|
Post by Huu Le on Aug 23, 2006 7:10:45 GMT 9
Văn xưa , người xưa
do Người Thăng Long hồi cỗ sao lục
1.- Tơi và Lỗ Tấn (cũa Trúc Chi )
Gửi HQA, người bạn đã cùng tơi cạn nhiều ly tâm sự vào những ngày tháng đong đưa ấy.
Một chiều Đơng xám, ngồi một mình trong phịng trọ, bên ngồi tuyết bắt đầu lả tả, nhân
vật xưng Tơi trong truyện Trong Quán Rượu (1) của Lỗ Tấn đã khĩa cửa phịng, bước ra đường. Mỗi lần đọc lại truyện ngắn này, cảm tình của tơi đối với nhân vật xưng Tơi lại thêm nồng hậu.Tơi thấy con người này thật và sống, ít ra đối với cái nhìn của tơi. Ngồi ra lý do sau đây chủ quan một trăm phần trăm - người lữ khách xưng Tơi hình như rất gần với kẻ đang loay hoay gõ những hàng chữ sau đây. Tơi thích đoạn mở đầu này. Bởi vì, nhiều lần tơi cũng đã từng kéo cửa phịng trọ mà bước vào cái lành lạnh của một ngày thu đã hết lá khơ, cái vắng lặng của một con đường khuya lù mù ánh điện đường ẩm sương, cái êm ả của một chiều Xuân mát mẻ.
Vả chăng, đến một khách sạn, một quán trọ, ít cĩ ai ngồi chĩc ngĩc một mình trong phịng làm chi, trừ những lúc ngả lưng mà nghỉ xả hơi sau khi bị xe xĩc, tàu lắc, máy bay nhồi. Chưa nĩi đến chuyện ngồi một mình mà đối diện với chính mình - như người ca nhi đối gương ơm sầu riêng bĩng trong bài Đêm Đơng của Nguyễn Văn Thương - là một việc khơng phải bất cứ ai cũng làm được mà khơng phát khùng! "Nội lực" phải thâm hậu lắm mới chống lại được cực hình của chính mình dày vị, tra tấn mình.
Một người bạn của tơi từng bị bỏ đĩi bỏ lạnh khi bị biệt giam tại một trung tâm "cải tạo" - tơi bỏ cải tạo trong dấu ngoặc kép vì xét ra những trại khổ sai ấy khơng cải tạo được cái gì hết trơn, nếu quả là cĩ những điều nên cải tạo trong suy tư của lớp người bất hạnh lọt vào đấy- kể cho tơi nghe rằng cĩ những giờ phút sống giữa đường tơ kẽ tĩc của tỉnh táo và điên cuồng, anh đã phải nhắm mắt lại mà nghĩ rằng mình đang bơi giữa hơi ấm trong bụng mẹ, mặc dù, lời anh bạn, "ai mà nhớ được nhiệt độ trong bụng mẹ khi mình chỉ mới là cái thai trong tử cung!"
Dĩ nhiên, hồn cảnh tù nhân bị biệt giam và lữ khách cơ độc trong phịng trọ khác nhau một trời một vực. Nhưng phản ứng cĩ chỗ tương đồng: ở vào cảnh ấy, ai cũng muốn hít thở một thứ khơng khí khác, dù rằng khơng khí ở bên ngồi cĩ thể nhiều bụi bặm, ơ nhiễm, đặc sệt một lớp smog vàng đục, như khơng khí ở thung lũng San Fernando, California giữa một ngày nĩng bức, đứng giĩ. Bước ra ngồi, dù chưa biết đi đâu hoặc tìm gặp ai, cái đa dạng của quang cảnh, sinh hoạt, màu sắc cũng giúp cho nỗi trơ trọi của chính mình nĩ lỗng ra, bớt nặng nề.
Khĩa trái cửa phịng trọ... Phải rồi, một căn phịng rẻ tiền khơng cĩ sưởi giữa ngày Đơng,một căn gác xép ẩm mùi meo mốc vì đã lâu khơng ai thuê, một khung cửa sổ nhỏ và hẹp nhìn xuống một cái sân rêu hiu quạnh...những ngày tháng khơng cĩ chi là huy hồng hoặc, nĩi theo ngơn từ của người Việt hải ngoại hiện nay, những đoạn quá khứ khơng lĩe một tia hào quang, nào nhưng lại là những ngày tháng nổi trơi theo nhịp đập của cái mạch giang hồ trong người tơi... thành thử mỗi lần giở quyển Truyện Chọn Lọc Của Lỗ Tấn(2) tơi vẫn đọc lại Trong quán Ruợu nhiều hơn là những danh tác khác của ơng trong tuyển tập mà một anh bạn người Việt gốc Hoa cách đây nhiều năm đã cho tơi và dặn dị:" Văn Lỗ Tấn giản dị, sáng sủa lắm, dễ đọc."
Dễ đối với bạn tơi thơi. Chứ cịn riêng đối với tơi thì, chữ Hán lỗ mỗ, câu được câu chăng, vất vả lắm mới hiểu trọn một đoạn. Nhưng mà những chỗ hiểu được thì quả là khơng bõ cơng tìm bộ thủ, đếm nét, đối chiếu chữ phồn thể và giản thể vân vân... Tĩm lại, những việc mà những kẻ ngồi lâu một chỗ khơng yên như tơi phải kiên trì lắm mới làm xong, dù cĩ khi chỉ để tìm nghĩa một chữ mới học thêm. Hay thiệt. Thú lắm.
Tơi khơng muốn làm một việc thừa. Tơi khơng muốn giới thiệu Lỗ Tấn. Tơi cũng khơng muốn nĩi về cái hay cái khéo của Trong Quán Rượu. Tơi cũng sẽ khơng thuật hết cốt chuyện vốn cũng khơng cĩ chi là lạ, là lắt léo, sợ phạm vào cái lỗi lanh chanh, lắc xắc làm cụt hứng những ai chưa đọc mà lại muốn xem thử kiệt tác này. Tơi chỉ muốn nĩi về cảm tình của tơi đối với nhân vật xưng Tơi, mối cảm tình nẩy sinh một cách hết sức tự nhiên ngay sau khi đọc xong Trong Quán Rượu.
(Bắt đầu từ đây, Tơi in chữ nghiêng trong bài này là nhân vật của Lỗ Tấn.)
Tơi trèo lên tầng gác của quán Nhứt Thạch Cư, chọn một cái bàn gỗ nhìn xuống một mảnh vườn bỏ hoang. Ngồi bên cửa sổ hoặc ngồi trong gĩc - dù lúc ấy trong quán chưa cĩ một người khách nào khác - thường là tâm trạng của một người muốn sống với chính mình giữa đám đơng. Ngồi bên cửa sổ dễ kín đáo quan sát sinh hoạt xung quanh. Dù khơng quan sát nữa thì cũng dễ thấy và nhìn. Xong, Tơi bắt đầu săn sĩc đến chất men, thức nhắm cho bữa rượu đ?c ẩm
- Cho một cân rượu Thiệu Hưng... thức nhắm à? Thì... mười miếng đậu khuơn rán, cho nhiều tương ớt vào."(3)
Ấy, ngồi trời tuyết đang rơi, ngồi trong quán nhìn xuống một mảnh vườn hoang phế, lại một mình nâng chén nữa, lịng nào mà khơng lạnh, khơng vướng chút phiền muộn, chút sầu ở vào cảnh ngộ này. Cho nên cần đến rượu hâm nĩng là phải, nhưng cũng phải là rượu Thiệu Hưng trứ danh, hẳn đắt tiền. Tơi là một giáo viên, mà cách đây gần 80 năm,(Lỗ Tấn viết Trong Quán Rượu vào năm 1924) lương giáo chức ở Trung quốc cũng khơng cao lắm. Nội cái chuyện gọi cho kỳ được rượu Thiệu Hưng cũng đủ khiến tơi nghĩ rằng con người này chịu chơi lắm. Rượu Thiệu Hưng "mồi" bằng đậu khuơn (đậu phụ) rán, một mĩn giản dị, khắp Trung Quốc đâu cũng cĩ - khơng khác chi dĩa rau s?ng, rau luộc, dĩa dưa, chén cà trong bữa cơm Việt Nam.
Thĩi thường, đối với người thích uống thì rượu ngon là ưu tiên, thức nhắm nếu "đi" được với độ nặng hoặc nhẹ và vị nồng hoặc dịu của rượu thì càng tốt, khơng cũng khơng sao. Nhưng mà tơi nghĩ đối với Tơi, dù "khơng sao" đi nữa, cũng phải cho ra hồn, phải hợp với thời và địa điểm của dăm chén tiêu sầu. Thời điểm là buổi chiều, chưa đến giờ cơm tối, cho nên Tơi mới gọi đậu khuơn rán, khơng động đến thịt thà tơm cá. Nĩ nhẹ hơn mà cũng rất hợp với tâm trạng của Tơi, lúc ấy chỉ muốn mượn rượu giải muộn thơi, khơng cốt uống đến bí tỉ. Hơn nữa, trở lại cái quán tuy quen thuộc nhưng đã đổi chủ, chưa biết tài nghệ của đầu bếp như thế nào, thì cứ gọi ngay một mĩn mà trừ phi củi lửa lạc vào tay mơ, chứ cịn nhâm nhi ngay tại chỗ, miếng đậu khuơn rán đang bốc hơi ít khi dở. Tơi nghiệm ra rằng Tơi là một người ăn uống kén lắm, nhưng khơng cầu kỳ. Miếng đậu khuơn rán, dù rán già hay non, tự nĩ chỉ cĩ hương mà lại lạt, khơng cĩ vị, cho nên nước chấm đi kèm cần phải đậm đà. Do đĩ,Tơi mới nhấn mạnh là phải cho nhiều tương ớt. Gì chứ riêng về vụ ăn cay này thì quả là tơi chịu Tơi lắm rồi. Chắc chắn là vào một tiệm nào cũng thể khốn trắng cái khoản gọi thức ăn thức uống cho người này, nếu cĩ dịp đánh bạn và đánh chén. Chắc chắn là khơng thất vọng. Sau đây là cảm tưởng và cảm giác của Tơi sau khi thong thả hớp một hớp rượu và thử một miếng đậu khuơn:
-Rượu nguyên chất, khơng vướng tạp vị; đậu khuơn rán cũng tới thật, đáng tiếc là tương ớt lại lạt, khơng đủ cay. Quả là dân miền S. này khơng biết ăn cay(4).
Sau đĩ, Tơi điềm nhiên nhắp thêm hai chén rượu nữa, khơng gắt gỏng, khơng hạch sách hoạnh họe, khơng gọi thêm ớt, khơng địi phải cĩ một thứ tương ớt cay hơn nữa. Đến một nơi mà người bản địa khơng thích ăn cay rồi lại địi cho được ớt chìa vơi, ớt tím, ớt hiểm thì, cĩ thể vì chiều khách, nhà hàng cũng kiếm ra được, nhưng mà làm vậy lại bỉ mặt người ta. Cất chén tiêu sầu, thức nhắm đưa rượu, chứ cĩ phải làm cách mạng cách miếc, đảo chính đảo chiếc gì đâu, việc gì, tội gì mà gây ác cảm với người xung quanh vì một chút khối khẩu. Con người này quả là tế nhị và lịch lãm.
Đến đây thì cốt chuyện của Trong Quán Rượu mới thực sự bắt đầu. Vừa đặt chén rượu
xuống, Tơi nhận ra một người bạn học cũ vưà bước lên lầu. Nhưng mà... tơi khơng muốn nhắc đến cốt chuyện... Ở một đoạn sau, theo đề nghị của người chạy bàn, hai người bạn này đồng ý gọi thêm bốn mĩn. Và Tơi kê khai rõ bốn mĩn: đậu ướp hồi hương, thịt đơng, cá mặn và thêm đậu khuơn rán nữa.
Lỗ Tấn thường vẫn tiết kiệm chữ nghĩa, hiếm thấy một chi tiết thừa trong tiểu thuyết của ơng. Vậy thì mắc mớ gì mà ơng lại để cho Tơi kê khai rõ bốn mĩn cho dơng dài? Thật ra thì nĩ cần để làm sáng tỏ một chi tiết ở cuối truyện. Nhưng mà... tơi đã nĩi rằng tơi khơng thuật hết chuyện. Lúc bước vào quán Nhứt Thạch Cư, Tơi chỉ gọi một dĩa đậu khuơn rán để đưa rượu. Thêm một người bạn nữa, thêm mấy mĩn kể trên, nhìn kỹ cũng vẫn là thức nhắm trong một bữa rượu chiều, chưa đến giờ cơm tối. Coi mà coi, chỉ tồn là những mĩn nhậu, nhưng khơng phải thứ xào xẹt - nhất là xào theo lối ăn miền Quảng Đơng mà người mình đã quen thuộc - nhiều dầu mỡ, dễ ớn. Cho nên, lúc cần đến một mĩn thịt khơng thể khơng cĩ trong một bữa rượu, thì thịt đơng là được rồi, béo mà khơng ngấy. Mà cịn cĩ lời nào dùng để khen tài nấu nướng của đầu bếp lại hay hơn, khéo léo hơn cách gọi thêm... một dĩa đậu khuơn rán nữa. Chuyện ăn uống này trong Trong Quán Rượu khiến tơi nhớ đến một nhân vật của Proust, ơng de Norpois, một tay ăn uống sành sõi.Trong một bữa cơm tối đãi ơng de Norpois tại nhà, bà mẹ của Proust đã dọn đến cái mĩn thịt bị nguội, một mĩn khơng cầu kỳ, nhưng khĩ nấu cho ngon, để thết ơng de Norpois. Ơng này đã khen đầu bếp bằng cách nhã nhặn nĩi với bà mẹ của Proust:
- Bà cho phép tơi được nếm thêm chút thịt nguội nữa.(Permettez-moi d'y revenir) .Khéo léo, nhã nhặn và tế nhị đến mức ấy, tơi nghĩ rằng Tơi và ơng de Norpois thuộc vào hạng "bên tám lạng người nửa cân". Nĩi gì thì nĩi, Đơng và Tây vẫn cĩ chỗ giống nhau đấy chứ.
Dĩ nhiên, ăn uống khơng phải bữa nào cũng thấy ngon và biết ngon. Nĩ cịn tùy ở nhiều ở nhiều yếu tố bên trong và bên ngồi. Tơi nghĩ rằng những lúc hồn cảnh cho phép, Tơi là một người ngồi vào bàn để thưởng thức mĩn ăn hơn là ăn lấy no. Bởi vì ngay từ đầu truyện, Tơi đã kể rằng cái khách sạn Tơi đến trọ chỉ cho thuê phịng mà khơng cĩ nấu nướng chi, thành thử muốn ăn uống gì phải gọi mua ở ngồi đem vào, mà loại cơm nước kiểu ấy thì quả tình cho vào miệng nuốt khơng trơi.(nguyên văn là như tước nê thổ, "như nhai đất bùn")
Tơi chưa cĩ dịp đọc được một quyển tiểu sử đầy đủ về cuộc đời của Lỗ Tấn, cĩ biết về ơng thì cũng là nhờ vào những danh tác như A Q Chính Truyện, Cuồng Nhân Nhật Ký và phần đĩng gĩp lớn của ơng trong cuộc Ngũ Tứ Vận Động bên Trung Quốc. Trong bài viết này, tơi khơng muốn nĩi đến Lỗ Tấn trong vai trị một người hành động, một nhà trí thức từng dấn mình vào những phong trào và cơng cuộc cải cách ở Trung quốc sau khi ơng bỏ học y khoa ở Nhật Bổn để xoay sang viết văn, làm báo.
Và cũng vì biết rất ít về "con người" Lỗ Tấn, nên tơi khơng dám khẳng định rằng Tơi trong truyện Trong quán Rượu là Lỗ Tấn một trăm phần trăm. Vẫn biết, "phong cách ra sao thì con người ra vậy" (le style c'est l'homme), nhưng mà nhân vật ở ngơi thứ nhất khơng cứ luơn luơn phải là tác giả. Tơi viết về Tơi - một nhân vật phụ - chẳng qua là vì khung cảnh trong truyện, dù khơng hẳn là phù hợp với dăm đoạn đường mà tơi đã từng xuơi ngược, đã nhắc nhở và gợi nhớ rất nhiều... nhớ về dăm chén rượu trong mưa rào Saigon, bên làn sương Dalat, giữa bụi đỏ Kontum, dưới mưa dầm Huế... nhớ ơi là nhớ! Chén rượu bốn phương trời, nhắp một mình vốn đã đậm đà, lại càng thêm đậm đà những khi thở được cái khơng khí ấm cúng thân mật của một đơi lần tình cờ gặp một người bạn cũ cũng đang bước vào quán. Những phút ấy, tơi nghĩ chọn rượu và thức nhắm cũng nên bỏ một chút nghệ thuật vào đấy. Nghệ thuật nào? Phải chăng là nghệ thuật làm tăng mỹ thuật của những gì vốn đã cĩ cái nét đáng yêu của nĩ như... rượu Thiệu Hưng, như miếng đậu khuơn mà Tơi cho là mười phân vẹn mười (thập phân hảo).
