Post by Vĩnh Long on Apr 15, 2007 1:24:54 GMT 9
Akutagawa Ryuunosuke, Shiga Naoya,
Hai ðỉnh cao, hai phong cách của thể loại truyện ngắn Nhật Bản
Nguyễn Nam Trân
Các Moga (Modern Girls ), phụ nữ mới Nhật Bản thời Taishô (1912-26)
TIẾT I : AKUTAGAWA RYUUNOSUKE (Giới Xuyên, Long Chi Giới, 1892-1927)
A) Con Ngýời Và Tác Phẩm
Ông là con gia ðình Niihara, ðýợc ðặt tên Ryuu (Long = con rồng) vì sinh nhằm giờ thìn, ngày thìn, tháng thìn, nãm thìn. Ra ðời không ðýợc bao lâu thì bà mẹ ðẻ phát bệnh tâm thần nên phải ðem về phía họ hàng bên mẹ (Akutagawa) ðể nuôi. Ông cho biết mình ðýợc nuôi bằng sữa bò thay vì sữa mẹ. Cha nuôi là Akutagawa Michiaki (Ðạo Chýõng, Dôshô). Họ Akutagawa xýa kia ðời ðời vốn giữ chức hầu lễ trà ðạo trong phủ chúa, ðến thế hệ Michiaki vẫn còn giữ ðýợc nếp vãn nhân, tao nhã (bunjin). Ðó là ðiểm khởi hành của Akutagawa nhà vãn.
Ông có khiếu vãn chýõng từ hồi tiểu học. Học rất giỏi, ðến nổi vào trýờng Ikkô (Dự Bị Ðại Học Tôkyô) ðýợc miễn thi. Mối tình ðầu của ông là cô Yoshida Yayoi (Cát Ðiền, Di Sinh), con gái ngýời quen với gia ðình. Ông ðịnh cầu hôn nhýng gia ðình lại ngãn cản . Sự kiện nầy làm ông chán ngán cái xấu xa, ích kỷ của ngýời ðời và ôm lấy ý nghĩ bi quan " sinh ra làm ngýời ðã là khổ rồi ". Ðó cũng là cõ sở triết lý của Rashômon (La Sinh Môn), tác phẩm nổi tiếng của ông.
Từ trái qua : Kume Masao, Matsuoka Yuzuru, Akutagawa và Naruse Seiichi thời sinh viên (1917)
Ông là nhà vãn tiêu biểu của phái Shinshichô " Tý Trào Mới ". Trong lần tái bản lần thứ 5 của tạp chí, số ra mắt (tháng 2/1916), ông ðã cho ðãng truyện ngắn Hana (Cái Mũi) và ðýợc Natsume Sôseki nhiệt liệt tán thýởng nhý sau:
"Truyện của ông viết thực hay. Ðiềm ðạm, không ðùa cợt, cứ kể tự nhiên mà làm cho ngýời ta thấy buồn cýời một cách nhẹ nhàng. Hõn nữa chất liệu dùng trong truyện lại rất mới mẻ. Vãn từ gọn gàng, trình bày ðầy ðủ những ðiểm cần thiết. Tôi phục lắm. Cứ tiếp tục viết thêm ðộ hai ba mýõi tác phẩm nhý vậy thì ông sẽ trở thành một nhân tài hiếm có của vãn ðàn cho xem ".
Truyện Hana nói trên lấy cảm hứng từ Konjaku Monogatari (Kim Tích Vật Ngữ) " Truyện Giờ Ðã Xýa ". Trong giai ðoạn ðầu tiên, khi sáng tác, ông hay mýợn ðề tài từ Konjaku hay Uji Shuui Monogatari (Vũ Trị Thập Di Vật Ngữ) " Truyện do ông gián quan ở Uji chép nhặt lại ", hai tác phẩm của thời trung cổ. Chẳng hạn các truyện ngắn Rashômon "Cổng La Sinh Môn"(1915), Imogayu (Vu Chúc) "Cháo Khoai" (1916), Jigokuhen (Ðịa Ngục Biến) " Bức bình phong tả cảnh ðịa ngục" (1918)...
Phạm vi ðề tài và không gian của Akutagawa dần dần nới rộng. Gesaku Zanmai "Hứng sáng tác" (1917), Kareno shô " Cành ðồng khô" lấy bối cảnh thời Edo (1918); Hyôkyônin no shi "Cái chết của một con chiên" (1918), Kirinutsohoroshônin-den (1919) "Truyện thánh Christopher" viết về thời ngoại quốc ðến truyền giáo; Butôkai (Vũ Ðạp Hội) "Tiệc Khiêu Vũ" (1920), Hina "Mấy con búp bê" (1923) nói về sự tiếp thu vãn minh Âu Tây thời Meiji. Ngoài ra còn có Kumo no Ito (Sợi Tõ Nhện), Toshishun " Cậu Ðỗ Tử Xuân" (1920) mýợn ðề tài Ấn Ðộ và Trung Quốc ðời Ðýờng.
