Post by Huu Le on Dec 3, 2006 10:16:23 GMT 9
GỐC RỄ VĂN HÓA VIỆT NAM
Trần Văn Cảnh
1. Văn hóa là gì ?
Là những nghệ thuật cao.
Đề cập đến văn hoá, câu hỏi thứ nhất được đặt ra là ‘Văn hoá là gì ?’
Chữ ‘văn hóa’ tiếng Việt mà ta dịch từ chữ ‘culture’ của Pháp, từ rất xưa và từ rất lâu, vẫn được dùng để biểu thị một thực tại xã hội cao, dành cho giới khoa bảng trí thức, giới nghệ sĩ chính chuyên, giới quan chức quí tộc.
Ý nghĩa này của chữ văn hoá đã được Cicéron (106-45 trước tây lịch) dùng để chỉ những hoạt động ‘triết học’ đào tạo và giáo dục tâm hồn con người. Từ thời Trung cổ, nhiều tác giả, như Erasme, Thomas More, Francis Bacon, Fénélon, J.J. Rousseau, Voltaire, ... dùng chữ văn hoá để ám chỉ những hoạt động tri thức và văn học.(1)
Tóm lại, chữ văn hoá bao gồm những hoạt động và những tác phẩm của những người học cao, tài lớn, tiền nhiều, chức cả. Theo quan niệm này, nói đến văn hóa Hy lạp, người ta nghĩ ngay đến văn hóa Hy lạp thời Platon, Aristote ; Nói đến văn hóa La mã, người ta lộn ngay với văn hoá La mã thời Auguste ; Nói đến văn hóa Anh quốc người ta nghĩ ngay đến văn hóa thời nữ hoàng Elizabeth, nói đến văn hóa Pháp, người ta nghĩ ngay đến văn hóa Pháp thế kỷ Ánh Sáng XVIII. Giản tiện hơn, trên phương diện địa lý, văn hóa Anh thường được đồng hóa với văn hóa Luân đôn, văn hóa Pháp với văn hóa Paris, văn hóa Việt Nam với sinh hoạt ở Hà Nội.
Cách hiểu này về chữ ‘văn hóa’ quá hạn hẹp. Nó chỉ bao gồm có văn học nghệ thuật, với những tác giả nổi tiếng, với những nghệ sĩ tài cao.
Là những sinh hoạt bình nhật của con người
Ba khoa học mới, dần dà xuất hiện : nhân loại học (Anthropologie), nhân chủng học (Ethnologie) và xã hội học (Sociologie) đã dọi ánh sáng vào những khía cạnh mới của ‘văn hóa’.
Giá trị nhận thức của những sự kiện bình nhật, bình dân, thông thường, tự nhiên, vô nghĩa... đã được tỏ rõ. Bây giờ người ta ý thức rằng cách ăn uống, ngủ nghỉ của người dân quê Pháp ở thế kỷ XVII cũng dậy cho chúng ta hiểu về văn hóa Pháp không kém gì cuốn ‘Phương pháp luận’ của Descartes...
Một quan niệm mới dần dà đã được thành hình. Ngay từ thế kỷ XVII, triết gia Đức Samuel von Pufendorf (1632-1694) đã dùng chữ văn hoá để biểu thị tất cả những gì không phải là tự nhiên, tức là tất cả những gì mà con người làm ra hay học được trong xã hội, tóm lại văn hoá là nhân tạo. Nói như Đào duy Anh, thì ’Văn hoá là sinh hoạt’ (2)
Vào cuối thế kỷ XIX, nhiều nhà nghiên cứu danh tiếng đã góp công vào việc nới rộng ý nghĩa của chữ ‘văn hóa’ này : E.B. TYLOR, E. DURKHEIM, K. MARX, C. LEVI-STRAUSS, M. MAUSS, B. MALINOWSKI, M. WEBER, P. BOURDIEU, J.C. PASSERON,...
