Post by Huu Le on Feb 3, 2007 4:57:28 GMT 9
Hồ Bạch Thảo
Địa vị An Nam chí lược trong kho tàng lịch sử Việt Nam
Nếu bạn được học vỡ lòng tại Hoa Kỳ; chắc bạn còn nhớ tại các bậc tiểu học, trung học xứ này; hàng năm học sinh phải học một môn gọi là kỹ năng [skill] phân biệt giữa ý kiến [opinion] và sự kiện [fact]. Một học sinh lớp một [grade 1] có thể phân biệt được:
Con chó vàng [sự kiện]
Chó vàng thì đẹp [ý kiến]
Cao hơn, có thể biện biệt đâu là sự kiện, đâu là ý kiến trong câu nói nổi tiếng của ông Đặng Tiểu Bình:
Mèo trắng, mèo đen đều là mèo [sự kiện]
Đã là mèo thì phải biết bắt chuột. (Cho dù câu này đúng gần 100% cho mèo châu Á, nhưng cũng chỉ là ý kiến mà thôi, vì cũng có trường hợp nuôi mèo không phải để bắt chuột).
Sở dĩ phải mất công dạy đi, dạy lại về cách phân biệt giữa “ý kiến” và “sự kiện”; vì Hoa Kỳ là nước thực dụng, nền giáo dục nước họ muốn rèn luyện cho học sinh chú trọng đến “sự kiện”, còn “ý kiến” thì muôn người muôn ý, không đáng quan tâm nhiều. Bởi vậy đừng lấy làm lạ, khi được biết trên địa cầu này, có nhiều người chửi Mỹ [ý kiến] ra rả, nhưng không hề bị rụng một sợi lông chân; nhưng ngược lại, cố tình đi trái với lộ trình họ đã vạch sẵn [sự kiện], thì hãy coi chừng!
Người mình khác hơn, coi trọng ý kiến hơn là sự kiện. Như trường hợp bộ sử An Nam chí lược (ANCL) của Lê Trắc, một bộ sử xưa nhất của nước ta hiện còn tồn tại; đã bị người đời coi có mà như không: “Khi nghiên cứu đối chiếu chắc người ta có sử dụng ANCL, nhưng không chua xuất xứ. Sách dù có mà xem như không. Chắc vì tư cách của soạn giả, khiến người ta không thể dành cho một vài lời khuyến miễn, dù sách có giá trị đến mức nào.” [1]
Tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, Linh mục Cao Văn Luận, nguyên Viện trưởng viện Đại học Huế và một số cây bút khác cũng quá chú trọng đến một vài “ý kiến” trong ANCL; như gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị là yêu tặc, vua Nguyên dùng lời mạt sát vua ta v.v. Cao Viện trưởng viết trong Lời giới thiệu bản dịch ANCL như sau:
“Lê Tắc quên mình là người Việt, dựa vào lập trường và quan điểm của người Nguyên để soạn tập. Chẳng hạn như những lời nịnh hót a dua của tác giả, những đoạn văn kiêu ngạo tự tôn tự đại trình bày trong các chiếu chỉ của nhà Nguyên và trong bài tựa danh nhân hồi ấy, đều khiến cho chúng ta vô cùng uất ức và đau đớn.”
Ô hô! Chiếu chỉ vua Nguyên thuộc vào dạng sử liệu [historical documents], chẳng lẽ phải đợi đến lúc vua nước địch khen vua mình mới chép vào sử ư? Cái gọi Hai Bà Trưng là yêu tặc, chỉ là một ý kiến [opinion] trong trường hợp chẳng đặng đừng mà thôi; để tác giả có thể công bố sự kiện [fact] quan trọng cho đời sau: “người đàn bà Giao Chỉ Trưng Trắc làm phản, các quận Cửu Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng theo, cướp được 65 thành trì!” Hơn nữa, những ý kiến như “yêu tặc”, “giặc” chỉ là cái vỏ bọc ngoài của viên thuốc, giúp cho bộ sách được sống còn trước cặp mắt xoi mói rà soát của nhiều triều đại Trung Quốc, và nhờ đó ngày nay chúng ta mới có được nó, để dùng phương pháp thực dụng, tìm tòi những sử liệu quí giá, nhắm làm phong phú cho kho tàng lịch sử Việt nam. Theo chiều hướng này, xin được đi vào sự việc:
ANCL là một trong ba bộ sử đầu tiên của nước ta, hoàn thành vào đời Trần. Hai bộ kia đều thất truyền: một bộ tên là Việt chí, tác giả là Trần Phổ, không rõ đích xác hoàn tất vào năm nào; bộ thứ hai mang tên Đại Việt sử ký, tác giả Lê Văn Hưu, dâng lên vua Trần Thánh Tông vào năm Nhâm Thân [1272].
