Post by Huu Le on Jan 16, 2008 6:10:36 GMT 9
Tên Cúng Cơm
Nguyễn Văn Trần
Vài nét về Tên và Họ của người Việt Nam.
Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến quân chủ ở Tàu và Âu châu, Tên và Họ chỉ dành riêng cho giới quí tộc và tăng lữ. Thứ dân không được quyền có tên và Họ.
Thời kỳ này đã trải dài khá lâu..
Ngày nay, Tên và Họ không còn là một thứ đặc quyền xã hội mà đã trở thành điều bắt buộc do luật pháp quy định cho mọi người dân của một quốc gia. Tên và Họ do cha mẹ của đứa trẻ mới sanh chọn lựa một cách tự do để đặt cho con mình, không phải bị lệ thuộc bởi những điều cấm kỵ về nhập gia vấn húy của thời xa xưa. Riêng Họ thì phải giữ để biết tôn tộc gia đình. Ngày nay, ở một số quốc gia Âu châu như Pháp, Đức, luật pháp đã cho phép đứa trẻ có quyền mang Họ mẹ, Họ cha, Họ ghép giữa Họ Cha - Họ Me hoặc Họ Me – Họ Cha. Luật nây đã được áp dụng ở Đức từ năm 1976, nhưng phấn lớn người dân Đức tỏ ra không mấy hoan nghênh, và ngày nay, bắt đầu từ tháng giêng 2005 luật này sẽ áp dụng ở Pháp.
I/ Tên của người Việt nam :
Thời xưa, vì chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa quá lâu mà Việt nam trong việc đặt tên cho con cái cũng có phần giống theo Tàu.
Thường thì đứa bé mới sanh chưa được cha mẹ đặt tên ngay như ngày nay, mà phải đợi đến ba tháng sau mới đặt tên. có lẽ thời gian ba tháng là một giai đoạn phát triển của đứa bé có Nhiều khó khăn về sức khoẻ. Sau ba tháng, phải chăng người ta thấy đứa bé nuôi được nên mới đặt tên cho đứa bé.
Tên của người Tàu và người Việt nam trước đây rất phức tạp : tên chánh, tiểu danh hay nhủ danh, tên tự, tên hiệu (hay xước hiệu), tên thụy (hay tên cúng cơm)
Những người thuộc các ngành nghlà chuyên môn trong xã hội lại có tên riêng cho từng ngành nghlà . Các tu sĩ của các tôn giáo lại có tên dành riêng cho họ thường được gọi là tên thánh hay pháp danh. Vua chúa khi lên ngôi chọn cho mình một tên mới để dùng chánh thức trong việc cai trị và quan hệ ngoại giao.
1.-Tên chánh là tên của đứa bé mới sanh sau ba tháng được ông, bà, cha mẹ đặt cho. Ngày nay tên chánh là tên đặt cho đứa bé mới sanh và được ghi vào hộ tịch với cả ngày giờ và nơi sanh. Tên chánh được giữ suốt đời.
Nhưng việc đặt tên cho đứa bé mới sanh không phải là điều đơn giản và phổ quát như ta hiểu ở ngày nay.Thời xưa ở Tàu, vào thế kỷ 13 và 14, Tên chỉ dành cho giới quí tộc. Thứ dân không có quyền có Tên mà mỗi người mang một con số thay thế cho tên. Con số này là kết quả cộng lại số tuổi của cha mẹ. Thí dụ, người cha có 32 tuổi, người mẹ 30, thì đứa con sẽ mang tên Lục Nhị.
Tên chánh là tên thiệt thọ. Nhưng từ thời xưa, người có tên chánh vẫn có quyền đỗi cho mình một tên khác, hoặc do chính mình quyết định theo sở thích hoặc vì lý do an ninh bản thân, hoặc do quan chức cấp trên quyết định như một ân huệ hay một cách bêu xấu, sỉ vã.