Một nghĩa thứ hai của chữ ‘văn hóa’ đã được thành hình, khai triển, nghiên cứu và chấp nhận. Nó rộng hơn nghĩa thứ nhất. Nó bao gồm tất cả những khía cạnh ‘văn’ vẻ đã góp phần giáo ‘hóa’ con người, từ cách ăn uống, may mặc, cư trú, hành nghề, ngủ nghỉ, giao thiệp, tín ngưỡng, suy tư, ăn nói, viết lách, cười tươi, khóc thảm. Văn hóa là toàn thể những phong thái, gặp gỡ, hội họp, xã hội, liên đới... Nó bao gồm tất cả những xử sự, kiến thức, biểu lộ của con người, bình dân cũng như bác học, từ báo chí, sách vở, đến thảo luận, xuất bản, thư liệu, kiến trúc, nhạc kịch, hát ca... Tất cả những gì mà con người, dưới khía cạnh là một sinh vật xã hội, biểu lộ và sản xuất ra, cũng như tất cả những gì mà nó học được từ các thế hệ trước, cũng như những gì mà nó truyền lại cho các thế hệ sau đều là văn hóa cả. Chữ ‘văn hóa’, như vậy, hàm chứa tất cả những hành động và nghiên cứu, không chỉ giới hạn vào văn học và văn nghệ, mà còn nới rộng cả vào những lãnh vực giáo dục, xã hội, tôn giáo... nữa.
Ý nghiã này của chữ văn hoá thực ra đã được văn sĩ Đức J. G. Herder (1744-1803) sáng tạo và xử dụng ngay từ thế kỷ Ánh Sáng để chỉ ’Một hình thức sinh sống của một dân tộc, một quốc gia, một tập thể’.
Nhưng người đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa đầy đủ cho chữ văn hoá là nhà nhân chủng học người Anh, E.B. TYLOR (1832-1917) khi cho in tác phẩm ’Văn hóa sơ khai’ vào năm 1871. Theo Tylor thì văn hoá là ‘ Cái tổ hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luật lệ, phong tục và tất cả những hình thức, tập quán mà con người có được trong một xã hội’ (3).
Như vậy, hiểu theo nghĩa thứ hai này, câu hỏi thứ hai được đặt ra là : cây văn hoá Việt Nam, hiểu như là cái tổ hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luật lệ, phong tục và tất cả những tập quán và hình thức sinh sống của tập thể người người Việt Nam tại Pháp có gốc rễ từ đâu ?
2. Gốc rễ cây văn hóa Việt Nam
Cây văn hóa Việt Nam có gốc rễ sâu xa, rộng lớn và vững chắc, trải dài qua lịch sử trên bốn ngàn năm văn hiến. Sử gia Trần Trọng Kim (4) chia lịch sử Việt Nam làm năm thời đại :
- Thượng cổ (từ năm 2879 đến 111 trước Tây lịch),
- Bắc thuộc (từ năm 111 trước Tây lịch đến năm 939),
- Tự chủ (từ năm 939 đến 1528),
- Nam Bắc phân tranh (từ năm 1528 đến 1802), và
- Cận kim (từ năm 1802 đến 1945).
Dưới cái nhìn về gốc rễ văn hoá Việt Nam, ba giai đoạn quan trọng và quyết định hơn cả là :
- Giai đoạn thượng cổ lập quốc tạo ra cái bản tính Âu-Lạc ;
- Giai đoạn bắc thuộc 1000 năm lệ thuộc Tầu, chịu ảnh hưởng sâu xa cái văn minh Tam Giáo, và
- Giai đoạn cận kim, đặc biệt là từ 1862 đến 1975, chịu ảnh hưởng Âu Mỹ và Công Giáo.
Như vậy cây văn hoá Việt Nam có gốc rễ rất sâu xa : từ rễ cái Âu Lạc Bách Việt, xuyên qua rễ cả Tam Giáo và ăn sâu vào rễ cả Văn Minh Âu Mỹ Công giáo.
Rễ Âu Lạc
Thượng cổ thời đại trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 2879 đến 111 trước Tây lịch, trong đó, họ Hồng Bàng trị vì 2621 năm qua 18 đời Hùng Vương, với tên nước là Văn Lang. Từ năm 275 đến 208 trước tây lịch, thì do nhà Thục cai trị, xưng là An Dương Vương, đổi tên nước là Âu Lạc. Vào năm 208 trước tây lịch, Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc, lập ra nước Nam Việt, và xưng Vương, gọi là Triệu Vũ Vương. Nhà Triệu cai trị nước Nam Việt được đến năm 111 trước tây lịch, thì bị vua Vũ Đế nhà Hán bên Tầu chiếm lấy và cải tên là Giao Chỉ Bộ, mở đầu cho thời đại Bắc thuộc nước Tầu.
