|
Post by Can Tho on Dec 21, 2006 5:02:05 GMT 9
Phỏng vấn bà Nguyễn Thị Vinh, 1 trong ba thành viên cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn 2006-12-18 Bà Nguyễn Thị Vinh, 1 trong ba thành viên cuối cùng của Tự Lực Văn Đòan. (RFA) Từ năm 1932 đến năm 1945, Tự lực văn đoàn chiếm một vị trí ưu thế tuyệt đối trên văn đàn Việt Nam và đã ảnh hưởng sâu sắc đến giới thanh niên và trí thức Việt lúc bấy giờ. Năm 1933 Tự Lực Văn Đòan chính thức thành lập gồm có: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo ( Nguyễn Tường Long), Thạch Lam ( Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ) về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu, và còn một số nhà văn cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này là: Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ… Bà Nguyễn Thị Vinh là 1 trong ba thành viên cuối cùng của Tự Lực Văn Đòan. Bà Nguyễn Thị Vinh sinh năm 1924 tại Hà Nội. Quê nội: làng Thịnh Đức thượng Hà Đông. Quê ngoại: làng Vân Hoàng, Hà Đông. Đã xuất bản nhiều tác phẩm tiêu biểu, gồm truyện ngắn, truyện dài, thơ và tùy bút… Trước năm 1975 bà giữ chức Chủ bút và Chủ nhiệm 2 tạp chí văn nghệ: Tân Phong và Đông Phương. Bà cũng là thành viên của Hội đồng Giám khảo Giải Văn học Nghệ thuật Toàn quốc VNCH. Hiện đang tỵ nạn chính trị tại Na Uy, Bà tiếp tục hoạt động văn học trong vai trò Chủ nhiệm tạp chí văn nghệ Hương Xa. Và là thành viên trong nhóm chủ biên nhà xuất bản Anh Em. Sau đây là phần nói chuyện của chúng tôi với bà: Mặc Lâm: Thưa bà, xin bà cho biết cơ duyên nào đưa tới việc bà gia nhập Tự Lực Văn Đoàn? Bà Nguyễn Thị Vinh: Ba thành viên lớp sau (hay đúng hơn, phải gọi là ba thành viên dự bị) của Tự lực Văn đoàn, gồm nhà văn Duy Lam, nhà văn Tường Hùng và tôi đều do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lựa chọn, tại Sài Gòn vào khoảng đầu thập niên 1950. Văn bản với bút tích của nhà văn Nhất Linh hiện do tác giả Nguyễn Tường Thiết, con trai út của nhà văn Nhất Linh lưu giữ. Trước đó, trong một bài thơ mang tên Tự Lực, Nhất Linh viết vào lúc 2 giờ sáng Mùng Một Tết năm Quý Tỵ, nhằm ngày 14 tháng 2 năm 1953, ông đã ghi: Tự Lực vườn văn mới trội tên Bỗng dưng thời thế đảo huyên thiên Thương dăm lá cũ vừa rơi xuống Mừng mấy mầm tươi vụt nhú lên Mạch cũ, nhựa non rồn rập chảy Vườn xưa, hoa mới điểm tô thêm Người qua, sách mọt, đời thay đổi Tự Lực, danh chung, tiếng vẫn truyền. Xin bạn để ý, câu mở và câu kết đều bắt đầu bằng Tự Lực: Tự Lực vườn văn mới trội tên… …Tự Lực, danh chung, tiếng vẫn truyền. Mặc Lâm: Xin cho biết về tác phẩm đầu tay của bà cũng như tác phẩm mới đây nhất. Bà Nguyễn Thị Vinh: Hai Chị Em, Truyện ngắn, NXB Phượng Giang, Việt Nam Sài Gòn 1953. Cỏ Bồng Lìa Gốc, Tuỳ bút /Tâm cảm, NXB Anh Em, Hoa Kỳ San José 2005. Mặc Lâm: Tự Lực Văn Đoàn đã được lịch sử xác nhận là một tổ chức có ảnh hưởng rất lớn đối với thanh niên và trí thức trong một khoảng thời gian dài. Xin bà cho biết chi tiết hơn về vấn đề này. Bà Nguyễn Thị Vinh: Tự lực Văn đoàn gây ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài đối với đa số thanh niên nam, nữ thị dân theo Tây học và Chữ Quốc Ngữ, từ Bắc tới Nam, về các mặt tư tưởng, văn hóa, xã hội.. a/ Trước hết phải kể tới Tinh thần Tự lực từ cá nhân, gia đình cho tới xã hội. Không có Tinh thần Tự lực thì quốc gia không thể giành được nền độc lập toàn vẹn, đúng nghĩa. b/ Giữ gìn truyền thống mỹ tục. Đả phá mọi hủ tục. c/ Nêu cao tinh thần Khoa học Thực nghiệm. Bài trừ thói mê tín dị đoan. d/ Chống nạn mù chữ. Phổ biến và nghệ thuật hóa việc dùng Chữ Quốc Ngữ. e/ Hướng đến một cuộc cách mạng, tạm gọi là “Cách mạng Tư sản”, trên nền tảng Chủ nghĩa Tam Dân: “Dân tộc Độc lập, Dân quyền Tự do, Dân sinh Hạnh Phúc.” Cho nên từ “ngôi nhà ánh sáng”, tới chiếc “áo dài LeMur”, “thơ Mới”, “tiểu thuyết luận đề”, “đảng Hưng Việt”, đến báo chí ...
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 21, 2006 5:03:40 GMT 9
“Phong Hóa”, “Ngày Nay” và “Vãn Hóa Ngày Nay”… Tranh khôi hài “Lý Toét, Xã Xệ”… ðã làm nên tính cách Tự lực Vãn ðoàn, một vãn ðoàn vì Quốc gia Dân tộc.
Mặc Lâm: Những thành viên cuối cùng hiện còn sống ngày nay gồm những ai, có ai trong số họ vẫn còn theo ðuổi vãn chýõng nghệ thuật không?
Bà Nguyễn Thị Vinh: Hai nhà vãn Duy Lam và Týờng Hùng vẫn sáng tác, sinh hoạt vãn nghệ. Phần tôi, hoạt ðộng vãn nghệ không nhân danh Tự lực Vãn ðoàn. Vì tự nghĩ: Tự lực Vãn ðoàn ðã làm xong nhiệm vụ lịch sử kể từ sau sự tuẫn tiết của nhà vãn Nhất Linh Nguyễn Týờng Tam.
Tôi biết õn Tự lực Vãn ðoàn. Nhýng mọi vấn ðề của nhà vãn ngày hôm nay, ðầu thế kỷ 21, ðã khác với ðầu thế kỷ 20. Chỉ còn Tinh thần Tự lực là mãi mãi nguyên vẹn cho cả nhà vãn lẫn ngýời ðọc Việt Nam. Mặc Lâm: Theo bà thành tựu lớn nhất của Tự Lực Vãn Ðoàn là gì? Ðiều gì còn ðọng lại ðến ngày nay rõ rệt nhất?
Bà Nguyễn Thị Vinh: Vãn học Nghệ thuật chuyên chở tình Yêu Nýớc, Thýõng Dân, với phýõng châm: “Muốn Cánh sinh phải Tự lực từ cá nhân, gia ðình và xã hội, ðặc biệt là nâng cao trình ðộ dân trí.”
Quốc thể muốn tự lực, dân trí phải nâng cao. Muốn dân trí nâng cao phải có Tự do Tý týởng, Tự do Ngôn luận. Làm giàu và làm ðẹp thêm cho Tiếng Việt.
Mặc Lâm: Bà nghĩ thế nào khi trong nýớc cho in lại hầu nhý toàn bộ những tác phẩm của Tự Lực Vãn Ðòan? Có phải ðây là một dấu hiệu tích cực của nhà nýớc Việt Nam trong lĩnh vực ðổi mới?
Bà Nguyễn Thị Vinh: Tôi xin phép ðýợc thêm vào hai chữ “cộng sản” trong cụm từ “nhà nýớc Việt Nam”, ðể cho rõ là “nhà nýớc cộng sản Việt Nam”. Ðể thấy rõ ràng, rằng “ðổi mới của họ chính là trở về với cái cũ”. Tôi chỉ thấy dấu hiệu tích cực khi nào họ trở về với Tinh thần Tự lực.
Nâng cao Dân trí bằng cách Tự do Tý týởng. Thời thực dân Pháp kiểm duyệt báo chí, vãn hóa phẩm rất khắc nghiệt mà nhà xuất bản Ðời Nay, báo Phong Hóa và Ngày Nay của Tự lực Vãn ðoàn vẫn thuộc quyền tý nhân. Vẫn ðýợc nói xa, nói gần tới Tự do, Dân chủ.
Ở Hoa Kỳ, ngýời dân không có cái lối mừng vì ðảng Cộng Hòa ðổi mới, thí dụ thế, mà hễ ðảng Cộng Hòa không làm lợi cho dân, cho nýớc, hoặc không phù hợp với ða số ý dân, ngýời ta sẽ bàu cho ðảng Dân Chủ, nhý tin thời sự hiện nay. Trình ðộ dân trí phải thật sự cao mới làm ðýợc ðiều hết sức giản dị nhý thế. Ðó là vãn minh. Ðó là dân quyền. Ðó là nhân bản.
Mặc Lâm: Với kinh nghiệm của một ngýời cầm bút hõn nửa thế kỷ, bà nhận thấy nền vãn học Việt Nam hiện nay cần nhất ðiều gì ðể có thể theo kịp nền vãn học thế giới?
Bà Nguyễn Thị Vinh: Ít nhất chúng ta cũng phải nhìn nhận một số nét cãn bản của nền vãn học ở nhiều quốc gia tiến bộ mà chúng ta gọi là “Vãn học Thế giới”. Thí dụ: Không kiểm duyệt. Nhà vãn ðýợc tự do sáng tác, ấn hành, xuất bản và phát hành… Vãn học có thể týõng quan với chính trị, nhýng tuyệt ðối không bị bó buộc phải phục vụ chính trị, giáo ðiều.
Vãn học Việt Nam, trong nýớc, còn bị kiểm duyệt, kiểm soát tý týởng một cách thô bạo. Tự ðiều này ðã là một câu trả lời rồi!
Mặc Lâm: Bà có nhận ðịnh gì về ðóng góp của những ngòi viết hải ngoại? liệu có ðủ lực lýợng ðể hình thành một dòng vãn học khác song song với dòng vãn học trong nýớc?
Bà Nguyễn Thị Vinh: Theo thiển ý, Việt Nam chỉ có một dòng vãn học, dù nhà vãn Việt Nam sống ở trong hay ngoài ðất nýớc. Vấn ðề là tác giả nào, tác phẩm ra làm sao. Thí dụ, bản thảo truyện dài Xóm Cầu Mới của nhà vãn Nhất Linh, viết tại Hồng-kông nãm 1949; xuất bản tại Sài Gòn trýớc nãm 1975; mới ðây tái bản tại Hoa Kỳ… Vậy, Xóm Cầu Mới thuộc dòng vãn học nào?
Còn những ngýời viết ở Hải ngoại? Chắc chắn ða số ðã viết khác với phần ðông những ngýời ở trong nýớc, bởi nhân sinh quan và bối cảnh tinh thần cũng nhý vật chất không giống nhau. Nên, bạn Mặc Lâm cũng có lý, họ ðã hình thành một “dòng vãn học khác với trong nýớc”.
Hiện nay, nhiều bản thảo của một số nhà vãn ở trong nýớc, không ðýợc phép in ở trong nýớc, hiện ðang ðýợc xuất bản ở Hải Ngoại, cũng góp phần quan trọng, làm nên một “dòng vãn học khác, song song với dòng vãn học trong nýớc”.
Mặc Lâm: Bà ðã áp dụng “Tinh thần Tự lực” nhý thế nào trong sinh hoạt vãn nghệ tại Na Uy, nõi có quá ít ngýời Việt?
Bà Nguyễn Thị Vinh: Ðộc giả ít. Ấn phí ở châu Âu, nhất là ở Bắc Âu rất cao. Cýớc phí býu ðiện cũng nặng nề không thua gì tiền in. Giá tiền gửi một cuốn sách từ Oslo, Na Uy tới Mỹ, Canada, Úc, Nhật Bản thýờng cao hõn cả giá in.
Ở ðây chỉ sách viết bằng chữ Na Uy mới có thể ðýợc cõ quan vãn hóa tài trợ. Việt ngữ thì không. Vậy mà nhà xuất bản Anh Em của chúng tôi, 20 nãm qua, vẫn sinh hoạt khá ðều ðặn, nếu không nhờ “Tinh thần Tự lực” của nhiều ðộc giả, vãn nghệ sĩ, quý cõ quan truyền thông và của chúng tôi thì biết trông cậy vào ðâu? ...
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 17:49:06 GMT 9
Vài Nét Sinh Hoạt Văn Học về Nữ Sĩ NGUYỄN THỊ VINH Sinh ngày 15/07/1924 tại Phố Bờ Hồ Hà Nội, nguyên quán quê nội: Làng Thịnh Đức Vượng, quê ngoại: Vân Hoàng. Viết văn từ năm 1952, đã xuất bản chuyện dài chuyện ngắn, thơ 15 tác phẩm. Sách đã đưa vào giảng dạy phần Kim Văn của Bộ Quốc Gia gia đình VNCH. Thành viên của hội đồng tuyển chọn giải văn học VNCH Tác giả cuốn Na Uy và Tôi đã được đại nhật báo Aften Posten nhận định là “Một nhịp cầu giữa hai thế giới đông tây” Hiện là chủ nhiệm tạp chí văn nghệ Hương Xa. NHẤT LINH & XÓM CẦU MỚI Thật ra, tôi nghĩ là phải viết thế này mới đúng: Nhớ về "Xóm Cầu Mới", có nghĩa là tôi nhớ lại tác phẩm "Xóm Cầu Mới" đã được nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam ấp ủ, thai nghén và cho ra đời ở đâu, khi nào và ông, người mà lúc sống vẫn vui lòng cho phép các bạn hữu và đàn em, trong đó có tôi, được gọi là ‘anh Tam”, đã gửi gấm những gì trong tiểu thuyết "Xóm Cầu Mới"? Trong nỗi nhớ thường có điều quên và "nhớ lại" cũng không đồng nghĩa với “lại nhớ” được hết mọi chuyện. Nên tôi hi vọng rằng bài viết ngắn ngủi và nhỏ nhoi này, nếu có chi thiếu sót, xin các bạn văn và bạn chiến đấu thời lưu lạc ở Hương Cảng niệm tình mà thứ lỗi cho tôi. Trong không khí văn nghệ của bài viết, tôi tự giới hạn nhiều chi tiết liên quan đến các nhà cách mạng, các nhà hoạt động chính trị cùng các quan điểm đa dạng của quý vị ấy, bao gồm thân thế và sự nghiệp, đi đúng đường hay lạc hướng. Nếu không, bài của tôi sẽ mau chóng trở thành một cuốn sách. Tôi cũng chỉ xin viết dưới dạng một bài Bạt cho cơ sở Văn Mới khi tái bản truyện dài "Xóm Cầu Mới". Xóm Cầu Mới còn có tên là Bèo Giạt, dựa theo một câu thơ của Huy Cận, "Bèo giạt về đâu hàng nối hàng", được nhà văn Nhất Linh viết lại mạch lạc và gọn gàng ở "Trên núi, lúc 01 giờ 30 trưa, ngày 16 tháng 10 năm 1949" tại Sường Châu, Hương Cảng, nơi mà "anh Tam" cùng các"bạn chiến đấu” tỵ nạn chính trị từ năm 1946. Rồi lại viết lại, viết tiếp và sửa nhiều lần, tại Đà Lạt năm 1957. Mỗi khi có dịp nhìn lại tấm bìa cũ, các tựa sách do anh Tam phát họa, làm mẫu cho nhà in typo của nhà xuất bản Đời Nay tại Hà Nội hay Phượng Giang ở Sài Gòn; nằm trong bộ sưu tập của Nguyễn Tường Thiết, con trai anh Tam; lòng tôi lại nhen lên một ánh lửa hồi ức của que diêm kỷ niệm văn nghệ tưởng như đã tàn. Như mẫu bìa Xóm Cầu Mới, anh Tam vẽ, tuần tự từ trên xuống dưới: Nhất Linh, Trong Tự Lực Văn Đoàn, Truyện dài, chữ ký của Nhất Linh 13.01.1950, vẽ Huy hiệu và tên Nhà xuất bản Đời Nay, 1950. Các nhà phê bình văn học viết về nội dung, bố cục và bút pháp của XCM; còn tôi, nhớ mãi những ngày tháng được nhìn thấy bản thảo "chữ con kiến bò" của anh Tam, nhỏ nhưng không tới nỗi quá khó đọc, chạy trên mấy trăm trang giấy bản thảo. Bản thảo đầu tiên của XCM, anh Tam thai nghén từ năm 1940ở Hà Nội và tới năm 1949 mới được anh viết tiếp ở Hương Cảng sau khi chị Nguyên đã khuyên anh nên trở lại “đời văn sĩ”. Thời gian đó, tôi không hiểu nhiều về các vấn đề chính trị ảnh hưởng tới đất nước Việt Nam thân yêu , nhưng cũng biết là chĩ Nguyên có lý khi muốn anh Tam viết văn trở lại. Được quen biết anh từ năm 1948 tới năm anh mất 1963, tôi hiểu anh là một nghệ sĩ lớn lao, một người thương Nước, xót Dân; bày tỏ một thái độ chính trị Quốc Dân (Quốc gia, Dân tộc) trước sau như một, rõ ràng. anh Tam không phải là người "làm chính trị", dưới bóng ô dù của các thế lực Nhật, Tàu, Pháp, Mỹ. Nhà văn Nhất Linh, trong TLVĐ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà báo Nguyễn Tường Tam, gói tròn trong hai chữ Chí Sĩ. Những người cộng sản Việt thích viết sử, bằng lối tuyên truyền xuyên tạc đủ mọi cách, nhằm triệt hạ uy tín của Tự Lực Văn Đoàn cũng như của cá nhân anh Tam, suốt nửa thế kỷ, nên tài liệu như tài liệu này đâu được ai biết, theo quan điểm chép sử, ghi lại những gì đã xảy ra: Lá thư hay đơn từ chức? Dù ở hình thức nào cũng dủ nói lên đức tính “bất đồng chính kiến nhưng vẫn nghĩ tới đại cuộc chung”. Thư đề ngày 05 tháng 03 năm 1946, một ngày trước khi "cụ Chủ Tịch chính phủ liên hiệp kháng chiến" tức Hồ Chí Minh, đặt bút ký hiệp ước Sơ bộ ngày 06 tháng 03 năm 1946 tại Vịnh Hạ Long, cho thực dân Pháp trở lại Việt Nam. Theo chỗ tôi nghe anh Tam kể, anh chống lại việc hồi đó Hồ Chí Minh (đảng cộng sản, nấp dưới tên gọi Việt Minh)và Vũ Hồng Khanh (Quốc Dân đảng) đã ký chung hiệp định trên cùng với Đại diện phía Pháp là Sainteny. Trăm năm bị Pháp đô hộ nhục nhằn, bao nhiêu xương máu, thống khổ dân tộc mới có ngày 02 tháng 09 năm 1945, ngày độc lập! Nay, tháng 3 năm 1946, lại “rước voi về dày mả Tổ”, khiến đồng bào ta sau đó xương máu dòng giã chín năm kháng chiến chống Pháp, từ 1946 tới 1954, đất nước tới thảm kịch chia đôi đất nước, cũng vẫn do chính phủ Hồ Chí Minh ký với thực dân Pháp ở Genève Thuỵ Sĩ ngày 20 tháng 7 năm 1954. Hiệp định 06.03.1946 chỉ có lợi cho đảng cộng sản Việt Nam (ngụy danh đảng Lao Động, đảng Xã hội ....) Việc cho thực dân Pháp trở lại nước ta để giải giới quân đội Nhật, thay quân đội Quốc Dân đảng Tàu, thì dĩ nhiên: a. Các đảng phái quốc gia suy yếu. b. Cộng sản dễ “phất ngọn cở độc lập, dân tộc”, độc quyền chống Pháp c. Khi cuộc kháng chiến thành công sẽ "phất ngọn cờ xã hội chủ nghĩa", áp đặt chế độ cộng sản lên cả nước. Cho tới thời điểm lúc này, tháng 03 năm 2002, mà vẫn còn có người Việt chưa nhìn ra chân tướng của cộng sản, thì tháng 03 năm 1946, anh Tam và các bạn chiến đấu của anh có hô hào, giải thích cách mấy, đám đông vẫn theo “cách mạng”, vì những thủ đoạn chính trị của cộng sản, ác liệt là tuyên truyền nổi và khủng bố ngầm. Như việc nhà văn Khái Hưng đã bị bắt và bị giết. Nhà văn Nhất Linh “người chiến đấu” mang tên Nguyễn Tường Tam lúc ấy, không theo các chính phủ Bảo Đại (thân Tây), chính phủ Trần Trọng Kim (thân Nhật); mà chính phủ Liên Hiệp (thân Nga, Tàu) lại trá hình khéo. Nên anh Tam một mặt đã từ chức Bộ Trưởng Ngoại Giao trong chính phủ Liên Hiệp; mặt khác, vẫn nghĩ tới kẻ thù lớn nhất là Pháp còn đó, vì thế anh đã viết một lá thư, theo như tôi hiểu, thì rõ ràng anh "chống đối nhưng không chống phá" "Hà Nội ngày 5 tháng 3 năm 1946 Kính gửi: Cụ Chủ Tịch Chính phủ Liên Hiệp Kháng Chiến. Thưa cụ, Tôi tự xét bất tài, bất lực nên không thể đảm đương bộ Ngoại giao trong Chính phủ, vậy tôi xin từ chức Ngoại giao bộ trưởng kể từ hôm nay. Tôi không muốn sự từ chức của tôi có ảnh hưởng đến công việc chung nên tôi đề nghị cụ kiêm luôn chức Ngoại giao bộ trưởng hay một người trung lập nào. Về việc từ chức của tôi chỉ là việc làm của cá nhân, không có liên quan gì đến sự đoàn kết các đảng phái. Kính chúc cụ và Nội các thành công trong việc đưa nước ta đến chỗ hoàn toàn độc lập. Nguyễn Tường Tam (ký tên)" Ở đây tôi không bàn tới việc "Cụ và Nội Các thành công trong việc đưa nước ta đến chỗ hoàn toan độc lập” như thế nào. Ba mươi năm tang tóc 1946 – 1975, tàn phá "sự đoàn kết các đảng phái”, dẫn tới việc ô nhục nay dâng đất, biếu biển cho Tàu đỏ. Bất kể ai “khác chính kiến với cụ đều là Việt gian, ngụy, phản động”. Dù việc từ chức của anh Tam rõ như ban ngày, vẫn bị suyên tạc đủ điều. Nếu anh không qua được Hương Cảng năm 1946 và không về được Sài Gòn năm 1950, chắc hẳn sẽ cùng chung số phận với nhà văn Khái Hưng? Từ bối cảnh lịch sử và chính trị ấy, tôi mới rõ vì sao anh Tam, nghe lời khuyên của chị Nguyên, "không hoạt động chính trị nữa", và do đó truyện dài Xóm Cầu Mới được hình thành (tuy nói anh không hoạt động chính trị nữa, nhưng anh vẫn có mặt đều trong các buổi họp). Đời sống vật chất của những người Việt hoạt động chính trị hoặc lánh nạn tại nước Tàu trước và sau đệ nhị thế chiến, vô cùng khó khăn. Mọi thứ như việc ăn, ở, thuốc men phải hoàn toàn tự lực cánh sinh, tùy theo khả năng mỗi người, rồi theo lối “góp gạo, thổi cơm chung”. nhưng có thể nói tinh thần chiến đấu của anh em trong nhóm tỵ nạn rất giàu có, lúc nào cũng hướng về Quê cha, Đất tổ. Bởi vì trước sau anh em vẫn nao nức theo tinh thần nội dung bản hiệu triệu của anh Tam viết ngày 13 tháng 01 năm 1945, tiếp đó tới ngày 02 tháng 09 năm 1945 lần đầu tiên nước Việt Nam tuyên bố độc lập, sau khi nội các của thủ tướng Trần Trọng Kim giải tán, vua Bảo Đại được mời vào Ban Cố Vấn Chính Phủ Liên Hiệp. Bản hiệu triệu đó, ngày nay hình như vẫn còn có thể dùng được để gửi đồng bào trong nước? "Cùng hết thảy các bạn chiến đấu. Sau những năm cách mặt, đến giờ mới có cơ hội gửi lời thăm hết thảy các bạn xa, gần, già, trẻ, biết hay không biết mặt nhưng đã cùng tôi trong giòng lũ, chiến đấu dưới một lá cờ, phụng sự một lý tưởng: cứu nước và duy trì nòi giống, đưa đến chỗ vinh quang – Thời giờ thật là khẩn cấp ... Chiến tranh thế giới sắp đến hồi quyết định, sự hưng vong của giống nòi Đại Việt ta là ở lúc này đây. Mong anh em ra tâm phấn đấu, đem hết sức lực ra để làm cho đảng chúng ta mạnh mẽ gấp mười trước, có thể đối phó với thời cuộc, tìm lại cho nước ta sự độc lập ao ước từ lâu. Ơû trong nước hy vong đặt cả vào các anh em! Ở ngoài này chúng tôi xin nỗ lực cho khỏi phụ lòng anh em mong mỏi. Ở ngoài, ở trong cùng hết sức để rồi có ngày kia bắt tay nhauở đất nước nhà trong cái không khí tưng bừng của ngày Quốc hội: ngày đầu tiên của nước Đại Việt độ lập. Nguyễn Tường Tam V.N. 13.1.1945"* (* Được in và phổ biến ở Việt Nam)
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 17:50:31 GMT 9
Tháng 1 năm 1945, anh Tam còn ở bên đất Tàu, nay đây mai đó, từ Thượng Hải qua Quảng Châu rồi cuối cùng phải tạm cư ở Hương Cảng, vì năm 1948 làn sóng đỏ đã nhuộm hết nước này. Quốc Dân đảng Tàu và chính phủ Tưởng Giới Thạch phải chạy qua Đài Loan. Năm 1948, vua Bảo Đại về nước thành lập chính phủ thân Pháp, do Pháp yểm trợ. Năm 1949, anh Tam còn ở Hương Cảng, bản thảo Xóm Cầu Mới đề ngày 16 tháng 10 năm 1949, truyện dài mà anh hằng mong muốn dựng lên như: "Một cuốn Đông chu Liệt quốc của những đời sống tầm thường, vui lẫn buồn, những vui buồn nhỏ nhặt hàng ngày của những nhân vật, những gia đình sinh hoạt trong cái xóm nhỏ ở đầu một chiếc cầu gỗ từ lúc cầu bắt đầu mọt cho đến khu cầu gậy xóm nhỏ và các gia đình cũng tan tác theo chiếc cầu gỗ. Những đời "bèo giạt" đến hội tụ ở xóm nhỏ cũng như những bèo giạt đến, trong ít lâu, vương bám vào chân cầu, rồi lại trôi đi theo giòng nước, không biết về đâu? Nhất Linh." (Trích trong XCM)
Xóm Cầu Mới dự tính in năm 1950, nhưng mãi tới nắm 1958 mới được đăng trên Văn Hóa Ngày Nay, giai phẩm (nghĩa là muốn in số báo nào xin phép số đó) do anh Tam chủ trương; số ra mắt ngày 17 tháng 06 năm 1958, phần Một của Xóm cầu Mới, là truyện cô Mùi. Xóm Cầu Mới ở đâu? Xóm Cầu Mới của Nhất Linh không phải là Xóm Cầu Mới ở Tân Định Sài Gòn, cũng chẳng ở đâu khác, ngoài vùng phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương là nơi anh Tam sinh ra và lớn lên. Nơi mà Thạch Lam Nguyễn Tường Lân viết truyện ngắn nổi tiếng "Nhà Mẹ Lê".
Ở phần mở đầu cuốn truyện dài ấy, anh Tam đã dẫn giải hết sức rõ ràng "Xóm Cầu Mới là một cái xóm nhỏ ở cạnh một chiếc cầu gỗ cũ ..." Tính bi kịch của truyện bắt đầu từ câu văn này. Xóm tên là Cầu Mới nhưng cầu thì quá cũ: "... đã long mất gần một nửa số ván và gẫy mất gần một nửa số chân. Cũng may, ván long đều và chân cầu cũng gẫy đều nên cầu còng vững và xe cộ qua lại được ..."
Anh Tam liên tưởng gì tới tình hình đất nước ta, sau Hiệp ước Sơ bộ ngày 06 tháng 03 năm 1946, ở đoạn văn: “Đời dân xóm liền với chiếc cầu nên bất cứ một tin gì lạ về chiếc cầu cũng làm họ thao thức và xôn xao bàn tán. Bốn năm trước có một người làm ở Sở Lục Lộ, trong lúc vui câu chuyện, đã nói là sẽ sơn lại cầu. Sơn lạ thì họ không cần lắm nhưng sơn tức là phải sửa chữa lại, dân xóm tán ra như vậy. "Sơn tức là phải sửa chữa lại cầu," câu ấy ròng rã bốn năm trời vẫn được nhắc đến luôn ở cửa miệng những người dân xóm, những nghèo tiền nhưng rất giàu hi vọng hão. Còn duyên do vì đâu lại oái oăm bắc một chiếc cầu vô dụng và đắp một con đường tắc tị thì không ai hiểu gì cả và sở Lục Lộ bây giờ có lẽ cũng không hiểu nốt."
Sao tôi cứ buồn khi nghĩ, bốn chục năm qua, dân nghèo nước mình vẫn chỉ giầu niềm hi vọng đất nước được sửa chữa, nhưng quả thật là hão huyền, vẫn nguyên vẹn đó một “con đường tắc tị”, đường cụt, mà người Na Uy gọi là "đường mù". Những đời dân tứ xứ như "bèo giạt" nơi quê người và nhất là ngay cả trong đất nước mình: giờ đây đa số chết non, thác yểu hoặc vẫn kéo lê cuộc đời chỉ “hy vọng hão". Ngày xưa, ở Cầu Mới, qua lời anh Tam kể, “Cả xóm không có một căn nhà gạch hay gỗ nào. Toàn là những nhà tranh lụp xụp, xiêu vẹo; trông cũ kỹ như chiếc cầu gỗ chỉ có cái tên là mới."Ngay ở đảo Sường Châu, những năm sau thập niên 40 của thế kỷ 20, là một hòn đảo nghèo, nơi mà nhóm tỵ nạn chúng tôi ngụ cư cũng không nghèo đến thế. Mặc dù bị kềm dưới chế độ thực dân Anh, Hương Cảng vẫn vươn mình lớn mạnh; mọi người tùy theo sức lực, tài năng hoặc ý chí vẫn có quyền tự do mưu cầu sự sống. Các văn nghệ sĩ được tự do sáng tác. Hoạ sĩ Nguyễn Gia Trí vẫn sống nhờ vào tiền bán tranh sơn dầu và sơn mài. Anh Tam cũng vẽ các loại than chì, sơn dầu, thủy mặc, phấn tiên.
Thời gian viết Xóm Cầu Mới, ở Hương Cảng cũng như Đà Lạt hay Sài Gòn, anh Tam vẽ nhiều, ngoài ra còn là họa sĩ chính của tờ Văn Hóa Ngày Nay. Các nhà sưu tập tranh người Pháp, Anh, Trung Hoa ... sưu tập tranh của hoạc sĩ Nguyễn Gia Trí là chuyện bình thường, vì anh Trí là nhà mỹ thuật chuyên môn. Nhưng tranh của anh tam cũng được rất nhiều người ưa chuộng. Tiếc ngày nay hàng ngàn tấm tranh nhỏ, vẽ trên giấy, của anh đã bọ thất lạc nhiều. Anh vẽ cây đa Cốc, nơi chim cốc thường về đậu, vẽ cây cầu cũ nới Xóm Cầu Mới. Vẽ cả sơ đồ bối cảnh của cuốn truyện. Anh vẫn thường bảo: “Văn chương, thi ca còn tùy thuộc vào bản dịch. Nhưng âm nhạc, nhiếp ảnh và đặc biệt là hội họa có hình thể thì người nước nào cũng hiểu được!” Lúc viết lại Xóm Cầu Mới, anh nói: “Người ta vẫn nghĩ có một loại văn Tự Lực Văn Đoàn. Riêng tôi, không làm văn, tôi viết cốt sao người đọc dễ hiểu và người dịch dễ dịch sang ngoại văn, nếu có dịp.”Có lần, tôi hỏi: “Anh tính viết Xóm Cầu Mới, cho chuyện nhà cô Mùi là chính, các nhà khác vây quanh, là phụ hay sao?" Anh nói: "Tôi không cho nhà nào là chính hay phụ. Tôi sẽ viết mấy cuốn trong một cuốn mới đủ bộ Xóm Cầu Mới".Sau này từ Hương Cảng về Sài Gòn, rồi Đà Lạt, anh đã thảo mấy cuốn: Cô Mùi, Người Chiến Sĩ, Nhà Bác Lê, Người Sát Nhân, Cậu Ấm, Ông Năm Bụng. Với dự tính ban đầu: “Những chuyện dài có liên can hoặc xa, hoặc gần tới Xóm Cầu Mới mà các nhân vật chính hay phụ phần nhiều lấy ở số người tới ngụ cư trong xóm." Anh còn tỉ mỉ vẽ chân dung và ghi lý lịch, cá tính từng nhân vật một, để "khỏi quên" vì pho truyện có thể sẽ kéo dài, theo ý anh thì: "Riêng tôi, tôi mong viết độ hai chục cuốn nữa thành một bộ gần vạn trang,mới đủt tả đầy đủ sự phức tạp và muôn mặt của cuộc đời.” Theo nhà xuất bản Phượng Giang: “Nhất Linh viết đi viết lại Xóm Cầu Mới tất cả năm lần. Lần đầu tiên viết năm 1940 ở Hà Nội, lần thứ hai năm 1943 tại Quảng Châu (Trung Hoa). Lần thứ ba năm 1949 tại Hương Cảng (Trung Hoa). Về nước, Nhất Linh viết lại lần thứ tư tại Hà Nội năm 1951. Và sau cùng, trước khi đăng trên tờ Văn Hóa Ngày Nay (1958), Nhất Linh đã sửa lần chót bên dòng suối Đa Mê, Fin Nom (Đà Lạt) vào năm 1957."
Tới đây, tôi muốn kể chuyện về nơi anh Tam viết và sửa lại cuốn Xóm Cầu Mới, lần thứ ba: Tại Hương Cảng năm 1949 cùng với bao kỷ niệm đã ghi đậm nét trong trí nhớ của tôi:
Năm 1948, tôi sang Hương Cảng, nơi tôi ở là một căn nhà ... Không, phải gọi là một túp lều mới ổn. Túp lều của chúng tôi nằm trên một, trong nhiều các ngọn núi đá thấp. Vách ghép bằng các mảnh ván thùng, mái lợp cao su dầy màu đen. Bên trong ngăn ra làm hai buồng nhỏ, buồng nào cũng có cửa sổ không lớn, nhưng đủ thoáng mát. Bếp ở phía sau lều, vách dựng sơ sài bằng các mảnh thùng sắt tây cũ. Nhu cầu nước, đã có con suối gần nhà, được những mỏm đá thiên nhiên bao bọc rất kín đáo, chúng tôi xó thể ra tắm ở đây. Ông Woòng, người chủ của hai túp lều cho chúng tôi thuê, đã có sáng kiến dùng ống cao su dẫn nước từ suối, chảy vào khu nhà bếp, nên việc nấu ăn, rửa bát của chúng tôi rất tiện.
Đời tôi từ bấy đến nay, thời gian qua đi già nửa thế kỷ; đã từng được ở những nơi nhà cao cửa rộng, đầy đủ tiện nghi, mà sao tôi vẫn không thể nào quên được túp lều (trên núi) của chúng tôi. Chao ơi, mỗi khi tắm, tôi chưa thấy có một vòi "hoa sen" nước nào có thể so sánh được với dòng suối ngày ấy. Tiếng suối reo, ào ạt suốt ngày đêm, hòa với tiếng u u ....u... của gió núi, khi thổi lùa qua những hốc đá, đã trở thành "bản nhạc núi" tuyệt vời. Nơi đây, không có hoa lá và ngay cỏ dại cũng chẳng mọc nhiều; dân cư ở xa, nên không cả mùi khói bếp. Không, không có mùi gì hết, tại sao tôi vẫn cảm nhận được mùi thanh khiết của núi đá, của nước. Không khí nhẹ nhàng quá. Phải chăng, tôi chỉ ngửi được bằng hai lá phổi, chứ không bằng mũi...
Tôi biết kể sao cho hết nỗi vui thích của tôi, mỗi khi ra suối tắm. Mặt trời đụng vào dòng nước đang chảy, vỡ tung, thành muôn vàn mảnh ánh sáng nhỏ lấp lánh đủ màu, loang loáng chảy, xối ào ạt lên người tôi; hơi nước mát rười rượi. Tôi tưởng như mình đang ở một xứ thần tiên, trong truyện cổ tích nào đó, tôi đã được đọc từ thuở ấu thơ.
"Nhà của chúng tôi", nếu tính từ trung tâm thành phố Hươngt Cảng về, phải ngồi xe điện mất gần một tiếng. Đến trạm chót, còn phải đi bộ một thôi dài, tới đường Happy Valley gần khu Phảo–mã-tỷ (trường đua ngựa) đến chân núi. Khốn nỗi, lại mất khoảng hai mươi phút từ chân núi, leo ngược con dốc đá thoai thoải, mới đến “nhà" lều.
Con đường này, mùa hè cũng như mùa đông, mới sáng tinh mơ đã có rất nhiều người dân lao động đến ngồi ven núi, đập đá thuê. (Thời ấy có một số nhà cách mạng Việt Nam bôn ba sang Tàu; qua Thượng Hải, Quảng Châu ... rồi trôi giạt đến Hương Cảng, khi kẹt cũng phải mưu sinh tạm bằng nghề đập đá thuê ở đây). Sở dĩ tôi phải kể dài dòng cảnh "trên núi" như trên, là vì: Trên bản thảo XCM, còn có tên Bèo Giạt, anh Tam có ghi lại: "Hương Cảng, trên núi, lúc 01 giờ 30 trưa, ngày 16 tháng 10 năm 1949”. Bản XCM, lần đầu được viết lại, ở Hương Cảng và Sường Châu. Sường Châu hay Seng Chou là một hòn đảo nhỏ, cách Hương Cảng một hoặc hai giờ tầu thủy, tùy theo chuyến chạy nhanh hay chậm. Nơi gia đình ông Woòng, đã mấy đời, làm nghề cho các thuyền đánh cá trên đảo thuê bến bãi đậu thuyền. Nhà ông Woòng ở sát bờ biển, phong cảnh đẹp, không khí thoáng mát pha mùi nước biển.
Gia đình ông Woòng, ai cũng hiếu khách, rất quý trọng các nhà chính trị, chí sĩ hay nghệ sĩ lưu vong. Ông Woòng để riêng hẳn một phòng cho khách ngụ, dù ở bao lâu cũng được. Nhưng, ai muốn ở chơi lâu, đều đề nghị với chủ nhà cho ăn riêng, tự nấu lấy bằng cái bếp dầu tây, bằng đồng.
Như đã kể, năm 1948, khi đến Hương Cảng, tại tup lều kể trên, tôi được gặp anh Tam lần đầu. Tôi không biết anh là nhà văn Nhất Linh. Khoảng một tuần sau, trong bữa cơm, "cả nhà" ngồi quanh cái bàn dài bằng gỗ ván thùng, do các anh đóng lấy. Nhân một câu chuyện tình cờ, khi biết anh là nhà văn Nhất Linh, tôi đăt bát cơm ăn dở xuống bàn, vội vàng, đến gần như vô lễ, tôi nhìn anh, lắp bắp hỏi: " Anh, anh là ông ... Nhất Linh đấy hả?" Anh mỉm cười gật đầu, còn các anh cùng bàn thì bật cười thành tiếng. Tôi lại hỏi tiếp: "Thế anh ....Chính anh, viết cái cuốn Đoạn Tuyệt đấy hả?” Lần này thì anh khẽ cười thành tiếng và trả lời "vâng".
Hàng ngày, tôi ít dám nói chuyện với anh, bởi vì gương mặt anh toát ra một vẻ nghiêm khắc, trầm lắng, rất buồn bã. Ánh mắt luôn luôn như nhìn về một cõi xa xăm .... mọng lên nỗi chứa chất u sầu. Tới nỗi tôi có cảm tưởng nếu có một tiếng động dù nhỏ bất chợt vang lên, cũng đủ làm cho những màng nước trong mắt anh òa vỡ! Cặp môi anh có lúc rung rung, như đang nói chuyện với ai đó, vô hình, đôi khi lại thoáng nét nhẹ, những hư mỉm cười!
(Sau này ở Sài Gòn khoảng năm 1960 – 62, khi viết Dòng Sông Thanh Thuỷ có lần anh đã nói về chuyện cũ nên tôi hiểu nỗi buồn của anh ngày lưu lạc quê người, Hương Cảng 1949; cùng lúc anh có nhiều chuyện buồn, toàn về "vận nước" với tình người.
Tự Lực Văn Đoàn “tan đàn, nát gánh”; Việt Nam Quốc Dân đảng thì Vũ Hồng Khanh lại không nhìn ra thủ đoạn chính trị “6 tháng 3 năm 1946”, ký hiệp ước Sơ Bộ cho Pháp trở lại Việt Nam; các bạn chiến đấu cùng chạy qua Tàu, phần lớn mất liên lạc.)
Không chỉ mình anh Tam, mà tất cả anh em trong nhà đều buồn; Vì chúng tôi đang có một cái tang chung! Một chiến sĩ, chí sĩ, một nhà cách mạng hay một nhà văn lớn và cũng là Bạn Chiến Đấu của chúng tôi. Người mới từ giã cõi đời, anh Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, là em ruột anh Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Anh Long từ Quảng Châu về Hương Cảng dự một phiên họp (nghe nói buổi họp gồm "đủ mặt” từ mấy phía, có cả vua Bảo Đại ...) Ôi! Buổi họp cuối cùng của tác giả "Mười Điều Tâm Niệm" và "Trước Vành Móng Ngựa" ...! Họp xong, anh Long vội vàng rời Hương Cảng đi Quảng Châu, chẳng may đã mất trên chuyến tầu hỏa đó, năm 1948. Năm 1946, Khái Hưng bị giết, năm 1948 lại đến Hoàng Đạo! Vì đâu và lỗi do ai? Ai đã gây ra? Trong vòng năm năm, nhóm Tự Lực Văn Đoàn tắt mất hai ngôi soa chủ lực. Đất nước Việt Nam đã mất hai nhà văn, cũng là hai nhà cách mạng, đầy ý chí muốn mở mang dân trí qua ngòi bút và hành động chính trị vì tình Yêu Nước! Nỗi đau mất bạn Khái Hưng còn đó, lại tiếp thêm Nguyễn Tường Long ... Anh Long mất, anh Tam không chỉ mất người em ruột mà còn là mất một người Bạn Chiến Đấu, một nhà Tư Tưởng thân thuộc, một Bạn Văn đã cùng chung khai sáng Tự Lực Văn Đoàn. Tình trang đất nước ngày ấy đang thay đổi, với chiều hướng suy đồi, anh Tam nhìn thấy trước mà đâu đỡ nỗi. Cho nên chẳng lấy gì làm lạ, khi thấy anh buồn bã, như tôi đã kể.
Anh là người thương Nước, xót Dân thật sự, bày tỏ một thái độ chính trị Quốc Dân (Quốc Gia, Dân tộc) trước sau như một, hết sức trong sáng, rõ ràng. Anh Tam không phải là người "làm chính trị", có chủ trương dựa vào các thế lực ngoại quốc như Nhật, Nga, Tàu, Pháp, Mỹ. Để mong "cõng rắn về..." lấy cớ "cứu nước!" Tâm hồn anh lại là một tâm hồn nghệ sĩ lớn. Anh rung động, nhạy cảm, vui buồn với tất cả mọi chuyện xảy ra trong xã hội, trong đời sống thường ngày các mọi người quanh anh. Và anh đã gửi gấm được tấm lòng này vào trong bộ truyện "XCM", cùng với bao nỗi khắc khoải. Thêm vào đó, "cảnh trên núi" chúng tôi lúc ấy lại vắng đi mấy người, anh Đỗ Đình Đạo, anh Trần Văn Tuyên ..., vì công việc chung cũng như việc riêng đã trở về nước. Các an khác đều bận việc, anh Bảo Sơn làm cho hãng hàng hải của Hòa Lan, tuốt dưới phố; anh Lễ làm cho nhà "băng", sáng đi, chiều về. May lúc ấy, nhờ Kim Anh, con gái tôi, năm 1948 mới được hai tuổi; chưa biết vui buồn là gì, thường luẩn quẩn bên anh Tam. Nơi nào có trẻ con, không khí sinh động, vui hẳn lên. Đôi lúc anh Tam bế cháu Kim Anh , sửa lại giọng bi bô, tập nói ngọng ngịu của cháu; và thường đùa bằng cách sai vặt: "Kim Anh, đưa cho bác cái bật lửa!" Nếu cháu hiểu ra, làm được theo đúng ý anh, anh cười thành tiếng v.v... Như các anh khác, tôi cũng mừng, tiếng cười của người này, thường làm cho bao người khác vui lây, quên đi phần nào cảnh anh em, bạn bè chia lìa, mất mát. Sau khi được tin anh Nguyễn Tường Long mất, chị Long cùng với người con gái lớn của chị, là Minh Thư, vội sang Hương Cảng. Anh em đi đón chị Long và Minh Thư từ phi trường, lên thẳng trên núi. Hai ngày sau, hai mẹ con chị Long đáp tàu hỏa đi Quảng Châu. Chắc để lo việc thâu nhận hài cốt của anh Long. Tôi không nhớ rõ.
Dù không sống gần, nhưng những người thân của anh Tam ở quê nhà, ai cũng đoán được chắc chắn anh Tam sẽ đau buồn về chuyện mất anh Long; anh sẽ xuống tinh thần không ít! Vì vậy chẳng bao lâu, chị Tam từ Hà Nội đã sang Hương Cảng thăm anh. Có chị trên núi, không khí nơi đây như tươi lên được đôi chút. Chị Tam kín đáo chăm sóc anh, luôn tìm cách nhắc lại về thời anh làm báo, viết sách. Chỉ những khi đó, như một phép lạ, nét mặt anh vui, ánh mắt tươi sáng. Kỳ diệu thay, sức mạnh của văn chương và nghệ thuật! Tôi biết, văn nghệ không làm cho anh quên viêc đất nước, nhưng nó làm cho anh tạm yên, để từng bước một bình tĩnh, lo toan nhiều chuyện lớn.
Tôi đưa chị Tam đi chợ “Trung Vàn Cái Xi", là chợ lớn nhất Hương Cảng, giống như chợ Bến Thành ở Sài Gòn. Chúng tôi bị nhiều người lớn nhìn ngó, trẻ con bu coi; họ thấy lạ mắt vì chiếc áo dài Việt Nam chị mặc. Tôi phải đi mua mấy thước lụa Thượng Hải, rồi dẫn đến tiệm đo, may áo Tàu “sường sám” cho chị. Từ những lần sau, đi ra phố, chúng tôi cùng mặc "sường sám", nên việc đi lại được tự nhiên, thoải mái. Chị Tam nói riêng với tôi: "Anh Tam yêu văn chương lắm, nhẽ ra anh không nên đụng vào chính trị, chính em. Chỉ viết văn, làm báo không thôi, anh cũng đã đủ thứ vất vả rồi!” Tôi cãi lại: "Nhưng tình hình đất nước như thế này! Rất cần đến những người như anh Tam, góp công, góp sức, làm lơ sao đành, hả chị?" Chị Tam nói: "Thì cứ viết những điều mình cho là đúng, là lý tưởng của mình vào sách, cũng tốt thế, chứ sao!". Tôi nhìn chị Tam với tấm lòng kính mến. Một người phụ nữ không làm văn hóa, văn nghệ, chính trị ... Chị chỉ lo “buôn tần, bán tảo”, chăm sóc họ hàng hai bên nội ngoại, nhất là giúp đỡ chồng con. Việc buôn bán cau khô của chị, trước sau cũng chỉ mong sao kiếm lời, để chồng yên tâm gánh vác việc xã hội, khỏi bận lòng về chuyện nà, nuôi nấng các con ăn học. Thế mà chuyện chính trị, chị lại bảo: "Cứ viết vào sách, cũng tốt thế, chứ sao!" Lời nói dễ hiểu mà chí lý. Mặt khác, tôi nghĩ là chị Tam ngờ ngợ, "nhìn ra" thế "lưỡng đầu thọ địch” của anh Tam, một bên là thực dân, một bên là cộng sản. Sau cái tang Khái Hưng và Hoàng Đạo, dường như chị e ngại cho ... Song trên thực tế, sự đóng góp tuy gián tiếp nhưng tận tình của chị vào sự nghiệp văn hóa, chính trị của anh, theo tôi biết, không phải là nhỏ:
Tính anh Tam quen tự do như gió trời. Rày đây, mai đó. Đến cả nơi ở, cũng không có chỗ nhất định; vỏn vẹn chỉ có hai bộ quần áo, giặt bộ này, mặc bộ kis, được thứ hàng khỏi cần bàn-là, càng tốt; nếu không, vải bị nhàu một chút cùng chẳng sao. anh không có tủ sách riêng,khi cần, chạy ra thư viện mượn. Người như thế làm sao có thể "chu đáo”, gần gụi với gia đình vợ con được!
Những ngày ở trên núi với chúng tôi, mỗi lần đi chợ về, chị tự tay nấu các món ăn cho cả nhà. Tôi chỉ phụ với chị rửa rau, thu dọn việc vặt. Khi nào mua thịt bò, chị nhờ anh Tam giúp làm món "beefsteak", chị khoe anh còn nấu súp "bouillabaisse", (nấu với nhiều thứ hải sản, tôm, cua, cá, sò...) rất ngon. Mà ngon thật, cứ như ăn ở hiệu cơm Tây nổi tiếng. Chị nói riêng với tôi: "Cứ để anh làm cho vui". Tôi cũng kể với chị: "Lúc hcọ chưa sang, dù buồn cách mấy, hễ sau bữa ăn trưa, anh Tam nhất định giành việc rửa bát." Anh Nguyễn Gia Trí cũng phải bảo nhỏ tôi: “Để anh làm cho vui." Sau này, tôi mới biết tính anh Tam, không chỉ lúc ở Hương Cảng, dù ở đâu anh cũng thích làm một vài món ăn, rửa bát, quét nhà. Anh bảo: "Đó là cách nghỉ ngơi, giải trí của tôi!" Thường buổi chiều lúc chị không ở cùng, anh không ăn cơm, chỉ tự nấu lấy vắt mì khô với ít tôm khô và rau cải. Anh ăn mì, uống cốc bia xong, đi nằm nghỉ, yên lặng, chẳng chuyện trò với ai, trừ khi có các anh em ở xa đến mở buổi họp, cần có anh. Tôi thấy hình như anh thích ở những nơi đồi núi và thích nghe tiếng suối. Sau này, về Đà Lạt, anh cũng cất lều bên suối Đa Mê...
Ở trên núi gần nhà bếp phía trước dòng suối không tên có một cái hang đá; cửa hang rộng chừng sáu thước, cao gần hai thước, sâu hun hút, nhưng thoai thoải thấp dần, thấp dần. Từ ngoài cửa vào khoảng bốn năm thước là đã bị đụng đầu, không đi tới thêm được. Nền đá phía dưới rộng, sạch sẽ và mát lạnh. Vào mùa hè, cả nhà thường vào đấy đọc sách báo, bàn luận chuyện chính trị. Nếu muốn có thể nằm lăn ra ngủ, nghỉ. Chỉ tội, hơi đau mình một chút vì mặt đá lồi cồi không trơn phẳng.
Phía trước hang một khoảnh sân lộ thiên; không biết bằng cách nào mầm cỏ từ đâu lạc tới đâm chồi trong các kẽ đá mọc lên từng đám cỏ xanh non, tươi mát, lả lướt đùa rỡn trong nắng gió. Tôi thầm nghĩ: “Đây là một trong các món quà tặng của Trời, đã cho muôn vàn sự sống nẩy sinh trên trái đất này." Một thân cây không lớn lắm nhưng già cỗi mọc ghé bên bờ sân, nghiêng xa ngoài vực, vực không sâu, có thể đi men men xuống. Bên dưới, rất nhiều ốc sên, chẳng có gì đẹp nên không ai buồn xuống đó. Anh Nguyễn Gia Trí thường đem giá gỗ ngổi vẽ dưới gốc cây. Cũng ở nơi đây, tôi đã ngồi làm mẫu, để anh vẽ "portrait". Tấm tranh này sau này anh phải bán cho ông bà lãnh sự người Anh ở Hương Cảng, khoảng năm 1948 hay 1949.
Chị Tam mua một chiếc ghế vải có thể ngồi hay nằm tựa và chiếc bàn nhỏ, kê ở trong hang đá, rồi gọi nơi đó là "nhà mát". Anh Tam đem vào nhà mát một chiếc cặp da đựng bản thảo XCM cùng với bình thủy nước sôi, cà phê và vài bao thuốc lá hiệu "Bastos xanh" và một cái gạt tàn thuốc to gần bằng cái dĩa tây. Với ngần ấy thứ, anh có thể ngồi suốt ngày trong hang đá, viết, viết và viết ... Cháu Kim Anh thích quanh quẩn chạy chơi loanh quanh chỗ bác Tam viết, rồi lại chạy ra chỗ bác Trí vẽ. Các anhchỉ vui thêm chứ không lấy thế làm phiền. Anh Trí còn bế cháu lên, cho cháu cầm cọ vẽ nghịch vài nét ngay trên tấm tranh đang vẽ dở của anh. Anh bảo: "Không hề gì, rồi sửa lai, được mà!"