2.- Nhủ danh, thường bị hiễu sai lạc là tên chánh của một người đàn bà lúc còn con gái trong gia đình.Thí dụ, khi nói đến bà Nguyễn Văn Nhứt, người ta ghi thêm là nhủ danh Bùi Thị Cư. Thật ra, nhủ danh hay tiểu danh không có nghĩa là tên riêng của người con gái, mà đó là tên của người lúc còn nhỏ, chung cho cả hai phái nam và nữ. Nhủ có nghĩa là cái vú, chỉ tên của người lúc còn bú vú mẹ. Vì thời xưa, khi đứa bé lớn lên, khi đi học, hoặc khi thành danh, thường đổi tên bằng một tên mới khác. Việc đổi tên rất phổ biến đối với người cộng sản. Hồ Chí Minh, Đỗ Mười, Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ … đều không phải là tên chánh hay nhủ danh, mà đó là những tên do họ tự chọn cho họ. Riêng Hồ Chí Minh có tên chánh hay nhủ danh là Nguyễn Sinh Cung. Đến năm 12 tuổi, có tên Nguyễn Tất Thành. Đến giữa thập niên 20 của thế kỷ qua, ông cuổm tên Nguyễn Ái Quốc là tên chung của các Cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế truyền cùng ký dưới các bài quan điểm của các cụ viết chống chế độ thực dân Pháp. Nhóm của các cụ tan rã ,Nguyễn Sinh Cung bèn giữ cho mình tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng khi về Việt nam, ông cũng không giám giữ tên này nữa vì mặc cảm thật sự không phải là tên của ông ta. Lúc ở Tàu, Hồ Chí minh lấy tên Lý Thụy, để kỷ niệm người tình là em vợ của Lâm ĐứcThụ, người hợp tác với ông điềm chỉ cho Pháp bắt cụ Phan Bội Châu và chia nhau 150 ngàn đồng, số tiền thưởng công làm việt gian.
Nói về Tên và Họ của người Việt nam thì phải thừa nhận Hồ Chí Minh là con người có nhiều tên hơn hết. điều này bộc lộ rõ Hồ Chí Minh là một con người có bản chất gian xảo. Sau cùng ông chọn họ Hồ, theo người biết chuyện ở Hà nội, vì ông muốn trở lại với Họ của ông nội – không chánh thức - của ông là cụ Hồ Sĩ Tảo.
3.- Tên Tự, chính mình tự chọn riêng cho mình. Tên tự thường có nghĩa gần gủi với nghĩa của tên chánh, hoặc phản nghĩa lại với tên chánh, để như thế khi nóiđến tên tự, người khác có thể đoán được tên chánh của người đó là gì.
4.- Tên hiệu, cũng hoàn toàn do chính mình chọn cho mình. Thường những người có sự nghiệp lớn hoặc các giới văn nghệ sĩ đều có tên hiệu.
Tên hiệu biểu lộ ý muốn, điều mơ ước, mục đích muốn đạt. Nên tên hiệu thường tốt đẹp về ý nghĩa và âm thanh khi được đọc lên.
Vì tên hìệu biểu lộ ý muốn, mục đích muốn đạt nên thường người mang tên hiệu lại không đạt được điều mình mong ước gởi gắm ở tên hiệu. Như một bà có nhan sắc như ma lem, thì lại chọn tên hiệu cho mình là Mỹ Duyên. Một cơ sở Thông tin Văn hóa muốn nóicho mọi người biết chủ trương của mình là viết sách, viết báo chỉ để nói toàn những điều đúng sự thật nên lấy tên hiệu là Nhà Xuất bản Sự Thật. Nhưng trên thực tế lại in và phổ biến toàn những sản phẩm nói dối , phản sự thật.
Đảng Cộng sản Pháp có tờ báo của Đảng mang tên là Nhơn Đạo (l’Humanité) nhưng chủ trương một đường lối chánh trị theo Cộng sản là gian ác, vô nhơn đạo.
5.- Tên cúng cơm hay tên thụy là tên đặt cho người vừa chết để gia đình dùng cúng kỵ người ấy. Tên cúng cơm không phải là tên chánh tức tên thật của một người.
Nhưng ở thời xa xưa, không phải ai cũng có quyền có tên cúng cơm, bởi tên cúng cơm chỉ dành cho giới quí tộc. Dần dần về sau, dưới thời quân chủ, ở Tàu và Việt nam, tên cúng cơm mới được áp dụng rộng rải hơn, nhưng chỉ ở trong giới giàu có , có học. chớ người bình dân không mấy người có tên cúng cơm.
