Post by Vĩnh Long on Apr 15, 2007 2:24:55 GMT 9
Chữ quốc ngữ bành trýớng từ Nam ra Bắc
Nguyễn Phú Phong
1. Chữ quốc ngữ buổi ðầu ở Nam Kỳ thuộc Pháp
Từ quốc ngữ dùng ở chýõng này dùng ðể chỉ tiếng Việt và chữ viết theo mẫu tự La Tinh. Tình hình dạy quốc ngữ ở Nam Kỳ từ buổi ðầu Pháp mới chiếm ðóng có những ðiểm ðáng nêu ra sau ðây.
Ngày 17.2.1859, ngay khi ðổ bộ lên Sài Gòn, ðô ðốc R. de Genouilly ðã thấy có mặt tại ðây một chủng viện và một truờng học gọi là Trýờng d'Adran do Hội Truyền Giáo Nýớc Ngoài thiết lập. Học sinh trýờng này học ðọc và học viết chữ quốc ngữ. Họ cũng ðýợc học tiếng LaTinh, ðôi khi vài chữ/tiếng Pháp nhýng rất hiếm. Dĩ nhiên, quân viễn chinh Pháp phải nhờ ðến Hội Truyền Giáo ðể ðýợc cung cấp những ngýời thông ngôn ðầu tiên; các ngýời này về ngoại ngữ chỉ biết tiếng La Tinh, nhýng một thứ tiếng La Tinh tồi.
Nãm 1861, một trýờng dạy tiếng Việt ðýợc thiết lập ở Sài Gòn ðể ðào tạo những viên thông ngôn ngýời Pháp, các ngýời này về sau trở thành những giáo sý ðầu tiên về bộ môn tiếng Việt. Học viên ngýời Âu của trýờng này ðều xuất thân từ bộ binh hoặc hải quân Pháp. Ðiều ðáng ghi nhận là trýờng này vốn là cõ sở hành chánh chứ không phải giáo dục.
Ngày 31.3.1863, ðô ðốc Bonard ra quyết ðịnh tái lập các hạt giáo dục cũ (do nhà Nguyễn thiết lập) với các chức ðốc học, giáo thọ, huấn ðạo; tạo chỗ cho học sinh các loại: học sanh, tú tài, cử nhân; tái lập các cuộc thi hýõng (mà kỳ ðầu tiên phải ðýợc thực hiện nãm 1864). Kiến thức về chữ quốc ngữ không bắt buộc trong các kỳ thi nhýng thí sinh biết thứ chữ viết này ðýợc ýu ðãi hõn.
Bắt ðầu nãm 1866, việc dạy tiếng Pháp cho ngýời Việt Nam ðýợc khởi sự nhýng vẫn còn nằm trong tay các giáo sĩ; giáo hội lần hồi mở trýờng ở Mỹ Tho, Vĩnh Long và Chợ Lớn. Các trýờng học nhà dòng ðýợc chính quyền thuộc ðịa trợ cấp, ðã phát triển ðáng kể trong 5 nãm trời.
Dýới thời ðô ðốc Ohier, nãm 1869, một số trýờng ðýợc lần lýợt mở ra ở Cần Thõ, Sóc Trãng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Cần Giộc, Ích Thanh (?), ðể dạy cho bọn tráng niên chữ quốc ngữ và những bài vỡ lòng tiếng Pháp.
Ngày 17.11.1874, ðô ðốc Dupré ra quyết ðịnh tổ chức lại hoàn toàn nền giáo dục quốc dân. Nền giáo dục này ðýợc tuyên bố là miễn phí và tự do, tuân theo qui ðịnh chung của giáo dục quốc dân ở Pháp. Việc giáo dục (ở Nam Kỳ lúc ðó) chịu mệnh lệnh trực tiếp của giám ðốc nội vụ và ðặt dýới sự giám sát của các trýờng quận mà trách nhiệm thuộc về các viên chức hành chánh.
Các trýờng làng dạy chữ Hán bị bãi bỏ hoặc sáp nhập vào trýờng ở quận lỵ, biến thành một trýờng duy nhất dạy chữ quốc ngữ. Có sáu trung tâm thanh tra: Sài gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc Trãng, mỗi nõi ðều có một trýờng Pháp.
Có thể nói rằng buổi ðầu thời Nam Kỳ thuộc ðịa Pháp, tổ chức giáo dục ở ðây còn ðang trong thời kỳ mò mẫm, việc ðem chữ quốc ngữ thay thế hẳn chữ nôm và chữ Hán có khi phải khựng lại, bằng chứng là việc tái lập các chức ðốc học, giáo thọ, huấn ðạo, và tổ chức lại các cuộc thi hýõng.
Việc thứ hai ðáng ghi nhận là giáo dục ðýợc ðặt dýới quyền của một viên chức nội vụ, tức là phụ trách an ninh.
Nhận xét thứ ba là vì nhu cầu hành chánh mà ngýời Pháp lúc bấy giờ học tiếng Việt và những ngýời này ðều xuất thân từ quân ðội.