Anh chị Tam thường hay mời cả nhà đi ăn hiệu (nhậm sà, uống trà) với đủ các thứ bánh trái, xíu mại, há cảo, bánh bao v.v.... ăn xong lại cùng đi dạo cảnh Hương Cảng. Ai cũng biết đó là ý riêng của chị Tam bày vẽ ra thế, muốn để anh có dịp đi nơi này, nơi kia cho khuây khỏa. Khi về, anh Tam bảo chị mua thêm vài thứ bánh để làm quà cho một "bà già dưới chân núi". Căn nhà của bà cũng vách ván thùng cũ, mái cao su đen. Lưng nhà quay ra đường xe chạy, cửa vào hướng về phía núi. Nhà có được mảnh sân phía trước, trồng dăm luống rau cải, cà chua và một dàn mướp. Lại thêm cái chuồng gà nơi góc sân nom hệt như mảnh vườn quê ở Việt Nam. Trông vào mà thấy ấm cả lòng! Ấm lòng hơn nữa, bà chủ nhà lại là người Việt Nam, chừng bảy mươi, vóc dáng xem còn mạnh khỏe. Bà thường xuyên mặc bộ quần áo Tàu rộng rinh, bằng vải dầy màu lam xẫm đả bạc phếch, và vài ba chỗ. Mái tóc trắng xám, khô, xơ xác được cắt ngắn lộ ra cái gáy đen đủi, nhăn nheo. Vài năm truớc đấy, bà già nhận ra chúng tôi là đồng hương, vì có một lần, anh Đạo và anh Sơn đã nói chuyện với nhau trong lúc đi ngang qua nhà bà. Bà chỉ nghe âm thanh của giọng mà nhận ra các anh là "Ố Nàm dần", tức người An Nam. Mặc dù hầu như bà đã quên hết tiếng mẹ đẻ; không còn nói và hiểu nỗi ý nghĩa dù một câu tiếng Việt nào. Bà chỉ nhớ và nói được mỗi ngày một câu duy nhất, mà lại phát âm lơ lớ bằng giọng Tàu: "Mìn dơ..i tó .. ti dờ ...dồ." Nghĩa là " Mình ơi có di Bờ Hồ...", một câu trong bài hát vui tếu. Đầu thế kỷ 20, bài này được giới bình dân ở Hà Nội , Hải Phòng ưa thích: "Mình ơi có đi Bờ Hồ. Cùng tôi chén kem kẹo dừa. Xin đừng, là đừng chê nhé. Trong túi tôi có mười đồng xu...” Chồng bà, gốc dân Tàu nghèo, xưa kia từng lưu lạc sang làm phu mỏ ở Hòn Gai, Móng Cái. Gặp và lấy bà rồi đưa nhau về Tàu. Chẳng may, ông mất trong thời chiến tranh Nhật Hoa. Bà chỉ có một người con trai. Năm gặp chúng tôi, anh ta khoảng trên bốn mươi, chưa vợ. Vóc người to cao, vạm vỡ. Hàng ngày phơi mình ngoài nắng gió, làn da bị bụi đá và mồ hôi bám két lại, xần lên, đen xám như da của con voi, tóc bờm xờm cứng đơ. Nhưng tính anh rất hiền, quá hiền đến gần như ngây ngô. Chúng tôi có hỏi han chuyện gì, anh ta cũng chỉ nhe hàm răng xỉn cười cười không trả lời. Mỗi buổi sớm anh ta đi đập đá, mình bà mẹ ở nhà vào ra trông coi, săn sóc vườn tược. Bà khéo trồng nên rau trái mọc xanh um, hoa màu dùng để nhà ăn và đem bán cho mấy người đập đá thuê, quanh nhà, cũng phụ thêm được tiền gạo chợ cho cả hai mẹ con. Thỉnh thoảng, bà già sai con trai đem lên núi cho chúng tôi khi thì vài quả mướp, mấy quả cà chua, hay rau cải ... Một buổi xế trưa, chắc người con đi làm chưa về. Bà lọm khọm bưng lên núi một “thố”, loại nồi đất có chiều cao, đựng canh chân giò nấu với rau cải khô. Chẳng biết bà phải leo bao lâu, lúc đến trước cửa nhà chúng tôi, mới thoáng thấy anh Tam, bà đã quýnh quíu, vừa thở dốc vừa gọi: "Sần, sếnh sáng, Sần ... sếnh ...." (Ông Trần, ông Trần ơ...) Anh Tam họ Nguyễn, nhưng hồi ở Tàu các anh em lại lấy họ Trần để gọi anh. Chưa dứt lời, bà vấp ngã, thố canh đổ vỡ tung tóe. Anh Tam hốt hoảng, đỡ bà đứng lên, nhưng bà không chịu. Ngẩn người nhìn những miếng chân giò và rau rơi vãi trên nền đá, rồi cuống quít nhặt lên. Miệng không ngớt kêu rên bằng một tràng tiếng Tàu, chẳng vì đau cái đau mới ngã, mà hình như chỉ tiếc nồi canh. Anh Tam vội cúi xuống phụ bà nhặt, vừa nói với bà: "Không sao, không sao đâu bà ơi, chỉ rửa đi, rồi đem nấu lại, vẫn ăn được mà...! Bà đứng lên đi, để tôi xem chân bà có đau lắm không ......?” Khi đãi nhặt hết, không còn cọng rau và miếng thịt nào, bà mới chịu đứng lên, nhìn xuống; cũng may nhờ vải dầy, chỉ xước ống quần một chút. Bà đòi mang chỗ canh đó về để đổi phần canh của mẹ con bà, lên biếu anh em. Ai ngăn sao bà vẫn cứ nhất định làm theo ý mình. Anh Tam nói: "Thì làm theo ý bà đi ... Lòng thương nhớ đất nước của bà, bà gởi vào tình đồng hương đấy!” Anh H., một người bạn trẻ, hôm đó lại phải theo bà xuống núi đổi thố canh mới.
Đến “mùa hàng" cau khô, chị Tam phải về Hà Nội. Anh Tam, phần nào đã tạm ổn định tinh thần, viết văn lại và viết rất đều tay cuốn XCM khiến chị yên tâm.sau này, chị Tam còn sang Hương Cảng thêm lần nữa. Ông Woòng mời anh chị qua Sường Châu ở chơi mấy tháng. Nơi đây anh đã nghe chị, người vợ và cũng là người bạn của anh, dịu dàng, từ tốn khuyên giải. Anh viết tiếp, viết tiếp, viết cả văn chính luận, cho đến khi về nước.
Hình ảnh mà tôi nhớ sắc nét nhất ở Sường Châu, nơi một căn nhà mang tên Biệt Ly đình, nhiều lần anh Tam nhìn ra biển, thở dài sau mỗi lần nghe tin một Bạn Chiến Đấu khác ở lại vùng Tàu đỏ, làm việc cho Bắc Kinh. Mất một số "người anh em" từng cùng mình gian khổ chiến đấu, lòng anh thấy xót xa như với tác phẩm Xóm Cầu Mới: "Có khi phải hoàn toàn viết lại vì trong cuộc đời phiêu lưu của tôi, bản thảo phải bỏ lại rồi sau bị thất lạc trong cơn ly loạn hoặc có lần chính tôi phải tự tay thiêu hủy, vì không mang theo được.” Ôi! Mười lăm năm, một bộ truyện, với năm lần viết lại hoặc sửa chữa, mà phải mười tám năm sau kể từ khi viết dòng thứ nhất ở Hà Nội, 1940, mới được đăng báo, năm 1958 ở Sài Gòn; mà rồi cũng chỉ mới tạm xong được có Phần Một: Cô Mùi. Lẽ ra phần này cũng bọ thất lạc nốt nếu nhà in Trường Sơn đường Nguyễn An Ninh Sài Gòn không giữ gìn hộ; nên mới được xuất bản lần đầu ở Sài Gòn. May vì VHNN đăng chưa được hết.
Con người hoạt động vì dân, vì nước trong anh Tam không khi nào chịu được cảnh ngồi yên, nhàn tản để viết văn, anh chống lại chinh phủ Ngô Đình Diệm ít nhất về quyền tự do ngôn luận bị xâm phạm nặng nề. Tờ Văn Hóa Ngày Nay, chỉ là giai phẩm, đã không được cấp giấy phép chính thức mà còn bị đóng cửa. Cuối cùng, anh dùng cái chết của mình để cảnh tỉnh một sự kiện ngày nay, nhớ lại, đối chiếu với dòng lịch sử, người ta thấy rõ như một lời tiên tri: "Đời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để ai xử tôi cả. sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để cảnh cáo những người cah đạp mọi thứ tự do 7.7.63. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.” Tôi nghiêng mình trước tinh thần đấu tranh cho mọi quyền tự do của anh Tam, nhưng tôi vẫn nghĩ là cái nhìn của anh về việc "tự thiêu" có một số dữ kiện lịch sử bị giới hạn ...
Dù sao, như tôi đã nói ở trên, con người Kẻ Sĩ nơi anh Tam trong giông tố lịch sử,chốn lại cả thực dân, đế quốc, cộng sản, lẫn phong kiến, những thứ thay phiên nhau hoặc cùng lúc đầy ải, chà đạp đời sống tinh thần và vật chất của người dân...
Buồn thay, trước tình hình đất nước dầu sôi, lửa bỏng vào những năm cuối đời viết căn của anh Tam, “con người cách mạng” trong anh không tài nào chịu sống cách xa các anh em cũ, đã từng cùng anh kề vai, sát cánh đấu tranh, chia nhau từng nắm cơm, gói mì. Anh lại rời bàn viết. Tới ngày 7.7.63 .... Những ai có dịp sống gần, quen thân anh lâu đều hiểu được tấm lòng anh: Anh mang chí hướng Tự Lực, tựa hồ nhân sinh quan trong sáng của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Thái Học, lúc ngồi viết sách trên căn gác Nam Đồng thư xã ở Hà Nội: "Không thành công thì thành nhân!". Nguyễn Tường Tam của tư tưởng và hành động cách mạng Quốc dân, Nhất Linh của văn học, báo chí và Tự Lực Văn Đoàn, họa sĩ, nhà văn, nhạc sĩ ... Tất cả. Trước sau, vẫn là anh Tam của XCM, nơi những người dân bao đời nghèo khó, lầm tham mãi trong cảnh "bùn lầy, nước đọng”, như “gia đình bác Lê", rất cần đến tiếng nói chia sẻ, bênh vực họ từ phía: nhà văn, nhà cách mạng Nhất Linh Nguyễn Tường Tam...
Tôi còn nhớ mãi câu anh từng nói: "Chúng ta chiến đấu, không dựa vào thế lực ngoại bang nào, thì chỉ thành công về mặt Chính nghĩa. Nhưng như thế mới là Tự Lực!" Còn con người Nghệ Sĩ của anh, qua tác phẩm Xóm Cầu Mới, vẫn chẳng giây phút nào rời xa những mảnh đời "bèo giạt". Đâu chỉ có văn chương trong sáng không thôi, mà cả cuộc đời anh Tam đã ánh lên sự sáng trong. Tôi nhớ một đoạn văn trong Cô Mùi:
"Hai mắt nàng mở to và qua những sợi tóc của Siêu, nàng nhìn thấy cái cửa sổ sáng với những lá non lấm tấm của hàng rào găng ta, điểm một vài bông hoa trắng như ngôi sao. Cái ánh sáng ở cửa sổ, cái ánh sáng dịu và phơn phớt xanh ấy và những ngọn lá xanh mát, với màu trắng mới của hoa thoáng trong một lúc, Mùi thấy như là ở đâu, xa lắm có vẻ thần tiên, không phải là ánh sáng hay hoa lá của đời này ..."
Vâng, thứ “ánh sáng hay hoa lá của đời này” đâu phải là Xóm Cầu Mới.
Na Uy Oslo, Mùa Xuân 2002
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 6, 2010 1:48:47 GMT 9
Từ làm báo Phong Hóa, đến văn phái Tự lực văn đoàn Khúc Hà Linh Anh em nhà Nguyễn Tường Tam "Nhất Linh" ánh sáng và bóng tối - NXB Thanh niên 03:38' PM - Thứ sáu, 02/07/2010 Thông tin liên quan: Chuyên mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân dân 13/10/2010 Chuyên mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân dân 13/10/2010 10:35' PM Ngày 25/5/1987 là ngày mở đầu chuyên mục “Những việc cần làm ngay” trên báo Nhân Dân của tác giả N.V.L. Nghiên cứu bối cảnh ra đời của chuyên mục nổi tiếng này, để hiểu rõ hơn ý định của tác giả...
Sơ lược về đời làm báo của Phan Khôi 22/10/2009 Sơ lược về đời làm báo của Phan Khôi 22/10/2009 04:21' PM Phan Khôi (1887-1959) can dự văn chương không hiếm khi với tư cách người sáng tác (làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài) nhưng thường khi với tư cách người bình luận, người nghiên cứu, hoặc với tư cách dịch giả. Hoạt động của ngòi bút ông gắn với báo chí đến mức di sản của ngòi bút ông có cơ mất hút trong mắt các lớp hậu thế nếu họ chỉ đi tìm ông theo cái kênh dễ soi là sách xuất bản thời trước và do vậy chỉ thấy được một ít văn phẩm (Chương Dân thi thoại, Việt ngữ nghiên cứu, …) dường như chưa xứng tầm cỡ tác giả! Đôi điều luận về nhân quả- nghiệp báo 24/08/2009 Đôi điều luận về nhân quả- nghiệp báo 24/08/2009 06:01' AM Mặc dù các tôn giáo nhất là Phật giáo đều nhấn mạnh đến vấn đề Nhân Quả - Nghiệp báo, song Luật Nhân quả không phải là của riêng một tôn giáo nào, nó là một luật của tự nhiên (Law of Nature). Đã là luật của tự nhiên thì ai cũng hiểu rằng không có một sức mạnh, hay ý chí nào can thiệp vào để bắt nó phải theo ý muốn của riêng mình cả. Nó sẽ vận hành theo đúng luật của nó, ai không biết hay cố tình không hiểu thì sẽ phải chịu tác động của luật, ví như một cái máy đang chạy mà một người cứ cho tay vào thì sẽ bị máy nghiền đứt, cho dù có kêu van xin xỏ cũng không được. Báo Nhân văn (5 số) 28/05/2009 Báo Nhân văn (5 số) 28/05/2009 11:22' AM Trong thời gian 1956-1957, Phan Khôi cùng Nguyễn Hữu Đang, Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Phan Khôi, Thụy An, Trương Tửu... thành lập tờ Nhân Văn và có các bài phê phán giới lãnh đạo văn nghệ lúc bấy giờ. Báo Nhân Văn ra được 5 số thì bị đình bản. Phan Khôi sau đó bị cấm sáng tác cho đến khi qua đời năm 1959 tại Hà Nội.
Chuyện về nhà báo Kim Quốc Hoa 19/06/2009 Chuyện về nhà báo Kim Quốc Hoa 19/06/2009 07:52' AM Nhà báo Kim Quốc Hoa, Biên tập viên cao cấp, Tổng Biên tập Báo Người cao tuổi tâm sự: "Khát khao được cầm súng chiến đấu, nhưng không toại nguyện. Đơn vị giữ tôi lại ở miền Bắc để làm công tác tuyên truyền văn hoá, văn nghệ, làm báo tường. Thế rồi, tôi trở thành phóng viên chuyên nghiệp một cách tình cờ và may mắn...". Trải qua cương vị lãnh đạo của 6 cơ quan báo chí, nhà báo Kim Quốc Hoa luôn giữ được bản chất người lính tiên phong trên mặt trận sôi động này. Những kinh nghiệm làm nghề của ông rất đáng để thế hệ sau học tập. Ai xóa cái "Tôi" của nhà báo? 18/06/2009 Ai xóa cái "Tôi" của nhà báo? 18/06/2009 04:30' PM Quá nhiều các bài viết lờ nhờ, nhạt nhẽo trên báo chí mà người viết không đưa ra một quan điểm nào. Họ biện hộ: Đó chính là tính "khách quan" của báo chí. Hay đó chỉ là sự vô trách nhiệm và ngại chịu trách nhiệm của nhà báo? Bàn thêm về vị thế của nhà văn Việt Nam hiện đại 20/05/2009 Bàn thêm về vị thế của nhà văn Việt Nam hiện đại 20/05/2009 02:02' PM Một tiêu chí quan trọng để nhận diện về tính chất của một giai đoạn văn học là vị thế xã hội của nhà văn: nó tiết lộ những tương tác phức tạp của văn học với các nhân tố khác như: bảng thang giá trị trong xã hội, những định hướng từ chính trị... Một cái nhìn lướt qua mang tính đối chiếu giữa vị thế xã hội của nhà văn giai đoạn 1945 - 1975 và từ sau 1975 đến nay có thể giúp ta nhận thức rõ hơn về ý nghĩa văn học sử của khái niệm công cụ này. Báo chí - nhà báo và sự hình thành tầng lớp trí thức hiện đại đầu thế kỷ XX 09/05/2009 Báo chí - nhà báo và sự hình thành tầng lớp trí thức hiện đại đầu thế kỷ XX 09/05/2009 09:07' AM Khái niệm trí thức hiện đại ở đây được hiểu trong sự đối nghĩa với trí thức - kẻ sĩ (sẽ được giới thuyết cụ thể trong phần tiếp theo của bài viết) trong xã hội Việt Nam truyền thống. Sự hiện diện của tầng lớp trí thức hiện đại, trên thực tế, mới chỉ xuất hiện ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bài viết này sẽ tập trung làm sáng tỏ vai trò của báo chí - một thiết chế văn hóa có nguồn gốc phương Tây - đã đóng vai trò như một dung môi, một tiền đề vật chất cho sự xuất hiện của tầng lớp trí thức hiện đại như thế nào. Chữ "văn" chữ "báo" khéo là... 03/05/2009 Chữ "văn" chữ "báo" khéo là... 03/05/2009 02:21' PM Tính sơ sơ trong 300 hội viên hội Nhà văn Hà Nội có dễ tới ngót trăm người đang hoặc đã ăn lương ở các tòa soạn. Xửa xừa xưa có các anh Yên Thao, Băng Sơn, Vân Long..., lớp bánh tẻ có Anh Ngọc, Vũ Đình Minh... Mới làm độ mươi năm nay là những Giáng Vân, Võ Thị Hảo, Hồ Anh Thái... Đó là một đội ngũ mà đời sống công chức, đời sống văn học của họ có những nét vừa thuận tiện, vừa phức tạp... Lý luận phê bình văn học của Phạm Quỳnh 21/04/2009 Lý luận phê bình văn học của Phạm Quỳnh 21/04/2009 05:16' PM Phạm Quỳnh chính là tác gia lí luận và phê bình quan trọng nhất của văn học giao thời, và vì thế cũng là một trong những người mở đầu cho loại hình người viết lí luận và phê bình trong tiến trình lịch sử văn học nước nhà. Sau ông, chỉ mãi đến 1929 ta mới thấy xuất hiện Phan Khôi, Trịnh Đình Rư nhưng những cây bút thực sự chuyên sâu - chuyên nghiệp thì phải tính từ mốc 1931 với Thiếu Sơn và sau đó là một loạt những gương mặt của Lê Thanh, Trương Tửu, Thái Phỉ, Hoài Thanh, Đặng Thai Mai, Vũ Ngọc Phan... Đó là một thực tế mà độ lùi của thời gian đã giúp ta có được sự điềm tĩnh cần thiết để có được một thức nhận và biện giải thật sự khách quan. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây qua sự hiện diện của tờ báo 09/04/2009 Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây qua sự hiện diện của tờ báo 09/04/2009 10:28' AM Sự ra đời của báo chí, lẽ tự nhiên, làm xuất hiện một chân dung mới: ký giả, hay nhà báo. Những danh xưng này, trong ngôn ngữ đương đại thiên về ý nghĩa nghề nghiệp thuần túy nhưng ở vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX lại có nét nghĩa chỉ một nhóm có vai trò ưu đẳng trong xã hội (status group). Với quốc dân, họ là đại diện cho luân lý và tri thức, có chức phận dẫn dắt, hướng đạo. Trong một xã hội vốn có truyền thống trọng quan tước, ký giả thậm chí được liệt vào tầng lớp “quan lại cao cấp”. Chủ nghĩa Duy vật Nhân văn: Phương pháp luận nghiên cứu con người hiện nay ở Việt Nam 13/02/2009 Chủ nghĩa Duy vật Nhân văn: Phương pháp luận nghiên cứu con người hiện nay ở Việt Nam 13/02/2009 08:46' AM Đây là một quan niệm mới của tác giả về lĩnh vực triết học nhân văn. Chungta. com cũng đã giới thiệu nội dung khái quát 2 cuốn sách của tác giả về chủ đề này. Để giúp bạn đọc rõ hơn, chúng tôi giới thiệu bài viết trực tiếp về nội dung chủ yếu của chủ nghĩa duy vật nhân văn và phương pháp luận của nó. Hy vọng táo bạo 12/11/2008 Hy vọng táo bạo 12/11/2008 08:45' AM Trong khi tại Mỹ, tổng thống mới đắc cử Barack Obama vừa đánh dấu tên tuổi mình vào lịch sử nước Mỹ thì tại Việt Nam, cuốn sách Hy vọng táo bạo của ông cũng vừa được ấn hành. Tác phẩm thể hiện sự táo bạo của Barack Obama trong cách nhìn nhận những vấn đề của nước Mỹ... Sự kỳ diệu của một bài báo 14/07/2008 Sự kỳ diệu của một bài báo 14/07/2008 10:56' PM Bài báo được viết cách đây hơn 100 năm. Đầu tiên nó chỉ là một bài báo đơn giản, những bài báo này đã trở thành chất xúc tác lan tràn rất nhanh trong nhiều giới. Khi bài báo được in ra lần đầu tiên tại Mỹ, nó đã thu hút hàng trăm ngàn độc giả, nhiều độc giả đã mua hàng trăm tờ báo chỉ vì tờ báo có bài “A message to Garcia”. Con đường văn học 01/05/2008 Con đường văn học 01/05/2008 01:09' PM Khi tôi nhận ra rằng văn học là một thế giới hoang tưởng của người viết thì không có nghĩa là tôi hạ thấp giá trị văn học. Tôi chỉ vạch ra khía cạnh vô bổ, vô nghĩa của văn học mà thôi. Tôi cũng đã cảnh tỉnh để người viết dè chừng khả năng bị tha hóa về mặt tinh thần, đạo đức khi cầm bút viết... xem tất cả... Xã hội Việt Nam những năm 1930-1945 trải qua một thời kỳ biến động sâu sắc về chính trị, kinh tế và văn hoá. Chỉ nói riêng về văn hoá, thời kỳ này các loại sách báo hải ngoại du nhập vào Việt Nam khá phong phú. Hàng loạt học sinh từ Pháp trở về nước mang tư tưởng tân tiến, mới lạ đã có ảnh hưởng tới đời sống của các tầng lớp nhân dân, nhất là tầng lớp học sinh tiểu tư sản trí thức. Cùng với thương mại, công nghệ, kỹ thuật phát triển, các tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam phát triển theo. Các trường tư thục mọc lên dạy chữ Quốc ngữ và chữ Pháp.
Không chỉ con nhà giàu, mà cả con em ở nông thôn cũng tìm về đô thị học tập. Báo chí nở rộ khắp ba kỳ. Có thời điểm cùng tồn tại tới 130 tờ báo và tạp chí.
Trong bối cảnh ấy, đầu tháng 3 năm 1933, nhóm Tự lực văn đoàn ra đời do Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Khái Hưng sáng lập và làm trụ cột.
Chỉ hoạt động khoảng 9-10 năm, nhưng Tự lực văn đoàn chiếm ưu thế trên văn đàn công khai đầu thập niên ba mươi của thế kỷ trước. Việc này nhà thơ Tú Mỡ đã kể trên Tạp chí Văn Học số 5 tháng 6-1988: Năm 1932, tờ Phong Hóa phát hành hằng tuần vào ngày thứ Năm, của anh Phạm Hữu Ninh quản trị, anh Nguyễn Xuân Mai, Giám đốc chính trị, loại báo vô thưởng vô phạt, đang sống dở chết dở vì không ai buồn đọc sắp sửa phải đình bản. Anh Tam đề nghị nhượng lại tờ báo cho mình làm chủ bút, còn hai anh vẫn đứng tên Quản trị và Giám đốc chính trị làm vì, mỗi tháng lĩnh mấy chục bạc lương (tức là tiền cho thuê báo). Tất cả đều hỉ hả: anh Ninh và anh Mai trút được gánh nặng mà khỏi đình bản.
Dưới sự điều hành của Nhất Linh, báo Phong Hóa làm ăn phát đạt, số báo in càng ngày càng tăng. Lúc đầu gặp hồi kinh tế khó khăn, mấy anh em đem hết tài lực làm việc quên mình, không vụ lợi. Bốn anh em thường cột trong tòa soạn anh Tam, anh Long, anh Giư, anh Thế Lữ (tức Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng và Thế Lữ - KHL chú) tình nguyện chi lĩnh mỗi tháng 50 đồng đủ sống, để dành tiền lãi làm vốn cho báo phát triển. Nhưng đến cuối năm đó, tính sổ mới ngã ngửa ra : lời lãi chia theo số vôn, phần lớn chui vào két nhà tư sản. Anh Nhất Linh bèn họp với anh em, phải chấm dứt tình trạng "thằng còng làm thằng ngay ăn”. Không thể chơi với nhà tư sản được…Thế là anh em quyết định thành lập "Tự lực văn đoàn”, trên nguyên tắc là làm ăn dựa trên sức mình, theo tinh thần anh em một nhà: tổ chức không quá 10 người nên không phải xin phép Nhà nước, không cần có văn bản, điều lệ: lấy lòng tin nhau làm cốt, chỉ nêu ra trong nội bộ mục đích, tôn chỉ anh em tự nguyện tự giác tuân theo.
Trang bìa của Phong Hóa số 125
Đoàn viên nòng cốt của Tự lực văn đoàn là những nhà văn trong tòa soạn báo Phong Hóa tất cả chỉ có 6 người. Anh Tam đề nghị kết nạp thêm một người nữa cho đủ số "thất tinh" (tức 7 ngôi sao- KHL). Anh Giư giới thiệu Trần Tiêu, em ruột mình, một giáo viên trường huyện, thích viết văn, đang viết truyện dài "Con Trâu”, được cả văn đoàn đồng ý… Sau cùng, theo đề nghị của anh Tam, văn đoàn chỉ kết nạp thêm anh Xuân Diệu, vị chi là “bát tú” (tức là 8 ngôi sao - KHL).
Số báo Phong Hoá đầu tiên (do Nhất Linh làm chủ bút) ra ngày 22-9-1932, đã hăng hái ủng hộ cho phong trào Thơ mới qua bài viết của Nhất Linh: “Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng ".
Toà soạn và trị sự của báo ban đầu ở góc đường Quán Thánh và Hàng Bún (số 80 phố Quán Thánh - Hà Nội). Toà soạn báo nằm trong một khuôn viên khá xinh xắn. Ngoài có cổng lớn, xung quanh hàng rào sắt, hàng ngày leng keng tiếng chuông xe điện từ Bưởi đi qua. Cây bàng to ở hai bên đường mỗi mùa thu về, lá bàng đỏ cong như chiếc bánh đa vừng rụng đầy sân và liệng thả đậu trên cành tre đằng ngà bên cạnh đó. Toà soạn ở trên gác. Bên trái có phòng riêng của vợ chồng Khái Hưng.
Báo có nội dung mới mẻ là duy tân cấp tiến, đả phá hủ tục, khuyến khích vươn tới cái văn minh. Phong Hoá in tranh khôi hài, nhạo báng không chừa một ai, cốt là vui cười. Từ ông Lý Toét, Xã Xệ đến nhà thơ Tản Đà, luật sư Lê Thăng, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Tố… đều bị phơi lên mặt báo với ý ngầm muốn phá cũ, lập cái mới. Báo còn lỡm cả nhân vật tai to mặt lớn trong chế độ đương thời, như loạt bài động chạm đến Hoàng Trọng Phu “Đi xem mũ cánh chuồn”. Như thế là báo trào phúng Việt Nam quả đến đây mới có. (Phạm Thế Ngũ – Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc - NXB VHTT, 2000)
Báo Phong Hoá giá bán 7 xu (số ra ngày thứ Sáu, ngày 19-1-193 4). Báo bán chạy và hấp dẫn bạn đọc từ thường dân đến trí thức. Sau khi Phong Hoá ra được hai mươi tám tháng, Nhất Linh cho ra tiếp tờ Ngày Nay để đáp ứng nhu cầu bạn đọc và ngầm ý là để sơ cua khi có biến cố xảy ra.
Tờ Ngày Nay số 1 (ra ngày 30-l-1935) bán giá 10 xu, bìa chụp hình thiếu nữ mặc áo mùa xuân. Ngay trang đầu đã phi lộ: Ngày Nay là tờ báo thứ hai của Tự lực văn đoàn... Chúng tôi đưa các bạn từ rừng ra bể, từ thành thị đến thôn quê xem các trạng thái hiện có trong xã hội. Chúng tôi sẽ đi nhận xét thấy sự thật, nói lại để các bạn hay và sẽ chụp nhiều ảnh in xen vào bài để các bài này được rõ hơn... Quả thật, số đầu tiên trên trang bìa đã xuất hiện chức danh Giám đốc Nguyễn Tường Cẩm (là anh thứ hai nhà văn Nhất Linh), báo Ngày Nay đã thay đổi khác. Những phóng sự, những bức ảnh thật đẹp mang hơi thở muôn mặt của đời sống dân quê. Ngoài các bài trong chuyên mục, còn thấy truyện tranh liên hoàn Trong rừng sâu, do Thế Lữ viết truyện, tranh vẽ của Cát Tường. Tuy không còn mục trào phúng, nhưng Ngày Nay thêm "phóng sự điều tra” rất sinh động (như nạn trộm cướp ở làng quê, về không khí ngày tết, nạn khốn cùng dân quê...), đặc biệt có nhiều ảnh mỹ thuật choán cả trang bìa rất bắt mắt. Đến tờ số 2 (ra ngày l0-2-1935) độc giả bất ngờ thấy trang nhất xuất hiện chủ bút mới: Chủ bút Nguyễn Tường Lân - tức nhà văn Thạch Lam.
Từ khi ra đời, báo Ngày Nay đã gây được tiếng vang và thu hút sự chú ý của bạn đọc. Các nhà văn rất xông xáo trong hoạt động nghề nghiệp, tả xung hữu đột không chừa bất cứ một lãnh địa nào trong đời sống. Họ cử phóng viên lên tận làng Trũng, nơi sinh ra vị anh hùng Hoàng Hoa Thám lãnh tụ của cuộc khi nghĩa Yên Thế kháng chiến chống Pháp, đã bị giết hại hơn hai mươi năm về trước. Họ gặp người con trai của ông là Hoàng Văn Vi, lấy tài liệu cho phóng sự hai kỳ trên báo Ngày Nay. Tác giả Việt Sinh (một bút danh khác của Thạch Lam) đã kể về cuộc đời của người con còn lại của Đề Thám bằng phóng sự ảnh rất sinh động. Có thê cũng từ đó mà bạn đọc ca nước mới hiểu thêm về con người Đề Thám. Theo bài viết thì Hoàng Văn Vi là con trai Đề Thám với người vợ ba. Khi Đề Thám bị giết hại, Hoàng Văn Vi mới lên 5 tuổi. Ông này bị Pháp bắt khi mới 7 tuổi và được giao cho quan Án Giáp ở Bắc Ninh nuôi, cho đi học, nhưng trong cảnh quản thúc. 15 tuổi Hoàng Văn Vi được cho ra Hà Nội học trường bách nghệ, nghề mộc. Năm 18 tuổi thì về quê là vợ là con gái một vị bộ tướng của cha mình. Một điểm rất rõ ràng là trong khi các bọn bồi bút và báo khác xuyên tạc thân thế sự nghiệp của Hoàng Hoa Thám, thì các phóng viên báo Ngày Nay đã trung thực mô tả sự anh hùng của Đề Thám mà không sợ đàn áp.
Báo Ngày nay
Nhưng vì phải chăm lo cho hai tờ báo cùng một lúc, khó khăn nhiều bề, nên ít lâu sau tờ Ngày Nay không ra hàng tuần, mà mỗi tháng một kỳ, thành từng tập dày. Cuối cùng, báo Ngày Nay ra được 13 số rồi tự rút lại chỉ còn tờ Phong Hoá. Chỉ đến năm 1936 khi có hàng loạt bài giáng quá mạnh vào nhà cầm quyền, Phong Hoá mới bị đóng cửa vĩnh viễn.
Nhà thơ Tú Mỡ từng hồi ức rằng, dạo ấy báo Phong Hoá liên tục xoáy sâu vào chế nhạo, châm biếm triều đình Nam triều bù nhìn, để quyền lực mất hết vào tay thực dân Pháp. Tiếng là một quốc gia, nhưng triều đình chỉ còn mấy việc là cai quản đám quan lại mũ cánh chuồn, đội lính mặc xà cạp vàng; chăm lo cúng tế; phong hàm cho mấy quan bản xứ, phong sắc cho bách thần... còn chuyện quốc gia, ngoại giao, quân sự, tài chính, nâng cao dân trí, chính trị - xã hội…đều do Pháp cầm roi chỉ đạo. Nhà câ fm quyền lấy cớ tờ báo đăng truyện Hậu Tây du, nói cạnh khoé đến những nhân vật mới trong triều đình Huế phò tá Hoàng đế Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương là những con cưng của Pháp sang Tây… nên đã cho Nam Phong báo tử.
Biếm họa mỉa mai Nguyễn Tiến Lãng - Nam Phong
Mặc dầu vậy, sau 3 năm ra đời, báo Phong Hoá đã có ảnh hưởng to lớn trong xã hội. Người nông dân không còn sợ hủ lậu cũ, tập tục cũ như trước. Dân trí được nâng lên. Trong đời sống tinh thần dường như có luồng gió mới thổi vào cái xã hội trì trệ từ trước 1932, và đặc biệt tiếng cười của Phong Hoá đã góp phần làm đảo lộn một phần trật tự đời sống: Cụ Nguyễn Văn Tố phải cắt bỏ búi tóc; Tản Đà hết ngông hết mộng, đóng cửa An Nam tạp chí, Nguyễn Văn Vĩnh đình Niên lịch thông thư. Tờ Nam Phong, thành trì của văn hoá cũ, không chịu nổi những nhát dao cạo của Phong Hoá đành để sụp đổ. Những hý hoạ phát hành khắp Bắc Trung Nam chỉ cho người ta thế nào là nhà quê, là hủ lậu, thế nào là văn minh là tân tiến và thúc đấy họ trút bỏ những tập tục cũ. (Phạm Thế Ngũ - sách đã dẫn).
Lại nói, tờ Phong Hoá hoạt động được khoảng nửa năm và ngày càng phát triển mạnh, khoảng tháng 3 năm 1933, sau số báo xuân Quý Dậu phát hành, Nhất Linh tính về lâu dài, nên quyết định thành lập Tự lực văn đoàn.
Tự lực văn đoàn có một biểu trưng riêng in trên báo Phong Hoá làm dấu hiệu của văn đoàn. Đó là một hình tròn, đóng khung hai chữ T.L xếp thành chữ triện hình chim đại bàng tung cánh bay trên sóng (1933).
Tự lực văn đoàn tôn chỉ trẻ trung, yêu đời, tin ở sự tiến bộ, đăng trên báo Phong Hoá số 87 ngày 2 tháng 3 năm 1933(l) với 10 điều cụ thể.
Đúng như tên gọi, Tự lực văn đoàn là tổ chức văn chương độc lập- với khuynh hướng nghệ thuật riêng: "Dùng một lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn thật sự có tính cách An Nam, ... lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ ". Vì thế báo Phong Hoá đả kích kịch liệt bất kỳ ai đi ngược xu hướng đó. Số ra ngày 29- 9-1932 có bài chê ông Phó bảng Hoàng Tăng Bí, viết báo Trung Bắc tân văn là văn khó tiêu như trứng vịt, hoặc Việt Sinh châm biếm loại văn chương chỉ biết "khóc, khóc một giọng rên ư ử từ ngàn xưa". Các nhà văn tự lực văn đoàn còn tỉ mỉ thống kê để minh chứng rằng Tương Phố nghèo nàn ngôn ngữ đến nỗi trong một bài Giọt lệ thu có bốn trang giấy đã dùng 61 từ "ôi, than ôi, lệ". Kể cả Nguyễn Trọng Thuật, tác giả Quả dưa đỏ cũng bị chỉ trích như một con lừa chưa thuộc ngữ pháp (?).
Chưa dừng ở đó, Phong Hoá còn tiếp tục tấn công vào một thứ văn chương lai căng. Trong bài "Hai cái thái cực" trên Phong Hoá tháng 3 năm 1933, Nhất Linh đã hài hước nhại một câu văn Tàu cổ lỗ:
"Bỉ nhân trầm tư mặc tưởng nghiên cứu về cái thâm ý đại nghĩa của nhân thế sau khi đã biện phục...vào những lý thuyết của các triết học thì phải phục nhận rằng nhân thế là một gang tay là bạch câu quá khích vậy".
Nhất Linh nhái tiếp một câu đặc quánh văn Tây: "Cảm tình ta như nôn nao như xoáy tận đáy cõi lòng, tư tưởng ta như nẩy phăng ra ngoài óc, tim ta hồi hộp muốn phá tan lồng ngực nhảy ra ngoài"...
Đồng thời Nhất Linh chăm lo đến công việc in ấn rất chu đáo từ bìa sách đến nội dung, sao cho sách thì đẹp mà nội dung thì hay có giá trị tư tưởng tốt, không đi chệch hướng tôn chỉ nêu ra. Ngày ấy tranh minh hoạ đều do các hoạ sĩ tài danh đảm nhiệm: Trần Bình Lộc (Nhất Sách), Nguyễn Gia Trí (Rilg), Tô Ngọc Vân (Tô Tử). Trong các Nhà Xuất bản như: Tân Dân, Nam Kỳ, Cộng Lực, Lê Cường, Tân Việt... chẳng nhà nào tranh giành được với Tự lực văn đoàn. Họ lại còn chiêu hiền đãi sĩ, trân trọng những người tài, chứ không như một số nhà khác bắt chẹt những nhà văn mới vào nghề, mua đứt bán đoạn tác phẩm của họ, chỉ trả giá 20 đồng, nhưng in ra bán gấp 10 đến 15 lần... kiếm lời.
Báo Phong Hoá bị đình bản, nhưng Nhất Linh đã có đề phòng, nên chẳng hề nao núng. ông lại cho xuất bản tờ Ngày Nay thay thế. Người đứng đầu Tự lực văn đoàn cho anh em chuyển dần nội dung của Phong Hoá sang Ngày Nay. Trước báo Phong Hoá còn nói chuyện chính trị quốc gia dè dặt, nay báo Ngày Nay viết nhiều bài đanh thép của Hoàng Đạo, Tứ Ly. Họ gộp những nội dung lại thành vấn đề mới mà như cũ. Họ thêm mục mới như "Bức tranh vân đẩu". Báo Ngày Nay là người bạn của mọi tầng lớp bình dân trong nước. Họ tìm thấy nhiều điều cần thiết cho cuộc sống mới, nhằm mở mang dân trí điều mà thực dân Pháp và bọn cường quyền không muốn.
Tự lực văn đoàn có cơ quan ngôn luận là báo Phong Hoá, về sau là tờ Ngày Nay. Lại có Nhà Xuất bản Đời Nay để in ấn tác phẩm của nhóm. Giai đoạn đầu phải in thuê của nhà khác.
Năm 1938 là năm Tự lực văn đoàn làm ăn phát đạt, có số bạn đọc rất đông, có đội ngũ cộng tác viên hùng hậu, giỏi giang, chuyên nghiệp, lành nghề. Chính Tú Mỡ cũng thừa nhận, trước khi viết cho Phong Hoá mới chỉ là học nghề. khi làm báo Phong Hoá là vào nghề, đến báo Ngày Nay thành lành nghề. Do sự nghiệp kinh doanh tiến triển nên Tự lực văn đoàn xây dựng được nhà in riêng. Sự kiện này được công bố lên mặt báo bằng một hình thức thách đối rất sâu sắc mà hóm hỉnh. Vế thách như sau: Ngày Nay ngày nay in nhà in nhà. Tám con chữ, được lặp lại từng đôi một, bốn lần. Hình như đến bây giờ sau bảy chục năm chưa có ai đối lại. Đọc vế ra nghe rối như canh hệ, nhưng bình tâm thì nghĩa của nó chỉ là một thông báo tin vui: Báo Ngày Nay trước phải đi in thuê, đến bây giờ in ấn ngay ở nhà in của nhà mình.
Chỉ sau khoảng một năm làm việc, Nhà Xuất bản Đời Nay tung ra xã hội trên năm mươi nghìn bản tiểu thuyết, trừ hai tập thơ của Tú Mỡ và Thế Lữ. Mỗi đầu sách in từ bốn đến năm nghìn bản vẫn bán hết. Nhất Linh từng học nghề xuất bản tại Pháp, có tài năng quản lý tổ chức đến nỗi các Nhà Xuất bản khác ghen tỵ mà không sao làm được.
"Nhà Xuất bản Đời Nay mở kỷ nguyên cho những cuốn sách trong lịch sử văn học Việt Nam. " (Phạm Thế Ngũ - sách đã dẫn).
Trước, văn chương thường tả sự chán đời, khóc than uỷ mị, con người thì dường như bất lực trước cuộc sống, trai gái thất tình tìm cách tự tử để giải thoát. Kể từ khi ra đời, Tự lực văn đoàn đã thổi vào nền văn học nước nhà một sinh khí ấm áp hơn. Số phận con người trong mỗi truyện tuy gặp trắc trở, có đau buồn, tình yêu ngang trái nhưng họ đều quý mạng sống, muốn vươn lên, muốn đoạn tuyệt hiện tại để tìm cuộc sống mới ở phía trước. Những con người rất đang yêu. đáng trân trọng, như cô hàng xén, hai đứa trẻ, như chị Tý, Liên, Lan trong truyện của Thạch Lam, hoặc trong tác phẩm của Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo v.v…Vấn đề con người, tự do cá nhân được miêu tả đầy chất nhân văn, tin yêu cuộc sống. Đặc biệt tiếng cười có sức công phá thói hư tật xấu trong xã hội được nở rộ.
Tự lực văn đoàn còn là cái nôi đỡ cho những tài năng văn học nước nhà. Họ đặt ra Giải thưởng văn chương hai năm xét và trao giải một lần. Ban giám khảo gồm các nhà văn trong nhóm. Những tác phẩm phải đi theo khuynh hướng của nhóm mới được đưa vào xét giải.
Năm 1935 không có tác phẩm trúng giải chính thức chỉ có bốn giải khuyến khích, với tổng số tiền 100 đồng chia đều cho bốn tác phẩm. Trong đó có Đỗ Đức Thu với Ba, Phan Văn Dật với Diễm dương trang, Hàn Thế Du với Bóng mây chiều...
Giải thưởng năm 1937 được trao là: Kịch Kim tiền của Vi Huyền Đắc, Bỉ Vỏ của Nguyên Hồng (mỗi giải 50 đồng); Nỗi lòng tiểu thuyết của Nguyễn Khắc Mẫn được giải thưởng 30 đồng. Đặc biệt có một thiếu phụ xin giấu tên là L.D được trao 30 đồng. Riêng Tâm hồn tôi của Nguyễn Bính được được Hội đồng đặc biệt khuyến khích. Ngoài ra các tác phẩm được hội đồng chú ý: Bốn Mùa, tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Sơn, kịch Hai người trọ học của Nguyễn Đại Thanh, tiểu thuyết Hy sinh của Phạm Ngọc Khôi và Ngược dòng, tiểu thuyết của Nguyễn Lân.
Đến năm 1939, Tự lực văn đoàn lại trao giải thưởng cho cuốn tiểu thuyết Làm lẽ của Mánh Phú Tư, Cái nhà gạch của Kim Hà (mỗi giải 100 đồng). Về thơ trao giải cho tập Bức tranh quê của Anh Thơ và Nghẹn ngào của Tế Hanh… Ngoài ra còn một số tác phẩm khác được Ban giám khảo khen trên giấy, được gửi đến tận tay các tác giả.
Có thể nói rằng nhiều cây bút từng lọt vào mắt xanh của Tự lực văn đoàn thời kỳ ấy, đã thành nhà thơ, nhà văn nổi tiếng sau này.
Ngoài làm văn chương, trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, Tự lục văn đoàn có ý tưởng cải cách xã hội, lập Hội ánh sáng, làm nhà lá sáng sủa cho dân nghèo thuê giá rẻ, và tổ chức chợ phiên, diễn kịch lấy tiền cứu tế dân bị lũ lụt.
Nòng cốt Tự lực văn đoàn ban đầu là những nhà văn trong tòa soạn báo Phong Hóa do Nhất Linh là Giám đốc đoàn, tất cả 6 người. Sau nhiều lần bổ sung, cuối cùng văn đoàn có tám người, gọi là bát tú (tám ngôi sao).
