Post by Huu Le on Aug 23, 2006 5:43:59 GMT 9
Âm tiếng Việt và chính tả -Hà Dương Tuấn
--------------------------------------------------------------------------------
1. Giới thiệu
Vấn đề đánh dấu chỗ nào trên chữ tiếng việt đã được giải quyết lâu rồi, ngay cả chứng minh có thể giải quyết một cách tự động [1]. Chữ tiếng việt mang dấu trên chủ âm. Trong [2] tác giả đã đưa ra một số quy luật cho phép chúng ta có thể đánh dấu mà không sai chính tả, những quy luật này dựa trên nguyên tắc xác định đâu là chủ âm trong chuỗi nguyên âm của một chữ tiếng việt. Bài này không có gì mới trên những ý lớn so với hai bài đã dẫn. Nó chỉ có tham vọng có ích vì : một là những bài kia đã cũ khó tìm, hai là nó dựa vào ngữ âm để thấy rõ hơn tại sao có các quy luật nêu ra trong [2], được tóm gọn trong 4 (+1) mẹo bỏ dấu ; và sau cùng xin đề nghị một quy ước nhất quán nhỏ về chính tả.
Để thêm rõ ràng, trong bài này : tiếng là một đơn vị phát âm hoàn chỉnh của tiếng việt, chữ là biểu hiện bằng chữ viết của tiếng, chữ do một chuỗi ký tự (thay vì chữ cái, hay con chữ) hợp thành, bao gồm các phụ âm ở đầu, các nguyên âm (còn gọi là mẫu âm) ở giữa, và các phụ âm ở cuối. Các phụ âm đầu và cuối đều có thể không hiện diện. a ă â ... là những nguyên âm, các nguyên âm đều có thể thêm dấu (viết gọn của dấu thanh, signe diacritique, tức là các dấu huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng). Trong các chuỗi nhị âm (diphtongues)hay tam âm (triphtongues) thì có hai hay ba nguyên âm, trong đó thường thì một nguyên âm có ảnh hưởng mạnh nhất khi nói và nghe và được gọi là chủ âm, một hay hai nguyên âm kia mờ nhạt hơn được gọi là bán nguyên âm. Dấu thanh dùng để phân biệt sự thay đổi tần số khi phát âm, và nó ảnh hưởng đến chủ âm là chính. Vì vậy đánh dấu trên chủ âm vừa đúng lý thuyết vừa đúng thực tiễn, người không biết gì về ngôn ngữ học cũng viết 90% như vậy.
2. Chủ âm
Nhưng cả vấn đề là xác định đâu là chủ âm của tiếng. Trong [4], tác giả đã dẫn những nhà ngôn ngữ học Lê văn Lý, Nguyễn Đình Hoà và Gregerson cho rằng tiếng Việt chỉ có hai bán nguyên âm /j/ (đọc gần như i) và /w/ (đọc gần như u). Còn các nhị âm khác như iê, ươ và uô là những " khóm mẫu âm phức hợp ", không thể nói đâu là chủ âm. Trong [3] có lẽ tác giả cũng đồng ý như thế, vì đã sắp riêng các cặp nhị âm ia, ua, ưa, iê, ươ, uô ; và chia các bảng khác theo bán nguyên âm.
Không làm về ngôn ngữ học nhưng chúng tôi nhận thấy có thể theo quy luật (ít ra là) có tính hình thức sau đây : nếu một nguyên âm có thể thay thế bằng một phụ âm mà không thay đổi (nhiều) cách phát âm của nguyên âm đứng trước hay sau nó thì có thể coi nó là bán nguyên âm. Chẳng hạn trong thì, thìn và thìa ; mú, múa và mún... trên thực tế người ta cũng thấy dấu được đánh trên các nguyên âm không thay đổi là i hay u. Nếu lý luận như vậy thì có thể chấp nhận trong đó âm a cũng là bán nguyên âm, nó không phải là âm /w/ vì thìa khác hẳn với thìu ; trong tam âm uya ta cũng thấy a đóng vai trò bán nguyên âm (tam âm này cũng thật đặc biệt,người viết không tìm được thí dụ nào ngoài khuya, có thể còn vài tiếng pháp được việt hoá (trong một thời ?) : rất đuya, xuya rồi).