ANCL may mắn còn tồn tại, nó là bộ sử Việt Nam hiện nay có tuổi thọ cao nhất, và cũng nhờ nó ta biết được sự liên hệ giữa hai bộ sử thất truyền kia: ANCL ghi rằng Trần Phổ làm sách Việt chí, Lê Hưu thường tu sửa sách Việt chí, cả hai đều là người vào thời vua Trần Thái Tông [1225-1257] (Trần Phổ thường tác Việt chí, Lê Hưu thường tu Việt chí, câu Trần Thái vương thời nhân, Thái vương giả Trần Nhật Cảnh chi thụy).
Như vậy Lê Văn Hưu đã dùng bộ Việt chí làm gốc để trùng tu thành một bộ sử khác mang tên là Đại Việt sử ký. Tuy bộ Đại Việt sử ký bị thất truyền, nhưng dấu vết của nó còn thấy được qua bộ Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) của Ngô Sĩ Liên hoàn thành vào năm Hồng Đức thứ 10 [1479]; trong bộ sử này thỉnh thoảng lời phê của sử thần Lê Văn Hưu được chép nguyên văn.
Trở lại, hãy tìm hiểu về tác giả ANCL. Ông tên là Lê Trắc, người quê tại Đông Sơn, Ái Châu, nay là huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa; biệt hiệu là Cổ Ái. Thân thế tác giả có nhiều chỗ éo le. Ông nguyên gốc họ Nguyễn, sinh vào khoảng thập niên 1260, làm con nuôi người cậu nên đổi sang họ Lê là họ của người cậu. Qua tên hiệu trên sách “Cổ Ái, Đông Sơn, Lê Trắc biên”, tác giả gián tiếp giới thiệu quê quán mình thuộc vùng Đông Sơn, Ái Châu xưa, tức huyện Đông Sơn, Thanh Hóa ngày nay. Thời trai trẻ làm Mạc liêu [2] cho Chương Hiến hầu Trần Kiện. Kiện là cháu vua Trần Thánh Tông, cầm quân giao tranh với quân Nguyên tại Thanh Hóa, đánh lâu không được viện binh, nên đã đầu hàng giặc vào năm Ất Dậu [1285]; Trắc cũng theo chủ hợp tác với giặc. Khi quân Nguyên rút lui, Trần Kiện bị quân ta đuổi theo tại ải Chi Lăng và bắn chết, Trắc mang xác chủ chôn tại gò Khâu Ôn rồi chạy sang Trung Quốc [3] . Tại đây tưởng cần nhấn mạnh rằng thời nhà Trần không theo chế độ trung ương tập quyền như hiện nay, các Vương Hầu như Trần Kiện có binh lính quan lại riêng. Lê Trắc làm quan cho chủ là Trần Kiện, việc theo giặc ảnh hưởng bởi quyết định của chủ, riêng cảnh liều thân trong lửa đạn để an táng chủ, chứng tỏ là con người có nghĩa; xét hoàn cảnh theo giặc của Lê Trắc cũng có thể châm chước được một phần nào!
Sau khi sang Trung Quốc, ông làm quan tới chức Thị lang, định cư tại Hán Dương. Phải rời khỏi quê hương trong cơn chiến loạn nên vợ con bị thất lạc; sống tại nước ngoài 10 năm sau, ông lập gia đình lần thứ hai, lấy một cô gái Việt thuộc dòng dõi tôn thất triều nhà Lý. Tuy có tỳ vết theo giặc, nhưng phong cách của ông được nhiều danh sĩ Trung Quốc đương thời đề cao. Trình Cừ Phu viết tựa tập thơ của ông (Lê Cảnh Cao thi tự) ca tụng:
“Tôi không những yêu thơ mà lại mến tư cách của ông, cẩn thận nhưng không hẹp hòi, thông suốt nhưng không trôi nổi, đầm ấm như khí xuân, trong sáng như trời thu.”
Lúc trở về già, ông chuyên tâm về trước thuật, tự là Cảnh Cao, soạn bộ ANCL và các tác phẩm thơ văn khác.
*
ANCL là một tác phẩm lớn cả về lượng lẫn phẩm:
Về lượng, bộ sách gồm 20 quyển, hiện nay chỉ còn 19 quyển. Quyển thứ 20 gồm thơ văn các vị nổi tiếng ngâm vịnh về Việt Nam (Danh công đề vịnh An Nam chí) đã bị thất truyền.
Về phẩm, đây là một bộ sách của tư nhân được các triều đại Trung Quốc đưa vào làm sách của nhà nước, từ sách tư biến thành sách công! Vào đầu thế kỷ thứ 14 đời nhà Nguyên, bộ bách khoa toàn thư mang tên Kinh thế đại điển được ban hành, trong mục “An Nam điều” ghi như sau “Nay Lê Trắc soạn ANCL, các mục duyên cách [4] , địa lý, núi sông, sản vật, phong tục đều chính xác, nay lấy vào để làm phong phú thêm.”
