|
Post by Huu Le on Nov 17, 2006 15:50:44 GMT 9
MỘT DẤU TÍCH GIAO THOA VĂN HÓA ? VĂN NGỌC Trên đỉnh của một trong ba ngọn tháp Chăm ở đền Pô-Klaung Garai (Phan Rang, Quảng Nam – thế kỷ 14), có một hình khối kiến trúc khá xa lạ với kiến trúc của những ngôi tháp Chăm, nói chung, thường mang đậm ảnh hưởng của nghệ thuật tôn giáo Ấn Độ, từ Trà Kiệu đến Mỹ Sơn. Hình khối kiến trúc xây bằng gạch đá nói trên có dáng vẻ của một ngôi nhà sàn mái hình thuyền, sống võng, mặt cắt hình vòm cuốn, hai đầu mái hồi tròn, hơi cong lên và nhô ra như kiểu nhà sàn mái hình thuyền của một vài dân tộc ở Papoua, Tân Guinée (Đại dương châu), hoặc của người Nhật Bản cổ đại. Hai kiểu nhà sàn trên trống đồng Đông Sơn, với mái võng và mái lồi. Kiểu nhà sàn này là một biến thể của kiểu nhà sàn khắc trên trống đồng Đông Sơn, mà phiên bản trung thực nhất là kiểu nhà sàn bằng tre gỗ hiện vẫn tồn tại và được người Toradja sử dụng trong đời sống hàng ngày ở đảo Célèbes (ngày nay gọi là Sulawesi, thuộc Indonesia). Hiện tượng này có ý nghĩa gì, nếu quả thật khối kiến trúc nói trên thể hiện hình tượng của một ngôi nhà sàn mái hình thuyền biến thể thuộc nền văn hoá Đông Sơn ? Chúng ta biết rằng, về mặt lịch sử và văn hoá, dân tộc Chăm có quan hệ mật thiết với một vài dân tộc Tây Nguyên thuộc ngữ hệ Nam đảo (Mã Lai-Đa đảo) : Giarai, Êđê, Churu, Raglai. Mà những dân tộc này đều là những dân tộc thuộc nền văn hoá Đông Sơn - theo nghĩa một nền văn hoá cổ, mà địa bàn là một vùng rộng lớn ở Đông Nam Á, có liên quan tới những chiếc trống đồng tìm thấy ở địa điểm Đông Sơn - nền văn hoá này được thể hiện qua một số biểu hiện văn hoá vật chất và tinh thần cụ thể, từ hoa văn trang trí trên y phục, đồ dùng trong nhà, đến kiến trúc, đến những tục lệ, truyền thống lễ hội, huyền thoại, v.v. Con đường truyền bá của chiếc rìu đá có mộng (khoảng từ 2500 đến 1500 trước C.N., theo nhà tiền sử học Heine-Geldern). Bản thân dân tộc Chăm - theo giả thuyết của nhà tiền sử học Heine-Geldern về lộ trình của chiếc rìu đá có mộng - có thể có cùng nguồn gốc Nam đảo với những dân tộc kể trên, mà tổ tiên, trong khoảng thời gian 1000 năm, giữa 2500 -1500 tr. C.N., đã di cư từ vùng Vân Nam xuống (cư dân Bách Việt ?), xuyên qua bán đảo Mã Lai, quần đảo Indonesia, các đảo thuộc Đại dương châu, vòng lên đến Đài Loan, Nhật Bản. Một bộ phận của những tộc người này có thể đã xâm nhập vùng Tây Nguyên Việt Nam, nhưng đã bị những tộc người thuộc ngữ hệ Môn-Khmer có mặt ở đây từ trước xua đuổi đi. Một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng, ở vào một thời điểm có thể cũng không muộn hơn, những tộc người gốc Mã Lai - Đa đảo kể trên, trong đó có tổ tiên của người Chăm, đã từ biển đông xâm nhập vào vùng ven biển miền trung Việt Nam. Sau đó, do tiếp thu văn hoá Ấn Độ, bắt đầu từ những thế kỷ đầu Công Nguyên, người Chăm đã phát triển lên thành một quốc gia lớn mạnh (vương quốc Lâm Ấp), và đã dồn những tộc người gốc Nam đảo kém phát triển hơn lên vùng Tây Nguyên. « Có thể người Giarai đã tràn lên vùng cao nguyên Pleiku và vùng bình nguyên Ayun Pa Cheo Reo theo đường đèo An Khê và đường Cung Sơn. Người Êđê và người Churu thì lên cao nguyên Đắc Lắc bằng đường đèo Phượng Hoàng hiện nay. Những nhóm người tràn lên đã chẻ đôi khối người Môn-Khơme có trên Tây Nguyên từ trước : một khối cư trú từ nửa tỉnh Gia Lai trở ra phía bắc, gồm người Bana, Xơđăng, Giẻ Triêng, Brâu, Rơmâm, v.v., và một khối từ nửa tỉnh Đắc Lắc trở vào phía nam, gồm người Mơnông, Mạ, Koho, v.v. » (theo Nguyên Ngọc, Một số vấn đề văn hoá xã hội, Tập san nghiên cứu NGOK LINH, số 1 – 2001) Lục địa Sunda trước khi bị ngập chìm trong trận Đại Hồng Thuỷ cách đây khoảng 8000 năm, theo giả thuyết của Stephen Oppenheimer. Gần đây, nhà nghiên cứu Stephen Oppenheimer đưa ra một giả thuyết độc đáo về sự kiện lục địa Sunda bị ngập chìm do trận Đại Hồng Thuỷ gây nên cách đây khoảng 8000 năm, do đó, tổ tiên của người Chăm và một vài tộc người ở Tây Nguyên, thuộc ngữ hệ Nam đảo, không phải là từ miền nam Trung Quốc, hoặc từ Đài Loan di chuyển xuống phía nam vào thiên niên kỷ II trước Công Nguyên, như theo giả thuyết của Bellwood/Blust, hoặc của Heine-Geldern, mà ngược lại, đã xuất phát từ vùng tây bắc đảo Bornéo (Indonesia), một mặt đi ngược trở lên phía bắc (ngược lên các con sông lớn) đến Phi Luật Tân, miền trung Việt Nam (Lâm Ấp, Chiêm Thành) và Đài Loan ; một mặt đi sang phía tây : đến các vùng miền tây Indonesia, Mã Lai, v.v. ; một mặt đi về phía nam : các đảo ở Đại dương châu...(theo Nguyễn Quang Trọng, Địa đàng ở phương Đông, DĐ, số 127, 3-2003).
|
|
|
Post by Huu Le on Nov 17, 2006 15:55:10 GMT 9
Cho đến nay, người ta biết rằng người Chăm, cũng như các cư dân của vương quốc Phù Nam, thuộc nền văn hoá Sa Huỳnh, có niên đại từ 500 tr. C.N. đến 100 sau C.N., mà địa bàn trải dài từ Quảng Nam đến Nam bộ (Đồng Nai, Cần Giờ). Nhưng người Chăm đến vùng đất này có thể đã cả ngàn năm trước đó rồi (xem các giả thuyết đã dẫn), vậy chắc hẳn họ đã có cả một nền văn hoá cổ khác nữa ? Nếu đem so sánh các biểu hiện văn hoá nghệ thuật của người Chăm với một số dân tộc Tây Nguyên, người ta có thể khẳng định được rằng người Chăm đã từng thuộc cùng một nền văn hoá với họ : văn hoá Đông Sơn. Qua những phát hiện khảo cổ học mới đây ở Gò Mả Vôi (xem Nguyễn Quang Trọng, Những phát hiện mới về văn hoá Sa Huỳnh..., DĐ số 140, 4-2004). , người ta có thể thấy được rằng nền văn hoá Sa Huỳnh khác hẳn với nền văn hoá Đông Sơn trên nhiều điểm : sự phong phú của các hiện vật bằng sắt, trình độ kỹ thuật sản xuất đồ trang sức, và nhất là đồ thuỷ tinh rất tinh xảo, v.v. Tuy nhiên, cho tới nay, người ta vẫn chưa biết gì mấy về những truyền thống kiến trúc cổ trong nền văn hoá này, ngoại trừ những dấu tích cột chống đã mục nát của những ngôi nhà sàn. Người ta chỉ biết đến những di tích kiến trúc đền đài bằng gạch đá của người Chăm : Mỹ Sơn, Trà Kiệu, Đồng Dương, Hoà Lai, Tháp Mắm, v.v. Đó là những sản phẩm văn hoá mang đậm ảnh hưởng của nghệ thuật Ấn Độ. Nhưng trước khi có nền kiến trúc bằng gạch đá, chắc hẳn dân tộc này cũng đã phải trải qua thời kỳ xây cất bằng tre, gỗ ? Người Chăm không để lại những ngôi nhà sàn mái nhô, hoặc sống võng, hay sống lồi, như một số dân tộc Tây Nguyên, có lẽ vì họ đã đi vào sản xuất nông nghiệp ngay từ sớm ở các vùng đồng bằng (lúa Chiêm), nhưng người ta biết chắc chắn rằng dân tộc Chăm có một truyền thống ở nhà sàn từ lâu đời : dấu tích những ngôi nhà sàn ở Hội An được ghi lại bằng hình vẽ trong sử liệu Giao Chỉ Độ Hải Đồ của Chaya Shinoku, người Nhật Bản, thế kỷ 17 - xem Văn Ngọc, Từ trong lũ lụt nghĩ đến tương lai đô thị cổ Hội An, DĐ số tháng 1-2000 ). Truyền thống ở nhà sàn này vẫn được tiếp tục một cách mạnh mẽ và bền bỉ bởi những người Chăm hiện đang cư ngụ tại một số vùng ngập trũng, hoặc gần sông nước ở Việt Nam (chủ yếu là để tránh lũ lụt !). Người Giarai và người Êđê cho tới gần đây vẫn còn giữ truyền thống xây nhà dài, nhà rông, nhà kho, và nhà ở theo kiểu « hạ thu thượng khuếch », nhưng mái nhà của họ là kiểu mái có sống lồi, cũng giống như ngôi nhà làng của người Bana, Xơđăng, v.v. Tuy nhiên, kiểu nhà này, cũng như kiểu nhà có mái hồi tròn của người Cơtu, Stiêng, vẫn được coi như thuộc kiểu nhà khởi nguyên thuộc nền văn hoá Đông Sơn. Người Dayak (Indonesia) cho rằng hai dạng nhà sàn khắc trên trống đồng Đông Sơn (nhà sàn hình thuyền mái võng và nhà cầu mưa mái lồi) đều thuộc dạng nhà khởi nguyên : nhà sống võng gắn với các biểu tượng chim - núi - thế giới bên trên - mặt trời - đàn ông..., còn nhà sống lồi gắn với các biểu tượng rắn nước - sông - thế giới bên dưới - mặt trăng - đàn bà, v.v. Ngôi nhà cổ truyền của người Toradja (đảo Célèbes, Indonesia) được coi là biểu tượng của con thuyền, với mô típ trang trí chủ yếu là đầu con trâu, tuy nhiên mô típ chim/gà vẫn được chạm khắc hoặc vẽ ở mặt trước nhà cùng với mô típ mặt trời như trên trống đồng Đông Sơn (theo Tạ Đức, Truyền thống Đông Sơn...Tạp san nghiên cứu NGOK LINH, số 2 , 6-2001). Hình dáng ngôi nhà sàn mái hình thuyền trên đỉnh ngọn tháp Chăm ở đền Pô-Kluang Garai gợi nghĩ đến những ngôi nhà sàn Đông Sơn có mái hồi tròn của người Cơ tu, Stiêng, của người Nhật Bản cổ đại, và của những tộc người ở Papoua, Tân Guinée, v.v. Vậy, với ý nghĩa gì, và với động cơ nào, Chế Mân (tức Jaya Simhavarman III), vị vua Chăm ở thế kỷ 14, hôn phu của Huyền Trân Công chúa, đã cho xây ngôi đền này, với hình tượng ngôi nhà sàn mái hình thuyền trên đỉnh một trong ba ngọn tháp ? Đây không thể là một sự tình cờ, mà chỉ có thể là do một sự liên tưởng nào đó tới nền văn hoá cổ của người Chăm ? Cũng có thể, đây chỉ là một ý tưởng thẩm mỹ, một nét chấm phá nghệ thuật ? Hoặc giả, đằng sau tác phẩm kiến trúc, còn có một giai thoại nào khác, một mối tình cảm động, như trường hợp cung Tadj Mahal (Ấn Độ) ? Còn cái tên của ngôi đền : Pô-Kluang Garai, không biết có liên quan gì với tộc người Giarai không ?... Dẫu sao, đây cũng là biểu hiện của một cuộc giao thoa văn hoá độc đáo, ít nhất giữa ba nền văn hoá cổ đã từng có mặt trên mảnh đất miền trung này : đó là văn hoá Đông Sơn, văn hoá Sa Huỳnh, và văn hoá Ấn Độ. Đồng thời, về mặt mỹ thuật, Pô-Klaung Garai là biểu hiện của một nền nghệ thuật đã đạt đến độ chín muồi ở thế kỷ 14 : rất có thể là nó đang manh nha tìm cách thoát khỏi những ràng buộc về qui ước của nghệ thuật tôn giáo Ấn Độ, mà nó đã chịu ảnh hưởng trong nhiều thế kỷ. Đáng tiếc thay, đây cũng là một trong những biểu hiện cuối cùng của nghệ thuật Chăm, trước khi vương quốc này đi vào suy vong. VĂN NGỌC Diễn Đàn Forum, Paris, số 145 tháng 11/2004
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 6, 2018 3:28:01 GMT 9
Sợ LửaDoãn Quớc Sỹ Tết Mậu Tuất, Mừng Sinh Nhật Nhà Văn Cổ tích Doãn Quớc Sỹ 95 tuổi. Nhà văn sinh tại miền Bắc ngày 17 tháng Hai, 1923, nhằm đúng Mùng Hai Tết Quí Hợi. Từ tác phẩm đầu tay là tập truyện cổ tích Sợ Lửa, Saigon 1958, tới trường thiên tiểu thuyết Khu Rừng Lau trước 1975, Doãn Quốc Sỹ là tác giả hàng đầu của văn chương Việt Nam. Với nhà văn bước ra từ cổ tích của chúng ta, 14 năm tù cộng sản chỉ là chuyện ruồi bu. Trân trọng mừng sinh nhật nhà văn, mời đọc lại cổ tích viết 60 năm trước.(Bản vẽ Đinh Cường 1974.)Xưa ở một nước trên bờ biển thuộc miền Tiểu Á-Tế Á có dòng vua Na-Han. Dòng vua này gồm những vị anh quân biết thương yêu dân như con và những vị đại thần giúp vua đều hiểu nguyên lý muôn thuở của cổ nhân “tài tụ thì dân tán, tài tán thì dân tụ” nên họ sống rất thanh bạch, xử với dân rất công minh. Khắp các hang cùng ngõ hẻm đều vang những câu ca thốt tự lòng dân. Tới vua Na-Han đệ Tam lên ngôi cửu ngũ thì có lời sấm tiên tri nhà Vua sẽ chết vì thủy nạn. Khi đó ngài trị vì đã được 14 năm. Một hôm, Ngài cùng quần thần vào rừng đi săn. Ngài mải đuổi một con hươu nên tay chân hôm đó bị nhiều vết xước rớm máu. Trên đường về, khi con ngựa của đức Vua tới giữa giòng suối không hiểu sao nó bỗng chồm lên hắt Vua ngã xuống. Quãng suối này nông, lại không phải mùa nước nên nhà Vua chỉ bị ướt và trở về vô sự. Nhà Vua không ngờ hai bên bờ suối vào mùa đó có một thứ dã thảo nở hoa rất nhiều và rụng xuống dòng suối chảy lặng lờ, tiết ra nước một chất độc giết người. Ngay tối hôm đó, những chỗ xước máu vì thấm nước đều sưng vù lên. Tới ngày thứ ba, nhà Vua bị cấm khẩu và băng hà. Cả triều thần đều cho là lời sấm đã thực hiện đúng. Vua Na-Han đệ Tứ - khi đó mới lên năm - lên nối ngôi và lời sấm dạy: “Nếu không cẩn thận, Ngài có thể chết về hỏa hoạn.” Hoàng Thái hậu chỉ định một vị lão thần ra giữ quyền phụ chính và tức khắc triệu tập các quan trong triều tới họp đông đủ tại điện chính để lậpmột kế hoạch hết sức thận trọng ngõ hầu tránh cho đức Vua mọi rủi ro suốt đời Ngài trị vì. Toàn thể triều đình đồng ý giữ kín việc này không để cho dân gian bên ngoài biết. Nhà Vua ở một cung điện riêng, tại đó tuyệt đối không ai được dùng lửa. Căn phòng Vua ở trên từng cao nhất. Mái điện có từng khoảng lớn lợp bằng pha lê để ban đêm lấy ánh sáng của trăng sao. Các tường xung quanh điện, nhất là những phòng người ở, có những phiến pha lê lớn. Ánh lửa từ những căn nhà hầm tứ phía chiếu hắt lên do một hệ thống gương đặt cái nọ phản chiếu cái kia rồi đem ánh sáng len qua những bức tường đó. Ánh sáng phản chiếu lên như vậy tuy dịu mà vẫn đủ sáng để nhà Vua đọc sách. Khi ánh lửa được lệnh tắt đi, Vua lặng ngắm ánh sáng lờ mờ của trăng sao trên mái cao. Đức Vua có thể sai thị vệ kéo bức nỉ đen trên ngang mái để không còn chút ánh sáng nào trong phòng, nếu Ngài muốn. Tuy nước Vua Na-Han trị vì chịu đậm đà ảnh hưởng nền văn minh Hy Lạp ở bên kia bờ biển Ê-Giê, nghĩa là ai nấy rất kính trọng thần Lửa và không một ai là không biết những thần thoại có liên quan đến lửa, song vị đại thần được cử giữ quyền phụ chính đã chu đáo cử một vị lão thần văn quan phụ trách việc giáo dục Ấu Vương, soạn riêng một cuốn sách trong đó Lửa chỉ là một hung thần có sức phá hoại ghê-gớm. Những biến cố lớn về hỏa hoạn mà nhân loại đã phải chịu đều có ghi rõ ngày, tháng, năm. Nào những trận núi lửa phun đã có lần vùi lấp cả một kinh thành lớn dưới làn tro bụi; nào có những bạo chúa đã thiêu trụi cả kinh thành trong biển lửa; nào những trận hỏa công lớn đã thiêu sống hàng vạn quân sĩ cùng các vị tướng soái… Các kinh sách để Nhà Vua nhàn lãm có đủ các loại ngoại trừ những loại nào trong đó có đoạn - dù chỉ một đoạn nhỏ - ca tụng Lửa. Thoạt tiên Vua Na-Han đệ Tứ lớn lên trong sự hãi hùng thường xuyên về những tai họa của Lửa. Nhưng, tuổi càng lớn, trí tò mò càng mạnh thì Lửa lại biến thành một khát vọng, một ám ảnh mà Nhà Vua mong được tới gần. Một hôm, nhà Vua đọc tới một trang thần thoại kể chuyện thần Phổ Mễ Tệ lấy đất nặn người rồi ăn cắp lửa thiêng của Thượng Đế thổi vào khiến người đất thành người thật và từ đó Phổ Mễ Tệ được ca tụng như một phúc thần đã mang nguồn văn minh lại cho nhân loại. Câu chuyện này làm Nhà Vua bâng khuâng suy nghĩ: “Lửa thiêng đem lại nguồn sống cho đời, đem lại nguồn sồng cho hồn, vậy mà Nhà Vua được quần thần giữ gìn để suốt đời không được gần lửa! Chao ôi! Cuộc đời tẻ lạnh làm sao! Cả đời chìm đắm trong một “mùa đông vĩnh viễn.” Nhà Vua càng khao khát gần lửa! Song những nơi có lửa đều có ngự lâm quân canh gác, khi Nhà Vua tới thì ai là kẻ chỉ huy có nhiệm vụ ra quỳ trước Vua cúi đầu xuống, hai tay dâng lên một chiếc đũa vàng có đính một viên ngọc bích. Đó là dấu hiệu báo để Nhà Vua biết nơi đó có lửa cần xa lánh. Tuy khao khát sống gần lửa, khao khát biết thế lực của lửa nhưng trước những lễ nghi đó, Nhà Vua không biết làm gì hơn là lặng lẽ quay đi lối khác. Chẳng bao lâu Vua Na-Han đệ Tứ đã tới tuổi trực tiếp nắm quyền bính không cần phải chức phụ chính. Rồi Hoàng Thái hậu thân chinh tuyển lựa Hoàng hậu, cùng năm người cung phi cho Hoàng đế. người được kén làm Hoàng hậu lại chính là ái nữ vị đại thần vừa giữ quyền phụ chính. Nàng vốn đã từng thầm yêu trộm nhớ Đức Vua từ lâu. Nay giấc mộng chung chăn gối với quân vương đã thành, trong tòa biệt điện nguy nga nhưng âm thầm tẻ lạnh, nàng tìm hết cách làm đẹp lòng Vua. Thấy đôi mắt Vua luôn đượm một vẻ buồn xa xôi, đôi mắt thường nhìn đắm đuối vào không gian như thèm khát một cái gì, nàng đã tưởng rằng cũng giữ cho vẻ đời mình thầm lặng như vậy để hòa đồng là thượng sách. Ngoài những hoa quả cùng bánh trái đủ loại là những thứ lúc nào cũng có sẵn trong nơi Vua ở, còn ba bữa ăn chính của Vua và Hoàng hậu đều do một viên thái giám phụ trách cho chuyển từ xa lại: nhà bếp không được gần nơi Vua ở, điều đó là lẽ dĩ nhiên. Tuy nhiên, năm người cung phi tới bữa ăn vẫn được phép rời tòa biệt điện để sang cung Nhân Minh dùng cơm cùng với tất cả các cung nữ hầu cận Hoàng Thái hậu. Đã một năm qua những cung phi mơn-mởn đó chưa hề được Nhà Vua vời tới. Có lẽ cuộc sống xa lửa đã làm tắt nguồn lửa thiêng đáng lẽ phải đương thời nồng đượm ở vị anh quân trẻ tuổi đó rồi chăng? Rồi Ngài để suốt một năm trường đi kinh lý hết vùng này vùng nọ khắp nước. Tới đâu dân chúng đều được triều đình cấp báo trước, phải dập tắt lửa và làm đồ ăn nguội đủ trữ ba ngày. Ngày Vua trở về biệt điện, Ngài hạ chỉ xá thuếmột năm. Vị lão thần phụ trách việc giáo huấn khi xưa đã tạ thế, một vị khác được cử thay. Một buổi tối, vị lão thần đó được phép ngồi uống rượu cùng Đức Vua ngoài sân điện. Ngẩng nhìn muôn ngàn vì sao lấp lánh như những hạt kim cương vô giá trên vòm cao, Nhà Vua hỏi: - Theo ý khanh những vì sao kia là gì? - Muôn tâu bệ hạ-vị lão thần cung kính đáp-đó cũng là những khối lửa quay trong không trung. - Những khối lửa? Những khối lửa nguy hiểm? Làm sao những khối lửa ấy có thể đẹp đến nhường kia? - Muôn tâu bệ hạ, cái gì trông xa mà chẳng đẹp! Đức Vua bỗng mỉm cười chua chát: - Có lẽ cuộc đời của ta, trăm họ ở xa trông cũng tưởng là đẹp lắm. - Muôn tâu bệ hạ, Ngài là bậc minh quân, từ ngày Ngài trị vì, trăm họ tiếp tục được sống trong cảnh thanh bình, yên vui, mùa màng tốt, thuế má nhẹ, từ đứa con nít ở chốn hang cùng ngõ hẻm cũng biết ca ngợi công ơn Ngài. Đức Vua lắc đầu: - Sao đời ta vẫn lạnh lẽo. Ta ao ước biến thành khối lửa vần vụ trong trời để các người đứng cách xa ta dưới này thấy ta cười lấp lánh trên cao. Vị lão thần tỏ vẻ hốt hoảng: - Cúi mong anh hồn các vị tiên đế che chở bệ hạ. Có lẽ đâu Ngài lại ước thành lửa là điều tối kỵ đến sinh mệnh Ngài. Lời nói đó đến tai Hoàng Thái hậu. Khi đó người đương nằm trên giường bệnh: vì tuổi tác quá cao, nay tay chân người hầu như bị tê liệt. người thấy con thốt lời nói gở càng thêm phần lo sợ, bệnh tình tăng lên gấp bội và hai ngày sau người đã ra người thiên cổ. Lúc lâm chung người còn cố dặn các lão thần phải hết sức gìn giữ để tránh mọi tai hại cho Đức Vua. Từ trái, Doãn Quốc Sỹ, Trần Dạ Từ và Nhã Ca. Từ khi Mẫu hậu qua đời, Nhà Vua càng thấy cuộc đời ảm đạm. Sự ảm đạm ấy chỉ có Hoàng hậu hiền dịu bên Vua kia có thể sưởi ấm được. SongHoàng hậu vẫn giữ định kiến sai lầm cũ: Để tỏ lòng quý mến của mình với Vua, Hoàng hậu tự thấy có bổn phận phải kính trọng sự trầm lặng đó như một cái gì thiêng liêng bất biến. Về phần Nhà Vua, ngày nay giở lại trang sách cũ nói về những thảm họa do thần Lửa gây nên, Ngài thấy lời văn ngô nghê kệch cỡm làm sao! Bất giác Ngài gập cuốn sách, quẳng vào chỗ cũ và nguyện sẽ không bao giờ đọc tới những dòng mà Ngài cho là điêu ngoa ấy nữa. Một buổi tối, khi ánh phản quang đã chiếu sáng tòa biệt điện, Ngài xuống vườn đi thơ thẩn quanh hồ bán nguyệt lặng ngắm những vì sao in bóng dưới đáy hồ và tự hỏi: “Phải chăng nguyên lý của vũ-trụ là lửa ? Nguyên lý của sự sống là lửa?” Và trong thâm tâm Nhà Vua, lửa thực với lửa tượng trưng hầu như hòa làm một. Khi Ngài trở vào thì vừa gặp lúc năm cung phi ríu rít ở cung Nhân Minh về. Không khí tưng bừng đầy sinh khí vụt tắt hẳn khi bọn họ nhận thấy Đức Vua. Họ quỳ rạp xuống chào Ngài. Bầu không khí yên tĩnh một cách thê lương. Ngài ra hiệu cho phép họ đứng dậy trở về phòng. Họ cúi rạp chào Ngài một lần nữa rồi vội vã nhưng lặng lẽ đi vào lâu đài. Người cung nữ đi sau cùng bỗng vấp phải chiếc cột đá trước cửa vào có khắc nổi hình vị thần linh canh giữ lâu đài. Chiếc hài xinh văng ra xa rồi lăn xuống mấy bậc. Đức Vua đi lên, người cung nữ e dè lặng lẽ đi xuống. Nhìn thân hình uyển chuyển dưới làn sóng xanh của lụa áo, nhìn khuôn mặt hoa như được đóng khung trên mớ tóc óng chuốt như mây một sớm bình minh. Ngài thấy người cung phi có vẻ đẹp thần tượng. Cảm thấy xao động đến tận sâu xa của cõi lòng, Nhà Vua tiến về phía cung phi trong khi nàng đứng nguyên chưa dám cúi xuống nhặt chiếc hài. Đức Vua âu yếm nói: - Khanh hãy đưa ta tới phòng khanh. Một tia sáng vui mừng thoáng hiện trong khóemắt người đẹp, tia sáng mà Đức Vua không bao giờ được nhìn thấy ở khóe mắt Hoàng hậu, tia sáng ấy chỉ vụt qua, thế mà đã đồng thời nhóm lên trong lòng Vua một nguồn sinh khí mới lạ ấm áp làm sao. Khi đã vào tới phòng, Đức Vua hỏi nàng: - Ban nãy các khanh ở cung Nhân Minh về vui vẻ lắm nhỉ ? - Muôn tâu Thánh thượng, sau những buổi ăn tối về, thần đẳng vẫn vui như vậy. - Vì sao thế khanh? - Dạ, muôn tâu vì trong bữa ăn tối thần đẳng thường nhóm lửa giữa phòng để sau đó sẽ biến thành cuộc họp vui, cùng nắm tay nhau vừa nhảy vừa hát quanh lửa. - Đó là tục ở trong cung như vậy ? - Muôn tâu, không riêng gì trong cung mà ngoài các thần dân cũng vậy, và trong các cuộc vui ấy chỉ những người con gái đồng trinh giữ đền là không được dự. - Khanh nói rõ cho ta biết về những cô gái đồng trinh giữ đền. - Muôn tâu, riêng ở kinh đô này có tới mười đền thờ lửa, còn ở các vùng khác trong nước, phàm nơi nào dân chúng tụ họp thành làng là dựng một ngôi đền và cử mười cô gái đồng trinh túc trực ngày đêm giữ cho lửa không bao giờ tắt gọi là những cô đồng. Kẻ nào đến phiên mình mà để lửa tắt sẽ bị chôn sống. Chính thần thiếp trước khi được tuyển vào đây đã từng cùng chín chị em khác giữ trọng trách đó. Nhờ thần thiếp mà một tên tử tù đã được tha bổng. - Khanh kể rõ chuyện đó cho ta nghe. - Hôm đó, tên tử tù bị giải tới pháp trường. Hồng phúc nhà y hẳn còn vượng lắm nên Trời Phật run rủi khi đi tới nửa đường thì gặp thần thiếp. Chiếu theo luật cũ như bệ hạ đã rõ - sự thực, riêng về việc này Đức Vua có rõ gì đâu - khi tử tù được gặp cô đồng giữa đường như vậy thì được ân xá. Người cung phi ngây thơ đã không được huấn luyện kỹ càng cho lắm trước khi vào đây để biết những điều nào nên nói, điều nào cần tránh, nên vô tình đã hé cho Nhà Vua thấy những tục lệ trong chính nước Vua trị vì. Thì ra, ngoài những tai họa do lửa gây nên cònbiết bao cái cao quý mà lửa đã đem lại. Đêm hôm đó nguồn sinh lực mới mà nhà vua thấy nhóm lên trong lòng càng như nồng đượm thêm lên, và nàng cung phi đầu mày cuối mặt tình tứ trong tay Vua như một khối lửa ấm nồng hậu khiến nhà Vua cảm thấy như chính mình mới là người chịu ân sủng. Ngày hôm sau mặt rồng hớn hở, Ngài họp quần thần và tuyên bố sẽ vi hành quanh kinh đô ngay chiều đó. Quyết định của nhà Vua tuy bất ngờ cũng đủ để vị đại thần coi bộ Hộ truyền lệnh tức khắc cho khắp kinh thành không một nhà nào được giữ lửatrong bếp; lập tức mọi nhà phải trữ thức ăn lạnh trong ba ngày, và đêm đến mỗi nhà chỉ được thắpmột ngọn đèn lồng nhỏ. Những đền thờ lửa trong kinh thành đã được các đoàn ngự lâm quân tới canh giữ, mỗi vị chỉ huy mang theo chiếc đũa vàng có đính viên ngọc bích. Các thần dân Vua gặp đều vui tươi hớn hở, nhưng Vua biết rằng những đôi mắt sáng, những khuôn mặt tươi kia là dư ảnh của một cuộc đời tưng bừng luôn luôn được sống bên lửa. Nhà Vua cảm thấy rõ rằng nếu tình trạng giam giữ phải ăn lạnh và sống xa lửa này kéo dài trong một thời gian nữa hẳn bộ mặt của kinh thành sẽ khác hẳn. Đến ngày thứ ba, cuộc vi hành lạnh lẽo đó không còn chút gì là hào hứng nữa. Đêm hôm đó khi ra đi, Nhà Vua cho phép người cung nữ theo mình đến bờ con sông chảy qua kinh thành, Vua cùng cung phi dừng lại. Nhà Vua chán nản nhìn kinh thành bị làn sươngdày bao phủ, đây đó hiu hắt những điểm sáng nhỏ. Chợt đằng xa, tít đằng xa bên kia sông, một điểm lửa bừng sáng, điểm lửa loang dần theo chiều cao thoạt ngoằn ngoèo như con rắn lửa, phút chốc lan dài thành một đường lửa tưởng chừng có tới hàng vạn con người đương đi lên núi, mỗi người cầm một bó đuốc lớn. Nhà Vua hỏi cung-phi: - Thực là đẹp. Khanh có biết vì sao thế không? - Muôn tâu Thánh thượng, đó là khu rừng núi Tây Ninh. Có lẽ cháy rừng! - Lửa cháy như vậy thiệt hại lắm thì phải. - Muôn tâu Thánh thượng, trái lại có lợi nhiều. Những tàn tro rơi xuống làm khoảng cháy thêm mầu. Việc đốt rừng như vậy thường do chính dân chủ trương để làm mầu gieo giống. Chợt gió đổi chiều, mây từ phía biển ùa tới, mưa rơi nặng hạt, phút chốc cả vũ trụ như bị chìm đắm trong màn nước trắng đục mênh mông. Ánh lửa huy hoàng của đám cháy rừng chỉ còn để lại nơi võng mạc Nhà Vua một ấn tượng mơ hồ. Bóng một con thuyền xuôi nhanh như vội vã, mang theo ánh lửa nhỏ phản chiếu xuống dòng sông thành một vệt sáng dài chập chờn lay động vì mưa rơi, rồi phút chốc khuất hẳn. Lửa trong không gian như vụt tắt cả. Nép gọn trong tay Vua giờ phút này chỉ còn người cung phi, một khối lửa nhỏ thân yêu làm sao, nồng ấm làm sao! Sau lần vi hành, trở về cung, Nhà Vua bị cảmlạnh. Trong cơn mê sảng, Nhà Vua luôn miệng nhắc đến lửa. Một lần Nhà Vua cất tiếng cười sảng khoái, chỉ về phía trước mặt nói lớn: - Kìa các người trông ánh lửa đẹp biết là nhường nào. Thực là một biển lửa, một biển hào quang. Aha vũ trụ xém cong vì lửa. Sang ngày thứ ba thì sức kiệt, Nhà Vua trở lại trạng thái bình thường, Ngài nhìn Hoàng hậu âm thầm như một cái bóng bên cạnh giường với vẻ vừa ân cần vừa luyến tiếc. Như thông cảm với cái nhìn đó, Hoàng hậu cúi xuống thấp hơn, hai giọt lệ lăn trên gò má. Năm vị đại thần râu tóc bạc phơ được cử tới cùng một viên hạ quan mang theo giấy bút. Những vị đó luôn luôn túc trực bên long sàng với nhiệm vụ sẽ nhất nhất ghi những lời truyền phán cuối cùng của Đức Vua. Nhưng trước khi Vua Na-Han đệ Tứ băng hà,họ chỉ ghi được có câu sau này mà Nhà Vua đã thốt ra bằng một giọng bi hùng đặc biệt của người bất đắc chí khi sắp lìa cõi thế: “Ta chỉ tiếc không được sống cùng lửa để dù có chết với lửa cũng cam.” Doãn Quớc Sỹ
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 8, 2019 3:20:45 GMT 9
