|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 10:13:51 GMT 9
Lược Khảo Những Dị Biệt Của Hai Nền Văn Hóa Việt-Mỹ Apr/13/06
Bài I Bài II Bài III Bài IV
*Bút Xuân TRẦN ĐÌNH NGỌC
Bài I
Để tìm hiểu cặn kẽ và thấu đáo những nét đặc thù của hai nền văn hóa, thí dụ văn hóa Hoa kỳ mà một số đông người Việt đang tiếp cận và sinh sống trong đó và nền văn hóa lâu đời của nước Việt Nam ta, có lẽ phải cần đến một quyển sách và tất nhiên phải có nhiều tư liệu để tham khảo.
Bài này người viết không có tham vọng đó mà chỉ đưa ra một ít đặc trưng trái nghịch ở đời thường của hai nền văn hóa. Tất nhiên sẽ có những thiếu sót hoặc thiên kiến, kính mong quí độc giả bổ túc để bài viết có thể hòan bị hơn.
LỜI CHA MẸ KHUYÊN CON
Chúng ta hãy nghe lại một bài Ca dao mà thuở bé hầu như ai cũng thuộc lòng:
Con ơi, muốn nên thân người
Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha
Gái thì giữ việc trong nhà
Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Mai sau nối được nghiệp nhà
Trước là đẹp mặt sau là ấm thân!
Hai câu nhập đề của bài khuyên con cái phải nghe lời cha mẹ thì mới tròn được nghĩa vụ làm người. Hai câu kế nói về bổn phận người con gái là việc nội trợ: giữ việc trong nhà. Việc nội trợ ấy có hai điều quan thiết: dệt cửi tức dệt vải, dệt tơ lụa đem bán, sung vào quĩ gia đình. Thứ hai là phải biết thêu thùa may vá để mai sau đi lấy chồng may áo quần cho chồng, cho con, cho mình. Người con gái không làm được những điều đó là người quá vụng về hoặc không được cha mẹ chỉ bảo lúc còn ở nhà với cha mẹ.
Phụ nữ khi xưa cần phải có đủ tứ đức: Công, Ngôn, Dung, Hạnh. Trong bài Ca dao trên, các bậc cha mẹ chỉ chú ý đến Công, tức là “Khi vào canh cửi, khi ra thêu thùa” đủ biết các cụ cũng thực tế, muốn con gái phải góp phần vào việc mưu sinh của chồng chứ không phải trút hết gánh nặng kiếm tiền lên vai người chồng vì kinh tế chỉ huy hết thảy, kinh tế khá mới nói đến chuyện cho con ăn học trở thành người có học, có đầu óc suy xét. Trái lại kinh tế kém cỏi, làm không đủ sống, tất cả các thứ khác đều phải gác lại. Chữ Công ở người con gái Việt rất quan trọng.
Người con gái được khuyên trước nhất như thế, làm đầy đủ là làm cha mẹ vui lòng dù các cụ luôn luôn quan niệm “Nữ nhi ngọai tộc”:
Con gái là con người ta
Con dâu mới thực mẹ cha mua về.
Đến người con trai, đứa con nối dõi tông đường, đứa con nhang khói cho mình sau này và là đứa con có thể làm mở mày mở măt tông môn mang lại sự hãnh diện cho gia đình nên các cụ phải cẩn thận hơn rất nhiều:
Trai thì đọc sách ngâm thơ
Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa
Hầu như người con trai nào khi xưa trong những gia đình khá giả cũng được khuyên ngâm thơ đọc sách, dùi mài kinh sử vì nước ta theo cái học của người Trung hoa chỉ trọng cử nghiệp, trọng từ chương, kinh điển, không chú ý hoặc coi thường kỹ thuật tức là những công việc chân tay. Xã hội xếp theo:”Sĩ, Nông, Công, Thương”. Người con trai không thể tiến thân được nếu không được học được hành hoặc có học nhưng thi cử lận đận. Con đường duy nhất để được “đẹp mặt và ấm thân” là con đường làm quan, xênh xang áo mũ vua ban về làng vinh qui bái tổ. Đã biết bao nhiêu người có thực tài như Cao bá Quát, Trần tế Xương...nhưng vì lí do nào đó như tính phóng khóang không ưa những qui luật vô lí của trường thi mà suốt đời bị ngọai hàm.
Con đường họan lộ lúc đó là đường độc đạo. Phải lầu lầu tứ thư, ngũ kinh, có những chữ Nho cả mấy chục nét phải cố mà nhớ, mà nhồi nhét vào đầu. Phải tập làm văn, thi, phú áp dụng những gì đã học là tư tưởng của thánh hiền về đạo làm người, đạo làm bày tôi, về đẳng cấp “quân, sư, phụ” phải tôn kính vua, thầy và cha hết lòng.
Bộ Tứ thư, Ngũ kinh ấy rất dầy, rất dài, phải thuộc làu làu với sự giảng dạy cho được thông hiểu của thầy đồ. Lại còn những điển cố, ngọai truyện cũng phải nằm lòng để thi thố trong trường văn, trận bút. Học ngày không đủ tranh thủ học đêm, học đêm miết đâm ra thiếu ngủ, sách mở ra đấy mà mắt cứ díu lại vì cơ thể đòi phải đền bù cho nó, nó đã không thể nào chịu đựng thêm nữa. Trong trường hợp này, “kim bảng đề danh” mạnh hơn cơn buồn ngủ thế là thầy khóa lấy cái dùi trong tráp, đã mài thật nhọn, cứ thế đâm mãi vào đùi cho đến khi bật máu, đau quá, tỉnh ngủ, miệng lại ê a tiếp những chữ chi, hồ, giả, dã cho đến khi hết sức lực đành gục đầu xuống tráp ngủ không còn biết trời đâu đất đâu nữa.
Nếu đã lấy vợ, người vợ thầy khóa cũng là một thôi thúc quyết liệt bên cạnh thầy, một bảo vệ viên luôn luôn canh chừng sự học hành của chồng:
Canh tư bước sang canh năm Trình anh dậy học chớ nằm làm chi Nữa mai chúa mở khoa thi Bảng vàng chói lọi kìa đề tên anh
Bảng vàng. Bảng vàng. Cái tên có ma lực hấp dẫn thầy khóa như thỏi nam châm, bắt thầy phải thức khuya dậy sớm, không một lúc nào chểnh mảng để tên được nêu trên bảng vàng. Bảng vàng là tất cả hi vọng của thầy vì đậu thi Hương là tương lai đã mở ra trước mắt, có đủ thứ mơ ước: làm quan, nhà cửa rung rinh, vợ đẹp con khôn, quân hầu đầy tớ. Trái lại, không có tên trên bảng vàng ấy là mọi thứ tiêu tan, thân bại danh liệt.
Bảng vàng quan trọng như thế nên để khuyến khích chồng - hay chồng chưa cưới - nàng lại còn ra một điều kiện quá khe khắt:
Anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng! Thật hết nói!
Cái học của các cụ ta ngày xưa đại khái là vậy. Người Trung Hoa hàng ngàn năm không tiến được vì họ chủ trương cái học cử nghiệp. Văn hóa Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu đậm Văn hóa Trung hoa, cả ngàn năm chúng ta cũng cái học từ chương, cử nghiệp như thế.
CHA MẸ ÂU – MỸ KHUYÊN CON
Người con gái trong gia đình người Hoa Kỳ, ngay những gia đình làm nông nghiệp, cũng không được căn dặn kỹ càng như thế. Khi đến tuổi trưởng thành, mười tám tuổi, người con gái có thể tự lập, tự kiếm lấy một nghề để nuôi thân và có thể rời bỏ gia đình đi sống một mình hoặc với bạn. Không có cái kim chỉ nam nào như:”Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” gắn vào chiếc xe của họ. Được phép thi lấy bằng lái xe từ khi đủ 16 tuổi, người con gái Mỹ có quyền làm chủ một chiếc xe và muốn lái nó đi đâu tùy ý miễn không phạm luật đi đường. Người con gái Mỹ xông xáo ngòai xã hội chứ không “kín cổng cao tường” như những tiểu thư khuê các con nhà giầu Hoa và Việt thời xưa. Từ chỗ xông xáo và dày dạn, họ thích ứng với mọi lọai công việc gần như một người con trai: họ có thể đứng bán xăng, bán các thứ hàng hóa, giầy dép, lái xe bus, xe trường học, phát thư và có một số ít làm cả nghề tiện nguội, thợ mộc cất nhà là những công việc hầu hết dành cho đàn ông. Còn những nghề như điện thọai viên, thư kí văn phòng, thâu ngân viên ngân hàng, giáo viên, cán sự xã hội, y tá ...là những công việc xưa nay phụ nữ Mỹ chiếm đa số.
Ở một xứ đại kỹ nghệ như nước Mỹ, người con gái không năng nổ như vừa nói không thể sống được. Nếu cha mẹ Việt khuyên con phải canh cửi để giúp chồng sau này thì ở xứ Mỹ, người con gái tự biết phải tạo cho mình một nghề vững chắc để cùng với chồng xây dựng mái ấm gia đình.Từ nhiều năm nay, những đôi trai gái trước khi thành hôn đều đã “coi chân coi cẳng” xem đối tượng có khả năng kiếm tiền không. Đó là điều kiện cần và nó sẽ đủ nếu những phương diện khác như ngọai hình, tính tình, sở thích, học lực tương đối được thỏa mãn. Khả năng kiếm tiền cũng bảo đảm cho cô một cuộc đời tự lập không cần dựa vào người chồng. Thí dụ chồng chết hay li dị, cô vẫn có thể tự nuôi thân và nuôi con bằng công việc làm. Giá trị kinh tế của người phụ nữ lên rất cao. Trái lại, người phụ nữ Việt khi xưa hòan tòan trông vào chồng tuy có một số rất ít biết buôn bán có thể tự lập. Khi đã đánh mất sự tự lập, giá trị người phụ nữ bị giảm xuống nhất là khi chồng mệnh chung hoặc vì lí do gì đó không bao bọc được cho vợ con.
Người phụ nữ Mỹ vẫn được dạy:”xuất giá tòng phu” nhưng không thể bắt cô ta “phu tử tòng tử” nghĩa là chồng chết thì theo con. Có người chồng chết chưa được sáu tháng đã đi lấy chồng khác. Xã hội coi là chuyện bình thường, không lên án họ, khác với Việt Nam, ít nhất cũng phải “ba năm hăm bảy tháng, chàng ôi!” mới không bị miệng đời chê bai, dị nghị.
Người con trai trong xã hội Mỹ không nhất thiết phải trở thành một nhà cai trị, một ông quan hành chánh thi ân bố đức cho dân như ông quan Việt.
Anh ta có tự do học một nghề như thợ điện, thơ điện tử, thợ sửa máy xe hơi, thợ mộc, thợ tiện.... Khi học cao lên, anh ta trở thành kỹ sư, chuyên viên cao cấp và được hưởng bậc lương tùy theo khả năng và văn bằng.
Có nhiều cha mẹ là Việt kiều tại Mỹ đã ép con cái phải học các ngành Y, Nha, Dược hoặc ít nhất kỹ sư vì họ quan niệm các ngành này nhàn hạ mà hái ra tiền lại danh giá, ông bác sĩ, bà nha sĩ v.v...Có nhiều người con cố gắng làm vui lòng cha mẹ mặc dù không thích ngành học là mấy. Lại cũng có nhiều cô cậu dù hết sức cố gắng nhưng không qua được các kì thi đành tháo lui quay học nghề khác.
Về điểm này, người viết có ý kiến là nên để cho người sinh viện tự chọn mà cha mẹ chỉ cố vấn nếu có đôi chút hiểu biết về vấn đề. Không nên ép những gì đi ra ngòai khả năng của con vì người con sẽ lúng túng, kết quả không ra gì. Ở Hoa kỳ, trong Cộng đồng người Việt, có một số sinh viên phải đổi môn học giữa khóa vì không kham nổi môn học cha mẹ gần như ép buộc phải học, nhất là ngành Y khoa.
NỤ CƯỜI TRONG MỖI NỀN VĂN HÓA
Văn hào Nguyễn văn Vĩnh viết về cái cười đại khái như sau:” An-nam mình cái gì cũng cười. Hay cũng cười, dở cũng cười, tốt cũng cười mà xấu cũng cười. Một việc đang nghiêm trang tự nhiên có vài tiếng cười thế là mất hết cả lễ nghi, chẳng ra làm sao cả.”
Người Hoa kỳ lại nghĩ khác. “Một nụ cười bằng mười viên thuốc bổ”, trên T.V., truyền thanh, báo chí người ta đều khuyến khích phải cười nhiều và nói rõ những ích lợi của cái cười như làm bớt căng thẩng thần kinh, làm hạ máu, làm vui tươi yêu đời hơn và nhất là hòa hợp được với người xung quanh (get along) hơn. Đành rằng không ai ưa tiếng cười khi đang có một buổi lễ nghi tôn giáo hay những giây phút cần phải giữ sự nghiêm trang đứng đắn nhưng những lúc có thể, ta không nên hẹp gì mà không hòa vui với mọi người bằng những tiếng cười hồn nhiên, sảng khóai. Người Âu-Mỹ cho rằng người luôn luôn có nụ cười nở trên môi là người cởi mở (open- minded), dễ chịu và dễ dàng hòa hợp với mọi người. Ở Mỹ, khi bạn đi để được chủ nhân phỏng vấn (interview) khi xin việc, nếu bạn có một bộ mặt khó đăm đăm hoặc quá nghiêm trang, bạn khó lấy cảm tình của người phỏng vấn bạn. Nhưng nếu bạn tỏ ra bặt thiệp, lanh lẹn, trả lời những câu hỏi với ánh mắt nhìn thẳng vào người đối diện, kèm thêm những nụ cười tươi vui, ý nhị, nhẹ nhàng thì kết quả cuộc phỏng vấn sẽ có nhiều điểm lợi cho bạn. Người Hoa kỳ trọng bằng cấp, kiến thức và kinh nghiệm của các ứng viên nhưng đồng thời cũng cần tuyển được những người có những đức tính như hay giúp đỡ (helpful) hòa hợp (get along) và thân ái (friendly) với mọi người. Dù công ti của họ lớn hay nhỏ, họ rất sợ mướn phải những người mặt mày cau có, khó đăm đăm và hay gây gổ nơi làm việc dù những người này có lẽ phải.
