuân đỏ mặt nói: “Mình chỉ muốn xem cho biết thôi.”
H. nói: “Ba mươi tuổi đầu mà chưa biết mặt mũi đồng tiền vàng như thế nào thì cậu là thằng hâm!... Cậu phải bơn bớt sách vở, thêm chất sống sít của cuộc đời thường vào mới hy vọng với tay đến Đốt được!” (Tuân Nguyễn vốn rất hâm mộ và muốn viết theo kiểu của nhà văn Nga Dostoievsky).
Khoảng chín giờ hơn hôm đó, Tuân bị công an đến tận phòng làm việc đọc lệnh bắt giữ. Họ bắt anh bỏ hết đồ đạc mang theo trong người lên bàn để lập biên bản. Về sau, Tuân kể lại giây phút nhớ đời đó. “Nghe xong lệnh bắt, khắp người mình toát mồ hôi hột. Nỗi hoảng sợ làm thần kinh mình hầu như tê liệt. Như cái máy, mình móc hết túi áo túi quần, bỏ đồ đạc lên mặt bàn. Nhưng khi bỏ cái đồng tiền vàng lên mặt bàn, mình bỗng tỉnh trí lại. Chính nỗi hổ thẹn đã làm cho mình tỉnh trí.”
Mười năm sau, Tuân ra khỏi tù, tìm đến nhà Phùng Quán.“Sắp đứng lên ra về, Tuân Nguyễn như chợt nhớ điều gì: “Ơ này, cậu có đồng tiền vàng nào không?”
Tôi ngạc nhiên: “Đồng tiền vàng nào?”
“ Thì… đồng tiền vàng ấy mà… Cuối cùng, đến hôm nay mình vẫn chưa được biết mặt mũi nó thế nào…”
Tôi bật cười mà hai mắt cay lệ. Tôi ôm lấy đôi vai lục cục những xương của bạn nói: “Chán quá, mình không có… Một ước muốn nhỏ nhoi như vậy mà mười năm không thực hiện được thì kể ra cũng… vui thật. Cuộc đời vui quá, không buồn được – tôi ngâm câu thơ của chính cậu ta làm – Nhưng mình nhất định sẽ lùng cho cậu hẳn một chục đồng tiền vàng, xem thoải mái!”
“Lần này không phải chỉ để xem – Tuân nói – mà mình sẽ dùng. Được hẳn một chục đồng thì còn gì bằng! Mình sắp lấy vợ!”
Vợ Tuân là Phương Thúy, con của Hoài Chân, đồng tác giả cuốn Thi nhân Việt Nam cùng với Hoài Thanh.
Hai vợ chồng vào Nam. Tuân dậy học tại trường cấp ba Thanh Đa, nằm trong cư xá Thanh Đa. Tôi là đồng nghiệp với anh tại đây. Anh thích nói chuyện với tôi. Toàn những chuyện… phản động. Đầu tiên tôi hơi ngại vì sợ bị gài bẫy. Tôi vốn là dân đi học tập cải tạo về! Nhưng dần dần cái tâm của anh đã thanh minh cho anh. Biết được tôi đã nộp hồ sơ đi Canada, anh bảo nhỏ tôi là có dịp anh sẽ kể cho tôi chuyện bí mật của cung đình Hà Nội để tôi viết khi ra nước ngoài. Anh chưa kịp kể thì đã ra người thiên cổ vì một tai nạn giao thông!
Hồi đó, mỗi đầu tháng, chi hội phụ nữ trong trường thường phát cho các nam giáo viên có gia đình tiêu chuẩn bao cao su tránh thai. Cô giáo viên phụ trách là một cô giáo chưa chồng. Cô ngượng nghịu giúi vào tay mỗi người một bọc 10 cái. Thường thì chúng tôi vội bỏ vào túi. Riêng Nguyễn Tuân nâng cặp kính cận, nhìn chăm chú những chiếc bao được gói vuông vức dính liền với nhau, rồi mới cẩn thận bỏ vào cặp. Có lẽ anh vẫn còn ngạc nhiên vì chúng không mang hình dáng những đồng tiền vàng chăng? SONG THAO (trích từ Talawas )
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 8, 2013 3:37:18 GMT 9
Lời Mẹ DặnTôi mồ côi cha năm hai tuổi Mẹ tôi thương con không lấy chồng Trồng dâu, nuôi tằm, dệt vải Nuôi tôi đến ngày lớn khôn. Hai mươi năm qua tôi vẫn nhớ Ngày ấy tôi mới lên năm Có lần tôi nói dối mẹ Hôm sau tưởng phải ăn đòn. Nhưng không, mẹ tôi chỉ buồn Ôm tôi hôn lên mái tóc - Con ơi Trước khi nhắm mắt Cha con dặn con suốt đời Phải làm một người chân thật. - Mẹ ơi, chân thật là gì? Mẹ tôi hôn lên đôi mắt Con ơi một người chân thật Thấy vui muốn cười cứ cười Thấy buồn muốn khóc là khóc. Yêu ai cứ bảo là yêu Ghét ai cứ bảo là ghét Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu thành ghét. Dù ai cầm dao dọa giết Cũng không nói ghét thành yêu Từ đấy người lớn hỏi tôi: - Bé ơi, Bé yêu ai nhất? Nhớ lời mẹ tôi trả lời: - Bé yêu những người chân thật. Người lớn nhìn tôi không tin Cho tôi là con vẹt nhỏ Nhưng không! những lời dặn đó In vào trí óc của tôi Như trang giấy trắng tuyệt vời. In lên vết son đỏ chói. Năm nay tôi hai mươi lăm tuổi Đứa bé mồ côi thành nhà văn Nhưng lời mẹ dặn thuở lên năm Vẫn nguyên vẹn màu son chói đỏ. Người làm xiếc đi dây rất khó Nhưng chưa khó bằng làm nhà văn Đi trọn đời trên con đường chân thật. Yêu ai cứ bảo là yêu Ghét ai cứ bảo là ghét Dù ai ngon ngọt nuông chiều Cũng không nói yêu thành ghét Dù ai cầm dao dọa giết Cũng không nói ghét thành yêụ Tôi muốn làm nhà văn chân thật Chân thật trọn đời Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã Bút giấy tôi ai cướp giật đi Tôi sẽ dùng dao viết văn lên đá. * Phùng Quán 1957 * Gia đình Phùng Quán Lời Mẹ Dặn . Chình bài thơ đầy tính Lương Thiện này của Phùng Quán đã bị Hồ Chí Minh và đồng đảng trù dập cho dở sống, dở chết xuốt ba mươi mốt (31) năm trời – từ 1957 đến mãi tới 1988 .