Chỉ còn lại trường hợp iê và ươ mới thực sự là những âm tiết kết hợp chặt chẽ, không thể biết đâu là chủ âm, cũng như các trường hợp khá hiếm oo và ôô.Ở đây chúng tôi sẽ coi như đánh dấu ở sau theo truyền thống là đúng, và như vậy "theo định nghĩa" những chữ đi sau của bốn trường hợp trên là chủ âm. Điều này cũng phù hợp với quy luật nêu trong [2] : " nếu có thể có ký tự nào đi theo nó thì nó là chủ âm ". Nếu quy luật này không xuất phát 100% từ cách phát âm tự nhiên thì nó cũng đúng trên một phần rất lớn. Trong khoa học nhân văn có lẽ điều gì cũng có ngoại lệ, nhưng vì trong thời đại ngày nay, với máy tính và mạng viễn thông, cần có chuẩn mực chính tả, ta cũng nên lấy một quy luật tự nhiên đúng 90% thành một quy luật chuẩn mực (loi normative) cho 100%, nhất là khi trong các ngoại lệ nó không đi ngược lại những thói quen đã có.
Do đó các bảng (*) sau đây, phỏng theo [3], có thay đổi theo đề nghị nói trên. Chúng cho thấy tất cả các nhị âm và tam âm của tiếng Việt, mỗi bảng được sắp xếp theo thứ tự chủ âm. Các bảng này loại trừ hai trường hợp givà qu, ta sẽ xem kỹ lại các trường hợp này sau. Chúng cho phép tìm ra chủ âm một cách giản dị : trong các trường hợp in đậm thì chủ âm ở cuối, và trong mọi trường hợp khác chủ âm ở ngay trước cuối (tức ở giữa các tam âm và ở đầu các nhị âm). Để tiện việc xem xét các bảng đó xin nhắc lại là tiếng việt có 11 nguyên âm, viết theo 12 cách, như sau : a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y. Trong đó ă, â, ê, ô, ơ, ư được gọi là những nguyên âm phụ, theo [2].
Các thí dụ trong các trường hợp in đậm cho thấy khi nào chủ âm nằm cuối cũng có thể thêm vào các phụ âm để làm thành tiếng, không có (còn) ngoại lệ. Và ngược lại, khi chủ âm không ở cuối một nhị âm hay tam âm thì tiếng không thể có thêm phụ âm, vì khi đó bán nguyên âm đã đóng vai trò phụ âm để kết thúc một tiếng rồi.
Bảng 1
Tam âm và thí dụ
oai Xoài
oao Ngoáo (ộp)
oay (Trái) khoáy
uây Nguây nguẩy
oeo (Chết) ngoẻo
iêu Nhiều
yêu Yếu
uya Khuya
uyu Khuỷu (tay)
uôi Tuổi
ươi Người
ươu Rượu
uyê Thuyền
Bảng 2
Nhị âm với bán nguyên âm cuối a và thí dụ
ia Kìa
ua Múa
ưa Khứa
Bảng 3
Nhị âm với i hay ư làm "bán nguyên âm" đầu, và thí dụ
iê (Khập) khiễng
ươ Chườm
Bảng 4
Nhị âm có bán nguyên âm cuối /j/ và thí dụ
ai Mái
ay Máy
ây Mấy
oi Thói
ôi Nhồi
ơi Mới
ui Múi
ưi Ngửi, khung cửi
Bảng 5
Nhị âm có bán nguyên âm cuối /w/ và thí dụ
ao Cháo
au Tháu
âu Mấu
eo Méo
êu Mếu
iu Míu
ưu (Mắc) mứu
Bảng 6
Nhị âm có bán nguyên âm đầu /w/ và thí dụ
oa Choán
oă Xoắn
uâ Luẩn quẩn
oe Khoét
uê Tuếnh (toáng)
uô Xuống
uơ Thuë, quën
uy Suýt (nữa)
Bảng 7
Nhị âm hiếm và thí dụ
oo Goòng
ôô Gôồng
3. Mẹo bỏ dấu
Trong các bảng trên ta không bao giờ thấy (trừ hai ngoại lệ ươ và ôô) các nguyên âm phụ được dùng làm bán nguyên âm cả. Điều này cũng dễ hiểu, vì bán nguyên âm đóng vai trò thứ yếu, phát ra và nghe nhỏ hơn, nên không thể phân biệt kỹ như giữa a với ă... mọi thứ tiếng đều ít bán nguyên âm. Do đó có quy luật " các nguyên âm phụ bao giờ cũng là chủ âm ", trừ các trường hợp ươ và ôô.
