|
Ăn Tết
Nov 21, 2006 9:24:07 GMT 9
Post by Huu Le on Nov 21, 2006 9:24:07 GMT 9
Ăn Tết Nguyễn Quốc Bảo Quân tử mưu đạo bất mưu thực. Người quân tử mưu đạo không mưu ăn, Đó là sách Luận ngữ chép chuyện Vệ Linh Công, thế nhưng người xứ ta nôm na lại nói ngược Có thực mới vực được đạo ! Thật là đạo thánh hiền sao bì được với lý lẽ dân gian, chúng tớ Ăn sáng, Ăn trưa, Ăn tối, mà cũng Ăn...Tết luôn. Chuyện chi rồi cũng phải Ăn. Tên mắc chứng Hoàng Lão Tà mở miệng nói Ăn, mà cũng viết một tạp văn đáo để Ăn sáng ở nước Sài Gồng, làm tôi cũng xuất một loạn văn Ăn trưarồi lại viết cẩu văn Ăn thịt chó. Cho nên miếng Ăn như tôi đã dẫn, các cụ nói là miếng tồi tàn, nhưng dân mình không ăn, quê mùa nói là đánh chén, thì có chuyển khỉ gì để mà nói với nhau. Tây thì Mừng Tết, célébrer le Nouvel An, Tàu nói Mừng Xuân Tiết chūn jié, mặc kệ Tây Tàu, dân mình thì phải nói Ăn Tết. Tết mà không Ăn không uống thì đâu phải Tết! Vậy thì Tết là cái giống gì mà mà con Rồng cháu Tiên phải rù rì, hân hoan, náo nhiệt Ăn...? Chữ Tết do hán tự Tiết, phồn thể viết giản thể viết , bộ trúc , tiếng quan thoại đọc là jié tiết. Tiết nghĩa chính là đốt, như đốt tre đốt xương. Tiết cũng như thời tiết, mỗi năm chia 24 tiết, như xuân phân, lập phân (*); tiết cũng là ngày thọ của Vua. Tết Tàu kêu Xuân Tiết. Tiếng Việt ta kêu Tết! Mà Tết, tháng giêng là tháng Ăn Chơi, thì phải Ăn...và Chơi chứ! Xứ mình 4000 năm Văn hiến, Tết ta cũng 4000 năm lịch sử. Muôn sự đều khởi nguyền từ văn minh nông nghiệp, mà khởi đầu cho nông lịch niên là ngày Tết, truyền thống trong dân gian ăn mừng, tượng trưng cho hưng vượng, đoàn kết gia đình xã hội, hy vọng tràn trề cho năm mới. Người ta ăn Tết từ thời Ngu Thuấn Yu Shun, 2000 năm trước Công nguyên, một ngày trời đẹp vua Thuấn, tức Thiên tử vị, cùng bộ hạ lập đàn tế bái Thiên Địa. Sau đó dân gian coi ngày đầu năm là ngày 1 tháng Giêng, nguyên thủy của tân nguyên nông lịch, đời sau gọi là Xuân Tiết tức Tết Xuân. Trong quá khứ, tết còn gọi là Nguyên Đán , tháng giêng ta gọi là nguyên nguyệt ! Thế nhưng bên Tàu, trải qua nhiều thời đại, phương cách định ngày tết cũng lộn xộn, không nhất trí. Hạ triều dùng tháng đầu Mùa xuân nguyên nguyệt (tháng giêng) là chính nguyệt, trong khi Thương triều lại dùng tháng mười hai, Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất lục quốc dùng tháng mười, thời Sơ Hán tiếp tục dùng Tần lịch (Tết tháng 10) cho đến đời Hán Võ Đế Lưu Triệt, vua thấy cách dùng lịch kỷ quá loạn, bèn ra lệnh đại thần Công Tôn khanh và Tư Mã Thiên tạo ra Thái Dương Lịch, quy định nông lịch (tức âm lịch) chính nguyệt là tháng giêng, ngày đầu tháng giêng là ngày đầu năm, tức ngày tết (nguyên đán). Từ đó về sau cho tới Thanh triều, nước Tàu xài hạ lịchhay âm lịch (xưa gọi nông lịch ), đươc hết thảy 2080 năm cho tới khi Sun Yat-Sen khởi xướng dùng âm lịch đồng thời với dương lịch, nước Tàu bắt đầu ăn 2 Tết! Ngày tết mồng một tháng giêng âm lịch, tục xưng quá niên, niên đây là một động vật tưởng tượng đem tới những xui xẻo trong năm! Niên lại thì cây cối điêu tàn rã rượi, bách thảo bất sinh; niên đi (quá niên), vạn vật sinh trường, hoa tươi nở đầy đồng! Phải dùng pháo nổ đùng đùng mới có tài năng để đưa niên đi, do đó ta có tập tục đôt pháo đầu năm! Ngày tết Nông lịch nhiều tên cổ xưng là nguyên nhật (ngày mồng một, nguyên nguyệt là tháng giêng), nguyên thìn (thần, thìn chi thứ năm trong 12 chi, ngày giờ đều gọi là thần, thìn; giờ thìn 7:00-9:00AM), nguyên chính, nguyên sóc (sóc là mới, ngày mồng một), nguyên đán (sáng sớm gọi là đán ) Nguyên do thay đổi ngày tháng tết là bởi vua chúa dựa trên ngày giờ tạo thiên lập địa mà suy định nguyên nguyệt. Đọc trên Net Bách khoa Toàn thư: giờ Tý thì có trời, giờ Sửu thì có đất, giờ Dần sinh loài người. Cho nên Hạ triều chuộng màu đen và chọn tháng giêng, tức tháng Dần. Thương Triều thích màu trắng nên lấy tháng Sửu, tức tháng chạp, làm tháng đầu năm. Đời nhà Chu, ưa sắc đỏ nên chọn tháng Tý, tức tháng mười một, làm tháng nguyên đán. Tần lịch dùng tháng mười tức tháng Hợi. Hán Võ đế và