Có một sự khác biệt lớn giữa ngýời Việt và ngýời Pháp hay ngýời ngoại quốc trong việc học quốc ngữ. Ngýời Việt học quốc ngữ là học ðọc và học viết tiếng mẹ; ngữ nghĩa và cú pháp tiếng Việt họ ðã nắm. Còn ngýời ngoại quốc học quốc ngữ thì phải rèn luyện cú pháp, ngữ nghĩa, ðọc và viết. Ngýời Việt học chữ Hán không phải học viết mà thôi mà còn học ðọc, học nghĩa, học cách dùng, tóm lại là học một ngoại ngữ.
Nói chung býớc ðầu của chữ quốc ngữ ở miền Nam gặp nhiều khó khãn vì nhiều lý do. Tại những ngýời chủ xýớng là ngoại nhân ði chinh phục. Tại họ là những quân nhân chỉ lấy những biện pháp cấp thời ðể giải quyết những vấn ðề giai ðoạn nên không có một cái nhìn lâu dài. Tại việc giáo dục mới mà chữ quốc ngữ là công cụ chuyển tải chính mặc dù có những kiện týớng nhý Trýõng Vĩnh Ký, Trýõng Minh Ký, Huyụnh Tịnh Của, phải ðýõng ðầu với một hàng ngũ còn hùng mạnh thuộc trýờng học Hán-nôm truyền thống mà ðại diện là các nhà nho yêu nýớc nhý Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Vãn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, v.v. Cuộc ðối ðịch không thuần xảy ra giữa hai chữ viết của một ngôn ngữ mà còn giữa hai thái ðộ chính trị, hợp tác và chống ðối; giữa các tôn giáo, ðạo Ky Tô một bên, và Nho, Ðạo và Phật, bên kia.
2. Chữ quốc ngữ lan rộng ra phía Bắc
Sau khi ðýợc sử dụng làm chữ viết "chính thức" của tiếng Việt ở Nam Kỳ thuộc Pháp, chữ quốc ngữ bành trýớng ra phía Bắc. Những biến cố lịch sử có tác ðộng vào, hoặc ðánh dấu lên, sự bành trýớng này là:
- Ngày 15.3.1874, Triều ðình Huế ký hiệp ýớc thừa nhận chủ quyền Pháp trên lãnh thổ Nam Kỳ, từ ðịa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào Nam.
- Ngày 25.4.1882, Pháp ðánh chiếm Hà Nội lần thứ hai. Hà Nội thất thủ, Tổng ðốc Hoàng Diệu tử tiết.
- 25.8.1883, Triều ðình Huế ký với Pháp hiệp ýớc Harmand thừa nhận Nam Kỳ là thuộc ðịa Pháp, thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
- 6.6.1884, Triều ðình Huế và Pháp ký hiệp ýớc Patenôtre theo ðó nýớc Pháp sẽ thay mặt nýớc An Nam trong mọi quan hệ ðối ngoại. Nhý vậy từ ðây chữ/tiếng Hán nhýờng býớc cho chữ/tiếng Pháp trên mặt ngoại giao. Một cách lặng lẽ trong các cuộc giao thiệp quốc tế, tiếng Việt/chữ quốc ngữ hoàn toàn vắng bóng, chịu sự "bảo hộ" của tiếng Pháp.
- 27.1.1886, Tổng thống Pháp bổ nhiệm Paul Bert sang cai trị Trung-Bắc Kỳ, mở ðầu chế ðộ vãn quan thay chế ðộ võ quan trýớc ðó. Cũng nãm này Paul Bert thiết lập Bãc Kỳ Hàn lâm viện (Académie Tonkinoise).
- 1895, Phan Ðình Phùng mất, phong trào Cần Výõng mà Phan là chủ týớng cũng tắt theo. Bài thõ tuyệt bút của Phan Ngự sử nói lên tâm sự của một ngýời bầy tôi phò vua cứu nýớc theo quan niệm của một nhà nho yêu nýớc truyền thống ðýợc viết bằng Hán vãn.
- 1896, Toàn quyền Ðông Dýõng ra nghị ðịnh cho thành lập một trýờng Pháp-Việt ở Huế, gọi là Trýờng Quốc học Huế.
- 6.6.1898, Toàn quyền Ðông Dýõng ðặt thêm một kỳ thi phụ cho khoa thi Hýõng trýờng thi Nam Ðịnh. Môn thi gồm nãm bài tiếng Pháp: viết tập, chính tả, dịch Pháp ra Việt, hội thoại, ðọc và dịch miệng (hệ số 5); chính tả tiếng Việt (hệ số 3); bài dịch từ Hán vãn ra tiếng Việt (hệ số 4). Ai ðã ðỗ tú tài, cử nhân kỳ thi Hýõng chính mà còn ðỗ cả kỳ phụ sẽ ðýợc ýu tiên chọn ra làm quan.
Việc ðýa tiếng Pháp làm môn thi ở Trýờng Nam Ðịnh là một biến cố quan trọng vì tính cách biểu týợng của trýờng thi này trong chế ðộ khoa cử theo nho học của Việt Nam. Trần Vãn Giáp (1941: 2) có nói qua lịch sử tỉnh Nam từ ðời Hùng Výõng ðể kết luận: "Trong khoảng một trãm nãm trýớc ðây, tỉnh Nam-ðịnh sở dĩ có tiếng, toàn quốc thiếu-niên nào bậc anh-tuấn, nào ngýời ngu-ðộn, ai ai cũng chú-trọng ðến tỉnh Nam, là vì có trýờng-thi hýõng ở ðó."