------------------------------
(1) Giáo sư Văn Tạo trong tạp chí Khoa học và Tổ quốc, số xuân Bính Tuất cho rằng, tôn chỉ Tự lực văn đoàn đăng trên Phong Hoá số 101, ngày 8-6-1934.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 31, 2010 9:57:13 GMT 9
Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Tường Thiết December 15, 2010
Du Tử Lê Du Tử Lê: Thưa anh Nguyễn Tường Thiết, gần đây, độc giả được đọc nhiều sáng tác của anh, thí dụ trên tạp chí Hợp Lưu, báo Người Việt... Câu hỏi đầu tiên của chúng tôi là: Xin anh cho mọi người được biết chút tiểu sử của anh? Di chúc của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Nguyễn Tường Thiết (NTT): Tôi sinh năm 1940 tại Hà Nội, là con út của nhà văn Nhất Linh. Trước năm 1975 ở Sài Gòn tôi dạy học rồi nhập ngũ khóa 2/68 quân trường sĩ quan Thủ Ðức. Năm 1973 tôi trông nom nhà xuất bản Phượng Giang. Năm 1975 định cư ở Mỹ, tôi làm việc tại nhà máy lọc nước thải của thành phố Seattle với tư cách một chuyên viên phòng thử nghiệm hóa chất cho đến ngày về hưu, tháng 4 năm 2006. Cộng tác với các tạp chí Thế Kỷ 21, Văn Học, Hợp Lưu và các báo mạng Talawas, Da Mầu, Diễn Ðàn Thế kỷ... Ðã có hai tác phẩm xuất bản, hồi ký Nhất Linh, cha tôi (Văn Mới 2006) và tập truyện Mùa Hạ Năm Ấy (Văn Mới 2008). DTL: Anh thực sự bước vào con đường văn chương từ bao giờ? Ra sao? Thế nào? NTT: Tôi thực sự bước vào con đường văn chương rất muộn, mới cách đây 8 năm, lúc tôi đã trên 60 tuổi. Vào tháng 7 năm 2002 tập san Thế Kỷ 21 ra số báo Tưởng Niệm Nhất Linh. Số báo đặc biệt này đã khơi dậy trong tôi cảm hứng cầm bút, bắt đầu từ những bài viết về Nhất Linh, rồi sau đó viết hồi ký và gần đây truyện ngắn. DTL: Khi sáng tác, anh có luôn nghĩ, anh đang viết văn trong chiếc bóng lớn của thân phụ là văn hào Nhất Linh và, những chiếc bóng lớn khác của dòng họ Nguyễn Tường, như Thạch Lam, Hoàng Ðạo... NTT: Sống trong bóng rợp của người cha và hai người chú nổi tiếng trên văn đàn, rồi ngồi viết hồi ký về những người đó, về mặt tâm lý không phải là chuyện dễ dàng, như nhà văn Duy Lam đã từng nhận xét. Một mặt cái bóng tỏa đó làm chùn chân những toan tính của tôi khi bước vào thế giới chữ nghĩa, mặt khác nó buộc tôi phải khó khăn với chính mình không thể để mình quá dễ dãi với ngòi bút. Ðó có thể là nguyên do đã khiến tôi không chọn nghiệp văn ngay từ lúc khởi đầu, mà chỉ bắt đầu viết ở tuổi xế chiều. Ðó có thể là lý do khiến chuyện viết lách với tôi luôn luôn là một công việc khổ ải nhọc nhằn. Ở một khía cạnh khác thì cái bóng lớn của người cha nổi tiếng có một điểm tích cực mà những nhà văn khác không may mắn có được: đó là qua hình ảnh ông cụ những bài viết của tôi được đa số độc giả đón đọc với ít nhiều thiện cảm tiên khởi. Ðiều này là phần thưởng lớn cho tôi khiến cho cái công việc khổ ải nhọc nhằn khi viết kia trở thành niềm vui thanh cao khi tôi đọc lại những bài viết của mình phản ánh qua cái nhìn của độc giả. DTL: Thưa anh trong vai trò của một người con, mà thân phụ là người đóng góp lớn lao cho đất nước trên phương diện văn chương cũng như lịch sử. Xin anh có thể nói sơ qua về thân phụ anh - Nhà văn Nhất Linh, nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam. NTT: Thưa anh, trong quá trình hoạt động, đúng là trong ông cụ tôi có hai con người nhập lại. Một con người chính trị, cách mạng Nguyễn Tường Tam, và một con người thứ hai - nhà văn Nhất Linh. Thật ra hai con người đó, tôi nghĩ không phải là phát triển cùng một lúc. Có giai đoạn, con người thứ nhất mạnh hơn con người thứ hai. Và cũng có giai đoạn ngược lại. Vấn đề còn tùy thuộc vào yếu tố bên ngoài đem đến. Chẳng hạn như khoảng thời gian mà đất nước ta trong thời gian sóng gió nhất. Những biến động lớn của đất nước về mặt chính trị thì con người cách mạng Nguyễn Tường Tam trỗi dậy để thực hiện những điều mà ông ấp ủ. Và khi tình trạng đất nước trở nên bình thường, con người nghệ sĩ Nhất Linh lại thắng thế. Chính vì điều đó thành ra hai tính cách trong một con người đã song hành với nhau trong từng giai đoạn, đôi khi cũng xâu xé nhau dữ dội. DTL: Mặc dù anh nói là song hành, nhưng liệu nó có ổn thỏa không? Xin anh nói rõ thêm về sự xâu xé này? NTT: Tôi nghĩ sự xâu xé thể hiện rõ trong lần ông đi Pháp về. Ðó là vào khoảng năm 1927 khi ông tốt nghiệp cử nhân khoa học. Khi về nước ông dạy học được một thời gian thì bỏ dạy, mặc dù đời sống của một giáo sư thuở ấy là đời sống bao người mơ ước. Ông cụ tôi bỏ hết để lao vào nghiệp báo mà không biết tương lai thế nào. Tôi nhớ mẹ tôi cằn nhằn chuyện này lắm. Vì lợi tức ông mang lại cho gia đình bằng nghề dạy học rất lớn. Tôi còn nhớ nếu lương của thầy giáo lúc giờ là 20 thì làm báo chỉ là 2. Chính vì lẽ đó tôi hiểu sự đam mê của ông cụ phải lớn lao lắm. Sau một thập niên làm báo, con người nghệ sĩ trong ông được dịp bộc phát, ông thành công, ông đạt được ước mơ của mình là xây dựng được tờ báo càng ngày càng vững mạnh và cũng thành lập được nhóm Tự Lực Văn Ðoàn. Vào những năm của thập niên 40, khi tình hình chính trị của đất nước thay đổi, tất cả những biến cố đó làm cho con người thứ hai của ông trỗi dậy. Ông thấy rằng phải có bổn phận làm một cái gì cho đất nước và mục tiêu trước mắt là giành lại độc lập từ tay người Pháp, đó cũng là mục tiêu của những người yêu nước bấy giờ nghĩ đến. Thời gian đó tôi cũng đã trưởng thành và ý thức được những giằng co rất mạnh mẽ trong ông cụ. Tự Lực Văn Ðoàn gồm có 7 thành viên nòng cốt, trừ nhà văn Thạch Lam là chú tôi đã mất năm 42 tuổi. Sáu người còn lại, sau biến cố 1945, họ đi theo 2 dòng khác nhau. Tôi muốn nói, giữa những người cùng chí hướng, cùng lý tưởng dạt ra làm hai con đường. DTL: Anh có thể nói rõ hơn? NTT: Hoàng Ðạo, Nhất Linh, Khái Hưng là những người ở trong mặt trận chống Cộng. Ðó là 3 người nòng cốt. 1954 Khái Hưng và Hoàng Ðạo mất, ông cụ tôi vào Nam. Ba người còn lại là Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ ở lại ngoài Bắc. Và sự giằng xé nội tâm mà tôi nhìn thấy rất rõ ở ông cụ là việc mất tích của Khái Hưng. Hiển nhiên đó là kết quả của sự lựa chọn chính trị. Ông cụ tôi khổ tâm lắm, ở chỗ những người đồng chí cùng làm việc với mình, nay vì những vấn đề chính kiến chính trị mà bị sát hại. Về sau càng nhiều các đồng chí của ông bị thủ tiêu, và điều đó càng làm ông cụ đau đớn hơn. DTL: Thưa anh, ông cụ thân sinh của anh có bao giờ tâm sự với vợ con những u uẩn của mình? NTT: Không bao giờ, bao nhiêu u uẩn ông nén hết trong lòng. DTL: Thưa anh, như vậy làm sao anh được biết? NTT: Cũng là do tình cờ. Tôi nhớ có một đêm, khi chúng tôi mới vào Nam, ở nhà bác Nguyễn Tường Thụy. Một đêm anh em chúng tôi nghe tiếng khóc trong phòng bố tôi. Chúng tôi hồi đó còn rất bé không biết điều gì xảy ra. Người anh họ con bác Thụy, bảo cho chúng tôi biết, bố chúng tôi khóc vì thương tiếc chú Long (Hoàng Ðạo). Hoàng Ðạo mất trên tàu hỏa năm 1948, trong khi đang di chuyển từ Hồng Kông sang Quảng Châu, ông bị bệnh tim nghẽn. Hoàng Ðạo là cánh tay phải của ông cụ tôi. Hoàng Ðạo mất đi, đối với ông cụ tôi, không phải ông chỉ là mất một người em mà ông còn mất đi một đồng chí. Tôi có thể nói, khi Thạch Lam mất, Bố tôi có thương tiếc, nhưng đó là cái thương tiếc của con người văn nghệ Nhất Linh. Nhưng khi Hoàng Ðạo mất, cái đau đớn đó là của nhà cách mạng Nguyễn Tường Tam. Ông như mất đi một giấc mộng lớn. Và nếu không có cái đêm tình cờ đó thì tôi làm sao hiểu được sự khác nhau giữa hai nỗi đau mất em trong một con người. DTL: Nếu tôi nhớ không lầm thì ông cụ tự vẫn ngày 7 tháng 7 năm 1963, vì ông từ chối phải ra tòa, và ông đã để lại một câu, có thể nói là một câu danh ngôn rất nổi tiếng: “Ðời tôi để lịch sử xét xử.” Thưa anh, là người trong gia đình, anh có thể cho biết tại sao lại đưa đến chuyện ông cụ phải bị ra tòa? NTT: Thật ra cũng khó mà trả lời một cách vắn tắt. Những lời ông cụ tôi để lại cho hậu thế, nguyên văn có 72 chữ và tự nó đã nói lên lý do, và không gì bằng dẫn chứng. Tôi lại là người cầm tờ giấy đó, chứng kiến những phút cuối cùng của ông cụ. Hiện nay tôi còn giữ bản di chúc của bố tôi. Bản di chúc có tất cả 72 chữ và tôi thuộc nằm lòng: “Ðời tôi để lịch sử xử, tôi không chịu để cho ai xử tôi cả, sự bắt bớ và xử tội tất cả các phần tử đối lập quốc gia là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như Hòa Thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu để cảnh cáo những người trà đạp mọi thứ tự do. 7-7- 63. Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.” Cả cuộc đời ông cụ có hai con người, có khi ông ký tên Nhất Linh, có khi ông ký tên Nguyễn Tường Tam. Khi ông viết văn ông ký tên Nhất Linh. Khi ông viết một bản văn thuộc về chính trị, chẳng hạn như khi ông viết thư từ chức bộ trưởng Ngoại Giao gửi cho Hồ Chí Minh, ông cụ ký Nguyễn Tường Tam. Lần duy nhất và cũng là lần sau cùng, ông ký tên gộp cả hai là tờ di chúc để cho hậu thế: Nhất Linh - Nguyễn Tường Tam. Tôi nghĩ, phải chăng ông cụ muốn nhắn nhủ cho hậu thế rằng, mục tiêu của cái chết này là mục tiêu chính trị nhưng phương cách, phong thái ông lựa chọn cái chết bằng tâm hồn của người nghệ sĩ, của một nhà văn.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 31, 2010 10:03:02 GMT 9
DTL: Nhân anh nói về việc anh là người cầm và còn giữ tờ di chúc của ông cụ, đồng thời trong một hồi ký của anh, anh cũng có nói anh cũng còn giữ rất nhiều những tranh vẽ phát của ông cụ. Phải chăng anh là người được giữ rất nhiều những di sản văn hóa của ông cụ? Ông bà Nhất Linh và hai con (cô Thoa và nhà văn Nguyễn Tường Thiết), 1951. NTT: Ðúng vậy. DTL: Tại sao anh được chọn mà không phải là những người con khác? NTT: Tôi nghĩ có lẽ do ông cụ nhìn ở tôi có một khiếu nào đó về văn chương. Năm tôi 16, 17 tôi cũng viết những truyện ngắn. Tôi có đưa cho ông cụ coi, ông cụ có khen hay, nhưng ông lại giấu đi không cho phổ biến mà cũng không khoe với người nào khác. Tôi nhớ một truyện ngắn tôi viết về một giấc mơ của mình, trong đó có cảnh ông cụ chết trong một chuyến lên Ðà Lạt. Ông với một cành hoa huyết nhung lan, bên bờ suối, một loại lan mà ông rất thích thì ông sẩy chân ngã xuống hồ mà chết. Tôi có cảm tưởng ông không khuyến khích tôi vào con đường viết văn. Có lẽ ông thấy con đường viết văn cũng quá nhiều hệ lụy. DTL: Hơn ai hết, chắc chắn anh là người đọc, lưu giữ với tất cả hãnh diện (chính đáng) về gia tài văn học, tôi dùng chữ văn học vì văn chương của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn từ nhiều chục năm trước, ở miền Nam đã đi vào chương trình giảng dạy văn chương ở bậc trung học cũng như đại học. Do đấy, câu hỏi của tôi là anh có nghĩ văn chương của anh bị ảnh hưởng Tự Lực Văn Ðoàn, từ văn phong, kỹ thuật, bố cục, tâm lý nhân vật - - Ngay cả khi những sáng tác của anh, có tính hồi ký? [/img] Nhà văn Nhất Linh cùng với gia đình, Ðà Lạt 1956. NTT: Tôi không nghĩ là tôi bị ảnh hưởng của Tự Lực Văn Ðoàn khi viết văn. Hoặc có thể là tôi bị ảnh hưởng dưới hình thức nào đó mà chính tôi không tự biết. Một nhà văn khi viết đương nhiên là bị ảnh hưởng không nhiều thì ít bởi môi trường sống và nền văn hóa mà người ấy hấp thụ; hiểu theo nghĩa rộng ấy thì có thể tôi bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi những nhà văn của thế hệ sau Tự Lực Văn Ðoàn, lớp nhà văn của miền Nam Việt Nam thế hệ 1954-1975, thời kỳ mà tôi ở tuổi mới lớn và dễ bị ảnh hưởng nhất. Tuy nhiên tôi biết chắc là một lời khuyên của ông cụ đã ảnh hưởng nhiều đến tôi: “Viết về cái gì cũng được miễn là phải viết cho hay”. Mỗi lần viết nhớ tới lời ông cụ tôi cố gắng hết sức để viết cho hay (hay theo ý tôi - cố nhiên - vì thế nào là hay lại là một chuyện khác, nó tốn nhiều giấy mực lắm). Mặt khác có sự khác biệt giữa cách viết của tôi và ông cụ tôi. Nó không nằm ở nội dung mà nằm ở kỹ thuật viết. Văn của tôi chịu ảnh hưởng nhiều của nền điện ảnh hiện đại với rất nhiều hồi tưởng flashback, một kỹ thuật mà thời ông cụ tôi không có. Thời xưa người ta viết tay. Thời nay người ta gõ máy vi tính. Máy có thể làm những chuyện mà viết tay không làm được. Ðó là chuyển đổi một đoạn văn từ chỗ nọ sang chỗ kia trong nháy mắt. Sự tiện lợi của máy vi tính tạo nên cho tôi một lối viết khác với lối viết xưa: Truyện hay hồi ký của tôi vì thế thường là thời gian đảo lộn với những mảnh đời được cắt dán chồng chéo không trước sau, không thống nhất như lối viết truyện hay hồi ký cổ điển. DTL: Sau 3/4 thế kỷ kể từ ngày Tự Lực Văn Ðoàn xuất hiện, với những thành tựu, ảnh hưởng lớn trên cả hai mặt văn chương và đời sống xã hội, hôm nay, nhìn lại, từ góc độ khách quan tối đa mà anh có được, anh thấy đâu là điểm mạnh thực sự của Tự Lực Văn Ðoàn và đâu là điểm mà anh cho là yếu hay chưa đạt tới? NTT: Theo tôi điểm mạnh thực sự của TLVÐ nằm ở chỗ, đây là một tổ chức có tôn chỉ và mục đích rõ ràng, có một chương trình hoạt động rõ rệt sản xuất ra được những tác phẩm có ảnh hưởng mạnh mẽ trong xã hội cũng như văn học, được điều hành bởi những thành viên có thực tài làm việc trong tinh thần tương nhượng và dân chủ. Tự Lực Văn Ðoàn lại có cơ quan ngôn luận riêng là hai tờ báo Phong Hóa và Ngày Nay, có nhà xuất bản riêng Ðời Nay, có cơ sở ấn loát riêng theo đúng tinh thần Tự Lực. Trên địa hạt xã hội nhóm Tự Lực Văn Ðoàn muốn phá bỏ những hủ tục để cải cách xã hội theo những quan niệm mới. Trong sự đả phá những cái cũ TLVÐ đôi khi đã đi quá trớn. Các tập quán phong tục của ta không nhất thiết là phải bỏ hẳn mà cần có sự phán đoán linh động. Ðây có lẽ là điểm yếu của TLVÐ. Nhà văn Nhất Linh đang thổi sáo trong rừng. DTL: Ðặt trường hợp anh là một thành viên thế hệ thứ hai của Tự Lực Văn Ðoàn, anh sẽ làm gì? Tôi muốn hỏi, anh có những toan tính đổi mới nào không? NTT: Xin cho được miễn trả lời câu hỏi này vì tôi không bao giờ nghĩ mình là thành viên thứ hai của Tự Lực Văn Ðoàn. DTL: Thưa anh Nguyễn Tường Thiết, thêm một năm nữa đã đi qua trên cảnh đời tỵ nạn chung, của người Việt ở xứ người. Một cách cá nhân, năm 2010 vừa qua, những gì anh cho là mình đã làm được và những gì chưa? NTT: Anh nói đúng, lại một năm nữa vừa trôi qua trên mảnh đời ty nạn của chúng ta. Ðúng 35 năm trước khi đặt chân lên đất Mỹ tôi vừa đúng 35 tuổi. Năm nay ăn sinh nhật cái tuổi “thất thập cổ lai hy” tôi hể hả cười trong bụng chúc mừng 35 năm Việt-Mỹ đề huề! Thế là Half and Half nửa Việt nửa Mỹ nhé! Thời gian đi nhanh thật anh nhỉ, càng nhiều tuổi thì hình như bóng chiều càng kéo xuống mau. Câu hỏi của anh làm tôi sực nhớ: Mình chưa làm được gì cả trong năm 2010 ngoài nhìn thời gian trôi. Nhưng như thế cũng tốt. Sống mà cứ phải toan tính thực hiện chuyện nọ chuyện kia sao tôi thấy mệt quá. Từ ngày về hưu hết bận bịu với đời tôi cứ thả hồn rong chơi như đám mây kia trôi đi lặng lẽ, không cam kết những chuyện “lớn lao” của tuổi trẻ. Ngay cả chuyện cam kết với chữ nghĩa tôi cũng coi nhẹ: Viết lách phải được xem là một cái thú, không phải là cái nghiệp, lại càng tuyệt đối không phải là một sự nghiệp. Nhà văn Nguyễn Tường Thiết. DTL: Tình trạng sức khỏe của anh, hiện tại ra sao? Anh có nghĩ nó đủ cho anh thực hiện những chương trình, dự tính của anh trong năm 2011? Nếu anh không cho là tôi quá tò mò, thì những dự tính văn chương cũng như đời thường của anh, ở năm 2011 là những gì? NTT: Tình trạng sức khỏe của tôi nói chung khá tốt. Tôi nghiệm ra là cái lối sống “không cam kết” của tôi tuy không mang lợi ích gì cho đời nhưng lại rất tốt cho sức khỏe của mình. Hàng ngày tôi lái xe đến hồ Green Lake, đậu xe rồi đi rảo bộ một vòng quanh hồ chu vi 5 cây số. Tôi mang theo trong giây lưng cái máy odometer nhỏ xíu, đi một bước thì máy nó nhảy một số, mỗi ngày phải đi 10 ngàn bước mới đủ cữ, theo lời bác sĩ dặn. Tôi học được cái thú đi bộ từ ông cụ tôi. Không mấy ai biết Nhất Linh là người rất thể thao. Những năm của thập niên 50 thế kỷ trước ở Ðà Lạt hàng ngày cha tôi đi bộ để tầm lan, đi xa trên 10 cây số, chúng tôi trai tráng đi theo ông mà muốn đứt hơi. Ði bộ xong tôi lấy laptop trên xe bước sang quán Starbucks gần đó, mua ly cà-phê, chiếc bánh ngọt, tờ báo Seattle, rồi ngồi đọc báo hoặc ngắm cảnh đời hoặc... viết, nếu hứng. Những bài viết của tôi, ký hay truyện, phần lớn đều đẻ ra từ những quán cà-phê ấy. Vài truyện của tôi có người nói đùa phảng phất mùi thơm cà-phê Starbucks. Tôi viết lai rai tí một nhâm nhi như kiểu các cụ xưa uống rượu nhấm mấy hột lạc. Khi nào tập họp lại những bài viết được khoảng 2, 3 trăm trang thì tôi xuất bản sách. Ðể trả lời câu hỏi của anh về dự tính văn chương của tôi thì cuốn sách thứ ba của tôi dự tính sẽ ra đời vào năm tới 2011. Còn dự tính đời thường thì năm tới Thái Vân nhà tôi về hưu, chúng tôi sẽ có nhiều thì giờ hơn để đi du ngoạn nhiều nơi trên thế giới, một công việc mà trong quá khứ chúng tôi đã thực hiện. Với tôi du lịch ngoài cái thú chung của một du khách tôi còn một cái thú riêng: Biết đâu mỗi lần đi xa lại đẻ thêm được một đứa con tinh thần? DTL: Trân trọng cảm ơn nhà văn Nguyễn Tường Thiết, đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn đặc biệt này!
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 6:16:22 GMT 9
NHẤT LINH VÀ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN
Đặng Trần Huân Nguyệt san Thế Kỷ 21 số 159 phát hành tháng 7. 2002 tại Nam California, số đặc biệt tưởng niệm Nhất Linh, là một số báo giá trị, công phu và hữu ích. Vài mươi năm sau khi viết tới những vấn đề văn học liên quan tới Tự Lực Văn Đoàn và các đoàn viên, không thể không tham khảo số báo đặc biệt này.
Vì thế nội dung những bài trong Thế Kỷ 21 số 159, trừ những bài về kỷ niệm và thiên tài Nhất Linh viết theo ký ức hay cảm tính có thể tùy hứng của các tác giả, nhưng những bài có tính chất biên khảo có tham chiếu tài liệu thì cần thật chính xác, chính xác chừng nào hay chừng ấy để người viết sau có thể tin cậy.
Riêng trên phương diện đó, sau khi đọc không sót một bài nào trong Thế Kỷ 21 số 159 (tưởng niệm Nhất Linh) tôi xin góp ý mấy điểm như sau:1 - Ông, bà Nhất Linh có bao nhiêu con? Trong bài Những Kỷ Niệm Riêng... , Trương Bảo Sơn viết về bà Nguyễn Tường Tam: "Tuy sinh 13 lần nhưng chỉ nuôi được có bảy con, 5 trai và 2 gái" (tr. 26). Trong bài Nhất Linh, Tự Lực Văn Học... Lê Đình Thông chú thích "nhà văn Nguyễn Tường Tam có năm người con” và cẩn thận ghi tên cả năm người và nơi họ đang sinh sống (tr. 69). Trong bài Nữ Sĩ Anh Thơ Viết Về Nhất Linh, bà Tam đã trả lời về việc cho anh Triệu làm con nuôi nhà văn Khái Hưng "... anh Khái Hưng là bạn thân nhất của nhà tôi mà lại không có con trong khi chúng tôi có những bảy cháu" (tr. 93) Tiếc thay cả ba bài của ba tác giả dẫn trên không cho biết thời gian viết là năm nào, trừ bài Nữ Sĩ Anh Thơ... ghi theo hồi ký Từ Bến Sông Thương xuất bản năm 1986. Thiết tưởng khi viết về địa danh, nhân danh, hay số liệu nên ghi thật đúng, nếu những điều không chắc chắn xin ghi có lẽ, khoảng chừng mà không khẳng định. 2 - Báo Ngày Nay đình bản năm nào? Trong bài Cười Cợt Để Sửa Đổi Phong Hóa..., Động Đình Hồ nói tham chiếu bài Thư gửi cô Mai, cô Loan của Nguyễn Thị Vinh thì tuần báo Ngày Nay đình bản năm 1939. Nhưng ngay dòng dưới (tr. 52), Động Đình Hồ cho in hình bìa tờ Ngày Nay số 222 phát hành ngày 24. 8. 1040 để chứng minh là năm 1939 báo Ngày Nay chưa đình bản và gián tiếp cho Nguyễn Thị Vinh là sai. Có thể bà Vinh sai thật vì ngay khi trả lời cuộc phỏng vấn của Anh Vân đăng trên nguyệt san Hương Quê số 47 tháng 8. 1998 xuất bản tại Houston, TX, bà cũng nói rằng " hiện nay tôi cũng có một số tài liệu về việc ấy (TLVĐ) nhưng không bảo đảm sự chính xác. Do đó không dám phổ biến”. Tôi đề nghị tòa soạn Thế Kỷ 21 nên mượn chính tờ bìa Ngày Nay số 222 của Động Đình Hồ để coi tận mắt và đính chính lại ngày khai tử của Ngày Nay. 3 - Tên thật của Thế Lữ. Cho tới nay hầu như đa số nhà văn, nhà báo hải ngoại vẫn tưởng tên thật nhà văn Thế Lữ là Nguyễn Thứ Lễ và bút hiệu Thế Lữ là sự đảo lộn các chữ cái Thứ Lễ như trường hợp đảo lộn Khánh Giư thành Khái Hưng. Kể cả Thế Kỷ 21 nơi trang 65. Tôi cũng đã lầm như vậy cho tới năm 2000. Sau khi dò hỏi và nhờ tiếp xúc với con trai nhà văn Thế Lữ là ông Nguyễn Đình Nghi được xác nhận tên thật Thế Lữ là Nguyễn Đình Lễ tôi đã viết bài kèm phóng ảnh đăng trên Thế Kỷ 21 số 144, phát hành tháng 4. 2000 4 - Sai lầm từ Phạm Thế Ngũ. Hồi còn ở Việt Nam, cho tới năm 1975 có lẽ bộ sách Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên của Phạm Thế Ngũ do Quốc Học Tùng Thư, Sài Gòn in năm 1962 – 1965 là công phu nhất về văn học Việt Nam và được nhiều người tham khảo. Trong cuốn III, Phạm Thế Ngũ viết về TLVĐ khá đầy đủ nhưng không nói tên các đoàn viên mà chỉ nói TLVĐ gồm 7 người và được Khái Hưng kể trong tiểu thuyết Những Ngày Vui. Lầm lẫn nhỏ này khiến Trần Bích San đã lầm theo khi viết bài dăng trên tuần báo Sài Gòn Nhỏ số Xuân Đinh Sửu, 1997. Trong Thế Kỷ 21 sốâ đặc biệt về Nhất Linh, tác giả Lê Đình Thông cũng ghi Khái Hưng đã viết về 7 đoàn viên TLVĐ trong Những Ngày Vui. Tôi may mắn không lầm theo Phạm Thế Ngũ vì đã tìm Những Ngày Vui đọc lại, dò từng giòng không hề thấy giòng nào nói về thi đoàn Pleiade ở Anh, Pháp hay các vì sao Pleiades trong thần thoại. Điều đó cho thấy chi tiết trong biên khảo khá quan trọng. 5 - Ai là cha đẻ Xã Xệ? Trong bài viết về Lý Toét, Xã Xệ, Động Đình Hồ thắc mắc không biết Lý Toét, Xã Xệä do ai sáng tác (tr. 52). Lê Đình Thông viết Nhất Linh " là cha đẻ của Lý Toét, Xã Xệ" (tr. 66). Thực ra Nhất Linh không nhận điều này vì trong di cảo viết tay của Nhất Linh nói rõ. Ông ghi: "Bút Sơn, ở Sài Gòn (người đã vẽ ra Xã Xệ - tên thật chưa biết). Xin ông Bút Sơn (nếu ông còn sống) hay các bạn ông cho biết tên thật". Như vậy đã rõ cha đẻ của Xã Xệ nhưng ông thân sinh của Lý Toét là ai thì chưa có lý lịch. 6 - TLVĐ có bao nhiêu đoàn viên? Vấn đề gai góc nhất là thành viên TLVĐ. Trong TK 21 số 159 trang 10 và trang 65 đều viết thành viên TLVĐ khi thành lập năm 1933 có 7 người trong đó có Nguyễn Gia Trí. Từ năm 1997 tới năm 2000 tôi đã kê cứu nhiều tài liệu để tìm hiểu về thành viên TLVĐ và kết luận văn đoàn chỉ có 7 người căn cứ trên bản phác họa hồi ký do chính Nhất Linh viết tay và đã được in trên nguyệt san Văn Học Nghệ Thuật số 3 phát hành tháng 7. 1985 tại Cali do Võ Phiến làm chủ nhiệm. Trong tờ phác họa này Nhất Linh ghi rõ Xuân Diệu là đoàn viên, Nguyễn Gia Trí chỉ là cộng tác viên. Và ông cũng ghi tên thật của Thế Lữ là Nguyễn Đình Lễ. Sau khi viết bài về các thành viên TLVĐ đăng trên Thế Kỷ 21 số 102 - tháng 10. 1997, tôi lại đọc được một số bài về TLVĐ ghi thêm nhiều tên vào văn đoàn này. Chẳng hạn như Hội Nhà Văn Việt Nam Hà Nội viết rằng TLVĐ có Trần Tiêu, thi sĩ Tân Việt, họa sĩ Đông Sơn vì họ không biết Tân Việt và Đông Sơn chỉ là hai bút hiệu khác của Nhất Linh (Lời Nói Đầu trong bộ Tuyển Tập TLVĐ do Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội xuất bản năm 1999). Trên báo Con Ong TX số 65 phát hành ngày 11. 6. 99, tr. 91, Đông Ngàn viết "Phạm Văn Hạnh là một nhà văn trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn “. Điều này hoàn toàn sai. Trong cuốn Thơ Và Đời do Lữ Huy Nguyên biên soạn , Nxb Văn Học, Hà Nội thực hiện năm 1995 ở trang 229 viết đoàn viên TLVĐ nòng cốt là 6 nhà văn trong tòa soạn Phong Hóa và Nhất Linh đề nghị kết nạp thêm Trần Tiêu làm đoàn viên thứ bảy cho đủ thất tinh. Trong bài của tác giả Lê Văn Thông thì Tú Mỡ viết rằng có nhận thêm Xuân Diệu vào TLVĐ để thành bát tú (tr. 69). Trong cuốn Tiếng Cười Tú Mỡ do Hội Nhà Văn, Hà Nội xuất bản năm 1993, Tú Mỡ viết ở trang 37 “năm 1939 cái thất tinh hội ấy bắt đầu lu mờ”, trang 44 ông viết “thất tinh hội TLVĐ tan tác”, trang 45 ông bồi thêm "thất tinh hội rơi rụng mất ba". Tôi được nhạc sĩ Duy Trác ỏ Houston, TX gửi cho phóng ảnh về những đoạn tôi cần trong cuốn Tiếng Cười Tú Mỡ. Cuốn sách đó tôi chắc chắn tế tử của nhà thơ Tú Mỡ là nhà văn Doãn Quốc Sỹ cũng ở Houston đang có. Đầu năm 2002 tôi nhận được từ nhà văn Duy Lam bản phóng ảnh trang báo Văn Hóa Ngày Nay số 1 đăng truyện Cúng Cơm của Đỗ Đức Thu. Trong lời giới thiệu bằêng chữ nhỏ in trên tên truyện có câu "Sau hơn mười lăm năm nhà văn lão thành Đỗ Đức Thu trong TLVĐ mới lại có truyện đăng...” . Theo tôi lời giới thiệu này có thể do một người trong tòa soạn viết và Nhất Linh không coi lại kỹ trước khi cho in. Trước những bài viết theo ký ức rối mù như vậy tôi nghĩ ta nên tin di cảo của Nhất Linh đã phổ biến trên nguyệt san Văn Hóa Nghệ Thuật số 3. Không tài liệu nào có thể chính xác và khả tín hơn tài liệu do chính người đứng đầu TLVĐ viết tay đ? lại cho chúng ta. Vậy ta hãy cứ tin TLVĐ có 7 đoàn viên là Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ , Tú Mỡ, Xuân Diệu và chúng ta không đủ thẩm quyền tùy tiện thêm hay bớt tên ai cả.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 15, 2012 7:43:46 GMT 9
Võ Hồng - Gặp Tự Lực Văn Đoàn Võ Hồng Trích từ tạp chí VĂN, số đặc biệt tháng 4-1967 Đầu tháng Chín năm 1940, trên chuyến tàu suốt ra Hà Nội, tôi ngồi bên cạnh va-li sách vở quần áo. Trí óc thật lo lắng không yên. Khi tàu đỗ xuống ga, tôi sẽ đến ở trọ nơi nào? Tôi không có gia đình quen ở Hà Nội. Những người thuộc lớp đàn anh ở cùng Tỉnh đã học ở Hà Nội như anh Trần Chánh Thành, Trần Ngũ Phương, Nguyễn Tích... thì đã lâu lắm tôi không liên lạc, không biết rõ họ ở địa chỉ nào. Những bạn cùng lứa thì chỉ lất vất ở Huế. Ngày đó, sự học không được phát triển như bây giờ. Trường Collège Qui Nhơn mỗi năm chỉ nhận vào 45 học sinh đệ nhất niên (tương đương với lớp đệ Thất bây giờ). Đó là trường Trung học công lập duy nhất thu nhận học sinh của hơn tám Tỉnh miền nam Trung phần, từ Quảng Nam đến Bình Thuận. Cứ đổ đồng một lớp đệ Nhất niên như thế chỉ thu nhận của mỗi Tỉnh năm, sáu người học sinh xuất sắc hơn cả. Lên đến năm đệ Tứ, thì trong số 45 học sinh, chỉ còn lại chừng 30, 35 người là cùng. Sự tuyển chọn học sinh thật khó khăn, sự học bị hạn chế khiến cho số học sinh Trung học lúc đó còn ít thua số sinh viên Đại học ngày nay. Bởi lẽ ngày nay trung bình hàng năm mỗi Tỉnh có chừng 40, 50 học sinh vào học các lớp Dự bị Đại học.
Vậy đích thực là tôi không thể có một người bạn học đồng hành cùng tôi sẽ chung chia những ngày xa lạ ở thủ đô.
Sau mấy ngày suy nghĩ cân nhắc, tôi quyết định: Nếu không có dịp may gặp một người nào chỉ đường dẫn lối thì sẽ xuống ga Hà Nội rồi thuê xe chở đến tòa soạn báo Ngày Nay ở 80 đường Quan Thánh. Tôi sẽ gặp một vị nào đó trong Tự lực Văn đoàn, ông Khái Hưng hay Nhất Linh, hay Hoàng Đạo, Thế Lữ... tôi sẽ trình bày trường hợp của mình và nhờ giới thiệu cho một nhà trọ. Điều đó chắc không khó. Những căn gác, những nhà trọ chắc chắn là không hiếm. Tôi hi vọng là được giới thiệu đến một gác trọ nên thơ như gác trọ nơi nhân vật Dũng “rũ áo phong sương.” Tôi tin rằng những nhà văn lớn mà tôi hâm mộ đó sẽ ân cần hỏi han tôi, sẽ sung sướng nghe tôi nói lòng hâm mộ của tôi đối với họ, sẽ hết lòng chọn chỉ cho tôi một nhà trọ thật tử tế. Văn chương nghệ thuật, tôi nghĩ, là một niềm cảm thông lớn. Người ta có thể nhờ nó mà quen nhau, mà thân nhau mặc dù ở xa xôi chưa hề biết mặt nhau. Có chung một niềm say mê là người ta đã hiểu nhau, đã tin cậy nhau được rồi, không kể tuổi tác cách biệt.
Nhưng khi tàu dừng ở ga Thanh Hóa, tôi chợt gặp một người quen, anh Tùy, một huynh trưởng Hướng đạo. Anh cho biết là anh có công tác về Hà-nội và dĩ nhiên là với tinh thần Hướng đạo, anh tự nguyện sẽ lo tìm nhà trọ cho tôi.
Xuống ga Hà-nội, anh đưa tôi về nhà số 11 ngõ Tràng An ở gần chợ Hôm. Tôi sống ở đó với những bạn mới: anh Phạm Cương, anh Nguyễn Thái, anh Ngô Mạnh Duyên... Tuy vậy, vẫn đinh ninh là khi có dịp rảnh tôi sẽ đi thăm tòa soạn Ngày Nay liền, như lòng vẫn hằng mong ước.
Chừng sau đó một tháng, nhân ngày Chủ Nhật, tôi ghé lại 80 đường Quan Thánh. Đó là một buổi sáng đầu mùa Thu. Ông Khái Hưng ra tiếp tôi ở tận cổng. Ông mời tôi lên lầu, vào phòng làm việc của ông. Ông mặc sơ mi ngắn bằng chỉ đan. Người ông nhỏ nhắn, gầy. Cái áo đan bó sát người càng làm cho ông gầy thêm. Mặt ông không đẹp như tôi vẫn hằng tưởng tượng qua các tác phẩm của ông. Tôi tự giới thiệu là một học sinh ở từ Miền Nam xa xôi, đã đọc ông và sung sướng nay được gặp mặt. Ông bắt tôi tả rõ miền quê của tôi, cảm nghĩ của bạn trẻ chúng tôi khi đọc văn ông. Chốc chốc giữa những câu nói, mắt tôi chăm chú nhìn vào cái sọ người ông đặt trên đầu bàn viết. Tôi sợ sự đến thăm của tôi làm mất thì giờ ông nên cứ chuẩn bị đứng dậy cáo từ mấy lần. Ông giữ tôi lại vừa nói: - Xin cứ ngồi nói chuyện chơi tự nhiên. Tôi độ rày chả bận gì hết. Tờ Ngày Nay đã bị Chính phủ bắt đình bản rồi, còn báo đâu nữa mà lo bài? Có tờ tuần báo Chủ Nhật đang xin giấy phép.
- Ông có tin rằng sẽ được giấy phép?
- Chắc sẽ được.
Nói chuyện với một nhà văn thật là khó. Tôi cứ nghĩ rằng những điều mình nói, họ đều đã biết hết rồi, những lý luận mình đưa ra họ cũng đã đoán được hết. Vả lại, biết chuyện gì mà nói? Nói lời ái mộ họ thì mình đã nói trong ba phút đầu tiên gặp gỡ. Phê bình tác phẩm của họ thì mình không có đủ sự vô lễ để làm. Nhắc đến những cuộc bút chiến thì vô lễ chẳng kém bởi mình sẽ đưa ra những lý lẽ của đối phương họ. Ông Khái Hưng lúc bấy giờ vừa bị ông Từ Ngọc cho là đã ăn cắp cốt truyện dự thi của ông để viết truyện dài Thoát Ly. Ông Nhất Linh thì bị nhóm Tân Dân phê bình nặng nề ở quyển Đoạn Tuyệt. Cô Loan bị chê là gái mới hỗn láo với đối với mẹ chồng. Con dao rọc sách vô tình giết anh Thân, giải phóng được cho cô Loan nhưng không giải phóng được cho những cô gái mới đồng cảnh ngộ với cô. Bởi vì muốn đoạn tuyệt với chế độ gia đình cũ, chẳng lẽ cô gái nào cũng phải hi vọng vẩn vơ ở một trường hợp ngẫu nhiên như trường hợp con dao rọc sách. Người ta cho nhóm Tự lực Văn đoàn chỉ ưa đả phá mà không có một đề án xây dựng cho hợp lý. Ông Nguyễn Công Hoan bên nhóm Tân Dân (mà Ngày Nay gọi là “Động Tân Dân” bởi vì nơi này chuyên môn sản xuất các truyện kiếm hiệp kiếm tiên, quái khách hiệp khách) viết cuốn Cô giáo Minh, đưa ra một nhân vật cũng mới như cô Loan nhưng khéo dung hòa mới cũ mà gia đình êm đẹp, lấy đạo đức cảm hóa được cả một bà mẹ chồng cổ hủ và đanh ác. Đối đầu quyết liệt với Tự lực Văn đoàn là nhóm Tân Dân. Họ có cơ quan ngôn luận là tờ Tiểu thuyết thứ bảy, Ích hữu, Phổ thông bán nguyệt san, Tao đàn. Tôi nói: - Dạo này các báo đang hô hào cải cách lối viết chữ Quốc ngữ, ông có đọc?
- Có.
- Ý ông nghĩ sao?
- Tôi thấy có nhiều đề nghị không được hợp lý. Chẳng hạn lấy chữ F thay chữ PH. Đành rằng thay PH bằng F thì ta sẽ viết mau hơn, tiết kiệm được một ít thì giờ và một ít mực, nhưng cho chính xác mà nói thì cách đọc chữ F và chữ PH có khác nhau. Chữ F hơi gió phát âm mạnh hơn...
Ông phì hơi thật mạnh để đọc chữ filou, famille, enfant.
- ... Còn chữ PH thì hơi gió nhẹ lắm. Như đọc chữ philosophie. Tiếng Việt Nam không phát âm mạnh, tương đương như chữ F.
Giọng nói của ông dịu dàng. Lời nhận định hay phê bình cũng đều khiêm tốn. Tôi nghĩ rằng ông có thể lớn tiếng mạt sát vài người kiến thức hẹp hòi mà thích đưa những nhận xét cao quá tầm của họ.
Trong khi ông mời nước, tôi lưu ý nhìn một cậu bé chừng bảy, tám tuổi da mặt trắng và đôi mắt rất sáng lại đứng tựa vào đùi ông. Ông đưa tay vuốt đầu cậu bé và giới thiệu với tôi: - Đây là con của anh Nhất Linh. Anh Nhất Linh cho tôi làm con nuôi.
Sau này, bà Dương Đình Tây bạn thân của bà Khái Hưng thường kể chuyện cho tôi nghe về trường hợp hiếm muộn của bà Khái Hưng.
Qua khung cửa sổ, tôi nhìn những cây bàng, những cây sấu mọc hai bên đường, vươn cành chi chít đan dày trên tầng cao. Lòng tôi rung động êm đềm khi nghĩ rằng chính những cây bàng này đã gây xúc cảm cho ông Nhất Linh và đã được ông đem vào “lời nói đầu” của cuốn Đôi bạn.
Một lần sau đến thăm ông Khái Hưng --tôi nhớ rằng sau khi tuần báo Chủ Nhật phát hành,-- tôi được gặp cả ông Nhất Linh. Trời hơi lạnh, nên ông Nhất Linh thắt ca-vát. Vầng trán cao, đôi mắt sáng. Nét đẹp quắc thước.
Ông hỏi tôi về miền tôi ở và nói rằng ông đã có dịp đi ô-tô qua một lần. Trí nhớ của ông tốt, ông nhắc lại những cái tên: Đèo Cả... Tuy Hòa... Sông Cầu... Đèo Cù Mông... và tôi giúp ông nhớ rõ hơn vị trí của những địa danh đó. Ông khen phong cảnh nơi miền tôi đẹp. Tôi không biết ông có nói xã giao không hay là ông chịu ảnh hưởng của các tác giả người Pháp. Hầu hết các tác giả người Pháp nào đã đi trên đường thiên lý cũng đều khen cảnh trí thiên nhiên của tỉnh Phú Yên là đẹp. Tôi nhớ một tác giả đã viết cảm tưởng khi đứng trên đầu núi nhìn xuống thành phố Sông Cầu: “... từ cảnh trí núi non Auvergne, người ta rơi xuống cảnh trí quần đảo Nam Thái Bình Dương” (d’Auvergne, on tombe en Polynésie).
Sau đó, ông Nhất Linh thổi hắc tiêu cho chúng tôi nghe.
Vừa lúc ấy, có tiếng xe đậu ở trước cổng. Tiếng chân người đi lên thang lầu. Ông Nhất Linh giới thiệu: - Ông Hoàng Đạo.
Ông Hoàng Đạo mặc sơ mi ngắn và quần tây. Dáng khỏe mạnh, chững chạc. Khuôn mặt vuông. Ông ít nói chuyện nhất trong ba người. Dường như chỉ là những lời trao đổi ngắn ngủi về tình hình báo mới ra, về sự giao thiệp giữa phái bộ Nhật và Toàn quyền Decoux. Lời nói của ông thận trọng. Trong khi ông Nhất Linh thổi hắc tiêu tiếp thì ông lại đứng cạnh cửa sổ nhìn ra ngoài trời.
Linh hồn chống đối của nhóm Phong Hóa – Ngày Nay đó. Tư thái của ông phù hợp với cốt cách của những bài ông viết nhằm đả kích Chính phủ Bảo hộ. Ngòi bút của ông không chừa một nhà cầm quyền nào: Toàn quyền Brévié, Thống sứ Châtel, Khâm sứ Graffemil, Đốc lý Virgitti, vua Bảo Đại, Thượng thư Phạm Quỳnh, Tổng đốc Hoàng Trọng Phu... Ông đánh thẳng, lời chỉ trích chân xác. Có chế diễu nhưng không hỗn xược. Dưới thời thực dân phong kiến, quyền chính trị nằm trong tay kẻ cầm quyền mà công nhiên chê bai chính quyền --hầu như trong số báo nào cũng có,-- thì tôi tưởng dưới thời Cộng hòa dân chủ ta ngày nay không có mấy nhà văn nhà báo sánh kịp. Không cần nói xa nói gần, không cần úp mở, không cần mượn giọng ỡm ờ nửa bỡn nửa thiệt. Ngòi bút Hoàng Đạo là ngòi bút có trách nhiệm, là ngòi bút vô úy. Ông đứng đó, trầm ngâm nhìn ra ngoài trời. Tôi nhớ mãi cái dáng điệu đặc biệt đó.
Sau này vì bận học hành tôi ít có thì giờ để tới thăm các ông. Tuy nhiên mỗi lần đáp tàu điện đi Bưởi, khi con tàu chạy qua chợ Đồng Xuân, chạy theo đường Quan Thánh là tâm hồn tôi thấy mát mẻ êm đềm. Tôi nhìn trụ cổng, nhìn lên dãy cửa sổ đang mở và nghĩ rằng nơi đó những khối óc đang suy nghĩ, đang sáng tạo, đang tỏa ra hào quang... nhưng phải đợi một tuần sau, một tháng sau, nhờ máy in chạy rầm rầm, nhờ hỏa xa và đường ô-tô Bưu chính, những tư tưởng đó mới tới tay người đọc, ở Bắc và ở Nam, ở đô thị đông đảo xa hoa và ở miền thôn quê “bùn lầy nước đọng.”
Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua, kể từ những ngày đó. Tôi không gặp lại một ai trong ba người, kể cả ông Nhất Linh đã di cư vào Nam, đã làm báo viết văn trở lại và đã phải chọn một cái Chết. Cả ba người đều đã chết, 58 tuổi, 51 tuổi, 41 tuổi. Người Việt Nam không có phương tiện để chết già. Chết vì ăn uống thiếu thốn, vì thuốc men thiếu thốn, vì những tranh chấp liên miên.
Một người bạn tôi có ông anh làm bác sĩ bị bệnh niếu độc không chữa được. - Chỉ còn đợi ngày chết, -bạn tôi nói
- Anh ấy năm nay được mấy mươi?
- Năm mươi bảy.
Tôi tự bảo: Thôi, thế cũng được. Xung quanh chúng ta nhiều người ao ước một cái chết ngang tuổi đó. Giọng bạn tôi bùi ngùi: - Hôm tôi vào Sài Gòn ghé lại Grall thăm anh thì nhằm lúc anh đã liệt lắm. Một bà Xơ người Pháp già hơn tám mươi tuổi nhưng còn khỏe mạnh, trước là bà giáo dạy anh ở những lớp Tiểu học và thương anh như con, cũng ghé lại thăm. Khi tôi đưa tiễn bà ra hành lang bệnh viện, bà chép miệng:
- Pauvre docteur-enfant! (tạm dịch: Tội nghiệp! Thằng bác sĩ trẻ con!)
Tôi bàng hoàng bởi lời thương xót. Năm mươi bảy tuổi chỉ mới là trẻ con, để mà chết. Nghĩ đến ba kiện tướng của Tự lực Văn đoàn, tôi thấy lời xót thương kia càng dư sức bén nhọn của sự thật tàn nhẫn. Riêng đối với tôi, hình ảnh của ba ông để lại nơi tôi luôn luôn là những hình ảnh mà tôi đã giữ lại từ những ngày xa xôi đó, một ông Khái Hưng dịu dàng, một ông Nhất Linh nghệ sĩ thổi hắc tiêu và một ông Hoàng Đạo trầm ngâm đứng nhìn ra khung cửa.
VÕ HỒNG (tháng IV-1967)
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Nov 16, 2012 7:41:36 GMT 9
Nhượng Tống (1897-1949): ‘Anh ngã, mình sa giữa lưới ngờ!...’ Viên Linh Vũ trụ tan trong mắt lệ mờ! Lao đao ngồi tựa gốc cây xưa, Thi sĩ bị ám sát Nhượng Tống (1897-1949). (Hình: Hoàng Văn Ðào) Như trong mây khói, như trong mộng, Anh ngã, mình sa giữa lưới ngờ! *Nhượng Tống, Xuân Biệt, Hà Nội Tân Văn, 26.3.1940. -”1949, Nhượng Tống đã bị ám sát tại phố Chợ Hôm, Hà Nội. Quốc gia mất đi một chiến sĩ cách mạng chân chính, một văn thi sĩ lỗi lạc tài ba.” (Hoàng Văn Ðào (1957) Từ Yên Bái đến các ngục thất Hỏa Lò, Côn Nôn, Guyan Sống Mới, Sài Gòn.) -”Nhượng Tống Hoàng Phạm Trân là sáng lập viên của Việt Nam Quốc Dân Ðảng,... bị thanh toán bằng một viên đạn súng Colt ở Chợ Hôm, Hà Nội năm 1949.” (Phan Lạc Phúc (1968) Chiêu niệm Nhượng Tống, Tiền Tuyến, Sài Gòn.) -”Ông là một nhà văn tài hoa, lãng mạn và rất sở trường về dịch thuật... Ông dịch rất tài tình.” (Vũ Ngọc Phan (1940) Nhà Văn Hiện Ðại, V, trang 1193) Lịch sử văn học Việt Nam luôn luôn chồng chéo với các biến động của lịch sử dân tộc. Nhà văn nhà thơ một thời cũng là những sĩ phu, hay đúng ra, từ suốt ngàn năm thuộc Tàu và non trăm năm thuộc Pháp, lúc nào ta cũng có những cây bút hào kiệt, những nhà thơ chính khí; mặc dầu bên dòng sông cuồn cuộn của nhân sinh, giới cầm bút cũng thiếu gì những eo xèo của thế sự, những tầm tầm của ái ố tróc phọc? Từ Ðông Kinh Nghĩa Thục tới trước Thế Chiến Thứ Hai, giữa ảnh hưởng của thuyết Tam Dân và các phong trào Bài Thực, bên cạnh các chủ nghĩa lãng mạn, tả thực, Thơ Việt vẫn rực sáng với những Chiêu Hồn Nước của Phạm Tất Ðắc, Hai Chữ Nước Nhà của Trần Tuấn Khải, Thề Non Nước của Tản Ðà hay Cảm Ðề Lịch Sử của Nhượng Tống: Ba xứ non sông một giải liền, Máu đào xương trắng điểm tô nên. Cơ trời dù đổi trò tang hải, Mặt đất chưa tàn nghiệp tổ tiên. Có nước có dân đừng rẻ rúng; Muốn còn muốn sống phải đua chen. Giựt mình nhớ chuyện nghìn năm cũ; Chiêm , Lạp xưa kia vốn chẳng hèn. (Khóc Nguyễn Thái Học) Nhục mấy trùng cao, ách mấy trùng. Thương đời không lẽ đứng mà trông. Quyết quăng nghiên bút xoay gươm súng, Ðâu chịu râu mày thẹn núi sông. Người dẫu chết đi, lòng vẫn sống, Việc dù hỏng nữa, tội là công. Nhớ anh nhớ lúc khi lâm biệt; Cười khóc canh khuya chén rượu nồng. (Nhượng Tống) Thi sĩ Nhượng Tống tên thật là Hoàng Phạm Trân (1897-1949), sinh tại làng Phú Khê, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Ðịnh, xuất thân từ một gia đình Nho giáo, tinh thông Hán học, là dịch giả nổi tiếng các tác phẩm văn học Trung Quốc: Tây Sương Ký (1942), Ly Tao (1943), Thơ Ðỗ Phủ (1944), Nam Hoa Kinh, Ðạo Ðức Kinh, Hồng Lâu Mộng, Sử Ký Tư Mã Thiên (1945)... Ông viết cho nhiều báo: Khai Hóa (1921) và các báo tranh đấu trong thời gian 1929-1930 như: Nam Thành, Hà Nội Tân Văn, Thực Nghiệp Dân Báo... Năm 1925 cùng nhà giáo Phạm Tuấn Tài thành lập Nam Ðồng Thư Xã dịch nhiều sách của Lương Khải Siêu, Tôn Văn, (Hồn Cách Mạng, Tam Dân chủ nghĩa), hai năm sau, ngày 25 tháng 12, 1927, cùng sinh viên Sư Phạm Nguyễn Thái Học (1907-1930), Phó Ðức Chính (1907-1930), Ðoàn Trần Nghiệp (tức Ký Con) (1908-1930)... thành lập Việt Nam Quốc Dân Ðảng. Chương trình hoạt động là công khai ủng hộ thợ thuyền trong các cuộc biểu tình và tổ chức các lớp dạy Quốc ngữ, liên kết với giới tư sản, sinh viên học sinh, và cả nông dân trong vùng đồng bằng sông Hồng, sông Mã; chẳng bao lâu thanh thế lên như sóng triều, nên bị thực dân Pháp và tay sai chú trọng diệt trừ. Năm 1929, Nhượng Tống vào Huế gặp cụ Phan Bội Châu, khi trở ra Hà Nội bị thực dân Pháp bắt, đày đi Côn Ðảo 6 năm. Ra tù, bị quản thúc tại quê nhà, ông làm nghề thăm bệnh, bốc thuốc và người ta lại thấy tên ông xuất hiện trên làng văn làng báo. Năm 1940, ông xuất bản tiểu thuyết Lan Hữu, Nguyễn Thái Học (Hồi Ký 1945). Từ năm 1947, Nhượng Tống trở lại chính trường tại Hà Nội, nhưng sau đó vào năm 1949 lại sống lặng lẽ với của hàng thuốc Bắc. Sinh thời ông được xem là một thi sĩ tài hoa, một dịch giả có tài, (trong Lục Tài Tử của nền văn hóa Trung Quốc, ông đã dịch hết 5), mà thi sĩ Lưu Trọng Lư đã viết, “Lời tựa của Lý Trác Ngô có lẽ không nên có, cả lời phê Thánh Thán có lẽ cũng thừa... Duy có lời dịch của Nhượng Tống thực là nên có... (Ðọc Mái Tây).” Tháng 11, 1949, tin Nhượng Tống bị ám sát chết khiến dư luận rúng động. Nhà văn Nguyễn Thạch Kiên, một đảng viên Quốc Dân Ðảng, từng là tổng bí thư QDÐ Nam Cali, viết thuật lại như sau trong cuốn “Về những kỷ niệm quê hương: “Nhượng Tống vẫn sống bằng nghề thầy lang và có cửa hiệu thuốc Bắc tại số 128 phố Chợ Hôm, Hà Nội. Ngày định mệnh xảy ra khi khoảng 8 giờ sáng, Nhượng Tống vừa chơi tổ tôm về, đã định đi nghỉ thì có một đứa trẻ đến xin đi thăm bệnh cho người bố. Ông cùng đứa trẻ đi bộ chỉ mới cách nhà hơn 300 thước thì có một người cỡi xe đạp lại gần, bắn qua gáy chết. Cũng Nguyễn Thạch Kiên viết thì các đảng viên QDÐ sẽ bị tử hình nếu cộng tác với Pháp, hay tay sai của Pháp, mà Nhượng Tống lại đã cộng tác với Tổng trấn Bắc Hà là ông Nghiêm Xuân Thiện, và do đó đã bị khai trừ khỏi đảng trong một phiên họp tại nhà ông Ngô Thúc Ðịch, bí thư trưởng, có mặt các đảng viên trong Thị Bộ Hà Nội. Từ đó, nội bộ Quốc Dân Ðảng trở nên mâu thuẫn, phân cực. Vẫn theo Nguyễn Thạch Kiên, mộ nhà thơ Nhượng Tống ở phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nam, vì ông là con nuôi một nhà họ Bùi ở phủ này.” (Nguyễn Tà Cúc (1996), Nhượng Tống, Khởi Hành số 1.) Riêng tác giả Hoàng Văn Ðào, người gia nhập Quốc Dân Ðảng từ năm 1927, sáng lập chi bộ Thanh Hóa từ đó, và là tác giả cuốn “VNQDÐ - Lịch sử Ðấu tranh Cận đại,” thì thủ phạm hạ sát nhà thơ Nhượng Tống tên là Nguyễn Văn Kính, một tay sai của kẻ thù. Kính cùng Bùi Tiến Mai, Ðội Dương, Thị Nhu, Thị Uyển, tay sai của Pháp và cộng sản, được gài vào đảng để phá hoại. Kính lấy bí mật trong đảng cho mật thám Pháp, Mai đánh cắp danh sách các cấp lãnh đạo, Ðội Dương dắt mật thám vè bao vây làng Võng La khi các đảng viên cao cấp QDÐ đang họp, Thị Nhu, Thị Uyển theo dõi bá cáo tông tích của đảng trưởng Nguyễn Thái Học. Kính đã đền tội khi Ký Con, trưởng ban đặc vụ đã cho thi hành lệnh tổng bộ, bắn y chết tại Sở Thú Hà Nội. Hơn 60 năm đã trôi qua, vụ ám sát tác giả bài thơ “Cảm Ðề Lịch Sử” vẫn còn là nghi án. Lịch sử ta có rất nhiều vụ ám sát thủ tiêu tương tự. Lạ thay đất nước đã gọi là hòa bình mà công lý thì chưa thấy làm sáng tỏ một vụ nào. Và cũng lạ thay, trong bài “Xuân Biệt,” Nhượng Tống đã làm một câu thơ tả người bị bắn ngã, (chỉ bằng mũi tên ẩn dụ của ái tình) mà giống như tình trạng cái chết của chính ông: “Anh ngã, mình sa giữa lưới ngờ!” Tổng hợp từ: Hoàng Văn Ðào (1957): Từ Yên Bái đến các ngục thất Hỏa Lò, Côn Nôn, Guyan; Phạm Thanh (1959): Thi Nhân Việt Nam Hiện Ðại; Trần Tuấn Kiệt (1967): Thi Ca Việt Nam Hiện Ðại. Từ Ðiển Văn Học Việt Nam, Bộ Mới, 2000. Tà Cúc (1996): Ai giết Nhượng Tống?
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 8, 2013 0:59:57 GMT 9
MẠN ĐÀM VỚI BS. NGUYỄN TƯỜNG BÁCH
Lâm Lễ Trinh thực hiện
Năm 1988, bác sĩ Nguyên Tường Bách và gia đình di cư từ Trung quốc qua Californie. Một thời gian sau, chúng tôi có dịp tiếp xúc với nhau và trở nên đôi bạn tâm giao. Sau khi phổ biến năm 1995 quyển tiểu thuyết "Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn", Bs Bách cho ra mắt độc giả năm 1999 "VN, Một thế kỷ qua. Hồi ký cuốn một, 1916-1946". Tiếp theo là tập ký ức phần 2 "Việt Nam, Một thế kỷ qua". 54 năm lưu vong Trung quốc (1946-1988) và Hoa kỳ (1988-2000)" mà tôi đã nhận lời giới thiệu trong buổi ra mắt sách ngày 23.9.2001 tại Hội quán Little Sàigon Radio, California. Từ nhiều năm, hai chúng tôi là Cố vấn của tổ chức bất vụ lợi "Mạng Lưới Nhân quyền" thành lập tháng 11.1997. Bs Bách (NTB) là một thành viên trong nhóm sáng lập. Ngày 24.9.2005, anh chị Bách mới chấp nhận cho tôi (LLT) thực hiện một cuộc mạn đàm thân mật trên hai giờ đồng hồ tại tư thất của anh chị thuộc thành phố Westminster. Cuộc mạn đàm này được Đinh Xuân Thái, Đài Little Saigon TV, đích thân thu hình. Sau đây là những đoạn có thể tiết lộ trong cuộc phỏng vấn:
LLT: Xin anh vui lòng cho biết vài nét chính về vị trí của anh trong gia tộc Nguyễn Tường.
