|
Post by Vĩnh Long on Feb 15, 2008 16:17:25 GMT 9
Những hứa hẹn và các vấn đề của thực phẩm chức năng Hồng Lê Thọ 03/11/2007 Tư liệu tham khảo về THỰC PHẨM CHỨC NĂNG Martinjn Katan Trung tâm Wegeningen khoa học thực phẩm, Đại học Wageningen, Khoa dinh dưỡng con người, Hà Lan Nicole M. De Roos Đại học Y trung tâm, Utrecht, Hà Lan Thực phẩm chức năng là các loại thực phẩm hàm ý hay nêu rõ các mục tiêu tăng cường hoặc duy trì sức khoẻ. Chúng tôi xét lại các loại thực phẩm chức năng tiêu biểu, các thành phần, tính hiệu quả và độ an toàn của nó. Đồng thời chúng tôi cũng xem lại các qui định dành cho các mục tiêu sức khoẻ của các loại thực phẩm trên thế giới. Các qui định này thường sẽ cho phép các nhà sản xuất hàm ý rằng các loại thực phẩm có thể tăng cường sức khoẻ mà không hề cung cấp một bằng chứng khoa học cụ thể nào. Đồng thời, các qui định này còn có khả năng cấm các nhà sản xuất không được đề ra các mục tiêu sức khoẻ về tính phòng bệnh của thực phẩm, thậm chí ngay khi nó có thể làm được điều đó. Chúng tôi còn đề nghị một qui định chấp nhận tất cả các loại mục tiêu sức khoẻ đã được khoa học chứng minh và cấm tất cả các mục tiêu sức khoẻ mang những lợi ích chưa được chứng minh. Giới thiệu Thực phẩm chức năng là một sự phản hồi lại của nền công nghiệp thực phẩm đến nhu cầu tiêu thụ thực phẩm ngon và bổ dưỡng của người tiêu dùng. Khẩu phần ăn dinh dưỡng mang đến một số lợi ích đã được chứng minh, các nghiên cứu trị liệu và dịch tể học đã cho thấy rằng các khẩu phần ăn giàu rau quả, các loại ngũ cốc chưa qua chế biến, cá, và các loại sản phẩm sữa ít chất béo, ít các loại chất béo bão hoà và natri có thể làm giảm nguy cơ bệnh mạch vành tim, chứng cao huyết áp và thậm chí là một vài loại bệnh ung thư (www.health.gov/dietaryguidelines). Một số người đã thử thay đổi chế độ ăn uống của họ và đã mang đến hiệu quả cụ thể như nguy cơ họ mắc bệnh ung thư là rất thấp (Hu et al., 2000). Tuy nhiên, đối với hầu hết người tiêu dùng thì việc đáp ứng được các hướng dẫn về chế độ ăn uống là một nỗ lực to lớn. Đây chính là nguyên nhân nền công nghiệp thực phẩm dấn chân vào tạo ra các loại thực phẩm đặc biệt hứa hẹn tăng cường cũng như duy trì sức khoẻ mà không đòi hỏi nhiều nổ lực cũng như nhiều sự “hy sinh”. Các loại thực phẩm đặc biệt này có thể đáp ứng được tiêu chí trên. Những năm 70 đã chứng kiến sự bùng nổ của các loại thực phẩm “thiên nhiên”, thực phẩm “hữu cơ”. Những năm 80 thì nở rộ các loại thực phẩm “ít”, “nhẹ” với hàm lượng calorie thấp, ít cholesterol hoặc ít muối. Không phải tất cả các loại thực phẩm này đều ngon nhưng người tiêu dùng vẫn sẵn sàng chấp nhận vì tại thời điểm đó việc ăn uống nhằm mục đích phòng bệnh lâu dài đang trở thành xu hướng phổ biến. Mặc dù trước năm 1998, 98% nguời tiêu dùng ở Mỹ vẫn cho rằng thỉnh thoảng họ chọn thức ăn vì lý do sức khoẻ, 24% ăn uống dinh dưỡng nhằm mục đích phòng bệnh lâu dài, con số này là 45% trong cuộc điều tra năm 1990 (Động lực tiêu dùng, 2000). Trước năm 1998, con số này là 41% với mong muốn lợi ích ngắn hạn. Vì thế cho nên, người tiêu dùng không sốt sắng chấp nhận “hy sinh” mùi vị hay sự tiện lợi vì những lợi ích về lâu dài cho sức khỏe. Điều này đã nẩy sinh ra một thị trường thực phẩm có thể kết hợp được giá trị mùi vị, sự tiện lợi cùng với các đề nghị về lợi ích sức khoẻ ngắn hạn hay lâu dài, điển hình là các loại thực phẩm chức năng. Câu hỏi luôn được đặt ra là liệu các loại thực phẩm đơn lẻ có tốt cho sức khoẻ hay không khi nó là sự tổng hợp của toàn bộ các khẩu phần ăn uống có giá trị dinh dưỡng . Tuy nhiên, sự thay đổi cần thiết như phải bổ sung một số loại này cũng như phải loại trừ một số khác trong chế độ ăn uống là điều có thể hiểu được . Vì lý do trên, chúng tôi đề nghị nên công nhận một số loại thực phẩm nào đó có tác dụng tốt cho sức khoẻ nhưng chỉ hạn chế với một số người. Ví dụ như sự tiêu thụ nhanh chóng thực phẩm ngũ cốc có thể ngăn ngừa chứng táo bón và bệnh tim ở người lớn, nhưng dùng quá giới hạn sẽ dẫn đến chứng thiếu dinh dưỡng đối với trẻ phát triển nhanh. Thực phẩm chức năng là gì? Định nghĩa về thực phẩm chức năng là một vấn đề gây tranh cãi. Các cơ quan quản lý không thừa nhận thực phẩm chức năng là loại thực phẩm dinh dưỡng. Thậm chí ở Nhật, nơi sinh ra thực phẩm chức năng, thuật ngữ này vẫn không được thừa nhận vì bản thân tất cả các loại thực phẩm đều đã mang tính chức năng (Baily, 1999). Hội đồng thông tin thực phẩm quốc tế (IFIC, International Food Information Council, www.ific.org/ ), nơi được các ngành công nghiệp thực phẩm, nước uống, nông nghiệp tin cậy đã xác định thực phẩm chức năng là “các loại thực phẩm cung cấp các lợi ích cho sức khoẻ ngoài các lợi ích dinh dưỡng cơ bản”. Định nghĩa này được minh hoạ bởi bài nghiên cứu luận điểm về thực phẩm chức năng của Hiệp hội dinh dưỡng Hoa Kỳ (Thomson et al., 1999). Nghiên cứu này được thực hiện nhằm công nhận định nghĩa của IFIC nhưng đồng thời cũng bao gồm “các loại thực phẩm nguyên chất” với các ảnh hưởng tốt đối với sức khoẻ; trái cây, rau củ cũng như các loại phô mai, bánh vặt ít chất béo là các ví dụ điển hình. Những định nghĩa này không phân định rõ giới hạn giữa thức phẩm thông thường và thực phẩm chức năng, bởi vì hầu hết các loại thực phẩm đều có những giá trị dinh dưỡng nhất định đến các cơ quan chức năng của cơ thể. Với những định nghĩa như thế thì ngay cả nước máy cũng trở thành thực phẩm chức năng, vì việc uống nhiều nước cũng sẽ có thể giúp ngăn ngừa bệnh viêm bọng đái, viêm thận, sỏi thận và thậm chí có thể là ung thư bàng quang. Vì thế cho nên trong bài nghiên cứu này, chúng tôi tránh đề cập đến định nghĩa “cung cấp những lợi ích dinh dưỡng cho sức khoẻ ngoài các lợi ích cơ bản”. Viện Y học của học viện khoa học quốc gia Hoa Kỳ đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn, xác định thực phẩm chức năng là “loại thực phẩm mà một số thành phần trong đó được điều chỉnh hay biến đổi nhằm làm tăng công dụng của nó đối với sức khoẻ” (Ủy Ban cơ hội khoa học dinh dưỡng và thực phẩm, 