|
|
|
Post by nguyendonganh on Jul 18, 2014 5:11:45 GMT 9
Tự kiểm duyệt – cách kiểm duyệt chặt chẽ nhất, tinh vi nhất, tồi tệ nhấtPosted on July 16, 2014 Vũ Thư Hiên “Không có và không thể có tự do ngôn luận trong chế độ toàn trị có tên gọi là xã hội chủ nghĩa.” DCVOnline – Dưới đây là tham luận của nhà văn Vũ Thư Hiên tại cuộc hội thảo “Sự kháng cự của ngôn ngữ” (14-18 tháng 6 năm 1999) do Nghị hội Quốc tế các Nhà văn và Trung tâm văn hoá vùng Normandie-Thấp (Pháp) phối hợp tổ chức. Chỉ số Tự do Báo Chí trên thế giới – 2014. Nguồn: RWB/RSF Ở nước chúng tôi, trong cả hai bản Hiến Pháp – Hiến Pháp 1946 (Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) và Hiến Pháp năm 1980 (Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) – đều có ghi rõ rành rành: công dân Việt Nam có quyền tự do ngôn luận. Nhưng cũng ở nước chúng tôi, trong hơn một nửa thế kỷ cầm quyền của đảng cộng sản, tự do ngôn luận chỉ có ở trên giấy. Trong lịch sử báo chí Việt Nam, trong suốt thời kỳ này những tờ báo tư và nhà xuất bản tư nhân chỉ tồn tại trong hai thời điểm: những năm 1945-1946 và 1955-1956. Nói gì tới báo chí, mọi quyền tự do của công dân được ghi trong Hiến Pháp Việt Nam đều bị nhà cầm quyền hiện tại tước đoạt, hoặc trắng trợn cắt xén. Công dân Việt Nam không có quyền tự do đi lại, tự do cư trú, tự do hội họp, tự do biểu tình, tự do lập hội…, tức là không có mọi quyền công dân cơ bản. Thậm chí cả quyền phát biểu ý kiến bằng miệng những gì công dân không hài lòng với chính quyền cũng không có nốt. Ngược lại, những người mắc lỗi này, dù cố ý, dù vô tình, đều bị chính quyền trừng trị không thương xót. Nhiều người đã nằm xuống trong các nghĩa trang nhà tù chỉ vì những lời nói ở quán nước, tiệm cà-phê, thậm chí trong cơn say rượu. Phần lớn họ không được xét xử. Tôi đã từng gặp họ, những người còn sống; tôi cũng từng thắp hương cho họ, những người không trở về. Trong thời thuộc Pháp, tự do báo chí, theo nghĩa đen, không hề có, tất nhiên. Nhà nước thuộc địa đặt lên trên tất cả các tờ báo, các nhà xuất bản – của người Pháp cũng như người bản xứ – một sở kiểm duyệt có quyền năng rất lớn. Nhưng, dù sao mặc lòng, trong tình hình ấy dân bản xứ cũng vẫn còn có quyền ra báo. Khi sở kiểm duyệt cắt bỏ đoạn nào thì báo để trống đoạn ấy và điền vào đó “Kiểm duyệt bỏ”. Người ta có thể thấy được trong những khoảng trắng ấy những ý bị cấm nói ra. Về chuyện công dân phải có quyền được ra báo, một nhà cách mạng lão thành, ông Nguyễn Văn Trấn, đã viết trong cuốn hồi ký “Gửi cho Mẹ và Quốc Hội”, trong đó ông nói rằng ông mong mỏi được thấy một nền báo chí xã hội chủ nghĩa tự do bằng thời thuộc Pháp. Sự tự do báo chí kiểu thuộc địa, sự tự do báo chí bị cắt xén theo ý muốn các ông chủ thực dân, tồn tại cho tới Cách mạng Tháng Tám 1945. Nhà nước cách mạng lâm thời tuyên bố mọi thứ tự do cho các công dân vừa thoát khỏi gông xiềng nô lệ. Ai muốn ra báo thì ra, ai muốn đi biểu tình thì đi, ai muốn lập hội, lập đảng thì lập… Nhưng về sau hoá ra không phải thế. Hai năm 1945-1946, được đánh dấu bởi thành công của Cách mạng Tháng Tám 1945, và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, là thời điểm nhiễu nhương nhất trong lịch sử Việt Nam cận đại. Vào thời điểm này Đảng cộng sản Việt Nam (Đảng cộng sản Đông Dương hồi đó), lực lượng lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa, còn chưa đủ mạnh để chiếm giữ địa vị độc tôn cai trị đất nước. Việt Nam Quốc dân đảng, đảng cách mạng lớn thứ hai, sau cuộc khởi nghĩa bất thành năm 1930, hầu như tan rã hoàn toàn. Bộ phận lưu vong của Quốc Dân Đảng, gồm những đảng viên chạy thoát sang Trung Quốc, nay theo chân quân tiếp phòng Trung Hoa về nước. Quân đội Trung Hoa tiến vào Việt Nam để giải giáp quân đội Nhật theo tinh thần các hiệp định Postdam và Teheran ủng hộ những họ trong cuộc tranh giành quyền lực với những người cộng sản. Trong tình thế phức tạp nói trên, đảng cộng sản – đảng nắm chính quyền – mặc nhiên phải thừa nhận sự hiện diện của các đảng và nhóm đối lập. Trong không khí nóng bỏng của cuộc tranh chấp quyền lực, các tờ báo của các đảng phái, các phe nhóm, của tư nhân, đã tồn tại trong thời gian ngắn ngủi từ Cách mạng Tháng Tám cho tới ngày bùng nổ cuộc chiến tranh Việt-Pháp 19.12.1946. Sự tự do ngôn luận trong thời kỳ này là có, nhưng đó là một sự tự do đáng xấu hổ bởi những tin tức xuyên tạc, những lời lẽ hạ đẳng của những bên tranh giành. Vào thời điểm khởi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, Việt Nam Quốc dân đảng và vài đảng phái đối lập khác đã bị đảng cộng sản xoá sổ. Cùng với chúng, những tờ báo không phải của đảng cộng sản cũng trút hơi cuối cùng. Trong suốt cuộc kháng chiến chỉ có những tờ báo của Việt Minh (đảng cộng sản), của quân đội, và vài tờ báo địa phương chết yểu. Trong vùng Pháp chiếm đóng báo chí thuộc quyền kiểm soát của những phe nhóm thân Pháp do những kẻ chiếm đóng nuôi dưỡng, tất nhiên cũng không có tự do ngôn luận theo đúng nghĩa đen của cụm từ này. Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp của toàn dân đã thắng lợi với trận Điện Biên Phủ lừng lẫy tưởng chừng sẽ mang lại cho nhân dân những quyền tự do dân chủ mà người ta đã tự nguyện hy sinh cho mục đích cuối cùng. Nhưng một lần nữa, tình hình lại không diễn ra như vậy. Khi chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trở về Hà Nội (tháng 10.1954), cả thủ đô vừa thoát khỏi cuộc chiếm đóng của người Pháp chỉ còn lại một tờ nhật báo Thời Mới, là báo tư nhân. Có lẽ men rượu chiến thắng đã gây ra sự lơ là phần nào ở những người cộng sản đối với báo chí và xuất bản tư nhân trong những ngày đầu tiên của cuộc tiếp quản vùng Pháp chiếm đóng trước đó. Người ta đã tỏ ra bao dung trong sự đối xử với người Hà Nội, mặc dầu cuộc Cải cách Ruộng đất vừa được phát động tại căn cứ địa Việt Bắc và một phần Bắc Trung Việt lúc ấy đã cho thấy tính chất khốc liệt của nó. Tờ Thời Mới tất nhiên phải đổi giọng, từ nay nó bập bẹ học nói theo giọng tờ Nhân dân, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản. Khi cuộc kháng chiến kết thúc, những người kháng chiến tưởng đâu đã đến lúc họ có thể sử dụng những quyền tự do dân chủ của mình, hiển nhiên là của mình. Nhưng những nhà lãnh đạođã quen với quyền ban phát hoặc không ban phát mọi thứ, không chịu được cảnh những kẻ dưới quyền mình có tự do. Thế là nổ ra xung đột giữa những nhà lãnh đạo toàn năng và toàn quyền với số đông đi theo họ từ năm 1945 có tên là quần chúng. Một ví dụ về những người làm báo ở miền Nam (1958, VNCH). Nguồn: OntheNet Bị tình yêu tự do thúc đẩy, một số văn nghệ sĩ bị đảng cộng sản chụp mũ là những phần tử bất mãn hợp lực với ông Minh Đức, một người say mê cuồng nhiệt nghề xuất bản, cho ra một tạp chí không thường kỳ mang tên Giai Phẩm (số đầu ra vào tháng 3.1956). Giai Phẩm là tạp chí bướng bỉnh. Nó được lòng người đọc của thành phố, vốn xa lạ với lối sống kháng chiến và những lề luật khe khắt của nó. Nó được lòng những người kháng chiến bởi nó dám nói thẳng nói thật những điều trong thời kỳ kháng chiến là cấm kỵ. Giai Phẩm ra được mấy số, bán rất chạy. Nó cổ võ cho sự ra đời của tờ Nhân Văn, cũng với các văn nghệ sĩ kháng chiến có tên tuổi như Trần Dần, Trần Duy, Lê Đạt, Phùng Quán, Phan Khôi… đã tham gia tạp chí Giai Phẩm. Nhân Văn ra đời là để đáp ứng nhu cầu tăng vọt đối với báo chí phi nhà nước. Sinh viên cũng hăng hái nhập cuộc, cho ra tờ Đất Mới. Một tờ báo tư nhân khác, tờ Trăm Hoa, vốn ôn hoà hơn trong sự chỉ trích đường lối chính sách của đảng cộng sản, nay cũng đi cùng đường với Nhân Văn. Lần đầu tiên, tại nước Việt Nam do đảng cộng sản cầm quyền, vang lên những lời chỉ trích những mặt xấu của xã hội, gây ra bởi những chính sách độc đoán, cứng đờ, thay vì những lời ngợi ca một chiều: “Nhờ ơn Đảng, Chính phủ…” Một ví dụ về những người làm báo ở miền Bắc (VMDCCH). Từ trái sang phải: Nguyễn Hữu Đang, Trần Thiếu Bảo, Thuỵ An, Phan Tại và Lê Nguyên Chí. Nguồn ảnh: DR. Tình hình nói trên diễn ra trong bối cảnh sôi động của sự kiện Đại hội XX Đảng cộng sản Liên Xô với sự lên án tệ sùng bái cá nhân Staline của tân bí thư thứ nhất Nikita Khrushev, và những biến cố tiếp theo ở Poznan (Ba Lan), Budapest (Hungaria), cùng trong một năm 1956. Một cơn động đất trí tuệ với cường độ mạnh chưa từng thấy làm rung chuyển thế giới xã hội chủ nghĩa. Ảnh hưởng của cơn động đất ấy tới Việt Nam cũng rất mạnh. Những nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam bừng tỉnh, sực hiểu rằng trong khi quá say sưa với chiến thắng họ đã để mất “cảnh giác cách mạng”. Người ta vội vã đi tìm những lời dạy bảo của Marx và Lenine về chuyên chính vô sản trong lĩnh vực tư tưởng, chúng rất sẵn trong những sách kinh điển mác-xít, để sơn phết cây gậy trừng phạt sẽ được dùng đến. Những tờ báo bị coi là chống Đảng bị đóng cửa ngay lập tức, nhân danh đòi hỏi của những phong trào quần chúng do đảng cộng sản đạo diễn. Các văn nghệ sĩ tác giả những bài viết chỉ trích Đảng bị tập trung lại để kiểm thảo, phê phán, để rồi bị đưa đi hầm mỏ, công trường, và các vùng nông thôn để cải tạo tư tưởng. Cũng cũng từ thời điểm ấy những con người khốn khổ nọ bị vĩnh viễn tước quyền sáng tác bởi một chỉ thị ngầm. Tình hình này không mau chóng kết thúc, mà kéo dài trong nhiều thập niên, cho tới khi đảng cộng sản phải “đổ mới”, không phải tự ý, mà do sự bó buộc của tình thế. Một số văn nghệ sĩ bị xử án tù, như nhà thơ Phùng Cung, nhà báo Thuỵ An, Nguyễn Hữu Đang, đạo diễn Phan Tại… Từ đó, không bao giờ có một tờ báo tư nhân được xuất bản nữa. Không khí khủng bố đè nặng lên xã hội nói chung và giới văn nghệ nói riêng Cần nhấn mạnh thêm một lần rằng trong Hiến Pháp cũng như trong bộ luật Hình Sự của nước Công hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, không tìm đâu ra bóng dáng của một sự kiểm duyệt chính thức đối với báo chí và xuất bản. Những nhà báo bàn giấy ở nhiều nước văn minh vốn quen tìm sự thật trong các thư khố bị đánh lừa, họ tưởng đâu ở Việt Nam có tự do ngôn luận. Điều này giải thích vì sao cho tới nay còn có không ít nhà báo vẫn bênh vực chế độ quản trị xã hội theo cách chuyên chế của các đảng cộng sản. Người ta suy diễn từ sự nới lỏng đối với kinh tế như một thời kỳ mới đã tới với tự do tư tưởng. Họ không hiểu rằng sự không có một sở kiểm duyệt nào lại có thể là một chế độ kiểm duyệt ngặt nghèo nhất. Những cuộc điều tra gần đây tại các quốc gia Đông Nam Á cho thấy: về mặt tự do báo chí Philippine đứng đầu bảng với 2,29 điểm (thang độ kiểm duyệt từ 0 đến 10), Việt Nam đứng cuối bảng, với mức độ kiểm duyệt gắt gao nhất, với 9,50 điểm. Nhìn lại lịch sử sự hạn chế tự do ngôn luận tại Việt Nam, những nhà nghiên cứu ghi nhận rằng từ sau vụ các văn nghệ sĩ lên tiếng chống lại đường lối văn nghệ của đảng cộng sản (văn nghệ phục vụ công nông binh, văn nghệ phản ánh hiện thực theo cách nhìn của Đảng, văn nghệ phục vụ chính sách của Đảng), ở nửa sau của thập niên 50, đảng cộng sản Việt Nam đặc biệt quan tâm tới việc kiểm soát báo chí và xuất bản. Sự quan tâm ấy được thể hiện như thế này: Những người lãnh đạo các cơ quan báo chí và xuất bản, được đảng cộng sản nố trí, cắt đặt, nhất thiết phải là đảng viên, mà là đảng viên trung thành, đã được qua thử thách. Những bài viết, những cuốn sách nhất thiết phải được những người này, thay mặt đảng của họ, xét duyệt, thông qua, trong sự phân nhiều cấp quản lý, trước