Post by Huu Le on Jan 16, 2008 5:37:05 GMT 9
TRUYỆN LỤC VÂN TIÊN CỦA NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Truyện Lục Vân Tiên do Nguyễn Bá Triệu chú giải, khảo dị, và phục dạng *
Nghĩ Về Tiếng Việt Phổ Thông
Minh Vũ Hồ Văn Châm
Trên đất nước thân yêu của chúng ta có một đường phân ranh vô hình nên rất ít người Việt Nam biết đến. Ngược lại, nhiều học giả người Pháp trong nửa đầu thế kỷ XX lại thường xuyên nhắc nhở trong các công trình khảo cứu của họ, tỷ như Bác sĩ Alexandre Yersin, nhà vi trùng học, giáo sư Henri Russier, nhà địa lý học, và học giả Pierre Gourou, nhà khoa học nhân văn đã mệnh danh văn minh Việt Nam là văn minh thảo mộc. Các vị này không chỉ khẳng định sự hiện hữu mà còn xác quyết vị trí của đường phân ranh đó chạy dọc núi Hải Vân theo một trục thẳng nối liền Đà Nẵng với Tchépone, chia cắt Đông Dương thành hai miền bắc nam khác biệt nhau về nhiều phương diện: dịch bệnh, thủy văn, địa chất, thảo mộc, nhân chủng v.v.
Nhận định trên đây đã đặt cơ sở trên sự quan sát những dữ kiện khoa học thực nghiệm. Thật vậy, bất kỳ bệnh dịch nào, nếu từ Hồng Kông tràn qua thì cũng dừng lại ở đèo Hải Vân, nếu từ Singapore truyền lên thì cũng không đi xa quá Đà Nẵng. Khi ở miền bắc đường phân ranh đang là mùa mưa lạnh thì ở miền nam thời tiết khô nóng. Về phương diện địa chất, phía bắc trục Đà Nẵng-Tchépone là miền đá vôi, phía nam là miền đá hoa cương. Hoa mai, lan ngọc điểm, cây cao su chỉ ra tới Quảng Bình, hoa đào, lan lá kiếm, cây hồng thị không vào tới Nam Ngãi. Đối với các sắc tộc bản địa nguyên thủy, phía bắc đường phân ranh là địa bàn cư dân Tiền Việt, phía nam là địa bàn cư dân Nam Đảo. Tất nhiên cũng có một vài biệt lệ, nhưng có biệt lệ mới có định luật, đó là lẽ thường.
Điều đáng nói là đối với người bình dân Việt Nam, những chuyện vừa đề cập trên đây có vẻ là chuyện xa vời. Thực tế trước mắt là tại Việt Nam trước đây, người bình dân miền bắc ai cũng ngâm nga truyện Kiều, còn người bình dân miền nam ai cũng thuộc lòng truyện Lục Vân Tiên. Truyện Kiều rất phổ biến ở miền bắc cho đến Huế. Truyện Lục Vân Tiên rất phổ biến ở miền nam và cũng chỉ ra tới Huế. Đi về hướng nam quá khỏi Huế thì không còn thấy truyện Kiều. Đi về hướng bắc quá khỏi Huế thì cũng không ai biết Lục Vân Tiên. Mà Huế thì đúng là nằm trên trục Đà Nẵng-Tchépone. Vậy vấn đề được đặt ra là sự khác biệt về địa bàn phân phối và mức độ phổ cập của hai tác phẩm Kiều và Lục Vân Tiên có liên quan gì đến sự khác biệt nam bắc của bán đảo Đông Dương về mặt văn hóa để bổ sung cho sự khác biệt về các mặt dịch bệnh, thủy văn, địa chất, thảo mộc, nhân chủng mà các học giả người Pháp đã cố công tìm tòi, nghiên cứu? Cũng may là không!
