|
Post by Huu Le on Sept 7, 2007 1:41:43 GMT 9
SONG THAOTên thật: Tạ Trung Sơn Sanh ngày 1 tháng 8 năm 1938 tại Hà Nội. Học Trung Học Dũng Lạc (Hà Nội), Chu Văn An (Saigon), Đại Học Văn Khoa (Saigon). Tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa, 1964. Từ 1959 đến 1975 cộng tác với nhiều nhật báo, tuần báo, bán nguyệt san, nguyệt san tại Saigon. Định cư tại Montreal, Canada, từ năm 1985. Khởi viết truyện ngắn từ năm 1991. Đã có bài trên các tạp chí:: Phố Văn, Làng Văn, Nắng Mới, Sóng Văn, Văn Học, Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Wordbridge. Đã xuất bản: - Bỏ Chốn Mù Sương (Kinh Đô, Houston, 1993), - Đong Đưa Cuộc Tình (Ngày Nay, Houston, 1996), - Còn Đó Bóng Hình (Văn Mới, Los Angeles, 1997), - Chân Mang Giày Số 6 (Văn Mới, Los Angeles, 1999) - Cuối Ngày, Một Lần Ngồi Lại ( Văn Mới, Los Angeles,2001) - Bên Lưng Những Con Chữ ( Văn Mới, Gardena, 2003 ) - PHIẾM 1 (Văn Mới, Gardena, 2005). (In lần thứ hai - Nhân Ảnh, Toronto, 2006)) (In lần thứ ba - Nhân Ảnh, Toronto, 2008) - PHIẾM 2 (Văn Mới, Gardena, 2005) (In lần thứ hai - Nhân Ảnh, Toronto, 2006) (In lần thứ ba - Nhân Ảnh, Toronto, 2008) - PHIẾM 3 (Nhân Ảnh, Toronto, 2006) (In lần thứ hai - Nhân Ảnh, Toronto, 2008) - CHỐN CŨ (Nhân Ảnh, Toronto, 2006) - PHIẾM 4 (Nhân Ảnh, Toronto, 2007) - PHIẾM 5 (Nhân Ảnh, Toronto, 2008) - PHIẾM 6 (Nhân Ảnh, Toronto, 2008) - PHIẾM 7 (Nhân Ảnh, Toronto, 2009) - To the Top of Whistler (Nhân Ảnh, Toronto, 2009) - PHIẾM 8 (Nhân Ảnh, Toronto, 2010) Đã góp truyện trong các tuyển tập: - Hai Mươi Người Viết Tại Canada ( Nắng Mới, Montreal, 1995) - Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975-1995 ( Đại Nam, Glendale, 1995) - Tuyển Tập Truyện Ngắn Hai Mươi Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại 1975-1995 (Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại, Hoa Kỳ, 1995) - Nhà Thơ Và Nhà Văn Hải Ngoại: 1975-2000 (Đại Học Đông Nam, Houston, 2000) - Thơ Văn Hải Ngoại Năm 2000 ( Văn Mới, Los Angeles, 2000). ÐẠN Trong cuốn tiểu thuyết Ãn Mày Dĩ Vãng của Chu Lai do nhà xuất bảnVãn Học Hà Nội ấn hành vào nãm 2003, tôi nhặt ðuợc hai ðoạn ngắn nói về ðạn. “Thủ phạm chính là Tuấn, xạ thủ B41, ðang ôm cứng lấy gốc cây, quỳ gục, mặt mày bạc phếch, mắt ðổ chàm và toàn thân run bắn nhý ðang lên một cõn ðộng kinh dữ dội. Trái ðạn khổng lồ hình hoa chuối lúc nẫy nằm nghễu nghện ở ðầu nòng giờ không còn nữa, thay thế vào ðó là một ngúm khói vàng ðục ðang ngoằn ngoèo bay ra... Hai mýõi tuổi, quê Nghệ An, ðen cháy, bền nhý một sợi chão neo thuyền, ðánh giặc nhý trò ðùa, chýa hề biết sợ là gì, lần ðầu ðýợc phân công ðảm trách cây hỏa lực hạng nặng thay cho Bảo bị sốt rét, không biết táy máy thế nào, cậu ta ðể cýớp cò”. .................. “Anh không muốn cho cậu trai mýời tám tuổi tất cả ðang còn ngõ ngác và trong trắng, cái gì cũng có thể ngạc nhiên ðýợc này nhìn thấy ðộ rung của hai ðầu dây võng ngày một cuồng loạn lên và sau ðó là duỗi dài ra, bất ðộng. Càng không muốn cho cậu ta thấy những vật thể lỏng mầu trắng ðục từ mép võng tia nhẹ xuống thảm lá rừng khô cũng nhý bàn tay thẫn thờ của Khiển nhặt mấy chiếc lá khô khác ðậy ðiệm kỹ càng lên cái vật thể ðó nhý thể chôn cất rồi vật mình nằm ngửa ra, mắt nhìn xuyên qua vòm lá vào bầu trời chan hòa ánh nắng, buồn rýời rýợi...” Hai ðoạn vãn nói về hai thứ ðều là ðạn cả, dù hình thức thứ ðặc thứ lỏng, thứ làm chết ngýời và thứ làm thành ngýời. Cýớp cò súng, ðối với thứ ðạn trýớc là chết chóc, thứ ðạn sau chẳng chết ai. Hậu quả thýờng chỉ là một cái nhìn nhẹ nhàng nửa trách móc, nửa giễu cợt, nửa tiếc nuối. Nhýng láng cháng cũng có thể tạo thành một ðám cháy lớn. Cựu Tổng Thống Hoa Kỳ Bill Clinton, ngay trong Tòa Bạch Ốc, ðã ðể cho em bé tập sự viên Monica nghịch súng, súng bị cýớp cò, ðạn tung tóe lên chiếc áo cô bé. Cô bé lãng mạn không chịu ðýa ði giặt ủi, giữ lại làm kỷ niệm. Ai ngờ, những dấu ðạn trên áo suýt chút nữa làm tiêu tan chiếc ghế Tổng Thống và ðã thực sự làm rung chuyển... thế giới! Thực ra, thứ ðạn lỏng này không phải ðýợc tạo ra ðể nhễu nhão bắn...chim trời cá biển mà có sứ mệnh ðàng hoàng. Bắn xong phải “thua thì thua quyết níu lấy con”. Vậy mới ðạt. Và xạ trýờng phải có bài có bản hẳn hoi, nhý Nữ Sĩ Hồ Xuân Hýõng ðã chỉ bày ra. Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên Hai xe hà chàng gác hai bên Thiếp sợ bí thiếp liền ghểnh sĩ Chàng lừa thiếp ðang khi bất ý Mang tốt ðầu dú dí vô cung Thiếp ðang mắc nýớc xe lồng Nýớc pháo ðã nổ ðùng ra chiếu... Ði theo từng býớc chiến thuật nhý thế, chiếu chỉ có bí. Bí mới óc ách cái vòng số 2. Sýng tấy lên! Giận! Bà vợ từ nhà hộ sinh về, mặt một ðống, chì chiết anh chồng. “Này, tôi cho anh biết là từ rày trở ði thôi ðấy nhé. Tôi thề từ nay tới già tôi mà...với anh nữa thì súng ðạn sẽ bắn tôi!” Sáu tháng sau, anh chồng vẫn không dám ðụng ðến vợ vì sợ vợ mình chết do súng ðạn. Bỗng một ðêm, trong lúc ngủ say, anh chồng giật mình vì có ngýời chui vào mùng. Anh nạt lớn. “Ai ðó?” “Em.” “Em là ai?” “Là ngýời không sợ súng ðạn!” Nhýng không phải cứ ðủ bộ lệ súng ðạn, bia ðỡ là xạ trýờng mở cửa hoạt ðộng ngay ðýợc ðâu. Ðối với binh sĩ Canada ðang ðóng quân tại A Phú Hãn, chiến trýờng không phải là xạ trýờng. Những cặp vợ chồng binh sĩ Canada ðang làm nhiệm vụ... quốc tế trong thời gian 6 tháng ðã bị cấm không ðýợc ðánh cờ ngýời với nhau. Nõi chiến trýờng, chỉ có một thứ súng ðạn ðýợc xử dụng: súng nhắm vào ðịch quân. Các thứ súng khác phải gói ghém kỹ lýỡng. Lệnh này, dĩ nhiên, rất khó mà thi hành. Mỡ treo trýớc miệng mèo mà mèo cứ ngậm miệng rỏ dãi thì tốn công lực lắm. Sue Johnson, 26 tuổi, nhân viên dân sự làm việc trong Trại Julien, và chồng là Raymond Peach, 27 tuổi, một hạ sĩ trong Lữ Ðoàn 3, cho biết là họ rất khó xử ðối với nhau. Thỉnh thoảng họ chỉ có thể ôm hôn lén lút với nhau một chút cho ðỡ ghiền. Họ cảm thấy sao? Chúng tôi có cảm týởng giống nhý là cuộc sống vợ chồng 6 nãm của chúng tôi ðã ði ðến tan vỡ. Nhýng luật là luật. Cấm léng phéng, dù là súng ðạn, bia bắn ðã ðýợc ðãng ký hợp pháp ðàng hoàng. Trong số 2000 binh sĩ Canada trú ðóng tại A Phú Hãn có tất cả 15 cặp vợ chồng treo mỏ nhý vậy! Treo mỏ thì than, nhýng giả dụ ra giá cho họ là cứ mỗi cuộc càn quét phải có kết quả cụ thể, họ có dám không? Chắc họ ðầu hàng chịu thua gấp! Nhý vậy, trên trái ðất ða chuyện này, giờ phút nào mà chẳng súng nổ, ðạn bay, bia cứ giýõng lên, mà vòng số 2 vẫn cứ... mặt trận miền tây vẫn yên tĩnh! Ðó là ý muốn của con ngýời, do con ngýời bày ðặt ra. Trong tạp chí Hợp Lýu số tháng 12/2003 và tháng 1/2004, có truyện ngắn Cuộc Thảm Sát của Ngô Tự Lập mà nhân vật chính xýng tôi, là... ðạn dýợc. “Cuộc ðời chúng tôi ngắn ngủi nhýng sứ mệnh thật lớn lao. Chúng tôi biết mình phải làm gì mà chẳng cần ai dạy bảo. Chúng tôi sẽ ðýợc phóng vào một ðýờng hầm tối, nóng bỏng và ẩm ýớt. Chúng tôi sẽ phải bõi ngýợc dòng cho ðến cuối ðýờng hầm. Dĩ nhiên không một ai trong lũ chúng tôi hình dung ra ðýờng hầm, không một ai hình dung ra nõi phải ðến. Chúng tôi cũng biết trýớc rằng không phải ai cũng ðến ðýợc cuối ðýờng hầm-hầu hết sẽ kiệt sức trong cuộc ðua ngýợc dòng khốc liệt. Nhýng kẻ nào ðến ðích thực sự là vị anh hùng. Anh ta sẽ hòa nhập nửa kia của mình ðang chờ sẵn. Một cuộc hóa thân huyền diệu. Và thế là bắt ðầu sự phôi thai một con ngýời.” Anh chồng, chủ kho ðạn, khá lang bang. Chị vợ ðiện thoại ðến sở anh làm hẹn chồng về ãn cõm có món canh cua anh thích. Nghe giọng ngýời vợ, chú tinh trùng, nhân vật chính trong truyện, thấy có cảm tình ngay. Cô ấy sẽ là một ngýời mẹ tuyệt vời! Nhýng anh chồng chẳng thiết gì cõm canh ở nhà, anh giang hồ ði... ãn phở. Trong phòng khách sạn, với cô tình nhân, anh xả ðạn. “Nhýng tôi không còn ðủ thời gian ðể nghĩ thêm gì nữa. Áp xuất tãng cao ðến mức tôi tối tãm mặt mũi. Tôi cố vẫy ðuôi nhýng vô ích. Bây giờ thì tôi không thể nghĩ gì ðýợc nữa. Nóng. Ngột ngạt. Tiếng cýời nhỏ dần, biến thành tiếng thở hổn hển ðứt quãng lẫn với những tràng rên rỉ. Rồi những cõn sóng trào kỳ lạ ào ào cuốn chúng tôi ði. Ðột nhiên, trời ðất rung chuyển. Từng ðợt, từng ðợt liên tiếp. Tôi thấy mình bị phóng ra nhý một viên ðạn. “Ðây rồi, cái thời khắc ấy ðã ðến”-Tôi nghĩ. Nhýng cái thời khắc ấy mãi mãi không ðến. Trong tích tắc, chúng tôi nhận ra mình bị ném vào một lớp màng dày. Cả lũ chồng ðống lên nhau. Mùi cao su xông lên tởm lợm. “Hóa ra là thế, mình cũng từng nghe nói!”- Ý nghĩ ấy thoáng qua nhý một ánh chớp. Tôi ðã từng nghe nói, nhýng lần ðầu tiên ðýợc biết cũng là lần cuối!” Bao cao su? Thứ “áo mýa” vô hiệu hóa sức công phá của ðạn dýợc ðã ðýợc các nhân viên kế hoạch hóa gia ðình tung ði khắp hang cùng ngõ hẻm. Tại một làng quê, cô nhân viên xã hội chỉ bảo cho dân làng cách dùng bao. Cô trình diễn bằng cách dùng bao xỏ vào ngón tay cái nhý một thí dụ. Một thời gian sau, ðoàn trở lại làng, vừa býớc chân vào cổng làng, tiếng trẻ khóc oe oe vẫn ầm ĩ khắp thôn xóm. Kết quả rõ ràng là một con số không. Ðể tìm hiểu lý do, cô cho gọi một anh nông dân tới. Cô giõ chiếc bao ra, giọng tức tối. “Anh có dùng chiếc bao này không?” “Thýa có. Tôi chẳng bao giờ quên cả!” “Thế tại sao vợ anh vẫn cứ mang bầu?” “Tôi không biết nữa. Cô dậy sao tôi làm ðúng nhý vậy.” “Vậy anh thử làm ngay trýớc mặt tôi xem có ðúng không!” Anh nông dân sợ sệt, e dè rút chiếc bao trong túi ra, xé vỏ bao một cách thành thạo, kéo chiếc bao ra, và xỏ vào ngón tay cái! Ðạn bây giờ không tốt bằng ðạn ngày xýa. Theo một cuộc nghiên cứu do Bác Sĩ Siladatiya Battacharya thực hiện tại Aberdeen, vừa ðýợc công bố trên báo chí Anh thì ðạn dýợc của các ông bây giờ kém lắm. Phẩm chất ðạn thua xa các bậc tiền nhân. Cuộc khảo cứu dựa trên mẫu của 7500 ông cho thấy trung bình chỉ có 62 triệu tinh trùng trong một mili khối tinh dịch. Mýời nãm trýớc, con số này là 87 triệu. Và 50 nãm trýớc là 113 triệu. Sao ðạn lại càng ngày càng lép ði nhý vậy? Một số các nhà khoa học cho là tại vì thuốc diệt trùng, nhựa hóa học, kỹ nghệ, thuốc men và ô nhiễm môi trýờng. Những thứ này ðýợc dùng lan tràn ðã làm rối loạn sự cân bằng hormone nõi hệ thống truyền giống của ngýời nam. Muốn có số tinh trùng khỏe mạnh và ðông ðảo, các nhà khoa học khuyên các ông nên tránh ðể bị stress, ðừng hút cần sa hoặc các thứ có cocaine, ít uống rýợu hút thuốc lá, giảm uống cà phê, ãn nhiều rau, tạo nhiều thời gian thý giãn tinh thần. Cứ một trong sáu cặp vợ chồng Anh, và một trong tám cặp vợ chồng Canada có vấn ðề trong việc tạo sinh. Mà lỗi tới 35 phần trãm về phía các ông. Con số tiền ðịnh! Nhýng các ông nào còn muốn có chút lộc cho ðời cũng ðừng nên lo lắng quá kẻo bị... stress. Vì chỉ khi nào số tinh trùng xuống dýới 20 triệu trong 1 mili khối tinh dịch thì mới thật sự có vấn ðề. Muốn chắc ãn thì, trýớc khi có thể có vấn ðề, ðể dành ðạn ði. Ðể dành ðạn? Hai anh cýớp, chờ lúc ðêm tối, ðột nhập vào một ngân hàng. Họ mở từng chiếc két. Két nào cũng không có tiền. Một anh tức giận lầu bầu với bạn. “Mẹ kiếp! Tụi nó ðịnh chõi xỏ mình hay sao mà ðể trong két toàn sữa chua không vậy?” Anh kia gật gù. “Bố khỉ! Tụi nó chõi thì mình cũng chõi luôn. Cho sáng mai tụi nó hết ãn sáng!” Hai anh hì hục mở từng hũ uống cho cạn hết sữa chua rồi thõ thới ra về. Sáng hôm sau, trong mục tin vắn, các báo ðều loan tin một Ngân Hàng Tinh Trùng bị cýớp! Ngân Hàng Tinh Trùng ðể làm chi vậy? Ðể chứa ðạn dýợc do ngýời ta gửi, phòng khi dùng ðến. Ðiển hình là ông chồng của ca sĩ Céline Dion, trýớc khi chạy hóa chất ðiều trị bệnh ung thý, ðã mang ðạn tới gửi. Và sau ðó, cô ca sĩ bạc triệu này ðã thụ thai với thứ ðạn không do súng bắn ra này. Thời vua Minh Mạng thì làm gì ðã có ngân hàng. Ðạn ông gửi thẳng cho các bà cung phi giữ dùm. Vừa gọn, vừa có kết quả ngay. Thứ ðạn “nhất dạ ngũ giao sinh lục tử” này quả là thứ ðạn... vua. Chúng ðã ðụng bia của 43 phi tần cung nữ và tạo ðýợc 78 hoàng nam, 64 hoàng nữ. Tổng cộng lại là 142 trự! Vua có... ngon nhất không? Chýa chắc! Hai vợ chồng nhà kia tới thãm một trại nuôi súc vật. Ông chủ trại chỉ vào một con heo ðực. “Anh chàng này có thể phủ nái mỗi ngày mýời lần nhý không.” Bà vợ nhìn xéo ông chồng. “Ông thấy chýa?” Ông chồng cúi gầm mặt, suy nghĩ, rồi hỏi lại ông chủ trại. “Ông muốn nói là nó phủ chỉ một con nái?” Ông chủ trại lắc ðầu. “Ðâu có uổng nhý vậy ðýợc! Mýời con nái khác nhau chứ!” Ông chồng nhìn xéo qua bà vợ. “Bà thấy chýa?” 01/2004 Song Thao
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 6, 2010 7:35:26 GMT 9
