|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:09:50 GMT 9
2200. Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người! Khen cho con mắt tinh đời, Anh hùng đoán giữa trần ai mới già! Một lời đã biết tên ta, Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau!
2205. Hai bên ý hợp tâm đầu, Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân! Ngỏ lời nói với băng nhân, Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn. Buồn riêng sửa chốn thanh nhàn,
2210. Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Trai anh hùng, gái thuyền nguyên, Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng. Nửa năm hương lửa đương nồng, Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương.
2215. Trông vời trời bể mênh mang, Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng rong. Nàng rằng: Phận gái chữ tòng, Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi! Từ rằng: Tâm phúc tương tri,
2220. Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Bao giờ mười vạn tinh binh, Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường Làm cho rõ mặt phi thường, Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia,
2225. Bằng ngay bốn bể không nhà, Theo càng thêm bận, biết là đi đâu? Đành lòng chờ đó ít lâu, Chầy chăng là một năm sau vội gì? Quyết lời rứt áo ra đi,
2230. Cánh bằng tiện gió cất lìa dậm khơi. Nàng thì chiếc bóng song mai, Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây. Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy, Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
2235. Đoái thương muôn dặm tử phần Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa; Xót thay huyên cỗi xuân già, Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi. Chốc là mười mấy năm trời,
2240. Còn ra khi đã da mồi tóc sương. Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng! Duyên em dù nối chỉ hồng, May ra khi đã tay bồng tay mang.
2245. Tấc lòng cố quốc tha hương, Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời. Cánh hồng bay bổng tuyệt vời, Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm. Đêm ngày luống những âm thầm,
2250. Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương, Ngất trời sát khí mơ màng, Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh. Người quen kẻ thuộc chung quanh Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
2255. Nàng rằng: Trước đã hẹn lời, Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa. Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa. Giáp binh kéo đến quanh nhà,
2260. Đồng thanh cùng gửi: nào là phu nhân? Hai bên mười vị tướng quân, Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu. Cung nga, thể nữ nối sau, Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.
2265. Sẵn sàng phượng liễn loan nghi, Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng. Dựng cờ, nổi trống lên đàng, Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau. Hoả bài tiền lộ ruổi mau,
2270. Nam đình nghe động trống chầu đại doanh. Kéo cờ lũy, phát súng thành, Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài. Rỡ mình, là vẻ cân đai, Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.
2275. Cười rằng: Cá nước duyên ưa, Nhớ lời nói những bao giờ hay không? Anh hùng mới biết anh hùng, Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa? Nàng rằng: Chút phận ngây thơ,
2280. Cũng may dây cát được nhờ bóng cây. Đến bây giờ mới thấy đây, Mà lòng đã chắc những ngày một hai. Cùng nhau trông mặt cả cười, Dan tay về chốn trướng mai tự tình.
2285. Tiệc bày thưởng tướng khao binh Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân. Vinh hoa bõ lúc phong trần, Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.
Trong quân có lúc vui vầy,
2290. Thong dong mới kể sự ngày hàn vi: Khi Vô Tích, khi Lâm Tri, Nơi thì lừa đảo, nời thì xót thương. Tấm thân rày đã nhẹ nhàng, Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong.
2295. Từ Công nghe nói thủy chung, Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang. Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng, Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao . Ba quân chỉ ngọn cờ đào,
2300. Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri, Mấy người phụ bạc xưa kia, Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra . Lại sai lệnh tiễn truyền qua, Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên .
2305. Mụ quản gia, vãi Giác Duyên, Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời . Thệ sư kể hết mọi lời, Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy ! Đạo trời báo phục chỉn ghê,
2310. Khéo thay ! Một mẻ tóm về đầy nơi, Quân trung gươm lớn áo dài, Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi . Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi, Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân.
2315. Trướng hùm mở giữa trung quân, Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi . Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên. Từ rằng: ân, oán hai bên,
2320. Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh Nàng rằng: Nhờ cậy uy linh, Hãy xin báo đáp ân tình cho phu . Báo ân rồi sẽ trả thù. Từ rằng: Việc ấy phó cho mặc nàng.
2325. Cho gươm mời đến Thúc lang, Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run. Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non, Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không? Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng,
2330. Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân? Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân, Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là ! Vợ chàng quỷ quái tinh ma, Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau !
2335. Kiến bò miệng chén chưa lâu, Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa . Thúc Sinh trông mặt bấy giờ, Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm. Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
2340. Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai . Mụ già, sư trưởng thứ hai, Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên: Dắt tay mở mặt cho nhìn: Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi .
2345. Nhớ khi lỡ bước xẩy vời, Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương. Nghìn vàng gọi chút lễ thường, Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân? Hai người, trông mặt tần ngần,
2350. Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui . Nàng rằng: Xin hãy dốn ngôi, Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù ! Kíp truyền chư tướng hiến phù, Lại đem các tích phạm tù hậu tra .
2355. Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra, Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư . Thoạt trông nàng đã chào thưa: Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây ? Đàn bà dễ có mấy tay,
2360. Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan? Dễ dàng là thói hồng nhan, Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều ! Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu, Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca .
2365. Rằng: Tôi chút dạ đàn bà, Ghen tuông thì cũng người ta thường tình, Nghĩ cho khi gác viết kinh, Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo . Lòng riêng riêng những kính yêu;
2370. Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai . Trót lòng gây việc chông gai, Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng? Khen cho: Thật đã nên rằng, Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,
2375. Tha ra thì cũng may đời, Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen. Đã lòng tri quá thì nên, Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay . Tạ lòng lạy trước sân may,
2380. Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào, Nàng rằng: Lồng lộng trời cao, Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta ? Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà, Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
2385. Tú Bà cùng Mã Giám Sinh, Các tên tội ấy đáng tình còn sao ? Lệnh quân truyền xuống nội đao, Thề sao thì lại cứ sao gia hình, Máu rơi thịt nát tan tành,
2390. Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời . Cho hay muôn sự tại trời, Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta ! Mấy người bạc ác tinh ma, Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
2395. Ba quân đông mặt pháp trường, Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi . Việc nàng báo phục vừa rồi, Giác Duyên vội vã gởi lời từ qui . Nàng rằng: Thiên tải nhất thì,
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:10:38 GMT 9
2400. Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn. Rồi đây bèo hợp mây tan, Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu ! Sư rằng: Cũng chẳng bao lâu, Trong năm năm lại gặp nhau đó mà.
2405. Nhớ ngày hành cước phương xa, Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri . Bảo cho hội ngộ chi kỳ, Năm nay là một nữa thì năm năm . Mới hay tiền định chẳng lầm,
2410. Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau . Còn nhiều ân ái với nhau, Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì? Nàng rằng: Tiền định tiên tri, Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai .
2415. Họa bao giờ có gặp người, Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân . Giác Duyên vâng dặn ân cần, Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài .
Nàng từ ân oán rạch ròi,
2420. Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng. Tạ ân lạy trước Từ công: Chút thân bồ liễu nào mong có rày ! Trộm nhờ sấm sét ra tay, Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi !
2425. Chạm xương chép dạ xiết chi, Dễ đem gan óc đền nghì trời mây ! Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay, Chọn người tri kỷ một ngày được chăng? Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
2430. Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha ! Huống chi việc cũng việc nhà, Lọ là thâm tạ mới là tri ân . Xót nàng còn chút song thân, Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa .
2435. Sao cho muôn dặm một nhà, Cho người thấy mặt là ta cam lòng. Vội truyền sửa tiệc quân trung, Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan. Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
2440. Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài . Triều đình riêng một góc trời, Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà. Đòi phen gió quét mưa sa, Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam .
2445. Phong trần mài một lưỡi gươm, Những loài giá áo túi cơm sá gì ! Nghênh ngang một cõi biên thùy, Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương ! Trước cờ ai dám tranh cường,
2450. Năm năm hùng cứ một phương hải tần. Có quan tổng đốc trọng thần, Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung.
2455. Biết Từ là đấng anh hùng, Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn. Đóng quân làm chước chiêu an, Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng. Lại riêng một lễ với nàng,
2460. Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân. Tin vào gởi trước trung quân, Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
2465. Bó thân về với triều đình, Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu? áo xiêm ràng buộc lấy nhau, Vào luồn ra cúi công hầu mà chi? Sao bằng riêng một biên thùy,
2470. Sức này đã dễ làm gì được nhau? Chọc trời khuấy nước mặc dầu, Dọc ngang nào biết trên đầu có ai? Nàng thời thật dạ tin người, Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
2475. Nghĩ mình mặt nước cánh bèo, Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân. Bằng nay chịu tiếng vương thần, Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì! Công tư vẹn cả hai bề,
2480. Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương. Cũng ngôi mệnh phụ đường đường, Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha. Trên vì nước dưới vì nhà, Một là đắc hiếu hai là đắc trung.
2485. Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng, E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa. Nhân khi bàn bạc gần xa, Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào. Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào,
2490. Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu. Bình thành công đức bấy lâu, Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao. Ngẫm từ gây việc binh đao, Đống xương Vô định đã cao bằng đầu.
2495. Làm chi để tiếng về sau, Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào! Sao bằng lộc trọng quyền cao, Công danh ai dứt lối nào cho qua? Nghe lời nàng nói mặn mà,
2500. Thế công Từ mới trở ra thế hàng. Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng, Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh. Tin lời thành hạ yêu minh, Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
2505. Việc binh bỏ chẳng giữ giàng, Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư. Hồ công quyết kế thừa cơ, Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công. Kéo cờ chiêu phủ tiên phong,
2510. Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau. Từ công hờ hững biết đâu, Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên. Hồ công ám hiệu trận tiền, Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
2515. Đương khi bất ý chẳng ngờ, Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn! Tử sinh liều giữa trận tiền, Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân! Khí thiêng khi đã về thần,
2520. Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! Trơ như đá vững như đồng, Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời. Quan quân truy sát đuổi dài. ầm ầm sát khí ngất trời ai đang.
2525. Trong hào ngoài lũy tan hoang, Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi. Trong vòng tên đá bời bời, Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ. Khóc rằng: Trí dũng có thừa,
2530. Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này! Mặt nào trông thấy nhau đây? Thà liều sống thác một ngày với nhau! Dòng thu như dội cơn sầu, Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
2535. Lạ thay oan khí tương triền! Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra. Quan quân kẻ lại người qua, Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần. Đem vào đến trước trung quân,
2540. Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han. Rằng: Nàng chút phận hồng nhan, Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương! Đã hay thành toán miếu đường, Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
2545. Bây giờ sự đã vẹn tuyền, Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào? Nàng càng giọt ngọc tuôn dào, Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng. Rằng: Từ là đấng anh hùng,
2550. Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi! Tin tôi nên quá nghe lời, Đem thân bách chiến làm tôi triều đình. Ngỡ là phu quý phụ vinh, Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
2555. Năm năm trời bể ngang tàng, Đem mình đi bỏ chiến trường như không. Khéo khuyên kể lấy làm công, Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu! Xét mình công ít tội nhiều, 2560. Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi! Xin cho tiện thổ một doi, Gọi là đắp điếm cho người tử sinh. Hồ công nghe nói thương tình, Truyền cho cảo táng di hình bên sông.
2565. Trong quân mở tiệc hạ công, Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan . Bắt nàng thị yến dưới màn, Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu . Một cung gió thảm mưa sầu,
2570. Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay ! Ve ngâm vượn hót nào tày, Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu . Hỏi rằng: Này khúc ở đâu ? Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay !
2575. Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này, Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ . Cung cầm lựa những ngày xưa, Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây ! Nghe càng đắm ngắm càng say,
2580. Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình ! Dạy rằng: Hương lửa ba sinh, Dây loan xin nối cầm lành cho ai . Thưa rằng: Chút phận lạc loài, Trong mình nghĩ đã có người thác oan .
2585. Còn chi nữa cánh hoa tàn, Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân . Rộng thương còn mảnh hồng quần, Hơi tàn được thấy gốc phần là may ! Hạ công chén đã quá say,
2590. Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra . Nghĩ mình phương diện quốc gia, Quan trên nhắm xuống người ta trông vào . Phải tuồng trăng gió hay sao, Sự này biết tính thế nào được đây ?
2595. Công nha vừa buổi rạng ngày, Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài . Lệnh quan ai dám cãi lời, ép tình mới gán cho người thổ quan . Ông tơ thực nhẽ đa đoan !
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:11:27 GMT 9
2600. Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên ? Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền, Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao . Nàng càng ủ liễu phai đào, Trăm phần nào có phần nào phần tươi ?
2605. Đành thân cát lấp sóng vùi, Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh ! Chân trời mặt bể lênh đênh, Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào, Duyên đâu ai dứt tơ đào,
2610. Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay ! Thân sao thân đến thế này ? Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi ! Đã không biết sống là vui, Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương !
2615. Một mình cay đắng trăm đường, Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi ! Mảnh trăng đã gác non đoài, Một mình luống những đứng ngồi chưa xong . Triều đâu nổi tiếng đùng đùng,
2620. Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền đường. Nhớ lời thần mộng rõ ràng, Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây ! Đạm Tiên nàng nhé có hay ! Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta .
2625. Dưới đèn sẵn bức tiên hoa, Một thiên tuyệt bút gọi là để sau . Cửa bồng vội mở rèm châu, Trời cao sông rộng một màu bao la . Rằng: Từ công hậu đãi ta,
2630. Chút vì việc nước mà ra phụ lòng. Giết chồng mà lại lấy chồng, Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời ? Thôi thì một thác cho rồi, Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông !
2635. Trông vời con nước mênh mông, Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang . Thổ quan theo vớt vội vàng, Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi ! Thương thay cũng một kiếp người,
2640. Hại thay mang lấy sắc tài làm chi ! Những là oan khổ lưu ly, Chờ cho hết kiếp còn gì là thân ! Mười lăm năm bấy nhiêu lần, Làm gương cho khách hồng quần thử soi !
2645. Đời người đến thế thì thôi, Trong cơ âm cực dương hồi khốn hay . Mấy người hiếu nghĩa xưa nay, Trời làm chi đến lâu ngày càng thương ! Giác Duyên từ tiết giã màng,
2650. Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du. Gặp bà Tam Hợp đạo cô, Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng: Người sao hiếu nghĩa đủ đường, Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
2655. Sư rằng: Phúc họa đạo trời, Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra. Có trời mà cũng tại ta, Tu là cõi phúc tình là dây oan. Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
2660. Vô duyên là phận hồng nhan đã đành, Lại mang lấy một chữ tình, Khư khư mình buộc lấy mình vào trong. Vậy nên những chốn thong dong, ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
2665. Ma đưa lối quỷ đem đường, Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi. Hết nạn ấy đến nạn kia, Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Trong vòng giáo dựng gươm trần,
2670. Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi. Giữa dòng nước dẫy sóng dồi, Trước hàm rồng cá gieo mồi thuỷ tinh. Oan kia theo mãi với tình, Một mình mình biết một mình mình hay.
2675. Làm cho sống đọa thác đầy, Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi! Giác Duyên nghe nói rụng rời: Một đời nàng nhé thương ôi còn gì! Sư rằng: Song chẳng hề chi,
2680. Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều. Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều, Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm, Lấy tình thâm trả nghĩa thâm, Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
2685. Hại một người cứu muôn người, Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng. Thửa công đức ấy ai bằng? Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi! Khi nên trời cũng chiều người,
2690. Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau. Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau, Tiền đường thả một bè lau rước người. Trước sau cho vẹn một lời, Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!
2695. Giác Duyên nghe nói mừng lòng, Lân la tìm thú bên sông Tiền đường, Đánh tranh chụm nóc thảo đường, Một gian nước biếc mây vàng chia đôi. Thuê năm ngư phủ hai người,
2700. Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông. Một lòng chẳng quảng mấy công, Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần! Kiều từ gieo xuống duềnh ngân, Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
2705. Ngư ông kéo lưới vớt người, Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa! Trên mui lướt mướt áo là, Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương. Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
2710. Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai. Mơ màng phách quế hồn mai, Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa. Rằng: Tôi đã có lòng chờ, Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
2715. Chị sao phận mỏng phúc dày, Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai! Tâm thành đã thấu đến trời, Bán mình là hiếu cứu người là nhân. Một niềm vì nước vì dân,
2720. Âm công cất một đồng cân đã già! Đoạn trường sổ rút tên ra, Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau. Còn nhiều hưởng thụ về lâu, Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!
2725. Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao, Trạc Tuyền! nghe tiếng gọi vào bên tai. Giật mình thoắt tỉnh giấc mai, Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn. Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
2730. Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề. Thấy nhau mừng rỡ trăm bề, Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư. Một nhà chung chạ sớm trưa, Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
2735. Bốn bề bát ngát mênh mông, Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau. Nạn xưa trút sạch lầu lầu, Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
2740. Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương. Từ ngày muôn dặm phù tang, Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà. Vội sang vườn Thúy dò la, Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.
2745. Đầy vườn cỏ mọc lau thưa, Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời. Trước sau nào thấy bóng người, Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Xập xè én liệng lầu không,
2750. Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. Cuối tường gai góc mọc đầy, Đi về này những lối này năm xưa. Chung quanh lặng ngắt như tờ, Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
2755. Láng giềng có kẻ sang chơi, Lân la sẽ hỏi một hai sự tình. Hỏi ông ông mắc tụng đình, Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha. Hỏi nhà nhà đã dời xa,
2760. Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân. Đều là sa sút khó khăn, May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi. Điều đâu sét đánh lưng trời, Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!
2765. Vội han di trú nơi cao, Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi. Nhà tranh vách đất tả tơi, Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa. Một sân đất cỏ dầm mưa,
2770. Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường! Đánh liều lên tiếng ngoài tường, Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra. Dắt tay vội rước vào nhà, Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay.
2775. Khóc than kể hết niềm tây: Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa? Kiều nhi phận mỏng như tờ, Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng! Gặp cơn gia biến lạ dường,
2780. Bán mình nó phải tìm đường cứu cha. Dùng dằng khi bước chân ra, Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần. Trót lời hẹn với lang quân, Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
2785. Gọi là trả chút nghĩa người, Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên! Kiếp này duyên đã phụ duyên, Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh. Mấy lời ký chú đinh ninh,
2790. Ghi lòng để dạ cất mình ra đi. Phận sao bạc bấy Kiều nhi! Chàng Kim về đó con thì đi đâu? Ông bà càng nói càng đau, Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.
2795. Vật mình vẫy gió tuôn mưa, Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai! Đau đòi đoạn ngất đòi thôi, Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê. Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:12:10 GMT 9
2800. Nhẫn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên: Bây giờ ván đã đóng thuyền, Đã đành phận bạc khôn đền tình chung! Quá thương chút nghĩa đèo bòng, Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?
2805. Dỗ dành khuyên giải trăm chiều, Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền. Thề xưa giở đến kim hoàn, Của xưa lại giở đến đàn với hương. Sinh càng trông thấy càng thương.
2810. Gan càng tức tối ruột càng xót xa. Rằng: Tôi trót quá chân ra, Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo. Cùng nhau thề thốt đã nhiều, Những điều vàng đá phải điều nói không!
2815. Chưa chăn gối cũng vợ chồng, Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang? Bao nhiêu của mấy ngày đàng, Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi! Nỗi thương nói chẳng hết lời,
2820. Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra. Vội về sửa chốn vườn hoa, Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang. Thần hôn chăm chút lễ thường, Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa.
2825. Đinh ninh mài lệ chép thơ, Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe. Biết bao công mướn của thuê, Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi. Người một nơi hỏi một nơi,
2830. Mênh mông nào biết bể trời nơi nao? Sinh càng thảm thiết khát khao, Như nung gan sắt như bào lòng son. Ruột tằm ngày một héo don, Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve.
2835. Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê, Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao. Xuân huyên lo sợ biết bao, Quá ra khi đến thế nào mà hay! Vội vàng sắm sửa chọn ngày,
2840. Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng. Người yểu điệu kẻ văn chương, Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì, Tuy rằng vui chữ vu quy, Vui nào đã cất sầu kia được nào!
2845. Khi ăn ở lúc ra vào, Càng âu duyên mới càng dào tình xưa . Nỗi nàng nhớ đến bao giờ, Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng. Có khi vắng vẻ thư phòng,
2850. Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa . Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ, Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm. Dường như bên nóc trước thềm, Tiếng kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng,
2855. Bởi lòng tạc đá ghi vàng, Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây . Những là phiền muộn đêm ngày, Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần? Chế khoa gặp hội trường văn .
2860. Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày . Cửa trời rộng mở đường mây, Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần. Chàng Vương nhớ đến xa gần, Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền.
2865. Tình xưa ân trả nghĩa đền, Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần. Kim từ nhẹ bước thanh vân, Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương . ấy ai dặn ngọc thề vàng,
2870. Bây giờ kim mã ngọc đường với ai ? Ngọn bèo chân sóng lạc loài, Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly . Vâng ra ngoại nhậm Lâm truy, Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn.
2875. Cầm đường ngày tháng thanh nhàn, Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao . Phòng xuân trướng rủ hoa đào, Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng. Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
2880. Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi . Họ Lâm thanh với Lâm truy, Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm. Trong cơ thanh khí tương tầm, ở đây hoặc có giai âm chăng là?
2885. Thăng đường chàng mới hỏi tra, Họ Đô có kẻ lại già thưa lên: Sự này đã ngoại mười niên, Tôi đà biết mặt biết tên rành rành. Tú bà cùng Mã Giám sinh,
2890. Đi mua người ở Bắc kinh đưa về. Thúy Kiều tài sắc ai bì, Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ . Kiên trinh chẳng phải gan vừa, Liều mình thế ấy phải lừa thế kia .
2895. Phong trần chịu đã ê chề, Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang . Phải tay vợ cả phũ phàng, Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa . Rứt mình nàng phải trốn ra,
2900. Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia . Thoắt buôn về thoắt bán đi, Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi! Bỗng đâu lại gặp một người, Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh .
2905. Trong tay mười vạn tinh binh, Kéo về đóng chật một thành Lâm truy . Tóc tơ các tích mọi khi, Oán thì trả oán ân thì trả ân . Đã nên có nghĩa có nhân,
2910. Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen . Chưa từng được họ được tên, Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường. Nghe lời đô nói rõ ràng, Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh .
2915. Nỗi nàng hỏi hết phân minh, Chồng con đâu tá tính danh là gì? Thúc rằng: Gặp buổi loạn ly, Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ . Đại vương tên Hải họ Từ,
2920. Đánh quen trăm trận sức dư muôn ngườị Gặp nàng khi ở châu Thai, Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên . Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên, Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng.
2925. Đại quân đồn đóng cõi đông, Về sau chẳng biết vân mồng làm sao . Nghe tường ngành ngọn tiêu hao, Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ. Xót thay chiếc lá bơ vơ,
2930. Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong ? Hoa trôi nước chảy xuôi dòng, Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan! Lời xưa đã lỗi muôn vàn, Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,
2935. Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây, Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi ? Bình bồng còn chút xa xôi, Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an ! Rắp mong treo ấn từ quan,
2940. Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha . Dấn mình trong án can qua, Vào sinh ra tử họa là thấy nhau . Nghĩ điều trời thẳm vực sâu, Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn!
2945. Những là nấn ná đợi tin, Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dờỉ Năm mây bỗng thấy chiếu trời, Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành. Kim thì cải nhậm Nam bình,
2950. Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu dương. Sắm xanh xe ngựa vội vàng, Hai nhà cùng thuận một đường phó quan . Xảy nghe thế giặc đã tan, Sóng êm Phúc kiến lửa tàn Chiếc giang .
2955. Được tin Kim mới rủ Vương, Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa . Hàng Châu đến đó bây giờ, Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành. Rằng: Ngày hôm nọ giao binh,
2960. Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền. Nàng Kiều công cả chẳng đền, Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù. Nàng đà gieo ngọc trầm châu, Sông Tiền đường đó ấy mồ hồng nhan!
2965. Thương ôi! không hợp mà tan, Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng! Chiêu hồn thiết vị lễ thường, Giải oan lập một đàn tràng bên sông. Ngọn triều non bạc trùng trùng,
2970. Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo. Tình thâm bể thảm lạ điều, Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào? Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
2975. Trông lên linh vị chữ bài, Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta? Với nàng thân thích gần xa, Người còn sao bỗng làm ma khóc người? Nghe tin ngơ ngác rụng rời,
2980. Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra: Này chồng này mẹ này cha, Này là em ruột này là em dâu. Thật tin nghe đã bấy lâu, Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường!
2985. Sư rằng: Nhân quả với nàng, Lâm truy buổi trước Tiền đường buổi sau. Khi nàng gieo ngọc trầm châu, Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về, Cùng nhau nương cửa bồ đề,
2990. Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa. Phật tiền ngày bạc lân la, Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây. Nghe tin nở mặt nở mày, Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
2995. Từ phen chiếc lá lìa rừng, Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây. Rõ ràng hoa rụng hương bay, Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi. Minh dương đôi ngả chắc rồi,
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:13:02 GMT 9
3000. Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên! Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên, Bộ hành một lũ theo liền một khi. Bẻ lau vạch cỏ tìm đi, Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
3005. Quanh co theo dải giang tân, Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường. Giác Duyên lên tiếng gọi nàng, Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra. Trông xem đủ mặt một nhà:
3010. Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi. Hai em phương trưởng hòa hai, Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa! Tưởng bây giờ là bao giờ, Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
3015. Giọt châu thánh thót quẹn bào, Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình! Huyên già dưới gối gieo mình, Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi: Từ con lưu lạc quê người,
3020. Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm! Tính rằng sông nước cát lầm, Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây! ông bà trông mặt cầm tay, Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
3025. Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa, Mười phần xuân có gầy ba bốn phần. Nỗi mừng biết lấy chi cân? Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu! Hai em hỏi trước han sau,
3030. Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi. Quây nhau lạy trước Phật đài, Tái sinh trần tạ lòng người từ bi. Kiệu hoa giục giã tức thì, Vương ông dạy rước cùng về một nơi.
3035. Nàng rằng: Chút phận hoa rơi, Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay. Tính rằng mặt nước chân mây, Lòng nào còn tưởng có rày nữa không? Được rày tái thế tương phùng.
3040. Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay! Đã đem mình bỏ am mây, Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừạ Mùi thiền đã bén muối dưa, Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
3045. Sự đời đã tắt lửa lòng, Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! Dở dang nào có hay gì, Đã tu tu trót quá thì thì thôi! Trùng sinh ân nặng bể trời,
3050. Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi? ông rằng: Bỉ thử nhất thì, Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền. Phải điều cầu Phật cầu Tiên, Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
3055. Độ sinh nhờ đức cao dày, Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung. Nghe lời nàng cũng chiều lòng, Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra. Một nhà về đến quan nha,
3060. Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy. Tàng tàng chén cúc dở say, Đứng lên Vân mới giãi bày một hai . Rằng: Trong tác hợp cơ trời . Hai bên gặp gỡ một lời kết giao .
3065. Gặp cơn bình địa ba đào, Vậy đem duyên chị buộc vào cho em . Cũng là phận cải duyên kim, Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao ? Những là rày ước mai ao,
3070. Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình ! Bây giờ gương vỡ lại lành, Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi . Còn duyên may lại còn người, Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa .
3075. Quả mai ba bảy đương vừa, Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì. Dứt lời nàng vội gạt đi: Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ? Một lời tuy có ước xưa,
3080. Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều . Nói càng hổ thẹn trăm chiều, Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi ! Chàng rằng: Nói cũng lạ đời, Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao ?
3085. Một lời đã trót thâm giao, Dưới dày có đất trên cao có trời ! Dẫu rằng vật đổi sao dời, Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh ! Duyên kia có phụ chi tình,
3090. Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai ? Nàng rằng: Gia thất duyên hài, Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng. Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng, Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương .
3095. Chữ trinh đáng giá nghìn vàng, Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa . Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa . Bấy chầy gió táp mưa sa .
3100. Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn. Còn chi là cái hồng nhan, Đã xong thân thế còn toan nỗi nào ? Nghĩ mình chẳng hổ mình sao, Dám đem trần cấu dự vào bố kinh !
3105. Đã hay chàng nặng vì tình, Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru ! Từ rày khép cửa phòng thu, Chẳng tu thì cũng như tu mới là ! Chàng dù nghĩ đến tình xa,
3110. Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ. Nói chi kết tóc xe tơ, Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời ! Chàng rằng: Khéo nói nên lời, Mà trong lẽ phải có người có ta !
3115. Xưa nay trong đạo đàn bà, Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường, Có khi biến có khi thường, Có quyền nào phải một đường chấp kinh . Như nàng lấy hiếu làm trinh,
3120. Bụi nào cho đục được mình ấy vay ? Trời còn để có hôm nay, Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời . Hoa tàn mà lại thêm tươi, Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa .
3125. Có điều chi nữa mà ngờ, Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu ! Nghe chàng nói đã hết điều, Hai thân thì cũng quyết theo một bài . Hết lời khôn lẽ chối lời,
3130. Cúi đầu nàng những vắn dài thở than . Nhà vừa mở tiệc đoàn viên, Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là. Cùng nhau giao bái một nhà, Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi .
3135. Động phòng dìu dặt chén mồi, Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa . Những từ sen ngó đào tơ, Mười lăm năm mới bây giờ là đây ! Tình duyên ấy hợp tan này,
3140. Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao . Canh khuya bức gấm rủ thao, Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân . Tình nhân lại gặp tình nhân, Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
3145. Nàng rằng: Phận thiếp đã đành, Có làm chi nữa cái mình bỏ đi ! Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi, Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may . Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
3150. Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi ! Những như âu yếm vành ngoài, Còn toan mở mặt với người cho qua . Lại như những thói người ta, Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa .
3155. Khéo là giở nhuốc bày trò, Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi ! Người yêu ta xấu với người, Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau ! Cửa nhà dù tính về sau,
3160. Thì còn em đó lọ cầu chị đây . Chữ trinh còn một chút này, Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan ! Còn nhiều ân ái chan chan, Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi ?
3165. Chàng rằng: Gắn bó một lời, Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau . Xót người lưu lạc bấy lâu, Tưởng thề thốt nặng nên đau đớn nhiều ! Thương nhau sinh tử đã liều,
3170. Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình. Chừng xuân tơ liễu còn xanh, Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân . Gương trong chẳng chút bụi trần, Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm !
3175. Bấy lâu đáy bể mò kim, Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa ? Ai ngờ lại họp một nhà, Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm ! Nghe lời sửa áo cài trâm,
3180. Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng: Thân tàn gạn đục khơi trong, Là nhờ quân tử khác lòng người ta . Mấy lời tâm phúc ruột rà, Tương tri dường ấy mới là tương tri !
3185. Chở che đùm bọc thiếu chi, Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay ! Thoắt thôi tay lại cầm tay, Càng yêu vì nết càng say vì tình. Thêm nến giá nối hương bình,
3190. Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan . Tình xưa lai láng khôn hàn, Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa . Nàng rằng: Vì mấy đường tơ, Lầm người cho đến bây giờ mới thôi !
3195. ăn năn thì sự đã rồi ! Nể lòng người cũ vâng lời một phen. Phím đàn dìu dặt tay tiên, Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa . Khúc đâu đầm ấm dương hòa,
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:13:36 GMT 9
3200. ấy là hồ điệp hay là Trang sinh . Khúc đâu êm ái xuân tình, ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên? Trong sao châu nhỏ duềnh quyên, ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông !
3205. Lọt tai nghe suốt năm cung, Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao . Chàng rằng: Phổ ấy tay nào, Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy ? Tẻ vui bởi tại lòng này,
3210. Hay là khổ tận đến ngày cam lai ? Nàng rằng: Ví chút nghề chơi, Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu ! Một phen tri kỷ cùng nhau, Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa .
3215. Chuyện trò chưa cạn tóc tơ, Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông . Tình riêng chàng lại nói sòng, Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao . Cho hay thục nữ chí cao,
3220. Phải người tối mận sớm đào như ai ? Hai tình vẹn vẽ hòa hai, Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ . Khi chén rượu khi cuộc cờ, Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên .
3225. Ba sinh đã phỉ mười nguyền, Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy. Nhớ lời lập một am mây, Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên . Đến nơi đóng cửa cài then,
3230. Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà, Sư đà hái thuốc phương xa, Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu ? Nặng vì chút nghĩa bấy lâu, Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai .
3235. Một nhà phúc lộc gồm hai, Nghàn năm dằng dặc quan giai lần lần. Thừa gia chẳng hết nàng Vân, Một cây cù mộc một sân quế hòe . Phong lưu phú quý ai bì,
3240. Vườn xuân một cửa để bia muôn đời Ngẫm hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
3245. Có đâu thiên vị người nào, Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai, Có tài mà cậy chi tài, Chữ tài liền với chữ tai một vần. Đã mang lấy nghiệp vào thân,
3250. Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa. Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài. Lời quê chắp nhặt dông dài, Mua vui cũng được một vài trống canh.