Để trình bày 26 thế kỷ giai đoạn thượng cổ lập quốc, sử gia Trần Trọng Kim đã chỉ vắn gọn nêu ra ba sự tích : Họ Hồng Bàng, nước Văn Lang, Truyện cổ tích (5). Tuy vắn tắt, nhưng rất quan trọng trong tiến trình xây dựng văn hoá Việt Nam. Vì dẫu là thần thoại, ba sự tích này là những yếu tố căn bản cấu tạo nên bản lãnh người Việt Nam, là khởi thuỷ của lịch sử Việt Nam và là nền tảng của văn hoá Việt Nam. Tôi xin được trích lại sau đây :
Họ Hồng Bàng. Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ, phiá bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phiá nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phiá tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phiá đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm nhâm tuất (2879 trước Tây lịch ?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ, đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên làÂu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng : ‘Ta là dòng dõi Long quân, nhà ngươi là dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải.’
Gốc tích truyện này có lẽ là từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia ra những nước gọi là Bách Việt.
... Nước Văn lang. Lạc Long Quân phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.
Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (bây giờ ở vào địa hạt huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, các quan nhỏ gọi là Bố Chính. Quyền chính trị thì cứ cha truyền con nối, gọi là phụ đạo...
Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, đến năm quí mão (158 trước tây lịch) thì bị nhà Thục lấy mất nước.
Truyện Cổ Tích. Sử chép rằng đời Hùng Vương thứ nhất, người nước Văn Lang làm nghề chài lưới, cứ hay bị giống thuồng luồng làm hại, vua mới bắt dân lấy chàm vẽ mình để những giống ấy tưởng là đồng loại không làm hại nữa. Sử lại chép rằng thuyền của ta ở đàng mũi thường hay làm hai con mắt, cũng có ý để cho các thứ thuỷ quái ở sông ở bể không quấy nhiễu đến. Trong đời Hùng Vương lại có hai truyện mà ngày nay người ta thường hay nói đến là truyện Phù Đổng Thiên Vương và truyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh.
Phù Đổng Thiên Vương. Đời Hùng Vương thứ 6, có đám giặc gọi là giặc Ân, hùng mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh (nay là huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh), có đứa trẻ xin đi đánh giặc giúp vua. Sư giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, cho đòi vào chầu. Đứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong thì đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc.
Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong là Phù Đổng Thiên Vương...
Hiện bây giờ có đền thờ ở làng Gióng, tức là làng Phù Đổng. Năm nào đến mồng 8 tháng tư cũng có hội vui lắm, tục gọi là đức Thánh Gióng.
Qua ba sự tích trên, rõ rệt là văn hoá Việt Nam có một cái rễ cái rất sâu xa : rễ Âu Lạc. Dưới khía cạnh tổ tiên, rễ cái Âu Lạc mang lại ba mạch sống cho cây văn hóa Việt Nam.
Đó là mạch huynh đệ, tương thân tương trợ, khiến tất cả mọi người Việt Nam đều nhìn biết nhau là đồng hương, đồng bào.
Mạch ‘Đức giả lạc sơn’ : người đức độ thì ưa thích (và vững chắc như) núi, noi theo tính chung thủy, đức độ của mẹ chung là Âu Cơ, dòng dõi thần tiên, đã dẫn 50 con lên núi, khiến sự tiếp đãi, giao thiệp luôn được trên kính dưới nhường.
Mạch ‘Trí giả lạc thủy’ : người mưu lược thì ưa thích (và biến báo như) nước, thừa hưởng được tính thông minh, biến báo của cha chung là Lạc Long Quân, dòng dõi rồng, đã đưa 50 con xuống biển Nam Hải, khiến sự tiếp xúc được hòa thuận với từng người và hòa hợp với môi trường chung quanh.
Rễ Âu Lạc, dưới khía canh quốc gia Bách Việt, còn chuyên chở ba chất không thể thiếu để thiết lập và nuôi dưỡng một nền văn hóa Việt Nam.
Chất "Việt tính" tạo ra tính chất độc đáo của mỗi người Việt Nam và của quốc gia Việt Nam, mà đặc biệt là tính tự lực tự cường, như cổ tích Phù Đổng Thiên Vương đã nêu rõ.
Chất "Việt ngữ’, biểu diễn, gói ghém và chuyên chở những thói tục, những văn minh, những tổ chức, những kinh nghiệm từ người này cho người kia, từ nơi này sang nơi nọ, từ thời này sang thời kia. Ngôn ngữ ấy chuyên chở bốn ngàn năm văn hiến Bách Việt. Nó ghi nhận, bảo tồn và chuyển trao cho các thế hệ mai sau cái văn hóa Việt Nam chẳng những bằng lời nói mà cả bằng những ký hiệu chữ viết nữa, chẳng những trong các áng văn bình dân mà cả trong văn chương bác học nữa. Ba loại chữ viết đã xuất hiện để chuyên chở cái văn hóa Bách Việt này : chữ hán, chữ nôm và chữ quốc ngữ. Ngôn ngữ dính liền với văn tự. Văn tự và ngôn ngữ dính liền với văn hóa. Không thể có văn hóa riêng biệt nếu không có văn tự và ngôn ngữ riêng biệt.