SÚNG “Việt Cộng ở phía tàu mắc cạn hình như đã đến gần tuyến vì tôi nghe tiếng súng mỗi lúc một chát chúa hơn. Tiếng súng phòng thủ của tiểu đoàn 5 chỉ còn là cầm chừng vì mỗi lúc tôi thấy một thưa hơn… Tôi nằm đắp chung poncho với cô gái. Hơi ấm từ người nàng làm tôi khó chịu, không phải tôi khó chịu cô gái mà tôi khó chịu tôi. Đời thuở nhà ai, trong hoàn cảnh này, người ta ai cũng phải lo mà giữ sức khỏe, còn tôi, tôi lại muốn phung phí sức khỏe. Bộ chưa đủ mệt hay sao?... Bàn tay tầm bậy của tôi mầy mò tứ tung trong poncho. Cô gái không có thái độ hoan hô hay đả đảo gì ra mặt, nhưng người cô ta đang từ âm ấm chuyển dần sang nóng, hơi thở dồn dập và rõ tiếng hơn. Đến một lúc thuận tiện, tôi tìm một vị thế thích hợp. Nhưng vị thế thuận tiện đã không có với chúng tôi. Cát dính lung tung lên người chúng tôi, ở dưới hố thì hố được đào cong vòng như cái võng, kéo nhau lên trên miệng hố, đạn Việt Cộng bay loạn xạ ở tầm rất thấp. Rất thèm, nhưng thôi thì đành chịu, lắc đầu, chép miệng, ngậm ngùi.” Trích đoạn trên từ cuốn hồi ký Tháng Ba Gãy Súng của Cao Xuân Huy. Chuyện xảy ra vào ngày 26 tháng 3 năm 1975, khi các tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến tập trung trên bờ biển Thuận An để xuống tàu rút về Nam. Cuộc di tản thất bại. Dân chúng và các binh sĩ thuộc các binh chủng khác đã tràn ra bờ biển, tranh dành nhau xuống tàu gây nên cảnh hỗn loạn, bắn giết nhau. Hoạt cảnh trên xảy ra khi những binh sĩ Thủy Quân Lục Chiến đành phải quay trở lại, lập phòng tuyến chống lại Việt cộng đang tràn tới. Binh sĩ tập họp tạm thời không đội ngũ, súng ống vá ráp nhặt nhạnh được gì dùng nấy. Phòng tuyến chỉ là tạm bợ, trước sau gì cũng bị địch quân tràn ngập. Trong tình cảnh dầu sôi lửa bỏng như vậy, ông Trung Úy Cao Xuân Huy xài súng lung tung. Súng này súng khác. Súng trên tay, súng trong người. Cứ loạn cả lên! Súng là một nét nam nhi. Không súng như hoạn quan hay dùng súng sai mục tiêu như dân gay, õng ẹo liền! Nam nhi đâu thấy! Nam nhi nên súng phải như thép. Oai hùng và nghễu nghện. Đó là nói về súng khi chinh chiến. Còn khi súng ở thế nghỉ cũng èo uột chun choen. Chuyện thường tình như vậy, ai chẳng biết, dù thuộc giới có súng hay không. Trong giờ giải phẫu sinh lý, giáo sư hỏi: “Các em hãy cho tôi biết bộ phận nào của cơ thể sẽ tăng kích thước lên gấp bốn lần ở trạng thái hưng phấn?” Một nữ sinh ngồi ở hàng ghế đầu cười khúc khích, che miệng ấp úng: “Hì, hì…” Đợi câu trả lời không được, giáo sư nói tiếp: “Đó là đồng tử! Còn cái không nói, chỉ hì hì… thì giỏi lắm chỉ tăng lên được gấp đôi thôi!” Chỉ tăng gấp đôi, vậy mà không phải muốn là được. Khi cơ thể tàn lụi với thời gian, súng siếc nản lắm. Mà chẳng cứ súng, thứ gì trong cơ thể cũng xuống cấp. Trên thời móm mém nhai chẳng vỡ Dưới lại chun choen nhét chẳng vào! Nói như vậy nhưng anh hùng về chiều cũng chẳng nên nản chí. Không phải khi tuổi tác chồng chất lên cao là súng hết gân guốc. Cũng còn vớt vát được. Thậm chí 70 hoặc 80 tuổi đôi khi súng vẫn cương cường như ai. Dĩ nhiên chẳng có thể đến hẹn lại lên như thuở thanh xuân mà phải dỗ dành phát mệt. Nhiều súng khó tính dỗ dành cũng cứ gặp nhau làm ngơ. Trước đây thì… thày chạy. Vài năm gần đây có tin vui giữa giờ tuyệt vọng. Danh sách các anh hùng cứu bồ gồm Viagra, Levitra, Cialis. Bạn nào muốn thấy công đức của các vị anh hùng này thì cứ mở TV xem mục quảng cáo có mấy ông vừa tắm vừa hát vang nhà vang cửa thì biết! Anh hùng có anh hùng chính hiệu, có anh hùng… rơm! Loại anh hùng hại súng này đang hoành hành tại Việt Nam. Đó là các loại thuốc dỏm bán đầy ở các chợ trời và ngay cả trong nhà thuốc nữa. Thuốc dỏm không phải là không có công hiệu, trái lại nó công hiệu quá trớn. Dựng cờ cứu nước, nước cứu xong rồi, cờ vẫn hiên ngang không chịu cuốn! Như trường hợp anh H.Q.T., cư ngụ ở Vĩnh Long, trung tuần tháng 3 vừa qua, đã phải đưa vào cứu cấp tại Bệnh Viện Bình Dân trong tình trạng súng như khúc cây, đau tức ở vùng hạ bộ, tiểu tiện khó khăn. Lý do: anh dùng Viagra dỏm. Anh T. cho biết, sau khi dùng ¼ viên thấy hiệu nghiệm. Hai ngày sau, thuốc vẫn còn hiệu nghiệm! Súng ống nhất định không chịu thao diễn nghỉ! Hoảng quá, anh vội cầu cứu tới bệnh viện. Bác sĩ Nguyễn Thành Như phải dùng phẫu thuật để… hạ cờ! Nếu để trễ hơn sẽ đưa tới tình trạng xơ hóa chú nhỏ, nếu có trở về tình trạng cũ thì súng ống cũng hết xài. Chỉ có nước cho vào kho phế liệu! Như trường hợp anh D., 34 tuổi, cư ngụ ở Tiền Giang. Anh cứ cờ bay cờ bay đến 4 ngày mới tìm tới bệnh viện. Bác sĩ cũng đành bó tay. Mới 34 tuổi đã vĩnh viễn giã từ vũ khí. Thảm thương thay! Súng cương cường quá đáng vì dùng thuốc dỏm là một chuyện. Nhiều nam nhi bình thường cũng… rối loạn cương dương. Rối loạn cương dương là một danh từ văn hoa để chỉ tình trạng lảng nhách: khi cần thì súng ống ủ rũ, khi không cần thì cương cường vươn lên. Có ông đang ngồi họp, đang đi trên đường, không có kích thích gì cả, tự nhiên cờ bay thẳng cánh, can cũng không được. Vậy mà khi trận chiến bày ra, cuộc cờ sắp vui thì súng ống lại… đi ngủ ! Theo các công trình nghiên cứu tại Việt Nam thì có 15,7% nam giới nước ta bị chứng bệnh lảng xẹt này. Theo một cuộc điều tra của Khoa Tiết Niệu, bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức, thì bệnh này phát triển tùy theo tuổi tác và ngành nghề. Lứa tuổi từ 18 đến 30: 10,8%; từ 41 đến 50: 44%; trên 60 tuổi: 57%. Theo ngành nghề thì công chức: 74%; công nhân: 6,5%; nông dân: 3,2%; cựu chiến binh: 14%; nhà văn nhà báo: 1,6%; thương gia: 6,5%. Kết quả này không được các nhà điều tra giải thích gì cả. Tại sao có giới bị ít, có giới bị nhiều? Chịu! Tôi chỉ chú ý tới điểm các nhà văn nhà báo chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ. Cứ trăm ông mới có 1,6 ông dính. Đâu tới lượt mình! Súng có nhiều loại. Súng lục, súng trường, súng liên thanh, súng đại bác… Súng bắn nước cũng có nhiều cỡ. Lớn nhỏ tùy theo… ý trời. Các nam nhi mới lớn, chiến trường chưa xông pha vẫn cứ hay thắc mắc là khẩu súng cơ hữu của mình có đủ khả năng chiến đấu không? Hơi đâu mà lo. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã chẳng từng thơ: rộng hẹp nhỏ to vừa vặn cả / ngắn dài khuôn khổ cũng như nhau đấy sao! Nhưng con tạo nhiều khi cũng chơi khăm. Cứ 200 trự thì có một trự được phú cho khẩu súng có cũng như không, chẳng nên cơm nên cháo gì cả. Như anh chàng Sergei, cư dân của một ngôi làng không được nêu tên tại Tây Bá Lợi Á chẳng hạn. Súng của anh khi cờ bay cũng chỉ vỏn vẹn được có 5 phân! Năm phân là một con số vô ích. Chẳng vào tới đâu cả. Anh phải tìm lên thủ đô Mạc Tư Khoa tìm tới nhà giải phẫu tài ba Mikhail Sokolshchik thuộc Trung Tâm Y Khoa Giải Phẫu Quốc Gia để điều chỉnh súng. Nhà… sửa súng này đã có 13 năm kinh nghiệm trong nghề, đã tiến hành hàng ngàn vụ, từ những vụ đổi giống từ nữ nhi sang nam tử đến những vụ tai nạn gẫy súng hoặc súng thiếu kích cỡ. Anh Sergei đã phải chi ra 2500 đô để tân trang súng. Trong một cuộc giải phẫu kéo dài tới 11 tiếng đồng hồ, chuyên viên sửa súng Mikhail đã cắt rời phần đầu súng của bệnh nhân, cấy nó vào phần trên cánh tay trái của anh để giữ cho nó sống. Sau đó ông cắt hai lớp da trên phần dưới cánh tay rồi quấn quanh một ống nối bằng chất silicone. Thủ thuật kế tiếp là nối phần của quý vào với chiếc ống này, lấy cả phần tân trang mới này ra khỏi cánh tay và nối lại với phần gốc ở vị trí cũ. Thế là xong. Anh Sergei có một khẩu súng kích cỡ dài tới gần 17 phân. Phẫu thuật gia Mikhail cho biết là súng tuy là tân trang nhưng dùng tốt như súng mới, có thể bắn vung vít và làm sưng bụng được như các khẩu súng thông thường khác! Bắn vung vít, nói vậy mà không phải vậy! Có họa là sức voi! Nhịp bắn tùy theo từng người. Các nhà điều tra và thống kê thích qui chuyện bắn biếc theo từng dân tộc. Theo điều tra của hãng bao cao su Durex thì dân Pháp ngày nay đang chiếm huy chương vàng về bắn. Trung bình mỗi năm 137 lần. Theo sát là dân Hy Lạp: 133 lần; Serbia: 131 lần, đồng hạng với dân Hung Gia Lợi. Còn con rồng cháu tiên thì sao? Thưa 87 lần, tần số bắn chỉ bằng 64% so với huy chương vàng Pháp! Bà Khuất Thị Hải Oanh thuộc Viện Nghiên Cứu Phát Triển Xã Hội tại Hà Nội cho rằng như vậy, đối với người Việt Nam, cũng coi là được! Súng là một cách nói đánh lạc hướng. Thực ra cái củ lẳng có rất nhiều tên. Khỏi điểm hết ra đây, hải nội chư quân tử cũng đã đọc lên vanh vách. Nhưng cái tên cúng cơm của nó thì ai cũng ngại nói ra. Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc vừa có một bài viết trên diễn đàn Talawas mang cái tên rất dân gian. Bài “ Con c..”. Cái tên nghe đã thấy thách thức. Đó là tôi đã mạn phép dùng hai dấu chấm để dấu đi một nguyên âm và một phụ âm, được trang điểm thêm dấu á dấu nặng đàng hoàng. Bài viết đã mang cái vật thể ở miệt dưới lên một nấc rất cao: nấc văn hóa! “Mang tính văn hóa, c.. không phải chỉ là một vật thể mà còn là một ký hiệu, hơn nữa, một ẩn dụ, tồn tại như một biểu tượng, nghĩa là vừa là nó lại vừa không phải là nó. Nó là biểu tượng của vô số điều khác nhau: với các nhà sinh học, nó là biểu tượng của sự truyền giống; với các nhà đạo đức, nó là biểu tượng của xác thịt và của sự phàm tục, một đối cực của tinh thần và sự linh thiêng; với các nhà nữ quyền, nó là khí cụ dùng để trấn áp; với các nhà thẩm mỹ truyền thống, nó là biểu tượng của sự tục tằn; với các nhà thẩm mỹ theo khuynh hướng cách tân, nó là… cách mạng..v..v.. Tính biểu tượng ấy làm cho c.. trở thành từ đa nghĩa và đa tầng: nó thâu tóm trong nó cả lịch sử nhận thức và lịch sử thẩm mỹ của một cộng đồng. Người ta đối diện với nó không phải chỉ với tư cách một cá nhân mà còn với tư cách của một tập thể và một lịch sử. Cảm giác thích thú hay khó chịu của người đọc khi đọc bài viết này là một thứ phản ứng có điều kiện, được hình thành dần dần qua thời gian, với vô số những tác động từ bên ngoài, chứ tuyệt đối không phải là một cái gì tự nhiên nhi nhiên. Bắt chước cách nói đã thành sáo ngữ, tôi có thể nói thế này: bạn hãy cho tôi biết bạn có cảm giác như thế nào khi đọc chữ “con c..” trong bài viết này, tôi sẽ cho bạn biết bạn là ai.” Bạn là ai? Tôi đâm ra bối rối! Cái thứ con người cứ phải giấu giấu giếm giếm, tưởng như thể là một thứ rất hạ tiện bỗng được khoác cho những thứ vừa to lớn vừa trí thức vừa đụng tới lịch sử. Không phải là lịch sử của một triều đại, một dân tộc đâu nhé, mà là lịch sử của… văn minh nhân loại! Cái mà từ đầu bài tới giờ tôi gọi một cách lảng nhách là súng đã được nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc bơm lên thành một vật thể quan trọng. Nó là cái mà ông Ba Mươi cũng phải sợ. Nguyễn Hưng Quốc đã nhắc lại một truyện tiếu lâm ngày xưa. Một hôm, một con cọp đến rình rập quanh một mái nhà tranh lụp xụp cạnh một khu rừng. Nó nghe hai vợ chồng trong nhà chuyện trò. Người chồng hỏi: “Nghe nói dạo rày cọp hay ra bắt người lắm, mình có sợ không?” Người vợ đùa, bỗ bã: “C.. còn không sợ, sợ gì cọp.” Con cọp không hiểu “c..” là gì nên rất đỗi hoang mang. Nó nghĩ thầm: đó hẳn là một con vật gì ghê gớm lắm, nhất định là ghê gớm hơn cả cọp. Từ hoang mang đến sợ hãi, nó lặng lẽ bỏ đi. Trên đường, tình cờ nó gặp một bà già. Bà già kinh hoàng, ngồi thụp xuống và co rúm người lại, nhưng con cọp trấn an: “Đừng sợ. Tôi không ăn thịt bà đâu. Tuy nhiên, bà phải thành thực trả lời tôi câu hỏi này: con c.. là con gì mà nghe nói còn ghê gớm hơn cả cọp thế?” Bà già nhanh trí, hiểu ngay, bèn trả lời: “Ối dào, ông ấy khủng khiếp lắm. Ông ấy cắn tôi một cái mà đến nay đã mấy chục năm rồi vết thương vẫn chưa lành.” Nói xong, bà lấy tay quẹt vào dưới đáy quần rồi dí vào mũi cọp. Con cọp ngửi mùi, phát khiếp, phóng chạy như bay, tự nhủ: “Độc thật! Nguy hiểm thật!” Cái thứ mà cọp phát khiếp, nhà thơ Hồ Xuân Hương lại na ná gọi là… cọc! Nó cũng ghê gớm lắm. Bốn cột khen ai khéo khéo trồng Người thì lên đánh kẻ ngồi trông Trai đu gối hạc khom khom cật Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới Hai hàng chân ngọc duỗi song song Chơi xuân đã biết xuân chăng tá? Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không! Dù ai nói đông nói tây, tôi vẫn cứ khoái gọi cái mà chúng ta nói tới là súng. Nghe vừa oai hùng, vừa chinh chiến, vừa khói lửa mịt mù, vừa trưởng thượng, vừa quyền uy, vừa hùng dũng, vừa gân guốc hết biết. Súng đã nằm từ đầu bài với Tháng Ba Gãy Súng của nhà văn Cao Xuân Huy. Cuối bài, tôi muốn nhắc đến thơ của ông bạn Hoàng Xuân Sơn cảm đề Tháng Ba Gãy Súng. Không thể nào không nhớ đạn nổ rền trong đầu bảng tên đời mốc thếch gãy súng rồi về đâu! Gãy súng gãy súng tháng ba gãy tay gờm chân dợm chạy tháng ba dợm chạy gãy súng rồi chạy đâu! Súng gãy, chạy đâu được! Có chạy về nhà cũng không xong. Nước non gì nữa! 04/2005 SONG THAO : Trò Chuyện Với Độc Giả Trang dutule.com Mở: Trong tháng 6 và tháng 7/2010, trang mạng dutule.com của nhà thơ Du Tử Lê có nhã ý mời tôi trò chuyện với độc giả. Cuộc trò chuyện đã nhận được một số câu hỏi khá lý thú. Nhân dịp tổng kết cuộc trò chuyện này, tôi post lại toàn bộ cuộc trò chuyện trên trang nhà của tôi để chia sẻ với các bạn độc giả trong nước cũng như ở hải ngoại. ST toannguyen: Tôi có hai câu hỏi 1- Thưa ông, cơ duyên nào khiến ông tìm đến với lối viết phiếm? 