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:14:55 GMT 9
Thanh Tâm Tài Nhân Thi Tập Tự 青心 才 人 詩 集 序 ---
Kim sử duyên đề tặng phiến, 今使 緣 締 贈 扇, Liêu Dương bất quy thúc phụ chi tang; 遼陽 不 歸 叔 父 之 喪; biến khởi mại ty, 變起 賣 絲, Lôi châu tức biện oan dân chi án; 雷州 即 辦 寃 民 之 案; tắc sắt cầm hảo hợp, 則瑟 琴 好 合, cốt nhục đoàn viên; 骨肉 團 圓; bích ngọc trường lưu, 碧玉 長 留, tử thoa bất đoạn; 紫釵 不 斷; yên hoa thương khách, 烟花 商 客, hà lai mãi tiếu chi kim; 何來 買 笑 之 金; thanh giáo ngoại thần, 聲教 外 臣, chung trở quy hàng chi giáp; 終阻 歸 降 之 甲; Hà dĩ biểu khuê nhân chi hiếu hạnh, 何以 表 閨 人 之 孝 行, kiến hiệp nữ chi cơ quyền; 見俠 女 之 機 權; Nãi tri: sự phi khúc tắc bất kỳ, 乃知: 事 非 曲 則 不 奇, ngộ dũ truân nhi nãi hiển. 遇愈 屯 而 乃 顯. Khanh chân đạt giả, 卿真 達 者, tu tri thương hạo chi liên tài; 須知 蒼 昊 之 憐 才; ngã diệc vân nhiên, 我亦 云 然, mạc oán hồng nhan chi vô phận. 莫怨 紅 顏 之 無 分. Độc thị: vị thông môi chuớc, 獨是: 未 通 媒 妁, tiên đính tư minh, 先訂 私 盟, nhất trụy phồn hoa, 一墜 繁 花, tiện thành kết tập. 便成 結 習. Hoặc giả vị thủy đãng vân lưu chi thái; 或者 謂 水 蕩 雲 流 之 態; luân nhi vi chi nghênh diệp tống chi phong. 淪而 為 枝 迎 葉 送 之 風. Bất tri hồng hạnh xuất tường, 不知 : 紅 杏 出 墻, vị phó hương tâm ư phấn điệp; 未付 香 心 於 粉 蝶; Sương phong ẩm hận, 霜鋒 飲 恨, khủng diên họa sự ư trì ngư. 恐延 禍 事 於 池 魚. Lệ kính lý chi băng sương, 勵鏡 裏 之 冰 心(?), độ sầu biên chi tuế nguyệt. 度愁 邊 之 歲 月. Vô hà chi bích, 無瑕 之 壁, giá khả trọng ư liên thành; 價可 重 於 連 城; dĩ thệ chi ba, 已逝 之 波, mộng do hồi ư cựu phố. 夢猶 回 於 舊 浦. Thí bình tình nhi trước luận, 試平 情 而 著 論,
nghi lược tích nhi nguyên tâm. 宜略 迹 而 原 心. Hựu huống: thập thủ tân thi, 又況: 十 首 新 詩, quán nhập đoạn trường chi tập; 冠入 斷 腸 之 集; tứ huyền cung oán, 四絃 宮 怨, phổ thành bạc mệnh chi âm. 譜成 薄 命 之 音. Giác thê lương kỳ não nhân, 覺棲 涼 其 惱 人, phục phinh đình nhi cố ảnh. 復娉 婷 而 顧 影. Hoa ưng thâu diễm, 花應 輸 艷, liễu dục tăng kiều. 柳欲 憎 嬌. Tham bắc bộ chi phong tao, 參北 部 之 風 騷, tiếu đề diệc vận; 笑啼 亦 韻; thiện nam triều chi phấn đại, 擅南 朝 之 粉 黛, nùng đạm tương nghi. 濃淡 相 宜. Cố nghi chư lão chung tình, 固宜 諸 老 鍾 情, biến danh tính ư quần biên tụ giác; 遍名 姓 於 裙 邊 袖 角; toại sử thiên thu ký sự, 遂使 千 秋 記 事, thái phong lưu ư thặng phấn tàn chi. 採風 流 於 剩 粉 殘 脂. Ta hồ! Tiểu trích phong trần, 嗟乎! 小 謫 風 塵, kỷ tao ma nghiệt! 幾遭 魔 孽. Tình thiên hạo diểu, 情天 浩 渺, hận hải thương mang. 恨海 滄 茫. Tùy phong chi nhứ hà y; 隨風 之 絮 何 依; Trụy khổn chi hoa vô lại!. 墜悃(?) 之 花 無 賴. Can khanh thậm sự, 干卿 甚 事, thế cổ thiên sầu. 替古 偏 愁. Nhiên nhi, thính nguyệt dạ chi tỳ bà, 然而, 聽 月 夜 之 琵 琶, thanh sam dị thấp; 青杉(?) 易 濕; xướng cách giang chi ngọc thụ, 唱隔 江 之 玉 樹, bạch mấn thiêm hoa. 白鬢 添 花. Do lai danh sĩ giai nhân, 由來 名 士 佳 人, túc thế hữu hoa nghiêm chi kiếp; 夙世 有 花 嚴 之 劫; Hưu quái thanh sơn hoàng thổ, 休怪 青 山 黃 土, thiên cổ đồng luân lạc chi bi. 千古 同 淪 落 之 悲. Bộc bản đa tình, 僕本 多 情, cảm thâm đồng điệu. 感深 同 調. Vị ngộ không hoa ư sắc giới, 未悟 空 花 於 色 界, thiên liên ảo mộng ư xuân trường. 偏憐 幻 夢 於 春 場. Kim ốc A Kiều, 金屋 阿 嬌, mạn trước bán không chi tưởng; 漫著 半 空 之 想; mỹ nhân phương thảo, 美人 芳 草, bằng chiêu cách đại chi hồn. 憑招 隔 代 之 魂. Ngẫu hững bút dĩ trừu tư, 偶興 筆 以 抽 思, toại trục hồi nhi tưởng vịnh. 遂逐 回 而 想 詠. Ngôn chi trường dã, 言之 長 也, tạ đương khách song thính vũ chi đàm; 藉當 客 窗 聽 雨 之 談; linh chi lai hề, 靈之 來 兮, hoặc tại Lạc phố lăng ba chi dạ . 或在 洛 浦 淩 波 之 夜. Chu Mạnh Trinh (1862-1905) ( Việt Nam Văn học giảng bình của Phạm Văn Diêu, nxb Tân Việt, 1961 )
Tác giả : Chu Mạnh Trinh, tự Cán Thần, hiệu là Trúc Vân, người Hưng Yên, sinh năm 1862. Ông thi đỗ tú tài, sau đó đỗ giải nguyên kỳ thi hội, cuối cùng đỗ đệ tam tiến sĩ thời Thành Thái, làm tới Án sát sứ tỉnh Hưng Yên, Hà Nam, Thái Nguyên. Tiếc thay một đời danh sĩ tài hoa thực là ngắn ngủi, ông mất khi tròn 43 tuổi. ***
Tựa Thúy Kiều - Chu Mạnh Trinh Diễn Nôm : Tchya & Đàm Quang Thiện Kim sử: Duyên đề tặng phiến, Liêu Dương bất qui thúc phụ chi tang; biến khởi mãi ty, Lôi Châu tức biên oan dân chi án; tác sắc cầm hảo hợp, cốt nhục đoàn viên, bích ngọc trường lưu tử thoa bất đoạn. Yên hoa thương khách hà lai mái tiếu chi kim; thanh giáo ngoại thần chung trở qui hàng chi giáp. Hà dĩ biểu khuê nhân chi hiếu hạnh, kiến hiệp nữ chi cơ quyền. Nay ví thử: duyên ưa trao quạt, Liêu Dương chẳng vì tang chú trở về; biến tại bán tơ, Lôi Châu giá được dân oan minh án; thì chắc đẹp duyên đôi lứa, đoàn tụ cả nhà, ngọc bích còn nguyên, thoa vàng chẳng gẫy. Mà đâu có thể làng chơi son phấn, đem vàng mua được nụ cười; lại chẳng bao giờ, ngoài cõi anh hùng, cổi giáp quay đầu chịu phục. Thì sao: tỏ rõ phòng khuê mà hiếu hạnh, thấy được gái nghĩa hiệp lại cơ quyền. Nãi tri: sự phi khúc tắc bất kỳ, ngộ dũ truân nhi nãi hiển. Khanh chân đạt giả, tu tri thương hiệu chi liên tài, ngã diệc vân nhiên, mạc oán hồng nhan chi vô phận. Độc thị: vị thông môi chước, tiện đính tư minh, nhất truỵ phiền hoa, tiên thành kết tập. Thế mới biết không rắc rối việc chẳng phi thường, có gian truân danh càng rạng rỡ. Nàng đà hiểu đó, Trời xanh thương khách tài hoa; ta nói vậy thôi, má đỏ oán chi phận bạc. Chỉ vì: chưa thông môi lái, đã nặng thề bồi, lỡ bước phồn hoa, quen đường gió bụi. Hoặc giả vị thuỷ đãng vân lưu chi thái, luận nhi vi nghênh diệp tống chi phong. Bất tri: hồng hạnh xuất tường, vị phó hương tâm ư phấn điệp; sương phong ẩm hận, khủng diên hoạ sự ư trì ngư. Lệ kính lý chi bằng sương, độ sầu biên chi tuế nguyệt. Vô hà chi bích, giá khả trọng ư liên thành; dĩ thệ chi ba, mộng do hồi ư cựu phố. Hoặc có người nói, sở dĩ lá đưa cành đón, chỉ vì nước chảy mây trôi. Ai biết đâu hạnh thắm vượt tường, chưa gửi nhuỵ thơm cho bướm; dao oan nuốt hận, chỉ lo vạ cháy theo thành ven cõi sầu ngày tháng phôi pha; trong lòng kính tuyết sương gắng gỏi. Ngọc không hoen ố, giá cao kỳ xiết mấy thành liền; sóng đã trôi xuôi, hồn lẩn quất về phố cũ. Thí bình nhi trước luận, nghi lược tích nhi nguyên tâm. Hựu huống: thập thủ tân thi, quán nhập đoạn trường chi tập; tứ huyền cung oán, phổ thành bạc mênh chi âm. Giác thê lương kỳ não nhân, phục dỉnh đình nhi cố ảnh. Hoa ưng thâu diễm, liễu dục tăng kiều. Tham bắc bộ chi phong tao, tiếu đề diệc vận; thiện nam triều chi phấn đại, nùng đạm tương nghi. Như bình tình mà phán đoán, nên xét lại tự căn nguyên. Huống chi: nhất giải đoạn trường, thơ mới mười bài tuyệt tác; bốn giây bạc mệnh Hồ một khúc lâm ly. Bi ai những não lòng người; tha thuớt còn ngờ bóng cũ. Hoa ưng khoe thắm, liễu muốn thêm tươi. Đất Bắc thấm mùi lịch sự, cười khóc nên thơ; trời Nam rạng vẻ phấn son, thắm phai đượm nét. Cố nghi chư lão chung tình, biến danh tính ư quần biên tụ giác; toại sử thiên thu ký sự, thái phong lưu ư thặng phấn tàn chi. Ta hồ, tiểu trích phong trần, kỷ tao ma nghiệt! Tình thiên hạo diểu, hận hải thương mang! Tuỳ phong chi nhứ hà y, truỵ khổn chi hoa vô lại! Can khanh thậm sự, thế cổ thiên sầu! Nhiên nhi, thính nguyệt dạ chi tỳ bà, thanh sam dị thấp; xướng cách giang chi ngọc thụ, bạch mấn thiêm hoa. Cho nên bao người cũ say đời tình chung, đem tính danh ghi góc áo xiêm; ngàn thu sau tiếc chuyện phong lưu, viết sử sách vớt hương thừa phấn cũ. Than ôi! gió bụi một phen, nổi chìm mấy độ. Trời tình bát ngát, bể hận mênh mang, sợi tơ mành gió cuốn lênh đênh, đoá hoa rụng quê người trôi dạt...Xét đến nàng cũng hay mua việc, chuyện ngàn thu còn áo não làm chi? Chẳng qua: đêm trăng nghe khúc Tỳ Bà, áo xanh đẫm lệ; cách bến hát câu ngọc thụ, tóc trắng thêm sương. Do lai danh sĩ giai nhân, túc thế hữu hoa nghiêm chi kiếp. Hưu quái thanh sơn hoàng thổ, thiên cổ đồng luân lạc chi bi. Bộc bản đa tình, cảm thâm đồng điệu. Vị ngộ không hoa ư sắc giới, thiên liên ảo mộng ư xuân trường. Kim ốc a kiều, mạn truớc bán không chi tưởng; mỹ nhân phương thảo, bằng chiêu cách đại chi hồn. Ngẫu hứng bút dĩ trừu tư, toại trục hồi nhi tưởng vịnh. Ngôn chi trường dã, tạ đương khách song thính vũ chi đàm; linh chi lai hề, hoặc tại Lạc phố lăng ba chi dạ. Xưa nay danh sĩ giai nhân, hoa nghiêm vẫn một đời gian khổ; xót lẽ đất vàng núi biếc, luân lạc cùng muôn thuở đau thương. Tớ vốn nhiều tình, cảm ai cùng điệu. Cõi sắc hoa không chửa tỉnh; trường xuân mộng ảo còn say. Phương thảo gọi hồn, mường tượng người xưa phảng phất; nhà vàng xây mộng, mơ màng bóng ngọc thuớt tha. Chuyện cũ bâng khuâng, sẵn bút đề thơ ngẫu hứng; người xưa tưởng nhớ, chia hồi ngâm vịnh tiêu tao. Nói chẳng hết lời, ngoài cửa mưa thu rả rích; hồn thiêng chăng lẽ, đêm trường Lạc Phố chơi vơi...
Diễn Nôm : Tchya & Đàm Quang Thiện Bản dịch : Lãng Nhân Nay ví thử: duyên ưa trao quạt, Liêu Dương chẳng vì tang chú trở về; biến tại bán tơ, Lôi Châu giá được dân oan minh án; thì chắc đẹp duyên đôi lứa, đoàn tụ cả nhà, ngọc bích còn nguyên, thoa vàng chẳng gẫy. Mà đâu có thể làng chơi son phấn, đem vàng mua được nụ cười; lại chẳng bao giờ, ngoài cõi anh hùng, cổi giáp quay đầu chịu phục. Thì sao: tỏ rõ phòng khuê mà hiếu hạnh, thấy được gái nghĩa hiệp lại cơ quyền. Ví thử : Gắn bó tự ngày trao quạt, tang Liêu Dương đừng lỡ hẹn duyên hài, đặt bày do gã bán tơ, án Lôi quận giải ngay niềm oan khuất. Ắt là : Sắt cầm êm ả, cốt nhục sum vầy. Ngọc biếc vẫn lành thoa vàng không gãy. Lả lơi hoa rượu, khách làng chơi đâu được dịp mua cười; ngang dọc biên thùy, tay cung kiếm há thua cơ bó giáp ?. Thì sao thấy được : Chốn khuê các đã đủ điều hiếu hạnh; bạn quần thoa mà biết lẽ kinh quyền ! Thế mới biết không rắc rối việc chẳng phi thường, có gian truân danh càng rạng rỡ. Nàng đà hiểu đó, Trời xanh thương khách tài hoa; ta nói vậy thôi, má đỏ oán chi phận bạc. Chỉ vì: chưa thông môi lái, đã nặng thề bồi, lỡ bước phồn hoa, quen đường gió bụi. Mới hay : Việc đời khuất khúc, chuyện mới ly kỳ; cảnh ngộ éo le, nết càng tỏ rõ. Nàng đà thừa hiểu; từ xưa trẻ tạo vẫn lân tài; ta lại nhủ cùng; đâu phải má hồng đều tủi phận. Chỉ vì : Chưa mối manh đã vội thề bồi; mắc trăng gió mới thành hư hỏng. Hoặc có người nói, sở dĩ lá đưa cành đón, chỉ vì nước chảy mau trôi. Ai biết đâu hạnh thắm vượt tường, chưa gửi nhuỵ thơm cho bướm; dao oan nuốt hận, chỉ lo vạ cháy theo thành ven cõi sầu ngày tháng phôi pha; trong lòng kính tuyết sương gắng gỏi. Ngọc không hoen ố, giá cao kỳ xiết mấy thành liền; sóng đã trôi xuôi, hồn lẩn quất về phố cũ. Hoặc lại bảo : nước chảy mây bay quen mất nết; hóa cho nên : lá đưa cành đón dễ hư thân. Nào biết đâu : Nhị vẫn phong hương, chẳng để bướm ong thông được lối; dao toan cắt hận, nhưng e ao cá cháy theo thành. Mài mảnh gương soi rõ tấm băng trinh; ôm nỗi khổ gắng qua ngày tủi nhục. Ngọc không mãi bợn, há thua đâu giá trọng liên thành; nước dẫu trôi xuôi, vẫn nhớ đến mối tình cựu phố. Như bình tình mà phán đoán, nên xét lại tự căn nguyên. Huống chi: nhất giải đoạn trường, thơ mới mười bài tuyệt tác; bốn giây bạc mệnh Hồ một khúc lâm ly. Bi ai những não lòng người; tha thuớt còn ngờ bóng cũ. Hoa ưng khoe thắm, liễu muốn thêm tươi. Đất Bắc thấm mùi lịch sự, cười khóc nên thơ; trời Nam rạng vẻ phấn son, thắm phai đượm nét. Ví muốn bàn cho thấu đáo; - cũng nên xét đến tâm tình. Huống chi : Bốn dây gió thảm mưa sầu, phả thiên bạc mệnh, mười vận hoa thêu gấm dệt, chiếm giải Đoạn trường. Những nghe đã xót xa lòng, tưởng đến càng mê mẫn bóng. Hoa đành thua vẻ; liễu muốn ghen mầu. Hội phong tao đất Bắc nên trang, khóc cười phải điệu. Nét son phấn miền Nam đáng bậc, đậm nhạt ưa nhìn. Cho nên bao người cũ say đời tình chung, đem tính danh ghi góc áo ven xiêm; ngàn thu sau tiếc chuyện phong lưu, viết sử sách vớt hương thừa phấn cũ. Than ôi! gió bụi một phen, nổi chìm mấy độ. Trời tình bát ngát, bể hận mênh mang, sợi tơ mành gió cuốn lênh đênh, đoá hoa rụng quê người trôi dạt...Xét đến nàng cũng hay mua việc, chuyện ngàn thu còn áo não làm chi? Chẳng qua: đêm trăng nghe khúc Tỳ Bà, áo xanh đẫm lệ; cách bến hát câu ngọc thụ, tóc trắng thêm sương. Vậy nên những khách tài hoa, chẳng ngại đề tên họ bên chéo quần tay áo; lại khiến ngàn năm ghi chép, không nề nhặt phong lưu nơi phấn sót hương thừa. Than ôi ! Mới lọt vào một kiếp phong trần; đã vương lấy bao phen oan nghiệt. Trời tình u uất, biển hận vơi đầy. Sợi tơ mành phó mặc gió bay, cánh hoa rụng, sá gì bàn lội. Từ trước đã dư người hoài cảm, sao nay còn hận nỗi thương tâm ? Ấy cũng vì : Tiếng tỳ bà nghe lắng đêm trăng, áo xanh dễ đầm giọt lệ; khúc ngọc thụ vẳng qua mặt sóng, tóc bạc thêm đượm màu sương ... Xưa nay danh sĩ giai nhân, hoa nghiên vẫn một đời gian khổ; xót lẽ đất vàng núi biếc, luân lạc cùng muôn thuở đau thương. Tớ vốn nhiều tình, cảm ai cùng điệu. Cõi sắc hoa không chửa tỉnh; trường xuân mộng ảo còn say. Phương thảo gọi hồn, mường tượng người xưa phảng phất; nhà vàng xây mộng, mơ màng bóng ngọc thuớt tha. Chuyện cũ bâng khuâng, sẵn bút đề thơ ngẫu hứng; người xưa tưởng nhớ, chia hồi ngâm vịnh tiêu tao. Nói chẳng hết lời, ngoài cửa mưa thu rả rích; hồn thiêng chăng lẽ, đêm trường Lạc Phố chơi vơi...
( Bản dịch Tchya Đái Đức Tuấn & Đàm Quang Thiện )
Cho hay danh sĩ giai nhân, nợ sau trước cũng âu người một hội; Dẫu ở non xa nước lạ, kiếp sông hồ khôn thoát hận ngàn thu. Ta vốn đa tình; - luống thương đồng điệu. Cõi Sắc hoa Không chưa giác ngộ; đài xuân giấc bướm vẫn mơ màng. Cỏ Mỹ nhân một bó u hoài, hồn thơm có thấu ? Tòa Kim ốc những hằng vọng tưởng, vóc ngọc còn đâu ? Sẵn bút hoa tả mối sầu tư, đem truyện cũ chia hồi tưởng vịnh : Giãi mãi mà ân tình chưa dứt, giọt mưa đêm còn thánh thót bên khách song; thiêng chăng thì hiển hiện cho xem, bóng người đẹp chùng nhởn nhơ nơi Lạc phố ...
( Bản dịch Lãng Nhân ) *** Gửi Anh TchyA 20-8-53 Nghe Anh trở lại chốn Kinh kỳ Lấy bút làm guơm, rạch thị phi Mây nuớc bao la còn nhớ hẹn Cỏ cây sơ sác ngẫm càng bi Nửa đầu sương tuyết ngô hoàn ngã Một mái non sông khách thị thuỳ Sóng rộn dòng Hương thuyền mấy lá Vẳng nghe tiếng dáo, tiếng ngâm thi... Lãng Nhân
Tựa Thuý Kiều : Bản dịch Đoàn Tư Thuật Giả sử ngay khi trước, Liêu Dương cách trở, duyên chàng Kim đừng lỡ việc ma chay; quan lại công bằng, án Viên ngoại tỏ ngay tình oan uổng, thì đâu đến nỗi son phấn mấy năm lưu lạc, đem thân cho thiên hạ mua cười, mà chắc biên thuỳ một cõi nghênh ngang, ai xui được anh hùng cởi giáp. Thì sao còn tỏ được là người thục nữ mà đủ đường hiếu nghĩa, tay đàn bà mà lại có cơ quyền. Thế mới biết, người khôn thì hay gặp gian truân, chuyện đời khéo lắm trò quanh quẩn. Con tạo hoá vốn thương yêu tài sắc, nàng đà biết thế hay chưa? Khách má hồng đừng giận nỗi trăng già, ta cũng khuyên lời phải chẳng. Chỉ vì một tội, mối manh chưa có, thề thốt đã nhiều, trăng gió mắc vào, phồn hoa dính mãi.
Cũng có người bảo: Tại nước chảy mây trôi lỡ bước, nên cành đưa lá đón quen thân. Nào biết đâu bông hạnh nở ngoài tường, chưa để con ong qua tới; cho có muốn lưỡi dao liều với mạng, lại e thành cháy vạ lây. Tấm lòng này như tuyết như gương, mối sầu nọ qua ngày qua tháng. Ngọc kia không vết, giá liên thành khôn xiết so bì; nước đã trôi xuôi, hồn cựu mộng hãy còn ngơ ngẩn.
Bàn cho thật phải, tình cũng nên thương. Lại xem như bút mực tài hoa, đoạn trường mười khúc, trúc tơ phong nhã, hồ cầm một chương; câu thần vẳng vọng tiêu tao, bóng ngọc tưởng chiều não nuột, hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh, vậy nên khách đa tình say chuyện phong lưu, trăm năm cũ còn ghi tên tuổi hão, người chép sách tiếc vì tài sắc, ngàn thu sau nhặt lấy phấn hương thừa.
Than ôi, một bước phong trần, mấy phen chìm nổi... trời tình mờ mịt, bể hận mênh mang. Sợi tơ mành theo gió đưa đi, cánh hoa rụng chọn gì đất sạch. Ai dư nước mắt khóc người đời xưa, thế mà giống đa tình luống những sầu chung, hạt lệ Tầm Dương chan chứa; lòng cảm cựu ai xui thương mướn, nghe câu ngọc thụ não nề.
Cho hay, danh sĩ giai nhân, cùng một kiếp hoa nghiêm nặng nợ. Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để riêng ai luân lạc đau lòng. Ta cũng nòi tình, thương người đồng điệu. Cái kiếp không hoa lẩm cẩm, con hồn xuân mộng bâng khuâng. Đã toan đúc sẵn nhà vàng, chờ người quốc sắc, lại muốn mượn chùm phương thảo, hú vía thuyền quyên.
Sẵn bút nghiên chia vịnh từng hồi, đem sự tích tóm làm một tựa. Bây giờ kể còn dài chưa hết, hạt ba tiêu như thánh thót mưa thu. Hỡi ơi, hồn đà có biết hay chăng? Bóng hoàn bội tưởng ra vào Lạc phố.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 9:40:12 GMT 9
Nguyễn Du Từ Thái Nguyên sang Vân Nam cuối năm 1787 TS Phạm Trọng Chánh
Bao nhiêu năm nghiên cứu về Nguyễn Du, chúng ta đã biết hết cuộc đời Nguyễn Du chưa ? Nguyễn Du có quyển Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân từ năm nào ? Tại sao Nguyễn Du có những bài thơ làm ở Trường An (Dương Phi Cố Lý, Bùi Tấn Công Mộ, Phân Kinh Thạch Đài. 5 bài thơ làm bên miếu Nhạc Phi ở Hàng Châu, các địa danh này không nằm trên đường đi sứ năm 1813, vậy thì Nguyễn Du làm lúc nào ? Nguyễn Đại Lang trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là ai , mà Nguyễn Du viết 4 bài thơ trao tặng ? Nguyễn Du đã kết nghĩa sinh tử (sinh tử giao tình tại) với Nguyễn Đại Lang và tại sao chia tay hẹn gặp nhau ở Trung Châu ? Nguyễn Sĩ Hữu là ai ? Nguyễn Du làm gì mà đọc tụng kinh Kim Cương nghìn lượt ? Gia phả chép Nguyễn Du sau khi nhà Trịnh sụp đổ, muốn chạy theo vua Lê Chiêu Thống nhưng không kịp trở về Thái Bình quê vợ, và hợp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn chống Tây Sơn. Việc này không đúng vì năm 1789 Đoàn Nguyễn Tuấn ra làm quan Tây Sơn và được cử đi sứ . Vậy thì Nguyễn Du có về quê vợ từ 1787 đến 1796 trong 10 năm không ? Tại sao Nguyễn Du cho rằng quảng đời (1786-1796) là 10 năm gió bụi ? Nếu Nguyễn Du về quê vợ có vợ con yên ổn thì tại sao gọi là gió bụi. Gia phả lại chép từ năm 1796 ông về Hồng Lĩnh, toan vượt biên vào Nam theo chúa Nguyễn và bị tù ba tháng sau đó ông ở lại Hà Tĩnh, khi Gia Long ra Bắc, ông đem thủ hạ ra tiếp rước và cùng đi theo vua đến Bắc Hà được phong làm tri huyện Phù Dung trấn Sơn Nam ? Ở Hà Tĩnh bị tù ra mọi việc đều bị Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận giám xét làm sao có thể có thủ hạ, lương thực để tiếp vua Gia Long? Tóm lại cuộc đời Nguyễn Du từ 1786 đến 1802 theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền do cụ Nghè Nguyễn Mai viết đầu thế kỷ 20 đầy những mâu thuẩn, nghịch lý khó chấp nhận được ? Trong Thanh Hiên thi tập thơ chữ Hán Nguyễn Du, có những bài thơ tả cảnh Sơn cư miền núi, tả xóm Nam Đài, Long Thủy những địa danh này không có ở Quỳnh Hải, Thái Bình, cũng không có ở Hà Tĩnh, tả cảnh tuyết rơi, lá vàng, trưởng giả ăn mặc theo nhà Hán, dân chúng không theo lịch nhà Tần, Nguyễn Du xác định nơi ở "phía nam ngàn dậm cách Trường An". Nếu Trường An là Thăng Long thì Quỳnh Hải và Tiên Điền không cách ngàn dậm. Nguyễn Du làm gì mà đội mũ vàng nhà sư đi Giang Bắc, Giang Nam cái túi không ?, là sông phía Bắc phía Nam Thăng Long, hay Giang Bắc Giang Nam của Trung Quốc ?
Nguyễn Du có hư cấu, tưởng tượng theo sách vở để viết những bài thơ chữ Hán trong Thanh Hiên Thi tập chăng ? Không, thơ chữ Hán chính là những trang nhật ký của Nguyễn Du. Nam Trung Tạp Ngâm, và Bắc Hành Tạp lục. Tôi sắp xếp từng bài thơ theo tình tự và tìm ra một cuộc đời thật của Nguyễn Du từ 1787 đến 1802. Năm 2009 tôi làm một chuyến đi du lịch Trung Quốc qua các địa danh Nguyễn Du viết trong thơ, để cảm nhận cái không khí, không gian trong thơ và hoàn tất quyển: Nguyễn Du mười năm gió bụi, tôi dịch lại toàn bộ thơ trong Thanh Hiên Thi Tập và Bắc Hành tạp lục. Bài viết này tôi cập nhật thêm những khám phá mới, ngoài quyển Nguyễn Du, mười năm gió bụi tôi đã hoàn tất năm 2011, và chia làm nhiều bài nhỏ để dễ phổ biến trên internet.
1787 Sau khi nhà Trịnh sụp đổ Nguyễn Du từ Thái Nguyên đi ngựa sang Vân Nam cùng Nguyễn ĐạI Lang, Nguyễn Sĩ Hữu (các bài thơ Đối Tửu, Bất Mị, Sơn Cư mạn hứng, Thu Chí, Sơn Thôn).
1788 Chia tay cùng Nguyễn Đại Lang tại Liễu Châu: Lưu biệt Nguyễn Đại Lang, 3 bài Tiễn biệt Nguyễn Đại Lang. Chia tay cùng Nguyễn Sĩ Hữu (Tiễn Nguyễn Sĩ Hữu qui nam), Nguyễn Du bị bệnh ba tháng mùa xuân ở lại dưỡng bệnh.
1787-1790 Nguyễn Du hết bệnh quy y thành nhà sư Chí Hiên, hành trang bên mình là quyển Kinh Kim Cương chú giải của Lê Quý Đôn, theo gương Lý Bạch đi chu du khắp Trung Quốc, Nguyễn Du lên Trường An và xuống Hàng Châu, ban ngày di ngao du thắng cảnh, tối trú ngụ một ngôi chùa trên đường đi tụng kinh Kim Cương làm công quả kiếm ăn, Nguyễn Du đến Trường An (Mạn hứng I, II, Dương Phi Cố Lý, Bùi Tấn Công Mộ, Phân Kinh Thạch Đài) đến Hàng Châu, nơi hẹn với Nguyễn Đại Lang là miếu Nhạc Phi, Nguyễn Du trú ngụ tại chùa Hổ Pháo gần đó nơi Từ Hải từng tu hành, nơi đây Nguyễn Du nghe chuyện Từ Hải và có được quyển Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Nguyễn Du đọc say mê và quyết chí diễn ca thơ nôm. Nguyễn Du ở nơi này khá lâu nên viết 5 bài thơ ( Nhạc Vũ Mục mộ, Tượng Tần Cối I, II, Tượng Vương Thị I, II.) Gặp lại Nguyễn Đại Lang và được chu cấp Nguyễn Du có xe song mã đi Yên Kinh (Bắc Kinh).
1790. Nguyễn Du trở về đến Hoàng Châu, Hà Bắc thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn (Hai bài thơ Đoàn Nguyễn Tuấn: Chí Hoàng Châu thích Nguyễn khế văn tự Yên Kinh hồi tẩu bút tặng chi, Đến Hoàng Châu vừa gặp người bạn văn họ Nguyễn từ Yên Kinh trở về bèn phóng bút làm thơ tặng) theo bài thơ Nguyễn Du bàn luận sôi nổi với Đoàn Nguyễn Tuấn về Hồng nhan đa truân trong truyện Kiều, trên đường đi Đoàn Nguyễn Tuấn cảm hứng viết bài Vô Đề về Hồng nhan đa truân. Sứ đoàn trên đường đi Nhiệt Hà nơi nghỉ mát vua Càn Long, nên Đoàn Nguyễn Tuấn hẹn gặp Nguyễn Du ở Thăng Long mùa xuân.
1790. Nguyễn Du về Long Châu, Quảng Tây chờ đợi và cùng về Thăng Long với Đoàn Nguyễn Tuấn và anh Nguyễn Nễ.(Xuân Dạ)
1790-1793 Nguyễn Du ở Thăng Long với anh Nguyễn Nễ, nhưng thường ở nơi Gác Tía nhà câu cá của anh Nguyễn Khản cạnh đền Khán Xuân tại đây Nguyễn Du quen biết với Xuân Hương Hồ Phi Mai và mối tình 3 năm.
1794-1796. Giả từ Hồ Xuân Hương về Tiên Điền xây dựng lại từ đường, chùa, cầu và làng Tiên Điền. Toan vượt biên theo chúa Nguyễn Ánh bị bắt giam 3 tháng.