Trở lại xã hội Việt Nam, các bà mẹ thường bảo con gái:
Vô duyên chưa nói đã cười
Có duyên gọi chín mười lời không thưa.
Có lẽ đây là những chuẩn mực từ ngàn xưa chứ thời nay, gọi đến vài lần không thưa cũng là hỏng rồi. Con gái Mỹ hầu như gần 100% chưa nói đã cười, có duyên lẫn không duyên. Cái duyên của họ là nói líu lo, nói cả ngày kể cả nói leo. Họ không thể tưởng tượng một người con gái ít điều ít lời đến nỗi “hỏi không nói, gọi không thưa”. Người như thế có khi họ liệt vào lọai “mental health” tức bệnh tâm thần. Người Việt không ưa chứng nói leo, thí dụ hai người lớn đang nói chuyện, cô con gái “đế” vào một câu ở giữa, thế là bị quở cho là nói leo. Người Mỹ không buồn phiền gì về chuyện nói leo, coi nó là tự nhiên. Nếu cô này xen vào nhiều quá, hai người lớn không muốn cho cô nghe thì chỉ bảo:”Leave us alone” Con ra ngòai chơi một chút đi. Và cô bé bỏ đi.
Người con gái Mỹ cũng không e thẹn như gái Việt Nam. Thí dụ bà A đến thăm bà B, muốn thăm dò và coi mắt cô G con bà B cho con trai bà là cậu D. Bà B và cô con gái đóan biết được ý định của bà A nên đã chuẩn bị mọi chuyện sẵn sàng. Khi hai bà đang nói chuyện ở phòng khách, người làm đã đưa trầu nước ra mời. Khi bà B muốn cho con gái ra chào bà A và để bà A nhận định về nhan sắc, dáng dấp, lời ăn tiếng nói của cô G luôn thể, bà gọi con gái. Nếu cô G ra ngay, ấy là không có điểm với bà A. Bà A sẽ nghĩ rằng, con này nó ngổ ngáo quá, không thể cho con mình lấy nó được. Mới gọi một cái đã ra rồi. Nếu cô G cứ “dạ” nhỏ ở trong phòng nhưng không ra ngay mà chờ cho mẹ gọi đến lần thứ ba, thứ tư, thứ năm đến nỗi bà phải xin lỗi bà A đứng lên lại cửa buồng con gái:”Con ra mẹ nhờ con một chút, đi con!” thì cô mới soi gương lại và ra ngòai với vẻ mặt đầy e thẹn, ngượng ngùng. Trên nguyên tắc, bà A sẽ dễ dàng chấp nhận cô.
Người con gái Việt khi nói không được hoa tay múa chân. Ngày xưa, khi nói với người trên, cô còn phải khoanh tay, cúi đầu, một điều thưa, hai điều bẩm, người trên nói chỉ:”dạ, dạ.” với “vâng, vâng”.
Cô con gái Mỹ có thể dùng tay để phụ họa thêm cho lời nói, ngay cả ở những cuộc họp hay thuyết trình.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 10:16:19 GMT 9
Khi ăn, vì có đụng đến mấy thứ như kem chua (sour cream) hoặc một lọai tương tự, cô gái Mỹ có thể mút ngón tay chỗ kem chua dính vào mà không ai dị nghị. Nhưng với người Việt trong nước, các cô gái đã khiếm nhã khi mút tay như thế.
Cô gái Mỹ lúc ăn cũng ăn thực tình. Cô dùng tay để ăn món gà chiên, chim chiên hay cua, tôm hùm... Dù bà mẹ chồng tương lai và chồng tương lai của cô có ngồi cùng bàn thì cô vẫn ăn thỏai mái, ăn cho đến khi no, rất ít khi nghe câu:”Xin đừng làm khách nhé” (Make yourself at home!).
Cô gái Việt khác hòan tòan. Khi có người lạ, nhất là chồng chưa cưới và bà mẹ chồng, cô mất hết tự nhiên. Cô không dám dùng tay ăn mấy món không thể ăn bằng đũa dù đã được đề nghị. Cô cũng ăn nhỏ nhẻ như con mèo, xong bữa có thể vẫn chưa no. Cô lo gắp tiếp người này, tiếp người kia, làm thêm nước chấm và chỉ chờ có dịp là đứng lên lấy thêm thức ăn, thức uống. Người con dâu Việt khi xưa về nhà chồng luôn luôn phải ngồi “đầu nồi”, tức cạnh nồi cơm. Cô phải xới cơm cho mọi người vì vừa mới và vào miệng được một miếng cơm thì một cái bát giơ ra trước mặt, cô phải bỏ bát cơm của mình xuống đỡ lấy cái bát kia, xới cơm vào và trao lại bằng hai tay, chứ không phải một. Với bố mẹ chồng, cô không chờ đến lúc họ trao mà vừa ăn, cô vừa phải liếc mắt xem bát cơm của họ sắp hết chưa. Miếng cơm chót họ vừa và xong là cô phải giơ hai tay ra trước để xin cái bát không đặng xới. Xới cũng không được xới đầy, bị la là cho trâu ăn hay sao mà xới đầy thế. Chỉ nửa bát là cùng, nhất là người Hànội khi xưa, có khi ít hơn nửa bát. Xới ít thì ăn mau hết, nhiều người như thế, bữa cơm của cô là một cực hình; hơn nữa, đứng lên, còn đói nguyên, nhưng không lẽ cả nhà đã đứng lên hết, còn mình cô, cô cứ ngồi lẽo đẽo ăn sao? Làm dâu khi xưa thật khổ trăm đường nhất là phải những bà mẹ chồng cay nghiệt.
Người Âu-Mỹ ăn xong không có thói quen xỉa tăm. Không bao giờ họ đưa tăm mời khách, ngay tiệm ăn cũng không có tăm ngọai trừ vài tiệm ăn Tàu ở Mỹ. Người Mỹ cũng xỉa tăm nhưng họ cho rằng hình ảnh người xỉa tăm coi không đẹp mắt nên họ vào phòng vệ sinh làm một mình với tăm hoặc với sợi dây (floss), ngay cả chồng hoặc vợ họ cũng không nhìn thấy lúc họ làm công việc này.
Người Việt mình lại khác. Cỗ bàn đình đám gì cũng phải có ống đựng tăm. Ăn xong, tăm nước bưng lên và vừa uống nước vừa xỉa răng khắp mặt cả đàn ông đàn bà, con trai con gái đến nỗi có ông xỉa mạnh quá làm đồ ăn bắn cả sang người khác. Có ông lại vừa xỉa vừa nhổ phì phì ra xung quanh bất biết là chỗ nào.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 10:17:52 GMT 9
BÀI II
Về cái sự khạc nhổ có lẽ không dân tộc nào qua mặt được người Hoa và người Việt.
Hồi xưa, mỗi lần Bút Xuân đi ăn tiệc cưới ở Chợ lớn là một lần chứng kiến các “chú Ba” khạc nhổ luôn miệng trong mọi lúc, ở mọi nơi. Khi không phải đường xá, sân nền để có thể nhổ bừa thì dùng ống phóng, cũng còn gọi là ống nhổ, để góc phòng, nhưng người bàng quan nghe tiếng khạc nhổ, nhất là lúc đang ăn uống, rất lợm giọng. Hồi xưa, ở mỗi nhà Việt Nam, thành thị cũng như thôn quê, đều có một cái ống nhổ để nhổ cốt trầu, đi một bộ với cái âu trầu bằng đồng. Khi cốt trầu đã lưng lưng, người nhà đem đi đổ và rửa ráy xong lại để vào chỗ cũ. Nhà có đình đám, cỗ bàn, ngòai bát đĩa nồi xoong, phải mướn cả những cái ống nhổ này để phục vụ khách vì khách ngồi tại chỗ ăn uống cho đến lúc về.
Người Hoa khạc nhổ nhiều quá đến nỗi nhà cầm quyền thành phố Beijing vài năm nay phải ra lệnh cấm khạc nhổ, bắt được bị phạt vì Bắc kinh đang chuẩn bị Thế Vận hội 2008.
Về món ăn, phải công nhận cơm Tầu rất ngon như người Việt thường ca tụng:
Ăn cơm Tầu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật
và ngày nay chúng ta có thể thêm: tiêu tiền Mỹ. Những món mì vịt tiềm, bào ngư nấm đông cô, vịt quay Bắc kinh v.v... nếu không có những tiếng khạc nhổ đâu đó xung quanh và hơi nhiều dầu mỡ sẽ là những món ăn ngon nhất thế giới.
Tâm lí của thực khách ảnh hưởng rất nhiều trên món ăn. Vì vậy, có nhiều sản phẩm đóng chai như nước giải khát, nước tương, sì dầu v.v... được quảng cáo ngòai nhãn rằng nước dùng cho sản phẩm lấy từ suối này, suối kia rất tinh khiết, rất vệ sinh để bảo đảm phẩm chất của sản phẩm, gây được sự tin tưởng của người tiêu thụ và vì thế họ sẽ mua nhiều hơn, dùng nhiếu hơn, sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận cho công ti sản xuất ra nó. Ở Hoa kỳ, khi đã quảng cáo như thế, công ti sản xuất phải thực hiện đúng như thế. Nếu chỉ nói cho ngon để bán sản phẩm, có thể sẽ bị người tiêu thụ kiện ra tòa về tội gian dối sẽ bị phạt nặng. Tôi nhớ cách đây ít năm, một siêu thị Mỹ bị phạt 10 triệu đô-la vì đã không lọai những vỉ thịt bò xay đã bắt đầu hư ra khỏi tủ thịt bò bán cho khách. Tất cả gom về một nguyên tắc: bảo đảm phẩm chất sản phẩm tức cũng bảo vệ sức khỏe người tiêu thụ dù tiền lời kém đi.
Đã một thời gian người ta đồn rằng các nhà chăn nuôi ở Hoa kỳ và mấy nước Âu châu dùng phân gà cho trâu bò ăn cho đỡ tốn thay vì cho bò ăn bắp, ngũ cốc, cỏ... giá thành thịt bò sẽ tăng lên nhiều. Có những trại nuôi gà ở Mỹ có cả mấy triệu con, mỗi ngày phân do chúng thải ra phải là một số lượng lớn. Đem số phân này nuôi bò, nhất cử lưỡng tiện vậy.
Tuy nhiên, từ khi có bệnh bò điên, nhiều báo chí cho rằng vì cho bò ăn phân gà nên bò mắc chứng bệnh đó. Khi có một con bò điên bị phát giác, Chính phủ Hoa kỳ phải cấm xuất cảng bò sang các nước thường mua thịt bò của Mỹ, như Nhật chẳng hạn. Nhật là nước nhập cảng thịt bò Mỹ nhiều nhất. Bò bị cấm xuất cảng là các nhà chăn nuôi lỗ to, lợi bất cập hại là vậy. Thế là từ đó Chính phủ ra lệnh cấm, phân gà không được phép dùng làm thực phẩm cho bò nữa. Và hiện nay, Chính phủ Nhật lại cho phép nhập cảng thịt bò Mỹ vào Nhật vì thịt bò Mỹ đã an tòan, đã nuôi bằng cỏ và ngũ cốc.
Hoa kỳ cũng nhập cảng cá từ nhiều nước vì kĩ nghệ nuôi cá Hoa kỳ không đủ cung cấp. Nhưng mới đây người ta khám phá ra trong những lọai cá nhập cảng, phẩm chất không được bảo đảm vì cá có nhiều chất kháng sinh, quá tiêu chuẩn cho phép. Các nhà khoa học giải thích rằng trong đồ ăn nuôi cá có chất kháng sinh, người tiêu thụ ăn vào, khi bị bệnh phải dùng thuốc kháng sinh thì không có hiệu quả nữa vì đã bị ăn nhiều từ cá.
Rồi lại có tin cá ăn phân gà cho đỡ tốn, nhất là những lọai cá da trơn ăn tạp bất cứ thứ gì người cho chúng ăn. Như trước đây, người ta thường làm nhà cầu trên ao cá tra. Khuất mắt trông coi thì mua ăn nhưng nhiều người Việt không thích ăn những lọai cá nuôi kiểu này. Lại nghe nói, có những khúc sông bị chặn để nuôi cá lọai này. Nếu thế nước sông ô nhiễm sao có thể dùng để ăn uống, tắm giặt mà dùng bừa vì không có nguồn nước khác tất sinh nhiều thứ bệnh đường ruột, bao tử rất đáng lo ngại. Những nước lo lắng đến sức khỏe của dân chúng không bao giờ cho phép doanh thương kiểu này.
Khi đã có lời đồn đãi, niềm tin của người tiêu thụ kém dần, người nọ bảo người kia, sản phẩm không được chiếu cố như trước nữa. Với một số công ti sản xuất, họ phải xét lại và điều nghiên, tìm ra những nguyên do khiến người tiêu thụ mất niềm tin, từ đó họ chấn chỉnh và có thể sau một thời gian, sản phẩm của họ lại được hoan nghênh trở lại với số lượng tiêu thụ tăng vọt. Đó chính là những cách tranh thương khôn ngoan, lương thiện và ăn về lâu về dài.
Có nhiều cửa tiệm ở Hoa kỳ để cái bảng:” Customers are Kings and Queens” Khách hàng là vua vaà hòang hậu. Khách hàng sẽ được chiều từ A tới Z vì khách đem lại lợi nhuận cho cửa hàng. Cửa hàng phải gây được sự tín nhiệm nơi khách mới sống còn được. Trái lại, nếu không lương thiện, khách chỉ bị lừa một lần, sau đó bỏ đi nơi khác, ngon hơn, rẻ hơn, tín nhiệm hơn, phẩm chất tốt hơn.
Trở lại với hủ tục khạc nhổ, ở Sàigòn lái xe gắn máy hay đi xe đạp, nhiều người vẫn nhận được một đống đờm rãi hay nước miếng theo chiều gió hất vào mặt, vào quần áo từ những người lái xe đồng hành đi trước mình một chút hoặc từ những xe cao hơn như xe hơi, xe bus Đó cũng từ thói quen khạc nhổ và không tôn trọng người khác đang sử dụng con đường như mình. Bài học công dân giáo dục này phải được dạy từ lớp nào và những thầy cô nào có nhiệm vụ phải dạy dỗ?