Trong hình vẽ đi kèm, các bảng này (trừ bảng 1) được vẽ đè lên một vòng tròn bao gồm tất cả các nhị âm có nguyên âm phụ. Thêm vào đó ta lại phân phát các bảng theo hai phía : bên trái là các bảng nhị âm với chủ âm đi trước và bên phải là các bảng có chủ âm đi sau. Cách xem xét đó cho thấy chỉ còn lại 4 trường hợp nhị âm chưa được quyết định bởi vòng tròn và nửa trái : oa, oe, uy, và oo. Như vậy (theo [2]) ta có thể tóm gọn các quy luật bỏ dấu vào các mẹo sau :
* Chữ có ba nguyên âm : dấu ở giữa, trừ trường hợp uyê.
* Chữ có hai nguyên âm bắt đầu bằng gi hay qu : dấu ở sau.
* Chữ có hai nguyên âm với một nguyên âm phụ ở sau : bỏ dấu trên nguyên âm phụ đó.
* Chữ có hai nguyên âm khác : dấu ở trước, trừ các trường hợp oa, oe, oo, và uy dấu cũng ở sau.
Bốn mẹo trên giải quyết tất cả các trường hợp. Nhưng ngoài ra có một mẹo phụ trội khác cũng có ích : đó là bất cứ chữ nào kết thúc bằng phụ âm là cứ nhắm mắt bỏ dấu trên nguyên âm cuối. Không có ngoại lệ.
4. Sự không nhất quán giữa chính tả và phát âm
Tiếng việt được phiên âm theo mẫu tự Latinh khá muộn trong lịch sử, với các dấu thêm vào như ta đã biết, và được các nhà ngôn ngữ học thời ấy sáng tạo với nhiều kinh nghiệm của các tiếng Latinh đi trước, cho nên đã đạt được sự nhất quán ở mức độ tiếng. Mỗi tiếng có một cách viết (trừ vài trường hợp), và mỗi cách viết đọc ra một tiếng trong mọi ngữ cảnh, không hề nhầm lẫn. Như thế là quá hoàn hảo rồi, các thứ tiếng Anh , Pháp... đều không được như vậy, nhiều khi phát âm phải tuỳ theo ngữ cảnh. Ở đây không có tham vọng đề nghị thay đổi chính tả, mà chỉ nêu ra những sự không nhất quán trong chi tiết để biết, và để hiểu những khó khăn cần khắc phục khi sửa chính tả tự động bằng máy tính.
Thêm nữa, thí dụ thấy trẻ em viết sai chính tả như khuán thay vì khoán, Măi thay vì May ... nếu chúng ta đọc tiếp những đoạn sau thì sẽ thấy không nên mắng mỏ chúng nhiều, vì chúng đã vô tư viết đúng theo cách phát âm hơn chúng ta. Bảo " đánh vần mà xem, này nhé : khờ o kho a khoa en khoan sắc khoán ", chúng sẽ hỏi lại : " thế tại sao viết quán " ?