1994). Tuy nhiên, định nghĩa này cũng đã bỏ qua quan điểm trọng tâm của các cuộc bàn cãi về thực phẩm chức năng, đó là: mối quan hệ mật thiết giữa thuật ngữ “thực phẩm chức năng” và việc chào bán các loại thực phẩm có mang các mục tiêu sức khoẻ. Trên thị trường thực tế, thuật ngữ “thực phẩm chức năng” hầu như được đính kèm một cách có chọn lọc vào các nhãn hàng sản phẩm hướng đến việc cải thiện sức khoẻ. Vì lý do này, chúng tôi định nghĩa thực phẩm chức năng như sau: thực phẩm chức năng là loại thực phẩm được đóng mác rõ ràng hay ẩn ý nhằm tăng cường hoặc duy trì sức khoẻ. Định nghĩa này tương tự như định nghĩa mà Nestlé đưa ra (2002) “thực phẩm chức năng là các sản phẩm được sản xuất nhằm được tiêu thụ dựa vào các mục tiêu sức khoẻ mà nó mang lại”. Hầu hết nhưng cũng không phải tất cả các loại thực phẩm đều đáp ứng được định nghĩa mà Viện Y học đã đưa ra “các loại thực phẩm mà một hay một số thành phần trong đó được điều chỉnh hay biến đổi nhằm làm tăng công dụng của nó đối với sức khoẻ”. Hầu hết các loại thực phẩm chức năng phù hợp với định nghĩa này đều bắt nguồn từ việc thêm vào hay thay đổi một số thành phần của các loại thực phẩm truyền thống có sẵn. Các thành phần được thêm vào cũng chỉ là các thành phần phổ biến trong các loại thực phẩm. Tuy nhiên, các loại hợp chất thường được xem như các thoại thuốc men lại được dùng trong các thành phần bổ sung cho các chế độ ăn uống, ví dụ như Lovastatin trong men gạo đỏ hay Ephedrine trong trà Ma Huang. Sự kết hợp các thành phần tự nhiên hay hoá học vào thực phẩm có thể trở thành một vấn đề quan trọng trong tương lai. Sự biến đổi gen sẽ mở rộng nhiều lựa chọn trong việc làm phong phú thêm chất lượng thực phẩm từ các thành phần có sẵn hay các thành phần mới. Sự phát triển các loại cây trồng truyền thống đã mang lại những vụ mùa khoẻ mạnh, chẳng hạn như bắp có lượng lysine cao, dầu hạt cải có hàm lượng có eruric thấp và acid oleic cao. Cho đến nay, sự biến đổi gen hiện đại đã dẫn đến việc kháng thuốc diệt côn trùng hơn là đến những ảnh hưởng đến sức khoẻ của thực phẩm, nhưng một điển hình là sản phẩm Golden Rice, một giống gạo biến đổi gen có lượng vitamin A cao cho thấy tiềm năng của việc biến đổi gen tạo ra nhiều loại thực phẩm tăng cường sức khoẻ. Sự đóng góp của loại gạo mới này vào việc chấm dứt tình trạng thiếu vitamin A đã bị giới hạn về chất lượng cũng như lượng vitamin A không cao trong gạo, nhưng nó cũng đã cung cấp “bằng chứng của nguyên lý” cho một thế hệ mới thực phẩm chức năng biến đổi gen có tiềm năng to lớn đối với sức khoẻ con người, đặc biệt trong tầng lớp dân cư bị thiếu hụt về dinh dưỡng. Tuy nhiên, cả sản phẩm Golden Rice cũng như hầu hết các loại thực phẩm chức năng hiện nay đều có các thành phần mà tác dụng của nó đã được biết từ lâu. Một loại thực phẩm chức năng mới không hẳn là một cuộc phá cách trong công cuộc nghiên cứu về thực phẩm mà là một sự kết hợp sáng tạo giữa kiến thức dinh dưỡng đã tồn tại, công nghệ thực phẩm tiên tiến và công nghệ tiếp thị. Cùng một loại thành phần, người ta có thể thêm vào thực phẩm chức năng hay cũng có thể bán dưới dạng thuốc viên con nhộng như các thành phần phụ hỗ trợ cho các chế độ ăn uống. Mặc dù ở một số quốc gia, thực phẩm chức năng và các thành phần phụ như thế này được luật pháp nhìn nhận khác nhau nhưng ranh giới phân biệt chúng vẫn còn rất mơ hồ (Swanson, 2002): bơ margarine có sterol từ thực vật rõ ràng là thực phẩm, thuốc viên con nhộng có sterol được xem là thành phần phụ, nhưng 1 viên sôcôla có sterol thực vật thì được xem là gì, thực phẩm hay thuốc viên bọc sôcôla? Việc phân biệt này không đơn giản, còn các thành phần thì lại giống nhau. Vì thế cho nên, nghiên cứu này tập trung vào cả thực phẩm chức năng và các thành phần phụ. Thực phẩm chức năng có thể tăng cường sức khoẻ không? Thực phẩm chức năng thường đắt đỏ hơn các “bản sao” của nó, nhưng sự đắt đỏ này chỉ có thể được chấp nhận nếu như nó thực sự giúp tăng cường sức khoẻ. Ở đây tương tự như trong ngành công nghiệp dược: giá cả của một số loại thuốc sẽ bao gồm một phần tiền trả thêm cho các nghiên cứu để tìm ra loại thuốc mới. Cũng giống như vậy, ngành công nghiệp thực phẩm cũng sử dụng những lợi nhuận từ việc bán các thực phẩm chức năng cho các nghiên cứu tìm ra các loại thực phẩm mới bổ dưỡng, ngoài ra nền công nghiệp này còn biết cách để sản xuất các loại thực phẩm hấp dẫn người tiêu dùng. Điều này có thể dẫn tới việc các loại thực phẩm bổ dưỡng sản xuất chỉ nhằm mục đích kinh doanh vì thực phẩm chức năng vốn được chế biến để phù hợp với sở thích của người tiêu dùng. Lúc này, việc chế biến đóng vai trò cốt yếu, vì thuốc men có thể bán được cho dù nó có hình thức hay mùi vị thế nào, nhưng thực phẩm thì cần mùi vị, tiện lợi và hấp dẫn, nếu không sẽ không ai tiêu thụ. Một điển hình cho ngành công nghiệp này như các nghiên cứu có tài trợ là sự phát triển của các loại thực phẩm được tăng cường stanol hay sterol thực vật có hàm lượng LDL cholesterol thấp. Thực phẩm chức năng còn giúp người tiêu dùng đạt được lượng ăn vào theo chế độ ăn uống như mong muốn. Ví dụ: nước trái cây có tăng cường calcium sẽ cung cấp những dưỡng chất cần thiết cho trẻ không thích hay không uống được sữa. Bảng 1 sẽ liệt kê những ví dụ của những chất vi dinh dưỡng “truyền thống” – vitamin và khoáng chất – được sử dụng trong thực phẩm chức năng. Thực phẩm chức năng còn giúp chấm dứt sự thiếu dinh dưỡng ở các nước thuộc thế giới thứ 3. Muối có bổ sung iod là một ví dụ đã được chứng minh là một sự thành công về sức khoẻ cộng đồng và tiếp thị ở Ấn Độ. Việc “iod hoá” muối là việc đơn giản nhưng lại mang lại hiệu quả cao trong việc loại trừ bệnh bướu cổ và các chứng rối loạn khác do thiếu iod. Tuy nhiên, danh sách các loại thực phẩm chức năng được chứng minh là mang lại hiệu quả tốt cho sức khoẻ vẫn còn ít, nhiều loại thực phẩm mang mục tiêu sức khoẻ vẫn còn chưa được chứng minh là có ích. Bảng 1: Ví dụ về các chất dinh dưỡng được sử dụng như các thành phần trong thực phẩm chức năng và ý kiến của tác giả về tính hiệu quả của các thành phần trên