Như vậy, tên cúng cơm dưới thời phong kiến và quân chủ ở Tàu cho ta thấy việc cúng kỵ, hay thờ cúng ông bà, cha mẹ hãy còn là một hạn chế dành riêng cho một tầng lớp trong xã hội. Việc thờ cúng ông bà xác định thành phần xã hội, và cho thành phần này có quyền thừa hưởng di sản hoặc làm chủ đất đai.
Việt nam chịu ảnh hưởng Tàu suốt thời gian dài. Nhưng Việt nam không hoàn toàn giống Tàu bởi còn biết giữ cho mình một bản sắc dân tộc. Nhờ đặc tính này mà Việt nam suốt chìêu dài lịch sử lập quốc vẫn giữ được bờ cõi nguyên vẹn mãi cho đến năm 2000 mới bị Đảng Cộng sản ở Hà nội vì lệ thuộc Tàu mà đem đất và biển hiến dâng cho Tàu mà không đổi được một đồng xu.
Các loại Tên, người Việt nam cũng bắt chước Tàu về cách đặt tên và cách chọn tên. Nhưng điểm khác nhau là ở Việt nam, mọi người không phân biệt thành phần xã hội, đều có riêng cho mình một cái Tên.
Người Việt nam dù không có tên cúng cơm vẫn được người trong gia đình thờ cúng chu đáo. Và việc thờ cúng ông bà, cha mẹ, người trong gia đình ở Việt nam hoàn toàn không bị giới hạn cho một thành phần nào, mà phổ quát cho tất cả mọi người. Việc thờ cúng gia tiên ở Việt nam hiển nhiên trở thành một thứ là đạo dân tộc hay là Việt đạo. có thể nói ở người Việt nam, việc thờ cúng gia tiên mang đậm nét ý nghĩa là dân tộc trường toàn , tổ tiên chánh giáo !
Người Việt từ xưa, ở hàng thứ dân, chẵng những có quyền có tên họ cho mình, mà còn có quyền đặt tên cho nnhững người khác trong xóm làng thường gặp gỡ. Đây là một thứ quyền tự nhiên.
6.- Thấy mặt đặt tên : Chị Nguyễn Thị Hên, thứ Tư. Người trong xóm gọi chị là chị Tư Hên. Bổng một hôm chị bị tai nạn và mang tật ở một chân mà từ hôm đó chị đi khập khiểng. Người lối xóm bắt đầu đổi tên chị thành Chị Tư què hay Chị Tư thọt. Anh Lê Thành Châu chơi gà nòi nỗi tiếng, nhờ những trận đá lớn, gà của anh đều thắng cuộc. Trong nhà của anh lúc nào cũng có những chú gà lẫm liệt. Người lối xóm , hoặc những người quen biết anh bèn gọi anh là Châu gà nòi. Anh Nguyễn Văn Năm có tên Năm lùn vì chiều cao của anh không quá một thước rưởi theo thước ta.
Tên có khi được người lối xóm hoặc quen biết đặt cho theo nghlà nghiệp, nơi cư ngụ hoặc theo thói quen đặc biệt của người đó .
Chị Bảy bán chè đậu được mọi người gọi chị là Chị Bảy chè đậu để phân biệt với chị Bảy khác, vì ở Nam kỳ, người ta gọi bằng Thứ, tránh gọi bằng tên chánh. Anh Lê Văn Dững vì có một đặc tánh nào đó nên được mọi người biết đến người ta bèn gọi anh là anh Dũng xóm Cống vì anh cư ngụ ở xóm Cống.
Ngồi ra, còn có những tên hàm chứa tình thương , sự trìu mến của gia đình dành cho con cháu trong nhà như là chĩ con , là tí , là cu , là nhít …. Những tên này có khi được dùng để gọi những đứa trẻ mãi đến lúc chúng đã trưởng thành.