Tuồng tích”trong chay ngoài bội”VHPG | 05/09/2013 tapchivanhoaphatgiao.com/van-hoa/noi-dung-tuong-tich-trong-chay-ngoai-boi.htmlTạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 39 Vu Lan | HUỲNH NGỌC TRẢNG “Có thằng chồng say như trong chay ngoài bội, Ngó vô trong nhà như hội Tần vương”. Chẳng biết hội hè cùa vua Tần bên xứ Trung Hoa ngày xưa như thế nào, nhưng câu hát ví von trên cho phép chúng ta hình dung ra một bầu không khí tưng bừng khác thường. Điều gì đã làm huyên náo môi trường, nghi lễ trai hội trang nghiêm đó? Tại sao lại như vậy? ( Trong chay ngoài bội Những đám lễ lớn, bên trong làm cỗ chay, bên ngoài dựng rạp mời đoàn hát bội. Cụm từ "trong chay ngoài bội" chỉ những cảnh bận bịu rộn ràng ) QUÁ TRÌNH KHẾ HỢP LÀM CHAY VÀ HÁT BỘI 1– Từ điển Đại Nam quốc âm tự vị (Saigon, 1859) định nghĩa “Trong chay ngoài bội” là “Cuộc bày trong ăn đồ lạt, làm việc sám hối, ngoài bày chuyện vui chơi ca hát”. (1.1.115). Ở mục từ “chay” có 2 từ: 1) “làm chay” là: Làm cuộc sám hối theo đàng Phật, có xô giàn bánh trái, đồ ăn cho người ta lượm”, và 2) “đám chay”là “cuộc làm bày chuyện sám hối, vô thí, ăn đồ lợt”. ở từ “bội” có hai từ liên quan: 1) “trò bội” là cuộc đời ca hát, đám hát, bạn hát”; và 2)”áng bội bê” là “trường ca hát” (hiểu là rạp hát, nơi diễn tuồng sân khấu). Nói chung theo quan niệm nhà Phật, làm chay là cuộc trai hội nhằm cúng dường vật thực cho Tam bảo. Nguyên từ “trai” (chay) là thanh tịnh, tâm thân, biểu lộ tín tâm quy y Tam bảo; về sau lại dung nhập các mục dích chúc mừng, báo ân, cầu phước, thí thực ngạ quỷ, chẩn tế cô hồn..Tùy theo từng trường hợp trai hội tại tư gia, các nơi công (đình, miễu, chợ…) hay tại chùa. Ở đó, ngoài việc thực hành nghi lễ, xưa kia phổ biến còn tổ chức diễn tuồng, gọi chung là đám “làm chay hát bội”. Việc khế hợp hát bội vào nghi lễ như vậy là do thời ấy hát bội là loại hình nghệ thuật chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống văn, xã; nó ảnh hương đến hâu hết các dạng thức diễn xướng, lễ hội, hát chầu cúng thần trong lễ kỳ yên ở đình làng, hát chặp (hát trích đoạn trong các vở tuồng) hay diễn chặp bóng- tuồng địa năng trong lễ cúng miễu hàng năm, hát các bài bản tuồng cùng với trò đưa linh trong hình thức diễn xướng tang lễ…gọi lả Hát đưa linh. Lễ hội khoa nghi Phật giáo cũng không thoát khỏi tình cảnh chung đó, nên đã ra đời hình thức Hát Phật. 2– Ở vùng đất mới phương Nam, cuối thế kỷ XVIII, hát bội đã phát triển ở mức độ đáng kể, đến nỗi chúa Nguyễn đã sai hầu cận về tận xứ Đồng Nai để tìm “bắt con hát” để đưa vào tận xứ Phú Xuân. Đại Nam thực lục tiền biên chép rằng: năm 1769, chúa Nguyễn “sai các châu huyện, lập phường Chơi Xuân, mỗi phường 15 người, nộp thuế một quan tiền” và năm 1790, đặt 10 bạn du xuân (bạn hát đi các làng hát thuê) lấy hai cơ Ngô Công Quý làm cai quản. Mỗi bạn 5 người, mỗi năm nộp sưu 600 quan, thuế thân cũng coi như quân hạng”. Có lẽ lập ra các phường, bạn này là nỗ lực “quốc điểu hóa” việc hát xướng trong dân gian vốn bị nhiều bậc quan lại phê phán là quá đà và làm hại phong hóa, tạo nên “tệ tục”…Tuy vậy, các nỗ lực này xem ra không hiệu quả nên đến thế kỷ XIX tình trạng hát xướng, diễn hí “không lúc nào thôi” vẫn còn bị các quan như Trương Quốc Dung, Doãn Uẩn, Trịnh Hoài Đức lên tiếng phàn nàn. Trong Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức cho biết tình hình ở Nam Bộ hồi đầu thế kỷ XIX: “Tục cầu đảo được việc vui mừng đều mở cuộc hát xướng, ắt trước hết giết heo phân tốp cho những người quen biết, cho biết ngày hẹn mời đến xem hát chơi – gọi là “phiêu lễ”. Đến ngày, tùy tình hậu lạc đem tiền đến mừng lễ coi hát, ăn uống rồi về. Sau, người quen biết ấy có mở cuộc hát xướng cũng đưa “phiêu lễ” đến tên Giáp, thì thế nào tên Giáp cũng phải đi. Như tên Ất trước khi đi mừng Giáp một quan thì nay Giáp đi trả lại cho tên Ất giá bội 2 quan; sau tên Giáp có việc mừng nữa thì Ất phải đưa lên 3 quan…Đi qua đi lại cứ gia bôi như thế dẫn đến 100 quan đến nỗi có người phải cầm thế, vay mượn để trả “phiêu lễ” ấy, hoặc có người nghèo không báo đáp đủ số thì người làm “phiêu lễ” đến sách vấn, có khi sinh kiện nhau! Tục ấy đã nghiêm cấm, nay đã chấm dứt”. (3) Nói chung dù những “tiêu cực” như vậy có bị cấm, hát bội vẫn cứ phát triển cho đến khi cải lương thịnh hành, giành lấy vị trí thống trị của hát bội cho đến những năm 1940, 1950 cải lương mới lấn át hẳn; tất nhiên trong môi trường nhi lễ, hát bội được bảo thủ lâu dài hơn. Chính trong bối cảnh thịnh đạt của hát bội ấy, đã thành tạo và phát triển hình thức lễ hội “trong chay ngoài bội”. Đến nay chúng ta không có cứ liệu để xác định niên đại ra đời của hình thức “trong chay ngoài bội”. Có thể hình thức này đã ra đời từ xưa, chí ít là hời chúa Nguyễn ở Đàng Trong và được lưu dân, Tăng sĩ Thuận Quảng đưa vào Gia Định. Tác giả Gia Định thành công chí ghi rằng: người ở Gia Định (hiểu là Nam Bộ) “hay chuộng đạo Phật” và “có tục cư tang theo đạo Phật, cúng cơm chay 49 ngày mới thôi” (4). Điều này đã chỉ ra khoa nghi nhà Phật đã trở thành phong hóa vùng đất này. Lịch sử Phật giáo Saigon – Gia Định ghi nhận rằng: Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, sau 2 lượt tụ họp chư tăng tu học (1884) , và tuần khai kỳ truyền giới (1849), Tổ Hải Tịnh “nhận chân được tâm lý chư Tăng và tín đồ hiện tại ưa ứng phú hơn là đến pháp hộ nghe kinh. ứng phú là một môn hành sự trong nhà chùa, tức môn âm nhạc riêng trong đạo, hiện tại đem dùng vào lễ cúng trong chùa và nơi có đám tang, đám làm tuần thất ở nhà tín đồ các sư đến hành lễ (ứng, chỉ lời mời; phú là đi đến, sau này có từ là đi đám). Tổ nhận xét: mời chư Tăng đến nhà để kỳ nguyện rất tiện lợi cho những tín đồ trong nhà rất ít người. Thứ hai chỉ độc một ông Tăng tụng kinh, tiếng kinh nghe khan khan, nghĩa kinh không hiểu biết thì dễ làm cho tín đồ nghiêng về ứng phú, vì ứng phú khi hành lễ tuy cũng tụng kinh , nhưng tiếng kinh có trầm có bổng, có tiếng đẩu tang nhịp nhàng, nghe thâm u trầm lắng, gợi nhớ, gợi thương như thiết tha cầu nguyện. Ông sư nào sáng chế ra môn này, nếu khéo sắp xếp lòng đạo đức từ bi, và đạo tràng ứng phú, nhân có truyền bá đạo lý vị tha thì công đức rất có ích cho đạo, cho đời, không trường lớp nào hơn được. Nhưng cũng có thể nhà sư thường đến nhà thế gian, lần lần lân la giao thiệp, rồi nhiễm tục đời,làm mất phẩm cách của nhà sư giải thoát” (5) Chính vì băn khoăn giữa hai đường lợi hại đó, nên mãi mấy năm sau, khi thấy hoạt động ứng phú lan tràn, chệch hướng, Tổ Hải Tịnh mới quyết định lấy chùa Giác Viên (nay thuộc quận Tân Bình, TP.HCM) làm cơ sở chính để học tập khoa ứng phú. Từ đó, chùa Giác Viên trở thành trung tâm đào tạo và thực hành khoa ứng phú cho cả xứ Nam Kỳ – Lục tỉnh (6). Đây là giai đoạn khoa ứng phú đi vào hoạt động quy mô và quy củ. Đó cũng là lúc hát bội đang ở thời kỳ vàng son nên hình thức “trong chay ngoài bội”, việc tích hợp chay bội cũng phấn phát và cũng bắt đầu xác lập định hướng hoằng hóa Phật pháp khác với tính chất tự phát trước đó. Kết quả kiểm tra hồi cố cho biết rằng, trước năm 1945, các trai đàn ở Nam Bộ đều có hát Phật (hiểu là tuồng tích có liên quan đến đạo Phật, gọi chung là tuồng đám). Việc biểu diễn ngoài bội thì hoặc mời các gánh hát bội đảm nhận và càng lúc càng nhiều cuộc lễ. Các Tăng sĩ ứng phú dặm mặt, thay y trang biểu diễn. Đến năm 1952, Hoa thượng tăng trưởng Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng Việt Nam ra lệnh cấm nên việc tăng sĩ diễn tuồng không còn nữa. Hòa thượng Tăng trưởng thuộc tông môn chùa Giác Lâm (quận Tân Bình), vốn là một kinh sư ứng phú nổi tiếng; nhưng qua kinh nghiệm, Thượng tọa thấy việc người tu hành lên sân khấu tác hại đến oai nghi: “Phàm kẻ xuất gia tu hành mà vẻ mặt, vẻ mày, mang râu, mặc giáp để bước lên sân khấu làm trò cười cho thiên hạ thì tự mình làm nhẹ thể ông thầy tu, tự mình làm cho người khác khinh khi Tam bảo”. Từ đó, hát Phật dần dần mai một và ngày nay không còn nữa. Dù là vậy, song trong danh mục các vở tuồng đồ, chúng ta còn thấy một số tuồng tích chứa những thông điệp xiển dương đạo pháp hay khuyến thiện giới ác theo quan điểm nhà Phật. Chú thích: (1)Xem Đại Nam Liệt truyện tiền biên: Cao tự Thanh dịch và giới thiệu. NXB KHXH, 1995, tr 230-21 (Đăng Đại Độ): 108-109 (lệnh cấm ca xướng trong 100 ngày khi Hoàng tử qua đời – 1760). (2) Đại Nam Thực lục tiền biên. Bản dịch của Viện Sử Học, NXB KHXH, H, 1962 – 1970 tập I, tr 236, tập II, tr 12. (3) Trịnh Hoài Đức: Gia Định Thành thông chí, Bản dịch của Tụ trai Nguyễn Tạo, S, 1972, tập hạ, tr 12. (4) Trịnh Hoài Đức, SDD, tập hạ, tr 4-5 (5) (6) Thiền hòa tử Huệ Chí: Lược sử chùa Giác Lâm, bản thảo 1983 (buổi đầu của Phật giáo Gia Định – Saigon). Kỷ yếu Hội thảo khoa học “300 năm Phật giáo Gia Định – Saigon – TP.HCM. NXB. TP HCM, 2002, tr 58-77) ************************************* Tuồng tích “trong chay ngoài bội” (Kỳ 2) VHPG | 24/09/2013 | 0 Comments Tạp Chí Văn Hoá Phật Giáo số 40 | Huỳnh Ngọc Trảng (Tiếp theo VHPG số 39 và hết) II. ĐỌC LẠI NỘI DUNG MỘT SỐ TUỒNG ĐÁM Tuồng đám trong hình thức chay bội có nhiều loại khác nhau: một là có thể có loại tuồng đồ hài hước,châm biếm thói hư tật xấu phổ biến chung cho sân khấu đời lẫn đạo; hai là loại tuồng chuyện đời ý đạo, dưới cái dạng phồn tạp thế tục, hàm chứa ẩn ý về đạo pháp; và ba là, loại tuồng có nguồn gốc từ Phật thoại, từ tín lý Phật giáo. 1. Loại tuồng có nguồn gốc từ Phật thoại có vở Mục Liên Thanh Đề (bắt nguồn từ tích Mục Kiền Liên cứu mẹ thoát khỏi ngạ quỷ trong kinh Vu Lan Bồn), vở Tam Tạng thỉnh kinh (Tây du ký); đặc biệt đáng chú ý là Quan Âm giáng thế. Đây chính là loại “tuồng đám” chính hiệu bởi nội dung của nó thể hiện trực tiếp tín lý của tín ngưỡng thờ vị “Tầm thinh cứu khổ” Bồ tát và việc biểu diễn tuồng này cũng có phần gắn bó hữu cơ với việc thực hành nghi lễ (Đàn Quan Âm-Thổ Địa). Cốt truyện của vở tuồng này khá đơn giản: Bồ tát Quan Âm nghe lời khấn nguyện hồng danh của mình liền giáng thế đến chứng lễ. Xuống đến trần gian, để đến đúng nơi đang thiết lễ trai đàn, Ngài bèn gọi Thổ Địa và Thổ Kỳ đến dẫn đường. Cốt truyện là vậysong nội dung vô cùng phong phú, bởi trên đường đi, hai thần chưởng quản đất đai là Thổ Địa và Thổ Kỳ “sinh sự” nhiều mảng trò hài hước, kéo mọi việc xuống đời và kéo dài vở diễn đến một hai giờ. Một cách tổng quát, tuồng Quan Âm giáng thế là anh em song sinh với chặp bóng tuồng Địa Nàng (Ông Địa và Tiên nương của Tây Vương Mẫu) trong lễ cúng miễu; tức chúng có chức năng kép: vừa phổ truyền tín lý, vừa đáp ứng nhu cầu vui vẻ thưởng ngoạn của người dự lễ (1). 2. Khác với tính chất biểu hiện trực tiếp các thông điệp tín ngưỡng của loại tuồng đám nói trên, loại tuồng “chuyện đời ý đạo” là những bức tranh biếm họa các thói hư tật xấu thế tục và dưới tầng nghĩa bề mặt đó là các thông điệp giới ác khuyến thiện theo luân lý nhà Phật. Chính vì sự khuất lấp đó mà xưa nay loại tuồng này được ghép chung vào loại tuồng đồ, tuồng dân gian-khác với tuồng pho, tuồng thầy chủ vào xu hướng tôn vinh giá trị trung hiếu tiết nghĩa của Nho gia. Trong danh mục tuồng đồ ấy, các vở tuồng Ông Trượng-Tiên Bửu, Trương Ngảo, Trương Đồ Nhục là những sáng tác ẩn chứa tư tưởng Phật giáo rõ rệt, nếu được nhìn dưới sự phân giải và đối chiếu với giáo lý Phật giáo (2). Tuồng Ông Trượng-Tiên Bửu, đúng ra là một bản “thơ tuồng” (loại sáng tác kết hợp thể văn vần lục bát với các thể văn của kịch bản tuồng dùng để Nói tuồng: Một diễn viên duy nhất vừa nói thơ vừa hát các bài hát bội (nói lối, bạch xướng, hát nam, hát khách…). Nội dung gây cười chủ yếu của sáng tác này là những lời đối đáp chọc ghẹo khiếm nhã, thậm chí là táo tợn, của Ông Trượng 85 tuổi với Tiên Bửu, cô gái chèo đò 15 tuổi. Song đừng để những chi tiết hài hước dung tụcđó đánh lừa, cốt truyện của nó, nói về tính chất vọng tưởng của tri thức thế gian, sự vô thường giả tạm của thân xác con người, những sự khổ do ái ly biêt, cầu bất đắc..Cốt truyện kể: Tiên Bửu, cô gái 15 tuổi, làm nghề chèo đó ở bến Giang Tân để kiếm tiền nuôi mẹ. Ông Trượng, 85 tuổi, xuống bến sang đò,giả làm thương khách thử lòng Tiên Bửu. Sau một hồi tán tỉnh, Tiên Bửu cố chối từ, nhưng vì bị thua trong cuộc đối đáp nên đành chịu kết hôn với Lão Trượng. Cuộc hôn nhân già trẻ bất xứng đó đã khiến Tiên Bửu bất bình, do đó, Tiên Bửu buộc ông Trượng nhảy vào chảo dầu sôi để già hóa trẻ. Ông Trượng “chết”. Tiên Bửu vội vã trở lại bến Giang Tân chèo đò. Ông Trượng vốn là tiên nên hóa thành chàng tráng sĩ ra bến đò. Tiên Bửu gặp chàng tráng sĩ trẻ nên phải lòng, nguyện gắn bó làm chồng vợ. Nhưng khi đò cặp bến, Tiên Bửu cầm tay tráng sĩ thì chàng bay lên không biến mất. * Tuồng Trương Ngáo, tên đầy đủ là Trương Ngáo đòi tiền Phật, cũng là một vở tuồng đồ hài hước, nhưng các biểu hiện giáo lý nhà Phật biểu lộ rõ nét hơn, không chỉ ở tuồng tích mà cả ở tên gọi các vai tuồng: Lục Trần, Tam Bành, Hứa Chơn Tâm…Tích tuồng: Tam Bành là một phụ nữ tinh tướng. Trương Ngáo (chồng của Tam Bành) là một gã đàn ông thật thà đến mức trì độn. Tam Bành vay của Lục Tồn (nhà giàu, góa vợ, chuyên cho vay lãi) 5 quan tiền đem về giao cho Trương Ngáo mang xuống chợ mua hàng về bán lẻ kiếm lời. Ra chợ, thấy nhiều người góp tiền đúc tượng Phật ở chùa Vạn Linh, Trương Ngáo tò mò hỏi sự việc và được đáp rằng việc “Đem đồ đi cúng là lưu tử tôn hậu thế, hưởng lợi lộc vô cùng. Bây giờ cúng 10 đồng, ngày sau…trả mà quá chục. Lời tục tin rằng đi cúng , ngày sau chẳng khác cho vay. Hễ là tích đức ngàn ngày, thời cũng nhờ ơn muôn thuở”. Trương Ngáo nghe thế liền cúng hết 5 quan tiền vào việc đúc tượng Phật. Vì việc làm này, Ngáo bị Tam Bành đánh đuổi khỏi nhà. Ngáo gặp cảnh ngộ như vậy bèn quyết lên đường qua Tây phương tìm Phật để đòi lại tiền. Vô tâm đạo dị tầm. Ngáo gặp được Phật. Phật ban cho Ngáo ba hoàn thuốc “định thần” (giúp Ngáo khai mở trí tuệ) và đổi lại tên là Hứa Chơn Tâm. Trở về, Hứa Chơn Tâm trở lại thăm quán trọ và cô chủ quán tên là Hà Như Ý yêu mến. Họ kết nghĩa vợ chồng và cùng nhau lo việc buôn bán làm ăn, chẳng bao lâu trở nên phát đạt. Nói về Tam Bành, vì món nợ và cũng vì Lục Tồn có tình ý từ trước nên họ kết hôn làm vợ chồng. Song vì tính ham cờ bạc, Tam Bành đã làm tan gia bại sản. Cuối cùng cả hai đành theo Bóng Sỏi để làm nghề ca hát. Một hôm, vợ chồng Hứa Chơn Tâm –Hà Như Ý mời gánh hát Bóng Sỏi đến nhà cúng lễ tạ ơn Bà Độ Mạng. Những người quen biết cũ nhận ra nhau: Lục Tồn và Tam Bành bị Hứa Chơn Tâm đuổi đi. Như vậy, Trương Ngáo đòi tiền Phật là vở tuồng phát ra một thông điệp về nhân quả báo ứng, đồng thời khuyến giáovề công đức tạo tượng. Mặt khác, tên các nhân vât chính là những minh dụ về sân si (Tam Bành), lục tặc (Lục Tồn), Chơn Tâm (Hứa Chơn Tâm) : đó là những đặc ngữ của nhà Phật. * Có phần khác với các vở tuồng trên, tuồng Trương Đồ Nhục vốn có nguồn gốc từ Sự tích chàng Trương Ẩn nhân quả báo ứng trong kinh Kim Cang linh nghiệm. Dị bản truyện này ở xứ ta thường được gọi là truyện Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Cốt truyện: Diêm chúa sai sứ bắt hồn của tay đồ tể Trương Đồ Nhục đã mãn số, đưa về âm phủ để xét tội sát sinh. Nhưng do Thổ Địa sơ ý, quỷ sứ lại bắt nhầm hồn của Trương Hòa thượng (một nhà sư đạo hạnh trang nghiêm, có tên trùng với tên của Trương Đồ Nhục). Khi đem ra xét xử, Diêm chúa phát hiện ra sự nhầm lẫn đáng tiếc này nên cho Trương Hòa thượng được hoàn hồn sống lại. Oái oăm là lúc đó nhục thân của Trương Hòa thượng đã được Tăng chúng ở chùa hỏa táng thành tro rồi. Do vậy Diêm chúa ban lệnh cho hồn Trương hòa thượng nhập vào xác Trương Đồ Nhục. Việc này dẫn đến cuộc tranh chấp giữa vợ Trương Đồ Nhục và Tăng chúng ở chùa. Cuối cùng cả hai bên nhờ quan huyện xét xử. Sau khi biết rõ sự tình, quan huyện cho phép Hòa thượng “Trương Đồ Nhục”cạo đầu đi tu và nhà chùa trả tro xác của Trương Hòa thượng cho vợ Trương Đồ Nhục mang về mai táng. Nhìn chung, đây là vở tuồng có nội dung khuyến thiện giới ác rõ rệt, cụ thể là nêu ra giới cấm sát sinh, một trong ngũ giới, đồng thời đề cao việc tu hành tinh tấn và ở đó,cũng biểu thị quan niệm về luân hồi, tái sinh theo lý nhân quả báo ứng của đạo Phật. Những phân giải sơ lược trên đây đã chỉ ra việc có một tập hợp tuồng đám , hát Phật, đặc sản của sân khấu lễ hội “trong chay ngoài bội” mà xưa lan luôn được gộp chung vào loại tuồng đồ,tuồng hài. Nếu tuồng thầy,tuồng pho được sáng tác trên cơ sở đề cao trung hiếu tiết nghĩa của Nho gia thì tuồng đám “trong tay ngoài bội” lại tập trung chủ ý vào giáo thuyết nhân quả báo ứng của nhà Phật, phối hợp ít nhiều với đạo đức thực tiễn dân gian. III. THAY LỜI KẾT Như một nỗ lực kiên trì cạnh tranh với hình thức diễn xướng nghi lễ, hội hè dân dã và quan phương, nhà chùa đã cố tìm những hình thức biểu cảm khế hợp với căn cơ của quần chúng nhằm tăng cường hiệu quả công việc hoằng hóa đạo pháp của mình. Việc trình thức hóa nghi lễ (khoa nghi Phật giáo) có lịch sử lâu đời và khá thịnh hành ở Đàng Trong thời chúa Nguyễn. Theo đó, nhạc lễ , vũ đạo (múa rọi trong nghi Phần chỉ), các hình thức nghi lễ, nghi lục cúng, thập cúng, xá mã, xá hạc, các điệu bạch, thỉnh, nguyện, đọc, tán,tụng…đã làm cho giáo pháp và hình tượng tôn giáo được rõ ràng hơn, dễ tiếp thu và gây ấn tượng hơn. Những kỹ năng mà đội ngũ chư Tăng thực hành khoa nghi ứng phú sở đắc là tiền đề thuận lợi cho việc hình thành hình thức Hát Phật trong trai hội “trong chay ngoài bội” và đây cũng là bước tiến mới của việc tìm kiếm cách thức hấp dẫn hơn trong nỗ lực hoằng hóa (3). Thoạt tiên,dường như tuồng Quan Âm giáng thế gắn với Đàn Quan Âm- Thổ Địa hay tuồng Mục Liên Thanh Đề gắn với Lễ hội Vu lan là hình thức tá dụ, tức sân khấu nghi lễ còn gắn bó chặt chẽ với chính buổi lễ. Tất nhiên, sự gắn bó này có phần mong manh bởi lời hát, nội dung lời thoại và diễn xuất đã khác biệt với tính trang nghiêm của nghi lễ, mặc dù nghi lễ tự thân nó cũng có tính trình diễn. Bởi vậy, các tuồng diễn này khá gần kịch bản lễ thức. Loại tuồng “chuyện đời ý đạo” đúng là kịch bản lễ thức. Nếu hoạt động thực hành khoa nghi ứng phú là phương cách “dĩ huyền độ chơn”thì ở đây là “dĩ lộng độ chơn”. Trong nội dung của loại tuồng này, do nhà chùa muốn làm cho phương tiện hoằng hóa trở nên sắc bén hơn nên các chủ đề đạo pháp được tạo ra cách hiểu có tính chất thế tục và có tính thời sự. Đồng thời, kỷ thuật dàn dựng, biểu diễn cũng dần được hoàn thiện cho kịp với những tiến bọ của nghệ thuật tuồng ngoài đời. Việc biểu diễn được chuyển ra ngoài lễ thức- “ngoài bội” , do đó nó không bị câu thúc bởi tính trang nghiêm và quy phạm vủa khoa nghi nên chúng mở rộng phạm vi phản ánh: tràn ngập các tình tiết, lời thoại thế tục. Các mô típ thế tục tác động đến đề tài, thành phần tham gia, cách diễn và các hình thức bên ngoài buổi diễn. Chính vì vậy, khi phục vụ đám đông vui vẻ, cótinh thần hướng về hội hè đình đám như vậy, các vở tuồng chỉ hy vọng thành công nếu nó được người xem hiểu ra chủ ý của vở diễn. Do đó, các kịch bản đều phải có giáo đầu tuồng để chỉ rõ chủ đề của vở diễn, để “đặt vấn đề”. Ví dụ: – Giáo tuồng vở Trương Đồ Nhục:trai-dan-chan-te (…) Nghề bán thịt danh Trương Đồ Nhục (lại nói) Như tôi, chuyên nghề củi lục Ví kịp yêng tam (nhưng mà) Chữ đại phú do thiên Câu tiểu phú cần đã Hễ người trong thiên hạ Lấy no ấm làm đầu (như) Làm (thịt) heo mà ví họa sâu (bằng) Đánh cá chẳng may tội trọng (hay sao?) Tin chi lời huyền vọng Mà cất để vào lòng (Bớ gia đình) Gia đình bắc nước cạo lông,) Cho cậu xuống sao chọc huyết. (…) Trịu quang gánh nặng dời chơn, Theo nghề thương mãi há rằng khen chê! – Giáo đầu vở Trương Ngáo đòi tiền Phật: (…)Muốn đặng thiện duyên hai chữ Phải lo tác phước ngàn ngày. Chùa Vạn Linh từ lập đến nay Của Tam bảo sắm vô còn thiếu. (Chừ thôi thời) Ta đem tiền bạc, nhóm thêm bổn đạo Mua đồng đúc Phật Trung Tôn. Bây giờ ta có tiếng đồn, Ngày sau cũng đặng nhờ chút phước. Việc nêu rõ chủ đề muốn “gửi gắm”cho người xem như vậy là một thủ tục truyền thống, song mặt khác, là sự lo ngại các tình tiết phồn tạm của vở diễn che lấp cái chủ ý của vở tuồng: thấy “chuyện đời”mà không hiểu “ý đạo”. Nói chung, càng tăng cường các thành tố thế tục để gây hứng thú cho người xem bao nhiêu thì càng xa mục đích ban đầu bấy nhiêu. Ngay từ chủ trương kết hợp chay-bội đã nội tại mầm mống tiêu diệt chính nó, nó được tạo dựng là để làm cho quần chúng chú ý tới những thông điệp đạo pháp và bây giờ nó lại làm cho người ta xao lãng tư tưởng ấy. Từ đó, càng ngày càng bộc lộ mâu thuẫn sâu sắc giữa yêu cầu trang nghiêm của khoa nghi và khuynh hướng miêu tả hài hước cuộc sống thế tục để đáp ứng yêu cầu vui vẻ mỗi ngày một mạnh mẻ hơn của thế nhân. Tổ Hải Tịnh xiển dương khoa nghi ứng phú và rồi Tăng trưởng Giáo hội Phật giáo Lục hòa Tăng nghiêm cấm Hát Phật. Hai chủ trương đều đúng bởi cả hai đều xuất phát từ trách nhiệm với tiền đồ tôn giáo của mình. Vấn nạn này là vấn nạn muôn đời. Chú thích (1) Xem: Huỳnh Ngọc Trảng: Địa Năng/ chặp bóng tuồng hài Nam Bộ.Nxb. TP.HCM, 1992 (2) Các kịch bản nêu trong bài viết,tham khảo từ các nguồn sau: – Thơ tuồng Ông Trượng – Tiên Bửu (Bản in của imp .Commercial, Saigon,1904; Bản in của Nhà in Bảo Tồn, Chơn Lớn,1950 (?); Bản của Bazar Phạm văn Thịnh, Sàigòn, không đề năm xuất bản. – Trương Ngáo, Claude et Cei imp, Sàigòn, 1904 – Trương Đồ Nhục trong Tuồng hài của Lê Ngọc Cầu, NXB. Văn Hóa ,H, 1980, tr. 254-279 – Tuồng đám (Hán Nôm) do Trương Ngọc Tường sưu tầm ở Lấp Vò, Sa Đéc. (3) Xem Diễn xướng nghi lễ trong khoa nghi ứng phú Phật giáo/ Trong dân gian Gia Định – Sài gòn. Trung tâm Văn hóa TP. HCM xuất bản, 2002, tr. 270-294 tapchivanhoaphatgiao.com/suu-tam/noi-dung-tuong-tich-trong-chay-ngoai-boi-2.html
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 8, 2019 3:35:17 GMT 9
Ngó vô trong nhà như hội Tần vươngantgct.cand.com.vn/Nhan-dam/Ngo-vo-trong-nha-nhu-hoi-tan-Vuong-459557/Có thằng chồng say như trong chay ngoài bội Ngó vô trong nhà như hội Tần vương Nhậu nhẹt quá chén - Bén họa cho gan Tai họa đến từ nhậu nhẹt Đừng quá say sưa với những tiếng vỗ tay trên mạng Bởi say sưa nhậu nhẹt, hủ chìm hủ nổi, mềm như sợi bún, say quắc cần câu, say mèm say khướt, say cúp bình thiếc, say lết bánh, nôn thốc nôn tháo, cho chó ăn chè, vì thế, cô vợ mới ngao ngán gọi là "thằng". Đọc ca dao, thỉnh thoảng gặp từ "con" dành cho vợ/người tình thốt ra từ miệng người đàn ông, dù họ đang yêu thương đằm thắm; từ "thằng" không hề thấy quý cô/quý bà sử dụng đến. Ai nỡ gọi, "hoàng tử của lòng em" là "thằng" bao giờ? Chỉ khi nào khinh miệt, khinh bỉ, rẻ rúng, tức giận và cắm lên đầu cho cái sừng, họ mới gọi "cây tùng, cây bách"; "trụ cột" kia là "thằng". Mà thôi, chuyện nhà của thiên hạ, bàn luận làm chi. Chuyện đáng bàn vẫn là câu thành ngữ "Trong chay ngoài bội". Việt Nam tự điển (1971) do Lê Văn Đức biên soạn, Lê Ngọc Trụ giải thích: "Trong nhà thì làm chay thí thực; ngoài sân thì cất giàn để hát bội cho người xem, chỉ nhà giàu sang, thường có đám tiệc khách khứa". Thí thực là đồ ăn bố thí cho ma đói (ngạ quỷ), cô hồn vất vưởng vất vơ, không có thân nhân cúng kiếng; nhưng đem đồ chay cúng dường cho tăng ăn, người ta cũng gọi thí thực. "Mùi thiền đã bén muối dưa/ Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng/ Sự đời đã tắt lửa lòng/ Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!". Lúc ấy, dứt khoát Thúy Kiều ăn chay, còn gọi ăn lạt, chứ không ăn mặn nữa. "Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối". Cách gọi "mặn", "lạt" đã thể hiện tính chất món ăn theo quy định của một tôn giáo. Vì thế, khi nghe nhắc đến vật gì có chất mặn như mắm, như muối, chẳng hạn: "Chuyện chẳng có gì, hắn ta thêm mắm, thêm muối nghe rợn cả người", tức thêm thắt bịa đặt, nói vống lên, có ít xít cho nhiều, sai lệch với sự việc vốn có. Lắt léo cho tiếng Việt còn ở chỗ, một khi nghe nói ngủ chay, lập tức ta hiểu là người đó ngủ một mình, không chung chạ xác thịt; hoàn toàn khác với ngủ mặn. "Bóng gương thấp thoáng dưới mành/ Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa" (Cung oán ngâm khúc), "Mỏi gối chồn chân cũng muốn trèo” (thơ Hồ Xuân Hương), có người cùng thủ thỉ, tâm tình, đầu ấp tay gối là ngủ mặn. Vậy một khi uống chất men không kèm mồi, không có gì nhấm nháp đưa cay, chỉ rượu với rượu, cũng tỷ như ngủ chay một mình, ta gọi "uống chay" chăng? Theo đúng điệu đệ tử Lưu Linh phải gọi "uống suông". Không rõ hai câu thơ này của ai, nghe ra cũng "dân chơi" lắm: Thơ suông nước ốc ngâm còn váng, Rượu lạt non chai vẫn chén khà "Thơ suông nước ốc" là thơ nhạt/ nhạt thếch. Liên tưởng qua câu cửa miệng "Nhạt như nước ốc" ắt rõ nghĩa ngay thôi. Không rõ câu thành ngữ: "Sáng trăng suông bà về vậy" là ngụ ý gì? Thử suy luận xem sao, trăng sáng là trăng rằm, trăng tròn, những đêm trăng vành vạnh ấy, ở nông thôn bà con chòm xóm thường tụ tập lại nhau tán gẫu, không chỉ tán suông mà có thêm bát nước chè tươi, kẹo lạc, chén trà hoặc chén rượu… cho rôm rả. Ấy thế, khi bà đến, gọi bà là do tuổi tác và tất nhiên do vai vế nên bà được mọi người trọng vọng, đon đả đón mời. Nhưng rồi, chỉ có thế, chẳng có gì ngoài "sáng trăng suông", chẳng được nước non gì nên bà bực bội bỏ về quách cho xong. Thái độ không ưng ý, hài lòng của bà gói gọn trong từ "vậy". Nghĩa bóng: dù được nghe bao nhiêu lời "có cánh", mát cả ruột, sướng cả tai; hoặc được nhìn bao cảnh đẹp kỳ thú nhưng rốt cuộc chẳng có thêm gì khác - bất quá cũng chỉ mỗi "sáng trăng suông" thì cũng chẳng nên cơm cháo gì. Nói gì thì nói, "Có thực mới vực được đạo". Trong khi đó, theo nhà nghiên cứu Nguyễn Dư: "Chữ "vậy" ở cuối câu nói cho thấy sự thất vọng của người đàn bà. "Về vậy" có nghĩa là "đành phải về". Ngày xưa, ở thôn quê cũng như ở thành thị, sáng trăng là dịp trẻ con rủ nhau vui đùa trong xóm, ngoài ngõ. Nhưng sáng trăng lại bất tiện cho những việc làm lén lút như trộm cướp, hẹn hò bất chính. Dường như người đàn bà trong tranh đang gặp tình cảnh này. Bà muốn "đi đêm" nhưng trăng cứ sáng vằng vặc, rõ như ban ngày thế kia thì... hỏng chuyện! Bỏ về là vừa. Nghĩa bóng của câu nói: định làm chuyện mờ ám nhưng không thành". Có những câu thành ngữ đã ra đời cách thời hiện tại quá xa, ít ai còn biết/nhớ đến nghĩa cụ thể của nó, do đó, có người suy luận kiểu này, người kia nghĩ qua chuyện khác cũng là lẽ thường tình. Hãy trở lại với "Trong chay ngoài bội". Đã rõ từ chay rồi. Vậy bội là gì? Đại Nam quấc âm tự vị (1895) giải thích: 1. Trò bội: cuộc ca hát, đám hát, bạn hát; 2. Bội bè: con hát, bạn hát; 3. Áng bội bè: thì là trường ca hát; 4. Hát bội: con hát, kẻ làm nghề ca hát. Nghĩa từ của từ "bội" trong ngữ cảnh trên đã rõ. Vấn đề đặt ra ở đây, lúc "trong chay" thí thực, thì "ngoài bội" diễn tuồng gì? Ngắc ngứ chưa? Chịu thua chưa? Nếu không nghiên cứu thấu đáo, làm sao nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng có thể trả lời đâu ra đó? Đọc xong phải chịu ngay. Theo ông Trảng: "Kết quả kiểm tra hồi cố cho biết rằng, trước năm 1945, các trai đàn ở Nam Bộ đều có hát Phật (hiểu là tuồng tích có