Cỗ bàn khi xưa ở Bắc Việt còn có thói quen, khi một hay vài ba vị chức sắc cao cấp nhất trong bữa tiệc đả ngồi yên vị đâu đó ở chiếu nhất, gia chủ phải cho người nhà bưng đến mỗi cụ một cái thau đồng đã đánh cát sáng lóang, trong có nửa chậu nước để các cụ rửa tay trước khi ăn (cho hợp vệ sinh). Thường các cụ chỉ nhúng hai tay vào nước xong vẩy vẩy cho nước xuống thau, với lấy cái khăn mặt mới vắt trên tay anh bưng nước, lau tay rồi trả nó về chỗ cũ. Anh này bưng thau nước đi và cỗ bàn mới bắt đầu.
Lúc cỗ bàn xong, xỉa tăm uống nước rồi, trước khi các cụ đứng lên, lại một thau nước như vậy nữa. Lần này các cụ cúi vào chậu rửa mồm cho bớt mỡ, có cụ lại súc miệng nhổ vào chậu, xong mới lấy cái khăn mặt sạch sẽ khác lau đi lau lại mồm miệng. Và sau đó là nhai trầu, hút thuốc, uống nước, có khi vẫn còn xỉa răng nậy răng cho đến lúc đứng lên ra về mà cái tăm có khi vẫn còn ngậm trong miệng.
Ô, mũ của các cụ lúc đến được trang trọng cất vào một chỗ cao, trẻ con không với tới được thì bây giờ gia chủ lại phải hớt hải mang ra, trao cho anh hầu cận để anh này giương ô lên che cho cụ. Cũng cần nói thêm, những anh hầu cận này, thí dụ cho vị chánh tổng, quan Hàn, quan Huyện thì gia chủ cũng phải sắp cỗ đãi các anh này. Phải cho ngồi với những chức sắc kha khá anh ta mới ngồi, không phải nhét vào mâm nào anh ta cũng “vô tư” ngồi xuống đâu.
Ông bà mình ngày xưa đa số nghèo, người giầu dư ăn dư để rất ít. Nhưng cỗ bàn bày ra đủ thứ, một mâm cỗ to, nhỏ gì chỉ 4 người. Bốn một, tám hai là vậy. Có lẻ một hoặc hai người cũng phải một mâm khác chứ không thể nhét 5 người. Năm người là có chuyện ngay bởi vì thức ăn bị chia bớt đi. Cũng có những địa phương, thợ cỗ đã định sẵn. Thí dụ: chả xương 8 miếng, mỗi người hai. Bát ninh, cái giò heo chặt đúng 4 miếng, không hơn không kém. Quả nem phân ra làm 4 đều đặn. Giò cắt thành 4; lòng 4 miếng dồi, 4 miếng gan, 4 miếng dạ dày v.v... Còn các thứ không chia được thì liệu mà ăn. Chớ có ăn quá lạm sang phần người khác mà rượu vào lời khiếm nhã tuôn ra điếc tai.
Lại cũng có nơi những người dự cỗ chỉ ăn những món có nước như canh hay rau xào. Còn các món khô như giò chả, xôi - ngọai trừ cơm - đều chia đều gói vào khăn tay để mang về. Vợ con ở nhà sẽ được hưởng cái phần “thánh ban” đó.
Ở Việt Nam khi xưa, nhất là miền Bắc, nhiều khi thóc cao gạo kém, có nhà kiếm không được bữa ăn nhưng khỏang 9, 10 giờ sáng, ông chủ nhà này đã thấy đứng phất phơ ngòai ngõ, gần căn nhà của mình, miệng ngậm cái tăm, ra vẻ như nhà ta đã ăn cơm rồi (chứ không phải không có gạo đâu).
Cái thói ưa khoa trương ấy còn sót lại đến ngày nay ở một số người, tuy không khoe tăm nhưng khoe con, khoe của. Ở một cuộc họp bạn lớn nhỏ nào đó, tất cả câu chuyện của họ chỉ là nói về con, về cháu ,người nghe sốt cả ruột.”Ấy đứa con trai lớn tôi là bác sĩ, mỗi năm lương cháu cả triệu bạc đấy. Hai vợ chồng nó đã có cái nhà triệu rưỡi rồi nhưng cứ đòi tôi phải cho chúng bán mua cái nhà khác ba triệu cơ. Hai đứa con nó thì học nhất trường, straight A không. Còn con bé út cháu bác mới ra dược sĩ thì cứ đòi đi tiểu bang xa, họ trả cháu một năm hai trăm ngàn cơ đấy mà tôi đâu có muốn nó phải đi xa nhà đâu bác.”
Cứ thế mà khoe, bà này khoe với bà kia thì bà kia lại khoe với bà này. Không riêng đàn bà, nhiều ông cũng có tính hay khoe. Khoe bất cứ cái gì mình có. Người ngồi nghe càng đông thì cáng sướng cái miệng, nói không dứt. Có những bà, người bạn không chịu nghe thì giận, không chơi nữa. Nhưng ai có thể nghe mãi một “sự cố” nhàm chán như thế.
Viết đến đây tôi lại nhớ đến một ông nhà văn, dù ông chẳng nổi tiếng lắm vì viết không hay lắm. Ông cứ thích nói ông là con cháu, anh em của mấy vị Tự lực Văn đòan khi xưa mà cái “sự cố” rất quan trọng đó đối với ông nó lại chẳng quan trọng tí nào đối với chúng tôi cũng như đa số độc giả cho bằng chính bài văn của ông phải hay, phải có tính thuyết phục, phải hấp dẫn. Trước kia ông chỉ “chuyên trị” văn xuôi, nhưng một thời gian ông nghĩ văn xuôi có lẽ không dễ nổi tiếng bằng Thơ, vả lại, báo chí, website nào cũng thấy Thơ nhan nhản, ông bèn ngà qua Thơ. Vì ông không phải là nhà thơ, thiếu thiên khiếu, thiếu kĩ thuật làm thơ như các thể thơ, niêm, luật, bằng, trắc v.v... nên thơ ông sản xuất đọc lên nghe trúc trắc, chẳng vần chẳng điệu, không phải là một bài thơ đúng nghĩa. Nhưng khi có họp bạn, có gặp mặt, ông bắt mọi người phải ngồi nghe thơ ông. Nghe xong phải khen. Không khen không được. Thật là khổ cho cái lỗ tai và cả cái miệng. Rồi dần dần nhiều người không dám gặp ông nữa.
Một ông nhà thơ khác ở hải ngọai rất hãnh diện vì đã lèo lái một cái hội tự cho là chuyên về thơ, văn Việt Nam. Nhưng trong cái hội này nhiều hội viên báng bổ nhau, chửi bới nhau, dùng nhiều “độc chiêu” đả nhau như hàng tôm hàng cá và đã từng đưa nhau ra tòa kiện nhau về tội phỉ báng chứ chưa thấy ra được cuốn sách, cuốn báo nào lợi ích cho người đọc cả. Đôi khi có dăm, ba bài viết thì chỉ “mèo nhà khen nhau đuôi dài” “mặc áo thụng vái nhau”còn những tác giả không cùng phe nhóm thì “kì thị” ra mặt hoặc ít nhất chẳng nhắc tới. Tôi thiển nghĩ, thái độ đó không phải là thái độ của người cầm bút.
Người Mỹ cũng có những va chạm, bất đồng nhưng văn thơ hay họ bảo hay dù là văn thơ của kẻ thù, dở họ bảo dở dù là của người thân. Tiếc rằng người Việt mình sang ngọai quốc không học được thói hay của nước ngòai nhưng lại hấp thụ những cái dở của họ như kém về chữ Hiếu với cha mẹ ( một số), kém về chữ Trung với chồng, với vợ. Một số khác, kém về ý thức công dân, hơi một tí là la tóang lên như trời sập.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 10:18:08 GMT 9
Luân lí Giáo khoa thư khi xưa có viết:
Con ơi ghi nhớ lời cha
Công bằng là đạo người ta ở đời
Suy bụng ta, ra bụng người Hễ ta không muốn hẳn người chẳng ưa
Những điều làm thiếu lấy thừa
Hại người, ích kỉ nên chừa cả đi!
Làm thiếu lấy thừa ở đây có cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Nghĩa đen cho những kẻ buôn bán, dùng cân, dùng bơ, dùng lít, dùng thước, dùng đấu. Người ta mua 3 lít lại chỉ đong vơi nên chỉ được 2lít 7 hay 2lít8. Người ta mua 5m nhưng vì đo ăn gian, đo đúng chỉ được 4m70 hay 4m80, 4m90. Những chỗ đong thiếu, đo thiếu tất nhiên người bán ăn không.
Còn nghĩa bóng áp dụng cho những công việc về tinh thần: làm quan tòa không xét xử công minh hay cố ý giúp một bên có cảm tình, làm sai trật luật pháp, có lợi cho kẻ gian xảo, lưu manh, hối lộ. Làm phê bình Văn nghệ nhưng chỉ đề cao người nhà, người thân, bạn bè ăn chịu với mình, dở cũng bốc lên là hay, tồi cũng cho là tốt. Còn người khác phe thì sáng tác của họ dù hay cũng cố tình dìm đi.
Ở hải ngọai, thỉnh thỏang có một nhóm cây viết tập hợp cho in những tuyển tập. Họ cũng dùng những cái tựa sách có tính cách bao gồm như:
“Những dòng Thơ tiêu biểu ở hải ngọai” “Những Nhà Thơ hiện đại tại hải ngọai” “Những Nhà Văn Việt Nam tại hải ngọai” vv và v.v...
Nhưng khi mở sách, người đọc không thấy đâu là những Nhà Văn, Nhà Thơ hiện đại ở hải ngọai mà chỉ thấy những phe nhóm, một số mới tập làm Thơ, tập viết văn, có nhiều tác giả chưa biết chấm câu!
Người Mỹ gọi những người viết sách là “writer”, kí giả viết cho một tờ báo là “columnist”; những tác phẩm của họ - dù hay dù dở - đều được bảo quản trong thư viện khi độc giả muốn đọc, vào thư viện mượn. Khi đã là một writer hay một columnist, họ có trình độ viết, không như người Việt, thí dụ giới báo chí miền Nam xưa kia ở Sàigòn, một số rất giỏi còn một số có lẽ chưa có bằng Trung học đệ nhất cấp, chính ta còn sai lung tung. Khi không có một trường chuyên dạy về báo chí và tổ chức các kì thi tốt nghiệp, nhiều người cầm viết không xứng đáng với danh hiệu nhà báo, nhà văn, nhà thơ, chủ nhiệm, chủ bút, thư kí tòa sọan v.v... vì trình độ quá kém nhưng nhờ được đề cử, thổi phồng, tiếm dụng v.v...
Chất xám Văn học của mỗi dân tộc - nhất là một dân tộc nhỏ bé như Việt Nam - không nhiều. Ngọai trừ những tác phẩm mà nội dung và hình thái văn chương không ở mức trung bình, các công trình Thi ca và Văn học, tức Truyện ngắn và Truyên dài, hay những công trình nghiên cứu, biên khảo Sử học, Địa lí, Nhân Văn v.v...tóm lại các công trình tim óc có giá trị nên được bảo quản kĩ càng và các cây viết nên được ghi trong danh sách các Nhà Văn, Nhà Thơ đã có công sáng tác để khích lệ giới trẻ đầu tư vào những công trình có tính cách quốc gia ấy. Những sách xuất bản của họ sau này chính là những kho tàng cho các thế hệ mai sau tìm đọc, nghiên cứu và thâu thái cái hay, cái đẹp mà họ chưa có cũng như thời đại của họ cần đến.
Người Trung hoa quí trọng và giữ gìn những sách vở của họ như báu vật. Nếu không, trải qua hàng ngàn năm với lọan sứ quân, Tam quốc, Đông chu liệt quốc, chiến tranh Nha phiến, chiến tranh với Tây phương, chiến tranh Quốc-Cộng v.v...những bộ sách này chỉ còn là những đống tro tàn.
Trở lại với họat động ăn. Từ hàng ngàn năm, người Việt Nam cũng như người Á châu dùng đũa để gắp, muôi bằng gáo dừa lắp thêm cán để múc canh. Muỗng sắt, muỗng sứ mãi sau này mới có khi bắt đầu biết dùng nhôm, kẽm, sắt để đúc hoặc gò các vật dụng. Sau đó lại có đũa bằng bạc, bình, chén uống trà bằng bạc. Rồi có mâm đồng, nồi đồng, chậu đồng nhưng chỉ những nhà giầu có mới sắm được. Ăn đũa thì phải và nghĩa là đặt miệng bát vào miệng mình rồi dùng đũa lùa cơm từ bát vào miệng. Xong đưa bát trở ra để miệng tự do nhai, nuốt rồi lại và miếng khác.
Người Âu-Mỹ không có thói quen và như thế. Họ có muỗng và nĩa. Muỗng để xúc thức ăn đưa vào miệng còn nĩa để xiên thức ăn bỏ vào miệng. Họ tối kị và dù là và bằng muỗng nghĩa là họ không kề đĩa bát vào miệng như người Á châu. Súp, canh hay nước dùng, họ dùng muỗng xúc dù phải xúc nhiều lần. Người Á châu thấy nhiều quá, muốn cho nhanh cho đã, hai tay bưng cả tô lên kề tô vào miệng húp sòan sọat, lấy làm thỏa chí lắm. Người Á châu không để ý khi ăn gây ra những tiếng sòan sọat, súyt soa hay có người lại chắc lưỡi tanh tách thầm khen ngon. Người Âu Mỹ không làm những hành động này.
Người Hoa, người Hàn quốc, người Việt lúc ăn nói chuyện rất nhiều. Có nhiều người nói sùi bọt mép, nước miếng văng ra xung quanh ông ta như mưa phùn. Ở Mỹ có tục “self serve” tự lấy thức ăn, những ông bà này cũng vừa lấy thức ăn vừa nói huyên thiên để chứng tỏ ta khéo nói, bặt thiệp và như ngày xưa suy nghĩ, không phải đến là cứ chúi đầu vào ăn mà còn bàn chuyện này chuyện kia chứng tỏ ta rất hiểu biết. Những người này, nếu có luồng sáng rọi vào để họ nhìn thấy lúc họ nói nước miếng của họ phun ra ghê gớm như thế nào vào các đĩa thức ăn thì có lẽ chính họ cũng không muốn ăn những đĩa thức ăn đó chứ đừng nói ai khác.