Ca sĩ Bảo Hân nỗi tiếng khắp thế giới. Tên Bảo Hân thật đẹp như người mang tên. Giới hâm mộ Bảo Hân đều gọi cô Bảo Hân, chị Bảo Hân … nhưng về đến với gia đình, Bảo Hân được cả gia đình, từ ông bà, cô dì, cậu mợ .. đều gọi là Tít ơi, Tít !
Lấy làm là bất mãn vì không được gọi Hân, cơ nàng bèn đem tên Hân của mình biếu cho thằng cháu trai, con của chị. Và cu này mang tên Hân là tên chánh, tức là tên ghi trong khai sanh của cu cậu.
Có khi người ta chọn một tên thật xấu để đặt cho một đứa trẻ để đứa trẻ được mạnh giỏi, mau lớn, tránh không bị người khuất mặt là quở . Gia đình sanh con trai khó nuôi, bèn dùng tên con gái đặt cho cu cậu để lừa người khuất mặt rằng đó là con gái đấy.
Tên và cách đặt tên này vẵn còn lưu hành ở ngày nay. Chỉ có việc kiêng cử trùng tên với quan chức hoặc người trong xóm , làng thì ngày nay đã giảm bớt hay không còn giữ nữa. Việc là phạm huý thì hoàn toàn bị xó bỏ.
II/ Họ Của Người Việt Nam:
Như ta thấy dưới thời phong kiến, quân chủ ở Tàu, Tên gọi riêng từng người đã là một thứ đặc quyền xã hội, thì Họ lại là một giới hạn cực kỳ nghiêm ngặc. Bỡi chỉ có giới quí tộc, vua chúa mới có Họ để biết ông bà, tiên tổ của họ là ai để họ thờ phượng. Sự thờ phượng đem lại cho họ những đặc quyền tạo thành những sự nghiệp lớn cho họ và còn lưu truyền qua Nhiều đời sau. Thứ dân chỉ cần biết sống hết đời mình là đủ rồi. Trên không cần biết có ai, mà dưới có ai cũng không phải là điều quan trọng.
Như ở thời nay, một thực tế đã xãy ra và trải dài hơn nữa thế kỷ mà cơ hồ không được ai biết đến.
Nguyễn Văn Trần
Vài nét về Tên và Họ của người Việt Nam.
Ngày xưa, dưới chế độ phong kiến quân chủ ở Tàu và Âu châu, Tên và Họ chỉ dành riêng cho giới quí tộc và tăng lữ. Thứ dân không được quyền có tên và Họ.
Thời kỳ này đã trải dài khá lâu..
Ngày nay, Tên và Họ không còn là một thứ đặc quyền xã hội mà đã trở thành điều bắt buộc do luật pháp quy định cho mọi người dân của một quốc gia. Tên và Họ do cha mẹ của đứa trẻ mới sanh chọn lựa một cách tự do để đặt cho con mình, không phải bị lệ thuộc bởi những điều cấm kỵ về nhập gia vấn húy của thời xa xưa. Riêng Họ thì phải giữ để biết tôn tộc gia đình. Ngày nay, ở một số quốc gia Âu châu như Pháp, Đức, luật pháp đã cho phép đứa trẻ có quyền mang Họ mẹ, Họ cha, Họ ghép giữa Họ Cha - Họ Me hoặc Họ Me – Họ Cha. Luật nây đã được áp dụng ở Đức từ năm 1976, nhưng phấn lớn người dân Đức tỏ ra không mấy hoan nghênh, và ngày nay, bắt đầu từ tháng giêng 2005 luật này sẽ áp dụng ở Pháp.
I/ Tên của người Việt nam :
Thời xưa, vì chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa quá lâu mà Việt nam trong việc đặt tên cho con cái cũng có phần giống theo Tàu.
Thường thì đứa bé mới sanh chưa được cha mẹ đặt tên ngay như ngày nay, mà phải đợi đến ba tháng sau mới đặt tên. có lẽ thời gian ba tháng là một giai đoạn phát triển của đứa bé có Nhiều khó khăn về sức khoẻ. Sau ba tháng, phải chăng người ta thấy đứa bé nuôi được nên mới đặt tên cho đứa bé.