liên quan đến đạo Phật, gọi chung là tuồng đám). Việc biểu diễn ngoài bội thì hoặc mời các gánh hát bội đảm nhận và càng lúc càng nhiều cuộc lễ. Các tăng sĩ ứng phú dặm mặt, thay y trang biểu diễn. Đến năm 1952, Hòa thượng tăng trưởng Giáo hội Phật giáo Lục Hòa Tăng Việt Nam ra lệnh cấm nên việc tăng sĩ diễn tuồng không còn nữa. Hòa thượng Tăng trưởng thuộc tông môn chùa Giác Lâm (quận Tân Bình), vốn là một kinh sư ứng phú nổi tiếng; nhưng qua kinh nghiệm, Thượng tọa thấy việc người tu hành lên sân khấu tác hại đến oai nghi: "Phàm kẻ xuất gia tu hành mà vẽ mặt, vẽ mày, mang râu, mặc giáp để bước lên sân khấu làm trò cười cho thiên hạ thì tự mình làm nhẹ thể ông thầy tu, tự mình làm cho người khác khinh khi Tam bảo". Từ đó, hát Phật dần dần mai một và ngày nay không còn nữa" (Tạp chí Kiến thức ngày nay, 10-4-2015). Có phải ở trong Nam tổ chức "trong chay ngoài bội" cũng có ý nghĩa ná ná như nghi lễ "chạy đàn phá ngục" - tên gọi khác của "Đàn Mông Sơn Thí Thực" ngoài Bắc? Chỉ là một hay là hai nghi lễ khác nhau? Đọc trên trang điện tử của Báo Ảnh Việt Nam (17-7-2012) thấy có đoạn: "Trong văn hóa phương Đông, ngày rằm tháng bảy âm lịch có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đó là ngày xá tội vong nhân cho dân gian tỏ lòng kính Phật, hiếu thuận với tổ tiên, cha mẹ và cúng thí cho các vong hồn nơi địa phủ. Giới tăng ni Phật tử gọi đây là ngày Lễ Vu Lan, cũng là ngày diễn ra một trong những nghi thức quan trọng và phức tạp bậc nhất của nhà Phật: Lễ cúng Đàn Mông Sơn Thí Thực. Sau lễ thỉnh Phật và dâng Lục cúng kéo dài suốt ban ngày, chập tối, lễ cầu siêu với màn "chạy đàn phá ngục" theo tích Mục Liên tầm mẫu mở màn bằng tiếng nhạc réo rắt, trống phách vang lừng. Giữa khói hương nghi ngút, giọng đọc canh kệ ngân nga, ê a đưa đẩy, một vị sư, đầu đội mũ hoa sen, vai khoác áo cà sa, tay cầm tích trượng quấn dải khăn trắng cung kính dẫn đầu đoàn người đi qua những đàn tế tượng trưng cho năm cửa ngục. Nhà sư dừng lại. Tả hữu là hai tiểu đồng tay cầm hoa đăng nghiêng mình cúi lạy đàn tế. Chính lúc ấy, trống kèn, não bạt, thanh la, tiu cảnh.... đồng loạt vang lên bạo liệt kinh hồn. Tiết tấu dồn dập ấy chính là mở đầu cho một vũ điệu mau hoạt đến thần kì. Nhà sư tay bắt quyết múa lượn uyển chuyển và dứt khoát, chân vẽ những hình vô định lên mặt đất. Khi khoan, khi nhặt, vũ bão rồi tĩnh tại, những thủ quyết được tung ra liên hồi như muốn gửi gắm lời cầu khẩn của chúng sinh tới Thích ca bằng cử chỉ của chính ngài. Bỗng một tiếng hét vang lên: "Phá cửa ngục!", tức thì nhà sư múa trượng vòng tròn quanh chiếc bát úp dưới đất, dí vào trôn bát và di nó trên mặt đất theo hình những mật trú bí hiểm. Bất chợt, chiếc tích trượng giơ lên chọc tan chiếc bát. "Cửa ngục" đã được phá, từ ấy chúng sinh có thể thoát khỏi địa phủ lên trần hưởng lộc. Tiếng trống kèn lại vang lên, thúc nhà sư lần tái diễn màn múa lần lượt phá những cửa ngục còn lại. Là một nghi thức quan trọng, Đàn Mông Sơn hội tụ đầy đủ các làn điệu đặc trưng của âm nhạc nhà chùa và diễn ra trong nhiều ngày". Vậy, xét về ý nghĩa trong nghi lễ Phật giáo, "trong chay ngoài bội" và "chạy đàn phá ngục" có liên quan nhau? Hay chỉ là một nghi lễ mà Nam/ Bắc có cách thể hiện khác nhau? Không am tường gì về Phật giáo, y không dám có câu trả lời. Chỉ nêu ra, biết đâu có người giải thích thì hay quá. Mà này, khoảng thời gian nào, con người ta rảnh rỗi nhất, có thể ngồi nói liên tu bất tận, không thèm liếc mắt vào cái đồng hồ, bất chấp ngày lên đêm xuống? Thưa rằng, chỉ có thể là lúc cà kê dê ngỗng ngồi trong quán nhậu, khật khừ bên ly bia/ rượu, dẫu "Thơ suông nước ốc ngâm còn váng/ Rượu lạt non chai vẫn chén khà". Thế đấy. Lúc ấy, nếu được đối ẩm với người am tường về vấn đề Phật học, được nghe họ giải thích cho thắc mắc trên thì tốt quá. Tiếc thay, khoảng thời gian ấy, hầu hết chỉ là những câu chuyện tầm phào mua vui, "buôn dưa lê" nhạt phèo, chẳng đâu vào đâu cả. Nói như thế để làm gì? À, là một cách tìm ra cái cớ để từ chối cuộc rủ rê nhậu nhẹt chiều hôm qua. Thế là y đóng cửa thư phòng, lật sách mày mò tìm cách trả lời câu hỏi trên. Cuối cùng vẫn bí rị. Chưa tìm ra câu trả lời. Biết thế, chiều qua đi nhậu đàn đúm có phải hay hơn không? Không, nhờ lật sách mới tình cờ đọc thấy một đoạn văn ngắn trong Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng. Lý thú lắm. Hãy đọc đi. "Ngoài sân chùa, ở giữa bày ba tầng án thư chồng lên nhau theo hình bậc thang. Hai bên cũng đều có án thư. Nến thắp linh tinh, ánh sáng phản chiếu vào những mặt kính tròn ở các mũ giấy bày la liệt, trong lấp lánh tựa những ngôi sao. Đêm nào các nhà sư cũng cắt lượt nhau tụng kinh đến tận hai, ba giờ sáng, hoặc ngồi ở chiếu giữa, hoặc đứng sát các án thư bên. Cứ xong một lần tụng niệm lại có đánh trống lớn, trống con, thanh la, não bạt, nghe rất là inh ỏi. Đêm thứ ba vào đàn giải kết. Sư cụ chùa Long Giáng vì già yếu, mà việc đàn chay lại khó nhọc, nên một đồ đệ của cụ là sư ông chùa Long Vân đứng chủ trương. Sư ông ngồi ở chiếu giữa, tụng kinh một lúc lại chạy vòng quanh đàn, nghĩa là đi lượn khắp các hàng án thư, theo nhịp nhanh hay chậm của tiếng trống và tiếng thanh la. Sau lưng sư ông gần hai chục người chạy theo, nào tiểu, nào vãi, nào thiện nam, tín nữ cùng là những người nhà sự chủ. Ngọc đứng ngắm một tràng người, tay chấp ngực, chạy lượn khúc, quanh co, khi tiến, khi lui rất nhẹ nhàng, ăn nhịp như lăn trên đôi bánh xe nhỏ, lại tưởng tượng đến những người bằng giấy trong chiếc đèn kéo quân đêm hôm rằm tháng tám. Chạy xong một tuần, sư ông lại vào chiếu giữa múa mênh quyết ấn trông rất dẻo tay, rồi cầm kéo cắt những đồng tiền kết giấy thành hình người và treo lủng lẳng ở ba hàng dây giăng quanh bàn.Cứ mỗi lần lại cắt bốn, năm đồng kỳ cho hết là tan đàn". Qua những gì nhà văn Khái Hưng miêu tả, lại tự hỏi, có phải đây chính là nghi lễ "chạy đàn phá ngục" đã diễn ra ở ngoài Bắc từ thập niên 1930? Lê Minh Quốc
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 6, 2020 2:30:20 GMT 9
Ông Già Ba Tri
Ông già Ba Tri hay già Ba Tri là một nhân vật có thật có thật trong lịch sử, tên Thái Hữu Kiểm hay còn gọi là Cả Kiểm, sống vào đầu thời Vua Minh Mạng (tức khoảng đầu thế kỷ 19). Ông nổi tiếng với chuyện cùng mấy ông già khác, đã không ngại khó khăn, đi bộ từ huyện Ba Tri, Bến Tre , ra tới kinh thành Huế để nộp đơn kiện cho vua Minh Mạng, đòi lại công bằng cho những người dân ở Ba Tri. Cho tới nay, cụm từ "Ông già Ba Tri" đã trở thành một thành ngữ phổ biến trong dân gian, để chỉ những ông già gân, cứng cỏi, cương quyết đấu tranh để bảo vệ công lý cho đến cùng. Ông Thái Hữu Kiểm là cháu nội ông Thái Hữu Xưa, người gốc Quảng Ngãi, sinh cơ lập nghiệp ở Ba Tri từ thế kỷ thứ 18. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Ông Xưa từng có công giúp chúa Nguyễn Ánh, được phong chức "Trùm cả An Bình Đông" quận Ba Tri. Lúc đó là năm 1742, năm Cảnh Hưng thứ 3, ở phủ Tư Nghĩa (nay là tỉnh Quảng Ngãi) vào mùa gió Nam, có một đoàn người xuống ghe bầu xuôi theo biển Đông đi về phương Nam, vào khai hoang vùng đất Ngao Châu (nay là huyện Ba Tri, Bến Tre). Người dẫn đoàn người di cư ấy tên là Thái Hữu Xưa. Ông Xưa có mang theo người con trai là Thái Hữu Chư và người cháu nội là Thái Hữu Kiểm. Đến năm Canh Thìn 1806, lúc này, cậu bé Kiểm ngày nào đã lớn, trở thành một người đàn ông khỏe mạnh, lực lưỡng, gan dạ và dũng cảm. Ông Kiểm có công lớn trong việc thuyết phục hàng trăm hộ dân vùng miền Trung vào khai phá xứ hoang sơ, nê địa Ngao Châu. Do có những công trạng đó nên ông Kiểm được vua phong là Bác Phẩm Bá Hộ, rồi lần lượt lên chức Trùm Trưởng, Trùm Cả ở làng An Bình Đông (vùng thị trấn Ba Tri ngày nay). Năm 1806, ông Kiểm cho xây dựng chợ Trong bên cạnh rạch Ba Tri, giúp cho dân cư ở khu này có nơi làm ăn sinh sống. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Trước đó, ở làng An Hòa Tây, cách chợ An Bình Đông chừng 3km đã có chợ, gọi là chợ Ngoài. Sau khi lập chợ Trong thì chợ Ngoài mua bán thưa thớt dần. Tên Xã Hạc (không phải Cai việc Hạc) dĩ nhiên nổi cơn thịnh nộ, tức giận vì mất lợi nhuận và vì sĩ diện, đã sai dân làng hắn đắp đập ngăn con rạch ở xã này để chắn lối, không cho ghe thuyền khách thương hồ từ sông Hàm Luông vào chợ Trong. Bất bình trước hành động ngang ngược của tên Xã Hạc, cụ Kiểm đã làm đơn, thuyết phục dân làng An Bình Đông đồng ký tên... rồi cùng dân làng lên huyện kiện Xã Hạc. Tên quan huyện do ăn hối lộ, đút lót của tên Xã Hạc nên bênh vực cho hắn ta và vì thế, đơn kiện của cụ Kiệm dĩ nhiên là bị xử thua. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Không chịu thua, cụ Kiểm tiếp tục mang đơn lên Phủ kiện tiếp. Tại Phủ, cụ Kiểm lại bị thất kiện vì trên Phủ phán rằng: “Người ta đắp đập trong xã người ta mà kiện tụng cái gì?”. Uất ức vì bọn huyện, phủ ăn của hối lộ đã xử ép mình, cụ Kiểm đã cương quyết đưa vụ bất chính kia ra đến triều đình. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Già mà gân, ông Kiểm nói: Kiện lên quan hổng được, lão kiện lên... vua. Ngặt một nỗi, thời đó làm gì có internet hay báo chí, nên ổng hổng thể dùng smart phone hoặc gửi email hoặc lên blog để kêu cứu vua được! Con đường chắc chắn nhất để khiếu kiện là... đi bộ ra kinh đô gặp vua. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Không chấp nhận phán quyết bất công trên. Ông Kiểm liền cùng hai kỳ lão là Tham Trưởng Nguyễn Văn Tới và Hương Trưởng Lê Văn Lợi cùng đi để làm nhân chứng. Thế là cả ba người cùng nhau khăn gói quả mướp với cơm đùm, cơm nắm, và ít tiền lộ phí dọc đường, đi bộ từ Ba Tri ra kinh thành Huế (lộ trình khoảng hơn 1000 cây số) - để đưa đơn lên nhờ vua phúc thẩm lại phán quyết bất công kia của phủ và huyện. Các bạn biết từ Ba Tri ra Huế bao xa hông? Theo bản đồ hiện nay với đường sá đàng hoàng là chỉ có khoảng ... 1.035 cây số thôi hà! Mà hồi đó dĩ nhiên là hổng có xe khách chất lượng cao với giường nằm, lại càng hổng có xe lửa, tàu thủy hoặc máy bay gì ráo trọi. Những tuyến đường đi lại ở miền Tây thời đó thì sông rạch chằng chịt chứ đâu có quá xá mấy cây cầu dây văng hiện đại hoặc xa lộ như thời bây giờ. Sáu tháng vượt truông, băng suối qua hơn ngàn cây số nhưng ba cụ vẫn bền chí và không nản lòng. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu)Cuối cùng, Trời đã không phụ lòng người, ba kỳ lão kiên cường cũng đã tới kinh thành Huế để đệ đơn kiện lên vua Minh Mạng. Sau khi xem xong đơn kiện và nghe hết sự tình, Vua Minh Mạng hết sức cảm phục trước ý chí kiên cường của ba kỳ lão Ba Tri. Vua bèn cho gọi cụ Kiểm và hai kỳ lão cùng vào hầu để hỏi rõ thêm chi tiết. Sau khi vua biết được lợi ích của dân làng An Bình Đông và quanh vùng bị Xã Hạc cậy quyền, cậy thế và cậy của bức hiếp, vua bèn truyền lệnh cho phủ và huyện phải cho phá đập ngay bởi rạch là rạch chung. Sau vụ đó thì chợ Trong có tên mới là chợ Đập và sau khi đã được thông thương, chợ Trong đã phồn vinh, việc buôn bán của cư dân trong vùng đã sầm uất trở lại. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu) Thế là từ đó, ông Kiểm được người dân tặng cho cái biệt danh thân thương là “Ông già Ba Tri”. Và cũng từ đó, thành ngữ Ông già Ba Tri ra đời để chỉ mấy ông già gân, đã dám chơi là chơi tới bến! *** Trùm Cả Thái Hữu Kiểm là một điển hình về bản tính cương trực, bản lĩnh, bất khuất trước cường quyền, đã can đảm đứng lên đấu tranh vì công lý, đem lợi ích về cho người dân. Từ đó, thành ngữ “Ông già Ba Tri” đã trở thành một thành ngữ chung để chỉ cốt cách cương trực, thẳng tính của những con người phương Nam. Ngày nay, ngôi nhà từ đường của dòng họ Thái Hữu, nằm bên con đường mang tên Thái Hữu Kiểm ở thị trấn Ba Tri, Bến Tre. (Sài Gòn trong tôi – Nguyễn Nhật Minh Hiếu)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 9, 2020 5:23:07 GMT 9
Khổng Tử và Đức Phật lịch sử. Tam Hanh
Tôi được đọc tứ thư, ngũ kinh vào năm cuối cấp một, gián tiếp qua ba tôi. Ông theo Nho học, thích cái đạo của người quân tử, có đủ các sách tứ thư, ngũ kinh của Đạo Nho qua các bản dịch âm nghĩa của cụ Đoàn Trung Còn, nhà xuất bản Trí Đức tòng thơ trước 1975. Với lứa tuổi ấy, tôi đọc tứ thư ( Luận ngữ, Mạnh tử thượng& hạ, Đại học và Trung Dung) như đọc truyện ( nhưng không thích như đọc truyện Tàu, tiểu thuyết Tàu và kiếm hiệp Kim Dung sau này). Lúc ấy, tôi không thích sách Đại học và Trung dung vì không hiểu, Mạnh tử thì chỉ xem một lần cũng không hiểu gì nhiều mà chỉ nhớ như truyện Tàu. Tôi thích nhất là sách Luận ngữ với những sinh hoạt bình dị, thân mật, những câu chuyện đối đáp giữa Đức Khổng tử và các học trò của ông gần với cái tuổi mới lớn của tôi. Trong Cả cuốn sách, tôi nhớ và thích nhất hai thiên, thiên Học nhi và thiên Tiên tiến. Thiên Học Nhi mở đầu cho sách Luận ngữ. Trong thiên này, Đức Khổng Tử trình bày khái quát về “ Người quân tử”. Theo trích dẫn sau. 學而第一 子曰:「學而時習之,不亦說 乎?有朋自遠 方來,不亦樂乎?人不知而不慍,不亦君子乎?」 I. HỌC NHI Tử viết ‘Học nhi thời tập chi, bất diệc duyệt hồ, hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ, nhân bất tri nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ’. Khổng Tử nói: “Học mà thường thực tập chẳng thích thú hay sao! Có bạn từ phương xa tới thăm viếng chẳng vui hay sao! (Nếu mình tài giỏi mà) Người đời không biết đến, cũng chẳng lấy làm buồn, như vậy chẳng phải là bậc quân tử hay sao!” Sau này, được tiếp cận với Phật giáo, khác hẳn vị Phật thần thoại được trình bày trong các kinh Pháp Hoa, Viên giác, Hoa Nghiêm v.v... thuộc văn học Phật giáo phát triển mà tôi đã biết; qua văn học A Hàm, văn học Nikàya và văn học Luật tạng, tôi lại gặp được một Đức Phật rất thật, rất gần gũi với mình, như vị thầy giáo sống cùng thời với mình. Sinh hoạt của Đức Phật này và các đệ tử của Ngài không khác gì Đức Khổng tử với môn đệ của Ngài. Đọc kinh Đại bát niết bàn 16 thuộc kinh Trường bộ, chúng ta thấy Đức Phật như một người cha, trước khi lìa đời đã đem hết tâm tư, tình cảm, trí tuệ của mình trao truyền cho đệ tử ở lại. Đọc những đoạn kinh văn này, tôi bồi hồi xúc động, thì đây mới là vị bổn sư thật chứ không phải vị bổn sư thần thoại như mình nghĩ trước đây. Đọc những lời của Đức Phật về tư cách một vị tỳ kheo, tôi nhớ đến đoạn văn trong thiên Học Nhi sách Luận ngữ. Mời các bạn đọc lại đoạn kinh văn mà Đức Phật định nghĩa cho một vị tỳ kheo đệ tử Ngài. 26. “Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác. Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác? Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác. Này Ananda, những ai sau khi Ta diệt độ, tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa vào một pháp gì khác, những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.” ( Kinh Đại bát niết bàn 16, đoạn 26, Trường bộ kinh_ bản dịch HT Minh Châu) Thiên Tiên Tiến dài nhất, nội dung trình bày một cuộc nói chuyện của Đức Khổng và môn đệ của ông. Qua câu chuyện này, chúng ta thấy ông rất bình dị, tình cảm, thực tế, rất gần với chúng ta. Thiên này rất nổi tiếng được nhiều học giả ưa chuộng và trích dẫn. Chúng ta có thể đọc những lời bình về thiên này của cụ Phan bội Châu trong tác phẩm Khổng Học Đăng hay cuốn Nhà giáo họ Khổng của nhà học giả Nguyễn Hiến Lê. Ở đây, chúng tôi xin trích dẫn đoạn văn sau từ sách Nhà giáo Họ Khổng của NHL. Ông viết “ Nhưng ta nên ghi nhận thêm điều này: Tuy Khổng Tử bôn ba suốt đời để cứu vãn xã hội, ra công đào tạo một số môn sinh cho thành những chính trị gia có tài đức; nhưng cơ hồ như lý tưởng tối cao, tối hậu của Ngài không phải ở đó. Một lần (Tiên Tiến_25): “Tử Lộ, Tăng Tích, Nhiễm Hữu và Công Tôn Hoa ngồi hầu Ngài. Ngài bảo: _ Các anh cho rằng ta có chỗ hơn các anh nên ngại, nhưng đừng ngại gì cả. Ở nhà các anh thường nói: “Chẳng ai biết dùng [tài của] ta”. Nhưng nếu có người biết thì các anh sẽ đem tài năng gì ra dùng ? Tử Lộ vội vàng đáp: _ Ví như có một nước nhỏ có một ngàn cổ chiến xa, bị ép giữa hai nước lớn, lại có thêm nạn chiến tranh, dân chúng đói khổ, cho Do (tên của Tử Lộ) tôi cầm quyền chính trị nước đó thì chỉ ba năm có thể khiến cho dân chúng dũng cảm mà lại biết Đạo Lý nữa’. Khổng Tử mỉm cười rồi hỏi: _ Còn anh Cầu, anh thì thế nào ? Nhiễm Hữu đáp: _ Như một nước vuông vức có sáu bảy chục dặm [nghĩa là một nước rất nhỏ] mà cho Cầu tôi cầm quyền chính trị chỉ ba năm có thể khiến cho dân chúng được no đủ. Còn về lễ nhạc thì xin đợi bậc Quân Tử. _ Xích anh thì thế nào ? Công Tôn Hoa đáp: _ Về Lễ Nhạc, tôi không phải là giỏi, nhưng xin được học. Trong việc Tế Tự ở nơi tôn miếu hay trong hội nghị các chư hầu, Xích tôi xin mặc áo lễ huyền đoan, đội mũ chương phủ mà lãnh một chức nhỏ. _ Điểm còn anh thì thế nào ? Lúc đó Tăng Tích gẩy cây đàn sắt vừa ngưng, đặt đàn xuống, nghe reng một tiếng, rồi đứng dậy đáp: _ Chí của tôi khác hẳn ba anh đó. Khổng Tử bảo: _ Hại gì đâu? Cũng là ai nấy tỏ chí của mình ra mà thôi. Tăng Tích bèn thưa: _ Như bây giờ là tháng cuối mùa Xuân, y phục mùa xuân đã may xong, năm sáu người vừa tuổi đôi mươi, với sáu bảy em bé dắt nhau đi tắm sông Nghi rồi lên hứng mát ở nền Vũ Vu vừa đi vừa hát, kéo nhau về nhà [tôi ước ao như vậy] Ngài ngẫm nghĩ một chút rồi than: “Ta cũng muốn như anh Điểm”. Học giả Nguyễn Hiến Lê viết tiếp: “Đọc “ Luận Ngữ” tôi thích nhất đoạn này. Người ta chê đạo Khổng thực tế quá hóa khô khan, nhưng chính Khổng Tử có tính tình rất đa cảm và nghệ sĩ…..tất cũng biết thích cái thú Nhàn của Lão Trang; nhưng Ngài rất ưu thời mẫn thế, phải nén sở thích để cứu đời đã. Để tạo một xã hội trong đó già trẻ trai gái ai cũng được hưởng cái thú tắm mát trong dòng sông Nghi rồi hứng gió trên nền Vũ Vu, rồi Ngài mới có thể cùng vui với mọi người được. Như vậy là Ngài suốt đời hy sinh, ta vừa quý Ngài mà vừa phục; chứ như Lão hay Trang thì ta chỉ quý thôi chứ không phục được”. Đọc đoạn văn trên, trích từ Thiên Tiên Tiến sách Luận ngữ, tôi nhớ đến Đại kinh sừng bò 32, Trung bộ kinh ( Kinh tương đương Ngưu giác sa la 184, Trung A hàm). Tôi xin trích dẫn phần toát yếu của bài kinh theo bản tóm tắt của Ni Sư Trí Hải. Bản kinh dài trong rừng Gosinga. Vào một đêm trăng sáng, một số cao đệ của Phật tụ họp trong rừng cây sa la thảo luận về hạng tỳ kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng. Sau khi mỗi người đã trả lời theo lý tưởng riêng mình, họ cùng đi đến Phật. Ngài đưa ra câu trả lời của chính Ngài. II. TÓM TẮT Rừng Gosinga, nơi Phật và chúng tăng đang cư trú, có nhiều cây sa la đang độ trổ bông. Vào một đêm trăng sáng, một số đông đệ tử nổi tiếng của Phật đi đến chỗ tôn giả Xá lợi Phất. Tôn giả lần lượt hỏi quan điểm riêng của mỗi người về một mẫu tỳ kheo lý tưởng trong đạo Phật, với cách nói bóng bảy: "Hạng tỳ kheo nào có thể làm chói sáng khu rừng Gosinga". A nan trả lời: Hạng đa văn. Ly bà đa: Hạng độc cư thiền định. A na luật: Hạng có thiên nhãn. Ca diếp: Hạng khổ hạnh. Mục kiền liên: Hạng giỏi luận thuyết. Khi họ hỏi lại quan điểm của Xá lợi phất, tôn giả trả lời "hạng có khả năng điều phục tâm". Tất cả cùng đi đến Phật để xin Ngài quyết đoán ai đúng ai sai. Phật dạy tất cả đã khéo trả lời đúng với sở trường mình; như A nan đa văn nên cho đa văn là lý tưởng. Rồi Phật dạy theo Ngài, hạng tỳ kheo lý tưởng là người khất thực về, ăn xong ngồi kiết già lưng thẳng cho đến khi tâm giải thoát tất cả lậu hoặc, không có chấp thủ [tức là vị tỳ kheo đã chứng quả A la hán]. Đọc đoạn kinh văn trên, chúng ta sẽ liên tưởng đến sự tu tập như hiện nay. Người thì chủ trương phải hành thiền định là số một; người thì chủ trương phải hành thiền quán vipassana vì chỉ có thiền quán mới đắc quả; người thì chủ trương phải học tạng A-tỳ-Đàm, không học thì tu sai; người thì tự xưng thiền sư chứng đạo đang thay Phật tiếp độ chúng sinh đến giải thoát ngay kiếp này; người thì tuyên bố chắc nịch tu theo tôi,100% tôi sẽ đưa sang Tịnh độ v.v...và vv... trăm hoa đua nở. Đã có nhiều phật tử hỏi tôi : “Thưa thầy, chúng con được nghe nhiều tăng ni giới thiệu về các pháp môn tu tập khác nhau. Vị nào cũng tuyên bố chắc chắn pháp môn của họ là số một. Thưa thầy, có nhiều số một quá, chúng con phải chọn số một nào đây? “ Thực sự, tôi cũng bí, cũng không biết trả lời sao cho đúng. Thôi thì, tôi đành copy đoạn kinh văn sau để làm câu trả lời vậy. Đây là nguyên văn đoạn kinh văn mà Đức Phật đưa ra ý kiến của Ngài. “Khi được nói vậy, Tôn giả Sariputta bạch Thế Tôn: -- Bạch Thế Tôn, vị nào đã khéo trả lời (câu hỏi được đặt ra)? -- Này Sariputta, tất cả đều lần lượt khéo trả lời. Và này các Ông hãy nghe Ta nói hạng Tỷ-kheo nào có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga? Ở đây, này Sariputta, Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực về, ngồi kiết-già, lưng thẳng, đặt niệm trước mặt, và nghĩ rằng: "Ta sẽ không bỏ ngồi kiết-già này cho đến khi tâm của ta được khéo giải thoát các lậu hoặc, không có chấp thủ". Này Sariputta, hạng Tỷ-kheo như vậy có thể làm sáng chói khu rừng Gosinga. Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tôn giả ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.” ( Đoạn chót của kinh 32. Đại kinh sừng bò, Trung bộ kinh_ HT Minh Châu dịch) Trân trọng. Tam Hanh
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 12, 2020 16:18:36 GMT 9
Nẻo về văn hóa văn minh Việt Nam * Việt Nam nước non ngàn dặm Lê Văn Hảo
Nước non ngàn dặm ra đi - cái tình chi - mượn màu son phấn - đền nợ Ô-Li... Mỗi lần nghe câu ca Huế điệu Nam Bình, tôi luôn cảm thương, khâm phục và biết ơn sự hy sinh cao quí của cô công chúa họ Trần 700 năm trước. Mấy chữ "nước non ngàn dặm" làm tôi nao nức muốn ngợi ca đất nước ngàn trùng diệu vợi mà sao gần gũi tấc gang : Việt Nam ơi, tổ quốc liền một dải xuyên Việt dằng dặc Lũng Cú-Cà Mau, liền một vùng biển trời Trường Sơn-Trường Sa thăm thẳm. Núi rừng, sông nước, đầm phá, hồ bàu, cỏ cây, chim thú, xóm làng, vườn ruộng, phong tục, lễ hội, di tích lịch sử, công trình văn hóa, tác phẩm nghệ thuật, điệu múa lời ca, cung đàn nhịp phách... tất cả đã tạo nên một hình tượng cao cả tươi đẹp xiết bao trìu mến : Việt Nam nước non ngàn dặm.
Từ rẻo cao Tây Bắc, Việt Bắc xuống trung du đất Tổ, qua đồng bằng Bắc Bộ tới Trường Sơn đèo ải chập chùng, rồi đồng bằng duyên hải miền Trung nhìn ra biển Đông bao la, tới tận Nam Bộ và những đảo biển gần xa : Cái Bầu, Trà Bàn, Cát Bà, Cù Lao Chàm, Côn Sơn, Phú Quốc... Kể sao cho hết những kỳ quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh : vịnh Hạ Long, hồ Ba Bể, rừng Cúc Phương, động Phong Nha, đền Hùng, Hoa Lư, Yên Tử, Sa Pa, Tam Đảo, chùa Keo, chùa Hương, Đình Bảng, Tây Đằng, Hải Vân, Bạch Mã, lăng tẩm Huế, Hội An, Mỹ Sơn, Đồng Dương, vịnh Cam Ranh, Đà Lạt, hồ thác Tây Nguyên... Rồi những xóm làng trù phú nổi lên giữa biển lúa tốt tươi, sau lũy tre kiên cố, hay dưới răïng dừa êm ả, với cây đa cây gạo rợp bóng đình chùa nhịp cầu bến nước, với đàn cò vạc, bồ nông bay lượn giữa tiếng sáo diều vi vu... và gần xa là những dòng sông hùng vĩ thượng võ : Bạch Đằng, sông Hồng, sông Mã, Cửu Long như con ngựa phi nước đại, hay những dòng xanh êm đềm hiền hòa : sông Cầu, sông Lam, Nhật Lệ, Hương Giang, Thu Bồn, Trà Khúc, Đồng Nai, Vàm Cỏ như dải lụa xanh vắt qua chân đồi thửa ruộng... Rồi những bãi biển tươi xinh, Trà Cổ, Bãi Cháy, Đồ Sơn, Sầm Sơn, Cửa Lò, Cửa Tùng, Cửa Thuận, Tiên Sa, Nha Trang, Vũng Tàu... chan hòa nắng gió, sóng vỗ thông reo.
Đẹp lắm tổ quốc ta, non nước thần tiên, và có đẹp hơn chăng là tình ta mến thương tổ quốc!
Đất nước Việt Nam, xứ sở của núi rừng, cao nguyên, đồng bằng và sông biển Hơn 3/4 lãnh thổ Việt Nam là đồi núi, cao nguyên, trung du. Dù ở đồng bằng không ai không cảm thấy bóng dáng núi đồi ở cạnh mình, nơi mà người Việt cổ tổ tiên ta đã bắt đầu sự nghiệp dựng nước. Từ Hà Nội đi về hướng Hà Tây, Hòa Bình, Phú Thọ, Yên Bái, Yên Tử là đã thấy núi non chất ngất. Ở các đồng bằng Trung bộ, núi không còn xa lạ nữa mà đã nhập vào trong phong cảnh một cách tự nhiên, hài hòa đến nỗi núi non và đồng bằng hầu như là một. Tất cả các tỉnh và thành phố ở miền Trung nơi nào cũng gần các huyện miền núi. Ví dụ tại Huế, vừa ra khỏi thành phố vài cây số để viếng thăm chùa chiền lăng tẩm là đã thấy đồi núi, rừng thông. Đi vào Nam chỉ có miền Trung và Tây Nam bộ (đồng bằng sông Cửu Long) mới thật ở xa núi, nhưng rồi núi lại xuất hiện đột ngột ở Hà Tiên ngay trên bờ biển, thật thú vị. Đất nước ta chia thành tám vùng địa lý tự nhiên thì bốn vùng rộng lớn nhất đã thuộc về núi rừng và cao nguyên : Đông Bắc (hay Việt Bắc), Tây Bắc, Trường Sơn Bắc, Trường Sơn Nam và Tây Nguyên là xứ sở của 50 sắc tộc thiểu số, còn lại là bình nguyên, nơi cư ngụ của bốn sắc tộc lớn : Việt, Chăm, Hoa, Khmer Nam bộ. Nhờ tính chất núi rừng của hơn 3/4 lãnh thổ mà đồng bào ta tuy sống ở một xứ sở nhiệt đới nóng ẩm vẫn có được những tiểu vùng khí hậu ôn đới ôn hòa như Sa Pa, Tam Đảo, Bạch Mã, Bà Nà, Đà Lạt và nhiều nơi khác trên Tây Nguyên đều là những nơi nghỉ mát, nghỉ đông, an dưỡng. Một đặc điểm khác của đất nước ta là tính chất bán đảo và tính chất sông biển. Chỉ với một diện tích đất liền khiêm tốn, 331.689 km2, Việt Nam có đến 2.860 con sông lớn nhỏ, lại có bờ biển dài hơn 3.600 km. Vùng biển của ta lại có hơn 4.000 đảo lớn nhỏ, chưa kể hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa ngoài khơi biển Đông, thành thử nước ta có nhiều bãi biển, đảo biển đẹp nổi tiếng từ vịnh Hạ Long, di sản thiên nhiên thế giới, đến Hà Tiên thập cảnh, rồi Côn Sơn, Phú Quốc... Ở gần sông nước có rất nhiều hang động mang vẻ đẹp kỳ bí như Tam Cốc, Bích Động, Phong Nha, Non Nước, Thạch Động... Gắn với sông nước là thác ghềnh, đầm phá, hồ bàu đã trở thành những thắng cảnh tự lâu đời : thác Bản Giốc ở biên giới Việt Trung, thác Prenn, thác Ponguour và hàng chục thác ghềnh khác ở Tây Nguyên, hồ Thăng Hen, hồ Tây, hồ Lắk, bàu Tró, phá Tam Giang, đầm Ô Loan, ao Bà Om và nhiều nữa.
Vì đất nước Việt Nam là một đại bán đảo có chiều dài lớn gấp bốn lần chiều rộng nhất, do đó không nơi nào ở nước ta lại xa biển hơn 500 km theo đường chim bay. Mỗi người Việt Nam dù sống ở đâu, kể cả trên núi rừng, hình như bao giờ cũng được nghe tiếng rì rào của biển cả ngày đêm không ngừng vổ sóng vào bờ (Lê Bá Thảo, Thiên nhiên Việt Nam, 2001).