2-Tôi đọc tiểu sử của ông được biết ông ở Canada, một nơi sống cũng khá êm đềm, tôi đoán ông cũng ít cơ hội tiếp xúc với người Việt Nam, vậy từ đâu là "nguồn" để ông viết loại phiếm dính đến người VN? Song Thao: 1- Tôi không tìm tới Phiếm mà tôi trở lại với Phiếm. Từ trước năm 1975, tôi đã phụ trách mục Phiếm mang tên “Những Điều Trông Thấy” trên bán nguyệt san Thời Nay, mục “Khều Mặt Trời” viết hàng ngày trên nhật báo Dân Ý dưới bút hiệu Thầy Khều trong nhiều năm. Sang Canada tôi mới chuyên viết truyện ngắn, việc mà tôi làm rất tài tử hồi ở Việt Nam. 2- Tôi ở Montreal, Canada, thành phố có khoảng 40 ngàn người Việt với rất nhiều tiệm ăn và các chợ Việt. Ra đường, xuống tới những khu tập trung nhiều người Việt là có thể nghe tiếng Việt líu lo bên tai. Ngay cả khi đi shopping tại các cửa hàng của người bản xứ cũng có rất nhiều cơ may nghe được tiếng Việt. Không biết có cần phải nhắc lại là thành phố này quy tụ các cây viết: Luân Hoán, Trang Châu, Hoàng Xuân Sơn, Hồ Đình Nghiêm, Nguyễn Vy Khanh, Võ Kỳ Điền, Nguyễn Văn Lục, Lưu Nguyễn, Tiểu Thu…và cả bác Trương Bảo Sơn vừa bỏ chúng ta ra đi. Đoan Trang: Thưa chú, tại sao từ là một người viết văn "bình thường" chú lại sang viết phiếm? Nhìn hình chú thấy chú có vẻ là một nhà giáo. Song Thao: Tôi có vẻ là nhà giáo lắm sao? Nếu đúng thì là giáo…gian! Tôi có hai thời kỳ đi dậy học. Thời kỳ đầu là khi còn đang học ở Đại Học Văn Khoa, dậy để kiếm tiền theo học. Thời kỳ thứ hai là khi đi tù cải tạo về. Lúc đó bị đuổi đi kinh tế mới, bí lối, nghe theo lời một người bạn vào hội Trí Thức Yêu Nước để đi dậy học cho yên thân trụ lại Sài Gòn. Cả hai lần đều lợi dụng việc dậy học như chiếc thuyền qua sông. Như vậy thì…gian đứt rồi chứ chi nữa! Như đã trả lời ông Toan Nguyen ở trên, tôi là một nhà báo trước khi là một nhà văn “bình thường”. Sau khi in 7 cuốn truyện, tôi về hưu. Hưu cả việc làm lẫn viết truyện. Thực ra khi đó tôi muốn tìm một công việc bắt buộc mình phải làm thường xuyên để tránh cảnh ra ngồi trong chốn đông người ngắm ông đi qua bà đi lại. Tôi đã chọn viết phiếm để có cơ hội viết thường xuyên hơn. Lúc đầu định dùng cả hai tay, một tay viết phiếm, một tay viết truyện. Nhưng khi bắt tay vào việc mới thấy không thể múa đều cả hai tay được. Khi viết phiếm rồi tôi vẫn còn viết truyện lai rai. Cuốn tuyển tập truyện ngắn “Chốn Cũ” xuất bản vào năm 2006 lúc tôi đã lậm vào phiếm rồi đấy chứ. Trong một lần phôn sang anh Nguyễn Mộng Giác nói chuyện chơi, anh bảo là tới một lúc nào đó mình không còn chi để chia sẻ với người đọc nữa. Chắc là như vậy nên tay viết truyện không động đậy mạnh được nữa. Nhung Dang: Tại sao khi người ta gọi là Phiếm, cũng có người gọi là Phiếm Dị, có khác nhau giữa hai cách gọi đó không thưa ông? Song Thao: Phiếm theo Hán Việt Tân Từ Điển của Nguyễn Quốc Hùng: “nổi trôi trên mặt nước” hoặc “rộng rãi” Phiếm Luận là: “bàn bạc dông dài, rộng về nhiều việc. Bàn bạc mà chơi”. Theo định nghĩa trên thì cái thứ tôi viết chính là Phiếm Luận. Nhưng khi khởi sự viết Phiếm tại hải ngoại, tôi tự nhiên thấy thích dùng một chữ cho mạnh nên gọi bằng một chữ “Phiếm”. Cũng vì sở thích nên lúc đầu các bài Phiếm có thể có cái tựa một, hai hoặc ba chữ. Nhưng dần dà tôi lại thích dùng một chữ cho mạnh. Riết rồi độc giả quen với các bài một chữ. Gặp độc giả tôi mới biết là lối đặt tên bài bằng một chữ duy nhất đã làm thành nét đặc trưng của những bài Phiếm của tôi. Vậy là từ đó tới nay các bài Phiếm toàn chì có một chữ. Vậy cũng đỡ tốn chữ! Tiết kiệm được chút nào hay chút ấy! Còn chữ “Phiếm Dị” thì tôi hoàn toàn không biết do đâu mà có. Kim Loan: Thưa anh, theo tôi nghĩ, người viết phiếm như ông thì bất cứ lúc nào, đi đâu cũng lắng tai nghe, thâu nhận...để rồi về viết. Như thế đời sống lúc nào cũng lăm lăm dòm ngó mọi chuyện để viết, thế thì chán chết. Chẳng lúc nào mình sống thoải mái, phải không thưa anh? Song Thao: Chết thật! Cô đừng nghĩ như vậy mà oan cho tôi. Theo như cô hiểu thì tôi như một thứ công an chuyên nghe ngóng chuyện của người khác! Tội chết! Không có như vậy đâu cô. Tôi có đôi tai rất lơ là và cái đầu rất hay quên. Thường những bài viết của tôi là những suy nghĩ của tôi trước những gì xảy ra chung quanh hoặc đọc được trên các loại thông tin trên internet cũng như trên báo giấy hoặc sách vở. Chuyện xảy ra chung quanh là những gì tôi sống chứ không phải những gì tôi rình rập được. Nếu cô gặp tôi cô sẽ thấy tôi là người lơ đãng đến thế nào! Bích Ngọc Nguyễn: Tại sao tôi vào trang Web của ông, chẳng thấy ông post tác phẩm mình lên như những trang web khác? Song Thao: Trang web của tôi post hậu hĩnh đấy chứ. Có 7 cuốn truyện thì tôi đã post toàn bộ 6 cuốn. Cuốn thứ 7, Chốn Cũ, đang post dở dang. Về Phiếm tôi đã post hai cuốn. Đang sửa soạn post cuốn Phiếm3. Truyện thật ngắn: có 10 truyện thì tôi đã post hết rồi. Các bài viết cho bạn bè hoặc viết từ bạn bè đã được post hết. Các bài trả lời phỏng vấn cũng vậy. Các bài audio đọc truyện và video ra mắt sách có bao nhiêu tôi đã đưa lên web hết. Như vậy gia tài điền sản của tôi, tôi đã “khoe” trên mạng gần hết rồi. Mong cô bằng lòng với những bài vở trên trang web của tôi. Trần Thành Tôi có theo dõi truyện ngắn của ông, tôi thấy đề tài của ông rất đa dạng. Từ thời sự, chiến tranh, phản kháng tới tình yêu đất nước và tình yêu đôi lứa. Thưa ông: Những đề tài đó có xuất phát từ những cảm nghiệm cá nhân của ông không? Nếu có thì chừng bao nhiêu phần trăm? Song Thao trả lời: Trong truyện tôi viết thường là sự trộn lẫn giữa cái thật ngoài đời và hư cấu. Thấy một nhân dáng, một hình tượng, một cảnh quan hay một sự việc, lòng bỗng xúc động, cái tay động đậy muốn trải những cảm xúc ra giấy, vậy là suy nghĩ, đào sâu tình huống, sắp đặt thành truyện. Không biết các vị khác viết truyện ra sao chứ tôi thì tôi nghĩ tới cái kết trước rồi dẫn dắt nhân vật hoặc các nhân vật tới cái bến mà mình đã đặt ra trước. Đôi khi các nhân vật vùng vằng theo diễn tiến truyện khiến mình bị lôi kéo theo tạo ra những tình huống mới rất đa dạng và thú vị. Nhưng cuối cùng, tác giả cũng sẽ giải giao nhân vật tới bờ bến của mình. Bao nhiêu phần trăm là thật, bao nhiêu phần trăm là giả, thật khó đong đếm. Nhưng đong đếm làm chi nhỉ? Hoàng Có bao giờ ông cảm thấy “cạn” đề tài quá, và “ẩu tả” trong công việc viết không? Song Thao trả lời: Ngay từ khi bắt đầu viết thường xuyên mục “Phiếm” cho các báo, tôi cũng đã dự trù có ngày sẽ cạn đề tài. Nhưng phúc đức quá, việc đó chưa xảy ra. Nếu nó xảy ra thì cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Chuyện gì mà chẳng có hồi chung cuộc! Nếu cạn đề tài thì tôi sẽ ngưng viết vì có ai gí súng vào lưng bắt tôi phải viết đâu! Cần chi phải tự mình làm mình ngượng ngùng bằng những bài viết “ẩu tả”. Câu hỏi của bạn làm tôi nhớ tới câu chuyện của tôi với nhà thơ Đỗ Quý Toàn. Trong một buổi ngồi nói chuyện chơi ở Montreal, nhà thơ nói với tôi là có một độc giả hỏi ông làm thơ có khó không? Ông bập bập một hơi chiếc tẩu thuốc lá, cười mỉm, nói : “Tôi trả lời là khó thì làm làm chi cho cực!” KínhNguyễn Kinh nghiệm sống, sự từng trải cộng với những chiêm nghiệm, quan sát chung quanh, cọ sát xã hội dường như là những chất liệu quý báu cần thiết cho một nhà văn? Ông cũng có làm thơ, như vậy điều này có cần cho một nhà thơ không, theo ông? Song Thao trả lời: Có lẽ bạn lộn rồi. Tôi chưa bao giờ làm thơ một cách nghiêm chỉnh. Thỉnh thoảng có vẽ vời viết ra những câu vần nhưng là do bạn bè bắt tôi phải tham gia cho vui vậy thôi. Tôi chưa bao giờ coi đó là thơ. Chữ nghĩa trong thơ là những hạt ngọc mà tôi chưa sở hữu được. Không làm thơ nên tôi không biết trong người các ông nhà thơ có những thứ gì. Bạn có cần tôi làm một cuộc thăm dò hoặc điều tra không? Hoàng Oanh Xin ông cho tôi hỏi một câu hỏi có tính cách cá nhân: Nếu ông không trả lời cũng không sao? Thưa ông, công việc viết lách của ông có ảnh hưởng đến …hạnh phúc gia đình? Phu nhân của ông có đọc và góp ý với ông không trong những tác phẩm ông viết? Ông có cháu nào theo nghiệp của Bố? Song Thao trả lời: Viết là chuyện vui chơi. Mà vui chơi thì có chi nghiêm trọng. Bà xã tôi là độc giả thứ nhất của những bài viết của tôi. Hay nói theo kiểu vui chơi thì bả là nhà kiểm duyệt không được tuyển mộ nhưng rất hăng say. Nói vậy nhưng đôi khi tôi cũng phải dựa vào bả để biết các bà nghĩ gì, thấy gì và thích gì trong những bài viết để theo đó, tôi uốn theo chút đỉnh. Các con tôi, hai cháu lớn rời Việt Nam khi mười hai và mười tuổi còn đọc được chữ Việt. Đôi khi cũng thấy các cháu cầm sách của tôi đọc nhưng đọc như thế nào thì quả thực tôi không rõ. Chẳng nên trông đợi quá nhiều. Được sao hay vậy. Bàn tay chúng ta ngắn lắm, chẳng thể nắn được cuộc sống đâu . TRẢ LỜI PHỎNG VẤN BÁO VĂN HỌC Tại sao viết? Không cách gì mà không viết được. Viết là một cách giải thoát! Viết cái gì? Tất cả những gì chui qua tai, qua mắt và bắt cái đầu nghĩ ngợi, không viết ra nó cứ bám cứng trong đầu chịu gì nổi. Viết cho ai? Cứ coi tôi như một anh đầu bếp đi chợ mua thịt mua cá, lựa rau lựa dưa, bắt thêm củ hành củ tỏi mang về xào xào nấu nấu. Cứ coi người đọc như những thực khách vào một nhà hàng. Ông thích thế này, bà thích thế kia, bá nhân bá tính, mặn lạt tùy người. Tôi dọn ra một món ăn, người khen người chê, người thích người không thích. Tôi cố nấu nướng sao cho mọi người đều hài lòng, càng nhiều càng tốt. Nhưng anh đầu bếp cũng có vấn đề của anh đầu bếp. Nấu nướng lâu ngày ngửi mãi mùi thức ăn mình nấu cũng đâm chán. Chán mà chẳng bỏ được! Ví von cho vui vậy thôi chứ thực ra ở ngoài đời tôi là người nấu ăn rất dở. Dở tàn canh! (Tạp chí Văn Học, California, Số 125, Tháng 9 năm 1996)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 6, 2010 7:40:16 GMT 9
Phỏng vấn nhà văn SONG THAO
QUỲNH MY thực hiện SONG THAO là bút hiệu của ông Tạ Trung Sơn, nguyên quán tại Hà Nội, viết báo từ năm 1959 tại Saigon, viết văn từ năm 1991 tại Montreal, Canada. Nhà văn Song Thao đã gửi tác phẩm của mình đến bạn đọc qua nhiều tạp chí văn học như: Làng Văn, Hợp Lưu, Văn Học, Văn, Sóng Văn, Nắng Mới... Ông cũng đã cho xuất bản 5 tác phẩm qua các nhà xuất bản: Kinh Đô, Ngày Nay, Văn Mới tại Hoa Kỳ. Để bạn đọc của Hồn Quê có cơ hội tìm hiểu thêm một số suy tư và quan niệm của một tác giả thành danh, chúng tôi đã có một cuộc bút đàm ngắn gọn với nhà văn Song Thao. Xin mời các bạn theo dõi. QM Quỳnh My (QM): Khởi từ tác phẩm đầu tay Bỏ Chốn Mù Sương, được trình làng năm 1993, một loạt tác phẩm khác của ông đã được xuất bản gần như đều đặn mỗi năm, xin ông cho biết những nguồn cảm hứng, điều kiện nào đã giúp ông sáng tác khỏe, cũng như ấn hành dễ dàng? Song Thao (ST): Nói là sách của tôi được xuất bản gần như đều đặn mỗi năm là cô quá mến mà nói thêm cho tôi. Thực ra cứ trung bình hai năm mới có một cuốn. Trong sinh hoạt chữ nghĩa lèo tèo tại hải ngoại hiện nay thì xuất bản sách như vậy được coi là đều đặn. Nhưng xuất bản nhiều hay ít sách không phải là mục đích chính của tôi. Số lượng sách xuất bản không nói được nhiều điều. Chính nội dung những cuốn sách xuất bản mới là điều tôi quan tâm nhiều hơn. Vì vậy, những nguồn cảm hứng bất chợt tới không làm cho tôi cầm viết ngay được. Tôi cảm nhận nguồn cảm hứng đó, suy nghĩ, dựng truyện, sống với nhân vật một thời gian cho thấm, thường thì tiến trình này mất từ vài tuần tới cả tháng. Sau đó, khi mọi sự đã chín, tôi mới viết lên giấy. Về điều kiện sáng tác, điều cần thiết là có thời giờ rỗi rảnh để cầm bút. Rỗi rảnh đây là rỗi rảnh cả về thời giờ lẫn trí óc. Không có cái an bình trong đầu óc, tôi cũng không thể viết được dù có thời giờ. Tôi nghĩ sở dĩ tôi viết được đều đặn là nhờ hai điều: thứ nhất, thời giờ làm việc mưu sinh của tôi không đều đặn 5 ngày mỗi tuần mà thay đổi luôn, việc này làm tôi có những ngày rỗi rảnh nhiều khi nguyên cả ngày, viết mệt nghỉ; thứ hai, tôi có một đời sống tương đối không có nhiều lo lắng nên khá thảnh thơi viết lách. Còn về việc xuất bản, tôi khá may mắn. Ba cuốn sách mới