khi chúng tới tay người đọc Trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương đảng cộng sản không phải chỉ có một ban chuyên trách về tư tưởng mà vài cơ quan – Ban tổ chức Trung ương, Ban tuyên giáo trung ương, Vụ báo chí và xuất bản, Ban Văn hoá Văn nghệ trung ương, Ban bảo vệ chính trị nội bộ. Những cơ quan nói trên, được trao trách nhiệm “quản lý tư tưởng” đảng viên và quần chúng ngoài đảng, theo dõi chăm chú và cần mẫn động thái tư tưởng của xã hội, trước hết là các bài viết trên báo, các cuốn sách xuất bản, nhằm tìm ra những sơ hở, những lỗi lầm Sự bủa vây các văn nghệ sĩ và các phần tử “bất mãn, chống chế độ” bởi các cơ quan đảng, còn được tăng cường bằng những cơ quan mật thám với chức năng song song, cũng chuyên theo dõi “tình hình tư tưởng” các công dân, với những mật danh mà khi nói đến chúng người ta phải hạ giọng, thì thào. Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện bị bắt, bị cầm tù cả thẩy 27 năm, chỉ vì những bài thơ bất bình chống chế độ, tuy những bài thơ của ông chưa một lần được xuất hiện trên mặt báo. Người ta đã tước đoạt của ông cả tuổi trẻ, cả tuổi trung niên, không một chút ân hận, tự cho rằng họ có quyền làm như thế. Mặc dầu đã cẩn thận như vậy, đảng cộng sản vẫn còn để lọt một số truyện ngắn và phóng sự “ngược với đường lối của Đảng” của cả những cây bút từng có mặt trong những tờ Giai Phẩm và Nhân Văn, như chuyện xảy ra với tờ Văn của Hội Nhà văn Việt Nam, được khai trương năm 1957, và cũng “phạm sai lầm” ngay trong năm đó. Sự rình rập, bủa vây tư tưởng không phải không có tác dụng. Nó là thanh gươm Damocles treo lủng lẳng trên đầu mỗi con người muốn suy nghĩ độc lập, bằng bộ óc của mình. Từ đó sinh ra cái sự kiểm duyệt hết sức kinh khủng, hết sức tồi tệ, kể từ khi loài người phát minh ra chữ viết – do sợ hãi, con người bắt đầu kiểm duyệt chính mình. Hệ quả đầu tiên và hệ quả chính của cơ chế tự kiểm duyệt là sự ra đời của thứ ngôn ngữ đặc thù – ngôn ngữ “lưỡi gỗ”. Ngôn ngữ “lưỡi gỗ” tránh xa mọi “vùng cấm” (tabu), không dám đụng tới những huý kỵ. Mỗi ngày nó một trở thành tinh xảo hơn trong nghệ thuật xưng tụng bề trên. Mỗi khi nói về đảng cộng sản người ta không bao giờ quên thêm vào những tính từ “vĩ đại”, “anh hùng”, “tài tình”, “duy nhất đúng đắn và vô cùng sáng suốt”… Cũng như vậy, những từ “anh minh”, “tài ba”, “kiệt xuất”, “vô song” được gắn liền với tên các lãnh tụ. Từ ngữ sáo rỗng tràn ngập các mặt báo, các trang sách. Chỉ có nấp đàng sau những từ ngữ ấy người cầm bút mới cảm thấy yên tâm. Sự tự kiểm duyệt được bắt đầu ở cấp thấp nhất trong nghề báo. Phóng viên phải rà soát rất kỹ sản phẩm của mình trước khi trình cấp trên xem xét nó. Các biên tập viên sẽ còn phải rà soát sản phẩm ấy một lần nữa trước khi đưa lên tổng biên tập, chủ nhiệm… Người ta cảnh giác với chính mình, chỉ sợ vấp phải điều gì đó vượt ra ngoài khuôn phép đã được nhà nước quy định. Tuỳ theo lỗi lầm, họ có thể bị hạ tầng công tác (tức là hạ lương), bị chuyển nghề, bị đưa đi lao động ở địa phương… Nặng hơn, họ sẽ bị Công an đến nhà vào ban đêm, và đưa họ tới thẳng trại cải tạo theo Nghị quyết số 49NQ/TVQH của Ban thường vụ Quốc Hội do nguyên tổng bí thư Trường Chinh ký giữa năm 1961. Theo sự giải thích của đảng cộng sản, cái Nghị quyết mang tính pháp luật này được đặt ra nhằm dạy dỗ, huấn luyện những công dân hư hỏng thành những công dân tốt. Thời gian cải tạo một công dân hư hỏng là 3 năm, được gọi là một “lệnh”, nhưng nếu cải tạo chưa tốt thì người cải tạo sẽ được hưởng thêm một “lệnh” tiếp, cứ thế kéo dài mãi. Những người tù không án xử có thâm niên trung bình trên 10 năm nhan nhản ở các trại giam. Những người bị giam lâu từ 20-30 năm không phải là hiện tượng cá biệt. Chính quyền chuyên chế Việt Nam, kể từ cuối thập niên 50, đã xây dựng thành công cơ chế tự kiểm duyệt. Nó hoàn toàn có quyền tự hào vì sự sáng tạo ấy. Nền chuyên chế đã đạt được mục đích của nó mà không cần một sở kiểm duyệt, như bọn thực dân phải làm tại các thuộc địa. Ngôn ngữ “lưỡi gỗ” còn để lại dấu ấn của nó trong cả thời kỳ sau khi phe xã hội chủ nghĩa tan rã, và những chế độ cộng sản còn lại phải tìm cách tự thích ứng bằng sự nới lỏng những xiềng xích trói buộc các quyền tự do cơ bản của công dân. Khi gò ép các phương tiện truyền thông vào những khuôn phép do nhà cầm quyền chế tạo, họ cố tình quên lời thầy của họ là Karl Marx: “Báo chí nói chung là sự thực hiện tự do của con người. Do đó, ở đâu có báo chí ở đấy phải có tự do báo chí.” Người ta bịt miệng quần chúng nhân danh mục đích cuối cùng của cách mạng vô sản: xây dựng một xã hội không có người bóc lột người, để cho những thành viên của xã hội ấy được sống trong tự do và hạnh phúc. Ở đây họ cũng quên lời thầy nốt: “Mục đích đòi hỏi những phương tiện không đúng thì nó không phải là mục đích đúng.” Trong suốt mấy thập niên tiếp theo vụ án văn chương “Nhân Văn – Giai Phẩm”, những tác phẩm bị nhà cầm quyền cộng sản coi là “xấu” có thể đếm trên đầu ngón tay. Người ta đã gây ra những trận bão trong ly nước, khi những cơ quan “quản lý tư tưởng” phát hiện chúng và la lối. Trong thực tế, những tác phẩm này không phải là những tác phẩm đối kháng chế độ. Chúng chỉ mới đụng chạm nhè nhẹ tới những mặt xấu (thường được gọi là mặt “tiêu cực”) của xã hội, có khi chỉ là những mưu toan thoát khỏi đường mòn trong phong cách thể hiện đề tài. Để thể hiện nỗi bất bình đối với mặt này hay mặt khác của chế độ, hoặc đối với cả chế độ trong toàn cục, các nhà văn sau này được đặt tên là phản kháng, không chịu sử dụng “lưỡi gỗ”, và cũng không thể sử dụng nó được. Họ thường dùng cách ẩn dụ, một thời được gọi là “biểu tượng hai mặt” (symbole équivoque). Nhưng