Xem sách, đơi khi gặp được cảnh ngộ mình từng sống qua, tự nhiên thấy vui, vui như mới trúng số, dù khơng phải là số độc đắc. Tơi nhìn vào nét mặt cương nghị trong bức ảnh của Lỗ Tấn ngồi bìa sách.Tơi thầm cám ơn ơng.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 7:29:43 GMT 9
Thôi Hiệu - Hoàng Hạc Lâu Hôm nay bên dòng sông xứ người có một người lặng lẽ ngắm về nơi thượng nguồn sương khói với lòng tràn nỗi nhớ Quê hương . Trăm mối , Ta nhớ Người, Người có còn nhớ ta chăng ? . Hoàng Hạc lâu là bài thơ thất ngôn Đường luật hay nhất đời Đường,Nghiêm Vũ thời Tống đánh giá như thế (1) Bài Hoàng Hạc lâu được người Việt Nam thuộc thế hệ sinh thập niên 1940 , 1950 yêu thích bởi nó đã được đem vào chương trình Việt văn ban C,tú tài I. Nó có hơn 35 năm được đào sâu tại các trường trung học Việt Nam. Trên mạng đã có trên 55 bản dịch không biết trong số đó ai là người thuộc lớp mà laiquangnam kể ở trên . Nguyên tác 黃鶴樓 昔人已乘黃鶴去, 此地空餘黃鶴樓。 黃鶴一去不復返, 白雲千載空悠悠。 晴川歷歷漢陽樹, 芳草萋萋鸚鵡洲。 日暮鄉關何處是, 煙波江上使人愁。 Phiên âm Hoàng Hạc lâu Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ Thử địa không dư hoàng hạc lâu Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản Bạch vân thiên tải không du du Tịch xuyên lịch lịch Hán dương thụ Phương thảo thê thê Anh vũ châu Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu Thôi Hiệu Chú vài từ và tạm dịch nghĩa 1) tích nhân , điển tích, chỉ người xưa .Tục truyền Phí Văn Vi thành tiên, thường cưỡi hạc về nghỉ ở Hoàng Hạc lâu.. Sách Hoàn vũ ký ghi là Phí Hôi từ lầu này cưỡi hạc vàng lên tiên nên gọi là lầu Hạc Vàng. Sách Tề hài chí thi ghi Vương Tử An thành tiên cưỡi hạc vàng qua lầu này nên lầu gọi là lầu Hạc vàng.(2) 2-du du là từ Tàu ,mông mênh ,lai láng ,bao la. Du du một từ có tần số xuất hiện rất cao trong thơ Đường . 3-thê thê là mượt mà, tươi tốt. Cỏ xanh là ước lệ trong thơ Đường, luôn gợi sự quyến luyến với Vương tôn (Vương tôn là từ trọng vọng dành với ai đó ) ,ước lệ này được giới thi nhân dùng nhiều mà Vương Duy người đồng thời với ông là một điển hình. Nó cũng là một điển từ. " thê thê " là lấy từ bài Chiêu ẩn sĩ trong Sở từ " Vương tôn du hề bất quy, xuân thảo sinh hề thê thê " .( Vương tôn đi chơi không về, cỏ xuân mọc mượt mà) , tạm dịch . Tiển người hoa lá luyến thương, Hoa đồng cỏ nội ủ hương chờ người. hoặc Tiển người hoa lá luyến thương Thê thê nội cỏ ủ hương chờ người Ngoài nghĩa thê thê" là xanh tươi, mơn mởn, còn có nghĩa là buồn bã (thơ đọc qua lỗ tai, chơi chữ củaThôi Hiệu?," BKD dịch 2 câu 5,6 như sau :Sông tạnh Hán Dương cây bát ngát ,Bãi hoang Anh Vũ cỏ tiêu sơ ", không phải không có lý. Điển từ "thê thê " ( câu 6) dẫn đến "Sử nhân sầu" ở câu 8 . Người ra đi nay trở về với bao niềm thương nhớquê nhà , nguyên nhân? có phải khói sương nơi cuối dòng không? hay là do điển từ "thê thê" tại câu 4 nhắc đến sự nhớ thương của cây cỏ trên cồn Anh vũ như đã đề cập . 4) trong Thất ngôn bát cú luật, địa danh nhằm tăng độ nén của ý .Thi nhân thường chọn địa danh có huyền thoại đặc biệt liên quan đến câu chuyện hay con người lịch sử đã xuất hiện trong sách vở của Tàu. Hán Dương, địa danh,thành phố nằm trên dòng sông Trường Giang đối diện Hoàng Hạc Lâu . Anh Vũ ,địa danh ,cù lao ( cồn ) Anh vũ nằm giữa sông Trường Giang.chênh chuếch với phía thành Hán dương. 5-Tiếu lâm :Bịa giai thoại để nói bài thơ hay là cách dễ nhất để khen một bài thơ mà người giảng không cần động não tí nào.Tỉ như bên Tàu có ông Tân Văn Phòng đời Nguyên kể lại trong sách Đường tài tử truyện rằng Lý Bạch lên lầu Hạc vàng định làm thơ, nhưng thấy bài thơ Thôi Hiệu quá hay nên ông không còn ý ,còn chữ gì để viết nữa. Họ bịa Lý Bạch viết Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc. Thôi Hạo đề thi tại thượng đầu (trước mắt có cảnh đẹp mà không nói lên được.bởi Thôi Hiệu đã đề thơ trên kia rồi. Khách thơ tin ? % ?. nhiều người giáo sư Việt nghe ông Tàu này nói y như thiệt là tin ngay.Bản chất! Vậy phải xử lý văn bản này như thế nào trước khi dịch sang thơ quốc âm ? Người Tàu rất tự hào với dòng thơ Thất ngôn bát cú luật của họ. Bài thi loại với thí sinh trên con đường tìm công danh bắt buộc là bài Thất ngôn bát cú luật. .Họ nén thơ trong 8 dòng với 56 từ .Họ nén bằng cách naò? 1-dùng điển từ ,điển tích,địa danh,ước lệ . Điển từ là gì ? điển từ là hai hay nhiều từ lấy từ một câu thơ cổ,thí dụ hai chữ "thê thê" trong bài này như đã đề cập ở trên . 2-Sử nhân sầu là cụm từ hay từ thời cụ Tản đà bỏ công dịch và giới thiệu bài này qua dòng lục bát. Tản Đà biết áp dịch là điều không thể bởi làm thế nào đưa trọn câu 2 khẩu ngữ khúc khắc khục khặc này vào câu Tiếng Việt Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản, nên ông né?. Lục bát ,Song thất lục bát của Người Việt vốn có cái mượt mà Tiếng Việt rất riêng đem bù đắp cho bài thơ nguyên tác dòng Thất ngôn bát cú luật.Thi nhân Tàu chơi chữ chan chát tại các cặp (3,4&5,6) vậy mà không ăn thì nói gì dịch áp theo nguyên tác làm sao dịch áp cho đạt . Lục bát thì mựợt mà . Song thất lục bát thì ngoài cái mượt mà, là sự ưu việt trong thể tự sự, thất ngôn bát cú luật thua xa. Song thất lục bát nay lại còn phù hợp với lối phân đoạn bài Thất ngôn bát cú luật theo hai khổ tiền và hậu như Kim Thánh Thán đã làm . 3- câu "Bạch vân thiên tải không du du" , mây trắng ngàn năm không du du. Từ "không" là không hay "không" là vô cùng đây hay không là trời .Có khi giữ nguyên không du du thế mà hay . theo bạn ? Bạch vân thiên tải không du du Ngàn năm mấy trắng sắc ngờ ngờ pha 3-Điển từ" thê thê "ở câu 6, đây là mắt xích quan trọng nhất , khiến chuyển hướng từ căm hờn trong tình cảm của người ly khách "_Hoàng hạc "nhất khứ bất phục phản"// một đi ,thề chẳng quay về !,sang tiønh cảm xề xòa bỏ qua rồi "thương nhớ" đậm ?. Tạnh sông xa Hán dương lồng bóng , Thơm cỏ nồng Anh Vũ "thêthê" . *Quê ta đâu ? bóng chiều tê , Trên sồng khói sóng,lòng (Q)uê ... ngậm ngùi. 4. Ấy chết , ngay tại tiêu đề và ngay tại câu đầu , Thôi Hiệu đã dùng Ước lệ thương nhớ quê hương , "lên lầu", đăng lâu để nhiøn được thật xa, trông thật rộng . Toàn văn được tác gỉả đúc kết gom lại là hai từ "Quê xa " mờ ảo làm cháy lòng người trở lại ở câu cuối. Quê nhà ta là nơi xa xăm kia, khuất sau mấy làn mây sương khói.! Ta đứng dây thương nhớ Người liệu Người có còn tưởng nhớ đến ta chăng ? Tạnh sông xa Hán dương lồng bóng , Hương cỏ nồng Anh Vũ mượt xa . *Hỏi đâu cố quận, chiều tà , Trên sồng khói sóng , ..q(Q)uê xa ..." ngùi ngùi" Được cái này mất cái kia. Bó tay. Thôi thì theo cách mà các nhạc sĩ thời nay dùng,viết " điệp khúc" cho hết ý thơ . Dich sang thơ quốc âm Người xưa cưỡi Hạc vàng phiêu bạc Đất này "sau trước" Hạc lầu trơ _Một đi, về chẳng bao giờ ! Ngàn năm mấy trắng sắc ngờ ngờ pha *Tạnh sông xa Hán dương lồng bóng , Hương cỏ nồng Anh Vũ mượt xa . *Hỏi đâu cố quận, chiều tà , Trên sồng khói sóng , ..q(Q)uê xa ..." ngùi ngùi" và điệp khúc * Tạnh sông xa Hán Dương lồng bóng , Hương cỏ lồng Anh Vũ "thê thê" . * Quê ta đâu? _ ,bóng chiều tê!, Trên sông khói sóng , lòng (Q)uê ... ngậm ngùi. 1-"Sau trước "là điển từ của Kiều [ trước sau nào thấy bóng người (Kiều )] 2- Cố Quận là từ được phổ biến khi Bùi Giáng xử dụng cho dù trước đó Huy Cận đã dùng nhưng không mấy ai để ý, bởi bài thơ của Huy Cận lúc ấy dở . 3-Ngùi ngùi chữ của CPN, 4- q(Q)uê ,gồm hai từ quê và Quê 02 Một bản dịch lục bát của người xưa :Tản Đà: Hạc vàng ai cưỡi đi đâu, Mà đây Hoàng hạc riêng lầu còn trơ. Hạ vàng đi mất từ xưa, Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay. Hán dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh vũ xanh đầy cỏ non. Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai. Tham khảo (1) NGUYỄN KHẮC PHI, Phân tích bình giảng tác phẩm văn học 10, NKP là người và hướng dẫn SV làm luận văn tiến sĩ.. Ông là người có công phổ biến và tán dương văn học Trung quốc tại Việt Nam từ 50 năm nay trong giới đại học SP Hanoi ) (2) Nguyễn Thế Nữu , Thơ Đường biønh chú, Hội nhà văn , 2000 3-Mách bạn bản dịch của Ngô Tất Tố ,TTk ,BKD ,KHD ,Vũ hoàng Chương và của 50 người dịch khác các bạn có thể đọc trên mạng . lqnam không ý kiến .. 4-và bài viết tại link khiến bạn nhiều suy tư . www.vietmedia.com/news/?L=grabstory.html&ID=2843&start=1501&Cat=VanNghe5-đọc hoàng hạc lâu nhiều người thích hai câu cuối trong nguyên tác: Nhật mộ hương quan hà xứ thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu đã bao nhiêu người dịch hai câu trên nhưng nào có ai dich qua câu ca dao thương nhớ Chiều chiều đứng dựa ngõ sau Ngó về quê mẹ ruột đau chín chiều không cần đăng lâu ,không cần dòng sông ,không cần tình hương cỏ ,chỉ một bóng chiều tà là đủ gợi lên bao niềm thương nhớ. Nhớ đến " chín " cả trời chiều , nơi nơi đều chứa nổi đau ,tám chiều địa dư + một chiều nội tâm . Làm người Việt sao mà khổ thế ,sao mà tình quê hương sâu đậm thế . Nhớ in ít thôi không đươc sao?. Hãy nghe người mẹ người cha Quảng Nam và người con của họ đối đáp : _Ngó lên hòn Kẽm đá Dừng Thương cha nhớ mẹ quá chừng *bạn ơi ! _ Thương cha nhớ mẹ thì về, Nhược bằng thương kiểng nhớ quê thì đừng!. Lý do nào mà bậc làm cha làm mẹ người Quảng nam lại vui vẻ chấp nhận và khuyến khích con cháu mình bỏ xứ ra đi ?. Tại sao ?. Chỉ có Chúa họa may mới biết . Họ đâu cần chi bọn trẻ sống ở bên mình, mong mình đựợc săn sóc lúc tuổi già. Trẻ cậy cha ,già cậy con ."Tụi bay đi đi, nơi nào cho tụi bay sống hạnh phúc, cho tụi bay an cư lạc nghiệp ,sống cho ra sống ,nơi ấy chính là quê hương . Ở nhà cha mẹ tự lo thân được mà . Yên tâm đi . Tổ quốc chỉ một mà thôi , nếu có thương nhớ mẹ cha thì hãy dấu nước mắt vào lòng. Tụi bay vui là Ta đã vui . Ngày xưa mẹ hát ru ,bây giờ các con lại hát ru sao?" . Thương thay cho người Việt mình với tấm lòng thương nhớ quê nhà đau đáu. Và ai ngồi dịch và giới thiệu Hoàng hạc lâu với động cơ thương nhớ quê nhà nay thử sờ lại ót mình . laiquangnam lỡ dại đã bỏ công đọc và giới thiệu lãng xẹt một bài thơ Tàu, lẽ nào các bạn lại lặp bước đường này ? Saigon một sáng tháng năm 2011. laiquangnam
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 7:31:59 GMT 9
Mạc Đĩnh Chi (1286-1350) vài truyền thuyết ---- Nguyễn Thị Chân Quỳnh Mạc Đĩnh Chi (1286-1350) (1) tự là Tiết Phu, người huyện Chí Linh, tỉnh Hải Duơng, nổi tiềng học vấn uyên thâm, có tài ứng đối mẫn tiệp nhưng người thấp bé, hình dung xấu xí. Ông đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Thìn (1304) thời Trần Anh Tông, khi chưa đầy 20 tuổi. Thời xưa người được chấm đỗ thi Đình có khi còn phải vào yết kiến để vua xét dung mạo rồi mới quyết định cho đỗ hẳn hay không. Mạc Đĩnh Chi vào ra mắt nhưng vua Trần Anh Tông thấy tướng mạo ông xấu xí có ý không muốn cho đỗ Trạng. Ông làm bài phú "Ngọc tỉnh liên" (Hoa sen trong giếng ngọc), ca ngợi nết cao quý của bông sen, tự ví mình với hoa quân tử. Vua đọc xong thuận cho ông đỗ Trạng nguyên (2). Trải qua ba đời vua : Anh Tông (1293-1313), Minh Tông (1314-1328), Hiến Tông (1329-1340), làm quan đến chức Đại liêu ban Tả Bộc xạ (3). Hai lần được cử đi sứ sang Trung quốc (4), ông thường tỏ ra có tài hùng biện, dùng văn chương áp đảo triều thần nhà Nguyên, những câu ứng đối tài tình của ông được chép nhiều trong sách sử Trung hoa. Đặc biệt ông từng được Nguyên đế khen tặng là "Lưỡng quốc Trạng nguyên". Ông đã trước tác rất nhiều nhưng còn truyền lại chỉ có những tập Tán văn, Tế văn, câu đối và bốn bài thơ trong Khởi-Thì-Tập, Tạ văn một đạo trong QuốcTriều Biểu-Chương cùng bài bia Bùi Công Mộc-Đạc Thần-Đạo mà thôi (5). Mạc Hiển Tích, Tiến sĩ đệ nhất danh khoa Bính Dần (1086) đời Lý Nhân Tông, làm quan đến Thượng thư bộ Lại, là viễn tổ của ông. Em Mạc Hiển Tích là Kiến Quan cũng đỗ Tiến sĩ, làm đến Công bộ Thượng thư (6). Mạc Đăng Dung là cháu đời thứ 7 của Mạc Đĩnh Chi (6). 1- HỌ MẠC VÀ THUYẾT PHONG THỦY Những truyền thuyết về Mạc Đĩnh Chi có rất nhiều nhưng cũng như các truyền thuyết thường có nhiều điều sai lạc, hoang đường. Thí dụ chuyện bà mẹ ông vì bị khỉ hiếp mà đẻ ra ông cho nên tướng mạo ông xấu xí, giống khỉ. Khỉ bị cha ông giết, xác do mối đùn thành một cái mồ lớn, cha ông biết đấy là khu đất quý, dặn con cháu chôn mình lên trên mộ con khỉ, sau chính ông cũng táng ở dưới chân, cho nên con cháu ông làm to (7) qúy hiển là nhờ khu đất ấy. Thế nhưng Mạc Hiển Tích, Mạc Kiến Quan là viễn tổ của ông cũng đã làm quan to từ triều Lý, hiển nhiên không phải nhờ ngôi đất ấy mà ắt phải nhờ một ngôi mộ nào khác của tổ tiên thời trước nữa, nếu ta tin vào thuyết phong thủy, địa lý. Song tác giả Công Dư Tiệp Ký lại cho biết nhà Nguyên thấy Mạc Đĩnh Chi có kỳ tài mà tướng mạo lại không có gì đáng quý nên sai một thầy địa lý Tầu sang xem phong thổ nước ta. Ông dẫn đi xem phần mộ tổ tiên, ngôi nào họ cũng lắc đầu, đến ngôi mộ phụ thân ông thì họ tấm tắc khen đấy mới chính là ngôi mộ phát tích. Nhưng nếu những phần mộ tổ tiên chôn ở đất không phát thì giảng nghĩa sao đây về hai ông Hiển Tích và Kiến Quan làm quan còn to hơn con cháu Mạc Đĩnh Chi ? 2- "LƯỠNG QUỐC TRẠNG NGUYÊN" VÀ BÀI THƠ TÁN QUẠT Truyền thuyết về bài thơ tán quạt và chức "Lưỡng quốc Trạng nguyên" thì tuy không huyền hoặc, hoang đường nhưng lại khiến ta giảm lòng khâm phục ông Trạng Mạc và óc phê phán của triều đình nhà Nguyên. Tuy Nguyên đế thuộc dị tộc (Mông cổ) nhưng triều đình bao gồm cả các quan người Hán. Theo Công Dư Tiệp Ký tập II thì trong một lần đi sứ nhà Nguyên gập lúc có người ngoại quốc dâng quạt, Nguyên đế muốn thử tài, sai ông cùng Sứ thần Cao Ly mỗi người phải làm ngay một bài tán quạt. Sứ thần Cao Ly làm xong trước, có những câu : Uẩn long trùng trùng, Y Doãn, Chu Công, Vũ tuyết thê thê, Bá Di, Thúc Tề. Nghĩa là : Khí nóng bừng bừng, Y Doãn, Chu Công Mưa tuyết đầm đìa, Bá Di, Thúc Tề (8). Ý nói mùa hạ nóng nực thì cái quạt đắc dụng như hai ông Y Doãn, Chu Công ; mùa đông giá rét thì cái quạt vô dụng chết lả như hai ông Bá Di, Thúc Tề. Trong lúc ông chưa biết viết gì, liếc sang đầu quản bút của Sứ thần Cao Ly đoán được ý tứ rồi theo đó suy diễn thêm ra thành bài thơ tán quạt sau đây : Lưu kim thước thạch, thiên địa vi lô, Nhĩ ư tư thì hề, Y, Chu cự nho. Bắc phong kỳ lương, vũ tuyết tái đồ, Nhĩ ư tư thì hề, Di, Tề ngạ phu. Y : Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng (9), duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù. Nghĩa là : "Nấu vàng nung đá, Trời đất như lò thì ngươi lúc ấy khác gì Y, Chu nổi tiếng bậc cự nho ? Gió lạnh buốt xương, mưa tuyết đầy đường thì ngươi lúc ấy cũng như Di, Tề nhịn đói trên núi Thú Dương. Ôi ! Dùng thì ra giúp đời, bỏ thì tạm ẩn để chờ thời. chỉ ta với ngươi giữ được như thế." Sứ thần Cao Ly xong trước, ông viết xong cũng trình lên, Nguyên đế khen bài của ông hay hơn, cầm bút khuyên vào câu có chữ "Y" và phê "Lưỡng quốc Trạng Nguyên". Nếu quả sự thực là như vậy thì chức "Lưỡng quốc Trạng Nguyên" phải chia đôi với Sứ thần Cao Ly mới đúng vì nội dung bài văn không do ông nghĩ ra mà là "mượn" của Sứ thần Cao Ly, ông chỉ thêm câu kết trích trong Luận Ngữ để tỏ ý chí của mình. Nguyên Đế đọc cả hai bài mà không nhận thấy sự trùng ý của hai Sứ thần và không truy nguyên kể cũng lạ. 3- BÀI VĂN TẾ CÓ BỐN CHỮ "NHẤT" Bài văn tế này rất nổi tiếng nhưng các bản được truyền tụng khác nhau ở vài chi tiết : khi thì nói đấy là bài văn tế một cô Công Chúa Tầu, khi thì là văn tế một bà Hoàng Hậu, khi lại là một bà Hậu Phi, còn chính bài văn lúc thì có bốn chữ "nhất", lúc lại chỉ có một chữ "nhất" hoặc là tờ giấy trắng không có chữ gì cả. A- Các bản truyền tụng kể trong một lần Mạc Đĩnh Chi đi sứ sang Trung quốc, thân sĩ nhà Nguyên thấy ông có tài ứng đối giỏi, áp đảo họ, nên có ý chơi khăm, cử ông đọc văn tế bà Công Chúa/Hoàng hậu/Hậu Phi. Thói thường người đọc cũng là người viết hay ít nhất cũng được đọc trước. Văn tế thì viết rồi dán lên bảng gỗ gọi là Chúc bản. Nếu không đọc được hay đọc một bài văn tế cũ đều bị tội (10). Mạc Đĩnh Chi ra quỳ trước lễ đàn nghe xướng xong mở Chúc văn ra để đọc chỉ thấy tờ giấy trắng tinh có bốn chữ "nhất". Ông biết họ thử tài, nhanh trí ứng khẩu đọc bốn câu thơ, mỗi câu có một chữ "nhất" ở trong, ca tụng phong cách bậc nhất của người chết : Thanh thiên nhất đóa vân, Hồng lô nhất điểm tuyết, Thượng uyển nhất chi hoa, Dao trì nhất phiến nguyệt. Y ! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết ! Dịch nghĩa : Trời xanh, một đám mây, Lò hồng, một điểm tuyết, Thượng uyển, một cành hoa, Dao trì, một vừng nguyệt ! Ôi ! Mây tản, tuyết tiêu, hoa tàn, giăng khuyết ! Triều đình nhà Nguyên rất khâm phục. Có những dị bản còn thêm mấy chi tiết như khi ông đang chuẩn bị về nước thì được cử ra đọc văn tế, tất cả các sứ thần đến dự tang lễ đều khâm phục, bài văn này được khắc vào đá để lên mộ bà Công Chúa/Hoàng Hậu... B- Nhiều người yên trí bài văn tế này do Mạc Đĩnh Chi làm, có lẽ phần nào dựa vào bài viết đầy đủ nhất về Mạc Đĩnh Chi trong Công Dư Tiệp Ký (1755) của Vũ Phương Đề (Tiến sĩ khoa 1736) . a- Công Dư Tiệp Ký (CDTK)tập 2 chép Mạc Đĩnh Chi khi được cử đọc văn tế bà Hậu Phi, vào quỳ trước linh vị, nghe xướng xong mở Chúc văn ra chỉ thấy có bốn chữ "nhất", biết họ thử tài, đọc ngay : Thanh thiên nhất đóa vân, Hồng lô nhất điểm tuyết, Thượng uyển nhất chi hoa, Quảng hàn nhất phiến nguyệt. Y ! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết (10). Bản này rất giống những bản truyền tụng chỉ hơi khác ở câu thứ tư là "Quảng hàn nhất phiến nguyệt" chứ không phải "Dao trì nhất phiến nguyệt" nên ta có thể tin bài văn đúng là của ông Trạng Mạc vì ít nhất đã có tới hai bản khác nhau cùng ghi là của ông làm. Vũ Phương Đề chú rõ :"Bài văn ấy còn ghi trong Bắc Sử. Có người bảo là của Lý Bạch nhưng ta xét kỹ thì về lời và ý giống văn thể của ông. Tuy thế chưa chắc đã phải vì bài thơ Đề Quạt đích thị là của ông thế mà Thuyết Linh lại chép là của Phương Hiếu Nhi, lấy đó suy ra thí sử sách bên Tầu chép về việc ấy chắc gì đã đúng". Bản của Vũ Phương Đề, chép theo Bắc sử, có lẽ sai vì câu "Quảng hàn nhất phiến nguyệt" vô nghĩa : "Quảng hàn" là cung trăng mà "nguyệt" cũng là trăng, "trong cung trăng có một vừng trăng" không có nghĩa gì cả. Sự lầm lẫn này nếu không phải do người chép Bắc sử đã nhầm thì ta có thể cho là không phải Mạc Đĩnh Chi đã ứng khẩu ra bốn câu thơ ấy mà là nhớ lại một bài thơ đã đọc từ trước, rồi quên mất hai chữ "Dao trì" và nhanh trí thay tạm bằng "Quảng hàn". Trong lúc "tang gia bối rối" không ai lưu ý đến chi tiết nhỏ ấy. Vũ Phương Đề nhận định sách sử bên Tầu cũng có thể sai thì đúng, bảo bài văn tế ấy không phải của Lý Bạch thì không cần dựa vào văn thể mà xét đoán cũng rõ, và xét văn thể còn có thể sai chứ tính theo thời điểm thì chắc chắn không nhầm : Lý Bạch sống đời Đường, sao có thể làm văn tế một bà chết thời Nguyên ? Sau nhà Đường (618-907) còn các đời Ngũ Đại (907-960), Tống (960-1234), rồi mới tới Nguyên (1234-1368). Vũ Phương Đề khẳng định bài thơ tán quạt là "đích thị" của Mạc Đĩnh Chi, lấy gì làm bằng ? Dựa vào chi tiết Mạc Đĩnh Chi nhanh trí chỉ nhìn đầu quản bút Sứ thần Cao Ly mà mượn ý viết hay hơn ? Nhưng nếu ông Trạng Mạc đã "cóp" ý của Sứ thần Cao Ly, biết đâu Sứ thần Cao Ly lại không "mượn" ý của Phương Hiếu Nhi hay một người nào khác đã viết từ trước nên mới nhớ lại mà làm được nhanh như thế. Ngoài ra câu "Hồng lô nhất điểm tuyết" cũng hơi gò ép ở chỗ sao lại có tuyết trong "lò lửa đỏ", chẳng lẽ chỉ để đối với "trời xanh" ? b- Theo một số tài liệu khác thì bài văn tế ấy là của Dương Ức đời Tống khi đi sứ Bắc Liêu. Trong Kiến Văn Tiểu Lục (1777) , mục "Tùng đàm", Lê Quý Đôn (Bảng Nhãn khoa 1752) cho biết theo Thuyết Phu Tùng Thuyết thì Tiến sĩ Dương Ức đời Tống Chân Tông đi sứ phương Bắc (Bắc Liêu) được cử đọc bài kính tế Hoàng Hậu, song Chúc văn chỉ là một tờ giấy trắng không có một chữ nào. Dương phải tự nghĩ ra và đọc : Duy linh, Vu sơn nhất đóa vân, Lãng uyển nhất đoàn tuyết, Đào nguyên nhất chi hoa, Thu không nhất luân nguyệt. Khởi kỳ, Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết. Phục duy thượng hưởng. Dịch nghĩa : Kính nghĩ anh linh, như : Một đóa mây Vu sơn, Một khối tuyết Lãng uyển, Một cành hoa nguồn đào Một vầng trăng trời thu. Ngờ đâu : Mây tán, tuyết tiêu, hoa tàn, trăng khuyết. Kính xin hâm hưởng. Triều đình nhà Liêu rất khâm phục. Tống Chân Tông nghe chuyện này khen Dương có tài mẫn tiệp, làm rạng rỡ thể diện Trung quốc. Thế mà tục truyền việc ấy là của Nguyễn Đăng Cảo bản triều" (người huyện Tiên Du, tỉnh Bắc ninh, đỗ Tiến sĩ khoa Bính Tuất (1646) đời Lê Chân Tông) (10). Bài này tuy ý tựa như bản truyền tụng, nhưng lời lẽ, hình ảnh thì khác, đặc biệt câu thứ ba "Lãng uyển nhất đoàn tuyết" chứ không phải "Hồng lô nhất điểm tuyết", tuy vậy câu này đối với câu trước vẫn chỉnh vì câu trước không phải "Thanh thiên nhất đóa vân" mà là "Vu sơn..." "Vu sơn" đối với "Lãng uyển" rất chỉnh cho nên không cần phải gò ép tuyết vào lò lửa đỏ, không ai lại gắp tuyết bỏ vào lò lửa hay đặt lò lửa dưới tuyết. Tuyết ở trong vườn Lãng uyển hợp lý hơn trong lò lửa. Rất có thể là Mạc Đĩnh Chi đọc rộng, nhớ đến bài văn của Dương Ức và trong lúc cần phải ứng biến nhanh lại không nhớ rõ lời lẽ bài của Dương Ức, hoặc sợ phạm tội đọc một bài văn cũ nên đã "mượn" ý của Dương Ức nhưng chỉ mượn ý mà thôi. Kết luận là bài văn tế chắc của Dương Ức người đời Tống làm khi đi sứ Bắc Liêu. Nước Tống thưở ấy đã suy vi, hàng năm phải cống cho nước Liêu 10 vạn lạng bạc cùng là tơ lụa v.v... cho nên sứ thần nước Tống sang Liêu bị "chơi khăm" cũng có lý. Sở dĩ Chúc văn là tờ giấy trắng không có chữ nào có thể vì nước Liêu không dùng chữ Hán Tính theo thời điểm thì nhà Tống (966-1278) cầm quyền chính Trung quốc trước nhà Nguyên (1280-1341), vậy thì bài văn tế không thể do Mạc Đĩnh Chi nghĩ ra trước. Xét rằng nhiều sự nhầm lẫn đã xuất phát ngay từ sách sử Trung quốc nên ta có nhầm gán cho Mạc Đĩnh Chi hay Nguyễn Đăng Cảo cũng không lạ. Có điều Nguyễn Đăng Cảo sống thời Lê Trung Hưng thế kỷ 17 sao có thể đi sứ nhà Nguyên, thế kỷ 13, 14 ? Nhầm lẫn còn có thể "thông cảm" được nhưng chỉ e có những người "cố ý nhầm" nghĩ là gán ghép cho Mạc Đĩnh Chi sẽ khiến người ta khâm phục ông Trạng Mạc hơn, có biết đâu lại làm giảm giá trị của một ông Trạnh tài năng vốn có thừa không cần ai "tô son điểm phấn" thêm. Nguyễn Thị Chân Quỳnh Hà Nội, tháng 3- 2011 CHÚ THÍCH (1) - Trong Giai thoại làng Nho Lãng Nhân chép năm sinh của Mạc Đĩnh chi là 1280 nhưng nếu ông Mạc đỗ Tiến sĩ khoa 1304 khi chưa đầy 20 tuổi thì không thể là 1280 vì lúc ấy ông đã 24 tuổi. Vũ Phương Đề nói có thuyết cho ông Mạc sinh năm Giáp Thân (1284), tức là ông đỗ năm 20 tuổi chứ không phải dưới 20. (2)- Lệ xem dung mạo rồi mới cho đỗ không thấy chép ở đời Trần trong Khoa Mục Chí của Phan Huy Chú. Thời Lê, tới khoa 1496 mới chép lệ này :"Lệ cũ thi Đình không bị đánh hỏng. Khoa này thi Hội lấy 43 người Trúng cách nhưng sau khi xét dung mạo ở điện Kim Loan vua đánh hỏng 13 người. Nguyễn văn Huấn thi Hội đỗ thứ hai cũng bị xóa tên". "Ngọc tỉnh liên" : Hàn Dũ đời Đường có câu thơ "Thái hoa phong đầu ngọc tỉnh liên" = Trên đỉnh núi Thái hoa có thứ hoa sen mọc trong giếng ngọc" CDTK, tr 114. (3) - "Bộc xạ" là chức Á Tướng. Nhà Trần dùng Hành Khiển hay Thượng thư vào chức này. (4) - Lãng Nhân, tr 1. (5) - Công Dư Tiệp Ký, tập II, tr 111. (6) - CDTK tập II, tr 100. (7) - CDTK tập II, tr 112 : "Con trai Mạc Đĩnh Chi là Khản và Trực đều làm đến Viên ngoại. Cháu là Địch, Toại, Viễn muốn phục thù cho nhà Trần, khi Trương Phụ đem quân sang đánh nhà Hồ, đã đón đường đầu hàng để báo cáo tình hình họ Hồ lúc ấy đang tìm mọi cách để cố thủ. Trương Phụ dùng làm Hướng đạo quan (việc còn ghi rõ trong Bình-Giao Nam-Lục của Khâu văn Tráng). Vì có công lớn, nhà Minh phong cho Toại làm Tham Chánh, Địch làm Chỉ Huy Sứ, Viễn làm Diêm Thiết Sứ. Sau khi Toại mất, con cháu di cư vào vùng Ma Khê, huyện Thanh Hà, đời thứ ba lại di vào làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương rồi sinh ra Mạc Đăng Dung". (8) - CDTK tr 103-4 : Y Doãn làm tướng đánh diệt vua Kiệt nhà Hạ, giúp Thành Thang, sáng lập nhà Thương, dậy vua thái Giáp, con Thành Thang. Chu Công Đán giúp vua Vũ Vương và Thành Vương nhà Chu, dẹp nội loạn, sáp nhập hơn 50 nước nhỏ, sửa chính sự, trị nước theo đạo Nho, chế tác lễ nhạc... Bá Di, Thúc Tề là anh em ruột, con vua nước Cô Trúc. Khi Vũ Vương đánh vua Trụ, hai ông can không được. Vũ Vương diệt Trụ, lập nhà Chu, hai ông không thèm ăn thóc nhà Chu, nhịn đói chết ở núi Thú Dương. (9) - "Dụng chi tắc hành..." trích lời dậy của Khổng Tử trong Luận Ngữ. (10) - Lê văn Đình, tr 377-9. (11) - CDTK tập II, tr 108-9. (12) - Kiến Văn Tiểu Lục, tr 448. Bản của Lê văn Đình chép cũng giống bản của Lê Quý Đôn. SÁCH BÁO THAM KHẢO Đào Trinh Nhất, "Từ những câu đối Mạc Đĩnh Chi đến bài thơ Nguyễn Tân trước khi chết chém", Trung Bắc Chủ Nhật số 234, 31-12-1944. Lãng Nhân (Phùng Tất Đắc), Giai Thoại Làng Nho Toàn Tập. Saigon : Nam Chi Tùng Thư, 1966. Tái bản ở Mỹ. Lê văn Đỉnh, Giai thoại văn học đời Tống. Hà Nội : Văn Học, 1996. Lê Quý Đôn, Kiến Văn Tiểu Lục . Hà Nội : Khoa Học Xã Hội, 1977. Bản dịch của Phạm Trọng Điềm. Phan Huy Chú, Lịch Triều Hiến Chương, Khoa Mục Chí. Hà Nội : Văn Học, 1961. Tổ biên dịch : Viện Sử học Việt Nam. Vũ Phương Đề, Công Dư Tiệp Ký tập II. Dịch giả Tô Nam Nguyễn Đình Diệm. Saigon : Bộ Quốc Gia Giáp Dục, 1962.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 7:36:21 GMT 9
Các sách của phái đạo gia 1. Lão Tử Sách của phái Đạo gia, pho Lão Tử là nổi tiếng hơn hết. Tương truyền pho Lão Tử, là lúc Lão Tử vào nước Tần, khi qua cửa ải viết cho Quan Doãn 5 ngàn lời. Lão Tử họ Lý, tên Nhĩ, tự Đam, làm quan Thủ tàng thất sử cho nhà Châu, Khổng Tử qua nhà Châu xem sách, thường hỏi Lễ với ông. Lão Tử thường nêu mẫu mực cho Khổng Tử và Khổng Tử cũng thường khen Lão Tử. Sách Sử ký, phần Lão Tử truyện và Khổng Tử Thế Gia đều có ghi việc ấy. Theo các chứng cớ ấy thì dường như Lão Tử và Khổng Tử đồng thời, mà tuổi đời và đức của Lão Tử cao hơn Khổng Tử, như thế thì quyển Lão Tử phải ra đời trước quyển Luận Ngữ rất lâu...và mở đầu cho phong trào sáng tác tư nhân, và là người khai tổ cho Chư Tử. Nhưng Lão Tử chỉ là một tên gọi chung, và quyển Lão Tử được mọi người thích đọc chỉ là tác phẩm của một nhân vật truyền thuyết mà không phải là của Lão Lai Tử, của Thái sử Chiêm nhà Châu, hay là của Lý Nhĩ như phần trên đã nói. Về quyển Lão Tử thì không phải do Lão Tử viết mà do người thời Chiến Quốc gom góp những lời truyền tụng của phái Đạo gia, rồi cũng có trích ở các sách khác, góp lại mà thành. Quyển sách ấy ra đời sau pho Luận Ngữ rất xa, sau đây là phần lược khảo về pho Lão Tử. * Trong Hán Chí, phần Chư Tử lược, về phái Đạo gia, thì có quyển Lão Tử, có 4 quyển khác nhau : 1. Quyển Lão Tử Lân thị kinh truyện, 4 thiên, với lời chú : " Ông họ Lý, tên Nhĩ, Lân thị truyền học thuyết của ông ". 2. Quyển Lão Tử Phó thị kinh thuyết, 37 thiên, với lời chú : " Thuật học thuyết của Lão Tử, v.v... ". 3. Quyển Lão Tử Từ thị kinh thuyết, 6 thiên, với lời chú : Tự Thiếu Quí, người đất Lâm Hoài, truyền học thuyết Lão Tử. 4. Quyển " Thuyết Lão Tử " của Lưu Hướng, 4 thiên. Bốn quyển kể trên đều là bổn chú của Lão Tử, với những câu : " Kinh truyền... " hay " Kinh thuyết rằng ... " là vì trong thời kỳ đầu Tây Hán, Hoàng Lão rất được sùng thượng, suy tôn quyển Lão Tử là " Kinh "...cho nên gọi quyển Lão Tử là " Kinh "... để truyền thuật học thuyết. Sách của Lưu Hướng, sở dĩ không viết " Lão Tử nói... " là vì Lưu Hướng gốc là người phái Nho, mà lại nói về thuyết Lão Tử, thì có khác với các họ Lân, Phó và Từ đã kể trên. Ngày nay, còn được quyển Lão Tử 81 chương, phân làm 2 thiên thượng, hạ. Thượng thiên 37 chương, gọi là Đạo Kinh. Hạ thiên 44 chương gọi là Đức Kinh. Hợp chung gọi là Đạo Đức kinh. Đạo Tòng bản có quyển Đạo Đức chú tập giải của Đổng Tư Tịnh đời Tống, trong lời tựa có viết : Lưu Hướng định ra 2 thiên 81 chương, như thế thì khi Lưu Hướng hiệu đính đã phân ra thượng, hạ kinh, nhưng số chương trong các thiên lại không giống với bổn ngày nay. Lại có quyển Hỗn Ngươn thánh kỷ của Tạ Thủ Hạo đời Tống dẫn lời quyển Thất lược viết : " Lưu Hướng hiệu đính sách Lão Tử 2 thiên, sách Thái sử 1 thiên, và riêng sách của ông 2 thiên, tất cả 5 thiên, 143 chương, trừ những chỗ trùng 3 thiên gồm 62 chương, định ra làm 2 thiên và 81 chương : Thượng kinh đệ nhứt 37 chương, Hạ kinh đệ nhị 44 chương ". Như vậy Thượng, Hạ kinh và chương số giống với bổn còn hiện nay. * Sách Lão Tử, Thượng thiên, câu đầu viết : " Đạo khả đạo, phi thường đạo " và câu đầu Hạ thiên là : " Thượng đức bất đức, thị dĩ hữu đức ". Trong Đạo Đức kinh, dường như lấy chữ đầu trong 2 câu đầu 2 thiên để làm tên, như thế là tiêu đề không có nghĩa, vì chỉ dùng những chữ đầu trong các thiên ghép lại chớ không nêu nội dung quyển sách. Trong sách Sử ký, phần Bổn truyện chép : Lão Tử viết sách gồm Thượng, Hạ thiên, nói cái ý của Đạo, Đức " vì thế quyển sách mới gọi là Đạo Đức kinh, đó là cái ý của toàn thể quyển sách chớ không phải vì tên của 2 thiên đầu mà đặt ra. Sách Tùy Chí có viết : " Vương Bật chú Đạo Đức kinh 2 quyển. Triệu dĩ Đạo, trong lời bạt của quyển sách Vương Bật có viết : " Bật đề tên quyển sách là Đạo Đức kinh... " như thế thì Vương Bật đã đề tên cho quyển sách. Nhưng Vương Bật không đề tên 2 thiên là Đạo kinh và Đức kinh. Trong phần Lão Tử thích văn của quyển kinh điển thích văn Lục thị đã ghi là căn cứ theo bổn của Vương Bật, và trong quyển sách đã phân ra Đạo kinh và Đức kinh. Nhưng trong quyển sách, quyển thượng lại có tên là Âm nghĩa, với chữ đầu Đạo đức...rồi giải thích... Nếu đã phân thiên, thì phần Âm nghĩa ấy chỉ phải giải thích có chữ Đạo thôi. Do đó, tuy Vương Bật đã đề toàn bộ quyển sách là Đạo Đức kinh, nhưng thật ra chưa phân ra 2 thiên Đạo kinh và Đức kinh, tóm lại, sở dĩ quyển sách có tên là Đạo Đức kinh là vì quyển sách nói cái ý Đạo Đức. Đạo Đức là ý chính yếu của học phái Lão Tử, cho nên phái ấy cũng gọi là Đạo Đức gia, mà quyển sách của Lão Tử lại may mắn có 2 thiên, nên có kẻ mới phân đề ra làm Đạo kinh và Đức kinh, chớ không phải lúc ban đầu đã có phân đề rồi sau mới hợp lại thành Đạo Đức kinh. * Các sách của Chư Tử, lúc ban đầu, đa số đều không phải do chính tay người ấy viết ra. Sách Lão Tử là do người thời Chiến Quốc gom góp lại mà thành. Bằng chứng về lời nhận xét nầy có tất cả 6 điểm. 1. Luận Ngữ là do hậu học của Khổng Tử biên soạn, mỗi người đều có ghi riêng lời nói của thầy, và đến cuối đời Xuân Thu gom lại mà soạn. Lúc đầu thời Chiến Quốc, văn chương còn đơn giản chất phác, những chương không liền nhau. Văn trong quyển Lão Tử cũng đơn sơ chất phác, mỗi đoạn lại không liền nhau, giống như sách Luận Ngữ, nhưng Luận Ngữ thì viết theo thể văn ký ngôn, cho nên mỗi chương đều ghi tên người phát ngôn, còn sách Lão Tử thì chỉ là những đoạn cách ngôn, không phải thể văn ký ngôn, khác hẳn với Luận Ngữ. Đó là bằng chứng thứ nhứt. 2. Trong sách Luận Ngữ, chưa bao giờ có đề cập đến Lão Tử, Khổng Tử đã từng đến thọ giáo, hỏi về việc Lễ, với tinh thần khâm phục, tại sao lúc bình thường lại không nhắc đến Lão Tử một câu nào cả ? Trong các sách Mặc Tử và Mạnh Tử, cũng có những lời phê phán Lão Tử, trong sách Lão Tử cũng có những luận điệu phản đối Nho, Mặc, như thế là quyển Lão Tử đã viết sau các quyển Luận Ngữ, Mặc Tử và Mạnh Tử. Đó là bằng chứng thứ 2. 3. Sách Luận Ngữ không phải do một người biên soạn, cho nên thỉnh thoảng có những đoạn trùng nhau, trong quyển Lão Tử, những đoạn trùng lại càng nhiều hơn, như thế là không phải do một mình Lão Tử viết, không phải viết ra trong lúc ông đi ngang qua cửa ải. Đó là bằng chứng thứ 3. 4. Toàn bộ sách Luận Ngữ không có vần, trong Mạnh Tử tuy thỉnh thoảng có những đoạn vần, nhưng rất ít, nhưng trong sách Lão Tử thì lại rất nhiều, khác hẳn với sách Luận Ngữ, Mạnh Tử. Thiên Hồng Phạm trong kinh Thơ, các thiên Văn Ngôn, Hệ Từ trong kinh Dịch, những câu vần cũng rất nhiều, loại văn xuôi nghị luận mà xen có vần như trong sách Lão Tử không phải là loại văn của thời xưa, đây là bằng chứng thứ 4 rất dễ nhận. 5. Chương thứ 38 sách Lão Tử có viết : " Cho nên mất đạo mà sau đức, mất đức mà sau nhơn, mất nhơn mà sau nghĩa, mất nghĩa mà sau lễ...và lễ là cái bạc của trung tín, và cũng là mối đầu của loạn " và " người biết trước là cái văn vẽ bên ngoài của đạo và cũng là cái bắt đầu của điều ngu... ". Lập luận nầy rất đúng với sự diễn biến của đạo đức dưới thời Chiến Quốc qua các học phái của Lão Tử, Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, nếu Lão Tử là người của thời Xuân Thu thì làm sao có được lập luận như thế ? Đó là bằng chứng thứ 5. 