- 15.12.1898, Toàn quyền Ðông Dýõng Paul Doumer ra nghị ðịnh thành lập Phái ðoàn Khảo cổ học Thýờng trực tại Ðông Dýõng (Mission Archéologique Permanente en Indochine), ðến 20.10.1900 ðổi gọi là Trýờng Viễn Ðông Bác Cổ (Ecole Française d"Extrême-Orient) .
- 30.12.1898, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh về chế ðộ báo chí ở Ðông Dýõng.
- 20.6.1903, Thống sứ Bắc Kỳ ra nghị ðịnh thành lập Trýờng Hậu bổ Hà Nội (Ecole d"apprentis mandarins) theo chỉ thị ngày 9.2.1897 của Tổng thý ký Phủ Toàn quyền Ðông Dýõng. Ngày 18.4.1912 Trýờng Hậu bổ Hà Nội ðổi thành Trýờng Sĩ hoạn (Ecole des Mandarins). Ngày 15.10.1917, Toàn quyền Ðông Dýõng ra nghị ðịnh lập Trýờng Pháp chính Ðông Dýõng (Ecole de Droit et d"Administration) thay cho hai trýờng Sĩ hoạn Hà Nội và Hậu bổ Huế (thiết lập ngày 5.5.1911).
- 27.4.1904, Pháp cho thiết lập chýõng trình giáo dục hệ Pháp-Việt ở Bắc kỳ.
- 5.1904, Thành lập Hội Duy Tân ở Quảng Nam. Hội này do Kỳ Ngoại Hầu Cýờng Ðể làm hội trýởng mà mục ðích là Khôi phục nýớc Việt Nam, lập thành nýớc quân chủ lập hiến. (Xin ðừng lẫn lộn Hội Duy Tân với Phong trào Duy Tân do Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng chủ xýớng.)
- 7.1905, Mở ðầu Phong trào Ðông du của Duy Tân hội. Phan Bội Châu viết Khuyến quốc dân du học vãn.
- 8.3.1906, Toàn quyền Ðông Dýõng cho thiết lập Hội ðồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ (Conseil de Perfectionnement de l"enseignement indigène).
Nhý vậy từ ðầu thế kỷ 20 trở ði, sau khi cuộc ðấu tranh vũ trang của Phong trào Cần Výõng tan rã, nýớc Việt Nam dýới mắt ngýời Pháp, xem nhý ðã dýợc bình ðịnh, nhà cầm quyền Pháp bắt ðầu ðặt ðể những cõ chế về hành chánh, giáo dục ðể cai trị các xứ thuộc ðịa và bảo hộ. Các cõ chế chính quyền của Triều ðình nhà Nguyễn dần dần hoặc bị thay thế hoặc bị làm suy yếu ði không còn thực quyền. Hán học, nền tảng của công cuộc ðào tạo sĩ phu, quan chức nhà Nguyễn, theo ðó cũng tàn tạ nhýờng chỗ cho lớp quan chức mới xuất thân từ các trýờng Pháp-Việt. Chữ quốc ngữ từ trong Nam lan ra ðất Bắc, xen vào các kỳ thi; biết quốc ngữ trở thành một yêu cầu ðể býớc vào quan trýờng. Tuy vậy vào cuối thế kỷ 19, những býớc ðầu của quốc ngữ ở miền Bắc còn rất e dè, nhý lời tự thuật của nhà nho Nguyễn Bá Học: "Tôi lúc mới học quốc-ngữ thýờng không dám học to tiếng, chợt có khách ðến phải giấu ngay sách vào trong túi áo, hình nhý có hai mýõi bốn mẫu-tự quốc ngữ, là một cái sách bí-mật cấm thý". (xem Cụ Nguyễn-Bá-Học, Nam Phong, số 50, aoủt 1921, tr. 167).
3. Býớc ngoặt quyết ðịnh của chữ quốc ngữ
Nhýng býớc ngoặt quyết ðịnh dẫn ðến sự thành công của chữ quốc ngữ là do chính các nhà nho trong hàng ngũ Phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục.
Phong trào Duy Tân phát ðộng từ nãm 1905 ở Quảng Nam với ba lãnh tụ: Trần Quý Cáp (1871-1908), quê huyện Ðiện Bàn, Quảng Nam, ðậu tiến sĩ nãm 1904; Phan Châu Trinh (1872-1926), quê huyện Tiên Phýớc, Quảng Nam, ðậu phó bảng nãm 1901; Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), quê huyện Tiên Phýớc, Quảng Nam, ðậu tiến sĩ khoa hội thi nãm 1904. Bộ ba này nãm 1905 nhân chuyến vào Nam, ðến Bình Ðịnh, mýợn tên ứng thí trong một kỳ thi ðã làm hai bài thõ Chí thành thông thánh và Danh sõn lýõng ngọc ðả kích những ngýời còn bát cổ vãn chýõng thụy mộng trung (ngủ mê trong giấc mộng vãn chýõng bát cổ). Hai bài thõ này rõ ràng tấn công vào nền cựu học, bài xích cái học cử nghiệp, mở ðầu cho chủ trýõng tân học sau này của Phong trào.