NTB: Tôi sinh năm 1916 tại huyện Cẩm Giàng, Hải Dương. Con út trong một gia đình 7 người con trong đó có Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) và Nguyễn Thị Thế, định cư và qua đời ở Hoa kỳ. Hai anh Tam và Long từng giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Kinh tế trong Chính phủ Liên Hiệp Kháng chiến VN thời Hồ Chí Minh. Anh Hai Nguyễn Tường Cẩm bị Việt Minh thủ tiêu khi mới 44 tuổi tại Bắc Việt mặc dù không từng tham gia đảng phái nào. Sau khi xong tiểu học tại Hải Dương và Thái Bình, tôi về Hà Nội, đường Hàng Vôi, để tiếp tục chương trình sơ học. Tôi vào trường Bưởi, tức Chu Văn An, để luyện thi Tú tài nhưng sau một thời gian, tôi xin thôi, về nhà mua sách để tự học vì không thích không khí giáo dục bảo hộ. Đổ Tú tài 1 Pháp lối năm 1930, tôi trợt Tú tài 2. Tại trường Albert Sarraut, ban Triết, tôi được Giáo sư Bourguignon chú ý vì ông nhận thức tôi có một cái vốn Triết khá vững nhờ nghiên cứu riêng. Đậu hạng ưu, tôi ghi tên vào Trường Y khoa Hà Nội. Tôi thích văn chương hơn nhưng gia đình khuyên nên có một chọn lựa thực tế, bảo đảm đời sống tương lai.
LLT: Lúc ấy, ngành y đòi hỏi mấy năm học? Anh thi đậu năm nào?
NTB: Bảy năm, gồm có một năm chuẩn bị PCB. Tôi nạp luận án năm 1943 và qua năm sau lãnh cấp bằng bác sĩ, trước ngày 3.9.1945 Nhựt đảo chính Pháp. Trong lúc học y khoa cũng như sau khi ra trường, tôi hoạt động hội kín trong Đảng Đại Việt Dân chính, làm thơ, viết báo với nhóm Tự lực Văn đoàn và phụ trách - trong cương vị hoặc chủ nhiệm, hoặc chủ bút - các tờ báo Ngày Nay Tập mới, Bình Minh, Việt Nam Thời báo và sau hết, tờ Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Việt nam Quốc Dân Đảng.
LLT: Căn cứ vào ba tác phẩm của anh kể ở đoạn trên thì cuộc đời anh có thể chia ra thành ba giai đọạn: 1) thời niên thiếu và đấu tranh văn hóa và cách mạng trong xứ (1916-1946) 2) giai đọan lưu vong tại Trung quốc (1949-1988) 3) di cư qua Hoa kỳ năm 1988 đến nay. Truớc hết, xin anh vui lòng cho biết về chủ trương và hoạt động của nhóm Tự lực Văn đoàn, đặc biệt vai trò cốt cán của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam.
NTB: Lúc còn trẻ, anh Tam đã bắt đầu viết lách và được dân chúng biết qua hai sáng tác Nho Phong và Người Quay Tơ. Khi đi học ở Pháp về với bằng cử nhân vật lý, anh trở thành chủ nhiệm tờ Phong Hóa do một người bạn nhường lại năm 1932. Cùng với một số anh em gồm có Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Tú Mở, Cù Huy Cận, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Cát Tường tức hoạ sĩ Lemur...., anh thành lập Tự Lực Văn Đoàn. Chủ trương của TLVĐ là canh tân xã hội, chế diễu các tệ đoan và chống hủ lậu, phong kiến. Riêng về tôi (lúc đó là người trẻ nhất trong nhóm), tôi cũng tập tành làm thơ mới như Bàng Bá Lân, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận.. Thơ của tôi đăng báo dưới bút hiệu Tường Bách. Bài thơ được chú ý nói về Tết. Tuy nhiên tôi không thể tiếp tục lâu. Phong Hoá bị đóng cửa. Tôi phải thay thế anh Nguyễn Tường Cẩm quản lý tờ Ngày Nay. Hoàng Đạo có bằng cử nhân luật, làm tham tá lục sự, chuyên viết bài bình luận thời cuộc và nổi tiếng, đặc biệt trong giới thanh niên, với tác phẩm Mười Điều Tâm Niệm. Hoàng Đạo không liên hệ gì đến phong trào hướng đạo của Hoàng Đạo Thúy. Về sau, Thúy là cha vợ của Tạ Quang Bửu, Tổng trưởng Quốc phòng Việt Minh, người thay mặt Bắc Việt ký vào Hiệp định Genève. Thạch Lam không làm chính trị, chỉ chuyên về văn chương, viết truyện ngắn và lo việc quản trị toà soạn. Thạch Lam chết sớm, lúc 33 tuổi, vì bệnh phổi, trong hoàn cảnh thiếu thốn. Nhất Linh là lãnh tụ Đại Việt Dân chính. Tổ chức này hợp nhất với Việt Nam Quốc dân Đảng năm 1943. Năm 1945, VNQDĐ nhập với Đại Việt Quốc Dân Đảng dưới danh xưng chung Quốc Dân Đảng. Hoàng Đạo và Khái Hưng từng bị bắt và tra tấn ở Vũ Bản. Anh Tam cũng bị giam bốn tháng ở bên Tàu và được thả ra nhờ sự can thiêp của cụ Nguyễn Hải Thần.
LLT: Chúng ta hảy đề cập đến giai đọan 2: giai đoạn lưu vong. Trong trường hợp nào, năm 1946, với tư cách Chỉ huy trưởng Đệ tam chiến khu của Quốc Dân Đảng (gồm từ Vĩnh Yên tới Lào Kay), anh rút lên Yên Báy và từ đó, qua Trung Hoa? Chiến khu này có bao nhiêu quân? Tàn quân qua Tàu gồm có ai? Lúc đó, Nguyễn Tường Tam ở đâu? Anh giải thích như thế nào lực lượng Việt Minh có ảnh hưởng mạnh trong quần chúng? Vì sao phiá quốc gia năm 1946 tan rã mau chóng trước đám quân Việt Minh?
NTB: Tháng 8.1945, Việt Minh cướp chính quyền. Cùng với VN Cách Mệnh Đồng Minh Hội, VN Quốc Dân Đảng xuất hiện đấu tranh công khai. Tôi là ủy viên trung ương, phụ trách tờ Việt Nam để tuyên truyền chống CS. Mặt khác, tôi tổ chức Quốc gia Thanh niên Đoàn. Tháng 6.1946, Việt Minh tăng cường áp lực. Sau khi cầm cự lối nửa năm, đảng trưởng Vũ Hồng Khanh, tôi và Lê Khang, trong Bộ Chỉ huy, phải rút lên Việt Trì, rồi Yên Báy và Lào Kay. Lực lượng Đệ tam khu lúc đó gồm có lối một nghìn người: hai, ba trăm chí nguyện quân từ Trung Hoa về, cọng với một số cựu lính khố xanh của Pháp, võ trang khá thô sơ. Thành phần kể sau không có ý chí tranh đấu mạnh. Phiá ta không có đài phát thanh, thiếu phương tiện quảng bá, chỉ có tờ báo Việt Nam. Quân ta đóng chốt tại các tỉnh lỵ nên bị Việt Minh bao vây. Việt Minh không đông nhưng ảnh hưởng mạnh quần chúng vi họ có tổ chức, biết đọat thời cơ, tuyên truyền sâu rộng và lôi cuốn đồng bào với các chiêu bài ăn khách như đả thực, chống đế quốc và áp bức. Phiá quốc gia xích mích nội bộ, chủ quan, coi thường đảng CS và đặt hết niềm tin vào sự hỗ trợ của quân đội Trung hoa nên thua là phải. Tháng 7.1946, khi hay tin Việt Minh nhóm đại hội tại Thái Nguyên và Nhật bản sắp đầu hàng, cánh quốc gia đã không tổng hành động kịp thời, tiến tới khởi nghĩa. Bị kẹt giữa Pháp và Việt Minh, các đảng quốc gia không chiếm được địa bàn đủ rộng và không có đủ sức chống lại hai thế lực đó từ Nam ra Bắc. Một ngày cuối tháng 7.1946, toán anh em chúng tôi gồm có 8 người vượt qua cầu sắt Lào Kai - Hà khẩu để sang Trung hoa. Khi ấy anh Tam đã có mặt tại Côn Minh. Như Nam Ninh và Quảng châu, Côn Minh là nơi ẩn thân của nhiều nhà đấu tranh VN. Hội nghị đảng viên bầu một Hải ngoại Bộ để tiến hành công tác ngoại vận và gây lại các cơ sở địa phương. Thành phần lãnh đạo gồm có anh Nguyễn Tường Tam (chủ nhiệm), Nguyễn Tường Long (ngoại vụ) và Xuân Tùng (kinh tài). Tâm trạng chung lúc đó khá bối rối, phức tạp, có người tỏ ra thất vọng nhưng phần đông thông cảm tình thế khó khăn.
LLT: Trung tuần tháng 10.1949, Quân đội Mao Trạch Đông "giải phóng" Trung Hoa lục địa, Tưởng Giới Thạch rút qua Đài Loan. Lúc đó anh đã kết hôn với một sinh viên người Việt gốc Hoa, có quốc tịch Pháp, tên Hứa Bảo Liên quen từ Hà Nội. Anh chị được giấy lưu trú tại Phật Sơn. Một dư luận cho rằng chị Bách đã thuyết phục anh ở lại Trung quốc. Đúng hay không? Lý do nào khiến anh không trở về tranh đấu ở Việt Nam? Sống 40 năm dưới chế độ Tàu Đỏ có phải là một sự phí phạm hay không?
NTB: Cô Hứa Bảo Liên là một tình nguyện viên Hoa kiều Việt Nam làm việc tại Nhà thương Phủ Doãn Hà Nội trong lúc tôi tập sự nơi đây cùng với Phạm Biểu Tâm, Trần Đình Đệ... Cô cũng có hợp tác viết lách và phiên dịch trong các tờ báo do tôi phụ trách, vì thế cô quen nhiều với gia đình Nguyễn Tường. Cô là một phụ nữ có tinh thần phóng khoáng, tự lập và dấn thân. Lúc tôi vượt biên sang Trung hoa năm 1945 thì cô đang học môn văn chương tại Đại học Côn Minh, CS chưa chiếm lục địa. Chúng tôi thành hôn ở thành phố này vào giữa năm 1947. Chuyện ở lại Trung hoa là quyết định cá nhân tôi, tôi không chấp nhận về nước sống trong khu Pháp kiểm soát. Nhà tôi nhiệt tình san sẻ kiếp lưu vong của chồng. Tôi không nghĩ đã phí phạm cuộc đời ở Trung Hoa. Anh em đồng chí chúng tôi rút kinh nghiệm để nghiên cứu tại chỗ một con đường đấu tranh mới trong thế bí của các phái quốc gia. Tháng 3.1949, chúng tôi thoát ly Quốc Dân Đảng và thành lập nhóm "Cách Mệnh Xã hội" với chủ trương chống chuyên chính vô sản và tư bản bốc lột; thực hiện một chế độ "xã hội chủ nghĩa" nhưng không độc tài theo lối Bắc Âu. Tờ báo Cách Mệnh Xã hội ra được vài số rồi ngưng xuất bản. Tháng 2.1950, tôi được nhận làm việc tại Đệ tam Y viện tỉnh Quảng Đông. Trước dó, năm 1948, Liên được tuyển dạy văn hoá và toán ở một trường tiểu học Phật Sơn, lương trả bằng gạo. Quy chế của chúng tôi là ngoại kiều cư trú, phải đi học tập chính trị. Đời sống chật vật vì đông con. Tôi đã chứng kiến tận mắt tất cả các trận bão táp của chế độ Mao: cải cách ruộng đất, kế hoạch đấu tố tư sản, phong trào học sinh lên núi xuống đồng, cuộc vận động "ba chống, năm chống", Đại hội 8 của Trung cộng, Cách mạng văn hóa 1968, Đại Nhảy vọt về nông nghiệp, nạn đói kinh khủng, sự phản đối khuynh hướng "hữu khuynh, xét lại" v..v.. Năm 1963, Lê Duẩn ngả hẳn về phiá Bắc kinh. Trung Cộng tự phong là "hậu phương môi hở răng lạnh" với Bắc Việt. Dân Tàu lẫn Việt đồng hát vang "Việt Nam, Trung Hoa, núi liền núi, sông liền sông!"
LLT: Nhất Linh nghĩ sao về đường lối chính trị và họat động của anh tại Trung Quốc? Xin cho biết chi tiết về cái chết của Nhất Linh và Hoàng Đạo. Quyết định tự vẫn của ông Tam có hợp lý hay không?
NTB: Tháng 7.1947, tôi rời Côn Minh đi Quảng châu để cùng với Nguyễn Hải Thần, hai anh Tam, Long và một số nhân vật đến từ VN như Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Bảo Toàn, Lưu Đức Trung.. v..v... hội nghị với cựu hoàng Bảo Đại tại Hồng kông về những điều kiện thương thuyết của Cao ủy Pháp Bollaert. Phiên họp không đi đến đâu vì một số - trong đó có chúng tôi - cho rằng thoả hiệp với Pháp là mất chính nghĩa. Giữa 1948, Trung ương Quốc Dân Đảng VN cử Vũ Hồng Khanh và tôi đi Nam kinh cầu viện với Chính phủ Tưởng Giới Thạch. Chúng tôi tiếp xúc với một số nhân vật Quốc Dân Đảng và Liên Minh Á châu chống Cộng, đặc biệt với Phó Tổng thống Lý Tôn Nhân. Chuyến đi này không đem lại kết quả vì, trước sự tấn công ồ ạt của CS, một số cơ quan chính phủ đã bí mật dọn đi Đài Loan. Anh Tam chủ trương không thể cộng tác với Pháp dù là tạm thời và cũng không thể liên hiệp với CS dù là kháng chiến. Về ý kiến của chúng tôi đi tìm một sinh lộ mới cho Đất Nước, anh không tán thành hay phản đối. Xưa nay, anh không có thói quen áp đặt quan niệm của mình, có thể vì thế mà anh không tổ chức được hàng ngũ đấu tranh cò kỷ luật chặt chẽ. Vả chăng, lúc ấy, anh Tam đã yếu, suy nhược thần kinh, đau dạ dày nên cần tịnh dưỡng một thời gian. Tháng 8.1948, Hoàng Đạo qua đời đột ngột, lúc 42 tuồi, vì bệnh tim trên chuyến xe lửa đi từ Hồng kông về Quảng châu sau khi gặp vợ ở VN đưa con qua thăm. Được thông báo tin dữ, anh Tam, tôi và năm đồng chí đến ga Thạch Long để nhận xác và tống táng với tất cã lòng đau xót và thương tiếc. Tháng 7.1963, chúng tôi đột nhiên nhận được điện tín của một người bạn tên Vũ Đức Văn gởi từ Thượng Hải cho biết Nhất Linh đã tự vẫn ngày 6 tháng 7 tại Sàigòn để phản đối chế độ Ngô Đình Diệm. Anh Tam đã trở về Việt Nam để viết sách và làm báo. Anh bị điều tra trong vụ đảo chính hụt Chính phủ nhưng không có bằng chứng. Sức khoẻ của anh không tốt, bệnh đau dạ dày hành hạ. Trong lúc khủng hoảng tinh thần, anh đã lấy một quyết định đáng tiếc. Trong thâm tâm, tôi không mấy tán thành. Anh Tam qua đời lúc 59 tuổi. Anh còn có nhiều khả năng giúp đỡ Quê hương. Rất uổng! Đám táng của anh khá trọng thể, quần chúng tham gia đông đảo. Cái chết của Nhất Linh, dù sao, làm giảm uy tín chế độ đương quyền giữa lúc vấn đề Phật giáo sôi sục.
LLT: Tháng 10.1977, anh có về Việt Nam sau nhiều thập niên lưu vong. Vì lý do gì? Tiếp xúc với ai? Anh nhận xét ra sao về Đất nước thời ấy?
NTB: Đúng vậy, tôi và đứa con trai có về VN hai tháng, đi bằng xe lửa, từ Bắc Kinh đến Hà Nội, qua ngả Mạc Tư Khoa. Lý do giản dị là nhớ nhà, thăm mồ mả gia tiên và muốn biết thực trạng Quê hương. Tôi viếng nhiều chỗ: Lạng Sơn, Bắc Giang, Nam Định..vv... Tại Hà Nội, tôi bùi ngùi thấy không còn bao nhiêu dấu vết cũ của ngôi nhà từng được dùng làm toà soạn báo Phong Hoá, Ngày Nam và Việt Nam. Quê hương nghèo đói, tụt hậu và rách nát thảm thê! Buổi giã từ họ hàng và thân hữu để trở về Phật Sơn thật vô cùng cảm động, tôi nhớ mãi. Tôi không có tiếp xúc với ai cả ngoài bạn bè và thân quyến.
LLT: Bây giờ hãy nói đến giai đọan ba trong cuộc đời sôi nổi của anh chị: giai đọan định cư tại Mỹ. Vì sao lại chọn Hoa kỳ? Anh đã có những hoạt động văn hoá vá chính trị nào từ ngày đặt chân trên xứ này?
NTB: Tháng 3.1988, sau 40 năm sinh sống tại Trung Quốc, vợ chồng chúng tôi quyết định di cư qua Mỹ để đoàn tụ với hai con Hứa Anh và Hứa Chân. Lưu vong đâu nữa cũng là lưu vong. Tuổi tôi đã quá 72. Thủ tục giấy tờ phiền toái nhưng cuối cùng cũng vượt qua. Máy bay đáp xuống phi trường Los Angeles. Chúng tôi xúc động trùng phùng với người thân và đặt chân trên đất của Nữ thần Tự do. Nơi đây tôi sẽ sáng tác theo ý muốn vì đối với tôi, từ xưa nay bác sĩ là chức nghiệp, cách mạng là sự nghiệp, văn nghệ mới là ước nguyện chính. Thời gian đầu để dành đi thăm bà con và bạn bè tản lạc ở nhiều tiểu bang. Đăc biệt, tôi còn một người chị ruột là Nguyễn Thị Thế ở Virginia, gần 80 tuổi, chưa gặp quá 40 năm. Sớm du nhập vào nếp sống Hoa kỳ, cập nhật hoá tin tức và nghiên cứu tài liệu là những nhu cầu khẩn thiết đối với tôi. Quốc tịch Hoa kỳ giúp làm thủ tục xin cho các con khác ở Trung Quốc sang định cư nếu chúng muốn.
Tôi bắt đầu viết lách lại và xuất bản được trong các năm 1995, 1999 và 2000 ba sáng tác kể ở phiá trên: một quyển tiểu thuyết và hai hồi ký. Ngoài ra, tôi hợp tác với nhiều báo Việt ngữ dưới bút hiệu Viễn Sơn. Tôi cũng tiếp xúc với nhiều hội đoàn và tổ chức người Việt. Ngày 12 và 13 tháng chạp 1988, một Đại hội đảng phái quốc gia nhóm sơ bộ tại Santa Ana, Californie, chỉ định tôi trình bày mục tiêu. Một Văn phòng phối hợp ra đời để nghiên cứu và thảo kế hoạch. Ngày 16.9.1989, một Đại hội chính thức được triệu tâp, tôi đọc diễn từ khai mạc, Nguyễn Long Thành Nam thuyết trình về mô thức kết hợp, Trần Đức Thanh Phong về lập trường chính trị và nội quy, Phạm Đình Đệ về kế hoạch công tác. Ngày hôm sau, Đại hội biểu quyết lấy danh xưng là "Uỷ ban Điều hợp các tổ chức đấu tranh cho VN tự do". Văn phòng điều hợp Trung ương được thiết lập và một Thông cáo chung được thông qua. Ngày 25.5.1991, cũng tại Santa Ana, Mặt trận Dân tộc Dân chủ Việt Nam, gồm có 8 đảng và một số nhân sĩ, ra mắt quần chúng. Cơ quan ngôn luận của Mặt trận là tờ Tiếng Dân. Tiếc thay, về sau, một tổ chức trong Mặt trận vi phạm cương lĩnh bằng cách chủ trương thoả hiệp với cộng sản, đối thoại vô nguyên tắc, đầu cơ. Để tránh những xung đột vô ý nghiã giữa các thành viên, Mặt trận đã ngưng họat động vào năm 1995. Một lần nữa, giấc mơ kết hợp gây thất vọng.
LLT: Thành phần tham gia Đại hội gồm có đảng phái, chính khách nào? Tổ chức nào đã cổ động hòa giải hoà hợp với CS. Sau hết, một cách vắn tắt, anh nghĩ sao về tương lai của Việt Nam?
NTB: Theo thứ tự trong biên bản, các tổ chức tham dự là VN Quốc Dân Đảng, Mặt trận VN Tự do, VN Dân chủ Xã hội Đảng, Liên Minh Dân chủ VN, Lực lượng VN Tự do, Liên Minh Toàn Dân VN Quốc gia, Tổ chức Phục Hưng, Cơ sở Dân quyền Canada, Tổ chức Phục Việt Âu châu... Đại diện đảng và nhân sĩ gồm có Hà Thúc Ký, Nguyễn Ngọc Huy, Bùi Diễm, Lê Duy Việt, Lê Phước Sang, Trần Minh Công, Trần Văn Sơn, Nguyễn Văn Trần, Nguyễn Long Thành Nam, Hà Thế Ruyệt, Hoa Thế Nhân, Trần Huỳnh Châu, Phạm Ngọc Lũy, Lưu Trung Khảo, Trần Đức Thanh Phong, Nguyễn Văn Tại..v..v.. Sau khi Gs Nguyễn Ngọc Huy qua đời, Liên Minh Dân chủ VN vỡ làm đôi. Cánh Stephen Young tiếp xúc với Hà Nội để tìm giải pháp thoả hiệp. Tôi tin tưởng CS không tồn tại lâu ở VN vì chủ nghĩa Mác Lê đầy mâu thuẫn, tự diệt và xa dần quần chúng. Đấu tranh cho Nhân quyền có thể dấy động đại chúng và thúc đẩy áp lực của quốc tế đối với Hà Nội. Bởi thế từ 1996, tôi nhiệt liệt cổ động việc thành lập "Mạng Lưới Nhân Quyền VN". Tổ chức này được hợp thức hóa trong Đại hội thế giới triệu tập vào tháng 10.1997 tại Californie và đang hoạt động hữu hiệu
Kết luận: Sự hấp tấp quyên sinh của Nhất Linh và bốn thập niên cố tình ẩn tích của Bs Bách tại một nước CS láng giềng là những điểm nêu câu hỏi trong giới người Việt từng dành nhiều cảm tình cho gia tộc Nguyễn Tường. Gia tộc này đã hiến cho Đất nước những người con ưu tú trong lãnh vực chính trị lẫn văn hóa. Hồi tưởng quá khứ, Bs Bách đã bộc trực thú nhận như sau trong quyển ký ức 2 "VN, Một thế kỷ qua, 54 năm lưu vong", trang 417: "... Dù sao việc ở lại Trung Quốc trong bốn mươi năm cũng không khỏi gây ra thắc mắc, hiểu lầm, thậm chí công kích từ một số người Việt quốc gia, trong đó có cả thân hữu. Tôi nghĩ việc này cũng là tự nhiên thôi. Mỗi người trong biến cố phức tạp của cuộc đời, có thể có những sai lầm nghiêm trọng." Nơi trang 251 của tập Hồi ký 1 "VN Một Thế Kỷ qua", anh Bách cũng không ngại nhắc đến câu Nhất thất túc thành thiên cổ hận, Lỡ một bước đành hận ngàn thu.
LÂM LỄ TRINH Thủy Hoa Trang Ngày 6.6.2006
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 14, 2013 5:57:30 GMT 9
Đọc Hồi Ký “ Nguyễn Tường Bách và Tôi” của Nguyễn Mạnh Trinh Hoi Ky NguyenThiVinhỞ tuổi của tôi, những điều hiểu biết về Tự Lực Văn Đoàn không phải chỉ gồm trong sách vở. Qua những người quen biết, đã có những câu chuyện, những giai thoại chung quanh những nhân vật đặc biệt của lịch sử này. Cuộc sống của họ , trôi nổi theo những biến cố của đất nước và tôi nghĩ , nếu ở những lớp hậu sinh, nhìn vào đó sẽ gặt hái được nhiều kinh nghiệm. Số phận của những quốc gia nhược tiểu thường không nằm trong chủ quyền độc lập mà thường lệ thuộc vào những kế sách và âm mưu của những cường quốc… Việt Nam là một ví dụ cụ thể nhất. Từ những khai phá về văn chương tạo thành một thời kỳ văn học rực rỡ, những thành viên trong Tự Lực Văn Đoàn còn là những nhà cách mạng và họ là những người hành động có mặt trong những thời kỳ đầy biến động của lịch sử. Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, .. không phải chỉ là nhà văn mà còn là chiến sĩ, là người đem lý tưởng của văn chương thực hiện trong cuộc sống. Và một nhân vật, là một trong lớp bác sĩ Tây y đầu tiên của Đại Học Hà Nội, đã viết văn làm thơ từ khi còn trẻ, là chủ nhiệm tờ báo Ngày Nay, là em út trong gia đình bảy người con trong đó có những tên tuổi lẫy lừng: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, cũng là một khuôn dáng lịch sử, của những nhà văn mà cũng là những người cách mạng, đã hành động với lý tưởng đã ôm ấp từ thuở thiếu thời: bác sĩ Nguyễn Tường Bách. Cụ Nguyễn Tường Bách sinh năm 1916 đến năm nay đã 92 tuổi. Tiểu sử của cụ là nhà văn, phụ trách tờ Ngày Nay bộ mới năm 1945, rồi tờ Việt Nam, tham gia đảng Đại Việt Dân Chính rồi sau gia nhập Quốc Dân Đảng hợp nhất của Đại Việt cách Mạng Đảng và Việt Nam Quốc Dân Đảng. Năm 1946 lưu vong sang Trung Hoa và bị kẹt lại khi Mao Trạch Đông chiếm Hoa Lục và hành nghề bác sĩ đến năm 1988 mới cùng gia đình sang định cư ở Hoa Kỳ. Cuộc sống ấy, được cụ viết trong tập tiểu thuyết nhưng có phong vị của một tập hồi ký “ Trên Sông Hồng Cuồn Cuộn”. Tôi vốn là đứa tò mò và luôn luôn muốn tìm hiểu xem những lớp cha anh của tôi đã suy nghĩ thế nào, đã sống như thế nào trong những thế thời lịch sử đã qua. Tôi độ chừng là từ chuyện kể của cụ Nguyễn Tường Bách sẽ tìm được những chi tiết lý thú cho cá nhân tôi và có khi cho độc giả nữa. Anh Duy Lam, vốn là cháu của cụ Bách đã sắp xếp để tôi có dịp được hầu chuyện với cụ nhân thể vấn an sức khỏe cụ bà luôn. Chúng tôi dự trù là sau tết âm lịch sẽ cố gắng có một buổi phỏng vấn mà tôi nghĩ sẽ tìm hiểu được nhiều điều từ bên trong lịch sử dân tộc cũng như lịch sử của văn chương cũng như nỗi niềm, tâm sự của người trí thức trước những ngã rẽ quanh co của thời thế. Nhưng, tuần rồi, nghe tin cụ bà vừa từ trần. Tự nhiên, thấy có một điều gì buồn buồn, mất mát. Những chân dung con người ấy, rồi cũng phải mờ phai. Những cuộc sống ấy, rồi sẽ thành những câu chuyện kể của quá khứ. Đọc lại cuốn sách cụ vừa viết và xuất bản năm 2005” Nguyễn Tường Bách và Tôi “ như một cách thế tưởng niệm. Cuộc đời ấy, dường như cũng trôi nổi theo thời thế, cũng có niềm xót đau chung của một thế hệ. Trong suốt gần một thế kỷ, trải qua bao nhiêu là dâu biển, sự việc đã đổi thay đến chónmặt, ngoài một yếu tố. Cái tình của người đối với người, cái sắt son của tình chồng vợ và tấm lòng yêu đất nước dân tộc và quặn đau theo những biến cố lôi kéo con người vào những hoàn cạnh đau thương. Nhưng, có một điều, là tinh thần lạc quan chan hòa trong hồi ký. Cái tinh thần của hướng đạo sinh cộng với nhân sinh quan đầy chất nhân bản đã giúp tác giả vượt qua được những thác ghềnh của cuộc sống … Trong tác phẩm, tôi đã gặp một nhà văn Hứa Bảo Liên, với văn phong đơn giản, thành thật nhưng truyền cảm. Ở đó, tôi gặp lại mẫu người vợ, người mẹ tuy là ngươì Hoa nhưng lại mang tinh thần và suy nghĩcủa người vợ, người mẹ Việt Nam. Bên cạnh người chồng, trải qua bao nhiêu thăng trầm của cuộc đời, vẫn còn giữ mãi hình ảnh của người yêu lúc trẻ , tài ba, trí thức, yêu đất nước và đầy lý tưởng. Làm người kể chuyện, có những chuyện thật gay cấn , thế mà dưới cảm quan và cái nhìn của cụ , vẫn đơn giản, bình thường, chân thực nhưng chuyên chở được cảm xúc cũng như suy tư lúc đó. Trong phần mở đầu “Mấy giòng tâm sự” cụ vẫn chân thành tâm sự: “.. Vì có nhiều người khuyến khích và cổ võ, nên sau một thời gian ôn về quá khứ, tôi mới cầm bút viết. Ban đầu tôi viết có vài ba chục trang”. Một người chồng tốt, người cha tốt”. Nhưng sau đưa cho một số người thân đọc, thì họ đều cho rằng tôi viết quá ngắn ngủi, sơ sài, cần viết cụ thể hơn, nên thêm vào những nhân vật có quan hệ mật thiết mà tôi đã gặp và nên kể thêm về mình nữa. Tôi đang cố gắng định viết, thì tai bay vạ gió. Tôi mắc phải một căn bệnh hiểm nghèo, phải mổ và chữa chạy hơn một năm trời, phải chạy điện, tiêm thuốc ròng rã thực là khổ sở. Nhìn những giọt thuốc từ từ rỏ vào mạch máu vì không muốn bỏ phí thì giờ trôi đi lãng phí. Tôi cố gắng cầm bút, có khi ngồi, có khi nằm, nguệch ngọac viết. Tôi cố thuật lại những sự kiện đã qua, vì tôi nghĩ rằng có nhiều sự kiện chỉ có tôi biết mà thôi, anh Bách thì chắc chắn sẽ không viết, nếu tôi không viết ra thì phí mất. Cuối cùng, tôi viết ra được cuốn hồi ký nhỏ này, ít ra cũng là thành thực và khách quan…”. Viết trong hoàn cảnh đau ốm như vậy phải kể là người có nghị lực nhất là ở niên kỷ đã cao như cụ. Là người luôn sống với kỷ niệm và không bao giờ quên kỷ niệm, cụ bắt đầu thiên hồi ký của mình với một thành phố: Hà Nội. “ Ngay bây giờ, trong lúc đứng trên những mảnh đồi xanh mướt, hay những bãi cát vàng vô tận, gợn sóng bạc nhấp nhô của bờ biển Tây Thái Bình Dương Hoa Kỳ, tôi lại nhớ. Nhớ tha thiết tới những cánh đồng lúa tại ngoại thành Hà Nội, hay mặt nước xanh êm đềm của hồ Hoàn Kiếm hay hồ Tây mênh mang. Hà Nội là nơi chôn nhau cắt rốn của tôi, là nơi mà tôi không bao giờ quên được, là nơi mà mỗi khi lưu lạc chốn nào trên thế giới, tôi vẫn thường nhớ tới. Vì quãng đời thơ ấu và tuổi trẻ của tôi, những ngày có bao nhiêu kỷ niệm tươi đẹp, nhưng vẫn pha lẫn bao u buồn, đều đã qua tại thành phố đặc biệt ấy... ”. Tác giả là con gái của một ông bang trưởng người Trung Hoa, nhưng sống gần gũi nhất và cũng là người yêu thương nhất là người bà và người mẹ. Tuy sống trong một gia đình giàu có nhưng hoàn cảnh của bà là tình cảnh của một đứa con lớn lên trong nhiều nghịch cảnh. Khi người bà và người mẹ mất đi, bà phải phấn đấu để cố gắng vượt qua những trở ngại trong gia đình. Ở ngoài xã hội, tác giả là một cô gái năng động, thích thể thao, có lý tưởng, yêu đất nước, dân tộc. Hè năm 1943, bà bị quân Nhật bắt giam vì tham gia vào những việc phản kháng. Sau được bảo lãnh và trả tự do cùng với sự cam kết sẽ không dính vào những vụ việc phản kháng nữa. Tác giả hay lui tới nhà thương Phủ Doãn và ở đấy đã gặp và quen biết với sinh viên Nguyễn Tường Bách học Y khoa năm cuối cùng, đang tập sự tại đây. Trai tài gái sắc, hai người trở thành một cặp tình nhân lý tưởng dù thời cuộc lúc ấy vô cùng rối ren, bom Mỹ thả khắp nơi, lại có nạn đói chết hàng triệu người ở miền Bắc, rồi quân Nhật đảo chính và sau đầu hàng Đồng Minh. Quân Tưởng vào miền bắc rồi rút đi, cuộc chiến tranh với Thực dân Pháp và cuộc chiến Quốc Cộng… Bác sĩ Nguyễn Tường Bách đã tham dự vào những hoạt động chính trị với sự hăng say của tuổi trẻ. Làm chủ nhiệm báo Ngày Nay bộ mới với tôn chỉ của người Việt quốc gia, sau đó làm chủ bút Việt Nam Thời Báo, rồi chủ nhiệm tờ Việt Nam. Cùng với Khái Hưng và Hoàng Đạo, ông viết bài để đối chọi lại với tờ Cờ Giải Phóng cuả Việt Minh lúc đó. Trong khi đó, tác giả Hứa Bảo Liên vừa đi dạy học và cũng vừa tập tành cầm bút và dịch từ Việt ngữ sang Hoa ngữ những bài viết trên Việt Nam và Việt Nam Thời Báo. Năm 1946, tác giả sang học tại Đại Học Vân Nam ở thành phố Côn Minh. Ở đây tình cờ bà gặp lại những người quen biết của Việt Nam Quốc Dân Đảng từ Việt Nam chạy qua như Nguyễn Tường Tam, Hoàng Đạo, Vũ Hồng Khanh, Xuân Tùng ... Và sau này bà cũng gặp lại bác sĩ Nguyễn Tường Bách từ Hà Khẩu chạy qua sau những ngày chiến đấu với Việt Minh. “ Chúng tôi gặp nhau trên đất xa lạ này, thực là không ngờ. Sự trùng phùng nhanh chóng này làm tôi không khỏi nghĩ đến nhiều khi người ta chỉ khác nhau ở một bước đi, mà cả cuộc đời đã thay đổi hẳn. Mấy tháng trước nếu tôi thay đổi ý kiến ở lại Hà Nội. Tôi không khỏi rùng mình khi nghĩ đến những sự kiện có thể xảy ra bắt bớ, tù tội do những kẻ ngạo mạn, điên cuồng! Sinh ly, tử biệt do chiến tranh bùng nổ! Lại rất có thể vì hoàn cảnh ác liệt, thời gian qúa xa xôi đến khi có dịp gặp lại nhau, một sợi dây vô hình đã ngăn cản giữa chúng ta thì sẽ ra sao? Cuối năm đó chúng tôi đã thành hôn với hình thức đơn giản, không thủ tục và cũng không có nhẫn cưới. Chỉ có lòng tin ở nhau, can đảm cùng bước vào tương lai còn mờ mịt ...”. Sau khi ở Côn Minh một thời gian, mọi người di chuyển về Quảng Châu cho gần Việt Nam hơn và tiện mọi việc liên lạc. Mọi người sống rất đạm bạc, lưu vong nhưng vẫn cố gắng hoạt động để mong ngày trở về. Giữa năm 1946, có một cái tang lớn, nhà văn Hoàng Đạo từ trần trên chuyến xe lửa từ Hồng Kông đi Quảng Châu và chôn cất ở bên đường. Trong lúc túng quẩn, tác giả phải là người đi chạy tiền để có ngân khoản lo liệu: “…Tôi biết số tiền này rất cần, nhưng số tiền lớn như vậy, tương đương với hai lượng vàng, không biết có thể vay được hay không? Nhưng nay không còn thì giờ để nghĩ ngợi được nữa. Lúc đó vào buổi trưa, trời nắng chang chang, giao thông lúc này cũng không tiện lợi. Ra tới bến tôi phải đợi tàu qua sông và đi bộ khá xa. Nhà cô ta ở phố buôn bán, lại cũng không biết bây giờ cô ta có ở nhà hay không? Cô Bình là bạn thân của tôi khi còn ở Hà Nội. Vừa gặp cô tôi nói luôn việc tôi muốn nhờ. Cô bạn biết tính tôi, nếu không cần lắm, tôi không bao giờ vay mượn ai cả. Nên sau khi nghe tôi nói, cô bảo tôi ngồi chờ.Tôi thấy cô bận bịu chạy lên chạy xuống. Một lúc lâu cô đưa cho tôi một tập giấy bạc hỗn độn giấy lớn giấy nhỏ. Xem ra cô phải mượn tạm của mấy cô em dâu mới đủ. Tôi mừng quá, vội gài cẩn thận vào túi trong rồi vội vàng cáo từ ra về. Khi về đến nhà đã gần tối, cả nhà đang chờ đợi. Sau khi trao số tiền cho anh Tam, tôi mệt lử vì trong nửa ngày hôm nay tôi đã vừa đi vừa chạy không biết bao nhiêu cây số. Đó là chưa kể khi còn phải chờ đợi để chen chúc nhau đáp tàu qua sông ...”. Sau đó là tan tác. Phần đông mọi người trở về Việt Nam trong khi bác sĩ Nguyễn Tường Bách ở lại Trung Hoa và kẹt lại cho đến khi Hồng Quân Trung Hoa chiếm được cả Hoa Lục. Một cuộc sống mới được kể ra với sự chân thực của người kể. Bao nhiêu là biến cố: Cải cách ruộng đất, công tư hợp doanh, tức phản, tam phản, phản phái hữu, công xã nhân dân nhảy vọt lớn, đại cách mạng văn hóa, ... tất cả được gói gọn trong những trang sách khiến độc giả từ những nhan đề khẩu hiệu lạ tai ấy biết được một phần nào chính tình Trung Hoa qua cái nhìn và cảm nhận của một người dân bình thường. Cuộc sống đầy những cái chết vô lý, những sự bất công và con người đối xử với nhau hành hạ nhau nhiều khi làm hạ thấp vị trí của con người xuống thành con vật. Gia đình bác sĩ Nguyễn Tường Bách may mắn không bị bách hại gì nhưng cũng phải chịu chung đời sống nghèo đói thiếu thốn của mọi người. Tác giả thì dạy học, còn bác sĩ Bách thì làm ở nhà thương cho đến khi về hưu. Năm 1988, sau hơn 40 năm sinh sống ở Trung Quốc, gia đình tác giả định cư ở Hoa Kỳ và hiện sinh sống tại Nam California. Đọc xong những trang hồi ký, nghĩ về một người vừa từ trần, tôi thấy hình như mình vừa được nghe chuyện về một người vợ hiền, một người mẹ tốt. Sinh trưởng trong một gia đình giàu có nhưng vẫn cố gắng học tập rèn luyện và luôn luôn nghĩ rằng thân phải tự lập thân và không nhờ cậy gì đến sự giàu có của gia đình.Với tinh thần phấn đấu của hướng đạo sinh, tham gia làm những công tác xã hội không quản thời giờ và tiền bạc cũng như thường giúp đỡ những người nghèo khổ kém may mắn. Dòng dã gần cả một thế kỷ, đất nước Việt Nam đã trải qua biết bao nhiêu biến cố và những cuộc đời bị lôi theo con lốc ấy đã thành những cuốn hồi ký sống động. Trong văn học Việt Nam có qúa nhiều cuốn hồi ký nhưng phần đông đều viết với chủ ý ngoài văn chương, hoặc để phân bua bào chữa cho mình hoặc có dụng ý đánh bóng tự khen mình. Hiếm có cuốn hồi ký như “Nguyễn Tường Bách và tôi” của tác giả Hứa Bảo Liên. Qua cái tôi của tác giả, chúng ta thấy được những nét phác họa đời sống, sinh hoạt, suy tư của chân dung Nguyễn Tường Bách. Và cũng ở đó, chúng ta nhìn thấy những nhân vật lịch sử đang sống, đang hoạt động như : Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, như Hoàng Đạo Nguyễn Tường Long, như Vũ Hồng Khanh , như Xuân Tùng … Họ sống lưu vong, vật lộn với đời sống khó khăn ở xứ Trung Hoa và luôn luôn hướng vọng về đất nước chờ một chuyến trở về. Dù thiên hồi ký này viết với bút pháp đơn giản tự nhiên nhưng cũng có những đoạn tả tình tả cảnh khá lý thú. Những thành phố, những con sông không phải chỉ là đơn thuần những địa danh mà còn là nơi chứa đựng những kỷ niệm một đời mà khi tác gỉa tả lại hoặc nhắc đến là với cả tấm lòng gửi theo. Có lẽ tác giả đã viết bằng cảm xúc của trái tim mình hơn là lý luận của bộ óc suy tư. Đời người dù dài hay ngắn đều cũng phải qua đi theo lẽ sinh diệt của đất trời. Nhưng, có những điều vẫn còn tồn tại. Đó là những trang sách, như một đóng góp cho đời, như trong hồi ký “Nguyễn Tường Bách và tôi” của cụ bà Hứa Bảo Liên. Xin cầu nguyện cho hương hồn cụ bà thong dong nơi đất Phật… Nguyễn Mạnh Trinh
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 27, 2013 6:32:08 GMT 9
Tự Lực Văn Đoàn, và những điều chưa nóiPhạm Thảo Nguyên Mục đích bài biên khảo này là tìm hiểu việc xây dựng báo Phong Hoá Ngày Nay và Tự Lực Văn Đoàn trong suốt thập niên 1930, đưa đến việc hiện đại hoá nghề báo và thúc đấy nguyên một cuộc cách mạng văn chương, văn hoá Việt Nam. Đồng thời khám phá sự thực về đời sống của thành viên Tự Lực Văn Đoàn, cái phần lâu nay vẫn bị hiểu lầm. Cuối thập niên 1920, Nguyễn Tường Tam đi Pháp du học ba năm, đỗ cử nhân giáo khoa Vật Lý, đồng thời tìm học thêm nghề báo, xuất bản, in ấn, và tham khảo văn chương các nước. Đối với ông văn bằng cử nhân chỉ dùng để dạy học kiếm sống khi cần, và là cái cớ để xin chính phủ thuộc địa cho đi du học, phần học thêm mới thật quan trọng. Ông hiểu sâu sắc rằng chỉ có báo chí và văn học mới giúp dân trí chóng tiến hoá, nên trước đó đã bỏ dở việc học Y khoa và Mỹ thuật. Cùng ý tưởng như người anh cả của làng báo Việt Nam Nguyễn văn Vĩnh, từ đầu thập niên 1920 đã mang hết cuộc đời đi mở mang báo chí và dịch tài liệu từ nhiều thứ tiếng sang tiếng Việt, để giúp dân nâng cao kiến thức, hiểu biết thế giới bên ngoài. Ông Vĩnh từng nói: “Nước Nam ta sau này hay dở cũng ở chữ Quốc ngữ ». Về nước, ông Tam đi dậy trường tư thục Thăng Long của Phạm Hữu Ninh, chờ thời. Sau khi xin ra báo không xong, gập lúc báo Phong Hóa của ông Ninh sắp đình bản vì ế ẩm, không người đọc. Ông Tam xin mua tờ Phong Hoá, nghĩa là mua cái tên báo, cái giấy phép ra báo, rồi thay đổi toàn bộ ban biên tập: Nhất Linh Nguyễn Tường Tam làm chủ bút, với hai người bạn: Khái Hưng Trần Khánh Giư, Tú Mỡ Hồ Trọng Hiếu, cùng hai em: Tứ Ly Nguyễn Tường Long và Việt Sinh Nguyễn Tường Lân. Ngày 22/09/1932 báo Phong Hóa số 14 của nhóm Nguyễn Tường Tam ra đời, là tờ báo trào phúng đầu tiên của Việt Nam. Mục đích là: Bàn một cách vui về các vấn đề cần thiết: Xã hội, chính trị, kinh tế- nói rõ về hiện tình trong nước… Nhờ tính thời sự và giọng trào lộng châm biếm với tư tưởng phóng khoáng về văn học, nghệ thuật, tờ báo lập tức nổi tiếng. Đó chính là khởi đầu tinh thần dân chủ mở rộng và bình đẳng trong tư tưởng, văn chương, báo chí của cuộc cách mạng chữ nghĩa Việt Nam thế kỷ 20, mà chúng ta còn được hưởng tới ngày nay. Nhất Linh hiểu rõ là dân chúng chán ngấy văn chương, báo chí cổ, chỉ đều đều một giọng mô phạm dậy đời, họ chờ đợi một tờ báo với tinh thần mới, phù hợp với nhu cầu muốn biết, muốn hiểu, muốn tiến về đời sống đang thay đổi mạnh mẽ. Nên Phong Hoá làm một cuộc lột xác báo chí: báo ngày càng gần gụi đời thường, qua những bài bình luận về thời sự, kinh tế, xã hội, chính trị mới mẻ sắc sảo, và những bài phóng sự diễu cợt rất được chờ đón. Bên cạnh là dòng văn học nhẹ nhàng dễ đọc, dẫn đầu bởi Khái Hưng và Nhất Linh, thay đổi sâu xa chữ nghĩa, câu văn Việt Nam với những tiểu thuyết ngắn, dài, kịch, thơ mới…. Tất cả được lồng trong hình thức mỹ thuật hay, lạ, dí dỏm, có duyên, với những truyện vui, văn vui, những bức tranh khôi hài. Một loạt nhân vật hoạt kê trào phúng được sáng tạo: Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh... Lúc đầu chỉ có Đông Sơn (Nhất Linh) và Tứ Ly vẽ minh hoạ, về sau là do những hoạ sĩ hàng đầu, tốt nghiệp trường Mỹ Thuật Đông Dương phụ trách. Với tinh thần rộng mở vui vẻ, tinh nghịch tạo không khí trẻ trung yêu đời, Phong Hoá Ngày Nay dần trở thành món ăn tinh thần mới, không thể thiếu của dân chúng khắp nơi. Số báo phát hành tăng vọt, vượt trên 5000, rồi trên 10 000, những con số chưa từng có trong lịch sử báo chí. Hai nhân tố làm cho Phong Hoá Ngày Nay nổi bật lên chính là : Sức trẻ tiên phong về văn học nghệ thuật và tinh thần chiến đấu trên mặt trận văn hoá kiêm chính trị. Ta thấy ở đây cách nhìn, cách nghĩ, cách cảm nhận đầy tinh thần đổi mới vì sự tồn vong và tiến bộ của dân tộc, đầy khí huyết của lớp nhà văn khao khát kéo đất nước đến với trào lưu chung của thế giới. Tóm lại, Phong Hoá Ngày Nay là cái mới, hứa hẹn điều tốt đẹp cho Việt Nam, vì vậy đã lôi cuốn hấp dẫn được trí thức và tầng lớp trung lưu đến thế. Không lâu sau, Nguyễn Thế Lữ, một cây viết trẻ, đã có ít nhiều thành tựu về thơ văn, về hợp tác với Phong Hoá. Ngay khi thấy nhân sự đã đầy đủ, báo đã vững vàng, Nhất Linh đề nghị thành lập Tự Lực Văn Đoàn, một loại «hạt nhân», để giúp đỡ che chở nhau cùng tiến lên, tự lập, không dựa vào ai khác «Nguyên tắc là làm ăn dựa trên sức mình, theo tinh thần anh em một nhà, tổ chức không quá mười người nên không phải xin phép nhà nước, không cần có văn bản điều lệ: lấy lòng tin nhau làm cốt, chỉ nêu ra trong nội bộ, mục đích , tôn chỉ, anh em tự giác tuân theo». (theo Tú Mỡ (1)), (Lúc đó Pháp trợ cấp cho Nam Phong của Phạm Quỳnh 600fr mỗi tháng, Trung Bắc Tân Văn 500fr mỗi tháng, trong khi một lạng vàng giá 30fr). Tự Lực Văn Đoàn thành lập vào trung tuần tháng 7/1933, gồm toàn bộ nhân viên toà soạn Phong Hoá : Nhất Linh, Khái Hưng, Tứ Ly (Hoàng Đạo), Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ. Trên Phong Hoá số 56 vào ngày 22 tháng 7-1933, nhóm chữ "Tự Lực Văn Đoàn" đã xuất hiện lần đầu tiên trong hai khung quảng cáo sách Hồn Bướm Mơ Tiên, và Vàng và Máu : Vì « Không cần có văn bản điều lệ : lấy lòng tin nhau làm cốt», cho nên lúc đầu Văn Đoàn không công bố tôn chỉ. Nửa năm sau, mới đưa ra trên báo Phong Hoá số #87 ngày 2/3/1934. Điều này không do ý muốn của văn đoàn mà vì bị bên ngoài hỏi thăm nhiều quá. Đó là: Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên dịch sách nước ngoài, nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi : mục đích để làm giầu thêm văn sản trong nước. Soạn hay dịch những cuốn sách có giá trị xã hội, chủ ý làm cho Người, cho Xã hội ngày một hay hơn lên. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân, và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân. Dùng một lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ nho, một lối văn thật có tính cách Annam. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời. có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ Ca tụng những nết hay, vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân, khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính cách trưởng giả, quý phái. Trọng tự do cá nhân. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa. Đem phương pháp khoa học thái tây ứng dụng vào văn chương Annam. Theo một điều trong chín điều này cũng được, miễn là đừng trái ngược với những điều khác. Hiện nay, căn cứ trên Di Cảo « Đời Làm báo » của Nhất Linh, được gia đình ông cho công bố. Chúng tôi xác định: Thành viên Tự Lực Văn Đoàn: Ngoài sáu vị đầu tiên, không ai bàn cãi. Trên Di Cảo chỉ một mình Xuân Diệu có thêm hàng chữ «Có chân trong Tự Lực Văn Đoàn». Vậy, thi sĩ Xuân Diệu là thành viên thứ bẩy. Những trường hợp dư luận có nghi vấn: * Đỗ Đức Thu: Nhất Linh đã chính thức gửi thư mời, nhưng ông từ chối, vì không muốn bị ràng buộc vào tôn chỉ của bất cứ văn đoàn nào. * Họa sĩ Nguyễn Gia Trí cũng như các hoạ sĩ khác, đều không thuộc Văn Đoàn vì không phải là nhà văn, tuy các ông làm việc sát cánh trong toà soạn Phong Hoá Ngày Nay nhiều năm. * Cuối thập niên 1950 tại Saigon, ba nhà văn Duy Lam, Tường Hùng và Nguyễn thị Vinh, được Nhất Linh lựa chọn dự bị cho nhập văn đoàn, nhưng việc không thành. Các nhà văn của Tự Lực Văn Đoàn cùng nhau làm việc rất hăng hái suốt gần một thập kỷ, trong tinh thần anh em bình đẳng, không ai làm chủ, mỗi người bắt buộc làm chủ bút trong 6 tháng, khiến Tự Lực trở thành một văn đoàn kiểu mẫu chưa ai so sánh được (chỉ Tú Mỡ và Xuân Diệu không làm việc toà soạn) . Nhờ con mắt tinh đời của Nhất Linh, các thành viên được mời đều là những tài năng độc đáo xuất sắc hiếm có. Và nhờ tinh thần dân chủ, đậm chất thân ái kính trọng nhau, đã tạo nên một tình thân bền chặt khiến mỗi thành viên đều hăng hái làm việc hết mình, tài năng ngày càng nẩy nở. Sự nghiệp văn chương lừng lẫy của họ đã được nhiều nhà phê bình công nhận. Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam được ca tụng là những nhà văn hàng đầu, mở đầu cách viết văn mới, tiểu thuyết mới. Thế Lữ, Xuân Diệu là những thi sĩ sáng chói, tiên phong, xây dựng phong trào thơ mới. Trong khi lối viết trào phúng hoá chính trị; hài hước đen tố cáo thực tế khốn cùng của dân nghèo, cùng những lời thúc dục tuổi trẻ tiến lên theo mới, thay đổi xã hội của Hoàng Đạo, đã làm rung động bao trái tim thanh niên thuở đó. Báo Phong Hoá và Ngày Nay được dân chúng hoan nghênh, tinh thần yêu tiếng Việt, yêu dân tộc được xây đắp, ẩn tàng lòng yêu giống nòi, yêu đất nước. Để tiến tới mục đích nâng cao dân trí, xây dựng tinh thần cho dân chúng, và mong mỏi người Việt trí thức nhìn ra tương lai của dân tộc mình, cũng như sửa soạn cho ngày đất nước thoát khỏi ách nô lệ; trong những năm về sau, nhất là từ khi Mặt trận bình dân lên nắm chính quyền ở Pháp, Phong Hoá đưa ra nhiều loạt bài như Công dân giáo dục, Trước vành móng ngựa, Thuộc địa ký ước,… cũng như viết những lá thư gửi những người Pháp có tinh thần rộng rãi, công bình, hiểu những bất công dân thuộc địa phải gámh chịu. Những ngón đòn kiểm duyệt của Pháp : hinh-1 (Nguyễn Gia Trí). Lẽ dĩ nhiên, thực dân muốn điều ngược lại vì quyền lợi của họ, nên luôn luôn rình rập sơ hở để đóng cửa báo. Vì vậy, muốn sống sót để tiếp tục nghĩa vụ của mình, thì phải che dấu hết sức khéo léo. Ngoài những bài viết bị Kiểm Duyệt xoá trắng tràn đầy trên báo, Tự Lực Văn Đoàn đã từng nếm trải những điêu đứng như sau: 1/ Phong Hoá bị phạt đình bản 3 tháng, từ ngày 24/5/1935. Hồ sơ Mật vụ ở Aix en Provence, nơi tàng chữ những tài liệu thời thuộc địa cuar Pháp, cho thấy: Báo Phong Hoá bị phạt 3 tháng vì giễu nhại các quan lại Nam Triều. 2/ Sau Phong Hoá số 190 ngày 5/6/1936, báo bị đóng cửa rút giấy phép vĩnh viễn, không lý do. Chúng tôi cho rằng nguyên nhân cuối cùng đưa đến hình phạt tối hậu này là do bức tranh « Tam anh chiến nhất bố» trong số báo này. Sau bao năm tháng chơi mèo rình chuột, thực dân Pháp cho rằng Phong Hoá đã dám hé tới điều cấm kỵ: Trong bức tranh này, Lý Toét, biểu hiệu dân tộc Việt, đang bị ba con chó tấn công xâu xé, mà con dân không hiểu, đứng reo hò bên cạnh! Những con chó đó là kẻ thù của dân Việt, là «mẫu quốc» chứ ai! Báo đã ra lọt, độc giả dân chúng thời đó, cũng như hậu thế chúng ta sau này, đã được coi tranh. Nhưng Phong Hoá không thoát khỏi sự trả thù của Tây, đã bị đóng cửa hẳn. (Bức tranh không có chữ ký, có nghĩa là hoạ sĩ vẽ theo ý kiến của cả toà soạn. Ngoài ẩn ý chính trị chửi Tây, tiêu đề “Tam anh chiến nhất Bố” còn là một ý tưởng đùa giỡn trong văn chương tuyệt hay. Tam anh chiến Lã Bố là tên trận dũng chiến của đại tướng Lã Bố chống lại ba anh hùng Lưu Quan Trương trong sử Tầu thời Tam Quốc. Chỉ cần “nói trẹo” đi một chữ “Lã” thành “Nhất”, thì các anh hùng trong sử Tầu hoá thành Lý Toét đánh nhau với 3 con chó ngay!). Tam anh chiến nhất Bố Nhất Linh đoán biết sẽ có ngày Phong Hoá bị giết chết. Nên đã phòng hờ. Ông nhờ anh ruột là Nguyễn Tường Cẩm, một công chức, xin ra báo Ngày Nay từ 31/1/1935. Ban đầu, báo Ngày Nay rất hiền lành, chuyên về văn hoá, thử nghiệm ảnh mỹ thuật và phóng sự thực tế. Tuy lỗ vốn, báo vẫn được giữ cho sống lai rai tới khi Phong Hoá mất. Lập tức, toàn lực Tự Lực Văn Đoàn và cộng sự viên quay sang làm việc cho Ngày Nay, làm Ngày Nay trở thành một Phong Hoá thứ hai, lừng lẫy, hiện đại hơn nữa. 3/ Ngày 7/1/1939 Nguyễn Gia Trí vẽ tranh bìa Lý Toét biếu gà cho quan tây trên bìa báo Ngày Nay số #144, cho hợp với biểu hiệu « con gà sống (trống)» của Pháp, (cocorico), mà hoạ sĩ xuýt bị kiện tù, chủ báo Nhất Linh bị khiển trách. Lý do: Nói cạnh quan tây thích gái (tiếng Pháp: gà mái= “poule”). 4/ Ngày Nay bị đình bản một tháng, sau tờ Ngày Nay số #206, ngày 6/4/1940. Lần này do một bức tranh chửi thực dân của Nguyễn Gia Trí đăng trong phụ bản. (Hiện nay, chúng tôi không có tài liệu này). 5/ Cuối cùng, sau số 224 ngày 7/9/1940, Ngày Nay bị rút giấy phép, đóng cửa vĩnh viễn, không lý do. Thế mà thời nay có những nhà phê bình viết rằng Tự Lực Văn Đoàn không biết ai là kẻ thù của dân tộc, không biết đả kích Tây, quả thật là quá ngây thơ. Dưới đây là một tấm ảnh quý hiếm Đồi Lim chụp năm 1938. Có 4 thành viên của Tự Lực, và 2 người bạn. Có chữ chữ ký của Thế Lữ viết đề tặng Xuân Diệu 1938 (Nguồn: Cù Huy Hà Vũ). Ngồi: Khái Hưng, Thế Lữ, Xuân Diệu+ một người bạn. Hai người bạn trong ảnh, chúng tôi không biết là ai, nhưng chắc chắn không phải Nhất Linh, hay Thạch Lam, hay Nguyễn Gia Trí. Về Nhất Linh, thủ lĩnh văn đoàn Tự Lực, Nhất Linh là một văn hào viết văn đầy hứng thú, đầy tài năng. Gập đúng lúc văn chương Việt Nam manh nha từ đầu thế kỷ 20, đang bắt đầu hiện đại hoá, cái nhìn rộng lớn của ông đã giúp văn học Việt Nam chuyển hoá từ cổ điển tới hiện đại vô cùng nhanh chóng. Không có một tác giả nào có tác phẩm đi qua đủ các thể loại tiểu thuyết rõ ràng bằng Nhất Linh: Từ phong thái cổ kính của những năm 1932 và trước đó, như Nho Phong, Người Quay Tơ, tới tiểu thuyết luận đề xã hội cũ mới với Giấc Mộng Từ Lâm, Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, qua Nắng Thu lãng mạn ly kỳ rất được lòng độc giả, chuyển tới tâm lý xã hội với Bướm Trắng, Đời Mưa Gió (viết chung với Khái Hưng), rồi tiểu thuyết không cốt truyện Đôi Bạn, … và sau cùng là hiện đại với Bèo Giạt, Xóm Cầu Mới. Đúng là chính Nhất Linh đã mở đầu, sau đó là cả Văn học Việt Nam tiến tới, xông pha vào những bộ môn mới của văn chương cùng thế giới. Thêm nữa, giải thưởng Tự Lực Văn Đoàn đã kích thích hoạt động văn hoá trong nước, tạo thêm người viết, văn sản trong nước và có xu hướng khuyến khích người viết đi vào các bộ môn chưa được biết đến. Thế Lữ từng nói: “AnhTam dậy tôi nhiều điều. Giấc mơ của anh lớn quá…” Nhất Linh, người điều hành Phong Hoá Ngày Nay, Nhất Linh điều khiển báo Phong Hoá, Ngày Nay và nhà xuất bản Đời Nay đặc biệt xuất sắc, có phương pháp, có nghề, làm các báo đối thủ không sao chèn chân được. Ông có con mắt tinh đời, nhận xét rất xác đáng tài năng, sở trường của từng tác giả, tìm được nhân tài, cũng như giao phó trách nhiệm rất đúng người, đúng việc. Điều này giúp các cộng sự viên tin tưởng theo đuổi sự nghiệp của mình đến cùng. Nhất Linh thường không ép buộc mọi người phải theo ý kiến của mình, chỉ khuyến khích. Theo nhiều người kể lại mỗi khi ông có một ý tưởng, một dự án nào đó, thường tìm đến người thích hợp nhất, cùng bàn luận suy nghĩ làm chung, khi việc chạy tốt, ông giao hẳn cho người cộng sự, còn ông đi sang một dự án khác. Như nhiều truyện ngắn, truyện dài lúc đầu có hai tên tác giả, nhưng sau chỉ còn một tên. Tuy nhiên, có khi ngược lại: Hình tượng Lý Toét, lúc đầu do Đông Sơn « đẻ » ra, sau có vô số người vẽ tiếp! Nhất Linh có rất nhiều ý tưởng mới với những quyết định đặc biệt. Ngoài ý kiến tuyệt vời là mua lại báo Phong Hoá cũ, và ra thêm tờ báo Ngày Nay phòng hờ, ta có thể kể một vài: 1* Thành lập Tự Lực Văn Đoàn. Đó là việc ông hài lòng nhất trong suốt cuộc đời văn chương của mình. 2* Khuyên Khái Hưng đổi loại viết từ nghị luận sang tiểu thuyết. Kết quả: Cuốn Hồn Bướm Mơ Tiên là cuốn thử tay của Khái Hưng, cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn đoàn Tự Lực, đã được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt. Còn chúng ta được một văn hào thay đổi cả cách viết văn, viết truyện Việt Nam. 3* Đề nghị Tú Mỡ chỉ nên tập trung viết thơ trào phúng trong Mục Dòng Nước Ngược. Nhờ đó Tú Mỡ phản ứng rất nhạy bén dí dỏm trước mọi diễn biến thời sự. Được nhiều thế hệ yêu thích, Tú Mỡ nổi tiếng một thời, như một Tú Xương đời mới, lại có giọng Hồ Xuân Hương! 4* Sáng tác ra hình tượng Lý Toét, tượng trưng cho quốc hồn quốc tuý Việt nam, một nhân vật hý lộng đi vào văn học sử. Đông Sơn (Nhất Linh) vẽ tranh Lý Toét trước hết để vui cười, sau để diễu nhại những thói hư tật xấu, hủ lậu, mê tín, tham lam ích kỷ… của dân ta, để sửa mình. Nhưng quan trọng hơn hết là để phê bình các quan tham, thúc dục họ làm việc đắc lực cho dân cho nước, sửa soạn lòng dân cho việc tranh đấu đòi độc lâp sau này. Hay hơn nữa, Nhất Linh không giữ tác quyền Lý Toét riêng mình, mà rủ tất cả các hoạ sĩ trong và ngoài toà soạn cùng vẽ. Ông tạo ra những cuộc thi vẽ tranh Lý Toét để có thêm hứng thú, thêm ý tưởng, thêm bạn và mở rộng ảnh hưởng của Lý Toét. 5* Thành lập An Nam xuất bản, Cục Xuất Bản (Société anamite d’Edition) (1933). Đến 1934 đổi tên là Đời Nay. Xin độc giả lưu ý, các Nhà Xuất Bản thường không có nhà in, họ chỉ đưa tác phẩm cho các nhà-in-ngoài như Lê văn Tân, Tân Dân, Thuỵ Ký… in thành sách, rồi mang về bán (bây giờ vẫn vậy). Vì vậy tiền lời chui vào túi các đầu nậu giấy, chủ nhà in, các ông tư bản, gần hết. Anh em Nhất Linh hiểu chuyện đó, nên nhất định để dành vốn đầu tư mua nhà in. Việc mua nhà in còn xa, chúng tôi sẽ nói tới sau. Thoạt đầu An Nam xuất bản các tác phẩm của các thành viên Tự Lực. Theo cách in tại các nhà in ngoài rồi mang về bán (ngay các báo Phong Hoá Ngày Nay cũng vậy). Sau đó xuất bản cả sách của các bạn văn ngoài văn đoàn, như Vũ Trọng Phụng, Hoạ Sĩ Cát Tường, HS Trần Bình Lộc, Vũ Hoàng Chương... Từ đó ra sách và bán sách ngày mỗi nhiều, tới 5 vạn bản một năm, mỗi cuốn sách in khoảng 5 ngàn bản. Nổi tiếng đắt khách chẳng kém gì Phong Hoá Ngày Nay, Đời Nay là nhà xuất bản đầu tiên của nước ta chia lãi cùng tác giả, để các tác giả vẫn được giữ bản quyền, khỏi bị bóc lột như khi bán tác quyền cho con buôn sách. Trên thị trường lúc đó, khi một tác giả có tác phẩm văn chương muốn xuất bản, phải đưa cho một nhà in hay một hiệu sách, họ thường bị ép bán đứt bản quyền với giá rẻ mạt. Đó là một cách: “chiếm đoạt tư tưởng của người ta, cả một quãng đời niên thiếu của người ta, vì theo hợp đồng hai bên đã ký thì những tác phẩm kia đã nghiễm nhiên trở nên vật sở hữu của ông buôn chữ rồi!” !. Rồi (sách) mãi mãi là của họ, của con cháu họ, nó sẽ là di sản của nhà họ. Thực, hạng buôn người cũng không tàn nhẫn bằng hạng buôn chữ… mà khắp trong nước không có lấy một nhà xuất bản sách - xuất bản sách theo như các nước văn minh, nghĩa là để tác giả được hưởng chung lãi, mà vẫn được giữ bản quyền về cuốn sách đã soạn” (4) (Nhị Linh Khái Hưng, Viết Sách, Xuất Bản Sách). 6* Đưa tiểu thuyết trinh thám lên báo Việt ngữ và tìm ra người sẽ viết thành công những tiểu thuyết đó. Theo chuyện kể trong gia đình Thế Lữ: Bạn có biết tại sao Thế Lữ viết truyện trinh thám không? - Đơn giản lắm. Hồi ấy báo bắt đầu giảm số lượng phát hành, chính Nhất Linh nghĩ rằng phải viết truyện trinh thám cho người ta đọc, và Thế Lữ là người có khả năng làm việc đó. Hết chuyện. Sau đó, không chỉ có báo Phong Hoá đăng tiểu thuyết trinh thám, mà các báo chí Việt cùng nhiều văn sĩ khác cũng theo chân. Theo các nhà phê bình có hai nhà văn viết truyện trinh thám nổi nhất thời đó là Phạm Cao Củng và Thế Lữ. Nhưng Lê Phong phóng viên của Thế Lữ có phần được yêu mến hơn Kỳ Phát. 7* Đưa lên báo vấn đề cải cách y phục phụ nữ Việt Nam, giao cho Nguyễn Cát Tường, một hoạ sĩ còn rất trẻ, 22 tuổi, phụ trách. (Nhất Linh cũng vẽ vài mẫu áo). Thế là các bà các cô có Áo dài Lemur, một chiếc áo thay đổi cách ăn mặc của phụ nữ, và làm chúng ta thật hãnh diện. 8* Thiết lập Hội Ánh Sáng, cùng các kiến trúc sư “Tiếp và Luyện” xây dựng “Nhà ánh sáng” thoáng đãng hợp vệ sinh cho người nghèo, thay thế nhà ổ chuột… Mời gọi các nhà hảo tâm tới họp, làm việc xã hội tập thể tại nhiều tỉnh thành của Việt Nam. Việc này đã gây một phong trào lớn trong nước, dân chúng chung lòng làm việc giúp người nghèo, như tham gia các việc cứu trợ cho các nạn nhân thiên tai, bão lụt hàng năm, cũng như các tai nạn lớn, tới cả giúp nạn đói năm 1945. 9* Đăng những bản nhạc mới đầu tiên của Tân Nhạc Việt Nam lên báo Ngày Nay, giúp các nhạc sĩ trẻ tiên phong phổ biến tác phẩm tới quảng đại quần chúng, giúp phong trào lan rộng. Ngày nay chúng ta có được cả một nền Tân nhạc to lớn thật đặc biệt. 10* Lập trò chơi văn chương cổ điển “Câu Đối” dưới dạng “Thách đối” cũng do Thế Lữ phụ trách, làm điên đầu biết bao người đọc! Nhân đây, tôi xin kể lại một câu chuyện xẩy ra cho chính tôi: Khoảng hai năm trước đây, được biết tôi có trong tay một bộ báo Phong Hóa, Ngày Nay cũ, đang cùng các bạn hữu tìm kiếm cho đủ, làm số hóa từng trang, sửa soạn đưa lên mạng cho tất cả mọi người cùng đọc. Một người bạn, học giả Cao huy Thuần, người đã được đọc toàn bộ Phong Hoá Ngày Nay trong tủ sách gia đình từ trước năm 1946, viết cho tôi: “Tôi không ngờ chị giữ được của quý văn hóa đó cho đến nay. Vậy tôi xin đố chị: Ngày Nay đã ra câu đối này trong số nào : "Ngày Nay ngày nay in nhà in nhà" Câu đố này đọc lên rối tinh, thật ra có nghĩa là: (Báo) Ngày Nay ngày (hôm) nay, in (tại) nhà-in (của) nhà. Nhận được thư, tôi ngẩn người, tự hỏi: Làm sao có thể tìm nổi một câu đối trong 224 số báo Ngày Nay, mỗi số lúc đầu là 16 trang, sau tới hơn 24 trang? Nên đành xin hàng, với lý do:“Thời gian báo Ngày Nay phát hành thì tôi... chưa sinh ra đời, nên bây giờ mù tịt, không biết tìm ở đâu.” Hôm sau, tôi nhận được một thư dẫn: “…Cho tới hôm đó, Ngày Nay phải mang đi in tại một nhà in. Sau một thời gian, xu hào rủng rỉnh, Ngày Nay tậu được máy in, in ấn ngay tại nhà in của mình. Cho nên hôm đó là một ngày có thể gọi là vinh quang. Trí nhớ tôi bây giờ đã bắt đầu khập khiễng, nhưng hình như câu đối "Ngày Nay ngày nay in nhà in nhà" được phô trương như một chiến công, đánh dấu một trang sử mới của tờ báo. Chuyện chẳng có gì, nhưng cái gì trong Ngày Nay cũng đều có duyên như thế. Tự Lực Văn Đoàn là một cách mạng ngôn ngữ mà hậu thế ghi ơn đời đời…”. Thế là nhờ được “mách nước”, tôi biết cách đi tìm câu thách đối trong núi báo Ngày Nay cũ. Kết quả là: Trên tờ Ngày Nay số 208, ra ngày 18/5/1940, có câu đố nói trên, trong 2 thông báo, và Ngày Nay số #209 ra ngày 25/5/1940 là tờ báo đầu tiên in tại nhà-in Ngày Nay. Hai thông báo của Ngày Nay Báo Phong Hóa và Ngày Nay ngày một nổi tiếng, hoàn toàn không có đối thủ trong làng báo. Bên ngoài tưởng rằng họ là những “nhà tư bản, báo có nhà in!”, mà không biết rằng, muốn có tiền mua nhà in, họ đã sống cần kiệm, thanh bạch như thế nào: Nhất Linh kể trong Phong Hoá số #154, ra ngày 20/9/1935, bài Lời Nói Đầu (về việc thành lập báo Phong Hoá): “ Mỗi người mỗi tháng chỉ cần một số tiền đủ sống, còn tiền lãi, nếu có, sẽ là của chung và sẽ dùng vào những công cuộc chung phải làm sau này” Tú Mỡ, viết trong cuốn Tiếng Cười (5) : “Họ tập trung chung lo tờ báo, anh em quyết tâm đem hết tài lực làm việc quên mình, không vụ lợi. Bốn anh rường cột trong tòa soạn (anh Tam, anh Long, anh Giư, anh Thế Lữ) tình nguyện chỉ lĩnh mỗi tháng 50 đồng (có nhiều nguồn tin nói 30đ) đủ sống (1 người), để dành tiền lãi làm vốn cho báo phát triển” Và họ đã làm được điều họ muốn: “Xuất thân từ những bàn tay trắng, đoàn đã có một số vốn khá to, đủ để xây dựng một nhà in riêng, để có thể từ nay: “Ngày Nay ngày nay in nhà in nhà” Đó là câu đối báo đưa ra để thách đối, đồng thời để báo tin mừng với bạn đọc”. Nhưng, đằng sau tất cả những vinh quang đó, mấy ai biết tới những cảnh này: Báo Ngày Nay bị Tây rút giấy phép sau số #224 ngày 7/9/1940. (Đóng cửa hẳn, chấm dứt hẳn sự nghiệp của hai tờ báo nổi tiếng nhất nước ta. Hồ sơ mật vụ Tây để ở Aix en Provence nín thinh, không hề nói nguyên do). Nghĩa là: Sau 8 năm làm báo, với biết bao tâm lực, bao cố gắng về tài chính, hai tờ Phong Hoá và Ngày Nay chỉ được in tại nhà in Ngày Nay từ số #209 tới #224. Hay, báo chỉ được in tại nhà-in nhà 16 số tất cả, trên 401 số (tổng cộng cả Phong Hoá và Ngày Nay) (hay 4%). Để gia đình, con cái sống qua nổi những ngày tháng thanh bạch đó (từ 1932 tới 1940, và sau đó), phải có người làm lụng buôn bán tần tảo ngược xuôi. Người đó chính là những người mẹ, người vợ cuả các thành viên nổi tiếng như cồn của Tự Lực Văn Đoàn, những tác giả được (bị) mang nhãn hiệu “tư bản”, bị ghen tị vì thành công lừng lẫy. Bây giờ tôi xin kể những việc làm của các bà Tự Lực: - Bà Nhất Linh buôn cau khô nuôi gia đình. Bà kể với các con (anh Nguyễn Tường Thiết thuật lại qua điện thoại): “Khi đi dậy học ở trường Thăng Long thì lương của cậu mang về là 200 đồng, đến khi làm báo, báo bán chạy lắm, nhưng cậu chỉ mang về có 20 đồng thôi” (chắc ông chủ báo giữ lại ít tiền túi, để tiêu vặt suốt tháng: nào xe cộ, chè tầu, thuốc lá, nào giúp gia đình, giúp người nghèo…). - Bà Hoàng Đạo nuôi gia đình hoàn toàn. Anh Nguyễn Lân, con Hoàng Đạo nói qua điện thoại: “Bác Tam còn mang về 20đ, chứ ba tôi chẳng bao giờ đưa một đồng nào về cho vợ con hết”. Theo hồi ký của bà Nguyễn thị Thế, em gái Nhất Linh, thì lúc này các vị Nguyễn Tường còn chung nhau trả tiền nuôi mẹ, tiền thuê nhà ở Hà Nội để đưa cụ bà Nguyễn Tường Nhu về sống gần các con các cháu. - Bà Khái Hưng dù có hoa lợi riêng, cũng phải mua bán tần tảo thêm mới đủ chi tiêu (Trần Khánh Triệu, Ba tôi). - Bà Thế Lữ, ở Hải Phòng hành nghề bà lang, chữa bệnh trẻ con gia truyền (truyền dạy từ gia đình mẹ của Thế Lữ). Bà làm thuốc, đầu tắt mặt tối cơm nước nuôi một đàn con và thay chồng phụng dưỡng mẹ già. Thi sĩ đang ở Hà Nội làm báo, mỗi tháng về thăm một, hai lần. Ông bán cả đất mẹ cho để lấy tiền làm kịch với bạn bè. Chúng ta đừng quên các bà vợ trong bóng tối đó, họ không phải là những nhà tư bản, rủng rỉnh xu hào. Sau này đọc bài Tâm tình của người con, Nguyễn Tường Thiết viết về Nhất Linh, tôi đã thật sự cảm động: “…Chúng tôi thường hay nói đùa: “Cậu có nhiều cái “sĩ” quá, này nhé: văn sĩ, hoạ sĩ, nhạc sĩ, thi sĩ, và kiêm cả “chiến sĩ” nữa. Nhưng không mấy ai biết là ông còn có một cái “sĩ” nữa mà có lẽ ông hãnh diện nhất trong những sĩ vừa kể, đó là “hàn sĩ”. Ông sống nghèo, trong sạch, và rất kiêu hãnh về điều này. Trong hai năm 1962-63, tất cả bố mẹ con chúng tôi chen chúc nhau ở trên một căn gác rộng 4mx12m lầu 2 chợ An Đông, vì dưới nhà là giang sơn buôn bán của bà cụ tôi mà các bồ (đựng) cau đã chiếm hơn nửa. Chính tôi cũng không chịu được cảnh bần hàn này, nên có lần trong bữa ăn có ai than thở về cảnh sống chật chội. Ông cáu, cầm bát đứng dậy, cái bát run run trong tay: “Mình phải hãnh diện là nhà mình nghèo chứ !”. Suốt đời chúng tôi không bao giờ quên được câu nói này. Tiếc rằng lúc đó chúng tôi không hiểu được cái chiều sâu của câu nói, chắc ông cũng cảm nhận được điều đó, nên càng tỏ ra buồn phiền hơn.”(6) * Khoảng đầu những năm 1940, Nhất Linh bị thực dân Pháp theo dõi. Để mật vụ cho rằng mình mê nhạc, không làm chính trị, ông tạo ra việc đi thổi kèn cho một dàn nhạc, có lẽ là ban nhạc đầu tiên của người Việt, tên là Diễm Hoa của Thẩm Oánh và Dương Thiệu Tước. Sau đó thoát ra hải ngoại. Khi báo Ngày Nay bị đóng cửa, nhà in Ngày Nay và nhà xuất bản Đời Nay còn hoạt động, đã xuất bản thơ, tiểu thuyết, sách Hồng nhiều hơn trước. Lúc này các thành viên nhận được ít tiền chia lời thất thường của Đời Nay. Nhờ vậy, cũng đã giúp được các gia đình qua ngày, trong thời buổi rất khó khăn. Một vài cố gắng của Thạch Lam và Khái Hưng ra báo Chủ Nhật, rồi cũng sớm bị rút giấy phép. Năm 1941, Hoàng Đạo, Nguyễn Gia Trí và Khái Hưng bị Pháp bắt tại Hà Nội, mấy tháng sau bị đưa lên phát vãng tại Vụ Bản, Hòa Bình. Hoàng Đạo và Nguyễn Gia Trí bị tra tấn tàn nhẫn. Tới 1943, Pháp đưa Nguyễn Gia Trí về quản thúc ở Thủ Đầu Một. Hoàng Đạo, Khái Hưng ở Hà Nội. Trong khi các anh vắng bóng, Thạch Lam trông nom nhà xuất bản một mình. Năm 1942, ông mất trong thiếu thốn vì bệnh lao, khi mới 32 tuổỉ. Bác sĩ Nguyễn Tường Bách, người em út, đứng ra tiếp tục nhà xuất bản Đời Nay. Tháng 4/1945 ra cuốn Hoa Niên (tức Nghẹn Ngào) của Tế Hanh là cuốn cuối cùng. Năm 1946 Tự Lực Văn Đoàn tự giải tán. Nhà in mang bán, mỗi thành viên có cổ phần được chia 6 nghìn đồng. Thế Lữ mang tiền về Hải Phòng chia cho mẹ và vợ con, trước khi chiến tranh Việt Pháp bùng nổ (7). 80 năm trôi qua, Phong Hoá Ngày Nay vẫn còn là đỉnh cao của văn chương, báo chí Việt Nam. Đó là một kho tàng văn hoá mà chúng ta còn học được nhiều điều… Phạm Thảo Nguyên Thư Mục: (1) Tú Mỡ, Tạp chí Văn học, HN, số tháng 5,6/1988. (2) Nhất Linh, Di cảo « Đời làm báo». (3) (5) Tú Mỡ,Tiếng Cười NXB Hội Nhà văn, HN, 1993. (4) Khái Hưng, Viết Sách, Xuất Bản Sách, PH#101. (6) Nguyễn Tường Thiết, Tâm tình của người con, Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ. Người Chiến Sĩ, nhiều tác giả, Thế Kỷ, California, USA, 2004. (7) Song Kim, Hồi ký : Những chặng đường sân khấu, 1995.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 27, 2013 6:35:59 GMT 9
Thế Lữ Và Tự Lực Văn Đoàn
Phạm Thảo Nguyên Suu TamThế Lữ tên thật là Nguyễn Đình Lễ, cũng là Nguyễn Thứ Lễ. Thứ Lễ nói lái thành Thế Lữ: Người khách phiêu du trên trần thế. Ông cũng dùng bút hiệu Lê Ta, vì Lễ = Lê ngã, Ngã chữ nho là “ta”. Đôi khi ông lấy tên Lê Tây để đùa. Có một câu thách đối dùng bốn tên của ông, chưa ai đối được, đó là: Thế Lữ mừng xuân hai thứ lễ Một quả lê tây, một quả lê ta. Thế Lữ sinh ngày 6-10-1907, ở Thái Hà Ấp, Hà Nội. Lớn lên ở Lạng Sơn với bà nội và u, vợ chính thức của bố. Trong khi mẹ ở xa, bố cũng đi xa làm việc, nên lúc nào cũng nhớ mong. Tỉnh Lạng Sơn là nơi rừng núi âm u, nhiều sắc dân miền núi, nhiều chuyện ma rùng rợn, người lớn hay kể doạ trẻ con. Khi còn nhỏ gia đình cho đi học chữ Nho, chú bé Lễ sợ đòn của thầy đồ nên trốn học, bị thầy cho người đi tìm về, hoảng hốt cưỡng lại, bị trói treo lên đòn gánh, gánh về, nên càng sợ. Vì vậy suốt thời thơ ấu, Thế Lữ luôn cảm thấy rất mãnh liệt Nhớ Thương và Sợ. Năm 10 tuổi, được về Hải Phòng sống với mẹ. Bắt đầu đi học trường Pháp Việt. 17 tuổi, mẹ lấy vợ cho, đó là cô Nguyễn thị Khương, 19 tuổi người Hà Nam. 1929 xin thôi học, lên Hà Nội lần thứ nhất, vào học trường Mỹ Thuật, được một năm rồi bỏ, vì không chịu được ông thầy Pháp thực dân, và nhất là ý muốn viết văn. Hồi này Thế Lữ viết Một cuộc báo thù ghê gớm, Tiếng hú hồn của mụ Ké, Tiếng nói thầm của người chết do những xúc động khi ở Lạng Sơn. Ông dịch Những người khốn khổ (Les Miserables) của Victor Hugo, … có nhiều bạn thân như Nguyễn Đỗ Cung, Trần Bình Lộc, Vũ Đình Liên, Ngô Bích San,... Cùng các bạn, đọc thơ văn mới làm, như một “salon văn chương” nhỏ, được các bạn nể trọng. Ra cuốn sách đầu tiên Một chuyện báo thù, ký tên Nguyễn Thế Lữ, rồi cuốn truyện ngắn thứ hai Tiếng Hú Hồn. 1930 về Hải Phòng luyện chí. Chuyên chú làm thơ, viết văn. Những bài thơ đầu tiên là: Lời than thở của nàng Mỹ thuật, Lựa tiếng đàn,.. Ông bị bệnh lao, ra Đồ Sơn ở chữa bệnh hai năm. Về Hải Phòng, nhớ lại chuyến đi thăm chùa Hang ở Đồ Sơn, viết Vàng và Máu. 1932 khỏi bệnh, trở lại Hà Nội lần thứ hai, Thế Lữ làm việc sửa bản in cho một nhà in tư. Ông sống cùng các bạn, chia sớt công việc, truyền cho nhau những sách hay, những sáng tác mới. Cũng năm đó, Phong Hoá của nhóm Nguyễn Tường Tam ra đời, Thế Lữ có cảm tình ngay với tờ báo có chất lượng, có giá trị và phương hướng rõ ràng này, muốn hợp tác. Những tiếp xúc ban đầu của Thế Lữ với báo Phong Hoá : Thoạt đầu ngay từ khi còn ở Hải Phòng, như có nhân duyên từ trước với Phong Hoá, Thế Lữ dự cuộc thi vui cười, gửi bài có tiêu đề Cải Chính cho Phong Hoá số #23, ngày 25/11/1932 : ký tên N.Đ.L (Nguyễn đình Lễ) (1). Bài này được giải nhất. Câu chuyện vui nhỏ này phô bầy, chế giễu cái ác, có ẩn ý để sửa đổi. Sau đó Thế Lữ gửi tiếp các bài viết. Bài đầu tiên là: Thây Ma Xuống Thang Gác, đăng trên Phong Hoá số #27, 23/12/1932, ký tên Thế Lữ. Từ đó bài nào gửi tới cũng được Phong Hoá đăng ngay. Bài thơ đầu tiên lên báo là : Con Người Vơ Vẩn. Phong Hoá số Tết 1933. Về phía báo Phong Hoá, ngay từ 1932, Nhất Linh đã « rất quan tâm đến 2 truyệnMột Đêm Trăng và Vàng và Máu (đăng trên Ngọ Báo) cũng như tác giả của hai tuyện này », đã « đặc biệt chú ý đến ý tưởng và ngòi bút mới mẻ ». Và dự định « muốn kết nạp cho được, chắc chắn không khó khăn » (2) (theo Phạm Thế Ngữ, Saigon, 1965). Thế rồi, Thế Lữ đến gặp Tú Mỡ tại nhà riêng ở phố Hàng Hòm. Đó là « một cuộc gập gỡ rất lý thú »(pittoresque). Việc này làm ông không ngần ngại tới thăm toà báo. Một lần, Thế Lữ đến Phong Hoá, số 80 Quan Thánh gập Nhất Linh, Thạch Lam, rồi Khái Hưng từ trên gác xuống và Hoàng Đạo đi làm về ghé qua. Thế Lữ mang bốn bài thơ mới làm ở Đồ Sơn ra đọc, đó là: Tiếng sáo thiên thai, Tiếng gọi bên sông, Lời than thở của nàng Mỹ Thuật và Lựa tiếng đàn. Vừa đọc xong, người đầu tiên reo lên là Khái Hưng: « Lamartine của Việt Nam! ». Còn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam thì thấy: « Xúc cảm còn mạnh hơn đọc bản tiếng Pháp của Lamartine »(3). Cuộc nói chuyện tiếp theo giữa những người có cùng quan niệm văn học, cùng lý tưởng, như cá gập nước. Không lâu, Thế Lữ ra nhập ban biên tập báo Phong Hoá, với khả năng đa dạng, niềm say mê văn chương, sức làm việc hăng hái, ông mau chóng trở thành một trong những thành viên trụ cột. Chúng ta không biết ngày nào Thế Lữ ra nhập Phong Hoá, tuy nhiên ngày đó phải: 1/ Sau Phong Hoá số #54 (7/7/1933). Tại Sao ? Vì tờ Phong hoá số 54 có đăng bài « Nguyễn Thế Lữ một nhân vật mới trong làng thơ mới » của Nhất Linh, rất khen ngợi thơ Thế Lữ. Bài phê bình này, bị các báo thời đó cáo buộc là Nhất Linh khen « người nhà ». Nhưng cáo buộc sai, vì sự thực, lúc đó Thế Lữ chưa là thành viên của Phong Hoá, tuy đã có nhiều bài đăng trên Phong Hoá rồi. Với bài viết này, đúng là Nhất Linh đang chờ đón kết nạp Thế Lữ. Và Khái Hưng cũng tỏ ý đó trong bài Tựa Vàng Và Máu, như sau: “Tôi vẫn mong mỏi sẽ có một nhà văn dung hợp được văn Thái Tây với văn Á Đông để gây một lối văn viết theo óc khoa học mà vẫn giữ được thi vị của văn Tàu. Nhà văn đó ngày nay đã có, chính là bạn Nguyễn Thế Lữ, thi sĩ trong Tự Lực Văn Đoàn.” 2/ Ngày Thế Lữ ra nhập Phong Hoá phải trước khi Tự Lực Văn Đoàn thành lập, dĩ nhiên, vì Thế Lữ là một trong 6 người sáng lập. Nhưng ngày thành lập văn đoàn cũng là một ẩn số, hiện nay không ai biết đích xác. Vì Tự Lực Văn Đoàn không bao giờ tuyên bố ngày thành lập.Tuy nhiên chúng ta có thể căn cứ trên sự kiện tiếp theo rất gần đó, là ngày nhóm chữ « Tự Lực Văn Đoàn » xuất hiện trên báo. May thay, anh Hà Dương Tuấn, ở Pháp, đã tìm ra nhóm chữ này trong hai khung quảng cáo tiểu thuyết đầu tiên của văn đoàn Tự Lực: Hồn Bướm Mơ Tiên và Vàng Và Máu trong tờ PH số #56, ra ngày 21/7/1933. Tóm lại, khoảng thời gian 14 ngày từ 7/7/33, tới 21/7/33, có 2 sự kiện xảy ra : Thế Lữ ra nhập toà soạn báo Phong Hoá và Tự Lực Văn Đoàn thành lập. Từ đó ta có thể kết thúc gọn mà không sợ sai: Tự Lực Văn Đoàn được thành lập vào trung tuần tháng 7 năm 1933. Với sáu thành viên Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng, Thạch Lam,Tú Mỡ và Thế Lữ. Năm 1938, văn đoàn nhận thêm người thứ bẩy là Thi sĩ Xuân Diệu. Các danh sĩ Tự Lực Văn Đoàn và những người cộng sự đầy tài năng đã làm việc hết sức mình, hết lòng mình cho văn học, cho văn hoá Việt Nam trong suốt 8 năm trời. Đã tạo nên một cuộc cách mạng chữ nghĩa, một kho tàng văn hoá vô tiền khoáng hậu. Hậu thế chúng ta mãi mãi ghi ơn: « Cái thuở ban đầu Phong Hoá ấy » « Ngàn năm hồ dễ mấy ai quên ». Phạm Thảo Nguyên, 2013 Thư mục (1) Thế Lữ, Đề cương hồi ký, báo Văn Nghệ,số 22, 1992. Lại Nguyên Ân sưu tầm (2) Phạm Thế Ngữ , Việt Nam văn-học-sử, Giản ước tân biên, Saigon, 1965. (3) Nguyễn thị Minh Thái, Đối thoại mới với văn chương, HN 1999.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 27, 2013 6:44:47 GMT 9
Vi Huyền Đắc
Vi Huyền Đắc (1899-1976) bút hiệu Giới Chi, là nhà giáo, nhà văn, nhà biên khảo, nhà soạn kịch Việt Nam.
Tiểu sử
Vi Huyền Đắc sinh ngày 18 tháng 12 năm 1899 tại làng Trà Cổ, Hải Ninh, nay thuộc TP. Hải Phòng. Cha ông làm thầu khoán, mộ phu làm đường, làm mỏ và có một đội thuyền vận tải riêng hoạt động ở vùng Đông Bắc Bắc Bộ. Mẹ ông là cháu ngoại Tiến sĩ Hán học Nguyễn Tư Giản (1823 -1890). Thuở nhỏ Vi Huyền Đắc học chữ Hán, sau đó chuyển sang học chữ Quốc ngữ. Sau khi tốt nghiệp Thành Chung ở Hải Phòng, ông thi vào trường Mỹ nghệ Hà Nội[1] nhưng sau đấy lại vào Sài Gòn làm lái xe và bắt đầu viết một số bài báo có xu hướng tiến bộ. Cha mất, Vi Huyền Đắc trở ra Hải Phòng kế thừa cơ nghiệp để lại, nhưng do việc kinh doanh không hiệu quả nên ông phải bán dần tài sản để sinh sống. Ở đây, ông bắt đầu viết kịch và mở nhà in Thái Dương văn khố trên phố Cầu Đất (Hải Phòng) để xuất bản tác phẩm của mình và bạn bè. Năm 1927, ông cho ra mắt tác phẩm kịch đầu tay: Uyên ương. Trong kháng chiến chống Pháp (1946-1954), ông tản cư về dạy học ở huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình). Năm 1954, ông lại vào Nam (ở Gia Định), tiếp tục sáng tác và từng là Phó chủ tịch hội Văn bút Việt Nam. Năm 1971, ông được trao Giải Thưởng Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc, do Tổng Thống VNCH bang lập. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Vi Huyền Đắc ra sống ở Hà Nội và mất tại đó vào ngày 16 tháng 8 năm 1976[2], thọ 77 tuổi. Theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, thì ông từng được giải thưởng của Tự Lực văn đoàn (1937, vở Kim tiền) và giải thưởng của Académie de Nice Pháp (vở Eternels Regrets).[3] Tác phẩm
Kịch bản sáng tác Uyên ương (Thái Dương văn khố xuất bản, 1927. Đã diễn 4 lần tại Nhà hát Tây Hà Nội và nhiều tỉnh trên đất Bắc) Hoàng Mộng Điệp (Thái Dương văn khố xuất bản, 1928. Diễn lần đầu tại nhà Nhạc hội Hà Nội năm 1930) Hai tối tân hôn (Thái Dương văn khố xuất bản, 1929) Cô đầu Yến (Thái Dương văn khố xuất bản, 1930) Cô đốc Minh (Thái Dương văn khố xuất bản, 1931) Nghệ sĩ hồn (1932) Kinh Kha (đăng báo Phong Hóa từ số 134-138 năm 1935) Ông Ký Cóp (1937, diễn lần đầu tại Nhà Hát Tây Hà Nội tối ngày 15 tháng 10 năm 1938, diễn tại Hải Phòng tối ngày 19 tháng 12 năm 1938) Eternels Regrets (viết bằng tiếng Pháp, Thái Dương văn khố xuất bản, 1938) Kim tiền (Đăng trên báo Ngày Nay, từ số 99 đến 107, diễn lần đầu tại Nhà Hát Tây Hải Phòng năm 1938) Giê Su, đấng cứu thế (1942) Lệ Chi Viên (1943) Từ Hi Thái hậu (khoảng 1954) Thành Cát Tư Hãn (1955) Kịch bản phóng tác văn học nước ngoài[sửa] Cá nước chim trời(nguyên tác của Đinh Tây Lan) Láng giềng (nguyên tác của Hoàng Tự Thôn) Khổng Tử can đạo chích (nguyên tác của Từ Vu) Kịch bản dịch Mạc Tin (bản dịch vở Martine của J.J Bernard), Đời Nay xb, Hà Nội, 1936. Truyện dịch từ Trung Văn[sửa] Cô gái điên (nguyên tác của Từ Vu) Người bạn lòng(nguyên tác của Tuấn Nhân) Gái thời loạn' (nguyên tác của Vũ Văn Hoa) Ánh đèn (nguyên tác của Từ Vu) Trên hòn hải đảo (nguyên tác của Quách Tự Phần) Bóng chim tăm cá (nguyên tác của Chu Xuân Đăng) Anh hùng tay bánh (nguyên tác của Lý Phi Mông) Ba đóa hoa (nguyên tác của Quỳnh Dao) Tấn bi kịch trong đình viên (nguyên tác của Lâm Ngữ Đường) Khúc ca mùa thu (nguyên tác của Lâm Ngữ Đường) Một gia đình (nguyên tác của Từ Vu, 1957) Người đi (nguyên tác là Marins của M. Pagnol), Tử sách Thanh niên, 1963. Biên khảo Máy hơi nổ (1956) Việt tự (1929) Bạch hạc đình (1944) Khóc lên tiếng cười (1945) Vở kịch hay nhất (1955) Nhà có Phúc (1956)...[4] Tài năng & nhân cách
Vở kịch Ông Ký Cóp do Thế Lữ làm đạo diễn và đóng vai chính được quảng cáo trên báo Ngày nay (1938). Sau năm 1932, cùng với sự phát triển chung của nền văn học Việt, thể loại kịch đã có nhiều tiến bộ hơn. Nhiều nhà viết tiểu thuyết, làm thơ cũng bắt đầu viết kịch, như Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, Thế Lữ...Song chuyên về kịch và nổi trội hơn cả là Vi Huyền Đắc và Đoàn Phú Tứ. Theo của nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan, thì Vi Huyền Đắc chỉ thật sự nổi tiếng khi ra mắt vở Kim tiền và Ông Ký Cóp. Và từ vở kịch Uyên Ương đến các vở Kim tiền, Ông Ký Cóp; Vi Huyền Đắc đã bước được một bước khá dài trong nghệ thuật viết kịch. Những vai trong Uyên Ương, trong Nghệ sĩ hồn non yểu thế nào, thì những vai trong Kim tiền, Ông Ký Cóp cứng cáp thế ấy. Động tác ở những vở sau lại rất mạnh mẽ, các nhân vật đều được tạo trong những khuôn tâm lý sâu sắc, tỏ ra tác giả là một kịch gia không những có nhiều tài năng, mà còn rất nhiều lịch duyệt.[5] Ghi nhận tài năng & nhân cách của Vi Huyền Đắc, thi sĩ Nguyễn Vỹ đã viết như sau: Vở kịch Eternels Regrets, mà đề tài là cuộc tình duyên của An Lộc Sơn với nàng Dương Quý Phi, đã chiếm được giải thưởng danh dự của Viện Hàn lâm Nice, một giải thưởng xứng đáng vì với quyển ấy, Vi Huyền Đắc đã tỏ ra là một nhà kịch sĩ có thiên tài. Kịch này sắp trình diễn ở Paris năm 1939 thì chiến tranh bùng nổ. Sau đó, tôi có xem ba vở kịch khác nhau của anh: Cô giáo Minh (tức Cô đốc Minh), Uyên ương, Thành Cát Tư Hãn; mà giá trị về văn chương cũng như về nghệ thuật đã đạt đến một mức tinh vi hoàn hảo. Cho nên ông Edmond Chodzko muốn đem các vở kịch của anh qua trình diễn ở Paris và Prague... ...Một lần, Thế Lữ đến Hải Phòng thăm anh. Anh hỏi vì sao công kích Nguyễn Vỹ đến thế, thì nghe Thế Lữ trả lời đại khái là không thích thơ tôi. Vi Huyền Đắc liền bảo: "Trong vườn văn học nước ta hiện đang khô khan nghèo nàn, Nguyễn Vỹ cũng là kẻ gieo hạt giống mới như các anh, sao anh không để cho hạt giống ấy mọc mà lại muốn cho nó chết đi?" Lúc bấy giờ, Vi Huyền Đắc chưa quen biết tôi, tôi càng cảm động khi nghe anh kể lại câu chuyện ấy... ...Cuối năm 1954, sau gần 20 năm xa cách, tôi mới gặp lại Vi Huyền Đắc ở trong một căn nhà tĩnh mịch, mà anh đặt tên là Hoàng Mai Hiên, giữa một cảnh trí nên thơ ở miệt Ngã Năm Bình Hòa, ngoại ô Gia Định. Nhà chỉ có hai vợ chồng (vợ ông mất năm 1966 ở Hoàng Mai Hiên) với một u già. Bao nhiêu cơ đồ sự nghiệp ở Hải phòng đều bỏ lại đất Bắc hết. Bao nhiêu sách quý, các bản thảo, cả những tác phẩm của anh đã xuất bản hồi tiền chiến, đều bị mất sạch. Bấy giờ chị đi dạy học ở trường Tiểu học ĐaKao, còn anh thì ở nhà dịch tiểu thuyết Tàu cho vài tờ báo, sống cuộc đời nhà văn thanh cao, yên tịnh. Trong lúc ở ngoại quốc, các nhà kịch sĩ đang đưa lên sân khấu những sáng tác phẩm vô cùng sôi nổi, thì ở nước Việt Nam một nhà kịch sĩ rất có nhiều khả năng, nghệ thuật điêu luyện tinh vi, đành xếp các vở kịch qua một bên, để dịch các tiểu thuyết Tàu cho qua ngày tháng...[6] Chú thích
^ Ghi theo [1]. Từ điển tác gia Việt Nam do Nxb Văn hóa- Thông tin ấn hành năm 1999 ghi Vi Huyền Đắc theo học và tốt nghiệp trường Mỹ thuật Hà Nội. ^ Ghi theo Từ điển tác gia Việt Nam. Trong bài viết đăng trên web Thư viện Hải Phòng ghi ông mất ngày 10 tháng 8 năm 1976. ^ Nguyễn Q. Thắng & nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam (Nxb KHXH, 1992, tr. 940) ^ Phần liệt kê các tác phẩm căn cứ theo Từ điển Tác gia Văn hóa Việt Nam (Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 1999). Có tham khảo thêm sách Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan (Nxb Sống Mới, Sài Gòn, 1960, tr. 675-676), nhưng vẫn còn thiếu nhiều thông tin. Sẽ bổ sung khi có thêm tài liệu. ^ Theo Nhà văn hiện đại, tr. 685. ^ Nguyễn Vỹ, Văn thi sĩ tiền chiến (Nxb Văn học in lại, 2007, tr. 136, 138 và 192).