6. Những câu trong Lão Tử, thấy rất nhiều trong sách Trang Tử, và cũng có những câu của Pháp gia, Binh gia, Tung Hoàng gia, rõ ràng đây là một pho sách gom góp. Đó là bằng chứng thứ 6. * Căn cứ theo 6 bằng chứng kể trên, chúng ta có thể quả quyết rằng pho Lão Tử không phải do một người viết trong một thời gian nào đó, mà do một số người trong thời Chiến Quốc gom góp những câu hay truyền tụng trong phái Đạo gia [vì những câu có vần trong pho sách là những câu như cách ngôn dễ nhớ, dễ đọc, dễ truyền tụng trong dân chúng], rồi cũng có những câu hay trích lục từ trong các sách khác, rồi gán cho Lão Tử. Dưới thời Hán sơn, vua chúa, hoàng hậu và đại thần rất say mê quyển Lão Tử vì thế mới tôn là " Kinh " rồi học giả lại a dua theo biến quyển sách thành tác phẩm của Chư Tử và được tôn lên hàng đầu. * Bổn chú của Lão Tử, bổn xưa nhứt, bây giờ còn là quyển Lão Tử chú của Hà thượng Công. Sách Tùy chí có viết : " Lão Tử Đạo Đức Kinh 2 quyển, dưới thời Hán văn Đế, Hà thượng Công chú ... ". Sách Sử ký, phần Nhạc nghị truyện có viết : " Nhạc thần chuyên tâm học Hoàng Đế, Lão Tử, Bổn sư là Hà thượng trượng nhơn nhưng không biết ông là người từ đâu đến...Hà thượng trượng nhơn dạy An kỳ Sanh, An kỳ Sanh dạy Mao hấp Ông, Mao hấp Ông dạy Nhạc hà Công, Nhạc hà Công dạy Nhạc thần Công, Nhạc thần, Công dạy Cái Sanh, Cái Sanh dạy Cao mật Tây, Cao mật Tây làm quốc sư cho Tào tướng ". Tào tướng quốc là Tào Tham, dường như từ Hà thượng trượng nhơn đến Tào Tham, việc truyền thọ rất phân minh, bảy lần truyền mà đến đời Hán sơ, như thế thì Hà thượng trượng nhơn là người thời Chiến Quốc. Kinh điển Thích văn tự lục có viết : " Hà thượng Công viết sách Chương cú 4 quyển, vua Văn Đế triệu, không đến, Văn Đế liền đến trách ông. Hà thượng Công liền nhảy lên không trung, Văn Đế nghiêm chỉnh tạ lỗi, ông liền trao cho Văn Đế quyển Lão Tử chương cú gồm 4 quyển. Sách Thuyết văn đã dẫn lời trong quyển Lão Tử tự quyết, và Lão Tử tự quyết chép ở Đạo Tòng Bản, Đạo Đức chơn kinh tứ gia tập chú, tương truyền quyển nầy do Cát Hồng hay Cát Huyền soạn, cho nên chuyện thần thoại Hà thượng Công hợp với truyện thần tiên của Cát Hồng... Hà thượng trượng nhơn dưới thời Chiến Quốc, tức là Hà thượng Công thời Hán Văn Đế. Trong sách Tùy chí có nói đến quyển Lão Tử chú, tức là bản Lão Tử còn đến ngày nay, và nếu như Hà thượng Công đã trao cho Văn Đế bản Lão Tử chú ấy, thì tự nhiên ông phải cất giữ kỹ trong cung cấm, tại sao lúc Lưu Hướng hiệu đính các sách cho vua lại không có quyển sách ấy ? Và luôn cả sách Thất lược, Hán Chí cũng không thấy ghi vào ? Hơn nữa sự tích và hành động của Hà thượng Công lại quá lờ mờ, không có gì rõ rệt, rõ ràng, đó chỉ là lời thêu dệt của bọn phương sĩ mà thôi. Vì thế mà Lưu Tri Cơ sau nầy chỉ đề cập đến quyển Lão Tử với lời chú của Vương Bật, chớ hề nhắc đến quyển chú của Hà thượng Công. Trong Thích Văn tự lục mặc dù đã ghi chuyện Hà thượng Công, nhưng đến phần Lão Tử thích văn cũng chỉ căn cứ đến quyển chú của Vương Bật mà thôi. * Về chú bổn quyển Lão Tử, chỉ có quyển của Vương Bật là đáng chú ý hơn hết. Vương Bật là người nước Ngụy, rất giỏi về truyền ngôn, lại tinh thông Dịch lý, cho nên có thể bài bác những lời hoang đường của bọn phương sĩ tìm hiểu được chỗ tinh vi, huyền diệu của pho Lão Tử. Sách Lưu Đường chí có ghi quyển Huyền ngôn tân kỷ đạo đức 2 quyển, đó chỉ là tập chú Đạo Đức kinh của Vương Bật. Sách Tân Đường chí lại cho rằng đó là quyển sách do Vương Túc soạn chớ không phải quyển chú của Vương Bật. Dưới thời nhà Minh có Tiêu Hoằng viết quyển Lão Tử dực, tập trung tất cả tài liệu của Hàn Phi trong các thiên Giải Lão, Dụ Lão cho đến các tập chú Lão Tử khác, cọng tất cả tài liệu của 64 người. Quyển nầy tài liệu tham khảo rộng rãi, đầy đủ, việc lựa chọn cũng chính xác, tinh vi, phương pháp biên soạn phỏng theo Lý Đảnh Tộ trong Châu Dịch tường giải, nên đây là một quyển đáng chú ý. Ngoài ra cũng còn quyển Lão Tử thuyết lược của Trương Nhĩ Kỳ đời Thanh, Nhĩ Kỳ là người chuyên môn về cổ học rất đáng tin cậy, kế đó là quyển Lão Tử của Mã Di Sơ...tiếp theo lại còn rất nhiều bản chú khác không sao kể cho hết được. 2. Sách Trang Tử. Dưới thời nhà Hán, nói đến Đạo gia là đề cập đến Hoàng Lão mà không nói đến Lão Trang. Đối với quyển Lão Tử, sách Hán Chí cho là " Kinh ", còn sách Trang Tử thì không được trích lục những chú bổn, là vì lúc đó Trang Tử chưa được các học giả tôn trọng. Học thuyết của Trang Tử được trọng là bắt đầu từ thời Ngụy, Tấn và được sắp chung với kinh Dịch và Lão Tử, gọi là " Tam huyền " và cũng từ đó mới được gọi chung là Lão Trang. Trang Tử được tôn lên làm " Kinh " là bắt đầu từ thời Đường Huyền Tôn, sách Tân Đường Chí có viết : " Đầu năm Thiên Bảo, hạ chiếu gọi quyển Trang Tử là Nam Hoa chơn kinh ". Trong quyển " Viên Thuần Đường bút ký " của Diêu Phạm có viết : Tên Nam Hoa không hiểu xuất phát từ đâu... Sách Tùy Chí có nhắc đến các quyển Nam Hoa Luận, Nam Hoa Luận Âm của Lương Khoáng...và gọi Trang Tử là Nam Hoa chơn nhơn, quyển Trang Tử là Nam Hoa chơn kinh, từ đời Đường Khai Nguyên năm thứ 25, như thế thì tên Nam Hoa, trước đời nhà Đường đã có rồi. Đường Huyền Tôn tôn sùng Trang Tử với một lý do không đâu, và sách Trang Tử liền thành một quyển sách quan trọng trong phái Đạo gia, giá trị còn hơn quyển Lão Tử. Sau đây, xin lược khảo về quyển Trang Tử : Trong Hán Chí, phần Chư Tử lược, phái Đạo gia, có quyển Trang Tử 52 thiên, nhưng quyển Trang Tử ngày nay có 33 thiên, so với Hán Chí thì ít hơn 19 thiên, như thế thì quyển sách còn ngày nay là bổn đã bị mất mát. 33 thiên trong sách Trang Tử kể ra như sau : Nội thiên gồm 7 thiên : Tiêu diêu Du, Tề vật Luận, Dưỡng sanh Chủ, Nhơn gian Thế, Đức sung Phù, Đại tôn Sư, Ứng đế Vương. Ngoại thiên gồm 15 thiên : Biền Mẫu, Mã Đề, Khư Kịp, Tại Hựu, Thiên địa, Thiên đạo, Thiên vận, Khắc ý, Thiện tánh, Thu thủy, Chí lạc, Đạt sanh, Sơn Mộc, Điền tử Phương, Tư Bắc Du. Tạp thiên gồm 11 thiên : Canh tang Sở, Từ vô Quỉ, Đạo Chích, Thuyết kiếm, Ngư phù, Liệt ngự khấu, Thiên hạ. Trong Nội thiên, các thiên đều có tiêu đề có nghĩa, còn trong Ngoại thiên và Tạp thiên, thì dường như hầu hết các tiêu đề đều không có ý nghĩa. Về 19 thiên bị mất, thì không rõ mất vào lúc nào, theo sách Kinh điển thích văn tự lục có ghi, thì dưới thời Tấn, có 5 nhà chú thích quyển Trang Tử, nhưng số thiên của mỗi quyển lại nhiều ít khác nhau. Sau đây là mấy quyển ấy : 1. Bản chú của Tư Mã Bưu 21 quyển, 52 thiên, Nội thiên gồm 7 thiên, Ngoại thiên 28 thiên, Tạp thiên 14 thiên, Giải Thuyết 3 thiên, nhưng sách đã bị mất. 2. Bản chú của Mạnh Thị 18 quyển, 52 thiên, không biết có chia làm Nội, Ngoại, Tạp thiên hay không, sách Thích văn không có ghi. Bản nầy cũng bị mất. 3. Bản chú của Thôi Soạn, 10 quyển, 27 thiên, Nội thiên 7 thiên và Ngoại thiên 20 thiên. Quyển nầy đã mất. 4. Bản chú của Quách Tượng : 33 quyển, 33 thiên, Nội thiên 7 thiên, Ngoại thiên 15 thiên, Tạp thiên 11 thiên, Âm : 1. Bản nầy hiện nay còn nhưng sửa lại làm 10 quyển. Trên đây là bản chú của 5 người, 2 bản của Tư Mã và Mạnh Thị thì số thiên đồng với Hán Chí. Ba bản của Thôi, Hướng, Quách thì số thiên lại ít hơn. Xét ra, cũng đồng một thời nhà Tấn tại sao lại có bản bị mất đi đến một phần ba số thiên ? Hai bản chú của Thôi và Hướng đã bị mất, nhưng tìm hiểu kỹ bản của họ Quách hiện nay còn, so sánh với bản khác, thì dưới thời nhà Tấn, các nhà chú thích có cắt xén và gom lại nên mới còn ít thiên. Sách Thích văn tự lục có viết : Trang Tử tài rộng, dạy đời lời nói thâm thúy, thú vị, nói ngay mà như ngược, cho nên khó có ai thông được...người đời sau thêm bớt làm cho mất lần lần cái chân chính của ông, cho nên Quách Tử Huyền có nói : " Có những người đa sự thêm bớt, làm cho có những thiên bị mất bản sắc cũ đến 3 phần 10 ". Sách Hán thơ Nghệ văn chí, ghi quyển Trang Tử 52 thiên, tức là bản chú của Tư Mã Bưu và Mạnh Thị. Lời chú của ông hoang đường, hoặc giống như Sơn Hải Kinh, hoặc giống như sách bói, mộng... Chỉ có bản chú của Tử Huyền và Quách Tượng chiếm đến 3 phần 10 quyển sách, chỗ nào nghi ngờ là do kẻ đời sau thêm vào, không đúng với ý của Trang Tử, là Quách Tượng cắt bỏ để giữ cho đúng ý, y như sách Triệu Kỳ đã chú sách Mạnh Tử, cắt bỏ 4 thiên ngoại thơ, thành ra bị mất luôn. Sách Bắc Tề thơ, phần Đỗ Bật truyện, có viết : Bật đã từng chú thích thiên Huệ Thi sách Trang Tử. Có lẽ bổn Trang Tử ngày nay nửa phần sau từ chỗ " Huệ Thi đa phương " trở về sau, trước kia là 1 thiên riêng, mà những nhà chú thích gom lại thành 1 thiên vì thế mới có thuyết là quyển Trang Tử ngày nay ít thiên hơn là do lý do ấy. Những đoạn bị mất trong sách Trang Tử, có chỗ còn thấy trong sách Liệt Tử và Hoài Nam Tử, tuy chưa tìm hiểu được những đoạn ấy thuộc về thiên nào, nhưng biết chắc đó là những đoạn bị các nhà chú thích bỏ bớt. Nội thiên sách Trang Tử, các bản chú thích đều giống nhau là 7 thiên, như thế là các đoạn cắt bỏ thuộc về Ngoại thiên và Tạp thiên. Nhưng trong phần Nội thiên cũng có những chỗ bị cắt xén hay thay đổi vị trí, quyển Trang Tử ngày nay còn chẳng những số thiên đã ít mà các câu có nhiều đoạn cũng khác với bản cũ. Vì thế, chúng ta có thể suy đoán, trong số 52 thiên của sách Trang Tử trước kia, nội dung rất bao la, tạp nhạp, và sách ấy không phải do chính Trang Tử viết, mà chỉ do những người hậu học Trang Tử biên soạn, gom góp và việc biên soạn cũng không phải trong một thời gian nhứt định, một lần mà xong, có nhiều người, nhiều lần đã viết thêm vô. Bản Trang Tử 33 thiên còn lại ngày nay tự nhiên là đã mất mát rất nhiều, và đại bộ phận đã được các nhà chú thích Thôi Soạn, Hưóng Tú, Quách Tượng thêm bớt sửa chữa nhiều lần. Năm bản chú thích của đời Tấn đã kể trên, bây giờ chỉ còn có một bổn của Quách Tượng, như thế thì " chân diện mục " trước kia của pho Trang Tử như thế nào, chúng ta không có cách gì để biết được cả. * Bản chú thích sách Trang Tử còn cho đến ngày nay, bản của Quách Tượng là xưa hơn hết. Bản Quách Tượng tương truyền là đã cóp theo bản Trang Tử của Hướng Tú. Vụ án đạo văn nầy bắt dầu từ thiên Văn học trong pho Thế thuyết tân ngữ. Trong thiên Văn học của pho sách trên có chép Hướng Tú chú thích pho Trang Tử chỉ đến 2 thiên Thu Thủy và Chí Lạc, nhưng chưa xong là qua đời. Phía dưới lại viết tiếp : " Con của Hướng Tú còn nhỏ nhưng lại giữ được 1 bổn chú của cha. Quách Tượng là người kém hạnh thấy bản chú của Hướng Tú chưa lưu hành, liền lấy làm của mình, còn những thiên khác Hướng Tú chưa chú thích thì Quách Tượng chỉ định văn và chấm câu mà thôi. Sau đó quyển chú của Hướng Tú được lưu hành, cho nên ngày nay có 2 bản của Hướng Tú và Quách Tượng, tuy là 2 bản, nhưng lại giống nhau. Sách Tấn thơ trích Quách Tượng truyện, và Tiền Tăng trong quyển " Đọc thơ mẫn cầu ký " có viết : " Tôi đọc sách Thích văn của họ Lục, có dẫn lời chú của Hướng Tú nhiều chỗ, như thế là Hướng Tú có một quyển chú Trang Tử lưu hành, thời đại cách nhau quá xa, lời nói truyền nhau có khi bị sai lạc, những lời trong sách Tấn thơ đã nói, cũng chưa chắc là đúng... ". Đó là những lời biện bạch, minh oan cho Quách Tượng. Trong phần Thơ mục đề yếu của sách Tứ Khố Toàn Thơ có viết : " Về bản chú của Hướng Tú, Trần Chấn Tôn cho biết đến đời nhà Tống đã bị mất, nhưng còn thấy rải rác những đoạn trong sách Thích Văn của họ Lục. Đem những đoạn ấy so sánh, như câu " Hữu bồng chi tâm " trong thiên Tiêu diêu Du...thì thấy 2 bản đều khác nhau, như câu : " Thánh nhơn bất tử, đại đạo bất chỉ " trong thiên Khư Kịp, hai bên cũng không giống...ngoài ra cũng còn nhiều đoạn không giống nhau. Trương Trạm trong bản Liệt Tử chú, có những đoạn giống Trang Tử, và cũng có dẫn lời của Hướng Tú và Quách tượng v.v... Theo sách Thế Thuyết Tân Ngữ thì Hướng Tú chú 2 thiên Thu Thủy và Chí Lạc mà chưa xong rồi chết, nếu Quách Tượng có " cóp " theo thì cũng chỉ một đoạn ngắn ấy thôi, chớ không phải toàn bộ quyển sách. Tiêu Hoằng cũng có pho Trang Tử dực, cũng gom góp những lời chú của người trước, từ Quách Tượng trở đi, tổng cộng có lối 22 người, có thể nói đây là pho tập chú rộng rãi và đầy đủ. Rồi phần sau lại thêm phần Trang Tử khuyết ngộ gom góp những chỗ sai biệt từ pho Nam Hoa kinh giải của Lục Cảnh Ngươn đời Tống đến các tài liệu trong Sử ký, sách Trang Tử luận của Nguyễn Tịch, Vương An Thạch, sách Trang Tử từ đường ký của Tô Thức v.v... tóm lại, hầu hết sách của các học giả về Trang Tử, ông đều có đọc và trích lục đầy đủ. Về những pho Trang Tử chú bổn, dưới đời Thanh có pho Trang Tử tập giải của Quách Khánh Phiên, chú thích rõ ràng, bản Trang Tử tập giải của Vương Tiên Khiêm rất giản dị dễ đọc, bản Trang Tử nghĩa chứng của Mã Di Sơ vừa rộng mà lại vừa dễ tóm lược, bản của Mã Di Sơ gồm được những sở trường của Quách Khánh Phiên và Vương Tiên Khiêm, rất đáng cho đọc giả chú ý. 3. Sách Quản Tử và Thái Công. Sách Đạo gia bây giờ còn lại rất nhiều, nhưng sách nên đọc ngoài Lão Tử, Trang Tử, thì chỉ có Quản Tử. Còn như sách Thái Công không phải là loại sách dưới thời Châu Tần, đọc cũng không có ích lợi gì bao nhiêu. Các nhà học giả, đề cập đến phái Đạo gia, thường thường chỉ nhắc đến Lão Tử, Trang Tử và Quản Tử, Lão Trang, đoạn trước đã lược qua, bây giờ xin tìm hiểu đến sách Quản Tử. * Sách Hán Chí, phần Đạo gia có Quản Tử 86 thiên, với lời chú : Tên Di Ngô, làm tướng cho Hoàn Công, 9 lần hợp chư hầu, không dùng đến binh xa, có Liệt truyện trong Sử ký. Bản Quản Tử hiện nay, phía trước có phần Tự Lục của Lưu Hướng viết : Khi hiệu đính sách Quản Tử, có 389 thiên, sách Đại trung, đại phu Bốc Khuê 27 thiên, sách của Phú Tham 41 thiên, sách của Tạ Trung Hiệu Úy Lập 11 thiên, sách của Thái sử 96 thiên, tất cả sách trong ngoài là 564 thiên. Sau khi hiệu đính, bớt những phần trùng 484 thiên, định còn lại 86 thiên, như thế là bản hiệu đính của Lưu Hướng có 86 thiên. Trong sách Sử ký, chép Quản Án liệt truyện có viết : " Quản Tử đã bị mất 10 thiên, 10 thiên đó là Mưu thất, Chánh ngôn, Phong thiện, Ngôn chiếu, Tu thân, Vấn bá, Mục dân giải, Vấn thừa mã, Khinh trọng (bính), Khinh trọng (canh). Nghiêm Khả Quân trong quyển Thiết kiều mạn cảo cũng có viết : Dưới thời Lương, Tùy đã mất 10 thiên. Dưới thời nhà Tống lại mất thêm Vương Ngôn, cho nên bản Quản Tử ngày nay, 11 thiên ấy có tên mà không có bài. Trong sách Tứ khố toàn thơ có ghi : Quản Tử 24 quyển, 86 thiên, trong phần Pháp gia tức là bổn Quản Tử còn hiện nay. 24 quyển với các thiên chép ra sau : Quyển 1 : các thiên : Mục dân, Hình thế, Quyền tu, Lập chánh, Thừa mã. Quyển 2 : Thất pháp, Bản pháp. Quyển 3 : Ấu quan,Ấu quan đồ, Ngũ phụ. Quyển 4 : Trụ hợp, Xu ngôn. Quyển 5 : Bát quang, Pháp cấm, Trọng lịnh. Quyển 6 : Pháp pháp, Binh pháp. Quyển 7 : Đại khuôn. Quyển 8 : Trung khuôn, Tiểu khuôn, Vương ngôn. Quyển 9 : Bá linh, Bá ngôn, Vấn, Mưu thất. Quyển 10 : Giới, Địa đồ, Tham hoạn, Chế phân, Quân thần [thượng]. Quyển 11 : Quân thần [hạ], Tiểu xưng, Tứ xưng, Chánh ngôn. Quyển 12 : Xí mị. Quyển 13 : Tâm thuật [thượng], Tâm thuật [hạ], Bạch tâm. Quyển 14 : Thủy địa, Tứ thời, Ngũ hành. Quyển 15 : Thế, Chánh, Cửu biến, Nhiệm tánh, Minh pháp, Chánh thế, Trị quốc. Quyển 16 : Nội nghiệp, Phong thiện, Tiểu vấn. Quyển 17 : Thất thần, Thất chủ, Cấm tàng. Quyển 18 : Nhơn quốc, Cửu thủ, Hoàn công Vấn, Đạt địa. Quyển 19 : Địa viên, Đệ tử chức, Ngôn chiếu, Tu thân, Vấn bá, Mục dân giải. Quyển 20 : Hình thế giải. Quyển 21 : Lập chánh cửu bại giải, Bản pháp giải, Minh pháp giải, Mục thừa mã, Thừa mã số, Vấn thừa mã. Quyển 22 : Sự ngữ, Hải vương, Quốc súc, Sơn quốc quỷ, Sơn quyền số, Sơn chí số. Quyển 23 : Địa số, Quì độ, Quốc chuẩn, Khinh trọng [giáp] Quyển 24 : Khinh trọng [ất], Khinh trọng [binh], Khinh trọng [đinh], Khinh trọng [mậu], Khinh trọng [kỷ], Khinh trọng [canh]. Trở lên tất cả 86 thiên, trừ 11 thiên bị mất, chỉ còn 75 thiên.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 12, 2011 7:38:23 GMT 9
Quản Trọng làm tướng cho Hoàn Công, làm Bá chư hầu, công nghiệp thật to lớn, còn hơn cả Án Anh, người nước Tề khen ông ngợi ông mãi mãi...cho nên quyển sách của ông như quyển Án Tử là chỉ do người đời sau gom góp lại mà thành, và quyển sách ra đời rất xa thời Chiến Quốc trở về sau.