1797. Ban đêm trốn ra Thăng Long, hay tin Hồ Xuân Hương lấy chồng thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du viết hai bài thơ Chí Hiên tặng oán trách nàng tệ bạc.
1797-1802 Nguyễn Du được Đoàn Nguyễn Tuấn gã em gái út, và giao cho gia trang Quỳnh Hải, Nguyễn Du dạy học dạy văn, dạy võ chiêu tập thủ hạ.
1802. Vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem thủ hạ, lương thực đi tiếp rước đến huyện Phù Dung trấn Sơn Nam, thì gặp vua Gia Long, vua phong ngay làm tri huyện Phù Dung sự kiện này giống như Phi Tử thời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Châu Hiếu Vương được phong chức Phụ Dung (nước phụ chư hầu) cho nên Nguyễn Du có tên là Phi Tử (Nguyễn Hành trong bài Đi săn có nhắc đến biệt hiệu này).
1802-1804 Nguyễn Du làm quan được mấy tháng thì được thăng Tri Phủ Thường Tín, phụ trách đi tiếp sứ nhà Thanh sang phong vương nhờ tài ăn nói lưu loát các ngôn ngữ địa phương Trung Quốc và làm thơ. Vợ mất sau bốn lần sinh, để lại một con Nguyễn Tứ. Nguyễn Du tìm về Cổ Nguyệt Đường mong nối lại duyên xưa thì Hồ Xuân Hương đang làm lẽ Tổng Cóc Nguyễn Công Hòa, đang đau ốm, xót thương nàng Nguyễn Du viết bài Độc Tiểu Thanh Ký và tự hỏi : Ba trăm năm lẽ nữa thiên hạ ai khóc người đẹp tài sắc như nàng Tiểu Thanh (Bách tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp tố như) Hồ Xuân Hương nhận thơ dứt tình Tổng Cóc trở về thì Nguyễn Du đã vào Phú Xuân nhận chức Đông Các và sau đó làm quan Cai Bạ đứng đầu cai trị doanh Quảng Bình. Xuân Hương viết bài Chơi Tây Hồ nhớ bạn trả lời bài Độc Tiểu Thanh Ký của Nguyễn Du.
NGUYỄN DU TỪ THÁI NGUYÊN SANG VÂN NAM 1787
Năm 1782, khi Trịnh Tông lên ngôi, Nguyễn Khản anh cả Nguyễn Du, thầy dạy Chúa Trịnh Tông nguyên Trấn thủ Sơn Tây được cử làm Thượng Thư Bộ Lại, chức vụ tương đương với Thủ Tướng ngày nay, kiêm Trấn thủ Hưng Hóa, Thái Nguyên. Tại Sơn Tây Nguyễn Khản trao lại quyền Trấn thủ cho em kế là Nguyễn Điều, có Nguyễn Nễ phụ tá giữ chức Hiệp Tán quân cơ đạo quân Sơn Tây. Tại Hưng Hóa, giao quyền cho con rễ là Nguyễn Huy Tự (Tác giả Hoa Tiên) có hai em là Nguyễn Trứ và Nguyễn Nghi (tác giả truyện thơ Quân Trung Đối) phụ tá. Tại Thái Nguyên, quyền TrấnThủ giao cho một thuộc hạ là Nguyễn Đăng Tiến tức Cai Gia. Nguyễn Du nắm giữ đội binh hùng hậu nhất (Chánh Thủ Hiệu quân Hùng Hậu Hiệu), Nguyễn Quýnh chức Trấn Tả Đội. Cai Gia là ai ? Theo Ngô Văn gia phái, Hoàng Lê Nhất Thống Chí . Nxb Văn Học Hà Nội 1070 tr 78. Đoạn Nguyễn Khản bị kiêu binh vây bức đã trốn lên Sơn Tây. Nguyễn Điều (Cương) đã bàn mưu cùng anh đem quân các trấn về đánh kiêu binh:
"Trên Thái Nguyên lại có tên giặc già là Cai Gia, thuở xưa từng làm môn hạ của anh, hẳn anh cũng có thể sai khiến được". Theo tôi thì Cai Gia chính là Nguyễn Đại Lang trong thơ chữ Hán, người dạy Nguyễn Du võ nghệ, và có kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Du (Sinh tử giao tình tại. Bài thơ Tiễn biệt Nguyễn Đại Lang III) Cai Gia có lẽ lớn tuổi hơn cả Nguyễn Khản nên Nguyễn Du gọi là Đại Lang, anh cả. Tại sao gọi là giặc già ? Giặc đối với nhà Thanh(1644-1911) là những người Phản Thanh phục Minh. Mãn Châu là một nước nhỏ phía Bắc đánh bại nhà Minh và đô hộ Trung Quốc từ 1644 Vua Thuận Trị Thanh Thế Tổ cho đến năm 1911 Phổ Nghi là vị Hoàng Đế cuối cùng, quân tướng nhà Minh bại trận bỏ sang Việt Nam trú ẩn rất nhiều, một số quy thuận với Chúa Nguyễn như Trần Thắng, Dương Ngạn Địch được chúa Nguyễn cho khai thác vùng Sài Gòn Biên Hòa, Mạc Cửu vùng Hà Tiên. Suốt triều đại nhà Thanh, những người hoài Minh, thường nổi lên chống lại nhà Mãn Thanh, bị thất bại họ trốn sang Việt Nam, lấy vợ và định cư trở thành người Việt Nam. Cai Gia là một trong những người đó, Cai Gia quy thuận làm thuộc hạ cho Nguyễn Khản, được Nguyễn Khản dùng để dạy võ cho các em. Trong nhà Nguyễn Khản còn có một tay kiếm khách gốc người Trung Quốc khác, một mình đánh với bọn kiêu binh và bị bọn kiêu binh giết chết (HLNTC tr 69,70). Cai Gia gốc người Choáng, Quảng Tây vùng thủ phủ Quế Lâm nên trong bài thơ tiễn biệt Nguyễn Du có nhắc đến tiễn anh về quê cũ nơi " cao sơn lưu thủy ", nơi gốc tích các tranh thủy mặc Trung Quốc. Tôi đã đến vùng này năm 2009 nơi có sông Lý Giang chảy qua các núi đá vôi (cảnh trí như vùng Hoa Lư, Ninh Bình Việt Nam) dân cư là 15 triệu dân tộc Choáng, người Việt cổ thời Việt Vương Câu Tiễn, Tây Thi thời Chiến Quốc và Nam Việt của Triệu Đà đời Tần. Cảnh sắc hoàn toàn giống Việt Nam, cũng với trống đồng, con trâu cái cày, lũy tre làng y hệt như Việt Nam. Tôi cũng đã đi thăm tượng Lý Ông Trọng, một người Việt Nam là kiếp đảm quân Hung Nô thời Bắc Thuộc. Thái Nguyên là vùng nhiều người giang hồ tứ chiến Trung Quốc sang khai thác mỏ bạc, dân trộm cướp ngoài vòng pháp luật đông đảo, là một mối lo lớn của triều đình nhà Lê - Trịnh thời bấy giờ, Ngô Thời Nhiệm từng có những báo cáo về triều đình về tình hình Thái Nguyên. Việc cắt cử Cai Gia một người gốc Trung Quốc, giỏi võ, từng khởi nghĩa chống Thanh ở Trung Quốc lên trấn nhậm Thái Nguyên cùng hai em Nguyễn Du và Nguyễn Quýnh là một việc làm hợp lý. Do đó tôi cho rằng Nguyễn Du và Nguyễn Quýnh là đại diện cho binh quyền của anh, cùng Cai Gia quyền Trấn Thủ Thái Nguyên. Chức vụ Chánh Thủ Hiệu quân Hùng Hậu Hiệu của Nguyễn Du không phải là một tập ấm nhỏ nhờ cha nuôi họ Hà truyền lại như gia phả viết, mà là một chức tương đương với ngày nay " Chính Ủy Sư Đoàn Hùng hậu trấn đóng Thái Nguyên ". Và Nguyễn Quýnh chức Trấn Tả Đội, Đội quân cánh Tả là đội quân quan trọng nhất trong quân sự ngày xưa. Nguyễn Quýnh lấy danh hiệu Nguyễn Sĩ Hữu, để chứng tỏ mình là văn võ song toàn, tả là võ tướng, hữu là kẻ sĩ.
Bài Đối Tửu cho ta thấy tâm sự Nguyễn Du sau khi nhà Trịnh sụp đổ năm 1786, tư dinh cha anh tại Thăng Long bị kiêu binh phá sạch, Nguyễn Khản cùng Nguyễn Điều mưu đem quân các trấn về đánh kiêu binh nhưng không thành, kiêu binh tự tan. Nguyễn Khản cùng Nguyễn Điều về Hà Tỉnh, Khi Tây Sơn ra Bắc anh Nguyễn Khản, từ Hà Tỉnh ra Thăng Long toan giúp chúa Trịnh lại bị bệnh mất, đưa về Tiên Điền an táng, anh Nguyễn Điều cũng mất tại Hà Tĩnh. Hai trụ cột gia đình đã gảy đổ. Nguyễn Du không biết mình làm gì trong lúc này, ngồi uống rượu muốn say suốt ngày, nhìn thế sự như đám mây trôi.. Ngồi xếp bằng tròn cạnh cửa sổ, say mắt lim dim. Vô số cánh hoa rơi trên thảm rêu xanh. Lúc sống không uống cạn hồ rượu, chết rồi ai tưới rượu lên mồ cho ? Sắc xuân thay đổi dần, chim hoàng oanh bay đi. Năm tháng ngầm thôi thúc lo đến bạc đầu. Cuộc đời trăm năm chỉ mong được say suốt ngày. Chuyện thế sự như mây nổi thật đáng buồn.
NGỒI UỐNG RƯỢU
Bên song ngồi tựa mắt men say, Hoa rụng thềm rêu tơi tả bay. Khi sống không nghiêng bầu uống cạn, Chết rồi ai tưới mộ mình đây ? Hoàng oanh bay mất xuân dần chuyển, Đầu bạc dần thêm mỗi tháng ngày. Ước được trăm năm say chén mãi. Tiếc thương thế sự một làn mây. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
ĐỐI TỬU
Phu tọa nhàn song túy nhãn khai, Lạc hoa vô số há thương đài. Sinh tiền bất tận tôn trung tửu, Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi ? Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ, Niên quang âm trục bạch đầu lai. Bách ky đãn đắc chung triêu túy, Thế sự phù vân chân khả ai.
Sử thần Nguyễn Thu đời Tự Đức trong Lê Quý Kỷ Sự. nxbKHXH. Hà Nội 1974 tr 91 đã chép trận chiến quân Tây Sơn đánh Thái Nguyên vào mùa đông năm 1787:
"Quản vũ hầu Nguyễn Đăng Tiến, cựu trấn thủ Thái Nguyên, dấy quân ở Tư Nông, đánh nhau với giặc, bị bắt, được Vũ Văn Nhậm tha cho.
Cựu trấn thủ Thái Nguyên là Quản vũ hầu cùng với hào mục bản địa là Ngũ kiên tướng hiệu kết hợp với bọn người Trung Quốc là Lý Chấn Lôi ở mỏ bạc, cùng nhau dấy quân ở Tư Nông, chiến đấu với tướng "giặc" là chỉ huy Giáo, cố sức đánh luôn mấy ngày, thua trận. Nguyễn Đăng Tiến và em con nhà chú là Đô vũ bá đều bị bắt, đóng cũi đưa về Thăng Long.
Vừa thoạt gặp Tiến, Nhậm cười, nói : "Ta đi cướp nước người, phá nhà người: đó là lỗi ta. Vậy người đánh lại ta, là lẽ chánh đáng, chứ người có tội gì ! Chỉ giận vì sức mọn, thế yếu, nên mới bị ta bắt đó thôi. Nay ta thả Tiến ra, nếu Tiến chịu hàng thì đi với ta; bằng không thì cho tùy ý muốn đi đâu cũng được. Ví bằng lại dấy quân quyết chiến với ta mà ta bắt được lần nữa thì cũng không giết đâu ".
Tư Nông là một huyện ở Thái Nguyên, nay là tỉnh Bắc Thái. Thời Nguyễn Hữu Chỉnh nắm binh quyền 1786-1787 nhà Lê dùng thuộc hạ thay thế các trấn thủ các trấn trong mấy tháng trước khi bị Vũ Văn Nhậm bắt giết, nên gọi Nguyễn Đăng Tiến là cựu trấn thủ, như thế Nguyễn Đăng Tiến, tước Quản vũ hầu gọi nôm na là Cai Gia, là Nguyễn Đại Lang, thuộc hạ của Thượng Thư Bộ Lại Nguyễn Khản. Không thấy nói đến Nguyễn Du có bị bắt trong trận này không, năm ấy Nguyễn Du chỉ là một thanh niên 20, 21 tuổi, nếu có nằm trong đám tù binh, cũng chưa phải là nhân vật đáng kể tên trong sử sách. Với sự rộng lượng của Vũ Văn Nhậm tất cả tù binh trong trận Thái Nguyên đều được tha. Và sau trận này họ lên đường đi sang Vân Nam.
Bài thơ Bất Mị (Không Ngủ), Nguyễn Du làm trên đường đi sang Vân Nam: Quan sơn dẫn mộng trường, đường đi qua núi non như giấc mộng dài. Những biến cố xãy ra, sự sụp đổ nhà Lê -Trịnh như giấc mộng. Nguyễn Du không ngủ nằm nghe cơn lạnh, trằn trọc mãi, nghe thời gian chậm qua, cơn lạnh gió núi tưởng chừng như không dứt. Bước đường đi qua núi non như giấc mộng dài, lâu đài dinh thự cha anh phút chốc đã tan biến, dinh thự chúa Trịnh xây dựng 243 năm cũng bị đốt cháy, công hầu vua chúa thảy đều tiêu tan, chỉ còn nghe tiếng chày đập vải trong sương sớm lạnh lùng. Trong nhà bếp cóc nhái quây quần nơi bếp tro tàn nơi mé ngoài sâu trùng bò ra lợi dụng thời cơ. Cóc nhái Nguyễn Du ám chỉ bọn kiêu binh nhà Lê - Trịnh và sâu trùng ám chỉ quân Tây Sơn từ Nam bò ra. Nằm đọc chương Vấn Thiên trong Sở Từ của Khuất Nguyên, nhìn trời xanh biết hỏi ai ?
KHÔNG NGỦ
Không ngủ nghe canh lạnh, Canh lạnh mãi không thôi. Quan sơn dài giấc mộng, Hơi lạnh dục tiếng chày. Cóc nhái quần bếp vắng. Sâu trùng bò mé ngoài, Chương Vấn Thiên nằm đọc, Trời xanh biết hỏi ai ? Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
BẤT MỊ
Bất mị thính hàn canh, Hàn canh bất khẳng tận. Quan sơn dẫn mộng trường, Châm chữ thôi hàn cận. Phế táo tụ hà ma, Thâm đường xuất khâu dận. Ám tụng Vấn Thiên chương ! Thiên cao hà xứ vấn ?
Sở Từ của Khuất Nguyên có chương Thiên Vấn, thiên chương là số mệnh trời định. Nguyễn Du muốn truy tầm tận cùng vì đâu dẫn đến việc nhà Trịnh sụp đổ như Khuất Nguyên đã truy hỏi từ khai sinh vũ trụ đến việc nước Sở sụp đổ. Nguyễn Du đọc Sở Từ, thấy lòng mình như Khuất Nguyên, sau khi nước Sở mất, cài hoa lan trên mái đầu, lang thang trên dòng sông Mịch Giang . Ta thử đọc vài đoạn trong chương Vấn Thiên . Khuất Nguyên. Sở Từ. Đào Duy Anh và Nguyễn Sĩ Lâm dịch. Nxb Văn Học Hà Nội 1974 tr 228 để hiểu rõ lòng Nguyễn Du hơn khi đọc Sở Từ trong thời điểm nước mất, nhà tan năm 1787 :
Hỏi : Vũ trụ sơ khai, Ai truyền gốc tích ? Trời đất chưa thành, Xét đâu lai lịch ? Sáng tối hổn mang, Ai suy cho rõ ? Máy tạo chuyển vần, Ai biết lúc đó ? Sáng tối, tối sáng, Đắp đổi cớ sao ? Âm dương hợp hoá, Nguồn gốc thế nào ? Trời tròn chín tầng, Ai xây dựng kiểu ? Tầng nào khởi đầu, Thợ nào tay khéo ? Vòng trời buộc đâu ? Trục trời gác đâu ? Chống đâu tám cột núi ? Đông Nam sao biển sâu ? Biên giới chín tầng. Rộng tới mô đó ? Góc nhiều cạnh lắm ? Ai rõ con số ? Đâu trời giáp đất ? Vòng chia thế nào ? Treo đều vầng nhật nguyệt ? Bầy đâu các vì sao ? Từ những câu hỏi không câu trả lời vì quan niệm thời Chiến Quốc đất hình vuông có tám cột núi do bà Nữ Oa chặt tám chân rùa làm cột chống. Khuất Nguyên quay hỏi các thần thoại Trung Quốc : Nữ Kỳ không chồng, chín con sao có ? Thần Bá Cường trú đâu ? Mây điềm đâu rạng tỏ.. Bành Tổ dâng canh trĩ. Thượng đế sao hưởng ? Tuổi thọ sao nhiều thế, Cách nào bảo dưỡng ? Khất Nguyên hỏi đến lịch sử Cố Đại và cuối cùng đến tấm lòng can vua của mình. Vua Sở không nghe nên nước bị sụp đổ : Ta bảo Đỗ Ngao không được lâu dài ! Sao mình muốn can vua, Trung trực tỏ danh hoài ? Chiều hôm trời sấm chớp. Sá quản về xa ? Có Vua không được phụng sự. Trời phạt gì ta ? Hang hố thân đày đọa. Nói năng gì nào ? Quân Sở thường dấy động ? Hơi sức được bao ? Lỗi lầm biết hối cải. Ta còn nói sao ?
Đọc chương Vấn Thiên của Khuất Nguyên, ta mới hiểu Nguyễn Du vì sao sớm bạc tóc ?, vì sao Khuất Nguyên phải trầm mình xuống sông Mịch Giang ?. May mắn cho chúng ta ngày nay có các nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận, Nguyễn Quang Riệu giải giùm các câu hỏi sự hình thành vũ trụ và các vì sao . Từ sự hình thành trời đất dẫn đến sự sụp đổ một chế độ, những câu hỏi vớ vẩn, điên đầu thì chỉ có nhảy xuống sông tự tử !
Bài Sơn Cư Mạn Hứng (Ở núi cảm hứng) Nguyễn Du cho biết ông ở cách Trường An ngàn dậm. Dậm là quảng đường dài 135 trượng, khoảng nửa cây số, mỗi giờ ta đi bộ 4 cây số, đường ngàn dậm vừa đi vừa nghỉ mất hàng tháng trời. Nguyễn Du đến một vùng núi cao, mây lượn trước cửa gổ thô ngoài nhà. Ở nơi nhà một thầy thuốc nên có vườn trồng cây thuốc bên rặng trúc thưa. Câu Dưới trăng thơ thẩn lòng quê nhớ, cho biết nơi này xa quê hương nên không thể là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh. Nghe tiếng chim hồng nhạn kêu áo não trong đêm mà khóc thương đã xa quê bao năm. Nơi quê cũ vắng tin tức các em, không gửi thư được không biết các em có bình an không ? Làng Tiên Điền có thể còn em Nguyễn Nhưng, các em Nguyễn Trứ, Nguyễn Nghi về quê mẹ làng Chu Kiều, Bắc Ninh. Em Nguyễn Ức có lẽ cũng ở quê mẹ Bắc Ninh, chị Nguyễn Thị Diên lấy chồng Tiến Sĩ Vũ Trinh (1759-1828) làng Xuân Lang, huyện Lang Tài, Bắc Ninh. Qua Hoàng Lê Nhất Thống Chí, thời kỳ Nguyễn Hữu Chỉnh nắm binh quyền tại Bắc Hà, Vũ Trinh là một cận thần có nhiều bàn bạc bên cạnh vua Lê. Còn anh Nguyễn Nễ đang làm Hiệp Tán quân cơ Sơn Tây đã được vua Tây Sơn Nguyễn Huệ mời ra trọng dụng.
Ở NÚI CẢM HỨNG
Phía nam ngàn dậm cách Trường An, Thôn dã có người ẩn núi xanh. Mây lượn cửa sài yên bóng núi, Trúc thưa vườn thuốc lạnh hơi xuân. Dưới trăng thơ thẩn lòng quê nhớ, Tiếng nhạn khơi thương lệ bấy năm. Quê cũ, các em tin tức vắng, Không thư nào biết có bình an ? Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt
SƠN CƯ MẠN HỨNG
Nam khứ Trường An thiên lý dư, Quần phong thâm xứ dã nhân cư. Sài môn tĩnh trú sơn vân bế, Dược phố xuân hàn lũng trúc sơ Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ, Kinh niên biệt lệ nhạn thanh sơ. Cố hương đệ muội âm hao tuyệt, Bất kiến bình an nhất chỉ thư.
Bài Thu Chí cho ta thấy Nguyễn Du đến một vùng núi có bốn mùa cảnh đẹp, có mùa thu lá vàng rơi rụng đầy sân, có tuyết rơi. Cảnh này không thể ở Quỳnh Hải hay Hồng Lĩnh. Nơi đây khi trấn đóng tại Thái Nguyên, Nguyễn Du từng đến đây nên gọi mình là khách cũ. Mùa thu đã qua sân còn đầy lá vàng úa. Nơi đây xa Việt Nam nên ngọn gió Tây chỉ làm rèm gác nhà sàn lay động. Tuyết trắng mùa đông bắt đâu rơi xuống trong thôn vắng, tiếng tù và người Vân Nam nghe não ruột. Ngày tháng trôi qua buồn bạc tóc. Làm sao gỡ hết nỗi sầu của riêng mình .
THU CHÍ
Bốn mùa cảnh đẹp bao ngày tháng, Vùn vụt thoi đưa thoáng mịt mù. Muôn dậm thân trơ làm khách cũ, Một sân vàng úa lá mùa thu. Gió Tây rèm gác buồn lay động, Tuyết xuống làng xa não tiếng tù. Ngày tháng trôi qua buồn bạc tóc, Một đời sao gỡ mối sầu tư ? Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
THU CHÍ
Tứ thời hảo cảnh vô đa nhật, Phao trịch như thoa hoán bất hồi. Thiên lý xích thân vi khách cửu, Nhất đình hoàng điệp tống thu lai. Liêm thùy tiểu các Tây phong động, Tuyết ám cùng thôn hiểu giác ai, Trù trướng lưu quang thôi bạch phát, Nhất sinh u tứ vị tằng khai.
Chú thích:
Tứ thời: Cảnh Việt Nam chỉ có hai mùa mưa nắng. Tại Vân Nam bốn mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Sau trận Tây Sơn đánh Thái Nguyên, tháng 11 năm 1787, Nguyễn Du sang Vân Nam gặp lúc mùa đông có tuyết, không quen khí hậu, bị bệnh trong ba tháng mùa xuân phải ở lại dưỡng bệnh.
Thiên lý: nơi này xa Thăng Long, nên Nguyễn Du mới gọi là xa ngàn dậm. Nguyễn Du lúc trấn đóng Thái Nguyên từng qua nơi này nên mới gọi là khách cũ.
Tây Phong: Nguyễn Du thường dùng chữ Tây Phong để ám chỉ quân Tây Sơn.
Tuyết ám cùng thôn: tuyết rơi nơi thôn xóm vắng vẻ.
Hiểu giác: tù và bằng vỏ ốc, bằng sừng trâu, hay bằng gỗ ông dài, là một dụng cụ âm nhạc thường thấy vùng Vân Nam, Tây Tạng.
Bài Sơn Thôn trong Thanh Hiên Thi Tập. Nguyễn Du tả cảnh Vân Nam. Ở giữa vùng núi xa xăm, lánh xa bụi trần. Cửa bằng gỗ sài chiều vắng mây bay kín giăng. Dân nơi đây người trưởng giả còn ăn mặc theo nhà Hán. Vì đời Hán Vũ Đế đã đem quân chiếm nước Điền, người Việt gọi là nước Nam Chiếu lập thành tỉnh Vân Nam, người trưởng giả vẫn giữ nguyên cách ăn mặc thời đầu tiên đô hộ, không theo thời thế Trung Quốc thời Nguyễn Du, nhà Mãn Thanh đô hộ, ăn mặc tóc để bính dài theo người Mãn Thanh. Chốn núi non dân ảnh hưởng văn hóa Tây Tạng họ có thứ lịch riêng không theo lịch nhà Tần Trung Quốc. Buổi chiều mục đồng gõ sừng cỡi trâu về. Các cô thôn nữ múc nước từ giếng trong mang về. Nguyễn Du muốn thoát khỏi trần tục, như chúa Trịnh Bồng thành Hải Đạt Thiền Sư. Say thú biết bao được ngồi dưới gốc tùng. Từ Vân Nam, Nguyễn Du đã không sang Nam Ninh (Quảng Tây) theo vua Lê Chiêu Thống để nhờ quân Thanh khôi phục lại nhà Lê, mà xuống tóc thành nhà sư Chí Hiên rồi đi chu du Trường An, Hàng Châu.(Chí từ danh hiệu Chí Thiện Thiền Sư, chưởng môn phái Thiếu Lâm thời vua Càn Long, và Hiên của gia đình cha hiệu Nghị Hiên,anh Nguyễn Nễ hiệu Quế Hiên)
XÓM NÚI
Giữa núi xa xăm lánh bụi trần, Cửa sài chiều vắng kín mây dăng. Áo khăn trưởng giả còn theo Hán, Ngày tháng sơn lâm khác lịch Tần. Mục tử gõ sừng chiều sẫm tối, Thôn nương múc nước giếng xuân trong. Làm sao thoát được vòng trần tục, Say thú biết bao dưới gốc tùng. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
SƠN THÔN
Vạn sơn thâm xứ tuyệt phong trần, Thác lạc sài môn bế mộ vân. Trưởng giả y quan do thị Hán, Sơn trung giáp tý quýnh phi Tần. Mục nhi giác chủy hoang giao mộ, Cấp nữ đồng liên ngọc tỉnh xuân. Ná đắc khiêu ly phù thế ngoại, Trường tùng thụ hạ tối nghi nhân.
Chú thích: Hán: cuối đời Tây Hán, Vương Mãn cướp ngôi vua. Hán Lưu Tú (sau này là Quang Vũ Đế , Đông Hán) khởi binh khôi phục lại cơ nghiệp. Khi tiến vào kinh đô Lạc Dương, phụ lão mừng nói: không ngờ ngày nay lại thấy uy nghi nhà Hán. Trong bài này các cụ già trưởng giả Vân Nam con giữ nguyên quần áo thời nhà Hán.
Lịch Tần: Tích Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm. Đời Tần tàn bạo, một nhóm người đem nhau vào Đào Nguyên ở không đi lại với người ngoài núi. Họ không theo lịch niên hiệu nhà Tần. Vùng Vân Nam thời Nguyễn Du theo lịch Tây Tạng.
Xem tiếp kỳ tới : NGUYỄN DU CHIA TAY CÙNG NGUYỄN ĐẠI LANG VÀ NGUYỄN SĨ HỮU TẠI LIỄU CHÂU.
PTC. Paris. 31-12-2012 *Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne. Tác giả: Chiêm bao trắng. Saigon 1969. Bóng Thời Gian, Thời gian ta mãi mãi còn xanh (với GSTS Nguyễn Đăng Hưng) Hiện Diện Liège 1973. Hồ Xuân Hương, Nàng là ai ? Khuê Văn Paris 2000. Nguyễn Du Mười năm gió bụi. Khuê Văn .Paris2011. Cánh chim từ vùng lửa đỏ. Thơ Nhất Uyên ,nhạc Tôn Thất Lập.1974. Thơ tình Nhất Uyên (Huy Cận, Xuân Diệu đề tựa.) Truyện thơ Odyssée qua 12110 câu thơ lục bát. Sử thi Iliade qua 16933 câu lục bát. Tự Điển tình yêu bằng thơ tình Xuân Diệu. Khuê Văn 2012.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 9:41:01 GMT 9
Nguyễn Du chia tay Nguyễn Đại Lang, Nguyễn Sĩ Hữu tại Liễu Châu 1788 TS Phạm Trọng Chánh
TÓM LƯỢC Nguyễn Du gọi cuộc đời từ 20 đến 30 tuổi của mình là " 10 năm gió bụi " (1786-1796), gia phả và sách vở giáo khoa trăm năm qua lại viết 10 năm đó ông sống tại quê vợ. Thế thì những địa danh Nguyễn Du viết trong thơ chữ Hán Thanh Hiên Thi Tập : Liễu cao lâm, Trung Châu, Giang Hán, Giang Nam, Giang Bắc, Nam Đài, Long Thủy.. nằm ở đâu ? Nguyễn Du có hư cấu tưởng tượng mình đi du lịch, lúc nằm ở Quỳnh Hải, Thái Bình không ? Thơ chữ Hán là những trang nhật ký của Nguyễn Du. Tôi sắp xếp thời gian, khung cảnh bước đường, từng trang nhật ký đó và đi Trung Quốc du lịch, nghiên cứu sách vỡ địa lý từng nơi và khám phá ra những bước chân giang hồ của Nguyễn Du : từ Thái Nguyên sang Vân Nam, đến Liễu Châu đi Trường An xuống Hàng Châu, lại lên Bắc Kinh, xuống Hoàng Châu gặp Đoàn Nguyễn Tuấn đi sứ Tây Sơn, Nguyễn Du về Long Châu và trở về Thăng Long. Ba năm yêu cô hàng xóm Xuân Hương Hồ Phi Mai nơi Gác Tía cạnh đền Khán Xuân, rồi lại về Hồng Lĩnh, bị quận công Thận Tây Sơn giam 3 tháng vì toan vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh. Nguyễn Du ra Thăng Long trong cuộc tình lỡ làng,người yêu đã đi lấy chồng anh Lang xóm Tây làng Nghi Tàm. Nguyễn Du tìm đến nhà người bạn văn chương Đoàn Nguyễn Tuấn rồi mới về Quỳnh Hải, Thái Bình cưới vợ chấm dứt 10 năm gió bụi.
Nguyễn Đại Lang tên thật là Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu, trong Hoàng Lê Nhất Thống Chí gọi là Cai Gia, gốc người Choáng (người Việt Cổ) vùng Quế Lâm, Quảng Tây, nguyên là một tay " giặc già " phản Thanh phục Minh thất bại sang Việt Nam đầu quân dưới trướng Nguyễn Khản(1734-1786), Tiến Sĩ, Thượng Thư Bộ Lại, anh cả Nguyễn Du, dùng làm tân khách (thuộc hạ) dạy võ cho các em. Nguyễn Đại Lang kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Du và có lẽ lớn tuổi hơn cả Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi) nên Nguyễn Du gọi là Đại Lang, anh cả.. Khi Nguyễn Khản làm Thượng Thư Bộ Lại (Tể Tướng) kiêm trấn Thủ Hưng Hóa và Thái Nguyên. Tại Hưng Hóa, Nguyễn Khản giao binh quyền cho con rễ Nguyễn Huy Tự (Tác giả Hoa Tiên, con Nguyễn Huy Oánh) và hai em Nguyễn Trứ, Nguyễn Nghi (tác giả Quân Trung Đối). Tại Thái Nguyên binh quyền giao cho Nguyễn Đăng Tiến quyền Trấn thủ cùng Nguyễn Du(1766-1820) và Nguyễn Quýnh(1761-1791) nắm giữ đội quân quan trọng nhất.