Đời Càn Long nhà Thanh [1772] chỉnh đốn lại Tứ khố toàn thư [5] , ANCL lại được đưa vào kho sách này. ANCL được chép tay từ nhiều đời, nên không khỏi lâm vào cảnh sao chép nhiều lần, làm sai nguyên văn; đến năm Quang Tự thứ 10 [1884] Lạc Thiện Đường cho in tại Thượng Hải, năm 1986 Thương vụ Ấn quán in tại Đài Loan, năm 1979 Thượng Hải Cổ tịch Thư điếm in phục bản. Năm 1995 Trung Hoa Thư cục cho in tại Bắc Kinh, dùng bản Lạc Thiện Đường làm bản gốc, rồi khảo dị với hai bản kia.
ANCL được các triều đại Trung Quốc đánh giá cao bởi những lý do sau đây:
Đây là bộ sử về Việt Nam xưa nhất còn tồn tại. Bản thân tác giả có rất nhiều kinh nghiệm, trong vòng 10 năm trời đã lặn lội suốt nửa nước Việt Nam (Bộc sinh trưởng Nam Việt, thập tuế gian bôn tẩu bán quốc trung) [6] , lại hàm dưỡng rất sâu về kiến thức sử học của Trung Quốc. Cái cơ duyên về từng trải và học vấn mà tác giả có được cũng giống như công phu của sử gia nổi tiếng Tư Mã Thiên vậy [7] .
Bộ sử của Lê Trắc giá trị về chính xác cao, có khả năng đính chính những chỗ sai lầm trong sử Trung Quốc. Đây là một vinh dự, vì Trung Quốc là nước có kinh nghiệm lâu đời về nghề viết sử, có đủ khả năng để đính chính sử Trung Quốc không phải là điều dễ! Đơn cử một vài chỗ ANCL đính chính Nguyên sử như sau: Lý Công Uẩn giành ngôi từ nhà Lê chứ không phải nhà Đinh, Chương Hiến hầu Trần Kiện là con anh của vua Trần Thánh Tông, chứ không phải là con rể. Đạt được những ưu điểm như vậy nên Tứ khố giản minh mục lục [8] phải công nhận sử của Lê Trắc tường thuật đầy đủ rõ ràng, có thể dùng trợ giúp trong việc kê cứu cùng tham khảo (kỳ tha tự thuật diệc giai tường thiệm, tuân khả vi tham kê hỗ khảo chi trợ).
Với nội dung phong phú như đã đề cập, ANCL có những đóng góp lớn lao qua các bộ môn như lịch sử, địa lý, phong tục:
A. Lịch sử
Tại quyển thủ, tác giả trình bày lịch sử Việt Nam từ thời lập quốc cho đến triều đại nhà Trần. Ngoài phần tự sự từ đầu đến cuối như một bộ thông sử, ANCL còn có các chương chuyên khảo về lịch sử, đặc biệt về những vấn đề quan trọng trong việc bang giao giữa hai nước Việt-Hoa như:
Sao lục các chiếu thư của vua Trung Quốc gửi sang nước ta.
Liệt kê các sứ thần Trung Quốc đến nước ta, cùng những phúc trình của họ về chuyến đi.
Chép về các cuộc chiến tranh giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam.
Sao lục các biểu chương của vua ta gửi sang Trung Quốc.
Chép tiểu sử các viên Thứ sử, Thái thú cai trị tại nước ta dưới thời đô hộ.
Lược khảo về học hiệu, quan chế, lễ phục, pháp luật, binh chế của nước ta.
Liệt kê các sứ thần Việt Nam sang Trung Quốc.
Tiểu sử các danh nhân Việt Nam.
Thơ văn xướng họa giữa sứ thần nhà Nguyên cùng vua và các vương hầu đời Trần.
Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu một vài nét đặc trưng về những vấn đề nêu trên:
1. Chiếu thư của vua Trung Quốc gửi sang nước ta qua các triều đại
Các bộ sử của nước ta như ĐVSKTT chỉ ghi vắn tắt chiếu thư của vua Trung Quốc gửi sang nước ta vào thời điểm nào, chứ không chép nguyên văn. Riêng ANCL của Lê Trắc sao lục nguyên văn, cung cấp thêm nhiều sử liệu cần thiết.
Ví như, chiếu thư của vua Nguyên Thế Tổ gửi sang nước ta vào năm Ất Hợi [1275] nêu rõ 6 đòi hỏi: vua ta phải sang chầu, đưa con em sang làm con tin, nạp sổ hộ khẩu, nạp thuế, cung cấp lính và đặt quan Đạt Lỗ Hoa Xích tại nước ta để cai trị. Trải qua hai lần xâm lăng bị thua nên sự đòi hỏi qua các chiếu thư kế tiếp được rút bớt chỉ còn một điều duy nhất là bắt vua ta phải sang chầu. Đến năm Giáp Ngọ [1294] sau khi Nguyên Thế Tổ mất, Nguyên Thánh Tông đổi thái độ gửi sang nước ta một chiếu thư rất hòa nhã, không đòi một điều kiện nào khác, hứa bãi bỏ việc binh đao và trả Sứ thần ta về nước.
Nói tóm lại, qua những chiếu thư người đọc sử có thể thấy được phần nào chính sách của triều đình Trung Quốc đối với nước ta qua các thời điểm lịch sử.
2. Sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam
ANCL quyển ba, trong mục “Đại Nguyên phụng sứ” và “Tiền triều phụng sứ” liệt kê các sứ thần Trung Quốc sang Việt Nam; ghi rõ triều đại, tên họ, chức tước, cùng phụ lục tờ trình các chuyến đi.
Ví như chuyến đi năm Tân Mão [1291] của sứ thần nhà Nguyên, ĐVSKTT chỉ ghi vẻn vẹn rằng nhà Nguyên sai Thượng thư Trương Lập Đạo đến dụ vua ta sang chầu. Riêng ANCL ghi lại chuyến đi của Trương Lập Đạo với nhan đề “Trương Thượng thư hành lục” nội dung cung cấp những sử liệu rất sống động về cuộc hành trình, nghi thức giao tế, cùng những cuộc tranh luận giữa đôi bên.
3. Chinh thảo và chuyển vận lương thực
Trong chương “Chinh thảo vận hướng” thuộc quyển bốn ANCL; tác giả Lê Trắc chép về những cuộc xâm lăng nước ta từ thời Tần Thủy Hoàng thứ 33 (214 TCN) cho đến thời nhà Nguyên (1288). Đặc biệt hai lần quân Nguyên xâm lăng nước ta, bản thân tác giả có tham dự, nên sự việc nhiều chỗ được mô tả rất sống động, có ghi rõ ngày tháng. Tuy chi tiết có một vài chỗ khác với ĐVSKTT, hoàn cảnh tác giả lại đứng vào phe địch; nhưng mức độ khả tín của sử liệu có thể dùng để tham khảo được. Sau đây là bản dịch về hai cuộc xâm lăng, riêng những chữ trong ngoặc do người dịch thêm vào:
CUỘC XÂM LĂNG CỦA QUÂN NGUYÊN VÀO NĂM GIÁP THÂN [1284]
“Vào năm Trung Thống thứ 3 [1264] chế phong Trần Nhật Cảnh [vua Trần Thái Tông] làm An Nam Quốc vương. Dưới thời Chí Nguyên [Nguyên Thế Tổ] nhiều lần triệu Nhật Cảnh sang chầu, nhưng lấy cớ bị tật không chịu sang; mất vào năm Đinh Sửu [1277].
Thế tử Trần Nhật Huyễn [vua Trần Thánh Tông] kế vị; Thiên tử sai Sứ triệu sang chầu, vẫn lấy cớ tật bệnh từ chối. Vào đời Chí Nguyên năm Nhâm Ngọ [1282] Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Lưu Thâm, Tham chính A Lý điều binh đánh Chiêm Thành. Triều đình sai sứ dụ An Nam cho mượn đường, giúp quân cùng cấp lương; Thế tử không nghe lời.
Mùa đông năm Giáp Thân [1284] lại ra lệnh Trấn Nam vương Thoát Hoan cùng bọn Bình Chương A Lý Hải Nha tiến binh yểm trợ chiến dịch Chiêm Thành. Ngày 21 tháng 12 xuất phát từ châu Tư Minh đại quân chia đường đến biên giới An Nam. Vạn hộ La Hợp Đáp Nhi, Chiêu thảo A Thâm tiến quân từ phía tây qua huyện Khâu Ôn; Khiết Tiết Tán Lược Nhi, Vạn hộ Lý Bang Hiến tiến quân từ phía đông qua Cấp Lĩnh, đại quân của Trấn Nam vương theo sau. Cánh quân phía đông phá ải Khả Lợi, quan ải Anh Nhi, bắt được tên gián điệp Đỗ Vĩ đem chém. Người tôn trưởng là Hưng Đạo vương Trần Tuấn [Trần Quốc Tuấn] trấn thủ ải Nội Bàng bị đại quân đánh thua vào ngày 27, phải rút quân về trấn thủ châu Lạng Giang, quan quân lấy được vài chục chiếc thuyền. Cánh quân phía tây phá ải Chi Lăng tức Lão Thử quan.
Vào ngày 9 tháng giêng năm Ất Dậu [1285] Thế tử đem 10 vạn quân đại chiến tại Bài Than [Bình Than], bị quân của Nguyên soái Ô Mã Nhi, Chiêu thảo Nạp Bạn, Trấn phủ Tôn Đức Lâm đánh lui. Ngày 13 Thế tử đóng quân tại sông Lô [sông Hồng ngày nay] lại bị thua; quân của Trấn Nam vương lên bờ chiếm kinh thành [Thăng Long] chiêu an và làm lễ dâng tù. Ngày 21 phá ải Thiên Hán [Thiên Mạc], giết tướng Bảo Nghĩa hầu [Trần Bình Trọng]. Thế tử rút lui giữ ải Hải Thị, xây bệ cản bằng gỗ ngăn ngừa phía tây sông; quan quân trên dưới hai bên bắn chéo, quân Thế tử thua to.