Quản Trọng mất trước vua Hoàn Công, mà trong sách nhắc đến Hoàn Công, chỉ dùng tên thụy, trong thiên Tiểu Vấn, nhắc chuyện Tần Mục Công phong tướng Bá Lý Hề cũng cách sau Hoàn Công rất xa.
Thiên Tiểu xưng khen Mao Tường, Tây Thi, là mỹ nhân trong thiên hạ cũng là người cuối đời Xuân Thu. Thiên Khinh trọng [giáp] nhắc nước Lương, nước Triệu ; thiên " tuất " thì nhắc đến Triệu Đại, như thế pho sách chẳng những ra đời sau khi Tam gia phân chia nước Tấn, mà cũng sau thời gian nước Ngụy dời qua Đại Lương, và sau khi nước Triệu đến đời Đại Vương.
Lời chú nầy nông cạn, nhiều chỗ sai lầm, xem không có lợi ích gì.
Dưới thời nhà Minh có Quản Tử bổ chú của Lưu Tích khá hơn. Dưới thời nhà Thanh có bản Quản Tử nghĩa chứng của Hồng Di Tuyên, bản Quản Tử hiệu đính của Đái Vọng, tất cả đều là những bản có giá trị.
*
Trong sách Tử Lược, Cao Tợ Tôn có viết : " Sách của Chư Tử bắt đầu từ Bật Hùng, trong sách " Chư Tử biện ", Tống Liêm cũng viết : " Bật Tử là pho sách đầu của Chư Tử ".
Xét theo Hán chí, có ghi chép những sách của Đạo gia, trước Quản Tử có Y Doãn, Tân Giáp, Thái Công, Bật Nhiên, Cao Tống, như thế thì thuyết của 2 người kề trên đã sai.
Hiện nay sách của Y Doãn, Tân Giáp đã mất, còn sách của Thái Công, Bật Nhiên cho đến bây giờ vẫn còn.
Thái Công và Bật Nhiên là người đồng thời nhưng tuổi tác lại cách biệt nhau nhiều.
Sau đây là phần lược khảo về tác phẩm của 2 người.
Sách Thái Công
Sách Hán chí, phần Đạo gia, có sách Thái Công 237 thiên, phần Mưu có 81 thiên, Ngôn 71 thiên, Binh 85 thiên, lời chú như sau : Lã Vọng làm chức Thượng phu, cầm binh nhà Châu, người gốc có Đạo, hoặc gần đây, có kẻ làm Thái Công Thuật để thêm vào quyển sách...
Tiền Đại Chiêu có viết : " Mưu, Ngôn, Binh là tóm ý trong 237 thiên sách và cũng như là tổng danh của quyển sách ".
Trầm Khâm Hàn cũng có viết : " Mưu, tức là " Mưu lược " của Thái Công, Ngôn, tức là Kim quỉ của Thái Công, lời hay ghi lên bảng vàng, Binh tức Thái Công binh pháp ".
Trong Chiến Quốc sách, thiên Tần sách có viết : " Tô Tần, ban đêm dở sách, tìm được mưu Âm phù của Thái Công ".
Sách Quần thơ tự yếu, sau phần Lục thao, có chép mấy việc về mưu lược của Thái Công, đó tức là " Mưu " trong 237 thiên của sách Thái Công.
Sách Sử ký, phần Tề thế gia viết : " Văn Vương với Lữ Thượng bàn mưu, tu đức để lật đổ nền chánh trị nhà Thương, dùng binh quyền và những kế kỳ lạ...đời sau nói về việc binh và mưu chước của nhà Châu, đều tôn Thái Công ".
Nhà Châu, từ đời Thái Vương đã bắt đầu đánh nhà Thương, Thái Công giúp Văn Vương, Võ Vương hoàn thành việc phạt Trụ thay thế công nghiệp nhà Thương, những lời trần thuyết của ông gọi là " Ngôn ", những sách lược kế hoạch đặt ra gọi là " Mưu ", lúc đi phạt Trụ, hành quân gọi là " Binh ".
Công nghiệp của Thái Công với nhà Châu thật là to lớn, và hậu thế còn nhắc mãi. Kẻ sĩ thời Chiến Quốc, thích mượn danh người xưa trong những học thuyết mới định cải tạo chế độ, vì thế kẻ háo sự mới gom góp những tài liệu truyền thuyết, những lời nói của Thái Công, rồi lại thêm vào những quyển mưu của Tô Tần, Trương Nghi, những loại lập luận như Tôn Ngô binh pháp để thêm vô cho thành 237 thiên sách như ngày nay.
Thế nên sách Thái Công là sách của hậu thế viết ra mượn danh ông, chớ đó không phải là tác phẩm của thời Châu sơ, và nhứt là không phải chính do Thái Công đã viết ra.
Sách Tùy Chí có Thái Công Âm mưu 1 quyển, Thái Công Âm phù kiềm lục 1 quyển, Thái Công Phục phù Âm dương 1 quyển.
Sách Cựu Đường chí có Thái Công Âm mưu 3 quyển, Thái Công Âm mưu tam thập lục dụng 1 quyển, đó là những sách thuộc về loại " Mưu ".
Sách Tùy chí có Thái Công kim quỷ 2 quyển, còn Cựu Đường chí thì lại ghi 3 quyển, đó là thuộc loại " Ngôn ".
Sách Tùy chí Thái Công binh pháp 2 quyển, đó thuộc về loại " Binh ".
Như thế là từ đời nhà Đường đến lúc Tống sơ, sách của Thái Công còn lưu truyền.
Sách Thông khảo chỉ chép có quyển Lục thao, trong Tứ khố toàn thơ cũng có quyển sách nầy. Trong phần Binh gia, hiện nay còn quyển Lục thao, tức là Văn thao, Võ thao, Hổ thao, Báo thao, Long thao và Khuyển thao.
Theo bản sách ngày nay thì Long thao được sắp trước Hổ Thao, dường như trong sách Thái Công 237 thiên, phần Binh là 1 bộ phận gồm 85 thiên.
Sách Thông khảo có ghi sách " Cải chánh Lục thao " gồm 4 quyển đó là bổn sách san định dưới đời Tống Ngươn Phong. Bổn Lục thao hiện nay còn, trong có phần Tị Chánh điện v.v...
Sách Lục thao, đọc qua đã thấy rõ là giọng văn của thời Tần Hán, vì dưới thời Thái Công, thuộc nhà Châu, chưa có giọng văn tiến bộ như thế.
Sách Lục thao, thiên Âm phù có viết : " Chủ và tướng có Âm phù, phàm có 8 đẳng : Phù khắc địch dài 1 thước, phù phá quân dài 9 tấc, phù thất lợi dài 3 tấc mà thôi v.v... " như thế là lầm lẫn Âm phù với cờ phù tiết, bùa chú, thật đáng buồn cười.
Sách Châu thị thiệp bút có viết : " Quyển sách bắt nguồn từ Ngô Khởi, góp nhặt những lời của người xưa rồi thêm vào những lý luận quân sự, chánh trị của thời nay, thật là nông cạn không có chỗ nào dùng được cả... "
Tóm lại, sách Lục thao nội dung nông cạn, lời lẽ quê mùa, rõ ràng là pho ngụy thơ, chẳng những không phải của Thái Công viết, mà cũng không phải của người có học thời Tần Hán viết ra mượn tên người xưa để luận về việc binh, mà đó chỉ là một pho sách tạp nhạp, đọc không có ích gì cả.
Sách Bật Tử
Sách Hán chí phần Đạo gia, có Bật Tử 22 thiên, với lời chú : Ông tên Hùng, làm sư phó cho nhà Châu, từ Văn Vương trở xuống, ai ai cũng học.
Nhà Châu phong làm tổ nước Sở. Huân nghiệp của Bật Hùng không bằng Thái Công, và đó là một danh thần thời Châu sơ, thì tất nhiên sách của ông cũng do kẻ háo sự thời Chiến Quốc gom góp thêm bớt mà ra, y như quyển sách Thái Công còn cho đến ngày nay, và cũng không phải là quyển sách trong Hán chí đã ghi, nhứt là nhận xét về lời văn và cách lập luận, thấy rõ ràng không phải thuộc thời Châu Tần mà là thời Chiến Quốc trở về sau, vì thế nên nhiều nhà học giả đã đồng ý đó là pho sách ngụy tạo do người thời Lục triều viết ra, còn pho sách trong Hán chí có ghi thì đã bị mất từ lâu.
4. Các sách Văn Tử, Quan Doãn Tử, Liệt Tử và Hạc Quan Tử . Trong sách Hán chí, phần Đạo gia, sau Lão Tử, lại có Văn Tử 9 thiên, với lời chú : " là đệ tử của Lão Tử, đồng thời với Khổng Tử, và tự xưng là Châu Bình Vương đã học với ông ". Sách Tùy chí có ghi Văn Tử gồm 12 quyển, với lời chú : " Trong sách Thất lược ghi có 9 thiên, sách Thất lục đời Lương ghi 10 quyển nhưng đã mất ".
Theo tài liệu trên như thế thì sách Văn Tử đã mất rồi lại xuất hiện, nhưng số thiên, hay số quyển lại nhiều hơn trước. Tại sao vậy ? Bản sách còn cho đến ngày nay gồm 12 quyển, trong số có mấy thiên : Đạo nguyên, Thập thủ, Đạo đức, Thượng nhơn, Thượng lễ bị mất mát nhiều, còn lại 7 thiên thì đầy đủ.
Về tiểu sử của Văn Tử, phần trên đã có khảo cứu qua, và quyển sách của ông cũng do kẻ háo sự thời Chiến Quốc biên soạn rồi gán cho ông.
Bản sách ngày nay còn cũng không phải là bản của thời Chiến Quốc đã bị mất mà chỉ là quyển ngụy tạo dưới thời Lục triều, cho nên tạp nhạp không thể đọc được.
Liễu Tôn Ngươn trong thiên Biện Văn Tử có viết : " Ý của ông là gốc ở Lão Tử, nhưng tìm hiểu kỹ quyển sách thì đó là quyển sách lộn xộn, rất ít chỗ có tinh ý, mà lấy ý sách khác ghép vô thì nhiều, như sách của Mạnh Tử và nhiều nhà khác đều thấy được trích đem vô, nhìn qua là thấy ngay, rồi cách dùng ý, dùng văn cũng thấy không thuần nhứt, như thế rõ ràng là có người đã thêm vào hay cũng có thể đó là quyển sách góp của nhiều người... ".
Như thế bổn sách mà Liễu Tôn Ngươn có đọc cũng đã tạp nhạp rồi.
Trong sách Chư Tử biện, Tống Liêm đã viết : " Tôi thường đọc tìm hiểu sách Văn Tử, thì thấy noi theo Lão Đam, đại khái như là giảng nghĩa Đạo Đức kinh, nhưng lời nói của Lão Tử bao la, rộng rãi, còn quyển Văn Tử thì lộn xộn, có Hoàng Lão, có Danh gia, Pháp gia, Nho gia, Mặc gia...nên cho là lộn xộn rất đúng. "
Trong pho Tử bộ chánh ngụy, Hồ Ngươn thoại đã viết : " Liễu Tôn Ngươn cho rằng pho sách tạp nhạp, như thế là đúng. "
Trong pho " Đáo Hán vi ngôn " Chương Binh Lân đã viết : " Pho Văn Tử ngày nay, phân nửa là viết theo Hoài Nam Tử, còn những chỗ dẫn lời Lão Tử, đều là những thuyết quái dị, rõ ràng là một pho sách góp nhưng lại mượn danh Văn Tử. ".
Giang Tuyền cho rằng pho sách ấy của Văn Chủng viết và tôn sùng như pho Lão Tử, đó là một sai lầm rất lớn.
Bản Văn Tử ngày nay còn lại là bản chú của Từ Linh Phủ người đời Đường, một đạo sĩ đời Nam Tống, Đỗ Đạo Kiên có chú bản Văn Tử, tài liệu khá rộng, lời chú hay, tuy sách ngụy tạo, nhưng lời chú lại có giá trị.
*
Sách Quan Doãn Tử
Sách Hán chí có ghi Quan Doãn Tử 9 thiên với lời chú : " Tên là Hỉ làm quan giữ cửa ải, Lão Tử đi ngang, Hỉ bỏ chức đi theo " đó là căn cứ theo thuyết của Sử ký, trong phần Lão Tử truyện, nhưng trong Sử ký không có nói Hỉ bỏ chức quan đi theo.
Xét theo nguyên văn của Sử ký thì Hỉ không phải tên người, và việc Lão Tử qua cửa ải không có bằng chứng gì xác thực đáng tin cả, như thế thì Quan Doãn Hỉ cũng e rằng chỉ là một điều bịa đặt. Như vậy thì quyển sách là ngụy tạo, khỏi cần biện chứng, chúng ta cũng đã thấy rõ, nhưng trong thiên Đạt Sanh của Trang Tử, và thiên Thẩm Kỷ của Lã Thị Xuân Thu đều nói Liệt Tử có đến học hỏi với Quan Doãn Tử.
Trong thiên Thiên Hạ, Trang Tử lại đề cập Quan Doãn chung với Lão Đam, như thế thì đến đời Chiến Quốc, Quan Doãn Tử đã thành nhơn vật truyền thuyết.
Sách của Quan Doãn không thấy ghi trong Tùy chí, Đường chí và Quốc sử văn nghệ chí đời Tống, như vậy là quyển sách đã bị mất từ lâu.
Dưới thời Nam Tống, có Từ Xiển, tự Tử Lễ tìm được quyển sách ấy ở nhà của Vĩnh Gia Tôn Định, phía trước có phần Tự lục của Lưu Hướng, phía sau có lời tựa của Cát Hồng, quyển sách cũng có 9 thiên, đó là bổn còn cho đến ngày nay.
Trong sách Biện Văn Tử, Liễu Tôn Ngươn viết : " Quyển sách ấy, trước có lời tự của Lưu Hướng, viết rằng : Cái công trao quyển sách cho Tào Tham, Tào Tham chết, quyển sách mất, dưới thời Hiếu Võ, có người phương sĩ đem đến dưng cho Hoài Nam An vương, ông giữ kín, không đưa ra cho ai xem cả. Thân phụ của Lưu Hướng là Đức, phụng sự cho Hoài Nam vương, được quyển sách, nhưng văn lại không đúng, nên nghi đó là sách giả, thỉnh thoảng đọc thử thì thấy góp nhặt theo thuyết nhà Phật và chuyện thần tiên của bọn phương sĩ, mà mượn lập luận của Nho gia, bên trong có những câu như : " Một hơi thở mà đắc đạo... ", " Thanh giao, Bạch hổ... ", " Tụng chú mộc ngẩu v.v... " đó là những câu không bao giờ có dưới thời Lão Tử, như thế rõ ràng là sách giả rồi.
Tóm lại, phần Lão Tử truyện trong sách Sử ký, chép chuyện Lão Tử qua cửa ải, rồi viết sách cho Quan Doãn, đó là chuyện chép sau nầy, vào thời Chiến Quốc, khi đã có quyển Lão Tử rồi, và chuyện Quan Doãn Hỉ bỏ chức đi theo Lão Tử cũng là câu chuyện phụ họa thêm, rồi câu chuyện Quan Doãn viết sách cũng là chuyện phụ họa thêm cốt ý làm cho sách Lão Tử được thêm nhiều người chú ý.
Sách Hán chí ghi pho Quan Doãn Tử, chỉ là một pho sách giả của bọn phương sĩ thời Tần Hán soạn, bọn ấy còn giả luôn cả lời tự lục của Lưu Hướng.
Quyển Quan Doãn Tử không thấy có ghi trong sách Tùy chí, vì pho sách nầy không có giá trị gì, hay cũng có thể vì pho sách đã mất.
Pho sách hiện nay còn chắc chắn là pho sách giả của bọn phương sĩ đời Ngũ Đại soạn ra, như thế là pho sách đã bị giả đến 2 lần.
Sách Liệt Tử
Sách Hán chí phần Đạo gia có ghi sách Liệt Tử 8 thiên với lời chú : " Ông tên Ngự Khấu, trước thời Trang Tử. Trang Tử rất khen phục ông ".
Các sách Tùy chí và Tân, Cựu Đường chí đều ghi số thiên của sách ấy y như Hán chí.
Bản sách hiện nay còn cũng 8 thiên, phía trước có tự lục của Lưu Hướng viết : Trung và ngoại thơ gồm tất cả 22 thiên, trừ trùng 12 thiên và định lại còn 8 thiên, tức là bản Liệt Tử còn đến ngày nay, dường như là Lưu Hướng đã san định và Hán chí ghi theo.
Tám thiên sách Liệt Tử kể như sau :
" Thiên thoại, Hoàng đế, Châu Mục vương, Trọng Ni, Thang vấn, Lục mạng, Dương châu, Thuyết phù. "
Người thời nay, hễ đề cập đến sách Đạo gia, nếu không nói Lão, Trang thì cũng nói Lão Liệt. Liệt Tử và Lão Trang đều là những sách nổi tiếng trong phái Đạo gia, nhưng đó là sách giả hay thiệt thì không một ai dám quả quyết.
Liễu Tôn Ngươn, trong sách Biện Liệt Tử có viết : " Sách của ông bị thêm bớt rất nhiều, và sách viết rằng : Ngụy Mâu, Khổng Xuyên đều ra đời sau Liệt Tử, lời nói nầy không đáng tin v.v... " như vậy là Liễu Tôn Ngươn đã nghi ngờ quyển sách rồi.
Sách Tử lược của Cao Tợ Tôn lại nghi rằng Liệt Tử chỉ là tên một nhân vật truyền thuyết chớ không có thật trong phần khảo cứu về nhân vật Liệt Tử đã có nói qua.
Họ Cao cũng có viết tiếp : Sách Sử ký không có truyện Liệt Tử, mà nội dung quyển sách lại thiển cận, hoang đường, cho nên nghi rằng người đời sau làm giả.
Quyển Liệt Tử mà sách Hán chí đã ghi tức là quyển họ Cao đã nói của người đời sau làm giả, còn bổn Liệt Tử ngày nay còn lại không phải bổn mà sách Hán chí đã ghi.
Diêu Tế Hằng, trong quyển Cổ kim ngụy thơ khảo đã viết : Dưới thời Chiến Quốc, cũng có thể là có quyển sách ấy, do nhóm hậu học của Trang Tử viết và mượn danh người xưa đề tên, nhưng quyển sách ngắn, rồi người đời sau lại viết thêm vô.
Trong sách viết : Thánh nhơn phương Tây, đó là muốn nói Đức Phật, đó là người thời Đông Hán, Minh đế thêm vào, không có gì nghi ngờ được cả.
Tóm lại quyển Liệt Tử được người đời sau làm giả dưới thời Chiến Quốc, tính chất quyển ấy giống với pho Lão Tử mà sách Hán chí đã ghi thì pho ấy đã mất.
Dưới thời Ngụy, Tấn, những người thích huyền ngôn mới góp nhặt những lời Trang Tử và trong các sách khác, thêm vô những tư tưởng và ngôn luận của người đương thời để thành pho Liệt Tử mà chúng ta còn cho đến ngày nay.
Lời văn quyển nầy sinh động, trau chuốt, nên số đông văn nhân rất thích, vì thế mà được đứng ngang hàng với quyển Trang Tử. Nếu đứng trên phương diện học thuật mà xét đoán, thì quyển nầy có giá trị ngang hàng với các quyển Bật Tử, Văn Tử và Quan Doãn Tử hiện nay, nhưng lại thua các quyển Trang Tử, Quản Tử và Lão Tử.
Sách Hạc Quan Tử
Sách Hán chí, phần Đạo gia, có Hạc Quan Tử 1 thiên, với lời chú : người nước Sở, ở thâm sơn, dùng lông chim Hạc làm mũ, như vậy cũng là kẻ sĩ lánh đời, không ai biết ông danh tánh là gì chỉ thấy ông đội mũ bằng lông chim, liền đặt luôn danh hiệu ấy.
Các sách Tùy chí, Đường chí đều ghi là sách ông có 3 quyển, sách Quận trai đọc thơ chí của Triệu Công Võ có chép : Hàn Dũ đọc Hạc Quan Tử 16 thiên, nhưng trong Xương Lê [Hàn Dũ] tiên sanh tập lại ghi là 19 thiên, sách Hiệu Hạc Quan Tử của Lục Điền cũng chép là 19 thiên.
Sách Tứ khố thơ mục thì lại chép đến 26 thiên, như thế là rất nhiều hơn trước, và đó cũng là một bằng chứng rõ ràng có người viết thêm vào.
Bản Hạc Quan Tử hiện nay còn là do Lục Điền hiệu đính, gồm 3 quyển, 19 thiên.
Sách Biện Hạc Quan Tử của Liễu Tôn Ngươn có viết : Kẻ học giả cho rằng bài Phục điểu phú của Giã Nghị là từ Hạc Quan Tử mà ra. Tôi đọc quyển sách ấy thấy lời quê mùa, thô siển, tôi nhận thấy có kẻ háo sự đã viết quyển sách giả rồi mượn bài Phục điểu để đề cao quyển sách ấy.