Hạ triều đều dùng tháng Dần tức tháng giêng! Cũng theo Net Bách Khoa Toàn Thư: Đến đời Đông Phương Sóc, ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà, ngày thứ hai có thêm Chó, ngày thứ ba có Lợn, ngày thứ tư sinh Dê, ngày thứ năm sinh Trâu, ngày thứ sáu sinh Ngựa, ngày thứ bảy sinh loài Người và ngày thứ tám mới sinh ra ngũ cốc. Vì thế, ngày Tết thường được kể từ ngày mồng Một cho đến hết ngày mồng Bảy tháng giêng (8 ngày). Sách Genèse trong Cựu kinh ước Ky Tô Giáo lại kể Thượng Đế đã dựng vũ trụ và vạn hữu chúng sanh trong 7 ngày! Xuân đến, thảo mộc thiên hình vạn tượng đều đổi mới, canh tân, là dịp để ăn mừng đủ mọi chuyện. Dân Việt mình hảo Ăn lắm. Dịp nào cũng tốt để ăn cả. Tháng 12 Dương lịch, cũng theo lịch duyệt Tây phương Ăn Rê Vây Ông (réveillon) No En Kít Mớt, tiếp đó là Ăn Tết Tây, Rê vây ông Sanh Xin Vớt (Saint Sylvestre). Nguời Tây nói Nô En là ăn trong gia đình, còn Tết Tây là Ăn ngoài phố. Mười hai giờ đêm, lúc giao thừa, xe cộ có quyền bấm kèn tùm lum nghe chói tai, ra phố gặp mấy cô tóc vàng mắt xanh mũi lõ, có quyền ôm hôn chùn chụt, miệng nói Bon Nan Nê (Bonne Année). Ở quê nhà, dân ta sau một năm làm việc quần quật vất vả, phải nghỉ ngơi xả hơi. Chiều ba mươi Tết, lo bỏ bánh chưng bánh tét vào nồi, canh đúng bánh chín mười hai giờ đêm để Ăn giao thừa. Rồi thì cúng Ông Bà tổ Tiên và Ăn tết ! Đầu năm ăn uống linh đình rồi, trong năm lại thiếu chi dịp, Ăn cỗ, Ăn giỗ, Ăn tiệc Ăn tùng... Nào là Ăn đám hỏi đám cưới, Ăn tân gia, Ăn thượng thọ, Ăn sinh nhật..., có trẻ sơ sinh thì Ăn thôi nôi, Ăn đầy tháng, Ăn đầy năm, cứ có dịp là phải Ăn...Mấy cô hơ hớ xuân tình đi Ăn liên hoan về là có mang bầu tâm sự. Dân quê ham Ăn thì Ăn buổi giỗ, lỗ buổi cày, Một ngày ăn giỗ, ba ngày hút nước. Việt Kiều ở Pháp thì Ăn Cắt tóc đuôi dê (14 Juillet), lại cũng có dịp ra đường để ôm hôn mấy nàng tóc vàng mắt xanh, ở Mỹ lễ Tạ Ơn thì Ăn gà Tây. Kỳ rồi đến thăm ông anh được đọc 4 câu thơ Tây Kê Thi ông tức cảnh sinh tình sáng tác: Thân cư "Tây Kê" xứ, Khẩu thực " Tây Kê " nhục, Ngôn dụng "Tây Kê" ngữ, Bất vi "Tây Kê" nhân...(**) Chuyện Ăn quan trọng lắm, cha mẹ dạy con Ăn nói lễ phép, Ăn uống chừng mực, Ăn trông nồi ngồi trông bếp, Ăn lấy hương lấy hoa, Ăn khoan ăn thai vừa nhai vừa nghĩ, đường Ăn lẽ ở,. Dân ba xí ba tú thì lại Ăn nói hồ đồ, Ăn ốc nói mò, Ăn bất thùng chi thình, Ăn đổ ăn vãi, Ăn bốc ăn bải, Ăn la ăn lết, Ăn trộm ăn cướp, Ăn cắp ăn mày, Ăn ngấu ăn nghiến, Ăn như hộ pháp ăn nẻ, Ăn như tằm ăn dâu; có khi bịp bợm Ăn già Ăn non, Ăn lường ăn quịt, ba sợi dzô thì Ăn nói huyên thuyên hay Ăn nói tầm bị tầm bạ, Ăn tham thì Ăn tái ăn tam, Ăn tay ăn túi; lũ chúng tôi bạn cũ gặp nhau là cơ hội để Ăn tục nói phét rồi hẹn nhau Đặng hôm ni Ăn hôm nớ! Các cô các bà thì Ăn kiêng ăn khem, thất nghiệp đi Ăn mày Ăn xin. Do đó Ăn tết cũng chỉ là một dịp, trong muôn một, để dân ta Ăn. Ăn là một hình thức xã hội hóa các biến cố, sự việc sự kiên trong đời sống thường ngày. Vì Ăn quá xá quà xa, nên cổ nhân mới dạy Miếng Ăn là miếng tồi tàn. Nhưng với dân ta, chuyện Ăn là bất khả xâm phạm, thôi thì vứt quách sách luận ngữ đi, đạo quân tử hay không thì cũng phải Ăn cái đã! Dịp vui Ăn đã đành, nhưng buồn nhất là phải đi Ăn đám ma... Gavilan Springs ngày canh Ngọ tháng Giêng năm Bính tuất (02/10/2006) Nguyễn Quốc Bảo (*) 24 Tiết trong năm: lập xuân, vũ thuỷ, kinh chập, xuân phân, thanh minh, cốc vũ lập hạ, tiểu mãn, mang chủng, hạ chí, tiểu thử, đại thử lập thu, xứ thử, bạch lộ, thu phân, hàn lộ, sương giáng lập đông, tiểu tuyết, đại tuyết, đông chí, tiểu hàn, đại hàn (**) Bốn câu này tôi có diễn ra Hán Nôm cho dzui: Ông anh tôi nghịch ngợm gọi Gà Tây là Tây Kê, chứ chữ hán gọi Gà Tây là Hỏa Kê
|
|
|
Ăn Tết
Nov 21, 2006 10:10:17 GMT 9
Post by Huu Le on Nov 21, 2006 10:10:17 GMT 9