cách này không phải hữu hiệu, bởi vì không phải người đọc nào cũng hiểu được nhà văn muốn gửi gắm nỗi niềm gì trong tác phẩm. Năm 1961, Nguyên Ngọc viết truyện ngắn “Mạch Nước Ngầm”, miêu tả một nhà máy được xây dựng trên một mạch nước, mặc dầu nền móng có vẻ vững chắc, nó đã bị mạch nước bị đè nén làm cho sụp đổ. Truyện ngắn này, cùng với hai truyện ngắn khác – “Đêm Mất Ngủ” (Vũ Thư Hiên) và “Chị Cả Phây” (Ngô Ngọc Bội) đã bị nhà thơ lãnh tụ văn nghệ Tố Hữu đập cho tơi bời trong một bài báo “Nâng cao lập trường tính Đảng, chống chủ nghĩa xét lại hiện đại trong văn nghệ”, vạch ra tính bóng gió, xỏ xiên, chống chế độ của chúng. Đáng buồn là chỉ sau khi có bài phê phán của Tố Hữu, người đọc mới hiểu được ẩn ý của các tác giả nói trên. Cùng một kết quả như vậy đã xảy ra với những tác phẩm bị gọi là “biểu tượng hai mặt” khác. Có lẽ cái lợi duy nhất mà những nhà văn ngang ngạnh kiếm được trong khi luồn lách để thoát khỏi sự kìm kẹp tư tưởng là sự rèn luyện về văn phong. Họ trở thành những bậc thầy trong cách sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ phi “lưỡi gỗ” trở thành phong phú. Nó làm cho tiếng Việt giàu có thêm phương tiện biểu đạt. Gần đây, trong xu hướng chống lại sự bóp nghẹt tự do tư tưởng ở Việt Nam đã có một vài tờ báo “chui” như tờ “Người Sài Gòn”, “Thao Thức”, “Nối Kết”… Chúng có số lượng xuất bản nhỏ nhoi, sống được nhờ phương tiện photocopy của kỹ thuật mới, do chính người đọc tham gia vào việc phát hành. Nhưng những tờ báo như vậy không thể gọi là báo, theo hình dung thông thường của mọi người về tờ báo. Gọi chúng là những truyền đơn thì đúng hơn. Thật đáng tiếc, những người cầm bút Việt Nam chúng tôi không có kinh nghiệm rút ra từ những thắng lợi trong cuộc đấu tranh cho tự do ngôn luận. Bù lại, chúng tôi có những kinh nghiệm quý báu rút ra từ những thất bại. Tự do Báo chí ở Việt Nam nằm ở cuối bảng từ nhiều năm nay. Nguồn: RWB/RSF Kinh nghiệm ấy là: “Không có và không thể có tự do ngôn luận trong chế độ toàn trị có tên gọi là xã hội chủ nghĩa.” Khái niệm “tự do trong khuôn phép, tự do có lãnh đạo” là một khái niệm tự do đã bị đánh tráo. Cả khái niệm dân chủ tập trung, trong đó nguyên tắc cơ bản của nó là thiểu số phục tùng đa số cũng đã bị đánh tráo. Bằng khái niệm dân chủ xã hội chủ nghĩa, trong đó đa số là một dân tộc 80 triệu người phải phục tùng thiểu số là một nhóm người cầm quyền bất tài, vô học. Nguồn: Tự kiểm duyệt – cách kiểm duyệt chặt chẽ nhất, tinh vi nhất, tồi tệ nhất. Blog Thêm Một Niềm Vui. Vũ Thư Hiên. 4/7/2014.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 23, 2022 2:02:43 GMT 9
NHỮNG SUY TƯỞNG RỐT RÁO VỀ THƠ Tô Thùy Yên Phải, từ bao giờ, có lẽ từ lúc hồn thơ bắt đầu phát sinh trong tâm thức con người, cùng với sự sáng tạo thần kỳ của tiếng nói, dường như thơ luôn luôn bị người đời trong một định kiến hết sức oan uổng cho thơ, hoặc ruồng rẫy rẻ rúng nó đến độ tưởng như nó không hề hiện hữu, hoặc lưu đầy quản thúc nó vào một cõi vô thức, hão huyền dành riêng cho một số ít tâm hồn bị nguyền rủa nào đó lui tới. Thơ như một đứa con chẳng trông nhờ gì được của người cha mù lòa quờ quạng là đời sống không ngừng hoài vọng tìm gặp cho được một lần những giải đáp soi sáng niềm bí ẩn lớn lao đời đời bao quanh nó, ở trong nó. Giữa đời sống và thơ, từ bao giờ dường như đã có một khoảng cách xa vời chẳng thể thu ngắn, người đọc đến với cõi thơ luôn luôn có cảm tưởng mơ hồ đã phải tạm thời tách lìa thế giới thực tại vây bủa, thơ mặc nhiên bị coi như ngày nghỉ xả hơi nào đó của trí não tù hãm, u trệ, như một khác thường đôi lúc xẩy ra của đời sống, và ý niệm như vậy về thơ tưởng cũng như là làm một điều ân sủng tử tế lắm lắm cho thơ. Nói cách khác, đời sống trong vận động miên man sinh tồn và phát triển của nó, giữa những chập chùng ngặt nghèo hỗn độn của bao nhiêu là sự kiện thực tế hiển hiện lúc nào cũng chực gây thương tổn và hủy hoại phẩm cách của con người, vâng, đời sống, trong những điều cực kỳ bi đát như vậy, dường như thường xuyên có phản ứng gần như bản năng chối nhận thơ như một đeo đẳng trì kéo phiền toái có nguy cơ phá hoại trầm trọng chính sự vận động sinh tử đó của đời sống. Nhưng chính cái phản ứng gần như bản năng chối nhận thơ đó phần nào cũng xác nhận rằng thơ luôn luôn có mặt một cách cơ hữu mật thiết ở trong đời sống, cùng với đời sống. Tất nhiên, khoảng cách có tính tưởng chừng đó giữa đời sống và thơ chẳng phải do chính người làm thơ cố tình tạo ra như thông thường hắn vẫn bị chê trách nặng nề như đó chính là lỗi của hắn vậy. Và khoảng cách đó, cuối cung rồi cũng phải được người làm thơ, để làm tốt công việc của mình là chụp bắt hồn thơ trong cái hình trạng hoàn toàn trung thực vốn biến ảo khôn lường của nó, bất đắc dĩ chấp nhận như là điều kiện mặc nhiên của thơ. Thơ như một điều gì đó mập mờ, hư giả, thậm chí lắm lúc còn tối tăm, bí hiểm, và do đó, không những đã vô ích mà còn bị tình nghi có hại là đằng khác. Nhưng dù thế nào đi nữa, thơ, như vừa nói qua, vẫn đời đời ở lại với loài người như một tình nhân định mệnh thắt buộc, không muốn cũng không được. Và cũng vì tính chất thoạt trông có vẻ phù phiếm vô bổ đó của thơ nhiều lúc có thể tạo thành dễ dàng một mặc cảm nặng nề nơi người làm thơ nên một số không ít những người làm thơ đã muốn dĩ thi tải đạo, làm những bài thơ giáo huấn tuyên truyền luận giải thuyết phục, để thấy mình cũng như thơ có được một mục đích lợi ích xã hội thiết thực. "Khi người làm thơ sử dụng thơ như một công cụ cho chế độ chính trị thì đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ... Khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng đã đành, mà cả người đọc, khi đọc bài thơ đó, cũng