Và biển Đông của chúng ta dù chỉ là một biển phụ của Thái Bình Dương cũng vẫn rộng đến gần ba triệu rưỡi km2, đứng hàng thứ ba về diện tích so với các biển khác trên thế giới, vẫn đang chờ người Việt Nam phát huy tinh thần mạo hiểm, kinh bang tế thế trên sóng nước.
Với hàng ngàn danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử văn hóa, tiềm năng du lịch của Việt Nam vô cùng to lớn Trong một tập sách in đẹp (bản tiếng Việt và bản tiếng Pháp), nhan đề Việt Nam, đất nước, con người (Hà Nội, 2004), các tác giả đã nói Việt Nam có hơn 7.000 di tích lịch sử - văn hiến (trang 9) mà không cho biết đã dựa vào những nguồn tài liệu nào để đưa ra một con số thống kê to tát như thế. Tuy nhiên những nhà nghiên cứu hay người dân thường ước ao làm một kiểm kê bước đầu về kho tàng di sản văn hóa văn minh Việt Nam bằng cách tham khảo một số tác phẩm như Tự Điển Bách Khoa Việt Nam, tập 1, 2, 3 (1995-2003, hơn 3.000 trang), Non nước Việt Nam (1998, 740 trang), Tìm trong di sản văn hóa Việt Nam, Thăng Long - Hà Nội (2002, 732 trang), Kho tàng L? hội cổ truyền (2000, 1.446 trang), Đình chùa lăng tẩm nổi tiếng Việt Nam (1998, 824 trang), Việt Nam cảnh đẹp và di tích (1989, 480 trang), Đình Việt Nam (1998, 436 trang), Chùa Việt Nam (1993, 402 trang), Kỳ quan hang động Việt Nam (2001, 251 trang), v.v., thì có thể đi đến kết luận tạm thời là đất nước ta trải qua một quá trình lịch sử lâu đời đã có nhiều ngàn thắng cảnh và di tích từ Bắc xuống Nam, từ đồng bằng lên miền núi, từ đất liền ra hải đảo. Từ nhiều thế kỷ nay tên tuổi các kỳ tích thiên nhiên, các di tích văn hóa Việt Nam đã vượt ra ngoài biên giới lãnh thổ quốc gia và cho tới nay thế giới đã biết đến sáu di sản thiên nhiên hay di sản văn hóa được công nhận là thuộc về kho tàng di sản của nhân loại : Hạ Long, Hội An, Mỹ Sơn, Phong Nha-Kẽ Bàng, di tích Huế, Nhã nhạc Huế. Trong lúc chờ đợi thế giới công nhận thêm nhiều kỳ tích thiên nhiên hay sáng tạo văn hóa khác mà Việt Nam đang chuẩn bị hồ sơ gởi tới Unesco để được lựa chọn và vinh danh như : hát ả đào, hát quan họ, múa rối nước, cồng chiêng, chùa Hương, vườn quốc gia Cúc Phương, hoàng thành Thăng Long..., chúng ta hãy tạm dừng chân vài lần trên nẻo đường xuyên Việt ngàn dặm để chiêm ngưỡng vài viên ngọc quí trong chuỗi ngọc vô vàn đã tô điểm cho đất nước ngàn năm.
Vì bạn đọc đã từng tiếp xúc với Phong Nha-Kẽ Bàng và Nhã nhạc cung đình Huế , chúng ta hãy làm quen - hay trở lại thăm - Hạ Long, phố cổ Hội An, cố đô Huế, thánh địa Mỹ Sơn.
Hạ Long, quần đảo thần tiên, di sản thiên nhiên của nhân loại Suốt dọc bờ biển Việt Nam có nhiều cảnh đẹp nhưng không nơi nào đẹp lãng mạn, đẹp trữ tình như vịnh Hạ Long. Nhà thơ Trung Quốc Tiêu Tam, khi chơi thuyền trên vịnh cách nay hơn 50 năm, đã làm thơ ca ngợi đó là chốn Đào Nguyên nơi trần thế. Cái đẹp của Hạ Long trước hết là sự kỳ vĩ của thiên nhiên, chưa có vùng bờ biển nào ở đất nước ta mà trên một diện tích 1.500 km2 lại mọc lên hàng ngàn hòn đảo, đảo đá xen lẫn đảo đất, nhấp nhô khuất khúc như phượng múa rồng chầu. Đảo có chỗ quần tụ lại xúm xít trông xa như chồng chất lên nhau, có chỗ lại dàn ra thưa thớt, hòn này với hòn kia đứng biệt lập như sao trên trời, như quân cờ bày chon von trên mặt biển, có chỗ đứng dọc ngang xen kẽ nhau thành một tuyến chạy dài hàng chục cây số như bức trường thành vững chải ngăn khơi với lộng, nối mặt biển với chân trời. Đảo đây không buồn tẻ đơn điệu, mà mỗi hòn mỗi vẻ, thấp thoáng hình ảnh sự sống của muôn loài, có hòn như đôi gà xám xòe cánh chọi nhau trên mặt nước : hòn Gà Chọi ; có hòn bề thề như cả một tòa nhà lớn : hòn Mái Nhà ; có hòn như cụ già trầm tĩnh ngồi câu cá trên mặt vịnh : hòn Ông Lã Vọng...
Thiên nhiên Hạ Long chẳng những hùng vĩ mà còn duyên dáng thơ mộng. Vẻ đẹp nên thơ nên tranh của nó chính là cái tươi mát của sóng nước, cái rạng rỡ của đất trời. Mặt nước Hạ Long quanh năm trong xanh phẳng lặng như nước hồ thu, bầu trời Hạ Long bốn mùa sáng tươi êm dịu. Quanh năm ngày tháng Hạ Long khoác lên mình những sắc xanh đằm thắm : sắc xanh biếc của biển, màu xanh lam của núi, sắc xanh thắm của trời, màu xanh xanh trắng mỏng của khói sương, những sắc xanh như trường cữu, bát ngát, mênh mang, trẻ trung, phơi phới làm cho nhà văn Nguy?n Tuân phải thốt lên : "Chỉ có núi mới chịu già chứ biển và sóng biển Hạ Long thì trẻ tráng đời đời".
Huế di sản của nhân loại, thành phố-vườn bên dòng Hương xanh Xưa gọi là Phú Xuân, Huế đứng tựa Trường Sơn nhìn ra biển Đông qua một vùng đồi rừng chập chùng những thác ghềnh đổ vào Hương giang, nối liền một vùng bình nguyên xanh thắm. Trên cái nền thiên nhiên tươi đẹp ấy, những kiến trúc sư khuyết danh ở các thế kỷ trước đã xây dựng cả một hệ thống đền chùa, cung điện, thành quách, phố xá tạo nên một thành phố-vườn, "một kiệt tác đô thị nên thơ" (un chef d’oeuvre de poésie urbaine, chữ dùng của nhà văn hóa Amadou Mahtar M’Bow, nguyên tổng giám đốc Unesco). Khởi đầu cho sự hình thành và phát triển của cố đô, tiêu biểu cho vẻ đẹp sâu lắng của Huế là sông Hương. Tên của dòng xanh có lẽ do mùi thơm tinh khiết của các loài sâm rừng, thạch xương bồ, thủy xương bồ mọc ở đầu nguồn. Từ đó Hương rời thác Thủ cuộn sóng về bến Tuần ở ngã ba Bằng Lãng ; từ ngã ba sông nên thơ ấy Hương lặng lờ trôi qua những xóm làng, vườn tược Kim Long, Nguyệt Biều, Vĩ Dạ, Đông Ba, Gia Hội, Chợ Dinh, Nam Phổ, Bao Vinh... quyện theo mùi thơm các các loài hoa xứ Huế : ngọc lan thoang thoảng, dạ lý nồng nàn, hoa cau ngan ngát, hoa sen ngào ngạt. Hương là bản giao hưởng xanh của nước trời cây cỏ, điểm xuyết bằng mảng đỏ rạo rực, nồng nàn của hoa phượng, mảng trắng ngây thơ dịu nhẹ của tà áo dài và nón bài thơ học trò dập dìu như những cánh bướm trên các nẻo đường, nhịp cầu, bến đò.
Sở dĩ Huế được người trong nước và cả thế giới chú ý vì thành phố có một quần thể di tích lịch sử-văn hóa và thắng cảnh bao gồm thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền miếu, chùa chiền, và nổi bật lên tất cả là hệ thống lăng tẩm triều Nguyễn. Lăng tẩm tách ra thành một cụm nằm riêng biệt ở miền cận sơn, trên vùng gò đồi xanh tươi tĩnh mịch ở phía Nam cố đô, rải rác hai bên bờ sông Hương.
Tiêu biểu nhất cho nghệ thuật lăng và vườn-lăng ở Huế là lăng Tự Đức, được xem là công trình có giá trị cao về nghệ thuật kiến trúc-phong cảnh truyền thống của Việt Nam. Qua các mùa mưa nắng, lăng hấp thụ không khí mát mẻ, thanh thỏa của một thắng cảnh với những lối đi nẻo về tạo ra cảm giác dịu nhẹ, khoảng khoát của một công viên yên ả giữa những đồi rừng tịch liêu, với suối hát, thông reo, hoa cười, bướm giỡn... Phong cảnh vườn-lăng gồm nhiều tiểu cảnh luôn luôn thay đổi làm người xem bất ngờ trong cảm giác và suy tư vì hệ thống đường đi lối lại hoàn toàn quanh co khúc khuỷu, và các công trình kiến trúc lớn nhỏ đều phân bố không đối xứng trên hai trục đường vòng quanh hồ sen thơm dịu. Bên cạnh khu điện thờ là khu lăng mộ, với sân chầu, nhà bia và huyền cung, bên trong huyền cung là mộ vua. Rừng thông tỏa bóng trên mộ làm cho cảnh trí càng thêm thâm u, tịch mịch. Giữa vườn-lăng là hai công trình kiến trúc nhỏ xinh : tạ Xung Khiêm, nơi vua đọc sách, câu cá ; tạ Dũ Khiêm, nơi hóng mát và cũng là bến thuyền rồng để vua dạo chơi trên hồ. Hai công trình trang nhã này cùng với cây xanh ven hồ chia cắt không gian mặt nước, làm nổi bật phong cảnh quanh hồ tạo nên chất thơ bâng khuâng dìu dặt tỏa ra khắp vườn-lăng mà ca dao Huế xưa đã thấm nhuần:
Tứ bề núi phũ mây phong Mảnh trăng thiên cổ, bóng tùng Vạn Niên. Hội An, đô thị cổ bên dòng sông Thu Bồn đã trở thành di sản văn hóa của nhân loại Hội An, mà người phương Tây gọi là Faifo, Haipo, đã được nhắc đến nhiều trong các thế kỷ 17, 18 khi nó còn là một thương cảng quan trọng của xứ Đàng Trong nước Đại Việt thời các chúa Nguy?n. Vốn là một cảng biển của vương quốc Chămpa, được gọi là Đại Chiêm hải khẩu trong tập bản đồ thời Hồng Đức cuối thế kỷ 15, nó trở thành một thị trấn ven biển của người Việt với tên gọi là Hải Phố. Trên tấm họa đồ Đại Việt công bố năm 1653, Alexandre de Rhodes đã vẽ cửa sông Thu Bồn, bên cạnh đó ghi hai chữ Haipho để sau này người nước ngoài đọc chệch thành Haipo, hay Faifo. Bắc qua một con ngòi nhỏ nối liền hai xã Cẩm Phô và Minh Hương xưa là chiếc cầu gỗ dài 18 mét, mái lợp ngói, gọi là cầu Nhật Bản, tương truyền do cộng đồng người Nhật ở Hội An góp tiền xây dựng từ cuối thế kỷ 16. Nhân dân địa phương quen gọi di tích cổ nhất này là Chùa Cầu, xưa còn gọi là cầu Lai Vi?n ...
Nổi bật lên giữa đô thị cổ là khoảng 20 ngôi chùa và hội quán, trong đó có chùa Ông Bổn (tức Hội quán Triều Châu) đã được xây dựng trong suốt 40 năm mới xong (1845-1885). Tất cả đều là những ngôi chùa và hội quán to đẹp thờ Phật, Thánh, dù được tu bổ nhiều lần vẫn giữ được những bộ khung nhà đẹp vững, những cánh cửa chạm lộng, những mảng điêu khắc tinh vi, những đồ cổ quí hiếm của Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản...
Hội An là tinh hoa của xứ Quảng mà ca dao cổ đã gợi tả :
Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm Rượu Hồng Đào chưa nhấm đã say !
Hội An quả thật là một trong những cái nôi của văn hóa dân dã Việt, nền tảng của tính cách dân gian Việt. Đô thị cổ này như đang hồi sinh và phục hưng để tiếp đón tất cả những ai muốn tìm về cái hài hòa của tâm hồn Việt Nam lắng đọng trong lời ca dao mới :
Trời Hội An chưa xanh đã thắm Người Hội An vừa ngắm đã thương...
Thánh địa Mỹ Sơn, đỉnh cao nghệ thuật Chăm, một di sản văn hóa Việt Nam và nhân loại Nằm trong địa phận xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên (Quảng Nam), thánh địa Mỹ Sơn của dân tộc Chăm ra đời vào thế kỷ 4, tồn tại và phát triển đến thế kỷ 13 như một nhân chứng tiêu biểu cho quá trình tiến hóa của nghệ thuật Chăm, với một quần thể kiến trúc rộng lớn gồm đền, tháp, bia, tượng, lâu đài, thành quách phong phú và đa dạng đầy tính chất thiêng liêng. Kiến trúc sư Ba Lan Kazimierz Kwiakoski, sau nhiều năm gắn bó với Mỹ Sơn đã đánh giá : "Người Champa cổ đã gởi gắm tâm linh vào đất, đá và đã biết dựa vào thiên nhiên để làm nên một Mỹ Sơn tráng lệ, thâm nghiêm, hùng vĩ".
Đáng tiếc là thánh địa kỳ vĩ này đã rơi vào hoang phế trong nhiều thế kỷ. Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, các nhà khảo cổ học Pháp đã kiểm kê được 70 công trình kiến trúc, nhiều chục tượng và bia. Thế mà đến năm 1975, các nhà khảo cổ học Việt Nam chỉ còn tìm thấy khoảng 20 công trình mà phần lớn đều không nguyên vẹn.
Đặc điểm chủ yếu của thánh địa Mỹ Sơn là đã lưu giữ được một hệ thống đền-tháp (kalan) đẹp nhất của nghệ thuật Chămpa gồm 9 nhóm thuộc nhiều phong cách tiêu biểu cho nhiều thời kỳ mỹ thuật : Mỹ Sơn E1, thế kỷ 7-8 ; Hòa Lai, thế kỷ 8-nửa đầu thế kỷ 9 ; Đồng Dương, cuối thế kỷ 9 ; Mỹ Sơn A1, đỉnh cao của nghệ thuật Chăm, thế kỷ 10 ; Po Nagar, thế kỷ 11 ; Bình Định, thế kỷ 12-13. Giữa những phong cách này, các nhà nghiên cứu Chăm học trên thế giới đã chọn ra hai phong cách điển hình nhất của nền nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Chăm cổ : Mỹ Sơn E1 và Mỹ Sơn A1 (Lương Ninh, Vương quốc cổ Chămpa và những vùng văn hóa của nó, 1998 ; Trần Kỳ Phương, Mỹ Sơn trong quá trình tiến hóa của nghệ thuật Chăm, 2002).
Mỹ sơn E1 (đền tháp chạm trổ tinh tế) mang dáng vẻ khởi nguyên, mê say, nồng nhiệt. Còn Mỹ Sơn A1 (đền tháp cao đến 24 mét, mỗi cạnh 10 mét) mang dáng vẻ thon thả, trang nhã, hài hòa giữa kiến trúc và điêu khắc, nhẹ nhàng, duyên dáng mà vẫn gây ấn tượng linh thiêng, huyền nhiệm.
Nhiều tác phẩm điêu khắc đã được đưa từ thánh địa Mỹ Sơn về Bảo Tàng Chăm ở Đà Nẵng (1915) góp phần làm nên bộ sưu tập lớn nhất về điêu khắc Chăm (trên 300 tác phẩm) : tượng Phật và Bồ Tát, tượng các thần Brahma, Shiva và Vishnu, tượng ngỗng thần Hamsa, chim thần Garuda, voi thần Ganesa, rắn thần Naga, bò thần Nandin, mặt nạ Kala, biểu tượng phồn thực Linga-Yoni, tượng tu sĩ Bà La Môn, tượng vũ nữ Apsara tuyệt tác... tiêu biểu cho một nền điêu khắc lớn của mỹ thuật thế giới.
Rời Hạ Long, phố cổ Hội An, cố đô Huế và thánh địa Mỹ Sơn, hãy cùng nhau viếng thăm các vùng văn hóa muôn màu muôn vẻ của Việt Nam nước non ngàn dặm.
Lê Văn Hảo (Paris)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 12, 2020 16:21:42 GMT 9
Sự quan tâm của người Mỹ đối với văn hóa Việt NamLê Văn Hảo chimviet.free.fr/dantochoc/neovevh/lvhs062.htm. Quan hệ Việt-Mỹ ở thế kỷ 19 : những dịp may bị bỏ lỡ . Bùi Viện (1839-1878), nhà ngoại giao xuất sắc và một sự nghiệp lớn dở dang . Từ sau tháng 8-1945 đến tháng 12-1946, Hoa Kì là đồng minh của Việt Minh . Có một cộng đồng người Việt và người Mỹ gốc Việt đông đảo tại Hoa Kì . Múa rối nước Việt Nam "ngang dọc trong lòng nước Mỹ" . Bạn đọc Hoa Kì nồng nhiệt tiếp đón những thành tựu của văn học Việt Nam cổ kim . Giới trí thức văn nghệ sĩ Hoa Kì và sự phát triển của ngành Việt Nam học ở Mỹ . Một cuộc triển lãm dân tộc học - văn hóa học không tiền khống hậu về Việt Nam trên đất nước Hoa Kì . Chú thích và tham khảo Từ điển Bách khoa Việt Nam, tập 2 (E-M), xuất bản tại Hà Nội, 2002, ở mục từ "Hoa Kì" thửa nhận HK là " một nước có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh vào hàng đầu thế giới. Sau 1945, Hoa Kì tiến hành "chiến tranh lạnh" với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Đối với Việt Nam, Hoa Kì tiến hành "chiến tranh nóng" kết thúc vào 1973 sau Hội nghị Paris. Với xu thế hòa bình chung từ 1989-1990, Hoa Kì và nhà nước Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao từ tháng 7-1995". Một sơ kết khá đúng đắn. Chúng ta có quyền hi vọng rằng những vấn đề do quá khứ đặt ra, những biến cố quan trọng đã xảy ra trong quan hệ Việt-Mỹ sẽ được lịch sử phán xét một cách khách quan và công bằng. Đã đến lúc cần lấy quan điểm hòa bình, hòa giải, hòa hợp, tình nhân đạo và tình hữu nghị giữa các dân tộc để xem xét quan hệ giao lưu văn hóa Việt-Mỹ và tìm ra những điều tốt đẹp đáng ghi nhận và phát huy. Quan hệ Việt-Mỹ ở thế kỷ 19 : những dịp may bị bỏ lỡLần giở những trang sử cũ, người ta thấy khoảng một thế kỷ rưỡi sau khi Tuyên Ngôn Độc Lập của nước Mỹ ra đời (4-7-1776), năm 1819 (cuối đời Gia Long), hai thương thuyền Hoa Kì cập bến cảng Sài Gòn để mua đường. Tổng trấn Gia Định Lê Văn Duyệt đã tiếp đãi tử tế thuyền trưởng John White và dành mọi sự dễ dãi trong việc mua bán. Năm 1831 (đời Minh Mạng), tổng thống Mỹ Andrew Jackson dự định đặt đại diện ngoại giao tại vương quốc Đại Nam và cử ông Shilluber làm lãnh sự, nhưng vua Minh Mạng đã từ chối. Năm 1832, tàu Peathingy chở phái đoàn sứ giả Mỹ, do hai ông Edmund Robert và Georges Thompson cầm đầu, cập bến Đà Nẵng xin trình quốc thư và thỉnh cầu được ký kết một hiệp ước thương mãi, nhưng vì quốc thư không ghi rõ danh hiệu của vua và quốc hiệu Đại Nam nên Minh Mạng không tiếp nhận. Vua chỉ truyền lệnh đón tiếp tử tế phái đoàn Mỹ ở Công quán và chỉ định cho họ chỗ đậu tàu là vụng Sơn Trà ở Đà Nẵng. Sau đó tàu Peathingy nhổ neo rời Đại Nam đi Xiêm La. Năm 1836, tàu Peathingy cũng với đặc sứ E. Robert trở lại Đà Nẵng với hi vọng ký một hiệp ước thương mãi, nhưng ông E. Robert bị bệnh, tàu Peathingy phải rời Đà Nẵng đi Macao đề cấp cứu; tàu cập bến Ma Cap thì ông E. Robert đã chết . Sau lần gặp gỡ bất thành này, quan hệ giữa Hoa Kì và Đại Nam bị gián đoạn trong gần bốn thập niên (1836-1873). Bùi Viện (1839-1878), nhà ngoại giao xuất sắc và một sự nghiệp lớn dở dangTừ giữa thế kỷ 19 đất nước ta lâm vào một tình thế nghiêm trọng : 1858 liên quân Pháp-Tây Ban Nha đánh chiếm bán đảo Sơn Trà ở Đà Nẵng ; 1859 thành Gia Định bị chiếm, 1861 lần lượt mất Định Tường, Côn Lôn, Biên Hòa. Với Hòa ước 1862, triều đình Huế phải nhượng đứt cho Pháp ba tỉnh miền Đông. Đến tháng 6-1867 chúng ta mất toàn bộ sáu tỉnh Nam Kì. Trước tình hình đen tối ấy, nhiều danh sĩ cấp tiến, giàu lòng yêu nước, có óc thực tế, muốn sử dụng tri thức của mình vào công cuộc cách tân để cứu đất nước ra khỏi nguy cơ bị xâm lược. Đó là những Hoàng Phan Thái, Nguyễn Tư Giản, Đặng Đức Thuận, Đinh Văn Điền, Nguyễn Lộ Trạch và xuất sắc nhất là Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) và Bùi Viện (1839-1878). Bùi Viện đáng được xem là một nhà kinh bang tế thế: có công lớn trong việc xây dựng cảng Hải Phòng, lập ra "Tuần dương quân" (lực lượng hải quân thường trực) gồm 200 chiến thuyền và 2.000 quân thủy thiện chiến và lập ra hệ thống thương điếm ở khắp các tỉnh ven biển Đại Nam. Là nhà ngoại giao năng nổ, Bùi Viện được vua Tự Đức cử sang Hoa Kì đề nghị đặt quan hệ chính thức và được viện trợ chống thực dân Pháp. Rời Đại Nam tháng 7-1873, Bùi Viện đến Hồng Kông rồi Hoành Tân (Nhật Bản), vượt trùng dương đến New York rồi Washington (1874). Sau gần một năm kiên nhẫn vận động, ông được tổng thống Ulysse Grant tiếp kiến và đã thuyết phục tổng thống chấp thuận lời yêu cầu đặt quan hệ ngoại giao và giúp đỡ Đại Nam chống Pháp, nhưng vì không có quốc thư đem theo nên chưa thể bàn cụ thể hơn. Năm sau (1875), Tự Đức ban cho Bùi Viện chức khâm sai đại thần, cầm đầu đoàn sứ giả mang quốc thư trở lại Hoa Kì. Nhưng thật không may, tình hình thế giới đã biến chuyển bất lợi cho Đại Nam, Hoa Kì đã thay đổi chính sách nên tuy tổng thống Grant vẫn niềm nở tiếp sứ bộ của ta, nhưng nêu đủ lí do để từ chối viện trợ cho Đại Nam chống Pháp. Buồn rượi, Bùi Viện tay không trở về tổ quốc. Đến Đà Nẵng mới hay tin mẹ mất, Bùi Viện ra Huế tâu vua về chuyến công du bất thành và xin về thọ tang mẹ. Tự Đức đã có lời phê đầy cảm khái : "Trẫm đối với ngươi chưa có ân nghĩa gì, mà ngươi đã coi việc nước như việc nhà, không quản xa xôi lo lắng, quỉ thần ắt cũng chứng cho". Ba tháng sau Bùi Viện lại được triệu về kinh đô giữ chức thương chánh tham biện rồi chuyển sang chức chánh quản dốc nha Tuần hải. Việc bang giao giữa Đại Nam và Hoa Kì một lần nữa lại tạm gián đoạn. Chẳng bao lâu Bùi Viện mất đột ngột ở tuổi chưa đầy 40, để lại một sự nghiệp bộn bề mà dang dở, ghi dấu một cột mốc trong lịch sử bang giao Việt-Mỹ thời cận đại (1). Từ sau tháng 8-1945 đến tháng 12-1946, Hoa Kì là đồng minh của Việt MinhNhà sử học Mỹ Cecil B. Currey, tác giả cuốn "Võ Nguyên Giáp - Chiến thắng bằng bất cứ giá nào", đã cung cấp cho chúng ta nhiều tài liệu và thông tin về một giai đoạn độc đáo của bang giao Mỹ-Việt từ sau tháng 8-1945 đến trước khi nổ ra chiến tranh Việt-Pháp (từ tháng 12-1946 đến tháng 7-1954) : Mỹ và cơ quan tình báo quân sự OSS của họ là đồng minh của phong trào Việt Minh. Vì vậy ở thời đó có nhiều người Mỹ đến làm việc tại Hà Nội. Đó là những đại úy Lucien Concin, thiếu tá Allison Thomas, thiếu tá Patti và nhóm của ông ta, còn tướng Philip Gallagher thì làm cố vấn cho tướng Tàu Lư Hán. Những sĩ quan Mỹ trong phái đoàn OSS đã chụp nhiều ảnh của Hà Nội sau tháng 8-1945, ảnh lễ chào quốc kì các nước Đồng Minh tại nơi ở của phái đoàn OSS ở Hàng Trống (nay là trụ sở báo Nhân Dân), ảnh Hồ Chí Minh chiêu đãi các vị khách Đồng Minh của mình : Hà Ưng Khâm (Tàu), Gallagher (Mỹ). Chính Gallagher đã điện về Washington ngày 20-9-1945 : ông Hồ là "một sản phẩm của Moskova, một người cộng sản" làm chấm dứt tuần trăng mật Hoa Kì-Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa vào buổi bình minh của chiến tranh lạnh tư bản - cộng sản (2) . Rồi một nhà sử học Mỹ khác, John Prados, mới đây đã cho ra đời cuốn Cuộc hành binh chim kền kền, dự án bí mật Mỹ ném bom nguyên tử xuống Việt Nam trong thập niên 1950. Ôi những oái oăm của lịch sử không ai lường trước được ! Có một cộng đồng người Việt và người Mỹ gốc Việt đông đảo tại Hoa Kì Hiện nay trong hơn 80 triệu dân có khoảng ba triệu người sống trên hàng chục nước trên các châu lục, đông đảo nhất là cộng đồng người Việt và người Mỹ gốc Việt sinh sống tại Hoa Kì (khoảng trên dưới hai triệu người). Nhìn chung cộng đồng ấy đang an cư lạc nghiệp và đã thành công hội nhập xã hội Mỹ, nhiều người đang ở trong bộ máy chính quyền Hoa Kì như bà Trần Ngọc Chi Ray, phó giám đốc Cơ quan Tị nạn thuộc Bộ Xã hội Hoa Kì, Bà Lê Thị Ngoan, phụ tá đặc biệt Thống đốc Tiểu bang Illinois đặc trách về các dân tộc châu Á, Ô. John Quốc Dương, Tổng giám đốc Chương trình Dân nhập cư gốc Châu Á - Thái Bình Dương, Ô. Đinh Việt, trợ lí Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kì v.v... Nhiều người Mỹ gốc Việt là giáo sư đại học, viện sĩ hàn lâm của Hoa Kì. Viện Hàn lâm Khoa học New York đã mời nhà bác học Việt Nam Nguyễn Thanh Giang, một nhà dân chủ nổi tiếng ở Hà Nội, làm viện sĩ. Giáo sư Trịnh Xuân Thuận, Đại học Virginia, giải thưởng Henri Chrétien của Hội Thiên văn học Mỹ, tác giả của "Giai điệu bí ẩn", "Số phận của vũ trụ", "Big Bang và sau đó", "Hỗn độn và hài hòa"..., (được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới), đã được mời tham gia một số chương trình nghiên cứu của Cơ quan Hàng không và Không gian Quốc gia (NASA). Giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, Đại học Michigan và Berkeley, đã làm việc tại Phòng thí nghiệm Lực đẩy Phản lực (Jet Propulsion Laboratory - JPL) là một cơ sở quan trọng phụ trách những chương trình thám hiểm hành tinh trong Thái dương hệ của Hoa Kì. Vì đã hợp tác với NASA và tham gia vẽ quỹ đạo cho phi thuyền Apollo, đã viết ba cuốn sách giáo khoa được dùng tại nhiều nơi trên thế giới và đào tạo hơn 30 tiến sĩ về Khoa học Hàng không và Không gian ,Gs Nguyễn Xuân Vinh đã được trao tặng Huy chương Vàng Danh dự của Nhóm Tư vấn Chương trình Phát triển Nghiên cứu Hàng không và Không gian (AGFARAD) thuộc khối NATO. Năm 1990, tổng thống G. Bush (cha) đã kí quyết định từ năm đó, tháng 5 hằng năm được chính thức coi là Tháng Truyền Thống của những Người gốc Châu Á - Thái Bình Dương. Gs Nguyễn Xuân Vinh đã được mời đến dự buổi lễ công bố quyết định này (3). Qua các phương tiện truyền thông phong phú, qua các websites đông đảo, qua những tổ chức khoa học và công nghệ quan trọng như Vietnamese Association For Computing Engineering Technology and Science (VACETS), chúng ta sẽ thấy một vài trường hợp nổi bật vừa nêu trên chỉ là một phần nhỏ của những đóng góp mà cộng đồng người Việt và người Mỹ gốc Việt đã và đang thực hiện trên quê hương mới của mình (4). Bây giờ hãy xem xét một số lãnh vực văn hóa, nghệ thuật, mĩ nghệ Việt Nam đã lọt vào mắt xanh của nhân dân Hoa Kì. Gốm và sứ "made in Viêt Nam" đã "nối mạng" toàn cầu và thu hút khách hàng MỹNhững năm gần đây một ngành mĩ nghệ quan trọng của Việt Nam liên quan đến làng gốm Chu Đậu (nổi tiếng từ tk. 14-15), làng gốm sứ Bát Tràng (nổi tiếng từ tk. 15-16) đã được khôi phục và đang phát triển mạnh. Trong khi các sản phẩm gốm sứ của miền Bắc thâm nhập công thị trường Pháp, Đức, Nhật Bản, Hồng Kông, thì các doanh nghiệp gốm miền Nam (TP. HCM, Ninh Thuận, Bình Dương, Vĩnh Long ... ) cũng có thêm nhiều đơn đặt hàng mới từ châu Âu, Úc, Hoa Kì. Theo những thông tin mới nhất (5), ưu thế của hàng gốm Việt Nam trên thị trường Mỹ, một thị trường mới so với thị trường truyền thống EU (Liên Hiệp Châu Âu) là có những cách tân về kiểu dáng, màu sắc. Ông Thái Hồ Hải giám đốc Công ti Lạc Phương Nam (Thủ Đức) cho biết: Đang có rất nhiều khách hàng Mỹ đổ về chọn mua hàng gốm phủ sơn mài vì nét độc đáo riêng của mặt hàng này là mặt hàng thế mạnh của Việt Nam mà Trung Quốc và các nước khu vực Đông Nam Á không có. Công ti Lạc Phương Nam nay đã đẩy doanh số lên hơn 300.000 USD/năm chỉ riêng trên thị trường Mỹ. Ô. Ngô Công Đức giám đốc công ti Saiga cho biết Saiga hiện có một lượng hàng lớn trải khắp châu Âu, Úc, Mỹ; thị trường Mỹ hiện rất chuộng các mặt hàng gốm kết hợp với sơn mài, phủ sơn mài, vỏ trứng, cẩn ốc hoặc kết hợp với tre, bọc tre ... được làm theo phương pháp thủ công, theo thị hiếu ("gout") xưa mang đậm nét phương Đông, ví dụ các loại hàng còn nguyên màu đất nung không tráng men vẫn gây thích thú với nhiều khách hàng Mỹ. Từ lâu các mặt hàng gốm của Công ti Saiga đã có mặt trong hệ thống siêu thị IKEA nổi tiếng với khoảng 200 siêu thị và cửa hàng lớn trên toàn thế giới kể cả Hoa Kì. Ngoài ra hàng gốm Việt Nam còn được người Mỹ biết đến thông qua Hội chợ lớn ở Chicago và Atlanta. Mới đây Hội Nghề Gốm Mĩ nghệ Xuất khẩu Vĩnh Long vừa mở website www.vinlongpottery.com để trực tiếp chàp mẫu những sản phẩm gốm đất đỏ mới nhất trong số trên 10.000 chủng loại sản phẩm gốm khác nhau cho khách hàng nước ngoài kể cả Hoa Kì. Múa rối nước Việt Nam "ngang dọc trong lòng nước Mỹ"Từ những năm 60, nhiều đoàn nghệ thuật của miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa) đã sang biểu diễn trên đất nước Hoa Kì, đồng minh của mình. Sau 1975 là hai mươi năm "cấm vận" làm cho quan hệ giao lưu văn hóa Việt-Mỹ đã chững lại. Sau khi Hoa Kì và Việt Nam thiết lập lại quan hệ bình thường (1995), người Mỹ lại có dịp thưởng thức những khía cạnh tốt đẹp nhất của di sản văn hóa Việt Nam truyền thống. Khách du lịch Mỹ đến Việt Nam ngày càng đông vui, giao lưu văn hóa Việt-Mỹ lại rộ lên. Thật cảm động khi thấy phía Hoa Kì đã chủ động đề nghị Việt Nam hợp tác thành lập một chương trình biểu diễn thường xuyên hàng năm - từ 1998 đến 2005 - để giới thiệu tinh hoa văn hóa dân gian Việt Nam. Trong các thể loại văn nghệ truyền thống của ta (chèo, tuồng, cải lương, tranh dân gian, dân ca, nhạc cổ điển, nhạc cung đình...) có lẽ Múa Rối Nước được dân chúng Mỹ tiếp đón nồng nhiệt nhất. Trong một chuyến đi biểu diễn ở nhiều nơi trên đất Hoa Kì kéo dài gần 4 tháng (từ 1-5 đến 20-8-2000), anh Nguyễn Đức Thế, trưởng đoàn Múa Rối Sài Gòn, bồi hồi nhớ lại : đến New York (lần này là lần thứ hai), đoàn Múa Rối Nước của Việt Nam cùng nghệ sĩ bốn nước khác được mời biểu diễn khai mạc Liên hoan Sân khấu Thiếu nhi Thế giới. Cả liên hoan đã đón nhận Múa rối nước Việt Nam bằng tất cả sự bất ngờ, chen lẫn niềm vui : "Cả đoàn múa rối Nhật của thành phố Kawasaki cũng phải nhường vinh quang đó cho Việt Nam bởi "đặc sản" văn hóa truyền thống có một không hai trên thế giới của ta... Các nghệ sĩ Việt Nam phải ra chào đến lần thứ ba, thứ tư mà khán giả vẫn còn lưu luyến chưa muốn về và cứ đứng vỗ tay suốt". Có cả những nụ cười và những giọt nước mắt ! Sau một tuần lễ biểu diễn tại New York, đoàn rối nước Việt Nam bay qua Seattle bang Washington cách đó 7000 km vừa hết chiều ngang nước Mỹ để biểu diễn cùng với 13 đoàn khác đến từ năm châu bốn biển. Ngày 30-5 đoàn lại bay đi Chicago để dự Liên hoan Múa rối Quốc tế. Ngày 11-6 bay đi Hartford (Connecticut) biểu diễn cho một trường quốc tế chuyên đào tạo diễn viên múa rối, xem xong cả trường rất hài lòng, khâm phục và cho biết niềm vui lớn nhất của họ là lần đầu tiên được xem múa rối nước dù trước đó từng được nghe nói rất nhiều. Đoàn rối nước Việt Nam còn đi qua nhiều bang và thành phố khác, đến đâu đoàn cũng