Ðông Kinh Nghĩa Thục khai giảng tháng 3, 1907 tại phố Hàng Ðào, Hà Nội, chýõng trình noi theo ðýờng lối tân học của Trung Quốc và Nhật Bản. Trong các sĩ phu sáng lập có cụ cử Lýõng Vãn Can, thục trýởng của Trýờng; cụ huấn Nguyễn Quyền, giám học; cụ án Nghiêm Xuân Quảng, v.v., và một số nhà tân học nhý Nguyễn Vãn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, v.v. Trọng tâm các trýớc tác của Ðông Kinh Nghĩa Thục nhắm vào hai mặt, ðánh ðổ và xây dựng. Ðánh ðổ các hủ tục, lối nhắm mắt học từ chýõng theo kiểu khoa bảng cũ, các tý týởng thoái hoá của tầng lớp sĩ phu thủ cựu. Xây dựng bằng cách hýớng sự học vào các khoa học kỹ thuật mới, xem nặng thực nghiệp, chấn hýng công thýõng nghiệp. Và nhất là kêu gọi học chữ quốc ngữ.
Từ buổi ðầu cuộc chiếm ðóng Nam Kỳ của Pháp ðến khi Phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục ra ðời, nửa thế kỷ trôi qua, chữ quốc ngữ ðã lột xác dýới mắt các sĩ phu Việt Nam. Chữ quốc ngữ trýớc kia bị xem nhý một toan tính của chính quyền thuộc ðịa hòng La Mã hoá nền quốc học Việt Nam, nhý một vũ khí ði chinh phục của ngoại nhân, bây giờ ðýợc ðón tiếp nhý một công cụ chuyển tải hữu hiệu những tý týởng yêu nýớc, những tri thức mới. Nhý vậy là từ một công cuộc La Mã chữ viết bị ép buộc, việc áp dụng chữ quốc ngữ ðã chuyển thành một cuộc La Mã hoá ðồng thuận và tự nguyện. Và chuyện lột xác này phần lớn lại do tác ðộng của các nhà nho, của các ông tiến sĩ, phó bảng, thám hoa, cử nhân triều Nguyễn, những ngýời xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, tinh thông chữ Hán.
Lập trýờng của ba vị Trần, Phan và Huỳnh, của Phong trào Duy Tân, ðối với chữ quốc ngữ thực quá rõ ràng qua Bài hát khuyên học chữ quốc ngữ mà tác giả chắc là Trần Quý Cáp, có ðoạn:
... Chữ quốc ngữ là hồn trong nýớc
Phải ðem ra tính trýớc dân ta
Sách các nýớc, sách Chi Na
Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ týờng...
Bài thõ này cũng ðýợc xếp vào thõ vãn của Ðông Kinh Nghĩa Thục (xem Vũ Vãn Sạch và ðtg, 1997: 110) chứng tỏ rằng hai phong trào ðều có những chủ trýõng giống nhau về ngôn ngữ và chữ viết. Hõn nữa một ngýời nhý Phan Tây Hồ chẳng hạng lại cùng hoạt ðộng ở cả hai bên.
Khuyên học chữ quốc ngữ không phải là một trào lýu cách biệt mà là một bộ phận trong một phong trào qui mô hõn có thể gọi là sách lýợc học vãn minh theo ðýờng lối mới.* Nhý vậy ta sẽ không lấy làm lạ khi thấy xuất hiện một hiện týợng khác của phong trào, việc cổ ðộng hớt tóc:
Cúp hè! cúp hè!
Tay mặt cầm kéo
Tay trái cầm lýợc
Cúp hè! cúp hè!
Ðủng ðỉnh cho khéo.
Bỏ cái ngu mày,
Bỏ cái dại mày,
Học theo ngýời Tây.
Hãy còn ãn mặn,
Hãy còn nói láo,
Phen này ta cúp,
Phen sau ta cạo. (Vè cúp tóc)
Phản ứng lại phong trào hớt tóc, nổi lên vụ án thế phát về phía chính quyền: những ngýời có mái tóc hớt ngắn bị các quan bắt bớ. Các nhà nệ cổ cũng làm thõ chống ðối:
Mồ cha, mả mẹ anh ðâu?
Còn vua còn chúa, hỏi anh cúp cái ðầu thờ ai?
Chữ rằng phục quốc Tây lai,
Xem trong Nam Việt ai ai cũng buồn tình.
Nýớc Nam mình còn miếu, còn ðình,
Còn khoa, còn mục, còn mình, còn ta,
Làm chi khác thể ông thầy chùa,
Khỏi xâu, khỏi thuế cũng nên ðua cúp ðầu.
Xem thế, cái phạm vi của nền vãn minh mới mà phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục cổ vũ thật là ða dạng, rộng rãi và bao quát. Việc dạy và học quốc ngữ trong ý ðồ Pháp hoá (francisation) dân thuộc ðịa của chính quyền Pháp ở Ðông Dýõng trở thành một chủ trýõng nhằm giáo hóa dân chúng của các nhà nho thức thời mà mục ðích cuối cùng vẫn là giải phóng dân tộc, giành lại ðộc lập cho nýớc nhà.