phải tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung chạ của cả đôi bên." Tất nhiên không hiếm những chế độ chính trị đã tận lực góp thêm phần tạo thành dầy đặc cái mặc cảm vô dụng đó nơi người làm thơ để dễ dàng sử dụng hắn như một công cụ cũng khá cần thiết cho chúng, và khi đã ưng chịu như vậy thì người làm thơ một cách mặc nhiên đã làm một công việc hoàn toàn khác biệt với công việc làm thơ, đã tự mình chối bỏ danh xưng thi sĩ. Một chế độ chính trị bao giờ cũng bắt buộc phải chứng minh bằng cách này hoặc bằng cách khác. Còn thơ tự bản thân nó chẳng nhằm chứng minh bất kỳ điều gì, ngoại trừ chỉ chứng minh nó là thơ, thế thôi. Sự thiết thân gắn bó của thơ đối với con người, cái lý do tồn tại chính đáng cao cả đó của thơ sẽ phải chỉ được tìm thấy ở một nơi chốn nào khác, và nơi chốn đó là hồn thơ của chính người đọc. Điều ngộ nhận thông thường của người đời là mặc nhiên coi hồn thơ như cái phần sở đắc trời đất đã ưu ái - hay độc địa? - dành cho người làm thơ mà thôi, và hắn phải cam chịu mịt mùng cô độc vô vọng vì cái phần sở đắc ngặt nghèo riêng tư đó. Sự thật không phải như vậy, hồn thơ luôn luôn là sở hữu chung đều của mọi con người, cả người làm thơ lẫn người đọc thơ, không phân biệt ai ai. Tất nhiên, qua thời gian chung đụng với đời sống, mỗi cá nhân hoặc giả đã đầu tư phát triển ít hay nhiều theo một cách thức nào đặc biệt của mình cái vốn liếng sẵn sàng đó, hoặc giả đã không muốn đá động sử dụng gì đến nó cả. Nói cách khác, hồn thơ ở mỗi cá nhân lâu ngày chầy tháng khuôn thành theo hình dạng tâm tính đặc thù của cá nhân đó. Nhưng cho dù hồn thơ ở một cá nhân nào có tuyệt đối bị bỏ quên trùm lấp chăng nữa, ở cá nhân đó, hồn thơ cũng chẳng hoàn toàn tàn rụi mất biến được. Bởi lẽ hồn thơ vĩnh viễn tàng ẩn bàng bạc trong tận cùng sâu thẳm của tâm thức con người giăng mắc mạng lưới phức tạp những xúc cảm tư duy cực kỳ tinh vi trong tương phùng chuyển hóa sinh động miên man của ngôn ngữ hàm xúc trùng trùng những huyền nhiệm bất khả tư nghị, nó trường kỳ nghi phục bất động đâu đó, để rồi trong những thoáng cơ duyên nào bất chợt nhất, nó lại xuất đầu lộ diện ngự trị, điều động con người theo những luật tắc riêng biệt vừa rộng rãi mà cũng vừa nghiêm ngặt của nó. Và kinh qua những lần chứng nghiệm thơ như vậy, con người bỗng nhận thức được như một đốn ngộ về một nghịch lý: thơ, với tất cả những gì mà người đời cho là những khuyết phế vốn dĩ của thơ, lại cũng là một phương thức nhận thức đặc biệt cùng với những phương thức nhận thức khác của con người triền miên theo đuổi công cuộc tìm kiếm những sự thật lẩn khuất chung quanh mình, ở trong mình. Và thơ, tội nghiệp thay, cũng là đứa con nhờ vả được đã dẫn dắt người cha mù lòa đi sâu vào những cõi u ẩn huyền nhiệm tuyệt vời mà chính những đứa con sáng sủa hằng được trọng vọng khác của trí tuệ con người chẳng tài nào tiếp cận. Phải, ở những lằn ranh cuối cùng mà tôn giáo, triết học, khoa học đã phải đứng lại, thơ, vâng, chỉ có thơ, vẫn nhẹ nhàng tiến bước, xông pha, bay lượn, vùng vẫy. Lúc đó, những lúc đó, con người chợt cảm nhận rằng mình phơi phới nhẹ nhàng như đã được giải phóng khỏi những nặng nề đè áp thường nhật, rằng mình đã thật sự sở hữu được chính mình nhiều hơn nữa, đã thật sự hòa nhập vào một đời sống có khi còn chính đáng hơn cả cái đời sống mà mình vẫn thường lầm tưởng là duy nhất chính đáng, một đời sống khác nữa không hẳn là không xác thực, một đời sống khác nữa ở ngay trong cõi sâu cùng thăm thẳm nhất của chính đời sống. Những lúc đó, con người nương thả theo thơ, sống trọn vẹn là con người với đầy đủ các tính cách kỳ diệu lạ lùng mà bình thường chưa từng nghe thấy có, tưởng chừng chẳng thể có. Bởi lẽ hồn thơ chính là cái phần u uẩn lẩn khuất mênh mông tuyệt đối của hồn người, nó chính thị là hồn người trong ý thức sau cùng hết của hồn người. Người đọc thơ, những lúc đó, mặc nhiên trở thành thi sĩ theo định nghĩa cao cấp nhất của danh xưng: kẻ tạo dựng một thị cảm, một cách thức nhìn thấy độc đáo và cái thế giới vừa ngoại quan và cũng vừa nội quan mà chính mình đang sống. Thơ chính là một thị cảm dù được thể hiện theo kỷ luật riêng biệt của bất kỳ trường phái hay khuynh hướng thi ca nào, và nếu như bài thơ nào không truyền đạt được những khêu gợi phải có nhằm đánh thức thôi thúc được một cách mãnh liệt cái hồn thơ ẩn náu bất động nơi người đọc để hình thành một thị cảm nào đó, chắc chắn bài thơ đó là một thất bại, bài thơ đó đương nhiên không phải là thơ. Tất nhiên, khi làm bài thơ, phần người làm thơ tận lực cố gắng đã đành, mà cả người đọc, khi đọc bài thơ đó, cũng phải tận lực cố gắng phần mình nữa trong việc thể hiện được trọn vẹn cái hồn thơ chung chạ của cả đôi bên. Một cách thông thường, con người ù lì bất động trước những quen thuộc nhàm chán nhưng lại sẵn sàng có phản ứng tức thì xô chối phủi xua những điều đầu tiên còn xa lạ ngỡ ngàng. Người làm thơ thành công dường như bao giờ cũng phải là người vừa có vẻ là cố tri, lại vừa thật sự là sơ ngộ đối với người đọc. Đó cũng là yếu tính chung cua mọi nỗ lực sáng tạo, phải trông thấy quen quen để được đón nhận, rồi sau đó mới có thể trưng bày được những khác biệt phải có. Trong nghệ thuật, không hề có niềm tự hào vô lối về một sự làm mới tuyệt đối. Có thể quả quyết rằng mọi sáng tạo đều phải phát xuất từ một gia sản có tính truyền thống nào đó. Mọi sáng tạo, trong giai đoạn đầu tiên ngắn ngủi thôi, là một mô phỏng, một lặp lại. Kể cả những người khai phá làm mới táo bạo nhất trong nghệ thuật cũng ít nhiều để lộ ở nơi họ những vết tích nào đó của một quá khứ xa xôi. Không có một thứ gì không có cội nguồn. Cái quá khứ xa xôi tồn đong đó chính là cốt tủy khuất ẩn