Ngày Tết, thử bàn về một tấm tranh Tết Nguyễn Dư Những ai thích tranh Tết Việt Nam chắc đều biết hai tấm Đám cưới chuột và Trạng chuột vinh quy. Hai tấm tranh cùng mô tả một đám rước có đủ cả cờ quạt, kèn trống, lễ vật. Giữa đoàn rước là hai nhân vật chính, chàng chuột đội mũ cưỡi ngựa đi trước, nàng chuột ngồi kiệu theo sau. Sừng sững giữa đường, một lão mèo già hung dữ ngồi cản lối, giơ vuốt dọa nạt. Tùy theo trong tranh có chữ nghênh hôn, chú rể, hay tiến sĩ, vinh quy người ta gọi là tranh Đám cưới chuột hay Trạng chuột vinh quy. Phân tích ý nghĩa của tranh, các học giả nhận xét rằng : - "Đề tài(tranh Đám cưới chuột)giống tranh Trạng chuột vinh quy: phải đút lót đám quan lại"(1). - "Thoáng nhìn tờ tranh "Trạng chuột vinh quy" còn gọi là tranh "Đám cưới chuột", ta thấy bức tranh diễn tả một đám rước quan trạng chuột vinh quy rất vui. Cũng kèn trống, cờ quạt, mũ mãng, cân đai chỉnh tề, "Chuột anh" cưỡi ngựa hồng đi trước, "Chuột nàng" ngồi kiệu theo sau, đám rước tiến hành trong không khí trang nghiêm, nhưng thực ra họ nhà chuột vẫn có vẻ lo sợ, thấp thỏm, ngơ ngác, mắt lấm la lấm lét nhìn trước nhìn sau. Thực tế chuột rất sợ mèo, không phải là kẻ dễ dàng để chúng đi lại tự do, nghênh ngang như vậy. Nên muốn được yên thân thoát khỏi nanh vuốt "mèo già", họ nhà chuột đã phải trịnh trọng kèn trống rước lễ vật dâng biếu chú mèo đang vểnh râu, trừng mắt ngồi chờ, nào là chim câu béo, cá chép to là những thứ mèo ưa thích nhất, nhưng đồng thời cũng là những lễ vật người dân lao động xưa thường phải đem biếu xén đút lót cho bọn cường hào quan lại. Tính độc đáo của tranh "Trạng chuột vinh quy" là biểu hiện sự chống đối tích cực của nhân dân về tệ nạn tham ô,ăn đút lót của bọn thống trị,là tiếng cười hóm hỉnh mỉa mai sâu cay của nhân dân lao động đối với chúng.Mặc dù trong tranh không chú thích cụ thể về ý đồ phản ánh của tác giả, nhưng nhân dân vẫn hiểu rõ cái chất đả kích của tranh"(2). - "Tranh Chuột đỗ trạng nguyên vinh quy bái tổ, ngựa anh đi trước, kiệu nàng đi sau. Và đám rước vinh quy này mang chim, mang cá tới biếu chú mèo. Trên bức tranh có đề mấy hàng chữ : Thử bối đệ ngư: chí, chí, chí, nghĩa là đàn chuột dâng cá kêu chí, chí, chí. Miêu nhi thủ lễ:mưu, mưu, mưu, nghĩa là chú mèo giữ lễ: meo, meo, meo. Lại có hàng chữ nôm ở góc trái phía trên: Tác lạc: nghĩa là làm vui Khôn khôn khôn đã có dễ Đỗ cao cưới vợ tiếng rằng hời Bức tranh này còn gọi là tranh Đám cưới chuột (3). Các nhận xét về ý nghĩa của tấm tranh đều giống nhau. Nhưng điều đáng ngạc nhiên là tại sao cùng một tấm tranh vẽ một đám rước, hay nói đúng hơn là hai tấm tranh có cùng nội dung, bố cục mà lại có thể lúc thì là đám cưới, lúc khác lại là đám rước vinh quy ? Như vậy hóa ra hai đám rước giống nhau ? Điều này còn có nghĩa là các học giả mặc nhiên công nhận rằng dù cưới hỏi hay vinh quy, vô danh tiểu tốt hay bảng vàng bia đaù, trong cả hai trường hợp các đương sự đều phải đút lót, hối lộ cho quan chức địa phương? Sau lũy tre xanh ngày xưa, đám chuột đồng, chuột nhắt sợ cụ mèo nanh vuốt là chuyện bình thường, dễ hiểu.Nhưng đến cả hàng chức sắc cũng phải sợ hạng chức dịch trong làng thì quả thật là chuyện khó hiểu, khó tin. E rằng tấm tranh có vấn đề, cần phải đem ra bàn. Trước khi bàn, chúng ta hãy cùng nhau trở về xem Rước dâu và Rước trạng nguyên của xã hội ngày xưa. Hy vọng rằng sau đó chúng ta sẽ rút ra được một kết luận. Rước dâu Tục lệ cưới hỏi ngày xưa ở nước ta bắt chước tục của Tàu nên rất rườm rà, phiền toái. Đại để có 6 lễ: - Nạp thái: nhà trai và nhà gái đính ước. - Vấn danh: nhà trai hỏi tên tuổi, ngày sinh tháng đẻ của cô gái. - Nạp cát: tuổi tác, ngày sinh đôi bên thuận hợp, nhà trai chấp nhận đính ước. - Nạp tệ: nhà trai làm lễ hỏi. - Thỉnh kì: nhà trai xin làm lễ cưới. - Nghênh hôn: lễ cưới, rước dâu. Đến đời Lê và đời Nguyễn thì tục lệ cưới hỏi đã dần dần được thay đổi, bớt nặng nề tốn kém, rút ngắn thời gian chờ đợi. Ngày nay từ thôn quê đến thành phố chỉ còn giữ lễ hỏi và lễ cưới. Có khi cả hai lễ được gồm chung, tổ chức cùng ngày cho tiện. Rước dâu nghĩa là nhà trai đến nhà gái để làm lễ rước cô dâu về nhà chồng. "Về vùng hương thôn với nhau, cưới thường đi về đêm. Lúc đi, phải chọn giờ hoàng đạo mới đi, và phải có một người đàn ông dễ tính ra đón ngõ trước, khi ra thì reo ầm cả lên rằng gặp