thật hãnh diện vì thành công lớn, mang lại hạnh phúc và niềm vui cho đông đảo người dân nước Mỹ bằng sức mạnh của nghệ thuật và văn hóa Việt Nam (6). Bạn đọc Hoa Kì nồng nhiệt tiếp đón những thành tựu của văn học Việt Nam cổ kim Trần Đức Thảo (1917-1993), sau một cuộc đời cần mẫn đầy nhọc nhằn, truân chuyên, đã để lại hai tác phẩm : "Phénoménologie et matérialisme dialectique" (Hiện tượng luận và duy vật biện chứng) được nxb Minh Tân, Paris, cho ra mắt năm 1951, sau đó được dịch ra tiếng Ý (1970), tiếng Anh (1986). Đến năm 1973, Nxb Editions Sociales, Paris, lại cho ra mắt một số công trình của ông được tập hợp lại trong tập "Recherches sur l' Origine du Langage et de la Conscience" (Tìm hiểu về nguồn gốc của Ngôn ngữ và Lương tri) (1973). Khúc hát thiên nga này của Trần Đức Thảo đã lọt vào mắt xanh của giới triết học Hoa Kì, và trước khi trái tim của nhà triết học Việt Nam ngừng đập (14-6-1993) ông còn có niềm vui thấy tác phẩm cuối đời ấy được dịch ra tiếng Mỹ : Investigations into Origin of Language and Consciousness , Nxb D. Reidel Pub. Com., Boston, 1984, một nét son muộn màng của giao lưu văn hóa Việt-Mỹ !. Trong sinh hoạt rầm rộ và mênh mông của văn học Hoa Kì, nếu có một số công trình trí tuệ cổ kim của Việt Nam được dịch, được xuất bản, được đánh giá cao và gây được tiếng vang thì nên xem đó là điều bình thường hay hãn hữu? Hãy cử ra vài trường hợp tiêu biểu. Trang bìa và một trang trong Spring essence : the poetry of Ho Xuan Huong Năm 2000 nhà xuất bản Copper Canyon Press cho ra mắt cuốn "Spring Essence : the Poetry of Ho Xuan Huong", John Balaban dịch, Ngô Thanh Nhàn viết chữ Nôm. Trong bài đáp từ của mình trong chuyến đi thăm Việt Nam cuối năm 2000, tổng thống Clinton nhắc đến nhiều hoạt động văn hóa về Việt Nam ở nước ngoài, kể cả Mỹ, đặc biệt nhắc đến việc "Những bài thơ hai trăm năm trước của Hồ Xuân Hương được xuất bản tại Mỹ bằng tiếng Việt, tiếng Anh và chữ Nôm, lần đầu tiên cách viết tiếng Việt cổ truyền được in ra". Cần nói rõ thêm rằng đây là lần đầu tiên cách viết tiếng Việt cổ truyền được in ra bằng phương tiện điện tử, mỗi chữ Nôm có một mã unicode. Đó là điều mới lạ và rất tiện lợi, có ý nghĩa lớn đối với văn hóa Việt Nam. Tập thơ Hồ Xuân Hương này đã nhiều lần được giới thiệu bằng thái độ trân trọng của các cây bút điểm sách Mỹ, trở thành một best-seller bất ngờ, được tái bản lần thứ ba sau hai đợt in bán hết sạch từ lần ra mắt đầu tiên (tháng 10 - 2000). (7) Bảy năm trước đó, dưới nhan đề Paradise of the Blind, nhà xuất bản Morrow, New York, đã công bố tiểu thuyết Những Thiên Đường Mù của nhà văn Dương Thu Hương, bản dịch của Nina McPherson và Phan Huy Đường. Giới báo chí và văn hóa Mỹ đã chào đón nó như một sự kiện tinh thần quan trọng : "Cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên được xuất bản tại Hoa Kì đã được quảng cáo rầm rộ, nhưng nó rất xứng đáng bởi vì Những Thiên Đường Mù là viên ngọc quí đầy chất thơ. [...] Một cuốn sách như vậy là một bước dài trên con đường dẫn tới sự giao cảm giữa hai nền văn hóa" (Joe Collins) (8). Cách nay hai năm, tiểu thuyết Số Đỏ, kiệt tác của nhà văn Vũ Trọng Phụng, được dịch ra tiếng Anh và được nhà xuất bản Đại học Michigan UMP phát hành vào tháng 6-2002 dưới tựa đề Dumb Luck. Nếu Lỗ Tấn đã sáng tạo được hình tượng A.Q., và Nam Cao đã sáng tạo được hình tượng Chí Phèo để bất tử hóa người nông dân cùng khổ Trung Quốc và Việt Nam xưa, thì Vũ Trọng Phụng cũng đã thành công sáng tạo hình tượng Xuân Tóc Đỏ trong Số Đỏ tiêu biểu cho anh chàng lưu manh thành thị chó ngáp phải ruồi của xã hội thực dân đầu thế kỷ 20. Thế là Dumb Luck đã được đưa vào danh mục những tác phẩm văn học kinh điển Việt Nam được giảng dạy trong các đại học Mỹ, và báo Los Angeles Times đã bình chọn kiệt tác Dumb Luck này là một trong 50 tác phẩm hay nhất được xuất bản tại Hoa Kì trong năm 2002. Cuốn sách Việt Nam đã gây được tiếng vang trong giới văn học Mỹ gần đây nhất có lẽ là tuyển tập truyện ngắn đương đại Việt Nam nhan đề Love After War (Tình Yêu Sau Chiến Tranh) của 45 nhà văn Việt Nam thuộc nhiều thế hệ từ 70-80 tuổi đến thế hệ trên dưới 30, còn sống hay đã mất, từ Tô Hoài, Chu Văn, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê, Nguyễn Quang Thân, Nguyễn Huy Thiệp ... đến Bảo Ninh, Da Ngân, Ngô Thị Kim Cúc, Phan Thị Vàng Anh, Phan Triều Hải, Nguyễn Ngọc Tư... Tuyển tập được dịch ra tiếng Anh này đã lọt vào Danh sách bình chọn 100 cuốn sách hay nhất năm 2003 của báo San Francisco Chronicle, một tờ báo có uy tín ở Hoa Kì. Trong một bài viết dài 16.000 chữ về 100 cuốn sách được chọn ấy, bỉnh bút của San Francisco Chronicle đã dành những dòng trân trọng cho Love After War như là "Tuyển tập văn xuôi đương đại Việt Nam bằng tiếng Anh lớn nhất được xuất bản tại Hoa Kì", một tuyển tập có văn phong đẹp phản ánh một đất nước ma,ø sau nhiều thập kỉ chiến tranh, cả văn học và đời sống không bị yếu đi, ở đó tình yêu vẫn mãnh liệt, cái mãnh liệt của trữ tình xen lẫn bi tráng. Giới trí thức văn nghệ sĩ Hoa Kì và sự phát triển của ngành Việt Nam học ở Mỹ Vì Hoa Kì là " đồng minh của miền Nam Việt Nam (Việt Nam Cộng Hòa)" chống miền Bắc "tiền đồn của thế giới cộng sản ở Đông Nam Á" cho nên đã có hơn một trăm tác phẩm, hàng ngàn bài báo viết về chiến tranh Việt-Mỹ những thập niên 1960-1970, và hàng chục cuốn phim Mỹ đã để lại một dấu ấn khó quên trong lịch sử điện ảnh thế giới trong gần nửa thế kỉ qua, từ Apocalyse now của Francis F. Coppola (1979) đến Rambo First Blood của Ted Kotcheff (1982), Rambo II của George P. Cosmatos (1985), Rambo III của Peter Mac Donald (1988) ... Nhưng đó không phải là điều quan trọng và đáng ghi nhớ nhất trong quan hệ giao lưu văn hóa Việt-Mỹ. Cái sẽ mãi mãi còn lại và sẽ được trân trọng hơn cả là sự quan tâm và nhiệt tình của nhân dân Hoa Kì đã và sẽ dành cho con người và văn hóa Việt Nam như là biểu hiện của tình hữu nghị giữa hai dân tộc. Cách nay vài năm, giáo sư Keith W. Taylor, Đại học Cornell, đã cung cấp cho chúng ta một bức tranh tổng hợp khá phong phú về "Việt Nam học ở Bắc Mỹ", qua đó nổi bật lên nhiều trung tâm Việt Nam học tại các Đại học Hawai, California (Berkeley), Washington (Seattle), Michigan (Ann Arbor), Cornell, Harvard, Trung Tâm Việt Nam của Đại học Kỹ thuật Texas (Lubbock), Nhóm Nghiên Cứu Việt Nam (VSG) của Hội Nghiên Cứu Châu Á của Hoa Kì (AAS) và nhiều nữa... Nhiều hội thảo khoa học quan trọng đã được tổ chức như Vietnam Legacies : Twenty Years later (Việt Nam : những gì còn lại 20 năm sau) tại Đại học California, Davis (28/30-4-1995) hay hội thảo quốc tế Việt Nam học Vietnam : Beyond the Frontiers (Việt Nam : vượt qua các biên giới) do Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á, Đại học Caliofornia, tổ chức tại Los Angeles (11/12-5-2001). Khi Việt Nam tổ chức Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ nhất tại Hà Nội (15/17-7-1998) với chủ đề "Nghiên Cứu Việt Nam và Phát triển Hợp tác Quốc tế" thì nhà tài trợ chính của hội thảo là Quỹ Ford của Hoa Kì, và phái đoàn Mỹ gồm hơn 30 đại biểu là một trong ba phái đoàn hùng hậu nhất, bên cạnh phái đoàn Nhật, Úc trong 26 nước tham dự (9). Một cuộc triển lãm dân tộc học - văn hóa học không tiền khống hậu về Việt Nam trên đất nước Hoa Kì Trong mấy năm gần đây, nhiều cuộc triển lãm mỹ thuật, dân tộc học và văn hóa học liên tiếp được tổ chức tại Mỹ, phản ánh sự quan tâm và nhiệt tình của người dân Hoa Kì đối với văn hóa nghệ thuật Việt Nam. Năm 1999, trường Đại học Columbia nổi tiếng đã tổ chức một cuộc triển lãm lớn về tranh sơn mài tại New York với tựa đề Vẻ đẹp Việt Nam, và ba họa sĩ Công Quốc Hà, Trịnh Tuấn, Công Kim Hoa đã giới thiệu với bạn bè và đồng nghiệp kỹ thuật vẽ tranh sơn mài đặc sắc Việt Nam. Đầu năm 2003, các họa sĩ Trần Lương, Nguyễn Minh Phước, Đinh Gia Lệ, Nguyễn Lê Vũ, Kim Ngọc đã có mặt tại Trung tâm Nghệ thuật New York chuẩn bị cho cuộc triển lãm Vietnam Now trong khuôn khổ Liên hoan Văn hóa Việt Nam tại Mỹ diễn ra suốt một mùa xuân. Và cái đinh của liên hoan này là một cuộc triển lãm dân tộc học - văn hóa học lớn mà hai phía Hoa Kì và Việt Nam đã để ra hơn 10 năm để chuẩn bị và đã khai mạc tại Viện Bảo tàng Vạn vật học Hoa Kì (AMNH) ngày 15-3-2003 tại New York. Tháng 1-2004 triển lãm đã đi một vòng Hoa Kì (Texas, California, Colorado...) rồi mới quay trở về Việt Nam (tháng 3-2005). Đó là cuộc triển lãm mang tên : Việt Nam : những hành trình của Thể xác, Tâm hồn và Trí tuệ (Vietnam : Journeys of Body, Mind and Spririt ) trưng bày hơn 400 hiện vật, hàng trăm hình ảnh, phần lớn mượn từ Việïn Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam (Hà Nội), phần còn lại là của Viện Bảo tàng Vạn vật học Hoa Kì (New York) hay mượn của một số bảo tàng châu Âu, chủ yếu là Pháp. Qua những hình ảnh sống động, tiêu biểu nhất của văn hóa văn minh Việt Nam từ ngàn xưa, triển lãm lần lượt đưa người xem qua những chuyến hành trình độc đáo : - Những hành trình của thần linh, gia đình và tổ tiên ; - Hành trình của con người và hàng hóa ; - Hành trình của sự sống và cái chết ; - Hành trình vào rừng, đi săn thú và tìm thuốc ; - Hành trình sang thế giới khác, v.v. Bà Ellen V. Futter, chủ tịch Viện Bảo tàng Vạn vật học Hoa Kì, người đã cùng với giáo sư Nguyễn Văn Huy, giám đốc Viện Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, đã để ra hơn 10 năm để chuẩn bị hoàn hảo cuộc triển lãm, cho biết : "Đây là lần đầu tiên một cuộc trưng bày dân tộc học lớn về Việt Nam được thực hiện tại Hoa Kì. Nó là một phần trong truyền thống lâu đời của Bảo tàng chúng tôi nhằm giới thiệu và tôn vinh các nền văn hóa khác trên thế giới. Triển lãm này là những câu chuyện được kể qua những cuộc hành trình. Đó là cuộc hành trình qua thời gian: từ Tết Nguyên đán đến rằm tháng giêng, sang Tết Đoan ngọ giết sâu bọ mồng 5 tháng 5 rồi vào rằm tháng 7 xá tội vong nhân, qua rằm Trung thu trông trăng phá cỗ, lại đến Tết Cơm mới mồng 10 tháng 10 ... Đó cũng là cuộc hành trình qua không gian: từ Hà Nội vào TP. HCM, từ một bản người Dao vùng núi phía Bắc xuống một chiếc thuyền đánh cá ở ven biển miền Trung, rồi lại lên một lễ hội Đâm trâu ở Tây Nguyên ... Và đó cũng là những cuộc hành trình của một chiếc xe đạp chở những sản phẩm của một làng gốm từ ngoại thành vào nội đô, những chiếc bình, những chiếc vại, những bát, đĩa chất nặng trên chiếc xe đang được một người dân bình thường đạp vào thành phố để bán dạo ... Có những cuộc hành trình thật cụ thể: mọi người chen chúc trên các chuyến xe để trở về nhà trong dịp Tết và cũng có những cuộc hành trình của tâm linh: các vị thần được rước trong lễ hội, linh hồn tổ tiên trở về nhà với con cháu vào các dịp lễ tết, cưới xin, ma chay" (10). Có lẽ gian trưng bày ấn tượng nhất là "Những linh hồn lang thang" với bài Văn tế Thập loại chúng sinh của thi hào Nguyễn Du đã làm cho nhiều người không cầm nổi nước mắt. Qua cuộc triển lãm không tiền khống hậu này, tại thành phố New York ấy, nôi có trụ sở của Liên Hiệp Quốc, ở một ngã tư quốc tế lớn, chắc chắn nhiều người Mỹ và công dân thế giới sẽ hiểu, sẽ mến thương, quí trọng Việt Nam hơn. Ngẫm ra, giao lưu văn hóa, tình hữu nghị giữa những con người, giữa các dân tộc tốt hơn chiến tranh gấp triệu lần. Lê Văn Hảo (Paris) Chú thích và tham khảo (1) Đào Đức Chương, "Lịch sử bang giao Việt-Mỹ", Làng Văn, Westminster, California, Hoa Kì, số tháng 4-1977, tr. 51-55. - Nhiều tác giả, Bùi Viện (1839-1878) : Cuộc đời kì lạ, chí lớn phi thường, Kỷ yếu hội thảo, Sở Văn hóa, Thông tin và Thể thao Thái Bình, 1992. (2) Cecil B. Currey, "Những người Mỹ ở Hà Nội năm 1945", Xưa và Nay, Hà Nội, số 149, 10-2003 (trích cuốn Võ Nguyên Giáp, nguyên văn tiếng Anh, bản dịch tiếng Pháp : Vo Nguyen Giap - La Victoire à tout prix, Phébus, Paris, 2003). - John Prados, Operation Vulture, America' s Secret Plan to Drop a Nuclear Bomb in Vietnam in the 1950' s, Ibooks, New York, 2003.
(3) Trần Ngọc Châu, "Người vẽ quỹ đạo cho phi thuyền Apollo bây giờ"..., Thanh Niên, Hà Nội, Xuân Nhâm Ngọ, 2002, tr. 19.
(4) Trọng Minh, "VACETS chứng minh giới trẻ Việt Nam đang làm rạng danh quê mẹ", Quê Hương, Hà Nội, số 6/2002, tr. 26-27.
(5) Hoài Trang, Khánh Ngọc, Gốm Việt "nối mạng" toàn cầu, Ts. Tuổi Trẻ Chủ nhật, số 21, 30-5-2004, tr. 20-21
(6) Nguyễn Đức Thế, "Múa Rối Nước thành phố Hồ Chí Minh : Ngang dọc trong lòng nước Mỹ", Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Sài Gòn, số 25 (25-6-2000), tr. 27.
(7) D. Thu, "Từ Hồ Xuân Hương đến John Balaban - Chiếc cầu nối ba thế kỷ", Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Sài Gòn, số 11 (25-3-2001), tr. 13.
(8) "Dương Thu Hương, tác giả Việt Nam được dịch sang nhiều thứ tiếng", Diễn Đàn, Paris, số 17 (tháng 3-1993), tr. 17.
(9) Đại học Quốc gia Hà Nội và Trung tâm Quốc gia Khoa học Xã hội và Nhân văn, Việt Nam học, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội, 15/17-7-1998, Thế Giới, Hà Nội, 2000, tập I-V. - Nguyễn Văn Ký, "Hội thảo quốc tế về Việt Nam học và những dấu hỏi", Diễn Đàn, Paris, số 78 (tháng 10-1999), tr. 23-24.
(10) Thu Hà (phỏng vấn bà Ellen Futter), "Hành trình vượt Thái Bình Dương cả hai chiều và liên tục", Tuổi Trẻ Chủ Nhật, Sài Gòn, số 11 (24-3-2003), tr. 14-15, 39. Đoàn Công tác của Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Những cảm nhận đầu tiên từ Triển lãm " Việt Nam : những hành trình của Con Người, Tinh thần và Linh hồn" tại New York, Ts Quê Hương, Hà Nội, số 4-2003, tr. 25-27.
|
|
|
Post by Can Tho on May 5, 2020 4:13:38 GMT 9
Tết là gì?www.caidinh.com/. Tết là tên riêng (nom propre) gọi ngày lễ mừng đầu năm mới của rất nhiều dân tộc và sắc dân ở khắp miền Đông Nam Á, còn tiết chỉ là tên thường (nom commun) của Tàu gọi những thời tiết thay đổi trong một năm. Chỉ có người Việt gọi là Tết, trong khi cả ngàn triệu người Tàu gọi ngày đó là duỳn tản (nguyên đán) hay là xin nển (tân niên). Tại sao họ không gọi là Tết? Vì Tết không phải là tiếng của họ. Giờ ta hãy trở lại với cái tên gọi là Tết. Có một cách hợp lý để tìm cho ra nguồn gốc của ngày Tết và ý nghĩa ấy. Hãy đi tìm trong tất cả các ngôn ngữ khác nhau ở miền Nam Á Châu xem thử có ngôn ngữ nào cũng có cái tên là Tết và cũng có cái cách phát âm, cách đọc, cách nói và cũng có cái nghĩa là ngày lễ ăn mừng đầu năm không, dù cho tiếng ấy không phải là tiếng Việt hay là tiếng Tàu? Nếu không có thì đành vậy chứ sao! Vậy mà có, mà lại có rất nhiều và giống gần y hệt, các bạn ơi! Thật ra, cái miền rộng lớn Đông Nam Á cứ đều đều mỗi năm thì mùa gió đổi chiều và đem lại mùa mưa khoảng tháng tư tháng năm, tùy theo từng vùng gió mùa, trước hết là từ bờ biển phía Tây của lục địa Ấn Độ, chuyển dần qua ngang vùng đất Ấn Độ, tiếp tục lan qua phía Đông lần lượt đến các xứ Bangladesh, Assam, Miến Điện, Myanmar bây giờ, rồi thổi qua Thái Lan, Lào mà đến Việt Nam, rồi tiếp tục cùng lúc lên phía Đông Bắc là vùng Hoa Nam bên Tàu và xuống phía Đông Nam là 15000 hòn đảo của Indonesia. Và cách đây cả chục ngàn năm, con người ở cái vùng gió mùa mênh mông ấy đã gọi là Tết cho cái hiện tượng trời đất gặp nhau qua mùa gió này và họ gọi cái lúc “giao mùa” đó bằng cái tên là Tết vì ai mà chẳng biết là không có mùa mưa đến thì kể như không trồng trọt gì được, huống chi là trồng lúa. Đông Nam Á là vùng của gió mùa mưa mùa, của mấy chục triệu con trâu, của mấy trăm triệu con người sống với cây lúa, nơi mà những hạt lúa giống oriza sativa đã được tìm ra từ 6000 năm trước (tài liệu của ông William Solzheim, đại học Hawaii). Gió mùa và mưa mùa là quyết định dứt khoát của đất trời cho con người ở Đông Nam Á. Khi mưa gió không thuận hoà thì hạn hán và đói kém sẽ bao trùm, cuồng phong và lụt lội sẽ tàn phá hàng trăm ngàn mẫu ruộng lúa và giết hại hàng ngàn người. Nông nghiệp và sự sống còn của hàng chục triệu người hoàn toàn tùy thuộc vào cái ân huệ vừa phải của mùa mưa đến hàng năm trên cái phần đất mênh mông này! Gió mưa đầu mùa là hứa hẹn của năm mới, của một đời sống mới, được chờ đợi khoắc khoải và đón mừng hân hoan, và triền miên có mặt trong mọi lãnh vực tin tưởng, huyền thoại hay tâm linh, và cái thực tế của đời sống hàng ngày của người đi cày đi cấy cũng gắn liền với bao nhiêu cái tin tưởng đó. Trên những trống đồng từ ba ngàn năm trước, mấy con ếch, cóc, nhái, ễnh ương, ệnh oạng nằm chồng lên nhau, mỗi góc trống ba con, như một ám ảnh không ngừng về mùa mưa, về ruộng đồng, ao hồ, sông nước, về bất cứ mảnh đất nào mà cây lúa có thể mọc lên. Biết bao nhiêu ca dao, tục ngữ, bài vè nói về mùa mưa, về lúa gạo, về ếch nhái và về ngày Tết trong tiếng Việt. Ở xứ Nepal bên Đông Bắc Ấn Độ, ngày lễ đầu mùa mưa cũng gọi là Teetj. Trong mấy ngày đó, người dân bản xứ ăn mừng, ca hát, nhảy múa, đánh đu, uống rượu, tạt nước vào nhau để chúc mừng, chúc lành cho nhau, chúc Teetj. Chung quanh xứ Nepal như ở Sikkhim và Bhutan, dân ở đó cũng gọi ngày đầu mùa mưa là Tiitj. Bên Miến Điện và Thái Lan thì tha hồ xịt nước, tạt nước nhau ướt mèm vào ngày đó. Năm 1986, tôi qua học tiếng Mon bên Thái Lan, gặp ngày lễ Song khràn (ngày tết âm lịch cổ truyền của dân Thái xưa, có nghĩa là giao mùa), trùng với mùa lễ Têj, vào ngày 13 đến 15 tháng tư của năm dương lịch, bị một cô người Thái ở đền Nakhon Pathom lén bỏ một cục nước đá vào cổ áo sơ mi của tôi lọt xuống lưng lạnh ngắt, cô ấy cười xin lỗi và nói là muốn chúc tết bất ngờ cho tôi theo kiểu tạt nước vào nhau của họ! Người Lào Thái còn gọi ngày ấy là wan pi may/ngày năm mới. Người dân Kampuchia thì gọi ngày đó là thngày chul thnăm chmây/ngày vào năm mới (trong lịch cũ của họ thì họ gọi tháng giêng là khae Chêt/tháng tết). Người Chàm thì gọi là bulan Chit/tháng tết. Các dân tộc mạn ngược ngoài Bắc Việt, cũng như nhiều dân tộc miền núi ở Trung Việt, vẫn có ăn mừng hội mùa mưa, hội ngày mùa còn lớn hơn cả hội mùa xuân (theo tài liệu của ông Nguyễn Văn Huyên "Les Chants Alternés Des Garçons et Des Filles en Annam/1934"). Kể từ khi Tàu qua đô hộ Giao Chỉ cách đây 2000 năm thì người Giao Chỉ không còn ăn tết vào tháng tư tháng năm của lịch Mường xưa “lịch ngày lui tháng tới” đó nữa mà ăn Tết theo lịch Tàu, mà lịch Tàu hồi xưa thì cũng "bất thùng chi thình", khi thì ngày đầu năm của Tàu rớt vào tháng chạp, khi thì nhằm vào tháng giêng của họ, và sau nhiều thay đổi mới gọi là ngày duỳn tán xin nển, chứ Tàu không gọi ngày đầu năm của họ là tiết nhật (sic) bao giờ cả. Chỉ có vài ông Hán Việt “chợ chiều” cứ khư khư tìm cho được một cái âm hưởng Tàu cho tiếng Tết, nên cố tình gượng gạo mà ép cho nó là tiết, cũng như họ đã giải thích kiểu tầm phào là Giao Chỉ là ngón chân giao nhau (nói tàm bậy!). Lạc là chim lạc, ghe chài là ghe tải @ Lê Ngọc Trụ. Trời đất! Sau đây là những từ đồng nguyên (cognates) khắp Đông Nam Á, dính líu với Tết. Alexandre de Rhodes Tết Tết năm (sic), Tết ai, ăn Tết Từ Điển Khai Trí Tiến Đức không hề cho rằng Tết là khoảng tiết của Tàu 0 Nùng Tét . Tết niên Tét. năm Tết
Chàm Băng Tít ăn Tết (băng là ăn) Tít Tết (lễ tháng 5 của lịch Chàm) bùlăn Chết tháng Tết Khmer Chêtr khae Chêt Chêt khal lễ tháng 5 (lịch xưa của Khmer), tháng gió mùa bắt đầu thổi ngược lại tháng của mùa gió Nồm ở Đông Nam Á, tháng của mùa mưa đến trên lục địa Ấn và miền Đông Nam Á (Tùy theo vị trí từng nước, mưa đến với gió mùa từ cuối tháng tư đến cuối tháng năm). Tên tháng 4 và tháng 5 của lịch Ấn xưa. tháng Tết (tháng 4 dương lịch), khae là tháng. Tháng Tết Khmer khoảng 13 tháng 4 dương lịch, khoảng 23 tháng ba âm lịch thời gian có lễ Tết ấy (khal là thời gian, lúc, khi) Thái Thết, Thết khal mùa Tết, những ngày Tết (annual Thết celebration /New Year propicious ritual) Thết Thày Tết Thái (Thái New Year ritual celebration) Trếts Tết (trong từ điển Francais-Thái của Pallegoix) Trêts chền Chêtr Trôts Trôts farăngChinese New Year [chền, tiếng Thái gọi người Tàu] Fifth lunar month # mid-April Lễ hội đầu mùa mưa của lịch Thái xưa, cuối tháng 4 và 5 dịch là Tết Hoa Lang (Western New Year) Chú ý: farăng # Hoa Lang # occidental, western (do đó mà có cái tên xưa đạo Hoa Lang # đạo Thiên Chúa). Zhuang Sit đuon Sit Tết của người Zhuang bên Quảng Tây, một bộ tộc thuộc dòng Tai, đông đến 25 triệu người, nói tiếng Thái xưa. Tháng Tết (yearly Monsoon festival, a ritual celebration) Mon k-Têh first days of Mon New Year Nepal Teej (Teetj Brata) lễ đầu năm của người Nepal theo báo Người Việt, ngày 9 tháng 10 năm 1992, số 305) Mustang Tij, Tiji ngày lễ mùa mưa đến (xứ Mustang ở sát với Nepal) Đông Bắc Ấn Độ Teej Monsoon festival (theo National Geographic thì swinging in celebration, village girls sing the ancient melodies of Teej, the festival marking the return of the monsoon and the promise of prosperity) Sau cùng, cái cú dứt điểm (knock-out punch) chấm dứt cái quan niệm sai lầm 2100 năm hơn của chúng ta là cú (coup) này: chính Khổng Tử cũng không hề nói Tết là do tiết mà ra! Ông nói rằng: “Ta không biết Tết là gì! Nghe đâu đó là một ngày lễ hội lớn của bọn người Man (sic). Họ nhảy múa như điên, uống rượu và ăn chơi vào những ngày đó mà không phải là những ngày đầu năm của chúng ta. Nghe đâu họ gọi là Tế-sạ.” (sic) (theo kinh Lễ Ký) @ Edward Shafer/Ancient China. Khổng Tử không nghĩ rằng tiết là cái âm sinh ra Tết, nên ổng mới phiên âm khác đi là Tế-Sạ. Hơn nữa, có cả chục ngôn ngữ và nền văn hóa khác với Tàu ăn mừng ngày đầu năm của họ và vẫn mang những cái tên mà ý nghĩa và phát âm, cách nói và đọc đều giống với cái âm, cái tên, cái tiếng Tết của dân Giao Chỉ và của dân Mường, nên ta phải suy nghĩ lại về cái hiểu lầm Tết khoảng Tiết của hơn 2000 năm qua. Như vậy, tết là tên gọi ngày ăn mừng đầu mùa mưa và sau này trở thành ngày ăn mừng đầu năm âm lịch luôn của các dân Mường, Nùng, Thái, Zhuang, Chàm, Mon, Khmer, vùng Đông Bắc Ấn Độ, Nepal, Mustang, Munda. Hỏi nhỏ bạn, bạn có còn cho rằng Tết là tiết của Tàu mà ra không? . Hy Văn Nguyễn Hy Vọng (Trích từ: Từ điển Nguồn gốc Tiếng Việt) ___________ Tài liệu tham khảo: A Dictionary of the Mon Inscriptions, HL Shorto, London 1971 A Grammar of the Khasi Language (Rev. H. Roberts/London) Ancient China, Howard Edward H. Shafer/Time Life, New York Ancient China, Maurizio Scarpari/Barnes Noble, Italy Dictionary Lingua Thai, Pellegoix PL 4186 PS 1854 a 1972 English-Hmong Dictionary, Lang Siong & Joua Siong, Nao Leng Siong PL 4072 4X/1984 Excerpts from Brittanica, 1999 Introduction to Sino Tibetan (Shafer 1966 – Wiesbaden Germany PL 3521, S, Kegan Paul Trench Hubner and Co., Ltd.,) Pater Noster House, Charing Cross Road, 1891 Lao-English Dictionary, Russell Marcus, Japan 1975 Studies in Munda Linguistics, Sudhibushan Batacharya/Simla, Calcutta, 1975 Thai Dictionary, Mary Haaj, Stanford, California 1964 The Languages of China Before the Chinese, Terrien de Lacouperie, London 1887, Taipei 1966
|
|
|
Post by Can Tho on May 5, 2020 4:40:18 GMT 9
Phạm Đình Lân Tây phương hóawww.caidinh.com/Hai chữ Tây Phương ngầm ám chỉ các quốc gia Âu-Mỹ sớm kỹ nghệ hóa và phát triển khoa học kỹ thuật. Các quốc gia Âu-Mỹ có những đặc điểm chung sau đây:
– Đó là những quốc gia khí hậu ôn đới, đại dương hay bán hàn đới và hàn đới.
– Người Âu-Mỹ là người da trắng theo đạo Christ tức đấng Cứu Thế Jesus (Thiên Chúa Giáo, Tin Lành, Chính Thống Giáo, Anh Quốc Giáo).
– Các quốc gia Âu-Mỹ là những quốc gia sớm có các định chế chánh trị dân chủ. Từ năm 509 trước Tây Lịch La Mã đã có Nguyên Lão Nghị Viện kiểm soát ngân sách chi tiêu của vua chúa. Các Nghị Viên không do dân bầu. Năm 507 trước Tây Lịch vị lãnh đạo thành Athens là Cleisthemes (570 BC - 508 BC) ban hành một hệ thống cải cách chánh trị gọi là DEMOCRATIA có nghĩa quyền hành của dân tức DÂN CHỦ (Demo: nhân dân; Kratos: quyền lực). Hy Lạp và La Mã là hai cái nôi của văn minh Âu Châu từ Đại Tây Dương đến dãy núi Urals và từ Địa Trung Hải đến các nước Bắc Âu. Năm 1215 vua John nước Anh (Vua 1199 - 1216) ban hành Đại Hiến Chương Tự Do (Magna Carta Libertinum) viết bằng tiếng La Tinh. Truyền thống dân chủ của Anh bắt đầu từ đó cho đến ngày nay mặc dù Anh không có hiến pháp chi cả vì đã có Great Charter of Liberties (Magna Carta Libertinum) được vua John ban hành từ năm 1215 ở Runnymede rồi. Hoa Kỳ có hiến pháp thành văn từ năm 1787. Đó là quốc gia có hiến pháp thành văn từ ngày lập quốc đến nay vẫn còn hiệu lực với một vài tu chính án. Pháp có hiến pháp năm 1791. Từ đó đến năm 1958 Pháp thay đổi hiến pháp 05 lần. Đệ ngũ Cộng Hòa Pháp được khai sinh khi thiếu tướng Charles de Gaulle trở lại nắm chánh quyền năm 1958.
– Các quốc gia Âu-Mỹ sớm dân chủ hóa như Anh, Hoa Kỳ, Pháp đều là những quốc gia sớm phát triển khoa học kỹ thuật. Thế kỷ 18 là thế kỷ của cách mạng, của triết lý chánh trị tự do và dân chủ, của sự phát triển của chế độ đại nghị và của cách mạng kỹ nghệ ở Anh. Chủ nghĩa đế quốc (impérialisme) theo sau sự phát triển kỹ nghệ, thành quả của nền giáo dục thế tục, dân chủ và cưỡng bách. Từ thế kỷ 15, với sự phát triển hàng hải, Bồ Đào Nha sớm chinh phục thuộc địa ở Phi Châu. Họ đến Ấn Độ, chiếm Goa, đến Singapore, vượt qua eo biển Malacca để đến Indonesia. Ở Nam Mỹ họ có Brazil. Người Tây Ban Nha bành trướng ảnh hưởng ở Mỹ Châu và đến Đông Nam Á chiếm quần đảo Phi Luật Tân. Hòa Lan phát triển ảnh hưởng ở Bắc Mỹ, Nam Phi và lấn áp Bồ Đào Nha để giành ảnh hưởng trọn vẹn trên quần đảo Indonesia. Anh bành trướng ảnh hưởng ở Bắc Mỹ (Canada, Hoa Kỳ) (đụng chạm với Pháp và Hòa Lan), ở Nam Phi (đụng chạm với Hòa Lan – người Boers), ở Ấn Độ (đụng chạm với Bồ Đào Nha, Pháp), Singapore, Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan bằng cách di dân Ái Nhĩ Lan và Anh sang hai vùng đất rộng lớn ở Nam Bán Cầu này. Chủ nghĩa đế quốc ra đời vào đầu thập niên 1880. Các nước Trung Đông, Bắc Phi, Đông Phi, Tây Phi, Trung Phi và Nam Phi, các nước Á Châu – ngoại trừ Nhật Bản, Thổ Nhĩ Kỳ và Thái Lan – đều trở thành thuộc địa của Anh, Pháp, Hòa Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Đức, Bỉ, Ý, Hoa Kỳ. Hai quốc gia to lớn và đông dân cũng không thoát khỏi sự đe doạ của các cường quốc Âu-Mỹ. Ấn Độ là thuộc địa của Anh. Goa bị Bồ Đào Nha chiếm. Pháp cùng chiếm một số tỉnh của Ấn Độ dọc theo duyên hải Ấn Độ. Vào thế kỷ 19 Trung Hoa bị các liệt cường Âu-Mỹ kể cả Nhật xâu xé. Nga có ảnh hưởng lớn ở Mãn Châu, chiếm Port Arthur (cảng Lữ Thuận); Anh chiếm Hong Kong sau chiến tranh nha phiến; Pháp thuê Guangzhouwan (Quảng Châu Loan), lập thiết lộ Hà Nội-Yunnan (Vân Nam), có tô giới ở Shanghai (Thượng Hải). Bồ Đào Nha chiếm Macao từ thế kỷ 16. Đức chiếm bán đảo Shandong (Sơn Đông) vào cuối thế kỷ 19. Việt Nam bị Pháp đô hộ. Phi Luật Tân đổi chủ từ Tây Ban Nha sang Hoa Kỳ năm 1898 sau khi Tây Ban Nha bị Hoa Kỳ đánh bại trong chiến tranh Cuba.