Thật vậy, khi đi vào phân tích các âm vị, các cách phát âm và sự biểu diễn chúng bằng chính tả qua các tiếng và chữ khác nhau, ta còn thấy nhiều chỗ chưa được nhất quán. Thí dụ như trong bảng 5 (các bảng khác cũng có những vấn đề tương tự) ta thấy chỉ có một bán nguyên âm /w/, gần u hơn o, và u được dùng nhiều hơn. Nhưng ta lại thấy có cả au lẫn ao, vậy chúng khác nhau ở đâu ? Thực ra khác nhau không phải ở bán nguyên âm mà là ở chủ âm : đáng nhẽ phải viết ău thay vì au và au thay vì ao. Như thế ta sẽ thấy có au, ău, âu : hoàn toàn tương ứng với các nguyên âm a, ă , â khi chúng đứng riêng.
Nhưng tại sao khi thì o khi thì u để chỉ một bán nguyên âm duy nhất /w/ ? Đây cũng có lý do của nó. Nếu ta chọn u là duy nhất cho /w/ như trên, ta có thể theo đó sửa đổi bảng 5 và bảng 6 để cho nhất quán, và như thế sẽ phải viết chuán thay vì choán như hiện nay. Nhưng khi ấy nhìn vào bảng 6 dòng 1 và bảng 2 dòng 2, sẽ thấy không thể phân biệt được đâu là Khua của Khoa hiện nay và đâu là Khua của Khua hiện nay.
Vậy thì, để giữ sự nhất quán ở mức độ tiếng, bỏ sự nhất quán của /w/ (gần với u hơn o) bằng cách thay ký tự u bằng ký tự o nếu cần cũng chẳng sao. Và đến nay nhiều thế hệ đã quen nếp rồi, người nào đề nghị viết t-h-ắ-u để đọc như tháu hiện nay và viết t-h-á-u để đọc như tháo hiện nay thì chắc sẽ được mời đi an dưỡng tâm thần ở đâu đó.
--------------------------------------------------------------------------------
1. Giới thiệu
Vấn đề đánh dấu chỗ nào trên chữ tiếng việt đã được giải quyết lâu rồi, ngay cả chứng minh có thể giải quyết một cách tự động [1]. Chữ tiếng việt mang dấu trên chủ âm. Trong [2] tác giả đã đưa ra một số quy luật cho phép chúng ta có thể đánh dấu mà không sai chính tả, những quy luật này dựa trên nguyên tắc xác định đâu là chủ âm trong chuỗi nguyên âm của một chữ tiếng việt. Bài này không có gì mới trên những ý lớn so với hai bài đã dẫn. Nó chỉ có tham vọng có ích vì : một là những bài kia đã cũ khó tìm, hai là nó dựa vào ngữ âm để thấy rõ hơn tại sao có các quy luật nêu ra trong [2], được tóm gọn trong 4 (+1) mẹo bỏ dấu ; và sau cùng xin đề nghị một quy ước nhất quán nhỏ về chính tả.
Để thêm rõ ràng, trong bài này : tiếng là một đơn vị phát âm hoàn chỉnh của tiếng việt, chữ là biểu hiện bằng chữ viết của tiếng, chữ do một chuỗi ký tự (thay vì chữ cái, hay con chữ) hợp thành, bao gồm các phụ âm ở đầu, các nguyên âm (còn gọi là mẫu âm) ở giữa, và các phụ âm ở cuối. Các phụ âm đầu và cuối đều có thể không hiện diện. a ă â ... là những nguyên âm, các nguyên âm đều có thể thêm dấu (viết gọn của dấu thanh, signe diacritique, tức là các dấu huyền, hỏi, ngã, sắc, nặng). Trong các chuỗi nhị âm (diphtongues)hay tam âm (triphtongues) thì có hai hay ba nguyên âm, trong đó thường thì một nguyên âm có ảnh hưởng mạnh nhất khi nói và nghe và được gọi là chủ âm, một hay hai nguyên âm kia mờ nhạt hơn được gọi là bán nguyên âm. Dấu thanh dùng để phân biệt sự thay đổi tần số khi phát âm, và nó ảnh hưởng đến chủ âm là chính. Vì vậy đánh dấu trên chủ âm vừa đúng lý thuyết vừa đúng thực tiễn, người không biết gì về ngôn ngữ học cũng viết 90% như vậy.