Có nhiều tiệm ăn ở Nhật, người nấu bếp cũng như bưng đồ ăn cho thực khách phải đeo khẩu trang. Họ rất ít nói ngòai vài lời ngắn dặn dó từ nhà bếp về số bàn hay đưa thêm gia vị vv... mà họ vẫn phải đeo khẩu trang. Nhiều nhà hàng Tàu khi xưa, tiệm thịt quay hay tiệm mì chẳng hạn, mấy chú khách đứng bán còn cởi trần trùng trục, bên dưới chỉ độc một cái quần xà lỏn, mồ hôi mồ kê nhễ nhãi, mỡ màng bóng lóang, thịt quay chưa ăn đã thấy ớn tận cổ. Người bưng phở, bưng mì thì hai ngón tay cái kèm vào miệng tô – có ý cho khỏi tuột – hai đầu ngón tay móng dài chấm cả xuống nước dùng. Nhiều khi đang đi nghe chủ hay súp-pơ-vai-zơ gọi liền ứng khảu dạ thật to, hoặc đáp một tràng líu la líu lường, khó lòng nước miếng không văng xuống tô mì hay tô bún. Nếu lại gặp dịp có cúm, cúm lợn toi, cúm gà toi, chim toi chẳng hạn, hay có người gọi văn hoa là cúm cầm điểu, bird flu, avian vv...thì mấy con vi khuẩn cô đơn giá lạnh đang ca bài: “Anh ơi bây giờ anh ở đâu, Sài gòn hay Hà tây...” đang thiếu môi trường họat động sẽ nhảy nhổm lên xung phong đi giết giặc dù cò không hẹn ngày về gặp lại gia đình. Cái kiểu bưng tô hầu bàn như thế là rất hãi. Nhưng thây kệ, anh nào hãi cứ hãi, anh thích xơi cứ xơi. Ngày xưa Mì cây Xòai, Mì vịt tiềm Sóai hinh Lân Chợ Lớn, Phở Thủy phi cơ cứ phải xếp hàng cả tiếng đồng hồ mới được ăn tô phở, tô mì thì sao.
Người Âu Mỹ có nói chuyện trong bữa ăn nhưng có lẽ do thói quen, họ tránh nói to, làm ồn ào giữa nơi công cộng. Khi có người nói to, nhiều con mắt đổ dồn vào nơi đó làm người vừa nói cảm thấy như có lỗi, hay như bất lịch sự, bị coi rẻ.
Trái lại, đình đám của người Việt thì quá ồn ào cho người ta cái cảm tưởng không ồn ào không vui. Một nhóm thanh niên mời nhau uống rượu cũng phải “Vô, vô!” trong khi hai, ba người ép người kia phải cạn chén li bôi 100%, còn để lại một chút cũng không được.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 10:19:06 GMT 9
BÀI III
Cứ cho là vì muốn vui, muốn trợ lực cho những chai Martel, Johny Walker, hay những thùng Bud, Heineken mà những người uống - đa số là bạn trẻ - phải hò hét, la lớn hết cỡ cho thỏa chí. Nhưng nếu là ở tư gia hay trong một tiệc cưới chỉ có đám cưới của người thân mình, không còn thực khách nào trong căn phòng đó thì cũng tạm chấp nhận. Nhưng nếu có một đám cưới khác ở ngay bên cạnh hoặc một số thực khách những phòng bên đến nhà hàng dùng bữa thì la hò như thế là khiếm nhã với họ và chính họ hoặc chủ nhà hàng có thể yêu cầu mình chấm dứt cái trò la hò ấy đi vì ngòai việc khiếm nhã, nó còn vi phạm vào quyền tự do được giữ im lặng của những thực khách khác. Khi biết có sự đi quá đà như thế, người có trách nhiệm của bữa tiệc cần phải giải thích và yêu cầu các bạn trẻ bớt la hò để giữ thể diện cho chính mình đối với những người lạ.
Nếu ở tư gia, đó là quyền của mình nhưng sau 10 giờ đêm cũng không nên ầm ĩ làm phiền hàng xóm nữa. Quyền được giữ im lặng của mọi người bắt buộc chúng ta phải tôn trọng.
ĐÁM CƯỚI
Đám cưới Việt Nam rập khuôn từ đám cưới của người Trung hoa xưa kia nên có quá nhiều lễ nghi rườm rà so với đám cưới Âu-Mỹ.
Đại khái một cặp tân hôn Việt phải đi qua nhiều nghi thức sau đây:
Đầu tiên là mai mối. Bà mai M (mai nhân) đến nhà gái coi tình hình và nếu biết rõ cô gái chưa có đám nào thì sẽ ngỏ lời với cha mẹ người con gái, ông bà G, xin cô D cho cậu trai R, con của ông bà T. Lẽ dĩ nhiên, bà T đã một đôi lần gặp cô D, bà có cảm tình nên mới nhờ bà M đến nhà gái dạm hỏi xem sao.
Thường nhà gái hay làm cao để “giữ giá” nên cho dù ông bà G rất ưng cậu R, bà G vẫn cứ bảo với mai nhân rằng:
“ Cám ơn bà muốn tác thành cho cháu nhưng cháu còn bé bỏng lắm không biết đã biết đi làm dâu làm con chưa. Hay bà để cho cháu vài, ba năm nữa?”
Bà M:
“Năm nay cháu D được bao nhiêu tuổi rồi hả bà?”
Bà G bấm đốt ngón tay rồi nói:
“Cháu tuổi Mẹo. Năm nay 16 đấy bà.”
“Nữ thập tam, nam thập lục. Mười sáu được lắm rồi. Tôi đi lấy chồng theo y như ca, mới mười ba tuổi. Vậy mà cũng chu tất hết, cụ Nghị tức mẹ chồng tôi thương quí hơn con gái. Sau hai năm cứ đẻ sòn sòn như ca dao đã nói:.
Lấy anh từ thuở mười ba
Đến năm mười tám thiếp đà năm con.”
Bà G đọc tiếp theo ngay:
Ra đường thiếp hãy còn son
Về nhà thiếp đã năm con cùng chàng.
Đúng chưa bà? Thế là bà tốt phúc lắm đó.”
Bà G khen một câu làm bà M nở từng khúc ruột. Trước khi ra về, bà M còn dặn kĩ:
“Tôi đã thưa mọi chuyện với bà rồi đấy nhá. Cậu R là người có ăn học chứ không phải thứ cổ cày vai bừa, nay mai thi vào ngạch làm thầy thông, thầy phán tha hồ lắm tiền mà danh giá. Ông bà T lại là người có vị vọng trong tổng, trong huyện. Còn chỗ nào đích đáng hơn hả bà? Hai tuần sau tôi trở lại nghe bà báo tin lành đấy nhé!”
Sau khi nghe bà mai dạm hỏi, ông bà G thường ngồi với nhau để bàn bạc về cậu con rể tương lai thì ít mà ông bà thông gia thì nhiều, xem họ có môn đăng hộ đối với mình không nghĩa là địa vị xã hội của họ so với địa vị xã hội của mình có tương xứng?
Có nghĩa là quan huyện, quan phủ thường kiếm chỗ thông gia với quan huyện, quan phủ, quan tỉnh với quan tỉnh, hàng hương lí với hương lí, trùm trưởng với trùm trưởng...và dĩ nhiên, bạch đinh lại thông gia với bạch đinh chứ không thể leo ngang lên được. Chính vì phải tùy thuộc vào môn đăng hộ đối nên có nhiều cặp vợ chồng không tìm thấy hạnh phúc hoặc đi xa hơn, đổ vỡ gia đình vì cha mẹ chỉ tính đến môn đăng hộ đối chứ không cần biết con mình có thương yêu người phối ngẫu tương lai của nó hay không và nếu không có tình yêu, hôn nhân sẽ khó mang lại hạnh phúc cho cả đôi bên. Nhiều người con gái khi xưa, vì “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” đã phải lấy những anh chàng rượu chè cờ bạc thuốc xái trai gái làm khổ vợ con suốt đời. Ngược lại, cũng có những chàng trai lấy phải vợ đụt, không biết buôn bán, làm ăn giúp đỡ chồng, tất cả đều trông vào một người chồng, ngay đến việc dạy dỗ con cái cũng không xong. Đúng là một gánh nặng cho người chồng nhưng đã lỡ, biết làm sao đây?
Trở lại với đám cưới Việt, sau khi ông bà G đã suy xét kĩ càng về việc thông gia với ông bà T, đại khái đối tượng có địa vị xã hội ngang ngửa với mình hoặc hơn mình, có bát ăn bát để, thế là được. Sau đó, vào lúc thuận tiện, bà G sẽ hỏi con gái:
“Này con, ông bà T, bố mẹ cậu R nhờ bà mai đến nói với bố mẹ xin con cho cậu R đấy. Con có bằng lòng không thì cho bố mẹ biết.”
Ở các thế hệ khi xưa, thường cô D rất e thẹn, trả lời:
“Tùy cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy.”
Giả sử cô đã biết và có nhiều cảm tình với cậu R, cô cũng không dám thổ lộ nỗi lòng với mẹ cô. (Với cha là không bao giờ). Ở một số gia đình, khi ông bà G đã có định kiến thì dù con gái có nói khác hay không nói gì, ông bà vẫn gả con gái cho cậu R.
Y hẹn, sau hai tuần, bà M trở lại được bà G trả lời là thuận cho cô D lấy cậu R. Những thủ tục sau đây cần được thực hiện:
- lễ chạm ngõ, đặt cơi trầu đầu tiên
- lễ Nạp thái tức là lễ đính ước
- lễ Vấn danh (hỏi tên tuổi cô gái).
- So đôi tuổi (có nơi cẩn thận hơn, làm trước khi chạm ngõ).
- lễ Nạp tệ, cũng gọi lễ hỏi, quan trọng thứ nhì sau lễ cưới.
- lễ thân nghinh tức lễ cưới.
Người Hoa còn có thêm mấy thứ lễ lỉnh kỉnh khác như lễ Nạp cát, nhà trai trả lời bằng lòng; lễ Thỉnh kí, lễ xin cưới nhưng người Việt đã chước giảm đi.
Người Việt dùng âm lịch như người Hoa, mỗi năm có một con thú tượng trưng nên khi so đôi tuổi, người ta coi xem những năm cô gái và cậu trai sinh hợp khắc ra sao để liệu bề định đọat cho việc ăn đời ở kiếp với nhau. Một cách đại cương:
Tam hợp:
Dần Ngọ Tuất
Thân Tí Thìn
Tí Dậu Sửu
Hợi Mão Mùi
Những tuổi khắc nhau:
Tứ xung: Dần Thân Tị Hợi
Tứ mộ : Sửu Mùi Thìn Tuất
Tứ tuyệt : Tí Ngọ Mão Dậu
Những tuổi nhị khắc:
Dần với Thân Tị với Hợi Thìn với Tuất Sửu với Mùi Tí với Ngọ Mão với Dậu.
Sau khi đã nhờ người có hiểu biết về tuổi để so đôi tuổi, những nhà tử vi lí số chẳng hạn, thấy hai tuổi hợp, nhà trai xúc tiến việc cưới hỏi.
Ngày xưa, trong lễ hỏi bao giờ cũng phải có một cái hộp bằng đồng thau để đưng đồ trang sức cho cô dâu.
Một cái hộp khác cũng bằng thau để đựng trầu cau mời hai họ. “Miếng trầu là đầu câu chuyện” thiếu gì cũng được nhưng không thể thiếu miếng trầu. Thiếu miếng trầu coi như không hợp lệ hay thất lễ sẽ sinh ra lời qua tiếng lại rất phiền hà. Vì vậy muốn đi xin cái gì, thưa gửi nói năng cái gì cũng phải có “cơi trầu đi trước” mới xong. Nhiều khi vội vàng quá không kịp chuẩn bị, người ta chỉ để một lá trầu trên một cái đĩa nhỏ và đặt xuống trước mặt người mình cần phải xin, nói việc gì, sau đó trình bày sự việc. Người ta thường nghe những câu nói sau đây:
“Bác ấy đã có cơi trầu nói với làng rồi mà.”
“Con chị ta làm sai, chị ta đã có cơi trầu xin lỗi. Thôi bỏ qua cho mẹ con chị ta.”
“Gia đình chúng tôi sẽ sửa cơi trầu trình các cụ huynh trưởng.” v.v...
Do đó, chúng ta thấy cơi trầu trong xã hội cổ Việt Nam là rất quan trọng. Nó biểu hiện nghi lễ, phép tắc phải có, phải làm để được coi là hợp với phong hóa của làng, của nước.
Tộc Việt có tục ăn trầu từ đời thượng cổ nên “phong hóa cơi trầu” như vừa nói trên cũng đã có từ rất xa xưa. Từ hậu bán thế kỉ 20, người ăn trầu giảm dần nhất là ở giới trẻ vì họ bỏ tục nhuộm răng đen mà thời trước coi là những chuẩn mực của sắc đẹp phụ nữ:
Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng, răng đen.
Trở lại với lễ ăn hỏi, ngòai hộp trầu gồm có trầu đã têm, phải có một mâm trầu. Mâm bằng thau đánh sáng lóang, trên để bốn, hay sáu chục lá trầu to, tươi, ngon, bao giờ cũng là số chẵn để cầu mong đôi trai gái như đũa có đôi, một buồng cau tươi, to ngon, quả cau bầu dục, xanh rì tượng trưng cho sự thịnh vượng, trù phú. Nếu không phải mùa cau tươi thì thay thế bằng cau khô. Trăm miếng cau khô, chẳng hạn. Một miếng vỏ chay lớn và có nơi ở Thái bình còn phải có một bánh thuốc lào lớn, lọai ngon, thí dụ thuốc lào Tiên Lãng, vì dân trong vùng ăn trầu thuốc.