Theo Lê Quý Kỷ Sự của Sử Thần Nguyễn Thu :Khi Vũ Văn Nhậm, tướng Tây Sơn, ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Đăng Tiến khởi nghĩa cùng với những người Hoa sang khai mỏ tại Tư Nông, Thái Nguyên.. Tiến và người " em họ " tước Đô vũ bá (theo tôi là một tước của Nguyễn Quýnh vì có sự liên hệ cùng nghĩa giữa chức Trấn Tả Đội và tước Đô vũ) bị chỉ huy Giáo bắt được đóng cũi giải về cho Vũ Văn Nhậm. Nhậm trân trọng khí khái tha bổng và cho phép hoặc đầu hàng quy thuận dưới trướng hoặc muốn đi đâu thì đi. Từ Thái Nguyễn, Nguyễn Đăng Tiến và Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh đi ngựa sang Vân Nam vào cuối năm 1787. Đến nơi Nguyễn Du không quen khí hậu bị bệnh ba tháng mùa xuân. Hết bệnh Nguyễn Du muốn " thoát vòng trần tục " xuống tóc thành nhà sư Chí Hiên..với dự định đi Trường An và và hẹn gặp lại Nguyễn Đại Lang tại Miếu Nhạc Phi, Hàng Châu. Đến Liễu Châu hai người chia tay Nguyễn Đại Lang về Quế Lâm, chốn quê cũ thăm nhà, Nguyễn Du có 4 bài thơ tiễn biệt Nguyễn Đại Lang : một bài Lưu biệt Nguyễn Đại Lang và ba bài thơ ngũ ngôn Biệt Nguyễn Đại Lang. Các bài thơ này làm khoảng tháng tư năm 1788 , sau ba tháng mùa xuân bị bệnh và sau đó hành trình đi từ Côn Minh, Vân Nam sang Liễu Châu.. LƯU BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG
Tây phong qui tụ liễu cao lâm. Vì gió Tây ( Tây Sơn) nổi dậy nên chúng ta lưu lạc tụ hợp nhau nơi chốn Liễu Châu rừng cao nguyên. Câu thơ này cho ta suy đoán cuộc chia tay tại Liễu Châu. Liễu Châu nằm trên đường đi từ Côn Minh, Vân Nam về Quế Lâm và có nhiều đường khác đi Trùng Khánh hay đi về Nam Ninh. Gió Tây trong thơ Nguyễn Du còn có nghĩa là quân Tây Sơn.. Ông Lê Thước trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du không nghĩ đó là thị trấn Liễu Châu, nên sửa câu Tây phong qui tụ liễu cao lâm thành Tây phong liêu táp phất cao lâm (gió Tây thổi vào ống tay áo khi ra về chốn rừng liễu cao.) Uống cạn chén rượu biệt ly nói chuyện cho tới đêm khuya. Trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn.. Ở đất khách cùng bạn chia tay càng thấy bùi ngùi.. Khúc đàn cao sơn lưu thủy ai người hiểu cho. Câu thơ này cho thấy tình thân thiết giữa Nguyễn Du và Nguyễn Đại Lang hai người xem nhau như bạn tri âm tri kỷ.. Góc bể chân trời từ nay biết tìm anh ở đâu ? Còn đó mảnh trăng ở quê hương, đêm đến soi rõ chung tấm lòng hai ta.
CHIA TAY CÙNG ANH NGUYỄN Gió Tây đưa tới Liễu rừng cao, Tâm sự tàn canh chén rượu sầu. Thời loạn thân trai gươm luống thẹn, Bẹn bè đất khách lại xa nhau. Cao sơn lưu thủy ai người hiểu, Góc bể chân trời anh đến đâu ? Còn mảnh trăng vàng quê cũ đó, Đêm đêm soi rõ tấm lòng nhau. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: LƯU BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG Tây phong qui tụ Liễu cao lâm, Khuynh tận ly bôi thoại dạ thâm. Loạn thế nam nhi tu đối kiếm, Tha hương bằng hữu trọng phân khâm. Cao sơn lưu thủy vô nhân thức, Hải giác thiên nhai hà xứ tầm ? Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt. Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm.
Chú thích: Liễu cao lâm:. Nguyễn Du cùng Nguyễn Đại Lang rời vùng núi tuyết Vân Nam, đến vùng rừng cao nguyên Liễu Châu. Liễu Châu tên xưa là Long Thành. Người Trung Quốc có câu: lấy vợ Tô Châu, sống ở Hàng Châu, ăn ở Quảng Châu và chết ở Liễu Châu. Lấy vợ ở Tô Châu vì Tô Châu có nhiều cô gái đẹp nuôi tằm dệt lụa, cuộc sống ở Hàng Châu êm đềm, Hàng Châu là một thủ đô văn hóa, kinh tế hàng đầu Trung Quốc ngày xưa, cuộc hạnh phúc, có cảnh đẹp với Tây Hồ. Quảng Châu là nơi nổi tiếng nhiều món ăn ngon, và Liễu Châu rừng gỗ quý nam mộc, gỗ tốt để đóng quan tài. Liễu Châu nổi tiếng có nhân vật Liễu Tông Nguyên(773-819), một nhà thơ, nhà cải cách chính trị đời Tống, ông làm thứ sử Liễu Châu và mất nơi đây năm 47 tuổi. Ông viết chuyện nổi tiếng người bắt rắn độc để tố cáo quan lại hà khắc hại dân hơn cả rắn độc. Liễu Châu có dòng sông Liễu Giang chảy qua. Câu nói này không biết ngày nay còn ý nghĩa không vì tại Tô Châu ngành dệt lụa nuôi tầm tập trung trong một công xưỡng kỹ nghệ to lớn để mời khách du lịch tham quan và móc túi mua hàng, dọc bờ kinh thuyền du khách đi qua năm 2009, các cô gái Tô Châu không còn giặt lụa, tôi chỉ thấy các cô gái đẹp giặt xì líp, sú chiên treo trước mũi du khách.. Ăn cơm Tàu ngon bây giờ chắc phải ăn ở Vancouver hay San Francisco.. Các công ty du lịch Trung Quốc, đi khắp các nơi danh tiếng các khách sạn 4, 5 sao, bữa nào cũng cho ăn mười món, xào nấu dầu mỡ giống nhau, ăn mười lăm ngày thì sợ.. cơm Tàu.
Cao sơn lưu thủy: sách Liệt Tử chép chuyện hai người bạn tri âm Bá Nha, Tử Kỳ. Khi Bá Nha đàn nghĩ đến núi cao, dòng nước chảy Tử Kỳ đều hiểu cả.. Cao sơn lưu thủy là vùng Quế Lâm có sông Lý Giang chảy qua các núi đá vôi, nơi các họa sĩ vẽ tranh thủy mạc, người Trung Quốc có câu: Quế Lâm cảnh đẹp nhất trần gian. Dãy núi đá vôi này chạy dài cho đến Vịnh Hạ Long nước ta... Nơi đây là quê hương dân tộc Choáng (Tráng), hiện nay còn 15 triệu, là người Việt (Bách Việt) cổ thời Việt Vương Câu Tiễn, Triệu Đà vẫn giữ nguyên phong tục, chữ nôm, trống đồng, câu đối đỏ trước nhà, làng mạc với lũy tre làng, trồng lúa nước cày cấy, không đồng hóa với người Trung Quốc.. Tôi đã đến thăm vùng này năm 2009, một vùng hoàn toàn khác hẵn với các vùng khác ở Trung Quốc. Một mảnh Việt Nam cổ trên đất nước Trung Quốc. Tiếc thay ngày nay chúng ta chưa có nhiều những nghiên cứu về dân tộc Choáng, chữ viết của họ giống như chữ Nôm, 15 triệu dân, họ là người thiểu số đông dân nhất không bị đồng hóa Trung Quốc. Đến đây mới hiểu được vì sao vua Quang Trung ngày xưa muốn đòi vua Càn Long hai tỉnh Lưỡng Quảng.
Giang Nam: là lòng nhớ quê hương do bài Ai Giang Nam phú của Dữu Tín, người Nam Bắc Triều làm quan lâu ngày nhớ quê hương làm ra bài này.
BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG
Bài I. Nguyễn Du tiễn Nguyễn Đại Lang qua sông Liễu Giang đi về quê Quế Lâm. Tôi cũng sắp sang sông đây, tiễn anh về quê cũ. Cả đất trời anh còn mái nhà tranh. Khi mưa gió tôi nằm trong chiếc thuyền đơn côi (Nguyễn Du sẽ đi chủ yếu là đường sông Giang Nam rồi Giang Bắc). Đêm thu rồng cá ẩn nấp. Rừng sâu hươu nai nhởn nhơ. Ngày vui sẽ không xa lắm nữa. sẽ gặp nhau ở Trung Châu. Trung Châu là vùng hạ lưu sông Hoàng Hà, sông Dương Tử nơi phát xuất nền văn minh Hoa Hạ, Trung Hoa. Người xưa ví vùng này như cái lòng đỏ trứng gà. Trung Châu có các thành phố lớn như Lạc Dương, Trịnh Châu, Khai Phong, Hàng Châu, Tô Châu.. Các văn bản Thơ Chữ Hán Nguyễn Du của Lê Thước, Đào Duy Anh, Bùi Hạnh Cẩn, Mai Quốc Liên biên soạn chú thích: Trung Châu là Hà Nội, Thăng Long. Nhưng xưa nay chẳng ai gọi Thăng Long là Trung Châu cả, chỉ có Trung Du là vùng Phú Thọ. Do đó Trung Châu là một địa danh một vùng Trung Quốc chứ không ở Việt Nam.
BÀI I Bến sông này tôi qua, Tiễn anh về quê nhà. Đất trời anh mái cỏ, Thuyền côi tôi gió mưa. Rồng cá đêm thu ẩn, Hươu nai đùa rừng xa. Ngày vui không xa lắm, Gặp nhau Trung Châu mà.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: BIỆT NGUYỄN ĐẠI LANG BÀI I
Ngã tả phù giang khứ, Tống quân qui cố khâu. Càn khôn dư thảo ốc, Phong vũ túc cô chu. Thu dạ ngư long trập, Thâm sơn mi lộc du. Hưu kỳ bất thâm viễn, Tương kiến tại Trung Châu.
Chú thích Rồng cá đêm thu ấn: lấy ý từ câu thơ Đỗ Phủ.
BÀI II Tiễn anh về quê cũ vùng Quế Lâm, Tôi cũng sẽ đi sang sông Giang Hán ( Nguyễn Du sẽ đi đường Trường Sa qua Động Đình Hồ đến Vũ Hán và theo sông Hán, và đi một đoạn đường bộ đến Trường An). Nghìn dậm dù vắng tin tức nhau, nhưng lòng tôi vẫn nhớ anh. Đêm đen tiếng gầm hổ sói, Đêm trăng sáng cánh hồng nhạn bay. Đôi ngã thường mong tin tức của nhau, lòng như đám mây bay mãi.
II Tiễn anh về quê cũ Tôi sang sông Hán đây. Nghìn dậm dù tin vắng, Một lòng nhớ hao gẩy. Đêm đen gầm hổ sói, Trăng sáng hồng nhạn bay. Đôi ngã thường mong ngóng, Bay bay hoài ngàn mây. Nguyên tác phiên âm Hán Việt: Tống quân qui cố khâu Ngã diệc phú Giang Hán, Thiên lý bất tương văn, Nhất tâm vị thường gián. Dạ hắc sài hổ kiêu, Nguyệt minh hồng nhạn tán. Lưỡng địa các tương vương, Phù vân ưng bất đoạn.
Giang Hán: còn gọi là Hán Thủy hay Hán Giang. Sông Hán là con sông trên đường tới Trường An, sông dài nhất 1532 km nằm tả ngạn sông Dương Tử (Tràng Giang), bắt nguồn từ tỉnh Thiễm Tây tiếp nhận nước từ các sông Tư Thủy Hà, Đỗ Hà, Đan Long, Đường Bạch Hà; Sông chảy trên bình nguyên Giang Hán, chảy vào sông Dương Tử tại Vũ Hán, chia thành phố làm 3 khu vực: Vũ Xương, Hán Khẩu, Hán Dương. Nơi đây có lầu Hoàng Hạc, Nguyễn Du có đề thơ. . Bài III. Anh về quê cũ rồi tôi cũng đi, hai ta cùng trong buổi loạn lạc. Tình bạn đã thề nguyền sống chết vẫn giữ nguyên. Nguyễn Du và Nguyễn Đại Lang có làm lễ kết nghĩa ăn thề sống chết có nhau, tồn vong cùng có nhau câu này ám chỉ hai người cùng khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Tư Nông, Thái Nguyên, cùng bị bắt và cùng được tha.. Dưới trăng cổng sài thô bỏ ngõ. Trong gió thu chiếc nón rách long đong. Nghìn dậm từ nay không còn thấy nhau. Chỉ thấy mây trôi mù mịt trong trời.
III Anh về tôi cũng đi, Hai ta buổi loạn ly. Sinh tử tình xưa vẹn, Tồn vong cùng khổ khi.. Cổng sài lòng trăng đợi, Nón rách gió thu lay. Nghìn dậm không thấy nữa, Mịt mù trời mây bay. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: III. Quân qui ngã diệc khứ, Các tại loạn ly trung. Sinh tử giao tình tại, Tồn vong khổ tiết đồng. Sài môn khai dạ nguyệt, Tàn lạp tẩu thu phong. Thiên lý bất tương kiến, Phù vân mê thái không.
Chú thích: Sinh tử: ngày xưa hai bạn trai kết nghĩa ăn thề làm anh em sinh tử có nhau, rót hai chung rượu, chén sinh và chén tử, mỗi người cắt nhỏ ba giọt máu vào mỗi chung, rồi xưng tên, đọc lời thề nguyền khấn hoàng thiên hậu thổ sống chết có nhau, nếu sai lời sẽ bị trừng phạt..
Qua bốn bài thơ chia tay với Nguyễn Đại Lang, ta thấy tình nghĩa rất đậm đà. Nguyễn Du mất chanăm 10 tuổi, mất mẹ mẹ sớm năm 12, ở với ông anh Nguyễn Khản, tuổi anh ông còn hơn mẹ ông một tuổi. Khi Nguyễn Du 15 tuổi thì ông anh bị giam hai năm trong vụ án Trịnh Tông. Khi Trịnh Tông lên ngôi chúa ông được làm Tham Tụng Thượng Thư Bộ Lại nắm giữ triều chính chẳng bao lâu thì kiêu binh phá tan dinh thự, Nguyễn Khản phải chạy trốn lên Sơn Tây với Nguyễn Điều. May mắn thay lúc ấy Nguyễn Du sau khi đỗ Tam Trường ở Sơn Nam, được Nguyễn Khản bổ nhiệm đang làm Chánh Thủ Hiệu quân Hùng Hậu hiệu ở Thái Nguyên, không thì chẳng thoát với bọn kiêu binh..
Sử Thần Nguyễn Thu trong Lê Quý Kỷ Sự tr 33 có chép những ngày cuối cùng của Nguyễn Khản năm 1786, bàn mưu đánh quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy ra Bắc lần thứ nhất cùng Nguyễn Hữu Chỉnh:
Cựu Tham tụng Nguyễn Khản từ Nghệ An về kinh, khuyên: "Nhà chúa nên sai tướng ở lại đóng giữ kinh thành, còn chúa thì rước vua Lê đi Sơn Tây, khống chế miền thượng du để mưu tính cử sự sau này. Và thả phao nổi ở khúc sông thuộc bãi Tự Nhiên (Thường Tín, Hà Tây) để cản thuyền địch. Còn hai bên bờ sông thì đóng binh xen lối " vẩy sộp"(hai hàng song song xen kẻ nhau), để phòng ngừa có sự xổng xểnh. Lại nên chiêu dụ bọn giặc cướp ở mặt thủy, ban chức tước cho chúng để chúng quấy rối phía sau thủy sư của Tây Sơn. " Giặc" nêu danh nghĩa tôn phù, nhưng một khi không được yết kiến vua Lê thì tiến hay lùi cũng đều không lợi, bấy giờ quân thì mệt mỏi, lương thì cạn, "giặc " tất không thể ở lại lâu được. Ta lại cho chạy thư đi các hào mục ở Thanh, Nghệ dặn họ đón chặn lối giặc rút về, thì dù chưa thể bắt sống được Huệ, nhưng cũng đủ làm cho "giặc" thiệt hại nặng nề, chứ nếu chiến đấu với giặc bây giờ thì kiêu binh tất không dùng đưọc: hể thua sạch một trận, việc nước hỏng mất. "
Nhà chúa toan làm theo kế đó, nhưng kiêu binh hợp nhau, ồn ào ầm ỷ, cho rằng Nguyễn Khản đưa "giặc" đến, rồi chúng mưu toan giết Khản. Khản phải cướp đường chạy đi SơnTây. Nguyễn Khản mất sau đó, bị cảm bệnh mất, linh cửu được đưa về làng Tiên Điền Hà Tỉnh.
Do hoàn cảnh này, gia phả chép "Nguyễn Du lấy vợ năm 17 tuổi, và sau khi nhà Lê Trịnh sụp đổ về sống quê vợ", điều này không đúng vì giữa lúc người trụ cột gia đình là anh Nguyễn Khản bị tù tội khốn đốn, vừa mới lên làm Tham tụng lại chẳng yên cho đến khi mất, cha mẹ Nguyễn Du đều mất, thì ai đi cưới vợ cho Nguyễn Du đây ? Các bài thơ tại Quỳnh Hải, Nguyễn Du đều nói mình "Góc biển chân trời 30 tuổi ".Đó là năm 1796, Nguyễn Du 30 tuổi chấm dứt mười năm gió bụi. Do đó Nguyễn Du cưới vợ năm 30 tuổi do Nguyễn Nể và Đoàn Nguyễn Tuấn thu xếp. Ông cha nuôi họ Hà, không biết có bà con gì với mẹ Hồ Xuân Hương cũng họ Hà ở Hải Dương, không thấy Nguyễn Du nói gì đến. Nhưng tình cảm Nguyễn Du đối với Nguyễn Đại Lang thì như người anh, người cha, gần gũi thân thiết, dạy võ và 18 thứ binh khí, binh thư cho Nguyễn Du, hướng dẫn Nguyễn Du những bước đi đầu đời. Có thể so sánh tình yêu thương giữa Nguyễn Đại Lang với Nguyễn Du như chuyện tướng già Phénix với Achille trong Sử thi Iliade (Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh. Sử thi Iliade thi hào Homère. Khuê Văn Paris 2009.. câu:5691 đến 5890 trang 172-178)
Trong Lê Quý Kỷ Sự ta còn thấy tên Quản Vũ Hầụ tức Nguyễn Đăng Tiến, Cai Gia, Nguyễn Đại Lang trong trận đánh quân nhà Trịnh với Nguyễn Hữu Chỉnh, trong trận này Phan Huy Ích bị bắt, và Quản Vũ Hầu trốn thoát . Trang 57: Tự hoàng (vua Lê Chiêu Thống) sai quyền phủ Nguyễn Trứ (anh em khác mẹ với Nguyễn Du) mật dụ phiên mục Hưng Hóa là bọn Đinh Công Hồ và Đinh Công Trinh dấy quân vào quân vệ (bảo vệ hoàng thành để gìn giữ cho nhà vua).
CHIA TAY NGUYỄN SĨ HỮU
Nguyễn Đại Lang về quê thăm nhà Quế Lâm sau bao năm sinh cư lập nghiệp ở Việt Nam. Nguyễn Sĩ Hữu muốn về Hồng Lĩnh khởi nghĩa chống Tây Sơn. Nguyễn Du muốn đi giang hồ phiêu du khắp Trung Quốc như Lý Bạch thời trai trẻ nên đành chia tay với anh. Bài Nguyễn Sĩ Hữu qui nam viết: Núi Nam có con chim ngậm tinh hoa, bay đi bay lại xem thường lưới dăng, nay trở về vùng Hồng Lĩnh. Núi Hồng từ nay có người về làm chủ. Hồng Lĩnh non cao đà có chủ, nghĩa là về khởi nghĩa làm chủ Hồng Lĩnh. Vậy Sĩ Hữu chính là Nguyễn Quýnh. Sĩ Hữu đối với chức Tả Đội, là người văn võ song toàn, Tả là võ tướng, hữu là kẻ sĩ.. Theo Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền : Nguyễn Quýnh tục gọi là Luyện, con trai thứ tư cụ Nguyễn Nghiễm và mẹ là bà Nguyễn thị Xuyên. Ông sinh năm 1761, hơn Nguyễn Du 4 tuổi. Năm 20 tuổi ông thi Hương đậu Tam Trường khoa Kỷ Hợi (1779) đời Cảnh Hưng vua Lê Hiển Tông. Giữ chức Trấn Tả Đội Thái Nguyên, nơi anh Thượng Thư Bộ Lại Nguyễn Khản kiêm Trấn Thủ Hưng Hóa và Thái Nguyên..Năm 1787 ông âm mưu kết nghĩa sĩ chống Tây Sơn, bị Trấn Thủ Tây Sơn là Lê Văn Dụ bắt, ông không chịu khuất phục nên bị giết năm ông tròn 30 tuổi (1791). Cả làng Tiên Điền bị làm cỏ.( Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Lê Thước, Trương Chính biên soạn. Văn Học Hà Nội 1965, tr 21.)
Phan Huy Ích trong Dụ Am ngâm lục nxb KHXH Hà Nội 1978, tập II. tr 60,68,84 có kể sự việc người em cũng khởi nghĩa trong vùng Nghệ An : Đầu mùa Đông năm Tân Hợi (1791) người em út, thứ năm tên là Hữu Trấn khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Hoan Lý, nhưng không thành trốn thoát vào rừng, mùa hè năm Quý Sửu (1793) quân Trấn Thủ Nghệ An lùng bắt được đem hành hình. Thi thể đưa về chôn ở khu dinh cũ. Phan Huy Ích đi sứ Tây Sơn sang nhà Thanh về, đang làm quan ở Bắc Thành lòng nơm nớp lo sợ dâng biểu trần tình tạ tội, nhận được chiếu truyền Vua Quang Trung: Tính người ta thiện ác khác nhau, cha còn chả vừa lòng được với con, huống chi anh với em, việc đã không dính líu đến, thì còn hiềm gì, và cho vào kinh triều kiến. Khi vào chầu lại được tới trước mặt căn dặn ân cần.
Theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí sđd tr 379, 381, 382 cùng thời điểm với cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh chống Tây Sơn còn có những cuộc khởi nghĩa khác: Duy Chỉ (1789-1790) em thứ ba vua Lê Chiêu Thống ở Cao Bằng Tuyên Quang, Thái Nguyên, Nghệ An. Lê Ban ở Nghệ An. Trần Danh Bính ở Nghệ An. Trần Quang Châu ở Hải Dương Kinh Bắc. Dương Đình Tuấn ở Bắc Giang, Nguyễn Phủ ở Bắc Ninh, Phạm Đình Đạt ở Bắc Ninh nhưng cuối cùng đều bị Tây Sơn dẹp tan..
Nguyễn Du khâm phục anh Nguyễn Quýnh, nhưng lòng chỉ muốn đi khắp đó đây như thi hào Lý Bạch, như các nhà sư Thiếu Lâm đi giang hồ hành đạo, mở rộng tầm mắt, không ràng buộc trong danh lợi, dù đầu bạc cũng chưa về nhà. Văn chương trong thời loạn ly chẳng dùng làm gì, như chim phượng hoàng trong lồng nát. Công danh ư, triều đình Lê Trịnh đã sụp đổ, chúa Trịnh Bồng cũng thành Hải Đạt Thiền sư, mai danh ẩn tích đi đó đây, thì còn công danh với ai ? Anh trở lại quê nhà trăng thanh gió mát. Còn nghĩ đến trời xa, trong giấc mộng người em còn phiêu du đó đây.
TIỄN NGUYỄN SĨ HỮU VỀ NAM Núi Nam chim lạ ngậm tinh hoa, Bay lại bay đi khinh võng la, Hồng Lĩnh non cao đà có chủ, Bạc đầu vô lại chẳng về nhà. Văn phong tựa phượng trong lồng nát Danh thế rắn bò tuột hang xa. Trở lại quê xưa trăng gió mát, Song trưa chẳng mộng đến trời xa. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: TỐNG NGUYỄN SĨ HỮU NAM QUI Nam sơn hữu điểu hàm tinh hoa, Phi khứ phi lai khinh võng la. Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ, Bạch đầu vô lại bất hoàn gia. Sinh bình văn thái tàn lung phượng, Phù thế công danh tẩu hác xà. Qui khứ cố hương hảo phong nguyệt, Ngọ song vô mộng đáo thiên nha.
Chú thích : Nam sơn : núi ở phương Nam Lúc làm bài thơ này Nguyễn Du đang ở phương Bắc vùng Liễu Châu.
Võng la : do chữ thiên la địa võng, lưới giăng khắp trời đất
Tàn lung phượng : phượng trong lòng nát, người giỏi văn chương mà phải sống vất vả, lưu lạc giống như chim phượng ở trong lồng mục nát.
Tẩu hát xá : rắn chạy nấp trong hang. Công danh vuột khỏi tầm tay.
Paris 12-1-2013 PTC *Tiến Sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V. Sorbonne.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 9:42:12 GMT 9
Nguyễn Du : Nhà sư Chí Hiên "Giang Bắc Giang Nam cái túi không" ( 1788 - 1790 ) TS Phạm Trọng Chánh
TÓM LƯỢC CÁC BÀI TRƯỚC: Nguyễn Du gọi cuộc đời từ năm 20 đến 30 tuổi (1786-1796) là "Mười năm gió bụi ", nhưng gia phả lại chép Nguyễn Du về quê vợ. Nếu Nguyễn Du về Quỳnh Hải có vợ con thì có gì đâu là gió bụi ? Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những trang nhật ký chứa đựng nhiều bí ẩn. Có những bài thơ làm ở Trường An, Hàng Châu không nằm trên đường đi sứ năm 1813 ? Có những nhân vật Nguyễn Đại Lang, Sĩ Hữu là ai ? Có những địa danh Trung Châu,Giang Nam, Giang Bắc, Giang Hán, Liễu cao lâm, Nam Đài, Long Thủy, không có ở Việt Nam ? Có những trưởng giả ăn mặc theo nhà Hán, không theo lịch nhà Tần. Và cả khí hậu tả cảnh tuyết, lá vàng, tiếng tù và.. không có ở Việt Nam. Vậy thì Nguyễn Du đi đâu, ở đâu trong 10 năm ấy. Tác giả sắp xếp lại những trang nhật ký, theo ngày tháng sự kiện lịch sử, và đi du lịch Trung Quốc, tham khảo sách vở các địa danh. Khám phá ra cuộc đời giang hồ Nguyễn Du trong mười năm gió bụi, một cuộc tình ba năm với Hồ Xuân Hương, những khám phá bất ngờ làm đảo lộn sách vở giáo khoa trăm năm qua. Tố Như không phải là bút hiệu Nguyễn Du mà chỉ có nghĩa là "người đẹp tài sắc như nàng Tiểu Thanh". Khi tướng Tây Sơn, Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh. Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu tức Cai Gia, tức Nguyễn Đại Lang, quyền trấn Thủ Thái Nguyên, thay anh Nguyễn Du, Thượng Thư Bộ Lại Nguyễn Khản khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Tư Nông, Thái Nguyên, chiến đấu với chỉ huy Giáo bị thua trận, bị bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm. Nhậm trọng khí khái, tha chết và cho tùy ý đi đâu thì đi. Nguyễn Đăng Tiến cùng Nguyễn Quýnh, Nguyễn Du thoát chết lên đường đi Vân Nam. Đến nơi Nguyễn Du bị bệnh ba tháng xuân, sau khi khỏi bệnh Nguyễn Du muốn thoát vòng trần tục, thành nhà sư Chí Hiên. Cả ba tiếp tục lên đường và chia tay tại Liễu Châu. Nguyễn Du hẹn gặp lại Nguyễn Đại Lang tại Trung Châu.
Nguyễn Đại Lang về quê hương cũ ở Quế Lâm. Nguyễn Sĩ Hữu về " làm chủ " Hồng Lĩnh. Nguyễn Du không về Nam Ninh gặp vua Lê Chiêu Thống mà lên thuyền theo sông Liễu Giang, Quảng Tây rồi đi ngược lên Động Đình Hồ đến Hán Khẩu theo thuyền sông Hán đến Trường An.
Nguyễn Du, mang danh hiệu Chí Hiên, danh hiệu Nguyễn Du dùng cho đến năm 1796, ký tên hai bài thơ tặng Hồ Xuân Hương, lưu lại trong Lưu Hương Ký. Nguyễn Du làm thế nào, không tiền mà đi giang hồ Giang Nam, Giang Bắc, đi Trường An, Hàng Châu. Đội mũ vàng, đi muôn dậm, lại đọc kinh Kim Cương nghìn lượt trong ba năm ? Bài viết này đi vào từng bài thơ, những trang nhật ký của Nguyễn Du, ba năm giang hồ Trung Quốc, thoát vòng trần tục, theo gương Lý Bạch tuổi trẻ đi chu du khắp Trung Nguyên, và dừng lại ở Hàng Châu, miếu Nhạc Phi nơi hò hẹn cùng Nguyễn Đại Lang. Nơi đây Nguyễn Du cư ngụ tại chùa Hổ Pháo cũng bên bờ Tây Hồ, nơi Từ Hải tức Minh Sơn Hoà Thượng từng tu hành. Tại Hàng Châu năm 1790, 24 tuổi Nguyễn Du có được bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Nguyễn Du thôi đọc Kinh Kim Cương vì "Lòng ta thường định chẳng xa thiền." Từ đây Kim Vân Kiều trở thành quyển sách bên mình Nguyễn Du và miệt mài diễn ca thành thơ nôm để mua vui cũng được một vài trống canh. Nhà sư Chí Hiên đầu đội mũ vàng nhà sư (Muôn dậm mũ vàng chiều nắng xế). Các chú thích ông Lê Thước trong Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, cho rằng mũ hoàng quang là mũ đạo sĩ, điều này không đúng, vì đạo sĩ mặc áo trắng, đội nón trắng. Nho sĩ mặc áo xanh biển, thì cũng đội mũ xanh, nhà sư mặc áo vàng, đội mũ vàng, hay mũ nâu. Hoàng quan do câu : Hoàng quan qui cố hương của Văn Thiên Trường, khi bị vua Mông Cổ bắt, muốn chiêu dụ ra làm quan, ông từ chối chỉ muốn thoát vòng trần tục về quê hương qui ẩn. Xem phim bộ Hương Cảng, Trung Quốc, Đài Loan ngày nay, họ nghiên cứu kỹ quần áo cách ăn mặc ngày xưa, chẳng thấy có một đạo sĩ nào mặc đồ trắng, đội nón vàng cả. Nguyễn Du đi 10 000 dậm. Một dậm khoảng nữa cây số, Nguyễn Du đi khoảng 5000km, đường từ Vân Nam đến Liễu Châu đi Trường An, xuống Hàng Châu, để đi giang hồ khoảng đường này Nguyễn Du phải mất 3 năm. Đường xá ở Trung Quốc ngày xưa, cứ 10 dặm hoặc 4,5 dặm đặt một sở, gọi là " đường", có binh lính canh gác, mỗi đường có ba tòa báo hiệu lửa, xây bằng gạch trên nhọn dưới vuông, giữa trống, khi có sự cấp báo, thì đốt lửa để khói bốc lên làm hiệu, tàn trắng như tuyết, tung bay khắp,cả, gọi là hỏa đài.(Theo Ngô Thời Nhậm, Thơ, Văn Học. Hà Nội 1986. tr 149.) Đường thủy có kinh Đại Vận Hà đào thời nhà Tùy- Đường chạy từ Bắc Kinh tới Hàng Châu, nối liền các con sông. Các sứ đoàn nước ta đi Bắc Kinh đi nhiều đoạn bằng đường sông. Trên sông tấp nập ghe thuyền buôn bán. Đi nhờ các thuyền buôn, nhà sư đi không ai lấy tiền, lại cúng dường món chay (Hết ở ăn nhờ biển đến sông). Hành trang trong túi vải là quyển Kinh Kim Cương Chú Giải của Lê Quý Đôn. Quyển sách nhà chùa Thăng Long khắc bản ấn hành được giới sĩ phu Bắc Hà thời bấy giờ yêu chuộng làm kinh gối đầu. Tam Nguyên Bảng Nhản Lê Quý Đôn là một trí thức lớn nước ta, hàng trăm năm mới có một người như thế, chết được chúa Trịnh để tang cho bãi chầu ba ngày, trong triều đình có 14 vị quan đại thần là học trò Lê Quý Đôn, chuyện hiếm có xưa nay, thì một thanh niên 18, 20 tuổi, mang bên mình cuốn sách của " thần tượng " mình là chuyện thường tình. Nhà sư mang cả thanh trường kiếm trong túi vải trên lưng, như truyền thống các nhà sư Thiếu Lâm xuống núi hành đạo, cứu đời chống bọn cướp bóc, các thương thuyền càng thêm kính nể. Khi thương thuyền có người đau ốm, hay việc trắc trở qua ghềnh thác, chủ thuyền nhờ nhà sư làm lễ tụng cho bài kinh cầu an. Khi mua hàng thì nhà sưở Trung Quốc cũng làm lễ rảy nước cành dương cho mua may bán đắt.. Đi một đoạn đường gặp một ngôi chùa, nhà sư từ giã thương thuyền đi ngao du thắng cảnh, tối về chùa tụng kinh Kim Cương làm công quả, bữa ăn rau đậu nhà chùa thết đãi không sợ đói.(Tôi đọc kinh Kim Cương nghìn lượt. Bài Phân Kinh Thạch Đài). Mỗi ngày tụng một lần, nghìn lượt, một năm 365 ngày nhân ba, cộng với thời gian ba tháng bị bệnh. Nguyễn Du đi giang hồ trong áo mũ nhà sư trong ba năm. 1788, 1789,1790. Đến ở một ngôi chùa khi đã chán cảnh rồi thì lại lên đường đi tiếp, khi đi theo sông, khi đi nhờ thuyền. Nhắm hướng Trường An thẳng tới. Trường An là kinh đô các triều đại Hán, Tùy, Đường, đến Trường An là một mơ ước của các sĩ phu khi đọc sách sử Trung Quốc ngày xưa.