Chất ‘Việt lý’ bao gồm những cách quản lý, cách cai trị, cách tổ chức đã vậy mà còn chứa đựng những hành động, những định chế và những tổ chức. Việt lý là cách suy lý để hành động, hành động để bảo trì, phát triển và truyền thụ cái văn hóa Bách Việt cho các thế hệ con em mai sau. Suy lý và hành động làm sao để duy trì tiếng Việt và làm cho nó trong sáng, làm sao để tình Việt không bị lơ là, lu mờ, mà càng ngày càng thân thiết, đặm đà ; làm sao để tộc việt được bảo tồn.
Rễ tam giáo
Năm 111 trước tây lịch, vua Vũ Đế nhà Hán bên Tầu chiếm lấy nước Nam Việt và cải tên là Giao Chỉ Bộ. Nước ta bị nước Tầu đô hộ bắc thuộc lần thứ nhất, kéo dài 71 năm, bởi nhà Tây Hán. Năm 40 sau tây lịch, hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị khởi binh, thắng Tô Định, xưng làm vua được ba năm.
Từ năm 43 Mã Viện thắng Trưng Vương, nước ta bị bắc thuộc lần thứ hai, kéo dài trên 500 năm, bởi nhà Đông Hán, qua các đời Tam Quốc, nhà Tấn, Nam Bắc Triều. Năm 544, Lý Bôn nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư về Tàu, rồi xưng đế, gọi là Lý Nam Đế, lập nên nhà Tiền Lý (544- 602).
Năm nhâm tuất (602), vua Văn Đế nhà Tùy bên Tầu sai tướng Lưu Phương đem 27 doanh quân sang đánh Nam Việt. Hậu Lý Nam Đế là Lý Phật Tử sợ thế không địch nổi, bèn xin về hàng. Nước ta bị bắc thuộc lần thứ ba, kéo dài 336 năm, bởi nhà Tùy, qua nhà Đường và đời Ngũ Quí.
Năm kỷ hợi, 939, sau khi đã giết Kiều Công Tiện, rồi thắng Hoằng Tháo ở sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã chấm dứt được ách bắc thuộc, lập nên nhà Ngô, mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần,… được tự chủ.
Từ năm 111 trước tây lịch, khi vua Vũ Đế nhà Hán chiếm lấy nước Nam Việt cho đến năm 939, khi Ngô Quyền đánh đuổi người Tầu về bắc, đếm ra vừa đúng 1050 năm.
Trong 1050 năm bị bắc thuộc, người Việt Nam ta đã nhiễm cái văn minh của Tầu rất mạnh, đặc biệt là về sự học vấn và về cách cai trị. Những học phái lớn, như Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, đã từ Tầu mà ảnh hưởng vào đời sống của người Việt Nam một cách sâu rộng. Ảnh hưởng này chỉ hiện rõ nét từ thời tự chủ (939-1528), tiếp tục qua thời Nam Bắc phân tranh (từ năm 1528 đến 1802) và thời Cận kim (từ năm 1802 đến 1945). Phật học độc tôn thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Tam giáo cực thịnh từ Lý, Trần. Nho học độc tôn từ Trần, Lê, Trịnh, Nguyễn.
Ngày nay, tam giáo gắn liền với người Việt Nam và văn hoá Việt Nam.
Trần Văn Cảnh
1. Văn hóa là gì ?
Là những nghệ thuật cao.
Đề cập đến văn hoá, câu hỏi thứ nhất được đặt ra là ‘Văn hoá là gì ?’
Chữ ‘văn hóa’ tiếng Việt mà ta dịch từ chữ ‘culture’ của Pháp, từ rất xưa và từ rất lâu, vẫn được dùng để biểu thị một thực tại xã hội cao, dành cho giới khoa bảng trí thức, giới nghệ sĩ chính chuyên, giới quan chức quí tộc.