Lại phải có thêm vài ba mâm trà rượu bánh mứt theo như lời yêu cầu của nhà gái. Cũng có nơi phải có thêm nửa con lợn, thúng gạo, vài chục chai rượu để nhà gái làm bữa hỏi đãi đằng quan viên hai họ ngay tại cư sở nhà gái. Tiếng là nhà gái đãi bữa hỏi nhưng thực sự nhà trai phải cung cấp hết mọi đồ ăn thức uống cần thiết cho bữa tiệc. Tuy nhiên khi đàng trai ra về, bao giờ cũng có lệ “lại quả” tức rượu chè, bánh mứt, trái cây nhà trai mang đến được gửi trở lại một ít để nhà trai mang về thưởng thức tiếp cho thêm phần vui vẻ. Những nhà gái “điệu nghệ” nhân dịp này lại biếu thêm nhà trai những thứ gia đình mình có sẵn như dăm cây cải súp lơ (ở Bắc rất quí), khay cốm xanh vừa giã lấy từ lúa non ruộng nhà, con cá mè lớn tươi rói vừa đánh dưới ao lên, cặp gà sống thiến, chục cam sành vườn nhà v.v...Những người giầu có thì vừa tặng vừa để khoe của, rằng nhà ta khá giả, mai mốt con gái ta về làm dâu cũng phải liệu mà đối xử với nó. Tiền bạc, quà tặng bao giờ cũng nói nhiều hơn là không có gì.
Vùng nông thôn Bắc Việt khi xưa chỉ những gia đình giầu có khá giả mới xin đồ trang sức cho cô dâu vì nghèo thì tiền đâu mà sắm. Nhà gái thương con phải chước giảm chứ nếu đòi hỏi quá, nhà trai đuối quá duỗi ra thì con mình vẫn cứ phải ở nhà với mình thôi.
Đi đâu mà chẳng lấy chồng
Người ta lấy hết chổng mông mà gào
Gào rằng đất thấp trời cao!
Sao không thí bỏ cho tôi chút chồng?
Ông trời ngỏanh cổ liền trông
Mày hay kén chọn ông không cho mày!
Kén chọn đây là kén cả người lẫn của. Cũng có thể đổi ra là:
Tính mày khó quá ông không cho mày!
Về người, người phải có tiêu chuẩn nào, học vấn ra sao? Của phải từ khá giả trở lên để được nhờ cậy chứ lấy con nhà quá nghèo, “hai tay không đủ vầy lỗ miệng” thì sao mà nhờ cậy được.
Những gia đình khá giả dùng lễ hỏi để tặng đồ trang sức cho con gái, con dâu tương lai. Bà mẹ chồng sẽ đeo đôi hoa tai, đôi khuyên, cái kiềng vàng vào cổ và cái lắc vàng vào cổ tay cô con dâu. Bà mẹ đẻ cũng đeo cho con gái chuỗi ngọc v.v... Sau lễ hỏi, hai gia đình coi như là thông gia thực sự, thường mời mọc nhau trong những dịp lễ lạc, nhất là dịp Tết Nguyên đán, để hai nhà càng thêm thân thiết. Dù đã có lễ hỏi, cô gái và cậu trai vẫn không thể gặp nhau riêng, chuyện trò, tâm sự với nhau vì cho là vượt quá lễ giáo gia đình.
Cô Thúy Kiều của cụ Nguyễn Du đang đêm lẻn qua vườn Thúy để tự tình với người yêu là Kim Trọng bị các bậc túc Nho lên án gay gắt mặc dù khi người yêu tỏ vẻ suồng sã - đặc tính của đa số con trai - cô đã chỉnh người yêu:
Ra tuồng trên Bộc, trong dâu
Thì con người ấy ai cầu làm chi!
Và: Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
Cô không vượt qua lễ giáo và luôn luôn tôn trọng quyền đặt đâu ngồi đấy của cha mẹ.Thiết nghĩ hành động của cô đáng được khoan dung, thông cảm và cũng rất nhân bản. Nhưng với các nhà Nho khi xưa thì cái tội ấy cũng nặng như đã vào thanh lâu kiếm ăn bằng cái nhan sắc có sẵn của mình. Tội đáng phải gọt đầu bôi vôi!
Khi xưa, ngay sau khi đã làm đám cưới, đi đâu với nhau cũng không thể sánh vai cùng đi. Tôi nhớ bố tôi, khi tôi đã chớm có trí khôn lúc ba, bốn tuổi, khi đi đâu với mẹ tôi, bố vẫn đi trước, mẹ dắt tôi đi sau vài bước chứ không hề dám đi ngang chuyện trò. Có lẽ bố tôi không phải là người nhìn người vợ của mình ở một vai vế kém, một nấc thang xã hội luôn luôn phải ở dưới và phục tùng người chồng nhưng vì xã hội lúc đó đã có cái tập quán trọng nam khinh nữ, quyền thế của những người đàn ông trong gia đình là tối cao, tối thượng mà đàn bà con gái luôn luôn phải tôn trọng và giữ cho mình ở thế yếu nên dù không muốn, bố tôi không thể làm khác nhất là ở những chốn thanh thiên bạch nhật, trăm con mắt ngó vào, quần chúng sẽ đưa ra những lời phê bình cứng nhắc, một chiều chỉ có hại cho người phụ nữ.
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 10:20:38 GMT 9
TỔ CHỨC ÐÁM CÝỚI
Ðám cýới là nghi lễ long trọng nhất trong thủ tục phiền tóai về hôn nhân ngày xýa. Mỗi vùng có một tập quán riêng nhýng tựu trung gần giống nhau:
- Rýớc dâu, tức là ðón cô dâu về nhà chồng.
Vào giờ ðã ðịnh sẵn, thí dụ giờ hòang ðạo, giữa trýa, giờ mà ngýời ta tin týởng là hợp với ðôi tân hôn, phái ðòan nhà trai sẽ ðến nhà gái ðể ðón dâu về.
Khi gần tới cổng nhà cô dâu, “ðội hình” thýờng ðýợc sắp xếp nhý sau:
Ði ðầu thýờng là một cặp vợ chồng, một cụ ông, một cụ bà ðã có con ðàn cháu ðống, ðã từng sống với nhau nhiều nãm vui vẻ hạnh phúc. Ý tứ của sự lựa chọn này là ðể cô dâu chú rể cũng sẽ theo ðýợc cái gýõng ấy mà làm cho gia ðình càng ngày càng ðông vui, hạnh phúc.
Ngay sau hai cụ là cha mẹ chú rể, rồi ðến chú rể, khãn ðóng áo dài chữ thọ, quần trắng, giầy ðen.
Sau ðó là ðòan býng lễ vật cả nam và nữ, ãn mặc ðẹp ðẽ, tay býng những quả phù trang trong ðể lễ vật. Ở hải ngọai, ði ðầu lễ vật thýờng là một con heo quay nhỏ nhýng ở Hànội là con heo quay lớn do hai ngýời con trai mặc áo ðỏ, nẹp ðỏ khiêng trịnh trọng. Ở Bắc khi xýa xôi gấc ðể trong mâm ðồng ðánh sáng lóang, mâm xôi ðầy, cao mầu ðỏ týõi rất ðẹp. Có nõi lại ðặt một con gà trống ðã ðồ hoặc luộc da xát nghệ vàng ýõm, mào rũ xuống, mỏ ngậm một cành hoa hồng. Có những nõi cái gì cũng phải hai cho chẵn nên xôi gấc phải hai mâm, hai con gà. Rýợu cũng phải chẵn, 20 hay 40 chai. Gạo thýờng một gánh (2 thúng), lợn mang ðến sớm ðể nhà gái làm cỗ cho những ngýời không ði ðýa dâu ãn uống nên một con cũng ðýợc.
Sau những ðồ lễ vật là họ hàng ông chú bà bác của chú rể, ngýời nào cũng diện những bộ quần áo ðẹp nhất ðể ði ðón dâu.
Thýờng nhà gái ðã sửa sọan hoa nến trên bàn thờ tổ tiên ðể ðôi tân hôn vái lạy gia tiên. Sau ðó ðôi tân hôn cũng vái lạy ông bà nội ngọai (nếu còn sống) và thân phụ thân mẫu. Mỗi ngýời này có thể tùy ý “ban” cho ðôi tân hôn những lời khuyên bảo cách ãn ở cho xứng với phẩm hạnh vợ chồng nhất là những lời khuyên cho cô cháu gái, cô con gái trýớc khi về làm dâu nhà ngýời. Ðại khái là Công, Dung, Ngôn, Hạnh, Tứ ðức tam tòng. Những ðiều này chỉ là nhắc lại vì ðã ðýợc nghe ði nghe lại nhiều lần từ khi có trí khôn. Ngýời phụ nữ Việt khi xýa không ai có thể nói vì cha mẹ tôi không dạy tôi những ðiều ðó nên tôi không biết.
Cuối cùng, ông bà cha mẹ cô dâu tiễn cô ði vui duyên mới trong khi bà mẹ chú rể ứng tiếng nói lớn cho mọi ngýời nghe rằng:
“Con dâu của mẹ ðâu? Ra ðây về nhà với mẹ!”
Cô dâu có thể là nýớc mắt ngắn, nýớc mắt dài, từ tạ ông bà cha mẹ ði theo mẹ chồng ra sân, ở ðó chú rể ðã ðứng sẵn chờ. Và ðòan ðón dâu bắt ðầu dàn ra ðýờng chậm rãi ði bãng ngang cánh ðồng ðể về nõi cý sở chú rể, nõi ðó cỗ bàn, rýợu chè, khách khứa ðang chờ cô dâu về tới ðể cùng nâng li chúc mừng cho ðôi tân hôn bách niên giai lão.
Chúng ta cũng nên ðể ý một thói quen cũng từ ngýời Hoa mà ra. Ðó là chín cái trâm cài ðầu mà cô dâu nào thời xýa cũng ðýợc mẹ sắm cho và dặn ði dặn lại cách dùng.
BÀI IV
Những cái trâm này có một công dụng ðặc biệt mà các thiếu nữ khi vu qui thời xýa ðều phải biết, do chính mẹ dặn và sau này khi có con gái ði lấy chồng cũng phải dặn con nhý thế.
Thýờng những anh ðàn ông con trai ðang dồi dào sinh lực, lấy ðýợc ngýời yêu là muốn ân ái bất kể ngày ðêm, bất cứ lúc nào nên các cụ khi xýa mới ghẹo các chàng rằng:”ðêm bảy ngày ba, vào ra không kể”, và
Thứ nhất là rýợu ngà ngà
Thứ nhì chàng ở ðýờng xa mới về
bởi vì:
Vũ vô kìm tỏa nãng lýu khách
Sắc bất ba ðào dị nịch nhân
Mýa không có bao vây mà hay giữ ðýợc khách cũng nhý sắc ðẹp của giai nhân không có sóng mà làm say ðắm lòng ngýời. Và còn rất nhiều câu khác nữa không thể kể hết ra ðây ðể nói lên cái ðặc tính “khởi ðộng” của giống hùng, giống ðực, từ ngýời ðến chim muông, cầm thú trong vấn ðề yêu ðýõng, ân ái và truyền sinh. Con bồ câu trống, con gà trống, con chó ðực, lõn ðực, cọp beo ðực, voi ðực v.v... trời sinh ra thế, ðều là phe khởi ðộng rồi những con cái mới nhẹ nhàng tỏ cử chỉ ýng thuận. Nếu giống ðực, thí dụ ngýời nam không khởi ðộng, không tỏ ý tán tỉnh, ve vãn ngýời nữ thì cái hàng rào vô hình ngãn cách hai con ngýời nam nữ mãi mãi vẫn là hàng rào bất khả xâm phạm.
Chính bởi cái kiểu “yêu cuồng sống vội” ðó của nam nhân nên có những lúc ðã quá mệt vì công việc hoặc quá say vì chè chén nhýng chàng vẫn muốn ân ái với nàng (vợ hoặc bồ) vì không kìm hãm nổi tình dục nhý ngọn hỏa diệm sõn phừng phực trong lòng. Một số nhỏ ðàn ông, lúc sự sung sýớng lên tới cực ðiểm (climax) ðã bị kích ngất, xỉu trên bụng ngýời ðàn bà. Một số khác, do bản chất từ khi bẩm sinh, dýõng khí cứ tiếp tục tuôn chảy mà lẽ ra nó phải ngừng lại sau lúc cực khóai; thế là “bất tỉnh nhân sự”nghĩa là chàng ta không biết gì nữa cả, cái hồn ðã bay bổng ra khỏi cái xác, duy chỉ còn một chút hõi thở yếu ớt ðể tiếp tục sự sống nhýng là sự sống “chỉ mành treo chuông”, sự sống rất mong manh chỉ chực phụt tắt nhý ngọn ðèn cạn dầu.
Trong trýờng hợp ấy các bà mẹ dạy con gái ðừng có hỏang sợ, la ó, hoặc mắc cỡ mà vội vàng ðẩy chồng xuống khỏi ngýời mình. Hãy bình tĩnh, ðể nguyên ngýời chồng nằm yên trên bụng mình, lại cũng không cựa quậy khiến dýõng vật của ngýời chồng vuột ra khỏi âm hộ, trong khi ðó ngýời phụ nữ, một tay giữ lấy tấm thân ngýời chồng duy trì vị thế lúc ðang ân ái, còn tay kia rút chín cây trâm cài trên ðầu ðâm mạnh vào nõi phần ðốt xýõng sống cuối cùng của ngýời ðàn ông ðể anh ta thấy ðau nhói lên ở cái chùm thần kinh chỗ ðó và hồi tỉnh. Có bà mẹ còn dạy con là nắm hai bên tóc mai của chồng mà kéo làm anh ta ðau, gọi tên anh ta thật to bằng cách kề miệng vào tai anh ta cũng phụ giúp thêm cho việc hồi tỉnh. Khi anh ta tỉnh lại rồi, nghĩa là cái hồn ðã trở lại với cái xác, anh ta sẽ tự ðộng di dời dýõng vật rồi trýờn xuống khỏi bụng vợ và nhý vậy chắc chắn anh ta không chết vì thýợng mã phong. Ðiều quan yếu trong cách chữa trị này là phải giữ nguyên vị thế nhý lúc ðang ân ái, dýõng vật ngýời ðàn ông không ðýợc rút ra khỏi âm hộ ngýời ðàn bà cho ðến khi chính anh ta làm ðýợc chuyện ðó. Cũng có ngýời ðàn bà bạo gan hõn thì cố giữ nguyên vị thế xong gọi to ngýời nhà vào phụ giúp việc làm ngýời chồng hồi tỉnh. Dù cách nào chãng nữa, anh ta chỉ sống khi ðã tỉnh và tự ý trýờn xuống khỏi bụng ngýời ðàn bà. Chìa khóa vấn ðề là ở chỗ ðó.