giai, để cho mọi việc được dễ dàng mau mắn. Trong đám cưới có một ông già(kén ông nào hiền lành, mà vợ chồng còn song toàn, lắm con nhiều cháu mới tốt)cầm một bó hương đi trước, rồi đến các người dẫn lễ, kẻ đội mâm cau, người khiêng lợn rượu v.v...Chú rể thì khăn áo lịch sự, có một đám thân thích dẫn đi. Khi đến nhà vợ, dàn bày đồ lễ, người chủ hôn nhà gái khấn lễ gia tiên rồi thì người rể vào lễ(...). Sáng hôm sau thì đưa dâu, nhà trai nhà gái cùng ăn mừng, làm cỗ bàn mời bà con khách khứa(...). Đưa dâu, nhà gái cũng kén một ông già cầm bó hương đi trước, rồi bà con họ hàng dẫn cô dâu đi sau. Đến nhà trai rồi thì một vài bà già dẫn cô dâu vào lạy gia tiên, rồi đưa đi lễ nhà thờ đôi bên bố chồng mẹ chồng(...)(4). Xưa kia, nước ta không có sổ giá thú, thay vào đấy có lễ nộp cheo cho làng. Trước khi cưới, nhà trai phải nộp cheo cho làng của nhà gái. Nộp bằng tiền hay bằng phẩm vật, nhiều hay ít, tuỳ theo lệ của từng làng. Nộp cheo có giá trị như khai báo sổ sách ngày nay. Dọc đường đến nhà gái, thỉnh thoảng nhà trai lại bị trẻ con chăng dây chắn lối, phải cho tiền chúng mới cởi dây cho mọi người đi qua. Lại có đám xin tiền bằng bánh pháo mừng, hoặc bày hương án giữa đường... Nộp cheo, chăng dây, bày hương án cũng là dịp để các chức dịch, người làng, mè nheo, vòi vĩnh tí ti. Đón dâu và rước dâu ngày xưa toàn đi bộ. Sang đầu thế kỉ 20, tại một vài thành phố lớn bắt đầu dùng xe tay, xe song mã. Ngày nay nhiều nơi dùng xe hơi. Phương tiện tuy có thay đổi theo thời, nhưng từ xưa tới nay chưa nghe nói có đám cưới nào có chú rể cưỡi ngựa đi trước, cô dâu ngồi kiệu theo sau, xung quanh nào cờ, nào quạt như trong tranh vẽ! Phải thừa nhận rằng tranh Đám cưới chuột mô tả không đúng một tục lệ quan trọng ngày xưa!Chẳng lẽ nghệ nhân dân gian lại sai lầm như vậy ? Rước trạng nguyên Trạng nguyên là người đỗ đầu kì thi cao nhất của khoa cử ngày xưa. Cho tới đầu thế kỉ 20, thi cử ở nước ta được tổ chức mỗi 3 năm một lần. Có 3 kì thi chính là thi hương, thi hội, thi đình. 1- Trước khi thi hương, tất cả sĩ tử phải qua kì sát hạch. Ai đỗ sát hạch mới được ghi tên dự thi hương. Thi hương, được tổ chức ở một số tỉnh lớn như Thừa Thiên, Gia Định, Nghệ An, Thanh Hóa, Nam Định, Hà Nội (về sau Nam Định và Hà Nội nhập làm một thành Hà Nam), gồm có 4 kì. Phải đủ điểm kì trước mới được vào kì sau. Ai đủ điểm qua được 3 kì đầu thì được vào dự kì chót là kì phúc hạch. Cộng điểm cả 4 kì, điểm cao được đỗ cử nhân, thấp thì đỗ tú tài. Các ông tân khoa cử nhân được quan trường ban thưởng một bộ áo mũ, một cái lọng xanh, được mời ăn yến. Chờ đến năm sau đi thi hội.
|
|
|
Ăn Tết
Nov 21, 2006 10:11:42 GMT 9
Post by Huu Le on Nov 21, 2006 10:11:42 GMT 9
2- Thi hội: Các ông cử nhân, tú tài, giáo thụ, huấn ðạo, ðýợc quyền ghi tên thi hội, tổ chức tại kinh ðô.
Thi hội cũng chia ra làm 4 kì. Ai ðủ ðiểm thì ðýợc vào thi ðình.
3- Thi ðình: ðây là kì thi sau cùng ðể sắp hạng cao thấp, tổ chức tại sân trong cung ðiện nhà vua. Thi ðình ðýợc nhà vua ra ðầu bài và chứng kiến cuộc thi. Các quan trýờng chấm bài, ðệ lên vua duyệt lại.
Ðiểm cao thì ðýợc ðỗ tiến sĩ, thấp thì ðỗ phó bảng. Ðời Lê, ba ông tiến sĩ ðỗ ðầu ðýợc gọi là Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Những ngýời ðỗ tiến sĩ ðýợc xýớng danh. Tên tuổi, quê quán ðýợc ghi khắc vào bảng vàng, bia ðá.
Các ông tân khoa tiến sĩ ðýợc nhà vua ban cho mũ áo, cân ðai, ðýợc mời ãn yến. Các ông còn ðýợc cýỡi ngựa xem hoa ở výờn thýợng uyển, dạo chõi thãm phố xá kinh kì.
Trong lúc các ông tân khoa còn vui chõi nõi cung ðiện, phố phýờng, thì các chức dịch ở làng ðýợc lệnh phải tổ chức ðón rýớc các ông về vinh quy bái tổ.
"Ðỗ tiến sĩ ðýợc nhà vua ban cho áo mũ xiêm ủng, và ban cho cờ biển vinh qui. Cả hàng tổng hoặc nõi trọng vãn học thì cả hàng tỉnh phải ðem ðồ nghi trýợng sự thần ði rýớc.
" Ông tân khoa tiến sĩ mặc áo thụng lam, cýỡi ngựa, che ðôi lọng, cha mẹ, vợ và ông thầy dạy học mỗi ngýời ngồi một cái võng trần, che một lọng rýớc vinh qui về làng, thiên hạ kéo nhau ði xem, lại vinh hiển hõn cử nhân nhiều"(4).