nhất của tôi đều do một nhà xuất bản in ấn và phát hành: nhà Văn Mới. Anh Nguyễn Khoa Kha, chủ nhân của Văn Mới và Kim Ấn Quán, lại khá rộng rãi với tôi, luôn luôn sẵn sàng in sách của tôi ngay khi tôi viết xong mặc dù chúng tôi chưa bao giờ gặp mặt nhau. Âu đó cũng là một cái duyên hạnh ngộ mà tôi luôn luôn ghi nhớ. QM: Nội dung các tác phẩm của ông có nhằm giới thiệu một vấn đề chủ yếu nào ông tâm đắc nhất hoặc dựa vào những cảm nhận bất chợt? ST: Tôi rất nương nhẹ chữ nghĩa nên chẳng bao giờ có ý nghĩ khoác lên chữ nghĩa một sứ mệnh hay nhiệm vụ nào cả. Văn chương đâu có tội tình gì mà bắt nó lặc lè như vậy? Cứ để nó thảnh thơi vui chơi với người đọc, thế là đủ rồi. QM: Là một nhà văn có nhiều tác phẩm đã xuất bản, xin ông cho biết những thói quen của ông khi sáng tác cũng như một số kinh nghiệm riêng. ST: Thói quen sáng tác của tôi, ngẫm ra, đều là những thói quen xấu, nên tránh. Tôi viết rất tùy hứng, nay vài trang, mai vài trang. Có khi vứt đó cả tuần hoặc nhiều tuần mới viết tiếp. Rất nhiều lần tôi phải đọc lại những gì mình viết trước đó rồi mới viết tiếp được. Nghĩ lại, hình như chưa bao giờ tôi hoàn tất được một truyện ngắn trong vòng một tuần thì phải! Lai rai như vậy đâu có gì tốt, phải không cô? Rồi lại còn cái thói ngả ngớn: chẳng bao giờ ngồi vào bàn viết cho đàng hoàng cả. Cứ vớ vội lấy vài tờ giấy, ngồi trên ghế dựa ( đúng ra là nửa nằm nửa ngồi! ), kê một cái bìa cứng lên đầu gối để viết. Thời buổi bây giờ, có ai chậm tiến như vậy không? Thường thì các người viết khác, theo chỗ tôi biết, họ viết thẳng vào máy điện toán. Tiện lợi và văn minh biết chừng nào! Vậy mà tôi thì quê mùa, ngồi trước màn hình ( cái anh mặt vuông đó! ) thì chữ nghĩa chạy trốn đi đâu mất tiêu, lấy gì mà viết? Bá láp như vậy thì truyền được kinh nghiệm gì cho ai? Nặn mãi thì tôi cũng chỉ có thể tự nhủ với mình như thế này: sống với nhân vật và không khí trong truyện mình định viết một khoảng thời gian đủ cho mọi sự đã chín rồi hãy cầm viết. Và trước khi cầm viết, nhớ nắm cái kết truyện trước cho chắc ăn! QM: Bối cảnh trong truyện của ông một số lớn được xây dựng từ cuộc sống tại hải ngoại, hẳn ông có chủ đích trong chiều hướng này? Tại sao? ST: Đúng như cô nhận xét, truyện của tôi thường lấy bối cảnh trong cuộc sống lưu vong của chúng ta trong xã hội này, vào thời gian này. Có lẽ cuộc sống của chúng ta hiện nay là những điều dễ ghi nhận, dễ hòa mình, dễ xúc động hơn. Tính tôi hơi lè phè, cứ tìm những cái dễ mà làm. Hay là cái óc tưởng tượng của tôi hơi èo uột nên chẳng thể ném mình vào cuộc sống của một thời đại khác, một nơi chốn khác? Dù sao tôi cũng phải nhận là mình có nuôi nấng một chủ đích trong việc lựa chọn xây dựng cốt truyện trong bối cảnh cuộc sống của chúng ta tại hải ngoại. Đó là tôi muốn ghi lại cho mai sau ( nếu truyện của tôi may mắn còn sống được với thời gian! ) cuộc sống của lớp người lưu vong thế hệ thứ nhất chúng ta. Chúng ta đã ngỡ ngàng làm sao, hội nhập làm sao, học hỏi làm sao, suy nghĩ làm sao, sinh tồn làm sao sau cuộc chia lìa phũ phàng với nơi chôn nhau cắt rốn, sau khi bị ném vào một xã hội khác, một phong tục khác, một đạo đức khác, một trật tự khác, một nhân sinh quan khác. QM: Trong những sáng tác tiếp theo của ông sẽ có những thay đổi quan trọng ở đề tài, nội dung hay tiếp tục khai thác sâu rộng thêm những góc cạnh đã có? ST: Tôi là người ngại thay đổi, luôn tìm những con đường dễ dãi mà đi. Chặt cây, phá rừng, mở đường mở lối hay quẹo qua một lối khác trắc trở hơn là tôi ít khi đặt chân vào. Đó cũng là một tính xấu của người sáng tác, thường được hiểu như một người hăm hở lao mình vào những ngõ ngách mới, vạch ra những con đường mới. Nhiều lúc nghĩ lại thấy mắc cỡ, mình chẳng sáng mà cũng chẳng tác được gì! QM: Ông có gặp trở ngại nào đáng kể trong khi sáng tác? ST: Có chứ cô! Có những lúc tôi thấy chán nản rùng mình trước cây viết, có những lúc tôi thấy lười biếng chỉ thích mặc quần áo đi rong chơi, có những lúc tự đối diện với mình và thấy tất cả như vô nghĩa. QM: Ông đã sẵn sàng một tác phẩm mới? Có thông điệp nào ông sẽ gửi đến bạn đọc trong tác phẩm sắp ấn hành này? ST: Tôi vừa hoàn thành một cuốn sách mới, cuốn Bên Lưng Những Con Chữ. Cuốn này cũng do nhà Văn Mới xuất bản và phát hành. Tôi dự định sẽ ra mắt cuốn này tại Cali vào ngày 19 tháng 7 năm 2003 tại Phòng Sinh Hoạt của nhật báo Người Việt. Không biết tôi có nên nhắc lại là tôi không bao giờ nỡ quàng chiếc ách nào lên cổ chữ nghĩa không? Nói chi tới những cái dễ sợ như là "thông điệp". QM: Ông có nhận xét nào về giới độc giả hiện nay tại hải ngoại? ST: Độc giả là những người giấu mặt. Họ có ở đâu đây nhưng tôi không nhìn rõ được họ. Dường như họ là những người không còn trẻ thì phải. Dường như họ cũng là những người tất bật cơm áo nên không có nhiều thời giờ. Dường như họ coi sách vở như một trốn trú thân an bình và riêng tư. Dường như họ là những người có lòng với chữ nghĩa và người viết. Chỉ có một điều tôi chắc chắn: họ là lý do tồn tại của người viết! QM: Với những cây bút phê bình văn học hiện nay, trong cũng như ngoài nước, ông có những nhận xét nào về họ? ST: Hình như chúng ta không có nhiều nhà phê bình văn học thì phải. Đây là một lãnh vực đòi hỏi nhiều sở học, công sức, nhạy bén và kiên nhẫn. Tôi rất tâm phục những người lao vào công việc khó khăn và vất vả này. QM: Xin ông trình bày những quan tâm của ông về Văn Học Việt Nam tại hải ngoại. ST: Số người đọc, phần lớn là những người trung niên và có tuổi, ngày càng giảm sút, sự "mù chữ" Việt của thế hệ con em chúng ta, đó là những yếu tố gần nhất làm cho người ta lo ngại cho nền văn học Việt Nam hải ngoại. Quả là trong những năm gần đây, văn học hải ngoại đã mất sức nhiều. Các báo văn học vẫn cầm cự một cách khó nhọc để có mặt đúng kỳ hạn, ngành xuất bản như một người bước vào tuổi già, tuồng như chúng ta đang cố níu kéo cho nền văn học của chúng ta khỏi suy sụp. Dù có lạc quan cách mấy, chúng ta cũng không thể giữ được nụ cười trong tình huống này. Nhưng nếu chúng ta quan niệm Văn học Việt Nam hải ngoại trước hết là Văn học Việt Nam thì chúng ta cũng có thể có được nụ cười khá tươi tắn. Bởi vì, sớm hay muộn, sẽ tới lúc nền văn học này hiên ngang trở về lòng đất mẹ. Trên 26 năm qua, chúng ta đã miệt mài tạo dựng được một nền văn học phong phú và đồ sộ, nền văn học mà có người cho rằng đồ sộ nhất từ trước tới nay mà một cộng đồng di dân tạo dựng được bên ngoài xứ sở gốc của mình. Thành tựu đáng hãnh diện này có thể là một nguồn suối làm tốt tươi cây trái văn học hải ngoại và giúp chúng ta một lòng vượt qua những khó khăn để gìn giữ và thêm hương thêm sắc cho nền văn học trân quí của chúng ta. Người Việt, Westminster, CA, số 6427, ngày 13/7/2003
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 6, 2010 7:40:59 GMT 9
TRẢ LỜI PHỎNG VẤN CỦA CÔ LÊ QUỲNH MAI ( ĐÀI TNVN MONTREAL)
LQM: Nguyên nhân nào thúc đẩy anh viết văn?
ST: Tôi mê viết ngay từ hồi nhỏ. Vừa lên học Trung Học, lớp Đệ Thất trường Dũng Lạc, những bài luận văn của tôi đã được Giáo sư Việt Văn, tôi nhớ năm đó là thầy Nguyễn Uyển Diễm, khen ngợi, luôn luôn cho điểm cao và đọc trước lớp như một bài luận mẫu. Được thầy khen ngợi như vậy cũng hứng khởi lắm. Hứng khởi quá rồi làm tới, tôi viết truyện gửi cho trang nhi đồng của các báo hàng ngày, truyện con nít ấy mà. Vậy mà bài được đăng báo thấy mình như kinh khủng lắm. Đi đứng khệnh khạng tưởng như bầu trời chỉ là một chiếc vung nhỏ.
Rồi mãi tới năm bước chân vào Đại Học Văn Khoa tôi mới bắt đầu thực sự viết báo. Từ năm 1991 tôi mới chuyển sang viết truyện cho tới nay. Lần này là truyện người lớn!
Trở lại câu hỏi của cô, tôi nghĩ nguyên nhân chính thúc đẩy tôi viết là sự đam mê. Một khi tay đã cầm cây viết chơi với chữ nghĩa, ít khi người ta có thể rời được nó lắm.
LQM: Anh đã cộng tác với một số tập san, báo chí tại Saigon trước năm 1975. Như vậy anh đã chọn con đường cầm bút như một nghề nghiệp chính hay chỉ xem đó như một lãnh vực hoạt động trong đời sống của mình?
ST: Cầm bút có phải là một nghề không? Chắc không cô ạ. Nó là một cái nghiệp. Đã là nghiệp thì ít khi dứt ra được lắm. Cây viết tự nó đã bầy ra một mê hồn trận. Đã sa vào thì chân cẳng dính cứng ngắc chẳng cách nào rút ra được. “ Đã mang lấy nghiệp vào thân” mà!
Đã không phải là một nghề thì làm gì có chính hay phụ. Nó là một cách thoát ra khỏi cuộc sống nhàm chán thường nhật, một thú vui, một loại thú vui chiếm nhiều thời giờ nhất, hơn cả thời giờ dành cho việc mưu sinh. Nhưng đã gọi là thú vui thì kể gì giờ giấc cũng như người ta có bao giờ tính hơn thiệt cho một cuộc tình đâu. Phải không cô?
LQM: Xin anh cho biết những hoạt động văn học của anh sau 1975 tại hải ngoại?
ST: Sau 1975 tôi có 10 năm vừa đi tù vừa sống dưới chế độ cộng sản. Mười năm tôi phải dấu kỹ ngòi bút của mình. Qua tới đây vào năm 1985, phần vì bận sinh kế cho một cuộc sống mới, phần vì thành phố này không có môi trường làm báo, tôi không cầm tới cây viết. Mãi 6 năm sau khi đặt chân tới Montreal, tôi mới viết lại. Lần này thì viết truyện ngắn vì, như tôi đã nói ở trên, không có chỗ cho người làm báo nơi thành phố này.
Chuyện tôi cầm bút viết lại cũng có một chuyện vui vui. Cô coi có đủ thời giờ thì tôi kể. Cũng không dài lắm.
LQM: Vâng, xin mời anh kể. ST: Anh bạn tôi, anh Luân Hoán, thấy tôi cứ lì ra không chịu viết lại, bèn đi một đường thơ khích tướng như sau:
Nợ cơm áo, nợ xe, nhà Cong lưng anh trả tà tà, sướng chưa? Nợ văn chương há chịu thua? Ở đây giấy bút quá thừa, mời anh.
Bốn câu thơ này được đăng trên tạp chí Nắng Mới. Thú thực với cô, đọc xong tôi thấy nhột thật. Lại thêm lúc đó cuộc sống đã đỡ vất vả, tay cũng đã bắt đầu thấy ngứa ngáy, tôi bèn viết lại. Hai năm sau, tôi in tập truyện thứ nhất, cuốn Bỏ Chốn Mù Sương, bản riêng tặng anh Luân Hoán tôi cũng “thơ” lại:
Ở đây giấy bút quá thừa, Bạn trao ta cứ viết bừa cho vui!
Thực ra chẳng phải chỉ là vui mà là tôi bắt lại được cái đam mê xưa. Tôi viết khá khỏe và nhanh. Truyện của tôi xuất hiện trên hầu hết các tạp chí văn học tại Canada và Hoa Kỳ. Hiện giờ tôi đang cộng tác thường xuyên với các tạp chí Văn, Văn Học, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, tất cả đều ở California. Tôi cũng đã cho xuất bản được 4 tập truyện ngắn.
LQM: Tại sao anh cầm bút trở lại sau một thời gian dài không hoạt động? ST: Như đã nói với cô, ngòi bút nó có cái ma lực kỳ lạ lắm. Đã dính vào thì dứt không ra. Trời đất có xoay vần tới đâu đi nữa thì mình vẫn cứ loay hoay tìm đu6ồng trở lại. Tôi nhớ hai câu thơ cũ:
Nhớ ai như nhớ thuốc lào Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.
Văn chương phải chăng cũng là một thứ thuốc lào?
LQM: Xin anh cho biết những tác phẩm của anh được viết theo thể loại nào? Tại sao anh chọn thể loại đó?
ST: Từ 8 năm nay tôi chuyên viết truyện ngắn. Tại sao? Có lẽ vì tôi không có tài làm thơ, lại không có đủ kiên nhẫn để viết truyện dài chăng? Thực ra tôi thấy thể loại truyện ngắn rất thích hợp với tôi. Nó giúp tôi có thể dàn trải một cách thích thú những suy nghĩ của tôi. Có lẽ tôi còn ở với truyện ngắn trong một thời gian dài nữa, dài tới bao lâu thì tôi chưa biết rõ, nhưng cho tới nay thì tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện phụ bạc nó.
LQM: Trong những tác phẩm của anh, đa số nhân vật là người Việt tại hải ngoại, hoặc là người bản xứ, hoặc bối cảnh thường là cuộc sống hiện tại, anh dựa vào đâu để viết về những nhân vật đó và những nhân vật này có thật hay do tưởng tượng mà ra?
ST: Đã có lần, trong một cuộc phỏng vấn của tạp chí Văn Học, tôi đã ví việc viết truyện như làm nhà hàng ăn. nhà hàng đi chợ mua cá, thịt, rau về rồi xào nấu chế biến, thêm mắm thêm muối vào mới thành được những món ăn hấp dẫn thực khách. Trong văn chương, thêm mắm thêm muối, đó là hư cấu.
Việc dựng những nhân vật cũng vậy, có phần thật mà cũng có phần hư cấu. Mà phần thật nhiều khi không phải của một người duy nhất mà là những đặc điểm của nhiều người góp lại. Mượn của ông này một chút, ông kia một chút. Cầm đỡ khuôn mặt của bà này lồng vào tính tình của bà khác. Đó là cách tôi mượn phần thật vào nhân vật của tôi. Phần hư cấu mới là phần quan trọng hơn. Chính cái hư cấu mới cho tác giả làm đậm cá tính của nhân vật, đẩy cốt truyện chuyển một cách tự nhiên và hơp lý.
Nhân vật của tôi, như cô nhận xét, phần lớn là những người Việt tại hải ngoại hoặc là người bản xứ vì truyện của tôi thường là những chuyện xảy ra quanh cuộc sống của chúng ta hiện nay tại hải ngoại. Có hai lý do để tôi chọn khung cảnh của truyện như vậy.