Tên của người Tàu và người Việt nam trước đây rất phức tạp : tên chánh, tiểu danh hay nhủ danh, tên tự, tên hiệu (hay xước hiệu), tên thụy (hay tên cúng cơm)
Những người thuộc các ngành nghlà chuyên môn trong xã hội lại có tên riêng cho từng ngành nghlà . Các tu sĩ của các tôn giáo lại có tên dành riêng cho họ thường được gọi là tên thánh hay pháp danh. Vua chúa khi lên ngôi chọn cho mình một tên mới để dùng chánh thức trong việc cai trị và quan hệ ngoại giao.
1.-Tên chánh là tên của đứa bé mới sanh sau ba tháng được ông, bà, cha mẹ đặt cho. Ngày nay tên chánh là tên đặt cho đứa bé mới sanh và được ghi vào hộ tịch với cả ngày giờ và nơi sanh. Tên chánh được giữ suốt đời.
Nhưng việc đặt tên cho đứa bé mới sanh không phải là điều đơn giản và phổ quát như ta hiểu ở ngày nay.Thời xưa ở Tàu, vào thế kỷ 13 và 14, Tên chỉ dành cho giới quí tộc. Thứ dân không có quyền có Tên mà mỗi người mang một con số thay thế cho tên. Con số này là kết quả cộng lại số tuổi của cha mẹ. Thí dụ, người cha có 32 tuổi, người mẹ 30, thì đứa con sẽ mang tên Lục Nhị.
Tên chánh là tên thiệt thọ. Nhưng từ thời xưa, người có tên chánh vẫn có quyền đỗi cho mình một tên khác, hoặc do chính mình quyết định theo sở thích hoặc vì lý do an ninh bản thân, hoặc do quan chức cấp trên quyết định như một ân huệ hay một cách bêu xấu, sỉ vã.
2.- Nhủ danh, thường bị hiễu sai lạc là tên chánh của một người đàn bà lúc còn con gái trong gia đình.Thí dụ, khi nói đến bà Nguyễn Văn Nhứt, người ta ghi thêm là nhủ danh Bùi Thị Cư. Thật ra, nhủ danh hay tiểu danh không có nghĩa là tên riêng của người con gái, mà đó là tên của người lúc còn nhỏ, chung cho cả hai phái nam và nữ. Nhủ có nghĩa là cái vú, chỉ tên của người lúc còn bú vú mẹ. Vì thời xưa, khi đứa bé lớn lên, khi đi học, hoặc khi thành danh, thường đổi tên bằng một tên mới khác. Việc đổi tên rất phổ biến đối với người cộng sản. Hồ Chí Minh, Đỗ Mười, Lê Đức Thọ, Mai Chí Thọ … đều không phải là tên chánh hay nhủ danh, mà đó là những tên do họ tự chọn cho họ. Riêng Hồ Chí Minh có tên chánh hay nhủ danh là Nguyễn Sinh Cung. Đến năm 12 tuổi, có tên Nguyễn Tất Thành. Đến giữa thập niên 20 của thế kỷ qua, ông cuổm tên Nguyễn Ái Quốc là tên chung của các Cụ Phan Chu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Thế truyền cùng ký dưới các bài quan điểm của các cụ viết chống chế độ thực dân Pháp. Nhóm của các cụ tan rã ,Nguyễn Sinh Cung bèn giữ cho mình tên Nguyễn Ái Quốc. Nhưng khi về Việt nam, ông cũng không giám giữ tên này nữa vì mặc cảm thật sự không phải là tên của ông ta. Lúc ở Tàu, Hồ Chí minh lấy tên Lý Thụy, để kỷ niệm người tình là em vợ của Lâm ĐứcThụ, người hợp tác với ông điềm chỉ cho Pháp bắt cụ Phan Bội Châu và chia nhau 150 ngàn đồng, số tiền thưởng công làm việt gian.
Nói về Tên và Họ của người Việt nam thì phải thừa nhận Hồ Chí Minh là con người có nhiều tên hơn hết. điều này bộc lộ rõ Hồ Chí Minh là một con người có bản chất gian xảo. Sau cùng ông chọn họ Hồ, theo người biết chuyện ở Hà nội, vì ông muốn trở lại với Họ của ông nội – không chánh thức - của ông là cụ Hồ Sĩ Tảo.