Nhiều ngýời trong chúng ta còn nhớ ðám rýớc Thời trýớc:
...Một quan là sáu trãm ðồng Chắt chiu tháng tháng cho chồng ði thi Chồng tôi cýỡi ngựa vinh qui Hai bên có lính hầu ði dẹp ðýờng Tôi ra ðón tận gốc bàng Chồng tôi xuống ngựa cả làng ra xem...
Nguyễn Bính
Anh chồng trong câu chuyện tuy chỉ ðỗ tú tài hay cử nhân, chị vợ chýa ðýợc ngồi võng, thế mà ðám rýớc cũng ðã có vẻ khá long trọng, có lính dẹp ðýờng, có cả làng ra xem. Rýớc trạng nguyên, tiến sĩ chắc hẳn còn linh ðình, rầm rộ hõn nhiều, có cả tổng, cả tỉnh ði xem !
Kể từ kì thi lều chõng ðầu tiên tổ chức nãm 1075, cho ðến kì cuối cùng nãm 1919, trong suốt gần 9 thế kỉ xã hội phong kiến Việt Nam ðã tôn giới nho học lên hàng ðầu tứ dân (sĩ, nông, công, thýõng), dùng khoa cử ðể tuyển chọn nhân tài. Các ông trạng, ông nghè (tiến sĩ), ông cử, ông tú chia nhau nắm giữ quyền hành. Trạng nguyên, tiến sĩ là biểu týợng của thành công, phú quý, là mẫu ngýời lí týởng của các chuyện cổ tích có hậu. Các ông thuộc tầng lớp cao nhất của giới quan lại.
Từ nãm Bảo Thái thứ 2 (1721) về sau, "Duy có chức ngự sử là chức quan ðứng ðầu trong việc giữ phong hóa pháp ðiển, chức sứ thần là ngýời có trách nhiệm ngoại giao, tất phải kén ngýời ðỗ tiến sĩ, quan tiến triều thì không ðýợc dự "(5).
Ðời Lê, trạng nguyên ðýợc cấp 55 ngýời tuỳ hành(những ngýời hầu hạ, sai bảo), bảng nhãn ðýợc 50 ngýời, thám hoa chỉ ðýợc 45 ngýời. Trạng nguyên, tiến sĩ còn ðýợc quyền chọn ðất trong tổng ðể làm nhà.
Hàng huyện làm cổng, hàng tổng làm nhà
Chọn chỗ nào, hàng huyện phải cho ngýời tới làm cổng, hàng tổng phải cắt ngýời tới ðắp nền xây nhà tại chỗ ðó. Ðặc ân to lớn nhý vậy nên mới có cảnh:
Chýa ðỗ ông nghè ðã ðe hàng tổng
Chýa dỗ tiến sĩ mà ðã vậy, huống hồ ðỗ trạng nguyên thì phải biết! Xem thế thì ðủ thấy rằng các chức dịch trong làng, các quan lại ðịa phýõng dù có gian ác, hống hách ðến mấy cũng chỉ dám bắt nạt, hà hiếp ðám dân thýờng thấp cổ bé họng, chứ không ai lại dại dột ðụng vào gia ðình, họ hàng các ông quan lớn týõng lai của triều ðình.
Cho dù có ðiếc không sợ súng, cũng chả có mèo già nào dám chõi trò vuốt râu hùm, ra ngồi cản ðám rýớc vinh quy của vợ chồng quan trạng. Lớ quớ thì chỉ có nýớc tù mọt gông !
Nói rằng gia ðình, họ hàng trạng chuột phải lo sợ, thấp thỏm, mắt lấm la lấm lét nhìn trýớc nhìn sau, ðem lễ vật ði ðút lót, hối lộ mèo già, là không có cãn cứ. Có chãng là chính mèo già phải lo sửa soạn chạy chọt, ðút lót gia ðình, họ hàng quan trạng ðể ðýợc một chân ðiếu ðóm !
Chẳng lẽ ngýời vẽ tranh Trạng chuột vinh quy lại tỏ ra không hiểu gì về uy quyền của quan trạng? Tôi không dám nghĩ có chuyện lạ nhý vậy!
Nhýng rõ ràng là tranh Ðám cýới chuột và Trạng chuột vinh quy ðều không tả ðúng tục lệ ngày xýa. Vậy phải hiểu tấm tranh ra sao ?
Phân tích bố cục của tấm tranh chúng ta thấy dýờng nhý tranh ðýợc chia thành hai phần, lằn chia khá rõ nét :
- Nửa dýới vẽ một ðám rýớc trạng nguyên vinh quy. Ðoàn rýớc ði trên ðýờng cái, hoặc ðýờng làng ðã ðýợc dọn sạch cỏ, có cờ biển, "ngựa chàng ði trýớc, kiệu nàng theo sau".
- Nửa trên vẽ một ðám rýớc ở thôn quê, hai bên ðýờng cỏ mọc. Ðám rýớc có kèn trống, lễ vật, bị mèo già chắn lối.
Ðám rýớc trạng nguyên ðýợc vẽ ðúng nhý sách vở mô tả, dễ hiểu. Còn ðám rýớc bị gặp khó khãn, thì thật là khó hiểu. Cảnh này xảy ra ở ðâu ?