Những tác phẩm vừa kể ðã chứng tỏ tài nãng ông nhý một nhà nghệ thuật nhýng bỗng nhiên, nãm Taishô thứ 9 (1920), nhân viết Aki (Thu), ông thoát ly lập trýờng "nghệ thuật vị nghệ thuật" và, sau giai ðoạn tiểu thuyết gọi là Yasukichi-mono (truyện với nhân vật chính tên là Yasukichi, có lẽ là chính tác giả), bắt ðầu býớc vào lãnh vực tiểu thuyết tự thuật (shi-shôsetsu hay watakushi-shôsetsu) với Daidôji Shinsuke no hansei (Ðại Ðạo Tự Tín Phù bán sinh) "Thời trẻ của chàng Daidoji Shinsuke"(1925). Cuối ngýời ta cho rằng một phần vì dao ðộng trýớc những biến ðộng xã hội dýới sức ép của cao trào vãn học vô sản, một phần sức khoẻ suy sụp do thần kinh suy nhýợc (có dính líu ðến bệnh ðiên của ngýời mẹ), ông ở trong một trạng thái bất an thýờng trực. Phải chãng vì thế mà ông ðã miêu tả trạng thái tinh thần của chính mình trong Shinkirô (Thẩn Khí Lâu) "Ảo Ảnh Cuộc Ðời" (1927) và Kappa (Hà Ðồng) "Xã hội thủy quái Kappa" (1927) và sau ðó, tự kết liễu ðời mình bằng ðộc dýợc.
Akutagawa : " Ðời ngýời không ðẹp bằng một câu thõ của Baudelaire ".
Cái chết của Akutagawa ðýợc xem nhý týợng trýng cho số phận của trí thức, ðã gây nhiều xúc ðộng cho ngýời ðýõng thời. Ông ðể lại di cảo Haguruma "Trong Guồng Máy", Aru aho no isshô "Truyện ðời một thằng ngốc". Một tác phẩm ông viết khoảng nãm 1923-1925 và ðýợc in ra sau khi ông mất (tháng 12/1927) nhan ðề Shujuu nokotoba[1] "Lời phát biểu của một ngýời hèn kém" có những nhận ðịnh nhý sau:
- Ðời ngýời:
Ðời ngýời giống nhý cái hộp diêm. Ðừng có dại mà dùng nó vào chuyện lớn. Dùng vào chuyện lớn là nguy hiểm.
Ðời ngýời giống nhý quyển sách thiếu nhiều trang. Khó thể gọi nó là quyển ðýợc. Nhýng nó lại là một quyển ðấy.
- Tý týởng nguy hiểm
Tý týởng nguy hiểm là những tý týởng ðýợc ðem ra áp dụng vào ðời thýờng.
B) Triết Lý Vãn Chýõng Và Bút Pháp Akutagawa
Hãy thử ðiểm qua các tác phẩm nổi tiếng của ông. Hana là ðoản thiên mýợn ý truyện nói về cái mũi dài quá khổ của một nhà sý, chép trong Uji Shuui. Sý Zenchi chùa Ike-no-O của Akutagawa khổ sở vì muốn làm cho mũi ngắn lại, giống nhý con ngýời ta khổ sở vì quá chú ý về mình trong khi những kẻ chung quanh lại vô tình có ác ý. Rashômon lấy cảm hứng từ Konjaku qua câu truyện một tên trộm khám phá ðống xác ngýời chết bỏ trên lầu cổng thành Rashômon. Triết lý của nó nằm ở chỗ con ngýời vì muốn sống còn nên phải nhúng tay vào ðiều ác, và chỉ khi nào làm một ðiều ác khác mới ngãn chặn ðýợc ðiều ác ðó. Nhân sinh quan của một con ngýời lúc ðó mới 24 tuổi nhý Akutagawa quả là quá ðậm màu sắc yếm thế. Trong ðoạn kết của Rashômon, tên ngýời ở sau khi trách mụ già ðã làm ðiều ác là nhổ tóc xác chết kết thành búi tóc giả ðem ði bán, lại lột quần áo mụ:
"- Vậy ta có lột quần áo mụ, mụ cũng ðừng có hận. Không lột mụ, ta cũng thành ma ðói"
Tên ngýời ở nhanh nhẹn lột hết quần áo mụ già. Thế rồi giữa khi mụ còn ðang ðeo cứng vào chân, hắn hung bạo ðá phốc mụ ta lên trên ðống xác chết. Từ chỗ hắn ðứng ðến cầu thang chỉ cách có nãm býớc. Tên ngýời ở ôm lấy mớ áo quần màu nâu vỏ dà, lật ðật xuống thang rồi mất hút vào bóng tối.
Trong Kappa (Hà ðồng), Akutagawa thác ngụ thế thái nhân tình của thời ðại ông vào xã hội của loài thủy quái Kappa. Tác phẩm phản ánh nỗi buồn và sự chán ghét cuộc sống của ông. Haguruma " Trong Guồng Máy" là một thế giới mà nhân vật chính nhìn thấy qua huyễn ảnh, còn "ðịa ngục hõn cả ðịa ngục ". Nó ðánh dấu những ngày tháng cuối cùng ông sống trong thác loạn thần kinh, có những câu khiến ðộc giả phải rùng mình :
Ðó là một kinh nghiệm mà cả ðời tôi chýa hề biết.Tôi hết sức cầm bút ðể viết tiếp nữa rồi.Tôi không thể sống mà chịu ðau khổ nhý thế nầy mãi. Có ai ðó chịu ðợi tôi ngủ mà bóp cổ giùm cho tôi chết ði không ?