2. Chủ âm
Nhưng cả vấn đề là xác định đâu là chủ âm của tiếng. Trong [4], tác giả đã dẫn những nhà ngôn ngữ học Lê văn Lý, Nguyễn Đình Hoà và Gregerson cho rằng tiếng Việt chỉ có hai bán nguyên âm /j/ (đọc gần như i) và /w/ (đọc gần như u). Còn các nhị âm khác như iê, ươ và uô là những " khóm mẫu âm phức hợp ", không thể nói đâu là chủ âm. Trong [3] có lẽ tác giả cũng đồng ý như thế, vì đã sắp riêng các cặp nhị âm ia, ua, ưa, iê, ươ, uô ; và chia các bảng khác theo bán nguyên âm.
Không làm về ngôn ngữ học nhưng chúng tôi nhận thấy có thể theo quy luật (ít ra là) có tính hình thức sau đây : nếu một nguyên âm có thể thay thế bằng một phụ âm mà không thay đổi (nhiều) cách phát âm của nguyên âm đứng trước hay sau nó thì có thể coi nó là bán nguyên âm. Chẳng hạn trong thì, thìn và thìa ; mú, múa và mún... trên thực tế người ta cũng thấy dấu được đánh trên các nguyên âm không thay đổi là i hay u. Nếu lý luận như vậy thì có thể chấp nhận trong đó âm a cũng là bán nguyên âm, nó không phải là âm /w/ vì thìa khác hẳn với thìu ; trong tam âm uya ta cũng thấy a đóng vai trò bán nguyên âm (tam âm này cũng thật đặc biệt,người viết không tìm được thí dụ nào ngoài khuya, có thể còn vài tiếng pháp được việt hoá (trong một thời ?) : rất đuya, xuya rồi).
Chỉ còn lại trường hợp iê và ươ mới thực sự là những âm tiết kết hợp chặt chẽ, không thể biết đâu là chủ âm, cũng như các trường hợp khá hiếm oo và ôô.Ở đây chúng tôi sẽ coi như đánh dấu ở sau theo truyền thống là đúng, và như vậy "theo định nghĩa" những chữ đi sau của bốn trường hợp trên là chủ âm. Điều này cũng phù hợp với quy luật nêu trong [2] : " nếu có thể có ký tự nào đi theo nó thì nó là chủ âm ". Nếu quy luật này không xuất phát 100% từ cách phát âm tự nhiên thì nó cũng đúng trên một phần rất lớn. Trong khoa học nhân văn có lẽ điều gì cũng có ngoại lệ, nhưng vì trong thời đại ngày nay, với máy tính và mạng viễn thông, cần có chuẩn mực chính tả, ta cũng nên lấy một quy luật tự nhiên đúng 90% thành một quy luật chuẩn mực (loi normative) cho 100%, nhất là khi trong các ngoại lệ nó không đi ngược lại những thói quen đã có.
Do đó các bảng (*) sau đây, phỏng theo [3], có thay đổi theo đề nghị nói trên. Chúng cho thấy tất cả các nhị âm và tam âm của tiếng Việt, mỗi bảng được sắp xếp theo thứ tự chủ âm. Các bảng này loại trừ hai trường hợp givà qu, ta sẽ xem kỹ lại các trường hợp này sau. Chúng cho phép tìm ra chủ âm một cách giản dị : trong các trường hợp in đậm thì chủ âm ở cuối, và trong mọi trường hợp khác chủ âm ở ngay trước cuối (tức ở giữa các tam âm và ở đầu các nhị âm). Để tiện việc xem xét các bảng đó xin nhắc lại là tiếng việt có 11 nguyên âm, viết theo 12 cách, như sau : a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y. Trong đó ă, â, ê, ô, ơ, ư được gọi là những nguyên âm phụ, theo [2].