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 7:38:08 GMT 9
Nhất Linh nhà văn và Nguyễn Tường Tam nhà chính trị[1] Nhất Linh “Trong trường hợp Nhất Linh Nguyễn Trường Tam, có những lý do để e ngại rằng vẫn còn những khoảnh tranh tối, tranh sáng xung quanh cái chết của ông. Những công trình nghiên cứu, ghi chép về thân thế và sự nghiệp chưa đủ để cho lịch sử có thể phán xét thật công bằng công tội của ông, như ông muốn” (1) (1) Trích Trần Thanh Hiệp trong bài: Để trả Nhất Linh Nguyễn Tường Tam về cho lịch sử, trích lại trong Nhất Linh- Người nghệ sĩ Người chiến sĩ, trang 128 Đối với một số người có quan tâm đến văn học và chính trị thì cuộc đời làm chính trị và nhất là vụ tự tử để lại chúc thư của Nhất Linh còn là một nghi án chính trị như nhận định của luật sư Trần Thanh Hiệp,-một thành viên viên sáng lập của nhóm Sáng tạo-nêu ở đầu bài viết này. Cuộc đời ấy, cái chết ấy trở thành một công án về văn học, chính trị và lịch sử. Sự nghiên cứu, tìm hiểu ngay cả nhận định, phê phán đều là cần thiết. Như mới đây, tôi nhận được luận án tiến sĩ của bác sĩ Mạc Văn Phước (1) được tóm lược và bổ sung của bác sĩ Đặng Ngọc Thuận. Phần bốn của luận án đã nói đến trường hợp bệnh lý của Nhất Linh- bệnh trầm cảm- Luận án này được thực hiện từ năm 1968, mang tính cách nghiên cứu hàn lâm của đại học Y khoa Sài Gòn. Luận án mang tính khách quan, khoa học. Nhờ đó, nó củng cố thêm cho những luận điểm của tôi về công án cái chết của NL. Nó giúp đánh giá lại có cơ sở việc tự tử của NL. Nó soi sáng ý nghĩa cái chết đó dựa trên tình trạng bệnh lý của NL. (1)|Thật ra luận án đã được đăng trong số Tân Văn số 47, tháng 6/2011. Những tài liệu sách vở viết về Nhất Linh sau 1963 không có là bao nhiêu. Những sách giáo khoa có tính cách trường ốc như của các giáo sư Lê Hữu Mục, Nguyễn Duy Diễn, Nguyễn Sỹ Tế vv.. không cho phép đào sâu, đi xa vào phạm vi nghiên cứu. Trừ hai cuốn sách của giáo sư Phạm Thế Ngũ, giáo sư trường Pétrus Ký. Cuốn Việt Nam Văn học sử giản ước tân biên, đặc biệt tập 3 liên quan đến TLVĐ- Đây là một trong những cuốn biên khảo văn học có giá trị nhất của của miền Nam trước 1975. Ngoài ra, sau 1975, giáo sư Phạm Thế Ngũ còn viết cuốn: Tự Lực Văn Đoàn trong tiến trình văn học dân tộc in sau 1975. Những nhận định của giáo sư Phạm Thế Ngũ, xét về mặt văn học là đáng tin cậy. Những cuốn sách của người trong gia đình như của bà Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Tường Bách, Nguyễn Tường Thiết giúp biết được một số sự kiện có tính cách riêng tư của NL, nhưng không đủ. Ngoài ra cuốn được nhiều người nhắc nhở đến là cuốn: Chân Dung Nhất Linh của Nhật Thịnh. Tài liệu ít người được biết đến là cuốn sách của Thế Phong: Lược sử văn nghệ VN- Nhà Văn tiền chiến 19030-1945. Cuốn sách viết tản mạn, thiếu tập trung và ít nét đặc sắc. Tôi đặc biệt lưu ý đến cuốn sách của Thế Uyên: Những người đã qua, Hồi ký văn học về Nhất Linh, Thạch Lam, Hoàng Đạo (Văn Uyển xuất bản, 1968). Thế Uyên cũng viết một cuốn Chân dung Nhất Linh cùng với Nguyễn Mạnh Côn và một số người khá mà tôi xử dụng trong bài viết này. Sau này tập Những người đã qua được in lại trong Thế Kỷ 21, Cali 2004 và 2005 và Đất Đứng, Sacramento, Ca. Về phía chính quyền trong nước hiện nay thì có Khúc Hà Linh với cuốn: Anh em Nguyễn Tường Tam- Nhất Linh- Ánh sáng và bóng tối. Tôi không được đọc. Đặc biệt ở Hải ngoại, có một vài bài viết của Thụy Khuê viết về Thạch Lam và Nhất Linh. Những cố gắng của Thụy Khuê trong việc sưu tầm và nhận định là không chối cãi được. Phần lớn, tôi đồng ý với tác giả TK. Nhưng riêng phần phê bình cuốn truyện Bướm Trắng và truyện dài Giòng Sông Thanh Thủy cho thấy nhiều gượng ép. Một nhà văn không kém quan trọng và cũng là người viết trong Tổng Quan Văn học- Võ Phiến- Ông đã dành một số trang”ưu đãi” không nhỏ để viết về Nhất Linh một cách khá sắc bén .. Tờ Thế kỷ 21 ở Hải ngoại cũng làm một cố gắng được nhìn nhận như một công việc đáng hãnh diện cho cá nhân của anh PPM với cuốn: Nhất Linh, Người Nghệ sĩ- Người chiến sĩ của nhiều tác giả. Cuốn sách đã hẳn thỏa mãn được nhiều người vốn yêu mến NL. Nhưng nó lại không đáp ứng được lòng ham muốn tìm hiểu một số vấn đề cơ bản liên quan đến lịch sử văn học của Nhất Linh và TLVĐ mà những người như tôi mong đợi- Nói chung là những người không bằng lòng những thỏa hiệp dễ dãi chỉ chú trọng tới mặt tích cực, nhưng tránh đề cập đến mặt tiêu cực. Trong cuốn sách ấy với thiện chí cá nhân sưu tầm phải nhận là có, nhưng vẫn còn những mặt thiếu sót sau đây mà người đọc mong mỏi được tiếp tục khai triển trong tương lai như: - Cuốn sách không nói tới giai đoạn làm báo chí của tờ Phong Hóa và Ngày Nay. Nhất là những vấn đề tranh luận, dèm pha, bè phái, bôi nhọ các nhà văn ngoài nhóm. Giới trẻ hậu sinh sau nay không có cơ hội biết đến giai đoạn này. Ngay cả những thành phần học sinh các lớp đệ nhị thập niên 1960 nay trở thành lão ông lào bà nhiều người cũng không biết. Đó là một thiệt thòi cần được nhìn lại và tăng bổ. Học sinh miền Bắc giai đoạn 1954-1975 thì nhiều người không biết ngay cả cái tên Nhất Linh là ai nói chi đến những việc khác. Việc cố ý thiếu sót đó trước sau gì cũng phải được trình bầy một cách công khai và công bằng. Việc trào phúng chế diễu này lại chính là cái làm nên danh tiếngTLVĐ, nhờ đó báo bán chạy nhất. Nhưng cũng trở thành một thứ scandal trong văn học mà sau này thiên hạ tránh nhắc tới. Tôi cũng không nhận thấy một “nhìn lại nào” của Nhất Linh trong vấn đề này. Ở đây, sự im lặng của NL và một số người cầm bút phải được diễn dịch đó là mặt tiêu cực của việc làm báo của NL. Ông có tự phê bình về các sách luận đề. Nhưng ông im lặng về mảng báo chí. Phần Thanh Lãng” hóa giải” ” gọi bằng một danh từ khá đẹp là 13 năm tranh luận văn học. - Cuốn sách cũng không xác định vai trò và chỗ đứng của các nhà văn trong nhóm TLVĐ. Như giữa Thạch Lam, Khái Hưng và Nhất Linh, ai là nhà văn có uy tín, có giá trị văn học mà không kể đến thời tính nhất thời được ưa chuộng bởi xã hội. Nhìn lại cho đúng sẽ có vấn đề đảo lộn sắp xếp vị trí của ba nhà văn ấy. Chỉ nhắc nhở đến Nhất Linh đã là một điều thiếu công bằng đối với Khái Hưng và Thạch Lam. Đồng thời còn cần phải so sánh với các nhà văn tiền chiến cùng thời, định ra được chỗ mạnh, chỗ yếu, chỗ hơn, chỗ kém của từng người, của mỗi bên. Về mặt khuynh hướng hiện thực xã hội, khuynh hướng của các nhà văn ngoài nhóm như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng cho thấy ngày nay giá trị nhân văn và xã hội của các nhà văn ấy được đánh giá cao như thế nào. Phải nhìn ra những “bất công” trong văn học để định vị cho công bằng. - Cuốn sách cũng không định ra được được các mốc văn học với sự khác biệt và tiến bộ của chữ Quốc ngữ đi từ các giai đoạn Nam Phong-Phạm Quỳnh đến giai đoạn Nhất Linh-TLVĐ và giai đoạn sau 1954 với Sáng Tạo, Bách khoa, Đại Học, Quê Hương và mảng văn học miền Nam bản địa với Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Lê Xuyên vv. Đây là một vấn đề quan trọng nhất mà bất cứ nhà phê bình văn học nào muốn đánh giá đúng mức TLVĐ đều cần đề cập tới. Không xác định đúng mức vai trò của Nam Phong. Không định vị được những bước đi văn học có tính khai phá và giới thiệu kiến thức, tư tưởng thế giới của NP. Không đánh giá đúng mức vai trò Nam Phong- Phạm Quỳnh như người mở đường cho sự lớn mạnh của chữ quốc ngữ. Không nhận chân được vai trò truyền đạt và phổ biến nhận thức trong một thời điểm nhất định- thì khó nói đến những bước tiến thay đổi thời TLVĐ. Chưa kể là chen vào giữa Nam Phong- Phạm Quỳnh và TLVĐ còn có những khuôn mặt lớn, độc lập trong văn học không theo một nhóm nào như Phan Khôi, Trương Tửu vv - Về hoạt động chính trị của NTT thì cuốn sách càng tỏ ra thiếu sót hơn nữa. Những người như Trương Bảo Sơn chỉ có tầm nhìn giới hạn vào một vài hoạt cảnh chống đối rồi đi tù sau này ở miền Nam VN. Hầu như không biết gì đến sinh hoạt quan trọng nhất của đảng ở miền Bắc trước 1954. Phần này, chúng tôi xin được trình bày ở phần hai. Nhất Linh- Người chiến sĩ-, - Việc ông NTT sau khi vụ đảo chánh 1960 thất bại, ông là lãnh tụ duy nhất một mình tìm đường thoát thân, lánh nạn vào tòa Đại sứ Trung Hoa Dân Quốc. Việc này đã gây rắc rối ngoại giao cho tòa đại sứ này. Và cũng là nguyên nhân NL không bị bắt giam , ngồi tù chờ toà xử như các vị liên can khác. Chẳng những cuốn sách kể trên mà còn phần đông những cuốn sách khác viết về NL không đá động đến việc này vì nó có thể làm mất uy tín lãnh tụ. - Và nói làm chi đến những nghi vấn đặt ra trong lãnh vực y khoa và chính trị liên quan đến việc tự tử. Việc này đáng nhẽ nên mạnh dạn đề cập đến. Cần phải nêu ra tài liệu chứng cớ y học có sẵn, tài liệu pháp lý và nhất là bằng nhiều nhân chứng để nhận định công bằng với NL và với lịch sử. Ba thứ tài liệu đó cộng lại cho phép người ta có thể đi đến kết luận NL ở trong một trạng thái tinh thần trầm cảm nên mọi hành động của ông đều không thể được coi là của một người bình thường. - Về những người cộng tác viết cuốn sách, tôi cũng thấy thiếu vắng một cách có ý nghĩa của hai nhà văn, đồng thời là cháu ruột của Nhất Linh. Đó là Duy Lam và Thế Uyên. Tôi có liên lạc với cả hai. Những nhận xét của Thế Uyên khá trung thực và thẳng thắn cần phải được nêu ra. Riêng Duy Lam thì theo tính hay nói thật, nói thẳng của anh giúp tôi biết được nhiều sự việc. Anh cũng là người chia sẻ cho nhan đề bài viết của tôi. Một chúc thư văn học- Một cái chết định trước. Có thể Duy Lam và Thế Uyên là những người duy nhất vừa là người gần gũi NL- trong quan hệ bác- cháu- vừa là người cộng tác trong VHNN với tư cách người trong cuộc, vừa là đồng chí trong hoạt động chính trị. Nhưng nhiều lúc, tôi có cảm tưởng Duy Lam lại giữ được cái tư thế khách quan như thể người ngoài cuộc đứng ngoài nhìn vào. Chẳng hạn, cách đánh giá nhà văn NL “tiền chiến” và “hậu chiến”. Vì thế, tôi nghĩ rằng những nhận xét của các anh về ông Bác của mình thật là quý giá. Riêng về cái chết của ông NL, đối với người viết bài này thì không thể đơn giản chỉ căn cứ trên cái chúc thư 71 chữ của ông, giấy trắng mực đen là xong, không cần bàn cãi nữa. Mặc dù chúc thư mang tính cách ” thiêng liêng” thế nào đi nữa của một người quyết định quyên sinh. Nhưng trong chúc thư, rõ ràng ông mong muốn để lịch sử xử! Lịch sử là ai? Nếu không phải là chúng ta bây giờ sau nửa thế kỷ? Trong lịch sử, thật hiếm có hai cái chết như trường hợp HT Quảng Đức và NL trong một mục tiêu vừa tôn giáo, vừa chính trị. Cái chết cao trọng của nhà tu hành có gửi chung một sứ điệp của nhà chính trị không? Cái chết của nhà tu hành là tối thượng, tối ưu, đầy lòng nhân ái, một chọn lựa không có chọn lựa khác. Nhưng một nhà chính trị chọn lựa tự tử phải chăng vì không còn chọn lựa nào khác? Nhà chính trị có thể tranh đấu bằng nhiều cách: bằng ngòi bút- bằng tham gia đảng phái- bằng mưu đồ tổ chức đảo chánh, lật đổ để chiếm chính quyền- hoặc ám sát thủ tiêu? Trong suốt 9 năm đệ nhất cộng hòa, dường như ông Nguyễn Tường Tam không sử dụng những phương tiện tranh đấu dân chủ như báo chí, dư luận, nghị trường hoặc dùng ngòi bút để tranh đấu? Cách sử dụng mà người ta được biết rõ là ông tham gia vào âm mưu lật đổ chính quyền. Khi thất bại thì dùng việc tự tử phải chăng là kế sách thích hợp cho một nhà tranh đấu, một lãnh tụ chính trị có bản lãnh? Hay nó chỉ thể hiện một sự tuyệt vọng đi vào bước đường cùng của một con người .. Đây là điều mà bác sĩ Phan Quang Đán khi ở trong tù, nghe tin cái chết của Nhất Linh đã đặt ra câu hỏi: Tại sao lại phải chết như- thế? Về mặt con người mà nói, nhất là đối với một số nhà văn, nghệ sĩ, việc tự tử không có chi là lạ và xảy ra khá nhiều. Ngay cả một lối sống bạt mạng, rượu chè, nghiện hút của một số nhà văn đã là hình thức gián tiếp tự tử dần một cách cố ý. ( Suicide instantanné et intentionnel) Còn về mặt chính trị thuần túy, nếu có dịp nhìn lại việc đảo chính năm 1960 và tiếp theo 1/11/1963 nay người ta được biết đầy đủ là đều do Mỹ giật dây và đạo diễn. Can thiệp ít và gián tiếp ở thời điểm 1960. (Dương Văn Đông đã tiết lộ trong bài viết: Binh biến 11/11/1960 rằng: Trước khi binh biến xảy ra, George Alexander Carver. Jr đã liên lạc với Hoàng Cơ Thụy và khuyến khích phe đối lập đứng lên chống đối chính quyền). Can thiệp nhiều và lộ liễu, trực tiếp vào nằm 1963 thì tất cả những ai tham gia vào quá trình các cuộc lật đổ ấy đều chỉ là những “con cờ”, những” tay sai bản xứ”!! Những hãnh diện vào tự hào cần hạn chế lắm nếu biết được những mưu đồ đằng sau các cuộc chính biến ấy. Nói huỵch toẹt như Nguyễn Ngọc Linh (cựu Tổng giám đốc Việt Tấn Xã) trong buổi Hội Nghị 35 năm sau nhìn lại, ngày 9/10/2010 tuyên bố: “Theo tôi thì cuộc đảo chính (1963) này đã đánh dấu cái chết của miền Nam Việt Nam trong cuộc chiến chống lại kẻ xâm lăng miền Bắc”. Cho nên tất cả những gì người ta gán cho cuộc đảo chánh ấy, tất cả những hành vi cá nhân hy sinh ngay cả mạng sống con người đều phải được đưa lên bàn cân để cân lại. Việc tự tử ấy nhân danh chính nghĩa tranh đấu cho quyền tự do con người, tự do tôn giáo còn sót lại được bao nhiêu phần trăm ý nghĩa cao cả của nó? Để dễ dàng cho việc tìm hiểu cuộc đời và con người NL, người ta có thể chia cuộc đời ấy ra làm hai lãnh vực: Cuộc đời làm báo, viết tiểu thuyết với tư cách là một nhà văn với bút hiệu Nhất Linh. Nửa phần kia là Nguyễn Tường Tam, con người hoạt động chính trị mà chủ yếu là hoạt động đảng phái và kết thúc bằng việc uống thuốc độc quyên sinh để phản đối chế độ Ngô Đình Diệm. Cuộc đời làm văn học và chính trị ấy cũng cần chia ra giai đoạn tiền chiến và hậu chiến. Giai đoạn làm báo thời ” tiền chiến” của TLVĐ và Nhất Linh Phần đông người ta cho rằng cuộc đời làm văn học với sự thành lập TLVĐ đầu năm 1933 là một thành công lớn của TLVĐ và của cá nhân người đứng đầu là Nhất Linh. Nó cắm mốc một giai đoạn văn học phủ nhận thời kỳ “văn học khệnh khạng” Phạm Quỳnh- Nguyễn Văn Vĩnh và mở ra một thời kỳ văn học với báo chí trào phúng và tiểu thuyết. Sự nhìn nhận ấy nói chung là chính xác và đúng vào thời kỳ đó. Trong một bài viết của người viết bài này nhan đề: Chỗ đứng của TLVĐ trong văn học Việt Nam, đăng trên báo Tân Văn số 9 tháng tư/2008. Người viết đã trích dẫn một bài báo của ông Nguyễn Vỹ nhắc lại kỷ niệm về tờ Phong Hóa, bộ mới số 11 như sau: “Trẻ con ôm báo Phong Hóa số 1 đi bán rong, rao inh ỏi khắp phố phường, thiên hạ tò mò mua xem, bán báo chạy như tôm tươi. Lý do: báo Phong Hóa đăng giầy những bức vẽ, những mục khôi hài, chế giễu tập tục” Phong Hóa An nam”. Công chúng bình dân từ cô sen, cậu bồi đến lớp các học sinh nam nữ đến công tư chức đều rũ ra cười khi đọc những mẩu chuyện hóm hỉnh và nhìn những bức hình vẽ rất tức cười, chế nhạo nào là ông Lý Đình Dù ở nhà quê ra tỉnh .. Ông giáo sư Lê Công Đắc bị chế diễu là con gà ba chân. Ông luật sư Lê Thăng là con đĩ đánh bồng, tiến sĩ khoa học Nguyễn Công Tiễu chữa bệnh toi gà, ông Nguyễn Văn Vĩnh bụng bự, ông Nguyễn Văn Tố gọi là ông búi tó, ông Nguyễn Tiến Lãng gọi là con ve sầu.. Nguyễn Tường Tam đã thành công với tiếng cười kích động.. Báo Phong Hóa vượt lên một số lượng phát hành vô địch . Và ông cũng nổi tiếng từ đó” .(2) (2) Trích báo Tân Văn, số 9/2008, Nguyễn Văn Lục. Đó là sự thành công của một nhóm nhà văn cùng chí hướng trong việc hạ bệ thế hệ Nam Phong- thế hệ đàn anh- được coi là biểu tượng của thủ cựu, nghiêm chỉnh khệnh khạng. Đả phá Nam Phong thủ cựu thì còn hiểu được. Nhưng người ta sẽ không lý giải được tại sao cần đả phá tất cả các nhà văn uy tín ngoài nhóm? Nhưng nhóm người ấy nếu tách riêng ra thì vị tất đã bằng ai, nhưng nếu cộng chung lại thì thật khó có nhóm văn học nào sánh bằng, cho dù sau 1954. Đó là thế mạnh nhất của nhóm TLVĐ. Tú Mỡ đứng một mình chỉ làm được thơ diễu. Thơ Thế Lữ không thể so sánh với Tản Đà. Văn tùy bút của Thạch Lam còn ảnh hưởng nặng nề văn học Pháp không qua mặt được Nguyễn Tuân. Những bài biện luận khô khan của Hoàng Đạo có thể không ai đọc. Trong khi đó, ngoài TLVĐ những nhà văn như Tô Hoài, Vũ Trọng Phụng, Trần Tiêu, Nam Cao, mỗi người một thế giới văn chương khó tìm thấy nơi TLVĐ. Nhưng nếu nó cộng chung tất cả những nhà văn ấy lại thì như một tổng hợp hóa chất, nó tạo ra một khối nhà văn tiêu biểu nhất của một thời kỳ văn học. Thời kỳ TLVĐ. Nào là những chuyện ngắn đầy tính nghệ thuật của Thạch Lam. Chính các nhà văn trong TLVĐ đều xếp “chú sáu” là một trong những nhà văn sáng giá nhất của nhóm. Tính cách lãng mạn, nhưng hiện thực xã hội như Thoát Ly, Thừa Tự của Khái Hưng được coi như cây bút hàng đầu của TLVĐ ngay từ cuốn truyện đầu tiên là cuốn Hồn Bướm mơ tiên. Tính cách lý tưởng và tranh đấu đầy hứng khởi trong Đoạn Tuyệt ..Tất cả làm nên một cái toàn thể ..TLVĐ. Và giá trị hay nhất về truyện ngắn phải kể đến truyện ngắn: Anh phải sống, viết chung giữa Nhất Linh và Khái Hưng. Và người ta phải nhìn nhận kể từ sau Nam Phong của Phạm Quỳnh, lần đầu tiên tiếng Việt mới thực sự trở thành thứ ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ của nghệ thuật. Nó đúng như sự nhận xét của Tú Mỡ: “Ôi, TLVĐ nay đã thuộc về dĩ vãng. Nhiều anh em đã đã là người thiên cổ, chỉ còn sót lại ba chúng tôi. Tú Mỡ, Thế Lữ và Xuân Diệu. Anh em đã có những đóng góp đáng kể vào văn học Việt Nam, tạo cho đoàn một tiếng tăm vang dội một thời, một thành tích mà các văn đoàn khác ra đời sau không đạt được, một chân giá trị riêng trong một giai đoạn nhất định mà giới văn học ngày nay và ngày mai phải công nhận”(3) (3) Trích Tú Mỡ bài: Trong bếp núc TLVĐ, trích lại trong Nhất Linh, nhiều tác giả, trang 109 Sự thành công ấy cũng được chính Nhất Linh nhìn nhận trong chúc thư văn học như sau:.. “Những lúc ngoảnh về quá khứ, kiểm điểm việc mình đã làm, tôi thấy rõ ràng công việc tốt đẹp lâu bền và có ích nhất của đời tôi là sự thành lập Tự Lực Văn Đoàn và công việc sáng tác”. Nhưng sự thành công ấy nay nhìn lại một phần do sự chế diễu, hạ bệ những nhà văn khác ngoài nhóm trên Phong Hóa và Ngày Nay. Báo bán chạy nhiều người đọc. Đồng ý. Nhưng về đường dài, sự thành công phải căn cứ trên những tác phẩm thì TLVĐ cũng chỉ đạt được một nửa như sẽ có nhận xét sau này trong bài viết của tôi. Phải chăng tiêu biểu hai câu thơ diễu sau đây trở thành hai câu vè tiêu biểu của người đường phố: Nước Nam có hai người tài Thứ nhứt sừ Ĩnh, thứ hai sừ Uỳnh. Sau này văn học sử cũng như chương trình việt văn tú tài 1 ở miền Nam sau 1954 chỉ nhắc tới Nhất Linh nhà văn với 20 tác phẩm mà điển hình là các tiểu thuyết Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng và Bướm Trắng vv.. mà quên còn một Nhất Linh làm báo. Bài viết này muốn bổ túc thêm cái mặt bị bỏ quên cũng có thể là một góc tối của TLVĐ. Trước TLVĐ, không khí làm báo là nghiêm chỉnh, là nghị luận, là phổ biến kiến thức phần lớn bằng dịch thuật. Đọc báo Nam Phong là một cách đi học “hàm thụ” để mở mang kiến thức chứ không phải để giải trí, để đùa. Sự nghiêm chỉnh ấy sau này bị chế diễu là khệnh khạng mà thực ra nó chỉ thể hiện tính hàn lâm của Nam Phong. Có thể nói Phạm Quỳnh làm báo chú trọng vào khai trí, mở mang kiến thức nên ông chú trong tới Dịch Thuật, Biên Khảo. TLVĐ chú trọng vào Sáng tác truyện ngắn, truyện dài. Ông Nhất Linh làm báo với Hoàng Đạo, Khái Hưng ngay cả Thạch Lam và nhất là Thế Lữ, bút hiệu khác là Lê Ta đã đồng loạt có chủ trương phải ” bề hội đồng” các nhà văn ngoài nhóm và báo chí ngoài nhóm bằng trào phúng. Có nhiều mức độ trào phúng. Có mực độ có thể chấp nhận được và có mức độ trào phúng không thể chấp nhận được. Một số lớn sự trào phúng của nhóm TLVĐ vượt ranh giới được phép và không được phép. Cái không được phép khi nó xúc phạm đến nhân cách nhà văn và với một chủ đích hiểm độc. Có nhiều mục như: “Từ cao đến thấp” nói về người. ” Từ nhỏ tới lớn” nói về việc . ” Bàn Ngang” nói ngược mà hiểu xuôi , Mục ” vui cười” , Mục “Những Hạt đậu dọn”, Mục các “Cuộc điểm báo” vv.. Nhiều nhà văn, nhà thơ ngoài nhóm TLVĐ như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu cho đến những tên tuổi cựu trào, lớn nhỏ như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Hy Tống, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Công Hoan, Tam Lang, Trương Tửu, Nguyễn văn Tố, Dương Bá Trạc, Lê Văn Phúc, Phan Trần Chúc, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc , Tchya Đái Đức Tuấn trở thành mục tiêu chế diễu nằm trong tầm bắn của TLVĐ.vv… Từ năm 1935-1945, theo Vũ Ngọc Phan có một nhóm đội lốt phê bình, điểm sách để bôi nhọ đời tư, cả đến vợ con người có sách với những nhan đề: ” Qua hàng sách” “Dạo qua hàng sách”, ” Đó đây”, ” Trước đèn” . Người ta thường đề cao một quyển sách hay dìm một quyển sách vì lợi ích riêng. Trong đó TLVĐ vừa là nạn nhân vừa là kẻ trong cuộc. Vũ Ngọc Phan kết luận: “Thời gian 1935-1945, có một nhóm đội lốt phê bình văn học ở nhà xuất bản Hàn Thuyên. Do cạnh tranh với nhà xuất bản Đời Nay. Họ đăng bài báo để dìm TLVĐ xuống đất đen..(..)Ngoài ra cũng phải kể đến một số bài điểm sách hết sức thiên vị và bè phái của Lê Ta và Thượng Sĩ đăng trên các báo Phong Hóa, Ngày Nay, Việt báo, Tiểu thuyết thứ năm, Hà nội báo”.(4) (4) Trích Những năm tháng ấy, Vũ Ngọc Phan, trang 233 Nhà văn Tchya đã bị nhóm TLVĐ chế diễu qua ngòi bút của Thế Lữ, tức Lê ta như sau: “Ông Tchya- cái tên khó đọc ghê- Ông Tchya có lúc chẳng cười cợt tý nào cả. Ông ta có lúc tự nhận : “Tôi một tiểu thuyết gia tầm thường”. Câu này thì ông ấy không nói đùa. Ông ấy chỉ nói khoác”. (4) (4) Trích 13 năm tranh luận văn học tập 3, Thanh Lãng, trang 299 Vậy mà sau 1954 vào miền Nam, ông Tchya là một trong những cây bút viết phiếm rất đạt với bút hiệu Mai Nguyệt cùng với những cây bút tên tuổi khác quy tụ chung quanh tờ báo Tự Do của Phạm Việt Tuyền như Hà Thượng Nhân, Tam Lang, Hiếu Chân, Vũ Bình, Như Phong và Bùi Xuân Uyên. Và hầu như TLVĐ khai chiến với hầu hết các tờ báo bằng tiếng Việt và tiếng Pháp lúc bấy giờ. Hoàng Đạo trong một bài viết nhan đề: Ngày nay khai chiến với hết thảy các báo ở Đông Pháp. Tôi đếm cả thảy có 67 tờ báo bị hài tên ra. Có những tờ báo chuyên biệt như Y Khoa tạp chí, Nông Công Thương Việt Báo, Thương mại, Tiến hành công giáo, Khoa học phổ thông, Đuốc Tuệ, Khoa Học vv. không hiểu vì lý do gì cũng nằm trong danh sách bị lên giàn phóng của tờ Ngày Nay. Thanh Lãng trong 13 năm tranh luận Văn học, tập III đã dành cả chương Năm, từ trang 263 đến trang 623 ghi lại những bài tranh luận mà một số lớn bài chỉ là những bài báo “chửi bới” nặng nhẹ tùy trường hợp. Tôi ” đếm dối” cũng có đến 41 bài TLVĐ đả kích các báo khác. Chẳng hạn một bài viết được coi là đả kích nặng nhất, tiêu biểu nhất là bài: Báo Tân Việt Nam và thái độ hèn nhát của Phan Trần Chúc, Nguyễn Tường Lân. (5) (5) Bài viết của Nguyễn Tường Lân đăng trong Ngày Nay, số 212, ngày 15-61940, tr 6. trích lại trong 13 năm tranh luận văn Học, tập III, Thanh Lãng, trang 472 Trong bấy nhiêu nhà văn, có một vài người may mắn lắm thoát hiểm vì được nhà văn Thạch Lam khen ngợi. Đó là trường hợp nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả Vang Bóng Một Thời. Và người thứ hai là Tản Đà tương đối được TLVĐ đối xử nhẹ tay. Sau này giáo sư Nguyễn Duy Duy Diễn đã nhận xét về TLVĐ trong cuốn : Tự Lực Văn Đoàn của ông như sau: “Điều mà ai cũng phải công nhận trong khi đọc báo “Phong Hóa” và “Ngày Nay” là nhóm ” Tự Lực Văn Đoàn ” có một tinh thần “bè cánh” rất hẹp hòi. Rất ít khi TLVĐ khen những tác phẩm của các nhà văn ngoài nhóm mình (trừ trường hợp cuốn Vang Bóng Một Thời của Nguyễn Tuân thì không kể) Những bài phê bình của TLVĐ đối vớinhững sách báo bên ngoài nhóm mình, vì vậy thường chỉ là những bài bông đùa tàn ác có tính cách dìm người. “(6) (6) Trích Chân dung Nhất Linh, Nhật Thịnh, trang 132-133 Nhận xét của giáo sư Nguyễn Duy Diễn được coi là phản ánh trung thực cung cách làm báo của nhóm TLVĐ: Chủ trương bán báo chạy và dìm người. Và nạn nhân tiêu biểu nhất là nhà văn Vũ Trọng Phụng. Người trực tiếp “đánh” Vũ Trọng Phụng không ai khác là Nhất Linh với bút hiệu Nhất Chi Mai. Có thể cay đắng nói rằng VTP lận đận với giấy bút lầm than. Lúc sống bị đánh tơi bời hoa lá. Bệnh tật không có thuốc. Đói không có cái ăn. Lúc chết nghèo kiết xác không đủ ván chôn. Còn cánh TLVĐ thì giấy bút làm nên ông nên bà. Bao nhiêu tiếng thơm lẫn tiền bạc, danh giá lãnh đủ. Trong Nam, sau 1955, hầu như không có bài phê bình chính thức nào “bênh” VTP . Tiếng nói của TLVĐ qua NL mặc dù sau này không đả động gì đến VTP vẫn có tính cách “ông Trùm” trong giới làm văn học. Tính cách bất công ấy vẫn kéo dài trong nhiều năm sau này. Giới học sinh trong chương trình học Việt văn chỉ biết đến Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thế Lữ . Một lẽ dễ hiểu, VTP đã chết sớm ở tuổi đời 27. Kẻ không có mặt phải chăng là kẻ thua cuộc? Với chỉ 6 năm trời vỏn vẹn, một nhà văn cho ra đời 17 tác phẩm sáng giá. Mấy ai làm hơn ông được? Vậy mà cuộc đời bị đầy đọa bất công như thế !! Ai trong số nhà văn tiền chiến đưa ông ra nghĩa địa? Sau này, trong tinh thần đòi lại công đạo cho những nhà văn như Vũ Trọng Phụng được coi là bị thiệt thòi nhiều nhất, ông Phạm Lễ đã viết một cuốn sách với nhan đề: Trả lại chỗ đứng cho Vũ Trọng Phụng, trong nền văn học Việt Nam thời tiền chiến. Peter Zinoman- lại phải nhờ đến người ngoài- một chuyên viên nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng, giảng viên đại học Berkeley đã sưu tập được khoảng hai chục tài liệu quý giá của VTP tại thư viện Quốc Gia Paris trước 1945 và nay được in thành một tuyển tập có nhan đề:”Vẽ nhọ bôi hề” trong đó có một số bài đả kích TLVĐ. Peter Zinoman cũng đã không ngần ngại gọi VTP là Balzac của Việt Nam. Vấn đề là người VN gọi ông là gì? Truyện Số Đỏ là một bản cáo trạng phê phán gián tiếp TLVĐ mà những nhân vật như Týp-phơ-nơ là phiên bản của họa sĩ Cát Tường, ông Văn Minh đóng vai nhà cải cách là ám chỉ Nhất Linh? Và đi xa hơn nữa dưới mắt VTP thì những chủ trương đổi mới của Phong Hóa chỉ nhằm mục đích thương mại? Nói chung ái gì TLVĐ làm thì gián tiếp VTP dùng tiểu thuyết để trả đũa lại. VTP còn “đáp lễ” báo Ngày Nay bằng một bài bút chiến: “Dâm hay không dâm”!! Phần các nhân vật của VTP đã bước ra khỏi sách và người ta thấy nhan nhản họ đi ngoài đời..Đó là cái thành công củaVTP. Có ai đẵ bắt gặp Loan-Dũng ngồi ở Givral chưa? Hay gặp cô Mùi đang lúi húi trong một bụi cây hay vườn Bách Thảo ở Sài Gòn chưa? Ngoài Bắc sau 1954, khá hơ, đã dành một chỗ ngồi xứng đáng cho VTP, vì trên tờ Nhân Văn số 3 có bài viết: Thờ ơ với Vũ Trọng Phụng là một khuyến điểm lớn. Nói chung tinh thần của TLVĐ thì cùng nhóm thì được khen, khác nhóm thì bị chửi và bôi đen. Tôi có ý tưởng ngộ nghĩnh là so sánh những cây viết sau 1955 như Thương Sinh, Kha Trấn Ác, Chu Tử, Hiếu Chân, Hà Thượng Nhân, Vip KK, ký giả Lô Răng, Sức Mấy, Kiều Phong, Dê Húc Càn, Hư Trúc Nguyên Sa xem ra họ còn thua TLVĐ một bậc. Thua có nghĩa là họ hơn nhóm TLVĐ ở mức độ Nhân Bản, còn có cái tình con người, tình nhà văn với nhau. Ở đâu trong xã hội cũng cần có luật chơi, một thứ “luật giang hồ” ngay cả thành phần du đãng. Phải chăng giữa nhà văn với nhau cũng cần có một thứ đức lý của nhà văn? Hòn đất ném đi thì hòn chì ném lại. Những nhà văn đáp trả TLVĐ có Nguyễn Công Hoan, Lê Tràng Kiều, Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Vũ Trọng Phụng, Ích Hữu, Hải Triều, Hồ Xanh, Bùi Công Trừng. Lời chế diễu, đả kích ném đi có thể còn nhẹ nhàng. Nhưng hòn chì ném lại thì nặng nề và đôi khi hằn học hơn nhiều. Nhưng phải chăng đấy chính là cái “thành công” của TLVĐ? Có những bài báo với nhan đề: Giọng hèn nhát của báo Phong Hóa, Cái tranh ấy cũng buồn cười thật, nhưng hơi “mất dạy” một chút .. Nhưng nói cho cùng những nhà văn bị nhóm TLVĐ đả kích thì không phảI vì thế mà họ “nhỏ đi”, chẳng những thế họ càng được “lớn lên” về tầm vóc văn học như Nam Cao, như Vũ Trong Phụng và cũng một lẽ ngược lại không phải vì thế mà TLVĐ được nhìn nhận ” lớn hơn”. TLVĐ đã chẳng làm được điều mà họ muốn làm là hạ người khác xuống để nâng họ lên và cũng chẳng vì thế mà họ được chấp nhận như ta thấy sau này. Lớn hay nhỏ, được chấp nhận hay không được chấp nhận tùy vào người đọc và chính tác phẩm được in ra. Đây là điều rất quan trọng đối với văn học. Tác phẩm lớn thì nhà văn lớn. Không ai dìm, kiểm duyệt, “bỏ tù” một tác phẩm bắt nó nhỏ được. Những xa xôi như Nguyễn Du- Dù cụ Nghè Ngô Đức Kế có lên án là dâm thư- nó vẫn lớn. Những Trần Dần, mặc dù cả đời bị đọa đầy. Và chỉ cần một bài thơ Nhất định Thắng là đủ. Trong bài thơ ấy lại chỉ cần 5,6 câu. Trong một cuốn sách mới nhất của Thụy Khuê, cuốn Nhân Văn Giai Phẩm, bà tiết lộ cho biết : Sau 40 năm, tác phẩm của Trần Dần 2/3 bị tiêu tán mục nát, 1/3 còn lại bị kết án chung thân trong trạng thái nằm …(..) Tác phẩm chịu chung số phận với người: gần 30 tập thơ, 3 cuốn tiểu thuyết, và không biết bao nhiêu bản thảo đã bị mối mọt|”.(7) (7) Trích Thụy Khuê, Nhân Văn Giai Phẩm, trang 238 Sự trùy dập đến thế là cùng kéo dài trong nhiều năm, nhưng cái lớn của Trần Dần vẫn không ai làm nó bé đi được. Trong một tranh vẽ khôi hài đăng trên Nhân Văn, số 2, ký tên SN như sau. Vẽ Hoài Thanh đeo kính, tay phải túm áo ngực Trần Dần, tay trái cầm cuốn sách đề tên Hồ Phong(8) giấu sau lưng. Trần Dần tay cầm cuốn: Người người, lớp lớp. (8) ghi chú của NVL . Hồ Phong từng phê bình đảng cộng sản Trung Quốc mà Trần Dần trong thời gian ở TQ bị coi là ảnh hưởng tư tưởng của Hồ Phong. - Hoài Thanh: Làng nước ơi, đích thị Hồ Phong đây rồi. - Trần Dần thưa: Thưa đồng chí vụ trưởng, quả thực tên tôi là Trần Dần, nếu không tin xem lại giấy khai sinh”.. Có phải vì sự trù dập của Hoài Thanh mà Trần Dần nhỏ đi đâu? Thế cho nên lịch sử đôi khi cũng thật là công bằng đôi khi có thể sửa đổi những sai lầm lầm của quá khứ !! Những Trần Đức Thảo phải “ngọng miệng” gọi Thằng Bờm là ” Cậu Bờm” nếu còn sống trên xứ người thì chỗ ngồi của ông sẽ ở bên cạnh những nhà Hiện tượng học như Husserl, như Merleau Ponty. Và nếu ông chọn vào miền Nam thay vì miền Bắc thì ông sẽ là ngôi sao Bắc đẩu trên nền trời triết học. Nhưng có phải vì thế mà ông nhỏ đâu. Ngay cả Khái Hưng và Nhất Linh dưới cái nhìn của tôi thì truyện ngắn Anh phải sống là đắt gíá nhất mặc dầu ít ai để ý tới. Thế cho nên cuộc tranh chấp giữa TLVĐ và các nhà văn ngoài nhóm cuối cùng rất là tầm thường. Nó chẳng khác gì cảnh “kẹt xe”. Cái Pleiade TLVĐ (Họ tự cho mình giống như nhóm văn chương Pleiade ở bên Tây, tự nhận là những ngôi sao bắc đẩu trong văn học). Nhìn lại thì TLVĐ giống như cảnh những xe tải đứng chật đường không cho các xe nhỏ tiến lên được. Sự hiện diện của các nhà văn trong chiếu văn học đã bị TLVĐ biến thành cảnh “dành chỗ”. Sự tranh dành chỗ ấy sau này chính TLVĐ bị trả giá khi nhóm Sáng Tạo ra đời năm 1956 “phủ nhận” Tiền chiến mà chủ đích nhắm vào TLVĐ .. Chắc là còn nhiều việc phải làm, để khôi phục lại một giai đoạn văn học mà một số nhà văn bị đánh giá thấp, bị trù dập một cách oan uổng. Sau này, Hà Nội đã bắt đầu “rộng lượng” cho in lại cuốn truyện đầu tay Gió Đầu Mùa của Thạch Lam, nxb Văn Học, 1982. Và nay hẳn nhiều cuốn truyện khác của TLVĐ đã có mặt. Cũng một cách thức như thế, cần nhiều nỗ lực để phục hoạt cho các nhà văn trong nhóm TLVĐ và tất cả các nhà văn, nhà thơ của miền Nam trên dưới 200 người sau 1975 đã bị chính quyền cộng sản “Xóa sổ”. Cùng lắm TLVĐ chỉ muốn dành chỗ của các nhà văn khác, còn cộng sản thì muốn các nhà văn miền Nam sau 1975 phải biến mất. Hiện nay, chuyện của VTP được chuyển dịch sang tiếng Mỹ và được đánh giá cao trên văn đàn thế giới. (Còn nữa) Nguyễn Văn Lục
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 7:39:54 GMT 9
Nhất Linh nhà văn và Nguyễn Tường Tam nhà chính trị [kết] Tiếp thep phần I Tranh Nhất Linh Nhất Linh làm báo VHNN tại miền Nam. Tháng 10/1956, tạp chí Sáng Tạo ra đời như một luồng gió mới thổi vào văn học miền Nam. Cái luồng gió ấy trước hết là vì nó mới, vì nó đúng lúc bằng một thứ ngôn ngữ cao kỳ, hoa hòe hoa sói và một cách gián tiếp nó ” khai tử” nền văn nghệ tiền chiến. Nó chiếm lĩnh thị trường người đọc, nhất là giới trẻ có học và đẩy lui một cách gián tiếp một số tờ báo cũng như một số tác giả vào hậu trường như Thiên Giang, Thẩm Thệ Hà, Tam Lang, Vi Huyền Đắc, Quách Tấn .. Đó là cái văn nghệ hôm nay mặc dầu cũng chẳng mấy ai nhận diện ra cái văn nghệ hôm nay hình thù nó như thế nào. Chỉ biết như lời tuyên bố của Mai Thảo “đem ngọn lửa văn hóa vượt vĩ tuyến sáng lên ở đây hôm nay”. Hôm nay chỉ muốn khẳng định nó không phải là hôm qua, không phải tiền chiến, không phải TLVĐ. Riêng nhà thơ tự do Thanh Tâm Tuyền không ngần ngại nêu cao khẩu hiệu đậm nét chính trị hơn là Văn Học: Sài Gòn thay thế cho Hà Nội, từ một đô thị miền Nam trở thành thủ đô tinh thần của toàn thể đất nước. Sài Gòn Sáng Tạo và Suy Tưởng. Văn học đã đổi mầu, đổi sắc diện. Nó không còn là thứ văn chương lãng mạn, khóc sướt mướt mữa. Văn học trở thành thứ bi kịch có suy nghĩ, có băn khoăn, có đặt vấn đề, có dấn thân, có nhập cuộc. Có ý thức phản kháng và ý thức nổi loạn. Đó là thứ văn học mà những năm sau này hằng đêm phải nghe tiếng đại bác mất ngủ vọng về thành phố để đến một thời điểm căng thẳng nhất: Nó trở thành thứ văn nghệ đen, văn nghệ truyền tay nhau, văn nghệ chui và phản chiến. Nhưng ban đầu phải nhin nhận nó sáng thật. Không khí văn nghệ như hội Hoa Đăng, tưng bừng, phấn khởi và tin tưởng trong mọi lãnh vực. Báo chí thì như “được mùa” với nhiều báo ra đời sau này như Văn Hóa Ngày Nay, Báck Khoa, Tân Phong, Văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Thời Nay, Hiện Đại, Thế kỷ 20, Văn Nghệ, Nhân Loại. Trong cái không khí tưng bừng như thế dĩ nhiên có nhiều tờ báo bị loại trừ ra khỏi sân chơi. Trong đó có tờ Phổ Thông của Nguyễn Vỹ. Theo Trần Tuấn Kiệt, một nhà thơ từng cộng tác lúc đầu với Phổ Thông cho hay có lúc Phổ Thông phát hành đến 25000 số, sau cứ teo dần chỉ còn 1000 số rồi chết yểu. Sự thành công của Sáng Tạo mặc dù chỉ kéo dài có 31 tháng chắc hẳn ảnh hưởng tới uy tín dĩ vãng văn học của Nhất Linh. Ông quyết định “hạ sơn”. Theo Thế Uyên thì chính anh được trao gửi sứ mệnh lên Đà lạt để mời NL về Sài Gòn và nhờ đó để kéo dài vận mệnh văn học của TLVĐ. Nhưng thật ra giữa văn nghệ mới và cũ, giữa tiền chiến và hôm nay, TLVĐ đã thuộc về dĩ vãng, thuộc một dòng văn học đã cạn dòng. Cái hay cái dở của nó là đã đánh dấu một thời không kém huy hoàng trong một hoàn cảnh xã hội chính trị nhất định trước 1954. Nhưng có thể NL đã không nhìn nhận quy luật thời gian như thế nên ông quyết định “xuống núi” và lên đường một lần nữa. Vì thế trong lời mở đầu phi lộ của tờ Văn Hóa Ngày Nay ra ngày 17-6-1958, NL viết: “Văn Nghệ Việt Nam hơn 10 năm nay vẫn ở trong một tình trạng ngưng đọng, chưa tìm được lối đi.” Có nghĩa là trước đây, NL đã nói không với với Nam Phong- Phạm Quỳnh và cả các nhà văn tiền chiến. Ngày hôm nay, một lần nữa, ông lên tiếng phủ nhận cái văn nghệ hôm nay. Nói không với Mai Thảo, với nhóm Sáng Tạo. Tuyên bố như thế, NL một cách nào đó phủ nhân sự có mặt của Sáng tạo từ 1956 đến giờ. Phủ nhận Bách Khoa vào năm 1957-BK chỉ ngưng hoạt động vào năm 1975-. Nói rõ hơn, ông chỉ nhằm vào Sáng Tạo và cho rằng những cái gọi là mới của sáng Tạo chỉ là sự “lập dị” chỉ là hình thức bên ngoài không phải nghệ thuật. Trong một cuộc leo núi thì phải vất vả lắm mới leo lên được. NL đã thực sự leo được lên đỉnh núi. Nhưng xem ra lúc “hạ sơn” còn khó hơn một bậc, ông đã không lượng được sức mình, đã tượt dốc, đã nếm mùi thất bại. NL cũng có cái lý chủ quan của ông, vì VHNN lúc ban đầu được độc giả đón tiếp nồng hậu vượt quá ngay cả sự mong đợi của nhà văn Nhất Linh. Nhưng Nhất Linh tiền chiến là một đội ngũ nhà văn với khí thế đang lên. Ngoài những tên tuổi như Nhất Linh, Khái Hưng, trường hợp Thạch Lam trẻ nhất trong đám thì ngay truyện đầu tay của ông Gió Đầu Mùa, 1937 đã được độc giả đón nhận một cách nồng nhiệt. Thạch Lam ngoài cái tài không thể phủ nhận trong những truyện ngắn của ông, đã hẳn ông thừa hưởng cái ưu thế thuận lợi của văn đoàn của mình. Nhất Linh 10 năm sau chỉ còn lại một mình cộng thêm một số nhà văn mà tên tuổi chưa được xác định. Linh Bảo, Nguyễn Thị Vinh cộng lại làm sao thay thế được một Khái Hưng. Thế Uyên viết trong Chân dung Nhất Linh- Người Bác, của anh nhận xét về Nhất Linh như sau: “Tuy phục, nhưng chính trong thời kỳ này, hai đứa (chỉ Duy Lam và Thế Uyên), về phương diện bài vở, lại chê trách người bác hơn cả. Cả hai đứa đều không chịu nổi những bài khảo luận linh tinh, những bức thư Nhất Linh viết trả lời độc giả. Đọc loạt bài này đôi khi thấy cũ kỹ và lẩm cẩm. Về văn, tuy vẫn phục nghệ thuật phân tích tâm lý, nghệ thuật trình bày nhân vật, nhưng tôi đã cảm thấy Nhất Linh không còn là nhà văn của thế hệ trẻ”. Yếu tố chính về sự thất bại của VHNN là tính cách vẫn thế “lỗi thời” của một dòng văn học đã cạn nguồn. Khi nhận xét như thế này thì nhận xét ấy nên trả về cho chính NL thì đúng hơn: “Văn Nghệ Việt Nam hơn 10 năm nay vẫn ở trong một tình trạng ngưng đọng, chưa tìm được lối đi.” Thêm vào đó muốn hiểu rõ nguyên do thất bại này thì phải kể đến các yếu tố con người, yếu tố địa phương, yếu tố thời tính, yếu tố phái tính vv Con người miền Nam đã hẳn khác miền Bắc, Hà Nội thì không phải Sài Gòn, nhất là thời điểm tiền chiến thì không phải là thời điểm sau 1954. Phải nhìn nhận số đông độc giả người miền Nam có “khẩu vị văn chương” mà các nhà văn miền Bắc không cung ứng được. Sau này họ có những tác giả như Ngọc Sơn rồi những Sơn Nam, nhất là Lê Xuyên với Chú Tư Cầu, Vợ Thầy Hương hấp dẫn hơn nhiều lần. Miền “Lục châu học” đã sản sinh ra được thứ văn chương của riêng nó- một thứ đặc sản mà ta dám gọi là thứ văn chương miệt vườn- Nó hay không thể chê được. Nó không cho phép bất cứ cái gì thay thế nó. Nó cũng không giống bất cứ cái gì nhập cảng có nhãn hiệu từ miền Bắc vào. Nếu hiểu được tính địa phương, tính người thì cái tự hào đỉnh cao văn học của TLVĐ “sẽ xẹp như quả bong bóng”. Những Dũng, cô Loan, cô Mùi, ông Lý Toét, ông Xã Xệ nghe xa lạ và thế nào ấy, đi chơi chỗ khác. Đó chỉ là thứ “rau muống” không phải rau diếp cá miền Nam. Những anh chị trên so với anh Tám Xác Ne thì xa lạ và chả có nghĩa lý gì cả!! Ấy là tôi không muốn đi xa nói dông dài về tinh đa dạng, tính phong phú của Văn Học Miền Nam với những trào lưu tư tưởng triết học được giới trẻ say mê thích thú và mảng văn học dịch như Võ Phiến đã nhận xét: “Thanh niên, sinh viên đọc Nguyễn Văn Trung và Nguyễn Nam Châu nhiều đến nỗi những danh từ như sứ mệnh, thân phận con người, tha hóa, ngụy tín v.v.. lan tràn khắp nơi.(..) Quả là cái ” khối” Nguyễn Văn Trung có một tầm ảnh hưởng lớn. Cái ảnh hưởng ấy bắt đầu từ tờ Đất nước.. ngay từ tờ Đại Học, mặc dù Nguyễn Văn Trung không phải là chủ nhiệm tờ báo này( chủ nhiệm là Cao văn Luận). Tờ Đại Học tiếp tục xuất bản cho tới năm 1964, nhưng nó đã mất sức thu hút từ khi Nguyễn Văn Trung rời Huế vào Sài Gòn nhiều năm trước “(7). (7)Võ Phiến, Văn Học miền Nam. Tổng quan, trang 243 Điều quan trọng nhất là tính cách đa dạng của báo chí miền Nam phục vụ người đọc. Nó phục vụ nhu cầu từng giới người đọc, cao có, thấp có, giải trí có nghiên cứu có, tìm cái mới, cái lạ trong các sách dịch cũng như tính cách “Hàn lâm và văn học” trong các tạp chí Đại Học, Bách Khoa, Sáng Tạo, Quê Hương và Tập san Sử Địa. Bấy nhiêu yếu tố vừa kể trên, VHNN đã không thể lọt vào hay không đáp đứng được nhu cầu người đọc .. Sự đào thải là tự nhiên dù đó là điều đáng buồn mà không ai mong muốn như vậy. Mặc dù sự kính trọng Nhất Linh nơi số đông người đọc vẫn có, vẫn còn đấy. Như nhận xét không sai của nhà văn Võ Phiến cho rằng: “Nhưng dần dần rồi độc giả thưa dần. Và Văn Hóa Ngay nay cũng không sống lâu hơn hôm nay. (…). Ra Văn Hóa Ngày Nay, ông liền dành một chỗ cho những tài năng mới. Trong tuổi già, ông viết chúc thư văn hóa đề cử những người trẻ vào TLVĐ. Ấy vậy mà giữa ông với giới cầm bút sau 1954 cứ xa nhau dần. Báo ông, sách ông xuất bản, người ta mua đọc, nhưng đọc lặng lẽ. Trong quần chúng, không nghe có dư luận, trên văn đàn không thấy có phê bình“.