BÀI MẠN HỨNG I.
Nguyễn Du viết : Thân thế trăm năm phó mặc gió bụi, hết ăn nhờ miền sông lại đến miền biển. Đã lâu rồi không còn hào hứng với giấc mộng gác vàng (ra làm quan), hư danh chưa buông tha cho đến khi bạc đầu. Ba tháng xuân ốm bệnh nghèo không có thuốc ( Nguyễn Du ở ba tháng ở Vân Nam, trong nhà một thầy thuốc (Trúc thưa vườn thuốc lạnh hơi xuân. Sơn Cư mạn hứng). Một kiếp phù sinh có thân nên có mối lo. Ở xa cách quê hương ngàn dậm lòng nhớ quê nhà. Nếu Nguyễn Du đang ở Quỳnh Hải hay Hà Tĩnh không thể viết mình nhớ quê hương ngàn dậm được. Thẹn cùng anh hàng xóm có ngựa xe rong. Chắc Nguyễn Du đã bán con ngựa cỡi đi từ Thái Nguyên để trả tiền thuốc ba tháng bệnh thì mới còn sống sót mà viết Truyện Kiều, đi chơi bằng thuyền "miễn phí" mà mang ngựa theo thì hơi khó, lại phải có tiểu đồng đi theo lo dẫn ngựa ăn cỏ như Kim Trọng, Theo sau có một vài thằng con con, chăm sóc cho ngựa trong lúc Chàng Vương quen mặt ra chào, Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa. Lên thuyền mà đem theo ngựa chẳng ai cho đi không ! Tại Trường An trong khu vực chùa Đại Nhạn, tôi thấy có một khu bảo tàng sưu tập các trụ cột ngựa, rất đẹp, chạm khắc rất phong phú, chứng tỏ các nhà giàu Trung Quốc ngày xưa có ai cũng có ngựa, và trước nhà trụ cột ngựa cho khách tới viếng thăm. Sau khi gặp lại Nguyễn Đại Lang tại Trung Châu, có lẽ được ông anh kết nghĩa chu cấp, thơ Đoàn Nguyễn Tuấn tả công tử Nguyễn Du tại Hoàng Châu, Hà Bắc đi xe song mã " đời mới " chạy về Nam và ở lữ quán "sang trọng" như phái đoàn đi sứ Tây Sơn.
MẠN HỨNG I Trăm năm thân thế mặc phong trần, Hết ở ăn nhờ biển đến sông. Giấc mộng gác vàng thôi cạn hứng, Bạc đầu chưa bỏ được hư danh. Ba xuân ốm bệnh nghèo không thuốc, Một kiếp phù sinh hoại tấm thân. Ngàn dậm quê hương vời vợi nhớ, Thẹn cùng hàng xóm ngựa xe rong. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: MẠN HỨNG I Bách niên thân thế ủy phong trần, Lữ thực giang tân, lại hải tân. Cao hứng cửu vô hoàng các mộng, Hư danh vị phóng bạc đầu nhân. Tam xuân tích bệnh bần vô dược, Táp tải phù sinh hoạn hữu thân. Dao ức gia hương thiên lý ngoại, Trạch xa đoạn mã qui đông lân.
Chú thích: Hoàng các mộng: mộng gác vàng, mộng làm quan to. Cửa công đường thừa tướng thường sơn màu vàng , tích Đỗ Như Hối làm Tể tướng đời nhà Đường ba chục năm, lo cho dân nước. Hoàng các tam thập niên, thanh phong tiên vạn cổ. Gác vàng ba mươi năm mà thơm bia muôn đời.
Hoạn hữu thân: mối lo có thân. Lão Tử nói : Ta có mối lo lớn vì ta có thân.
Trạch xa đoạn mã: xe ngắn ngựa đi đủng đỉnh. Ý nói an nhàn ở nơi làng mạc, không cầu công danh.
BÀI MẠN HỨNG II
Nguyễn Du viết: Chân không bén rễ mặc gió bay như ngọn cỏ bồng. Một chiếc túi rỗng không đi hết Giang Nam lại Giang Bắc , Trung Quốc. Cuộc đời trăm năm, không đi đó đây chẳng lẽ nằm nhà chết xác với văn chương trong sách vỡ. Tấm thân sáu thước sống lênh đênh trong vòng trời đất. Đội mũ vàng nhà sư đi muôn dậm, từ sáng cho đến khi trời xế chiều. Vì Tây Sơn ra Bắc nên phải lưu lạc, nhiều lo lắng đến bạc tóc. Bao nhiêu chuyện kim cổ các nơi đã đi qua gợi bao chuyện đau lòng. Nguyễn Du đã đi qua sông Mịch Giang nơi Khuất Nguyên trầm mình còn để lại lời thơ Ly Tao bất tử, nơi Văn Thiên Tường tử tiết chống nhà Nguyên Mông Cổ mà tấm lòng son còn lưu lại với sử xanh, qua Lỗi Dương mộ Đỗ Phủ, qua Thanh Liên quê hương Lý Bạch.. Mỗi một nơi đều có vết chân người xưa, dấu tích những danh nhân Trung Quốc mà Nguyễn Du chỉ biết trên sách sử bao nhiêu chuyện vui buồn.. Chỉ có dãy núi xanh là xanh mãi trong nắng xế hồng.
MẠN HỨNG II Không rễ chân như ngọn cỏ bồng, Giang Nam, Giang Bắc túi tiền không. Văn chương nát với trăm năm đó, Trời đất nổi trôi sáu thước thân. Muôn dặm mũ vàng trời xế bóng, Một đầu tóc bạc gió Tây tung. Gợi bao nhiêu chuyện buồn kim cổ, Non cũ xanh xanh nắng xế hồng. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: MẠN HỨNG II Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng. Giang Nam, Giang Bắc nhất nang không. Bách niên cùng tử văn chương lý, Lục xích phù sinh thiên địa trung. Vạn lý hoàng quan tươngmộ cảnh, Nhất đầu bạch phát tản tây phong. Vô cùng kim cổ thương tâm xứ, Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng.
Chú thích: Giang Nam: vùng phía Nam sông Trường Giang (Dương Tử) Thượng Hải, Giang Tô, An Huy. Giang Bắc: vùng phía Bắc sông Dương Tử.
Lục xích: sáu thước, thước ngày xưa ngắn, sáu thước tương đương 1m 65 ngày nay.
Vạn lý: ngàn dậm, Vạn Lý Trường Thành dài khoảng 5000km.
Hoàng quan:Văn Thiên Tường, trạng nguyên, tể tướng nhà Tống, đi sứ sang Nguyên để cầu hoà, bị thừa tướng nhà Nguyên giữ lại, sai Toa Đô dụ dỗ, ông không chịu khuất phục. Thiên Tường đóng quân ở núi Ngũ Pha, Trương Hoàng Phạm đến đánh lén bắt được, đưa về giam ở Yên Kinh. Vua Nguyên giữ Văn Thiên Tường ở Yên Kinh ba năm, sai Vương Tích Ông dụ dỗ. Thiên Tường nói: "Nguyện được nhà vua khoan thải, cho đội mũ vàng trở về cố hương" (hoàng quan qui cố hương). Đội mũ vàng là dứt bỏ mọi danh vọng. Nguyễn Du "ước gì muốn thoát vòng trần tục", đội mũ vàng nhà sư đi giang hồ khắp nơi.
Trong Bắc Hành Tạp Lục có bài thơ Vọng Tương Sơn Tự, có câu Cô Chu giang thượng bằng lan xứ, trên chiếc thuyền cô đơn, đứng dựa mạn thuyền ngắm cảnh. Nguyễn Du đi một mình hay đi với sứ đoàn 27 người, mà đứng ngắm cảnh chùa một mình. Phan Huy Ích trong Tinh Sà Ký Hành tr 33 tả: " Thuyền sứ qua các phủ thành, quan sở tại dựng thủy đình ở bến sông, bố trí cả nhạc cụ và yến tiệc. Mỗi đêm khi qua các đình bên sông thì ở đó thắp đèn đuốc sáng rực, ánh sáng rọi lên tận trăng sao." Nếu bài thơ này làm năm 1813 lúc đi sứ thì Nguyễn Du không thể ở trên một chiếc thuyền cô đơn ngắm cảnh chùa một mình. Do đó tôi cho rằng bài này Nguyễn Du viết năm 1788 khi đi giang hồ một mình qua chùa Tương Sơn ở Quảng Tây. Chùa Tương Sơn là nơi trụ trì cuối cùng và nhập diệt của nhà sư Trần Huyền Trang (Tam Tạng) đời Đường sang Ấn Độ thỉnh kinh. Sinh năm 602 ở Hồ Nam. Huyền Trang rời Trường An năm 25 tuổi (năm 627) với mục đích đến tận nguồn gốc xứ Phật để sưu tập kinh điển, vượt qua bao gian khổ đi theo con đường tơ lụa, qua sa mạc Gobie qua Bactriane (Afghanistan) vượt đèo Hindukush qua thung lũng Indus đến Cachemire rồi từ đó đến đồng bằng sông Hằng (Gange). Rồi trong mười năm đi tìm thầy học đạo, gặp gỡ các nhà sư uyên bác Phật Giáo đương thời. Hai năm học ở Trường Đại Học Phật Giáo Nalanda (Bihar). Đến từng nơi Trần Huyền Trang đã viết ký sự những nơi đã qua. Năm 645, nhà sư Huyền Trang trở về Trường An, và tổ chức dịch thuật Tam Tạng Kinh Điển. Năm 652 Vua Đường Cao Tông cho xây chùa Đại Nhạn để chứa kinh điển và chùa Tiểu Nhạn. Tôi đã đến Trường An thăm ngôi tháp Đại Nhạn cao 64 m nơi chứa kinh điển . Ngày xưa ngài Huyền Trang đã chất trên 20 con ngựa để mang về, chất trong tháp, rồi cà đời bao nhiêu công phu tổ chức dịch thuật, in ấn.
Cổ Phật Vô Lượng người đời Đường, chân thân còn để trên núi Tương Sơn, chân thân một đêm lửa cháy hết. Ngôi chùa cổ ngàn năm phủ bóng mây chiều. Núi đèo Ngũ Lĩnh có nhiều khí sắc. Toàn Châu thành quách nằm trong gió bụi. Đứng dựa mạn thuyền cô đơn trên sông ngắm cảnh. Một dãy cây tùng, cây sam bóng chiều nhuốm nữa.
TRÔNG CHÙA TƯƠNG SƠN Cổ Phật Vô Lường người thịnh Đường, Nơi Tương Sơn Tự thân vô thường. Châu thân một tối đà thiêu hóa, Chùa cũ ngàn năm mây vấn vương. Ngũ Lĩnh núi non nhiều khí sắc, Toàn Châu thành quách bụi phong sương. Đầu sông tựa mạn thuyền con ngắm, Nửa dãy tùng sam bóng tối buông. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt. VỌNG TƯƠNG SƠN TỰ Cổ Phật Vô Lường Đường thế nhân, Tương Sơn tự lý hữu chân thân. Chân thân nhất dạ tẫn viêm hỏa, Cổ tự thiên nhiên không mộ vân. Ngũ Lĩnh phong loan đa khí sắc , Toàn Châu thành quách tại phong trần? Cô chu giang thượng bằng lan xứ Nhất đái tùng sam bán tịch huân.
Chú Thích:
Cổ Phật Vô Lường, tôn hiệu Trần Huyền Trang.
Tương Sơn: núi tỉnh Quảng Tây.
Chân thân: thân thể người tu hành đắc đạo.
Ngũ Lĩnh: Chỉ năm đèo lớn nằm trên ngã đường, vượt qua dãy núi dài phía Nam Trường Giang, xuống miền Nam.
Toàn Châu: là Toàn Huyện, phía Bắc Tỉnh Quảng Tây. Thượng lưu sông Tương.
Tùng Sam: cây sam giống cây Tùng quả nhỏ.
Rời Toàn Châu, Nguyễn Du đi qua Hồ Động Đình, Trường Sa đến Hán Dương. Đoạn đường này trùng hợp với đoạn đường đi sứ. So với thơ trên đường đi sứ của Phan Huy Ích, Lê Quý Đôn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Thời Nhiệm, số thơ Nguyễn Du làm trên đoạn đường này khá nhiều, gấp bội, có thể có một số bài Nguyễn Du đã làm từ năm 1789, 1790 như những bài Nguyễn Du đi thăm làng Thanh Liên quê hương Lý Bạch, thăm quê Đỗ Phủ.. Từ Hán Dương, Nguyễn Du đi theo sông Giang Hán đến Trường An. Các đoàn đi sứ theo hướng khác đến Bắc Kinh
Đài đá chia kinh nằm nơi đâu ? Năm 582 nhà Tùy , vua Lương Võ Đế xây kinh đô Đại Hưng, sau đổi tên Tràng An. Vua Lương Võ Đế được tổ Thiền Tông thứ nhất. Cũng là tổ thứ 28 kể từ ngài Ca Diếp, Bồ Đề Đạt Ma từẤn Độ sang truyền bá Đạo Phật. Đạo Phật đã truyền sang Trung Quốc từ thế kỷ thứ hai đời Tôn Quyền, Đông Ngô thời Tam Quốc. Vì kinh điển không đầy đủ nên đời Đường, Trần Huyền Trang mới quyết chí sang Ấn Độ du học và thỉnh kinh. Sau 17 năm du hành. Trần Huyền Trang mang về được 150 xá lợi Phật, 8 tượng Phật, 224 bộ kinh Đại Thừa, 192 bộ luận đại thừa, 15 bản của phái Thượng Tọa, 15 bản của phái Đại chúng, 15 bản của phái Chánh Lượng, 22 bản của phái Di sa tắc, 17 bản của phái Ca Diếp tỉ la, 42 bản của phái Pháp mật, 67 bản của phái Nhất thiết hữu, 36 Bộ Nhân Minh Luậnb, 13 bộ Thanh Minh Luận, tổng cộng 520 hòm có 675 cuốn. Ngài phải dùng 20 con ngựa để mang tất cả.( Theo HT Thích Minh Châu. Huyền Trang nhà chiêm bái và học giả. Viện Đại Học Vạn Hạnh Sài Gòn. 1966, tr 55).
Năm 652 xây tháp Đại Nhạn cao 45m để chứa kinh Phật. tháp Tiểu Nhạn cao 45 m.
Việc Kết tập Kinh Điển đã được tổ chức tại Ấn Độ. Sau khi Phật qua đời, sau đó 80 năm, 200 năm và thời A Dục Vương sau thời Phật 300 năm. Không có chuyện kết tập Kinh điển và phân bộ kinh tại Trung Quốc. Do đó thời Lương Võ Đế nhà Tùy chỉ có việc dịch kinh, in kinh và phân phối cho các chùa các nơi. Nhà Tùy đóng đô tại Trường An, do đó việc phân kinh chắc cũng ở Trường An.Trường An không nằm trên đường đi sứ Nguyễn Du năm 1813, do đó Nguyễn Du có lẽ viết bài Phân Kinh Thạch đài năm 1789. Tôi đến Trường An năm 2009 đến thăm hai chùa Đại Nhạn và Tiểu Nhạn với kiến trúc quy mô, nhưng hỏi đến Phân Kinh Thạch Đài đời nhà Tùy thì chẳng ai biết. Thời Nguyễn Du đến năm 1789 thì chỉ còn đài đá còn hai chữ Phân Kinh.
Thái tử Chiêu Minh, tên là Chiêu Thống (trùng tên hiệu vua cuối cùng nhà Lê nước ta) đời nhà Tùy còn gọi là nhà Lương(502-556) con vua Lương Vũ Đế (Chiêu Diên) (502-539).Một trong bốn triều vua thời Nam triều (Tống, Tề, Lương, Trần). Hai cha con đều sùng đạo Phật. Chiêu Minh là tác giả bộ Văn Tuyển, lập đài kỷ niệm nơi chia kinh :
Đây nơi Thái Tử Chiêu Minh đời Lương chia kinh, đài đá còn ghi hai chữ Phân Kinh, nền đài hoang vu dưới làn mưa, cây cỏ bị rét đều chết khô, nay không thấy kinh ở đâu hết. Chỉ nghe đồn chuyện thái tử triều Lương ngày xưa. Thái tử tuổi trẻ say đắm văn chương, khéo bày chuyện chia kinh chỉ thêm rắc rối vô ích. Đạo Phật vốn là không, không nhờ vào vật, đâu có ở kinh mà chia ? Văn thiêng không ở ngôn ngữ. Kinh Kim Cương là gì ? Kinh Pháp Hoa là gì ? Giữa sắc với không mờ mịt không hiểu rõ. U mê theo Phật, thì Phật trở thành ma. Một nhà cả hai cha con đều mù quáng. Ma sinh ra trong ýnghĩ, không thấy đài sen mọc ở chốn sơn lăng. Buổi sớm kia (Hầu Cảnh) cưỡi ngựa trắng qua Trường giang (Hầu Cảnh trước là tướng Đông Ngụy, sau hàng Lương, rồi lại phản Lương, cưỡi ngựa trắng qua sông Trường Giang đánh Vũ Đế. Khi Hầu Cảnh hàng Lương, Đông Ngụy đưa tờ hịch cho Lương cảnh báo : Sợ nước Sở mất vượn, họa lây đến cây rừng, cửa thành cháy, vạ lây đến cá dưới ao). Cây rừng Sở bị họa, ca dưới ao bị vạ lây. Kinh bị thiêu ra tro, đài cũng đổ nát, nghìn vạn lời lưu lại cũng vô ích, chỉ để bọn ngu tăng đời sau đọc điếc tai người ta. Ta nghe nói Thế tôn ở Linh Sơn, thuyết pháp cứu nhiều người nhiều như cát sông Hằng Hà,. Người ta hiểu chữ tâm tức là ngộ rồi. Linh Sơn chỉ ờ trong lòng người. Minh Kính cũng không phải là dài. Lục Tổ Huệ Năng có bài kệ : Bồ đề bản vô thụ, Minh Kính diệc phi đài, Bản Lạ vô nhất vật, Hà xứ nhạ trần ai ?. dịch : Bồ đề không phải cây, Minh Kính không phải đài, Vốn không phải một vật. Bụi bặm vướng vào đâu ?. Ta đọc kinh Kim Cương nghìn lượt. Những ý nghĩa gọi là cao sâu trong đó phần nhiều không rõ ràng. Khi đến dưới đài phân kinh này mới biết kinh không chữ mới là chân kinh.
ĐÀI ĐÁ CHIA KINH CỦA THÁI TỬ LƯƠNG CHIÊU MINH Triều Lương, Chiêu Minh thái tử, chốn phân kinh, Đài đá còn ghi chữ Phân Kinh. Hoang vu nền cũ trong mưa gió, Lạnh tàn cây cỏ xác xơ cành Chốn cũ nơi đây nào thấy kinh, Còn nghe lưu truyền Lương thái tử. Thái tử tuổi trẻ say văn chương, Bày chuyện chia kinh vô tích sự Đạo Phật vốn không, không nhờ vật, Là gì Kim Cương và Pháp Hoa ? Nào có kinh gì để phân chia, Văn thiêng không ở nơi ngôn ngữ, Sắc không mờ mịt không hiểu rõ, Tâm mê theo Phật, Phật thành ma, Một nhà cha con đều mù lòa Ma tự sinh ra trong ý nghĩ. Hoa sen nào thấy chốn sơn lăng. Ngựa trắng một sớm qua Trường Giang, Cây Sở cá ao đều bị họa, Kinh sách ra tro đài tàn hoang, Nghìn vạn lời lưu lại ích chắng ? Điếc tai đời sau bọn ngu tăng. Ta nghe Thế Tôn núi Linh Thứu, Thuyết pháo độ nhiều sa số như cát sông Hằng, Người hiểu được tâm ấy độ rồi, Linh Sơn chỉở trong lòng người, Bồ Đề chẳng phải cây, Minh kính không là đài. Ta đọc Kim Cương hàng nghìn lượt, Lắm điều sâu kín khó hiểu rành. Phân kinh thạch đài nay đến đó, Mới hay không chữ là chân kinh. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt : LƯƠNG CHIÊU MINH THÁI TỬ PHÂN KINH THẠCH ĐÀI Lương Triều Chiêu Minh thái tử phân kinh xứ, Thạch Đài do ký " Phân Kinh" tự. Đài cơ vu một vũ hoa trung, Bách thảo kinh hàn tận khô tử. Bất kiến di kinh hà tại sở, Vãng sự không truyền Lương thái tử. Thái tử niên thiếu nịch ư văn. Cưỡng tác giải sự đồ phân phân, Phật bản thị không, bất trước vật, Hà hữu hổ kinh, an dụng phân ? Linh vân bất tại ngôn ngữ khoa. Thục vi Kim Cương, vi Pháp Hoa ? Sắc không cảnh giới mang bất ngộ, Si tâm qui Phật, Phật sinh ma, Nhất môn phụ tử đa giao tế, Nhất niệm chi trung, ma tự chí, Sơn lang bất dũng hoa liên đài. Bạch mã triêu độ Trường giang thủy, Sở lâmhoa mộc, trì ương ngư, Kinh quyển thiêu hôi, đài diệc dĩ. Không lưu vô ích vạn thiên ngôn, Hậu thế ngu tằng đồ quát nhĩ, Ngô văn Thế Tôn tại Linh Sơn, Thuyết pháp độ nhân như Hằng hà sa số. Nhân liễu thử tâm, tâm tự độ, Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu. Minh kính diệc phi đài, Bồ Đề bản vơ thụ. Ngã độc Kim Cương thiên biến linh, Kỳ trung áo chỉ đa bất minh, Cập đáo Phân Kinh thạch đài hạ, Tài tri vô tự thị chân kinh.
Chú thích Thế Tôn: Đức Thích Ca Mâu Ni.
Linh Sơn: hay Linh Thứu nơi Phật ở thuyết kinh Pháp Hoa.
Hằng hà: Phật đông như cát sông hồng, ai cũng co thể thành Phật được.
Lương Võ Đế: theo Pháp Bảo Đàn Kinh : Một hôm Lục Tổ Huệ Năng đăng đàn nói Pháp thì vị thứ sử hỏi sư rằng: " Đệ tử có nghe khi Đạt ma mới giáo hóa cho Lương Võ Đế: Đế có hỏi rằng: - Một đời trẩm xây dựng chùa chiền, cúng dường tăng, bố thí thiết trai; Vậy có công đức gì không ? Đạt Ma dạy: -Thật chẳng có công đức gì cả. Đệ tử chưa rõ được lý này, mong hòa thượng vì đệ tử chỉ dạy." Sư dạy:- Thật chẳng có công đức gì cả, chớ nghi ngờ lời nói thánh xưa. Vì Võ Đế mang tâm tà nên chẳng hiểu chánh pháp. Việc xây dựng chùa chiền, cúng dường tăng chúng, bố thí thiết trai là những việc cầu phước, chẳng thể đem phước đó để cầu công đức được. Công đức thìở trong pháp thân thì chẳng phải ở tu phước.
Kinh Pháp Hoa: bộ kinh Đại Thừa quan trọng nhất lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Triều Tiên, Việt Nam. Thiên Thai Tông lấy kinh này làm căn bản. Đó là bản kinh ghi lời cuối đời Phật dạy ở núi Linh Thứu. Kết tập 200 năm sau. Giáo pháp về sự chuyển hóa của Phật Tính và khảnăng giải thoát. Có nhiều cách để giác ngộ, nhưng chúng chỉ là phương tiện nhất thời và thực tế chúng chỉ là một.
Kinh Kim Cương: Bộ kinh đàm luận giữa Phật và Tôn giả Tu Đà Đà. Bài kệ cuối cùng tóm lược: "Tất cả các pháp hữu vi như mộng, nhưảo ảnh, như bọt nước, như bóng, như sương mai, nhưánh chớp cần phải nhìn nhận chúng như thế."
Nguyễn Du đến Chiêu Lăng của Đường Thái Tông, phía Tây Trường An cạnh Vị Thành. Khu mộ an táng các công thần có công giúp nước. Bùi Tấn Công tức Bùi Độ tự Trung Lập, người đời Đường làm quan dưới triều Đường Hiến Tông (806-820) có công dẹp giặc được phong Tấn Quốc Công, làm Tể tướng ba mươi năm, sau vì bọn hoạn quan lộng quyền, ông cáo quan về nhà ngâm vịnh với các nhà thơ đương thời như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích. Thăm mộ Bùi Tấn Công phải chăng Nguyễn Du nhớ đến cha anh, những người văn võ toàn tài, chỉ vì bọn kiêu binh lộng quyền mà mất nước. Trên cánh đồng thu rộng mênh mông gò đống bằng phẳng, Tấm bia mộ còn ghi tên Tấn Công. Một tấm lòng son lưu tiếng xưa nay. Nghìn năm xương trắng chia cách kẻ sống người chết. Ông có thừa tài thao lược làm tướng văn tướng võ. Còn về hình tượng đặt trên Gác Yên Đài ghi tên người có công không cần vẽ tranh xanh đỏ điểm tô làm gì. Đau lòng gần đây thấy cây ở Chiêu Lăng tiếng quyên kêu suốt một dãi Vị Thành.
MỘ BÙI TẤN CÔNG Đồng thu vắng lạnh đống gò bằng, Tấm mộ bia ghi tên Tấn Công, Một tấm lòng son kim cổ nhớ, Nghìn năm xương trắng tử sinh đành. Tài cao mưu lược tướng văn võ, Hình dáng cần chi nét đỏ xanh. Cây cảnh Chiêu Lăng còn thổn thức, Quyên kêu Thành Vị tiếng đau lòng. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
BÙI TẤN CÔNG MỘ
Đãng đãng thu nguyên khâu lũng bình, Mộ bi do chí Tấn Công danh. Đan tâm nhất điểm lưu kim cổ, Bạch cốt kim niên cách tử sinh. Tẩn hữu du vi ưu tướng tướng, Vô phương hình mạo yếm đan thanh Thương tâm cận nhật Chiêu Lăng thụ, Nhất đái đề quyên triệt Vị Thành.
Chú Thích:
Câu 5, 6 nguyên câu Bùi Độ đề vào bức vẽ truyền thần của mình: Thân hình không cao, diện mạo không đẹp mà sao làm được tướng văn tướng võ. Chỉ có cái tâm linh thiêng liêng không vẽ được. Bùi Độ tướng mạo tầm thường nhưng văn võ toàn tài.
Nguyễn Du đến thăm quê cũ Dương Quý Phi tức Dương Ngọc Hoàn, người Hoàng Nông, Hoa Âm tỉnh Thiểm Tây, mồ côi sớm được chú là Dương Huyền Yêu nuôi, mười tám tuổi nàng làm thị nữ cho Thọ Vương Mạo, con thứ 18 vua Đường Huyền Tông. Thấy nàng nhan sắc giống quý phi nhà vua mới mất. Thọ Vương tiến nàng vào cung vua. Huyền Tông yêu phong làm Quý Phi. Họ hàng Quý Phi nhờ thế mà lên địa vị cao. An Lộc Sơn nổi loạn. Huyền Tông chạy vào đất Thục, đến Mã Ngôi quân lính không chịu đi, đòi trừng phạt Dương Quốc Trung anh họ nàng và Dương Quý Phi. Nàng thắt cổ chết. Sự kiện Dương Quý Phi giống như Đặng Thị Huệ, quý Phi của chúa Trịnh Sâm, em trai cũng lộng quyền, kiêu binh cũng đòi trừng trị như thế. Phải chăng Nguyễn Du mượn chuyện Dương Quý Phi để nói đến Đặng Thị Huệ, nàng không tội tình gì, bao nhiêu tiến sĩ triều đình, bao nhiêu võ tướng đều bất tài vô dụng như phổng đá như con ngựa làm cảnh, nên đỗ oan việc mất nước cho một người đàn bà ?
Bài thơ viết: Mây núi thưa thớt, hoa bên sông rực rỡ ( Nguyễn Du đến Trường An vào mùa xuân năm 1789). Nghe nói Dương Quý Phi sinh ở đất này. Chỉ vì cả triều đình đều như phỗng đứng, mà nghìn năm cứ đổ oan cho sắc đẹp nghiêng thành. Cung Nam Nội buồn teo, cỏ dại mọc khắp. Đồng Tây Giao vắng ngắt, gò đống san bằng. Hương tàn phấn rã, nay biết tìm đâu ? Dưới thành gió Đông thổi, khiến người cảm xúc vô hạn.
QUÊ CŨ DƯƠNG QUÝ PHI Bên sông hoa nở núi mây thanh, Nghe nói Dương Phi đất ấy sanh. Vì cả triều đình như phổng đứng, Đỗ oan nghìn thuở sắc nghiêng thành. Cỏ cây Nam Nội buồn man mác, Gò đống Tây Giao giờ vắng tanh. Hoa phấn hương tàn ai biết nữa, Gió đông hiu hút dưới chân thành. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: DƯƠNG QUÝ PHI CỐ LÝ Sơn vân tước lược ngạn hoa minh, Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh. Tự thị cử triều không lập trượng, Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành. Tiêu tiêu Nam Nội bồng cao biến, Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình. Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ, Uông phong thành hạ bất thăng tình.
Chú thích: Lập trượng : đứng im, lấy tích Lập trượng mã, những con ngựa được luyện tập đứng im, làm nghi vệ cho nhà vua, con nào kêu bị đuổi ra. Ở đây chỉ những ông quan không dám mở miệng can gián vua, để xảy ra cuộc loạn An Lộc Sơn.
Nam Nội tức cung Hưng Khánh, nơi Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi ở.
Tây Giao: cánh đồng phía Tây, chỉ Mã Ngôi ở phía Tây Trường An, nơi Dương Quý Phi bị thắt cổ chết.
Trường An thời Nguyễn Du đến cũng chẳng còn cung điện, Cung A Phòng nguy nga nhà Tần đã bị đốt cháy hàng tháng trời, Cung nhà Hán, nhà Tùy, nhà Đường cũng chỉ còn nền gạch, cuối thời nhà Đường kinh đô dời xuống Lạc Dương. Các khám phá mộ của Tần Thủy Hoàng gần đây, thời Nguyễn Du chưa biết. Trường An chỉ còn lại những ngôi chùa, chùa Phật, chùa Tây Tạng, chùa Đạo Hồi của người Huy, hai ngôi chùa Đại Nhạn và Tiểu Nhạn nơi Trần Huyền Trang dịch kinh với quy mô to lớn không thấy Nguyễn Du nói đến. Có thể Phân Kinh Thạch Đài nằm nơi này chăng ? Trường An cũng có nhiều danh nhân, nhưng Nguyễn Du chỉ cảm xúc trước Dương Quý Phi và Bùi Tấn Công.
Sau khi thăm Trường An, Nguyễn Du lại xuống thuyền theo đường sông Hán, theo sông Trường Giang vào kênh Đại Vận Hà đến Hàng Châu. Mộ Nhạc Phi là nơi hẹn gặp lại Nguyễn Đại Lang. Nguyễn Du đẽ làm 5 bài thơ nơi này, chứng tỏ Nguyễn Du chờ đợi khá lâu. Các nơi khác Nguyễn Du đi qua chỉ làm một bài thơ. Mộ Nhạc Phi là nơi danh lam thắng cảnh nổi danh mọi người đều đến thăm viếng, để ngưỡng mộ tấm lòng trung nghĩa một anh hùng chết vì nước hãm hại bởi gian thần. Hàng Châu với Tây Hồ nàng Tiểu Thanh. Tây Hồ là hồ nhỏ nhất nhưng đẹp nhất trong Ngũ Hồ của Trung Quốc: Thái Hồ, Động Đình Hồ, Tây Hồ, Đan Dương Hồ và Nhạc Châu Hồ. Người Trung Quốc có câu nói: Trên trời có thiên đàng, dưới đất có Tô, Hàng (Tô Châu và Hàng Châu). Tô Châu có những dòng kinh, những cây cầu, có những khu vườn danh tiếng trồng cây hải đường Hải đường lả ngọn đông lân, vườn sen, nhà thủy tạ, vườn non bộ tùng, thạch, trúc, với chuông chùa Hàn San, có nàng Tây Thi giặt lụa thôn Trữ La... Hàng Châu với Tây Hồ và các dòng sông, mùa thu sương muối làm cho lá thu rực đỏ: rừng thu phong đã nhuốm màu quan san, có các quán trà Long Tỉnh, thời Nguyễn Du có các thanh lâu ẩn hiện bên các bờ liễu rũ, có tiếng hát các nàng Kiều làm ngây ngất các anh hùng.. Theo truyền thuyết vua Đại Vũ lập nơi đây kinh đô nhà Hạ và đắp đê trị thủy sông Dương Tử Thế kỷ thứ VIII nhà Tùy, nhà Đường đã cho đào Kinh Đại Vận Hà rộng 40m nối liền Bắc Nam từ Bắc Kinh, nối sông Hoàng Hà, Sông Hoài sông Dương Tử đến Hàng Châu và đến Bắc Quế Lâm. và một đường kinh khác nối Liêu Dương và Trướng An dài 400km, một công trình quan trọng không kém gì Vạn Lý Trường Thành. Thi hào Bạch Cư Dị (772-846) tác giả bài Tỳ Bà Hành. Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách, làm quan cai trị Hàng Châu năm 824 đã nâng cao bờ đê phía Nam Tây Hồ. Với 360 ngôi chùa Hàng Châu là một trung tâm văn hóa tôn giáo. Thế Kỷ thứ XII đời nhà Tống nhà Kim xâm lăng Trung Quốc. Lâm An tên gọi Hàng Châu thời bấy giờ trở thành kinh đô Nam Tống. Dân chúng tỵ nạn đổ về làm dân số Hàng Châu lên đến 1, 25 triệu người. Hàng Châu phát triển đường thủy trở thành một bến cảng hàng đầu và là đầu mối con đường tơ lụa trên bộ cũng như trên biển. Mông Cổ diệt nhà Tống lập nên nhà Nguyên năm 1279. Hàng Châu vẫn là thủ đô kinh tế văn hóa Trung Quốc.