Trong kho tàng vãn hoá truyền thống Liễu Ðôi có bài thõ ngụ ngôn Ðám cýới chuột (6): Mẹ chuột cũng quyết một lòng Chỉ còn một nỗi sợ ông mèo già. Mèo già tính khí la cà, Này rýợu hàng hũ,này gà hàng con. Ông mà ðã nóng máu lên, Thì thôi tan nát chả còn thứ chi! ... Cýới chuột thì thật là to, Dãy dài dãy ngắn giãng bờ nhý nêm. Bỗng dýng dừng lại phía trên, Hai họ ngõ ngác ngó lên sự gì? Một ðàn mèo xám mặt bì, Cầm dao,cầm gậy lại thì cản ngãn. Mèo Già nhảy ðến nhe rãng: - "Tao thì lột xác không thằng nào tha! Chúng mày ãn uống la ðà, A!Quân xỏ nõ,khinh già nhõn nhõn!" Chuột Trùm mới vái lạy luôn: - "Xin ngài ðộ lýợng rộng lòng thýõng cho! Sông sâu còn lúc vắng ðò, Bởi vì con trẻ biết lo liệu gì! Mong ngài phù hộ ðộ trì, Chúng con biết rõ mình thì thật hý!" ... Một trời nýớc biếc non xanh, Ðàn chuột lũ lýợt vòng quanh bờ dài. Ði ðầu là họ nhà trai. Chú rể áo dài quần áo thýớt tha. Chuột Trẻ cho chí Chuột Già, Những là áo lýợt quần là tốt týõi. Chuột Vàng dâng quả,ðội cõi, Miếng trầu thõm miệng ðỏ môi họ hàng(...).
Nửa trên của tấm tranh chính là minh hoạ của phần ðầu Ðám cýới chuột này.
Nếu ðúng là tấm tranh có hai phần nhý vậy thì chúng ta lại phải trả lời câu hỏi vì sao nghệ nhân lại vẽ hai ðám rýớc khác nhau trên cùng một tấm tranh ?
Cãn cứ vào lời chú trong tranh Bằng Liệt tân khắc lão thử thủ tân (Bằng liệt mới khắc lại chuột già lấy vợ), chúng ta ðýợc biết rằng tấm tranh này mới ðýợc khắc lại, không rõ nãm nào. Ðây chỉ là một trong số nhiều dị bản (Durand ðýa ra 3 bản (1), Trung quốc có 4 bản (7),mới ðây Nguyễn Ðãng Chế lại "phục hồi vốn cổ ", khắc thêm 1 bản). Các dị bản ðýợc nghệ nhân sửa ðổi tuỳ hứng. Ngày nay chúng ta có tranh ghi bằng chữ hán, chữ nôm, chữ quốc ngữ.
Tôi cho rằng trong quá trình tái tạo, có nghệ nhân nào ðó ðã ðem ghép hai tấm tranh cùng vẽ ðám rýớc - rýớc dâu và rýớc vinh quy - ðể làm thành một tấm mới. Việc làm gán ghép này ðã vô tình tạo ra một nội dung "ðầu mèo ðuôi chuột" khó hiểu. Các nghệ nhân ðời sau tiếp tục chép lại tấm tranh ghép này, không thắc mắc gì cả.
Trýờng hợp ghép tranh nhý vậy còn ðýợc thấy ở tấm Du Xuân ðồ trong sách của Durand (1). Ai ðó ðã ghép hai tấm tranh Tết biệt lập của bộ tranh Oger, ðồng thời sửa ðổi cả các câu thõ nôm của chính bản.
Chúng ta có thể tạm kết luận rằng tấm tranh Tết nổi tiếng của ta ðã ðýợc ghép từ hai tấm tranh khác nhau, nửa trên là Ðám cýới chuột, nửa dýới là Trạng chuột vinh quy. Các chữ trong tranh ðã ðýợc ngýời ðời sau sửa ðổi, thêm bớt một cách tuỳ tiện.
Nguyễn Dý (5/1/2000) (trich dien dan Chim Viet )
Tài liệu tham khảo 1-Maurice Durand,Imagerie populaire vietnamienne, EFEO,Paris,1960 2-Nguyễn Bá Vân-Chu Quang Trứ,Tranh dân gian Việt Nam, NXB Vãn Hóa,1984 3-Toan Ánh,Làng xóm Việt Nam,NXB Xuân Thu,Hoa Kì 4-Phan Kế Bính,Việt Nam phong tục, NXB Tổng hợp Ðồng Tháp,1990 5-Phan Huy Chú,Lịch triều hiến chýõng loại chí (Quan chức chí), NXB Sử học,Hà Nội,1961 6-Bùi Vãn Cýờng-Nguyễn Tế Nhị,Khảo sát vãn hóa truyền thống Liễu Ðôi, NXB KHXH,Hà Nội,1982 7-Vãn Ngọc,Tranh khắc gỗ dân gian,Diễn Ðàn số 88,Paris,1999
|
|
|
Ăn Tết
Dec 3, 2006 9:52:22 GMT 9
Post by Huu Le on Dec 3, 2006 9:52:22 GMT 9
Mùa Xuân qua thi ca Việt Nam Apr/6/06 Dương Viết Điền
Nói đến mùa xuân là nói đến mùa ấm-áp, khí hậu thật mát dịu trong lành. Bầu trời luôn luôn sáng-sủa và quang-đảng với trời xanh, mây trắng, nắng hồng. Mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi nẩy lộc . Hàng ngàn lọai hoa đua nhau khoe sắc dưới ánh nắng xuân chan-hoà khắp nơi. Bên những đoá hoa xuân khoe màu trong nắng, những đàn bướm tung-tăng lượn qua lại như muốn tỏ tình.
Trước cảnh đẹp thiên-nhiên với nghìn cây đang đơm bông kết trái, trước cảnh đẹp tuyệt-vời của ngàn đoa ùhoa xuân có bướm lượn quanh ngây-ngất tình, trước cảnh đàn chim nên thơ hót líu-lo trên cành cây dưới nắng xuân hồng ấm-áp, trước cảnh thơ-ngây của những cô gái xuân đến tuổi dậy thì mơn-mởn đào tơ
đang e-ấp tình xuân, các thi- nhân Việt-nam đã xúc-động để rồi sáng-tác nên hàng trăm câu thơ ca-ngợi xuân về, sáng-tác hằng ngàn câu thơ thêu-dệt tình xuân.
Nếu ngày xưa ở bên Trung-Quốc đời Đường, thi-sĩ Trịnh-Cốc đã tả cảnh biệt-ly giưã mùa xuân qua mấy câu thơ thật nồng-nàn thắm-thiết :
“ Dương-Tử giang đầu dương liễu xuân
Dương hoa sầu sát độ giang nhân
Sổ thanh phong dịch ly đình vẩn
Quân hướng tiêu-tương, ngã hướng tần.”