Về sự "thất bại của lý trí", chính Akutagawa ðã nhận ðịnh nhý thế này trong Aru aho no isho (Truyện ðời một thằng ngốc):
"Hắn giýõng ðôi cánh nhân tạo ra, tung tãng bay býợn trong bầu trời. Cùng một lúc, bao nhiêu niềm vui nỗi buồn của ðời ngýời chan hòa ánh sáng của lý trí ðang hạ thấp xuống dýới tầm mắt hắn. Hắn tung những câu nói mỉa mai và nụ cýời chế nhạo trên các phố phýờng ðang thu nhỏ lại, bay vút lên vòm cao không thoáng gợn về hýớng mặt trời, dýờng nhý quên bẵng chuyện cái ngýời Hy Lạp [2]ngày xýa, vào lúc ðó, cũng mang ðôi cánh nhân tạo bị mặt trời thiêu cháy và rõi vùn vụt xuống biển mà chết."
Sau ðây là ðôi lời ông phát biểu trong thý tuyệt mệnh gửi cho Kume Masao, ngýời bạn thân và cũng là vãn hữu trong nhóm Trào Lýu Mới.
"Tôi chýa thấy ai viết ra một cách không che ðậy về tâm lý của một ngýời tự sát. Lý do có thể là ngýời sắp tự sát còn chút lòng tự trọng hoặc bản thân họ thấy tâm lý ngýời ở trong cảnh ngộ của mình không có gì hấp dẫn ðể mà tìm hiểu. Tuy vậy, trong lá thý cuối cùng tôi gửi cho cậu ðây, tôi muốn thuật lại thật rõ ràng tâm lý ấy, nhýng nếu bảo tôi không ðặc biệt cho cậu biết ðộng cõ nào ðã ðẩy tôi ðến chỗ tự sát thì cũng ðýợc. Régnier [3]trong một truyện ngắn của ông có lần miêu tả ngýời tự sát. Anh chàng vai chính trong truyện này cũng chẳng biết lý do tại sao anh ta muốn kết liễu ðời mình. Chắc khi cậu mở trang ba mục tin lặt vặt mấy tờ báo cũng nhận ra ðýợc là có biết bao nhiêu ðộng cõ có thể thúc ðẩy ngýời ta ðến chỗ tự sát, nào là cuộc sống khó khãn, bệnh hoạn dày vò hay ðau khổ tinh thần. Nhýng theo kinh nghiệm của tôi, tất cả những thứ ðó chỉ là một phần của ðộng cõ. Cùng lắm nó chỉ là những cái mốc ðánh dấu những chặn ðýờng ðýa ðến ðộng cõ ấy mà thôi. Có lẽ ngýời tự sát, giống nhý Régnier ðã miêu tả, không biết lý do gì ðýa anh ta ðến chỗ chết. Nó cũng giống nhý hành vi của ta vẫn thýờng xuất phát từ nhiều ðộng cõ phức tạp. Riêng trýờng hợp của tôi thì chỉ là nỗi lo âu mõ hồ. Làm nhý có một sự lo lắng bàng bạc về týõng lai. Cậu có thể không tin lời tôi nói vì không ai chung quanh ðã sống hoàn cảnh týõng tự của tôi suốt mýời nãm qua. Vì thế, dù cậu có coi lời của tôi ðây nhý tiếng hát tan vào cõn gió thoảng, tôi sẽ chẳng trách cậu ðâu."
(Trích dịch Thý gửi một ngýời bạn cũ - Aru kyuyuu e okuru shuki)
Cãn nhà ở Tabata (Tôkyô), nõi Akutagawa tự sát
Trong ðêm 23 tháng 7 nãm 1927, ông ðã bình tĩnh uống một lần hai loại thuốc ngủ trí mạng dù vợ ðã biết trýớc và canh phòng kỹ lýỡng. Thuốc ở ðâu ra, ông viết cho biết có một ngýời ðàn bà nào ðó mang ðến. Thế thôi! [4] Miyamoto Kenji bảo ông týợng trýng cho "sự thất trận của vãn chýõng tiểu tý sản (petit bourgeois)". Kobayashi Hideo, ngýợc lại, ca ngợi mỹ học của ông và ðổ cho ðịnh mệnh éo le[5].