Thứ nhất là tôi muốn truyện của tôi gần gũi với người đọc. Đưa ra một cảnh sống, một tình huống quen thuộc dễ được độc giả chấp nhận và thích thú hơn, từ đó mình ký gửi những suy nghĩ của mình dễ dàng hơn. Tôi vẫn nghĩ rằng thành công đầu tiên và quan trọng nhất của một truyện là giữ được độc giả theo dõi truyện cho tới những dòng chữ chót.
Thứ hai, khi chọn khung cảnh truyện, tôi muốn ghi lại cho mai sau ( nếu truyện của tôi còn may mắn sống được với thời gian) cuộc sống của lớp người lưu vong thế hệ thứ nhất của chúng ta. Tôi muốn làm một nhân chứng trung thực của khúc đời bỏ xứ đầy cay đắng và gian lao của thế hệ chúng ta.
LQM: Quan niệm sống của anh thế nào?
ST: Chà, cô bắt đầu làm khó tôi rồi đó. Câu hỏi này bao quát quá và trả lời loạng quạng có khi gây ra nhiều ngộ nhận. Thôi, xin cô để cho tôi né một chút nghe. Tôi chỉ xin nói về những nghĩ suy của tôi về một lối sống mà tôi cố gắng theo đuổi thôi.
Cuộc sống, theo tôi, là một sự huyền nhiệm, đẹp đẽ và đáng trân quý. Đáng trân quý chẳng phải vì chúng ta chỉ có một cuộc sống mà vì cuộc sống, tự nó, đã mang đến cho chúng ta nhiều hương hoa mật ngọt. Tôi trân trọng cuộc sống. Và từ đó, hòa mình vào cuộc sống. Sống, đối với tôi là tận hưởng cuộc sống chứ không phải chạy theo cuộc sống. Chạy theo cuộc sống thì vất vả lắm. Phải bon chen, kèn cựa, xô đẩy nhau. Ít khi có tôi trong những chuyện tốn mồ hôi như vậy lắm!
LQM: Có phải quan niệm sống này có ảnh hưởng đến những tác phẩm của anh không?
ST: Có, cô ạ. Cái có thể gọi là lạc quan, an nhiên trong cuộc sống nó chui vào đầy rẫy trong truyện của tôi. Anh Nguyễn Mộng Giác cũng đã nhìn thấy ngay như thế và đã viết trong bài tựa cuốn truyện mới của tôi như sau: “ Song Thao là người lạc quan. Nhờ thế, nhân vật của anh lạc quan trong những tình thế đáng lẽ phải buồn thương chán nản. Người bệnh vẫn nói cười rôm rả. Người già sống cô độc nhưng không hề cảm thấy lạc lõng. Mỗi truyện mới đọc tưởng là một thảm cảnh. Đang đọc thấy đúng là một thảm cảnh. Nhưng đọc xong thấy lóe sáng niềm tin. Con người dù sao cũng vẫn còn rất tốt. Cuộc đời dù đầy bất trắc nhưng vẫn là nơi đáng sống nhất.”
LQM: Thời gian 1964, tốt nghiệp Đại Học xong anh trở thành chuyên viên ngiên cứu của Bộ Xã Hội, và đã đi tu nghiệp, quan sát tại Hoa Kỳ, Đại hàn, Nhật Bản, Hong kong, Phi Luật Tân. Như vậy anh đã có một cách nhìn rộng rãi (về mặt luân lý và văn hóa) đối với nước ngoài nói chung và với việt Nam nói riêng. vậy xin anh cho biết ý kiến về xã hội anh đang sống hiện nay.
ST: Trước đây, trong những lần đi tu nghiệp, quan sát hay học hành ở ngoại quốc, ngắn thì dăm bữa nửa tháng, dài thì có khi tới cả năm tôi vẫn luôn luôn có ý nghĩ trong đầu là mình không thể sống hẳn ở ngoại quốc được. Tôi mường tượng thấy chồng chất những khó khăn, vất vả, ngại ngùng khi phải chung đụng lâu dài như là một cư dân ăn nhờ ở đậu trong những xã hội không phải là của mình. Lúc đó, nghĩ là nghĩ chơi như vậy thôi, chứ không bao giờ trong đẩu tôi nẩy ra ý tưởng ở lại những quốc gia mà tôi đặt chân tới. Mình còn có một quê hương, còn thân thuộc, bạn bè, tội chi mà lưu vong cho khổ cái thân? bây giờ thật sự lưu vong, mất hẳn đường về, dù muốn hay không, phải chấp nhận cuộc sống nơi xứ người thì đành chấp nhận, cố nuốt cho xong chuỗi ngày tha hương. Nhiều khi tôi đã tự dối lòng, cố nghĩ tới những sự may mắn, hay đẹp cho mình, cho những đồng hương quanh mình và nhất là cho thế hệ con cháu của mình để cố mà vui sống. Cũng là cái tính lạc quan ấy mà, phải không cô?
LQM: Anh có cảm nghĩ gì về lớp trẻ lớn lên tại hải ngoại?
ST: Lớp trẻ, con cái của chúng ta, có cái may mắn không ai chối cãi được, là được hưởng một nền giáo dục tân tiến trong những xã hội kỹ nghệ hiện đại nhất. Và chúng ta phải hãnh diện và vui mừng về thành quả của con em chúng ta trong nhà trường. Hai mươi bốn năm đã trôi qua kể từ khi lớp người Việt lưu vong đầu tiên của chúng ta rời khỏi nước. Nhiều con em chúng ta đã thành tài, trở thành những học giả, chuyên gia có địa vị cao trong xã hội mới. Đó là điều đáng mừng khác.
Cứ tưởng tượng trước đây chúng ta phải gửi sinh viên đi du học, tôn kém nhiều mà số lượng đâu có thấm tháp gì với con số con em chúng ta được học hành ở đây. Đó là những vốn liếng quí báu của đất nước chúng ta. Suy nghĩ thêm một chút, một mai đây, khi quê hương chúng ta hoàn toàn tự do, lớp tài nguyên quí báu này mà trở về xây dựng xứ sở thì đó là cả một cuộc thay da đổi thịt mang lại hồng hào máu huyết cho đất nước chúng ta. Vấn đề là chúng ta còn có thể giữ cho lớp trẻ con em chúng ta còn là người Việt Nam hay không.
LQM: Nghe nói anh sắp xuất bản một tác phẩm mới, xin anh nói vài điều về tác phẩm đó. ST: Cô chẳng cần nghe nói mà cũng chẳng phải là sắp sửa. Tập truyện mới của tôi đang nằm trên bàn đây để sẵn sàng tặng cô.
Đây là một tập truyện gồm 10 truyện của tôi viết trong hai năm 1997 và 1998. dầy gần 200 trang. Có lời tựa của anh Nguyễn Mộng Giác. Bìa do anh Khánh trường trình bày. Tôi ưng ý cái bìa này hết sức! Cần phải nói gì thêm nữa không à? Giá tiền nhé! Nhưng tặng sách ai lại nói chuyện tiền bạc vào đây!
LQM: Dự tính trong tương lai của anh?
ST: Tiếp tục viết. Vẫn chỉ viết truyện ngắn. In cuốn thứ năm. Bao giờ? sang năm nghe? Kể ra đã in một cuốn vào năm chót thế kỷ mà lại in thêm được cuốn khác vào năm đầu của một thế kỷ mới nữa thì cũng vui đấy chứ! Phải ráng vậy! Năm 2000 nghe cô!
(Đã phát thanh trên đài Tiếng Nói Việt Nam, Montréal, Canada, ngày 27 tháng 6 năm 1999)
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 6, 2010 7:43:08 GMT 9
Lê Bảo Hoàng phỏng vấn nhà văn Song Thao ngày 11/7/2006 LBH: Trong Tác Giả Việt Nam của Lê Bảo Hoàng, năm sinh của ông được ghi 1938 với đầy đủ ngày (01), tháng (8), nhưng trong bản chuyển ngữ mới được in trên tạp chí Anh ngữ Wordbridge của nhà văn Nguyễn Sao Mai, bản phát hành mới nhất, số mùa xuân 2006, ghi là 1939. Thưa ông, chính xác ông ra đời năm nào ? Nếu được, ông có thể cho biết đại khái bối cảnh lịch sử, xã hội nơi phần đất ông được sinh ra ? Trả lời: Tôi ra đời vào năm 1938 nhưng ngày sinh thì không chính xác. Năm tôi sanh ra, cha tôi lúc đó đang làm việc tại tỉnh Sơn Tây trong khi quê nhà tôi là làng Giáp Bát, ngoại thành Hà Nội. Cha tôi muốn khai sanh tôi tại quê nhà nên chờ vài tháng sau mới về quê khai sanh. Sự việc này gây ra một bất tiện nho nhỏ: tôi không có ngày sanh chính xác để nhờ ông bạn Võ Kỳ Điền chấm cho lá số tử vi. Vì vậy tôi là người sống không có…số! Hay là có số lang bang, sanh một nơi, khai sanh một nẻo! Đất Sơn Tây, tôi chỉ ở khi còn mang tã nên rất mù mờ. Nghe ra đó cũng là nơi đáng tự hào vì đã sản sinh ra được những Quang Dũng, Phạm Đình Chương và nhiều văn nhân khác. Nơi tôi được khai sanh là một ngôi làng ở sát ngay Hà Nội. Về sau, quê tôi đã được sát nhập vào Hà Nội. Đầu năm 2003, trở lại đất Bắc sau gần nửa thế kỷ, tôi có trở về làng tôi. Nó không còn là một làng nữa mà giăng mắc phố phường như bất cứ một nơi nào của Hà Nội chính thống. Cưỡi xe honda từ phố cổ Hà nội, loáng một cái đã về tới làng cũ của tôi. Tôi biết là làng cũ vì còn có ngôi nhà thờ sót lại làm chứng tích. Nền nhà của gia đình tôi nay đã nằm trong khuôn viên của một cơ sở quân đội gì đó rất lớn. Chắc cũng nên nói thêm một chút là cái tên thật Tạ Trung Sơn của tôi có mang dấu vết của nơi tôi thực sự chào đời. LBH: Trên trang web của ông, vừa cho phổ biến một bài viết về nhạc sĩ Lê Uyên Phương, đã được in từ thập niên 1970 trên bán nguyệt san Thời Nay, tại Sài Gòn. Mong ông kể lại giai đoạn ông cộng tác với báo Thời Nay. Cụ thể cho bạn đọc biết: sự thành lập tờ báo, ban biên tập, mức tiêu thụ, sức ảnh hưởng, và những đóng góp của ông với cơ sở văn hóa này? Trả lời: Tôi xin dài dòng một chút về việc cho phổ biến lại bài viết “Với Lê Uyên Phương và Đà Lạt” trên web của tôi. Thực ra gợi ý là ca sĩ Lê Uyên. Cô muốn tìm lại bải viết này, một bài viết mà cô cho biết là khi sinh thời Phương rất thích, để dùng cho một cuốn hồi ký. Tôi nghĩ tới mọi manh mối có thể tìm ra được bài báo cũ này. Cuối cùng, nhà văn Ngọc ở New York đã tìm ra được và gửi qua cho tôi. Nhà văn vừa là một Bác sĩ trẻ ở New York này là một độc giả rất trung thành của Thời Nay ngày xưa. Khi tôi vừa ngỏ ý muốn tìm bài viết này, cô đã nói ngay là cô còn nhớ bài viết đó được trình bày với tấm hình của Lê Uyên Phương trên góc trái. May hơn nữa là gia đình cô ở Việt Nam hiện còn giữ đủ bộ Thời Nay. Đó cũng là một cái duyên văn nghệ. Bán nguyệt san Thời Nay ra đời vào năm 1959 và liên tục xuất bản mỗi nửa tháng cho tới tháng 4/1975. Giám Đốc là ông Nguyễn Văn Thái. Tổng Thư Ký là Khánh Giang. Ban biên tập là thành phần ký giả còn rất trẻ hồi đó. Ngày đó Sài Gòn có hai tờ bán nguyệt san “cạnh tranh” với nhau, ở cách nhau có vài căn nhà trên cùng đường Phạm Ngũ Lão là Phổ Thông và Thời Nay. Phổ Thông ngà về văn học nhiều hơn với Chủ Nhiệm Nguyễn Vỹ, nhưng cả hai đều nhắm vào thành phần sinh viên học sinh và công tư chức. Thời Nay với tiêu đề “Thế Giới Dưới Mắt Người Việt” và với một thành phần nòng cốt trẻ hơn nên tươi tắn hơn và cung cấp những kiến thức tổng quát và hiện đại hơn. Độc giả chấp nhận cả hai nên thường đọc cả hai tờ báo. Ngày báo ra, thường thì họ mua cả hai tờ, ôm chung một gói rất thân thiện! Tôi tới với Thời Nay ngay từ những số đầu khi còn là sinh viên Văn Khoa và viết cho Thời Nay tới số cuối cùng. Trong năm học, tôi viết bài ở nhà và gửi tới tòa báo. Mỗi kỳ hè, tôi tới tỏa soạn ngồi viết thường xuyên. Có số tôi viết tới bảy, tám bài dưới nhiều bút hiệu khác nhau. Những bút hiệu tới ngày nay tôi còn nhớ được là: Sơn Nhân, Tạ Sương Phụng, Phượng Uyển và, dĩ nhiên, Song Thao! Khi nhà thơ Hoài Thương nhập ngũ thì tôi thay anh phụ trách việc chọn thơ đăng báo. Những cộng tác viên của Thời Nay ngày xưa, tôi còn liên lạc được với một số như Hoàng Hà, tức Bác Sĩ Hoàng Bính Tý, hiện cư ngụ tại Úc; Minh Đức Hoài Trinh hiện sống ở Hoa Kỳ; Hà Túc Đạo hiện ở Sài Gòn; Thiên Ân cũng còn ở Sài Gòn; Đông Quân ở Hoa Kỳ. Tổng Thư Ký Khánh Giang đã mất vào tháng 2 năm 2003 tại Sài Gòn, Hoài Thương cũng đã mất. Ông Giám Đốc Nguyễn Văn Thái hiện vẫn còn ở Sài Gòn. LBH: Những năm gần đây, chuyện Phiếm của ông được đón đọc rất nồng nhiệt qua tạp chí Thế Kỷ 21(Hoa Kỳ), tuần báo Thời Báo (Canada), đồng thời sự tiêu thụ rất khả quan qua hai tuyển tập Phiếm đã in thành sách (Phiếm 1 và Phiếm 2), điều đó khẳng định sự thành công trong thể loại sáng tác mới của ông. Ông có thể cho biết những kinh nghiệm cần thiết để thực hiện được một bài Phiếm có đầy đủ tính hấp dẫn của nó ? Công sức và thời gian dành cho công việc này như thế nào, nếu so sánh với việc sáng tác một truyện ngắn ? Những khác biệt về sự thích thú khi viết giữa hai thể loại ? Trả lời: Thực ra Phiếm không phải là một thể loại mới viết của tôi. Tôi đã viết phiếm trên Thời Nay ngày xưa ở Sài Gòn, trên Nắng Mới ở Montreal khoảng trên mười năm trước đây. Sở dĩ tôi viết phiếm trở lại bởi vì tôi…già! Khi có ý định về hưu, tôi sắp đặt cho tôi một chương trình làm việc thật bận rộn để tránh cái cảnh ra shopping mall ngồi nhìn ông đi qua bà đi lại. Vậy là tôi cứ ngày ngày ngồi gõ computer, giao du với cái anh mặt vuông, cho qua ngày. Không ngờ những bài phiếm dối già đó lại được độc giả đón nhận nồng nhiệt. Tôi làm tới: cho in Phiếm1, rồi Phiếm2, và vừa hoàn tất Phiếm3. Ai ngờ già rồi vẫn còn duyên. Sách bán khá chạy. Phiếm1 hết, vừa tái bản lại. Phiếm2 cũng vừa hết. Hứng chí, tôi chơi luôn Phiếm3 và còn mon men làm thêm Phiếm4 nữa! Khi có ý định viết lại thể loại phiếm, tôi có định cho tôi một số điều phải theo. Thứ nhất là phải bám sát vào thời sự, đưa ra được những tìm tòi, sáng chế, phát minh của thế giới về đề tài mình viết. Thứ hai phải viết bằng một lối văn cười cợt, dí dỏm, không đả kích, không cự nự với cuộc đời. Thứ ba là bài phiếm phải có hơi hướng văn học với thơ văn trích dẫn, những giai thoại với các bạn văn. Khi “ngửi” thấy một đề tài có thể phiếm được, tôi tìm tài liệu trong sách, báo, trên internet, bỏ vào trong một hồ sơ. Khi cảm thấy có đủ “xương thịt” cho đề tài đó, tôi xách cổ hồ sơ ra ngồi viết. Tôi viết thẳng trên computer, điều mà tôi không làm được khi viết truyện ngắn. Sau một thời gian viết phiếm, cái anh mặt vuông coi bộ cũng không đáng ghét lắm, tôi đã có thể viết truyện ngắn bằng cách gõ ngay trên bàn phím. Thường thì người ta bảo là ngòi bút viết phiếm sẽ giết chết ngòi bút viết truyện. Cũng đúng phần nào. Hai năm đầu viết phiếm, tôi đã không sáng tác được một truyện ngắn nào. Phần vì lu bu và thích thú với phiếm, phần vì đầu óc cứ lơ mơ phiếm này qua phiếm khác. Nhưng khi đã ăn nằm thân thiết với phiếm, tôi lại đồng thời viết được truyện ngắn. Và viết đủ để sắp cho in một tập truyện mới! LBH: Được biết trong một ngày rất gần, ông sẽ cho in Phiếm 3, đồng thời ông cũng ra cho ra mắt một tập truyện ngắn