Địa vị An Nam chí lược trong kho tàng lịch sử Việt Nam
Nếu bạn được học vỡ lòng tại Hoa Kỳ; chắc bạn còn nhớ tại các bậc tiểu học, trung học xứ này; hàng năm học sinh phải học một môn gọi là kỹ năng [skill] phân biệt giữa ý kiến [opinion] và sự kiện [fact]. Một học sinh lớp một [grade 1] có thể phân biệt được:
Con chó vàng [sự kiện]
Chó vàng thì đẹp [ý kiến]
Cao hơn, có thể biện biệt đâu là sự kiện, đâu là ý kiến trong câu nói nổi tiếng của ông Đặng Tiểu Bình:
Mèo trắng, mèo đen đều là mèo [sự kiện]
Đã là mèo thì phải biết bắt chuột. (Cho dù câu này đúng gần 100% cho mèo châu Á, nhưng cũng chỉ là ý kiến mà thôi, vì cũng có trường hợp nuôi mèo không phải để bắt chuột).
Sở dĩ phải mất công dạy đi, dạy lại về cách phân biệt giữa “ý kiến” và “sự kiện”; vì Hoa Kỳ là nước thực dụng, nền giáo dục nước họ muốn rèn luyện cho học sinh chú trọng đến “sự kiện”, còn “ý kiến” thì muôn người muôn ý, không đáng quan tâm nhiều. Bởi vậy đừng lấy làm lạ, khi được biết trên địa cầu này, có nhiều người chửi Mỹ [ý kiến] ra rả, nhưng không hề bị rụng một sợi lông chân; nhưng ngược lại, cố tình đi trái với lộ trình họ đã vạch sẵn [sự kiện], thì hãy coi chừng!
Người mình khác hơn, coi trọng ý kiến hơn là sự kiện. Như trường hợp bộ sử An Nam chí lược (ANCL) của Lê Trắc, một bộ sử xưa nhất của nước ta hiện còn tồn tại; đã bị người đời coi có mà như không: “Khi nghiên cứu đối chiếu chắc người ta có sử dụng ANCL, nhưng không chua xuất xứ. Sách dù có mà xem như không. Chắc vì tư cách của soạn giả, khiến người ta không thể dành cho một vài lời khuyến miễn, dù sách có giá trị đến mức nào.” [1]
Tại miền Nam Việt Nam trước năm 1975, Linh mục Cao Văn Luận, nguyên Viện trưởng viện Đại học Huế và một số cây bút khác cũng quá chú trọng đến một vài “ý kiến” trong ANCL; như gọi Trưng Trắc, Trưng Nhị là yêu tặc, vua Nguyên dùng lời mạt sát vua ta v.v. Cao Viện trưởng viết trong Lời giới thiệu bản dịch ANCL như sau:
“Lê Tắc quên mình là người Việt, dựa vào lập trường và quan điểm của người Nguyên để soạn tập. Chẳng hạn như những lời nịnh hót a dua của tác giả, những đoạn văn kiêu ngạo tự tôn tự đại trình bày trong các chiếu chỉ của nhà Nguyên và trong bài tựa danh nhân hồi ấy, đều khiến cho chúng ta vô cùng uất ức và đau đớn.”
Ô hô! Chiếu chỉ vua Nguyên thuộc vào dạng sử liệu [historical documents], chẳng lẽ phải đợi đến lúc vua nước địch khen vua mình mới chép vào sử ư? Cái gọi Hai Bà Trưng là yêu tặc, chỉ là một ý kiến [opinion] trong trường hợp chẳng đặng đừng mà thôi; để tác giả có thể công bố sự kiện [fact] quan trọng cho đời sau: “người đàn bà Giao Chỉ Trưng Trắc làm phản, các quận Cửu Chân, Nhật Nam đều hưởng ứng theo, cướp được 65 thành trì!” Hơn nữa, những ý kiến như “yêu tặc”, “giặc” chỉ là cái vỏ bọc ngoài của viên thuốc, giúp cho bộ sách được sống còn trước cặp mắt xoi mói rà soát của nhiều triều đại Trung Quốc, và nhờ đó ngày nay chúng ta mới có được nó, để dùng phương pháp thực dụng, tìm tòi những sử liệu quí giá, nhắm làm phong phú cho kho tàng lịch sử Việt nam. Theo chiều hướng này, xin được đi vào sự việc:
ANCL là một trong ba bộ sử đầu tiên của nước ta, hoàn thành vào đời Trần. Hai bộ kia đều thất truyền: một bộ tên là Việt chí, tác giả là Trần Phổ, không rõ đích xác hoàn tất vào năm nào; bộ thứ hai mang tên Đại Việt sử ký, tác giả Lê Văn Hưu, dâng lên vua Trần Thánh Tông vào năm Nhâm Thân [1272].
ANCL may mắn còn tồn tại, nó là bộ sử Việt Nam hiện nay có tuổi thọ cao nhất, và cũng nhờ nó ta biết được sự liên hệ giữa hai bộ sử thất truyền kia: ANCL ghi rằng Trần Phổ làm sách Việt chí, Lê Hưu thường tu sửa sách Việt chí, cả hai đều là người vào thời vua Trần Thái Tông [1225-1257] (Trần Phổ thường tác Việt chí, Lê Hưu thường tu Việt chí, câu Trần Thái vương thời nhân, Thái vương giả Trần Nhật Cảnh chi thụy).