Nhạc Phi (1103-1141) anh hùng khí khái bậc nhất Trung Quốc. Lăng mộ Nhạc Phi dưới núi Thê Hà bên Tây Hồ là thắng cảnh quan trọng bậc nhất Hàng Châu, nơi hò hẹn các anh hùng, tráng sĩ. Nhạc Vũ Mục tức Nhạc Phi người thới Nam Tống. Lúc bấy giờ trong triều đình có hai phe, Phe Tần Cối chủ trương hòa với Kim, còn phe Nhạc Phi chủ trương đánh. Sau mười năm xây dựng lực lượng, Nhạc Phi muốn đem quân tiến đánh quân Kim thì Tể Tướng Tần Cối mạo lệnh vua gọi về, một ngày hạ 12 đạo kim bài, bắt Nhạc Phi rút quân về. Lần cuối cùng Nhạc Phi phải than một câu rằng: Công lao mười năm bỏ đi một ngày, rồi mang quân về. Tần Cối giam vào ngục rồi giết chết. Nhạc Phi về sau được truy tặng là Nhạc Vũ Mục. Mộ Nhạc Phi trước có tượng Nhạc Phi ngồi trong nhung phục màu tím tay phải nắm đặt trên đùi, tay trái nắm chuôi kiếm, phía sau có bốn chữ Hoàn Ngã Hà Sơn (Trả lại ta giang sơn đã mất). Tượng bị phá thời Cách Mạng Văn Hóa, đã được làm lại và hoàn thành năm 1079.Nhạc Phi bị xử tử tại Phong Ba Đình sau vua Tống Hiếu Tông giải oan được cải táng nơi đây. Trước mộ Nhạc Phi có 4 tượng: Tể Tướng Tần Cối, vợ y là Vương Thị, Tướng Mặc Kỳ Tiết và viên cai ngục Trương Tuấn. Người đến thăm mộ thường đánh đập, phỉ nhổ vào các tượng sắt trên. Năm 1813 Nguyễn Du khi đi sứ ngang thành Hà Nam dất Yên nơi Nhạc Phi đóng quân chiêu tập bình mã, có làm bài thơ Yên Thành Nhạc Vũ Mục ban sư xứ.
Bài Nhạc Vũ Mục mộ:Ông là vị anh hùng xuất hiện trong trăm trận đánh ở Trung Nguyên, với chiếc thương thần dài trượng tám và chiếc cung nặng sáu thạch. Ở tướng phủ, người ta đã ghép tội ông bằng cái án ba chữ (tam tự ngục). Khi Tần Cối khép Nhạc Phi vào tội tử hình. Hàn Thế Trung hỏi: "Có tội gì ? " Cối trả lời "Mạc Tư hữu " (Chẳng cần có) Về sau người ta gọi đó là tam tự ngục. Trong quân còn tiếc công ông mười năm trời. Sông hồ còn đó, nhưng anh hùng mất rồi Nam Tống rỗng không. Cây tùng bách vẫn ngạo nghễ trước gió bấc lao xao. Buồn trông về lăng miếu cũở Lâm An, thấy núi Thê Hà chìm trong khói chiều.
MỘ NHẠC VŨ MỤC Trung nguyên trăm trận xuất anh hùng, Trượng tám thương thần, sáu thạch cung. Tướng phủ tội hình ba chữ án, Trung quân thương tiếc công mười năm. Sông hồ đâu kẻ hùng Nam Tống, Tùng bách kiên cường trước Bắc Phong. Hoài vọng Lâm An lăng miếu cũ, Thê Hà chìm đắm khói sương dâng. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: NHẠC VŨ MỤC MỘ Trung nguyên bách chiến xuất anh hùng, Trượng bát thần thương, lục thạch cung. Tướng phủ dĩ thành tam tự ngục, Quân môn do tích lập niên công, Giang hồ xứ xứ không Nam Tống, Tùng bách tranh tranh ngạo Bắc Phong, Trường vọng Lâm An cựu lăng miếu, Thê Hà sơn tại mộ yên trung.
Chú thích: Thạch: 120 cân Trung Quốc.
Lâm An: tên cũ Hàng Châu tỉnh Triết Giang thời Nam Tống trên sông Tiền Đường.
Thê Hà tên quả núí dưới chân có mộ Nhạc Phi.
Nguyễn Du làm hai bài Tần Cối tượng và hai bài Vương Thị tượng.
Tần Cối Tượng bài I : Cây cối cạnh điện vua năm nào, nay đã bửa làm củi rồi, mà tên Cối lại đến dựa dẫm bên mộ Nhạc Vương; Nguyễn Du chơi chữ Cối trong điện cối, cây cối bên cạnh cung điện với tên Tần Cối. Đúng và sai là chuyện để ngàn năm định luận. Cái tượng Tần Cối, thân giảấy, dù đánh chửi có biết đau đớn gì đâu ? Cứng cát như thế rõ là con người sắt. Cớ sao lại khúm núm thờ quân Kim. Ai bảo kẻ náy không có công gìở đời. ? Muôn năm sau còn có thể làm cho bọn loạn thần phải lo sợ.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 9:45:47 GMT 9
TƯỢNG TẦN CỐI I Cây cối điện xưa thành củi rồi, Nhạc Vương mộ đây Cối nương thời. Đúng sai chuyện cũ nghìn năm luận, Đánh mắng giả thân công mất thôi. Chơ vơ mặt sắt trơ trơ đó, Luồn cúi quân Kim chẳng nhục lời. Chớ bào kẻ này công chẳng có, Gian thần vạn cổ làm gương soi. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: TẦN CỐI TƯỢNG I Điện cối hà niên chùy tác tân; Khước lai y bạng Nhạc Vương phần. Thị phi tẫn thuộc thiên niên sự, Đả mạ hà thương nhất giả thân. Như thử tranh tranh chân thiết hán, Nại hà mĩ mĩ sự Kim nhân ? Thùy vân ư thế vô công liệt ? Vạn cổ do năng cụ lạn thần.
Chú thích: Tương truyền cuối Bắc Tống, bên điện Vua Huy Tông có cây cối sinh nấm ngọc, người ta cho đó là điền Tần Cối, được trọng dụng để làm mất nhà Tống . Tần Cối trước làm quan Bắc Tống được quân Kim bắt được rồi tha về Nam làm Tể Tướng Nam Tống.
Bài tượng Tần Cối I I. Gác Cách Thiên lầu ngọc đều đổ nát, nhưng đứa gian phi vẫn còn đây. Suốt đời trái tim đen tối cũa nó vẫn chứa đầy nọc độc. Nghìn năm cục sắt sống kia phải chịu nỗi oan lạ lùng. Trong ngục người trung thần khi sống phải đổ máu. Dưới thềm kẻ gian chết rồi mà vẫn hành tội. Nó cũng bất tử như bậc trung thần. Cái phúc lạ lùng tày trời của nó thật là vô lý quá.
TƯỢNG TẦN CỐI II Cách Thiên gác đổ ngọc lầu tàn, Nhưng vẫn còn đây một kẻ gian. Một kiếp tim đen đầy nọc độc, Nghìn năm thỏi sắt chịu hàm oan. Trung thần trong ngục sống tuôn máu, Gian tặc dưới thềm chết vẫn hành. Gian xảo trung thần cùng bất tử, Lạ lùng cái phúc thật vô công. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: TẦN CỐI TƯỢNG II Cách thiên các hủy ngọc lâu tàn, Do hữu ngoan bì tại thử gian. Nhất thể tử tâm hoài đại độc, Thiên niên sinh thiết phụ kỳ oan. Ngục trung dĩ tiễn sinh tiền huyết, Giai hạ đồ tru tử hậu gian. Đắc dữ trung thần đồng bất hủ, Tề thiên kỳ phúc thái vô đoan.
Chú thích: Cách Thiên các: Nhà gác của Tần Cối ở, co treo tấm biển đề bốn chữ Nhất đức cách thiên nên gọi là Cách Thiên các. Bốn chữấy tự tay vua Huy Tông nhà Tống viết tặng Tần Cối, nghĩa là vua tôi cùng có đức thuần nhất có thể cảm thông được trời.
Bài Vương Thị I. Vương Thị là vợ tên gian thần Tần Cối đời Tống (960-1279). Lưỡi dài ba tấc của thị để làm gì ? Khéo cùng kẻ quyền gian kết làm vợ chồng.. Ngày bắt được hổ là trừ được mối lo về sau. Thì còn ai hỏi đến cái công sau này uống rượu mừng ở Hoàng Long. Tống bị Kim xâm lăng, Tần Cối chủ hoà, Nhạc Phi chủ đánh. Tần Cối giả lệnh vua bắt Nhạc Phi bỏ ngục, coi như bắt được hổ, nếu để sổng ra thì có mối lo về sau, nên giết đi. Nhạc Phi cầm quân đánh Kim, có hẹn với tướng sĩ rằng: Thẳng đến Hoàng Long cùng các người uống rượu mừng. (Hoàng Long là kinh đô nước Kim phía Bắc Trung Quốc, nay ở tỉnh Liêu Đông. Một đời bụng dạ Vương Thị giống hệt như chồng. nghìn năm hình hài thị làm nhục nữ giời. Việc đó nghĩ đến ba chữ: Mạc tư hữu (chẳng cần có) biết đâu là lời nói riêng của thị chốn khuê phòng, chẳng ai biết được.
VƯƠNG THỊ TƯỢNG I Lưỡi dài ba tấc làm chi chăng ? Cùng kẻ quyền gian kết vợ chồng. Định chuyện lo sau giam Hổ lại, Còn chi công trước rượu Long mừng. Một đời bụng dạ như chồng hệt. Nghìn thuở dung nhan nhục má hồng. Nghĩ đến một câu: chả cần có, Biết đâu lời thị chốn khuê phòng. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt: VƯƠNG THỊ TƯỢNG I Thiệt trường ba xích cánh hà vi ? Hảo dữ quyền gian bị xướng tùy. Hậu hoạn chính ân cầm hổ nhật, Tiền công an vấn ẩm long kỳ. Nhất sinh tâm tícjh đồng phu tế. Thiên cổ hình hài nhục nữ nhi. Để sự tưởng lai "mạc tư hữu " Khuê trung tư ngữ cách thùy tri.
Tượng Vương Thị bài I I. Mưu mô sâu sắc hơn cả chồng, thị là hạng gà mái gáy sớm bậc nhất. Thị có cái lười dài ba tấc bất hủ, thân hình lại được đúc bằng gan thép lưu truyền lại muôn đời. Trọn đạo xướng tùy chắc không có gì hối hận ? Thủ đoạn bằng nhau nên càng ăn ý với nhau. Chớ bảo đàn bà không có sức mạnh. Chính thị đã phá vỡ quân đội của Nhạc Phi. TƯỢNG VƯƠNG THỊ II Mưu mô sâu sắc cả hơn chồng, " Gà mái gáy sớm " nhất tiếng danh, Ba tấc lưỡi mềm trời phú thế, Nghìn năm thân rắn thép gan thành. Xướng tùy trọn đạo lòng cùng sướng, Xảo quyệt tương thân dạ kết đồng. Chớ bảo nữ nhi không sức mạnh Phá quân Nhạc Vũ đến tan tành. Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ
Nguyên tác phiên âm Hán Việt VƯƠNG THỊ TƯỢNG II Thâm đồ mật toán thắng phu quân, Ưng thị "thần kể đệ nhất nhân. Bất lạn dĩ sinh tam thốn thiệt, Thuần cương hoàn đắc vạn niên thân. Xướng tùy tận đạo ưng vô hối. Kỹ lưỡng đồng niên cánh khả thân. Mạc đạo nữ nhi vô lực lượng, Dã tằng hám phá Nhạc gia quân.
Chú thích: Thần kê: do câu Tẫn kê tư thần: gà mái gáy sớm, chỉ người đàn bà lộng quyền.
Nhạc gia quân: quân họ Nhạc. Quân Kim rất sợ Nhạc Phi, thường bảo nhau: Chuyển núi thì dễ, phá quân đội của Nhạc Phi thì khó.
Nguyễn Du chờ đợi gặp lại Nguyễn Đại Lang tại Miếu Nhạc Phi, là nơi duy nhất Nguyễn Du làm 5 bài thơ, chứng tỏ thời gian chờ đợi khá lâu. Đối diện với Miếu Nhạc Phi phía nam Tây Hồ là chùa Hổ Pháo, nơi đây Từ Hải tức Minh Sơn Hoà Thượng từng tu hành. Từ miếu Nhạc Phi sang chùa Hổ Pháo có con đê Tư (Su) chạy thẳng, không phải đi vòng quanh hồ, tương tự như vị thế Đền Trấn Võ với chùa Trấn Quốc có con đê đường Cổ Ngư, Hồ Tây, Hà Nội. Có lẽ duyên tiền định Nguyễn Du đã đến trú, tụng kinh Kim Cương nơi này chăng ? Từ Hải người Huy Châu (Hấp Huyện, An Huy ngày nay) Nguyễn Du đã lấy quê Việt Đông của Nguyễn Đại Lang để gán cho Từ Hải. Họ Từ trước tu, học tập võ nghệở đây, rồi xuống núi trở thành một thủ lĩnh cướp biển triều nhà Minh, sau cấu kết với cướp biển Vương Trực thường dẫn "nụy khấu " (cướp biển) đốt cướp các đất duyên hải Giang, Triết. Năm Gia Tĩnh 35 (1556) vì nghe lời dụ khéo của Tổng Đốc Hồ Tôn Hiến qua trung gian người vợ là nàng Kiều. Từ Hải bị vây bắt nên nhảy xuống sông tự tử.
Hồ Tôn Hiến (? - 1556). Tổ tiên của Hồ Cẩm Đào.Là đại thần triều Minh (1368-1644). Tự là Nhữ Trinh, hiệu là Mai Lâm, người Tích Khê tỉnh An Huy. Đậu tiến sĩ thời Gia Tĩnh (Minh Thế Tông 1522-1566) được bổ làm tri huyện Ích Đô, tỉnh Sơn Đông, sau đó Dư Diêu tỉnh Triết Giang. Rồi lên chức Ngự Sử, làm tuần án Tuyên Phủ tỉnh Hà Bắc, Đại Đồng tỉnh Sơn Tây. Năm Gia Tĩnh 33(1554) ra án giữ Triết Giang. Thời hải tặc Vương Trực làm giặc, ông bày kế độc giết đến trăm người, rồi lại phối hợp với Trương Kinh phá cướp biển ở Vương Giang Kinh (Gia Hưng, Bắc Triết Giang) ông được thăng Hữu Thiêm Đô Ngự Sử. Có công dụ khéo giết được Vương Trực, Từ Hải, Trần Đông, Ma Diếp nên được thăng chức Binh Bộ Thượng Thư, sau bị phe Nghiêm Tung hạ ngục rồi giết chết. (Theo Trung Quốc Lịch Đại Danh Nhân Từ Điển. Đại Học Nam Kinh. Giang Tây 1982 tr 397-398.)
Theo ông Nguyễn Văn Hoàn. Để có một bản Kiều tương đối đúng với nguyên tác. Tập San Nghiên Cứu Văn Học số 2 năm 1961 , số 4 năm 1964 tr 47-57 và số 9 năm 1964 tr 104. Vương Thúy Kiều là một nhân vật có thật và được 18 tác phẩm viết đến gồm lịch sử, kim nhạc phủ, tiểu thuyết và hý kịch : Minh Sử : Liệt truyện Hồ Tôn Hiến. Minh sử ký sự bản mạt của Cốc Ứng Thái ; Minh đại đạt văn của Lâm Tuệ Như. Lưỡng Hương Hoàn. Lưỡng Ca Kỹ. 3 bài Kim nhạc phủ. Trù Hải Đồ Biên do Mao Khôn xuất bản. Kiến chỉ Biên của Diêu Sĩ Lâm quyển hạ. Kỷ tiểu Từ Hải Bàn Mạt, trong Bạch Hoa Lâu Tàng Cảo của Mao Khôn. Lý Thúy Kiều Truyện của Đái Sĩ Lâm. Ảo ảnh hồi 7. Tuyết Nguyệt Mai hồi 47 của Trần Lãng. Vương Thúy Kiều Truyện của Dư Hoài. Hồ Thiếu Bảo bình nụy chiến công của Chu Tiếp. Thu Hổ Khưu của Vương Lung, Hổ Phách Thi của Diệp Trĩ Phỉ, Phù Nô Truyện, Song Thúy Viên của Hạ Bỉnh Hành và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.
Thanh Tâm Tài Nhân xuất hiện thời Khang Hy nhà Thanh (1662-1729) Tác giả này dựa vào chuyện Vương Thúy Kiều của người đi trước phát triển thành một pho tiểu thuyết gồm 20 hồi, viết văn bạch thoại, vận dụng hư cấu tự do thêm vào các nhân vật mới như Kim Trọng, Thúy Vân, Hoạn Thư, Thúc Sinh, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Giác Duyên, Tam Hợp Đạo Cô, viết lại gia cảnh họ Vương Thúy Kiều, loại bỏ nhiều nhân vật lịch sử như Vương Trực. Tác phẩm không còn chuyện ghi công kỳ nữ có công với triều đình mà chuyển thành hồng nhan bạc mệnh muôn thuở. Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân thuộc loại tiểu thuyết tài tử-giai nhân, thư sinh-kỹ nữ, vốn đã thành truyền thống từ thời Đường và đang phát triển mạnh thời Minh Thanh ; tác phẩm cũng mang nhiều nét khuôn sáo của thể loại này đương thời - một thể loại đang ở cao trào phát triển , do nó kết hợp nhu cầu buông thả tình cảm kiểu thị dân với việc ngợi ca, khẳng định lễ giáo phong kiến (Theo Lại Nguyên Ân -Bùi Trọng Cường. Tự Điển Văn Học Việt Nam quyển I ; nxb Giáo Dục Hà Nội, tr 475 ,477.)
Nguyễn Du đến Hàng Châu năm 1790 trong thời điểm Kim Vân Kiều truyện được khắc bản và in bán nơi đây. Tại Hàng Châu, Nguyễn Du đã tiếp xúc với nơi Từ Hải từng đi tu, biết được cuộc sống những nàng ca kỹ hồng nhan bạc mệnh trong các thanh lâu Hàng Châu và say sưa đọc Kim Vân Kiều Truyện, Nguyễn Du quyết chí diễn ca thành thơ Nôm, năm đó ông 24 tuổi.
Diễn Ca Kim Vân Kiều, Nguyễn Du không dịch từng câu văn xuôi thành thơ, mà nắm lấy ý chính, tùy hứng, tái sáng tạo thành một truyện thơ. Nhiều đoạn Nguyễn Du lược bỏ như đoạn Kiều trả ân oán trừng phạt Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hoạn Thư.., và thêm vào thay vì chấm dứt nơi Kiều tự tử nơi sông Tiền Đường, Nguyễn Du, cho Kiều tái ngộ cùng gia đình. Những đoạn văn xuôi nặng nề, thô thiển, Nguyễn Du đã tái sáng tạo thành một trường thiên âm điệu lục bát tài tình. Truyền Kiều không phải là một tác phẩm dịch. Từ một tác phẩm thường thường bậc trung. Nguyễn Du đã tái tạo thành một tuyệt phẩm trong kho tàng văn chương nhân loại và đặt một tên mới Đoạn Trường Tân Thanh. Không phải là cốt truyện Kim Vân Kiều, mà tài nghệ văn chương Nguyễn Du đã biến Truyện Kiều thành một tuyệt tác.
PTC . Paris 2-2-2013 Tiến sĩ Khoa Học Giáo Dục Viện Đại Học Paris V Sorbonne. Tác giả : Hồ Xuân Hương, nàng là ai ? Khuê Văn xb Paris 2000. Nguyễn Du mười năm gió bụi . Khuê Văn Paris 2011. Truyện Thơ Odyssée qua 12110 câu thơ lục bát. Sử Thi Iliade qua 16933 câu thơ lục bát. Khuê Văn Paris 2009. Thơ Tình Nhất Uyên (Huy Cận Xuân Diệu đề tựa) Khuê Văn. Paris 2006. Tự Điển Tình yêu bằng thơ tình Xuân Diệu. Khuê Văn Paris 2011.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 9:46:30 GMT 9
Nguyễn Du gặp Đoàn Nguyễn Tuấn, sứ đoàn Tây Sơn tại Hoàng Châu 1790. TS Phạm Trọng Chánh
TÓM LƯỢC CÁC BÀI TRƯỚC: Nguyễn Du sau khi đậu Tam Trường (1783) ở Trường thi Sơn Nam 17 tuổi, được anh Nguyễn Khản, Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Hưng Hóa, Thái Nguyên phong làm Chánh Thủ Hiệu, quân Hùng Hậu Hiệu, chỉ huy đội quân hùng mạnh nhất Thái Nguyên cùng Nguyễn Đăng Tiến, làm quyền Trấn Thủ Thái Nguyên thay mặt Nguyễn Khản. Nguyễn Đăng Tiến tước Quản Vũ Hầu, tức Cai Gia ( theo Hoàng Lê Nhất Thống Chí) một tay " giặc già " Trung Quốc gốc người Việt Đông, Quảng Tây sang đầu quân làm thuộc hạ, tân khách dưới trướng Nguyễn Khản, Cai Gia dạy võ và kết nghĩa sinh tử với Nguyễn Du, Cai Gia còn lớn tuổi hơn cả anh Nguyễn Khản (hơn Nguyễn Du 31 tuổi) nên Nguyễn Du gọi là anh cả, nên gọi là Nguyễn Đại Lang (Thanh Hiên thi tập). Theo Lê Quý Kỷ sự của sử thần Nguyễn Thu : Khi tướng Tây Sơn Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh năm 1788. Tiến khởi nghĩa tại Tư Nông, bị chỉ huy Giáo bắt được cùng Nguyễn Quýnh giải về cho Nhậm. Nhậm trọng khí khái, tha chết và cho tùy ý muốn đi đâu thì đi. Nguyễn Đại Lang cùng Nguyễn Du, Nguyễn Quýnh sang Vân Nam, đến nơi Nguyễn Du bị bệnh ba tháng xuân, hết bệnh Nguyễn Du muốn thoát vòng trần tục thành nhà sư Chí Hiên đi giang hồ chu du Trung Quốc theo gương thi hào Lý Bạch. Họ chia tay tạl Liễu Châu, Nguyễn Đại Lang về thăm quê cũ ở Quế Lâm, hẹn gặp nhau tại Trung Châu (Hàng Châu).Qua những địa danh trong Thanh Hiên thi tập,và đi du lịch tham khảo sách vở Trung Quốc, người viết sắp xếp những bài thơ chữ Hán, là những trang nhật ký của Nguyễn Du, tìm một cuộc đời Mười năm gió bụi (1786-1796), mà gia phả lầm lẫn cho rằng Nguyễn Du về quê vợ ở Quỳnh Hải. Thật ra Nguyễn Du đi giang hồ muôn dậm tại Trung Quốc (khoảng 5000 km trong 3 năm), Từ Liễu Châu qua Quảng Tây đi đường Trường Sa đến Hán Dương, qua sông Giang Hán đi Trường An và sau đó xuống Hàng Châu, " Giang Nam, Giang Bắc túi tiền không ". Tại Hàng Châu, Nguyễn Du ngụ tại chùa Hổ Pháo, nơi Từ Hải, tức Minh Sơn Hoà Thượng từng tu hành, nơi đây Nguyễn Du có được quyển Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và quyết chí diễn ca thơ nôm . Nguyễn Du và Cai Gia Nguyễn Đại Lang gặp lại nơi miếu Nhạc Phi, sau đó cùng đi Yên Kinh trở về Hoàng Châu thì gặp Đoàn Nguyễn Tuấn trong sứ đoàn Tây Sơn trên đường đi Nhiệt Hà, gặp nhau nơi lữ quán hai người bàn luận sôi nổi về văn chương chuyện Hồng nhan đa truân. Nguyễn Du về trước và hẹn gặp nhau lại tại Thăng Long. . Nguyễn Hành cháu gọi Nguyễn Du bằng chú, một trong " ngũ tuyệt " năm người thi ca tài giỏi đương thời. Trong bài Thơ dâng chú Đông Các Học Sĩ (Nguyễn Du) trong Minh Quyên thi tập đã viết về tài năng, cuộc đời Nguyễn Du : "Giang hồ, long miếu nhiêu song đạo, Thi họa cầm thơ huyến tứ công." "Giang hồ, long miếu hai điều đủ, Thi họa, cầm thư bốn nghệ thông". Cuộc đời Nguyễn Du, có mười năm gió bụi (1786-1796) từ nhi nhà Lê -Trịnh sụp đổ, hai anh lớn trụ cột gia đình Nguyễn Khản, Nguyễn Điều mất, dinh thự gia đình tại Thăng Long bị kiêu binh phá sạch, từ đường tại Tiên Điền bị tướng Tây Sơn Lê Văn Dụ đốt cháy, làng Tiên Điền bị làm cỏ vì cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh. Nguyễn Du sau bốn năm trấn đóng Thái Nguyên, sau trận chiến với quân Tây Sơn, đi giang hồ năm 1787 không nhà không cửa, người thân thiết nhất Nguyễn Du là Nguyễn Đại Lang, người anh cả kết nghĩa sống chết, tồn vong cùng có nhau. Nguyễn Đại Lang là người dạy võ, 18 thứ binh khí và binh thư cho Nguyễn Du, qua bốn bài thơ tiễn biệt Nguyễn Đại Lang, Thanh Hiên Thi Tập, Nguyễn Du dành một tâm tình nồng hậu cho người anh kết nghĩa này. Nguyễn Du từ Thái Nguyên sang Trung Quốc và trở về Thăng Long cuối năm 1790, ba năm với mối tình Hồ Xuân Hương. Năm 1794 Nguyễn Du và Nguyễn Ức được anh Nguyễn Nể giao cho việc về Hồng Lĩnh xây dựng lại từ đường và làng Tiên Điền mà ông bận việc quan không thể trực tiếp trông coi, năm 1796 Nguyễn Du bị tù ba tháng vì toan vượt biên theo chúa Nguyễn Ánh . Nguyễn Du ban đêm trốn ra Thăng Long năm 1796, thì Hồ Xuân Hương đã được mẹ gả cho thầy Lang xóm Tây làng Nghi Tàm, năm ấy lúc Nguyễn Nể vừa đi sứ Trung Quốc về, làm Chánh Sứ Tây Sơn, mừng lễ Vua Càn Long truyền ngôi cho con là Gia Khánh. Nguyễn Nể thu xếp cùng Đoàn Nguyễn Tuấn cưới cô em út Đoàn Nguyễn thị Huệ cho Nguyễn Du năm 1797 và Đoàn Nguyễn Tuấn giao cho gia trang tại Quỳnh Hải, từ đây chấm dứt cuộc đời mười năm gió bụi. Đến năm 1802 , Tây Sơn sụp đổ, Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân lên ngôi lấy hiệu Gia Long, vua ra Bắc truy lùng vua Cảnh Thịnh, Tây Sơn, Nguyễn Nể trốn tránh tại Phú Xuân được Gia Long gọi ra, Nguyễn Nể dâng sớ, vua Gia Long tha chết mến tài và kính trọng dòng dõi con Xuân Quân Công Nguyễn Nghiễm nên cho đi theo ra Bắc Thành làm việc dưới quyền Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành nhưng không thấy sử chép giữ một chức vụ gì ? Có thể Nguyễn Nể cố vấn chỉ dẫn các kinh nghiệm nghi lễ đi sứ, tiếp sứ sang phong vương cho vua Gia Long như trường hợp Phan Huy Ích chăng ? (Việc này nhiều sách sử lầm Nguyễn Nể với Nguyễn Du, Nguyễn Nể có làm quan hai lần đi sứ Tây Sơn thì mới được vua Gia Long mời ra, Nguyễn Du lúc đó còn vô danh, Nguyễn Nể không bị bắt như tù nhân nên không bị đánh tại Văn Miếu như trường hợp Ngô Thời Nhiệm và Phan Huy Ích..) Đoàn Nguyễn Tuấn cuối đời Tây Sơn và đời Nguyễn không còn thấy tăm tích, lúc đó ông chỉ khoảng 50 tuổi, có lẽ về ẩn cư trong "Phong nguyệt sào "( tổ gió trăng) là một cái chòi trong vườn hoa nhà mình, ngâm vịnh trong đó, tự hiệu là Sào Ông (Phan Huy Ích, Tinh Sà Kỷ Hành tr 13). Khi vua Gia Long ra Bắc, Nguyễn Du từ Quỳnh Hải đem quân lương đi đón vua Gia Long, đến Phù Dung, trấn Sơn Nam Thượng thì gặp Vua Gia Long, vua phong ngay tri huyện Phù Dung, sự kiện này giống như Phi Tử đời Chiến Quốc dâng ngựa cho vua Châu Hiếu Vương mà được chức Phụ Dung, nên Nguyễn Du có danh hiệu là Phi Tử. Nhờ thời kỳ đi giang hồ, thông thạo các ngôn ngữ Trung Quốc, nên chỉ mấy tháng sau được thăng tri phủ Thường Tín đặc cách tiếp sứ nhà Thanh sang phong vương, con đường triều chính Nguyễn Du thông suốt, đưọc thăng lên Đông Các Học Sĩ (1805), giám khảo trường thi Hương Hải Dương (1807) rồi làm quan Cai Bạ cai trị doanh Quảng Bình (1809), Cần Chánh Học Sĩ (1813) và được cử làm Chánh Sứ sang nhà Thanh, trở về được thăng Hữu Tham Tri Bộ Lễ (1815) trước khi mất năm 1820 vì dịch tả... làm quan triều đình từ 1802, 18 năm, giang hồ và long miếu hai điều đều có đủ. Bốn nghề chơi: cầm, thư, thi, hoạ bốn nghề đều thông thạo. Thế thì tài năng của Nguyễn Du trăm năm qua chúng ta chỉ biết có tài làm thơ của Nguyễn Du, còn cầm , thư họa, và họa chúng ta đều không biết. Và cuộc đời Nguyễn Du ta chỉ biết thời kỳ làm quan, và thời kỳ giang hồ ( từ năm 1786-1796), mười năm gió bụi, và sống tại quê vợ (1787-1801) cho đến khi ra làm quan năm 1802 chưa được biết đến..
Toàn bài thơ của Nguyễn Hành như sau:
THƠ DÂNG CHÚ LÀ ĐÔNG CÁC HỌC SĨ. Họ ta có người như Phu Tử, Cao nhất trong chín chín núi non. Phẩm chất ngọc đường, kim mã quý, Tâm hồn cây cỏ nội vườn thôn. Giang hồ, long miếu hai điều đủ, Thư hoạ, cầm thi bốn nghệ thông. Thú quê thuần vược không quên được. Ngày về quê cũ ngọn thu phong.
Thơ Nguyễn Hành, Minh Quyên thi tập, Nhất Uyên dịch thơ.
Nguyên tác phiên âm Hán Việt :
THƯƠNG THÚC PHỤ ĐÔNG CÁC HỌC SĨ Ngô môn tú xuất như Phu Tử, Cửu thập cửu phong trung nhất phong. Phẩm tại ngọc đường kim mã quý, Tâm tương mộc thực, thảo y đồng. Giang hồ, long miếu nhiêu song đạo, Thi họa ấm thơ huyến tứ công. Khước vị thuần lô vong bất đắc, Kỷ hà quy khứ tại thu phong.