May là không! Thật vậy, chuyện nắng mưa, nóng lạnh của trời, chuyện đất đá, cây cỏ của đất, cũng như chuyện tật bệnh, giòng giống của người, thảy thảy đều là những chuyện không dễ gì thay đổi theo ý muốn nhất thời của con người. Nhà cầm quyền Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã nhiều phen cố gắng trồng cao su ở miền bắc nhưng chỉ thâu hoạch được chút ít mủ và chút ít crêpe từ mấy cái đồn điền èo uột vùng Quảng Bình. Nhà cầm quyền Việt Nam Cộng Hòa trước đây bỏ công đem đào và hồng thị vào trồng trên cao nguyên Đà Lạt nhưng đào chỉ là đào anh túc, còn hồng thị thì kém ngọt kém dòn. Còn tình trạng truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên lại khác. Sau năm 1945, với việc dùng Việt ngữ trong giảng dạy, song hành với việc nâng tầm quan trọng của môn Việt văn, truyện Kiều và truyện Lục Vân Tiên được đưa vào chương trình giáo dục bậc trung học, và ngày nay tại Việt Nam cả hai tác phẩm Kiều và Lục Vân Tiên đều đã được biết đến trong cả nước. Âu cũng là điều vui mừng cho tiến trình đại chúng hóa các tác phẩm tiêu biểu của nền văn học nước nhà, và là biểu hiện đậm nét của xu hướng thống nhất sở thích và tình cảm của con người Việt Nam.
Nổi vui mừng ngày hôm nay làm liên tưởng tới thân phận hẩm hiu của truyện Lục Vân Tiên trong tâm tư giới sĩ phu ngày trước. Trong lúc truyện Kiều chữ nôm từ Huế trở ra Bắc nhan nhản khắp nơi, ngoài dân gian, trong triều nội, nào là bản Kinh, nào là bản phường, thì truyện Lục Vân Tiên chỉ được giới bình dân hâm mộ truyền tụng mà không được giới nho sĩ quan tâm bình phẩm tán dương. Nhìn quẩn nhìn quanh, truyện Lục Vân Tiên chữ nôm ngày trước chỉ được một vài học giả người nước ngoài lưu tâm san định và ấn hành, như bản Lục Vân Tiên Truyện do Duy Minh Thị hiệu đính tại Gia Định, khắc gỗ và đưa in năm 1874 tại Phật Trấn, Việt Đông, và bản Lục Vân Tiên Ca Diễn do Abel Des Michels, Giáo sư trường Sinh Ngữ Đông Phương diễn âm và chuyển ngữ, và nhà xuất bản Ernest Leroux ấn hành năm 1883 tại Paris. Cả một thế kỷ trôi qua, truyện Lục Vân Tiên đụng đầu với sự thờ ơ lạnh nhạt của giai cấp nho sĩ, cũng như của giới trí thức tân học. Thật thế, ngoại trừ một bản Duy Minh Thị khác cổ hơn in trước 1865, một bản chữ nôm chép tay không rõ tự dạng của ai, và bản Jeanneaux in năm 1873 tại Sài Gòn, là 3 bản mà Abel Des Michels dùng làm tài liệu so sánh, hiệu đính, diễn âm và dịch ra Pháp văn, tức là tác phẩm Lục Vân Tiên Ca Diễn, trước sau chỉ lèo tèo có mấy học giả quan tâm nghiên cứu và chú giải truyện Lục Vân Tiên: Aubaret, Bajot, Trương Vĩnh Ký, Sorilène, Nguyễn Thanh Tâm, Ngọc Hồ.
