Post by Huu Le on Aug 23, 2006 6:57:28 GMT 9
Văn trẻ hôm nay
Nguyễn Thanh Sơn
Viết về văn trẻ hôm nay là một cám dỗ. Cám dỗ của lòng tự kiêu ngấm ngầm: được là một người viết trẻ viết về những người viết trẻ. Cám dỗ của những lời kêu gọi đồng hội đồng thuyền, cám dỗ của niềm vui được viết về những cái mới.
Viết về văn trẻ hôm nay là một thử thách. Thử thách khi được yêu cầu phải lựa chọn thái độ: một người viết trẻ phải đứng cạnh những người viết trẻ, phải có đôi mắt xanh để ca ngợi những khám phá mới, khẳng định những con đường mới của họ. Thử thách khi lúng túng tìm định nghĩa: thế nào là văn trẻ? Nếu tính theo tuổi thì đúng rồi. Vi Thuỳ Linh mới hai mươi tuổi. Phan Nhiên Hạo, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh và Phan Huyền Thư cùng độ tuổi ba mươi. Không trẻ được như các nhà thơ của phong trào Thơ Mới, nhưng nếu so sánh "mặt bằng" thì quả là trẻ. Có điều Octavio Paz nói "các nhà thơ không có tiểu sử. Tác phẩm của họ là tiểu sử của họ đấy" Nếu vậy, một nhà văn trẻ phải là một nhà văn có tác phẩm "trẻ", hay nói cho chính xác hơn, phải có những tác phẩm "mới". Nếu xếp theo tiêu chí này, Bùi Hoằng Vị, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Quốc Chánh, Đinh Linh và Ngô Tự Lập sẽ là những nhà văn trẻ, tuy tuổi đời của họ rõ ràng khó có thể xếp chung với các nhà văn của lứa tuổi hai mươi, ba mươi.
Viết về văn trẻ hôm nay là một nỗi lo âu. Lo âu khi so sánh họ với hai cây cổ thụ trên văn đàn mười năm trước: Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Bảo Ninh, Nguyễn Quang Lập cũng là những "cây cao bóng cả", nhưng là những cây cao bóng cả của một thời đã qua, do họ chỉ chìm đắm trong những ám ảnh của quá khứ " bởi vì là một nỗi đau nên quá khứ còn sống mãi. Và bởi nỗi đau quá khứ còn sống mãi nên về sau ta mới có một quãng đời êm lặng, một nếp sống bình yên, một tư duy thong thả, một tấm lòng khoan thứ và một cảm giác có hậu cùng con người cùng số phận". Viết về cái hiện tại bằng một bút pháp hiện đại thành công hơn cả, chỉ có Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, hai người, buồn thay, hay may thay cho các nhà văn trẻ, những năm gần đây hầu như không tái xuất trên văn đàn.
Viết về văn trẻ hôm nay là một niềm hạnh phúc. Hạnh phúc bởi cảm giác rùng mình sung sướng khi ghé vào với Tầng trệt thiên đường của Bùi Hoằng Vị, khi bắt gặp một Phan Nhiên Hạo hiện đại, một Phan Huyền Thư trăn trở âu lo, một Ngô Tự Lập bí ẩn mà trong sáng. Hạnh phúc nhìn thấy một thế hệ những người viết trẻ đang sáng tạo và đập vỡ, đang thành công và thất vọng, đang khao khát học hỏi và cũng đang cười nhạo những cú xoa đầu kẻ cả của những người đi trước.