Sách Sử ký, phần Bá Di liệt truyện có dẫn lời Giã Nghị viết : " Kẻ tham chết vì tiền bạc, kẻ liệt sĩ chết vì danh, còn kẻ hám danh chết vì quyền... ". Quyển sách Hạc Quan Tử không được nhắc đến, có lẽ lúc đó Sử công không thấy quyển sách ấy sao ?
Thật ra, quyển Hạc Quan Tử, văn chương tối tăm, ý văn lẩn quẩn, dở hơn sách Liệt Tử nhiều, như thế nhứt định không phải là sách dưới thời Châu Tần.
*
Trong phần trên, theo sách Hán chí ghi những sách của phái Đạo gia hiện nay còn là tất cả 9 quyển gồm có : Trang tử, do hậu học biên soạn, Lão Tử và Quản Tử, do người thời Chiến Quốc gom góp biên soạn, sách Thái Công, Bật Tử, do người thời Chiến Quốc gom góp biên soạn và mượn danh 2 ông để đề tên lên quyển sách. Sách Văn Tử, Quan Doãn Tử, Liệt Tử, Hạc Quan Tử thì nguyên thơ đã có nhiều chỗ nghi ngờ là giả, rồi quyển sách còn cho đến ngày nay thấy rõ ràng là đã bị ngụy tạo, thế nên sách của phái Đạo gia, những quyển nên đọc chỉ có : Trang Tử, Lão Tử, và Quản Tử mà thôi.
5. Những sách của phái Đạo gia đã bị mất. Sách Hán chí ghi sách của Đạo gia có tất cả 37 bổn, cho đến ngày nay, chỉ còn có 9 bổn ở phần trên, trong số ấy đặc biệt quyển Lão Tử có đến 4 loại, còn lại 25 bổn sách khác thì đã bị mất. Các sách bị mất kể như sau :
- Y Doãn
51 thiên, với lời chú : " Làm tướng cho vua Thang ". Vương Ứng Lân viết : Sách Thuyết Uyển, Lã Lãm đều có dẫn lời Y Doãn trả lời cho vua Thang, và sách Châu thơ cũng có viết : Y Doãn chầu nhà Thương dâng sách.
Mạnh Tử cũng có dẫn lời Y Doãn, nhưng chữ Đạo của Y Doãn cũng chưa chắc là đã giống nghĩa chữ Đạo của Lão Tử.
Sách Hán chí, đã đem sách của Y Doãn, Thái Công từ phái Binh quyền mưu gia qua phái Đạo gia, là vì dưới thời Chiến Quốc kẻ sĩ quyền mưu đã viết sách và mượn danh Y Doãn, là vì Y Doãn làm tướng cho vua Thang, công nghiệp được truyền tụng, nhưng niên đại xưa, truyền thuyết có nhiều, kẻ háo sự viết sách mượn danh ông, luôn luôn gom góp những lời truyền thuyết và nương theo sách vở xưa để làm tài liệu, làm cho người đời sau dễ bị lầm.
- Sách Tân Giáp
29 thiên, với lời chú : " Làm tôi vua Trụ, 75 lần can rồi đi. Nhà Châu phong chức cho ông... ".
Vương Ứng Lân viết : " Sách Biệt lục của Lưu Hướng có viết : Tân Giáp có đến nhà Châu, Thiệu Công bàn chuyện và khen...rồi tâu lại với Văn Vương, Văn Vương thân tự đi rước ông, cho làm công khanh và phong làm Trưởng tử. "
Sách Tả truyện viết : " Tân Giáp làm Thái sử... ". Trầm Khâm Hàn có viết : " Hàn Phi thì gọi là Tân Giáp Công... ". Như thế Tân Giáp là danh thần thời Châu sơ cho nên sách Hán chí sắp quyển sách của ông trong lớp Thái Công và Bật Tử...nhưng thật ra đó chỉ là cuốn sách được viết dưới thời Chiến Quốc.
- Sách Quyên Tử
13 thiên, lời chú viết : " Ông tên là Uyên, người nước Sở, đệ tử Lão Tử... ". Nhan Sư Cổ viết : Quyên là họ. Sách Sử ký viết : " Hoàn Uyên, người nước Sở, học thuật Đạo đức của Hoàng Lão, viết sách 2 thiên... ".
Có thuyết cho rằng Quyên Uyên tức là phần Điền Kỉnh Trọng thế gia và Mạnh Tuân liệt truyện trong sách Sử ký nói là Hoàn Uyên trong nhóm Tắc Hạ.
- Khảo Thành Tử
18 thiên, Trầm Khâm Hàn viết : Thiên Châu Mục vương sách Liệt Tử có viết : Lão Thành Tử học thuật kỳ ảo với Doãn văn tiên sinh. Sách Thích văn của Âu Kỉnh Thuận thì viết là Khảo Thành Tử...chữ Lão và Khảo hình và âm giống nhau nên dùng chung.
- Trường Lư Tử
9 thiên, Tiền Đại Chiêu viết : Người nước Sở...Sách Ngự lãm dẫn lời Lã Thị Xuân Thu viết : " Trường Lư Tử có nói : Núi non, sông biển, kim thạch, hỏa mộc, chất chứa mà hình thành ra đất... ".
- Cung Tôn Tử
2 thiên, Nhan Sư Cổ viết : Cung Tôn là họ, không biết tên là gì.
Thời xưa có họ Công Tôn, nhưng chưa hề nghe có học Cung Tôn.
- Châu Huấn
14 thiên, cũng là loại sách của Nho gia như Châu chánh, Châu pháp, Châu chế, nhưng các sách trên luận về chế độ chánh trị, còn sách nầy ghi chép những lời cổ huấn.
- Hoàng Đế Tứ Kinh
4 thiên, sách Lã Lãm thiên Khứ tư có viết : Thinh cấm trọng, sắc cấm trọng, áo quần cấm trọng, hương cấm trọng, vị cấm trọng.
Giả Tử, thiên Tu chánh thượng có chép : Hoàng đế nói : Đạo như nước chảy qua khe đá, cứ chảy ra không ngừng, và vận hành không thôi...
Các sách Chư Tử dẫn lời của Hoàng đế rất nhiều, nhưng có phải trích từ pho Hoàng đế tứ kinh nầy hay không, thì không có tài liệu nào để tìm hiểu được cả.
Người nhà Hán, hễ nói đến Đạo gia là nói đến Hoàng Lão, Chư Tử cũng thường dẫn lời Hoàng đế, có lẽ đó chỉ là ức thuyết vì không một ai nhìn thấy pho sách của Hoàng đế cả.
Hoàng đế hiệu Hiên Viên thị, hay đó chỉ là người phát minh ra xe rồi được người tôn sùng chăng ? Giả sử như hồi xưa mà có Hoàng đế thật, thì việc văn hoá phát minh, đâu phải do một người mà nên.
Tương truyền thời xưa các sự vật phát minh hết 9 phần 10 đều do Hoàng đế, điều đó không có bằng chứng gì để cho chúng ta tin chăc được. Các nhà Đạo gia như Trang Tử, Lão Tử thường mường tượng đến các cảnh xã hội chí thiện, chí đức của thời Thượng cổ, đó chỉ là lối mượn thời xưa để mong cải tạo thời nay mà thôi. Mặc Tử mượn danh Hạ, Võ, Hứa Hành mượn danh Thần Nông cũng cùng một trường hợp như thế, cho nên sách Hán chí ghi những sách của Hoàng đế, đó chỉ là những pho sách của phái Đạo gia thời Chiến Quốc mượn danh người xưa để viết ra mà thôi.
- Hoàng Đế Minh
6 thiên, vua Hoàng đế muốn răn người cho nên làm người vàng, 3 lần bịt miệng gọi rằng người xưa cẩn thận lời nói là như thế...Trong Hoàng đế minh 6 thiên, có Kim nhơn minh...
Đến thời Khổng Tử, Kim nhơn nầy vẫn còn ở miếu nhà Châu, đó cũng là loại " lời hay ghi lên bảng vàng... " chớ không phải nhứt định là người vàng ở dưới thời Hoàng đế, mà chỉ ghi những lời của Hoàng đế thôi.
Ngoài ra những thuyết khác về Hoàng đế minh đều là những lời truyền văn, không có gì làm bằng chứng cả.
- Hoàng Đế Quân Thần
10 thiên, bắt đầu có từ thời Lục Quốc tương tợ như pho Lão Tử.
- Tạp Hoàng Đế
58 thiên, lời chú viết : " Người hiền thời Lục Quốc soạn ". Quyển sách nầy dường như là gom góp những lời truyền thuyết của Hoàng đế dưới thời Lục Quốc mà viết ra, chưa chắc là do một người soạn ra trong một thời gian nào ...
- Lực Mục
22 thiên, lời chú viết : Viết dưới thời Lục Quốc nhưng mượn tên người xưa, Lực Mục là tướng của Hoàng đế.
Trở lên mấy quyển : Hoàng đế tứ kinh, Hoàng đế minh, Hoàng đế quân thần, Tạp Hoàng đế, Lực Mục là do người đời sau viết mà mượn danh Hoàng đế hay danh thần của ông, và sách Hán chí đã sắp những sách kể trên phía sau Lão Tử là vì biết rõ đó chỉ là những tác phẩm của những người thời Lục Quốc
- Tôn Tử
16 thiên, sách của thời Lục Quốc. Đây không phải là quyển Tôn Tử binh pháp của Tôn Võ Tử Tôn Tẩn.
- Tiệp Tử
2 thiên, người nước Tề, dưới thời Lục Quốc. Trong sách Sử ký phần Mạnh Tuân liệt truyện có nhắc Tiệp Vũ tức ông nầy.
- Tào Vũ
2 thiên, người nước Sở, dưới thời Võ đế, đi du thuyết với Tề vương.
- Lang Trung Anh Tề
12 thiên, người dưới thời Võ đế.
- Thần Quân Tử
2 thiên, người đất Thục.
- Trịnh Trưởng Giả
1 thiên, người thời Lục Quốc, trước Hàn Phi, Hàn Phi xưng tụng ông. Nhan Sư Cổ viết : Người nước Trịnh, không biết tánh danh là gì.
Sách Phong tục thông viết : Cuối đời Xuân Thu, nước Trịnh có người hiền, viết sách một thiên, tên là Trịnh trưởng giả, vì tuổi lớn, đức cao nên mới tôn là trưởng giả.
- Sở Tử
3 thiên.
- Đạo Gia Ngôn
2 thiên, ra đời gần đây hơn hết nhưng không biết tác giả là ai. Sách nầy sắp sau chót, y như phần Nho gia sau chót có pho Nho gia ngôn.
*
Trở lên tất cả 25 quyển, là số sách của phái Đạo gia đã bị mất, còn số sách còn lại cho đến ngày nay là 9 quyển, cọng 34 quyển, riêng quyển Lão Tử có đến 4 quyển khác nhau, nên tổng cọng là 37 quyển.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 26, 2011 18:00:05 GMT 9
Lời Di Chúc Của Vua Trần Nhân Tông
"Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo. Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo. Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu. Chớ coi thường chuyện vụn vặt nảy ra trên biên ải. Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn. Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước. Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp. Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta. Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích. Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn :
"Một tấc đất của Tiền nhân để lại, cũng không được để lọt vào tay kẻ khác". Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu".
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jul 4, 2013 5:10:45 GMT 9
Người xưa tập viết chữ Hán như thế nào?Blog người hiếu cổ - Sư huynh Đại Cồ Việt hỏi tôi, ngày xưa các cụ ta học chữ Hán như thế nào? Bản thân tôi chưa thực sự am tường, song trong quá trình đọc sách, tôi có lưu lại vài dòng kiến văn thô lậu thế này, tiện cung cấp lên đây để những ai quan tâm tiện tham khảo. Ngoài một số bài thơ dạy nhớ chữ Hán kiểu “Chim chích mà đậu cành tre, Thập trên Tứ dưới Nhất đè chữ Tâm”, “Cô Lan đứng ở cửa Đông, cớ sao để tóc rối bung trên đầu”…, theo một số tư liệu như Việt kiệu thư, Sơn cư tạp thuật, Kỹ thuật của người An Nam, có thể bước đầu nhận định, trẻ con Việt Nam từ thời Trần Hồ tới thời Nguyễn, khi mới bắt đầu tập viết đều viết 25 chữ Hán cơ bản, gọi tắt là Thượng Đại Nhân. - Việt kiệu thư của Lý Văn Phượng, người thời Minh sơ, cho biết: Năm 1406, sau khi chiếm được nước ta, Minh Thành Tổ Chu Đệ ra lệnh “binh lính vào nước ấy, ngoại trừ sách kinh và ván in của đạo Phật, đạo Lão không thiêu hủy; tất cả thư tịch, ván in cho đến những loại giấy trẻ con quê mùa tập viết như “Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ”, một mảnh một chữ đều phải hủy hết.(Nguyên văn:兵入除釋道經板經文不毀外,一切書板文字以至俚俗童蒙所習如上大人丘乙已之類片紙隻字悉皆毀之,其境内凡有古跡中國所立碑刻則存之,但是安南所立者悉坏之,一字不存 Bản dịch trong sách Thơ văn Lý Trần có chỗ chưa xác đáng, như câu “俚俗童蒙所習如上大人丘乙已之類” được dịch là “những loại (sách ghi chép) ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ. Từ “Lý tục” (lý: nhà quê; tục: thô tục) có thể bị người dịch hiểu nhầm sang từ “lý ngữ”, “lý ca” (lời nói dân gian, câu hát dân gian). Bản Việt kiệu thư in trong Tứ khố toàn thư tồn mục tòng thư - Sử bộ - Q.162 - Tr.695 có ghi chép tương tự, riêng từ ‘lý tục’ chép là “lễ tục”). - Mục Thượng đại nhân trong Sơn cư tạp thuật niên đại cuối Lê, cho biết: Trẻ con mới tập viết chữ, ắt viết “Thượng đại nhân, Khưu ất dĩ (chữ Khưu nay đổi thành chữ Thánh), hóa tam thiên, thất thập sĩ, nhĩ tiểu sinh, bát cửu tử, giai tác nhân, khả tri lễ dã” (Bậc đại nhân thời cổ, chỉ có ngài Khổng Khưu mà thôi, ngài giáo hóa ba nghìn đồ đệ, có bảy mươi học trò giỏi. Nay trò nhỏ các ngươi, tám chín đứa, làm tốt điều nhân, biết lễ nghĩa), thiên hạ đều như vậy, không biết bắt đầu từ khi nào. (Nguyên văn: 小兒初習字,必書[上大人,丘乙已(丘今作聖),化三千,七十士。爾小生,八九子,佳作仁(佳今作皆),可知禮也]。天下同然,不知何起) - Kỹ thuật của người An Nam niên đại cuối Nguyễn còn lưu lại hai bức vẽ Trẻ con tập viết, đều xuất hiện các dòng chữ Thượng Đại Nhân Khưu Ất Dĩ. Bên cạnh đó, Sơn cư tạp thuật còn cho biết: Ở nước ta, trẻ con mới nhập học, phải viết hai câu "Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng", không biết từ đâu. Có người bảo "bắt đầu từ Lê Văn Hưu, người Phủ Lý Đông Sơn vậy". (Nguyên văn: 我國童子入學,必書[天錫聰明,聖扶功用]兩句,不知何自。或曰始于黎文休,東山甫里人) . Ông nội tôi hồi còn sống từng kể lại rằng, hồi đi học chữ Nho, thầy bắt chép đi chép lại 8 chữ Thiên tích thông minh, thánh phù công dụng, ông và các bạn toàn đọc vui thành Thiên tích thong manh, thánh nằm chỏng gọng. Ngoài ra, An Nam kỷ du của Phan Đỉnh Quế, quan nhà Thanh, mô tả phép viết chữ của người Việt thời Lê Trung Hưng cho biết: “Thư pháp tuân theo Tống thể. Người trong cả nước viết từng chấm từng nét đều có kiểu dáng giống nhau, xấu đẹp không thật rõ ràng. Ta từng hỏi sĩ đại phu nước ấy về nguyên do của việc này. Đại để người Trung Quốc ta học viết chữ, gộp cách thức của một chữ lại mà học. Đằng kia thì xé từng nét chia ra, khiến các phần phân tán không liền mạch, sau đó hợp lại thành một chữ. Đó cũng là một cách học vậy.” (Nguyên văn: 書法遵宋體。盡國之人,點畫形勢無不同,不甚分醜好。余嘗與其士大夫國人講求其故。大都我中土人學書,合一字格式學。彼則裂一字之點畫分之,使其材質靡不通,然後合為一字。亦一法也) Nguồn nguoihieuco
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 30, 2014 5:33:22 GMT 9
Trạng Trình, hồn chữ nghìn thu Viên Linh Trong cuốn Sổ Sinh Tử mà tôi ghi chép hàng tháng, mới đọc lại thấy có hàng chữ: “Tháng 12 năm 1587 (thế kỷ XVI) Trạng Trình mất (sinh năm 1491 - thế kỷ XV), quê Trung Am, Vĩnh Lại, Hải Dương.” [Theo Ngô Tất Tố ông mất ngày 28 tháng 11 âm lịch đời vua Anh Tôn nhà Lê, ghi thêm là (1587) nhưng lại không nói năm âm lịch nào; theo Phạm Văn Diêu thì đó là năm Ất Dậu, và ghi thêm đời vua Mậu Hợp nhà Mạc. Xin nhớ: nước Nam lúc đó là một nước có ba vua, một thứ Tam Quốc Chí, Lê-Trịnh-Mạc, ai ghi niên hiệu đời nào cũng có lý của họ]. Tính ra ông thọ 95 hay 96 tuổi. Một người Việt sống tới tuổi ấy, cách đây hơn bốn trăm năm, có lẽ là người duy nhất đạt tới cái mức trường sinh hơn hết thảy, cho dù trong thế kỷ XX có những người sống lâu hơn ông, song suy ngẫm về thời gian và môi trường sống, thì cái thọ của thế kỷ sau như thế không thể so sánh nổi với cái thọ của bốn thế kỷ trước. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm không phải một nhà văn nhà thơ trăm tuổi, mà là một hồn chữ nghìn thu, mãi mãi. Viết về ông không thể viết quá một hai điều, vì sử sách về “An Nam lý số hữu Trình Tuyền - Lý số ở nước Nam có suối Trình,” (Chu Xán) nhiều không biết đâu mà kể, chỉ nhắc qua cũng đầy một bài viết một ngàn chữ. Xin được ghi chú vắn tắt. Tượng Nguyễn Bỉnh Khiêm tại quê ông. (Hình: Từ Ðiển Văn Học, Thế Giới Hà Nội, 2000) - “Bậc triết nhân đã từng trải việc đời và am hiểu tâm lý người đời. [Bạch Vân Quốc Ngữ Thi] thật là một lối thơ đặc biệt trong nền văn nôm của ta.” (Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Bộ Quốc Gia Giáo Dục, Sài Gòn 1958. In lần đầu tại Hà Nội, 1944). Non sông nào phải buổi bình thời Thù đánh nhau chi đến nực cười. Cá vực chim rừng ai khéo đuổi Núi xương sông huyết* thảm đầy vơi. Ngựa phi chắc có hồi quy* cổ Thú dữ nên phòng lúc cắn người. Ngán ngẩn* việc đời chi nói nữa Bên đầm say hát nhởn nhơ chơi. (Nguyễn Bỉnh Khiêm, Cảm Hứng, bản Dương Quảng Hàm, Quốc Văn Trích Diễm, Bốn Phương Sài Gòn 1952. Những chữ có dấu hoa thị nhiều bản chép khác, là “sông máu”, là “quay cổ”, hay là “ngán ngẩm”. Có lẽ là ngẫm mới đúng.) - “Bởi ông là nhà lý-học, cho nên thơ văn của ông giống như thơ văn ông Thiệu Ung nhà Tống, nhiều đạo đức hơn là mỹ thuật. Cái đặc biệt của thơ Bạch-vân tiên sinh là không bài nào có đầu đề. Nếu đọc hết cả tập [Bạch Vân Quốc Ngữ Thi có trên một ngàn bài] người ta sẽ thấy không ngoài cái ý chán đời, yên phận, ca tụng cảnh nhàn, mai mỉa công danh phú quí.” (Ngô Tất Tố, Thi Văn Bình Chú, Mai Lĩnh Hà Nội, 1952) Ðược thua đã thấy ít nhiều phen Ðể rẻ công danh, đổi lấy nhàn. Am Bạch-vân rồi nhàn hứng Ðám hồng trần vắng ngại chen, Ngày chầy họp bạn, hoa là khách Ðêm vắng hay lòng, nguyệt ấy đèn. Chớ chớ thờ ơ, nhìn mới biết Ðỏ thì son đỏ, mực thì đen. (Nguyễn Bỉnh Khiêm, Thất ngôn Cổ phong, bản Ngô Tất Tố, như trên) - “Ông chỉ là một nhà nho tôn trọng đạo thánh hiền viết văn thơ cốt là để di dưỡng tính tình mà thôi. Cứ thơ văn còn lại, ta thấy ông có một hệ thống tư tưởng duy nhất: yếm thế. Vì yếm thế, nên ông tìm nơi ẩn dật, an hưởng chữ nhàn... Ông chỉ là một người chán chính trị... văn ông đứng biệt ra một lối. Ông chú trọng đến tư tưởng hơn đến văn chương lòe loẹt.” (Thanh Lãng, Văn Chương Chữ Nôm, Phong Trào Văn Hóa, Hà Nội, 1953). - “Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy ba nhân cách phù hợp với nhau tấu thành một bản sắc không phàm. Ông là một nhà nho theo nghĩa thuần túy của nó, ông là một vị quan gương mẫu, nhưng ông cũng là một nhà ẩn dật phiêu nhiên thích