Ý nghĩa này của chữ văn hoá đã được Cicéron (106-45 trước tây lịch) dùng để chỉ những hoạt động ‘triết học’ đào tạo và giáo dục tâm hồn con người. Từ thời Trung cổ, nhiều tác giả, như Erasme, Thomas More, Francis Bacon, Fénélon, J.J. Rousseau, Voltaire, ... dùng chữ văn hoá để ám chỉ những hoạt động tri thức và văn học.(1)
Tóm lại, chữ văn hoá bao gồm những hoạt động và những tác phẩm của những người học cao, tài lớn, tiền nhiều, chức cả. Theo quan niệm này, nói đến văn hóa Hy lạp, người ta nghĩ ngay đến văn hóa Hy lạp thời Platon, Aristote ; Nói đến văn hóa La mã, người ta lộn ngay với văn hoá La mã thời Auguste ; Nói đến văn hóa Anh quốc người ta nghĩ ngay đến văn hóa thời nữ hoàng Elizabeth, nói đến văn hóa Pháp, người ta nghĩ ngay đến văn hóa Pháp thế kỷ Ánh Sáng XVIII. Giản tiện hơn, trên phương diện địa lý, văn hóa Anh thường được đồng hóa với văn hóa Luân đôn, văn hóa Pháp với văn hóa Paris, văn hóa Việt Nam với sinh hoạt ở Hà Nội.
Cách hiểu này về chữ ‘văn hóa’ quá hạn hẹp. Nó chỉ bao gồm có văn học nghệ thuật, với những tác giả nổi tiếng, với những nghệ sĩ tài cao.
Là những sinh hoạt bình nhật của con người
Ba khoa học mới, dần dà xuất hiện : nhân loại học (Anthropologie), nhân chủng học (Ethnologie) và xã hội học (Sociologie) đã dọi ánh sáng vào những khía cạnh mới của ‘văn hóa’.
Giá trị nhận thức của những sự kiện bình nhật, bình dân, thông thường, tự nhiên, vô nghĩa... đã được tỏ rõ. Bây giờ người ta ý thức rằng cách ăn uống, ngủ nghỉ của người dân quê Pháp ở thế kỷ XVII cũng dậy cho chúng ta hiểu về văn hóa Pháp không kém gì cuốn ‘Phương pháp luận’ của Descartes...
Một quan niệm mới dần dà đã được thành hình. Ngay từ thế kỷ XVII, triết gia Đức Samuel von Pufendorf (1632-1694) đã dùng chữ văn hoá để biểu thị tất cả những gì không phải là tự nhiên, tức là tất cả những gì mà con người làm ra hay học được trong xã hội, tóm lại văn hoá là nhân tạo. Nói như Đào duy Anh, thì ’Văn hoá là sinh hoạt’ (2)
Vào cuối thế kỷ XIX, nhiều nhà nghiên cứu danh tiếng đã góp công vào việc nới rộng ý nghĩa của chữ ‘văn hóa’ này : E.B. TYLOR, E. DURKHEIM, K. MARX, C. LEVI-STRAUSS, M. MAUSS, B. MALINOWSKI, M. WEBER, P. BOURDIEU, J.C. PASSERON,...
Một nghĩa thứ hai của chữ ‘văn hóa’ đã được thành hình, khai triển, nghiên cứu và chấp nhận. Nó rộng hơn nghĩa thứ nhất. Nó bao gồm tất cả những khía cạnh ‘văn’ vẻ đã góp phần giáo ‘hóa’ con người, từ cách ăn uống, may mặc, cư trú, hành nghề, ngủ nghỉ, giao thiệp, tín ngưỡng, suy tư, ăn nói, viết lách, cười tươi, khóc thảm. Văn hóa là toàn thể những phong thái, gặp gỡ, hội họp, xã hội, liên đới... Nó bao gồm tất cả những xử sự, kiến thức, biểu lộ của con người, bình dân cũng như bác học, từ báo chí, sách vở, đến thảo luận, xuất bản, thư liệu, kiến trúc, nhạc kịch, hát ca... Tất cả những gì mà con người, dưới khía cạnh là một sinh vật xã hội, biểu lộ và sản xuất ra, cũng như tất cả những gì mà nó học được từ các thế hệ trước, cũng như những gì mà nó truyền lại cho các thế hệ sau đều là văn hóa cả. Chữ ‘văn hóa’, như vậy, hàm chứa tất cả những hành động và nghiên cứu, không chỉ giới hạn vào văn học và văn nghệ, mà còn nới rộng cả vào những lãnh vực giáo dục, xã hội, tôn giáo... nữa.
Ý nghiã này của chữ văn hoá thực ra đã được văn sĩ Đức J. G. Herder (1744-1803) sáng tạo và xử dụng ngay từ thế kỷ Ánh Sáng để chỉ ’Một hình thức sinh sống của một dân tộc, một quốc gia, một tập thể’.