Như vậy Lê Văn Hưu đã dùng bộ Việt chí làm gốc để trùng tu thành một bộ sử khác mang tên là Đại Việt sử ký. Tuy bộ Đại Việt sử ký bị thất truyền, nhưng dấu vết của nó còn thấy được qua bộ Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) của Ngô Sĩ Liên hoàn thành vào năm Hồng Đức thứ 10 [1479]; trong bộ sử này thỉnh thoảng lời phê của sử thần Lê Văn Hưu được chép nguyên văn.
Trở lại, hãy tìm hiểu về tác giả ANCL. Ông tên là Lê Trắc, người quê tại Đông Sơn, Ái Châu, nay là huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa; biệt hiệu là Cổ Ái. Thân thế tác giả có nhiều chỗ éo le. Ông nguyên gốc họ Nguyễn, sinh vào khoảng thập niên 1260, làm con nuôi người cậu nên đổi sang họ Lê là họ của người cậu. Qua tên hiệu trên sách “Cổ Ái, Đông Sơn, Lê Trắc biên”, tác giả gián tiếp giới thiệu quê quán mình thuộc vùng Đông Sơn, Ái Châu xưa, tức huyện Đông Sơn, Thanh Hóa ngày nay. Thời trai trẻ làm Mạc liêu [2] cho Chương Hiến hầu Trần Kiện. Kiện là cháu vua Trần Thánh Tông, cầm quân giao tranh với quân Nguyên tại Thanh Hóa, đánh lâu không được viện binh, nên đã đầu hàng giặc vào năm Ất Dậu [1285]; Trắc cũng theo chủ hợp tác với giặc. Khi quân Nguyên rút lui, Trần Kiện bị quân ta đuổi theo tại ải Chi Lăng và bắn chết, Trắc mang xác chủ chôn tại gò Khâu Ôn rồi chạy sang Trung Quốc [3] . Tại đây tưởng cần nhấn mạnh rằng thời nhà Trần không theo chế độ trung ương tập quyền như hiện nay, các Vương Hầu như Trần Kiện có binh lính quan lại riêng. Lê Trắc làm quan cho chủ là Trần Kiện, việc theo giặc ảnh hưởng bởi quyết định của chủ, riêng cảnh liều thân trong lửa đạn để an táng chủ, chứng tỏ là con người có nghĩa; xét hoàn cảnh theo giặc của Lê Trắc cũng có thể châm chước được một phần nào!
Sau khi sang Trung Quốc, ông làm quan tới chức Thị lang, định cư tại Hán Dương. Phải rời khỏi quê hương trong cơn chiến loạn nên vợ con bị thất lạc; sống tại nước ngoài 10 năm sau, ông lập gia đình lần thứ hai, lấy một cô gái Việt thuộc dòng dõi tôn thất triều nhà Lý. Tuy có tỳ vết theo giặc, nhưng phong cách của ông được nhiều danh sĩ Trung Quốc đương thời đề cao. Trình Cừ Phu viết tựa tập thơ của ông (Lê Cảnh Cao thi tự) ca tụng:
“Tôi không những yêu thơ mà lại mến tư cách của ông, cẩn thận nhưng không hẹp hòi, thông suốt nhưng không trôi nổi, đầm ấm như khí xuân, trong sáng như trời thu.”
Lúc trở về già, ông chuyên tâm về trước thuật, tự là Cảnh Cao, soạn bộ ANCL và các tác phẩm thơ văn khác.
*
ANCL là một tác phẩm lớn cả về lượng lẫn phẩm:
Về lượng, bộ sách gồm 20 quyển, hiện nay chỉ còn 19 quyển. Quyển thứ 20 gồm thơ văn các vị nổi tiếng ngâm vịnh về Việt Nam (Danh công đề vịnh An Nam chí) đã bị thất truyền.
Về phẩm, đây là một bộ sách của tư nhân được các triều đại Trung Quốc đưa vào làm sách của nhà nước, từ sách tư biến thành sách công! Vào đầu thế kỷ thứ 14 đời nhà Nguyên, bộ bách khoa toàn thư mang tên Kinh thế đại điển được ban hành, trong mục “An Nam điều” ghi như sau “Nay Lê Trắc soạn ANCL, các mục duyên cách [4] , địa lý, núi sông, sản vật, phong tục đều chính xác, nay lấy vào để làm phong phú thêm.”