Ðã có nhiều ngýời ðàn ông chết vì trýờng hợp này nhất là sau khi say rýợu vào ngủ với vợ.
Khỏang giữa nãm 1962, lúc Bút Xuân ðang thụ huấn tại Liên Trýờng Võ Khoa Thủ Ðức, Sinh viên Sĩ quan khóa 13 trừ bị, một vị chỉ huy cao cấp trýờng này cũng bị chứng thýợng mã phong trong lúc ãn nằm với cô L. bán Câu lạc bộ Sinh viên. Cô L. rất ðẹp nghe nói ðã từng ði lại lâu ngày với ông chỉ huy này và ðêm ðó có lẽ vì mệt quá ông vẫn cố chiều ngýời ðẹp - hay chiều chính ông hay biểu diễn tài nghệ cho xôm tụ - ông ðã ðể lại nhiều thýõng tiếc cho gia ðình ông! Cũng theo tin tức báo chí, tài tử Lý tiểu Long và ông vua nhạc Rock, Elvis Presley cũng ðều bị ngã ngựa kiểu này chứ không phải dùng ma túy quá liều nhý nhiều nguồn tin khác. Nếu cô L. và các cô bồ của hai tài tử vừa nói cũng nhý hàng ngàn cô gái khác ðýợc mẹ dặn dò kĩ lýỡng về chín cây trâm cứu tử lúc nguy cấp thì ngày nay có lẽ chúng ta cũng còn nhìn thấy những ngýời ðàn ông nói trên dù ðã tóc bạc da mồi, chân tay run rẩy, không còn chỉ huy, hát nhạc Rock hay biểu diễn Kungfu ðýợc nữa. Cũng có thể vì dùng ma túy quá liều gây tử vong vì ma túy là một thần dýợc giúp ngýời ðàn ông dẻo dai, ác liệt trong lúc chiều ngýời ðẹp, ðã ðýợc rất nhiều ngýời ðàn ông dùng ðể giữ chân ðàn bà và khi quá lậm thì sinh ra nghiện hồi nào không hay..
LÀM DÂU
Hết 90% những ngýời con gái xýa kia sợ cái cảnh làm dâu bởi vì ða số các bà mẹ chồng thời ðó cay nghiệt với con dâu. Tục ngữ có câu:
Muốn nói không làm mẹ chồng mà nói.
Nói không ðây là ãn không nói có, bốc lửa bỏ bàn tay, dựng ðứng chuyện nhý thực ðể hành hạ con dâu. Thí dụ: Cô con dâu ði thýa về trình lễ phép nhýng mẹ chồng cứ leo lẻo nói với chồng cô và bố chồng, anh chị em chồng rằng nó cứ câm ngâm ngẩm, chẳng biết chiềng thýa gì. Cô con dâu ðýợc giao ði chợ mua gạo nýớc, cá mú, thịt thà nhýng ðýa thứ nào về bà mẹ chồng cũng chê hẩm chê hôi, nào là nó vụng mua bán, tòan rýớc rau già, cá ýõn, thịt ôi về ãn không ðýợc. Nếu ông bố chồng hoặc chồng cô thýõng con dâu, thýõng vợ chỉ cho bà già thấy rau, cá, thịt ðều týõi ðều ngon thì bà già lại trở quẻ rằng nó không biết trả giá, thịt thà cá mú gì mà ðắt thế. Miếng thịt này tao chỉ mua ba hào mà nó phải trả ðến bốn hào là quá ðắt rồi. Quá ðáng hõn, bà phang thêm một câu. Hay là con này ãn bớt tiền chợ ðem về cho mẹ nó? Chính bởi vậy có những cô con dâu khi xýa phải về nhà xin mẹ tiền ðể trám vào chỗ thiếu. Thí dụ cô mua con cá chép lớn 8 hào nhýng chỉ khai với mẹ chồng là có 6 hào làm bà ta khen nức khen nở sao con khéo mua thế, mẹ có mua cũng phải 6 hào rýỡi ðấy. Kì thực cô con dâu phải bấm bụng bỏ tiền riêng ra 2 hào bù vào chỗ thiếu vì muốn cho ấm cửa êm nhà.
Có bà già còn thù con dâu khi cô này nấu canh, lén bỏ thêm một nắm muối ðến nỗi canh mặn ðắng. Ðến bữa cõm, cả nhà húp muỗng canh ðều kêu lên nhý cháy nhà sao hôm nay chị Cả nấu canh mặn rứa, canh chi nýớc canh mặn nhý nýớc kho, hõn nýớc kho nữa làm cô con dâu vô cùng ngạc nhiên và ðau khổ. Mình chỉ nêm có một chút muối, một chút nýớc mắm, ðã nếm thử hõi nhạt là khác mà sao bây giờ nó mặn tàn canh gió lốc vậy trong khi bà mẹ chồng ngồi cýời tủm, mở cờ trong bụng là ðã trả ðýợc chút thù vặt. Mục ðích của bà là hạ sát ván cô con dâu nhất là khi cô này ðẹp hõn, xinh hõn, giỏi giang tháo vát có học hõn con gái bà. Cái bà ghét nhất là hõn con gái bà khiến ai vào nhà cũng trầm trồ khen ngợi cô con dâu mà quên lửng mất hai, ba cô con gái của bà cô nào cô ấy lớn tồng ngồng mà vẫn ế chýõng ế chẩy, chýa ai ðến rýớc ði cho. Ðó chính là cái lo gan ruột của bà mẹ chồng và con gái bà càng ế, càng không có thằng con trai nào hỏi han tới thì bà càng bực bội, càng hành hạ cô con dâu cho bõ ghét.
Từ những thế kỉ xa xýa ở nýớc ta, các ngýời làm bếp ðều phải nấu cõm bằng củi hoặc bằng rõm rạ. Bà già chõi xỏ con dâu bằng cách lừa ðổ thêm nýớc vào cho nhão nhóet ra, hoặc lúc cõm vừa sôi bà gọi giật giọng con dâu nhờ việc này việc khác khiến nồi cõm quá lửa bị khê, bị cháy, hay bị sống, ðến bữa ãn cả nhà phiền trách.
Sao cõm khét lẹt vậy chị cả? Cõm chỗ sống, chỗ chín thế này ãn ðau bụng chết. Cõm này mà nấu ở trên thuyền trên bè thì cứ gọi là có ngày xuống gặp Hà bá!
Cô con dâu chỉ biết xuống bếp ngồi khóc trong khi bà mẹ chồng bảo ông chồng và cả nhà:
“Ðấy nhé, ông và cả nhà hai nãm rõ mýời kẻo lại bảo tôi cay nghiệt, ghét bỏ con dâu. Ðúng là thổi cõm không chín quét nhà chẳng nên mà ãn cỗ lại muốn ngồi trên cõ ðấy.” Quay vào cậu con trai:” Khi mẹ có nói thì cậu cứ bênh vợ cậu chằm chặp, còn ai dám nói nữa?” Rồi quay sang ba cô con gái cýng của bà:”Ðấy làm dâu mà vụng về nó khổ nhý thế ðấy. Các cô liệu mà tập tành nấu nýớng, làm ãn kẻo mai kia mốt nọ ði lấy chồng ngýời ta cứ réo con mụ già này ngýời ta “tế sống” thì khổ cho cái thân già này lắm.”
Ông bố chồng thýõng con dâu ngoan hiền giỏi giang mà ông biết rõ nhýng chẳng biết ðối ðáp với bà vợ chằn ãn trãn cuốn ra sao. Anh chồng thấy nồi cõm vừa khê vừa sống thì ngồi ðực mặt ra một ðống, muốn xuống bếp an ủi vợ một câu nhýng sợ bà già. Còn ba cô giặc bên Ngô quay mặt ði kín ðáo cýời thầm, kính phục mýu thần chýớc quỉ của bà mẹ nhý ðệ tử kính phục tôn sý. Cũng có thể một trong ba cô ðã y theo lời bà mẹ thi hành ðộc kế thay vì chính bà mẹ ra tay.
Bút Xuân xin nhấn mạnh là khi xýa thổi cõm bằng rõm rạ hoặc bằng củi, bằng than nếu không quen nấu, cõm không chín hoặc quá lửa ðâm khê khét có khi phải bỏ cả nồi cõm ði, nấu khác. Khi bà mẹ chồng ðã không ýa con dâu thì bà có trãm phýõng nghìn kế ðể hạ ðo ván con dâu một cách dễ dàng vì bà là chủ gia ðình, cái gì cũng từ bà mà ra.
Nhiều cô dâu còn bị hành hạ vì những lễ hỏi, lễ cýới bà mẹ cô dâu xin sính lễ sang quá, nhiều quá, tốn phí cho nhà trai quá. Lễ ãn hỏi mà xin cả nghìn phần cau, bánh xu-xê, bánh cốm, trà Tầu ðể ðem ði biếu họ lấy cớ là họ hàng ðông, biếu chỗ này không biếu chỗ kia ngýời ta trách. Ma chê cýới trách vốn xýa nay là thế.
Bà mẹ chồng tức giận lắm tính bỏ nhýng cậu con trai không chịu. Chẳng có cái vụ bùa mê thuốc lú nhýng sao câu cứ tõ týởng ðến giai nhân hòai làm nhý cậu mắc bệnh týõng tý mà ngýời vùng quê Bắc Việt khi xýa gọi là “phải lòng mặt”.
Týõng tý chẳng ốm cũng sầu Con ruồi ðậu mép chẳng ðau cũng buồn!
|
|
|
Post by Huu Le on Dec 7, 2006 10:20:57 GMT 9
Ca dao của chúng ta nó chân chất vậy ðó chứ týõng tý rõ ðẹp mà cho thêm vài con ruồi con muỗi vào nó kém vệ sinh ði. Chẳng thà nhý nhà thõ Nguyễn Bính, ông chỉ cho nắng mýa vào thôi. Nó sạch sẽ hõn ruồi nhýng ông cả quyết mýa nắng là bệnh của trời. Thực sự chýa chắc ðã là thế vì nhân gian nhiều khi cần nắng hoặc cần mýa cho mùa màng, mýa nắng không phải là bệnh họan nữa nhýng là cái mong ðợi, cái cực kì cần thiết của con ngýời lúc ðó. Thí dụ: mùa gặt cần nắng ðể phõi thóc, mùa cấy cần mýa ðể có nýớc làm ruộng.
Nắng mýa là bệnh của trời Týõng tý là bệnh của tôi yêu nàng!
Trở lại với cái tức khí cành hông của bà mẹ chồng khi ðýợc bà mai báo cho biết ðến ngày ðó tháng ðó thì phải dẫn lễ ãn hỏi, nào heo quay, nào rýợu chè, nào gạo nếp gạo tẻ ðủ thứ nhýng tất cả bà ðều lo ðýợc chỉ có một nghìn phần cau bánh trà...chao ôi sao mà nó nặng nhý thế này. Ðến bán nhà ði cýới vợ cho con mất thôi. Bà ðã bảo với bà mai xin chu tất một nửa tức nãm trãm phần nhýng bà sui gia không chịu, nói rằng cô này là con trýởng, phải làm cho sôm trò, cho các em gái nó bắt chýớc. Vả lại họ hàng quá ðông chẳng biết biếu ai ðừng ai mà bà thì không muốn bị ai trách một câu.
Bàn ði tính lại mãi; khốn nỗi ông chồng xýa nay chỉ chín bỏ làm mýời, biết ðàng gái xin quá ðáng nhýng ông nghe bà nói họ không chịu rút bớt nên ông chặc lýỡi:”Thì bà ráng thêm tí nữa ði, cho họ hài lòng. Cùng lắm tôi về quê bán bớt mẫu ruộng xấu là ðủ ngay chứ gì.”
Bà nghe ông nói về bán ruộng là bà tá hỏa tam tinh:”Thôi ông, ðể tôi gầy thêm một bát họ nữa rồi trả dần.Trót ðâm lao phải theo lao ông ạ.” Nói thế nhýng từ ðó bà ðể tâm thù cô con dâu và khi con cừu non ðã nằm trong tay con sói già rồi thì sói ðâu có thiếu chiêu pháp ðể mà trị tội con cừu.
Các cụ nói:”Tối ðộc phụ nhân tâm” Lòng dạ ngýời ðàn bà là tối ðộc ác, cũng không phải ngoa. Ðắt Kỷ, Muội Hỉ, Bao tự, Tây thi, Dýõng quí phi, Võ tắc thiên, Từ Hi thái hậu bên Tàu, còn trong cung ðình Việt Nam khi xýa nhý thái phi Dýõng Vân Nga hoặc những phi, những hậu ghê gớm khác. Bên Âu châu, Mỹ châu kể làm sao cho hết ðýợc những ngýời ðàn bà nổi tiếng ðộc ác, dữ dằn và cả dâm ô.
Tuy nhiên, xin ðýợc mở một dấu ngoặc. Không phải phụ nhân tâm nào cũng tối ðộc cả. Rất nhiều ngýời ðàn bà hiền ðức, quảng ðại, thýõng ngýời ở xung quanh ta, giúp ðỡ ta, yêu mến ta, lo lắng cho ta hoặc ít nhất là tử tế với ta. Những ngýời này bao gồm mẹ, ngýời phối ngẫu, chị em, cô dì, cháu chắt của ta mà không thể kể hết ra ðây.
Một nhóm các cụ ông khác, hình nhý cay cú với ðàn bà nên ðã thốt ra:”Phụ nhân nan hóa” Ðàn bà khó dạy. Có thực ðàn bà khó dạy không? Bút Xuân nghĩ có với một số ngýời và không với một số ngýời. Nhiều ngýời ðàn bà nan hóa vì có tính chýớng, ngang, không chịu phục thiện, không nhìn ra lẽ phải, tự ái quá cao, cứ nghĩ mình ðã giỏi giang hết mức không ai qua mặt ðýợc. Vì vậy nên chồng có bàn luận thì cãi chày cãi cối rồi làm sai tóet lóet, hý việc. Nhýng khi chồng có nói lại cho nghe ðể sửa mình thì chẳng những không sửa mà còn bù lu bù loa “cả vú lấp miệng em” ðổ tội cho chồng, cho con hay cho những ngýời liên hệ trong sự việc. Các cụ ông khi xýa bèn giáng cho một câu trýớc khi ra khỏi nhà ðể trút bớt bực tức:”Gái ðĩ già mồm”. Thật là cay ðắng cho cả hai ngýời!