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 15, 2008 16:22:10 GMT 9
Chúng tôi đánh giá các bằng chứng theo tiêu chuẩn thực phẩm Úc, Tân Tây Lan về tất cả các cấp độ cũng như các loại bằng chứng về dinh dưỡng cộng đồng (Truswell, 2001). Các bằng chứng này bao gồm những thử nghiệm ngẫu nhiên trên con người, những thử nghiệm khác đã được chỉ ra trong bảng. (++, chứng minh tính hiệu quả, các tác động thích hợp được chỉ thấy rõ trong các nghiên cứu chất lượng cao; + các bằng chứng thuyết phục về tính hiệu quả, được chỉ rõ trong một số nghiên cứu giới hạn, hay một số mâu thuẫn trong các nghiên cứu; 0, không có dữ liệu đáng tin cậy; -, bằng chứng từ một số nghiên cứu giới hạn cho thấy không có hiệu quả, thiếu hiệu quả; --, đã được các nghiên cứu đa dạng có chất lượng cao chứng minh là không hiệu nghiệm, không có hiệu quả). Các qui định về thực phẩm chức năng Chúng tôi cho rằng một đặc tính để xác định thực phẩm chức năng là nó mang mục tiêu ẩn ý hay rõ ràng là nhằm tăng cường hay duy trì sức khoẻ. Hầu hết các quốc gia đều đưa ra các qui định nhằm bảo vệ người tiêu dùng tránh những mục tiêu sức khoẻ dễ gây nhầm lẫn (Bảng 2). Vì vậy, cả nước Mỹ và các nước EU đều cấm sản xuất các sản phẩm thực phẩm mang mục tiêu chữa bệnh. Ở Châu Âu, việc tuyên bố một chất dinh dưỡng có thể giảm nguy cơ bệnh tật là hành động phạm pháp. Ví dụ, acid folic có thể ngăn ngừa các khiếm khuyết thần kinh. Việc lập ra các pháp lệnh như vậy ngày nay đang được xem xét lại. Mỹ cho phép các sản phẩm thực phẩm mang mục tiêu giảm nguy cơ bệnh tật (FDA Mỹ, 2004). Mười bốn mục tiêu được chấp nhận liệt kê trong Bảng 3. Một ví dụ điển hình như “việc tiêu thụ thường xuyên các loại thực phẩm nhiều đường và tinh bột trong các bữa ăn sẽ tăng nguy cơ sâu răng. Đường đi từ cồn (sugar alcohols) trong [tên sản phẩm] không tăng nguy cơ sâu răng”. Có những yêu cầu chặt chẽ cho các loại thực phẩm được phép mang những mục tiêu sức khoẻ như trên [http://www.cfsan.fda.gov/~dms/hclaims.html, 24 July 2003]. Ở Mỹ, các thành phần phụ bổ trợ ăn uống (không phải thực phẩm) có thể mang các mục tiêu sức khoẻ về cấu trúc hay chức năng (ví dụ, “chất chống oxi hoá duy trì tính toàn vẹn của tế bào”; “trà có bổ sung chất Echinacea tăng cường khả năng miễn dịch của cơ thể”). Các thành phần phụ này vẫn còn chưa được quản lý rộng rãi. Nhà sản xuất chịu trách nhiệm bảo đảm tính chính xác và độ tin cậy của các mục tiêu sức khoẻ này. Các mục tiêu này không được công nhận bởi FDA Hoa Kỳ. Các thành phần bổ trợ chế độ ăn uống có thể được tiêu thụ ở Hoa Kỳ với rất ít các bằng chứng chứng minh tính hiệu quả và độ an toàn của nó. Ranh giới giữa thực phẩm và các thành phần phụ này rất mờ nhạt, và các nhà sản xuất đã cố gắng tiếp thị thực phẩm dưới dạng các thành phần phụ bổ trợ ăn uống bởi vì lúc này các mục tiêu hướng đến sức khoẻ sẽ được thoáng hơn. Các ví dụ cho trường hợp này bao gồm các loại thức uống, súp hay trà với St John’s Wort, Echinacea hay Ginkgo Biloba (Trung tâm Khoa học về các mối quan tâm cộng đồng, 1999). Vì thế, cho đến nay, việc giám sát các mục tiêu sức khoẻ của thực phẩm ở Hoa Kỳ vẫn chặt chẽ hơn việc giám sát đối với các thành phần phụ. Tuy nhiên, Đạo luật giáo dục và sức khoẻ về các thành phần phụ bổ trợ ăn uống đã loại sự quản lý của FDA đối với các thành phần phụ này và bắt đầu việc “ăn mòn” dần dần hệ thống FDA đối với mục tiêu sức khoẻ của thực phẩm. Năm 1997, Đạo luật hiện đại hoá Bộ thực phẩm và thuốc men đã mở đưởng cho các mục tiêu sức khoẻ dựa trên “lời tuyên bố có thẩm quyền” của Hội đồng khoa học Hoa Kỳ hơn là việc xem xét chính thức của FDA. Quan trọng hơn, Toà án liên bang Hoa Kỳ năm 1999 quyết định trường hợp của Pearson v. Shalala (Shalala là thư ký của Sở Sức khoẻ và con người trong thời gian này) buộc FDA cho phép các mục tiêu sức khoẻ “ hợp chuẩn” trong trường hợp có đủ bằng chứng ủng hộ, hơn là bác bỏ mối quan hệ giữa các thành phần phụ và bệnh lý. Kết quả là FDA ngày nay cho phép thực phẩm mang các mục tiêu sức khoẻ đủ chất lượng theo 4 tiêu chuẩn: (a) các mục tiêu sức khoẻ được khoa học chứng minh; (b) khi khoa học có chất lượng nhưng không thuyết phục; (c) khi có một số nghiên cứu giới hạn ủng hộ một mục tiêu sức khoẻ; (d) khi có ít các bằng chứng khoa học ủng hộ cho mục tiêu sức khoẻ này [http://www.cfsan.fda.gov/~dms/hclmgui3.html.]. Lúc đầu, các mục tiêu sức khoẻ của các thành phần phụ không thể liên quan đến bệnh tật, nhưng đến năm 2000, các thành phần phụ đã có thể hướng đến việc có ích cho một số căn bệnh như mụn trứng cá, bệnh nhức mỏi vào sáng sớm trong thời kỳ thai nghén hay chứng đãng trí. Các nước EU gần đây ban hành lần đầu tiên một số điều luật cho phép mang các mục tiêu sức khoẻ như làm giảm nguy cơ các tác nhân gây bệnh; những mục tiêu như thế được đánh giá bởi Bộ an toàn thực phẩm Châu Âu. Các đề xuất này là một bước tiến đúng đắn và nó xứng đáng được ủng hộ bởi các nhà khoa học về dinh dưỡng. Tuy nhiên, hệ thống dinh dưỡng và mục tiêu sức khoẻ các nước EU rất phức tạp và vụn vặt với các ban gồm nhiều thành viên khác nhau và các luật lệ khác nhau. Cần có một thời gian để có thể thay đổi các điều luật này. Trái lại, các nước EU có một hệ thống mở rộng nhằm kiểm tra độ an toàn của thực phẩm, đặc biệt là các loại thực phẩm “mới lạ” bao gồm các loại thực phẩm biến đổi gen. Hoa Kỳ, Châu Âu và Nhật Bản chấp nhận các mục tiêu sức khoẻ “dinh dưỡng” và “cấu trúc-chức năng” hay “tăng cường chức năng”. Các mục tiêu sức khoẻ này ít đòi hỏi các bằng chứng hơn là việc tạo ra các mục tiêu sức khoẻ rõ ràng [www.cspinet.org/reports/functional_foods 2004]. Các mục tiêu sức khoẻ như thế này sẽ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, ví dụ như “sản phẩm này giàu calcium. calcium giúp xương chắc khoẻ”. Thực tế, đây là 2 mệnh đề đúng nhưng lại không liên quan gì đến nhau. Một mệnh đề là về thành phần của thực phẩm và mệnh đề kia về sinh lý học cơ bản. Tuy nhiên, người tiêu dùng có thể diễn giải các mục tiêu cấu trúc/chức năng như thế này thành các mục tiêu nhằm giảm nguy cơ gây bệnh (Phòng tổng kiểm kê Hoa Kỳ (United State General Accounting office) , 2000; Andrews et al., 1998). Vì thế cho nên người tiêu dùng cho rằng ăn loại thực phẩm này có thể giảm nguy cơ gãy xương. Các báo cáo của Phòng tổng kiểm kê Hoa Kỳ (2000) đã nhấn mạnh rằng “sự khác nhau giũa các mục tiêu sức khoẻ và các mục tiêu về cấu trúc/chức năng không rõ ràng có thể dẫn người tiêu dùng đến việc lạm dụng”. Thật ngây thơ khi cho rằng các nhà sản xuất không biết đến những việc này. Trên thực tế, đây còn có thể là lý do tại sao các nhà sản xuất cho in các mục tiêu sức khoẻ như thế này lên những nơi quan trọng trên bao bì sản phẩm. Bảng 2: Các mục tiêu sức khoẻ và định nghĩa của nó tại Hoa Kỳ (US), Vương quốc Anh (UK), Cộng đồng Châu Âu (EC) và Hà Lan.