Các thí dụ trong các trường hợp in đậm cho thấy khi nào chủ âm nằm cuối cũng có thể thêm vào các phụ âm để làm thành tiếng, không có (còn) ngoại lệ. Và ngược lại, khi chủ âm không ở cuối một nhị âm hay tam âm thì tiếng không thể có thêm phụ âm, vì khi đó bán nguyên âm đã đóng vai trò phụ âm để kết thúc một tiếng rồi.
Bảng 1
Tam âm và thí dụ
oai Xoài
oao Ngoáo (ộp)
oay (Trái) khoáy
uây Nguây nguẩy
oeo (Chết) ngoẻo
iêu Nhiều
yêu Yếu
uya Khuya
uyu Khuỷu (tay)
uôi Tuổi
ươi Người
ươu Rượu
uyê Thuyền
Bảng 2
Nhị âm với bán nguyên âm cuối a và thí dụ
ia Kìa
ua Múa
ưa Khứa
Bảng 3
Nhị âm với i hay ư làm "bán nguyên âm" đầu, và thí dụ
iê (Khập) khiễng
ươ Chườm
Bảng 4
Nhị âm có bán nguyên âm cuối /j/ và thí dụ
ai Mái
ay Máy
ây Mấy
oi Thói
ôi Nhồi
ơi Mới
ui Múi
ưi Ngửi, khung cửi
Bảng 5
Nhị âm có bán nguyên âm cuối /w/ và thí dụ
ao Cháo
au Tháu
âu Mấu
eo Méo
êu Mếu
iu Míu
ưu (Mắc) mứu
Bảng 6
Nhị âm có bán nguyên âm đầu /w/ và thí dụ
oa Choán
oă Xoắn
uâ Luẩn quẩn
oe Khoét
uê Tuếnh (toáng)
uô Xuống
uơ Thuë, quën
uy Suýt (nữa)
Bảng 7
Nhị âm hiếm và thí dụ
oo Goòng
ôô Gôồng
3. Mẹo bỏ dấu
Trong các bảng trên ta không bao giờ thấy (trừ hai ngoại lệ ươ và ôô) các nguyên âm phụ được dùng làm bán nguyên âm cả. Điều này cũng dễ hiểu, vì bán nguyên âm đóng vai trò thứ yếu, phát ra và nghe nhỏ hơn, nên không thể phân biệt kỹ như giữa a với ă... mọi thứ tiếng đều ít bán nguyên âm. Do đó có quy luật " các nguyên âm phụ bao giờ cũng là chủ âm ", trừ các trường hợp ươ và ôô.
Trong hình vẽ đi kèm, các bảng này (trừ bảng 1) được vẽ đè lên một vòng tròn bao gồm tất cả các nhị âm có nguyên âm phụ. Thêm vào đó ta lại phân phát các bảng theo hai phía : bên trái là các bảng nhị âm với chủ âm đi trước và bên phải là các bảng có chủ âm đi sau. Cách xem xét đó cho thấy chỉ còn lại 4 trường hợp nhị âm chưa được quyết định bởi vòng tròn và nửa trái : oa, oe, uy, và oo. Như vậy (theo [2]) ta có thể tóm gọn các quy luật bỏ dấu vào các mẹo sau :
* Chữ có ba nguyên âm : dấu ở giữa, trừ trường hợp uyê.
* Chữ có hai nguyên âm bắt đầu bằng gi hay qu : dấu ở sau.
* Chữ có hai nguyên âm với một nguyên âm phụ ở sau : bỏ dấu trên nguyên âm phụ đó.