(8) (8) Trích Văn Học miền Nam. Tổng quan, Võ Phiến, trang 234-236 Về việc đình bản tờ VHNN Tôi cũng đã giải thích rõ về việc đình bản của tờ VHNN này trong số Tân Văn, số 7, tháng 2/2008, ở trang 16. Tôi cũng đã hỏi nhà văn Duy Lam và viết lại từng câu từng chữ của Duy Lam, đã trưng dẫn lời Cáo lỗi độc giả của chính Nhất Linh, nhưng xem ra có người vẫn cố chấp bênh vục NL bất kể lẽ phải. Trước hết, xin ghi lại câu trả lời của Duy Lam- người đã cùng với Tường Hùng thay thế nhà văn NL ở vài số chót là: Ông Nhất Linh có tâm sự và cho biết là do những khó khăn về tài chánh nên phải đình bản tờ báo. Duy Lam còn đó, tại sao người ta không không hỏi thẳng ông một lần nữa cho rõ trắng đen. Phải chăng người ta sợ thói quen nói thẳng của Duy Lam? Điều quan trọng hơn nữa là có một độc giả thân hữu, anh Nguyễn Thế Toàn ở Hoa Thịnh Đốn còn giữ được tờ Văn Hóa Ngày Nay, số 9, anh đã gửi cho tôi, trong đó, có kèm theo một lời Cáo Lỗi Độc Giả của Nhất Linh có nội dung như sau: Cáo Lỗi Độc giả Những ngày gần đây, tôi bị đau phải đi nằm dưỡng sức ở một nơi xa và bỏ dở nửa chừng công việc, đến khi bình phục trở về thì nhận thấy việc trình bày ấn loát cuốn V.H.N.N số Xuân và cả số Xuân-Lan này có nhiều sự sơ xuất đáng trách như đăng hai bài Lan Hàm Tiếu, ” Xóm cũ”, ” Khó chịu” của Tường Cường mà tôi đã loại bỏ đi rồi, in lầm tên tác giả Ái Trinh với Tôn nữ Huyền-Trinh, bỏ sót giai thoại về bài thơ Mừng Thọ cụ Nguyễn Hải Thần và những lầm lỗi khác. Tôi xin thành thực cáo lỗi cùng độc giả thân mến và sẽ đăng bài đính chính trong tập V.H.N.N. kỳ tới Nhất Linh Lời xin lỗi của nhà văn Nhất Linh cho thấy có lẽ ông hiểu tình hình sinh hoạt báo chí miền Nam đã có những chuyển biến khác .. Và cũng vì thế trong những lần tâm sự với ông Nguyễn Vỹ- một thi sĩ mà khi ở miền Bắc được nhóm TLVĐ chiếu cố, giễu cợt không ít -Nguyễn Vỹ kể lại là: “Nguyễn Tường Tam là nhà văn mà tôi ít quen biết nhất ở Hà Nội, lại là người mà tôi gặp nhiều nhất ở Sài Gòn Ông Nguyễn Tường Tam than với Nguyễn Vỹ là ” Bọn nhà văn tiền chiến tụi mình ..”Thế hệ trẻ ngày nay, họ không hiểu được tụi mình..”(9) (9) Trích Nguyễn Vỹ, Văn thi sĩ tiền chiến, trang 162 Và quan trọng hơn cả sau đây là ý kiến của Thế Uyên giải thích lý do đình bản của VHNN như sau: “Sau khi Văn hoá ngày nay số 8 phát hành, Nhất Linh tuyên bố với người thân: “Thôi, không làm nữa!”. Quyết định này đột ngột, y như trước đó mấy tháng, ông bỏ lan, bỏ Đà Lạt xuống Sài Gòn làm báo. Bạn bè xúm lại can. Nể người thân, ông chịu để Tường Hùng và Lam tiếp tục. Ra tiếp hai số, ông cương quyết kết liễu Văn hoá ngày nay. “Nó đã làm xong nhiệm vụ!”, ông giải thích vậy. Đình chỉ hoạt động văn nghệ, ông vẫn tiếp tục ở Sài Gòn, không lên Đà Lạt “tu tiên” như lũ cháu tưởng, và ông bắt đầu vào một thời kỳ đau ốm (đau dạ dày) và suy nhược thần kinh (10) Trích Chân dung Nhất Linh- Người Bác, IBID (10) Qua những ý kiến trên của Thế Uyên cho thấy, ông đã để mặc cho Tường Hùng và Duy Lam tiếp tục tờ báo. Nhưng sau đó, ông thấy tờ báo có những bài vở không đúng với ý của ông nên có thư xin lỗi độc giả ở số 9 như trình bày ở trên. Và cuối cùng tự ý quyết định đình bản vào số 11. Mặc dù không trưng ra được bằng cớ, ông Trương Bảo Sơn đã trút cả cái trách nhiệm việc đình bản đó lên đầu chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa. Trong cuốn sách “Nhất Linh, Người Nghệ Sĩ-Người Chiến Sĩ” do Thế Kỷ 21 xuất bản năm 2004, trang 78, ông Trương Bảo Sơn viết: “Tờ Văn Hóa Ngày Nay ra được 11 số thì đình bản, mặc dù được độc giả khắp nơi hoan nghênh., chỉ vì nó được hoan nghênh quá xá mà chết non. Nguyên nhân thế này: “Trước hết tập Văn Hóa Ngày Nay không được chế độ Ngô Ðình Diệm cho phép xuất bản như một tạp chí mà chỉ là một giai phẩm phát hành không có định kỳ. Vì không có định kỳ nên Bộ Thông Tin kiểm duyệt cố tình để lâu mới trả lại bản thảo để in. Ông Hoàng Nguyên, chủ sự phòng kiểm duyệt đã nói với tôi rằng tuy có nhiều cảm tình với chúng tôi, nhưng không thể làm trái lệnh cấp trên là cản trở tờ Văn Hóa Ngày Nay ra đúng kỳ hạn (tỷ dụ như đúng ngày mồng 1 mỗi tháng) để đọc giả nhớ ngày mua báo. Hơn nữa bài vở phải kiểm duyệt kỹ, nhất là bài của Nhất Linh và Bảo Sơn.” “Sau nữa, ngoài chế độ kiểm duyệt, phản quyền tự do ngôn luận này ra, chế độ Ngô Ðình Diệm còn có một thủ đoạn hiểm độc nữa là nhà nước giữ độc quyền phát hành báo chí, kể cả giai phẩm. Ngô Ðình Diệm đã có sáng kiến đặt ra Nhà Phát Hành Thống Nhất, bắt tất cả các báo chí phải đưa cho công ty này phân phối. Tập Văn Hóa Ngày Nay bán chạy như tôm tươi mấy số đầu, đã bị ế đi. Nhà phát hành độc quyền của chính phủ đã thi hành độc kế không gửi đủ số báo cho các tiệm sách đã đặt mua. Chúng tôi khi buộc báo thành từng bó đã cố ý đánh dấu riêng, khi nhận báo từ nhà phát hành trả về, thấy những dấu ấy vẫn còn y nguyên, tức là nhà phát hành đã không làm đúng nhiệm vụ, đã giữ báo của chúng tôi trong kho, không phân phối đi. Có những tiệm sách đến điều đình mua thẳng báo với chúng tôi để có đủ báo bán, nhưng chúng tôi phải từ chối vì sợ chính quyền gài bẫy. Ðã nghèo lại bị thua lỗ, chúng tôi đành đình bản tờ Văn Hóa Ngày Nay.”(12) (12) Trích lại một lần nữa bài viết viết của Nguyễn Tường Thiết đăng trên Người Việt Ông Trương Bảo Sơn viết như thế chỉ quên một điều là chính bà Nguyễn Thị Vinh có ra hai tờ báo, nhưng đều chết yểu. Phải chăng cũng là do kiểm duyệt, cũng do Nhà phát hành Thống Nhất trù yểm? Rồi những Sáng Tạo danh tiếng một thời, Hiện Đại, Thế Kỷ 20 đều bị xử trảm dưới lưỡi kéo của bà kiểm Duyệt và chết yểu chăng? Không thấy những tập san vừa kể trên kêu ca gì cả và lẳng lặng ra đi. Để minh chứng thêm một lần nữa, xin mời đọc một đoạn trích dẫn của nhà văn Võ Phiến như sau: “Như thể sau đó là một thời tàn dư, không mấy quan trọng. Sách của nhất Linh sau 1954 xuất bản không có người phê bình, báo của Nhất Linh sau 1954 nhiều người đọc, nhưng ít có tiếng vang trong văn giới. Ông nói gì , viết gì, ít người nhắc nhở. Người ta kính cẩn, nhưng không chú ý mấy”. (13) (13)Văn Học miền Nam, truyện 2, Võ Phiến, trang 125-1226. VHNN sau đó đình bản sau số 11 chấm dứt vĩnh viễn sự nghiệp làm báo của Nhất Linh ở miền Nam. Nhất Linh nhà văn thời tiền chiến Giai đoạn tiền chiến đã đưa TLVĐ và Nhất Linh lên tuyệt đỉnh danh vọng như một lời tuyên dương của linh mục Thanh Lãng đọc trong đám tang Nhất Linh như sau: “Tôi nhớ năm 1932 khi Phạm Quỳnh bỏ ” Nam Phong” đi làm quan cho người ta thương tiếc, tưởng như nền văn học Việt Nam sẽ suy sụp, thì ngược lại chính lúc ấy anh xuất hiện với báo” Phong Hóa” rồi ” Ngày Nay”, anh và các bạn anh đã khai sinh ra hẳn một thế hệ văn học mà anh là thủ lãnh, là Tổng thống trong cái nước cộng hòa văn học từ 1932-1945. Anh đã đem lại cho cho thanh thiếu nữ cả một đường hướng suy nghĩ cảm xúc và viết văn mới (… ) Tôi và anh em trong Trung Tâm Văn bút Việt Nam đem anh đến đây để đặt anh vào ngai vàng đó“(14) (14) Trích Chân dung Nhất Linh, Nhật Thịnh, trang 218 Nhà văn Thế Uyên, cháu của Nhất Linh viết: Riêng hai đứa chúng tôi thán phục Nhất Linh tiền chiến và chấp nhận Nhất Linh hậu chiến. Nhà văn Võ Phiến có nhận xét tinh tế cho rằng chữ thán phục và chấp nhận khác nhau quá. Chấp nhận có giọng khoan hồng cho tác giả NL. Biết rằng không còn sáng giá nữa đành phải chấp nhận. Nếu mơ ước bình thường của một nhà văn là sách viết ra được có nhiều người đọc , được nổi tiếng thì Nhất Linh là một trong số những nhà văn ấy. Nhất Linh đã lên đường và mở đường cho một giai đoạn lịch sử Văn học. Nói như Merleau Ponty: “Lịch sử là bầu khí của hiện đại”. Nó bắt đầu từ đây, từ 1932-1933..Nó đã chối bỏ một cái gì đó đi trước nó. Và nó đang vượt lên. Những cuốn truyện đầu tay của ông như Nho Phong(1926), Người Quay tơ còn phảng phất không khí cổ điển từ ý đến lời không gây được mấy chú ý của dư luận người đọc. Càng viết, NL càng tỏ rõ vóc dáng một nhà văn lớn. Nhưng kể từ khi viết Đoạn Tuyệt vào năm 1935, tác phẩm này đã gây được tiếng vang dữ dội trong quần chúng và có nhiều người như Trương Chính trong bài Dưới Mắt Tôi không ngần ngại gọi đây là một kiệt tác trong văn chương VN. Phải đặt mình vào bối cảnh xã hội năm 1935 còn nhiều cổ hủ, tập tục hủ lậu như chế độ đa thê, tính cách gả bán cưỡng ép trong hôn nhân đã gây bao nhiêu đau khổ cho thân phận người phụ nữ mới hiểu được sự thành công của Đoạn Tuyệt. Cuốn sách được coi như một cuộc Cách Mạng đả phá xã hội. Đoạn Tuyệt theo nghĩa phủ nhận hủ tục quá khứ, tiếp tay nhau tìm một cuộc sống mới trong tự do và hạnh phúc. Nó tiêu biểu trong cặp nhân vật Loan và Dũng. Nhưng nếu nó được những người như Trương chính ca ngợi thì nó cũng gây những phản ứng ngược chiều trong trường hợp Nguyễn Công Hoan. NCH cho rằng đây là khí giới của kẻ chủ tâm phá hoại của những nhà cách mạng cực đoan. Có lẽ vì thế mà Nguyễn Công Hoan đã viết cuốn Cô Giáo Minh (1936) để công kích lại. Cuốn Cô Giáo Minh bị nhóm TLVĐ tố cáo là ăn cắp, đạo văn của TLVĐ. Câu chuyện đạo văn này đã gây ra những cuộc tranh luận giữa kẻ chống người bênh một thời. Dù thế nào đi nữa, Đoạn Tuyệt đã đưa Nhất Linh cũng như những tác phẩm Nửa Chừng Xuân, Hồn Bướm mơ tiên của Khái Hưng lên đỉnh cao của hào quang nghệ thuật. Sau này khi nhìn lại, người ta thấy các tiểu thuyết luận đề (Roman à these) đã “hy sinh” nhiều những tình tiết câu truyện, tính cách không thực giả tạo của câu truyện cũng như sự nghèo nàn của tâm lý nhân vật. Tiểu thuyết luận đề giản lược câu chuyện nhằm phục vụ cho một mục đích, biện hộ cho mục đích ấy nên tự nó có thể giết chết nghệ thuật một cách vô tình. Phải chăng luận đề tiểu thuyết làm giảm giá trị nghệ thuật? Về điều này, cả hai nhà văn Nhất Linh và Khái Hưng đều công nhận sự thực như vậy. Chính NL nhìn nhận tiểu thuyết luận đề từng hại ông, từng làm cho tiểu thuyết của ông bớt hay. Ông viết : “Cái lầm thứ tư của tôi là đã để cái ý định dùng tiểu thuyết làm một việc gì ( viết luận đề tiểu thuyết) lên trên cái ý định cái ý định viết một cuốn tiểu thuyết hay” ..(..) Đây là cái lầm lớn nhất trong đời văn của tôi(..) Sự hoan nghênh hai truyện đó, nhất là Đoạn tuyệt, những khen ngợi của các nhà phê bình đã làm tôi sau này khó chịu một cách thành thực“(15) (15) Trích Văn Học Miền Nam, Truyện 2, Võ Phiến, trang 1239 Và khái Hưng cũng không viết khác: “Những Roman à thèse chỉ có mục đích cải cách một vài tập tục xã hội Việt Nam hiện nay. Một ngày sau, những tập tục đó không còn nữa trong xã hội tiến bộ hơn thì tiểu thuyết của tôi sẽ mất giá trị của nó” .(16) (16) Trích trong Chỗ đứng của TLVĐ Ibid, trang 16 Sau này, Nguyễn Sỹ Tế và Thanh Tâm Tuyền trong buổi thảo luận: Nhìn về tiền chiến (in lại đầy đủ trong Web Talawas, Phạm Thị Hoài) đã công kích các tiểu thuyết luận đề của Nhất Linh và Khái Hưng như sau. Theo Thanh Tâm Tuyền: “Những tác phẩm mà mà TLVĐ gọi là tiểu thuyết luận đề đã chứng tỏ sự nông cạn và sự hời hợt của những tác giả ấy. Chưa nói tới những luận đề mà nhóm TLVĐ chọn là những vấn đề rất thơ sơ và hẹp hòi ở trong xã hội, tôi muốn công kích ngay cái loại mà người ta gọi là tiểu thuyết luận đề- kể cả những luận đề cao nhất-là một quan niệm ấu trĩ về tiểu thuyết. Bởi tính cách luận đề phản nghệ thuật”.(17) (17) Trích Chỗ Đứng của TLVĐ, Ibid, trang 16 Phạm Thế Ngũ cũng cũng cùng quan điểm khi phê phán tiểu thuyết luận đề. Nhưng dư luận người đọc thì lại thích thú với các truyện với đề tài xã hội thời thượng ấy . Ngoài vấn đề tiểu thuyết luận đề, Nhất Linh với cuốn Bướm Trắng được coi là cuốn sách ông đặc biệt tâm đắc và sáng giá nhất của ông!! Nhưng người đọc lại không nghĩ như vậy. Nhưng có đọc cuốn này thì không thấy được những đặc sắc của cuốn truyện ngay cả về mặt tư tưởng, triết lý cao siêu của nó ..Thụy Khuê nói tới những đề tài được nói tới trong Bướm Trắng về cái chết, về cái phi lý của cuộc đời, về vấn đề tự tử, về sự ngộ nhận trong tiểu thuyết này . Và TK vội kết luận cho rằng Bướm Trắng đã đi trước cả các triết gia hiện sinh ở Pháp nữa. Từ triết học phải trả về cho hệ thống triết lý hiện sinh của Tây Phương !! Không phải cứ xử dụng những từ ấy mà trở thành triết gia. Tôi cho rằng NL khi viết những điều đó chỉ muốn mô tả những trạng thái tâm lý của nhân vật Trương đang bị bệnh sắp chết. NL không có một chủ điểm hay một khái niệm triết học về những vấn đề triết lý như sự phi lý hay ngộ nhận ..Đó là những đề tài triết lý trong triết thuyết hiện sinh về phi lý của cuộc đời. Nó hoàn toàn không có liên quan gì đến những trạng thái tinh thần của Trương cả. Đã thế, Theo Võ Phiến,- một người rất chi li, tỷ mỉ, khi đọc Bướm Trắng-, Võ Phiến đã đếm ra được đến 80 chục lần nhân vật “mỉm cười” trong một cuốn sách dày 266 trang. Có những trang đếm ra được ba lần nhân vật “mỉm cười”. Mỉm cười vì nhân vật phát giác ra được môt trạng thái tâm lý của chính nhân vật truyện. Chẳng hạn: “Trương trả tiền ăn rồi rảo bước, mong cho chóng tới nhà để sửa soạn”, rồi Trương mỉm cười nhận thấy mình nóng ruột về nhà sửa soạn là vô lý- Mình có đồ đạc quái gì đâu mà sửa soạn”.(18) (18) Trích Văn Học, miền Nam, quyển hai, Võ Phiến, trang 1231 Nhận xét của Võ Phiến càng củng cố hơn quan điểm của người viết bài này. Bướm Trắng chủ yếu là một mô tả các trạng thái tâm lý của một người sắp chết, dù có nói tới phi lý, cái chết hay ngộ nhận. Có thể nói, khi viết văn, Nhất Linh bị ám ảnh bởi việc mô tả tâm lý nhân vật. Ông phân tích, tìm tòì, giải thích những trạng thái, tại sao nhân vật truyện lại có những hành động này, hành động kia sao cho “phù hợp tâm lý”. Những bận tâm và những tỉ mỉ rạch ròi dễ biến câu chuyện thành nhàm chán, kéo dài.. Sau này, nhà văn Võ Phiến trong những chuyện của ông cũng những phân tích nội tâm chi ly rạch ròi, nhưng xem ra vượt được người đàn anh một khoảng xa, khiến người đọc bị lôi cuốn vào những tình tiết được ông cẩn thận mô tả. Vì thế không lạ gì, chính Nhất Linh cho rằng truyên hay hay dở ăn thua là ở những chi tiết. Ông viết : “Vậy cái cần nhất, cái việc nó định đoạt giá trị một cuốn tiểu thuyết là TÌM CHI TIẾT . Cuốn sách hay là chính ở chỗ tác giả nào tìm được nhiều chi tiết hay để diễn tả. Các nhà văn hơn kém nhau ở chỗ tìm chi tiết.(19) (19)Viết và đọc tiểu thuyết, Nhất Linh. Trích lại trong Văn học miền Nam, truyện 2, Võ Phiến 1225-1234 Phải chăng chính cái băn khoăn đi tìm chi tiết nó hại cuộc đời viết văn của NL sau này? Cũng giống như trong truyện Giòng sông Thanh Thủy, Nguyễn Tường Thiết “dại dột” cũng đếm ra được 269 lần mỉm cười trong cuốn truyện này của Nhất Linh. Đấy là chỗ chôn nhà văn ở chi tiết. Những cái mỉm cười này cho thấy NL rất thích thú trong việc khám phá ra tâm lý nhân vật. Thay vì để tự người đọc tìm hiểu và thưởng thức, ông làm người chỉ đường vạch ra những trạng thái tâm lý ấy. Sự lặp đi lặp đến hơn 200 lần lại vốn rất kỵ với nghệ thuật. Nó chẳng khác gì đóng vai trò vừa đá banh vừa thổi còi làm mất đi cái hào hứng của cuốn truyện. Khen TLVĐ cũng khiong^ thể không nghĩ tới những nhà văn ngoài nhóm. Bên cạnh một Nhất Linh “sừng sững” với nhiều hào quang, người ta vẫn thấy le lói bên ngoài TLVĐ những nhà văn mà sau này tên tuổi họ lừng danh không kém. Những nhà văn mà giá trị nghệ thuật đã làm nên các nhà văn ấy được đánh giá đúng mức như Nguyễn Tuân với Vang Bóng Một Thời, Vũ Trọng Phụng với Số Đỏ, Giông Tố (Và một số tài liệu mới tìm kiém được như: Vẽ nhọ bôi hề, Chống nạng lên đường). Nhất là Nam Cao với truyện Chí Phèo thật sự đã vượt trên một bậc các nhà văn trong TLVĐc về nghệ thuật, về tính hiện thực xã hội, về tính tố cáo xã hội và nhất là tính nhân bản.. Nay phải nhìn nhận rằng tính hiện thực xã hội ở mức tố cáo cao nhất, mãnh liệt và dứt khoát nhất và tính nhân bản, tình người thể hiện trong truyện của Vũ Trọng Phụng và Nam Cao .. Chí Phèo không thuần túy là một tên vô lại, chửi thuê chém mướn mà trong nỗi uất hận u uẩn trong con người của Chí Phèo vẫn còn một chỗ cho tình người nở hoa giữa Chí Phèo-Thị Nở. Đó là hai đặc điểm làm nên cái lớn của hai nhà văn trên- tính tố cáo và tình người như một cặp- bỏ xa NL và TLVĐ còn dừng lại tính lãng mạn tiểu tư sản và tâm lý nhân vật. Mặc dầu bị lép vế vì không được giảng dạy chính thức trong chương trình trung học như nhóm TLVĐ, Chí Phèo của Nam Cao đã nhảy một bước lên đại học, trở thành đề tài nghiên cứu văn học, xã hội học của trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trước 1975. Nhất Linh nhà văn sau 1954 ở miền Nam Theo Nhật Thịnh, sau những thất bại về chính trị và một thời gian bị khủng hoảng tinh thần, năm 1945, ông bỏ đất Trung Hoa về Hà Nội và sau đó bỏ vào Sài Gòn. Ở đây, ông mở lại nhà xuất bản Phượng Giang và cho tái bản những tiểu thuyết cũ của TLVĐ. Nhưng tránh cho in lại những tiểu thuyết luận đề như Đoạn Tuyệt, Lạnh Lùng, Gia Đình .. Cuối cùng thì ông đã quyết định lên Đà lạt, sống quy ẩn với thú chơi lan rừng.. vừa để quên đi dĩ vãng nhiều buồn phiền, vừa để dưỡng bệnh. Cũng trong thời gian này, ông bắt đầu viết ” Xóm Cầu Mới”. Đây là một truyện dài ông dự tính viết đến 2000-trang. Và theo nhà văn Tường Hùng, một người cháu của Nhất Linh đã được ông cho coi bản thảo .. Tường Hùng cho đây là một bản thảo chi chít chữ viết nhỏ li ty, tẩy xóa, và viết chồng lên nhau . Cũng theo Tường Hùng, cuốn truyện đã được viết đi viết lại đến 5,6 lần. Tác phẩm này với những nhân vật như cô Mùi “rất quen thuộc”, đậm cá tính Nhất Linh không ra ngoài khuôn khổ suy nghĩ, hành động trong chuẩn mực đạo đức. Câu truyện cũng không có một tầm suy nghĩ băn khoăc về thời cuộc, về đất nước hay con người trong bối cảnh miền Nam sau 1954. Nói về khả năng viết truyện của NL, có lẽ cần nêu ra chi tiết sau đây đã được giáo sư Phạm Thế Ngũ nêu ra trong sách Việt Nam Văn Học Giản biên của ông. Theo PTN, thường NL đưa bản thảo cho Khái Hưng đọc và sửa chữa. Nếu sửa chữa nhiều thì truyện ngắn hay sách đề tên chung hai người. Và ngay cả sửa nhiều đôi khi Khái Hưng cũng nhường không đứng tên chung. Điều đó cho thấy Khái Hưng ở trên Nhất Linh một bậc. Sau 1954, NL mất đi một cánh tay đắc lực ! Ai là người có thể là người giúp ông hoàn chỉnh một tác phẩm? Sau 1954, giới thanh niên trí thức thành lại có thói quen “suy tư”, “băn khoăn”, đặt những vấn đề triết lý về thân phận con người, về tự do, về hiện sinh . Có nhiều kiểu băn khoăn lắm. Có thứ băn khoăn siêu hình, đối diện với hư vô. Có thứ băn khoăn về thân phận người, về ý nghĩa cuộc đời, về hoàn cảnh con người trước chiến tranh, có thứ băn khoăn của người trí thức trước thời cuộc, về chọn lựa hay dấn thân nhập cuộc, về thái độ hành động, về giới tuyến, về bên này bên kia. Vì thế có thứ băn khoăn của một Nguyễn Văn Trung, của Vũ Khắc Khoan, của Nguyễn Mạnh Côn, của Nghiêm Xuân Hồng, của Thảo Trường, của Thế Uyên, của Võ Phiến và nhiều nhà văn trẻ khác. Truyện của Nhất Linh vẫn như ” bình thản” trước hoàn cảnh, trước cuộc đời. Trong khi định nghĩa rốt ráo nhất về con người , chính là con nguoi- ở đời- trong một hoàn cảnh (être-en-situation). Truyện của Nhất Linh ở ngoài không gian, thời gian của miền Nam trong cuộc chiến ý thức hệ, nhất là kể từ thập niên 1960 trở đi. Nội dung chuyện trong Xóm Cầu Mới, Giòng sông Thanh Thủy vẫn là những nhắc nhở đã qua, nhớ lại những giai đoạn làm chính trị cách mạng lãng mạn. Thế Uyên có thể nhận xét không sai: Nhất Linh chỉ có thể làm nhà cách mạng mà không phải nhà chính trị. Trong cuốn Giòng Sông Thanh Thủy có thể nói đây là một bản “lược đồ” tổng quát về con người làm chính trị của NTT. Nó như một đánh giá lại cuộc tranh chấp ý thức hệ Quốc-Cộng. Những nhân vật truyện không còn là những nhân vật lý tưởng kiểu Dũng-Loan mà là những nhân vật hành động ở nhiều môi trường khác nhau, tranh đấu ác liệt hung bạo, có chém giết, có thủ đọan, có tàn bạo. Tuy nhiên thông suốt cuốn truyện dài hơn 600 trang, tom góp ba câu truyện làm một trường thiên tiểu thuyết là: Ba người bộ hành, Chi bộ hai người và Vọng Quốc-. Làm thế nào để kết nối ba truyện thành một toàn thể hợp lý về kết cấu câu truyện, về sự sắp xếp các nhân vật, về mục đích câu truyện? Đã không một ai đặ rõ ra vấn đề này!!! Ba cái truyện dài có thể cộng lại thành một cá trường thiên được không mà không làm tổn hại đến ngôn ngữ truyện và kết cấu truyện? Nó có giống như ba đường thẳng ngắn nối lại thành một đường dài mà tính ngắn không làm tổn hại đến tính dài? Ở đây đặt ra vấn đề thế nào là một truyện cực ngắn, truyện ngắn và truyện ngắ cực dài và thế nào là một truyện dài. Ngôn ngữ truyện ngắn là ngôn ngữ đã được nén chặt (condensed) còn ngôn ngữ truyện dài là tính buông lỏng. Truyện ngắn cực dài, và truyện cực dài khác và đây là chỗ thành công và thất bại của cuốn trường thiên tiểu thuyết Giòng Sông Thanh Thủy. Và đây cũng là tham vọng và nỗi lòng khao khát của một nhà văn muốn để lại một cái gì cho đời sau. Cái khó nhất của ba truyện hợp thành một là tính thống nhất, lớp lang, các nút thắt gỡ, tình tiết câu truyện sao cho hợp lý từ đầu tới cuối. Thật khó cho người đọc vẫn không nắm bắt được điều gì Nhất Linh muốn nhắn gửi trong đó. Các nhân vật truyện chòng chéo lên nhau, câu truyện nhảy từ chỗ này sang chỗ kia .. Mỗi đoạn , mỗi khúc là những đoạn rời, những mảnh đời được vụng về sắp xếp lại. Truyện Giòng sông Thanh Thủy chỉ là một tham vọng cuối đời của một nhà văn mà quên đi kỹ thuật của một trường thiên tiểu thuyết. Chẳng những thế, những chuyện như thế không thích hợp với bối cảnh văn học và chính trị của miền Nam nữa. Bối cảnh văn học miền Nam nơi giới trẻ thành thị không còn ngây thơ đọc những “bài học vỡ lòng về tình yêu, tình dục” bởi NL nữa. Thứ tình yêu trở thành lẩm cẩm, nhàm chán. Những mô tả tâm lý đọc thấy mệt. Những nhân vật trong GSTT xa lạ. Và như lời chia xẻ của Võ Phiến ngay trang đầu bài viết “Nhất Linh hậu chiến”. Võ Phiến viết: “Trong khi kiểm điểm về sự để viết về Nhất Linh của thời kỳ sau 1954, tôi có một cảm tưởng buồn”. Đây có thể là gói ghém trọn vẹn tâm tư, tình cảm của giới độc giả miền Nam sau 1954, mặc dù kính trọng NL đã phải thốt lên như thế. Họ có những băn khoăn mới. Đó là những mốt suy từ thời thượng mà sách triết lý bán chạy hơn sách truyện. Trong khi đó những nhân vật truyện trong Xóm Cầu Mới hầu như ở “ngoài cuộc”, không liên quan gì đến thực thể chính trị, đến suy tư thời thượng của trí thức miền Nam sau 1954 .. Phải chăng vì thế mà những nhà văn tiền chiến nổi tiếng một thời như Nhất Linh bị lu mờ và bị bỏ quên. Khi NL than phiền với Nguyễn Vỹ là độc giả thanh niên bây giờ không hiểu những người như ông thì người ta có quyền hỏi ngược lại là: những nhà văn có tầm cỡ như ông đã hiểu gì về giới trẻ sau 1954? Đó cũng là nhận xét của Thế Uyên thể hiện đầy đủ tâm trạng giới trẻ khi ông viết về Nhất Linh: “Trường giang tiểu thuyết ” Xóm Cầu Mới” có những nhân vật đặt trong một không gian thật xa cách .. Đọc như thấy là một dĩ vãng, trong khi những người trẻ đang ở trong một tâm trạng khắc khoải, lo âu, khác với cuộc đời đang ở trước mặt đòi hỏi phải chọn một thái độ thích ứng Nhất Linh với những tác phẩm sau, không mang lại, không đáp lại một chút nào khát vọng của thế hệ chúng tôi- thế hệ nói sự thật bị coi như mạ lỵ, quân tử bị coi như gàn dở, anh hùng bị coi như ngu đần. Về sau, nhóm Sáng Tạo có làm ầm ỹ (ầm ỹ chứ không phải làm phê bình) về Nhất Linh “tiền chiến”, Lam và tôi không đồng ý với họ về cái thái độ bắt đầu xây dựng văn nghiệp bằng cách phủ nhận tất cả quá khứ, nhưng hai đứa đồng ý với họ ở một điểm: Nhà văn Nhất Linh không còn là nhà văn của thế hệ trẻ hiện đại . Và điều đó cũng không quan trọng (Ít nhất cho riêng Nhất Linh và cho văn học sử) vì không phải lúc nào, thời nào cũng phải đáp đúng tâm trạng của thế hệ trẻ mới được là văn hào. Riêng hai đứa chúng tôi thán phục Nhất Linh tiền chiến và chấp nhận Nhất Linh hậu chiến . Có Nhất Linh như một dĩ vãng đẹp, như một căn bản chúng tôi vững tâm hơn đi vào tương lai”.(18) (18) Trích Chân dung Nhất Linh, Nhật Thịnh, trang 160 Và thêm một lần nữa, nhận xét của nhà văn Thế Uyên trong Chân dung Nhất Linh- Người Bác về cuốn truyện dài Dòng sông Thanh Thủy : “Sau một thế gian im lặng, Nhất Linh tung ra một bộ tiểu thuyết gồm ba cuốn Bănviết trong thời gian ẩn trốn. Dĩ nhiên là chúng tôi vội vã tìm đọc, và cũng thất vọng nhanh chóng. Bộ Dòng sông Thanh Thuỷ diễn tả cuộc đời làm cách mạng của một người mang vóc dáng Nhất Linh, nhưng không diễn đạt được. Nhân vật Ngọc thật xa cách với nhân vật chúng tôi kỳ vọng phải có. Lam cắt nghĩa: “Bác sẽ không thể viết được nữa. Quá khứ dầy đặc đã đè bẹp tâm hồn bác rồi…”. Tuy không hiểu rõ Lam định nói gì, nhưng nghe câu đó tự dưng tôi có cảm tưởng Nhất Linh sắp đi đến quãng chót của đời mình. Khi ông về căn gác trông xuống chợ An Đông, tôi hay đến thăm hơn xưa. Nhiều khi tôi tới, cúi chào, ông gật đầu rồi im lặng, tôi lục một cuốn sách ngồi đọc cho tới lúc muốn về. Vào thời kỳ này, tương đối ông có vẻ cảm tình với tôi hơn. Có lần gần ngày thi, chưa có tiền nộp lệ phí, ông bỏ tiền vào một cuốn sách, kín đáo đưa cho. Nhưng giữa hai bác cháu bao giờ cũng có một ngăn cách khó xác định. Một buổi sáng, cửa đóng kín che nắng, tiếng ồn ào của chợ họp phía dưới vang lên, tôi nhìn người bác già, thấy như đã thuộc vào dĩ vãng hay một thế giới khác. Cũng trong khoảng thời gian này, bà ngoại tôi mất. Lúc biết tin, bác đang đau, nhờ người vực tới, ngồi bên xác mẹ rồi trở về. Cái chết này, tôi tin đã làm ông chìm sâu hơn trong đau buồn. Từ lúc các con lập gia đình riêng, bà tôi thân và yêu Nhất Linh hơn cả. Và dù người già khó tính ghê gớm, trong các con, không kể mẹ tôi là gái, Nhất Linh cũng là người chịu đựng những trái tính của mẹ già tài hơn cả. Trên bàn thờ chính của họ Nguyễn Tường, còn để một bức minh hoạ bà tôi do Nhất Linh vẽ bằng bút chì, nét thật nhỏ và mờ.“(19) (17) Chân dung Nhát Linh- Người bác, Ibid Nhất Linh trong hành trình làm báo để lại danh tiếng cũng như tai tiếng. Nhưng hơn bất cứ nhà văn tiền chiến nào, ông có chỗ đứng danh dự trên chiếu Văn học do những tác phẩm của ông cộng thêm nhóm TLVĐ mà ông là thủ lãnh. TLVĐ sau này như một cột mốc văn học đánh dấu giai đoạn từ 1933 đến 1945- uy tín và sáng chói-. Sau đó, ngôi sao văn học theo quy luật thời gian bị rơi vào im lặng. Nhà báo và Nhất Linh nhà văn sau 1954 đáng nhẽ không nên có mặt nữa .. Đã một thời đã qua- thời của vinh danh và hào quang dành cho một nhà văn đại diện cho TLVD. Nguyễn Văn Lục
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 3, 2013 8:32:38 GMT 9
Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam dưới cái nhìn Xã Hội Chủ NghĩaVăn chương há phải là đơn thuốc Chớ có khuyên xằng chết bỏ bu. (Tú Xương) Nhà văn Thạch Lam Chúng tôi nhận được cuốn Thạch Lam, về tác giả và tác phẩm do một người bạn về thăm quê hương tặng, sách dầy 500 trang, khổ lớn, nhà xuất bản Giáo dục, sách gồm trên 70 bài viết về Thạch Lam. Khoảng một phần tư là những bài viết từ thập niên 39, 40 tại Hà Nội và tại Sài Gòn trước 1975, ba phần tư là những bài viết trong nước đa số ở thập niên 90. Chúng tôi lấy làm ngạc nhiên Thạch Lam có thể được dư luận chú ý và ca ngợi nhiều đến thế, nhất là dư luận trong nước. Ngày nay trong nước người ta đã đánh giá lại Tự Lực văn đoàn trong bài Thạch Lam Với Quê Hương Sáng Tác của Đinh Quang Tốn (Thạch Lam, Văn Chương Và Cái Đẹp, NXB Hội Văn Hà Nội, 1994) “Gần đây kỷ niệm 82 năm sinh và 50 năm mất của Thạch Lam, chúng tôi lại về phố huyện Cẩm Giàng. Phần nhiều những người chúng tôi hỏi chuyện đều có biết nhà văn Thạch Lam quê ở đây. Những mặc cảm về giòng họ Nguyễn Tường cũng không còn nặng nề. Nhìn chung mọi người kể chuyện với thái độ khách quan, kể cả những cán bộ kháng chiến cũ. Họ đã “bước qua lời nguyền”để nhìn lịch sử một cách công bằng với tư duy đổi mới, đánh giá đúng con người với những đóng góp và những hạn chế của họ với lịch sử. Riêng đối với Thạch Lam, được họ nhắc đến với thái độ cảm tình”. Như vậy theo tinh thần tư duy đổi mới, họ được nhìn lịch sử một cách công bằng hơn và đánh giá lại một giai đoạn đã qua của nền văn chương Việt Nam. Nhưng trên thực tế chúng tôi thấy nhiều nhà phê bình trong nước có khuynh hướng đánh giá rất cao Thạch Lam, coi ông như một ngôi sao sáng chói nhất của Tự Lực văn đoàn thí dụ như Lê Dục Tú nhận xét dưới đây. “Nhưng về phía độc giả Thạch Lam cũng hiểu một tình trạng có thực: đó là sự tồn tại của hai hạng người: một hạng chỉ cốt xem truyện để giải trí và hạng thứ hai thực sự là biết thưởng thức. Khác với một số nhà văn đương thời, Thạch Lam đã dũng cảm phục vụ hạng độc giả thứ hai để rồi phải chịu một thiệt thòi là sách của ông đã không tránh khỏi bị quên lãng trong một thời điểm nào đó. Song chỉ một thời gian sau đó, bạn đọc đã nhận ra được vẻ đẹp đích thực của văn chương ông và thừa nhận ông là “người có tài” và “viết hay hơn cả” trong Tự Lực văn đoàn”. (Thạch Lam, Người Đi Tìm Cái Đẹp Trong Cuộc Đời Và Trong Văn Chương). Hoăc như Nguyễn Phúc trong Quan Niệm Văn Chương Của Thạch Lam, Vị Nghệ Thuật Hay Vị Nhân Sinh (Thạch Lam,Văn Chương Và Cái Đẹp, NXB Hội văn Hà Nội 1994) “Nét đặc trưng của văn tài Thạch Lam trước hết thể hiện ở chỗ: Là thành viên chủ chốt của một văn đoàn vẫn được nhất trí coi là “lãng mạn”nhưng toàn bộ sáng tác của ông lại không chịu nằm gọn trong cái tên gọi đó, các nhà nghiên cứu văn học đã dụng công đi tìm những khái quát thích hợp, như “khuynh hướng nghiêng về bình dân với sự đồng cảm chân thành” “bút pháp tả thực tỉnh táo”… song xem ra vẫn chưa tìm được danh xưng nào vừa ý. Quả là một đời văn tuy ngắn ngủi nhưng lại có một tầm vóc “ngoại cỡ”. Ông này lại đánh giá văn nghiệp Thạch lam cao hơn ông kia một bậc: ngoại hạng, quá cỡ. Chúng tôi lại xin dẫn chứng một số nhận xét khác. Hà Văn Đức (Thế Giới Nhân Vật Thạch Lam, Văn Học Việt Nam 1900-1945, NXB Giáo dục 1997). Cho thấy lối viết Khái Hưng, Nhất Linh không thực như Thạch Lam khi so sánh các nhà văn đồng nghiệp với nhau ấy dưới đây. “Ngòi bút của Thạch Lam tỏ ra trân trọng khi viết về những mặt tốt đẹp ớ người lao động. Trong tác phẩm của những nhà văn lãng mạn như Nhất Linh, Khái Hưng, dân quê hiện ra như một đám người ngờ nghệch dốt nát, bản năng (Vọi, Trống Mái). Thạch Lam không chấp nhận cách gán cho nhân vật của mình “những đức tính và tật xấu mà người dân quê không thực có”. Ông nhìn thấy những niềm vui bình dị, những ước mơ nho nhỏ, những đức tính đẹp tiềm ẩn trong họ”. Theo chúng tôi nghĩ cá nhân anh Vọi không thể coi là đại diện cho đám dân quê, cái ngờ nghệch của anh Vọi chỉ là trường hợp cá biệt không có tính cách biểu tượng, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này sau. Chúng tôi xin trích dẫn tiếp vài nhận định khác, dưới đây Phong Lê trong bài Thạch Lam Trong Tự Lực văn đoàn (cuốn Văn Chương Và Cái Đẹp). “Sự sống lại những giá trị văn học tiền chiến trong đó Tự Lực văn đoàn là hiện tượng ta đang chứng kiến, nhưng tôi không tin tất cả những gì thuộc Tự Lực văn đoàn sản sinh ra đều cần được khôi phục lại. Nhiều giá trị mà Tự Lực văn đoàn xây dựng được đã bị thời đại vượt qua, có bộ phận đã bị vượt qua ngay từ trước 1945. Còn Thạch Lam thì tôi vững tin ở sự tồn tại. Nếu không là tất cả thì cũng là phần lớn những gì ông đã viết”. Nghĩa là theo Lê Phong toàn bộ văn nghiệp của Tự Lực văn đoàn chỉ riêng có Thạch Lam là có giá trị vượt thời gian còn lại đều lỗi thời và bị đào thải. Dưới đây là nhận xét của Trần Ngọc Dung trong bài Phong Cách Truyện Ngắn Thạch Lam (cuốn Văn Chương Và Cái Đẹp). “Các nhà tiểu thuyết Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, trong thời kỳ Mặt trận Dân chủ, cũng tỏ ra quan tâm đến nhân dân lao động. Qua các trang viết không phải họ không hiểu được những nỗi thống khổ của người dân nghèo thành thị hay nông dân lao động, nhưng tình cảm không sâu sắc, nhiều khi không tránh được thái độ khinh bạc của những trí thức trưởng giả đối với những đám người “vô học” “dốt nát”, “hủ lậu”, “bẩn thỉu”(Trống Mái, Dưới Ánh Trăng . . . của Khái Hưng. Tối Tăm, Một Kiếp Người, Chàng Nông Phu, Đầu Đường Xó Chợ… của Nhất Linh, Bùn Lầy Nước Đọng của Hoàng Đạo), nhân vật chủ yếu và lý tưởng của họ nói chung thuộc tầng lớp giầu sang, có học thức cao trong xã hội cũ (Hiền trong Trống Mái, Hạc, Bảo trong Gia Đình của Khái Hưng, Duy, Thơ trong Con Đường Sáng của Hoàng Đạo, Dũng, Loan trong Đôi Bạn của Nhất Linh). Còn Thạch Lam lại xây dựng cho mình một thế giới nhân vật khác. Ông lặng lẽ hướng ngòi bút về phía những người nghèo khổ với tấm lòng trắc ẩn thương xót chân thành”. Trần Ngọc Dung chỉ công nhận Thạch Lam là người thực sự tôn thờ nhân bản trong Tự Lực văn đoàn, chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này sau. Một cách tổng quát chúng tôi xin thu gọn những ý kiến đánh giá cao Thạch Lam của các nhà phê bình trên đây như sau: -Thạch Lam là người viết hay hơn cả trong Tự Lực văn đoàn. -Thạch Lam là nhà văn ngoại cỡ, ngoại hạng. -Thạch Lam là người mô tả dân quê bằng những nét chân thực nhất, các nhà văn khác của văn đoàn như Khái Hưng gán cho dân quê những cá tính mà họ không có. -Chỉ có văn chương Thạch Lam là tồn tại, giá trị văn chương của các tác giả khác trong văn đoàn đều đã lỗi thời, đã bị thời đại vượt qua. -Chỉ có Thạch Lam là thực sự tôn thờ nhân bản, các cây bút khác của văn đoàn như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo… nhìn người nghèo bằng cặp mắt khinh bạc. Như quí vị độc giả đều đã biết theo dư luận của các nhà phê bình và dư luận độc giả, Khái Hưng và Nhất Linh đã và đang được coi như có sự nghiệp văn chương lớn nhất trong Tự Lực văn đoàn. Theo dư luận chung, Thạch Lam đã được coi như nhân vật số ba của văn đoàn. Nay theo các nhà phê bình trong nước, thứ tự ấy cần phải được định giá lại nghĩa là Thạch Lam phải là cây viết sáng giá nhất của Tự Lực văn đoàn và Khái Hưng, Nhất Linh đương nhiên phải bị hạ bệ đưa xuống dưới chưa biết xếp vào đâu! Các nhà phê bình có quyền đánh giá, khen chê một tác phẩm hoặc cả một công trình văn học, họ cũng có quyền định giá lại toàn bộ văn chương của một văn đoàn song không có nghĩa là ý kiến chung, dư luận chung của độc giả bị loại bỏ bởi vì người đọc cũng là một lực lượng phê bình đáng kể mà ta không thể phủ nhận hay loại bỏ một cách dễ dàng. Điều chúng tôi muốn nói ở đây là các nhà phê bình không thể bắt đám đông độc giả phải tuân theo sự lượng giá của họ trên thực tế, độc giả vẫn là độc giả, nhà phê bình vẫn là nhà phê bình. Các nhà phê bình Tây phương từ hơn nửa thế kỷ nay đã không ngớt lời ca ngợi ngọn bút thần sầu quỉ khốc của Dostoievsky, nhà văn hào Nga thế kỷ 19, nổi tiếng về kỹ thuật mô tả tâm lý nhân vật. Người ta bảo ông ấy là nhà văn hào vĩ đại nhất của nhân loại từ trước tới nay, văn chương của ông ấy cho đến nay vẫn còn mới không bị rơi vào cổ điển, có người cho ông là triết gia sâu sắc, kẻ nói ông là nhà phân tâm học đại tài… thậm chí có người còn so sánh tư tưởng của ông với thuyết tương đối của nhà bác học Einstein nữa… Nhưng trên thực tế số độc giả của Dostoievsky tương đối ít thôi, nhiều người lại bảo đọc sách của ông họ không hiểu ông ấy nói cái gì, cũng có nhiều người thích và khen lấy khen để văn Dostoievsky tuyệt diệu nhưng trong số này nhiều người không biết nó hay ở chỗ nào cả. Và như vậy phải chăng các nhà phê bình chuyên nghiệp không thể lái độc giả theo ý mình vì độc giả cũng là một lực lượng phê bình đáng kể. Trở lại vị trí của Thạch Lam trong Tự Lực văn đoàn chúng tôi xin được đánh giá theo dư luận chung như sau. Theo dư luận chung Khái Hưng vẫn được coi là một trong số các tác giả lớn nhất của Tự Lực văn đoàn. Theo Phạm Thế Ngũ (Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên, cuốn 3), Khái Hưng là cột trụ của Tự Lực văn đoàn, sáng tác của ông trong văn đoàn dồi dào cả về phẩm lẫn lượng. Theo Nguyễn Vỹ, người đã gặp Nhất Linh ở Sài Gòn 1952 (Kỷ Vật Cuối Cùng, Phượng Hoàng, Cali 1997) Nhất Linh cho biết trong thời kỳ sáng tác cho Tự Lực văn đoàn ông thường đưa bản thảo cho Khái Hưng sửa, cuốn nào Khái Hưng sửa nhiều thì lấy tên cả hai người, cũng có cuốn do Khái Hưng sửa nhiều nhưng vẫn để tên Nhất Linh. Chúng tôi đã được tiếp xúc với cụ Nguyễn Thạch Kiên trước đây, nhà văn, đảng viên Việt Nam Quốc Dân đảng, cụ cho biết Khái Hưng là người đã khuyến khích và nâng đỡ Thạch Lam. Tiểu thuyềt luận đề của Nhất Linh bị Phạm Thế Ngũ chỉ trích trong khi Khái Hưng không thấy bị chỉ trích, người ta thường coi Khái Hưng như cây viết suất sắc nhất của văn đoàn. Nhất Linh là người đóng góp nhiều nhất cho công cuộc cải cách xã hội, vì công lao của ông với cách mạng xã hội quá lớn nên trên thực tế người ta vẫn thường xếp ông ngang hàng với Khái Hưng. Và như vậy dư luận chung từ trước đến nay đã xếp hạng Nhất Linh, Khái Hưng như ngôi sao sáng của văn đoàn dĩ nhiên Thạch Lam, Hoàng Đạo sẽ đứng hạng ba, hạng tư . Ta thử so sánh toàn bộ văn nghiệp của Thạch Lam với Khái Hưng, Nhất Linh để có một kết luận khách quan công bằng hơn. Về mặt số lượng, văn nghiệp của Thạch Lam so với Khái Hưng, Nhất linh thật là quá khiêm tốn: một truyện dài khoảng 200 trang, ba tập truyện ngắn được độ 200 trang, một tùy bút khoảng 60 trang, một lý luận văn chương khoảng 70 trang, toàn bộ chỉ hơn 500 trang, dài bằng Xóm Cầu Mới của Nhất Linh hay cuốn Tiêu Sơn Tráng Sĩ của Khái Hưng. Như vậy nếu muốn xếp hạng Thạch Lam như một ngôi sao sáng chói đứng đầu Tự Lực văn đoàn thì phẩm chất các truyện của ông phải xuất sắc gấp bội Khái Hưng, Nhất linh vì số lượng quá ít oi. Trên thực tế các tài liệu cho thấy truyện của Thạch Lam khó bán, hoặc bán rất chậm, ngược lại truyện của Khái Hưng, Nhất Linh như Hồn Bướm Mơ Tiên, Gánh Hàng Hoa, Đoạn Tuyệt… bán chạy như tôm tươi. Lý do gì tác phẩm của Thạch Lam không được hoan nghênh? một điều chắc chắn là nó thiếu khả năng lôi cuốn vì tác giả của nó quá chú trọng vào hiện thực và mô tả nội tâm khiến cho câu chuyện trở nên buồn tẻ. Trong bài nói về cuốn Theo Giòng chúng tôi đã phân tích về tiêu chuẩn nghệ thuật của Thạch Lam, về cái chủ quan của ông trong việc đi tìm cái hay, cái đẹp của một tác phẩm văn chương. Ông đã nói nhiều lần rằng người nghệ sĩ phải chăm chú vào sự thực, bề trong của con người, hầu như ông đã cho hiện thực, diễn tả tâm lý hướng nội là tiêu chuẩn duy nhất của nghệ thuật và không để ý đến những tiêu chuẩn khác. Thạch Lam chỉ trích những hạng độc giả chỉ chú ý đến cốt truyện mà không màng đến tâm lý nhân vật có đúng hay không, hời hợt hay sâu sắc, nhưng trên thực tế tiêu chuẩn nghệ thuật của một tác phẩm văn chương rất phức tạp chứ không đơn giản như tác giả đã quan niệm. -Đa số người đọc chú trọng về cốt truyện, những cuốn được coi như có giá trị lâu dài vượt thời gian là những cuốn có cốt truyện hay có khả năng lôi cuốn người đọc như Tam Quốc Chí, Nghìn Lẻ Một Đêm, Hồn Bướm Mơ Tiên chẳng hạn. -Những tác phẩm có giá trị về lịch sử như Khói Lửa Kinh Thành (LâmNgữ Đường) Chiến Tranh Và Hoà Bình, Sông Don Thanh Bình (Sholokhov)… đã làm sống lại một giai đoạn lịch sử. -Những tác phẩm có giá trị về xã hội như Godfather có thể coi như một tài liệu đầy đủ về xã hội đen. -Những tác phẩm lãng mạn bay bướm như Anna Karénine, Đôi Bạn, Cuốn Theo Chiều Gió… -Những tác phẩm diễn tả được những ý nghĩa, luận đề như Lão Ngư Ông Và Biển Cả của Hemingway ca ngợi tinh thần phấn đấu với số mệnh đến cùng. Một tác phẩm văn chương hay phải là một tác phẩm cân đối và hoàn chỉnh rung cảm được người thưởng thức qua nhiều tiêu chuẩn nghệ thuật chứ không quá đơn giản như dưới cái nhìn của Thạch Lam. Sách của ông không bán được phần lớn vì buồn nản, tiếng pháp gọi là monotone mặc dù tâm lý nhân vật sâu sắc, hiện thực, tâm lý và hiện thực cũng không cứu vãn được tình thế. Không đủ khả năng lôi cuốn người đọc mặc nhiên về nghệ thuật cốt truyện phải thua kém Nhất Linh, Khái Hưng và nhất là tính chất lãng mạn, một yếu tố quan trọng để khiến nó đủ khả năng lôi cuốn thì truyện của Thạch Lam cũng không được phong phú cho lắm như ở Khái Hưng, Nhất Linh. Không khí yêu đương lãng mạn trong văn chương Thạch Lam so vói Nhất Linh, Khái Hưng còn thua kém nhiều. Nghệ thuật phải có tính chất đại chúng, phục vụ đám đông chứ không phải làm theo cái ý thích của mình. Tiểu thuyết, truyện ngắn của Thạch Lam hiện thực được cả những nền nếp phong tục xã hội, những cảnh bần cùng đói khổ của giới người nghèo cùng mạt xã hội nhưng lại không mang những ý nghĩa cách mạng, cải cách xã hội như Đôi Bạn, Nửa Chừng Xuân, hoặc không nói lên được nhiều về những mặt trái tàn nhẫn của nền luân lý cổ như Lạnh Lùng của Nhất Linh. Thế giới giầu cũng có những cái hay riêng như trong Băn Khoăn của Khái Hưng, không phải chỉ nói về giới nghèo mới là có giá trị cao. Một tác giả muốn được xếp vào hàng ngoại cỡ chúng tôi nghĩ cần phải có sự toàn diện về nghệ thuật bởi vì một vài tiêu chuẩn riêng thực không đủ để xếp hạng như vậy, tiêu chuẩn nghệ thuật đa dạng và toàn diện, cái mà văn chương của Thạch Lam còn thiếu mặc dù có xuất sắc ở một vài bình diện nào đó. Ở đây chúng tôi không lạc đề, không chỉ trích những yếu điểm của Thạch Lam để dìm ông xuống và đề cao Khái Hưng, Nhất Linh nhưng vấn đề là chúng ta phải nhìn nghệ thuật bằng cặp mắt khách quan đứng ngoài ảnh hưởng của thành kiến. Chúng tôi đồng ý nhìn nhận Thạch Lam là một nhà văn chuyên về đoản thiên có những nét sâu sắc, độc đáo, người đã đóng góp rất nhiều cho Tự Lực văn đoàn cũng như đã tô điểm những nét đẹp cho nền văn chương Việt Nam nhưng ông vẫn chỉ là một nhân vật số ba của Tự Lực văn đoàn không hơn không kém và địa vị của Khái Hưng, Nhất Linh mà người ta thường gọi là cột trụ của Tự Lực văn đoàn là một sự kiện dĩ nhiên không thể đảo ngược bởi những lý do mà chúng tôi đã diễn đạt ở trên. Chúng tôi xin trở lại nhận xét của những nhà phê bình trong nuớc về việc thẩm định lại giá trị văn chương của Tự Lực văn đoàn. Theo như nhận xét của Trần Ngọc Dung, Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo chỉ chú trọng tới xã hội trưởng giả, giầu có, ông ngụ ý chỉ trích họ không thực sự quan tâm đến giới bình dân, nhưng đề tài văn chương đâu có thể hạn hẹp vào một khuôn khổ nhất định được. Thiên chức của nhà văn không phải chỉ để ca tụng giới bần cố nông khố rách áo ôm mà nghệ thuật của họ phải được mở rộng ra cho tới tận chân trời đến tất cả mọi khía cạnh của xã hội, con người. Chiến Tranh và Hòa Bình, Anna Karénine… của Léon Tolstoi chỉ diễn tả thế giới của giai cấp quí tộc, ông hoàng bà chúa không ca ngợi nông dân nhưng đã chẳng được dư luận chung xếp vào hàng những công trình văn hóa nhân loại là gì? Các nhà phê bình khen lấy khen để Thạch Lam như một ngôi sao sáng chói nhất trên bầu trời Tự Lực văn đoàn nhưng họ lại quên chú ý đến một điểm là sách của ông bán không được, chúng ta thử tìm hiểu tại sao? Thạch Lam ca ngợi Dostoievsky như một nhà viết tiểu thuyết có giátrị nhất của thế kỷ và trên hoàn cầu, ông đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của Dostoievsky. Chủ đề chính trong các tác phẩm của nhà văn hào này là sự tranh đấu giằng co giữa thiện và ác để làm chủ tâm hồn và đã ảnh hưởng tới Hồn Bướm Mơ Tiên (Khái Hưng), Tháng Ngày Qua, Bắn Vịt Trời (Nhất Linh), Sợi Tóc, Một Cơn Giận (Thạch Lam). Thạch Lam chịu ảnh hưởng Dostoievsky nhiều nhất về thuật tả tâm trạng con người, đó chính là một trong những lý do khiến cho tác phẩm của ông khó bán vì thiếu khả năng lôi cuốn không đáp ứng được sự đòi hỏi của người thưởng thức. Người đọc có nhu cầu của họ, nhà văn viết theo sở thích của mình tức là tự mình tách rời đám đông và dĩ nhiên sẽ bị họ lơ là bỏ rơi không thương không tiếc. Các nhà phê bình văn học trong nước ca ngợi Thạch Lam là người yêu thương và đi sát với những người nghèo cùng khổ, nhưng sự đi sát của ông có giá trị hơn công cuộc tranh đấu cải cách xã hội của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo hay không? Điều mà họ nói nhìn lại lịch sử một cách công bằng phải chăng chỉ là trò GIAN MANH VĂN NGHỆ? nhìn lại lịch sử một cách khách quan như thế phải chăng chỉ là đưa chính trị vào văn chương một cách vô cùng khôn khéo. Phải chăng việc các ông lên án Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo vì họ là những người quốc gia chân chính đã can đảm đứng lên chống lại một tập đoàn bịp bợm gian ác trước kia? Phải chăng việc kết án Khái Hưng là khinh bạc dân nghèo để bào chữa cho việc thủ tiêu nhà văn lớn này một cách tàn nhẫn tại bến đò Cựa Gà Nam Định 1947 mà chứng cớ còn rành rành qua lời tường thuật của các nhân chứng hiện còn sống sót trong cuốn Kỷ Vật Cuối Cùng. Nhìn lịch sử một cách khách quan như các ông chỉ là trò mập mờ đánh lận con đen, giả mù sa mưa hoặc trò tuyên truyền xảo quyệt. Những ý kiến lệch lạc và sai lầm tận gốc rễ ấy thực không đáng được gọi là phê bình, được viết lên bởi những kẻ đã cố tình bóp méo văn chương, bóp méo sự thật để loại bỏ những tác giả mà họ không đồng quan điểm. Phê bình văn học đã đóng một vai trò quan trọng không những trong văn học sử mà còn có thể ảnh hưởng tới nền văn hoá lâu dài của cả một dân tộc. Chẳng thế mà người xưa đã quan niệm: làm thầy thuốc mà sai lầm thì giết một người, làm chính trị mà sai lầm thì hại một đời, làm văn hoá mà sai lầm thì hại muôn đời. Trọng Đạt