mới. Có có thể cho bạn đọc biết qua những dự định này, để chuẩn bị…tinh thần đón đọc. Trả lời: Như đã nói ở trên, cuốn Phiếm3 đã hoàn tất và sẽ ra mắt bạn đọc trong một ngày rất gần đây. Cuốn này cũng gồm 40 bài phiếm ba hoa về đủ thứ chuyện trên trời dưới đất, dầy 440 trang. Cuốn truyện ngắn mang tên Chốn Cũ đang được lay-out, vừa nhờ được Họa sĩ Đinh Cường vẽ chùa cho cái bìa, dự trù xuất bản vào đầu năm tới 2007. LBH: Trong hai năm 2005, 2006 ông liên tiếp tổ chức ra mắt sách hai lần tại Mississauga bởi những lý do nào ? Sự thành công của những buổi ra mắt sách đó ra sao, về tinh thần cũng như tài chánh ? Ông đánh giá thế nào về bạn đọc tại Toronto, vốn thường bị hiểu lầm là không phong phú như tại Montréal, nơi ông cư ngụ ? Trả lời: Hai lần ra mắt sách tại Toronto trong hai năm liền là những kỷ niệm khó quên đối với tôi. Trước hết đó là tình bạn, tình văn của nhà thơ Lê Hân, nhà giáo Đoàn Phế, dược sĩ Võ Thành Tân và các bạn văn nghệ trẻ ở Toronto đã dành cho tôi và các bạn văn khác tại Montreal cùng xuống ra mắt sách với tôi như nhà thơ Luân Hoán, nhà thơ Hoàng Xuân Sơn. Ham vui mà tổ chức, ham vui mà xuôi Nam. Độc giả Toronto tới với chúng tôi rất đông và dành cho chúng tôi những tình cảm quý báu. Xin cám ơn tất cả và, nếu có dịp, tôi cũng sẽ lại cù rủ anh em ở Montreal xuống họp mặt lại với nhau. Còn được gặp nhau, còn được các độc giả yêu mến là hạnh phúc rồi. LBH: Rất lâu tình hình sinh hoạt của bạn văn tại Montréal rất khiêm nhường, ông có thể cho biết không khí sinh hoạt lúc này tại Montréal ? Nếu được, xin ông “báo cáo” tình hình nhân sự bạn văn, bạn thơ, ai còn ai mất trên thành phố xinh đẹp này, và sự thầm lặng sinh hoạt của họ. Trả lời: Quả như anh nói, sinh hoạt của anh em ở Montreal từng được coi là một mảnh đất màu mỡ của văn học hải ngoại lúc này hơi bải hoải. Trang Châu, Hồ Đình Nghiêm, Nguyễn Vy Khanh vẫn viết lai rai, Luân Hoán, Hoàng Xuân Sơn và tôi “quậy” hơn một chút, Lưu Nguyễn đã hầu như tự hưu trí, Đỗ Quý Toàn, Võ Kỳ Điền đã bỏ mà đi, người Cali, kẻ Toronto. Kể cũng có phần lơi lơi. Anh em gặp nhau cũng hiếm hoi. Sinh hoạt quá tà tà, cả năm chẳng một lần cựa quậy. Anh hùng thấm mệt rồi chăng? Tôi cố nghĩ là bây giờ chỉ là thời khắc nghỉ giải lao giữa hai hiệp bóng đá. Vào trận, lại sút siếc tưng bừng! LBH: Ông hình dung ra sao về sự giao lưu văn hóa giữa quốc nội (Việt Nam) và hải ngoại, sau khi VN được gia nhập tổ chức Thương Mại Thế Giới ? Hẳn vẫn một chiều từ những người có lòng tại hải ngoại ? Ông đã từng thấy qua một trường hợp nào: nhà thơ, nhà văn, các thể loại tác phẩm của người Việt từ nước ngoài không có mùi hương của xã hội chủ nghĩa được báo chí trên mặt đất hoặc trên mạng lưới đề cập, giới thiệu ? Sự cố tình này theo ông do chính sách của nhà nước hay có sự tiếp của kỳ thị, mặc cảm bởi chính những người làm văn hóa nghệ thuật trong nước ? Ông có tin tưởng sẽ có một cải thiện tốt đẹp hơn trong tương lai ? Những gì những người Việt cầm bút tại hải ngoại cần làm trong thời điểm này ? Trả lời: Xin ông tha cho, tôi là một người cầm bút chỉ biết vẽ ra chữ. Có điều, đối với Cộng Sản, họ chỉ chịu lùi khi không thể không lùi. Bây giờ, sách báo, CD, DVD trong nuớc đã tự do bay tràn ngập qua bên đây trong khi sách báo, băng nhạc, băng thu hình của hải ngoại vẫn bị cấm cản. Đang thuận lợi cho họ như vậy, sức mấy mà họ lùi. Nay họ đang lăm le vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới, đúng ra họ sẽ phải chơi theo luật đàng hoàng chứ không phải luật rừng như hiện nay. Trên nguyên tắc là như vậy, nhưng để họ tự tuân thủ thì thiên nan vạn nan. Tôi không có nhiều ảo tưởng về cái gọi là thiện chí của họ. Theo tôi đọc được trên báo chí thì đồng bào ta bên Cali đang vận động với Lập Pháp và Hành Pháp Hoa Kỳ đặt vấn đề một cách nghiêm chỉnh với họ, bắt họ phải tuân thủ sự công bằng cần có trong những giao lưu quốc tế. Tôi sẽ rất vui mừng nếu văn chương hải ngoại được thong thả trở về với người dân Việt Nam trong nước. Dĩ nhiên, lúc đó tôi sẽ cho những đứa con tinh thần của tôi về nơi đáng ra chúng phải có mặt. Ngay lập tức!
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 6, 2010 7:43:55 GMT 9
Trả lời phỏng vấn của nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh
H. Tình trạng sáng tác của anh hiện nay ra sao? Đời sống hiện tại của anh có ảnh hưởng gì đến sự cầm bút? Dự định của anh trong tương lai gần?
TL. Tôi vốn là một công chức nên sự mẫn cán đã thành nếp. Nay nhào đầu vào chuyện viết lách, tôi trở thành một con kiến cần mẫn. Mỗi ngày tôi tha một chút. Cứ cắm đầu tha đều đều thì cũng có lúc đày một truyện ngắn.
Anh hỏi về ảnh hưởng của đời sống đến sự cầm bút là anh xoáy đúng nỗi thương tâm của tôi. Quả thật, để làm đầy cái bao tử, thời giờ của tôi nó trốn chạy quá kỹ. Nói thực với anh, tôi tiếc lắm nhưng xoay làm sao cho thoát khỏi cái nợ áo cơm đây?
Còn về những dự định trong tương lai? Viết lách tà tà bằng những mảnh thời gian đầu thừa đuôi thẹo thì dự định được cái nỗi gì? Cứ viết tới đâu hay tới đó. Khi nào đủ truyện, có nhà xuất bản nào ngó ngàng tới thì in. Thế là vui rồi.
H. Anh có nhận xét gì về văn học Việt Nam hải ngoại năm vừa qua? Có hiện tượng nào nổi bật cũng như mặt tích cực và tiêu cực?
TL. Các tạp chí văn học vẫn xuất bản đều đặn, bài vở vẫn đầy đủ. Thậm chí anh Khánh Trường còn thông báo trên Hợp Lưu là bài gửi về nhiều quá phải chịu khó xếp hàng cho tới lượt.
Các nhà xuất bản vẫn lai rai in ấn đều đều. Riêng nhà xuất bản Văn Mới, mới thành lập, chỉ in thơ và truyện, cũng đã có cái thư mục dài tới chục cuốn rồi.
Tôi là ngưoi lạc quan, thấy được như vậy là mừng trong bụng. Cái làm tôi băn khoăn là sự sút kém của số lượng độc giả. Hỏi mấy ông chủ nhà sách, ông nào cũng lắc đầu than thở. Nhưng thôi, đã 22 năm mà còn được như vậy cũng được rồi.
H. Anh có tin tưởng về tương lai của văn học Việt Nam hải ngoại cũng như sự kế thừa của các lớp cầm bút trẻ lớn lên và trưởng thành ở xứ người? TL. Tôi vẫn nghĩ rằng cái gọi là văn học hải ngoại chỉ là một tình trạng nhất thời. Trước sau gì nó cũng sẽ phải nhập vào một dòng văn học duy nhất là văn học Việt Nam. Hiện nay sự hội nhập này đang bị những người cầm quyền trong nước ngăn sông cấm chợ. Nhưng có sự ngăn cấm phi lý nào tồn tại được lâu dài đâu!
Những sáng tác của chúng ta, tuy chỉ rả rích thẩm lậu được về quê nhà, cũng đã được người đọc trong nước thích thú đón nhận. Đó chẳng là một tín hiệu vui sao?
Hợp Lưu, số 38, Xuân Mậu Dần, tháng 12/1997 và tháng 1/1998
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 6, 2010 8:10:53 GMT 9
BAO
Đầu thập niên 1970, trong thời gian theo học tại University of the Philippines ở Diliman, gần Manila, tôi có dịp đi thực tập tại một bệnh viện Phi. Nơi tôi thực tập là Phòng Kế Hoạch Hóa Gia Đình của bệnh viện. Nhân mùa Giáng Sinh, các khu của bệnh viện đua nhau trang hoàng. Chỗ nào cũng muốn mình nổi trội hơn. Tôi chỉ thực tập vài tháng tại nơi đây nên chẳng ham gì chuyện tranh đua. Nhưng là dân đực rựa duy nhất trong một phòng toàn các nữ y tá trẻ, tôi bị năn nỉ ra tay. Suy nghĩ vài ngày rồi ánh sáng cũng lóe rạng. Tôi eureka liền! Bàn với các nàng áo trắng mũ trắng trong phòng, mọi người gật đầu cái rụp. Chúng tôi bắt tay vào việc. Một đống bao cao su đủ màu được đổ đầy mặt bàn. Chúng tôi ngồi lựa ra những bao mầu xanh lá cây và đỏ, hai mầu tượng trưng cho lễ Giáng Sinh. Chúng tôi gắn những chiếc bao vốn chẳng được chế tạo ra để trang hoàng này lên một tấm bảng lớn theo hình cây thông giáng sinh. Rồi kết đèn mầu lên. Đẹp thì không hẳn đẹp lắm nhưng rất độc đáo. Các nàng toe toét đi khoe khắp bệnh viện. Các bác sĩ và y tá kéo tới coi và khen tới tấp. Mặt nàng nào cũng ánh lên vẻ hãnh diện.
Tại sao bao cao su lại có đủ mầu và toàn những mầu nguyên thủy đậm ngắt không vậy? Tôi hỏi một nàng. Anh phải biết chứ! Biết thì đã không thèm hỏi, tôi đáp lại. Để cho thêm phần exciting! À thì ra là như thế. Mấy nhà sản xuất quỷ quyệt thật!
Hơn ba chục năm trước đã mầu mè như vậy, ngày nay vẫn chỉ mầu mè thôi sao? Các nhà sản xuất đâu có cái đầu nghèo nàn như thế. Họ quỷ quyệt hơn nhiều! Như một công ty của Trung quốc vừa cho ra đời bao Clinton và Lewinsky. Họ viết trại hai cái tên thời sự này bằng thương hiệu Kelintun và Laiwensiji theo phiên âm của tiếng Hoa. Ông Tổng Giám Đốc Liu Wenhua của công ty đã chạy tội trước: đây chỉ là dựa theo họ của người nước ngoài và không ai có thể cho đó là vi phạm được!
Ông Grigoriy Chausovskiy, người Ukraine, lại nâng bao cao su lên một mức nữa: bao cao su…chơi nhạc! Bao được gắn với một bộ cảm ứng nhỏ nối với một thiết bị điện tử cực nhỏ tạo ra âm thanh. Trận chiến càng hăng say thì nhạc càng ồn ào hơn. Nếu đổi tư thế thì nhạc lại qua một giai điệu khác. Có tất cả 10 bài hát. Cũng xin kể đủ tên 10 bài và tên ca sĩ để cho quý vị nào cần dễ chọn lựa: Come Together (The Beatles); In Too Deep (Genesis); Satisfaction (The Rolling Stone); Lay Lady Latex (Bob Dylan); Don’t You Want Me (Human League); Cum On Feel The Noise (Slade); Jonny B Goode (Chuck Berry); Protection (Massive Amock); The Only Way Is Up (Yazz) và Sheath The One (Knobbie Williams). Nghe ra toàn những tên thích hợp cả!
Đừng có tưởng là bao cao su là độc quyền của phái nam nhi không thôi. Nữ cũng…đòi quyền đeo! Mà đeo thứ dữ. Đó là bao cao su chống yêu râu xanh! Đây là phát minh của một người Nam Phi, một đất nước mỗi năm xảy ra khoảng 50 ngàn vụ hiếp dâm. Nhưng theo các chuyên gia thì con số này thực sự phải gấp bốn lần vì hầu hết những kẻ phạm tội đều là người quen của nạn nhân hoặc các trường hợp xâm phạm tính dục trẻ em không được trình báo. Khi thân gái dặm trường vào ban đêm, phụ nữ có thể mang bao Rapex này giống như xử dụng băng vệ sinh. Loại bao đặc biệt này được làm bằng nhựa với các gai nhọn sẽ bấu chặt vào cái chân thứ ba của hung thủ. Muốn được giải tỏa, hung thủ chỉ còn cách đi vào bệnh viện để các bác sĩ phẫu thuật gỡ ra. Mà vào bệnh viện thì lậy ông tôi ở bụi này rồi còn khỉ gì nữa! Đó là loại bao…ác. Thực ra bao…hiền dùng cho nữ giới đã được dùng từ năm 1990 lận. Nhưng nó không phổ biến vì giá quá đắt, đắt hơn bao dùng cho nam giới gấp 10 lần! Vậy mà cũng đã có 19 triệu bao được bán ra tại hơn 70 quốc gia. Có điều là loại bao dành cho nữ giới có thể tái xử dụng được tới 7 lần nếu được rửa sạch bằng thuốc sát trùng. Nhưng tổ chức Y Tế Thế Giới khuyên chỉ nên dùng một lần rồi bỏ vì chưa xác minh được độ an toàn. Các chính phủ tại một số nước đang phát triển đã có những chương trình rộng lớn để khuyến khích các bà xử dụng bao vì các anh chồng trịch thượng ở những xứ nghèo đói thường không thèm bao bì gì cả. Hoặc các cô gái mãi dâm không thuyết phục được khách hàng mang bao. Sở dĩ các chính phủ khuyến khích nữ giới vì một công dụng khác của bao cao su, ngoài công dụng tránh thai, là phòng chống bệnh AIDS. Với chức năng mới này, bao cao su…lên mặt! Nó luôn luôn nằm với tiền trong ví bóp của các chàng trai hào hoa phong nhã. Nhưng mang thân lên tỉnh thành làm lao động với mức lương bèo trên dưới 600 ngàn một tháng như các công nhân ở Việt Nam thì tiền đâu mà bao với bì? Họ cứ thoải mái hà tiện được đồng nào hay đồng nấy. Sợ những hậu quả xã hội, giới Y Tế phải ra tay bằng cách lập Trung Tâm Ánh Sáng có nhiệm vụ giải thích và phát không bao cao su! Là những thanh niên khỏe mạnh, bỏ vợ con nơi làng quê lên tỉnh làm việc, họ có nhu cầu trong khi gái mãi dâm tràn lan, vớ chỗ nào cũng có, thực hiện…phi vụ nơi đâu cũng được kể cả nơi công viên hay bờ sông, họ lại không đủ kiến thức hoặc không muốn bỏ tiền ra cho bao bì lôi thôi. Thế là cứ đá banh chân đất! Một cuộc điều tra trong giới lao động từ các tỉnh thành lên chợ Long Biên, Hà nội làm lao động đã cho kết quả khá bi quan. Có 146 trên 300 lao động được hỏi đã cho biết là họ có quan hệ với gái mãi dâm, chiếm tỷ lệ 48,7%. Trong số này chỉ có 80 người nhận là có…mang giày! Con số cứ…thoải mái trời cho sao dùng vậy lên đến 66 người. Tiến sĩ Quan Lệ Nga, Giám Đốc Trung tâm Ánh sáng đã…phiếm: “Ở trong những ngôi nhà trọ 2500-3000 đồng một ngày, ăn xuất cơm bụi vài ngàn đồng, đến dép họ còn chẳng buồn đi huống hồ là mang “mũ bảo hiểm” khi quan hệ”! Trung Tâm của bác sĩ Nga đã phát không 21 ngàn bao cao su trong các trạm di động hay cố định hoạt động ngày đêm 24/24.
Còn các thanh niên thành thị, có học, họ…hoạt động ra sao? Theo một cuộc điều tra cấp quốc gia lớn và toàn diện vừa được tổ chức thì tại Việt Nam phần lớn thanh thiếu niên đều biết về ích lợi của bao cao su trong tránh thai và phòng ngừa các bệnh lây qua đường tình dục. Biết thì biết như vậy, nhưng hành thì…có vấn đề! 70% cho là bao cao su làm giảm khoái cảm tình dục; 50% cho rằng những người luôn kè kè cái bao cao su bên mình có thể có quan hệ không đứng đắn; và trên 30% khăng khăng cho là cái thứ bao này chỉ dành cho những người không chung thủy và gái mãi dâm!