3.- Tên Tự, chính mình tự chọn riêng cho mình. Tên tự thường có nghĩa gần gủi với nghĩa của tên chánh, hoặc phản nghĩa lại với tên chánh, để như thế khi nóiđến tên tự, người khác có thể đoán được tên chánh của người đó là gì.
4.- Tên hiệu, cũng hoàn toàn do chính mình chọn cho mình. Thường những người có sự nghiệp lớn hoặc các giới văn nghệ sĩ đều có tên hiệu.
Tên hiệu biểu lộ ý muốn, điều mơ ước, mục đích muốn đạt. Nên tên hiệu thường tốt đẹp về ý nghĩa và âm thanh khi được đọc lên.
Vì tên hìệu biểu lộ ý muốn, mục đích muốn đạt nên thường người mang tên hiệu lại không đạt được điều mình mong ước gởi gắm ở tên hiệu. Như một bà có nhan sắc như ma lem, thì lại chọn tên hiệu cho mình là Mỹ Duyên. Một cơ sở Thông tin Văn hóa muốn nóicho mọi người biết chủ trương của mình là viết sách, viết báo chỉ để nói toàn những điều đúng sự thật nên lấy tên hiệu là Nhà Xuất bản Sự Thật. Nhưng trên thực tế lại in và phổ biến toàn những sản phẩm nói dối , phản sự thật.
Đảng Cộng sản Pháp có tờ báo của Đảng mang tên là Nhơn Đạo (l’Humanité) nhưng chủ trương một đường lối chánh trị theo Cộng sản là gian ác, vô nhơn đạo.
5.- Tên cúng cơm hay tên thụy là tên đặt cho người vừa chết để gia đình dùng cúng kỵ người ấy. Tên cúng cơm không phải là tên chánh tức tên thật của một người.
Nhưng ở thời xa xưa, không phải ai cũng có quyền có tên cúng cơm, bởi tên cúng cơm chỉ dành cho giới quí tộc. Dần dần về sau, dưới thời quân chủ, ở Tàu và Việt nam, tên cúng cơm mới được áp dụng rộng rải hơn, nhưng chỉ ở trong giới giàu có , có học. chớ người bình dân không mấy người có tên cúng cơm.
Như vậy, tên cúng cơm dưới thời phong kiến và quân chủ ở Tàu cho ta thấy việc cúng kỵ, hay thờ cúng ông bà, cha mẹ hãy còn là một hạn chế dành riêng cho một tầng lớp trong xã hội. Việc thờ cúng ông bà xác định thành phần xã hội, và cho thành phần này có quyền thừa hưởng di sản hoặc làm chủ đất đai.
Việt nam chịu ảnh hưởng Tàu suốt thời gian dài. Nhưng Việt nam không hoàn toàn giống Tàu bởi còn biết giữ cho mình một bản sắc dân tộc. Nhờ đặc tính này mà Việt nam suốt chìêu dài lịch sử lập quốc vẫn giữ được bờ cõi nguyên vẹn mãi cho đến năm 2000 mới bị Đảng Cộng sản ở Hà nội vì lệ thuộc Tàu mà đem đất và biển hiến dâng cho Tàu mà không đổi được một đồng xu.
Các loại Tên, người Việt nam cũng bắt chước Tàu về cách đặt tên và cách chọn tên. Nhưng điểm khác nhau là ở Việt nam, mọi người không phân biệt thành phần xã hội, đều có riêng cho mình một cái Tên.
Người Việt nam dù không có tên cúng cơm vẫn được người trong gia đình thờ cúng chu đáo. Và việc thờ cúng ông bà, cha mẹ, người trong gia đình ở Việt nam hoàn toàn không bị giới hạn cho một thành phần nào, mà phổ quát cho tất cả mọi người. Việc thờ cúng gia tiên ở Việt nam hiển nhiên trở thành một thứ là đạo dân tộc hay là Việt đạo. có thể nói ở người Việt nam, việc thờ cúng gia tiên mang đậm nét ý nghĩa là dân tộc trường toàn , tổ tiên chánh giáo !