Họ ta có người giỏi như Phu Tử. Là ngọn núi cao nhất trong 99 ngọn núi Hồng Lĩnh, Phẩm chất như cung bằng ngọc , ngựa bằng vàng quý báu, nhưng tâm tư như cây trái, hoa cỏ đồng nội. Cuộc đời có khi đi lang tháng khắp các sông các hồ, khi làm quan nơi chốn triều đình, hai điều đủ cả. Bốn nghề cầm thơ, thi họa đều thông thạo. Thú quê ăn cá vược, rau thuần không bao giờ quên. Chỉ chờ đợi có gió thu nổi lên là về Nguyễn Du sau khi chờ đợi tại Miếu Nhạc Phi tại Hàng Châu, đã gặp lại Nguyễn Đại Lang như đã hẹn trong bải thơ Biệt Nguyễn Đại Lang : Tương kiến tại Trung Châu (Gặp nhau Trung Châu mà). Sau cuộc gặp này Nguyễn Du cùng Nguyễn Đại Lang đi Bắc Kinh. Lúc ấy Vua Lê Chiêu Thống đang ở Bắc Kinh.
Theo Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược. nxb Sống Mới. Sàigon 1971 tr 138-139 . Sau trận Vua Quang Trung đánh bại quân Thanh mùa xuân năm 1789. Hai nước nối lại ban giao. Sứ đoàn Tây Sơn đầu tiên sang Trung Quốc do Vũ Huy Tấn làm Chánh Sứ, Nguyễn Nể anh cùng cha cùng mẹ Nguyễn Du làm Phó Sứ sứ đoàn có cháu vua Quang Trung là Nguyễn Quang Hiến..
Vua Lê Chiêu Thống sau mùa xuân 1789, cùng tùy tùng khi sang Trung Quốc ở Thành Nam Ninh, bị Tổng Đốc Phúc Khang An đánh lừa, bắt cạo đầu để bính mặc áo như người Mãn Thanh. Rồi Phúc An Khang làm biểu tâu vua Càn Long: Vua nước An Nam không có ý xin viện binh nữa, hiện đã gióc tróc thay áo, xin yên tâm ở lại Trung Quốc. Từ mùa xuân năm Canh Tuất (1790) vua Càn Long cho triệu vua Chiêu Thống và các quan tùy tùng vào Bắc Kinh. Vua Càn Long để vua Chiêu Thống, bà Thái Hậu và Hoàng Tử ở ngõ Hồ Đồng, Toà Quốc Tử Giám , cửa Tây Định., ngoài cửa đề chữ " Tây An Nam dinh ". Còn các quan An Nam đi theo ( Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiểu, Lê Hàn, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng, Lê Thức..) thì cho ở ngõ Dương Phố, cửa Đông Trực, ngoài cửa đề Đông An Nam Dinh. Vua Chiêu Thống đến Yên Kinh được mấy hôm, thì thấy quan Đô Thống Nhương hoàng kỳ là Kim Giản, phụng chỉ vua Thanh ra phong chức Tả Lĩnh và ban cho áo mão quan tam phẩm. Còn các quan đi theo thì cấp cho mỗi người ba lạng bạc và một thạch gạo. Vua Chiêu Thống giận vì người Tàu đánh lừa bèn cùng bọn bề tôi, uống máu ăn thề, định sống chết thế nào cũng dâng biểu xin cứu viện. Nếu không thì xin đất đai hai tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên để phụng thờ tông tự, mà không nữa thì xin cho về nước vào đất Gia Định với chúa Nguyễn, để mưu đồ việc khôi phục.
Văn biểu làm xong, đến lót trước với Kim Giản, Kim Giản không nghe, vua tôi nhà Lê phục xuống đất mà kêu khóc. Kim Giản bất đắc dĩ mới mời vào an ủi, rồi nói rằng xin hãy về quán nghỉ ngơi, để thương lượng thế nào rồi sẽ cho biết.
Kim Giản bèn mưu với Hòa Thân, phân trí đày vua tôi An Nam đi ở mỗi người mỗi nơi, để khỏi kêu ca khó chịu. Chỉ để Phạm Đình Thiện, Đinh Nhạ Hành ở lại hầu hạ vua Lê."
Nguyễn Du và Nguyễn Đại Lang đến Bắc Kinh, năm 1790 trong thời điểm này, có Vua Lê Chiêu Thống tại đây, việc Vua Lê muốn xin hai tỉnh Thái Nguyên và Tuyên Quang, tại sao không xin tỉnh Cao Bằng như nhà Mạc ? Có thể có gặp gỡ Nguyễn Đại Lang, nguyên quyền trấn thủ Thái Nguyên.? .
Sau khi Nguyễn Du thăm Bắc Kinh trở về Nam thì gặp sứ đoàn Tây Sơn năm 1790 do Phan Huy Ích làm Chánh sứ sang mừng thọ vua Càn Long. Sứ đoàn đông đảo chưa từng thấy trong lịch sử gồm 120 người, trong đó có Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Ngô Văn Sở, hoàng tử Nguyễn Quang Thùy.., có cả một ban hát bội Bình Định 10 người và ông vua giả Phạm Công Trị và cả hai con voi đực làm đồ cống lễ cho vua Càn Long. Cuộc đi sứ này đặc biệt là có Lễ Ôm Gối, vua Càn Long nhận vua "giả" Quang Trung làm con tại Cung điện mùa Hè tại Nhiệt Hà, và vua Càn Long truyền cho họa sĩ vẽ truyền thần ông vua Quang Trung giả. Tôi đã đến thăm cung điện này mùa hè và vườn Ngự Uyển Nhiệt Hà năm 2009, khác với cung điện Bắc Kinh màu sắc đỏ vàng chói lọi, quá to lớn, cung điện mùa hè tại Nhiệt Hà u tịch và xinh xắn hơn, các vua Khang Hy, Càn Long đều thích về đây, tôi đến thăm cung vua Càn Long, tưởng tượng cái cảnh lễ ôm gối ông vua giả Phạm Công Trị thật buồn cười sau một trận Đống Đa quân tướng nhà Thanh chạy xiểng liểng, lại nhận vua giả làm con nuôi, cũng may vua Càn Long không gả liền công chúa cho ông vua giả, nếu gả liền công chúa làm luôn cái lễ động phòng thì sẽ tính ra sao với ông vua thật đây ?..
Trên đường đi sứ Đoàn Nguyễn Tuấn qua khỏi sông Trăn Vị thành Trịnh Châu thì bị té xe, đang trùm đầu ngủ ngựa ngã, xe lăn nhào quần áo lấm bùn nham nhở, cả người ê ẩm ( bài Độ Trăn Vị xa phúc, mạn thành. Qua sông Trăn Vị xe bị đổ, viết phiếm) Đến Hoàng Châu thì gặp người bạn văn chương họ Nguyễn từ Yên Kinh trở về bèn phóng bút làm hai bài thơ tặng. (Đoàn Nguyễn Tuấn. Hải Ông Thi tập nxb KHXH Hà Nội 1982 tr 286,287)
Bài I. Trăm năm trong cõi đời trôi nổi ta đều là khách, buổi nào chia tay trên sông Nhĩ Hà, thoáng đã mấy xuân. Anh cưởi cổ xe hai ngựa ra về, băng nhanh trên đường lộng gió về Nam. Tôi vung tay áo trắng lên đường xông pha cát bụi đến Nhiệt Hà. Bèo nước có duyên cùng trên đường này. Tang bồng vô vị cười thân tôi đó. Gặp nhau hàn huyên, tạm chuốc chén trên dòng sông Ngân. Ngày về nước nhà hẹn mùa xuân mới.
ĐẾN HOÀNG CHÂU VỪA VẶN GẶP NGƯỜI BẠN VĂN HỌ NGUYỄN TỪ YÊN KINH TRỞ VỀ BÈN PHÓNG BÚT LÀM THƠ TẶNG Trăm năm trôi nổi ta đều khách, Một biệt Nhĩ Hà thoáng mấy xuân. Song mã anh về Nam lộng gió, Vung tay tôi hướng Nhiệt phong trần. Có duyên bèo nước trên đường đó, Vô vị tang bồng cười tự thân. Chuốt chén sông Ngân mừng gặp gỡ, Nước nhà hẹn gặp lại sang Xuân.
Thơ chữ Hán Đoàn Nguyễn Tuấn, Nhất Uyên dịch thơ Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
CHÍ HOÀNG CHÂU THÍCH NGUYỄN KHẾ VĂN TỰ YÊN KINH HỒI TẨU BÚT TẶNG CHI Phù thế bách niên đô tác khách, Nhĩ Hà nhất biệt động kinh xuân. Biên xa qui sấn huân phong đạo, Tố tự hành xung Nhiệt thủy trần. Bình ngạnh hữu duyên đồng thử lộ, Tang bồng vô vị tiếu ngô thân. Ban kinh tiểu chước Ngân giang thượng, Cố quốc trùng phùng tuế hựu tân.
Chú thích : Nhiệt Hà (Cheng De) Nơi nghỉ mát của vua Khang Hy, Càn Long, cách Bắc Kinh khoảng 100 km về phía Bắc gần Vạn Lý Trường Thành, khí hậu mát mẻ. Bài II. Lòng quê đuổi theo nhạn về Nam, quán khách không thể buộc ngựa ở lâu. Móc rơi đầm đìa bông lau sắp già (báo hiệu mùa thu), gió về mát rượi mặc áo vải giây sắn chừng đã hợp. Hai người gặp nhau cuối hạ, sắp sang thu năm 1790. Cố gượng thân ốm tựa lan can thấy nặng nề. Đoàn Nguyễn Tuấn trong bài Qua sông Trăn Vị xe bị đổ, Hải Ông thi tập cho biết qua khỏi sông Trăn Vị phía Bắc thành Trịnh Châu, ngựa bỗng ngã, xe cũng nhào, trong lúc đang trùm đầu ngủ, nên còn đau. Gặp gỡ nhà văn tìm thấy đề tài để nói chuyện, mùi lan sớm ngửi (bạn bè thân thiết) bàn chuyện văn chương sôi nổi, một chén nơi nao, thấu vị ngọt ngay.
LẠI MỘT BÀI NỮA Lòng quê theo nhạn đuổi về Nam, Quán khách không dừng lâu ngựa cương. Ướt đẩm móc rơi lau cỗi ngọn, Gió về mát rượi áo the nhàn. Tựa lan can nặng nề thân ốm, Hứng thú văn nhân mãi luận bàn. Bạn hữu văn chương say gặp gỡ. Nơi nao một chén ngọt nồng nàn.
Thơ chữ Hán Đoàn Nguyễn Tuấn, Nhất Uyên dịch thơ. Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
HỰU Hương tâm dao trục nhạn đầu Nam, Khách quán na kham cửu hệ tham. Linh lộ lạc lai lô dục lão, Thanh phong qui khứ cát ưng đàm. Chi trì bệnh cốt bằng lan trọng, Giai cấu văn nhân sách chỉ đàm. Lan xú tảo văn như kiến vãn, Nhất bôi hà xứ hoạt tâm cam!
Chú thích: Lô dục lão: bông lau sắp già, chỉ tiết trời vào thu.
Cát đàm: theo Kinh Thi, đời xưa lấy dây sắn chế biến thành sợi để dệt vải, may loại áo the mặc mát.
Lan xú: Sách Gia Ngữ viết: Chơi với người thiện như vào nhà có trồng lan, lâu mà không ngữi thấy mùi thơm. Lan thất là tình bạn thâm giao.
Người bạn văn nhân của Đoàn Nguyễn Tuấn là ai ?, mà họ Đoàn gọi là văn nhân, và bạn thâm giao và bàn luận sôi nổi về đề tài gì ? Theo tôi đó chính là Nguyễn Du và đề tài bàn luận là chuyện Hồng nhan đa truân. Nguyễn Du sau khi đọc Kim Vân Kiều truyện lấy làm hứng thú, nên khi gặp Đoàn Nguyễn Tuấn bàn luận sôi nổi .Sau buổi gặp mặt này trên đường đi sứ Đoàn Nguyễn Tuấn gặp một người gảy đàn trong tiệc do quan địa phương nhà Thanh tiếp đãi, nên hứng thú làm một bài thơ Vô Đề về Hồng nhan đa truân.
Phản phất như gặp nhau ở bến sông Hán. Ngẫm nghĩ: chẳng phải cảnh ảo, cũng chẳng là cảnh thực. Má Hồng từ xưa nay thường bị số mệnh ghen ghét. Mắt xanh ngày nay, thử hỏi dễ được mấy người. Cười ta có phấn sáp mà không trang điểm cho ai. Cùng nàng duyên bèo nước hãy tạm thời thân nhau. Nhìn nhau, những hiểu lạc thú trong tình yêu. Chẳng cần nổi áng mây chiều nơi chốn Dương Đài (Tình yêu nhìn nhau trong mắt không cần tình chăn gối.)
VÔ ĐỀ Phảng phất tương phùng bến Hán Giang, Thực hay ảo mộng nghĩ miên man. Hồng nhan xưa vẫn thường bạc mệnh, Thanh nhãn nay còn ai thế gian. Cười chẳng duyên gì từ thuở trước, Thì thôi bèo nước tạm tình nàng. Nhìn nhau lòng hiểu lòng yêu dấu, Chẳng phải Dương Đài mây tối lan.
Thơ chữ Hán Đoàn Nguyễn Tuấn, Nhất Uyên dịch thơ. Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
VÔ ĐỀ Hoảng hốt tương phùng Hán thủy tân, Tư lường phi ảo, diệc phi chân. Hồng nhan tự cổ đa tăng mệnh, Thanh nhãn như kim cánh kỷ nhân. Tiếu ngã chi duyên vô xứ trước, Dữ khanh bình ngạnh tạm thời thân. Tương khan đầu hội tình trung thú, Vô dụng Dương Đài khởi mộ vân.
Chú thích Vô Đề: một thể thơ có ký thác riêng, không tiện nói rõ sự việc. Lý Thương Ẩn đời Đường hay làm thơ vô đề và có nhiều loại, trong đó có loại Diễm thể (thể diễm tình) tương tự như bài này.
Hán Thủy tân: bến sông Hán thuộc huyện Hán Dương tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Liệt Tiên truyện: Trịnh Giao Phử đi chơi ở bến sông Hán gặp hai tiên nữ đeo hai hạt châu lớn. Giao Phủ hỏi xin, hai cô cởi tặng ngay. Giao Phủ bỏ vào túi, đi vài chục bước, sờ túi thấy mất; ngoảnh lại, thì hai cô gái cũng biếnmất.
Mắt xanh: Nguyễn Tịch thời Tấn tính hào phóng, gặp bạn tốt thì tỏ vẻ vui mừng, mắt sáng lên hiện màu xanh; gặp bọn tực tử thì tỏ vẻ bực bội, mắt hiện màu trắng.
Phấn sáp chỉ người con gái đẹp. Duyên bèo nước: cảnh lênh đênh nay đây mai đó.
Dương Đài núi Vu Sơn. Theo bài Cao Đường phú của Tống Ngọc: Sở Hoài Vương lên chơi Cao Đường, chiêm bao thấy một người con gái đến hầu chăn gối, xưng là thần nữ Vu Sơn nói: Thiếp sớm làm mây, chiều làm mưa, sớm sớm chiều chiều dưới núi Dương Đài. Ý câu này nói chỉ nhìn ngắm vẽ kiều diễm của cô gái chứ không cần tình chăn gối.
Hoàng Châu, thuộc huyện Hoàng Cương , tỉnh Hà Bắc, khi đi qua nơi này Nguyễn Du nhớ đến Vương Vũ Xứng, nhà thơ đời Tống, khi bị trích ở Hoàng Châu có làm cái lầu bằng trúc tại đây và làm bài ký nhan đề Hoàng Châu trúc lâu ký. Bài này có lẽ Nguyễn Du đã viết từ năm 1790 khi đi một mình nhìn cảnh Hoàng Châu những bụi trúc lớn mọc khắp nơi. Người trước từng dựng lên cái lầu nơi này. Nền cũ thành đất hoang từ bao giờ ? Bài ký Hoàng Châu từ xưa vẫn còn. Người đời sau luống cảm động việc nghìn năm cũ.. Trong bài ký Vương Vũ Xứng có viết : Trong bốn năm phải bôn tẩu, chưa biết sang năm lại đi nơi nào, há sợ lầu trúc này dễ hỏng nát sao ? Đương buổi ấy đâu có tính việc năm sau. Chỉ có sông Trường Giang là khéo thu xếp. Việc nên, việc hư, đều tuôn cả về bể đông.
LẦU TRÚC HOÀNG CHÂU Từng khóm trúc to mọc khắp nơi, Nơi đây người trước dựng lầu chơi. Đến nay nền cũ thành đồng vắng. Bài ký Hoàng Châu vẫn để đời. Luống cảm người sau vì chuyện cũ. Đương thời ai nghĩ chuyện ngày mai. Nên hư, mọi việc về biển cả, Chỉ có Trường Giang sắp giỏi thôi.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ. Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
HOÀNG CHÂU TRÚC LÂU Hợp vi cự trúc biến giao cù, Tằng hữu tiền nhân kiến thử lâu. Cựu chỉ hà thời thành bạch địa, Di văn tòng cổ ký Hoàng Châu. Hậu nhân đồ hữu thiên niên cảm, Đương nhật tằng vô cách tuế mưu. Duy hữu Trường Giang xảo thu thập, Nhất thành nhất hủy tẫn đông lưu.
Nguyễn Du về trước đến Long Châu. Bài Xuân Dạ ghi lại nỗi lòng nhớ quê hương ngàn dậm, trước đèn rơi lệ thức giữa đêm chờ sáng, nhìn bóng liễu trước song âm u trong đêm, nghĩ đến những ngày thân bệnh nơi đất khách, mưa xuân suốt đêm tàn, ở đất khách lâu ngày, chong đèn đêm mà rơi lệ, nhìn ánh trăng khuya lòng thêm bối rối, ngoài xóm Nam Đài có dòng Long Thủy chảy, tiếng sóng lạnh lùng tiển đưa kim cổ. Theo Đào Duy Anh, Nam Đài là một xóm của Tiên Điền, Long Thủy là Thanh Long Giang một tên khác của sông Lam . Điều này không thể đúng vì trong bài Xuân Dạ, Nguyễn Du nói cách quê hương ngàn dậm.. Tôi xem lại sách của ông Nguyễn Quốc Phẩm. Văn Hóa Làng Tiên Điền truyền thống và hiện đại. nxb Chính Trị Quốc Gia , Hà Nội 1998, làng Tiên Điền chỉ có các thôn : Bảo Kệ, Đông Giáp, Tiền Giáp, Võ Phấn, Văn Trường. Do đó thôn Nam Đài không nằm ở làng Tiên Điền, Hà Tĩnh, mà ở Long Châu, Trung Quốc có dòng Long Thủy chảy qua. ĐÊM XUÂN Đêm đen nào thấy ánh thiều quang, Bóng liễu âm u rủ trước song. Thân bệnh giang hồ ngày tháng mãi, Gió mưa xuân mới suốt đêm tàn. Lâu năm khách dưới đèn rơi lệ, Ngàn dậm nhớ quê nguyệt gửi lòng. Ngoài xóm Nam Đài, Long Thủy chảy, Tống cổ kim đi, tiếng lạnh lùng.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
XUÂN DẠ Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm, Tiểu song khai xứ liễu âm âm. Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu, Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm. Ky lữ đa niên đăng hạ lệ, Gia hương thiên lý nguyệt trung tâm. Nam Đài thôn ngoại Long Giang thủy, Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim.
Bài thơ cho thấy nỗi lòng Nguyễn Du, nôn nao sau ba năm lưu lạc xứ người, nay sắp về quê hương, chờ đêm dài chưa thấy sáng, dưới đèn khuya , nhớ quê hương mà rơi lệ. Nguyễn Đại Lang, kinh nghiệm một tay anh hùng Việt Đông, giang hồ quen thói vẫy vùng, có lý khi chu cấp cho Nguyễn Du chiếc xe song mã, đi thong dong về Nam, như một "thái tử " hay "công tử " con nhà quan đi xe "đời mới" ngày nay. Ở Trung Quốc, lính tráng, sai nha, công an mọi thời : Lạ gì cái thói sai nha, làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền, hay bắt nạt những người ăn mặc đi bộ như thường dân, từ đường mòn đi ra : Núi cao gặp hổ mà vô sự, Đường phẳng gặp người bị tống lao ! (Hồ Chí Minh, Thơ Ngục Trung Nhật Ký). Nguyễn Du không cần như "Quan Vân Trường phò nhị tẩu" qua năm ải chép sáu tướng. Với chiếc xe song mã, như Đoàn Nguyễn Tuấn mô tả, công tử Nguyễn Du chạy thẳng về Thăng Long, yên thân chẳng có lính tráng, sai nha hay công an tham nhũng nào dám làm khó dễ hỏi giấy tờ !.
Paris, 1-3-2013 TS Phạm Trọng Chánh
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 9:47:21 GMT 9
Quế Hiên Nguyễn Nể "Bậc kỳ tài, vua Quang Trung nể vì học thức thường gióng ngựa quý tới thăm". TS Phạm Trọng Chánh
Từ cuối năm 1790, đến 1794. Nguyễn Du về sống tại Thăng Long, thời gian này anh Nguyễn Nể đang làm quan Tây Sơn tại Thăng Long. Đó là người anh thân thương nhất của Nguyễn Du, cùng cha cùng mẹ, cha mất lúc Nguyễn Du 10 tuổi, mẹ mất lúc 12 tuổi, anh em được ông anh cả Nguyễn Khản nuôi dưỡng. Ông anh cả Nguyễn Khản trong vụ án Trịnh Tông năm 1780, bị giam, nhà chúa nể tình tha cho không bị giết. Khi chúa Trịnh Sâm mất năm 13 tháng chín năm Nhâm Dần 1782 thọ 44 tuổi, Trịnh Cán còn thơ ấu được phe Quận Huy, Đặng thị Huệ bế lên làm chúa, quân lính không phục nổi loạn giết quận Huy, phò Trịnh Tông từ nhà giam lên nối ngôi, Nguyễn Khản thầy dạy Trịnh Tông trở thành Thượng Thư Bộ Lại kiêm trấn thủ Hưng Hóa và Thái Nguyên, năm đó Nguyễn Du thi đỗ Tam Trường, được Nguyễn Khản phong chức Chánh Thủ Hiệu quân Hùng hậu hiệu, nắm giữ đội quân hùng hậu nhất Thái Nguyên, cùng thuộc hạ là Nguyễn Đăng Tiến , tước Quản Vũ Hầu làm quyền Trấn thủ Thái Nguyên, Nguyễn Quýnh làm Trấn Tả Đội. Tại Thăng Long Nguyễn Khản cùng em Thái Phi là Dương Khuông trở thành rường cột của triều đình toan thiết lập uy quyền. Nhân có 4 kiêu binh giả danh nghĩa hiếp đáp một người lái buôn mượn thuyền, bị đội trưởng phát giác, triều đình đem chém cả bốn. Tiếp đến kiêu binh rước hoàng tự tôn Lê Duy Kỳ, bị giam con Thái Tử Lê Duy Vỹ bị chúa Trịnh bức tử, đưa Duy Kỳ lên làm Hoàng Thái Tử. Kiêu binh càng lộng quyền vì cho rằng chúa và vua đều do chúng dựng nên, họ kéo đến cung cua đòi ban thưởng, vua sai đánh cá hồ sen lên làm gỏi thết đãi cả bọn. Trong lúc kiêu binh đang chè chén. Nguyễn Khản và nhà chúa bàn và sai Triêm vũ hầu đem quân đến bắt được 7 tên, triều đình nghị sự đem ra chém. Vụ này làm bùng lên sự nổi giận của đám kiêu binh. Nguyễn Khản bị kiêu binh kéo đến đốt phá tiêu tan cả dinh thự, nhờ có người kiếm khách gốc người Trung Quốc chống cự, Nguyễn Khản trốn được lên Sơn Tây với Nguyễn Điều, đang làm Trấn Thủ Sơn Tây. Dương Khuông và Nguyễn Triêm trốn vào phủ chúa. Chúa Trịnh và Thái Phi phải ra khóc lóc kêu nài, và xin đem tiền chuộc mạng cho em Thái Phi là Dương Khuông, mới được tha. Triêm Vũ hầu Nguyễn Triêm bị kiêu binh giết chết. Nguyễn Khản và Dương Khuông đều bị bãi chức. Nguyễn Khản toan đem quân các trấn về, nhưng kiêu binh giam giữ chúa Trịnh nên không làm gì được, Nguyễn Khản bỏ về Hà Tĩnh. Quyền bính về tay đám kiêu binh, uy quyền vua Lê, chúa Trịnh chẳng còn gì cả. Khi Nguyễn Hữu Chỉnh thuộc hạ của Hoàng Đình Bảo phe quận Huy và Đặng Thị Huệ phò vương tử Cán, Quận Huy bị kiêu binh giết, Chỉnh sang đầu hàng Tây Sơn, làm tiên phong dẫn quân Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc, quân chúa Trịnh đánh đâu thua đó. Năm 1786, Nguyễn Khản từ Nghệ An về kinh làm cố vấn cho nhà chúa, bàn mưu chống cự Tây Sơn, bị bọn kiêu binh họp nhau ồn ào ầm ỹ, cho rằng Nguyễn Khản đưa giặc đến. Khản phải cướp đường chạy đi Sơn Tây. Trịnh Tông tế voi ra chiến đấu, thua trận chạy trốn và bị bắt phải tự vẫn. Nhà Trịnh sụp đổ, hai ông anh lớn Nguyễn Khản, Nguyễn Điều gia phả chép bị bệnh mà mất trong hoàn cảnh này và được an táng tại làng Tiên Điền.
Nguyễn Nể ra làm quan Tây Sơn, chống đỡ sự sụp đổ của gia đình. Có lẽ chúng ta chưa nghiên cứu kỹ về Nguyễn Nể và những đóng góp Nguyễn Nể với triều đại Tây Sơn. Lời Đoàn Nguyễn Tuấn khi sứ thần nhà Thanh hỏi : Ai là đỉnh cao thi ca nước Nam ? Đoàn Nguyễn Tuấn trả lời : Là Quế Hiên Nguyễn Nể . Dưới ngòi bút Phan Huy Ích : Nguyễn Nể là bậc kỳ tài, Vua Quang Trung nể vì học thức, thường gióng ngựa quý đến thăm .
Vua Quang Trung là người biết trọng nhân tài, trong lịch sử Việt Nam ít ai sánh bằng. Không ai cười vua Quang Trung văn viết nôm na, ít học khi viết phê việc Văn Miếu bị phá, nhưng kính trọng vua Quang Trung là người biết dùng nhân tài. Vua Quang Trung dùng Trần Văn Kỷ, Nguyễn Thiếp, Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Ngô Văn Sở.. chúng ta đã biết, nhưng với Nguyễn Nể, vua không sai người triệu đến hỏi ý kiến mà thường gióng ngựa quý tới thăm, chứng tỏ Vua Quang Trung còn trân trọng với Nguyễn Nể, người anh của Nguyễn Du đến bậc nào.
Anh Nguyễn Nể,(1761-1805) con quan Tư Đồ (Tể Tướng) Nguyễn Nghiễm và bà Trần thị Tần, ông ngoại là Trần Ôn, hiệu Quyển Lự, làm chức Câu Kê (Kế toán) cho Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm, gia phả họ Trần sao chép năm Thành Thái thứ sáu (1906) làng Hoa Thiều, Từ Sơn, Bắc Ninh có hai người đỗ đạt là Tiến Sĩ Trần Ngạn Húc và Tiến Sĩ Trần Phi Nhãn.
Theo gia phả Nguyễn Nhiệm vị tổ đầu tiên gốc làng Canh Hoạch, Thanh Oai Hà Tây, sau khi ý đồ phục hưng nhà Mạc không thành vàio Tiên Điền tạo dựng cơ nghiệp vào giữa thế kỷ XVI. Nguyễn Nhiệm gắn bó với dân làng bằng nghề bốc thuốc. Trong trước tác họ Nguyễn Tiên Điền có hai tác phẩm về y học là Nam Dương tập yếu kinh nguyên và Từ Âu chân truyền của Nguyễn Quỳnh. Nguyễn Quỳnh sinh ba người con trai là Nguyễn Huệ, Nguyễn Nghiễm, và Nguyễn Trọng.
Quan Tư Đồ Nguyễn Nghiễm (1708-1775) tự Hy Tư, tiểu húy là Thiều, hiệu Nghị Hiên, Hồng Ngư cư sĩ, Anh ông là Nguyễn Huệ (1705-1733) tự Tư Hoà, hiệu Giới Hiên đỗ Tiến sĩ năm 1733 và mất sau ngày vinh quy năm 29 tuổi. Em ông là Nguyễn Trọng ( 1710-1789) tự Thúc Văn hiệu Nhã Hiên, 1732 đỗ Tứ Trường Thi Hương, làm Tri huyện Trường Khánh Lạng Sơn, 1743 thi Hội đỗ Tam Trường thăng Thừa Chánh Sứ Lạng Sơn. 1771 đổi sang võ chức Tham Đốc.
Nguyễn Nghiễm, đỗ Tiến Sĩ từng làm Tế Tửu Quốc Tử Giám sau làm quan đến chức Tư Đồ (Tể Tướng) tước Xuân Quận Công, ông có 8 người vợ và 21 người con trong đó có 12 người con trai.
Người cả là Nguyễn Khản (1734-1786) con bà Đặng Thị Dương quê Hà Tĩnh. Đỗ Tiến Sĩ năm 1760, làm quan to Tả Thị Lang, kiêm Hiệp Trấn Sơn Tây rồi Thượng Thư Bộ Lại. Ông là người phong lưu rất mực thích thơ nôm và đã diễn ca Chinh Phụ Ngâm (văn bản mới tìm được lại là bản F trong sách Chinh Phụ Ngâm bị Khảo của GS Hoàng Xuân Hãn). Ông là thầy của Thế Tử Trịnh Tông, và là bạn câu cá, ngâm thơ, hát xướng được ngồi ngang hàng với chúa Trịnh Sâm. Ngoài ra ông còn có tài kiến trúc, mọi việc xây dựng từ hòn non bộ đến cung vua phủ chúa đều do ông. Chính thất ông là Đặng Thị Vệ (1736 ?) người nuôi dưỡng anh em Nguyễn Du. Con ông Nguyễn Công tham gia Sùng Chính Viện của Nguyễn Thiếp đời Tây Sơn, hai con gái là Nguyễn Thị Bành, Nguyễn thị Đài lần lượt kết hôn với Nguyễn Huy Tự (1743-1790). Huy Tự đậu Tứ Trường thi Hương, làm quan Trấn Thủ Hưng Hóa, tác giả truyện nôm Hoa Tiên. Nguyễn Huy Tự có con là Nguyễn Huy Phó (1765-1838) đỗ giải nguyên, con thứ Nguyễn Huy Hổ (1783-1841) tác giả Mai Đình Mộng Ký.
Nguyễn Điều hay Điền hay Cương ( 1736 - 1786), con bà Đặng Thị Thuyết em bà cả người Hà Tĩnh, đỗ Tứ Trường kỳ thi Hương năm Kỷ Mão 1759, làm Hiệp Trấn Sơn Tây, Hoàng Lê NTC đánh giá là người nhiều mưu kế. Con ông và bà phu nhân họ Bùi, con gái Đoan quận Công Bùi Thế Đạt là Nguyễn Thiện (1763-1818), tự Khả Dục, hiệu Thích Hiên, đỗ Tứ Trường năm Quý Mão 1783, có tham gia Sùng Chính Viện thời Tây Sơn, đời Gia Long ông ẩn cư ở quê nhà và nhận sắc truyện Hoa Tiên của Nguyễn Huy Tự. Con thứ Nguyễn Điều là Nguyễn Hành (1771-1824) hay Đạm tự Tử Kính, hiệu Nam Thúc, Ngọ Nam, Nhật Nam, là một trong năm người An Nam ngũ tuyệt. Mất cha năm 15 tuổi, không thấy Nguyễn Hành ra thi cử thời Gia Long, ông sống thanh bần khi ở Thăng Long, khi ở quê nhà Hồng Lĩnh, ông có tham gia soạn Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh với Ngô Thời Nhậm. Hưởng dương 53 tuổi ông để lại hai tập thơ Quan Đông Hải và Minh Quyên thi tập.