Bao cao su có một lịch sử đàng hoàng. Một lịch sử oai phong lẫm liệt bắt đầu từ khoàng 1350 năm trước Công nguyên! Người Ai Cập cổ đại dùng bao cao su để làm gì, chúng ta vẫn chưa có những kết luận chính xác. Có lẽ ban đầu bao được xử dụng vì nghi lễ tôn giáo hoặc ngăn cản côn trùng đốt! Sau đó những chiến binh La Mã đã tạo ra bao bằng da của quân địch bị giết ngoài mặt trận! Người Trung Quốc và Nhật Bản lại dùng giấy lụa tẩm dầu, da, mai rùa hoặc sừng trâu để bao. Có lẽ không ai trong chúng ta lại có thể tưởng tượng được những chiếc bao cần có độ mềm lại được làm bằng mai rùa hay sừng trâu! Chứng cớ cổ xưa nhất của bao được tìm thấy được dưới nền của ngôi đền Dudley, gần thành phố Birmingham, Anh quốc. Chiếc bao này được làm bằng ruột động vật, hai đầu có khâu những sợi dây để buộc kín và điều chỉnh cho vừa vặn. Người Anh xưa còn biết làm cho bao mềm bằng cách ngâm vào sữa nóng suốt đêm. Nhà giải phẫu học người Ý Gabrielle Fallopius là người có những mô tả đầu tiên về bao vào khoảng những thập niên 1500. Bao do Fallopius sáng chế dùng để ngăn chặn bệnh giang mai, dài khoảng 20 phân, được làm bằng vải có tẩm thuốc. Theo yêu cầu của các phụ nữ thời đó, bao có đính thêm những dải băng màu hồng! Để làm chi nhỉ? Tôi không có ý kiến!
Mãi tới năm 1884, với phát minh ra lưu hóa cao su, kỹ nghệ sản xuất bao cao su mới bùng nổ. Tuy nhiên thời đó người ta vẫn rửa bao trước và sau khi dùng để có thể…lưu dụng bao cho tới khi thủng hoặc rách mới phế thải! Cuộc bùng nổ trong công nghệ chế tạo bao cao su lần thứ hai xảy ra vào năm 1930 bằng vật liệu đặc biệt dưới dạng nhựa lỏng và sau đó bằng nhựa tổng hợp. Bao cao su từ đó cứ ngày một mỏng dần. Độ dày của bao chế tạo tại Pháp được quy định tối thiểu 0,04mm và tối đa là 0,07mm. Kỷ lục về độ mỏng ngày nay thuộc về một nhãn hiệu Nhật là 0,03mm, nghĩa là mỏng chỉ bằng một phần ba tờ giấy vấn thuốc lá! Chúng ta cứ gọi chung là bao cao su nhưng cái bao lắm chuyện này có nhiều…húy lắm. Dân Việt dính chết chúng với từ “áo mưa”, loại áo mưa mặc khi trời không mưa! Còn tên bằng tiếng Anh thì khởi sắc hơn nhiều: love socks (vớ tình), the goalie (người thủ thành), love glove (găng tay tình yêu), Johnny bag (bao Johnny), sheaths (bao kiếm), raincoat (áo mưa), gentleman’s jerkins (áo chẽn da của quý ông).
Ngày nay người ta làm bao cao su ra sao? Họ dùng khuôn thủy tinh đặt trong bồn, đổ vào bồn một dung dịch mủ cao su, cho thêm vào các chất làm bằng lưu huỳnh để giúp lưu hóa cao su. Phương pháp này đảm bảo được đặc tính dẻo và bền của bao. Khi khuôn được lấy ra khỏi bồn dung dịch, người ta để lớp cao su bám vào khuôn khô dần, rồi cho vào bồn lại. Một bao cao su gồm nhiều lớp mủ cao su chồng lên nhau. Sau đó, sản phẩm được cho vào lò có nhiệt độ từ 100 đến 200 độ C. Cuối cùng là lấy bao ra khỏi khuôn bằng cách dùng tia nước áp lực cao, làm khô, cuộn lại và đóng bao. Trước khi đóng bao phải kiểm tra sản phẩm. Đây là giai đoạn rất cần thiết và phải làm một cách hết sức tinh vi nếu không thì bao…vô dụng! Người ta chọn mẫu trong số bao sản xuất, đổ đầy nước vào để kiểm tra độ kín, dùng tạ nặng 8 kg kéo giãn ra, thổi phồng lên, đo kích thước. Tiêu chuẩn đạt được để tung ra thị trường là bao không bị bể lúc được thổi vào 40 lít không khí và phải bền trong thời gian xử dụng kéo dài là…166 giờ!
Bao cao su ngày nay nằm lềnh khênh khắp các tiệm thuốc tây, hàng tạp hóa, quầy khách sạn, nhà nghỉ, và thậm chí cả trong những chiếc máy bán hàng tự động đặt trong các phòng vệ sinh nam. Chỉ cần với tay một cái là có ngay. Vậy mà vẫn có người khốn đốn vì duyên nợ với chiếc bao tình này. Đó là một nhà thơ miền Bắc tên Tuân Nguyễn. Trong hồi ký “Người Bạn Lính Cùng Một Tiểu Đội” (Văn Học, California, số tháng 9 & 10/2005), nhà thơ Phùng Quán đã kể về anh nhà thơ đặc biệt này, người đã phê bình thơ của Phùng Quán là “hai mươi câu đầu để giữ gìn trật tự, hai mươi câu cuối chuẩn bị cho người nghe vỗ tay, còn đoạn giữa là vè! Cậu phải học luật thơ Đường làm cái vốn cơ bản, sau đó phát huy thành các thể thơ tự do mới hy vọng thơ có thể khá lên được!”. Thế còn thơ của Tuân Nguyễn như thế nào? Chúng ta thử đọc một bài thơ ngắn, bài “Nghe nhạc Strauss”.
Sóng sông Hồng bỗng xanh màu Danube Nhạc bồng bềnh trôi tới các vì sao… Trời lung linh khẽ chao mình theo nhịp Những người nước lạ phải lòng nhau…
Bài thơ được đăng trên tuần báo Văn Nghệ của Hội Nhà Văn Việt Nam vào đầu thập kỷ 1960. Lập tức bài thơ nổi tiếng. Độc giả trẻ truyền tụng cho nhau, nhiều đôi trai gái chép vào sổ tay tặng nhau. Cái bút hiệu ngược ngạo Tuân Nguyễn chẳng phải là cái tên của…Việt kiều, mà vì cái tên thật Nguyễn Tuân của anh đã bị nhà văn quá nổi tiếng Nguyễn Tuân xài rồi nên phải đảo ngược lại. Nhưng thôi, văn thơ đến đây là đủ, chúng ta nói chuyện anh chàng Tuân Nguyễn với…bao cao su! Vốn là một học sinh trường Providence, đã đỗ Tú Tài Toán, Tuân Nguyễn vẫn rất ngây thơ với đời. Phùng Quán và anh đã có một tình bạn bất chấp thế sự. Khi Phùng Quán bị cô lập vì vụ Nhân Văn Giai Phẩm, anh vẫn hồn nhiên lui tới và giúp đỡ Phùng Quán. “Trong khi bạn bè thân thích, kể cả máu mủ ruột thịt, người yêu, đều xa lánh tôi, thì Tuân Nguyễn vẫn gắn bó, cưu mang tôi. Mặc dầu lúc này anh là người có chức danh của một cơ quan quan trọng, bắt đầu có tiếng tăm trên thi đàn. Tuân mò tìm được nơi tôi tá túc, thường xuyên mang cho tôi áo quần, tem gạo, phiếu thịt, kẹo, thuốc lá căng tin… Mỗi lần đem cho như vậy, Tuân rất sợ tôi mếch lòng, tủi thân, nên bao giờ cũng tìm cách nói thác. “Có bộ áo quần mình thuê may hỏng, mặc rộng thùng thình cứ như áo tế. Cậu đậm người hơn mặc giùm mình cho đỡ phí”. Một nhà báo ngoại quốc có nhận xét người Việt Nam ta rất có đầu óc hài hước. Hài hước ngay cả trong việc sản xuất bánh kẹo. Ngoài bao bì đề kẹo cứng thành kẹo mềm muốn chảy nước. Nếu để kẹo mềm thì cắn muốn vỡ răng. Này, cậu khỏe răng ăn giúp mình hai gói kẹo mè này!”. Khi Tuân Nguyễn được đổi vào làm việc tại Sài gòn, anh nhường lại căn buồng ở Hà nội cho người chủ cũ với giá của nhiều năm trước, khi anh mới mua là 600 đồng mặc dù giá thị trường lúc đó phải cả ngàn đồng. Ai cũng cười. Anh gân cổ lên cãi: “Mình mua của người ta sáu trăm, mình có quyền gì được bán lại một nghìn?”.
Con người thơ…lẩn thẩn như vậy nên mới xảy ra chuyện cái bao cao su. “Tôi dắt Tuân đi loanh quanh trong xóm xem hoa. Lúc sắp ra về, Tuân chợt hỏi tôi, giọng hơi ngập ngừng: “Cậu có đồng tiền vàng không, cho mình một đồng…” Tôi ngạc nhiên: “Đồng tiền vàng? Cậu làm như mình là tay sưu tập tiền cổ không bằng?” Tuân đỏ mặt: “Không phải. Nó là…cái ấy ấy mà…” Tôi chợt hiểu ra, bật cười. Cái ấy là cái bao dương vật bằng cao su của Tiệp Khắc sản xuất. Mỗi cái được đựng trong cái hộp nhỏ, tròn và dẹt, in hình đồng tiền vàng cổ trên giấy kim. Ngày đó, “đồng tiền vàng” là loại hàng cung cấp đặc biệt. Muốn mua nó phải có giấy của công đoàn cơ quan, hoặc của chi hội phụ nữ sở tại chứng nhận: người mua đã có vợ, mua để dùng cho sự sinh đẻ có kế hoạch… Tôi hỏi Tuân: “Nhưng cậu cần đồng tiền vàng làm gì? Chắc có đối tượng nào cậu định tòm tem hẳn?” Tuân càng đỏ mặt tợn: “…Ở cơ quan mình nghe tụi nó thì thào hỏi xin nhau đồng tiền vàng… Mình không biết hình thù nó thế nào, muốn xem cho biết. Để miêu tả khi cần đến, trong văn xuôi chẳng hạn…”
Phùng Quán làm gì có. Ông có thuộc biên chế cơ quan nào đâu. Ông chỉ Tuân đi hỏi tay H., người lúc nào cũng có tiền vàng trong túi.
“Một sự rủi ro đầy tính chất bi hài mà hình như số phận đặc biệt dành cho loại người như Tuân. Sáng ngày 21 tháng 10 năm 1964, trước giờ làm việc Tuân Nguyễn gặp H. ở cổng cơ quan. Tuân rất ngạc nhiên, H. vốn là tay “đại nghệ sĩ” thường xuyên đi muộn về sớm, thường xuyên bị thủ trưởng phê bình, sao bữa nay lại chăm chỉ thế không biết? Có lẽ hôm nay trời đi vắng! Về sau này, mỗi lần hồi tưởng lại sự việc ngày hôm đó, Tuân không sao quên được chi tiết này. Tuân kết luận: cuộc đời mỗi người là một kịch bản phim truyện đã được số phận đạo diễn phân cảnh. H. phải xuất hiện đúng lúc đó để tăng thêm chất bi hài của truyện phim. Sau một phút ấp úng, Tuân hỏi xin H. một đồng tiền vàng. “Sao cậu biết là tớ có sẵn của gia bảo ấy?” H. cười, hỏi. “Phùng Quán nó bảo thế.” …H. rút cái ví ở túi quần sau, mở ra lấy một đồng tiền vàng mới toe đưa cho Tuân: “Trước khi dùng cậu nhớ K.T. (kiểm tra) cẩn thận, H. dặn, không lỡ nó thủng thì bỏ mẹ.” Tuân đỏ mặt nói: “Mình chỉ muốn xem cho biết thôi.” H. nói: “Ba mươi tuổi đầu mà chưa biết mặt mũi đồng tiền vàng như thế nào thì cậu là thằng hâm!... Cậu phải bơn bớt sách vở, thêm chất sống sít của cuộc đời thường vào mới hy vọng với tay đến Đốt được!” (Tuân Nguyễn vốn rất hâm mộ và muốn viết theo kiểu của nhà văn Nga Dostoievsky).
Khoảng chín giờ hơn hôm đó, Tuân bị công an đến tận phòng làm việc đọc lệnh bắt giữ. Họ bắt anh bỏ hết đồ đạc mang theo trong người lên bàn để lập biên bản. Về sau, Tuân kể lại giây phút nhớ đời đó.“Nghe xong lệnh bắt, khắp người mình toát mồ hôi hột. Nỗi hoảng sợ làm thần kinh mình hầu như tê liệt. Như cái máy, mình móc hết túi áo túi quần, bỏ đồ đạc lên mặt bàn. Nhưng khi bỏ cái đồng tiền vàng lên mặt bàn, mình bỗng tỉnh trí lại. Chính nỗi hổ thẹn đã làm cho mình tỉnh trí.”
Mười năm sau, Tuân ra khỏi tù, tìm đến nhà Phùng Quán. “Sắp đứng lên ra về, Tuân Nguyễn như chợt nhớ điều gì: “Ơ này, cậu có đồng tiền vàng nào không?” Tôi ngạc nhiên: “Đồng tiền vàng nào?” “Thì…đồng tiền vàng ấy mà… Cuối cùng, đến hôm nay mình vẫn chưa được biết mặt mũi nó thế nào…” Tôi bật cười mà hai mắt cay lệ. Tôi ôm lấy đôi vai lục cục những xương của bạn nói: “Chán quá, mình không có… Một ước muốn nhỏ nhoi như vậy mà mười năm không thực hiện được thì kể ra cũng…vui thật. Cuộc đời vui quá, không buồn được - tôi ngâm câu thơ của chính cậu ta làm - Nhưng mình nhất định sẽ lùng cho cậu hẳn một chục đồng tiền vàng, xem thoải mái!” “Lần này không phải chỉ để xem - Tuân nói - mà mình sẽ dùng. Được hẳn một chục đồng thì còn gì bằng! Mình sắp lấy vợ!”
Vợ Tuân là Phương Thúy, con của Hoài Chân, đồng tác giả cuốn Thi Nhân Việt Nam cùng với Hoài Thanh.
Hai vợ chồng vào Nam. Tuân dậy học tại trường cấp ba Thanh Đa, nằm trong cư xá Thanh Đa. Tôi là đồng nghiệp với anh tại đây. Anh thích nói chuyện với tôi. Toàn những chuyện…phản động. Đầu tiên tôi hơi ngại vì sợ bị gài bẫy. Tôi vốn là dân đi học tập cải tạo về! Nhưng dần dần cái tâm của anh đã thanh minh cho anh. Biết được tôi đã nộp hồ sơ đi Canada, anh bảo nhỏ tôi là có dịp anh sẽ kể cho tôi chuyện bí mật của cung đình Hà nội để tôi viết khi ra nước ngoài. Anh chưa kịp kể thì đã ra người thiên cổ vì một tai nạn giao thông!
Hồi đó, mỗi đầu tháng, chi hội phụ nữ trong trường thường phát cho các nam giáo viên có gia đình tiêu chuẩn bao cao su tránh thai. Cô giáo viên phụ trách là một cô giáo chưa chồng. Cô ngượng nghịu dúi vào tay mỗi người một bọc 10 cái. Thường thì chúng tôi vội bỏ vào túi. Riêng Nguyễn Tuân nâng cặp kính cận, nhìn chăm chú những chiếc bao được gói vuông vức dính liền với nhau, rồi mới cẩn thận bỏ vào cặp. Có lẽ anh vẫn còn ngạc nhiên vì chúng không mang hình dáng những đồng tiền vàng chăng?