Bút Xuân có quen một vài ông cụ rất thân tình. Bàn về gia ðạo, các cụ phát biểu:”Chúng tôi chấp nhận lấy những ngýời vợ ít học miễn là thýõng yêu chúng tôi. Nhýng có một ðiều quan trọng là ngýời ðàn bà phải biết phục thiện, chịu nghe, biết học hỏi cái hay, bỏ dần cái dở thì rồi cũng khá lên ðýợc. Chứ ðã ít học, kém kiến thức lại ngang nhý cua thì thánh cũng ðầu hàng. Ý kiến chí lí vậy thay! Ngu giả thiên lự tất hữu nhất ðắc. Ngýời ngu mà suy nghĩ tới nõi cũng có một ðiều dùng ðýợc.
Trở lại với những bà mẹ chồng. Nếu nói cho những phụ nữ Mỹ nghe, chắc họ ngạc nhiên và cýời nôn ruột.
Ðó là những bà mẹ chồng ghen với con dâu. Thực vậy, vì bà quá thýõng con trai nên chỉ sợ nó chia sẻ cái tình thýõng của nó ðối với mình cho ngýời khác dù ngýời khác là vợ nó.
Khi Bút Xuân ở tuổi thiếu niên mỗi ngày ði học ðều phải ði qua nhà ông bà chánh Tùy. Tuổi trẻ tò mò, có lúc mấy thằng bạn và Bút Xuân ðứng bên ngòai bức týờng hoa thấp ghé mắt nhìn vào xem chuyện gì ðang xẩy ra mà bà chánh Tùy la hét cô con dâu, vợ anh Tầm quá trời. Chúng tôi thấy bà chánh làm rất dữ với chị Tầm ðang khi chị thái bèo cho lợn ãn ở sân. Bà chánh quát:
“Tại sao mới chập tối mà mày ðã vào buồng ngủ với nó, rồi tao gọi thế nào mày cũng không ra hở con vợ thằng Tầm?”
Chị Tầm vẫn thái bèo, lấm lét nhìn bà mẹ chồng nhýng không trả lời. Bà Tùy ðổ quạu:
“Sao tao hỏi mà mày câm ngâm ngẩm vậy, con kia?”
Chị Tầm vội vàng:
“Con nghe mẹ gọi con, con muốn ra nhýng anh Tầm không cho con ra.”
“Có thật nó không cho mày ra hay mày ðổ tội cho nó?”
“Con ðâu dám nói dối mẹ!”
Bà Tùy giận sôi lên:
“À, thằng này bây giờ nó coi vợ nó hõn mẹ, trời ðất ạ. Có con cái nhà ai nhý thế không? Từ nay, mỗi buổi tối tao giao cho mày hai thùng thóc, xay, giã, dần, sàng. Nửa ðêm mới ðýợc vào buồng với nó nghe không? Tinh mõ là phải dạy ra ðồng cào cỏ, tát nýớc. Tao phải giao hẹn với mày nhý thế.”
Chị Tầm dạ trong cổ họng, chị thấy mặn mặn ở môi:
“Dạ.”
Những bà mẹ chồng nhý bà Tùy không cần biết con trai mình và vợ nó có hạnh phúc không, trái lại bà chỉ sợ chúng có hạnh phúc, quấn quít với nhau rồi quên mất bà. Vì vậy bà tìm mọi cách ðể kì ðà cản mũi khiến nhiều cặp vợ chồng trẻ khi xýa phải lèn lút yêu nhau. Là vợ chồng nhýng họ có cảm týởng chỉ là những cặp tình nhân vụng trộm ân ái với nhau một cách không ðàng hòang. Những giây phút ân ái cũng vội vã, hầu nhý chỉ làm cho chóng xong, ấy là ðèn ðóm ðã tắt hết cả, tối thui tối mò, hai khuôn mặt kề cận với nhau mà chẳng thấy gì ngòai một mầu ðen của bóng ðêm. Quần áo tất nhiên có sột sọat chứ sao không nhýng dù là âm thanh rất nhỏ nhýng cả hai phải nín thở qua sông cho xong việc. Mýời lần nhý cả mýời, mýời cặp nhý cả mýời, thế nào ngýời ðàn bà cũng thì thầm vào tai chồng: “Khẽ chứ nhà, mẹ thính tai lắm.” trong khi cả hai tim ðập hõn trống làng vì lo sợ bà già bắt ðýợc. Bà già mà bắt ðýợc thì “sống mà ãn sắn”, câu nói cửa miệng thời ðó ðể chỉ sự hiểm nghèo, phiêu lýu mà cặp vợ chồng phải ðýõng ðầu. Nhýng cũng lạ, càng hiểm nghèo bao nhiêu thì hai tâm hồn càng tìm mọi dịp ðến với nhau vì bên nhau bao lâu họ vẫn không cho là ðủ y nhý bây giờ thanh niên thiếu nữ Mỹ hỏi:”How much sex is enough?” Bao nhiêu ân ái mới ðủ ðây?
Sự lo xa của các cô dâu không phải là không có lí do. Các bà mẹ chồng dù không trông thấy gì trong ðêm tối nhýng thính giác các bà rất bén nhậy. Có thể con ruồi bay qua cái cánh sè sè rất nhẹ cũng không thóat khỏi cặp tai chó bulldog rất thính của các bà. Nếu nghe ðýợc những tiếng ðộng lạ nhý quần áo sột sọat, giải dây rút quần bung ra, tiếng hít của mũi vào hai bên má (lúc ðó chýa biết hôn môi), tiếng thở hõi to... là các bà biết ngay. Ðèn ðóm sẽ thắp sáng trýng lên và chính bà vào ngay phòng con trai với con dâu, giõ cao ðèn lên nhìn vào mùng xem chúng mày làm cái trò khỉ gì? Lúc ðó chắc chắn cả hai vợ chồng ðã quần áo chỉnh tề, nằm ngay ngắn, cách xa nhau một khỏang rộng ở giữa giýờng, hai mắt nhắm nghiền giả vờ ngủ. Bà già thấy không có gì khả nghi lại xách ðèn ði ra.
Nhiều cô con dâu thời xýa chịu không nổi những bà mẹ chồng cay nghiệt, những ðày ðọa hành hạ của nhà chồng chỉ nghe cũng ðủ sởn tóc gáy, dù vẫn yêu thýõng chồng ðã phải bỏ nhà chồng trốn ði. Cô về nhà bố mẹ ðẻ tá túc hoặc nếu bố mẹ ðẻ sợ tai tiếng không chứa thì cô lên tỉnh kiếm việc làm hoặc ði phýõng khác.
Lỗi hòan tòan từ các bà mẹ chồng cay nghiệt Sự cay nghiệt ðó có thể giảm ði khi ðứa cháu ðầu lòng của bà ra ðời. Lúc ðó cô con dâu ðã có “thâm niên quân vụ” mấy nãm lại có thành tích vẻ vang - nếu sinh ðýợc thằng cu tí thì quí hõn là cái ðĩ nhớn - bà mẹ chồng phải nể vì mà bớt cay nghiệt phần nào.
(còn tiếp)
G.S. Bút Xuân TRẦN ÐÌNH NGỌC
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Mar 22, 2015 3:15:19 GMT 9
Người Đóng Thế Vai 21/03/201500 Tác giả: Orchid Thanh Lê
Tác giả định cư tại Hoa Kỳ tháng 9 năm 1997, hiện là Phó Giáo Sư Tiến Sĩ thuộc Viện Nghiên Cứu Ngôn Ngữ, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tại Monterey, California. Với bài "Đi Tìm Tên Một Người Vô Danh", cô đã nhân giải vinh danh tác giả Viết về nước Mỹ 2014. Đồng thời với bài “Thầy Việt Trò Mỹ”, cô nhận thêm giải viế văn Trùng Quang 2014.
* * *
- Tôi á, tôi khuyên gì được anh? Anh dư tuổi quyết định chuyện đời của anh rồi cơ mà. Bằng mọi giá anh đem người ta sang đây rồi bây giờ anh phụ bạc. Anh đúng là cái đứa cà chớn nhất mà tôi biết từ trước đến nay.
- Cháu là thằng khốn nạn, bác ơi! Cháu khổ lắm.
- Ứm ừm, tôi đã muốn dùng cái chữ anh vừa tự trách mình đấy. Ối dào, khối người khổ hơn anh, tại anh không muốn thừa nhận đấy thôi! Thử giả nhời xem tôi có nói quá về anh không.
Lòng dạ rối bời, anh cúi đầu trước lời trách móc mỉa mai của bà bác. Anh biết bà bác đang nói đến chị. Đúng là so với anh, chị khổ hơn gấp bội. Bây giờ chị ở nơi nao để nghe anh nói lời thống hối chăng? Anh đã từng có những tháng ngày vật vã khổ đau không có chị kề bên. Khi nhớ chị tột cùng, anh đã từng mơ sống lại thời trẻ chỉ để yêu chị mà không phải băn khoăn về những phức cảm của riêng mình.
Anh học võ thuật từ nhỏ và thường thích mạo hiểm. Không mặn mà chuyện học văn hóa cho lắm, anh bỏ học ngang ở lớp 11 dù gia đình có khuyên lơn cách mấy. Anh thích phim hành động, mơ tưởng được đóng vai người hùng trong phim ảnh nhưng nghề diễn viên không mỉm cười với anh. Không có điều kiện học diễn xuất hay được đo t?o bi b?n, anh không được tuyển làm diễn viên chuyên nghiệp.
Tuy vậy, niềm đam mê mãnh liệt đã tạo cơ hội để anh đóng thế cho diễn viên chính trong các pha hành động, nhất là trong các cảnh quay mạo hiểm. Dù được phục trang hệt như diễn viên chính nhưng nghề đĩng th? vai của anh chỉ xuất hiện ở mảng tối của phim trường nên nào ai bi?t danh tính của anh. Có chăng thành tích cụ thể của anh là số vết sẹo lưu lại trên thân thể sau mỗi tai nạn của nghề đóng thế vai.
Một khi theo nghề, anh hiểu mình đang chấp nhận sự liều lĩnh. Cách anh bảo vệ bản thân tốt nhất là tập luyện thật kỹ trước khi đóng thế vai bởi chỉ một sơ xuất nhỏ về kỹ thuật là có thể nguy hiểm đến tính mạng. Mẹ anh lúc đó tuy đã định cư tại Mỹ nhưng vẫn thường gọi điện thoại ngăn cản anh đeo đuổi cái nghề hết sức rủi ro này. Hồi còn ở Việt Nam, bà chỉ thấy anh suốt ngày luyện đánh đấm, đua xe, nhảy lầu, lao mình vào khói lửa. Anh cương quyết bám nghề mình thích. Âu đó cũng là cái nghiệp anh mang.
Ngày nọ, anh gặp chị bên gánh trái cây bán rong bị rượt đuổi với lý do chiếm cứ lòng lề đường. Ra tay anh hùng cứu mỹ nhân, anh phải lòng chị từ lần đầu chạm mặt, chị có chút gì đó yếu đuối mong manh để cần anh che chở, bảo vệ. Mỗi lần chị kéo thấp chiếc nón lá nghiêng vành, anh lại được thấy miệng chị cười thật hiền. Ngày qua ngày, anh tìm cớ lượn lờ qua phố chợ để biết chắc chị và gánh hàng được yên ổn. Từ dăm ba mẩu chuyện thường ngày cho đến khi tình cảm tiến xa hơn, anh và chị cảm thấy cần có nhau. Chỉ có điều anh kém chị 5 tuổi. Tại sao phải phán xét?
Điều khác biệt cũng có những lý lẽ riêng trong hôn nhân, nhưng dư luận xã hội thì chưa đồng thuận. Một cuộc hôn nhân lệch gia thế đã đành, còn lệch tuổi giữa anh và chị lại càng khó được yên thân một khi dư luận xã hội luôn tạo làn sóng thông tin. Họ tiên đoán cuộc hôn nhân của anh và chị sẽ không đầu, không đuôi. Nhưng hôn nhân phải chăng là kết quả của sự tìm kiếm hạnh phúc? Hạnh phúc này anh và chị tự tìm kiếm, cảm nhận và hưởng thụ, thế thì tại sao người đời lại có thể đánh giá về nó.
Ấn tượng về một người hùng che chở kẻ yếu đuối đã hình thành tình yêu nơi chị. Vì vậy khi yêu anh, chị đã vượt qua tất cả mọi rào cản bất kể tuổi tác. Khi người thân và bạn bè biết về tuổi thật của hai người, đa số đều khuyên chị nên dừng lại bởi lẽ yêu người trẻ quá sau này chị sẽ là người chịu thiệt. Họ bàn ra với lý lẽ người chồng kém tuổi sẽ ít kinh nghiệm sống và không có sự thấu hiểu vợ bằng người đàn ông nhiều tuổi hơn. Chị đã bỏ ngòai tai và tin tưởng vào quyết định của mình.
Riêng anh khi nhìn lại, anh đã thấy con người mình lúc đó còn trẻ, tự tin rằng anh đủ bản lĩnh để chinh phục người phụ nữ lớn tuổi hơn anh. Bản chất của người đàn ông trong anh thích sự thách thức và rủi ro. Anh đã cho rằng yêu thì không toan tính vì một khi đã tính thì không còn là tình yêu. Anh khẳng định rằng không có gì bất hạnh hơn là sống mà không có chị và cảm thấy mọi chuyện thoải mái khi bên chị.
Ngày đó, chàng thanh niên trẻ tuổi trong anh chưa hề trằn trọc đêm nào để hỏi lòng mình có đủ tự tin về cuộc hôn nhân với người hơn tuổi.
Khi sang Mỹ đoàn tụ với gia đình, anh kiên quyết làm thủ tục kết hôn để bảo lãnh chị sang. Dù gia đình phân tích và viện dẫn đủ mọi lý do để ngăn cản. Cô em kế anh từng nói không nể nang:
- Con người ta không có điều kiện định cư ở Mỹ thì phải mất vài chục ngàn đô làm hôn thú giả may ra mới sang được, đó là chưa kể bị lừa. Đằng này anh mình hào hiệp không công.