1-Thơ trẻ- một khao khát thay đổi chưa mấy thành công
Trong một bài tiểu luận viết cách đây gần năm năm, tôi có đề cập đến những nhà văn của một thế hệ mà tôi tạm gọi là thế hệ hoài nghi: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Trung Chính, Bảo Ninh.... Đó là một thế hệ biết hoài nghi những giá trị đã được định giá trong xã hội và cố gắng tìm kiếm những gì người ta che dấu sau lớp sơn phết của cái gọi là hiện thực. Lớp người viết trẻ ngày hôm nay thuộc về một thế hệ khác, một thế hệ đã không còn lệ thuộc vào quá khứ vàng son của những nhà văn lớp trước. Họ không còn hoài nghi, mà đã biết gạt bỏ. Nhưng loại bỏ có đồng nghĩa với đánh mất? Một nhà phê bình tên tuổi cho rằng, vốn văn hóa của các cây bút trẻ quá mỏng để có thể tạo nên những tác phẩm có giá trị. Sự thực chưa hẳn đã ở chỗ đó. Sự thực là hành trang văn hóa của hai thế hệ đã khác nhau, và do không tìm được tiếng nói chung để dung hòa hai hành trang văn hóa đó, thế hệ đi trước thường cảm thấy thất vọng khi di sản văn hóa mà họ có hình như không tìm tới được với những nhà văn lớp sau. Nếu như trước đây, người ta hay trích dẫn Tolstoi, Dostoievski, thì hiện nay, những người đỡ đầu về tư tưởng cho các tác giả trẻ lại là Henry Miller, Nietzsche, Maria Rilke, Sartre, Kafka hay Borges. Một nhân vật của Nguyễn Hữu Hồng Minh trong truyện ngắn Tháo đáy, cảm thấy đau xót nhất khi phải bán những "Người dưng, Dịch hạch của Albert Camus, LaNausee, Bức tường của Sartre, các sách của KoboAbe, Maria Rilke, Shopenhauer, Faulkner". Không phải ngẫu nhiên mà các tác giả trên không chỉ là những đại văn hào mà còn là những triết gia vĩ đại. Sự khao khát nắm bắt những vấn đề triết học, tìm ra những câu trả lời có thể quân bình tâm thế đang bất ổn vì thiếu niềm tin đã thu hút các nhà văn trẻ tới với các nhà văn-triết gia đó.
Tuy vậy, ảnh hưởng đến muộn của triết học hiện sinh đối với các nhà văn trẻ, tiềm ẩn một nguy cơ tụt hậu. Bởi vì, những tác giả nêu trên đã, hoặc thành danh ở thế kỷ trước, hoặc đã được trao giải Nobel cách đây có....bốn năm chục năm gì đó! Ba chục năm trước, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, ở lứa tuổi của các nhà văn trẻ hiện giờ, cũng đã từng "say mê đến đứng ngồi không yên" triết học hiện sinh. Hiếm có nhà văn trẻ nào hiện nay, từ một triết học hiện sinh lý thuyết lại chuyển hóa được thành một triết lý sống của mình, một tư thế dấn thân, nhập cuộc cho tác phẩm của mình. Càng hiếm hơn những tác giả trẻ theo kịp với dòng chảy của văn học và triết học thế giới đương đại, với những Kundera, Salman Rushdie, Gao Xingjiang, S.Hawkin, Richard Dawkin, Brian Goodwin....Chính vì thế, chúng ta không khỏi bực mình khi hay bắt gặp trong câu chuyện của các tác giả trẻ những đoạn triết lý ngoại đề cũ kỹ rất "hiện sinh" cho sang trọng.
Một trong những khao khát mãnh liệt nhất của những nhà văn trẻ là cố gắng thay đổi nghệ thuật viết, một nghệ thuật mới sẽ thay thế sự trì kéo của chủ nghĩa hiện thực đơn giản. Chính vì vậy, những từ ngữ như siêu hiện thực, hiện thực huyền ảo, hậu hiện đại.., có sức cám dỗ như một thỏi nam châm cực mạnh đối với họ. Những người mạnh mẽ nhất trong những thử nghiệm là các nhà thơ (Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Quốc Chánh, Phan Huyền Thư). Họ sáng tác thơ văn xuôi, cố gắng triệt tiêu vần trong thơ, viết không dấu, làm tình làm tội các câu thơ bằng những cú hẫng xuống dòng đột ngột, bằng những biểu tượng và liên tưởng thơ hết sức mới lạ:
"Trong mắt tôi không điểm danh sự hiện diện của cây của thú của người và của cả đường chân trời hách dịch
Trong mắt tôi chỉ những khoảng cách những tầng lệch những góc tối những hộp đen những loèng quèng những
ám"
(Nguyễn Quốc Chánh- Khí hậu đồ vật-NXB Trẻ- tr.17)
Những thử nghiệm như vậy có thể gặp ở bất cứ tập thơ nào của các cây bút thơ trẻ đã nói tới ở trên. Một mặt, chúng ta phải thông cảm và hoan nghênh những "viên đá lát đường", những người đã dám đi tiên phong trong những thử nghiệm không thành công để tạo đà cho những sáng tạo khác của tương lai. Mặt khác, chúng ta cũng nên nhận thấy những thử nghiệm như vậy nhiều phần đi vào ngõ cụt, mà cái chính, là do thái độ cực đoan khiến họ hiểu chưa thấu đáo nghĩa của chữ hiện đại. Trong diễn từ nhận giải Nobel của mình, Octavio Paz đã viết rất hay về chủ nghĩa hiện đại của ông: "Nhiều lần tôi đánh mất mình và lại tìm thấy mình trong cuộc phiêu du đi tìm cái Hiện Đại. Tôi trở về cội nguồn của mình và tôi thấy rằng cái hiện tại không ở ngoài mà ở trong chính chúng ta. Nó là ngày hôm nay đồng thời là thời đại cổ nhất, nó là ngày mai và là ngày bắt đầu của thế giới, nó có ngàn tuổi nhưng lại vừa mới chào đời. Thời hiện tại mới tinh khôi. Vừa mới được đào lên khỏi lòng đất, giũ đi bụi bặm nhiều thế kỷ, nó mỉm cười và ngay lập tức qua của sổ nó biến mất. Thời hiện tại là sự đồng thời cùng một lúc của các thời đại, của các sự hiện diện. Cái hiện đại phá vỡ quá khứ tức thời chỉ là để giữ lại một quá khứ ngàn năm".