( Đầu sông Dương-Tử liễu xanh
Hoa dương khiến khách qua sông lệ tràn
Sáo chiều vẵng tiếng ly-tan
Tiêu-tương bạn đến, đường Tần tôi qua. )
( Chi-Điền dịch )
thì tại việt-nam, các thi- nhân cũng đua nhau tả cảnh xuân về trên đất Việt.
Hình ảnh mùa xuân rõ nét nhất là mấy câu thơ thật trong sáng và nhẹ-nhàng của thi-sĩ Nguyễn-Du trong tác-phẫm truyện Kiều:
“ Ngày xuân con én đưa thoi
Thiều-quang chín chục đã ngoài sáu mươi
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.”
Tiếp theo thi-sĩ Nguyễn-Du, các nhà thơ Việt-nam thời tiền chiến cũng đã tả cảnh xuân về qua những dòng thơ thật tuyệt đẹp và trữ tình, nghìn năm vẫn còn xúc-động và nhớ mãi không quên . Ta hãy nghe nhà thơ Nguyễn-Bính tả cảnh xuân về :
“ Từng đàn con trẻ chạy xum-xoe
Mưa tạnh trời quang nắng mới hoe
Lá nỏn cành non ai tráng bạc ?
Gió về từng trận gió bay đi .”
( Xuân về )
Khi trời quang mây tạnh, nắng xuân lại về giữa những cơn gió chiều nhè nhẹ lướt qua đồi khiến cho lòng người lâng-lâng khoan-khoái, nhiều lúc muốn ôm mùa xuân vào lòng để ấp-ủ tình xuân.
Xúc-động trước cảnh chiều xuân ngập nắng, nhà thơ Huy-Cận đã tả cảnh xuân về làm rung-động lòng người :
“ Xuân gội tràn đầy
Giữa lòng người hoan-lạc,
Trên mình hoa cây…
Nắng vàng lạt lạt
Ngày đi chầy chầy…
Hai hàng cây xanh
Đâm chồi hy-vọng
Ôi! duyên tốt lành
Em ngà đưa võng
Hương đồng lên tranh
Kề bên đường tạnh
Cỏ mọc bờ non
Chiều xuân tươi mạnh
Gió bay vào hồn .”
( Chiều xuân )
Cũng cảnh chiều xuân như Huy-Cận, nhà thơ Quách-Tấn lại rung cảm hồn mình theo cảnh hoàng hôn qua những dòng thơ chan-chứa xuân tình :
“ Chim mang về tổ bóng hoàng-hôn
Vàng lửng-lơ non biếc đọng cồn
Cành gió hương xao hoa tỉ muội
Đồi sương sóng lượn cỏ vương tôn
Khói mây quanh-quẩn hồi chuông vọng
Trời biển nôn-nao tiếng địch dồn
Thưởng cảnh ông câu tình-tự quá
Thuyền con chở nguyệt đến cô-thôn.”
( Chiều xuân )
Từ cảnh chiều xuân đến cành hoàng-hôn, từ cảnh hoàng-hôn đến cảnh đêm xuân ta thấy cảnh nào thi-nhân cũng sáng-tác nên những dòng thơ bất-hủ nghìn đời. Nếu nhà thơ Huy-Cận với “nắng vàng lạt lạt hàng cây xanh…Cỏ mọc bờ non,gió bay vào hồn.”, nếu nhà thơ Quách Tấn với “ Đồi nương sóng lượn cỏ vương tôn…thuyền con chở nguyệt đến cô-thôn.”, thì nhà thơ Bích-Khê không ngần-ngại sáng tác những dòng thơ đầy man-dại với nắng, với trăng, với sương cùng lau-lách:
“Hỡi lời ca man-dại
Điệu nhạc thở hơi rừng
Đêm nay xuân đã lại
Thuần-tuý và tượng trưng
Nắng lên núm vú đồi
Sữa trăng nhỉ nhỉ giọt
Bay qua cụm liễu phơi
Những cườm tay điểm hột
Sương phất-phơ lau-lách .”
( Xuân tượng trưng )
Ta thấy lối tả xuân thật man-dại như Bích-Khê cũng có nhiều nhà thơ sáng-tác. Nhưng điển-hình cuả phái “tượng-trưng” này không ai qua mặt được Bích-Khê chăng?
Còn lại là những nhà thơ chuyên sáng tác những dòng thơ trong sáng và nhẹ nhàng chứ không man-dại. Khi nói đến muà xuân, hầu hết cacù thi- nhân việt-nam thường ca-tụng nắng xuân, gió xuân rất nhiều. Ta hãy nghe nhà thơ Nguyễn-Giang con của ũ nhà văn Nguyễn văn Vĩnh, dệt mấy dòng thơ xuân thật tình-tứ :
“Gió xuân phơ-phất thổi trong cành
Lớp lớp bên đường bóng lá xanh
Cây cỏ cười tươi hoa mủm-mỉm
Học-sinh qua lại áo phong-phanh.”
( Xuân )
Mặc dầu nắng xuân ,gió xuân là những hình ảnh tuyệt đẹp cứ mỗi độ xuân về, nhưng mưa xuân lại là hình ảnh độc-đáo nhất của mùa xuân. Chính hình ảnh nầy đã làm cho thi-sĩ Anh-Thơ khoan-khoái mà sáng-tác những dòng thơ thật đẹp và thât buồn:
“Mưa đổ bụi êm-êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im-lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi-bời. “
( Chiều xuân )
Qua những dòng thơ vừa được trình bày ở trên, ta thấy các thi-nhân chỉ tả cảnh mùa xuân mà không đề cập gì đến nắng xuân cả. Nhưng đọc qua bài “Mùa xuân chín” của Hàn mạc Tử, ta thấy nhà thơ đã vừa tả cảnh xuân về thật đẹp-đẽ và nên thơ vừa lồng vào trong đó một vài hình ảnh của các cô thôn—nữ đang hát trên đồi dưới nắng xuân sao mà quyến-rũ :
“Trong làng nắng ửng : khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm-tấm vàng
Sột-soạt gió trên tà áo biếc
Trên giàn thiên-lý bóng xuân sang
Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời
Bao cô thôn-nữ hát trên đồi
Ngày mai trong đám xuân xanh ấy
Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.”