Cô em gái út thẳng thừng hơn:
- Anh ấy thích làm phi công trẻ lái máy bay bà già.
Anh giận run. Đau. Nghẹn. Người bạn đời lớn tuổi hơn anh bị ví von như một máy bay bà già. Người anh yêu không phải là một cỗ máy. Chị là một thực thể nhân sinh. Anh chỉ còn biết nín nhịn, trừng mắt với hai đứa em gái chua ngoa.
Riêng mẹ anh thì không biết bao lần gợi ý:
- Dễ con nhớ bác Trung ngày trước làm chung sở với bố bây giờ cũng ở thành phố này? Mẹ muốn kết thông gia đấy. Trang con gái bác ấy thật dễ thương. Ý con thế nào?
- Con biết cô Trang nhưng không biết cô ấy dễ thương.
- Tôi nuôi anh khôn lớn đến ngần này để anh đối đáp với tôi đấy à?
- Con xin mẹ. Sự lựa chọn của con có thể sai, nhưng ít nhất con đã công khai và sẽ có trách nhiệm với quyết định của mình bằng một cuộc hôn nhân.
Sau cùng, anh xem chừng quá mệt mỏi, nói buông thõng:
- Giả như sai, con vẫn có thể làm lại.
Lần đó bố anh nghe hai mẹ con đấu lý. Ông vốn dĩ kiệm lời, vắn gọn:
- Một đứa lãng tử bất định như con mình nên cần một hậu phương vững chắc. Nên chúc phúc cho hai đứa nó hơn là tạo áp lực vì chúng đã chịu nhiều phản đối từ dư luận.
Ông chờ anh quay lưng đi khỏi, hạ thấp giọng, nói vừa đủ bà nghe:
- Vả lại, con mình chẳng học hành đến nơi đến chốn, nghề ngỗng lại không ổn định trong khi con bé Trang sang Mỹ từ nhỏ, có bằng cấp hẳn hoi. Bà xem nếu phải chọn lựa giữa cao học và cao tuổi, con mình hợp cái nào?
Trong gia đình, mẹ anh luôn phục tùng chồng. Bà yên lặng không đáp lại, dáng chừng bằng mặt mà chẳng bằng lòng. Bản chất của một kẻ đóng thế vai trong anh là không chùn bước trước những thách thức. Anh đã vượt qua dư luận và lời ra tiếng vào của một số người thân trong gia đình để cuối cùng đem được chị qua Mỹ sống chung.
Lấy một người đàn ông kém tuổi mình đòi hỏi chị sự tinh tế trong việc giữ gìn tổ ấm. Chị kiềm chế được những tranh cãi không cần thiết từ cá nhân anh và phía gia đình chồng. Chị cũng tìm một nghề hợp với khả năng khiêm tốn của mình để kiếm sống. Đối với chị thế là an phận. Nếu ông trời cho vợ chồng anh chị một đứa con thì đó là diễm phúc vì tuổi chị không còn trẻ nữa. Thời gian chung sống hạnh phúc bên nhau của anh và chị bằng với số tuổi lệch nhau giữa hai người.
Đến khi anh 38 tuổi với phong độ của người đàn ông chín chắn thì chị ở ngưỡng tuổi 43. Chị vẫn đối với anh bằng tấm chân tình nhưng trớ trêu thay một cuộc sống phẳng lặng không thách thức thì không phù hợp với tính cách của anh. Anh đã qua rồi thời kỳ theo đuổi và chinh phục, chỉ còn là cuộc sống vợ chồng quen thuộc đến nhàm chán.
Đã không ít lần anh phải tự vượt qua mặc cảm bị ngộ nhận quan hệ chị em trước đấm đông mỗi khi vợ chồng đi bên nhau. Phần lớn anh đủ bản lĩnh làm tan biến mặc cảm khi hai người quay trở về nhà nơi chỉ có họ với nhau. Thi thoảng, anh không tự chủ được đâm ra hằn gắt chị vô cớ. Nhận ra sự lạc điệu trong hạnh phúc chồng vợ, anh không tìm cách khắc phục mà trượt xa hơn để tìm kiếm những thứ khác bù đắp cho sự thiếu sót này. Anh cũng như bao người đàn ông khác thích đam mê cái mới, say cái lạ, và không muốn bỏ qua cơ hội trải nghiệm bởi vì "của lạ bằng tạ của quen". Nhưng anh đã quên đi quy luật tự nhiên rằng cái mới rồi cũng trở thành cái cũ sau một thời gian nào đó. Cuộc sống êm đềm của vợ chồng dần dầnn có những hòa âm trái tai.
Ở thời điểm một lúc nào đó, hạnh phúc hoà nhập trong anh và chị nhưng rồi lại tách ra do sự lạc điệu. Lạc điệu càng nhiều thì tách ra càng nhanh. Trái tim anh và chị bần thần hụt nhịp yêu thương. Anh viện giải trơn tru những lần về thăm lại Việt Nam mà không đưa chị theo cùng. Điều nghịch lý là gia đình anh hiện ở hết bên Mỹ trong khi chị còn mẹ và em gái bên quê nhà. Chị đã nhìn ra nơi anh sự thích đổi mới. Cả thèm chóng chán. Chị đã từng tự vỗ vai mình an ủi “sẽ quen”, rồi mím môi “cố quen”, và run rẩy tự nhủ “đã quen.”
Vẫn là tật rượu chè, anh nào có bỏ được. Lúc xưa chị nhắc nhở thì anh tự biện hộ rằng mình uống để gọi là có thêm dũng khí khi sắp nhận một vai liều lĩnh trong phim hành động. Sang Mỹ anh chẳng theo được nghề mình yêu thích, vốn liếng tiếng Anh hạn chế, cộng thêm vóc dáng vừa tầm của người Á Đông khó đóng thế vai cho các diễn viên Mỹ, anh đành ngậm ngùi bỏ nghề. Anh không muốn đi học thêm mà cũng chẳng bằng lòng với việc làm lương thấp. Anh có đủ lý do để hậm hực, để thiếu kiên nhẫn với chị. Anh đã quên đi một điều rằng hạnh phúc của hai người tựa như chiếc vé có hạn sử dụng. Anh đã không nghĩ rằng người bạn đồng hành trong hạnh phúc với anh có thể bất chợt dừng lại ở một khoảng nào đó để mặc anh chơi vơi phía trước cuộc đời.
Ngày đó đã đến. Chị lặng lẽ rời anh với dòng chữ vỏn vẹn “Từ biệt Cascadeur. Nếu không thể sống chung thì đành chia tay.” Thông điệp của chị rõ ràng: bền vững hay không do sức chịu đựng của hai người với nhau và nay sức chịu đựng nơi chị đã quá ngưỡng. Anh đọc lời chị viết khi vẫn còn ngầy ngật hơi men sau một đêm cuối tuần say bét nhè với đám bạn rượu. Anh chưa đủ tỉnh táo để nhận biết những gì sẽ xảy ra cho anh khi chị ra đi.
Cái biệt danh “Cascadeur” chị thường âu yếm gọi anh như nhắc nhớ cái nghề cũ anh vẫn còn đam mê. Yêu nhau lệch tuổi, ngôn từ nhân xưng giữa vợ chồng dường như triệt tiêu. Đã qua rồi cái thưở “em và chị” lúc mới quen. Khi giao tình càng lúc đậm đà, anh và chị xưng tên với nhau nghe đủ ngọt mềm. Lấy nhau rồi xưng hô “anh và em” nghe sao ngượng ngập chưa đủ tự nhiên nên thôi thì vẫn ở chừng mực gọi tên nhau.
Mượn rượu quên sầu. Đến một lúc nào đó rượu đốt cháy gan anh. Bác sĩ chẩn đoán anh bị xơ gan cần được thay ghép. Bác sĩ giải thích rõ cho gia đình anh tiến trình phẫu thuật phức tạp. Ngoài xếp hàng trong danh sách chờ được ghép gan, điều kiện yêu cầu gan người hiến tặng phải tương hợp với gan người nhận. Theo thống kê, gần một nửa trong số các bệnh nhân cần được thay gan thường chết trong thời gian chờ đợi. Anh không là ngoại lệ nên cũng phải trong danh sách chờ. Chờ bao lâu không biết, nhưng anh cần có nghị lực để nuôi hy vọng.
Trong các ca ghép gan, thường chỉ thấy những người có quan hệ thân thích như cha mẹ, con cái cho một phần gan để cứu mạng người thân. Tuy nhiên, điều kỳ diệu đã xảy ra với anh khi phải giằng co giữa cái chết và sự sống bởi vì người hiến tặng nửa lá gan cứu anh không chảy chung một dòng máu ruột thịt.
Ca phẫu thuật kéo dài 12 tiếng đồng hồ. Anh được cứu sống. Lúc tỉnh dậy, anh khẩn khoản muốn gặp ân nhân để nói lời tri ân tận đáy lòng. Ân nhân đã cho anh một dịp bắt đầu lại cuộc đời. Bệnh viện đã không tiết lộ thêm một thông tin nào theo yêu cầu của người cho. Thôi thì anh đành mang nợ người ta trọn đời mà không biết đền đáp như thế nào.
Sau này trong những lúc khắc khoải nhớ đến người bạn đời, anh thảng thốt ngộ ra rằng anh chỉ là người đóng thế vai trong sân khấu điện ảnh nhưng chị mới chính là người đóng thế nhiều vai trong cuộc đời anh. Một người chị. Một người bạn. Một người vợ hiền. Anh nào có trân trọng mà đinh ninh xem đó là người phụ nữ do trời định để lo cho anh. Chia tay Cascadeur, chị đoạn tuyệt những vai đóng thế trong sân khấu cuộc đời.
Giờ đây, sau những hành động sai lầm, anh mong được người bạn đời cho một cơ hội để tạ lỗi của mình. Anh tìm đến người bác già để cầu may biết đâu bà có thông tin gì về chị. Ngày còn nhỏ, anh thường chạy qua bà bác tâm sự khi giận hờn bố mẹ. Dù bà bác không phải lúc nào cũng nuông chiều anh nhưng anh lại đặc biệt yêu quý bà.
Lúc mới quen chị, anh đã bạo dạn đưa chị đến giới thiệu với bác và được bà ủng hộ. Bà khen chị hiền thục, biết đường ăn ý ở. Sau đó vài năm bà bác đi định cư ở Mỹ thì chị vẫn giữ liên lạc thân thiết với bà. Giờ đây anh lái xe nhiều dặm đường xa chỉ để nghe bà bác trách tội, chì chiết về cái hạnh phúc anh để vuột đi. Lời bà rỉ rả:
Có phước lấy được vợ già Sạch sửa sạch nhà lại ngọt cơm canh
Bà bác từng trải bao chuyện đời, anh chưa thấy câu nào bà nói là không phải, ngay cả khi bà lý giải về một quan niệm được mặc nhiên công nhận từ xưa đến nay:
- Anh không biết đấy thôi, cách đây 65 năm, thầy mẹ tôi gả tôi về làm dâu nhà bác trai lúc tôi 16 tuổi còn bác trai mới 14 tuổi lúc ấy. Các cụ vin vào cái câu “gái hơn hai, giai hơn một” để tác hợp chúng tôi. Sau này tôi hiểu biết hơn, tôi không đồng ý cái câu ấy đâu. Chẳng qua đất nước ở vào thời kinh tế nông nghiệp, đàn bà chúng tôi bị thiệt thòi lắm. Bị gả như thế chẳng qua là có thêm nhân lực về làm việc phụ gia đình chồng đấy thôi. Chậc! Tôi nói nhiều nói ít cũng thế. Thôi anh về nhé, tôi cần nghỉ. Lúc khác đến thăm thì tôi cám ơn.
Bà bác đuổi khéo. Bà kết thúc cuộc nói chuyện giữa hai bác cháu bằng lời chào tạm biệt. Bà dường như không quan tâm anh lái xe đường xa đến thăm bà thì sẽ dùng bữa ở đâu và nghỉ qua đêm chốn nào. Bà ngả lưng ra chiếc ghế dựa, nhắm nhẹ mắt. Anh phải đi thôi. Anh còn có thể thốt ra lời nào than thân trách phận được nữa, đành ủ rũ đứng lên chào về.
Biết chắc anh đã đi xa khỏi, bà bác từ từ ngồi dậy. Chậm rãi hớp ngụm nước chè, bà quay người nói vọng vào nhà trong:
- Chị không cần phải tránh mặt anh ấy nữa, nó đi hẳn rồi. Ra ngồi đây bác bảo. Phào! Mỗi lần nói chuyện với nó là bác rõ đứt hơi. Nó là đứa cháu thân thiết nhất của bác nên bác có phần nào hiểu nó. Đối với bố mẹ đẻ nó còn chưa tâm sự nhiều như với bác đâu. Chị nghe rõ bác cháu tôi chuyện trò đấy chứ? Hỏi lòng xem chị có tha thứ cho nó không. Đàn ông dăm bảy lá gan, chị ạ. Bây giờ nó chẳng còn cái lá gan nào mà dám to nữa đâu, họa chăng nó được ghép gan hùm. Chị âm thầm chia sẻ cho nó một phần lá gan của chị rồi. Nó chưa biết đấy thôi, nếu biết ra thì nó ơn chị cả đời vì cứu mạng sống của nó. Này, chị khóc đấy ư? Chị chưa biết phải làm thế nào thì cứ ở đây với bác như hồi nào đến giờ, bác vẫn xem chị như con, con ạ!
Vẫn chỉ là tiếng thổn thức. Dáng chừng chị muốn lắng nghe con tim mình quyết định.
Hồi lâu, như đã kiềm chế được cảm xúc, chị ngập ngừng, khe khẽ hỏi bà bác:
- Bác ơi, anh ấy có nói khi nào quay lại?
Xem ra nhân gian còn vướng víu nhau trong duyên nợ. Cái nợ tình là nợ lớn nhất, càng gỡ càng vướng. Người xưa đã dạy như thế.
Không biết chị đã hết nợ anh hay anh vẫn còn nợ chị./.
Orchid Thanh Lê
|
|