Đời Càn Long nhà Thanh [1772] chỉnh đốn lại Tứ khố toàn thư [5] , ANCL lại được đưa vào kho sách này. ANCL được chép tay từ nhiều đời, nên không khỏi lâm vào cảnh sao chép nhiều lần, làm sai nguyên văn; đến năm Quang Tự thứ 10 [1884] Lạc Thiện Đường cho in tại Thượng Hải, năm 1986 Thương vụ Ấn quán in tại Đài Loan, năm 1979 Thượng Hải Cổ tịch Thư điếm in phục bản. Năm 1995 Trung Hoa Thư cục cho in tại Bắc Kinh, dùng bản Lạc Thiện Đường làm bản gốc, rồi khảo dị với hai bản kia.
ANCL được các triều đại Trung Quốc đánh giá cao bởi những lý do sau đây:
Đây là bộ sử về Việt Nam xưa nhất còn tồn tại. Bản thân tác giả có rất nhiều kinh nghiệm, trong vòng 10 năm trời đã lặn lội suốt nửa nước Việt Nam (Bộc sinh trưởng Nam Việt, thập tuế gian bôn tẩu bán quốc trung) [6] , lại hàm dưỡng rất sâu về kiến thức sử học của Trung Quốc. Cái cơ duyên về từng trải và học vấn mà tác giả có được cũng giống như công phu của sử gia nổi tiếng Tư Mã Thiên vậy [7] .
Bộ sử của Lê Trắc giá trị về chính xác cao, có khả năng đính chính những chỗ sai lầm trong sử Trung Quốc. Đây là một vinh dự, vì Trung Quốc là nước có kinh nghiệm lâu đời về nghề viết sử, có đủ khả năng để đính chính sử Trung Quốc không phải là điều dễ! Đơn cử một vài chỗ ANCL đính chính Nguyên sử như sau: Lý Công Uẩn giành ngôi từ nhà Lê chứ không phải nhà Đinh, Chương Hiến hầu Trần Kiện là con anh của vua Trần Thánh Tông, chứ không phải là con rể. Đạt được những ưu điểm như vậy nên Tứ khố giản minh mục lục [8] phải công nhận sử của Lê Trắc tường thuật đầy đủ rõ ràng, có thể dùng trợ giúp trong việc kê cứu cùng tham khảo (kỳ tha tự thuật diệc giai tường thiệm, tuân khả vi tham kê hỗ khảo chi trợ).
Với nội dung phong phú như đã đề cập, ANCL có những đóng góp lớn lao qua các bộ môn như lịch sử, địa lý, phong tục:
A. Lịch sử
Tại quyển thủ, tác giả trình bày lịch sử Việt Nam từ thời lập quốc cho đến triều đại nhà Trần. Ngoài phần tự sự từ đầu đến cuối như một bộ thông sử, ANCL còn có các chương chuyên khảo về lịch sử, đặc biệt về những vấn đề quan trọng trong việc bang giao giữa hai nước Việt-Hoa như:
Sao lục các chiếu thư của vua Trung Quốc gửi sang nước ta.
Liệt kê các sứ thần Trung Quốc đến nước ta, cùng những phúc trình của họ về chuyến đi.
Chép về các cuộc chiến tranh giữa hai nước Trung Quốc và Việt Nam.
Sao lục các biểu chương của vua ta gửi sang Trung Quốc.
Chép tiểu sử các viên Thứ sử, Thái thú cai trị tại nước ta dưới thời đô hộ.
Lược khảo về học hiệu, quan chế, lễ phục, pháp luật, binh chế của nước ta.
Liệt kê các sứ thần Việt Nam sang Trung Quốc.
Tiểu sử các danh nhân Việt Nam.
Thơ văn xướng họa giữa sứ thần nhà Nguyên cùng vua và các vương hầu đời Trần.
Sau đây chúng ta hãy tìm hiểu một vài nét đặc trưng về những vấn đề nêu trên:
1. Chiếu thư của vua Trung Quốc gửi sang nước ta qua các triều đại
Các bộ sử của nước ta như ĐVSKTT chỉ ghi vắn tắt chiếu thư của vua Trung Quốc gửi sang nước ta vào thời điểm nào, chứ không chép nguyên văn. Riêng ANCL của Lê Trắc sao lục nguyên văn, cung cấp thêm nhiều sử liệu cần thiết.
Ví như, chiếu thư của vua Nguyên Thế Tổ gửi sang nước ta vào năm Ất Hợi [1275] nêu rõ 6 đòi hỏi: vua ta phải sang chầu, đưa con em sang làm con tin, nạp sổ hộ khẩu, nạp thuế, cung cấp lính và đặt quan Đạt Lỗ Hoa Xích tại nước ta để cai trị. Trải qua hai lần xâm lăng bị thua nên sự đòi hỏi qua các chiếu thư kế tiếp được rút bớt chỉ còn một điều duy nhất là bắt vua ta phải sang chầu. Đến năm Giáp Ngọ [1294] sau khi Nguyên Thế Tổ mất, Nguyên Thánh Tông đổi thái độ gửi sang nước ta một chiếu thư rất hòa nhã, không đòi một điều kiện nào khác, hứa bãi bỏ việc binh đao và trả Sứ thần ta về nước.
Nói tóm lại, qua những chiếu thư người đọc sử có thể thấy được phần nào chính sách của triều đình Trung Quốc đối với nước ta qua các thời điểm lịch sử.