Nhưng người đầu tiên đã đưa ra một định nghĩa đầy đủ cho chữ văn hoá là nhà nhân chủng học người Anh, E.B. TYLOR (1832-1917) khi cho in tác phẩm ’Văn hóa sơ khai’ vào năm 1871. Theo Tylor thì văn hoá là ‘ Cái tổ hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luật lệ, phong tục và tất cả những hình thức, tập quán mà con người có được trong một xã hội’ (3).
Như vậy, hiểu theo nghĩa thứ hai này, câu hỏi thứ hai được đặt ra là : cây văn hoá Việt Nam, hiểu như là cái tổ hợp bao gồm kiến thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, luật lệ, phong tục và tất cả những tập quán và hình thức sinh sống của tập thể người người Việt Nam tại Pháp có gốc rễ từ đâu ?
2. Gốc rễ cây văn hóa Việt Nam
Cây văn hóa Việt Nam có gốc rễ sâu xa, rộng lớn và vững chắc, trải dài qua lịch sử trên bốn ngàn năm văn hiến. Sử gia Trần Trọng Kim (4) chia lịch sử Việt Nam làm năm thời đại :
- Thượng cổ (từ năm 2879 đến 111 trước Tây lịch),
- Bắc thuộc (từ năm 111 trước Tây lịch đến năm 939),
- Tự chủ (từ năm 939 đến 1528),
- Nam Bắc phân tranh (từ năm 1528 đến 1802), và
- Cận kim (từ năm 1802 đến 1945).
Dưới cái nhìn về gốc rễ văn hoá Việt Nam, ba giai đoạn quan trọng và quyết định hơn cả là :
- Giai đoạn thượng cổ lập quốc tạo ra cái bản tính Âu-Lạc ;
- Giai đoạn bắc thuộc 1000 năm lệ thuộc Tầu, chịu ảnh hưởng sâu xa cái văn minh Tam Giáo, và
- Giai đoạn cận kim, đặc biệt là từ 1862 đến 1975, chịu ảnh hưởng Âu Mỹ và Công Giáo.
Như vậy cây văn hoá Việt Nam có gốc rễ rất sâu xa : từ rễ cái Âu Lạc Bách Việt, xuyên qua rễ cả Tam Giáo và ăn sâu vào rễ cả Văn Minh Âu Mỹ Công giáo.
Rễ Âu Lạc
Thượng cổ thời đại trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 2879 đến 111 trước Tây lịch, trong đó, họ Hồng Bàng trị vì 2621 năm qua 18 đời Hùng Vương, với tên nước là Văn Lang. Từ năm 275 đến 208 trước tây lịch, thì do nhà Thục cai trị, xưng là An Dương Vương, đổi tên nước là Âu Lạc. Vào năm 208 trước tây lịch, Triệu Đà chiếm nước Âu Lạc, lập ra nước Nam Việt, và xưng Vương, gọi là Triệu Vũ Vương. Nhà Triệu cai trị nước Nam Việt được đến năm 111 trước tây lịch, thì bị vua Vũ Đế nhà Hán bên Tầu chiếm lấy và cải tên là Giao Chỉ Bộ, mở đầu cho thời đại Bắc thuộc nước Tầu.
Để trình bày 26 thế kỷ giai đoạn thượng cổ lập quốc, sử gia Trần Trọng Kim đã chỉ vắn gọn nêu ra ba sự tích : Họ Hồng Bàng, nước Văn Lang, Truyện cổ tích (5). Tuy vắn tắt, nhưng rất quan trọng trong tiến trình xây dựng văn hoá Việt Nam. Vì dẫu là thần thoại, ba sự tích này là những yếu tố căn bản cấu tạo nên bản lãnh người Việt Nam, là khởi thuỷ của lịch sử Việt Nam và là nền tảng của văn hoá Việt Nam. Tôi xin được trích lại sau đây :
Họ Hồng Bàng. Cứ theo tục truyền thì vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương nam, đến núi Ngũ Lĩnh (thuộc tỉnh Hồ Nam bây giờ) gặp một nàng tiên, lấy nhau, đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương bắc, và phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam, xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ.
Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ, phiá bắc giáp Động Đình Hồ (Hồ Nam), phiá nam giáp nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phiá tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phiá đông giáp bể Nam Hải.