Khi nào cái "quá khứ ngàn năm" kết hợp được với một "hiện tại tức thời", các nhà thơ trẻ sẽ cho ra đời được những câu thơ hay và trong trẻo:
"Tôi chỉ là chim sâu nhỏ nhoi giọng hát giữ dân tộc hay hát
tự thuyết minh cho đồng lúa, rừng hoang, người thổ dân vui ca hành trình
vượt qua giai đoạn thành kiến
nhớ buổi sinh tiền
cơn hát gió
con số không vô tình thời đại đeo ngón tay áp út
níu ngọn nắng xanh hơn khi về với đất
cái nhìn nguyên thể
gọi miền phủ định
bông hoa cỡi trần cánh
tặng tôi hương ảo giác đỏ hồng nhũ hoa
bầy mưa thôi nôi, âm thanh kêu xé hai hàm răng thanh lịch
thời không cần nhạc đệm em vẫn sinh ra trữ tình như không
tôi trở thành siêu sao
đá mắt trời vào gôn hư vô
bắt gặp câu hát lạ
vận nâu sồng viếng chùa!"
(Giọng hát của gió- Văn Cầm Hải)
Nguyễn Thanh Sơn
Viết về văn trẻ hôm nay là một cám dỗ. Cám dỗ của lòng tự kiêu ngấm ngầm: được là một người viết trẻ viết về những người viết trẻ. Cám dỗ của những lời kêu gọi đồng hội đồng thuyền, cám dỗ của niềm vui được viết về những cái mới.
Viết về văn trẻ hôm nay là một thử thách. Thử thách khi được yêu cầu phải lựa chọn thái độ: một người viết trẻ phải đứng cạnh những người viết trẻ, phải có đôi mắt xanh để ca ngợi những khám phá mới, khẳng định những con đường mới của họ. Thử thách khi lúng túng tìm định nghĩa: thế nào là văn trẻ? Nếu tính theo tuổi thì đúng rồi. Vi Thuỳ Linh mới hai mươi tuổi. Phan Nhiên Hạo, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh và Phan Huyền Thư cùng độ tuổi ba mươi. Không trẻ được như các nhà thơ của phong trào Thơ Mới, nhưng nếu so sánh "mặt bằng" thì quả là trẻ. Có điều Octavio Paz nói "các nhà thơ không có tiểu sử. Tác phẩm của họ là tiểu sử của họ đấy" Nếu vậy, một nhà văn trẻ phải là một nhà văn có tác phẩm "trẻ", hay nói cho chính xác hơn, phải có những tác phẩm "mới". Nếu xếp theo tiêu chí này, Bùi Hoằng Vị, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Quốc Chánh, Đinh Linh và Ngô Tự Lập sẽ là những nhà văn trẻ, tuy tuổi đời của họ rõ ràng khó có thể xếp chung với các nhà văn của lứa tuổi hai mươi, ba mươi.