Nếu truyện Lục Vân Tiên đã phải cam chịu thân phận hẩm hiu không được hoan nghinh và phổ cập rộng rãi trong thượng tầng xã hội trí thức Việt Nam thì ngược lại, truyện Lục Vân Tiên đã được nồng nhiệt đón mừng và chân thành trân trọng bởi quảng đại quần chúng bình dân, đặc biệt là ở Nam Kỳ Lục Tỉnh, không phải nhờ một bản chép tay hay bản khắc gỗ nào đặc biệt mà nhờ bản văn truyền khẩu Thơ Vân Tiên Nói Thuộc Lòng. Năm 1973, tại Sài Gòn, Ủy Ban San Định Các Tác Phẩm Của Nguyễn Đình Chiểu thuộc Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa, khi ấn hành cuốn Lục Vân Tiên Chữ Nôm và Hiệu Đính, đã đưa ra nhận xét rằng bản Abel Des Michels được soạn thảo công phu và khoa học, và rất gần với nguyên tác, hơn hẳn bản Duy Minh Thị 1874, vì lẽ rất giống bản văn nói thuộc lòng lưu truyền trong dân chúng miền Lục Tỉnh. Cho hay cửa miệng thế gian thường phản ánh trung thực việc làm và tâm trạng người đời, nên đôi lúc đáng tin cậy hơn cả những công trình lưu ký thành văn. Hơn nữa, sau khi truyện Lục Vân Tiên ra đời được vài chục năm, việc ghi chép và ấn loát ở nước ta đã trải qua một thời kỳ thay đổi sâu xa và toàn diện. Thật vậy, các khoa thi hương được bãi bỏ ở Bắc Kỳ từ năm 1915, và ở Trung Kỳ từ năm 1918, các lớp học của các thầy đồ dạy chi hồ giả dã được thay thế bằng các trường học dạy chương trình Pháp Việt, và chữ Nôm viết theo tự dạng Hán được thay thế bằng chữ quốc ngữ viết theo mẫu tự La Tinh. Trong bối cảnh đó, truyện Lục Vân Tiên bắt đầu được ấn hành bằng chữ quốc ngữ.
Việc ấn loát và phát hành sách báo chữ quốc ngữ là một bước ngoặt quan trọng trên tiến trình thống nhất ngôn ngữ và văn tự của dân tộc ta ở cả ba miền trung nam bắc. Thật thế, trước đây, dân ta ở mỗi miền chẳng những phát âm theo giọng nói khác biệt nhau mà còn sử dụng một số từ ngữ đặc thù mang tính cách địa phương rõ rệt. Ngay cả những từ ngữ phổ quát cho cả ba miền mà người bắc với người nam, người mỗi miền vẫn có những lối phát âm riêng biệt. Người miền bắc lẫn lộn trong (trong ngoài) với chong (chong đèn), sung (sung túc) với xung (xung đột), rồi (rồi việc) với dồi (dồi dào). Người miền nam lẫn lộn biếc (xanh biếc) với biết (biết chữ), lượn (bay lượn) với lượng (độ lượng), và người cư trú từ phía tây quốc lộ 1A tỉnh Thanh Hóa trở vào Nam Kỳ Lục tỉnh thì không phân biệt dấu hỏi với dấu ngã. Việc phát âm lẫn lộn một số tiếp đầu và tiếp vĩ, cũng như việc không phân biệt các dấu giọng hỏi ngã, đã đưa tới hệ quả là khi ghi chép sách truyện dưới tự dạng Hán Nôm, các bản văn khắc gỗ ngày trước trong nam ngoài bắc khác biệt hẳn nhau vì lẽ Hán Nôm là thứ chữ theo cấu trúc tượng hình hoặc hội ý, không phải là thứ chữ ký âm. Sự khác biệt của các bản khắc, nếu không đem ra tỉ mỉ nghiên cứu, đối chiếu, thì không thể nào nhận ra sự tương quan liên hệ. Việc ấn hành sách báo bằng chữ quốc ngữ, ngược lại, làm nổi bật sự khác biệt giữa các văn bản ghi chép theo lối phát âm địa phương, nhưng đồng thời cũng cho người đọc thấy được sự tương đồng của phần căn bản. Chính điểm này đã góp phần không nhỏ vào việc hình thành và phát triển tiếng Việt phổ thông, là tiếng nói tiêu chuẫn, tiếng nói thống nhất của cả ba miền trung nam bắc. Người mỗi địa phương tuy phát âm khác nhau một số tiếp đầu tiếp ngữ, có hoặc không có phân biệt các dấu giọng, nhưng khi viết thì cố gắng viết theo quy ước chung của tiếng nói tiêu chuẫn, tức là chữ quốc ngữ.