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 15, 2008 16:23:06 GMT 9
1 www.cfsan.fda.gov/~dms/hclaims.html truy cập vào ngày 17/2/2004 2 Hội liên hiệp các mục tiêu sức khoẻ, được thành lập vào năm 1997 là một hội liên hiệp giữa các tổ chức người tiêu dùng, ban chấp pháp, ban công nghiệp nhằm thiết lập một bộ luật thi hành đối với tác dụng của các mục tiêu sức khoẻ trên thực phẩm. Website www.jhci.org.uk/code.pdf truy cập vào ngày 17/2/2004. 3 Hội đồng Châu Âu (http://europa.eu.int/comm/food/fs/fl/fl07_en.pdf truy cập vào ngày 24/7/2003). 4 Bộ luật thi hành đối với việc quảng bá và ghi nhãn thực phẩm và thuốc men liên quan đến các ngành công nghiệp www.koagkag.nl truy cập vào ngày 17/2/2004. Các nhà sản xuất cũng lợi dụng việc bùng nổ của thực phẩm chức năng để xếp các loại thực phẩm có lượng chất béo bão hoà, đường, calorie cao vào loại thực phẩm khoẻ mạnh. Theo cách này, các nhà sản xuất nhấn mạnh “tinh chất thiên nhiên” calcium có trong kem hay năng lượng (ví dụ: calorie) mà các loại kẹo cung cấp. Bảng 3 Các mục tiêu sức khoẻ có thể được dùng trên nhãn thực phẩm và các loại thành phần bổ trợ ở Hoa Kỳ [http://www.cfsan.fda.gov/~dms/flg-6c.html truy cập vào 24/7/2003] Các mục tiêu dựa trên xem xét của FDA về lịch sử khoa học calcium và chứng loãng xương Natri và chứng cao huyết áp Chất béo ăn kiêng và bệnh ung thư Chất béo bão hoà ăn kiêng và nguy cơ bệnh tim mạch vành Các sản phẩm ngũ cốc có chất xơ, các loại trái cây, rau quả và ung thư Các loại trái cây, rau quả và các sản phẩm ngũ cốc có chất xơ, đặc biệt là chất xơ hoà tan và nguy cơ bệnh tim mạch vành Các loại trái cây, rau quả và bệnh thư Folate và các khiếm khuyết thần kinh Đường cồn ăn kiêng và bệnh mục răng Chất xơ hoà tan từ một số loại thực phẩm và bệnh tim mạch vành protein đậu nành và nguy cơ bệnh tim mạch vành Este Sterol/stanol thực vật và nguy cơ bệnh tim mạch vành Các mục tiêu dựa trên “các tuyên bố chính thức của hội đồng khoa học liên ban” Các loại thực phẩm ngũ cốc nguyên chất và nguy cơ bệnh tim và một số bệnh ung thư Kali và nguy cơ cao huyết áp và đột quị Vì vậy, có rất nhiều cơ hội để các nhà sản xuất có thể ám chỉ các loại thực phẩm có thể tăng cường sức khoẻ mà không phạm luật và điều này đang bị khai thác một cách triệt để (Hagenmeyer, 2000). Hàng ngàn công ty cung cấp các thành phần bổ trợ cũng như các loại thực phẩm trên internet với muôn vàn hứa hẹn hoa mỹ không thể thực hiện. Các tài liệu quảng cáo như tờ rơi, báo chí được phát hành ít chịu sự quản lý khắt khe như các nhãn dán trên thực phẩm, điều này đã giúp truyền bá thêm các thông điệp về sức khoẻ. Các cách truyền bá như vậy sẽ dễ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng nhưng cũng không công bằng nếu đổ hoàn toàn trách nhiệm cho nền công nghiệp thực phẩm. Những quy định hiện hành dường như vẫn còn nhiều kẽ hở cho các mục tiêu sức khoẻ dễ gây nhầm lẫn này và một số công ty chắc chắn sẽ tận dụng các kẽ hở trên. Sự mờ nhạt trong các yêu cầu đối với mục tiêu sức khoẻ của thực phẩm trái với các qui định của chính phủ về việc tăng cường chất lượng thực phẩm bắt buộc, như việc thêm íôt vào bánh mì, flour vào nước uống, vitamin D vào bơ thực vật và sữa, acid folic vào các sản phẩm ngũ cốc. Tất cả sự đo lường này được thực hiện dựa vào các cuộc nghiên cứu tỉ mỉ, hiệu quả và an toàn, được kiểm soát và duy trì tốt. Bánh mì được tăng cường, sữa và nước đáp ứng được nhu cầu của hầu hết cộng đồng trong khi thực phẩm chức năng lại không thể. Một cuộc nghiên cứu ở Phần Lan đã chứng minh rằng bơ thực vật được bổ sung stanol được tầng lớp người tiêu dùng có trình độ và thu nhập cao tiêu thụ (Anttolainen et al., 2001).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 15, 2008 16:24:38 GMT 9
Thực phẩm chức năng trên thực tế Bảng 1 liệt kê các loại thực phẩm sử dụng các loại vitamin và khoáng chất như các thành phần đặc biệt của nó; chúng tôi cũng nêu ra ý kiến của chúng tôi về tính hiệu quả của các thành phần này. Các mục tiêu sức khoẻ cho một vài loại thành phần trên đã được chứng minh rõ, ví dụ: thực phẩm ít muối có thể giảm chứng cao huyết áp, thực phẩm nhiều chất xơ hiệu quả trong việc chống lại một số dạng táo bón. Với những thành phần khác, các bằng chứng chứng minh tính hiệu quả của nó có vẻ yếu hơn. Hiệu quả của kẽm lozenge trong việc ngăn ngừa các chứng cảm thông thường vẫn còn gây tranh cãi (Marshall, 2000). Việc hấp thu các vitamin và khoáng chất từ các loại thực phẩm chức năng, và đặc biệt là từ các thành phần phụ hỗ trợ có lẽ cao hơn nhiều so với từ các loại thực phẩm thông thường. Các tác dụng ngược lại của việc hấp thụ với hàm lượng cao như vậy tạo ra mối lo ngại lớn (Haththingy, 1997). Ví dụ, một liều lớn vitamin B6 được xem như một trong các nguyên nhân gây ra bệnh thần kinh ngoại biên, và một tác giả cũng đã nêu ra một số tác hại của việc lạm dụng calcium (Giovannucci et al., 1998) Bảng 4. liệt kê một số thành phần mới lạ có trong thực phẩm chức năng. Hầu hết các mục tiêu hướng đến việc tăng cường sức khoẻ nhờ vào các thành phần mới lạ này vẫn chưa được nghiên cứu chứng minh theo các yêu cầu về tính hiệu quả cũng như độ an toàn trong