Donald Keene [6] cũng nhý nhiều nhà bình luận thýờng nhấn mạnh về ảnh hýởng bệnh tật của bà mẹ ruột ðối với tâm tính ông. Một ngýời mẹ mặt xám xịt nhý thây ma, có thể suốt ngày ngồi không nói không rằng, lâu lâu lại lấy ống ðiếu cốc ðầu thằng bé con, chả bù với bà mẹ nuôi dịu dàng mà ông rất yêu quý. La Sinh Môn ðýợc ông coi nhý một trong những tác phẩm "lạc quan" nhất của mình mà ðã ðậm màu sắc chán ðời. Rashomon là cái cổng thành bề thế (nhýng sau lýng không có cái thành nào) giống nhý cái bản mặt (men) của vũ sĩ ðạo oai nghiêm nhýng trong ðó chất chứa nhiều tàn ác và giả dối ðã làm cho Akutagawa hoài nghi về giá trị của vãn hóa nói riêng và con ngýời nói chung. Trong La Sinh Môn, ngoài mýõi dòng ðầu ông mýợn ở "Truyện giờ ðã xýa," cảnh thành phố Kyôto trung cổ ðýợc ông phác họa theo Phýõng trýợng ký (Hôjôki) của Kamo no Chomei [7]. Truyện thẩm tra hiện tại bằng cách sử dụng tý liệu quá khứ là một nét ðặc biệt của vãn chýõng "truyện cũ viết lại" (cố sự tân biên) [8] của ông.
Sự hoài nghi, bi quan trong vãn ông thýờng ðýợc kèm theo cái tàn khốc trong lối miêu tả nhý khi ông viết về Kyôto của thế kỷ XII khi bị thiên tai tàn phá (trong La Sinh Môn hay Bọn ðạo tặc (Chuto) chẳng hạn), hay Nagasaki thế kỷ XVI chung quanh những cảnh cực hình thời cấm ðạo.
Ông ðã tìm thấy trong vũ sĩ ðạo, khuôn vàng thýớc ngọc của ngýời Nhật Bản có cái gì giả tạo vì ðầy kịch tính. Ngýời mẹ xé nát chiếc mùi - soa (trong Chiếc mùi soa) ðể ghìm không cho sự ðau khổ lộ ra ngýời ngoài biết, rốt cục cũng chỉ làm theo một phýõng pháp diễn xuất có cái tên là... vãn hóa vì nó ði ngýợc lại sự chân thành tự phát, vốn là bản tính ðích thực của con ngýời [9].
Ngoài cái bóng ðen của bà mẹ trùm lên suốt cuộc ðời, Akutagawa còn nhận ảnh hýởng lớn lao của nhà vãn Natsume Sôseki, một ngýời ông rất ái mộ. Chúng ta biết Sôseki là một nhà trí thức mang một tâm sự u uất, nhất là từ sau những nãm tháng du học London trở về. Chính Sôseki ðã nhận chân ðýợc tài nãng và khuyến khích ông cứ ðeo ðuổi nghề vãn cho dù lối viết của mình không ðýợc sự tán thýởng của ðộc giả chãng nữa. Tháng 12 nãm 1916, khi Sôseki mất, ông giữ ấn týợng sâu ðậm về nhà vãn bậc thầy này. Ngýời ta thấy ảnh hýởng của Sôseki với chủ ðề "sự ích kỷ của ngýời ðời" qua Cánh ðồng khô, trong ðó, ðám ðệ tử của thi hào Bashô họp lại chung quanh giýờng bệnh của thầy mà chỉ nghĩ những lợi lộc của chính bản thân họ một mai khi thầy không còn nữa. Nhà nghiên cứu ngýời Mỹ Donald Keene cũng nhắc cho ta là chủ ðề về lòng ích kỷ từng ðýợc khai triển bởi nhà vãn La Rochefoucauld, theo ðó "ngay cả lúc hành ðộng một cách cao thýợng, con ngýời cũng vâng theo một ðộng cõ: ðó là lòng ích kỷ của họ". Lòng ích kỷ còn thấy cả trong Sợi tõ nhện (Kumo no ito), 1918, khi tên cýớp Kandata dầu ðã ðýợc Ðức Phật cứu giúp thoát khỏi cảnh trầm luân hỏa ngục, ðã vì lòng ích kỷ mà ðánh mất dịp may cuối cùng của chính mình và biết bao ngýời khác.
Thái ðộ trí thức khô khan, lạnh lùng khi trực diện với nhân vật và sự tình trong truyện ngắn, ông ðã học hỏi ðýợc ở một ngýời ði trýớc khác: Mori Ôgai. Ít nhất ðây cũng là ý kiến của nhà phê bình Nakamura Shin.ichirô, ngýời cho rằng Ôgai ðã trao cho Akutagawa chìa khóa của sự thành công trong lĩnh vực nghệ thuật khi truyền thụ một cách gián tiếp lối viết tiểu thuyết lịch sử kiểu Tây phýõng, trong ðó, ngýời viết cần giữ một khoảng cách với nhân vật mình tạo ra. Từ ðó, Akutagawa chỉ sử dụng lịch sử nhý một bàn ðạp ðể giải thích nó theo quan ðiểm của cá nhân ông. Anh chàng Goi (ngũ vị), tên gọi theo chức quan hạng bét ở Kyôto thèm ãn cháo khoai phải lặn lội xa xôi, ðến khi có cháo trong tay thì lại chán không muốn ãn nữa, chẳng phải là một trýờng hợp cá biệt mà týợng trýng cho tính phổ quát (universality) con ngýời vào bất cứ thời ðại nào.