Nguyễn Phú Phong
1. Chữ quốc ngữ buổi ðầu ở Nam Kỳ thuộc Pháp
Từ quốc ngữ dùng ở chýõng này dùng ðể chỉ tiếng Việt và chữ viết theo mẫu tự La Tinh. Tình hình dạy quốc ngữ ở Nam Kỳ từ buổi ðầu Pháp mới chiếm ðóng có những ðiểm ðáng nêu ra sau ðây.
Ngày 17.2.1859, ngay khi ðổ bộ lên Sài Gòn, ðô ðốc R. de Genouilly ðã thấy có mặt tại ðây một chủng viện và một truờng học gọi là Trýờng d'Adran do Hội Truyền Giáo Nýớc Ngoài thiết lập. Học sinh trýờng này học ðọc và học viết chữ quốc ngữ. Họ cũng ðýợc học tiếng LaTinh, ðôi khi vài chữ/tiếng Pháp nhýng rất hiếm. Dĩ nhiên, quân viễn chinh Pháp phải nhờ ðến Hội Truyền Giáo ðể ðýợc cung cấp những ngýời thông ngôn ðầu tiên; các ngýời này về ngoại ngữ chỉ biết tiếng La Tinh, nhýng một thứ tiếng La Tinh tồi.
Nãm 1861, một trýờng dạy tiếng Việt ðýợc thiết lập ở Sài Gòn ðể ðào tạo những viên thông ngôn ngýời Pháp, các ngýời này về sau trở thành những giáo sý ðầu tiên về bộ môn tiếng Việt. Học viên ngýời Âu của trýờng này ðều xuất thân từ bộ binh hoặc hải quân Pháp. Ðiều ðáng ghi nhận là trýờng này vốn là cõ sở hành chánh chứ không phải giáo dục.
Ngày 31.3.1863, ðô ðốc Bonard ra quyết ðịnh tái lập các hạt giáo dục cũ (do nhà Nguyễn thiết lập) với các chức ðốc học, giáo thọ, huấn ðạo; tạo chỗ cho học sinh các loại: học sanh, tú tài, cử nhân; tái lập các cuộc thi hýõng (mà kỳ ðầu tiên phải ðýợc thực hiện nãm 1864). Kiến thức về chữ quốc ngữ không bắt buộc trong các kỳ thi nhýng thí sinh biết thứ chữ viết này ðýợc ýu ðãi hõn.
Bắt ðầu nãm 1866, việc dạy tiếng Pháp cho ngýời Việt Nam ðýợc khởi sự nhýng vẫn còn nằm trong tay các giáo sĩ; giáo hội lần hồi mở trýờng ở Mỹ Tho, Vĩnh Long và Chợ Lớn. Các trýờng học nhà dòng ðýợc chính quyền thuộc ðịa trợ cấp, ðã phát triển ðáng kể trong 5 nãm trời.
Dýới thời ðô ðốc Ohier, nãm 1869, một số trýờng ðýợc lần lýợt mở ra ở Cần Thõ, Sóc Trãng, Gò Công, Tân An, Rạch Giá, Cần Giộc, Ích Thanh (?), ðể dạy cho bọn tráng niên chữ quốc ngữ và những bài vỡ lòng tiếng Pháp.
Ngày 17.11.1874, ðô ðốc Dupré ra quyết ðịnh tổ chức lại hoàn toàn nền giáo dục quốc dân. Nền giáo dục này ðýợc tuyên bố là miễn phí và tự do, tuân theo qui ðịnh chung của giáo dục quốc dân ở Pháp. Việc giáo dục (ở Nam Kỳ lúc ðó) chịu mệnh lệnh trực tiếp của giám ðốc nội vụ và ðặt dýới sự giám sát của các trýờng quận mà trách nhiệm thuộc về các viên chức hành chánh.
Các trýờng làng dạy chữ Hán bị bãi bỏ hoặc sáp nhập vào trýờng ở quận lỵ, biến thành một trýờng duy nhất dạy chữ quốc ngữ. Có sáu trung tâm thanh tra: Sài gòn, Chợ Lớn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bến Tre, Sóc Trãng, mỗi nõi ðều có một trýờng Pháp.
Có thể nói rằng buổi ðầu thời Nam Kỳ thuộc ðịa Pháp, tổ chức giáo dục ở ðây còn ðang trong thời kỳ mò mẫm, việc ðem chữ quốc ngữ thay thế hẳn chữ nôm và chữ Hán có khi phải khựng lại, bằng chứng là việc tái lập các chức ðốc học, giáo thọ, huấn ðạo, và tổ chức lại các cuộc thi hýõng.
Việc thứ hai ðáng ghi nhận là giáo dục ðýợc ðặt dýới quyền của một viên chức nội vụ, tức là phụ trách an ninh.
Nhận xét thứ ba là vì nhu cầu hành chánh mà ngýời Pháp lúc bấy giờ học tiếng Việt và những ngýời này ðều xuất thân từ quân ðội.
Có một sự khác biệt lớn giữa ngýời Việt và ngýời Pháp hay ngýời ngoại quốc trong việc học quốc ngữ. Ngýời Việt học quốc ngữ là học ðọc và học viết tiếng mẹ; ngữ nghĩa và cú pháp tiếng Việt họ ðã nắm. Còn ngýời ngoại quốc học quốc ngữ thì phải rèn luyện cú pháp, ngữ nghĩa, ðọc và viết. Ngýời Việt học chữ Hán không phải học viết mà thôi mà còn học ðọc, học nghĩa, học cách dùng, tóm lại là học một ngoại ngữ.