của hồn người. Thơ không ở ngoài lề luật chung đó, bao giờ nó cũng khởi đi từ lớp lớp quá khứ truyền thống của ngôn ngữ. Cũng như mọi sáng tạo khởi đầu vốn là công việc của một người đơn độc để rồi sau đó, chỉ có thể hoàn thành trọn vẹn với sự hợp tác gia công của một người khác nữa, người thưởng ngoạn. Lẽ đơn giản rõ ràng là nghệ thuật bao giờ cũng mang nặng trong bản chất của nó niềm mong mỏi chia xẻ. Cả lúc khởi đầu cũng đã là sự chia xẻ ngay trong tự thân, với chính mình, của người làm nghệ thuật. Thế giới mà chúng ta đang sống đây càng lúc càng hiển lộ một hiện tượng tách biệt trầm trọng lạ lùng giữa thơ và đời sống. Tách biệt đến mức tưởng chừng bây giờ thơ đã trở thành một công việc riêng tư hết sức chuyên môn như trong một hội kín giữa các người làm thơ với nhau thôi. Tách biệt đến mức tưởng chừng bây giờ hồn thơ của loài người đang hồi cạn kiệt rồi vậy, nòi giống của những người làm thơ và những người đọc thơ đang lâm vào nguy cơ tuyệt diệt rồi vậy. Trước đây trong lịch sử, cũng đã có những thời đại suy thoái cùng khốn vất vưởng của thơ, nhưng dường như chưa từng có một thời đại nào mà thơ đã bị dồn đẩy thảm thương tuyệt lộ vào một xó góc tù túng bí thở tăm tối lãng quên như trong thời đại của chúng ta. Ngày nay, số người thật sự đọc thơ càng lúc càng hiếm hơi, và người làm thơ càng lúc càng bị quy kết một cách nghiệt ngã, hoặc oan hoặc ưng, đã chẳng có đủ tài năng và cả thiện chí thực hiện mỹ mãn công việc của mình. Lý do viện dẫn thông thường làm sao thơ bây giờ khó khăn bí hiểm quá, sỗ sàng thô trọc quá, xa lạ kỳ cục quá, nó thế nào ấy, nó không còn giống như thơ nữa. Từ những nguyên nhân nào và phần lỗi thuộc về ai, ở đây chúng ta không đề cập rốt ráo một phân tích chi li và rốt ráo. Ở đây chỉ ghi nhận là hiện có một chênh lệch rất đỗi lớn lao tưởng chừng khó thể trùng nhập được nữa giữa hai màng lưới xúc cảm tư duy đã bắt đầu khác biệt về khuôn khổ cũng như về cấu trúc của người làm thơ và người đọc thơ. Một chênh lệch như vậy đôi khi cũng được bắt gặp trong giai đoạn khởi đầu của những thời kỳ văn học nghệ thuật được canh tân nhưng nó không đến mức trầm trọng vô phương điều chỉnh như là sau đó không lâu, may mắn thay, đã điều chỉnh được, thông thường từ phía quần chúng đã có đủ thời gian kết thân thích nghi. Khác hẳn với sự chênh lệch có tính chia lìa chẳng thể còn quay về, được ghi nhận hôm nay và được nhìn thấy như một hậu quả đương nhiên của tính gia tốc khốc liệt của lịch sử đã làm nẩy sinh tính tức thời vụn nát và tính thực tiễn đáp ứng tối thiết yếu của đời sống. Được nhìn thấy như mối đe dọa bị hủy hoại càng lúc càng trầm trọng bức bách con người. Ngôn ngữ, công cụ tư duy duy nhất của con người, thành tựu cao cả tuyệt vời của con người càng lúc càng giảm nhẹ uy thế lâu đời của nó trong đời sống, lần lượt bắt buộc phải nhường chỗ cho một ngôn ngữ khác cụ thể hơn, gọn gàng hơn, dễ nhận hơn, nhanh chóng hơn, ngôn ngữ của những dãy dãy tiếp chuyển hình ảnh tới tấp chồng chất. Thơ bây giờ sẽ phải như thế nào đây? Có lẽ không một người làm thơ nào không trăn trở vì câu hỏi đó. Ngôn ngữ đích thực đã bị sàng sẩy giản lược vào mỗi chức năng đầu tiên thô sơ là trao đổi giao thiệp xã hội thuần túy. Phần huyền nhiệm sâu thẳm vốn ôm ấp ẩn chứa bao nhiêu là tình tự tích lũy nghìn đời của ngôn ngữ đã bị chính đời sống xã hội một cách không thương tiếc, tước bỏ, lãng quên không cần dùng tới nữa. Nhiều thể loại văn học cáo chung. Sách vở bị truất phế. Thư viện có nguy cơ trở thành hầm mộ của những xương cốt cổ thời. Và rồi theo cái đà đó, điều gì sẽ xẩy đến với con người? Hẳn cũng chẳng khó khăn gì mà chẳng tiên cảm được điều này: đó sẽ là thời kỳ khô hạn, héo rụi khác thường của con người cằn cỗi, rã rời, thời kỳ đáng sợ nhất trong suốt dòng lịch sử nhân loại. Có lẽ vậy. Việc đánh mất cái phần trừu tượng của con người hiển nhiên sẽ dẫn đưa đến việc đánh mất toàn thể con người. Sự tắt lụi của ngôn ngữ đích thực cũng đồng nghĩa với sự tắt lụi của chất lửa tồn trữ trong phiến đá sống là con người. Và rồi sau đó nữa thì sao? Mong mỏi thay cho con người sẽ vì niềm luyến nhớ ám ảnh day dứt khôn nguôi về chính hồn mình từ lâu lạc loài thất tán, lại phải đem thân dầu dãi vào một cuộc phiêu lưu khác nữa, một cuộc phiêu lưu chắc chắn cực kỳ gian truân để tìm gặp cho bằng được chính hồn mình giữa cảnh giới bao la trù mật thanh sắc của ngôn ngữ đích thực mà ở đó, bao giờ thơ cũng là hình dáng biểu hiện cao diệu nhất. Và như vậy, cho dù ở vào tình huống nào đi nữa, càng thách đố càng phải nỗ lực, chúng ta đã chẳng muốn để mất đi lòng tự hào được làm người, chúng ta sẽ còn tiếp tục vun dưỡng cái thần siêu đẳng của ngôn ngữ, còn tiếp tục đọc thơ, làm thơ, nếu như chúng ta còn có một phẩm giá nào đó cần phải bảo trọng. Bởi lẽ thơ chính là phần sinh lực dự trữ tối hậu mãnh liệt nhất của con người không bao giờ khứng chịu bị hủy hoại vong thân. Đó là lý do tồn tại chính đáng cao cả của thơ để cho con người cùng tồn tại với. Khoảng cách cho là có giữa đời sống và thơ sẽ chẳng còn là khoảng cách nữa nếu như hồn thơ trong con người đã thức dậy, đã hiển minh. Thơ là con đường trải dài của thời gian, nối liền quá khứ với hiện tại nhằm hướng đến tương lai, không gián đoạn, trong nỗ lực xác nhận sự đồng nhất của hồn người toàn vẹn. Nếu lịch sử là nỗ lực mô tả những diễn biến cụ thể của thời gian thì thơ, một cách khái quát, là lịch sử trừu tượng của thời gian, là phần hồn thiêng của lịch sử. Nhìn thấy thơ như vậy mới thật sự nhìn thấy đầy đủ thơ. Tô Thùy Yên (Ngày Nay Minnesota số 164, 31-3-1996)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 4, 2023 15:13:42 GMT 9
Phùng Quán. ☆ MỘT THOÁNG VĂN CAO.