các loại dược phẩm (Linde et al., 2001). Tuy nhiên, một số thành phần đã được kiểm tra kỹ và cho thấy những hứa hẹn của nó trong việc giảm các nguy cơ gây bệnh. Một ví dụ cho trường hợp này là sterol và stanol . Các loại bơ thực vật và một số loại thực phẩm khác có tăng cường stanol và sterol thực vật ít LDL cholesterol hơn 10% có thể đóng góp một phần quan trọng vào việc ngăn ngừa bệnh tim mạch vành. Nhiều cuộc thử nghiệm có quản lý chặt chẽ đã chứng minh được hiệu quả của sterol và stanol trong việc làm giảm LDL và không có tác hại đáng kể nào được đề cập. Tuy nhiên, độ an toàn lâu dài cũng như các tác dụng trị liệu vẫn chưa được đánh giá giống như các cuộc thử nghiệm trị liệu có phạm vi rộng theo qui mô và thời lượng thông thường đối với một loại thuốc mới. Vì thế, Hội đồng sức khoẻ Hà Lan không khuyến khích người tiêu dùng không có nhu cầu giảm cholesterol sử dụng sterol thực vật, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ mang thai (Hội đồng sức khoẻ Hà Lan, 2001). Các cơ quan quản lý khác cũng đưa ra một số giới hạn tương tự. Bảng 4: Một vài chọn lọc các loại thành phần thực phẩm chức năng mới và ý kiến của các tác giả về hiệu quả1 của nó Thành phần Sản phẩm điển hình Tác dụng hay mục tiêu đối với sức khoẻ Bằng chứng trên con người Stanol và sterol thực vật Bơ thực vật, yaourt, các thanh ngũ cốc Giảm cholesterol và nguy cơ bệnh tim mạch vành ++ dành giảm cholesterol LDL; hàm ý có tác dụng đối với bệnh tim mạch vành (Katan et al., 2003) Vi khuẩn sữa GG yaourt Giảm bệnh tiêu chảy + dành cho chứng tiêu chảy do rotavirus ở trẻ (Isolauri et al., 1994) - dành cho chứng nhiễm trùng do kháng sinh (Thomas et al., 2001) Vi khuẩn sửa GG yaourt Giảm nguy cơ bệnh dị ứng sớm +/0 (Kalliomaki et al., 2001) Vi khuẩn “probiotic” sống khác, thêm đường lên men (“prebiotic”) yaourt Tăng cường miễn dịch 0 Có tác dụng trên một số biomarker (?) nhưng không có tác dụng đối với bệnh (De Roos và Katan, 2000) Isoflavones (phyto-estrogens) Các sản phẩm từ đậu nành Giảm các triệu chứng mãn kinh; bệnh loãng xương, bệnh tim mạch 0 Có ít bằng chứng từ các cuộc thử nghiệm trị liệu (van der Schouw et al., 2000; Glazier và Bowman, 2001) Chất catechin Trà Giảm nguy cơ bệnh tim mạch +/0 (Mukamal et al., 2002; hollman et al., 1999) Acid linoleic liên hợp Các thành phần bổ trợ (một lượng ít xuất hiện tự nhiên trong sữa, thịt bò và thịt cừu) Giảm cân, bảo vệ cơ thể khỏi ung thư 0/- tác dụng rất nhỏ đến trọng lượng cơ thể người (Belury, 2002) 1 Xem các tiêu chuẩn đánh giá ở phần chú thích trong bảng 1 (++, tính hiếu quả được chứng minh; + các bằng chứng hợp lý chứng minh tính hiệu quả; 0, không có dữ liệu chắc chắn; -, bằng chứng chứng minh không có hiệu quả; -- chứng minh là không hiệu quả) Pre và probiotic là một ví dụ khác về các thành phần chức năng đã được nghiên cứu kỹ. Probiotics là loại vi khuẩn có khả năng sống được trong đường ruột và mang các tác dụng có lợi đến người tiêu dùng (Schrezenmeir và de Vrese, 2001). Một số các tác dụng đến sức khoẻ đã được chứng minh, ví dụ, thực phẩm với vi khuẩn acid lactic có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh tiêu chảy (De Roos và Katan, 2000), và có các chỉ dẫn rằng nó có thể làm giảm nguy cơ dị ứng eczema đối với các trẻ có nguy cơ lây nhiễm cao (Isolauri et al., 2000; Kalliomaki et al., 2001). Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng chứng minh nó thực sự hiệu quả, ví dụ như phòng ngừa bệnh ung thư hay làm giảm cholesterol huyết thanh (De Roos và Katan, 2000). Prebiotics không phải là loại thành phần thực phẩm dễ tiêu, thông thường carbohydrate mới chính là thành phần có tác dụng tốt đến “thân chủ” bằng cách kích thích một cách có chọn lựa một số loại vi khuẩn sẵn có trong ruột kết và từ đó tăng cường sức khoẻ của “thân chủ” (Gibson và Roberfroid, 1995). Tuy nhiên dường như các tác dụng đối với sức khoẻ này chỉ giới hạn trong việc tăng cường chức năng đường ruột; không có bằng chứng khoa học thích đáng nào dưới dạng các thử nghiệm ngẫu nhiên hướng đến tác dụng đối với sức khoẻ khác được đề xuất, ví dụ như phòng ngừa bệnh ung thư, giảm lipid hay phòng ngừa các chứng bệnh tiêu chảy (De Vries et al., 2001). Một thành phần thứ ba được nghiên cứu kỹ là chất polyphenol. Uống nhiều trà có hàm lượng catechin và các chất polyphenol flavonoid khác đã được chứng minh là liên quan đến việc giảm nguy cơ bệnh tim mạch vành (Mukamal et al., 2002). Một thử nghiệm trị liệu nhằm đánh giá những tác dụng trên có vẻ rất khả thi. Việc polyphenol giải thích cái gọi là sự ngược đời kiểu Pháp (so-called French paradox) là rất đáng ngờ , cũng giống như rượu đỏ và dầu olive không phải là các đơn chất tốt cho hợp chất phenolic nếu đem so sánh với trà hay cà phê (De Vries et al., 2001). Bảng 5. liệt kê các thành phần thảo dược được dùng trong cả các thành phần phu bổ trợ lẫn thực phẩm, mặc dù lượng thảo dược này khi dùng trong thực phẩm thông thường là ít hơn nhiều. Độ an toàn là một vấn đề đáng quan tâm, ví dụ như các loại trà thảo dược với Aristolochia gây ung thư thận (Kessler, 2000) và các sản phẩm với ma hoàng (ephedra) gây chứng cao huyết áp, đột quỵ và tai biến (Haller và Benowitz, 2000). Việc sử dụng các loại thuốc từ thảo dược như echinacea, ma hoàng, tỏi, bạch quả, nhân sâm, kava, St. John’s Wort, và cây nữ lang không được khuyến khích sử dụng đối với bệnh nhân trước khi phẫu thuật (Ang-Lee et al., 2001). Các biến chứng có thể xuất hiện do sự tương tác giữa thuốc và thảo dược, cũng như các tác dụng trực tiếp như chảy máu hay giảm glucoza huyết. Một báo cáo của Phòng tổng thống kê Hoa Kỳ cũng đã kết luận rằng các sản phẩm không an toàn cũng có thể đến tay người tiêu dùng từ sự thiếu các tiêu chuẩn cũng như các cảnh báo trên nhãn sản phẩm (ví dụ, St. John’s Wort có thể làm giảm hiệu lực của các thuốc trị HIV), và từ các báo cáo cũng như các nghiên cứu nghèo nàn của các loại thành phần bổ trợ cũng như các loại thực phẩm chức năng (Phòng tổng thống kê Hoa Kỳ, 2000). Một báo cáo mới cũng đưa