Hai ðỉnh cao, hai phong cách của thể loại truyện ngắn Nhật Bản
Nguyễn Nam Trân
Các Moga (Modern Girls ), phụ nữ mới Nhật Bản thời Taishô (1912-26)
TIẾT I : AKUTAGAWA RYUUNOSUKE (Giới Xuyên, Long Chi Giới, 1892-1927)
A) Con Ngýời Và Tác Phẩm
Ông là con gia ðình Niihara, ðýợc ðặt tên Ryuu (Long = con rồng) vì sinh nhằm giờ thìn, ngày thìn, tháng thìn, nãm thìn. Ra ðời không ðýợc bao lâu thì bà mẹ ðẻ phát bệnh tâm thần nên phải ðem về phía họ hàng bên mẹ (Akutagawa) ðể nuôi. Ông cho biết mình ðýợc nuôi bằng sữa bò thay vì sữa mẹ. Cha nuôi là Akutagawa Michiaki (Ðạo Chýõng, Dôshô). Họ Akutagawa xýa kia ðời ðời vốn giữ chức hầu lễ trà ðạo trong phủ chúa, ðến thế hệ Michiaki vẫn còn giữ ðýợc nếp vãn nhân, tao nhã (bunjin). Ðó là ðiểm khởi hành của Akutagawa nhà vãn.
Ông có khiếu vãn chýõng từ hồi tiểu học. Học rất giỏi, ðến nổi vào trýờng Ikkô (Dự Bị Ðại Học Tôkyô) ðýợc miễn thi. Mối tình ðầu của ông là cô Yoshida Yayoi (Cát Ðiền, Di Sinh), con gái ngýời quen với gia ðình. Ông ðịnh cầu hôn nhýng gia ðình lại ngãn cản . Sự kiện nầy làm ông chán ngán cái xấu xa, ích kỷ của ngýời ðời và ôm lấy ý nghĩ bi quan " sinh ra làm ngýời ðã là khổ rồi ". Ðó cũng là cõ sở triết lý của Rashômon (La Sinh Môn), tác phẩm nổi tiếng của ông.
Từ trái qua : Kume Masao, Matsuoka Yuzuru, Akutagawa và Naruse Seiichi thời sinh viên (1917)
Ông là nhà vãn tiêu biểu của phái Shinshichô " Tý Trào Mới ". Trong lần tái bản lần thứ 5 của tạp chí, số ra mắt (tháng 2/1916), ông ðã cho ðãng truyện ngắn Hana (Cái Mũi) và ðýợc Natsume Sôseki nhiệt liệt tán thýởng nhý sau:
"Truyện của ông viết thực hay. Ðiềm ðạm, không ðùa cợt, cứ kể tự nhiên mà làm cho ngýời ta thấy buồn cýời một cách nhẹ nhàng. Hõn nữa chất liệu dùng trong truyện lại rất mới mẻ. Vãn từ gọn gàng, trình bày ðầy ðủ những ðiểm cần thiết. Tôi phục lắm. Cứ tiếp tục viết thêm ðộ hai ba mýõi tác phẩm nhý vậy thì ông sẽ trở thành một nhân tài hiếm có của vãn ðàn cho xem ".
Truyện Hana nói trên lấy cảm hứng từ Konjaku Monogatari (Kim Tích Vật Ngữ) " Truyện Giờ Ðã Xýa ". Trong giai ðoạn ðầu tiên, khi sáng tác, ông hay mýợn ðề tài từ Konjaku hay Uji Shuui Monogatari (Vũ Trị Thập Di Vật Ngữ) " Truyện do ông gián quan ở Uji chép nhặt lại ", hai tác phẩm của thời trung cổ. Chẳng hạn các truyện ngắn Rashômon "Cổng La Sinh Môn"(1915), Imogayu (Vu Chúc) "Cháo Khoai" (1916), Jigokuhen (Ðịa Ngục Biến) " Bức bình phong tả cảnh ðịa ngục" (1918)...
Phạm vi ðề tài và không gian của Akutagawa dần dần nới rộng. Gesaku Zanmai "Hứng sáng tác" (1917), Kareno shô " Cành ðồng khô" lấy bối cảnh thời Edo (1918); Hyôkyônin no shi "Cái chết của một con chiên" (1918), Kirinutsohoroshônin-den (1919) "Truyện thánh Christopher" viết về thời ngoại quốc ðến truyền giáo; Butôkai (Vũ Ðạp Hội) "Tiệc Khiêu Vũ" (1920), Hina "Mấy con búp bê" (1923) nói về sự tiếp thu vãn minh Âu Tây thời Meiji. Ngoài ra còn có Kumo no Ito (Sợi Tõ Nhện), Toshishun " Cậu Ðỗ Tử Xuân" (1920) mýợn ðề tài Ấn Ðộ và Trung Quốc ðời Ðýờng.