Các cường quốc Âu-Mỹ có thuộc địa khắp nơi trên thế giới đã Tây Phuơng hoá các nước thuộc địa qua:
1. Tôn Giáo: Người bản địa thời hậu Columbus ở Trung Mỹ, Nam Mỹ và trên các hải đảo trong biển Caribbean theo đạo Thiên Chúa vì ảnh hưởng của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha (Brazil). 90% người Phi Luật Tân theo đạo Thiên Chúa vì quần đảo nầy đặt dưới sự đô hộ của người Tây Ban Nha. Năm 1521 Tây Ban Nha tự xác nhận chủ quyền trên quần đảo Phi Luật Tân. Tên quần đảo Philippines mà người Trung Hoa âm thành Phi Luật Tân là tên của vua Philip II (1527 – 1598 – vua: 1556 - 1598). New Guinea, Angola, Mozambique có tỷ lệ tín đồ Thiên Chúa Giáo cao hơn các tôn giáo khác là do ảnh hưởng của người Bồ Đào Nha. Tình trạng tương tự được tìm thấy ở Goa (Ấn Độ) và Macao (Trung Hoa).
Ở Việt Nam đạo Thiên Chúa được truyền giảng bởi các giáo sĩ Tây Ban Nha, thuộc dòng Dominican (Đa Minh) vào thế kỷ 16 dưới triều Mạc Đăng Doanh (vua: 1530 - 1540). Cuộc nội chiến giữa hai họ Trịnh-Nguyễn kéo dài 45 năm (1627 - 1672). Hai phe giao chiến ngưng chiến bằng cách chia đôi hai miền lấy sông Gianh làm đường ranh qua phân. Phía bắc sông Gianh là Bắc Hà hay Đàng Ngoài. Phía nam sông Gianh gọi là Nam Hà hay Đàng Trong. Ở Đàng Trong đạo Thiên Chúa do các giáo sĩ Bồ Đào Nha và Pháp dòng Jesuit (Dòng Tên) truyền giảng. Đến hậu bán thế kỷ 19 Pháp chiếm Nam Kỳ, đạo Thiên Chúa phát triển nhanh chóng ở đó. Pigneau de Behaine là một giám mục Pháp giảng đạo Thiên Chúa ở Hà Tiên, Hòn Đất. Ông là người đưa hoàng tử Cảnh sang Pháp làm con tin để xin Pháp hoàng Louis XVI giúp đỡ cho Nguyễn Ánh trong cuộc nội chiến giữa họ Nguyễn và nhà Tây Sơn (1771- 1801). Pigneau de Behaine đại diện cho Nguyễn Ánh ký hiệp ước Versailles năm 1787. Vì cách mạng 1789 bùng nổ. Vua Louis XVI không giúp đỡ gì được cho Nguyễn Ánh. Pigneau de Behaine mộ binh giúp cho Nguyễn Ánh đánh nhau với Tây Sơn. Ông chết trước khi nhà Tây Sơn sụp đổ. Người đương thời gọi ông là Cha Cả (vì ông là giám mục). Mộ của ông ở Tân Bình, tỉnh Gia Định, được gọi là Lăng Cha Cả. Lúc bấy giờ những người giỏi chữ quốc ngữ và Pháp ngữ phần lớn đều là những tín đồ Thiên Chúa Giáo như Pétrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của, Philippe Lê Phát Đạt (Huyện Sĩ), Trần Bá Lộc, Trần Tử Ca, Trương Minh Ký, Diệp Văn Cương v.v.. Ở Bắc Bộ có Lê Duy Phụng hay Lê Bảo Phụng hay Tạ Văn Phụng, Nguyễn Trường Tộ, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Tố v.v.. Ở Trung Bộ có Nguyễn Hữu Bài, Ngô Đình Khả, Trần Trọng Kim v.v..
2. Ngôn ngữ: Chữ viết của người Âu Mỹ dựa theo mẫu tự La Tinh. Chữ viết của Nga dựa theo mẫu tự Cyrillic (1) phát xuất từ mẫu tự Hy Lạp. Thổ Nhĩ Kỳ và Indonesia là hai quốc gia Hồi Giáo rộng lớn và đông dân. Họ có chữ viết La Tinh hóa sau khi tiếp xúc với người Tây Phương. Các nước Trung Mỹ và Nam Mỹ, ngoại trừ Brazil, nói tiếng Tây Ban Nha và dùng chữ viết của nước này. Brazil chịu ảnh hưởng của Bồ Đào Nha về tôn giáo (Thiên Chúa Giáo) lẫn ngôn ngữ và chữ viết. Chữ quốc ngữ hiện hành ở Việt Nam là thành quả của những cuộc nghiên cứu ngôn ngữ La Tinh hóa của các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và Pháp thuộc dòng Jesuit. Giáo sĩ Alexandre de Rhodes của Pháp được ghi nhận là người có nhiều công lao trong việc khai sinh ra chữ quốc ngữ để tiện việc giảng đạo. Công trình của ông được Pigneau de Behaine tiếp nối và cải thiện đôi chút để giảng dạy các tín đồ Thiên Chúa Giáo sống trong vùng Vịnh Xiêm La. Phi Luật Tân có rất nhiều thổ ngữ. Thổ ngữ được nhiều người Phi Luật Tân dùng là Tagalog. Khi tiếp xúc với người Tây Ban Nha, nhiều từ Tây Ban Nha được vay mượn trong tiếng Tagalog. Hiện nay tỷ lệ người Phi Luật Tân nói tiếng Anh rất cao. Nhưng phần lớn tên của người Phi Luật Tân là tên Tây Ban Nha như Marcos, Claudita, Arroyo, Thomasa, Aquino v.v.. Trong tiếng Việt có nhiều Hán-Việt rõ hơn là Hán gốc Guangdong (Quảng Đông – Cantonese. Thực tế Canton không phải là Quảng Đông mà là Guangzhou < Quảng Châu >, thủ phủ của Guangdong). Thí dụ: chợ: thị; con chó: khuyển, cẩu; con gà: kê v.v.). Khi tiếp xúc với người Pháp thì ta vay mượn và Việt hoá toàn bộ những từ Pháp ngữ trong:
– thức ăn, thức uống Tây Phương không có ở Việt Nam trước đó như bíp-tết, ra-gu, cà-ri, mù-tạt, rượu bia, rượu vang (rượu chát; rượu nho), lê-mô-nát; trái ‘pomme’, bánh bít-qui, bơ, phô-mát, ba-tê-sô, xúc-xích, giăm-bông, ốp-la, ôm-mơ-lét v.v.
– dụng cụ ăn uống, nấu nướng và gìn giữ thức ăn: cái tách, cái cúp, cái cùi-dìa, cái nĩa (không có ở nước ta trước khi người Pháp đến), cái rề-sô, cái tủ lạnh phờ-ri-gi-đe (Frigidaire: hiệu tủ lạnh), cái gát-măng-giê v.v.. Bia Qingdao (Tsingtao – Thanh Đảo) của Trung Quốc nổi tiếng là nhờ người Hoa học kinh nghiệm cất rượu bia của người Đức khi họ chiếm đóng trên bán đảo Shandong.
– cây cối như cây cao-su, cây cà phê.
– thực vật như cải xà-lách, xà lách son; cà rốt, cà tô mát, đậu bơ-tí-boa v.v..
– âm nhạc như đờn măng-đô-lin; đờn băng-giô; đờn ghi-ta, vi-ô-lông, kèn trom-bét
– thể thao như me (main – tiếng Pháp), bê-nanh-ti, chặt cót-ne, giữ gôn – Anh; banh bông, banh, tơ-nít, vô-lây, đánh bốc v.v.. Những chữ đánh bốc, nốc ao, nốc đau, bê-nanh-ti, cót-ne, gôn, vô-lây, banh-bông đều xuất phát từ tiếng Anh boxing, knock out, knock down, penalty, corner, goal, volley, pingpong v.v..
– tên nước, địa danh và tên nhân vật: Việt Nam dùng sự phiên âm tên quốc gia, tên các thành phố lớn và tên nhân vật ngoại quốc trên thế giới của người Hoa âm từ các ngôn ngữ Tây Phương. Thí dụ: France: Pháp Lang Sa; England (Angleterre): Anh; Germany (Allemagne): Nhật Nhĩ Man; America (Amerique): A Mỹ Lệ Gia; Iceland (Icelande): Ích Lan; Ireland (Irlande): Ái Nhĩ Lan; Russia (Russie): Nga La Tư; Yugoslavia (Yougoslavie): Nam Tư Lạp Phu; Holland (Hollande): Hà Lan; Thailand (Thailande): Thái Lan; Paris: Ba Lê; Rome: La Mã; Washington: Hoa Thịnh Đốn; New York: Nữu Ước; Moscow (Moscou): Mạc Tư Khoa; Montesquieu: Mạnh Đức Tư Cưu; La Fontaine: Lã Phụng Tiên; Garibaldi: Gia Lý Ba Đích; Marx: Mã Khắc Tư v.v..
– tên gọi: Những tên gọi Răng, Rắc, Ve, Minh, Tí, Lít, Dết, Be thoạt mới nhìn tưởng là tên Việt Nam không ngờ đó là tên âm từ tiếng Pháp Jean, Jacques, Pierre, Émile, Petit, Alice, Juliette, Robert v.v.. Vào thập niên 1960 ở miền Nam Việt Nam xuất hiện vài nhi đồng Việt Nam mang tên Bill, Bob, John, dư âm của văn hóa Hoa Kỳ trên đất Việt.
– hộ tịch: Trước khi tiếp xúc với người Pháp khái niệm khai sinh, khai tử, hôn thú vắng bóng ở nước ta. Những từ trên được dịch từ acte de naissance, acte de décès, acte de marriage. Những tờ giấy này rất quan trọng trong các cuộc tranh chấp tài sản thường xảy ra trong xã hội minh chứng qua câu: Nhất hộ hôn; nhì điền thổ.
– kỹ thuật: như dây lập-lòng (fil à plomb), con vít; cái bù-lon, cái tuột-nơ-vít; sô-phưa (chauffeur – tài xế), ba-ga, ghi-đông, dây sênh, cát-tê, xe mô-tô, xe hủ-lô (rouleau), xe ô-tô, cây dên (bielle), cây láp (l'arbre) v.v..
– chánh trị và kinh tế: tổng thống chế (régime présidentiel), đại nghị chế (régime parlementaire), quân chủ chuyên chính, quân chủ lập hiến, phát-xít, Cộng Sản, Tư Bản, Sô-viết, tam quyền phân lập (séparation des trois pouvoirs), ngũ quyền phân lập (của Trung Hoa Quốc Dân Đảng), dân chủ, tự do, độc tài, tập đoàn lãnh đạo, cách mạng, khủng bố, chế độ quả đầu (régime oligarchique), hiến pháp, quốc hội, hành pháp, lập pháp, tư pháp v.v.. Chủ nghĩa trọng nông, trọng thương, kinh tế tư bản hay kinh tế thị trường, kinh tế chỉ huy, chủ nghĩa xã hội khuynh hướng Thiên Chúa Giáo hay khuynh hướng Cộng Sản, chủ nghĩa Dân Túy (Populisme), chủ nghĩa Vô Chánh Phủ (Anarchisme) của Mikhail Bakunin, chủ nghĩa duy vật (Materialism) hay chủ nghĩa duy tâm (Spiritualism), tự do mậu dịch, bảo vệ mậu dịch (protectionisme), phong trào nghiệp đoàn (Mouvement Syndical) v.v. đều là sản phẩm của người phương Tây. Sun Yatsen (Tôn Dật Tiên) khai sinh ra Tam Dân Chủ Nghĩa (San Min Chu I) sau khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Hoa Kỳ và Anh Quốc qua quá trình sống ở Hawaii và học y khoa ở Hồng Kông. Tổng thống Hoa Kỳ Abraham Lincoln đưa ra khẩu hiệu Vì Dân, Do Dân, Bởi Dân. Khẩu hiệu này tạo nguồn cảm hứng cho:
Dân Tộc Độc Lập Dân Quyền Tự Do Dân Sinh Hạnh Phúc trong Tam Dân Chủ Nghĩa (San Min Chu I). Sun Yat Sen và gia đình họ Tống bên vợ ông đều là tín hữu Tin Lành thấm nhuần văn hoá phương Tây. Các học giả Li Dazhao (Lý Đại Triều), Chen Duxiu (Trần Độc Tú) là những người mang chủ nghĩa Marxism vào Trung Hoa. Ở Việt Nam Nguyễn Ái Quốc (Hồ Chí Minh sau nầy) là người được Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản đào luyện để mang chủ nghĩa Cộng Sản thâm nhập vào Việt Nam ngay từ năm 1925 từ Guangzhou (Quảng Châu) (Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội). Chủ nghĩa Marxism có mặt khắp thế giới phát xuất từ phương Tây. Chủ nghĩa này bành trướng vững mạnh sau khi Lenin thành lập Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản (Comintern) năm 1919. Những chữ Sô-viết, Bôn-xê-vít, Men-xê-vít, Kom-sô-môn trong tiếng Việt đều phát xuất từ Nga như Soviet (chánh quyền nhân dân), Bolshevik (Cộng Sản phái đa số), Menshevik (Cộng Sản phái thiểu số), Komsomol (Thanh Niên Cộng Sản Đoàn).
'Mặt trời không bao giờ lặn trên đế quốc Anh’. Do đó tiếng Anh thịnh hành khắp thế giới. Tiếng Anh được xem là ngôn ngữ thương mại quốc tế vì Anh và Hoa Kỳ là hai cường quốc kinh tế và thương mại có tầm vóc lớn trên thế giới.
Ấn Độ có:
260 triệu người nói tiếng Anh như ngôn ngữ thứ nhất. 83 triệu người nói tiếng Anh như ngôn ngữ thứ nhì. 46 triệu người nói tiếng Anh như ngôn ngữ thứ ba. Ấn Độ có nhiều người nói tiếng Anh hơn Anh Quốc. Anh ngữ là quốc ngữ của Anh, Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan. Nó có vai trò quan trọng ở Nam Phi (ngôn ngữ thứ hai), Singapore, Hong Kong và nhiều quốc gia Phi Châu. Ở Singapore 42% dân số sinh ngoài Singapore. Vì vậy tiếng Anh rất quan trọng đối với đảo quốc có trình độ phát triển kinh tế và thương mại quan trọng nhất ở Đông Nam Á nầy. Người lập quốc Singapore, Lee Kuan Yew (1923 - 2015), há không học ở Anh Quốc sao? Ngày nay 190 quốc gia trên thế giới ngày nay đều học và biết tiếng Anh. Anh ngữ nối kết các dân tộc sống trên Trái Đất.
Kinh tế thị trường hay kinh tế chỉ huy đều xuất phát từ các nước Tây Phương. Khái niệm về ngân hàng sớm chào đời ở Assyria (Trung Đông) vào năm 2000 trước Tây Lịch, rồi Hy Lạp, La Mã từ ngàn năm trước. Theo vài tài liệu, ngân hàng cổ xưa ở Âu Châu là ngân hàng Taula de la Ciutat ở Barcelona, Tây Ban Nha, thành lập năm 1401.
Địa danh ngân hàng
Năm thành lập
Barcelona, Tây Ban Nha
1401
Hamburg, Đức
1590
London, Anh
1672
New York, Hoa Kỳ
1784
Nhật Bản là quốc gia Á Châu đầu tiên sớm canh tân đất nước bằng cách học hỏi những nét ưu việt của Tây Phương nhưng vẫn giữ sắc thái văn hóa, chánh trị đặc thù của Nhật Bản. Nhật không quan tâm đến chiến tranh cách mạng Hoa Kỳ, cách mạng 1789, 1830, 1848, cách mạng vô sản Nga 1917, những chủ nghĩa xã hội duy vật hay Thiên Chúa Giáo nhưng để ý đến tinh thần kỷ luật và cần cù lao động của người Đức dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Tể Tướng Otto Von Bismarck (1815 - 1898), sức mạnh của Anh Quốc trên biển cả và thương trường quốc tế và sức mạnh kinh tế và khoa học kỹ thuật của Hoa Kỳ. Nhật Bản Tây Phương hóa với tinh thần sáng tạo và tiến thủ độc đáo. Họ học nơi Tây Phương để vươn lên để được bình đẳng hay vượt qua chớ không phải để hàng phục và bị Tây Phương đồng hoá. Hiến pháp 1889 của họ phỏng theo hiến pháp của Đức. Nó không do Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo mà do ông Ito và ủy ban thảo hiến của ông viết ra. Nhật là một quốc gia quân chủ lập hiến. Thiên Hoàng luôn luôn được tôn kính yêu vì như từ thuở lập quốc năm 600 trước Tây Lịch. Sau 30 năm canh tân Nhật chứng minh thành quả của việc Tây Phương hóa bằng cách đánh bại Trung Hoa năm 1894, đánh bại Nga vào năm 1904 ở Mãn Châu và 1905 ở eo biển Tsushima (eo Đối Mã) bằng võ khí do chính họ chế tạo ra. Nhật đóng vai cường quốc Âu Châu trong Bát Quốc Liên Quân năm 1901 ở Beijing (Bắc Kinh). Họ không quan tâm đến Marxism và Đệ Tam Quốc Tế Cộng Sản do Lenin thành lập. Họ sớm hội nhập với chủ nghĩa đế quốc khi tách rời đảo Taiwan ra khỏi Trung Hoa (1895) theo tinh thần hoà ước Shimonoseki. Họ chiếm nửa đảo Sakhalin của Nga sau khi đánh bại Nga. Họ gây ảnh hưởng trên bán đảo Shandong sau khi Đức bại trận trong đệ nhất thế chiến. Họ xua quân vào Mãn Châu và thành lập Manchukuo (Mãn Châu Quốc) năm 1932, xâm lăng Trung Hoa năm 1937. Nhật Bản phỏng theo chủ nghĩa của tổng thống Monroe của Hoa Kỳ với khẩu hiệu Châu Mỹ của người Mỹ Châu để khai sinh ra chủ thuyết Đại Đông Á Thịnh Vượng Chung vào thập niên 1930 với khẩu hiệu Châu Á của người Á Châu..
3. Y phục: Khắp thế giới ngày nay đều mặc Âu phục tức áo sơ-mi tay ngắn hay tay dài, mặc quần sọt (short) hay quần dài, mang cà vạt, đội nón nỉ. Đầu hớt tóc ngắn, cằm được cạo râu nhẵn nhụi. Sang trọng hơn thì mặc áo bành-tô (paletot); chân mang giày da; cổ mang cà-vạt ngũ sắc. Phụ nữ ở thành phố không còn để búi tóc mà uốn tóc quăn. Nữ quyền được đề cao. Phụ nữ được đi học và làm việc ở các cơ quan công quyền. Đôi guốc hay đôi dép được thay thế bằng đôi dép da hay đôi giầy cao gót của phụ nữ Âu-Mỹ.
Xem phim Hong Kong mà thấy nhân vật chính trong phim mặc quốc phục Trung Hoa với áo cao cổ, nút thắt bằng vải thì người xem tự nhiên có cảm giác đó là một nhân vật ít cởi mở, tánh tình bảo thủ gay gắt khó chịu.
Cái tông-đơ, dao cạo của thợ hớt tóc, cái bàn ủi than hay bàn ủi điện, cái máy may, sợi dây thắt lưng da… vắng bóng ở các quốc gia thuộc địa trên thế giới. Chúng là sản phẩm của các quốc gia Tây Phương tức các quốc gia Âu-Mỹ.
Vài lãnh tụ quốc gia trên thế giới mặc quốc phục như thủ tướng Ấn Độ, các quân vương Á Rập Hồi Giáo nhưng trên áo quần của các vị ấy có ấn dấu của đường kim, sợi chỉ và mảnh vải sản xuất từ các nước Tây Phương. Đôi giày mà các vị ấy mang cũng phảng phất ấn dấu Tây Phương.
Để nêu gương canh tân Thiên Hoàng Meiji (Minh Trị) hớt tóc ngắn, để râu kiểu Napoléon III, mặc lễ phục như các quân vương Âu Châu. Mạnh dạn hơn, Thiên Hoàng Meiji tham dự các buổi dạ vũ như gởi một thông điệp rằng cái gì người Tây Phương làm được người Nhật cũng làm được. Dân chúng Nhật ăn mặc như người Âu-Mỹ. Phụ nữ Nhật ăn mặc như phụ nữ Âu-Mỹ nhưng không vì vậy mà chiếc áo kimono bị mai một. Ở Nhật áo kimono đắt hơn Âu phục phụ nữ rất nhiều. Nó được mặc trong những ngày trọng đại mà thôi. Bộ quân phục hakama của các hiệp sĩ Nhật ngày xưa đã được thay thế bằng quân phục của quân sĩ Âu-Mỹ. Ngày nay quân sĩ khắp thế giới đều mặc quân phục Âu-Mỹ, mang giày ống với quân hàm phỏng theo tổ chức quân đội của các nước Tây Phương.
Phan Châu Trinh là nhà nho Việt Nam hớt tóc ngắn, để râu cá chốt, mặc Âu phục, mang cà-vạt và mang giày da. Ông là nhà nho thấm nhuần tư tưởng Khổng-Mạnh nhưng ông mạnh dạn đả kích Kỳ Ngoại Hầu Cường Để ở Nhật năm 1906 và vua Khải Định khi thăm viếng Pháp năm 1922. Ông là phó bảng không hướng về văn hóa Trung Hoa mà hướng về DÂN CHỦ Tây Phương. Ông sống ở Paris nhưng không quan tâm đến Paris Công Xã hay cách mạng 1917 của Nga. Ông là nhà nho cách mạng đầu tiên quan tâm đến sự phát triển và độc lập KINH TẾ và sự mở mang DÂN TRÍ trong sự nghiệp đấu tranh của mình.
4. Văn hóa và tư tưởng chánh trị - xã hội: Các thuộc địa của Pháp đều chịu ảnh hưởng ít nhiều của văn hóa Pháp thời thế kỷ triết học (thế kỷ 18) và thế kỷ lãng mạn (thế kỷ 19). Những tác phẩm Esprit des Lois và Contrat Social của Montesquieu và Jean Jacques Rousseau được dịch sang Nhật ngữ và Hoa ngữ. Fukuzawa Yukichi (1835 - 1901) (2) là người có công đưa giáo dục Tây Phương vào nước Nhật. Trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội theo gương của ông ấy. Nhà cách mạng duy tân Phan Châu Trinh đọc Esprit des Lois và Contrat Social qua bản dịch bằng Hoa ngữ. Hai học giả Trung Hoa quan tâm nhiều đến cuộc canh tân theo gương Meiji (Minh Trị) vào hậu bán thế kỷ 19 là Kang Yu Wei (Khang Hữu Vi) và Leang Ki Chao (Lương Khải Siêu). Ảnh hưởng của văn thơ lãng mạn Pháp rất đậm nét ở Việt Nam vào thập niên 1930. Từ năm 1865 Pétrus Trương Vĩnh Ký cho ra đời tờ Gia Định Báo, tờ báo đầu tiên của Việt Nam. Các ông Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký viết và dịch hàng trăm quyển sách từ Pháp ngữ ra quốc ngữ hay ngược lại. Nhà văn Hồ Biểu Chánh đưa Don Rodrigue trong Le Cid của Corneille và Jean Valjean trong Les Misérables của Victor Hugo vào trong tiểu thuyết của ông. Ông là tiểu thuyết gia đầu tiên ở Việt Nam. Trương Minh Ký dịch Ngụ Ngôn La Fontaine và nhiều tác phẩm Pháp ngữ khác. Sau ông có Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh am tường quốc ngữ, Pháp ngữ, Hán tự. Quốc ca La Marseillaise và L’internationale (Quốc Tế Ca) ảnh hưởng đến phong trào yêu nước và phong trào Cộng Sản ở Trung Hoa và Việt Nam.
5. Dương Lịch (Gregorian Calendar): Loài người đã biết làm lịch từ lâu. Trên thế giới tạm tóm tắt có 03 loại lịch: Dương Lịch, Âm Lịch, Âm-Dương Lịch.
Lịch Gregorian hiện hành là Dương Lịch.
Lịch của Trung Hoa, lịch Hồi Giáo là Âm Lịch.
Lịch Pachanga của Ấn Độ là Âm-Dương Lịch.
Dương Lịch Gregorian ra đời năm 1582. Các quốc gia Âu Châu chịu ảnh hưởng Thiên Chúa Giáo La Mã dùng lịch nầy. Các quốc gia theo Chính Thống Giáo như Nga, Hy Lạp theo lịch Julian.
Việt Nam theo lịch Gregorian khi bị người Pháp đô hộ. Âm Lịch và Dương Lich tồn tại song song ở Việt Nam và Trung Hoa. Âm Lịch được dùng trong những ngày lễ lịch sử, giỗ chạp, Tết nguyên đán v.v.. Nông dân Việt Nam làm mùa, xem Tử Vi dựa vào Âm Lịch.
Trung Hoa theo Dương Lịch sau cách mạng Tân Hợi 1911 cụ thể là năm 1912.
Nga chuyển từ lịch Julian sang lịch Gregorian (Dương Lịch) sau cách mạng 1917 (lịch Gregorian đi trước lịch Julian 13 ngày), cụ thể là năm 1918.
Nhật Bản dùng Dương Lịch vào năm 1873, 05 năm sau cuộc canh tân của Meiji . Từ đó về sau Nhật Bản không cử hành Tết nguyên đán như trước.
Thái Lan dùng Dương Lịch vào năm 1889.
Thổ Nhĩ Kỳ dùng Dương Lịch vào năm 1917.
Ngày nay Dương Lịch được dùng khắp thế giới. Đó là sự Tây Phương hóa của các quốc gia trên hoàn vũ vậy.
6. Sự giải phóng con người: Hiến pháp và luật pháp Tây Phương giải phóng con người với ý niệm con người sinh ra đều bình đẳng và được hưởng tự do và các quyền căn bản của con người (tự do tư tưởng, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do di chuyển v.v.) và quyền sống, quyền học hành, quyền lập hội và các quyền căn bản khác. Văn hóa Tây phương dân chủ hóa sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân loại. Nó giựt sập những hình phạt ghê rợn như ném đá tử tội cho đến chết, tru di tam tộc ở các nước quân chủ chuyên chính trên thế giới. Nó làm suy yếu ý niệm nam trọng nữ khinh; trai năm thê bảy thiếp thường thấy trong xã hội phong kiến Khổng Giáo, Hồi Giáo, Ấn Giáo. Sự kỳ thị nam-nữ gạt bỏ 50% dân số ra ngoài mọi sinh hoạt của quốc gia. Phụ nữ Việt Nam chỉ được quyền đi học và làm việc ở các cơ quan công quyền vào đầu thế kỷ 20 mà thôi.
Trớ trêu thay! Ở Việt Nam luật pháp thuộc địa lại nhân đạo hơn luật pháp của vua chúa. Luật pháp thuộc địa minh định rõ rằng ai phạm tội thì bị trừng phạt chớ không có cách trị tội tập thể dưới dạng tru di tam tộc thường thấy dưới chế độ quân chủ chuyên chính (bản án Nguyễn Trãi vào thế kỷ 15 và Cao Bá Quát vào thế kỷ 19). Nam Kỳ (Nam Bộ) là thuộc địa (colonie) của Pháp. Luật pháp ở Nam Kỳ là luật pháp của Pháp trong khi Trung Kỳ (Trung Bộ) và Bắc Kỳ (Bắc Bộ) là đất bảo hộ (protectorat) nơi vẫn còn các vua nhà Nguyễn và luật pháp Nam triều. Luật pháp của Pháp không gay gắt như luật pháp Nam triều.
Năm 1908 dân chúng Quảng Nam, Quảng Ngãi biểu tình chống thuế. Ông nghè Trần Quí Cáp dạy học ở Nha Trang gởi thơ cho một người bạn ở Quảng Nam để bày tỏ sự vui mừng về việc làm của những người đồng hương Quảng Nam của ông. Bức thơ của ông bị phát hiện. Chiếu theo luật pháp Nam triều ông bị xử chém ngang lưng vì hưởng ứng loạn đầu bào, từ ngữ dành cho dân Quảng Nam cắt tóc ngắn trước khi đi biểu tình chống thuế. Chánh quyền thuộc địa Pháp từng dùng luật Nam triều do các quan án sát Việt Nam xử án những nho gia yêu nước như Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Tiểu La Nguyễn Thành, Trần Quí Cáp, Lương Văn Can v.v. để củng cố sự đô hộ của họ trên bán đảo Đông Dương. Vì hai chế độ tư pháp khác nhau giữa Nam Kỳ và Trung-Bắc Kỳ mà tiến sĩ Phan Văn Trường và nhà cách mạng duy tân Phan Châu Trinh không về Hà Nội hay Quảng Nam từ Paris vào thập niên 1920 mà về Sài Gòn và Gia Định. Năm 1922 khi vua Khải Định và hoàng tử Vĩnh Thụy (Bảo Đại) sang Pháp ông bị Phan Châu Trinh kịch liệt đả kích. Nếu Phan Châu Trinh về Quảng Nam biết đâu ông bị luật Nam triều xử tội khinh quân hay một tội chống Pháp nào đó!
Dưới triều Nguyễn nước ta là một quốc gia độc lập nhưng phải triều cống Trung Hoa. Từ năm 1806 đến 1918 Việt Nam có tổ chức các kỳ thi Hương (lấy cử nhân), thi Hội (lấy tiến sĩ) và thi Đình (phân cấp hạng tiến sĩ). Trong Lục Bộ (Bộ Lại < Nội Vụ >, Bộ Lễ < Tôn Giáo, Ngoại Giao, Giáo Dục >, Bộ Công < Công Chánh >, Bộ Hình < Tư Pháp >, Bộ Binh < Quốc Phòng >, Bộ Hộ <.Tài Chánh >) không có bộ Giáo Dục. Bộ Lễ đặc trách về nghi lễ, tôn giáo, ngoại giao và giáo dục. Mãi đến năm 1932 mới có Bộ Học (Giáo Dục). Các trường công lập ở các địa phương chỉ nở rộ dưới thời Pháp thuộc! Quốc Tử Giám ở kinh đô chỉ dành cho con quan học mà thôi. Chương trình học chỉ xoáy vào thơ văn và tư tưởng tuyệt đối đúng của đức Khổng Tử (Confucius) hay Mạnh Tử (Mencius). Nhân tài là những nhà thơ, những người am tường Hán tự, lời dạy của Thánh Hiền và sự quán thông tư tưởng và hành động của một số nhân vật danh tiếng của Trung Hoa. Tiến sĩ Phan Thanh Giản được cử giữ thành Vĩnh Long (1867). Phó bảng Hoàng Diệu được cử giữ thành Hà Nội (1882). Cả hai vị đều dùng cái chết của mình để nói lên sự bất lực của nhà nho trong sứ mệnh quốc phòng trước sức mạnh của võ khí và cơ giới Tây Phương. Hai thất bại trên cho thấy:
– sự sử dụng nhân sự không đúng chỗ
– quân bình lực lượng không tương xứng. Địch có các sĩ quan chỉ huy tốt nghiệp các trường quân sự. Cấp chỉ huy quân sự của ta là các nhà nho đỗ đạt trong các kỳ thi tam trường. Địch dùng súng ngắn, súng dài, đại bác có tầm tác xạ xa. Ta dùng gươm giáo, gậy gộc để chống trả.
– thói quen đề cao kẻ SĨ và khinh thường binh nghiệp. Cho dù canh tân quân đội với binh khí thô sơ cũng không đương cự lại võ khí của Tây Phương lúc bấy giờ. Trung Hoa là quốc gia mà Việt Nam thán phục cũng không làm được gì trước sức mạnh của võ khí phương Tây.
Các nước phương Tây sớm thi hành chế độ cưỡng bách giáo dục, đề cao một nền giáo dục thế tục, dân chủ và thực dụng với các bộ môn toán học, vật lý, hóa học, vạn vật học để đào tạo những nhân tài cống hiến sở học của họ vào việc phát triển quốc gia làm cho dân giàu, nước mạnh về kinh tế, thương mại lẫn quốc phòng.
So với xu hướng phát triển của xã hội loài người từ hậu bán thế kỷ 18 về sau, xã hội Khổng Giáo của chúng ta phô bày một số nhược điểm đại cương như sau:
a. không ai được quyền có tư tưởng hay ý kiến trái ngược với lời dạy của Đức Khổng Tử. Tính bất biến nầy dẫn đến sự ngưng đọng toàn diện của mọi sáng kiến và sáng tạo bởi Đức Khổng Tử là biểu tượng của sự Hoàn Hảo rồi.
b. Nam trọng, nữ khinh (Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô). Tại sao có sự bất bình đẳng kỳ lạ ngay trong gia đình? Con gái không được đi học, không được học nghề của gia đình (nữ sinh ngoại tộc), không được hưởng gia tài của cha mẹ nếu có chồng v.v.
c. Trai năm thê bảy thiếp. Gái chính chuyên một chồng: Ý niệm này tự nó thiếu thăng bằng. Tự nó phá vỡ công bằng và bình đằng trong xã hội. Nếu có câu đối ngược lại thì xã hội ra sao? Chế độ đa thê khó đảm bảo hạnh phúc trong gia đình. Để nuôi đông đảo con cái, nếu có quyền hành, e khó thoát cảnh tham nhũng, thụt két, hối lộ v.v.. Hạnh phúc vẫn bị sứt mẻ cho dù có thừa tiền bạc để mang no cơm, ấm áo cho gia đình. Đó là chưa nói đến sức khỏe và tuổi thọ của người chồng đa thê. Đàn ông có 07 điều bỏ vợ (Thất Xuất: 1. không con trai 2. không thờ kính cha mẹ chồng 3. dâm dật 4. ác tật 5. trộm cắp 6. ghen tuông 7. lắm điều khẩu thiệt). Đàn bà chỉ có 03 điều được bảo vệ không bị chồng bỏ (Tam Bất Xuất: 1. ăn ở với chồng lúc hàn vi 2. để tang bên nhà chồng 03 năm 3. không có nơi nương tựa nếu bị chồng bỏ).
d. Sống vì mồ mả; không ai sống cho cả bát cơm. Thật không thực tế vì sự ràng buộc vô hình này. Nó không phù hợp với hoàn cảnh chánh trị và xã hội và nhiều yếu tố phức tạp khác không ai có thể tiên liệu được. Nó cũng là sự trói buộc óc phiêu lưu mạo hiểm và cầu tiến tự nhiên của con người. Nó không tạo chân trời sáng hay tương lai vui tươi, hạnh phúc cho hậu thế mà ràng buộc hậu thế vào những nấm mồ thê lương, ảm đạm cho đến cuối đời.
e. Xã hội 04 giai tầng Sĩ, Nông, Công, Thương: Xã hội trọng vọng và đề cao kẻ SĨ hơn các nghề còn lại. Điều này vẫn còn ảnh hưởng với câu: Muốn có tiền đi làm hành chánh của thời hiện đại. Đó là những người nhàn nhã, ngồi nhà mát ăn bát vàng, tránh nắng, trốn mưa trong một nước nông nghiệp có tỷ lệ mù chữ cao. Đó là ước vọng ích kỷ của con người hoàn toàn thất lợi cho sự phát triển và mở mang công thương nghiệp đòi hỏi sự động não và óc phiêu lưu mạo hiểm. Một quốc gia có nhiều người ăn không ngồi rồi, không làm động đến móng tay nhưng thụ hưởng sự giàu sang phú quí thì quốc gia ấy ra sao?
f. Trọng người cao niên nhưng không chú trọng đến việc đào tạo và nâng đỡ mầm non: Nhân danh tuổi tác và kinh nghiệm người cao niên vô tình ngăn chặn đường tiến thủ của thế hệ trẻ với ý niệm MĂNG không đủ cao và không cứng chắc bằng TRE. Thế hệ cao niên giữ lấy kinh nghiệm của mình như một của quí cho đến chết. Thế là có cuộc đấu tranh ngấm ngầm giữa TRE và MĂNG, giữa LÃO NIÊN và THANH NIÊN. Chuyện gì sẽ xảy ra khi TRE tàn mà MĂNG đã bị luộc trong nồi khi mới mọc lên khỏi mặt đất?