2. Sứ thần Trung Quốc đến Việt Nam
ANCL quyển ba, trong mục “Đại Nguyên phụng sứ” và “Tiền triều phụng sứ” liệt kê các sứ thần Trung Quốc sang Việt Nam; ghi rõ triều đại, tên họ, chức tước, cùng phụ lục tờ trình các chuyến đi.
Ví như chuyến đi năm Tân Mão [1291] của sứ thần nhà Nguyên, ĐVSKTT chỉ ghi vẻn vẹn rằng nhà Nguyên sai Thượng thư Trương Lập Đạo đến dụ vua ta sang chầu. Riêng ANCL ghi lại chuyến đi của Trương Lập Đạo với nhan đề “Trương Thượng thư hành lục” nội dung cung cấp những sử liệu rất sống động về cuộc hành trình, nghi thức giao tế, cùng những cuộc tranh luận giữa đôi bên.
3. Chinh thảo và chuyển vận lương thực
Trong chương “Chinh thảo vận hướng” thuộc quyển bốn ANCL; tác giả Lê Trắc chép về những cuộc xâm lăng nước ta từ thời Tần Thủy Hoàng thứ 33 (214 TCN) cho đến thời nhà Nguyên (1288). Đặc biệt hai lần quân Nguyên xâm lăng nước ta, bản thân tác giả có tham dự, nên sự việc nhiều chỗ được mô tả rất sống động, có ghi rõ ngày tháng. Tuy chi tiết có một vài chỗ khác với ĐVSKTT, hoàn cảnh tác giả lại đứng vào phe địch; nhưng mức độ khả tín của sử liệu có thể dùng để tham khảo được. Sau đây là bản dịch về hai cuộc xâm lăng, riêng những chữ trong ngoặc do người dịch thêm vào:
CUỘC XÂM LĂNG CỦA QUÂN NGUYÊN VÀO NĂM GIÁP THÂN [1284]
“Vào năm Trung Thống thứ 3 [1264] chế phong Trần Nhật Cảnh [vua Trần Thái Tông] làm An Nam Quốc vương. Dưới thời Chí Nguyên [Nguyên Thế Tổ] nhiều lần triệu Nhật Cảnh sang chầu, nhưng lấy cớ bị tật không chịu sang; mất vào năm Đinh Sửu [1277].
Thế tử Trần Nhật Huyễn [vua Trần Thánh Tông] kế vị; Thiên tử sai Sứ triệu sang chầu, vẫn lấy cớ tật bệnh từ chối. Vào đời Chí Nguyên năm Nhâm Ngọ [1282] Hữu thừa Toa Đô, Tả thừa Lưu Thâm, Tham chính A Lý điều binh đánh Chiêm Thành. Triều đình sai sứ dụ An Nam cho mượn đường, giúp quân cùng cấp lương; Thế tử không nghe lời.
Mùa đông năm Giáp Thân [1284] lại ra lệnh Trấn Nam vương Thoát Hoan cùng bọn Bình Chương A Lý Hải Nha tiến binh yểm trợ chiến dịch Chiêm Thành. Ngày 21 tháng 12 xuất phát từ châu Tư Minh đại quân chia đường đến biên giới An Nam. Vạn hộ La Hợp Đáp Nhi, Chiêu thảo A Thâm tiến quân từ phía tây qua huyện Khâu Ôn; Khiết Tiết Tán Lược Nhi, Vạn hộ Lý Bang Hiến tiến quân từ phía đông qua Cấp Lĩnh, đại quân của Trấn Nam vương theo sau. Cánh quân phía đông phá ải Khả Lợi, quan ải Anh Nhi, bắt được tên gián điệp Đỗ Vĩ đem chém. Người tôn trưởng là Hưng Đạo vương Trần Tuấn [Trần Quốc Tuấn] trấn thủ ải Nội Bàng bị đại quân đánh thua vào ngày 27, phải rút quân về trấn thủ châu Lạng Giang, quan quân lấy được vài chục chiếc thuyền. Cánh quân phía tây phá ải Chi Lăng tức Lão Thử quan.
Vào ngày 9 tháng giêng năm Ất Dậu [1285] Thế tử đem 10 vạn quân đại chiến tại Bài Than [Bình Than], bị quân của Nguyên soái Ô Mã Nhi, Chiêu thảo Nạp Bạn, Trấn phủ Tôn Đức Lâm đánh lui. Ngày 13 Thế tử đóng quân tại sông Lô [sông Hồng ngày nay] lại bị thua; quân của Trấn Nam vương lên bờ chiếm kinh thành [Thăng Long] chiêu an và làm lễ dâng tù. Ngày 21 phá ải Thiên Hán [Thiên Mạc], giết tướng Bảo Nghĩa hầu [Trần Bình Trọng]. Thế tử rút lui giữ ải Hải Thị, xây bệ cản bằng gỗ ngăn ngừa phía tây sông; quan quân trên dưới hai bên bắn chéo, quân Thế tử thua to.