Những tác phẩm vừa kể ðã chứng tỏ tài nãng ông nhý một nhà nghệ thuật nhýng bỗng nhiên, nãm Taishô thứ 9 (1920), nhân viết Aki (Thu), ông thoát ly lập trýờng "nghệ thuật vị nghệ thuật" và, sau giai ðoạn tiểu thuyết gọi là Yasukichi-mono (truyện với nhân vật chính tên là Yasukichi, có lẽ là chính tác giả), bắt ðầu býớc vào lãnh vực tiểu thuyết tự thuật (shi-shôsetsu hay watakushi-shôsetsu) với Daidôji Shinsuke no hansei (Ðại Ðạo Tự Tín Phù bán sinh) "Thời trẻ của chàng Daidoji Shinsuke"(1925). Cuối ngýời ta cho rằng một phần vì dao ðộng trýớc những biến ðộng xã hội dýới sức ép của cao trào vãn học vô sản, một phần sức khoẻ suy sụp do thần kinh suy nhýợc (có dính líu ðến bệnh ðiên của ngýời mẹ), ông ở trong một trạng thái bất an thýờng trực. Phải chãng vì thế mà ông ðã miêu tả trạng thái tinh thần của chính mình trong Shinkirô (Thẩn Khí Lâu) "Ảo Ảnh Cuộc Ðời" (1927) và Kappa (Hà Ðồng) "Xã hội thủy quái Kappa" (1927) và sau ðó, tự kết liễu ðời mình bằng ðộc dýợc.
Akutagawa : " Ðời ngýời không ðẹp bằng một câu thõ của Baudelaire ".
Cái chết của Akutagawa ðýợc xem nhý týợng trýng cho số phận của trí thức, ðã gây nhiều xúc ðộng cho ngýời ðýõng thời. Ông ðể lại di cảo Haguruma "Trong Guồng Máy", Aru aho no isshô "Truyện ðời một thằng ngốc". Một tác phẩm ông viết khoảng nãm 1923-1925 và ðýợc in ra sau khi ông mất (tháng 12/1927) nhan ðề Shujuu nokotoba[1] "Lời phát biểu của một ngýời hèn kém" có những nhận ðịnh nhý sau:
- Ðời ngýời:
Ðời ngýời giống nhý cái hộp diêm. Ðừng có dại mà dùng nó vào chuyện lớn. Dùng vào chuyện lớn là nguy hiểm.
Ðời ngýời giống nhý quyển sách thiếu nhiều trang. Khó thể gọi nó là quyển ðýợc. Nhýng nó lại là một quyển ðấy.
- Tý týởng nguy hiểm
Tý týởng nguy hiểm là những tý týởng ðýợc ðem ra áp dụng vào ðời thýờng.
B) Triết Lý Vãn Chýõng Và Bút Pháp Akutagawa
Hãy thử ðiểm qua các tác phẩm nổi tiếng của ông. Hana là ðoản thiên mýợn ý truyện nói về cái mũi dài quá khổ của một nhà sý, chép trong Uji Shuui. Sý Zenchi chùa Ike-no-O của Akutagawa khổ sở vì muốn làm cho mũi ngắn lại, giống nhý con ngýời ta khổ sở vì quá chú ý về mình trong khi những kẻ chung quanh lại vô tình có ác ý. Rashômon lấy cảm hứng từ Konjaku qua câu truyện một tên trộm khám phá ðống xác ngýời chết bỏ trên lầu cổng thành Rashômon. Triết lý của nó nằm ở chỗ con ngýời vì muốn sống còn nên phải nhúng tay vào ðiều ác, và chỉ khi nào làm một ðiều ác khác mới ngãn chặn ðýợc ðiều ác ðó. Nhân sinh quan của một con ngýời lúc ðó mới 24 tuổi nhý Akutagawa quả là quá ðậm màu sắc yếm thế. Trong ðoạn kết của Rashômon, tên ngýời ở sau khi trách mụ già ðã làm ðiều ác là nhổ tóc xác chết kết thành búi tóc giả ðem ði bán, lại lột quần áo mụ:
"- Vậy ta có lột quần áo mụ, mụ cũng ðừng có hận. Không lột mụ, ta cũng thành ma ðói"
Tên ngýời ở nhanh nhẹn lột hết quần áo mụ già. Thế rồi giữa khi mụ còn ðang ðeo cứng vào chân, hắn hung bạo ðá phốc mụ ta lên trên ðống xác chết. Từ chỗ hắn ðứng ðến cầu thang chỉ cách có nãm býớc. Tên ngýời ở ôm lấy mớ áo quần màu nâu vỏ dà, lật ðật xuống thang rồi mất hút vào bóng tối.
Trong Kappa (Hà ðồng), Akutagawa thác ngụ thế thái nhân tình của thời ðại ông vào xã hội của loài thủy quái Kappa. Tác phẩm phản ánh nỗi buồn và sự chán ghét cuộc sống của ông. Haguruma " Trong Guồng Máy" là một thế giới mà nhân vật chính nhìn thấy qua huyễn ảnh, còn "ðịa ngục hõn cả ðịa ngục ". Nó ðánh dấu những ngày tháng cuối cùng ông sống trong thác loạn thần kinh, có những câu khiến ðộc giả phải rùng mình :
Ðó là một kinh nghiệm mà cả ðời tôi chýa hề biết.Tôi hết sức cầm bút ðể viết tiếp nữa rồi.Tôi không thể sống mà chịu ðau khổ nhý thế nầy mãi. Có ai ðó chịu ðợi tôi ngủ mà bóp cổ giùm cho tôi chết ði không ?