* Chữ có hai nguyên âm khác : dấu ở trước, trừ các trường hợp oa, oe, oo, và uy dấu cũng ở sau.
Bốn mẹo trên giải quyết tất cả các trường hợp. Nhưng ngoài ra có một mẹo phụ trội khác cũng có ích : đó là bất cứ chữ nào kết thúc bằng phụ âm là cứ nhắm mắt bỏ dấu trên nguyên âm cuối. Không có ngoại lệ.
4. Sự không nhất quán giữa chính tả và phát âm
Tiếng việt được phiên âm theo mẫu tự Latinh khá muộn trong lịch sử, với các dấu thêm vào như ta đã biết, và được các nhà ngôn ngữ học thời ấy sáng tạo với nhiều kinh nghiệm của các tiếng Latinh đi trước, cho nên đã đạt được sự nhất quán ở mức độ tiếng. Mỗi tiếng có một cách viết (trừ vài trường hợp), và mỗi cách viết đọc ra một tiếng trong mọi ngữ cảnh, không hề nhầm lẫn. Như thế là quá hoàn hảo rồi, các thứ tiếng Anh , Pháp... đều không được như vậy, nhiều khi phát âm phải tuỳ theo ngữ cảnh. Ở đây không có tham vọng đề nghị thay đổi chính tả, mà chỉ nêu ra những sự không nhất quán trong chi tiết để biết, và để hiểu những khó khăn cần khắc phục khi sửa chính tả tự động bằng máy tính.
Thêm nữa, thí dụ thấy trẻ em viết sai chính tả như khuán thay vì khoán, Măi thay vì May ... nếu chúng ta đọc tiếp những đoạn sau thì sẽ thấy không nên mắng mỏ chúng nhiều, vì chúng đã vô tư viết đúng theo cách phát âm hơn chúng ta. Bảo " đánh vần mà xem, này nhé : khờ o kho a khoa en khoan sắc khoán ", chúng sẽ hỏi lại : " thế tại sao viết quán " ?
Thật vậy, khi đi vào phân tích các âm vị, các cách phát âm và sự biểu diễn chúng bằng chính tả qua các tiếng và chữ khác nhau, ta còn thấy nhiều chỗ chưa được nhất quán. Thí dụ như trong bảng 5 (các bảng khác cũng có những vấn đề tương tự) ta thấy chỉ có một bán nguyên âm /w/, gần u hơn o, và u được dùng nhiều hơn. Nhưng ta lại thấy có cả au lẫn ao, vậy chúng khác nhau ở đâu ? Thực ra khác nhau không phải ở bán nguyên âm mà là ở chủ âm : đáng nhẽ phải viết ău thay vì au và au thay vì ao. Như thế ta sẽ thấy có au, ău, âu : hoàn toàn tương ứng với các nguyên âm a, ă , â khi chúng đứng riêng.
Nhưng tại sao khi thì o khi thì u để chỉ một bán nguyên âm duy nhất /w/ ? Đây cũng có lý do của nó. Nếu ta chọn u là duy nhất cho /w/ như trên, ta có thể theo đó sửa đổi bảng 5 và bảng 6 để cho nhất quán, và như thế sẽ phải viết chuán thay vì choán như hiện nay. Nhưng khi ấy nhìn vào bảng 6 dòng 1 và bảng 2 dòng 2, sẽ thấy không thể phân biệt được đâu là Khua của Khoa hiện nay và đâu là Khua của Khua hiện nay.
Vậy thì, để giữ sự nhất quán ở mức độ tiếng, bỏ sự nhất quán của /w/ (gần với u hơn o) bằng cách thay ký tự u bằng ký tự o nếu cần cũng chẳng sao. Và đến nay nhiều thế hệ đã quen nếp rồi, người nào đề nghị viết t-h-ắ-u để đọc như tháu hiện nay và viết t-h-á-u để đọc như tháo hiện nay thì chắc sẽ được mời đi an dưỡng tâm thần ở đâu đó.