****
Không thể chối cãi rằng các quốc gia sớm Tây Phương hóa đều là những quốc gia thoát khỏi cảnh nghèo đói, lạc hậu và chém giết nhau đẫm máu.
Nhật Bản là quốc gia Á Châu Tây Phương hóa thành công nhất thế giới. Mãi đến thập niên 1980 về sau Trung Quốc mới Tây Phương hóa thành công về phương diện kinh tế lẫn kỹ nghệ quốc phòng.
Nước láng giềng Thái Lan cũng có những tiến bộ vượt hắn Việt Nam. Hoàng tử Chulalongkorn (1853 - 1910) có một nữ giáo sư người Anh hướng dẫn. Khi lên ngôi dưới niên hiệu Rama V (1868 - 1910) nhà vua có nhiều sáng kiến canh tân như Meiji của Nhật vậy. Kết quả cuộc canh tân mà Thái Lan (lúc ấy chưa có quốc hiệu này mà là Xiêm La – Siam) thu nhận được không thể so sánh với Nhật nhưng so với Việt Nam thì họ vượt xa. Thái Lan được độc lập, vẹn toàn lãnh thổ trong khi Việt Nam bị Pháp đô hộ. Người Thái được hưởng hòa bình, thái bình; tình huynh đệ Thái tộc keo sơn bền vững trong khi Việt Nam phải trải qua nhiều cảnh đổ máu dưới nhiều dạng khác nhau:
– bài và giết đạo Thiên Chúa vào thế kỷ 19 từ thời Minh Mạng đến thời Tự Đức.
– các cuộc nổi loạn vào thế kỷ 19 (Phan Bá Vành, Lê Duy Lương, Lê Văn Khôi, Nồng Văn Vân, Lâm Sâm, Lê Duy Cự, Tạ Văn Phụng, giặc Chày Vôi ở Huế v.v.)
– chiến tranh với Xiêm La về vấn đề Ai Lao và Cambodia (1827, 1833)
– khởi nghĩa chống Pháp (1860 - 1940), chống Nhật (1940 - 1945)
– phong trào Sô Viết Nghệ Tĩnh, Quảng Ngãi (1930 - 1932)
– Nam Kỳ khởi nghĩa (1940)
– chiến tranh Việt Nam I (Chiến Tranh Việt - Pháp 1945 - 1954)
– đất nước chia đôi (1954 - 1975).
– chiến tranh Việt Nam II (1960 - 1975)
– sự sát phạt của người chiến thắng đối với người chiến bại (1975 - 1995)
– chiến tranh với Khmer Đỏ (1978 - 1989)
– chiến tranh biên giới Hoa-Việt (1979 - 1984)
– chiến tranh Hoa-Việt trên biển Đông (1988)
Suốt 150 năm từ năm 1825 đến 1975 luôn luôn có đổ máu ở Việt Nam dưới dạng này hay dưới dạng khác. Những thảm cảnh nầy xé nát sự đoàn kết dân tộc, hủy diệt niềm tin của dân chúng vào tương lai đất nước và cản trở sự xây dựng và phát triển quê hương.
Không quốc gia nào phồn vinh nhờ chinh chiến. Càng đổ máu càng gây thêm hận thù và chia rẽ dân tộc.
Không quốc gia nghèo khổ nào được nể trọng và độc lập thực sự trên chánh trường quốc tế.
Đó là chân lý chánh trị bất di dịch với thời gian và không gian.
Phạm Đình Lân, F.A.B.I. ____________________ (1) Do tên của St. Cyril (826- 869). St Cyril và anh là Methodius (815- 885) là hai vị Thánh Tông Đồ của giáo hội Chính Thống Giáo người Slav ở Bulgaria. Cả hai vị là người bảo trợ của Thư Viện Quốc Gia Bulgaria. (2) Fukuzawa Yukichi (1835- 1901) sáng lập ra trường Đại Học Keio nổi danh của Nhật và Viện Nghiên Cứu Bịnh Vi Trùng. Ông có sáng kiến Tây Phương hóa (Westernization) trước khi Thiên Hoàng Meiji canh tân xứ sở năm 1868.
|
|
|
Post by Can Tho on May 5, 2020 4:43:45 GMT 9
Nguyễn thị Cỏ May www.caidinh.com/Qua với BậuHôm qua, qua hứa qua qua…. Nhơn ngày Tết, ông Nguyễn văn Tương (*) tới thăm và mừng tuổi Cụ Trần văn Hương tại tư thất của Cụ. Bắt tay khách, Cụ Trần văn Hương vui vẻ nói:
– Em còn trẻ quá, chắc em không có học với qua. Mà nay, qua không còn làm việc chánh quyền nữa, được em tới thăm như vầy, thật cảm động. Qua mời em ở lại ăn cơm với qua. An cơm cá kho, canh chua,…(*)
Chữ “qua” còn được thông dụng với Cụ Trần văn Hương, người gốc Nam kỳ ở lớp tuổi 60, năm 1965 tại Sài gòn.
Cụ Trần văn Hương xưng “qua” nhưng lại gọi ông Nguyễn văn Tương bằng “em” chớ không phải “bậu” như trong ngôn ngữ giao tiếp rất phổ thông ở Nam kỳ trước kia.
Hai chữ “qua” và “bậu” được người có địa vị cao và có học trong xã hội dùng trong sanh hoạt hằng ngày chớ không riêng gì chỉ giới bình dân. Nhưng có lẽ tới thời Cụ Trần văn Hương, người ta không dùng “bậu” nữa mà dùng tiếng “em” để chỉ người đối thoại nhỏ tuổi hơn.
Chữ “bậu” có nghĩa là “bạn, là em” cả khi nói với người con trai, và cũng có nghĩa “em” trong nghĩa “vợ”, trong quan hệ vợ chồng.
Như trong Truyện Lục Vân Tiên, Lý Thông nói với Thạch Sanh khi gặp nhau lần đầu tiên, thấy Thạch Sanh trẻ tuổi hơn mình:
“Chẳng hay chú bậu (chú em) ở đâu, Áo quần chẳng có dãi dầu khá thương?
Thường thì người ta vẫn hiểu lầm là tiếng bậu chỉ dùng để chỉ người con gái, người phụ nữ. Như trong bài hát dân gian châm biếm, trêu chọc người con gái lớn tuổi mà còn ế chồng:
Ống tre khô người ta còn chuộng Bậu lỡ thời như ruộng bỏ hoang Ruộng bỏ hoang người ta còn cấy Bậu lỡ thời như giấy trôi sông Giấy trôi sông người ta còn vớt Bậu lỡ thời như ớt chín cây ……
Bậu lỡ thời như muốn người ta Muốn người ta người ta không muốn Xách cây dù đi xuống đi lên.
Ghi chú thêm – Theo Giáo sư Âm nhạc học Trần văn Khê, bài hát trên đây là bài “rap”, một thể loại hát dân gian ở Việt nam xưa, như một cách nói chuyện nhanh, lời tiếp nối nhau nên không có chấm câu, ngụ ý chọc ghẹo một đối tượng nào đó trong xóm, trong làng. Rất dễ hát nên trẻ con nghe qua là có thể hát theo. Nhờ đó, dễ phổ biến rộng rãi và chỉ trong thời gian ngắn, đối tượng có thể nghe được. Ngày nay, “rap”, thanh niên phi châu thường hát, nhứt là hát để khiêu khích cảnh sát.
Cũng tiếng “bậu” còn lưu hành ngày nay nhưng chỉ trong thi ca (Luân Hoán và Phan Ni Tấn, Phải lòng người con gái Bến Tre):
“Bậu sang phà Rạch Miễu, ngoe nguẩy xuống Bến Tre Về Cái Mơn, Lương Hòa hay là, Về Sơn Đốc, Ba Tri? Guốc bậu rụng tiếng lá (ơ hơ), thoang thoảng mùi làm duyên Thoáng mùi thương quá đỗi; mùi tình Lục Vân Tiên”.
“Qua” và “Bậu”
Theo Giáo sư Hán nôm Nguyễn văn Sâm (Đại Học Văn Khoa Sài gòn), chữ qua là tiếng biến âm từ tiếng quá (hóa) giọng Triều Châu của chữ ngã 我 (tôi). Dùng tiếng “tôi, anh” bình thường, người ta thấy không sang, không thân mật, và quan trọng nhứt là hơi mất tự nhiên nên người ta dùng tiếng qua. Chuyện nầy cũng tương tợ như người Việt Nam thời còn nặng mùi Tây hay dùng toi, moi (tutoyer) khi nói với bạn hay với cả người mình yêu khi mới bắt đầu tấn công ái tình. Ngày nay, ở Mỹ, tuổi trẻ Việt Nam có một chút học vấn khi bắt đầu tán tỉnh cũng thích dùng hai từ me, you hơn là anh em, em anh vì quá quen thuộc.
Chữ qua với nghĩa tôi, anh thân mật cũng thấy trong văn chương thế kỷ 19, như Lý Thông nói chuyện với Thạch Sanh (Truyện Thạch Sanh Lý Thông):
“Lý Thông thấy nói, sầu bi: Qua xin kết nghĩa vậy thì đệ huynh”
…Qua thời vốn có một mình, Mẹ thời già cả kết chưng bạn mày”.
Điều đáng để ý, qua lời của Lý Thông nói với Thạch Sanh, người ta hiểu tiếng qua của Lý Thông dùng có nghĩa là anh, là ta, là kẻ lớn hơn, vai vế là bực đàn anh của Thạch Sanh và tiếp theo, đã không ngại gọi Thạch Sanh bằng mày.
Cũng theo Giáo sư Nguyễn văn Sâm, chữ bậu có nghĩa là em, dùng trong cách nói thân mật. Người Nùng có tiếng bậu nghĩa là em. Người Thái có tiếng phậu cũng có nghĩa tương tợ (Tự điển Nguồn Gốc Tiếng Việt của BS Nguyễn Hy Vọng).
Người Nam kỳ nói bậu bạn, trong cách nói thân mật. Nên khi nói nó “làm bạn với…” có nghĩa là cưới vợ lấy chồng. Văn thơ Nam Kỳ dùng chữ bậu chỉ người mình thương khi nói trực diện.
Bậu nói với qua bậu không bẻ mận hái đào, Mận đâu bậu bọc, đào nào bậu cầm tay?
Nguồn gốc qua và bậu
Theo Giáo sư Nguyyễn văn Sâm, như trên đây, hai tiếng quavà bậu có nguồn gốc từ tiếng Triều châu và Nùng, Thái, Miên. Có người lại quả quyết một cách chắc nịch hai tiếng qua và bậu hoàn toàn là sản phẩm trong ngôn ngữ đặc sệt của dân Nam kỳ Lục tỉnh và cả cách sử dụng hai tiếng đó trong nói chuyện hằng ngày.
Nhưng có người khác (Trang “Ngày Ngày viết văn”, internet) lại dẫn chứng Từ điển Lê Ngọc Trụ để tìm về nguồn gốc của chữ qua và bậu và cho rằng cách lý giải của Học giả Lê Ngọc Trụ là dễ hiểu, logic, có cơ sở hơn hết. Theo đó, xin trích:
– Qua là cách phát âm của người Triều Châu của chữ “ngã” mà âm đọc phổ thông là “wǒ“. Người Triều Châu đọc chữ này là “wá“. Người ta giải thích thêm là khi xưa, ở miền Nam, nhất là khu vực Bạc Liêu, người Triều Châu di dân đến sanh sống rất đông. Cái tên Bạc Liêu cũng được cho là từ gốc Triều Châu mà ra.
– Tuy Từ điển Lê Ngọc Trụ không giải thích chữ “bậu” nhưng nếu “qua” là gốc Triều Châu thì cũng có thể suy ra “bậu” cũng từ gốc ấy mà ra. Người Triều Châu gọi vợ hay em bằng “pau”, “bấu” hoặc “bô” tùy theo từng vùng.
Nếu đúng “qua” và “bậu” đều là gốc Triều Châu, thì người ta có thể nghĩ rằng trong ngôn ngữ gốc, hai tiếng này không nặng tính chất tình cảm, không có ý nghĩa thân mật chi hết, cũng bình thường như tôi với anh hay như tao với mày vậy thôi. Trái lại trong tiếng việt, 2 tiếng ấy lại chứa chan tình cảm mỗi khi nghe nói, tuy ngày nay không còn dùng trong giao tiếp, chỉ còn thấy trong thơ ca, trong văn chương mà thôi. Hai tiếng qua và bậu luôn thắm đượm nghĩa tình. Có ai mà không cảm thấy thắt lòng khi đọc những câu ca dao này:
“Trách mẹ với cha chứ qua không trách bậu, Cha mẹ ham giàu gả bậu đi xa” “Bậu có chồng chưa, bậu thưa cho thiệt, Kẻo anh lầm tội nghiệp cho anh”
Hay đau khổ, trách hờn người yêu:
“Trách lòng bậu cứ đẩy đưa, Gạt anh dãi nắng, dầm mưa nhọc nhằn”
Hoặc thể hiện nỗi da diết, nhớ mong:
“Bướm xa hoa, bướm dật, bướm dờ, Anh đây xa bậu, đêm chờ ngày trông”
Và có đứt ruột không khi xa nhà, bỗng nghe văng vẳng tiếng hát “Ầu ơ ….” ( không phải giọng “À ơi …” của Bắc kỳ):
… “Chim chiều lẻ bạn ngoài song Em còn mong đợi người dưng. Qua không thương bậu, bậu còn buồn ai!”.
Có người (trên báo Tuổi Trẻ gần đây) giải thích một cách quả quyết: “Nhiều người lầm tưởng “qua” là một từ mới nhưng thật ra đây là một từ địa phương Nam Bộ giàu sắc thái biểu cảm, đã hình thành từ thời người dân nước Việt đi xuống phương Nam mở cõi”.
Có thật đó “là một từ địa phương Nam Bộ”?
Năm 1602, Nguyễn Hoàng sai lập dinh trấn, xây kho tàng chứa lương thực, vũ khí rồi sai con trai thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên (sau là Chúa Sãi) trấn giữ. Ban đầu dinh trấn được dựng ở Cần Húc, huyện Duy Xuyên, ít lâu sau dời sang Thanh Chiêm, rồi năm 1833, vua Minh Mạng cho dời lỵ sở Quảng Nam qua làng La Qua, Điện Bàn. Từ đó, ca dao địa phương có câu:
“Tỉnh thành đóng tại La Qua, Hội An tòa sứ vốn là việc quan”.
Và La Qua đã đi vào câu đối với cách chơi chữ tuyệt vời, lấy chữ qua với chữ đồng âm:
“Con gái La Qua, qua hôn, qua hít, qua vít, qua véo, qua chọc, qua ghẹo, qua biểu em đừng có la qua” (la nghĩa là rầy mắng, qua là anh, tôi).
Có câu đối lại cũng sát sàn sạt về chữ nghĩa, ý tứ:
“Đàn bà Phước Chỉ, chỉ xấu, chỉ xa, chỉ lười, chỉ nhác, chỉ bài, chỉ bạc, chỉ có chồng là may phước chỉ” (chỉ là chị ấy)
Không riêng gì Quảng Nam, vượt qua đèo Hải Vân ngược ra Bắc, nếu dừng chân tại Quảng Bình, người ta còn nghe câu hát huê tình đầy tiếng qua:
“Răng chừ đá nổi lắc lư Lạch Ròn kia cạn, qua mới từ nghĩa em”. (Theo Lê Minh Quốc)
Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi từ Quảng Nam đi xuôi về phương Nam, người ta sẽ nghe nói thường hơn 2 tiếng qua và bậu:
“Xa xôi chưa kịp nói năng Từ qua với bậu như trăng xế chiều”
Và khi tới xứ Nam kỳ Lục tỉnh, 2 tiếng qua và bậu dường như cũng dừng bước và đóng đô luôn ở miền đất lành chim đậu này:
“Bảng treo tại chợ Mỹ Lồng: Chữ đề tên bậu, không chồng có con”
Khi qua và bậu đã bén rễ ở đất Nam kỳ, thì cách nói năng cũng bộc trực, nghĩ sao, nói vậy như dân Nam kỳ:
“Bậu đừng lên xuống đèo bồng Chồng con hay đặng sanh lòng nghi nan”.
Nguồn gốc qua, bậu là Nam kỳ, là từ tiếng Triều châu, tiếng Nùng, Thái…?
Nói 2 tiếng qua và bậu là tiếng của địa phương xứ Nam kỳ hay do bắt chước theo cách phát âm của tiếng triều châu vì người triều châu sanh sống ở vùng đất mới này khá đông đảo, lẫn lộn với người việt nam nên ảnh hưởng qua lại là bình thường.
Nhưng người ta bắt gặp rất phổ biến 2 tiếng qua và bậu trong nói chuyện, trong câu hát của người dân miền Trung, từ Quảng Nam trở ra tới Quảng Bình và từ thời Chúa Nguyễn (1602), nghĩa là trước khi người Triều Châu từ bên Tàu qua và xuống Bạc Liêu lập nghiệp, làm rẩy, “dưới sông cá chốt, trên bờ Triều châu”. Như câu ca dao sau đây mang rất đậm nét địa phương và thời điểm:
“Ngó lên hòn Kẽm, đá Dừng Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi… Thương cha nhớ mẹ thì về Nhược bằng thương cảnh nhớ quê thì đừng !”
Hòn Kẽm, đá Dừng là hai địa danh đèo heo, hút gió tận thượng nguồn sông Thu Bồn của Quảng Nam. Ngày trước, để ngược dòng lên đây, từ Hội An là nơi đô thị trên bến, dưới thuyền, nếu đi thuyền, người ta phải mất cả tháng trời chèo chống. Và người Quảng Nam có lẽ ít có ai mà không biết vùng đất hẻo lánh kia cùng câu ca dao buồn tênh này (Theo Lê Minh Quốc).
Như vậy, nếu nói 2 tiếng qua và bậu là 2 tiếng địa phương của Nam kỳ Lục tỉnh có thể đúng trong sự chấp nhận 2 tiếng đó từ Miền Trung đi theo người Miền Trung vào đất Nam kỳ. Trong trường hợp này thì 2 tiếng qua và bậu hoàn toàn không có liên hệ họ hàng xa gần gì với chú ba triều châu hết cả.
Còn do ảnh hưởng tiếng nùng, thái, miên? Người ta có thể hiểu được cũng từ miền Cao nguyên theo bước di dân mà vào Nam và ở lại trở thành tiếng địa phương chăng?
Nhưng theo cách diễn giải, suy diễn thế nào đi nữa thì 2 tiếng qua và bậu, tuy xưa, nhưng khi thốt lên, vẫn dễ làm rung động lòng người vì sức nặng ý nghĩa thân thương, đặc tính nam kỳ của nó:
“Hôm qua qua hứa qua qua mà qua không qua. Nay qua không nói qua qua mà qua qua !”Nguyễn thị Cỏ May ________ (*) Hồi ký của Nguyễn văn Tương, Paris. Ông Nguyễn văn Tương làm Tổng Thư ký Văn phòng Chủ tịch Quốc hội, Thứ trưởng Bộ Nội vụ, Giáo sư Công pháp Trường Luật và Học Viện Quốc gia Hành chánh. Tỵ nạn ở Pháp, ông dạy ở Đại học Brest, Poitiers,… Nay hưu trí, ở ngoại ô Paris.
|
|
|
Post by Can Tho on May 5, 2020 4:54:22 GMT 9
Văn hóa ẩm thực đồng quê: Mắm Và Rau Trần Văn www.caidinh.com/
Các loại mắm bày bán trong nhà lồng chợ Châu Đốc
Tỉnh Châu Đốc năm xưa, nay thuộc tỉnh An Giang, nổi tiếng là cái nôi - quê hương của mắm hay còn gọi là Xứ Mắm. Châu Đốc sản xuất đủ loại mắm cá nước ngọt, từ loại cá lớn nhứt là cá bông, cá lóc đến con cá nhỏ nhứt là cá cơm, cá chốt, cá linh. Từ sản phẩm mắm còn chế biến những món đặc sản khác, như: mắm thái - xé hay xắt nhỏ mắm cá lóc (lóc bỏ hết xương và da) trộn với đu đủ bào hay xắt nhỏ. Phó sản của mắm, đu đủ cũng gọt sạch vỏ, xắt theo chiều dọc hay dưa gang để vỏ cũng xắt theo chiều dọc, ủ hay còn gọi là gài trong hủ, lu mắm thành món ăn khác gọi là dưa mắm. Cá linh nhiều còn được ủ làm nước mắm, một loại nước mắm cá nước ngọt thượng hảo hạng rất ngon của miền đồng bằng sông Cửu Long.
Người ta thường ăn mắm bằng cách ăn sống, chưng cách thủy để nguyên con hoặc bầm nhuyễn. Cách khác cũng là cách ăn mắm cầu kỳ, tốn công và cần có nhiều thứ khác phụ vào mới gọi là mắm kho, đúng nghĩa của nó. Không ai kho mắm khơi khơi chỉ có mắm và nước lã. Trái lại phải kho mắm thế nào vừa ngon vừa làm mê hoặc thị giác, khẩu vị của những người sành điệu thưởng thức món ăn độc đáo lại nặng mùi trên cõi đời này.
Mắm và rau có nghĩa là gì? Có nhiều người hiểu khác nhau nghĩa chữ "và" ở giữa hai chữ mắm, rau. Chữ "và" ở đây không phải là một liên từ mà nó là một động từ, chỉ động tác của một sự việc. Khi nói đến mắm và rau người ta hiểu ngay là mắm phải kho với thịt cá và nhiều thứ khác nữa chớ không thể là mắm sống, mắm chưng để vậy mà ăn với rau. Ai cũng hiểu bất cứ món mắm chế biến cách nào cũng đều ăn với rau sống vì rau sống là linh hồn của các món mắm. Ăn mắm kho mà lại thiếu rau chẳng khác nào người Việt mình uống cà phê mà không có đường hoặc sữa.
Món mắm và rau có hai khâu then chốt là khâu kho mắm, chế biến thế nào cho được món mắm kho tuyệt cú mèo, khoái khẩu nhứt. Khâu thứ hai là khâu sửa soạn một món rau đầy đủ nhứt để ăn với mắm thật hấp dẫn, phát huy hết cái ngon, khoái khẩu của người sành điệu ăn mắm kho. Bất cứ một món ăn nào cũng đều tùy thuộc vào cái "gu" của mỗi người, cũng như tánh tình, sự ham thích của con người cũng thường khác nhau. Thưởng thức một món ăn cũng vậy, người thì thích ăn mặn, kẻ ăn lạt, nhiều gia vị hoặc ít gia vị. Món ăn của người nầy cho là ngon nhứt, người khác lại không thích, "bá nhơn bá bụng" là như vậy.
Người ta chọn mắm để kho, ít ai dùng mắm cá lóc, cá bông, cá rô, cá trèn mà đem đi kho. Dễ hiểu nhứt, các loại mắm này mắc tiền đem kho rất uổng phí, hơn nữa khi kho các loại mắm đó lại không ngon hơn các loại mắm rẻ tiền như mắm cá linh, cá sặc vả lại tìm mua rất dễ nữa. Cá lóc, cá bông thường là chưng cách thủy để nguyên con chỉ cho thêm đường, mỡ nước, tóp mỡ, tiêu hành, ớt... thế là đủ hay còn cho thêm thịt heo bằm hay xắt nhỏ hoặc thêm trứng gà hoặc trứng vịt.
Các loại mắm khác cũng có thể chưng cách thủy kể cả mắm cá linh, cá sặc, cá rô nhưng lại có nhiều xương và mắm cá linh, cá sặc bị rã nát ra không thể gắp thành miếng như mắm cá lóc, cá bông được. Mắm cá lóc, cá bông người ta còn để nguyên con chiên có ướp thêm đường, hành củ đâm nhuyễn, tiêu rắc lên trên cho có mùi thơm (có người cho là mắm nặng mùi, hôi) lan tỏa thật xa khắp nơi. Mắm cá rô, cá trèn, cá chốt thường chỉ để ăn sống, nặn thêm nước chanh trái hoặc giấm, đường ớt ăn cùng với thịt heo luộc và rau sống.
Tất cả các loại mắm cá nhỏ người ta có thể bầm chưng với thịt heo nạc bầm nhuyễn cùng với hột vịt, hột gà, sả, tiêu, ớt. Mắm cá lóc cắt từng khúc chưng với thịt hoặc có thêm cả lòng trắng lòng đỏ hột vịt, hột gà thật hấp dẫn.
Món mắm chưng, chung quy có hai cách để nguyên thủy chưng hoặc bầm nhỏ trộn cùng với thịt heo, trứng gà, trứng vịt. Dù là ăn mắm sống, ăn mắm chưng hay mắm kho mà thiếu rau dưa làm cho cái miệng mất sướng, giảm thiểu rất nhiều cái ngon của mắm.
Mắm kho cũng có hai cách, một là kho để trong nồi, xoong, ơ. Cách khác là để mắm được nóng liên tục kho bằng những cái lẫu. Mắm kho ăn nguội mất ngon và nhiều khi tanh khó ăn hơn. Dân ở thành thị chế biến món kho mắm trong những cái lẩu, than đỏ hồng, giữ độ sôi, nóng suốt bữa ăn rất ư là ngon miệng, ăn hoài không chán. Ngày nay, cái lẩu xài ga hay điện tiện lợi và sạch sẽ hơn lẩu than trước kia rất nhiều. Sửa soạn một nồi mắm kho ngon, vừa ý là một việc làm tốn nhiều công và tiền bạc. Trước nhứt là mua mắm, chọn mắm nào không bị "hôi dầu". Nghĩa là tránh không mua những con mắm để lâu, mềm và mỡ cá loang loáng ra. Mắm cá linh thường có hiện tượng nầy. Mắm cá linh là loại mắm rẻ nhứt, nhiều nhứt. Nếu mắm cá linh để lâu đem kho lại có vị đắng. Người sành điệu thường chọn mua mắm cá sặc, lựa những con mắm tươi hồng, mình cứng, nếu gặp mắm sặc màu tai tái đen, xám, mình mềm kho cũng không ngon. Kho mắm rất lắm công phu, chọn lựa mắm thật kỹ, mắm mặn quá cũng không ngon, quá lạt thì màu tai tái lại cũng không ngon; tiền nào của ấy, mắm ngon giá cao hơn. Cho mắm vào nồi, đổ nước lã vừa ngập mắm bắt lên bếp, đun lửa vừa phải, đợi đến khi con mắm nát hết, nghĩa là chất mắm hòa tan vào nước, người ta hớt bọt kỹ trước khi lược mắm thật sạch không còn xương. Ở nhà quê, những cái lược mắm thường đan bằng cật tre vót nhỏ. Ở thành thị lược mắm bằng những cái rá đan khít chừa những lổ ô vuông li ti thường làm bằng ny lông hoặc loại cước kim loại thật mảnh. Ngày nay, trong nước, mắm để kho được các nhà sản xuất xay nhuyễn cho vô, lọ… xuất khẩu dễ dàng, vệ sinh hơn và kho mắm cũng nhanh và lược lấy xương cũng tiện.
Từ một cái nồi, cái ơ kho mắm nầy, lược càng sạch xương mắm càng tốt, người ta cho vào cái nồi khác bắt lên bếp lửa, đun sôi thả vào nồi mắm nào là thịt heo nạc hoặc thịt ba rọi, mực tươi, tôm và đặc biệt cá ba sa, cá ngát, cá vồ, cá tra hoặc cá lóc, cá trê, cá rô... Ở bên Mỹ có cá "cat fish" nhiều, tương tự như cá ba sa bên Việt Nam. Cá kho mắm thường chọn những con cá lớn hoặc những con cá có nhiều mỡ, béo, ăn ngon hơn. Một điều quan trọng nhứt, kho mắm mà thiếu cà tím cũng như múa lân thiếu pháo. Mắm kho là phải có cà dái dê, nhà quê còn gọi thêm một cụm từ khác ám chỉ cà trái dài là "cà ông giặc", đó là câu chọc ghẹo, nói lái làm cho mấy bà nội trợ đỏ mặt tía tai.
Mắm thái (cá lóc) & đu đủ bào thành cọng nhỏ
Nghệ thuật và kỹ thuật kho một nồi mắm ngon tùy mỗi người, có khẩu vị khác nhau. Người ta có thể kho mắm độc nhất với cá và cà dái dê, thậm chí không có cá lớn kho với cá chốt, cá thiểu, cá mại, cá lòng tong và ngay cả cá linh. Mắm cá linh kho với cá linh tươi ăn vẫn ngon như thường. Một điều cần lưu ý, kho mắm nên kho những loại cá nào có nhiều mỡ như dòng họ cá bông lau (cá ba sa, cat fish) hoặc với thịt heo vừa có nạc vừa có mỡ, màu mỡ sẽ nổi loang loáng, lấp lánh trên mặt nước trông "gợi cảm", thòm thèm hơn.
Trong những năm chiến tranh, người dân quê tản cư ra thành thị, họ cũng mang theo món ăn khoái khẩu truyền thống ở nhà quê ra thị thành... Dần dần những món ăn mắm, cá lóc nướng trui xâm nhập và chiếm cảm tình trọn vẹn của thị dân. Hai món ăn độc đáo nầy trở thành món ăn phổ thông đại chúng cho tất cả mọi người. Không còn phân biệt món ăn của dân nghèo, giàu hay thành thị, thôn quê nữa.
Sự phân chia giai cấp đã xóa tan qua hai món cá lóc nướng trui, mắm và nhiều món ăn khác ở nhà quê. Không những thế, ngay tại thủ đô Sài Gòn, Hòn Ngọc Viễn Đông, món ngon vật lạ dẫy đầy tại khắp nơi khắp chốn kể cả người ngoại quốc đổ vào những món ăn ngon, lạ. Nhiều món ăn ngon bổ, nhiều món trân châu mỹ vị; nhưng hai món ăn bình dân thôn dã mắm và cá lóc nướng trui cũng có chỗ đứng cao trong các nhà hàng sang trọng hoặc tại những nhà hàng chuyên làm những món đặc sản đồng quê.
Chính hai món ăn nầy chiêu dụ những người sành điệu thưởng thức giá cắt cổ, không còn là món ăn bình dân rẻ tiền nữa.
***
Cuối những năm 60 vào đầu năm 70, tại quán ăn Thanh Thanh nằm ở góc đường Trần Hưng Đạo và Nguyễn Cảnh Chân, gần phòng mạch của bà Bác sĩ Trường; nhìn bên kia đường Trần Hưng Đạo là Nha Cảnh Sát Đô Thành; Sở Chữa Lửa; nhìn sang bên kia đường Nguyễn Cảnh Chân, bên hông Bộ Lao Động. Quán Thanh Thanh có một món ăn có thể nói là độc đáo nhứt làm cho những thằng con trai vốn ở nhà quê của "Xứ Mắm Châu Đốc" thường lui tới và cũng chỉ chọn, y như rằng, lần nào cũng vậy, món ăn chủ lực là Mắm Và Rau. Còn những món ăn khác, món nhắm để nhậu lai rai chỉ là thứ yếu, món nào cũng được.
Một buổi chiều, sau giờ tan sở, điểm hẹn quán Thanh Thanh của tám thanh niên, đều là bạn học trước sau vài lớp cùng quê Châu Đốc sẽ làm một chầu mắm và rau. Cô chủ quán niềm nở ân cần chào mời khách mà lại là khách ruột nữa. Cái tướng dong dỏng, cổ cao trắng, thân hình thon thon mà đầy đặn, có vẻ dầy cơm, trông rất mát mắt của chủ nhân quán Thanh Thanh cũng là một lý do làm cho các món ăn thêm ngon, hấp dẫn. Cô chủ quán không phải là người đồng hương Châu Đốc, cô sinh trưởng ở một tỉnh miền Tây, trôi dạt lên Sài Thành cùng với gia đình từ lúc còn bé.
Một cái bàn lớn, tám chiếc ghế nệm đỏ sang trọng, cô chủ quán kéo ghế mời vài người vừa đến trước và ân cần hỏi khách chọn món nhắm để nhâm nhi chờ đợi bạn đến đông đủ
Bạn bè đủ mặt, tiếp tục làm vài "tua" nhậu lai rai gọi là lấy hứng, lấy trớn để tấn công vào món ăn chủ lực mắm và rau chiều hôm nay, một buổi chiều khô ráo không có mưa như mấy ngày trước. Món mắm và rau đã được đặt trước từ sáng sớm để chủ quán có đủ thời giờ chọn lựa mua những thứ cần thiết mà khách hàng ưa thích. Mỗi nhà hàng, quán ăn, quán nhậu thường có một hay vài món đặc biệt chủ lực mà các nơi khác không thể sánh bằng. Nhà hàng Thanh Thanh có món ăn nổi tiếng là mắm và rau.
Bông súng ăn với mắm kho
Ngồi quanh bàn tròn chuyện trò tán gẫu, kể lại những kỷ niệm thời thơ ấu, lúc còn là học sinh, tiểu trung học ở tỉnh Châu Đốc, thời hoa niên vui đẹp xiết bao! Không khí đang râm ran tiếng nói cười, cô chủ quán lại đến xin phép để cô hầu bàn đặt cái lẩu tổ chảng lên bàn, món ăn chủ lực mắm và rau bắt đầu. Mọi chuyện tạm xếp lại, để xem chiều nay món mắm và rau gọi là đặc biệt nhứt như lời cô chủ quán thông báo trước, có những gì?
Trong lẩu mắm đã có sẵn một đầu cá lóc lớn, vài khúc cá bông lau, thịt heo nạc có mỡ, cà dái dê đã chín, nước đang lên tăm. Cô hầu bàn bưng ra thêm một tô nước mắm đã kho trước rồi đổ vào gần đầy cái lẩu, đậy nắp lại. Tiếp tục bưng ra hai đĩa đựng cá lóc thái mỏng, thịt bò thái, tôm tươi, mực tươi. Cô hầu bàn mang ra sau cùng ba đĩa rau, dưa gồm có đủ thứ rau kể cả giá sống, rau muống chẻ, bắp chuối xắt nhỏ, chuối chát, khế, khóm, lại có thêm một đĩa bún tươi để ai thích thì dùng thay cơm.
Rau sống, ngoài các thứ rau thường thấy: húng, rắp cá, tía tô, kinh giới, húng quế, lại có đọt chiếc, lá ngành ngạnh, bông súng, rau dừa. Một điều làm cho tám thanh niên ngạc nhiên là có cả bông điên điển vàng tươi nữa. Bông điên điển ở Sài Gòn cũng có bán nhưng rất hiếm. Ăn mắm kho mà ăn với bông điên điển mới đúng điệu, đúng băng tầng của mắm kho. Cư dân ở miệt Châu Đốc, miền Tây nói chung ăn mắm mà thiếu bông điên điển, bông súng, rau dừa làm chất xúc tác thì món mắm kho sẽ giảm mức ngon hết một nửa. Ở nhà quê, ba thứ: rau dừa, bông điên điển, bông súng là món rau chủ lực trong việc ăn mắm và rau. Ngoài ba thứ rau nầy, rất khó tìm thứ rau khác ngon hơn.