Về sự "thất bại của lý trí", chính Akutagawa ðã nhận ðịnh nhý thế này trong Aru aho no isho (Truyện ðời một thằng ngốc):
"Hắn giýõng ðôi cánh nhân tạo ra, tung tãng bay býợn trong bầu trời. Cùng một lúc, bao nhiêu niềm vui nỗi buồn của ðời ngýời chan hòa ánh sáng của lý trí ðang hạ thấp xuống dýới tầm mắt hắn. Hắn tung những câu nói mỉa mai và nụ cýời chế nhạo trên các phố phýờng ðang thu nhỏ lại, bay vút lên vòm cao không thoáng gợn về hýớng mặt trời, dýờng nhý quên bẵng chuyện cái ngýời Hy Lạp [2]ngày xýa, vào lúc ðó, cũng mang ðôi cánh nhân tạo bị mặt trời thiêu cháy và rõi vùn vụt xuống biển mà chết."
Sau ðây là ðôi lời ông phát biểu trong thý tuyệt mệnh gửi cho Kume Masao, ngýời bạn thân và cũng là vãn hữu trong nhóm Trào Lýu Mới.
"Tôi chýa thấy ai viết ra một cách không che ðậy về tâm lý của một ngýời tự sát. Lý do có thể là ngýời sắp tự sát còn chút lòng tự trọng hoặc bản thân họ thấy tâm lý ngýời ở trong cảnh ngộ của mình không có gì hấp dẫn ðể mà tìm hiểu. Tuy vậy, trong lá thý cuối cùng tôi gửi cho cậu ðây, tôi muốn thuật lại thật rõ ràng tâm lý ấy, nhýng nếu bảo tôi không ðặc biệt cho cậu biết ðộng cõ nào ðã ðẩy tôi ðến chỗ tự sát thì cũng ðýợc. Régnier [3]trong một truyện ngắn của ông có lần miêu tả ngýời tự sát. Anh chàng vai chính trong truyện này cũng chẳng biết lý do tại sao anh ta muốn kết liễu ðời mình. Chắc khi cậu mở trang ba mục tin lặt vặt mấy tờ báo cũng nhận ra ðýợc là có biết bao nhiêu ðộng cõ có thể thúc ðẩy ngýời ta ðến chỗ tự sát, nào là cuộc sống khó khãn, bệnh hoạn dày vò hay ðau khổ tinh thần. Nhýng theo kinh nghiệm của tôi, tất cả những thứ ðó chỉ là một phần của ðộng cõ. Cùng lắm nó chỉ là những cái mốc ðánh dấu những chặn ðýờng ðýa ðến ðộng cõ ấy mà thôi. Có lẽ ngýời tự sát, giống nhý Régnier ðã miêu tả, không biết lý do gì ðýa anh ta ðến chỗ chết. Nó cũng giống nhý hành vi của ta vẫn thýờng xuất phát từ nhiều ðộng cõ phức tạp. Riêng trýờng hợp của tôi thì chỉ là nỗi lo âu mõ hồ. Làm nhý có một sự lo lắng bàng bạc về týõng lai. Cậu có thể không tin lời tôi nói vì không ai chung quanh ðã sống hoàn cảnh týõng tự của tôi suốt mýời nãm qua. Vì thế, dù cậu có coi lời của tôi ðây nhý tiếng hát tan vào cõn gió thoảng, tôi sẽ chẳng trách cậu ðâu."
(Trích dịch Thý gửi một ngýời bạn cũ - Aru kyuyuu e okuru shuki)
Cãn nhà ở Tabata (Tôkyô), nõi Akutagawa tự sát
Trong ðêm 23 tháng 7 nãm 1927, ông ðã bình tĩnh uống một lần hai loại thuốc ngủ trí mạng dù vợ ðã biết trýớc và canh phòng kỹ lýỡng. Thuốc ở ðâu ra, ông viết cho biết có một ngýời ðàn bà nào ðó mang ðến. Thế thôi! [4] Miyamoto Kenji bảo ông týợng trýng cho "sự thất trận của vãn chýõng tiểu tý sản (petit bourgeois)". Kobayashi Hideo, ngýợc lại, ca ngợi mỹ học của ông và ðổ cho ðịnh mệnh éo le[5].