Kinh Dương Vương làm vua nước Xích Quỷ vào quãng năm nhâm tuất (2879 trước Tây lịch ?) và lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ, đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua xưng là Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên làÂu Cơ, đẻ một lần được một trăm người con trai. Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng : ‘Ta là dòng dõi Long quân, nhà ngươi là dòng dõi thần tiên, ăn ở lâu với nhau không được. Nay được trăm đứa con thì nhà ngươi đem 50 đứa lên núi, còn 50 đứa ta đem xuống bể Nam Hải.’
Gốc tích truyện này có lẽ là từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỷ chia ra những nước gọi là Bách Việt.
... Nước Văn lang. Lạc Long Quân phong cho người con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương.
Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (bây giờ ở vào địa hạt huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, các quan nhỏ gọi là Bố Chính. Quyền chính trị thì cứ cha truyền con nối, gọi là phụ đạo...
Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời, đến năm quí mão (158 trước tây lịch) thì bị nhà Thục lấy mất nước.
Truyện Cổ Tích. Sử chép rằng đời Hùng Vương thứ nhất, người nước Văn Lang làm nghề chài lưới, cứ hay bị giống thuồng luồng làm hại, vua mới bắt dân lấy chàm vẽ mình để những giống ấy tưởng là đồng loại không làm hại nữa. Sử lại chép rằng thuyền của ta ở đàng mũi thường hay làm hai con mắt, cũng có ý để cho các thứ thuỷ quái ở sông ở bể không quấy nhiễu đến. Trong đời Hùng Vương lại có hai truyện mà ngày nay người ta thường hay nói đến là truyện Phù Đổng Thiên Vương và truyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh.
Phù Đổng Thiên Vương. Đời Hùng Vương thứ 6, có đám giặc gọi là giặc Ân, hùng mạnh lắm, không ai đánh nổi. Vua mới sai sứ đi rao trong nước để tìm người tài giỏi ra đánh giặc giúp nước. Bấy giờ ở làng Phù Đổng, bộ Võ Ninh (nay là huyện Võ Giàng, tỉnh Bắc Ninh), có đứa trẻ xin đi đánh giặc giúp vua. Sư giả về tâu vua, vua lấy làm lạ, cho đòi vào chầu. Đứa trẻ ấy xin đúc cho một con ngựa và cái roi bằng sắt. Khi ngựa và roi đúc xong thì đứa trẻ ấy vươn vai một cái, tự nhiên người cao lớn lên một trượng, rồi nhảy lên ngựa cầm roi đi đánh giặc.
Phá được giặc Ân rồi, người ấy đi đến núi Sóc Sơn thì biến mất. Vua nhớ ơn, truyền lập đền thờ ở làng Phù Đổng, về sau phong là Phù Đổng Thiên Vương...
Hiện bây giờ có đền thờ ở làng Gióng, tức là làng Phù Đổng. Năm nào đến mồng 8 tháng tư cũng có hội vui lắm, tục gọi là đức Thánh Gióng.
Qua ba sự tích trên, rõ rệt là văn hoá Việt Nam có một cái rễ cái rất sâu xa : rễ Âu Lạc. Dưới khía cạnh tổ tiên, rễ cái Âu Lạc mang lại ba mạch sống cho cây văn hóa Việt Nam.
Đó là mạch huynh đệ, tương thân tương trợ, khiến tất cả mọi người Việt Nam đều nhìn biết nhau là đồng hương, đồng bào.
Mạch ‘Đức giả lạc sơn’ : người đức độ thì ưa thích (và vững chắc như) núi, noi theo tính chung thủy, đức độ của mẹ chung là Âu Cơ, dòng dõi thần tiên, đã dẫn 50 con lên núi, khiến sự tiếp đãi, giao thiệp luôn được trên kính dưới nhường.
Mạch ‘Trí giả lạc thủy’ : người mưu lược thì ưa thích (và biến báo như) nước, thừa hưởng được tính thông minh, biến báo của cha chung là Lạc Long Quân, dòng dõi rồng, đã đưa 50 con xuống biển Nam Hải, khiến sự tiếp xúc được hòa thuận với từng người và hòa hợp với môi trường chung quanh.
Rễ Âu Lạc, dưới khía canh quốc gia Bách Việt, còn chuyên chở ba chất không thể thiếu để thiết lập và nuôi dưỡng một nền văn hóa Việt Nam.
Chất "Việt tính" tạo ra tính chất độc đáo của mỗi người Việt Nam và của quốc gia Việt Nam, mà đặc biệt là tính tự lực tự cường, như cổ tích Phù Đổng Thiên Vương đã nêu rõ.