Nói chung býớc ðầu của chữ quốc ngữ ở miền Nam gặp nhiều khó khãn vì nhiều lý do. Tại những ngýời chủ xýớng là ngoại nhân ði chinh phục. Tại họ là những quân nhân chỉ lấy những biện pháp cấp thời ðể giải quyết những vấn ðề giai ðoạn nên không có một cái nhìn lâu dài. Tại việc giáo dục mới mà chữ quốc ngữ là công cụ chuyển tải chính mặc dù có những kiện týớng nhý Trýõng Vĩnh Ký, Trýõng Minh Ký, Huyụnh Tịnh Của, phải ðýõng ðầu với một hàng ngũ còn hùng mạnh thuộc trýờng học Hán-nôm truyền thống mà ðại diện là các nhà nho yêu nýớc nhý Nguyễn Ðình Chiểu, Phan Vãn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, v.v. Cuộc ðối ðịch không thuần xảy ra giữa hai chữ viết của một ngôn ngữ mà còn giữa hai thái ðộ chính trị, hợp tác và chống ðối; giữa các tôn giáo, ðạo Ky Tô một bên, và Nho, Ðạo và Phật, bên kia.
2. Chữ quốc ngữ lan rộng ra phía Bắc
Sau khi ðýợc sử dụng làm chữ viết "chính thức" của tiếng Việt ở Nam Kỳ thuộc Pháp, chữ quốc ngữ bành trýớng ra phía Bắc. Những biến cố lịch sử có tác ðộng vào, hoặc ðánh dấu lên, sự bành trýớng này là:
- Ngày 15.3.1874, Triều ðình Huế ký hiệp ýớc thừa nhận chủ quyền Pháp trên lãnh thổ Nam Kỳ, từ ðịa giới phía nam tỉnh Bình Thuận trở vào Nam.
- Ngày 25.4.1882, Pháp ðánh chiếm Hà Nội lần thứ hai. Hà Nội thất thủ, Tổng ðốc Hoàng Diệu tử tiết.
- 25.8.1883, Triều ðình Huế ký với Pháp hiệp ýớc Harmand thừa nhận Nam Kỳ là thuộc ðịa Pháp, thừa nhận nền bảo hộ của Pháp ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ.
- 6.6.1884, Triều ðình Huế và Pháp ký hiệp ýớc Patenôtre theo ðó nýớc Pháp sẽ thay mặt nýớc An Nam trong mọi quan hệ ðối ngoại. Nhý vậy từ ðây chữ/tiếng Hán nhýờng býớc cho chữ/tiếng Pháp trên mặt ngoại giao. Một cách lặng lẽ trong các cuộc giao thiệp quốc tế, tiếng Việt/chữ quốc ngữ hoàn toàn vắng bóng, chịu sự "bảo hộ" của tiếng Pháp.
- 27.1.1886, Tổng thống Pháp bổ nhiệm Paul Bert sang cai trị Trung-Bắc Kỳ, mở ðầu chế ðộ vãn quan thay chế ðộ võ quan trýớc ðó. Cũng nãm này Paul Bert thiết lập Bãc Kỳ Hàn lâm viện (Académie Tonkinoise).
- 1895, Phan Ðình Phùng mất, phong trào Cần Výõng mà Phan là chủ týớng cũng tắt theo. Bài thõ tuyệt bút của Phan Ngự sử nói lên tâm sự của một ngýời bầy tôi phò vua cứu nýớc theo quan niệm của một nhà nho yêu nýớc truyền thống ðýợc viết bằng Hán vãn.
- 1896, Toàn quyền Ðông Dýõng ra nghị ðịnh cho thành lập một trýờng Pháp-Việt ở Huế, gọi là Trýờng Quốc học Huế.
- 6.6.1898, Toàn quyền Ðông Dýõng ðặt thêm một kỳ thi phụ cho khoa thi Hýõng trýờng thi Nam Ðịnh. Môn thi gồm nãm bài tiếng Pháp: viết tập, chính tả, dịch Pháp ra Việt, hội thoại, ðọc và dịch miệng (hệ số 5); chính tả tiếng Việt (hệ số 3); bài dịch từ Hán vãn ra tiếng Việt (hệ số 4). Ai ðã ðỗ tú tài, cử nhân kỳ thi Hýõng chính mà còn ðỗ cả kỳ phụ sẽ ðýợc ýu tiên chọn ra làm quan.
Việc ðýa tiếng Pháp làm môn thi ở Trýờng Nam Ðịnh là một biến cố quan trọng vì tính cách biểu týợng của trýờng thi này trong chế ðộ khoa cử theo nho học của Việt Nam. Trần Vãn Giáp (1941: 2) có nói qua lịch sử tỉnh Nam từ ðời Hùng Výõng ðể kết luận: "Trong khoảng một trãm nãm trýớc ðây, tỉnh Nam-ðịnh sở dĩ có tiếng, toàn quốc thiếu-niên nào bậc anh-tuấn, nào ngýời ngu-ðộn, ai ai cũng chú-trọng ðến tỉnh Nam, là vì có trýờng-thi hýõng ở ðó."