Donald Keene [6] cũng nhý nhiều nhà bình luận thýờng nhấn mạnh về ảnh hýởng bệnh tật của bà mẹ ruột ðối với tâm tính ông. Một ngýời mẹ mặt xám xịt nhý thây ma, có thể suốt ngày ngồi không nói không rằng, lâu lâu lại lấy ống ðiếu cốc ðầu thằng bé con, chả bù với bà mẹ nuôi dịu dàng mà ông rất yêu quý. La Sinh Môn ðýợc ông coi nhý một trong những tác phẩm "lạc quan" nhất của mình mà ðã ðậm màu sắc chán ðời. Rashomon là cái cổng thành bề thế (nhýng sau lýng không có cái thành nào) giống nhý cái bản mặt (men) của vũ sĩ ðạo oai nghiêm nhýng trong ðó chất chứa nhiều tàn ác và giả dối ðã làm cho Akutagawa hoài nghi về giá trị của vãn hóa nói riêng và con ngýời nói chung. Trong La Sinh Môn, ngoài mýõi dòng ðầu ông mýợn ở "Truyện giờ ðã xýa," cảnh thành phố Kyôto trung cổ ðýợc ông phác họa theo Phýõng trýợng ký (Hôjôki) của Kamo no Chomei [7]. Truyện thẩm tra hiện tại bằng cách sử dụng tý liệu quá khứ là một nét ðặc biệt của vãn chýõng "truyện cũ viết lại" (cố sự tân biên) [8] của ông.
Sự hoài nghi, bi quan trong vãn ông thýờng ðýợc kèm theo cái tàn khốc trong lối miêu tả nhý khi ông viết về Kyôto của thế kỷ XII khi bị thiên tai tàn phá (trong La Sinh Môn hay Bọn ðạo tặc (Chuto) chẳng hạn), hay Nagasaki thế kỷ XVI chung quanh những cảnh cực hình thời cấm ðạo.
Ông ðã tìm thấy trong vũ sĩ ðạo, khuôn vàng thýớc ngọc của ngýời Nhật Bản có cái gì giả tạo vì ðầy kịch tính. Ngýời mẹ xé nát chiếc mùi - soa (trong Chiếc mùi soa) ðể ghìm không cho sự ðau khổ lộ ra ngýời ngoài biết, rốt cục cũng chỉ làm theo một phýõng pháp diễn xuất có cái tên là... vãn hóa vì nó ði ngýợc lại sự chân thành tự phát, vốn là bản tính ðích thực của con ngýời [9].
Ngoài cái bóng ðen của bà mẹ trùm lên suốt cuộc ðời, Akutagawa còn nhận ảnh hýởng lớn lao của nhà vãn Natsume Sôseki, một ngýời ông rất ái mộ. Chúng ta biết Sôseki là một nhà trí thức mang một tâm sự u uất, nhất là từ sau những nãm tháng du học London trở về. Chính Sôseki ðã nhận chân ðýợc tài nãng và khuyến khích ông cứ ðeo ðuổi nghề vãn cho dù lối viết của mình không ðýợc sự tán thýởng của ðộc giả chãng nữa. Tháng 12 nãm 1916, khi Sôseki mất, ông giữ ấn týợng sâu ðậm về nhà vãn bậc thầy này. Ngýời ta thấy ảnh hýởng của Sôseki với chủ ðề "sự ích kỷ của ngýời ðời" qua Cánh ðồng khô, trong ðó, ðám ðệ tử của thi hào Bashô họp lại chung quanh giýờng bệnh của thầy mà chỉ nghĩ những lợi lộc của chính bản thân họ một mai khi thầy không còn nữa. Nhà nghiên cứu ngýời Mỹ Donald Keene cũng nhắc cho ta là chủ ðề về lòng ích kỷ từng ðýợc khai triển bởi nhà vãn La Rochefoucauld, theo ðó "ngay cả lúc hành ðộng một cách cao thýợng, con ngýời cũng vâng theo một ðộng cõ: ðó là lòng ích kỷ của họ". Lòng ích kỷ còn thấy cả trong Sợi tõ nhện (Kumo no ito), 1918, khi tên cýớp Kandata dầu ðã ðýợc Ðức Phật cứu giúp thoát khỏi cảnh trầm luân hỏa ngục, ðã vì lòng ích kỷ mà ðánh mất dịp may cuối cùng của chính mình và biết bao ngýời khác.
Thái ðộ trí thức khô khan, lạnh lùng khi trực diện với nhân vật và sự tình trong truyện ngắn, ông ðã học hỏi ðýợc ở một ngýời ði trýớc khác: Mori Ôgai. Ít nhất ðây cũng là ý kiến của nhà phê bình Nakamura Shin.ichirô, ngýời cho rằng Ôgai ðã trao cho Akutagawa chìa khóa của sự thành công trong lĩnh vực nghệ thuật khi truyền thụ một cách gián tiếp lối viết tiểu thuyết lịch sử kiểu Tây phýõng, trong ðó, ngýời viết cần giữ một khoảng cách với nhân vật mình tạo ra. Từ ðó, Akutagawa chỉ sử dụng lịch sử nhý một bàn ðạp ðể giải thích nó theo quan ðiểm của cá nhân ông. Anh chàng Goi (ngũ vị), tên gọi theo chức quan hạng bét ở Kyôto thèm ãn cháo khoai phải lặn lội xa xôi, ðến khi có cháo trong tay thì lại chán không muốn ãn nữa, chẳng phải là một trýờng hợp cá biệt mà týợng trýng cho tính phổ quát (universality) con ngýời vào bất cứ thời ðại nào.