thảng... và lại là học trò của một nhà nho lỗi lạc nhất thế kỷ: quan bảng nhãn Lương Ðắc Bằng... có thể gọi Nguyễn Bỉnh Khiêm là nhà văn-thơ Việt Nam am hiểu tinh thần Nho giáo sâu xa nhất. Tinh thần đó do gốc ở Dịch Kinh, bát quái quan niệm vũ trụ theo lẽ động. Dịch nghĩa là biến đổi, là cái đạo biến thiên của vạn vật, là sự khởi thủy của tất cả thế giới, cho nên thái độ Nguyễn Bỉnh Khiêm là một thái độ dè dặt, đôi khi nhuốm cả màu ngao ngán vì sự dâu bể của cuộc đời.” (Phạm Văn Diêu, Văn Học Việt Nam, Văn học sử và giảng văn, Tân Việt Sài Gòn, 1960). - “Cuộc đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm thật minh bạch, sòng phẳng. Gặp thời gặp chúa thì ra trị nước, yên dân. Khi hoàn cảnh không cho phép thì lui về ẩn thân hành thiện. Ngồi ở triều đường dám nói thẳng không sợ lụy thân. Về hương đảng khuyến khích điều lành nêu gương đạo đức. Làm quan thì ngựa xe hầu đón, về làm dân thì áo vải cơm rau. Mà ra hay về, lên hay xuống, đều thẳng thích vô tâm:” Nước non nào phải của ai đâu Nhiều ít công hầu cũng mặc dầu Khó chẳng giở đang không chẳng lụy Ðược chăng hậm hực mất chẳng âu Anh hùng người lấy tài làm trọng Ẩn dật ta hay thú có mầu Gẫm ấy ai phù mạc Hán Ðổng giang rủ một cần câu. (Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nước Non, Việt Nam Văn Học Sử giản ước tân biên, Phạm Thế Ngũ, Quốc Học Tùng Thư, Sài Gòn, 1961) Trên đây là năm đoạn trích dẫn theo sách của năm nhà biên khảo văn học sử Việt Nam, trong vòng từ 1944 tại Hà Nội tới 1961 tại Sài Gòn, nửa trước khi đất nước ta còn thuộc Pháp, nửa sau trong nền Cộng Hòa. Bản thân người viết bài này vốn xưa nay hâm mộ thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, nên mới trích dẫn nhiều như thế. Còn nhớ đâu năm 1992 tôi qua Paris ra mắt tập thơ Thủy Mộ Quan, được gặp học giả Tạ Trọng Hiệp, và thật là hạnh phúc, chuyện xảy ra trong một ngày mưa. Paris mưa tầm tã hôm đó, từ quán Ðào Viên của Vũ Lan Phương ở quận 13 nhìn ra đường, tôi không nghĩ là anh Hiệp sẽ đến. Mưa to quá, mưa lâu quá. Nhưng anh hiện ra ở cửa, tay cầm ô đen, mình mặc sơ-mi màu nâu đỏ bỏ ra ngoài quần. Tôi đã uống lai rai vài ly rượu chát, mời anh cùng uống, nhưng anh lắc đầu nói: -Nếu Viên Linh rảnh, mình đi chợ, về nhà tôi làm món rau muống xào tỏi tụi mình ăn cơm nhà nghèo, vui hơn. Ở nhà cũng có rượu. Lan Phương mất khách, hứ một tiếng. Tôi đứng dậy đi liền. Anh Tạ Trọng Hiệp cầm ô che chung, trời vẫn mưa. Chúng tôi đi bộ trên hè phố, rẽ phải rẽ trái năm lần bảy lượt, rồi tới chợ. Thực ra, đó là một tiệm sách, nay không còn nhớ tên. Hình như ở trên lầu hai. Bên này bán sách bày trên quầy, bên kia bán rau đậu bày trên sạp, trông thật nghèo nàn so với mấy ngôi chợ tị nạn ở Louisianna hay ở Virginia, đừng so với chợ Cali cho xấu hổ. Anh mua tặng tôi một tập thơ Ðỗ Phủ. Ra đường, trở về nhà anh trên đường Rue des Champs Elyseés, chúng tôi vẫn đi bộ, anh vẫn cầm cái ô đen có vòng tròn rất rộng. Trên đường về, anh hỏi một câu mà câu trả lời của tôi khiến anh ngạc nhiên: -Trong các nhà thơ cổ điển của mình, anh thích ai? -Nguyễn Bỉnh Khiêm. -Nguyễn Bỉnh Khiêm? Tôi nghĩ Viên Linh phải thích các nhà thơ lãng mạn như Chu MạnhTrinh hay ...? Tại sao lại Nguyễn Bỉnh Khiêm? -Các nhà thơ như Chu Mạnh Trinh ưa tả cảnh cô đầu, hát nói, Hồng hồng Tuyết tuyết, còn các ông các bà Nguyễn Khuyến, Ngô Chi Lan, Dương Lâm thì ngâm hoa vịnh nguyệt, mai lan cúc trúc, không so được với một người như Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tôi thấy ông trạng này ưa làm thơ về củ hành củ tỏi, củ gừng, cam quít, măng giá, ... Thấy anh Tạ Trọng Hiệp im lặng nhìn mình, tôi biết anh đang nghĩ gì. Nhân sinh quan của Nguyễn Bỉnh Khiêm sờ sờ ra đó, mà cứ bàn về cái nhàn, cái yếm thế, cái chán đời của ông. Tôi nghĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm ưu tư về nhân sinh xã hội đương thời, lo cho cái ăn cái uống của người nghèo bạc phước, phận hèn thân mọn, kiếm không đủ ăn, ông không lòng dạ nào để vịnh hoa và tán tụng các nương tử, những thứ xa xỉ với người dân. Ông không làm thơ vì mình, ông làm thơ cho người. Ông không có thì giờ để buồn chán vì mình, vì không nghĩ về mình thì không buồn về mình, ông buồn cho những kiếp người nhỏ nhoi đói rét xung quanh. Hôm ấy mãi chiều tối tôi mới ra khỏi ngôi nhà của học giả Tạ Trọng Hiệp. Khi chị Hiệp (bà vợ Hà Nội) tất tả về nhà, lại tất tả ra đi, anh phụ đề: “Cô ấy đi học. Tôi bắt đi học. Cổ phải vội vàng cho kịp xe buýt.” Bữa ăn của chúng tôi không vì thế mà gián đoạn. Sau này về lại California, từ Paris anh gửi qua tặng tôi cuốn “Nguyễn Bỉnh Khiêm Trong Lịch Sử Văn Hóa Dân Tộc” của Trung Tâm Hán Nôm in năm 1991 và một lá thư viết tay thật dài, trong đó nhắc lại “cái tình huống cùng che ô cho nhau mà vừa đi mua sách vừa trò chuyện vui vẻ như đã quen nhau từ thời xửa thời xưa...”
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 5, 2014 18:16:47 GMT 9
Giờ Thứ Hai Mươi Lăm Trọng Đạt1 - TIỂU SỬ, VĂN NGHIỆP Nhân lần thứ 19 ngày nhà văn nổi tiếng Lỗ Ma Ni Constantin Virgil Gheorghiu lìa trần tại Paris, chúng ta cùng đọc lại tác phẩm đầu tay tuyệt diệu của ông: Giờ Thứ Hai Mươi Lăm xuất bản năm 1949, dầy khoảng 450 trang. Đó là cuốn sách bán chạy nhất Âu châu sau Thế chiến thứ hai, ngay vài tuần lễ đầu đã bán được hơn nửa triệu cuốn, đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng trên thế giới. Truyện cũng đã một thời làm say mê cả một lớp thế hệ Sài Gòn năm xưa thập niên 50, 60, độc giả miền Nam xa xưa đã thấy trong tác phẩm không khí của thời binh đao khói lửa và thân phận bi thảm của con người thời chiến, nó rất gần với hoàn cảnh đất nước ta thời ấy. Cuốn sách đã khiến cho người Tây phương vô cùng xúc động hãi hùng về những tội ác rùng rợn của quân Nga gây ra khi họ tràn sang xâm chiếm Đông Âu. Từ 1949 cho tới 1989 Gheorghiu đã viết và xuất bản được 27 tác phẩm, những cuốn trước do Livia Lamoure dịch ra Pháp văn, những truyện sau ông viết thẳng bằng tiếng Pháp. Tác phẩm đầu tay của Gheorghiu vẫn được coi là nổi tiếng và thành công nhất trong văn nghiệp của ông nhưng không hẳn là hay nhất so với 26 cuốn ông viết sau đó. Gheorghiu sinh ngày 15-9-1916 tại Moldavie, Bắc Lỗ Ma Ni (Roumanie) mất ngày 22-6-1992 tại Paris. Ông Học trung học từ 1928-1936, sau đó học thần học và triết học tại đại học Bucharest và Heidelberg, Đức, năm 1939 lấy vợ là nữ sĩ, năm 1942, 1943 hai vợ chồng phục vụ tại Bộ ngoại giao Roumanie ở Zagred, xứ Croatie, phía Bắc Nam Tư. Khi quân Nga xâm chiếm đất nước ông ngày 23-8-1944, Gheorghiu và vợ lưu vong. Thế chiến Thứ Hai kết thúc ông và vợ bị người Mỹ giam giữ năm 1945 mỗi người một nơi lý do kẻ thù của Nga cũng là kẻ địch của Mỹ vì Mỹ và Nga là đồng minh. Hai năm sau 1947 mới được thả ra, hai vợ chồng đoàn tụ tại Heidelberg Đức quốc. Không thể sống tại Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp. Trong thời gian ở tù ông viết cuốn “Ora 25” bằng tiếng Lỗ Ma Ni, năm 1949 cho dịch ra tiếng Pháp lấy tên La Vingt-cinquième heure (Giờ Thứ Hai Mươi Lăm) rồi xuất bản tại Paris, được nhà văn, triết gia Gabriel Marcel viết tựa giới thiệu và nổi tiếng ngay. Những truyện của Gheorghiu viết sau 1949 có khoảng hơn 10 tác phẩm được người đọc đón nhận, trong đó nhiều cuốn có giá trị văn chương cao, nhưng về sau ông chống đối Cộng Sản Nga cực đoan, đưa chính trị vào văn chương nhiều nên ít được chú ý. Một số tác phẩm của ông đã được dịch ra tiếng Việt. Tôi xin giới thiệu một số truyện hay tiếp theo cuốn đầu tay của Gheorghiu, tác phẩm của ông không dài lắm, riêng hai cuốn đầu dầy gần 500 trang, những cuốn sau đó chỉ vào khoảng trên dưới 200 trang. Năm 1952, ông viết La Seconde Chance, dầy hơn Giờ Thứ Hai Mươi Lăm một chút, đã được Hằng Hà Sa, Bích Ty dịch ra tiếng (Việt Lối Thoát Cuối Cùng) thập niên 50, 60, bản tiếng Việt rất lưu loát bay bướm không thua gì bản chính tiếng Pháp. Truyện không có trọng tâm như cuốn La Vingt-cinquième heure có nghĩa là nhiều nhân vật nhưng vai chính không nổi. La Seconde Chance không nổi tiếng như cuốn đầu tay Giờ Thứ Hai Mươi Lăm của Gheroghiu nhưng có phần lôi cuốn tuyệt diệu hơn, đây cũng là một trong những truyện hay nhất của tác giả về thảm kịch thời hậu chiến.. Nội dung toát ra bầu không khí kinh hoàng bao trùm lên thân phận của những người tỵ nạn Do Thái trốn tránh phát xít sang Sô Viết bị ngược đãi tàn nhẫn, những cảnh trồng cây trên xác chết tại sa mạc trong vùng Sô viết, cảnh phát xít bách hại người Do Thái trong lò sát sinh y như trong cơn ác mộng, Gheorghiu bị ám ảnh bởi cơn ác mộng hãi hùng Sô viết, nó cũng chính là nỗi kinh hoàng của khối Đông Âu khởi đầu từ những ngày tàn của cuộc Thế chiến. L’Homme qui voyagea seul, Người Lữ Khách Cô Đơn viết năm 1954 dầy hơn 200 trang thể hiện tâm trạng u uất cay đắng của tác giả khi bị người ta kết án là bênh vực cho phát xít, bênh vực cho kẻ thù. Ông nói kẻ thù của các anh chứ không phải của tôi, người Đức đã giúp chúng tôi chống lại bọn Sô viết xâm lược dầy xéo đất nước tôi. Năm 1957 ông viết Les Sacrifies du Danube, Những Kẻ Hy Sinh Vùng sông Danube, truyện ngắn trên 100 trang thể hiện nỗi cay đắng uất hận của những nước Đông Âu trong vùng Danube như Hung Gia Lợi, Nam Tư, Lỗ Ma ni, Tiệp Khắc, Bảo Gia Lợi … đã bị Tây Phương, Hoa Kỳ nhường cho Sô Viết năm 1944, 1945. Ở cương vị người Đông Âu, tác giả nói để cứu nền văn minh Tây Âu, Mỹ đã nhường Đông Âu cho Sô viết khiến cho trên 150 triệu người đã bị tan gia bại sản, trở thành nô lệ, làm thân trâu ngựa cho Cộng Sãn Sô viết vô cùng tàn bạo. Đông Âu đã bị làm vật hy sinh, về điểm này trong bộ Lịch sử Thế chiến Thứ hai (Histoire de la seconde guerre mondiale) cho biết sở dĩ Mỹ nhường Động Âu cho Nga để nhờ Nga phụ một tay đánh quân Nhật ở Á Châu khi mặt trận Âu châu kết thúc vì Nhật còn 5 triệu quân, cuộc chiến có thể kéo dài khoảng hai năm nữa. Người Mỹ quí sinh mạng lính như vàng, đối với Cộng Sản Nga, mạng người rẻ như bèo. Truyện ngắn thể hiện nỗi niềm cay đắng của các dân tộc nhược tiểu, không tự quyết định số phận của mình mà phó thác cho sự mua bán đổi chác của các siêu cường. Trước 1975 có một cuốn sách Pháp nói về Hội nghị Yalta lấy tên “Yalta, Ou le Partage du Monde”, Yalta hay sự phân chia thế giới. Truyện sẩy ra tại Bảo Gia Lợi (Bulgarie), nó thể hiện nỗi ám ảnh kinh hoàng của người Đông Âu đối với bọn quỉ đỏ như sau: Một người chạy trốn Sô Viết sang phần đất tự do bị trúng đạn của lính biên phòng, hai người nhân đạo cứu anh đem về nhà, họ băng bó vết thương cho anh. Một người ứa nước mắt bảo vết thương đã có dòi, người kia đề nghị đi tìm bác sĩ hoặc đưa nạn nhân đi nhà thương nhưng anh này gạt đi bảo: “Nếu tìm bác sĩ thì rồi bọn công an cũng sẽ biết, sẽ tìm đến đây, người nạn nhân này sợ công an còn hơn là sợ dòi bọ, chẳng thà để hắn chết vì dòi bọ đục khoét còn hơn để hắn sa vào tay bọn an ninh, mật vụ” Năm 1960 ông viết La Cravache, Chiếc Roi Ngựa, truyện dầy gần 200 trang. Người đọc có cảm tưởng như cốt truyện diễn ra trong khoảng ba bốn năm trời dài đằng đẵng nhưng đến khi kết thúc mới biết tất cả chỉ sẩy ra trong vòng 24 tiếng đồng hồ, Gheorghiu như muốn cho độc giả thấy thiên tài vượt bực có một không hai của mình. Đó là ngày 23-8-1944, ngày dài nhất của lịch sử nước Lỗ Ma Ni khi xích sắt của xe tăng Nga tràn qua nghiền nát quê hương Gheroghiu mang theo biết bao tội ác dã man ghê rợn, đó cũng là ngày kinh hoàng nhất của lịch sử đất nước ông trong cảnh hoang tàn vì cướp bóc, bắn giết, hãm hiếp man rợ … của quân xâm lược diễn ra khắp nơi khởi đầu cho 45 năm nô lệ của người dân nước Lỗ. Năm 1958 Gheorghiu viết Les Mendiants de miracles, Những Kẻ Ăn Mày Phép Lạ, khoảng 200 trang, bối cảnh Phi châu, tác giả luận về chính trị nhiều. Năm 1961 viết Perahim, truyện có vẻ cải lương nhưng cũng khá nổi tiếng. 2 - LUẬN ĐỀ TÁC PHẨM Những truyện kế tiếp của Gheorghiu, mặc dù nhiều cuốn có nội dung sâu sắc, lôi cuốn kỳ diệu nhưng vẫn không thể làm lu mờ được tác phẩm đầu tay, Giờ Thứ Hai Mươi Lăm vẫn là tác phẩm tiêu biểu của Gheorghiu. Đây là cuốn tiểu thuyết luận đề, Gheorghiu với tư cách nhân chứng của thời đại cho rằng nền văn minh máy móc đã hủy hoại nhân phẩm, giá trị con người xuống hàng số không. Tác phẩm đầu tay của ông cũng thể hiện phần nào cuộc đời tác giả, trong đó nhân vật Traian, văn sĩ người viết cuốn Giờ Thứ Hai Mươi Lăm là hình ảnh của C.V. Gheorghiu. Xin Sơ lược: “Tại ngôi làng Fantana hiền hòa xứ Roumanie, Moritz, chàng nông dân chất phác có người yêu Suzanna, con gái một địa chủ giầu có tàn ác, không được cha chấp nhận cuộc hôn nhân nàng đã trốn theo Moritz. Anh nhờ Traian, văn sĩ, con mục sư Koruga (Chính Thống giáo) giúp đỡ tiền bạc đã mua đất, làm nhà, có hai con, Traian đang viết dở cuốn sách lấy tên Giờ Thứ Hai Mươi Lăm. Gia đình yên ấm, sóng gió bỗng dưng nổi lên, gia đình ly tán. Tên trưởng đồn cảnh binh làng Fantana muốn trăng hoa cô vợ trẻ Suzanna bèn làm giấy đưa Moritz đi đào kênh phòng thủ để hắn ở nhà dụ dỗ nàng. Một sự xui xẻo, ở trại tập trung người ta ghi nhầm anh là gốc Do Thái, thế là chàng không hy vọng ngày về. Ở nhà Suzanna phải làm giấy ly dị để giữ căn nhà, nàng vẫn chờ đợi Moritz. Chàng được đưa tới trại khác, tại đây một ông bác sĩ cùng năm người Do Thái hối lộ trưởng trại để trốn qua Hung gia Lợi. Bác sĩ cho Moritz theo để khiêng đồ dùm ông. Mục sư và con trai Traian lo khiếu nại cho Moritz nhưng không có kết quả. Eleonora, người yêu của Traian gốc Do thái vội kết hôn với chàng để có chỗ tựa vì chàng người nước Lỗ. Sau khi sang Hung, ông bác sĩ và năm người bạn Do thái được giúp đỡ làm giấy tờ qua Mỹ tỵ nạn, Moritz ở lại bị công an bắt dọc đường về bót điều tra, họ nghi chàng được đưa sang Hung làm tình báo gián điệp rồi tra tấn dã man anh đến ngất xỉu, Moritz khai thật nhưng họ không tin vẫn đánh đập chàng hết ngày này sang ngày khác. Đức quốc xã ép Hung giao năm chục ngàn người sang làm nhân công, chính phủ Hung lựa người Do thái, bọn tù, tội phạm để giao cho Đức. Moritz được người Hung thả ra rồi đưa sang Đức làm lao nô, các nước khác cũng phải giao người cho Đức, giá trị con người không còn nữa. Một hôm Moritz được gọi lên văn phòng để làm thông dịch viên tiếng Balkan, nhân dịp Đại Tá Đức Muller thuộc sở O.K.W tới, ông ngắm nghía Moritz và quả quyết chàng thuộc dòng giống anh hùng, dòng Đức thuần chủng, chàng là một kiểu mẫu hoàn hảo. Moritz được đưa vào quân đội, binh chủng SS rồi chàng trở thành lính gác coi tù. Moritz tưởng Suzanna ly dị chàng nên tái giá, lấy cô y tá Đức Hilda có một con trai với cô. Tại làng Fantana, cha chàng chết bệnh. Hàng ngày Moritz dẫn năm người tù binh Pháp đi làm cầu, họ rủ anh trốn và thuyết phục mãi, cuối cùng Moritz trốn theo họ sang vùng Mỹ kiểm soát. Quân Nga chiếm Roumanie, đàn bà bị hãm hiếp, đàn ông bị bắt bớ đánh đập, bị bắn chết, nhiều người trốn vào rừng kháng chiến. Quân Nga lập tòa án nhân dân xử tử khoảng mười người gồm mục sư Koruga, quản đồn cảnh binh, tám người nhà giầu… Mẹ Moritz và vợ chàng Suzanna vô rừng tìm xác mục sư, ông chưa chết, được hai mẹ con bà cứu giao cho quân Đức đi ngang qua chở về Đức. Mẹ Moritz bị quân Nga giết vì cứu mục sư, Suzanna bế con bỏ làng trốn. Quân Nga tiến vào Đức, cha Suzanna nay là sĩ quan Đức lại nhà Hilda (vợ thứ hai Moritz) cạo râu, thay quân phục chào quốc trưởng rồi tự sát, Hilda theo lời dặn của ông tưới săng đốt xác ông nhưng nàng và con bị chết cháy theo. Traian (con mục sư Koruga) và vợ đi bộ 200 dặm để tới tỉnh Weimar thuộc Mỹ nhưng bị bắt giam vì là dân nước nghịch Roumanie. Traian được chở tới trại giam thuộc khu do Mỹ kiểm soát, trại tù này nằm giữa cánh đồng, chứa mười lăm ngàn người (15,000) tại đây chàng gặp lai Moritz, mặc dù đã cứu được năm người tù binh, họ vẫn không tin anh và