ra lời cảnh báo về việc sử dụng liệu pháp thảo dược “chống lão hoá” đối với người lớn tuổi, đặc biệt là những người có bệnh (Phòng tổng kiểm kê Hoa Kỳ, 2001). Thực phẩm chức năng chứa các thành phần trên cũng tạo nên mối quan tâm giống như trên mặc dù các thành phần phụ bổ trợ mang liều lượng thành phần cao hơn nhiều. Tình trạng an toàn này không dễ cải thiện và cũng có không nhiều động lực khiến các nhà sản xuất chứng minh thực phẩm chức năng của họ là có hiệu quả. Trên thị trường hiện nay có nhiều loại thực phẩm chức năng cũng như các thành phần phụ bổ trợ dành cho bất kỳ bệnh lý, bất kỳ bộ phẩn cơ thể nào, bao gồm tác dụng miễn dịch, ung thư, các bệnh về dạ dày-đường ruột, tâm lý, trí nhớ, sự minh mẫn, sức mạnh, thể lực và tuổi tác. Một vài sản phẩm loại này bán chạy và mang đến nhiều lợi nhuận cho nhà sản xuất mặc dù các bằng chứng minh cho hiệu quả của nó vẫn còn mơ hồ. Theo Southon “mặc dù các bằng chứng cho các hiệu quả này không cần thiết để tiếp thị một cách hiệu quả các sản phẩm trên, nhưng nếu tác dụng của sản phẩm được chứng minh thì việc tiếp thị lúc này mới hợp quy cách” (2000). Việc tiếp thị các loại thực phẩm mang các tác dụng đối với sức khoẻ dường như không đáng tin cậy khi các bằng chứng chứng minh công dụng của nó rõ ràng là không đầy đủ. Nhưng liệu chúng ta có quản lý được các nhà sản xuất thực phẩm, thành phần bổ trợ theo các tiêu chuẩn đúng quy cách khi mà xã hội vẫn chưa được hệ thống theo pháp luật? Để chứng minh được một thành phần thực phẩm thực sự có khả năng ngăn ngừa hay chữa trị một căn bệnh nào đó tốn nhiều tiền của và công sức và các cuộc thí nghiệm gần đây vẫn chưa được khuyến khích. Ví dụ như chất beta-carotene được nhiều người tin là có khả năng giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư ở người hút thuốc lá, vì việc tiêu thụ các loại thực phẩm nhiều chất beta-carotene liên quan tới việc giảm bệnh ung thư khi lượng carotene có trong máu cao. Theo đó, các thành phần bổ trợ chứa carotene giúp giảm nguy cơ ung thư phổi đối với người hút thuốc lá (Nhóm nghiên cứu phòng ngừa ung thư alpha tocopherol beta carotene; Omenn et al., 1996). Các cuộc thử nghiệm trị liệu rộng rãi về chống oxi hoá cũng cho ra một số kết quả không như ý (Yusuf et al., 2000), mặc dù một số các cuộc thử nghiệm trị liệu gần đây đã cho thấy nó có khả năng làm chậm lại quá trình thoái hoá khi được kết hợp với chất kẽm (Nhóm nghiên cứu các bệnh về mắt liên quan đến tuổi tác, 2001). Một ngoại lệ mang tính tích cực nhất là dầu cá được chứng minh là có hiệu quả đáng kể trong việc phòng ngừa các vụ đột tử do bệnh tim (Gissi-Prevenzione Investigators, 1999). Từ các kết quả tiêu cực, các nhà sản xuất có lẽ phải suy nghĩ kỹ càng trước khi quyết định bỏ nhiều tiền đầu tư vào việc nghiên cứu mà có thể việc nghiên cứu này sẽ giết chết một sản phẩm có thể mang đến nhiều lợi nhuận cho họ. Thậm chí khi việc nghiên cứu chứng minh được tính hiệu quả của loại thực phẩm đó, các nhà sản xuất cũng khó thu hồi lại được số tiền mà họ đã đầu tư do rất khó công nhận việc sáng chế độc quyền cho thực phẩm. Một lần nữa, đây chính là một trong những hệ thống lập pháp chống lại sự xuất hiện của nhiều loại thực phẩm tăng cường sức khoẻ thế hệ mới.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 15, 2008 16:27:33 GMT 9
1 www.cfsan.fda.gov/~dms/hclaims.html truy cập vào ngày 17/2/2004 2 Hội liên hiệp các mục tiêu sức khoẻ, được thành lập vào năm 1997 là một hội liên hiệp giữa các tổ chức người tiêu dùng, ban chấp pháp, ban công nghiệp nhằm thiết lập một bộ luật thi hành đối với tác dụng của các mục tiêu sức khoẻ trên thực phẩm. Website www.jhci.org.uk/code.pdf truy cập vào ngày 17/2/2004. 3 Hội đồng Châu Âu (http://europa.eu.int/comm/food/fs/fl/fl07_en.pdf truy cập vào ngày 24/7/2003). 4 Bộ luật thi hành đối với việc quảng bá và ghi nhãn thực phẩm và thuốc men liên quan đến các ngành công nghiệp www.koagkag.nl truy cập vào ngày 17/2/2004. Các nhà sản xuất cũng lợi dụng việc bùng nổ của thực phẩm chức năng để xếp các loại thực phẩm có lượng chất béo bão hoà, đường, calorie cao vào loại thực phẩm khoẻ mạnh. Theo cách này, các nhà sản xuất nhấn mạnh “tinh chất thiên nhiên” calcium có trong kem hay năng lượng (ví dụ: calorie) mà các loại kẹo cung cấp. Bảng 3 Các mục tiêu sức khoẻ có thể được dùng trên nhãn thực phẩm và các loại thành phần bổ trợ ở Hoa Kỳ [http://www.cfsan.fda.gov/~dms/flg-6c.html truy cập vào 24/7/2003] Các mục tiêu dựa trên xem xét của FDA về lịch sử khoa học calcium và chứng loãng xương Natri và chứng cao huyết áp Chất béo ăn kiêng và bệnh ung thư Chất béo bão hoà ăn kiêng và nguy cơ bệnh tim mạch vành Các sản phẩm ngũ cốc có chất xơ, các loại trái cây, rau quả và ung thư Các loại trái cây, rau quả và các sản phẩm ngũ cốc có chất xơ, đặc biệt là chất xơ hoà tan và nguy cơ bệnh tim mạch vành Các loại trái cây, rau quả và bệnh thư Folate và các khiếm khuyết thần kinh Đường cồn ăn kiêng và bệnh mục răng Chất xơ hoà tan từ một số loại thực phẩm và bệnh tim mạch vành protein đậu nành và nguy cơ bệnh tim mạch vành Este Sterol/stanol thực vật và nguy cơ bệnh tim mạch vành Các mục tiêu dựa trên “các tuyên bố chính thức của hội đồng khoa học liên ban” Các loại thực phẩm ngũ cốc nguyên chất và nguy cơ bệnh tim và một số bệnh ung thư Kali và nguy cơ cao huyết áp và đột quị Vì vậy, có rất nhiều cơ hội để các nhà sản xuất có thể ám chỉ các loại thực phẩm có thể tăng cường sức khoẻ mà không phạm luật và điều này đang bị khai thác một cách triệt để (Hagenmeyer, 2000). Hàng ngàn công ty cung cấp các thành phần bổ trợ cũng như các loại thực phẩm trên internet với muôn vàn hứa hẹn hoa mỹ không thể thực hiện. Các tài liệu quảng cáo như tờ rơi, báo chí được phát hành ít chịu sự quản lý khắt khe như các nhãn dán trên thực phẩm, điều này đã giúp truyền bá thêm các thông điệp về sức khoẻ. Các cách truyền bá như vậy sẽ dễ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng nhưng cũng không công bằng nếu đổ hoàn toàn trách nhiệm cho nền công