- 15.12.1898, Toàn quyền Ðông Dýõng Paul Doumer ra nghị ðịnh thành lập Phái ðoàn Khảo cổ học Thýờng trực tại Ðông Dýõng (Mission Archéologique Permanente en Indochine), ðến 20.10.1900 ðổi gọi là Trýờng Viễn Ðông Bác Cổ (Ecole Française d"Extrême-Orient) .
- 30.12.1898, Tổng thống Pháp ra sắc lệnh về chế ðộ báo chí ở Ðông Dýõng.
- 20.6.1903, Thống sứ Bắc Kỳ ra nghị ðịnh thành lập Trýờng Hậu bổ Hà Nội (Ecole d"apprentis mandarins) theo chỉ thị ngày 9.2.1897 của Tổng thý ký Phủ Toàn quyền Ðông Dýõng. Ngày 18.4.1912 Trýờng Hậu bổ Hà Nội ðổi thành Trýờng Sĩ hoạn (Ecole des Mandarins). Ngày 15.10.1917, Toàn quyền Ðông Dýõng ra nghị ðịnh lập Trýờng Pháp chính Ðông Dýõng (Ecole de Droit et d"Administration) thay cho hai trýờng Sĩ hoạn Hà Nội và Hậu bổ Huế (thiết lập ngày 5.5.1911).
- 27.4.1904, Pháp cho thiết lập chýõng trình giáo dục hệ Pháp-Việt ở Bắc kỳ.
- 5.1904, Thành lập Hội Duy Tân ở Quảng Nam. Hội này do Kỳ Ngoại Hầu Cýờng Ðể làm hội trýởng mà mục ðích là Khôi phục nýớc Việt Nam, lập thành nýớc quân chủ lập hiến. (Xin ðừng lẫn lộn Hội Duy Tân với Phong trào Duy Tân do Trần Quý Cáp, Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng chủ xýớng.)
- 7.1905, Mở ðầu Phong trào Ðông du của Duy Tân hội. Phan Bội Châu viết Khuyến quốc dân du học vãn.
- 8.3.1906, Toàn quyền Ðông Dýõng cho thiết lập Hội ðồng Hoàn thiện nền giáo dục bản xứ (Conseil de Perfectionnement de l"enseignement indigène).
Nhý vậy từ ðầu thế kỷ 20 trở ði, sau khi cuộc ðấu tranh vũ trang của Phong trào Cần Výõng tan rã, nýớc Việt Nam dýới mắt ngýời Pháp, xem nhý ðã dýợc bình ðịnh, nhà cầm quyền Pháp bắt ðầu ðặt ðể những cõ chế về hành chánh, giáo dục ðể cai trị các xứ thuộc ðịa và bảo hộ. Các cõ chế chính quyền của Triều ðình nhà Nguyễn dần dần hoặc bị thay thế hoặc bị làm suy yếu ði không còn thực quyền. Hán học, nền tảng của công cuộc ðào tạo sĩ phu, quan chức nhà Nguyễn, theo ðó cũng tàn tạ nhýờng chỗ cho lớp quan chức mới xuất thân từ các trýờng Pháp-Việt. Chữ quốc ngữ từ trong Nam lan ra ðất Bắc, xen vào các kỳ thi; biết quốc ngữ trở thành một yêu cầu ðể býớc vào quan trýờng. Tuy vậy vào cuối thế kỷ 19, những býớc ðầu của quốc ngữ ở miền Bắc còn rất e dè, nhý lời tự thuật của nhà nho Nguyễn Bá Học: "Tôi lúc mới học quốc-ngữ thýờng không dám học to tiếng, chợt có khách ðến phải giấu ngay sách vào trong túi áo, hình nhý có hai mýõi bốn mẫu-tự quốc ngữ, là một cái sách bí-mật cấm thý". (xem Cụ Nguyễn-Bá-Học, Nam Phong, số 50, aoủt 1921, tr. 167).
3. Býớc ngoặt quyết ðịnh của chữ quốc ngữ
Nhýng býớc ngoặt quyết ðịnh dẫn ðến sự thành công của chữ quốc ngữ là do chính các nhà nho trong hàng ngũ Phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục.
Phong trào Duy Tân phát ðộng từ nãm 1905 ở Quảng Nam với ba lãnh tụ: Trần Quý Cáp (1871-1908), quê huyện Ðiện Bàn, Quảng Nam, ðậu tiến sĩ nãm 1904; Phan Châu Trinh (1872-1926), quê huyện Tiên Phýớc, Quảng Nam, ðậu phó bảng nãm 1901; Huỳnh Thúc Kháng (1876-1947), quê huyện Tiên Phýớc, Quảng Nam, ðậu tiến sĩ khoa hội thi nãm 1904. Bộ ba này nãm 1905 nhân chuyến vào Nam, ðến Bình Ðịnh, mýợn tên ứng thí trong một kỳ thi ðã làm hai bài thõ Chí thành thông thánh và Danh sõn lýõng ngọc ðả kích những ngýời còn bát cổ vãn chýõng thụy mộng trung (ngủ mê trong giấc mộng vãn chýõng bát cổ). Hai bài thõ này rõ ràng tấn công vào nền cựu học, bài xích cái học cử nghiệp, mở ðầu cho chủ trýõng tân học sau này của Phong trào.