11/2005
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 6, 2010 8:15:26 GMT 9
BỔNG
Mấy ông bạn tôi, khi đã đạt tới cái mức sáu chịch niên trên đời, thường có một niềm hồi hộp khó tả. Liệu có tránh được cái cảnh “xe tang đi trước, xe tiền đi sau” không? Diễn nôm ra là có gia nhập được vào hội quý tộc không? Cái hội ngồi mát ăn bát vàng, cứ phè ra mà mỗi đầu tháng vẫn nhận được một tấm chi phiếu rất tươm tất. Đó là bổng lộc bên đây thì có bên nhà thì không. Với xấp xỉ trên dưới ngàn đô mỗi tháng, các quý tộc người Việt chúng ta có thể, không những sống đầy đủ, mà còn đóng góp rất hậu hĩnh trong việc xây mồ mả tổ tiên khuất núi nơi quê hương. Cha hơn nữa là có những vị lại còn có thể chia đều lịch trình sáu tháng hè bên ni sáu tháng đông bên nớ. Tiền máy bay, tiền ăn uống, tiền cho mấy bồ nhí ăn theo đều nằm gọn lỏn được trong cái chi phiếu từ trên trời rớt xuống hàng tháng đó. Sáu tháng thôi! Nếu mải du dương quên đường về mà vân du quá sáu tháng thì…hốc hác. Nhà nước “bảo hộ” sẽ cúp cái rụp, tan tành xí quách hết! Muốn có được ngôi vị… thiên tử như vậy, phải bắt được cái anh 65 năm sống trên đời, thiếu một ngày cũng bị nhà nước làm ngơ. Đó là nói về xứ Canada. Xứ Mỹ thì vất vả hơn. Họ đang tiến dần tới cái mức 67 xuân xanh mới được sờ vào đồng tiền nhà nước. Điều này làm cho các ông bạn tôi phải đổ thêm chút mồ hôi. Bởi vì đã có truyền thống từ lâu là Mỹ làm sao, ta sẽ “nhất trí” chẳng sớm thì muộn Canada của tôi cũng sẽ vác cờ chạy theo! Vậy thì làm răng mà tồn tại được tới cái ngày huy hoàng đó đây? Hồi hộp chứ! Tương lai là một thứ chẳng dễ dàng nghía vào mà biết được. Để giúp đỡ các ông bạn tôi, các nhà nghiên cứu thuộc Trung Tâm Y Tế Cựu Chiến Binh San Francisco vừa công bố một tài liệu quý hóa. Đó là một bài trắc nghiệm cho những người trên 50 tuổi biết mình có còn tồn tại trong 4 năm sắp tới không. Nghĩa là nếu năm nay bạn chẵn chòi 61 tuổi, bạn có quyền thấy có bao nhiêu phần trăm hy vọng là mình sẽ được sờ tới cái cheque mà chúng ta thường gọi nôm na là tiền già. Đây là một bài trắc nghiệm rất khoa học và chính xác. Độ chính xác lên tới 81% chứ không phải ít! Để có được 12 câu trắc nghiệm quý hóa này, trưởng nhóm nghiên cứu Sei J. Lee và các cộng sự viên đã phải làm một cuộc điều tra 11.701 người trên 50 tuổi trong 4 năm, từ 1988 đến 2002. Họ thu thập những dữ kiện về giới tính, tuổi tác, bệnh tật và cách tự lập trong cuộc sống hàng ngày, chẳng hạn như có thể tự tắm rửa, trang điểm, đi đứng và ngay cả việc có cúi xuống lượm được đồng xu đánh rớt không! Tới ngày 31 tháng 12 năm 2002, ngày cuối của 4 năm nghiên cứu, họ mới lập danh sách xem ai còn ai mất. Đây là 12 câu hỏi. Bạn đã sẵn sàng giấy bút chưa? Điều cần thiết là bạn hãy thành thật trả lời, đừng tránh né, đừng ham điểm cao vì điểm càng cao càng dễ…hui nhị tì! Câu 1: Tuổi: 60-64 (1 điểm); 65-69 (2 điểm); 70-74 (3 điểm); 75-79 (4 điểm); 80-84 (5 điểm); trên 85 (6 điểm). Câu 2: Giới tính: Nam (2 điểm). Câu 3: Chỉ số khối cơ thể BMI: dưới 25 (1 điểm). Muốn tính chỉ số này dễ ợt! Bạn lấy trọng lượng của bạn (tính bằng kí) chia cho bình phương chiều cao (tính bằng mét). Nếu bạn có máu lười giống tôi thì vào internet, search: Body Mass Index. Màn ảnh sẽ cho một đống website, bạn chỉ cần đánh dữ kiện của bạn vào là được…hầu hạ, chỉ số BMI của bạn hiện lên liền. Khỏe ru! Câu 4: Nếu bạn có bệnh tiểu đường: 2 điểm. Câu 5: Bệnh ung thư (không kể ung thư da loại nhẹ): 2 điểm. Câu 6: Bệnh phổi mạn tính gây hạn chế hoạt động hoặc cần thở bằng máy tại nhà: 2 điểm. Câu 7: Bệnh tim: 2 điểm. Câu 8: Có hút thuốc lá trong tuần vừa qua: 2 điểm. Câu 9: Khó tự tắm rửa vì có vấn đề về sức khỏe hoặc trí nhớ: 2 điểm. Câu 10: Khó quản trị tiền bạc, thanh toán hóa đơn, theo dõi chi tiêu vì có vấn đề về sức khỏe hoặc trí nhớ: 2 điểm. Câu 11: Khó đi bộ được vài block nhà vì có vấn đề về sức khỏe: 2 điểm. Câu 12: Khó đẩy hoặc kéo được những vật lớn như ghế sa-lông: 1 điểm. Sau đây là kết quả cuộc…xổ số vận mạng: Từ 0 đến 5 điểm: bạn chỉ có 4% nguy cơ sẽ đi tàu suốt trong vòng 4 năm tới. Từ 6 đến 9 điểm: 15% nguy cơ Từ 10 đến 13 điểm: 42% nguy cơ. Từ 14 điểm trở lên: 64% nguy cơ. Bạn có hy vọng có được cái ngày…huy hoàng tiền tìm tới mình đó chăng? Sao không? Dù ở trong trường hợp bao nhiêu phần trăm đi nữa thì nếu bạn biết tu thân, nghĩa là ăn uống điều độ, không thuốc không rượu, thể dục thể thao đều đều và nhất là đừng ham hố quá thì…xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều là cái chắc! Cứ mỗi năm than thân trách phận là không biết có qua được mùa đông này không như ông bạn Luân Hoán của tôi mà cũng đã…tới đích rồi đó! Sức khỏe làng nhàng, ăn uống tùy hứng, thuốc thang cũng tùy hứng, từng có thâm niên cưỡi xe còi hụ chạy như bay vào nhà thương, một lực sĩ hạng ruồi như vậy về tới mức ăn thua, mừng lá cái cẳng! Để biểu tỏ lòng mừng vui đó, ông bạn tôi làm chuyện lớn: viết hồi ký! Cuốn sách dày tới gần bốn trăm trang mang tên “Quá Khứ Trước Mặt” được ông bạn tôi gọi là “hồi ký rời” là tấm lòng của người thơ với những thành phố đã cưu mang mình trong suốt 65 năm bể dâu. Cuốn sách được hoàn thành vào đúng ngày sinh nhật năm…tiền già và sẽ ra mắt bạn đọc vào đầu tháng 5 sắp tới. Trong lời kể lể nơi đầu sách, nhà thơ của chúng ta đã nêu ra mục đích khi…ôn cố tri tân như sau: “Một là, để trắc nghiệm trí nhớ của mình, khi số tuổi đời đã đủ xếp vào loại già. Đây cũng là một phương pháp tập thể dục trí não tốt, chắc chắn mang lại nhiều kết quả khả quan. Hai là, làm một món quà kỷ niệm ngày chính phủ quốc gia Canada gởi lần đầu tiên khoản tiền nuôi suốt những năm tháng sống còn lại, cho một người đã sống trên đất nước họ 20 năm và đã mang quốc tịch, làm công dân của quốc gia họ 17 năm . Ba là, một cách tiêu thì giờ được nhận thêm của cuộc sống một cách không lãng xẹt. Bốn là, đánh dấu cụ thể sự hiện diện của mình trong cuộc đời, để kiếp sau trở lại, tìm đến, sống tiếp, làm tiếp những gì mình chưa thực hiện được”. Cứ đúng chỉ số là xe tiền đậu trước nhà. Chuyện đó là đương nhiên. Nhưng có những ông bà bạn tôi, tuổi đời đã đủ lục thập ngũ mà bổng lộc vẫn mù mịt phương xa. Tại sao vậy? Tại vì họ lanh quá! Những ngày thuyền vừa cặp bến trên đảo, chưa hết say sóng, các thuyền nhân này hướng đến tương lai liền. Họ khai sụt tuổi để mai đây, khi được đi định cư ở nước thứ ba, họ sẽ trẻ lại, có nhiều thời gian làm ăn kiếm tiền nuôi gia đình. Ừ thì đời đổi thay, tay trắng làm lại giữa lúc tuổi đã ngả sang bóng chiều, ăn gian nhẹ nhàng chút đỉnh cũng chẳng sao. Ngày nay, tuổi cũng bằng người ta, mà người ta nằm khểnh ra hưởng nhàn, mình vẫn cứ ôm râu đi cầy! Xác thân thì lục thập ngũ mà giấy tờ mới lục thập chẵn chòi. Nhiều ông bạn tôi tính kỹ hơn đã chơi ngay một cú ngoạn mục tự mình làm trẻ đi tới cả một thập niên! Biết đến bao giờ mới sờ được vào miếng bổng lộc thơm như múi mít! Gian có…chính nghĩa như vậy cũng được đi. Nhiều ông bà đã sờ được đồng tiền…nhân nghĩa lại muốn nhân đồng tiền lên nhiều hơn. Họ làm…động tác giả: ly dị! Vợ chồng ăn ở với nhau bao nhiêu năm rồi, mặn nồng với nhau qua những ngày chiến tranh khốn khó, dắt díu nhau qua tới bên đây làm lại cuộc đời, chẳng xung khắc, chẳng lấn cấn tình cảm, tuổi đã cận kề lòng đất, ai mà bỗng chốc mang nhau ra tòa kể tội nhau để được chia lìa. Họa có điên! Mà họ điên thiệt: điên vì tiền! Chẳng là tiền bổng lộc hai vợ chồng cộng lại chẳng bằng được hai lần tiền cho mỗi người độc thân. Vậy thì tội gì không làm giấy ly dị nhau, ông sống với gia đình một đứa con, bà sống với gia đình một đứa con khác, chẳng mất gì mà tiền thêm thấy rõ. Lợi nào hơn? Lợi thì có lợi, lợi thấy rõ ngay trước mắt, nhưng lâu ngày chày tháng, có khi ly dị giả mà thành ly dị thiệt. Đồng tiền nào đổi được những giọt nước mắt ngậm ngùi! Nghèo nhân nghèo nghĩa thì lo Nghèo tiền nghèo bạc chả cho là nghèo Nhân với nghĩa làm gì còn đất sống khi mắt đã mờ đi vì những tờ giấy xanh xanh! Nhân với nghĩa còn bị thêm một cú chới với nữa khi có những anh chị già chơi một chiêu khác ngoạn mục hơn. Chiêu này là chiêu…xuyên lưỡng quốc. Lưỡng quốc đây là hai nước lớn: Hoa Kỳ và Canada. Họ có con định cư cả trên hai quốc gia. Với chiêu con cái bảo lãnh, họ có quốc tịch ở cả hai bên. Là công dân của cả hai nước mà cả hai nước đều có chế độ đãi ngộ người già, họ thấy thiệt thòi khi không hưởng được bổng lộc của cả hai bên. Của trên trời rơi xuống thì giơ hai tay ra mà đón nhận ở cả hai bên, thế mới là người khôn! Loại gian này là…gian hùng. Phải có trình độ mới gian được. Vậy nên những quan…tham này thường là những người có học, có địa vị ăn trên ngồi trốc khi đất nước chưa khốn khó. Chân dung họ bỗng biến dạng: một thân mà hai đầu! Một thân già, một cái miệng ăn nhưng họ có hai cái đầu. Một đầu đớp bên Mỹ, một đầu đớp bên Canada! Tự nhiên tháng tháng có hai cái cheque rủ nhau tới nhà. Sướng cách chi! Gian…quốc tế loại này thì chẳng bao giờ ngoan được cả. Đi đêm còn có ngày gặp ma huống chi đi đêm giữa ban ngày. Thời buổi computer, chỉ một cái nhấn lên chú chuột điện tử thì chuột lộ nguyên hình chuột ngay: gian tham nào mà chẳng bị phơi ra ánh sáng. Sau đó là một màn hốc hác vì phải hoàn trả cả vốn lẫn lời. Ăn vào rồi biết sao móc ra? Tháng tháng tiền cứ chạy tới thùng thư, nhưng nó còn chạy đến với mình được bao lâu? Đó là mối lo tâm phúc. Một ngày âm u nào đó bỗng trời bắt chơi cái trò mặc sơ mi gỗ đủ sáu tấm thì còn chi là bổng lộc! Vậy thì “tôi” sẽ còn nhúc nhích ngón tay cầm tiền được bao lâu nữa? Chỉ có trời mới trả lời được câu hỏi thiết thân này. Còn hỏi tôi, tôi chỉ có nước nói quanh! Nếu bạn là dân Canada thì, theo một phúc trình của Organisation for Economic Cooperation and Development, tuổi thọ trung bình của bạn là 79,9 tuổi. Tuổi thọ này càng ngày càng tăng: năm 1960 là 71,3 tuổi, năm 2000 là 79,3 tuổi và năm 2002 là 79,7 tuổi. Nghĩa là bạn có cơ may ẵm được tiền già xấp xỉ 15 năm. Nếu bạn là dân Mỹ thì cơ may của bạn hụt đi một chút vì tuổi thọ trung bình của dân Mỹ chỉ có 77,2 tuổi thôi! Lại nói quanh thêm một chút. Chúng ta thử nhìn vào những cáo phó của dân Việt mình trên các báo Việt Ngữ xuất bản ở Canada thì thấy, ngoài những người chết trẻ, những nhân vật ở độ tuổi cầm tiền bổng lộc chỉ chịu buông bổng lộc vào độ tuổi từ 75 đến 90. Nghĩa là tha thiết với bổng lộc được khoảng từ 10 đến 25 năm! Loại super là cụ hàng xóm với tôi ngày trước ở khu Côte Des Neiges, cụ bà Bùi Thị Phượng, năm nay đã 103 tuổi mà vẫn còn khỏe mạnh, hàng tuần vẫn lui tới với các cụ của hội tuổi vàng S.A.I.M., vẫn ngồi đánh tứ sắc hết buổi, lưng vẫn thẳng, nhìn quân bài vẫn rõ ràng, chẳng đánh lộn cây nào, vẫn sáng suốt thu và đếm tiền không sai một xu! Bổng lộc chẳng tìm được cái cửa ngõ nào mà không đến với cụ ít ra cũng còn nhiều năm nữa. Nếu cụ thiệt tình…gân, chơi ngay cái kỷ lục Guinness người sống lâu nhất thế giới trong tương lai thì tôi là người đầu tiên chẳng ngạc nhiên một chút xíu nào cả. Anh bổng lộc còn mệt với cụ! Bạn và tôi có thể làm khó anh bổng lộc như cụ Phượng được chăng? Được quá đi chứ! Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì mọi loài động vật đều sống gấp 5 hoặc 6 lần thời gian phát triển của chúng, vậy mà loài người chúng ta lại chỉ sống được có khoảng từ 3 đến 4 lần thời gian phát triển. Điều này có nghĩa là, trong quá trình tiến hóa và phát triển xã hội, tuổi thọ của chúng ta đã mất đi gần một nửa. Vậy thì chúng ta có cách nào lấy lại được cái phần đã bị tạo hóa ăn gian đó không? Có chứ! Nó nằm trong tay chúng ta chứ đâu! Nếu chúng ta biết cách ăn uống, tập tành, duy trì những thú vui lành mạnh thì chúng ta có thể kéo dài tuổi thọ của chúng ta. Mà chúng ta còn thở thì bổng lộc vẫn còn phải tìm tới với chúng ta. Chẳng chệch đi đâu được! Vậy thì trong cuộc sống hàng ngày người cao tuổi ăn bao nhiêu là vừa? Trong sách “Vệ Sinh Yếu Quyết”, Hải Thượng Lãn Ông khuyên những người già “nên để trong no một chút đói”. Rành mạch hơn, bác sĩ người Nhật Hinohara, năm nay 92 tuổi, cư ngụ tại Tokyo, khuyên mọi người từ 60 tuổi trở lên chỉ nên ăn no bụng đến 70% thôi. Các nhà khoa học cho rằng, với một khối lượng thức ăn vừa phải như vậy, các tế bào, các mô và các hệ cơ quan chức năng không phải làm việc nhiều nên sẽ không tạo ra nhiều gốc tự do, không gây quá tải cho thân thể. Ăn đã vậy, uống cũng cần có…kế hoạch. Nên uống đều một lượng nước vừa phải trong ngày. Thế nào là vừa phải? Bởi vì cái thân thể đã trì trệ của người cao tuổi kém nhạy cảm với nước nên không đợi tới khi thấy khát mới uống vì khi có cảm giác khát thì cơ thể đã thiếu hụt 10% lượng nước rồi! Đời sống tinh thần cũng là một yếu tố quan trọng. Duy trì các sở thích riêng như nghe nhạc, xem phim, đọc sách, gặp gỡ, đàm đạo với bạn bè, tham gia các hội đoàn thích hợp, hát karaoke, nhất là chuyên trị loại tango nhún nhảy rập ràng như “ca sĩ” Trang Châu…đều có thể kéo dài được tuổi thọ của con người. Tích cực hơn nữa là tập thể dục. Muốn tập gì cũng OK miễn là những động tác tập thích hợp với một cơ thể đã bắt đầu biết…làm nũng! Dân Việt Nam chúng ta thì mặn với tài chi, khí công, suối nguồn tươi trẻ, quần vợt, bóng bàn … Ông bạn Trang Châu của tôi thì tuần năm ngày chơi badminton. Cũng tốt vậy. Đi bộ cũng là một loại vận động tốt. Tới nhà mấy ông bạn tôi, ông nào ông nấy cũng thủ một cái máy đi bộ trong nhà. Một ông bạn tôi là tín đồ ngoan ngoãn của…đạo treadmill. Gặp đâu ông cũng tụng ca cái máy đi bộ này. Ông đã hân hoan và hãnh diện khoe thành tích là mỗi ngày hì hục với máy trong cả tiếng đồng hồ. Đi cho tới khi áo ướt đẫm, vắt ra được cả bát mồ hôi! Gì chứ củ cà rốt…bổng lộc treo trước mặt thì một bát mồ hôi còn là ít. Cứ hùng hục đạp. Hai bát cũng đáng công! 02/2006
|
|