Viết về văn trẻ hôm nay là một nỗi lo âu. Lo âu khi so sánh họ với hai cây cổ thụ trên văn đàn mười năm trước: Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài. Bảo Ninh, Nguyễn Quang Lập cũng là những "cây cao bóng cả", nhưng là những cây cao bóng cả của một thời đã qua, do họ chỉ chìm đắm trong những ám ảnh của quá khứ " bởi vì là một nỗi đau nên quá khứ còn sống mãi. Và bởi nỗi đau quá khứ còn sống mãi nên về sau ta mới có một quãng đời êm lặng, một nếp sống bình yên, một tư duy thong thả, một tấm lòng khoan thứ và một cảm giác có hậu cùng con người cùng số phận". Viết về cái hiện tại bằng một bút pháp hiện đại thành công hơn cả, chỉ có Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, hai người, buồn thay, hay may thay cho các nhà văn trẻ, những năm gần đây hầu như không tái xuất trên văn đàn.
Viết về văn trẻ hôm nay là một niềm hạnh phúc. Hạnh phúc bởi cảm giác rùng mình sung sướng khi ghé vào với Tầng trệt thiên đường của Bùi Hoằng Vị, khi bắt gặp một Phan Nhiên Hạo hiện đại, một Phan Huyền Thư trăn trở âu lo, một Ngô Tự Lập bí ẩn mà trong sáng. Hạnh phúc nhìn thấy một thế hệ những người viết trẻ đang sáng tạo và đập vỡ, đang thành công và thất vọng, đang khao khát học hỏi và cũng đang cười nhạo những cú xoa đầu kẻ cả của những người đi trước.
1-Thơ trẻ- một khao khát thay đổi chưa mấy thành công
Trong một bài tiểu luận viết cách đây gần năm năm, tôi có đề cập đến những nhà văn của một thế hệ mà tôi tạm gọi là thế hệ hoài nghi: Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Trung Chính, Bảo Ninh.... Đó là một thế hệ biết hoài nghi những giá trị đã được định giá trong xã hội và cố gắng tìm kiếm những gì người ta che dấu sau lớp sơn phết của cái gọi là hiện thực. Lớp người viết trẻ ngày hôm nay thuộc về một thế hệ khác, một thế hệ đã không còn lệ thuộc vào quá khứ vàng son của những nhà văn lớp trước. Họ không còn hoài nghi, mà đã biết gạt bỏ. Nhưng loại bỏ có đồng nghĩa với đánh mất? Một nhà phê bình tên tuổi cho rằng, vốn văn hóa của các cây bút trẻ quá mỏng để có thể tạo nên những tác phẩm có giá trị. Sự thực chưa hẳn đã ở chỗ đó. Sự thực là hành trang văn hóa của hai thế hệ đã khác nhau, và do không tìm được tiếng nói chung để dung hòa hai hành trang văn hóa đó, thế hệ đi trước thường cảm thấy thất vọng khi di sản văn hóa mà họ có hình như không tìm tới được với những nhà văn lớp sau. Nếu như trước đây, người ta hay trích dẫn Tolstoi, Dostoievski, thì hiện nay, những người đỡ đầu về tư tưởng cho các tác giả trẻ lại là Henry Miller, Nietzsche, Maria Rilke, Sartre, Kafka hay Borges. Một nhân vật của Nguyễn Hữu Hồng Minh trong truyện ngắn Tháo đáy, cảm thấy đau xót nhất khi phải bán những "Người dưng, Dịch hạch của Albert Camus, LaNausee, Bức tường của Sartre, các sách của KoboAbe, Maria Rilke, Shopenhauer, Faulkner". Không phải ngẫu nhiên mà các tác giả trên không chỉ là những đại văn hào mà còn là những triết gia vĩ đại. Sự khao khát nắm bắt những vấn đề triết học, tìm ra những câu trả lời có thể quân bình tâm thế đang bất ổn vì thiếu niềm tin đã thu hút các nhà văn trẻ tới với các nhà văn-triết gia đó.
Tuy vậy, ảnh hưởng đến muộn của triết học hiện sinh đối với các nhà văn trẻ, tiềm ẩn một nguy cơ tụt hậu. Bởi vì, những tác giả nêu trên đã, hoặc thành danh ở thế kỷ trước, hoặc đã được trao giải Nobel cách đây có....bốn năm chục năm gì đó! Ba chục năm trước, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, ở lứa tuổi của các nhà văn trẻ hiện giờ, cũng đã từng "say mê đến đứng ngồi không yên" triết học hiện sinh. Hiếm có nhà văn trẻ nào hiện nay, từ một triết học hiện sinh lý thuyết lại chuyển hóa được thành một triết lý sống của mình, một tư thế dấn thân, nhập cuộc cho tác phẩm của mình. Càng hiếm hơn những tác giả trẻ theo kịp với dòng chảy của văn học và triết học thế giới đương đại, với những Kundera, Salman Rushdie, Gao Xingjiang, S.Hawkin, Richard Dawkin, Brian Goodwin....Chính vì thế, chúng ta không khỏi bực mình khi hay bắt gặp trong câu chuyện của các tác giả trẻ những đoạn triết lý ngoại đề cũ kỹ rất "hiện sinh" cho sang trọng.