Nguyễn Nhưng con bà Hồ Thị Ngạn ở Hà Tĩnh, đậu Tứ Trường năm Quý Mão 1783 ông ở Hà Tĩnh và sống về nghề thuốc. Có con là Nguyễn Y, tự là Giác Phủ người soạn tục biên gia phả họ Nguyễn Tiên Điền, những lầm lẫn trong gia phả Nguyễn Tiên Điền về Nguyễn Du có lẽ xuất phát từ đây vì Nguyễn Y chỉ ở Tiên Điền nên không biết rõ những sự kiện xãy ra ở Thăng Long, Thái Nguyên cũng như ở Quỳnh Hải cũng như ở Hoa Thiều, Chu Kiều, Bắc Ninh.
Nguyễn Quýnh (1761-1791) hiệu Sĩ Hữu ,con bà Nguyễn Thị Xuyên, đậu Tam Trường làm quan Trấn Tả Đội, khởi nghĩa chống Tây Sơn tại Tư Nông cùng Quản Vũ Hầu Nguyễn Đăng Tiến, bị chỉ huy Giáo bắt giải về cho Vũ Văn Nhậm. Nhậm tha chết, cùng Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Du đi Vân Nam, đến Liễu Châu lại trở về chống Tây Sơn tại Tiên Điền, bị Trấn Thủ Tây Sơn là Lê Văn Dụ bắt giết, làng Tiên Điền bị làm cỏ.
Nguyễn Trứ hay Trừ (1760-1809) con bà Nguyễn thị Xuân quê làng Chu Kiều xã Tiêu Sơn, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh đậu Tứ Trường khoa Kỷ Hợi, năm 1779, từng làm tri huyện Siêu Loại, tri phủ Kinh Môn, Nam Sách, (Hưng Hóa), Theo Lê Quý kỷ sự tr 57 chép : Khi Lê Chiêu Thống lên ngôi, Nguyễn Trứ được mật dụ nhà vua sai tuyển phiên mục Hưng Hóa là bọn Đinh Công Hồ và Đinh Công Trinh dấy quân vào bảo vệ hoàng thành để gìn giữ cho nhà vua. Hồ vâng chiếu chỉ điều bát hết quân các bộ lạc và quân miền sơn cước Sơn Tây, được đến hơn một vạn người. Trấn Sơn Tây bị rung động. Chưởng phủ sự Hoàng Phùng Cơ xin với nhà chúa Trịnh Bồng kéo quân về Sơn Tây để trấn áp bọn Hồ. Thời loạn lạc ông về quê mẹ làm nghề thuốc. Có con gái là Nguyễn Thị Uyên nổi tiếng là thầy thuốc giỏi, được tuyển vào cung vua Gia Long làm ngự y chữa bệnh cho các cung nữ sau bà trở về quê mẹ huyện Yên Phong Bắc Ninh và mất năm 49 tuổi. Con trai là Nguyễn Trù làm tri phủ Vĩnh Tường.
Nguyễn Nghi, hiệu là Chu Kiều, con bà Nguyễn Thị Xuân, làm nghề thầy thuốc, có con là Nguyễn Toản ( hay Tản), nhà xã Cẩm Chương, Bắc Ninh, đậu Cử Nhân Khoa Mậu Tý (1828), đỗ Đồng Tiến Sĩ khoa Nhâm Thìn (1832) đời Minh Mạng làm quan đến chức Viên ngoại Lang, Nguyễn Toản học với quan Tế Tửu Phạm Đình Hổ, đỗ Tiến sĩ được Phạm Đình Hổ tặng hai câu : Thanh thủy luân khôi, Khoa đồ phát nhẫn (nước xanh đỗ trạng, khoa đồ vẻ vang)
Nguyễn Nghi diễn ca truyện thơ Quân Trung Đối, 1 116 câu (GS Võ Thu Tịnh giới thiệu in lại bản trên tạp chí Luận Đàm Sài Gòn năm 1961-1962 số 4-9, do GS Nghiêm Toản chú thích, nxb Đông Nam Á Paris ấn hành 1997, sách này lầm lẫn cho là tác phẩm Quân Trung Đối của Nguyễn Ức, nhưng Nguyễn Ức không phải là thân sinh của Nguyễn Toản và cũng không làm nghề thầy thuốc). Từ sau cuộc khởi nghĩa Nguyễn Quýnh, Tiên Điền bị làm cỏ, chi ở Chu Kiều hưng thịnh ngày nay còn giữ lại nhiều kỷ vật của Xuân Quận Công Nguyễn Nghiễm.
Ngoài ra có Nguyễn Cảnh không rõ con các bà Phan Thị Diên, hay bà Hoàng Thị Thược là một thầy thuốc giỏi, gia phả cũng ghi : Ông học rộng, hay thơ nhưng không ra làm quan, chịu khó sưu tầm các sách y học.. Ông chế biến rất tài tình, nên người ta gọi thuốc ông là thuốc thánh. Nguyễn Hành gọi là lương tướng.
Bà Trần Thị Tần(1735-1778) là vợ thứ ba có 4 người con trai và một người con gái :
- Nguyễn Trụ tức Dao (1758-1776) thi Hương đậu Tứ Trường năm Tân Mão 1771, 15 tuổi, được bổ làm Hồng Lô tự thừa. Có tài thơ văn được Chúa Trịnh khen là Hổ phụ sinh hổ tử, tiếc thay mất lúc 18 tuổi.
- Nguyễn Nể tức Đề (1761-1805) (Nể là kính nể viết dấu hỏi) đậu Tứ Trường năm Kỷ Hợi 1779.
- Nguyễn Thị Diên, có chồng là Tiến Sĩ Vũ Trinh (1769-1828) đỗ Hương tiến năm 1786. Không rõ Nguyễn Thị Diên là chị hay em Nguyễn Du, gia phả chép là chị, nếu là chị sanh khoảng năm 1764 thì lớn tuổi hơn chồng nhiều quá ? có lẽ là em thì đúng hơn vì như thế sanh khoảng năm 1769, 1770.
- Nguyễn Du (1766-1820) sinh ngày 23-11 năm Ất Dậu, âm lịch tính ra dương lịch là ngày 3-1-1766, đậu Tam Trường năm Quý Mão 1783.
- Nguyễn Ức (1767-1823) tập ấm Hoàng Tín Đại Phu, Trung thành môn vệ úy. Năm 1811 Vua Gia Long vời ra bổ làm Thiêm sự Bộ Công đời Gia Long tước hầu, kiến trúc sư chỉ huy vẽ kiểu, sáng chế, tính toán các công trình xây dựng Kinh thành Huế thời Gia Long , Minh Mạng có con là Nguyễn Thắng..
Nguyễn Nể tự là Tiến Phủ, hiệu Quế Hiên , thi đậu đầu khảo khóa Quốc Tử Giám, đậu đầu thi hạch. Năm 1779 thi Hương đậu Tứ Trường, Nguyễn Nể được bổ vào Thị Nội Văn thường trực tại nhà học con chúa Trịnh (Trịnh Tông), sau kiêm Trị thị nội thư tả ở Phủ Chúa, cai quản đội quân Nhất Phẩm. Năm 1783 Nguyễn Điều thay anh Nguyễn Khản, Thượng Thư Bộ Lại làm Hiệp Trấn Sơn Tây, Nguyễn Nể phụ tá làm Hiệp tán quân cơ đạo quân Sơn Tây.
Khi Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh tôn phò nhà Lê năm 1786, được Vua Lê gả công chúa Ngọc Hân, vua Lê Hiển Tông băng hà, cháu nội Lê Duy Kỳ nối ngôi hiệu Chiêu Thống, nhân dịp quân Nam tôn phò, vua Chiêu Thống hăng hái tự gánh lấy việc nhất thống. Ngoài việc sai các hoàng thân, ai về quê quê ngoại nấy chiêu tập binh mã, vua còn tìm các nho sĩ mời vào giúp việc cho mình. Hoàng Lê NTC tr 149 chép : " về mặt quan văn đã thu dùng được Ngô Vi Quý, Vũ Trinh(1769-1828), Nguyễn Nể. vua Lê ngày đêm cùng họ trù tính mọi công việc, ngay cả những mưu kế phải dùng đến trong lúc bối rối bất ngờ, cũng được lo toan chu đáo ". Sau đó không còn thấy dấu vết Nguyễn Nể HLNTC chép mâu thuẩn giữa Ngô Vi Quý âm mưu giết Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Trinh can gián âm mưu này với vua Lê. Vũ Trinh tiếp tục là một vị quan đắc lực cho triều vua Chiêu Thống. Khi Tôn Sĩ Nghị sang nước ta Vũ Trinh là Chánh Sứ phụ trách mọi công việc bang giao với Tôn Sĩ Nghị. Suốt triều Tây Sơn, (1789-1801) Vũ Trinh lánh thân ở Hồ Sơn vùng Hà Nam ngày nay, dạy học và soạn sách. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, Vũ Trinh được mời ra tham chính, nhận chức Thị Trung Học sĩ được thăng Hữu Tham Tri Bộ Hình năm 1807 làm Chánh Sứ cùng Ngô Nhân Tĩnh đi sứ nhà Thanh. Năm 1816 ông có ý bênh vực cho học trò ông là Nguyễn Văn Thuyên, con Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành nên bị đày đi Quảng Nam 12 năm, đến năm 1828 mới được ân xá, trở về quê vài ngày thì bị bệnh mất hưởng dương 59 tuổi.
Thời gian 1788, Tôn Sĩ Nghị sang chiếm nước ta, vua Lê Chiêu Thống thanh trừng những người cộng tác với nhà Tây Sơn. Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích nhận chức tước của vua Quang Trung, bị đục tên khỏi bia Văn Miếu, truất về làm dân về làng gánh vác sai dịch. Phạm Như Toại bắt em vua nộp cho Tây Sơn, Nguyễn Bành dẫn quân đuổi theo vua, bị chém ngang lưng. Nguyễn Quý Nha, Trần Bá Lãm, Võ Huy Tấn viết thư mạo xưng giám quốc Sùng Nhượng Công để mong xin hoãn binh, đều bị hạ ngục. Nguyễn Nể làm gì trong thời gian này, ông không có trong danh sách những người bị tội, có lẽ ông về quê mẹ, làng Hoa Thiều, Bắc Ninh. Năm 1789 vua Quang Trung ra Bắc đánh bại Tôn Sĩ Nghi quét sạch quân Thanh ra khỏi bờ cõi, Nguyễn Nể được vời ra bổ làm Hàn Lâm Thị Thư và làm Phó Sứ sang Trung Quốc cầu phong nhà Thanh cho Vua Quang Trung, Vũ Huy Tấn làm Chánh Sứ, sứ đoàn còn có Ngô Vi Quý , Nguyễn Đình Cử, Nguyễn Quang Hiến.. Trong cuộc đi sứ, vua Càn Long mời dự yến ở Các Tứ Quang ông làm thơ chúc mừng, vua Càn Long thưởng cho một tấm đoạn, hai thỏi mực và 3 tập hoa tiên lụa. Trở về được thăng Đông Các Học Sĩ, Thái tử Tả Thị Lang, Nghi Thành Hầu, được giao việc cai trị tại Bắc Hà. Do đó từ năm 1789 cho Nguyễn Nể và Vũ Huy Tấn là người có trách nhiệm về ngoại giao với nhà Thanh.
Vua Quang Trung mất ngày 29 tháng 7 năm 1792, để lại sự nghiệp dỡ dang, vua Cảnh Thịnh lên ngôi mới mười tuổi, mọi việc trong tay người cậu là Bùi Đắc Tuyên, không đủ bản lĩnh dùng người, các tướng lĩnh chia phe đánh nhau. Quân sư Trần Văn Kỷ bị đày, Ngô Thời Nhiệm từ năm 1798 lui về Bích Câu trở thành Hải Lượng Đại Hoà Thượng viết Trúc Lâm Tông chỉ Nguyên Thanh, Phan Huy Ích lui về dạy học tại hồ Kim Âu . Năm 1794, Nguyễn Nể vào Phú Xuân làm việc Viện Cơ Mật, ông giao phó tiền bạc cho hai em là Nguyễn Du và Nguyễn Ức về xây dựng lại từ đường, đền thờ, cầu Tiên, chùa Trường Ninh làng Tiên Điền bị Hiệp Trấn Tây Sơn Lê Văn Dụ đốt phá nhân vụ Nguyễn Quýnh khởi nghĩa. Nguyễn Nể sau đó được phong Tả phụng Nghi Bộ Binh, hàm Tam phẩm, được cử làm Hiệp Tán Nhung vụ Quy Nhơn. Năm 1795 được cử làm Chánh Sứ sang dự lễ vua Càn Long nhường ngôi cho con là vua Gia Khánh. Nguyễn Nể dâng hai bài thơ ứng chế được vua Càn Long đích thân mời uống rượu và dự yến Các Tử Quang. Nguyễn Nể được vua Càn Long khen thơ và ban thưởng : gấm đoạn, trà sen, gậy tuổi già, ngọc như ý, tứ bửu.. Cháu 24 đời Chu Văn Công tri phủ Tứ Thành tặng bốn chữ Thiên Môn Tái Đăng (hai lần lên cổng trời) Trung Hiếu Đại Phu Hoàng Phu Thái tặng bốn chữ Hồng Sơn Thế Phổ (dòng dõi nổi tiếng núi Hồng), mùa thu 1796 sứ đoàn về nước, hai lần đi sứ của Nguyễn Nể đều được vẻ vang, vua và triều đình nhà Thanh kính trọng,trở về được vua Cảnh Thịnh ban thưởng 40 mẫu ruộng và thăng chức Tả Đồng Nghị Trung thư sảnh.
Khi Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân năm 1802, lên ngôi lấy hiệu Gia Long, Nguyễn Nể trốn tránh được gọi ra. Nguyễn Nể dâng sớ được Vua Gia Long ban thưởng và cho theo ra Bắc làm việc dưới quyền Tổng Trấn Bắc Thành Nguyễn Văn Thành, (sự việc này các sách thường lầm lẫn với Nguyễn Du, vì lúc đó Nguyễn Nể đã có danh tiếng, nên Vua Gia Long đang cần đến ngoại giao với nhà Thanh mới mời ra, còn Nguyễn Du lúc đó vô danh, Nguyễn Nể không bị Đặng Trần Thường đem ra đánh tại Văn Miếu như Ngô Thời Nhậm, Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Phan.. )
Nguyễn Nể lo việc chỉ dẫn cho sứ đoàn Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức đi sứ cầu phong năm 1802. nhưng không thấy ông nhận một chức vụ gì. Năm Quí Hợi 1803-1804 sứ đoàn Tề Bồ Sâm nhà Thanh đến phong vương cho vua Gia Long, được Gia Long tiếp . Nguyễn Du là người tiếp sứ cùng với Tri phủ Thượng Hồng Trần Quý Chuyên, tri phủ Thiên Trường là Ngô Nguyễn Viên cùng tri phủ Tiên Hưng là Trần Lưu đi nghênh tiếp từ Lạng Sơn. Thơ văn tống tiễn sứ đều do Nguyễn Du thảo ra. Có lẽ Nguyễn Nể cũng đóng một vai trò cố vấn trong việc phong vương lần đầu tiên này, nhưng vì vua Gia Long vì muốn tránh tiếng hay nghi kỵ, không muốn dùng người Tây Sơn đã dùng, nên dùng Nguyễn Du thay cho Nguyễn Nể, và Ngô Thời Vị thay cho anh là Ngô Thời Nhiệm. Phan Huy Thực, Phan Huy Chú thay cha Phan Huy Ích. Phan Huy Thực, Chánh sứ năm 1817 Phan Huy Chú đi sứ làm Chánh sứ năm 1825, 1830. Năm 1820, Khi Nguyễn Du mất Ngô Thời Vị được thay làm Chánh Sứ. Năm 1805 nhân có người thiếp mất, Nguyễn Nể về quê bị tri phủ Trần Văn Chiêu truy bức, ông uất ức mà mất lúc 44 tuổi.
Các bạn đồng thời, những ngòi bút lớn như Phan Huy Ích, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ninh Tốn.. ca tụng, và quý mến Nguyễn Nể một bậc kỳ tài, tài đức toàn diện. Ta thử đọc các bài thơ người đồng thời viết về Nguyễn Nể : Phan Huy Ích, trong Dụ Am Ngâm Lục tập II nxb KHXH Hà Nội tr 96 -101, Không biết trong sử sách có người nào được ca tụng hơn thế này không ? Nguyễn Nể được vua Quang Trung nể vì học thức thường gióng ngựa quý tới thăm, được vua trọng vọng nơi cung điện. Là bậc kỳ tài của châu Hoan, đạo đức làm rạng rỡ quê tổ tiên. Là người tiến thủ, tài ba, khí phách, (có lẽ Phan Huy Ích muốn nói, thời Lê Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị trở về, trả thù ông không bị tội, thời Gia Long lên không trị tội mà còn dùng ông) từ trẻ đã tỏ ra xuất sắc cơ trí ở đời từng trải sớm. Đức độ kiến thức ngày càng rộng lớn. Khí tiết như thông chịu đựng sương buốt. Phẩm chất như ngọc bao phen mài dũa. Bản lĩnh có từ lòng trung tín. Hành động cử chỉ đều lỗi lạc. Hiểu nghĩa lý đến tận kẻ tóc chân tơ. Thoáng câu chuyện tỏ ra người sắc bén. Làm bạn khắp thế gian, gắn bó như ruột thịt. Nhìn rõ mọi việc thiên hạ. Nắm vững để vận dụng. Tạo hóa ban phẩm chất kỳ lạ. Giao cho trách nhiệm thật xứng đáng... Ba năm cây đàn, thanh kiếm đi khắp đó đây. Khi chén rượu câu thơ vẫn thường vui vẻ. Đấng trượng phu trên đường công danh. Giữ chí sao mà đoan trang đúng mực . Phía Nam biển rộng mênh mang. Đất mới khai thác của triều thịnh. Quy Nhơn là ấp thang mộc quê hương vua Quang Trung. Cũng là nơi then chốt cần bậc anh tài. Dân vừa được vỗ về yên ổn. Uy danh quân đội đang lừng lẫy. Khi triều đình cần người đến trấn giữ bờ cõi, thì khẳng khái đến nơi hổ trướng cầm quân. Lòng hùng khiến mây khói khí độc tan hết, tiếng thanh cao tỏ rõ ở cây đàn, con hạc. Cửa bể Thị Nại sóng cuồn cuộn, đỉnh núi Cù Mông mây man mác, chí bốn phương nay thoả nguyền. mài núi khắc câu thơ đẹp. Khúc khài ca công lớn tâu lên. Miếng đỉnh chung ơn trên thấm xuống. Nâng chén rượu tiễn lá cờ người lên đường, kẻ ở lại lòng tự thấy thẹn. Còn có sự ca tụng nào hơn nhất là dưới một ngòi bút lừng danh như Phan Huy Ích từng dịch Chinh Phụ Ngâm Khúc.
BÀI TIỄN ÔNG TẢ PHỤNG NGHỊ BỘ BINH NGHI THÀNH HẦU HỌ NGUYỄN ĐI THÀNH QUY NHƠN Sông núi Hoan gấm vóc, Chung đúc bậc kỳ nhân. Rạng rỡ quê đạo đức, Điềm lành sinh phượng lân. Tiến thủ biết khí phách. Từ trẻ tỏ xuất sắc, Cơ trí từng trải đời, Đức độ rộng kiến thức. Khí tiết như tùng bách, Phẩm chất mài như ngọc. Bản lĩnh tự tín trung, Hành động thường lỗi lạc. Hiểu lý tận tóc tơ, Nói chuyện người bén sắc. Làm bạn khắp thế gian, Gắn bó như ruột thịt. Nhìn rõ việc thiên hạ, Nắm vững để vận hành. Tạo hóa tính kỳ lạ, Giao trách nhiệm xứng danh. Gặp gỡ thánh minh trị; Đi thăm gióng ngựa quý. Học thức vua nể vì, Nơi thanh toả dốc trí. Ba năm dạo gươm đàn, Thơ rượu thường vui vẻ. Đấng trượng phu công danh, Chí dũng giữ đúng thể. Phía Nam biển mênh mang, Đất mới triều khai thác. Ấp thang mộc Quy Nhơn, Anh tài nơi then chốt. Dân vỗ về yên ổn, Uy danh quân lẫy lừng, Triều đình cần người trấn, Khẳng khái đến cầm quân. Lòng hùng khí độc tan, Thanh cao tiếng hạc đàn. Thị Nại sóng cuồn cuộn, Cù Mông mây mác man. Chí bốn phương thoả nguyền, Mài núi khắc thơ hùng. Bài khải ca tấu khúc, Miếng đỉnh chung thấm ơn. Nâng chén rượu lên đường, Kẻ ở lòng thấy thẹn. Thơ Phan Huy Ích, Nhất Uyên dịch thơ Nguyên tác phiên âm Hán Việt: TIỄN BINH BỘ TẢ PHỤNG NGHỊ NGHI THÀNH NGUYỄN HẦU PHÓ QUY NHƠN THÀNH Ngã Hoan hảo giang sơn, Chung bẩm đa kỳ trác. Thế đức diệu tiên hương, Nhân thụy xuất lân nhạc. Tiến phủ bão tài khí, Diệu linh kiến đầu giác, Cơ thức tảo duyệt thục, Khí thế du hoành bác. Tùng tiết nại nghiêm ngưng, Ngọc chất kinh ma trác. Bản lĩnh tự trung tín, Động tức thường lỗi lạc. Chúc lý cập hào mang Lập đàn sinh phong ngọc. Biến giao thế gian nhân, Hệ thuộc vi tâm lạc. Nhàn thị thiên hạ sự, Vận dụng tại chưởng ác. Tạo hóa dữ kỳ phẩm, Giáng nhậm lương bất thác. Tao tế thánh minh thì, Tuân tư giá hoa lạc. Vọng học vu thần cố, Chu tuyền thanh tỏa các. Tam niên cầm kiếm du, Ngâm chước bất cải lạc. Trượng phu pho công danh, Bỉnh chí há đoan xác. Hạo diểu hải chi nam, Hy đại tân khai thác. Quy Nhơn thang mộc địa, Khu hoản ỷ khôi thạc. Dân dung sơ phủ tập, Quân thanh phương trấn bạc. Triều đình trọng hành biên, Khẳng khái tựu nhung mạc. Tráng tâm tễ yên lam, Thanh khiếu đái cầm hạc. Thị Nại đào hung dũng, Cù Mông vân lạc mạc. Huyền hồ thù sơ chí, Ma nhai lặc giai tác. Khải ca tấu kỳ huân, Chung đỉnh đàm tân ác. Bả bôi tống chinh huy, Cư giả diệc tâm tạc. Đoàn Nguyễn Tuấn trong bài Kỷ Dậu trọng thu nghinh tiếp sách sứ. Sau khi Nguyễn Nể làm Phó Sứ cùng Vũ Huy Tấn làm Chánh Sứ sang nhà Thanh năm 1789-1790. Một sứ đoàn nhà Thanh sang phong vương, sứ giả hỏi: Ai là người hay thơ nhất nước Nam ?, Đoàn Nguyễn Tuấn trả lời : ấy là Quế Hiên Nguyễn Nể, đỉnh cao nhất trong thi ca Việt Nam đương thời: Sau gió Bắc Phong ca hát lại đến Nam Phong. Sau khi sứ đoàn nhà Thanh ngâm thơ tặng xong lại đến các quan Việt Nam. Vận nước cơ trời đổi thay, lại thông thương tiếp sứ với nhau. Chưa hỏi các ngôi sao sáng trong văn học Việt Nam đương thời, tôi chỉ là người khách biển theo phò. Lại làm quen với tao ông mặc khách từng ngao du sơn thủy khắp nơi. Tôi chỉ là người phương xa quê mùa, mấy thuở mới thấy được hội xiêm áo chốn cung đình, nửa đời công bút nghiên sắp vất hết để về vườn. Nếu khách hỏi ai là người giỏi nhất thi ca nước Nam hiện nay, thì Quế Hiên là đỉnh cao nhất. THÁNG TÁM NĂM KỶ DẬU ĐÓN TIẾP SỨ GIẢ SANG PHONG VƯƠNG Bắc Phong ca hát đến Nam Phong, Thay đổi cơ trời cùng lại thông. Chưa hỏi Đầu Ngưu phò hải khách, Làm quen sơn thủy với tao ông. Phương xa mấy thuở hội xiêm áo, Sắp ném nửa đời công bút nghiên. Tiệc khách hỏi ai thơ nhất nước, Quế Hiên thi trận đỉnh cao phong.
Thơ chữ Hán Đoàn Nguyễn Tuấn, Hải Ông thi tập Nhất Uyên dịch thơ.
Phiên âm Hán Việt:
KỶ DẬU TRỌNG THU NGHINH TIẾP SÁCH SỨ Bắc Phong ca bãi hựu Nam Phong, Tạo hóa chân cơ nhất biến thông. Vị vãn Đẩu Ngưu phù hải khách, Quản giao sơn thủy thức tao ông. Thù phương kỷ kiến y quan hội, Bàn thế tương phao bút nghiễn công. Tân tích nhược rạn ngô quốc tú, Quế Hiên thi trận tối đầu phong.
Chú thích: Ngưu Đẩu: hai ngôi sao trong Nhị thập bát tú (28 ngôi sao văn học) theo Cổ Đại Thiên Văn Học vị trí hai ngôi sao này ở phương Bắc.
Hải Khách: Đoàn Nguyễn Tuấn thường tự xưng mình là hải khách, khách biển, ông chài biển quê mùa.
Ninh Tốn (1743- ?) người xã Côi Trì huyện Yên Mô, Ninh Bình, 19 tuổi đỗ Hương Cống, năm 1778 đỗ Hội Nguyên, giữ chức Tri bình Phiên sĩ, Hình Bộ Hữu Thị Lang. Năm 1788 ra cộng tác với Tây Sơn giữ chức Hàn Lâm Trực Học Sĩ, năm 1790 thăng Binh Bộ Thượng Thư tước Trường Nguyên Bá. Trong Chuyết Sơn thi tập của ông có bài: Thơ tặng Nguyễn Nể khi ông được cử làm Chánh Sứ đi sứ lần thứ hai, Ninh Tốn xem ông là bậc phi thường, bậc tuấn kiệt mới được cử hai lần đi sứ, đi sứ là điển lễ lớn của thánh hiền giao hảo với lân bang, Ông quen biết rộng như ngựa quý nhân, kỳ quen đường đi, là bậc hiền tài như lân, phượng ít khi xuất hiện sự trọng vọng càng thêm cao. Núi sông lại mừng sẽ có thêm thơ mới. Mặt trăng, mặt trời lại soi rực rỡ cờ tiết mao đi sứ. Sau này trong tướng phủ trù tính việc gì với phương Bắc. Mọi cái ông đều nắm trong lòng bàn tay không có gì khó nhọc.
TẶNG TIÊN ĐIỀN NGHI ĐÌNH HẦU ĐI SỨ LẦN THỨ HAI (1795). Giao hảo lân bang lễ thánh hiền, Hai lần đi sứ bậc phi thường. Nhân kỳ ngựa thuộc đường quen rộng, Lân phượng tài danh trọng vọng tăng. Giang sơn mừng có thêm thơ mới, Nhật nguyệt soi cờ tiết ruổi rong. Sau này tướng phủ cần phương Bắc, Mọi việc trong tay chẳng nhọc công.
Thơ chữ Hán Ninh Tốn, Nhất Uyên dịch Nguyên tác phiên âm Hán Việt:
TẶNG TIÊN ĐIỀN NGHI ĐìNH HẦU TÁI SỨ Thánh hiền đại điển tại lân giao, Lưỡng độ hoàng hoa thuộc tuấn mao. Am lộ nhân kỳ tư dị biến, Tri danh lân phượng vọng tăng cao. Giang sơn tục hỷ tân thi cú, Nhật nguyệt trùng lâm cựu tiết mao. Tướng phủ tha niên trù bắc sự, Thủ trung vận lượng định vô lao.
Chú Thích: Trong Tinh tuyển Văn Học Việt Nam quyển 5 tập 1. Văn Học thế kỷ XVIII; nxb KHXH Sài gòn 2004, tr 695 . PGS Nguyễn Thạch Giang biên soạn cho rằng Ninh Tốn mất năm 1790, điều này không đúng, vì 5 năm sau, 1795 Nguyễn Nể đi sứ lần thứ hai, Ninh Tốn làm tặng bài thơ này.
Nhân, Kỳ hai giống ngựa hay
Lân, phượng: Kỳ lân và Phượng hoàng hai giống linh vật ít khi xuất hiện giống như người tài được đời ngưỡng vọng.
Các người bạn đương thời ca tụng Nguyễn Nể, như thế, nhưng Nguyễn Du viết thế nào khi anh đi nhậm chức tại thành Quy Nhơn ? Một chức quan buộc anh ở phía Nam toà thành sáu tháp. Nguyễn Du không thích nhà Tây Sơn nên cho rằng chức quan chỉ là điều bó buộc. Ban đêm vượt đèo Hải Vân đá lỏm chòm. Năm 2011 tôi đi qua đèo này nay là một con đường rộng rãi, đọc lại thơ Nguyễn Du tưởng tượng ngày trước chỉ là một con đường đá cho xe ngựa chạy, đá lỏm chỏm, đi qua ban đêm hẵn nhiều gian nan, đường dốc, có cả cọp gầm trong bóng đêm, chưa kể có Ma lai Chiêm Thành.. Ba năm đóng thú nơi vùng núi lam chướng. Qui Nhơn nơi kinh đô Đồ Bàn của Chiêm Thành, ấp thang mộc nơi quê hương của nhà vua Tây Sơn, Nguyễn Du vẫn xem là vùng núi hẻo lánh đầy sương lam chướng khí. Tiết tháng hai lạnh lẽo nhìn hoa khói quê nhà. Một phen từ biệt không biết rồi đây ở nơi nào. Cuộc trùng phùng có lẽ phải đợi đến kiếp sau. Trời biển mênh mông, đường xa nghìn dậm. Hồn phách tìm nhau, dù trong giấc mộng cũng khó. Năm 1794 Nguyễn Du từ Tiên Điền vào thăm anh ở Phú Xuân, để nhận thêm tiền bạc về xây dựng lại làng Tiên Điền, được tin anh sắp đổi đi Quy Nhơn làm quan. Nguyễn Du lúc đó chắc đã nghĩ đến chuyện vượt biên vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh nên nghĩ rằng sẽ không còn gặp anh nữa ! Điều đáng lưu ý là Nguyễn Du viết cho anh chỉ đề Ức gia huynh, không để tên anh, cũng không đề tự Tiến Phủ, không để cả bút hiệu Quế Hiên. Bài viết cho em Nguyễn Ức cũng thế : Ngô gia đệ cựu ca cơ. Người hát cũ của em tôi. Nhưng lạ thay thơ Nguyễn Nể viết cho Nguyễn Du lại viết: Ký Tố Như đệ, hay Ký đồng hoài Thanh Hiên Tố Như đệ. Anh em trong nhà không ai gọi nhau bằng bút hiệu cả, cũng không bao giờ ai viết hai bút hiệu một lượt, đó là dấu vết người sao văn bản cho Trường Viễn Đông Bác Cổ đời sau khoảng năm 1920, tự ý thêm vào. Trường hợp Nguyễn Hành và Đoàn Nguyễn Tuấn cũng thế.
NHỚ ANH Lục tháp thành Nam buộc chức quan, Gập gềnh đá vượt Hải Vân đêm. Chướng lam ba tết xa đồn trú, Hoa khói tháng hai nhớ quê hương. Một biệt phương nào ai nhớ nhỉ ? Kiếp sau hẹn đến cuộc tương phùng. Biển trời mù mịt đường ngàn dậm, Trong mộng tìm nhau cũng khó khăn.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nhất Uyên dịch thơ. ỨC GIA HUYNH Lục tháp thành Nam hệ nhất quan, Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan. Cùng xu lam chướng tam niên thú, Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn. Nhất biệt bất tri hà xứ trú, Trùng phùng đương tác tái sinh khan. Hải thiên mang điểu thiên dư lý, Thần phách tương cầu mộng diệc nan.
Chú thích: Lục tháp: chỉ thành Quy Nhơn, có tảy 8 cụm tháp, nhưng chỉ có 6 cụm ở gần đường nên gọi là lục tháp thành.
Hải Vân: đèo nằm giữa Thừa Thiên và Quảng Nam, nơi hiểm yếu được gọi là Đệ nhất hùng quan.
Cùng lam xu chướng, vùng núi sâu nhiều khí độc.
Paris 19-3-2013 TS Phạm Trọng Chánh
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 20, 2013 17:38:06 GMT 9
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 20, 2013 17:39:53 GMT 9
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 20, 2013 17:43:27 GMT 9
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 20, 2013 17:45:47 GMT 9
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Aug 20, 2013 17:47:52 GMT 9
|
|