Hồi làm việc ở Vụ Văn hóa quần chúng. Chị Băng, vợ anh Văn Cao làm ở Ban B, cùng trong ngôi nhà 51, Ngô Quyền, Bộ Văn hóa. Lúc ấy giá gạo ngoài ở Thái Bình lên đến 3 đồng một ký. Người Thái Bình đói kéo nhau về Hà Nội ăn xin. Một buổi trưa tôi ngồi uống nước chè chén 5 xu (ghi sổ nợ) ở cái quán xế bên cửa Bộ. Chợt nhìn thấy Văn Cao cùng với Đoàn Văn Chúc, Giảng viên Trường Đại học Văn hóa vịn vai nhau, chếnh choáng, xiêu vẹo đi ngang qua. Tôi gọi hai anh vào uống nước, hút thuốc. Lâu không gặp Văn Cao, tôi sửng sốt thấy gương mặt anh bạc trắng như tờ giấy, hai má hóp sâu, chòm râu lơ thơ làm cho khuôn mặt anh càng thêm nhọn hoắt. Trong quán lúc này có bốn năm người khách. Họ đều nhìn anh. Và tôi biết chắc là họ không biết anh là ai. - Anh hút thuốc lào đi. Tôi đưa điếu cày cho anh, nói với chị chủ quán: Chị cho tôi gói thuốc lào. Văn Cao chậm rãi thông điếu, hỏi chị chủ quán: Thuốc lào của chị là thuốc lào Tây hay thuốc lào ta?. Chị chủ quán ngơ ngác: Làm gì có thuốc lào Tây ạ? Tôi cười giải thích: Ý anh ấy muốn hỏi thuốc lào của chị là thuốc lào mậu dịch hay thuốc lào chui. Thuốc lào mậu dịch là thuốc lào Tây. Chị chủ quán nói: Thế thì thưa ông anh, thuốc lào Tây ạ, em không có thuốc lào ta. Một ông khách móc túi lấy gói thuốc lào bọc trong túi giấy bóng, đưa cho anh: Tôi có thuốc lào ta đây. Chính hiệu Tiên Lãng, mời ông ăn thử. Văn Cao đỡ gói thuốc lào, vê một điếu bỏ vào nõ, nói với ông khách: "Ăn thuốc" đó mới đúng là ngôn ngữ của người ghiền thuốc lào. Văn Cao rít một hơi tận sức, từ từ nhả khói. Đúng là chính hiệu Tiên Lãng, ông cho tôi xin thêm điếu nữa? Mời ông cứ tự nhiên. Văn Cao hỏi tôi: Quán có tiền đó không, cho mình vay 5 đồng. Hai thằng từ sáng đến giờ chỉ toàn rượu suông, muốn đi ăn bát cháo. Em chỉ có ba đồng, anh cầm tạm. Văn Cao bỏ tiền vào túi. Hai người đứng lên, lại vịn vào nhau, xiêu vẹo dắt nhau đi. Ông khách cho thuốc lào ái ngại nhìn theo hai người đi khuất ở ngã tư Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo. Nhìn cái nước da trắng bệch của ông ta mà tôi phát sợ. Chắc chẳng còn sống được bao lâu nữa. Tôỉ hỏi ông: - Ông có biết ông ấy là ai không? - Không, tôi đoán là dân ở Thái Bình mới lên. Từ hôm gạo lên 3 đồng một ký, dưới đó nhiều người đứt bữa… Tôi nói: Ông ta là người đã viết một bài hát mà mỗi lần hát lên, cả nước phải đứng nghiêm, kể cả cụ Hồ. Ông khách trợn tròn mắt: - Ông ta là nhạc sĩ Văn Cao? - Đích thị là Văn Cao! Ông khách đang uống dở hớp nước, ngồi ngẩn ra một lúc lâu như người bị nghẹn, rồi buông lửng một câu: - Thế thì còn ra thế nào nữa…! Lát sau chị Băng từ trong cửa Bộ đi ra. Vừa nhìn thấy tôi, chị túm lấy hỏi: - Từ sáng tới giờ anh có thấy anh Văn đi ngang qua đây không? - Anh vừa đi cách đây hai mươi phút. Anh hỏi vay tôi năm đồng, tôi chỉ có ba đồng đưa cho anh. - Có khổ thân tôi không! Ở nhà khách người ta đợi suốt từ sáng tới gần trưa. - Khách ở đâu đến mà quan trọng thế? Chắc là nhà báo quốc tế đến phỏng vấn anh về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác. Chị Băng nhăn nhó khổ sở: Khách từ Hà Giang xuống, ở Xí nghiệp chế biến chè. Họ muốn nhờ anh Văn vẽ cho cái nhãn chè. Người ta đem xuống 50 đồng với 10 gói chè loại 1. Chờ mãi không được thế là người ta đem tiền, đem chè đi nhờ họa sĩ khác. Nghe chị kể tôi cũng thầm tiếc cho anh. 50 đồng với 10 gói chè Hà Giang loại 1. Chao ôi, thật đáng tiếc! Hôm sau tôi gặp Văn Cao, kể lại chuyện hôm qua, hỏi anh: - Sao anh lại bỏ dở một cái đơn đặt hàng ngon lành thế? Hay anh quên? - Mình nhớ chứ, chỉ cần ngoạch trong nửa tiếng là có 50 đồng… Nhưng mình bỏ đi lang thang uống rượu suông với thằng Chúc và phải hỏi vay con gái. Anh lắc đầu: Mình rất cần tiền mà cũng vô cùng chán tiền… (*) Ảnh - Văn Cao do Nguyễn Đình Toán chụp ngày 3/7/1995. Đúng 1 tuần sau Văn Cao rời cõi dương gian vào ngày 10/7/1995. *** Sưu tầm***
|
|