Ðông Kinh Nghĩa Thục khai giảng tháng 3, 1907 tại phố Hàng Ðào, Hà Nội, chýõng trình noi theo ðýờng lối tân học của Trung Quốc và Nhật Bản. Trong các sĩ phu sáng lập có cụ cử Lýõng Vãn Can, thục trýởng của Trýờng; cụ huấn Nguyễn Quyền, giám học; cụ án Nghiêm Xuân Quảng, v.v., và một số nhà tân học nhý Nguyễn Vãn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, v.v. Trọng tâm các trýớc tác của Ðông Kinh Nghĩa Thục nhắm vào hai mặt, ðánh ðổ và xây dựng. Ðánh ðổ các hủ tục, lối nhắm mắt học từ chýõng theo kiểu khoa bảng cũ, các tý týởng thoái hoá của tầng lớp sĩ phu thủ cựu. Xây dựng bằng cách hýớng sự học vào các khoa học kỹ thuật mới, xem nặng thực nghiệp, chấn hýng công thýõng nghiệp. Và nhất là kêu gọi học chữ quốc ngữ.
Từ buổi ðầu cuộc chiếm ðóng Nam Kỳ của Pháp ðến khi Phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục ra ðời, nửa thế kỷ trôi qua, chữ quốc ngữ ðã lột xác dýới mắt các sĩ phu Việt Nam. Chữ quốc ngữ trýớc kia bị xem nhý một toan tính của chính quyền thuộc ðịa hòng La Mã hoá nền quốc học Việt Nam, nhý một vũ khí ði chinh phục của ngoại nhân, bây giờ ðýợc ðón tiếp nhý một công cụ chuyển tải hữu hiệu những tý týởng yêu nýớc, những tri thức mới. Nhý vậy là từ một công cuộc La Mã chữ viết bị ép buộc, việc áp dụng chữ quốc ngữ ðã chuyển thành một cuộc La Mã hoá ðồng thuận và tự nguyện. Và chuyện lột xác này phần lớn lại do tác ðộng của các nhà nho, của các ông tiến sĩ, phó bảng, thám hoa, cử nhân triều Nguyễn, những ngýời xuất thân từ cửa Khổng sân Trình, tinh thông chữ Hán.
Lập trýờng của ba vị Trần, Phan và Huỳnh, của Phong trào Duy Tân, ðối với chữ quốc ngữ thực quá rõ ràng qua Bài hát khuyên học chữ quốc ngữ mà tác giả chắc là Trần Quý Cáp, có ðoạn:
... Chữ quốc ngữ là hồn trong nýớc
Phải ðem ra tính trýớc dân ta
Sách các nýớc, sách Chi Na
Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ týờng...
Bài thõ này cũng ðýợc xếp vào thõ vãn của Ðông Kinh Nghĩa Thục (xem Vũ Vãn Sạch và ðtg, 1997: 110) chứng tỏ rằng hai phong trào ðều có những chủ trýõng giống nhau về ngôn ngữ và chữ viết. Hõn nữa một ngýời nhý Phan Tây Hồ chẳng hạng lại cùng hoạt ðộng ở cả hai bên.
Khuyên học chữ quốc ngữ không phải là một trào lýu cách biệt mà là một bộ phận trong một phong trào qui mô hõn có thể gọi là sách lýợc học vãn minh theo ðýờng lối mới.* Nhý vậy ta sẽ không lấy làm lạ khi thấy xuất hiện một hiện týợng khác của phong trào, việc cổ ðộng hớt tóc:
Cúp hè! cúp hè!
Tay mặt cầm kéo
Tay trái cầm lýợc
Cúp hè! cúp hè!
Ðủng ðỉnh cho khéo.
Bỏ cái ngu mày,
Bỏ cái dại mày,
Học theo ngýời Tây.
Hãy còn ãn mặn,
Hãy còn nói láo,
Phen này ta cúp,
Phen sau ta cạo. (Vè cúp tóc)
Phản ứng lại phong trào hớt tóc, nổi lên vụ án thế phát về phía chính quyền: những ngýời có mái tóc hớt ngắn bị các quan bắt bớ. Các nhà nệ cổ cũng làm thõ chống ðối:
Mồ cha, mả mẹ anh ðâu?
Còn vua còn chúa, hỏi anh cúp cái ðầu thờ ai?
Chữ rằng phục quốc Tây lai,
Xem trong Nam Việt ai ai cũng buồn tình.
Nýớc Nam mình còn miếu, còn ðình,
Còn khoa, còn mục, còn mình, còn ta,
Làm chi khác thể ông thầy chùa,
Khỏi xâu, khỏi thuế cũng nên ðua cúp ðầu.
Xem thế, cái phạm vi của nền vãn minh mới mà phong trào Duy Tân và Ðông Kinh Nghĩa Thục cổ vũ thật là ða dạng, rộng rãi và bao quát. Việc dạy và học quốc ngữ trong ý ðồ Pháp hoá (francisation) dân thuộc ðịa của chính quyền Pháp ở Ðông Dýõng trở thành một chủ trýõng nhằm giáo hóa dân chúng của các nhà nho thức thời mà mục ðích cuối cùng vẫn là giải phóng dân tộc, giành lại ðộc lập cho nýớc nhà.