giam anh lại, Moritz đã bị lưu đầy trong 14 trại giam. Sau lại chuyển trại, gặp lại mục sư Koruga, ông được quân Đức đưa vào bệnh viện cứu chữa và cưa hai chân nay chống nạng bị quân Mỹ giam tại đây. Moritz gặp lại ông bác sĩ cùng trốn với anh từ trại giam Lỗ Ma Ni sang Hung Gia Lợi, sau ông đi Hoa Kỳ bây giờ là trung úy quân y của Mỹ, ông nói không giúp gì được chàng mà chỉ có thể cho đồ ăn, thuốc lá. Moritz nhận được thư của mẹ Hilda, vợ thứ hai được biết nàng chết cháy cùng đứa con trai bà đã chôn hài cốt rồi, mục sư cho biết Suzanna vẫn chung thủy chờ anh, anh hối hận đã tái giá với Hilda, mục sư thuyết giảng cho con ông rồi chết trong tù, trại này giam hai chục ngàn người. Traian tuyệt thực phản đối trưởng trại cho mang xác mục sư Koruga mà không cho anh theo dự để xem ông có được làm phép theo Chính thống giáo không. Phóng viên Mỹ đến thăm, họ đưa Traian đi nơi khác để che dấu vì chàng sẽ nói sự thật. Tù nhân chết đói hàng ngày. Traian tuyệt thực, họ đưa anh vào nhà thương điên, anh làm nhiều đơn từ họ không xét, Train chống lại nền văn minh máy móc, nó tiêu diệt con người, rồi chàng được thả ra khỏi nhà thương điên. Traian cho Moritz cái tẩu thuốc và đưa đôi kính đeo mắt cho Moritz nhờ anh sau này trao cho vợ chàng tức Eleonora. Traian thản nhiên đi ra cổng chính, càng ngày càng gần hàng rào kẽm gai, bọn tù hồi hộp theo dõi, người lính gác bấm cò hai lần, phát thứ hai khiến Traian ngã gục, chàng đi tìm cái chết. Bốn ngày sau Traian chết, Moritz nhận đượỉc thơ Suzanna, nàng kể lại những ngày gian truân, bị quân Nga hãm hiếp nhiều phen, có đứa con với chúng, nàng xin tha thứ. Moritz được gọi đi Nuremberg xét xử, cuối cùng được thả về xum họp với Suzanna , Moritz cũng gặp lại vợ Traian Eleonora, anh trao cho chị ta kính đeo mắt của Traian”. Giờ Thứ Hai Mươi Lăm là cuốn tiểu thuyết luận đề thể hiện niềm sợ hãi sự diệt vong của loài người, hậu quả do xã hội kỹ thuật máy móc mang lại. Một xã hội máy móc, tôn sùng kỹ thuật có nguy cơ tận diệt nhân loại. Moritz, Traian, Koruga.. những nạn nhân của xã hội máy móc, những con người vô tội nhưng đã phải cam chịu nhiều oan khiên đầy đọa vô cớ, nhất là Moritz, người thể hiện thân phận bi đát nhất của thời đại máy móc mà giá trị con người đã xuống thấp đến chỗ không còn gì cả. Một nông dân chất phác, hiền lành như anh, con người hoàn toàn vô tội bị kẻ gian hãm hại, đi đào kênh. Moritz bị ghi nhầm là Do thái trong danh sách đưa tới gia đình tan nát, trốn sang Hung bị công an tra tấn dã man vì tình nghi làm gián điệp, bị bán cho phát xít Đức, được chúng cho vào lính, coi tù rồi cứu được năm người tù binh Pháp nhưng vẫn bị Mỹ giam cầm hết trại tù này sang trại tù khác. Khi chiến tranh chấm dứt, anh chỉ thấy toàn là trại giam, những hàng rào kẽm gai… Hậu quả của văn minh máy móc là sự tiêu diệt xã hội loài người, đó là ngày tận thế, Giờ thứ hai mươi lăm. Nhân vật Traian trong truyện, người viết cuốn Giờ Thứ Hai Mươi Lăm, cho biết đó là giờ mà mọi cấp cứu đều vô vọng, dù Chúa Cứu thế ra đời cũng không không thể cứu vãn được, đó không phải là giờ chót mà giờ kế sau giờ cuối cùng. Giờ của xã hội, văn minh Tây phương. Theo Gheroghiu văn hóa Tây phương không còn quí trọng con người nên sẽ bị diệt vong, xã hội kỹ thuật khinh rẻ con người khiến giá trị con người ngày càng giảm nhất là tại Nga, con người còn rẻ hơn nữa. Moritz đã bị Hung Gia Lợi bán cho Đức quốc xã làm nô lệ đổi lấy một thùng đạn, khi ấy Moritz nghĩ mình sẽ làm nô lệ suốt đời. Sang Đức làm lao nô trong một nhà máy sản xuất quốc phòng, Moritz được người ta nói máy móc là một người thợ hoàn hảo nhất, ta phải học nó để làm việc, nó dậy ta kỷ luật, trật tự, sự hoàn chỉnh… Moritz sợ máy móc và sợ những con người giống máy móc, văn sĩ Traian nói với vợ: “Tây phương tạo lên một xã hội giống như cái máy và con người sống trong xã hội phải thích ứng theo luật lệ của máy móc, họ tưởng là thành công nhưng thực ra đã giết lần mòn con người khi họ buộc con người phải theo những luật lệ đã chi phối cái ô tô, đồng hồ, đối với xã hội kỹ thuật, con người coi như không có” Traian làm đơn thỉnh cầu cho Moritz, anh ta vô tội, không trộm cắp, giết người, lường gạt, không phạm tội trước luật pháp cũng như giáo hội nhưng bị bắt giam vô cớ hết ngày này sang ngày khác, đã bị lưu đầy trong mười bốn trại giam. Suốt đời chàng chỉ có một ước mơ tầm thường là được yên ổn làm ăn, nuôi sống gia đình nhưng như vậy là có tội? Moritz đã giúp năm người tù binh vượt khỏi trại giam phát xít, như vậy là có tội chăng? Traian hỏi người sĩ quan Mỹ thẩm vấn chàng lý do họ bắt mình, ông ta nói vì anh là một công chức nước Roumanie, thù nghịch của Mỹ và đồng minh, chiếu theo luật lệ vợ công chức cao cấp của nước thù nghịch cũng bị bắt, mục sư Koruga cha Traian bị bắt vì là công chức nước nghịch, luật pháp nào cũng nghiêm minh cả. Người Mỹ cho rằng khi họ coi con người chỉ là một loại hạng, thành phần là một cách giải quyết công bình và nhanh chóng nhất, nay chúng ta đang ở thời kỳ toán học và khoa học chính xác không thể vì lý do tình cảm, tình cảm chỉ là sản phẩm của thi nhân, thần học. Traian kết án đó là một phương pháp vô nhân đạo, xóa bỏ con người. Hai chục ngàn tù nhân bị giam theo thủ tục phòng hờ, khi cần một phạm nhân chỉ cần bấm số là ra ngay, khỏi phải chạy tìm kiếm mất thì giờ, con người đã ở trong guồng máy phải chờ giống như một sợi chỉ đã luồn trong máy dệt không thể lấy ra được mà phải chờ khi nó ra khuôn. Tù nhân bị giam giữ vô cớ hết năm này sang năm khác không còn tin tưởng vào công lý loài người, nó đã biến mất trên thế gian này. Tâm tư của nhân vật Traian thể hiện luận đề của tác phẩm, chàng chính là hình ảnh của tác giả Gheorghiu. Traian nói xã hội kỹ thuật Tây phương không còn hợp với đời sống cá nhân vì nó bóp chết con người, loài người sẽ phạm tội nặng, xã hội ấy sẽ bị diệt vong như bao xã hội khác trong lịch sử. Xã hội Tây phương hy sinh con người cho lý thuyết, cho kế hoạch, nó đã tiêu diệt con người, nó tìm hiểu và nâng cao đời sống con người bằng những con số toán học và thống kê. Các luật lệ máy móc, hoạt động của cơ giới không bao giờ tạo được ý nghĩa cho đời sống con người khi ấy đời sống con người sẽ tiêu vong. Và rồi Traian đi tìm cái chết, người ta cho anh chỉ là người điên quẫn chí, nhưng anh đã phản kháng lại nền văn minh máy móc và đem xác thân ra để đòi công bằng công lý cho cá nhân mình, cho Moritz cũng như cho hàng vạn người bị giam cầm oan uổng. Họ đã là nạn nhân của một nền văn minh chỉ biết coi con người như những con số, đã đưa giá trị con người xuống hàng số không. 3 - CƠN ÁC MỘNG SÔ VIẾT Một khía cạnh bi đát thứ hai của thân phận con người thời chiến tranh máy móc được Gheorghiu diễn tả một cách chân thực nhất, nó đã khiến cho thế giới Tây phương thời hậu chiến vô cùng sững sờ kinh ngạc trước sự tàn bạo dã man của Hồng quân Sô viết khi họ tràn qua làm cỏ Đông Âu. Ngày 23-8-1944 khi chiến xa và bộ binh Nga vượt biên giới chiếm Lỗ Ma Ni, dân làng Fantana hốt hoảng ghê sợ bọn ngọai xâm vô cùng tàn ác, nhiều người trốn vào rừng kháng chiến không để giặc bắt. Quân Nga thả tù và dùng bọn tay sai thân Cộng Sản lập tòa án nhân dân xử tử hình mục sư Koruga, trưởng đồn an ninh, và tám người nhà giầu…. Tiếp theo sau chân quân Nga là những chuyện kinh hoàng: đàn bà bị hãm hiếp, đàn ông bị đánh dập ngoài đường phố, ngoài chợ …cướp bóc bắn giết ngay giữa ban ngày y như quân Hung Nô Mông cổ từ châu Á tràn sang làm cỏ châu Âu từ những thế kỷ xa xưa. Cộng quân đi tới đâu người dân chạy như vị đến đấy, họ đều chạy trối chết để xa lánh bọn Sô viết ác ôn để sang phía Mỹ, phía Anh hay Pháp. Họ không nghĩ đi đường nào mà chỉ nhắm mắt chạy trốn Hồng quân, trốn sự tàn bạo dã man, trốn cảnh khủng bố giết chóc tra tấn của chúng. Họ nhắm hướng nào không có quân Nga và nhắm mắt chạy về hướng ấy không bao giờ quay gót trở lại vì phía sau lưng họ chỉ toàn là cảnh tối đen như mực và đẫm máu, sau lưng họ là chém giết, họ ôm chầm lấy vùng đất không còn bóng dáng quân Nga. Những người tỵ nạn không cần biết đó là nơi nào miễn là chạy thoát khỏi tay bọn sát nhân Sô viết. Người ta thường nói một bức hình bằng nghìn lời nói, nhưng với bút pháp điêu luyện tuyệt vời của Gheorghiu, một bức thư đã trị giá bằng một vạn, một trăm nghìn lời nói như trong vài trang giấy của Suzanna gửi cho chồng Moritz khi anh sắp được trả tự do. Suzanna nói: “Chắc anh tưởng em đã chết, đã chín năm trôi qua chúng ta không có tin tức nhau nay nhờ Hội Hồng thập tự em bèn gửi thư cho anh, lòng em bao giờ cũng nghĩ anh vẫn còn sống, em xin cầu nguyện Đấng thiêng liêng che chở phù hộ cho anh vì anh chưa làm gì nên tội. Trong chín năm qua biết bao chuyện đã xẩy ra, hiện nay em ở nước Đức, hôm anh bị bắt đi em vẫn nghĩ anh sẽ được trở về vì thế đêm nào, ngày nào em cũng mong thấy anh trở về. Ít ngày sau người trưởng đồn cảnh binh cho biết anh là Do thái, hắn sẽ tịch thu nhà cửa, em phải ký giấy li dị để giữ nhà nhưng em vẫn chờ anh như trước.” Nàng kể tiếp, “Khi quân Nga đến chúng bắn mục sư Koruga và mấy người khác, em và mẹ anh đã lôi mục sư ra đường, ngài chưa chết, em và mẹ đã giao cho đoàn xe nhà binh Đức chở ngài đi. Hôm sau mẹ bị bọn tay sai Nga bắn chết vì cứu mục sư, em phải dẫn con trốn khỏi làng sợ chúng giết, em chạy xa đến tận nước Đức. Quân Nga bắt được em, chúng cho các con bánh mì, kẹo và quần áo, bốn ngày sau em bị bệnh thì một bọn lính Nga tông cửa vào nhà tìm đàn bà con gái, chúng bắt em và cô con ông chủ nhà mới mười bốn tuổi, chúng bắt tụi em uống rượu và cưỡng hiếp chúng em cho đến sáng. Em kể lại cho anh nghe chuyện ấy vì em không muốn giấu anh điều gì, em ngất xỉu khi tỉnh dậy thì các con khóc như ri, đêm sau bọn lính trở lại hãm hiếp chúng em. Hôm sau em trốn xuống hầm nhưng chúng cũng tìm được và lại làm chuyện tồi bại như mọi khi, hai tuần liên tiếp dù trốn ngoài vườn, bên những nhà lân cận chúng cũng đều tìm được em và cưỡng hiếp em trước mắt các con. Em định tự tử cho xong nhưng nghĩ tới các con, nếu em chết chúng sẽ bơ vơ xứ lạ nên bỏ ý định quyên sinh nhưng khi ấy em tự coi như đã chết rồi.” Suzanna kể tiếp: “Em phải lánh xa quân Nga, chạy trốn về vùng chiếm đóng của quân Anh hay Mỹ nhưng dọc đường quân Nga bắt được em nhiều lần, hãm hiếp em trước mắt trẻ con, đàn bà con gái nào bị chúng bắt được đều chịu chung số phận. Trước khi vào được vùng do Anh kiểm soát bọn Nga giữ em lại ba ngày và hãm hiếp em ngày đêm, lần chót này em có thai với chúng nay đã năm tháng. Mình có thể tha thứ cho em được không, mình còn nhìn nhận em là vợ nữa hay không ? em khóc ròng khi viết thư này và chờ tin anh.” Chuyện lính Nga hãm hiếp đàn bà dã man tại các nước Đông Âu nay cũng chẳng xa lạ gì, sáu năm trước đây, phim ảnh, sách báo đã tố cáo năm 1945 có tới hai triệu phụ nữ Đức bị quân Nga hãm hiếp nhưng bức thư của Suzanna vẫn gây xúc động hơn bao giờ hết, sau thế chiến nó đã khiến Tây phương vô cùng kinh ngạc, người ta không thể ngờ quân Nga mọi rợ dã man đến thế. Gheorghiu thể hiện nỗi ám ảnh sâu xa của người Đông Âu với chế độ độc tài Sô viết cũng như niềm cay đắng oán hận Hoa kỳ, Tây phương đã bán đứng Đông Âu cho quỉ đỏ để họ phải làm thân nô lệ cho Cộng Sản một nửa thế kỷ qua. 4- KẾT LUẬN Gheroghiu, một thiên tài hiếm hoi của thế kỷ với bút pháp kỳ diệu khác thường, với những dòng chữ giản dị ông đã diễn tả được những tư tưởng thật cao. Mặc dù là bi kich, nhưng ông vẫn luôn dí dỏm, chua chát, trong lịch sử văn chương cận đại thật chưa có tác phẩm nào thể hiện thân phận bi đát và hố thẳm của loài người như thế ngoài cây bút Gheorghiu. Tác giả có cảm tình với Đông phương, ông nói xã hội kỹ thuật Tây phương tạo được tiện nghi cho con người nhưng không tạo được linh hồn trí óc. Khi xã hội kỹ thuật sụp đổ, những giá trị nhân bản sẽ được tái sinh, ánh sáng sẽ rọi từ Đông phương, từ Á châu, họ sẽ thu phục làm chủ xã hội kỹ thuật nhưng không làm nô lệ máy móc và tôn thờ nó như ở Tây phương. Họ sẽ làm chủ máy móc bằng trí khôn của họ như một người nhạc trưởng. Mục sư Koruga kể cho viên sĩ quan Mỹ nghe một đoạn ngắn trong Lão Tử Đạo Đức kinh (chương 31) để diễn tả tinh thần nhân bản của Đông phương: “Thắng cũng chẳng hay gì. Dù có hay đi nữa. Chỉ là thích chém giết. Kẻ ham chém giết. Ắt chẳng thu phục nhân tâm. (Nguyên văn: Thắng nhi bất mỹ. Nhi mỹ chi giả. Thị lạc sát nhân. Phù lạc sát nhân giả. Tắc bất khả dĩ đắc chí ư thiên hạ hĩ)” Quân Nga đã gần tới, người sĩ quan Đức thất trận, cạo nhẵn râu ria, mặc quân phục mới chỉnh tề, đeo huy chương đầy ngực, giơ tay chào Quốc trưởng rồi tự sát, ông đã làm xong nhiệm vụ cuối cùng của đời mình. Hình ảnh anh hùng và quá đẹp của một sĩ quan Quốc xã lúc thất trận cho thấy Gheorghiu có cảm tình với họ, đó cũng là điểm khiến tác giả bị người ta chỉ trích ông thân phát xít. Nhân vật của Gheroghiu ở đây có tính biểu tượng hơn là hiện thực, để diễn tả luận đề về thân phận bi đát của con người ở nhiều chỗ độc giả thấy nó gượng ép mất tự nhiên: Lưu lạc bao nhiêu năm tại nhiều nước cuối cùng Moritz, mục sư Koruga, văn sĩ Traian.. lại gặp nhau trong trại giam của Mỹ tại Đức.. cuối truyện Moritz gặp lại Eleonora, vợ Traian và trao lại cho bà chiếc kính đeo mắt của chồng. Dù vậy Giờ Thứ Hai Mươi Lăm vẫn là cuốn tiểu thuyết diễn tả được thân phận bi thảm nhất của con người trong một nền văn minh kỹ thuật thời chinh chiến. Bi kịch lại được kết thúc happy – ending hạnh phúc. Suzanna mười mấy năm chung thủy chờ chồng, trong ngày hội ngộ, Suzanna mặc chiếc áo dài xanh mà nàng đã mặc mười ba năm trước khi bỏ nhà trốn theo Moritz. Chiếc áo này nàng đã mang trên người mấy tuần khi hai người yêu đương hạnh phúc bên nhau với mối tình đẹp đẽ trong đời. Chiếc áo này vợ chồng nàng rất thích và cho là đẹp nhất, Suzanna đã cất dấu nó mười mấy năm qua, đi đâu nàng cũng mang nó theo bên mình. Nàng thề khi nào chàng về tới cửa mới đem áo xanh ra mặc, nàng mòn mỏi chờ chồng mười mấy năm đằng đẵng nay mới đem ra mặc để kỷ niệm những ngày đầu tiên của cuộc đời phu thê. Moritz thấy nàng không thay đổi nhiều, da nàng có nhăn, tóc đã bạc mầu nhưng nàng vẫn như xưa, vẫn như trong cuộc tình nồng thắm bên đồng cỏ làng Fantana khi họ còn son trẻ. Năm 1967 Giờ Thứ Hai Mươi Lăm đã được quay thành phim, nhà sản xuất Ý Carlo Ponti và đạo diễn Pháp Henri Verneuil thực hiện, hãng MGM phát hành. Tài tử nổi tiếng Mỹ gốc Mễ Anthony Quinn đóng vai Moritz, Virna Lisi vai Suzanna, Liam Redmond vai mục sư Koruga, Serge Reggiani vai Traian. Phim dài đúng 2 giờ, cũng có cái hay riêng nhưng nói chung điện ảnh chỉ diễn tả được phần nào tác phẩm, nhà đạo diễn chỉ kể lại một phần cốt truyện mà không nói lên được hết ý nghĩa của nó. Những người đã đọc truyện không thỏa mãn với phim, họ cho là làm mất hết cái hay của tác phẩm. Tuy nhà đạo diễn có làm khác đi nhưng cũng thể hiện được bi kịch cuộc đời Moritz bằng những hình ảnh sống động. Nhạc hay cảnh đẹp, mầu sắc lộng lẫy, mặc dù dựa theo một cuốn tiểu thuyết bất hủ và ăn khách, phim không nổi tiếng lắm và cũng không được giải thưởng nào. Diễn xuất của Anthony Quinn nổi bật nhất so với các vai khác. Nghệ thuật của Gheorghiu cho tới nay vẫn còn mới lạ, những hình ảnh biểu tượng của ông đã diễn tả một cách hiện thực nhất, bi đát nhất tình trạng hãi hùng bên bờ vực thẳm mà loài người đang vươn tới. Giờ Thứ Hai Mươi Lăm nay đã thành một từ quen thuộc, được nghe nhắc đến rất nhiều, người ta thường hiểu đó là những giờ phút cuối cùng nhưng theo ý nghĩa của luận đề trong tác phẩm nó là giờ sau giờ chót, giờ tận thế mà con người đang tiến đến. Thấm thoắt đã nửa thế kỷ trôi qua, Giờ Thứ Hai Mươi Lăm vẫn là một trong những cuốn tiểu thuyết tuyệt vời nhất, hàng trăm năm mới có tác phẩm hay như vậy. Trọng Đạt
|
|