Người Việt từ xưa, ở hàng thứ dân, chẵng những có quyền có tên họ cho mình, mà còn có quyền đặt tên cho nnhững người khác trong xóm làng thường gặp gỡ. Đây là một thứ quyền tự nhiên.
6.- Thấy mặt đặt tên : Chị Nguyễn Thị Hên, thứ Tư. Người trong xóm gọi chị là chị Tư Hên. Bổng một hôm chị bị tai nạn và mang tật ở một chân mà từ hôm đó chị đi khập khiểng. Người lối xóm bắt đầu đổi tên chị thành Chị Tư què hay Chị Tư thọt. Anh Lê Thành Châu chơi gà nòi nỗi tiếng, nhờ những trận đá lớn, gà của anh đều thắng cuộc. Trong nhà của anh lúc nào cũng có những chú gà lẫm liệt. Người lối xóm , hoặc những người quen biết anh bèn gọi anh là Châu gà nòi. Anh Nguyễn Văn Năm có tên Năm lùn vì chiều cao của anh không quá một thước rưởi theo thước ta.
Tên có khi được người lối xóm hoặc quen biết đặt cho theo nghlà nghiệp, nơi cư ngụ hoặc theo thói quen đặc biệt của người đó .
Chị Bảy bán chè đậu được mọi người gọi chị là Chị Bảy chè đậu để phân biệt với chị Bảy khác, vì ở Nam kỳ, người ta gọi bằng Thứ, tránh gọi bằng tên chánh. Anh Lê Văn Dững vì có một đặc tánh nào đó nên được mọi người biết đến người ta bèn gọi anh là anh Dũng xóm Cống vì anh cư ngụ ở xóm Cống.
Ngồi ra, còn có những tên hàm chứa tình thương , sự trìu mến của gia đình dành cho con cháu trong nhà như là chĩ con , là tí , là cu , là nhít …. Những tên này có khi được dùng để gọi những đứa trẻ mãi đến lúc chúng đã trưởng thành.
Ca sĩ Bảo Hân nỗi tiếng khắp thế giới. Tên Bảo Hân thật đẹp như người mang tên. Giới hâm mộ Bảo Hân đều gọi cô Bảo Hân, chị Bảo Hân … nhưng về đến với gia đình, Bảo Hân được cả gia đình, từ ông bà, cô dì, cậu mợ .. đều gọi là Tít ơi, Tít !
Lấy làm là bất mãn vì không được gọi Hân, cơ nàng bèn đem tên Hân của mình biếu cho thằng cháu trai, con của chị. Và cu này mang tên Hân là tên chánh, tức là tên ghi trong khai sanh của cu cậu.
Có khi người ta chọn một tên thật xấu để đặt cho một đứa trẻ để đứa trẻ được mạnh giỏi, mau lớn, tránh không bị người khuất mặt là quở . Gia đình sanh con trai khó nuôi, bèn dùng tên con gái đặt cho cu cậu để lừa người khuất mặt rằng đó là con gái đấy.
Tên và cách đặt tên này vẵn còn lưu hành ở ngày nay. Chỉ có việc kiêng cử trùng tên với quan chức hoặc người trong xóm , làng thì ngày nay đã giảm bớt hay không còn giữ nữa. Việc là phạm huý thì hoàn toàn bị xó bỏ.
II/ Họ Của Người Việt Nam:
Như ta thấy dưới thời phong kiến, quân chủ ở Tàu, Tên gọi riêng từng người đã là một thứ đặc quyền xã hội, thì Họ lại là một giới hạn cực kỳ nghiêm ngặc. Bỡi chỉ có giới quí tộc, vua chúa mới có Họ để biết ông bà, tiên tổ của họ là ai để họ thờ phượng. Sự thờ phượng đem lại cho họ những đặc quyền tạo thành những sự nghiệp lớn cho họ và còn lưu truyền qua Nhiều đời sau. Thứ dân chỉ cần biết sống hết đời mình là đủ rồi. Trên không cần biết có ai, mà dưới có ai cũng không phải là điều quan trọng.
Như ở thời nay, một thực tế đã xãy ra và trải dài hơn nữa thế kỷ mà cơ hồ không được ai biết đến.