nghiệp thực phẩm. Những quy định hiện hành dường như vẫn còn nhiều kẽ hở cho các mục tiêu sức khoẻ dễ gây nhầm lẫn này và một số công ty chắc chắn sẽ tận dụng các kẽ hở trên. Sự mờ nhạt trong các yêu cầu đối với mục tiêu sức khoẻ của thực phẩm trái với các qui định của chính phủ về việc tăng cường chất lượng thực phẩm bắt buộc, như việc thêm íôt vào bánh mì, flour vào nước uống, vitamin D vào bơ thực vật và sữa, acid folic vào các sản phẩm ngũ cốc. Tất cả sự đo lường này được thực hiện dựa vào các cuộc nghiên cứu tỉ mỉ, hiệu quả và an toàn, được kiểm soát và duy trì tốt. Bánh mì được tăng cường, sữa và nước đáp ứng được nhu cầu của hầu hết cộng đồng trong khi thực phẩm chức năng lại không thể. Một cuộc nghiên cứu ở Phần Lan đã chứng minh rằng bơ thực vật được bổ sung stanol được tầng lớp người tiêu dùng có trình độ và thu nhập cao tiêu thụ (Anttolainen et al., 2001). Thực phẩm chức năng trên thực tế Bảng 1 liệt kê các loại thực phẩm sử dụng các loại vitamin và khoáng chất như các thành phần đặc biệt của nó; chúng tôi cũng nêu ra ý kiến của chúng tôi về tính hiệu quả của các thành phần này. Các mục tiêu sức khoẻ cho một vài loại thành phần trên đã được chứng minh rõ, ví dụ: thực phẩm ít muối có thể giảm chứng cao huyết áp, thực phẩm nhiều chất xơ hiệu quả trong việc chống lại một số dạng táo bón. Với những thành phần khác, các bằng chứng chứng minh tính hiệu quả của nó có vẻ yếu hơn. Hiệu quả của kẽm lozenge trong việc ngăn ngừa các chứng cảm thông thường vẫn còn gây tranh cãi (Marshall, 2000). Việc hấp thu các vitamin và khoáng chất từ các loại thực phẩm chức năng, và đặc biệt là từ các thành phần phụ hỗ trợ có lẽ cao hơn nhiều so với từ các loại thực phẩm thông thường. Các tác dụng ngược lại của việc hấp thụ với hàm lượng cao như vậy tạo ra mối lo ngại lớn (Haththingy, 1997). Ví dụ, một liều lớn vitamin B6 được xem như một trong các nguyên nhân gây ra bệnh thần kinh ngoại biên, và một tác giả cũng đã nêu ra một số tác hại của việc lạm dụng calcium (Giovannucci et al., 1998) Bảng 4. liệt kê một số thành phần mới lạ có trong thực phẩm chức năng. Hầu hết các mục tiêu hướng đến việc tăng cường sức khoẻ nhờ vào các thành phần mới lạ này vẫn chưa được nghiên cứu chứng minh theo các yêu cầu về tính hiệu quả cũng như độ an toàn trong các loại dược phẩm (Linde et al., 2001). Tuy nhiên, một số thành phần đã được kiểm tra kỹ và cho thấy những hứa hẹn của nó trong việc giảm các nguy cơ gây bệnh. Một ví dụ cho trường hợp này là sterol và stanol . Các loại bơ thực vật và một số loại thực phẩm khác có tăng cường stanol và sterol thực vật ít LDL cholesterol hơn 10% có thể đóng góp một phần quan trọng vào việc ngăn ngừa bệnh tim mạch vành. Nhiều cuộc thử nghiệm có quản lý chặt chẽ đã chứng minh được hiệu quả của sterol và stanol trong việc làm giảm LDL và không có tác hại đáng kể nào được đề cập. Tuy nhiên, độ an toàn lâu dài cũng như các tác dụng trị liệu vẫn chưa được đánh giá giống như các cuộc thử nghiệm trị liệu có phạm vi rộng theo qui mô và thời lượng thông thường đối với một loại thuốc mới. Vì thế, Hội đồng sức khoẻ Hà Lan không khuyến khích người tiêu dùng không có nhu cầu giảm cholesterol sử dụng sterol thực vật, đặc biệt là trẻ em và phụ nữ mang thai (Hội đồng sức khoẻ Hà Lan, 2001). Các cơ quan quản lý khác cũng đưa ra một số giới hạn tương tự. Bảng 4: Một vài chọn lọc các loại thành phần thực phẩm chức năng mới và ý kiến của các tác giả về hiệu quả1 của nó
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 15, 2008 16:29:46 GMT 9
1 Xem các tiêu chuẩn đánh giá ở phần chú thích trong bảng 1 (++, tính hiếu quả được chứng minh; + các bằng chứng hợp lý chứng minh tính hiệu quả; 0, không có dữ liệu chắc chắn; -, bằng chứng chứng minh không có hiệu quả; -- chứng minh là không hiệu quả) Pre và probiotic là một ví dụ khác về các thành phần chức năng đã được nghiên cứu kỹ. Probiotics là loại vi khuẩn có khả năng sống được trong đường ruột và mang các tác dụng có lợi đến người tiêu dùng (Schrezenmeir và de Vrese, 2001). Một số các tác dụng đến sức khoẻ đã được chứng minh, ví dụ, thực phẩm với vi khuẩn acid lactic có thể làm giảm mức độ nghiêm trọng của bệnh tiêu chảy (De Roos và Katan, 2000), và có các chỉ dẫn rằng nó có thể làm giảm nguy cơ dị ứng eczema đối với các trẻ có nguy cơ lây nhiễm cao (Isolauri et al., 2000; Kalliomaki et al., 2001). Tuy nhiên, có rất ít bằng chứng chứng minh nó thực sự hiệu quả, ví dụ như phòng ngừa bệnh ung thư hay làm giảm cholesterol huyết thanh (De Roos và Katan, 2000). Prebiotics không phải là loại thành phần thực phẩm dễ tiêu, thông thường carbohydrate mới chính là thành phần có tác dụng tốt đến “thân chủ” bằng cách kích thích một cách có chọn lựa một số loại vi khuẩn sẵn có trong ruột kết và từ đó tăng cường sức khoẻ của “thân chủ” (Gibson và Roberfroid, 1995). Tuy nhiên dường như các tác dụng đối với sức khoẻ này chỉ giới hạn trong việc tăng cường chức năng đường ruột; không có bằng chứng khoa học thích đáng nào dưới dạng các thử nghiệm ngẫu nhiên hướng đến tác dụng đối với sức khoẻ khác được đề xuất, ví dụ như phòng ngừa bệnh ung thư, giảm lipid hay phòng ngừa các chứng bệnh tiêu chảy (De Vries et al., 2001). Một thành phần thứ ba được nghiên cứu kỹ là chất polyphenol. Uống nhiều trà có hàm lượng catechin và các chất polyphenol flavonoid khác đã được chứng minh là liên quan đến việc giảm nguy cơ bệnh tim mạch vành (Mukamal et al., 2002). Một thử nghiệm trị liệu nhằm đánh giá những tác dụng trên có vẻ rất khả thi. Việc polyphenol giải thích cái gọi là sự ngược đời kiểu Pháp (so-called French paradox) là rất đáng ngờ , cũng giống như rượu đỏ và dầu olive không phải là các đơn chất tốt cho hợp chất phenolic nếu đem so sánh với trà hay cà phê (De Vries et al., 2001). Bảng 5. liệt kê các thành phần thảo dược được dùng trong cả các thành phần phu bổ trợ lẫn thực phẩm, mặc dù lượng thảo dược này khi dùng trong thực phẩm thông thường là ít hơn nhiều. Độ an toàn là một vấn đề đáng quan tâm, ví dụ như các