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Apr 22, 2020 8:45:18 GMT 9
Nhà Văn Nguyễn Thị Vinh (1924-2020)(Hình: Tư liệu của Nhà văn Nhật Tiến gửi NV) Vương Trùng Dương Nhà văn Nguyễn Thị Vinh, nhân vật cuối cùng của Tự Lực Văn Đoàn vừa qua đời ngày 8 tháng 1 năm 2020 tại Na-Uy. Hưởng thọ 97 tuổi. Trong bài phỏng vấn của Mặc Lâm, phóng viên đài RFA ghi nhận: “Từ năm 1932 đến năm 1945, Tự Lực Văn Đoàn chiếm một vị trí ưu thế tuyệt đối trên văn đàn Việt Nam và đã ảnh hưởng sâu sắc đến giới thanh niên và trí thức Việt lúc bấy giờ. Bà Nguyễn Thị Vinh, 1 trong 3 thành viên cuối cùng của Tự Lực Văn Đòan. Năm 1933 Tự Lực Văn Đòan chính thức thành lập gồm có: Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam), Khái Hưng (Trần Khánh Giư), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ) về sau thêm Xuân Diệu, Trần Tiêu, và còn một số nhà văn cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này là: Trọng Lang, Huy Cận, Thanh Tịnh, Đoàn Phú Tứ… Bà Nguyễn Thị Vinh sinh năm 1924 tại Hà Nội. Quê nội: làng Thịnh Đức thượng Hà Đông. Quê ngoại: làng Vân Hoàng, Hà Đông. Đã xuất bản nhiều tác phẩm tiêu biểu, gồm truyện ngắn, truyện dài, thơ và tùy bút… Trước năm 1975 bà giữ chức Chủ Bút và Chủ Nhiệm 2 tạp chí văn nghệ: Tân Phong và Đông Phương. Bà cũng là thành viên của Hội Đồng Giám Khảo Giải Văn Học Nghệ Thuật Toàn Quốc VNCH. Hiện đang tỵ nạn chính trị tại Na-Uy, bà tiếp tục hoạt động văn học trong vai trò Chủ Mhiệm tạp chí văn nghệ Hương Xa. Và là thành viên trong nhóm chủ biên nhà xuất bản Anh Em”. (Hình: VietBao) Trong cuộc phỏng vấn nầy, nhà văn Nguyễn Thị Vinh cho biết: “Ba thành viên lớp sau (hay đúng hơn, phải gọi là ba thành viên dự bị) của Tự Lực Văn Đoàn, gồm nhà văn Duy Lam, nhà văn Tường Hùng và tôi đều do nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam lựa chọn, tại Sài Gòn vào khoảng đầu thập niên 1950. Văn bản với bút tích của nhà văn Nhất Linh hiện do tác giả Nguyễn Tường Thiết, con trai út của nhà văn Nhất Linh lưu giữ. Trước đó, trong một bài thơ mang tên Tự Lực, Nhất Linh viết vào lúc 2 giờ sáng Mùng Một Tết năm Quý Tỵ, nhằm ngày 14 tháng 2 năm 1953, ông đã ghi: “Tự Lực vườn văn mới trội tên. Bỗng dưng thời thế đảo huyên thiên. Thương dăm lá cũ vừa rơi xuống. Mừng mấy mầm tươi vụt nhú lên. Mạch cũ, nhựa non rồn rập chảy. Vườn xưa, hoa mới điểm tô thêm. Người qua, sách mọt, đời thay đổi. Tự Lực, danh chung, tiếng vẫn truyền”. Tác phẩm đầu tay là Hai Chị Em, Truyện ngắn, NXB Phượng Giang, Việt Nam Sài Gòn 1953. Tác phẩm cuối cùng là Cỏ Bồng Lìa Gốc, Tuỳ bút/Tâm cảm, NXB Anh Em, Hoa Kỳ San José 2005. Tự Lực Văn Đoàn gây ảnh hưởng rộng lớn và lâu dài đối với đa số thanh niên nam, nữ thị dân theo Tây học và chữ Quốc Ngữ, từ Bắc tới Nam, về các mặt tư tưởng, văn hóa, xã hội.. a/ Trước hết phải kể tới tinh thần tự lực từ cá nhân, gia đình cho tới xã hội. Không có tinh thần tự lực thì quốc gia không thể giành được nền độc lập toàn vẹn, đúng nghĩa. b/ Giữ gìn truyền thống mỹ tục. Đả phá mọi hủ tục. c/ Nêu cao tinh thần khoa học thực nghiệm. Bài trừ thói mê tín dị đoan. d/ Chống nạn mù chữ. Phổ biến và nghệ thuật hóa việc dùng chữ Quốc Ngữ. e/ Hướng đến một cuộc cách mạng, tạm gọi là “Cách mạng Tư sản”, trên nền tảng Chủ nghĩa Tam Dân: “Dân Tộc Độc Lập, Dân Quyền Tự Do, Dân Sinh Hạnh Phúc.” Cho nên từ “ngôi nhà ánh sáng”, tới chiếc “áo dài LeMur”, “thơ Mới”, “tiểu thuyết luận đề”, “đảng Hưng Việt”, đến báo chí “Phong Hóa”, “Ngày Nay” và “Văn Hóa Ngày Nay”… Tranh khôi hài “Lý Toét, Xã Xệ”… đã làm nên tính cách Tự Lực Văn Đoàn, một văn đoàn vì Quốc Gia Dân Tộc. Hai nhà văn Duy Lam và Tường Hùng vẫn sáng tác, sinh hoạt văn nghệ. Phần tôi, hoạt động văn nghệ không nhân danh Tự Lực Văn Đoàn. Vì tự nghĩ: Tự Lực Văn Đoàn đã làm xong nhiệm vụ lịch sử kể từ sau sự tuẫn tiết của nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam. Tôi biết ơn Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng mọi vấn đề của nhà văn ngày hôm nay, đầu thế kỷ 21, đã khác với đầu thế kỷ 20. Chỉ còn tinh thần tự lực là mãi mãi nguyên vẹn cho cả nhà văn lẫn người đọc Việt Nam. Văn học Nghệ thuật chuyên chở tình yêu nước, thương dân, với phương châm: “Muốn cánh sinh phải tự lực từ cá nhân, gia đình và xã hội, đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí.” Văn học Nghệ thuật chuyên chở tình Yêu Nước, Thương Dân, với phương châm: “Muốn Cánh sinh phải Tự lực từ cá nhân, gia đình và xã hội, đặc biệt là nâng cao trình độ dân trí.” Quốc thể muốn tự lực, dân trí phải nâng cao. Muốn dân trí nâng cao phải có Tự Do Tư Tưởng, Tự Do Ngôn Luận. Làm giàu và làm đẹp thêm cho Tiếng Việt. Tôi xin phép được thêm vào hai chữ “cộng sản” trong cụm từ “nhà nước Việt Nam”, để cho rõ là “nhà nước cộng sản Việt Nam”. Để thấy rõ ràng, rằng “đổi mới của họ chính là trở về với cái cũ”. Tôi chỉ thấy dấu hiệu tích cực khi nào họ trở về với tinh thần tự lực. Nâng cao dân trí bằng cách tự do Tư tưởng. Thời thực dân Pháp kiểm duyệt báo chí, văn hóa phẩm rất khắc nghiệt mà nhà xuất bản Đời Nay, báo Phong Hóa và Ngày Nay của Tự Lực Văn Đoàn vẫn thuộc quyền tư nhân. Vẫn được nói xa, nói gần tới Tự do, Dân chủ. Ở Hoa Kỳ, người dân không có cái lối mừng vì đảng Cộng Hòa đổi mới, thí dụ thế, mà hễ đảng Cộng Hòa không làm lợi cho dân, cho nước, hoặc không phù hợp với đa số ý dân, người ta sẽ bàu cho đảng Dân Chủ, như tin thời sự hiện nay. Trình độ dân trí phải thật sự cao mới làm được điều hết sức giản dị như thế. Đó là văn minh. Đó là dân quyền. Đó là nhân bản. Ít nhất chúng ta cũng phải nhìn nhận một số nét căn bản của nền văn học ở nhiều quốc gia tiến bộ mà chúng ta gọi là “Văn học Thế giới”. Thí dụ: Không kiểm duyệt. Nhà văn được tự do sáng tác, ấn hành, xuất bản và phát hành… Văn học có thể tương quan với chính trị, nhưng tuyệt đối không bị bó buộc phải phục vụ chính trị, giáo điều. Văn học Việt Nam, trong nước, còn bị kiểm duyệt, kiểm soát tư tưởng một cách thô bạo. Tự điều này đã là một câu trả lời rồi!…” (ngưng trích) * Nguyễn Thị Vinh sinh ngày 15 tháng 7 năm 1924 tại 41 Phố Bờ Hồ Hà Nội; gốc quê nội của bà tại làng Thịnh Đức Thượng, tức làng Giẽ, phủ Thường Tín, huyện Phú Xuyên, thôn Thịnh Đức Hạ, tỉnh Hà Đông; gốc quê ngoại tại làng Vân Hoàng, tức làng Chản, cùng tỉnh với quê nội. Hai ông bà thân sinh mất sớm, năm Nguyễn Thị Vinh lên tám. Bốn anh chị em bà, mà người anh cả mới mười lăm tuổi, đang từ con cái một gia đình khá giả, bỗng chốc trở nên mồ côi cha mẹ, nghèo khổ. Tuy gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn theo đuổi học hành. Khởi là thơ, viết văn từ những năm 1939-1940 tại Hà Nội. Bà lập gia đình với ông Trương Bào Sơn (thành viên nồng cốt VN Quốc Dân Đảng, là một dịch giả có tiếng). Năm 1948, bà cùng con gái 3 tuổi, (Trương Thị Kim Anh) từ Hà Nội sang Hồng Kông tị nạn chính trị với chồng Trương Bảo Sơn. (Hình: Internet) Truyện dài Thương Yêu được viết tại Cửu Long, đảo Trường Châu, Hương Cảng năm 1948. Năm 1952, trở về Sài Gòn, chép lại 2 bản thảo Thương Yêu, Hai Chị Em và sửa chữa lần chót, chuẩn bị để ấn hành. Nhà văn Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, khi cùng tị nạn chính trị tại Hương Cảng năm 1948-1951, với một số người bạn chiến đấu của ông, có dịp đọc bản thảo Thương Yêu, Hai Chị Em khuyến khích là nên xuất bản. Vì thế, năm 1953, ấn hành tác phẩm Hai Chị Em, tác phẩm Thương Yêu viết trước nhưng ấn hành năm 1954. Tác phẩm Xóm Nghèo (1958), Men Chiều (1960)…Thơ Nguyễn Thị Vinh (1972), tập thơ Cõi Tạm ấn hành năm năm 2001 (Nhà thơ Ngọc Hoài Phương ấn hành tập thơ Cõi Tạm năm 1992). Năm 1960 ông Trương Bảo Sơn cùng với Nguyễn Tường Tam tổ chức Mặt Trận Quốc Gia Đoàn Kết. Tham gia ngày 11-11-1960, bị bắt tù 3 năm và bị Tòa Án Quân Sự kết án 5 năm lưu đày ra Côn Đảo năm 1963. Được trả tự do sau 1-11-63. Năm 1964 ông đứng ra thành lập và làm Tổng Thư Ký Quốc Dân Đảng biệt bộ Nguyễn Tường Tam, làm Tổng Thư Ký hội Bảo Vệ Nhân Quyền và Dân Quyền Việt Nam, tổ chức phong trào chống Hiến chương Vũng Tàu. Ông là người dấn thân và hăng say trong cuộc đời làm cách mạng. Năm 1978 ông Trương Bào Sơn vượt biển tới Pulau Bidong (Mã Lai) và định cư tại Canada năm 1979. Năm 1970 nhà thơ Nguyễn Hữu Nhật mở nhà xuất bản Anh Em và ấn bản đầu tiên là tập truyện Cô Mai của Nguyễn Thị được tái bản, tiếp theo sau là Quán Đời của chính anh. Và sự gặp gỡ nầy tuy tuổi tác chênh nhau gần hai thập niên nhưng trở thành bạn đời. Năm 1984, Nguyễn Thị Vinh và Nguyễn Hữu Nhật tị nạn chính trị tại Na Uy do cô con gái Kim Anh bảo lãnh. Chồng cô Kim Anh là nhà thơ Dương Kiền, cũng là bạn văn với Nguyễn Hữu Nhật. Theo anh Nguyễn Hữu Nhật, đây là định mệnh, nhưng khi đến nơi, anh đã nhìn thấy vẻ đẹp thiên nhiên tuyệt vời của xứ Bắc Âu, anh cho là số mệnh anh phải là chứng nhân của phong cảnh và tình người và có bổn phận ở lại ghi chép, truyền đạt cho người đi sau. Chị Nguyễn Thị Vinh cảm nhận được sự bao dung của tuyết, của sự cưu mang từ một dân tộc rất xa lạ với mình. Dĩ nhiên mỗi người có một phần việc được giao phó trong đời sống. (Hình: Tư liệu của Nhà văn Nhật Tiến gửi NV) Anh chị sống trong một căn nhà nhỏ giữa trời tuyết bao la chỉ có 52 mét vuông với 2 phòng ngủ, anh Nhật đã dùng 1 phòng làm nơi “Sản Xuất”, còn chị thì chiếm lấy 1 góc nhỏ ở căn bếp, có thể viết, có thể ăn, có thể làm tất cả những gì cảm thấy thích thú và cần thiết. Và, nơi nầy cũng là nơi trở thành “cơ sở văn nghệ” cho hai cây bút cùng bạn văn như tạp chí văn nghệ Hương Xưa. Trong tác phẩm Na Uy & Tôi (1994), Nguyễn Thị Vinh ghi lại cảm nhận của bản thân nơi xứ người. Theo lời bà “Tôi là người tỵ nạn chính trị. Vấn đề chính trị ở nơi tôi ra đi vẫn chưa thay đổi. Nên tôi chưa thể về lại được, dù là về thăm nhà”. Về tác phẩm, bà cho biết: “Các tác phẩm viết trước năm 1975 của tôi, không nằm trong danh sách cấm in, nhưng tôi tự thấy tôi không thể hợp tác được với các nhà xuất bản quốc doanh của đảng CS. Hợp tác một phần cũng là thoả hiệp chính trị. Các tác phẩm sau năm 1975, của tôi, hầu hết có nội dung chống độc tôn, độc trị, độc tài, độc đảng”. * Nhà văn Nguyễn Ðình Toàn nhận định về về Nguyễn Thị Vinh: “Nguyễn Thị Vinh có một văn phong nhẹ nhàng nhưng đằm thắm. Hai chữ “thương yêu” bà lấy làm tựa cho một cuốn sách của bà, cũng là cái tình người đọc có thể nhận thấy dàn trải trong từng mỗi câu văn, trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Thị Vinh. Dù, càng về sau này, nghĩa là sau 1954 là một giai đoạn, sau 1975 lại là một giai đoạn khác nữa, cách viết của bà có ít nhiều thay đổi, bà có dùng đến luận lý, phê bình, triết lý, chính trị, đôi khi cả chỉ trích, khôi hài nữa, nhưng cái dịu dàng, tinh vi, ngọt ngào đầy nữ tính vẫn là nét chính, cái hồn của văn chương Nguyễn Thị Vinh… (Hình: VietBao) Trong cuốn Cỏ Bồng Lìa Gốc, Nguyễn Thị Vinh viết về nhiều thứ: Thân phận người “đàn bà nước Nam”, thư gửi cho hai nhân vật tiểu thuyết của Khái Hưng và Nhất Linh [Mai/Nửa Chừng Xuân & Loan/Ðôi Bạn], thư gửi cho một người có thật ở ngoài đời Shirin Ebadi, Giải Hòa Bình Nobel 2003, bàn về nỗi “Vì Sao Dân Mình Khổ Mãi”, rồi lòng tư hương của một người Việt rời xa xứ sở (1975) muốn về nhìn lại đất nước nhưng lại tự thấy chưa thể làm cái việc ấy được vì: “khi phải ‘xin phép’ai có nghĩa là tôi chấp nhận người ấy có quyền, ít nhất đối với tôi. Nếu đất nước ta có một chính quyền thật sự do dân bầu, vì dân, đàng hoàng, tất nhiên như mọi người dân khác, tôi cũng phải tôn trọng luật pháp cùng các thủ tục hành chính của nó. Chỉ khó… (vì) tại tôi, tôi không ưa cái thứ chính quyền hiện có ở quê nhà”. Ðoản văn thú vị nhất có lẽ là đoạn Nguyễn Thị Vinh kể lại những kỷ niệm của bà với một số các nhân vật trong Tự Lực Văn Ðoàn, nhất là với nhà văn Nhất Linh, ở Hương Cảng, khi ấy ông đang viết bộ trường thiên Xóm Cầu Mới”. Nguyễn Thị Vinh cho biết: “Các nhà phê bình văn học viết về nội dung, bố cục và bút pháp của ‘Xóm Cầu Mới’. Còn riêng tôi, lại nhớ những tháng được nhìn thấy nét “chữ con kiến bò” của anh Tam. Nhỏ nhưng không tới nỗi quá khó đọc, chạy trên mấy trăm trang giấy bản thảo. Bản thảo đầu tiên của Xóm Cầu Mới, anh Tam đã thai nghén từ năm 1940 ở Hà Nội đã mất hết trong chiến tranh, và tới năm 1948 mới được anh viết lại ở Hương Cảng”. (ngưng trích) Kể từ khi thai nghén truyện dài Thương Yêu ở Hương Cảng năm 1948 đến khi vĩnh biệt “Cõi Tạm” năm 2020 ở Na-Uy đánh dấu bảy thập niên cầm bút của nhà văn nữ. Bà là nhà văn nữ thọ nhất trong Tự Lực Văn Đoàn nói riêng và văn đàn Việt Nam nói chung đã đóng góp ngòi bút của mình từ trong nước đến hải ngoại. Little Saigon, Jan 10, 2020 Vương Trùng Dương
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 4, 2021 19:12:26 GMT 9
ĐẾN VỚI LINH BẢO TỪ GIÓ BẤC TỚI MÂY TẦN
Ngô Thế Vinh
HÌNH I_ nữ sinh viên Vũ Trung Thư (Linh Bảo) tại Đại Học Tôn Trung Sơn, Quảng Châu, Trung Quốc [nguồn: do Linh Bảo cung cấp]
Sau các nhà văn nữ tiền chiến như Thuỵ An, Mộng Sơn của thập niên 1940s, Linh Bảo và Nguyễn Thị Vinh là hai nhà văn đi trước thế hệ đông đảo các nhà văn nữ của thập niên 1960s về sau này như Nhã Ca, Nguyễn Thị Hoàng, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Trùng Dương, Trần Thị NgH...
Linh Bảo là một tên tuổi văn học của Miền Nam từ những năm 1950s. Các tác phẩm của Linh Bảo được lần lượt xuất bản tại Miền Nam từ 1953 tới 1975. Chỉ có Mây Tần là tuyển tập đoản văn duy nhất được xuất bản ở hải ngoại (1981). Sau 1975, không có một tác phẩm nào của Linh Bảo được in ở trong nước.
TIỂU SỬ
Nhà văn Linh Bảo, tên Võ thị Diệu Viên, sinh 14 tháng 4, 1926 trong một gia đình quan lại triều đình Huế: cha Võ Chuẩn nguyên tổng đốc Quảng Nam, mẹ gốc hoàng tộc Tôn Nữ Thị Lịch. Từ thời rất trẻ, Linh Bảo đã nuôi tham vọng được đi du học, rời xa gia đình sớm, sống lưu lạc qua nhiều quốc gia ngoài Việt Nam: Nam Kinh, Quảng Châu, Hương Cảng, Anh, Pháp, và Mỹ. Linh Bảo còn có hai tên khác: Lại Cẩm Hoa là tên trên chiếc vé xuống tàu vượt biển sang Hương Cảng, Vũ Trung Thư / Mo Chung Shu là tên ghi danh đi học ở Nam Kinh và Quảng Châu. Các bức thư nhà văn Nhất Linh gửi Linh Bảo khi còn ở Hương Cảng đều gửi với tên Lại Cẩm Hoa. [Hình II]
Mới xong năm thứ hai (1947-1949) Đại học Tôn Trung Sơn [do tôn kính người Hoa không gọi tên Tôn Dật Tiên / Sun Yat Sen University], thì Hồng quân của Mao Trạch Đông chiếm toàn Hoa Lục 1950, Linh Bảo một lần nữa từ Quảng Châu chạy tỵ nạn sang Hương Cảng. Tại đây, cô đã làm mọi việc để kiếm sống: từ phụ tá nha sĩ / dental tech tới lồng âm tiếng Việt cho các bộ phim Tàu đang thịnh hành thời bấy giờ.
Năm 1951, Linh Bảo lập gia đình với một người Hoa mang quốc tịch Anh, và trở thành công dân Anh do cuộc hôn nhân này. Bút hiệu Linh Bảo, có nguồn gốc rất đơn giản, đó chỉ là tên người chồng Trần Linh Bảo / Ling Po Chan và bút hiệu ấy gắn mãi với văn nghiệp của chị trong văn học sử Việt Nam.
Đến 1954, khi Lãnh Sự Quán Việt Nam Cộng Hoà mới được thành lập, Linh Bảo là người Việt Nam hiếm hoi lúc đó biết tiếng Quảng Đông, tiếng Quan Thoại, tiếng Anh và dĩ nhiên cả tiếng Việt, cô được tuyển làm nhân viên của toà Lãnh Sự Việt Nam tại Hương Cảng. Làm việc tới 1957, trở về nước và chỉ sau 2 năm, 1959 Linh Bảo lại chọn một cuộc sống xa quê nhà.
Từ Hương Cảng, qua Pháp rồi qua Anh một thời gian, cuối cùng Linh Bảo chọn định cư ở Mỹ sau khi được tuyển dụng vào giảng dạy môn Việt ngữ 14 năm [1962-1976] tại trường Sinh ngữ Quân đội Mỹ / Defense Language Institute, Monterey, California cho đến khi ngôi trường bị giải thể sau Chiến tranh Việt Nam.
Linh Bảo hiện sống tại Nam California.
Tác phẩm:
- Gió Bấc, truyện dài, Nxb Phượng Giang 1953
- Tầu Ngựa Cũ, tập truyện ngắn, Nxb Đời Nay 1961
- Những Đêm Mưa, truyện dài, Nxb Đời Nay 1961
- Những Cánh Diều, tập truyện ngắn, Nxb Trí Đăng 1971
- Mây Tần, tuyển tập đoản văn, Nxb Việt Nam Hải Ngoại 1981
Sách Nhi đồng:
- Chiếc áo nhung lam, Sách Hồng, Nxb Đời Nay 1953
- Con Chồn Tinh Quái, truyện Nhi đồng, Nxb Ngày Mới 1967
Tác phẩm Tàu Ngựa Cũ được trao Giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1961. [Hình V] Trừ truyện dài Gió Bấc và truyện nhi đồng Chiếc áo nhung lam được in từ 1953, các tác phẩm chính của Linh Bảo đều được xuất bản trong thời kỳ 1954-1975.
TỪ GIÓ BẮC TỚI GIÓ BẤC
Tại Hương Cảng, Linh Bảo được dịp làm quen với hai nhà văn Nguyễn Thị Vinh và Trương Bảo Sơn. Bản thảo Gió Bắc [chưa phải là Gió Bấc] như một tự truyện viết theo ngôi thứ nhất kể lại cuộc sống lưu lạc của cô sinh viên Linh Bảo, được trao cho chị Nguyễn Thị Vinh và sau đó tới tay nhà văn Nhất Linh.
Sau khi đọc bản thảo Gió Bắc, thấy được "cốt cách nhà văn - chữ của Nhất Linh" của tác giả, Nhất Linh đã viết thư khuyến khích Linh Bảo với hai gợi ý: viết lại cuốn tự truyện theo ngôi thứ ba và sửa nhan đề cuốn sách là Gió Bấc thay vì Gió Bắc. Linh Bảo đã làm theo lời khuyên của nhà văn Nhất Linh. [Hình II]
Hình II_ phải: thư nhà văn Nhất Linh gửi Linh Bảo,
trái: hình bìa Gió Bấc do Phượng Giang xuất bản 1953
[nguồn: do Linh Bảo cung cấp]
Từ Sài Gòn, ngày 29 tháng 5 năm 1953 nhà văn Nhất Linh đã viết thư cho Linh Bảo lúc đó vẫn đang còn ở Hương Cảng, với tên Lại Cẩm Hoa:
Kính gửi chị Hoa,
Tôi đã nhận được cuốn Gió Bấc và đã đọc hết. Khá lắm và hay hơn lần viết đầu. Xin gửi lời khen chị. Các nhân vật quốc nội và hải ngoại cũng rõ ràng linh hoạt hơn, đoạn kết cũng rất khéo và vừa vặn. Sách chị ra chắc sẽ được hoan nghênh, có lẽ ra đồng thời với Thương Yêu và Gió Mát [của Nguyễn Thị Vinh và Tường Hùng, ghi chú của người viết]. Ba cuốn, ba tâm sự và mỗi cuốn một vẻ.
Tôi sẽ chữa lại văn, xoá bỏ ít đoạn (việc này cũng mất độ mươi hôm) rồi đánh máy đưa kiểm duyệt. Cái chính là hay, còn văn là phụ; song hoàn toàn thì vẫn hơn.
Trong 3 cuốn Thương Yêu, Gió Mát, Gió Bấc cuốn của chị ít sắp đặt, ít tiểu thuyết hoá nhất; những cuốn sau cần phải bố cục... nhưng thôi để khi chị viết cuốn thứ hai. Chị đã có cốt cách nhà văn, cứ thế mà tiến, yên tâm mà tiến, còn nhiều rực rỡ về sau đợi chị.
Chúc chị mạnh và nếu tiếng đàn vẫn còn văng vẳng (chỉ cơn hen suyễn của Linh Bảo, trong một thư khác Nhất Linh còn gọi đó là tiếng đàn violon, ghi chú của người viết) cũng không sao vì cái đó có ngăn cản gì đâu việc chị viết Gió Bấc.
Nhất Linh
Chẳng thể ngờ rằng chỉ 10 năm sau khi viết bức thư này, nhà văn Nhất Linh đã tuẫn tiết ở tuổi 57 [1906-1963].
Gió Bấc là tác phẩm đầu tay của Linh Bảo được Phượng Giang xuất bản năm 1953. [Hình II] Có thể coi đây như bước khởi đầu vững vàng trên con đường văn nghiệp của Linh Bảo. Vừa mới thành danh với Gió Bấc, vì một lý do tâm cảnh, Linh Bảo muốn đổi bút hiệu, nhưng được nhà văn Nhất Linh khuyên can và cô đã nghe theo.
TỪ GIÓ BẤC TỚI NHỮNG ĐÊM MƯA
Gió Bấc là truyện một cô gái tên Trang sinh ra và lớn lên ở Huế, thể chất yếu đuối do từ nhỏ đã mắc phải căn bệnh suyễn kinh niên, và trở nặng theo mùa và mỗi lần gió bấc thổi về thì cơn hen suyễn lại nổi lên thê thảm; tuy vậy tinh thần cô gái thì mạnh mẽ. Do quan niệm xưa cũ, mẹ Trang không khuyến khích sự học của con gái nhưng Trang thì vẫn nuôi mơ ước được đi du học. Chiến tranh ly tán, Trang xa gia đình rất sớm, lưu lạc vào Sài Gòn, bị bắt và cả tù đầy và rồi cơ hội tới, cô kiếm được một vé xuống tàu với một tên Trung Hoa và qua được Hương Cảng, rồi Nam Kinh, Thượng Hải và Quảng Châu. Cô gái mảnh mai ấy đã sống sót qua những biến cố lịch sử: cách mạng ở Việt Nam, cách mạng ở Trung Hoa, trải qua những ngày đầy chiến tranh loạn lạc. Ở đâu thì cô cũng phải làm việc cật lực để mưu sinh. Rồi cô cũng vào được Đại học Tôn Trung Sơn Quảng Châu, chưa được bao lâu thì Hồng quân của Mao Trạch Đông toàn chiếm Hoa lục, một lần nữa lại phải tỵ nạn sang Hương Cảng. Tại đây cô đã phải làm đủ nghề để kiếm sống cho đến khi gặp được một người đàn ông Hương Cảng gốc Hoa không tham vọng hiền lành tên Bình, tìm tới muốn chia sẻ cuộc sống với Trang.
Trang cuối của Gió Bấc: "Và Bình bỗng nắm chặt tay Trang: Trang, Trang cho phép tôi... được săn sóc Trang ... suốt đời nhé?" Nàng đã không chống cự và siêu lòng.
Gió Bấc viết xong tại Hương Cảng 1952 khi ấy Linh Bảo vừa mới 26 tuổi.
Những Đêm Mưa có thể coi như tiếp nối “Gió Bấc”, vẫn cô gái tên Trang. Trang và Bình hai người cưới nhau, cuộc sống lứa đôi ngay sau đó đã chẳng thơ mộng hay hạnh phúc như người con gái từng hy vọng; nhiều xung khắc trái nghịch xảy ra nhất là khi nàng sinh đứa con gái đầu tiên trong cảnh gia đình thiếu hụt đưa tới sự bế tắc. Không thể tiếp tục sống với một người đàn ông mà nàng cho là tầm thường, Trang lại thu xếp hành trang đem theo đứa con gái nhỏ và cái bụng đang mang thai trở về Huế sống với cha mẹ trong một thời gian không hạn định.
Đã thất vọng với cuộc hôn nhân nhưng khi về tới quê nhà, Trang lại phải chứng kiến những tấn bi kịch khác của gia đình: người cha đã bỏ mẹ nàng trong nỗi đau buồn tủi vì mê say sống với mấy người vợ bé trẻ trung hơn mẹ. Chính Trang cũng bị người cha ruột ruồng rẫy. Rồi người cha ngã bệnh chết, bà mẹ quá chán chường tìm chốn nương thân nơi cửa Phật. Người phụ nữ tên Trang ấy, ở đâu cũng thấy cô đơn, chẳng còn trông cậy vào một ai khác, và Trang lần này lại ra đi, chưa biết đi đâu nhưng không có dự tính trở lại với người chồng cũ ở bên Hương Cảng.
Trang cuối của Những Đêm Mưa: "Trang không cần đọc cũng biết nội dung trong thư có những gì [những bức thư của Bình, người chồng cũ]. Trong những năm tháng xa nhau, Bình đã viết đều đều cho Trang mỗi tuần lễ hai bức thư như thế... văn tài của anh dù "yên sĩ" có lên độ cuối cùng cũng không bao giờ đủ hứng để viết thành một cái chuyện ngắn chuyện dài nào... Trang nhìn theo con như cố tìm can đảm để phấn đấu, để chịu đựng những thử thách của một cuộc phiêu lưu sắp tới ngày mai..."
Những Đêm Mưa cũng viết xong tại Hương Cảng 1957, năm năm sau Gió Bấc khi ấy Linh Bảo 31 tuổi.
Cả hai cuốn tiểu thuyết đều bao gồm rất nhiều kinh nghiệm sống của Linh Bảo. Không phải là do câu chuyện mà nghệ thuật viết đã làm nên giá trị độc đáo của tác phẩm Linh Bảo. Ngòi bút của Linh Bảo thông minh sắc sảo, diễu cợt lật ra những mặt trái của cuộc sống, một cách tàn nhẫn với giọng nghịch ngợm tinh quái bất cần đời nhưng cũng thật là chua chát. Người phụ nữ trong tác phẩm Linh Bảo tuy cứng cỏi, chịu đựng nhưng vẫn luôn luôn là nạn nhân đáng thương của những hoàn cảnh.
Nhìn xa hơn nữa, có thể nói qua các tác phẩm Linh Bảo rất sớm là ngòi bút đấu tranh cho nữ quyền.
LINH BẢO NHỮNG NGÀY SÀI GÒN
Dù ở trong nước hay ở hải ngoại, Linh Bảo viết khá đều tay trong khoảng hai thập niên 1950s và 1970s. Cùng với Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo là một trong hai cây viết nữ chủ lực của tạp chí Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh, báo Tân Phong của Nguyễn Thị Vinh Trương Bảo Sơn, và tạp chí Bách Khoa của Lê Ngộ Châu và một số báo khác.
Hình III_ [nguồn: do nhà văn Nhật Tiến cung cấp]
Sau Gió Bấc, tên tuổi Linh Bảo một thời sáng chói với các truyện ngắn truyện dài xuất hiện sau đó. Những Đêm Mưa và Tầu Ngựa Cũ là hai tác phẩm văn học giá trị của nhà văn Linh Bảo.
Tưởng cũng nên ghi lại đây nhận xét của nhà văn Bình Nguyên Lộc, một cây viết thuần Nam Bộ viết về Linh Bảo qua một thư riêng. [Hình IV]
Sài Gòn 21/9/1958
Chị Linh Bảo,
Hôm nọ tôi có đến thăm chị nhưng chị đi vắng...
Một điều sau đây tôi được biết, nói ra sợ chị không tin nhưng không thể không nói được: là rất nhiều bạn văn, bên phe không cọng, nói với tôi rằng các tiểu thuyết đăng ở Văn Hoá Ngày Nay chỉ có tiểu thuyết của Linh Bảo là hay. Họ không nói là hay hơn hết mà chỉ nói là hay thôi. Thế nghĩa là còn hơn là hay hơn hết nữa kia.
Riêng tôi, tôi thấy chị hay hơn Gió Bấc nhiều lắm [Bình Nguyên Lộc muốn nói tới tiểu thuyết Những Đêm Mưa, đang đăng định kỳ trên Văn Hoá Ngày Nay, ghi chú của người viết] và giọng văn của chị đã rõ nét ra, một giọng văn mà ba mươi năm nữa chưa chắc đã có người làm theo được...
Tôi ngạc nhiên lắm. Bề ngoài chị rất là đờn bà, nhưng sao văn chị như văn đờn ông thế. Đọc xong bốn kỳ Những Đêm Mưa, tôi ngán sợ chị ghê lắm, sợ cái tài quan sát nội tâm và ngoại cuộc của chị rất là bất ngờ, mà nhất là sợ cái cười bình thản của chị vô cùng. Sợ đây không phải là phục. Đành là phục rồi, khỏi phải nói, mà sợ bị chị quan sát và cười, mặc dầu chỉ cười thầm thôi...
Bình Nguyên Lộc
T.B. Xin mời chị có đi đâu ngoài nầy, ghé qua nhà tôi một bận. Tôi ở phố Võ tánh, gần chợ Thái Bình. Buổi chiều tôi luôn luôn có nhà, trừ chiều thứ bảy và chiều chúa nhựt.
Nhà văn Bình Nguyên Lộc đã mất năm ông 73 tuổi [1914-1987].
HÌNH IV_ phải: thư gửi nhà văn Bình Nguyên Lộc gửi Linh Bảo
trái: bìa tiểu thuyết Những Đêm Mưa
[nguồn: do Linh Bảo cung cấp]
Sau Nhất Linh và Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến cũng đã viết về Linh Bảo trên tạp chí Bách Khoa [số 161, năm 1962] như sau: "Trong số những người đàn bà viết văn ở ta hiện nay, có lẽ Linh Bảo có tài nhất: có tài quan sát, lại có tài diễn tả một cách thông minh những điều mình quan sát. Quan sát và phân tích tâm lý, Linh Bảo đã trình bầy được mỗi nhân vật với một hình dạng, một cá tính rõ ràng, một lối sinh sống và ăn nói riêng biệt... Linh Bảo thường hay tìm ra cơ hội để làm người đọc mỉm cười, dù là trong những trường hợp buồn thảm: nhà ngập lụt, vợ chồng giận nhau. Giữ được nét mặt tươi tắn cả trong khi buồn, đó là một lối làm đẹp rất khéo của đàn bà, nhất là đàn bà 'lịch sự': vì vậy mà cái cười do Linh Bảo gợi lên lắm lúc có chua chát, người đọc vẫn dễ có cảm tình với giọng văn của tác giả."
Rất tình cờ từ ba địa phương, cả ba tác giả Bắc Nam Trung đều có chung một nhận định: Linh Bảo là một cây bút có văn tài. Linh Bảo viết không nhiều, nhưng tác phẩm nào cũng đặc sắc. Chỉ có tiếc là từ hơn bốn chục năm qua, Linh Bảo hầu như không còn quan tâm tới chuyện viết lách và sáng tác thêm nữa.
TÀU NGỰA CŨ GIẢI VĂN CHƯƠNG 1961
Tầu Ngựa Cũ được trao giải văn chương 1961. Năm đó có ba giải văn học, nhà xuất bản Ngày Nay chiếm hai giải: cuốn Thềm Hoang giải nhất truyện dài của Nhật Tiến, Tầu Ngựa Cũ tuyển tập truyện ngắn của Linh Bảo, Gìn Vàng Giữ Ngọc của Doãn Quốc Sỹ do Sáng Tạo xuất bản.
HÌNH V_ trái: bìa tác phẩm Tầu Ngựa Cũ của Linh Bảo
phải: Giải thưởng Văn chương 1961
[nguồn: do Linh Bảo cung cấp]
Tầu Ngựa Cũ là tuyển tập chín truyện ngắn của Linh Bảo đã đăng tải trên tạp chí Văn Hoá Ngày Nay của Nhất Linh và Tân Phong của Nguyễn Thị Vinh Trương Bảo Sơn. Tầu Ngựa Cũđược trao giải thưởng Văn chương 1961. Học giả Nghiêm Xuân Việt, Văn bút Việt Nam "với thiện chí trao đổi văn hoá với ngoại quốc" đã chọn hai truyện Người Quân Tử và Áo Mới trongTầu Ngựa Cũ dịch ra Anh ngữ với tên truyện The Noble Man và Our Brand New Robes và gửi đi dự cuộc thi truyện ngắn do International PEN tổ chức 1961. Thành phần ban giám khảo gồm những tên tuổi như: Storm Jameson (Anh), André Maurois (Pháp), và Whit Burnett (Mỹ).
Kết quả là cả hai truyện ngắn này được tuyển chọn vào chung kết trong số 26 truyện ngắn quốc tế hay nhất năm đó. Cũng thời gian đó Linh Bảo đang sống ở Luân Đôn. Hình như sau đó, hai truyện ngắn này được PEN Vietnam Centre dịch sang tiếng Pháp: L' homme noble, vàRobles Nouvelles để in trong tuyển tập truyện ngắn của Văn Bút Việt Nam.
Tầu Ngựa Cũ là một truyện ngắn được lấy tên cho toàn tập truyện. Đó là truyện tình nhẹ nhàng cảm động. Kỳ trong một chuyến tàu đi suốt từ Huế vào Sài Gòn, anh ao ước có một người bạn đồng hành để có thể truyện trò. Rất tình cờ từ một ga xép, một thiếu nữ lên tàu ngồi bên cạnh Kỳ. Với nốt ruồi đỏ như son trên cổ tay thiếu nữ, Kỳ bỗng nhận ra Thơ người bạn gái xa cách từ lâu, thuở hai người rất yêu nhau. Họ nhận ra nhau và hạnh phúc được ngồi bên nhau trong những kỷ niệm hồi tưởng. Nhưng khi con tàu ghé Nha Trang thì người vợ của Kỳ xuất hiện. Cô gái lặng lẽ bước xuống tàu, không nói một lời chia tay. Tất cả thoáng diễn ra như một giấc mơ. Kỳ trở lại cuộc sống thực tế với một người đàn bà ngồi bên cạnh là vợ chàng. Kỳ có cảm giác mình như một con ngựa đã thuần hoá và từ nay chỉ có một con đường trở về như con ngựa trở về tầu ngựa cũ.
Người Quân Tử là câu chuyện của một cô gái trẻ đẹp tên Dung, đang làm cho một hãng hàng không, sống độc lập bỗng dưng rơi vào nghịch cảnh trong vòng kiềm toả của một người đàn ông đã có vợ nhưng nhiều thủ đoạn, nham hiểm và cả bạo hành; hắn đã biến Dung thành cô "thư ký vạn năng" cùng lúc đóng nhiều vai người tình, người vợ không bao giờ cưới vẫn phải đẻ con lấy họ mẹ, Dung được người đàn ông ấy đối xử như người đầy tớ gái nhưng vẫn nhồi sọ Dung rằng chính hắn mới là kẻ gia ơn và bao bọc, hắn là người quân tử đến mức chính Dung cũng tin là như vậy và khuất phục cam chịu.
Áo Mới với bối cảnh một gia đình của một thời vang bóng nơi kinh đô Huế cổ xưa của một triều đại phong kiến đang suy tàn. Truyện kể về sự tích một chiếc áo do mẹ vua ban mà bà mẹ đem về cho các con. Do gốc tích cao sang chiếc áo được giữ gìn chuyền qua tay những đứa con từ lớn xuống bé và chỉ được dùng trong những dịp giỗ tết nhưng khi đến phiên Hoa đứa con gái nhỏ nhất vì qua thời gian chiếc áo ấy đã bị mục nát. Hoa đã khóc trong ngày Tết năm đó vì không được mặc chiếc áo mơ ước, để rồi sau này lớn lên cô gái đi làm có tiền có thể mua sắm bao nhiêu chiếc áo mới nhưng lúc đó đã mất mẹ nên cô gái chẳng còn thấy đâu niềm vui để khoác lên những chiếc áo mới ấy.
Gió Bấc (1953) là truyện dài đầu tay của Linh Bảo, nhưng Những Đêm Mưa (1961) và Tầu Ngựa Cũ (1961) là hai tác phẩm biểu lộ hết tài năng của Linh Bảo.
Tài năng và cơ hội, Linh Bảo đã có cả hai. Sau này Linh Bảo tâm sự là nếu không có buổi gặp gỡ với nhà văn Nguyễn Thị Vinh thì bản thảo Gió Bấc sẽ chẳng thể đến tay nhà văn Nhất Linh và không chắc đã có một Linh Bảo sau này. Chính Nhất Linh đã khám phá ra tài năng của tác giả Gió Bấc và đồng thời tạo cơ hội cho Linh Bảo đi những bước tiếp theo vững vàng trên con đường văn nghiệp.
NHỮNG NGÀY MONTEREY
Năm 1972, tôi đi tu nghiệp ở Mỹ về ngành Y khoa Phục hồi / Rehabilitation Medicine tại quân y viện Letterman General Hospital, Presidio San Francisco. Trước khi đi, anh Lê Ngộ Châu đã dặn dò: "Anh Vinh sang đó phải tới thăm cho được chị Linh Bảo" cùng với một bức thư tay như một cái cớ để tôi có nhiệm vụ trao lại cho chị.
Một buổi sáng thứ Bảy cuối tuần, do có hẹn trước qua phone, chị Linh Bảo lái xe đến đón tôi tại một trạm xe bus Greyhound. Đã gặp chị ở Sài Gòn, nên không có chút gì ngỡ ngàng khi gặp lại nhưng lần này là trên đất Mỹ. Chị Linh Bảo lúc đó đang ở tuổi 46 có lẽ là thời gian đẹp nhất của chị. Linh Bảo có nét cứng cỏi khoẻ mạnh của một phụ nữ Tây phương nhưng vẫn giữ được nét đẹp hiền dịu Đông phương. Sáng hôm đó, cùng với chị đi thăm biển Monterey một ngày nắng đẹp, trời trong xanh, bãi biển với những thảm hoa đỏ rực, thấp thoáng nóc mấy nhà thờ cổ theo lối kiến trúc Tây Ban Nha. Đến buổi trưa mới về đến nhà, nhà chị trên một lưng đồi, tại đây tôi được gặp "ông Linh Bảo", là giáo sư Đại học Berkeley về sinh thái học/ ecology, cũng là lãnh vực mà tôi quan tâm. Được biết anh chị cũng vừa đi dự một hội nghị của American Institute of Biological Sciences ở Đại học Vermont từ miền Đông về. Ông ấy rất yêu thiên nhiên và quan tâm bảo vệ sự nguyên vẹn của các hệ sinh thái trên hành tinh này. Vẫn mơ một giấc mơ không thể được/ impossible dream, ông được Linh bảo gọi đùa làmad scientist; nhưng với tôi, ông mang tất cả vẻ đẹp trí tuệ của giới trí thức đại học Mỹ. Cao nguyên Tây Tạng luôn luôn được ông nhắc tới, là vùng ông quan tâm và chuẩn bị mộtfieldtrip tới đó nghiên cứu [đó là một xứ tuyết Tây Tạng của năm 1972 cách đây 43 năm, chưa bị Trung Quốc tàn phá đến tan hoang như bây giờ, ghi chú của người viết].
HÌNH VI_ Ngô Thế Vinh tới thăm nhà văn Linh Bảo
Monterey, California 1972 [photo by Adams, L.]
Về tới nhà, chị Linh Bảo quấn ngay tấm tablier vào bếp chăm sóc bữa ăn trưa cho ba người. Trong bận rộn nhưng không có vẻ gì tất bật, chị vẫn tươi cười ra vào hiện diện. Bữa ăn dọn ra đơn giản như một thứ fusion-cuisine nửa Việt nửa Mỹ, có món thịt nhưng không thiếu phần rau đậu, rất ngon miệng và giữa chủ và khách đã có ngay được mối thân tình.
Hai người đàn ông thì vẫn đằm mình trong những câu chuyện môi sinh mà chị Linh Bảo thì rất ít tham gia; sau bữa ăn bên ly cà phê, nghĩ rằng cũng đủ thân để chia xẻ chút riêng tư, với một chút hài hước "ông Linh Bảo" chuyển sang một câu chuyện khác, ông nói về kinh nghiệm khi cưới một người vợ Á Đông, khởi từ ý niệm về một phụ nữ hiền thục và tuân phục, rồi ông dí dỏm đưa ra nhận xét: "nhưng khi lấy Linh Bảo rồi, thì mới thấy họ là những người đàn bà có bàn tay sắt bọc nhung/ an iron hand in a velvet glove." Cả ba chúng tôi đều bật cười, nhưng cảm tưởng của khách viếng thăm là "ông Linh Bảo" đang sống những ngày rất hạnh phúc trong bàn tay sắt kìm kẹp ấy.
Buổi chiều, cả ba chúng tôi cùng đi thăm trường Defense Language Institute, Monterey, California, rất lớn nơi đây giảng dậy hơn ba chục ngôn ngữ trong đó có Việt ngữ, cho những người Mỹ trước khi tung họ đi các quốc gia trên khắp thế giới. Tới thăm một khu chăm sóc trẻ thương tật là nơi chị Linh Bảo tới làm thiện nguyện/ volunteer những ngày cuối tuần. Sau đó đi thăm một vòng bên trong thành phố Monterey, cho mãi tới sẩm chiều trước khi anh chị đưa tôi ra trạm Greyhound về lại San Francisco.
Trở về Việt Nam, ít lâu sau đó tôi nhận được thư chị Linh Bảo viết ngày 23-01-1973 gửi qua toà soạn Bách Khoa, chị viết: "Được thư và sách của anh, tôi mừng quá vì cứ tưởng anh đã bị ai bỏ bùa ngải quyến rũ đi Canada mất rồi. Anh có cách gì để tôi có thể mua số sách của anh cho sinh viên của tôi đọc được không? Đọc Vòng Đai Xanh tôi thích lắm vì đúng loại sách tôi đang muốn đọc để hiểu. Tại sao anh không nói chuyện về cô Như Nguyện của anh cho tôi nghe? Cô ấy chắc là tu nhiều kiếp rồi phải không? [Như Nguyện là nhân vật nữ trong Vòng Đai Xanh, ghi chú của người viết]. Tôi muốn về thăm nhà một chuyến... Monterey vừa rồi có tuyết, đó là chuyện mấy chục năm chưa từng có..." Linh Bảo.
LINH BẢO LITTLE SAIGON 1991
Sau những năm đèn sách "cải tạo" từ New York trở về California, tôi mới có dịp gặp lại chị Linh Bảo. Lần này qua một người bạn chung là chị Công Huyền Tôn Nữ Nha Trang, chị Nha Trang một Ph.D. của Đại học Berkeley có thời gian ở với chị Linh Bảo, để hoàn tất tác phẩmWomen's Writers of South Vietnam 1954- 1975. Chị Nha Trang và chồng William L. Pensinger là hai dịch giả cuốn Vòng Đai Xanh của tôi về sau này. [The Green Belt, Ivy House 2004].
HÌNH VII_ Nhà văn Linh Bảo đang nặn tượng Mẹ trong xưởng tranh tượng
của một đại học California [nguồn: Linh Bảo cung cấp]
Sau 1975, Linh Bảo hầu như hoàn toàn không viết và chị cũng chẳng mấy quan tâm tới những tác phẩm đã tạo nên văn nghiệp của mình. Linh Bảo thì lúc nào cũng vẫn như Một Cánh Diều sống lưu lạc ngoài Việt Nam, nhưng lòng thì vẫn khắc khoải hướng về quê nhà.
Linh Bảo đã ví thân phận những người Việt tha hương như những cánh diều, chỉ vì một cơn cuồng phong, cơn bão thời đại đã thổi bạt họ đi khắp mọi nơi trên thế giới:
"Trời đang xanh biếc, những đám mây nhẹ như tơ, trắng như tuyết, đang theo làn gió bay lang thang, vương vấn làm quen với bọn diều thì bỗng dưng có một trận gió lạ cuồn cuộn thổi đến. Bọn diều băng băng vượt mây lên thật cao: một số lớn bị đứt dây, và một số khác bị tuột. Cánh diều ngũ sắc không còn bị kiềm chế, tự do bay vùn vụt. Chúng như những chấm nhỏ li ti in trên nền trời xanh biếc. Gió thổi chúng lên núi, ra bể, đến thành thị, về thôn quê, gió thổi bạt chúng đi khắp mọi nơi...
Những cánh diều là những bọn người tha hương, một số đã bị đứt dây, đã thành mồ côi, đã mất liên lạc với quê hương, đã không còn một ai thân mến nữa... Một số bất đắc dĩ, hay tự nguyện làm cho mất gốc. Cảnh mất gốc này có người đau khổ mà chịu, có người tự tạo ra, cũng có người lấy làm hãnh diện về sự mất gốc của mình và cố tranh đấu để xoá tan những tàn tích còn vương lại. Có người còn liên lạc với gia đình, với quê hương, nhưng liệu tình yêu gia đình và quê hương có mạnh hơn lòng tham thụ hưởng những sung sướng vật chất và an nhàn nơi xứ người...
Lạy trời thổi ngọn gió hiền, ngày mai đưa những cánh diều tha hương trở về đất mẹ!" Những Cánh Diều, tr.5-7, Nxb Trí Đăng Saigon 1971
Nhưng chừng nào mà Đất Mẹ vẫn còn một chế độ "Nhốt Gió - tên một tác phẩm của nhà văn Bình Nguyên Lộc" ngăn chặn những ngọn gió hiền Dân Chủ thổi về, thì vẫn còn hơn ba triệu cánh diều tha hương vẫn cứ khắc khoải với " Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa" như câu thơ của văn hào Nguyễn Du từ hơn 200 năm cũ.
HÌNH VIII_ Chủ nhiệm Bách Khoa Lê Ngộ Châu thăm nhà văn Linh Bảo (1995) từ phải: Ngô Thế Vinh, Linh Bảo, Lê Ngộ Châu, Võ Phiến
TÌM LẠI THỜI GIAN ĐÃ MẤT 2015
Không còn cảm hứng viết văn, Linh Bảo có thêm nhiều thú vui mới khác: theo học các lớp vẽ tranh nặn tượng, làm đồ men sứ, học in hình trên đĩa, làm vườn, tập Yoga và cả luyện võ. Điều ít ai biết, nhà văn nữ Linh Bảo giỏi võ nghệ đã có huyền đai từ một võ đường của Bảo Truyền.
Linh Bảo hiện sống trong một ngôi nhà nhỏ nơi Thị trấn Giữa đường / Midway City, có vườn cây trái phía sau, một hồ cá Koi. Cùng sống trong ngôi nhà ấy là ba thế hệ cũng là ba thế giới: Linh Bảo, con gái và một cháu ngoại nay cũng tới cái tuổi tam thập nhi lập.
Nhà văn Linh Bảo sắp bước vào tuổi 90 [chị sinh sau nhà văn Nguyễn Thị Vinh hai năm, chỉ sau nhà văn Võ Phiến có 6 tháng - 20 tháng 10, 1925], chị còn minh mẫn, vẫn với giọng nói của Linh Bảo ngày nào, đọc sách không cần kính, lưng vẫn thẳng, dáng đi vững vàng, chị còn sinh hoạt độc lập.
Bài viết với cả chút riêng tư, như món quà sinh nhật sớm gửi tặng nhà văn Linh Bảo trước khi chị bước vào ngưỡng tuổi 90 xưa nay là hiếm.
NGÔ THẾ VINH
California, 4th of July 2015
|
|