Còn món rau độc đáo ăn với mắm kho của xứ Bà Bài sửa soạn như thế nào đây?
Công việc đầu tiên là đi hái bông điên điển. Điên điển trổ bông vào tháng sáu, bảy, tám và có thể đến tháng chín tháng mười cũng có bông điên điển. Cây điên điển, khi ngập nước sẽ trổ bông sớm hơn những cây mọc trên khô, cạn. Bông điên điển nở rộ vào tháng tám âm lịch. Hái bông điên điển xong, người ta nhổ bông súng hoặc súng chưa có bông thì tạm "bứt" một ít cọng lá súng, kế tiếp hái rau dừa, kể cả rau ngổ cũng dùng vào việc ăn mắm kho. Các loại rau nầy thường mọc bên hông nhà hoặc sau hè khi nước ngập lêu bêu. Cọng bông súng hoặc cọng lá súng bóc hết vỏ lụa, xắt nhỏ hoặc ngắt từng khúc để vào trong đĩa.
Đến mùa có nhiều bông điên điển, người ta thường tổ chức nấu mắm kho và làm bánh xèo. Bánh xèo mà làm nhưn, ngoài thịt heo, tôm, thịt gà, giá, đậu xanh nấu có thêm bông điên điển thì món bánh xèo đó mới ngon tuyệt vời. Như vậy, món bánh xèo sẽ phát huy hết cái ngon hấp dẫn của nó. Nhưn bánh xèo với bông điên điển vừa ngọt thanh thanh vừa có hương vị thơm thoang thoảng, màu sắc vàng vàng, trông đẹp mắt và kích thích vị giác của mọi người làm dạ dày cồn cào, cầm lòng không đặng.
Sửa soạn một món "ghém", món rau ăn với mắm kho là cả một nghệ thuật, công phu. Cọng bông súng, rau dừa xắt nhỏ trộn với bông điên điển lặt kỹ, người dân của xứ Bà Bài, Châu Đốc cũng không quên trộn thêm dừa nạo, loại dừa mới "cứng cạy", dừa cứng cạy ăn ngon hơn dừa già. Dừa cứng cạy có nhiều sữa, còn dừa chưa cứng cạy, nạo không được và dừa già thì ít sữa, ăn xam xảm không ngon. Tóm lại, khi chọn dừa để nạo trộn ghém làm món rau độc đáo để ăn mắm phải lựa dừa cứng cạy.
Ở nhà quê, mắm thường kho với cá và chỉ có cá thôi, không thịt vì chợ búa xa xôi, nên độ béo ít, người ta phải tăng cường thêm dừa nạo để có đủ chất béo làm thỏa mãn cái miệng thường thòm thèm. Món rau ăn với mắm kho ở nhà quê gồm có bông điên điển, cọng bông súng, rau dừa và dừa nạo. Khi nào không có bông điên điển người ta dùng các thứ rau khác gọi là thay thế. Còn rau sống thường chỉ để tăng thêm hương vị như các loại rau húng, rắp cá, tía tô, rau tần...
Tô mắm cá lóc chưng với thịt heo
Khi ăn mắm và rau mỗi người dùng đến hai cái chén, một chén để đựng cơm, một chén chuyên để ăn mắm kho. Rau đủ thứ cho vào chén dùng cái "dá", người miền Bắc gọi là cái muôi hay cái môi múc nước mắm kho chan lên rau ngập xâm xấp là vừa.
Người sành điệu rất chú trọng khâu làm món rau sao cho ngon, nhiều loại rau mà quan trọng nhứt là bông điên điển tươi. Dưa leo, khóm cũng nên bằm nhỏ hơn là xắt lát mỏng. Ăn mắm kho mà thiếu ớt sẽ làm giảm cái ngon của mắm, mà phải là ớt hiểm, trái nhỏ, thật cay, mới đúng chỉ số ăn mắm kể cả mắm sống, mắm chưng.
Tám thanh niên ăn rất khỏe lại gặp món tủ, ăn quên thôi. Cô chủ quán Thanh Thanh còn chìu khách chăm chút kỹ, rất thanh lịch, có duyên trong giao tiếp lại có sắc đẹp "chết người trong mộng" và phòng ăn rộng rãi, thoáng mát, có nhạc tình cảm du dương êm dịu... Tất cả mọi thứ tại quán Thanh Thanh cấu thành cho một bữa ăn ngon đáng nhớ, đó cũng là một nghệ thuật thu hút khách và làm tăng thêm cái ngon của món ăn. Tám thanh niên ăn một chầu mắm quá đã, món mắm kho đặc biệt, độc đáo. Độc đáo thứ nhứt là có bông điên điển, kế đến là mực tươi, tôm, cá lóc thái mỏng để riêng đĩa không ninh trong nồi như đầu cá lóc, thịt heo, cá bông lau, cà dái dê. Ăn mắm và rau mà ăn nguội lạnh thà không ăn còn sướng hơn, mắm phải đang sôi hoặc thật nóng. Cá lóc thái mỏng cho vào chén rau chỉ chan một giá nước mắm kho vào cũng đủ làm cho cá vừa chín, ăn rất ngon ngọt.
Cá lóc - tôm - mực - chả cá trong lẩu mắm
Còn mực tươi, tôm tươi kể cả thịt bò thái mỏng chỉ cần gắp trụng vào nồi mắm đang sôi lấy ra liền, ãn còn nóng hổi cái miệng rất sướng, "và" thêm rau (có người viết là "dà" để khỏi lộn với và, một liên từ), sau cùng "nít" thêm một ngụm cơm nóng nữa. Miệng nhồm nhoàm, thật là hạnh phúc, ngon hết ý. Thiên đàng ở trần thế là ở chỗ nầy đây!!! Khi có điều kiện mà không thưởng thức những món ăn ngon, độc đáo của từng vùng, rất uổng phí tuổi đời. Con người sống được bao lâu, cả cuộc đời luôn lận đận với công danh sự nghiệp, học hành và tuổi thơ kéo dài đến trên dưới hai mươi năm. Có mấy ai thưởng thức được nhiều món ăn độc đáo của quê hương? Khi tuổi già, rụng răng, móm mém và lại hay kiêng cữ chất nầy chất nọ làm sao có được những bữa ăn ngon tuyệt cú mèo, nhớ đời.?
Bọn tám đứa thường ăn ở quán Thanh Thanh mỗi tháng ít nhứt một lần Mắm Và Rau. Hôm ấy cả bọn ăn một bửa gọi là "phỉ tình nước non". Cô chủ quán săn đón, chăm sóc, nhắc cô hầu bàn cho thêm nước mắm kho, thêm rau, thêm cá, thêm tôm... cô chủ quán nầy cũng không quên nhắc cho thêm than để luôn có ngọn lửa hồng trong giữa cù lao. (Bây giờ nấu cù lao (lẩu) không còn dùng than mà xài điện hoặc bình ga nhỏ...)
Ở Hoa Kỳ, đa số các nhà hàng đều đóng kín cửa để sử dụng máy sưởi hoặc máy lạnh. Món mắm và rau mà ăn trong phòng kín như thế, mùi của mắm làm sao thoát ra ngoài được dù nhà hàng có trang bị máy hút không khí. Một nồi mắm kho ngon, mùi của nó sẽ lan tỏa cả một vùng. Những người không thích ăn mắm hoặc những người ngoại quốc hít thở mùi quá nặng, họ rầy rà chủ quán ngay hoặc tẩy chay thì chủ quán chỉ có nước dẹp tiệm.
Một nồi mắm kho ngon là một nồi mắm được mọi người ưa thích. Nước mắm kho không mặn lắm mà cũng không ngọt, không lạt lắm, tương đối đặc mới có đủ mùi vị của mắm. Nếu nước mắm kho loãng, không nặng mùi, lại ăn quá dở. Còn nước mắm kho nặng mùi khi độ đặc cao nhưng, cũng không mặn lắm ăn rất ngon, hoặc nặn (vắt) thêm chanh. Cà trong nồi mắm phải chín rục, thịt cá không quá chín làm nát ra, ăn cũng không ngon; vì thế, người ta nấu mắm thật sôi rồi mới cho thịt vào trước, cá vào sau, sôi vài dạo là ăn được.
Ngày nay người ta chế biến món bún mắm, nấu thật loãng, người sành điệu, chính hiệu xứ mắm Châu Đốc, sẽ chê ngay vì món mắm đó lạt không đủ mùi vị làm mê hoặc những kẻ đã vào danh sách tín đồ của đạo mắm. Bún mắm cũng là một hình thức mắm kho, loại kho loãng cũng có thịt cá, rau ghém và chan vào tô bún đầy nước, ăn nhiều, cũng mặn quá trời, uống nước chết bỏ. Mắm kho múc ra tô, lẩu mắm và bún mắm cũng chỉ là món Mắm Và Rau, tùy theo cách nấu và sự ưa thích của mỗi người. Quả thật ăn mắm ngon quá, thấm về lâu và cũng khát nước uống hoài uống hủy, uống mệt nghỉ vậy!
Cách làm mắm
Cá đã chết hoặc cá còn sống đều làm mắm được cả. Những loại cá đồng lớn như: cá lóc, cá bông, cá trê... khi còn sống giá cao, thường gấp đôi, gấp ba hơn cá đã chết. Làm mắm cá chết, giá thành rẻ, bán có lời nhiều hơn. Người làm mắm chuyên nghiệp chỉ mua những loại cá đồng lớn đã chết làm mắm. Phẩm chất mắm giữa cá còn sống làm mắm và cá đã chết gần như nhau, không có gì cách biệt. Ngoại trừ, những con cá chết lâu, thịt cá bị bủng, con mắm bị mềm, tóp lại, thịt mắm không ngon. Người sành điệu nhận biết ngay con mắm nào ngon, con mắm nào dở. Cá chết quá lâu hoặc sình, hôi, người ta cũng không bỏ, làm bò hóc, một loại mắm của người Khờ Me thật nặng mùi, người Việt ít ăn loại mắm nầy, ăn quen cũng ngon.
Các loại cá nhỏ: cá linh, cá chốt, cá trèn nhỏ... làm mắm lúc cá còn sống lại đến mùa, có nhiều, giá cũng rẻ. Cá linh có nhiều quá, chỉ làm mắm một ít, còn lại ủ làm nước mắm hoặc làm phân để bón cây trồng vì mắm cá linh rẻ nhứt trong các loại mắm và cũng không để được lâu như các loại mắm khác. Làm mắm cá linh có thêm một giai đoạn quan trọng mà các loại cá khác thì không.
Lẩu Mắm và các thức ăn cần thiết của lẩu mắm
Sau khi cắt đầu, kéo hết ruột ra, người ta đổ cá vào một cái xọt, thường đan bằng tre, dùng một hay hai cây dầm cũng làm bằng tre chẻ nhỏ bó lại vừa nắm tay. Ở đầu dưới cây dầm hơi xòe rộng ra, người ta xọt lên xuống trong xọt cá, mục đích là đánh vẩy cá linh. Vẩy cá linh nhỏ, dính sát vào da, lại nhiều quá làm sao mà đánh vẩy cá từng con bằng dao được. Mỗi lần làm cá linh, người ta tính bằng giạ, một giạ là hai thùng thiếc, mỗi thùng thiếc chứa được hai mươi lít nước, tương đương với hai mươi ký lô. Có khi làm mắm cá linh một lần đến hàng mấy chục giạ.
Các chủ vựa mắm thường mướn trẻ con hoặc phụ nữ cắt đầu cá, mỗi người một thùng thiếc, công việc tuy nhẹ nhàng nhưng cần phải dẻo dai chịu đựng, ngồi lâu đau lưng, mỏi cổ. Giới đàn ông rất nhát làm việc nầy, họ phụ trách việc xọt làm tróc vẩy cá trong những cái xọt buộc sát vào thành cầu ở bờ sông. Vẩy cá tróc ra lọt khỏi xọt trôi theo dòng nước và cũng làm mồi cho các loài thủy tộc khác. Mỗi đợt làm mắm khoảng hai tiếng đồng hồ, từ khâu cắt đầu cá đến khâu quết xọt hết vẩy và rửa sạch để ráo nước. Khâu kế tiếp, cá được ướp muối liền trong những cái lu, khạp, mái vú hay những thùng gỗ nhỏ, lớn đủ cỡ, tùy theo cá nhiều hay ít.
Tại sao, người ta làm mắm cần phải tranh thủ thời gian, vì nếu kéo dài, cá sẽ bị mềm hoặc xình ươn, làm con mắm không ngon. Những đứa trẻ, phụ nữ chuyên làm cá mướn, họ trang bị một cái dao nhỏ thật bén và một mảnh ván nhỏ dùng làm thớt để cắt đầu cá. Họ cũng không quên mang theo một cái ghế nhỏ xíu để ngồi. Người chủ vựa cá mua cá vừa đủ làm trên dưới hai tiếng đồng hồ cho mỗi đợt. Những người làm mắm dùng trong gia đình hoặc để dành bán lẻ, họ cũng mua cá đủ trong gia đình làm mỗi đợt cũng trong khoảng thời gian ấy mà thôi. Một ngày, gặp lúc có cá linh nhiều, từ sáng đến chiều, người ta chia ra làm ba, bốn đợt làm mắm đến tối mò mới nghỉ.
Khổ qua kho với mắm
Những loại cá không vẩy như cá chốt, cá trê, cá trèn, cá lăn, cá kết, cá leo, cá vồ, cá tra... khi làm mắm chỉ cắt đầu hoặc để đầu, mổ bụng lấy hết ruột mỡ ra, đem đi rửa sạch, để ráo nước cho vào lu khạp ướp muối là xong. Cá lóc, cá bông, cá dầy, cá rô người ta phải đánh vẩy từng con chặt bỏ đuôi, xẻ bụng lấy hết ruột gan, mỡ cá ra, rửa sạch để ráo nước rồi ướp muối.
Gặp những con cá lớn, người ta dùng dao xẻ trên lưng hoặc rạch vài đường ngang để muối dễ thắm vào thịt cá. Những con cá lóc, cá bông, loại cá lớn, người ta cắt đầu riêng ra để kho hoặc nấu canh ăn liền trong ngày, nếu có nhiều đầu cá cũng sẽ được làm mắm và để riêng ra. Giá bán mắm đầu rẻ hơn mình mắm. Ruột cá lóc, cá bông, kể cả trứng cá cũng được làm mắm mà là loại mắm cao cấp nhứt, mắc nhứt. Món ruột và trứng cá muối sương sương đem chiên hoặc nướng lửa than, ăn với cơm trắng thơm nóng hôi hổi, nấu thật khô, chúng ta ăn quên thôi. Ruột và trứng cá còn chiên tươi nghĩa là không có ướp muối ăn với nước mắm làm thật loãng chấm với bông điên điển, bông súng làm chua, ăn thật bắt. Những con cá lóc, cá bông lớn, một cặp trứng cũng được một hai trăm gờ ram, còn ruột cá béo ngậy ăn rất đã, nhưng ăn nhiều sẽ bị "Tào Tháo" đuổi.
Cá linh, cá chốt, cá sặc, làm mắm cắt bỏ đầu để nguyên đuôi vì hơi đâu mà làm công việc nầy, cá nhiều quá làm không xuể. Còn cá lóc, cá bông, cá rô người ta cắt bỏ đuôi luôn.
Cứ một lớp cá rắc thêm một lớp muối đã được đâm nhỏ. Những con cá lóc, cá bông, người ta muối từng con, phải nhét thêm muối vào bụng cá, những đường xẻ lưng hoặc những rạch ngang mình cá. Ở miền Tây, làm mắm hoặc làm nước mắm, người ta thường mua muối do các ghe thương hồ chở bán dọc theo sông, kinh, rạch. Muối được sản xuất ở Bà Rịa và Bạc Liêu.
Lẩu Mắm hay mắm kho với đầy đủ các thứ cần thiết
Muối Bà Rịa hạt to trắng hơn muối ở Bạc Liêu. Muối Bạc Liêu còn lẫn lộn nhiều chất bùn đất phù sa nên giá rẻ hơn. Làm mắm dùng muối hột giã thật nát, nhuyễn để ướp cá, người ta không dùng muối bọt để làm mắm vì độ mặn của muối bọt không bằng muối hột và giá cả lại đắt hơn. Nhiều vựa mắm, mỗi lần mua muối bằng tấn không phải tính bằng ký lô, cho nên được thứ muối nào rẻ có lợi hơn thì mua. Tuy nhiên muối Bạc Liêu còn có chút đất và màu đen hơn, con mắm không được đẹp nên người ta cũng hạn chế mua muối sản xuất ở Bạc Liêu.
Khâu cuối cùng, khi cá được ướp muối xong cho vào lu khạp hoặc thùng gỗ, người ta nén chặt, dùng lá buông cắt vừa vặn đậy lên và cài chặt bằng vài thanh tre. Chủ ý không đậy nắp vì đậy nắp kín quá cá sẽ "chín" nhanh. Con mắm phải được ngấm muối từ từ, tấm lá buông không đủ kín, hơi nóng trong lu khạp bốc lên được làm điều hòa nhiệt độ. Tấm lá buông còn bảo vệ, hạn chế ruồi lằng. Vài ngày sau, nước trong mắm tiết ra làm ngập tấm lá buông. Nước có nhiều quá, người ta phải múc bớt ra chỉ để nước đủ "sâm sấp" trên tấm lá buông là đủ. Tập trung nước lấy trong tất cả lu khạp, thùng đem nấu hớt bọt để nguội, cho vô chai có thể dùng như một loại nước mắm vệ sinh nhất vì đã được nấu chín.
Vài tháng sau, khi con mắm có màu sắc tươi, không xám xịt; con mắm tới thời kỳ ướp thêm thính. Gạo lứt hoặc gạo trắng, rang vàng, xay thật nhuyễn, người ta trộn vào mắm, đó là thời kỳ trộn thính vào mắm để con mắm thật khô ráo và thơm ngon. Lại cho mắm vào đồ chứa và thêm vài tuần, tới thời kỳ chao đường.
Đường thùng, loại đuờng chảy, thắng cho tới, người ta có thể bầm thơm (khóm) hoặc cơm rượu cho vào chảo đường. Dùng nước đường thắng để thật nguội rưới lên mắm, trộn đều rồi gài lại vào lu khạp.
Ở Châu Đốc, người ta thường tận dụng đường thốt nốt chảy, đến mùa mua dự trữ trước cũng khá rẻ hơn lúc hết mùa thốt nốt. Sở dĩ mắm Châu Đốc ngon hơn các tỉnh khác, kể cả Long Xuyên kề cận bên cũng vẫn không ngon bằng và có màu đẹp như mắm làm ở Châu Đốc vì thường không chao đường thốt nốt.
Trường hợp chao đường có cơm rượu, khi người ta làm mắm ít, chỉ để ăn hoặc để dành biếu tặng. Còn mắm làm bán ở chợ có khi cũng trộn thêm khóm, nhưng không có trộn với cơm rượu và chỉ trộn với cháo nếp.
Bông điên điển ăn với mắm kho
Sau khi chao đường, chừng một hai tuần, con mắm trông thật hấp dẫn và đó là giai đoạn cuối của con cá mắm mà người ta có thể dùng bất cứ lúc nào.
Một điều cần lưu ý, ở Châu Đốc nổi tiếng mắm ngon nhứt nước, có người nhận xét, ở đây thường chao mắm bằng đường thốt nốt chảy, một loại đường thơm ngon thượng hảo hạng.
Ngoài các thứ mắm làm bằng thân mình cá, còn có những lọai mắm chỉ làm bằng đầu cá, ruột cá, trứng cá. Mắm cá lóc, cá bông lớn, đầu cá làm mắm để riêng chỉ trừ những con cá nhỏ người ta làm mắm để nguyên con, không cắt đầu rời ra .
Tại sao con mắm không để đầu mà phải tách riêng ra? Thứ nhứt, đầu mắm ít thịt giá bán rẻ hơn mình mắm. Để chung khó bán, không cân lượng được. Thứ đến, có người chỉ muốn mua mình, không mua đầu mắm và ngược lại. Đầu mắm không để lâu như mình mắm, mau "hôi dầu" hơn.
Ruột cá trứng cá cũng làm để riêng rẽ. Mắm ruột cá sớm lên dầu nên cần bán ngay không để lâu được. Cá lóc, cá bông lớn có trứng ruột nhiều mới làm mắm và bắt buộc phải tách riêng ra từng loại. Các loại cá khác, trứng ruột cá đều bỏ cả, thỉnh thoảng người ta làm cá lấy một số trứng làm món ăn tươi, dùng trong ngày.
Mắm đầu cá có một món ăn ngon nhứt là món nấu "xiêm lo", một cách kho mắm thật lõang để ăn rau ghém. Rau ghém thường dùng ruột thân chuối xắt nhỏ trộn với rau răm hay bông điên điển, bông súng và rau dừa cũng xắt nhỏ. Nước mắm "xiêm lo" chan vào chén rau ghém mà lùa mạnh, thật là suớng cho cái miệng! Món ăn này sao ngon quá! Ăn quên thôi!
Nhiều người ở thành thị gọi mắm thái là mắm ruột, không đúng. Mắm thái là mắm thái. Mắm cá lóc, cá bông xé hoặc xắt nhỏ trộn với đu đủ bào mới gọi là mắm thái. Còn mắm ruột chỉ làm bằng ruột cá. Trên thị truờng, mắm thái thường để trong keo, lọ, hũ bằng nhựa hoặc bằng đất nung. Người ta cũng có thể mua mắm thái tính bằng cân lượng. Mắm thái có trộn thêm gừng, nhiều đu đủ bào, nên không để lâu được, mắm sẽ bị chua và mốc vì đu đủ, gừng lên men.
Ghém - các loại rau - ăn với mắm kho
Mắm ruột, mắm trứng quý hiềm và mắc tiền hơn mắm thái. Ăn mắm ruột, mắm trứng nhiều dễ bị "té re", còn gọi là "Tào Tháo đuổi". Xếp loại, mắm trứng mắc nhứt, kế đến mắm ruột. Tiếp theo thứ tự: mắm cá trèn, mắm thái, mắm cá lóc, cá bông, cá trê nguyên con, cá rô, cá chốt, cá sặc... Sau cùng là mắm cá linh, rẻ nhứt.
Nhiều người thich ăn mắm cá trèn, mắm thái với thịt heo luộc, bún và rau dưa đủ thứ. Khi đi du ngoạn ở vùng Thất Sơn, đặc biệt là ở núi Sam, xung quanh chân núi đâu đâu cũng có bán mắm các loại. Để cho tiện việc mang theo thức ăn khi leo núi hay đi bất chợt, người ta chỉ mua một hũ hoặc một bịch mắm thái và vài ổ bánh mì, ăn cũng no và uống nước cũng đã.
Ăn mắm thấm về lâu. Hễ nói đến mắm, người ta thường nghĩ đến nơi sản xuất ra các loại mắm và các món ăn về mắm. Ở miền Tây, tỉnh nào cũng có làm mắm mà tỉnh làm mắm nhiều nhất, nổi tiếng nhứt là tỉnh Châu Đốc, một tỉnh nằm sát đất Chùa Tháp, nơi có nhiều cá đồng đủ loại. Người ta phân biệt mắm đồng và mắm biển như là cá đồng, cá nước ngọt làm thành mắm, còn cá tôm nước mặn ở biển cũng làm mắm nhưng ít được đặc biệt chú ý tới. Khởi kỳ thủy, mắm là một hình thức để dành cá ăn những khi không bắt được cá sống, những lúc giao mùa, mưa bão khan hiếm cá. Cá làm khô cũng nằm trong ý hướng đó.
Nhiều người dân quê ăn mắm hoài, đâm mê, ghiền cái món ăn rất nặng mùi, ăn riết rồi mắm trở thành một cái đạo. Đó là đạo mắm. Ăn mắm thấm về lâu có rất nhiều kiểu cách, cả một nghệ thuật, triết lý khi ta ăn mắm. Mắm là một món ăn bình dân, rẻ tiền, đơn giản nhưng ngày nay có nhiều món mắm đã trở thành món ăn cao sang, cầu kỳ và khá đắt tiền. Ăn mắm thường hay khát nước và ăn mắm nhiều, uống nước nhiều no lâu. Thấm về lâu là ở chỗ đó.
Có bao nhiêu loại mắm?
Những loại mắm dùng trong chế biến làm chất xúc tác trong các bữa ăn như mắm tôm, mắm nêm, mắm ruốc của vùng nước mặn và nước lợ. Mắm ruốc của bà Giáo Thảo ở Vũng Tàu nổi tiếng nhứt, dân Sài Gòn và các vùng lân cận có dịp đi tắm biển, thế nào cũng không quên mua vài bịch mắm ruốc để làm quà.
Cà tím hay cà trắng phải có, làm cho mắm kho thêm ngon đậm đà
Người ta làm mắm, không những chỉ dùng các loại cá mà ngay cả tôm tép, ba khía, cua, còng, chuột và người Thượng, người Miên (Cam Bốt còn làm mắm cả đến bò tọt, một loại nhái nhỏ). Bất cứ loại cá nào cũng có thể làm thành mắm, làm thành khô (cá khô) cũng như ngày nay người ta làm đông lạnh cá dự trữ được lâu.
Những loại mắm cá đồng thường thấy, đặc biệt ở quê hương xứ mắm Châu Đốc, có hàng chục loại mắm khác nhau. Mỗi loại mắm đều có chuyên đề để người ta thưởng thức trực tiếp hoặc chế biến thành một món ăn khoái khẩu tuyệt vời. Các loại mắm mà nhiều người biết đến, như mắm cá chốt, cá linh, cá sặc (sặc bướm, sặc điệp, còn cá sặc bổi ít khi làm mắm), cá trèn, cá lóc, cá rô, cá cơm v.v...
Ở thôn quê miền Tây, người nông dân khi đi đồng cày bừa, gặt lúa hay cắt cỏ bàng để làm đệm, cắt cỏ lác dệt chiếu, thường mang theo cơm ăn trưa mà thức ăn chính chỉ có mắm sống hoặc khô nướng được gói trong những lá chuối, lá sen hay để trong mo cau. Khi bày cơm ra ăn chỉ dùng tay, không cần phải dùng đũa, muỗng, nĩa gì cả, rất đơn giản, tiện lợi. Ăn xong có nước trong các đìa, bàu, hay dòng kinh, con rạch, người ta dùng hai bàn tay bụm lại múc nước "tu" cho đã cái miệng và mát cái bụng. Những cái đìa, bàu nước có bị đục vì trâu bò mới lội qua, lấy chiếc nón lá đang đội trên đầu xuống, ấn đè lên mặt nước để nước lọc qua nón, người ta uống một cách rất ngon lành, không sợ bị tháo dạ. Dân ở thành thị có đời sống văn minh hơn, nước uống tinh khiết hơn nhưng cũng dễ bị dị ứng khi gặp môi trường sống khác lạ.
Sau một ngày làm lụng cật lực, chiều về người nông dân thường tụm năm tụm ba nhậu lai rai ba sợi cho quên sự đời vất vả. Gặp mùa có cá tôm hay có rùa, rắn, lươn, chim, chuột làm "bổi" làm mồi nhậu thì hết ý, nhưng nhiều lúc không có bổi "xịn" thì tạm dùng mắm có sẵn trong nhà làm món nhậu cũng hấp dẫn vậy. Những trái me chua sống, ổi, cóc, xoài sống ăn với mắm sống cũng bắt như thường, nhậu cũng quắc cần câu. Người sành điệu, mỗi thứ mắm đều có món ăn riêng của nó, có loại chỉ ăn sống, không nấu, không chưng cách thủy. Có loại mắm phải xé nhỏ lại và trộn với đu đủ bào mới là món ăn ngon đáng giá, đó là món mắm thái mà người thành thị thích ăn nhứt vì rất tiện lợi.
Mắm cá chốt thường ăn sống, ít khi đem kho hoặc chưng "tội nghiệp" nó, tréo ngoe cẳng ngỗng.
Mắm cá chốt chỉ có ăn sống là ngon nhứt. Con cá chốt cắt bỏ hết đầu làm mắm, cái mình rất nhỏ vừa đũa gắp, chỉ ăn có một miếng một lần, không phải xé ra hoặc cắn rứt ra thành hai ba miếng ăn như các con cá mắm lớn khác. Mắm cá chốt chuyên trị ăn với trái bắp nấu, hoặc bắp chà (nấu bằng hột bắp), khoai lang luộc (khoai mì luộc không ăn với mắm mà phải ăn với đường hoặc muối mới đúng điệu).
Mấy ông bợm nhậu, còn ăn mắm cá chốt với ổi chua, me chua, xoài sống, trái bần, trái cà na "dô" vài ly túy lúy trong cái màn nhậu khơi khơi với mắm sống vì không có những món ăn "tươi" khác, đành chịu vậy. Không có mắm cá chốt thì dùng mắm cá linh, cá sặc thay thế, vì hai loại mắm này có rất nhiều và cũng nhỏ con đỡ phải xé nhiều lần. Bất cứ loại mắm gì cũng đều có thể ăn sống, nghĩa là để vậy ăn trực tiếp không cần phải chế biến, nấu chín mà vẫn ngon và không bị tháo dạ.
Không ai bảo ai cả, nhưng mà mỗi loại mắm hình như nó chỉ chuyên trị một hai món ăn đặc sắc nhứt. Người ta ăn mắm riết rồi sáng chế ra nhiều món mắm cầu kỳ ăn rất ngon miệng.
Tô Bún Mắm
Ngày nay, tại Việt Nam, ngay cả quê hương của xứ mắm Châu Đốc cũng bày bán rất ít mắm cá chốt, hình như mắm cá chốt chỉ còn tồn tại trong các gia đình ở các làng ấp xa xôi. Trong nhà lồng chợ Châu Đốc, khu chuyên bán mắm, gần các quán ăn ở đầu chợ, hướng núi Sam; tại đây có hàng chục gian hàng bán mắm và phó sản mắm, các loại dưa mắm, ai trông cũng thấy thèm, tấm tắc khen và nước bọt muốn ứ trào ra khi đi ngang qua. Cái hương vị mặn mà của mắm, không biết có liên quan gì với hương vị của quý bà, phu nhân của các ông giáo? Các bà giáo rất nổi tiếng trong nghề kinh doanh buôn bán mắm. Ở Vũng Tàu, mắm ruốc có bà giáo Thảo, Châu Đốc, hai bà giáo bán mắm nổi tiếng ngon, đậm đà hương vị của quê hương mắm: bà giáo Mảng, bà giáo Khỏe. Bên cạnh hai bà giáo nầy, còn có bà Hai Xuyến và nhiều người khác nữa. Nối nghiệp bán mắm, từ thế hệ thứ nhứt nay đến thế hệ thứ ba, và sắp sửa đến thế hệ thứ tư. Đó là gia đình bà giáo Khỏe, sống với nghề làm mắm và bán mắm ở chợ Châu Ðốc trên nửa thế kỷ nay.
Ông bà giáo Khỏe có hai người con trai ở trong quân đội, anh Nguyễn Vãn Phụng, trung tá, chết bịnh từ đầu thập niên 60, một người con trai khác là Bạch, đại uý Công Binh.
Ông bà giáo Khỏe có nhiều người con nối nghiệp mẹ bán mắm, nay cũng trên bảy tám mươi tuổi có cháu nội, cháu ngoại tiếp tục nghề bán mắm, một nghề hái ra tiền. Những gian hàng: mắm thái, mắm cá trèn, mắm cá rô, cá sặc, cá linh, mắm đầu cá lóc, cá lóc, mắm ruột, mắm trứng cá luôn đắt khách. Trong nhà lồng chợ Châu Đốc, chiếm đa số là gia đình bà giáo Khỏe với nhiều nhãn hiệu Mắm Bà Giáo Khoẻ dưới có thêm: 333, 444, 555, 666, 777 là ký hiệu con của bà, người thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ sáu, thứ bảy.
Đặc biệt là mùa Vía Bà Chúa Xứ Núi Sam Châu Đốc vào tháng tư âm lịch, khách thập phương tấp nập đổ về Châu Đốc, mặc tình các bà các cô bán mắm hốt bạc. Còn bà giáo Mảng có hai người con trai, một làm Trưởng Ty Điền Địa, một làm Trưởng Ty Điện Lực trước năm 75, và chỉ có một người con gái lại vào bưng biền theo Việt Cộng nên không nối nghiệp mẹ.
Từ Sài Gòn về miền Tây, đến bắc Mỹ Thuận, những thau mắm sống, dưa mắm cũng được bày bán cùng với những hũ mắm thái, mắm cá trèn có nhãn hiệu của bà giáo Mảng, bà giáo Khỏe ở Châu Đốc. Nhưng cũng có nhiều hũ mắm giả hiệu, không phải xuất xứ ở Châu Đốc mà do những người khác làm nhái theo nên ăn không ngon bằng món mắm chánh hiệu. Ở bến bắc Cái Vồn, Cần Thơ và bến bắc Vàm Cống, Long Xuyên cũng có bày bán mắm thái, mắm cá trèn...
Để phân biệt mắm làm ở đâu, chỉ nhìn qua cách ưóp mắm và hương vị người ta cũng biết được xuất xứ của từng loại mắm. Thí dụ mắm thái, mắm cá lóc xé hoặc xắt nhỏ trộn với đu đủ bào cùng với thín, chao đường... Long Xuyên thuộc tỉnh An Giang. Châu Đốc, sau nầy cũng thuộc tỉnh An Giang, thế mà màu sắc của mắm và hương vị mắm hai nơi này khác nhau rất xa. Mắm thái của Long Xuyên có nhiều màu đỏ hơn, ngọt hơn, trộn nhiều đu đủ hơn. Mắm sản xuất ở Châu Đốc có cái "gu" độ ngọt ít hơn, đậm đà hơn, màu không quá đỏ và trộn đu đủ ít hơn.
Chung qui, ăn mắm thường có ba cách: ăn mắm sống, chưng mắm cách thủy, kho mắm. Những phó sản của mắm có dưa mắm làm bằng đu đủ xắt từng miếng nhỏ, dưa mắm làm bằng trái dưa gan còn non. Một phó sản quan trọng của mắm là nước mắm. Nước mắm thường làm bằng cá linh của vùng nước ngọt, cá cơm, cá nục... của vùng nước mặn.
Ở Việt Nam nước mắm nổi tiếng nhứt là sản xuất ở Phú Quốc, Phan Thiết. Ở Châu Đốc và nhiều tỉnh miền Tây, người ta thường dùng nước mắm từ cá linh nước ngọt ủ làm nước mắm, và ngay ở Sài Gòn cũng có nhiều hãng lớn như hảng nước mắm Chánh Hương cũng thường dùng cá linh làm nước mắm, không dùng cá biển
Mắm thái ăn với bún, thịt ba rọi, rau dưa, ớt chín hấp dẫn
Theo sự phân tích của nhiều nhà chuyên môn về dinh dưỡng, trong nước mắm có nhiều đạm và đầy đủ chất bổ dưỡng, nhiều calori. Nếu con người chỉ cần ăn nước mắm với cơm, không ăn thêm thức ăn khác cũng sống được khỏe mạnh. Có người nói, dân Việt mà không biết ăn nước mắm thì chỉ là dân mất gốc, nước mắm còn dân ta còn. Chúng ta cùng hô to: Nước Mắm Muôn Năm - Những người làm nghề "hạ bạc" gặp lúc trời lạnh, nưóc lạnh mà cần phải lặn xuống nước sâu, chỉ cần uống một chung hay một chén nhỏ nước mắm nguyên chất, có đủ nhiệt lượng chịu đựng được cái lạnh của nước.
Để kết luận về văn hóa ẩm thực nói về Mắm mà những người dân vốn sanh trưởng và lớn lên tại quê hương Châu Đốc - cái nôi sản sanh ra các loại mắm cá nước ngọt - có thể nói là có "thẩm quyền" dõng dạc tuyên bố: Mắm Và Rau Bất Diệt - các loại mắm khác cũng sẽ sống mãi với thời gian bất cứ nơi nào trên trái đất này
Trần Văn (Lễ Tạ Ơn 28.11.2019)
|
|