Một trong những khao khát mãnh liệt nhất của những nhà văn trẻ là cố gắng thay đổi nghệ thuật viết, một nghệ thuật mới sẽ thay thế sự trì kéo của chủ nghĩa hiện thực đơn giản. Chính vì vậy, những từ ngữ như siêu hiện thực, hiện thực huyền ảo, hậu hiện đại.., có sức cám dỗ như một thỏi nam châm cực mạnh đối với họ. Những người mạnh mẽ nhất trong những thử nghiệm là các nhà thơ (Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Nguyễn Quốc Chánh, Phan Huyền Thư). Họ sáng tác thơ văn xuôi, cố gắng triệt tiêu vần trong thơ, viết không dấu, làm tình làm tội các câu thơ bằng những cú hẫng xuống dòng đột ngột, bằng những biểu tượng và liên tưởng thơ hết sức mới lạ:
"Trong mắt tôi không điểm danh sự hiện diện của cây của thú của người và của cả đường chân trời hách dịch
Trong mắt tôi chỉ những khoảng cách những tầng lệch những góc tối những hộp đen những loèng quèng những
ám"
(Nguyễn Quốc Chánh- Khí hậu đồ vật-NXB Trẻ- tr.17)
Những thử nghiệm như vậy có thể gặp ở bất cứ tập thơ nào của các cây bút thơ trẻ đã nói tới ở trên. Một mặt, chúng ta phải thông cảm và hoan nghênh những "viên đá lát đường", những người đã dám đi tiên phong trong những thử nghiệm không thành công để tạo đà cho những sáng tạo khác của tương lai. Mặt khác, chúng ta cũng nên nhận thấy những thử nghiệm như vậy nhiều phần đi vào ngõ cụt, mà cái chính, là do thái độ cực đoan khiến họ hiểu chưa thấu đáo nghĩa của chữ hiện đại. Trong diễn từ nhận giải Nobel của mình, Octavio Paz đã viết rất hay về chủ nghĩa hiện đại của ông: "Nhiều lần tôi đánh mất mình và lại tìm thấy mình trong cuộc phiêu du đi tìm cái Hiện Đại. Tôi trở về cội nguồn của mình và tôi thấy rằng cái hiện tại không ở ngoài mà ở trong chính chúng ta. Nó là ngày hôm nay đồng thời là thời đại cổ nhất, nó là ngày mai và là ngày bắt đầu của thế giới, nó có ngàn tuổi nhưng lại vừa mới chào đời. Thời hiện tại mới tinh khôi. Vừa mới được đào lên khỏi lòng đất, giũ đi bụi bặm nhiều thế kỷ, nó mỉm cười và ngay lập tức qua của sổ nó biến mất. Thời hiện tại là sự đồng thời cùng một lúc của các thời đại, của các sự hiện diện. Cái hiện đại phá vỡ quá khứ tức thời chỉ là để giữ lại một quá khứ ngàn năm".
Khi nào cái "quá khứ ngàn năm" kết hợp được với một "hiện tại tức thời", các nhà thơ trẻ sẽ cho ra đời được những câu thơ hay và trong trẻo:
"Tôi chỉ là chim sâu nhỏ nhoi giọng hát giữ dân tộc hay hát
tự thuyết minh cho đồng lúa, rừng hoang, người thổ dân vui ca hành trình
vượt qua giai đoạn thành kiến
nhớ buổi sinh tiền
cơn hát gió
con số không vô tình thời đại đeo ngón tay áp út
níu ngọn nắng xanh hơn khi về với đất
cái nhìn nguyên thể
gọi miền phủ định
bông hoa cỡi trần cánh
tặng tôi hương ảo giác đỏ hồng nhũ hoa
bầy mưa thôi nôi, âm thanh kêu xé hai hàm răng thanh lịch
thời không cần nhạc đệm em vẫn sinh ra trữ tình như không
tôi trở thành siêu sao
đá mắt trời vào gôn hư vô
bắt gặp câu hát lạ
vận nâu sồng viếng chùa!"
(Giọng hát của gió- Văn Cầm Hải)