Chất "Việt ngữ’, biểu diễn, gói ghém và chuyên chở những thói tục, những văn minh, những tổ chức, những kinh nghiệm từ người này cho người kia, từ nơi này sang nơi nọ, từ thời này sang thời kia. Ngôn ngữ ấy chuyên chở bốn ngàn năm văn hiến Bách Việt. Nó ghi nhận, bảo tồn và chuyển trao cho các thế hệ mai sau cái văn hóa Việt Nam chẳng những bằng lời nói mà cả bằng những ký hiệu chữ viết nữa, chẳng những trong các áng văn bình dân mà cả trong văn chương bác học nữa. Ba loại chữ viết đã xuất hiện để chuyên chở cái văn hóa Bách Việt này : chữ hán, chữ nôm và chữ quốc ngữ. Ngôn ngữ dính liền với văn tự. Văn tự và ngôn ngữ dính liền với văn hóa. Không thể có văn hóa riêng biệt nếu không có văn tự và ngôn ngữ riêng biệt.
Chất ‘Việt lý’ bao gồm những cách quản lý, cách cai trị, cách tổ chức đã vậy mà còn chứa đựng những hành động, những định chế và những tổ chức. Việt lý là cách suy lý để hành động, hành động để bảo trì, phát triển và truyền thụ cái văn hóa Bách Việt cho các thế hệ con em mai sau. Suy lý và hành động làm sao để duy trì tiếng Việt và làm cho nó trong sáng, làm sao để tình Việt không bị lơ là, lu mờ, mà càng ngày càng thân thiết, đặm đà ; làm sao để tộc việt được bảo tồn.
Rễ tam giáo
Năm 111 trước tây lịch, vua Vũ Đế nhà Hán bên Tầu chiếm lấy nước Nam Việt và cải tên là Giao Chỉ Bộ. Nước ta bị nước Tầu đô hộ bắc thuộc lần thứ nhất, kéo dài 71 năm, bởi nhà Tây Hán. Năm 40 sau tây lịch, hai bà Trưng Trắc và Trưng Nhị khởi binh, thắng Tô Định, xưng làm vua được ba năm.
Từ năm 43 Mã Viện thắng Trưng Vương, nước ta bị bắc thuộc lần thứ hai, kéo dài trên 500 năm, bởi nhà Đông Hán, qua các đời Tam Quốc, nhà Tấn, Nam Bắc Triều. Năm 544, Lý Bôn nổi lên, đánh đuổi Tiêu Tư về Tàu, rồi xưng đế, gọi là Lý Nam Đế, lập nên nhà Tiền Lý (544- 602).
Năm nhâm tuất (602), vua Văn Đế nhà Tùy bên Tầu sai tướng Lưu Phương đem 27 doanh quân sang đánh Nam Việt. Hậu Lý Nam Đế là Lý Phật Tử sợ thế không địch nổi, bèn xin về hàng. Nước ta bị bắc thuộc lần thứ ba, kéo dài 336 năm, bởi nhà Tùy, qua nhà Đường và đời Ngũ Quí.
Năm kỷ hợi, 939, sau khi đã giết Kiều Công Tiện, rồi thắng Hoằng Tháo ở sông Bạch Đằng, Ngô Quyền đã chấm dứt được ách bắc thuộc, lập nên nhà Ngô, mở đường cho Đinh, Lê, Lý, Trần,… được tự chủ.
Từ năm 111 trước tây lịch, khi vua Vũ Đế nhà Hán chiếm lấy nước Nam Việt cho đến năm 939, khi Ngô Quyền đánh đuổi người Tầu về bắc, đếm ra vừa đúng 1050 năm.
Trong 1050 năm bị bắc thuộc, người Việt Nam ta đã nhiễm cái văn minh của Tầu rất mạnh, đặc biệt là về sự học vấn và về cách cai trị. Những học phái lớn, như Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo, đã từ Tầu mà ảnh hưởng vào đời sống của người Việt Nam một cách sâu rộng. Ảnh hưởng này chỉ hiện rõ nét từ thời tự chủ (939-1528), tiếp tục qua thời Nam Bắc phân tranh (từ năm 1528 đến 1802) và thời Cận kim (từ năm 1802 đến 1945). Phật học độc tôn thời Đinh, Lê, Lý, Trần. Tam giáo cực thịnh từ Lý, Trần. Nho học độc tôn từ Trần, Lê, Trịnh, Nguyễn.
Ngày nay, tam giáo gắn liền với người Việt Nam và văn hoá Việt Nam.