( Mùa xuân chín )
Qua những thi-phẩm và những nhà thơ vừa được trình bày, ta thấy hầu hết trong các thi-phẩm đều được tả cảnh mùa xuân với nắng xuân tỏa rộng khắp trời, với gió xuân man-mác mùa trăng với mưa xuân mát dịu và u-buồn. Nhưng nếu tả cảnh xuân về mà không đề-cập đến tình yêu là một sự thiếu-sót trầm-trọng trong thi-ca và mùa xuân sẽ mất đi nhiều ý-nghĩa.Chính vì vậy mà nhiều thi- nhân đã bộc lộ tình yêu giữa mùa xuân đầm-ấm qua những dòng thơ bất-hủ, lãng-mạn chất chưá những hương tình. Ta hãy nghe nhà thơ J.Leiba nói về tình yêu giữa mùa xuân : “ Mồng một vui xuân hai chúng ta
Em muời ba tuổi tính còn thơ
Em anh còn cãi nhau như trẻ
Em dỗi, anh nhìn dạ ngẩn-ngơ
Xuân này xuân trước cách bao rồi
Nhớ buổi xuân nào tiếc phút vui
Ngày nay nhớ lại buổi vô-tình
Anh lặng yêu em ,em nhớ anh
Rồi mùa xuân qua xuân lại lại
Biết rằng sau có vẹn ba-sinh .”
( Năm qua )
Mùa xuân đến rồi mùa xuân đi. Tình yêu vì vậy lắm lúc cũng như mùa xuân, cũng đến rồi cũng đi, nghĩa là yêu nhau rồi lại ly-biệt, khiến cho cảnh xuân nhiều khi cũng buồn da-diết.
Điển hình là mấy dòng thơ sau đây của thi-sĩ Lưu-trọng Lư với cảnh xuân về rồi xuân đi khiến “chàng.” cũng đi theo mùa xuân không hẹn ngày trở lại :
“ Năm vừa rồi
Chàng cùng tôi
Nơi vùng giáp mơ
Trong gian nhà cỏ
Tôi quay tơ
Chàng ngâm thơ
Vườn sau canh giục-giã
Nhìn ra hoa đua nở
Dừng tay tôi kêu chàng :
Này,này,bạn : xuân sang
Chàng nhìn xuân mặt hớn-hở
Tôi nhìn chàng lòng vồn-vã
Rồi ngày lại ngày
Sắc màu : phai
Lá cành : rung
Ba gian : trống
Xuân đi :
Chàng cũng đi
Năm nay xuân còn trở lại
Người xưa không thấy tới.”
( Tiếng thu )
Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm , tuổi xuân là tuổi đẹp nhất của đời người. Nhất là những cô gái dậy thì lúc đang ở tuổi trăng tròn lẻ. Cái tuổi thơ-ngây tràn ngập tình xuân. Với tuổi này nếu bắt đầu yêu, các cô sẽ xúc-động và thường có những giấc mộng tương-tư, để rồi nhớ thương sầu-thảm. Và hình ảnh người yêu lắm lúc canh-cánh bên lòng.Yêu nhau khi xuân đến rồi xa nhau khi xuân lại về để không bao giờ gặp nhau nữa, khiến “ cô buồn,cô tiếc…cô nhớ ngày xuân, nhớ tuổi thơ.” như thi-sĩ Đông-Hồ dệt những dòng thơ thật lãng-mạn nhưng lại buồn vời-vợi, khiến nhiều lúc nghẹn-ngào vì khóc tình quân :
“Tưng-bừng hoa nở bóng ngày xuân
Rực-rỡ lòng cô hoa ái-ân
Như đợi như chờ, như nhớ tưởng
Đợi chờ tưởng nhớ bóng tình quân
……………………..
AiÙ-tình nào phải bướm ngày xuân
Tình-ái ngày xuân chỉ một lần
Một thoáng bay qua không trở lại
Gái xuân đỏ lệ khóc tình quân
……………………….
Lủi-thủi trên đường cô ngẩn-ngơ Chốn này đuổi bắt bướm ngày xưa
Cô buồn, cô tiếc, cô ngùi-ngậm. Cô nhớ ngày xuân nhớ tuổi thơ .”
( Cô gái xuân )
“ Ngày vui không có mấy
Đôi lứa cũng xa nhau
Tuổi xuân còn mãi đâu
Biệt-ly nay mới biết
Chỉ xiết nỗi thương đau
Giọt lệ một lần ứa
Biết bao lần chan-chứa
Một lần khi bắt đầu
Biết bao lần sau nưã !.”
( Cô gái xuân )
Hoặc là :
“ Kể từ khi quen nhau
Vừa mười ba tuổi đầu
Tuổi xuân tuổi vui sướng
Nào có biết chi sầu.”
Xuân đến là ngày hội hoa đăng của muôn lòai trên trái đất, là ngày vui của lòai người vì tất cả như trẻ lại để thưởng thức cái đẹp khi xuân về. Aáy thế mà nhiều người lại không muốn mùa xuân về, không muốn mùa xuân xuất hiện trong đời, vì mỗi lần xuân về là mỗi lần làm cho họ đau khổ triền-miên. Ta hãy nghe nhà thơ Chế lan Viên nức-nở lệ sầu khi mùa xuân đến :
“ Tôi có chờ đâu, có đợi đâu
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu ?
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau
Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng
Với của hoa tươi muôn cánh rã
Về đây đem chắn nẽo xuân sang.”
( Xuân )
Nói chung ,cũng giống như mùa thu, các thi-nhân Việt-nam đã sáng tác rất nhiều bài thơ ca-ngợi mùa xuân với hàng ngàn cây xanh tươi mát đang kết trái đơm bông, với những áng mây chiều trôi giữa nắng hồng, với những nụ cười tươi như hoa nở của các cô gái xuân đang e-ấp xuân tình. Chính vì thế, thi- caViệt-nam càng ngày càng thêm phong-phú nhờ những dòng thơ xuân bất-hủ ngàn năm .
Dương Viết Điền
|
|