loại trà thảo dược với Aristolochia gây ung thư thận (Kessler, 2000) và các sản phẩm với ma hoàng (ephedra) gây chứng cao huyết áp, đột quỵ và tai biến (Haller và Benowitz, 2000). Việc sử dụng các loại thuốc từ thảo dược như echinacea, ma hoàng, tỏi, bạch quả, nhân sâm, kava, St. John’s Wort, và cây nữ lang không được khuyến khích sử dụng đối với bệnh nhân trước khi phẫu thuật (Ang-Lee et al., 2001). Các biến chứng có thể xuất hiện do sự tương tác giữa thuốc và thảo dược, cũng như các tác dụng trực tiếp như chảy máu hay giảm glucoza huyết. Một báo cáo của Phòng tổng thống kê Hoa Kỳ cũng đã kết luận rằng các sản phẩm không an toàn cũng có thể đến tay người tiêu dùng từ sự thiếu các tiêu chuẩn cũng như các cảnh báo trên nhãn sản phẩm (ví dụ, St. John’s Wort có thể làm giảm hiệu lực của các thuốc trị HIV), và từ các báo cáo cũng như các nghiên cứu nghèo nàn của các loại thành phần bổ trợ cũng như các loại thực phẩm chức năng (Phòng tổng thống kê Hoa Kỳ, 2000). Một báo cáo mới cũng đưa ra lời cảnh báo về việc sử dụng liệu pháp thảo dược “chống lão hoá” đối với người lớn tuổi, đặc biệt là những người có bệnh (Phòng tổng kiểm kê Hoa Kỳ, 2001). Thực phẩm chức năng chứa các thành phần trên cũng tạo nên mối quan tâm giống như trên mặc dù các thành phần phụ bổ trợ mang liều lượng thành phần cao hơn nhiều. Tình trạng an toàn này không dễ cải thiện và cũng có không nhiều động lực khiến các nhà sản xuất chứng minh thực phẩm chức năng của họ là có hiệu quả. Trên thị trường hiện nay có nhiều loại thực phẩm chức năng cũng như các thành phần phụ bổ trợ dành cho bất kỳ bệnh lý, bất kỳ bộ phẩn cơ thể nào, bao gồm tác dụng miễn dịch, ung thư, các bệnh về dạ dày-đường ruột, tâm lý, trí nhớ, sự minh mẫn, sức mạnh, thể lực và tuổi tác. Một vài sản phẩm loại này bán chạy và mang đến nhiều lợi nhuận cho nhà sản xuất mặc dù các bằng chứng minh cho hiệu quả của nó vẫn còn mơ hồ. Theo Southon “mặc dù các bằng chứng cho các hiệu quả này không cần thiết để tiếp thị một cách hiệu quả các sản phẩm trên, nhưng nếu tác dụng của sản phẩm được chứng minh thì việc tiếp thị lúc này mới hợp quy cách” (2000). Việc tiếp thị các loại thực phẩm mang các tác dụng đối với sức khoẻ dường như không đáng tin cậy khi các bằng chứng chứng minh công dụng của nó rõ ràng là không đầy đủ. Nhưng liệu chúng ta có quản lý được các nhà sản xuất thực phẩm, thành phần bổ trợ theo các tiêu chuẩn đúng quy cách khi mà xã hội vẫn chưa được hệ thống theo pháp luật? Để chứng minh được một thành phần thực phẩm thực sự có khả năng ngăn ngừa hay chữa trị một căn bệnh nào đó tốn nhiều tiền của và công sức và các cuộc thí nghiệm gần đây vẫn chưa được khuyến khích. Ví dụ như chất beta-carotene được nhiều người tin là có khả năng giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư ở người hút thuốc lá, vì việc tiêu thụ các loại thực phẩm nhiều chất beta-carotene liên quan tới việc giảm bệnh ung thư khi lượng carotene có trong máu cao. Theo đó, các thành phần bổ trợ chứa carotene giúp giảm nguy cơ ung thư phổi đối với người hút thuốc lá (Nhóm nghiên cứu phòng ngừa ung thư alpha tocopherol beta carotene; Omenn et al., 1996). Các cuộc thử nghiệm trị liệu rộng rãi về chống oxi hoá cũng cho ra một số kết quả không như ý (Yusuf et al., 2000), mặc dù một số các cuộc thử nghiệm trị liệu gần đây đã cho thấy nó có khả năng làm chậm lại quá trình thoái hoá khi được kết hợp với chất kẽm (Nhóm nghiên cứu các bệnh về mắt liên quan đến tuổi tác, 2001). Một ngoại lệ mang tính tích cực nhất là dầu cá được chứng minh là có hiệu quả đáng kể trong việc phòng ngừa các vụ đột tử do bệnh tim (Gissi-Prevenzione Investigators, 1999). Từ các kết quả tiêu cực, các nhà sản xuất có lẽ phải suy nghĩ kỹ càng trước khi quyết định bỏ nhiều tiền đầu tư vào việc nghiên cứu mà có thể việc nghiên cứu này sẽ giết chết một sản phẩm có thể mang đến nhiều lợi nhuận cho họ. Thậm chí khi việc nghiên cứu chứng minh được tính hiệu quả của loại thực phẩm đó, các nhà sản xuất cũng khó thu hồi lại được số tiền mà họ đã đầu tư do rất khó công nhận việc sáng chế độc quyền cho thực phẩm. Một lần nữa, đây chính là một trong những hệ thống lập pháp chống lại sự xuất hiện của nhiều loại thực phẩm tăng cường sức khoẻ thế hệ mới. Bảng 5: Chiết xuất thảo dược thường được dùng trong các thành phần bổ trợ thỉnh thoảng được thêm vào thực phẩm, và ý kiến của tác giả về tính hiệu quả của nó1
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 15, 2008 16:30:36 GMT 9
Chúng ta nên đòi hỏi những loại bằng chứng nào đối với
thực phẩm chức năng?
Các hệ thống đánh giá tính hiệu quả của các mục tiêu sức khoẻ của thực phẩm có mặt ở nhiều quốc gia. Một số ví dụ như tiêu chuẩn “thoả thuận khoa học quan trọng” của FDA Hoa Kỳ Ban Thực tiễn và các qui tắc của Hà Lan (Trung tâm dinh dưỡng Hà Lan, 2004), Ban Sáng kiến các mục tiêu sức khoẻ của Anh (Ban Sáng kiến các mục tiêu sức khoẻ, 2004). Các đánh giá này trở thành bắt buộc đối với tất cả các loại mục tiêu sức khoẻ trực tiếp hay hàm ý của bất kỳ loại thực phẩm tăng cường sức khoẻ nào. Các tiêu chuẩn đánh giá độ an toàn và tính hiệu quả của thực phẩm chức năng không cần phải giống như đối với các loại thuốc vì giữa thuốc và các thành phần thực phẩm có sự khác biệt quan trọng. Các nghiên cứu đối với dược phẩm là nhằm tách biệt hay tổng hợp các phân tử mới đối với sự trao đổi chất của con người, nhưng nội dung dinh dưỡng của các phân tử đã trở thành một phần trong chế độ ăn uống của một bộ phận lớn dân số trong hàng thế kỷ nay. Nghiên cứu mối liên hệ giữa chế độ ăn uống và sức khoẻ trong một bộ phận dân số là cách làm hiệu quả nhằm tìm hướng cho các loại thực phẩm tăng cường sức khoẻ cũng như nghiên cứu độ an toàn và tính hiệu quả của nó. Khoa dịch tể học cũng đã đưa ra nhiều hướng dẫn, rất nhiều trong số đó hướng về thực phẩm khoẻ mạnh như ví dụ trong bảng 1. Tuy nhiên, các cuộc thử nghiệm có quản lý nên được dùng nhằm chứng minh một loại thành phần trong thực phẩm chức năng là hiệu quả và an toàn. Đối với các loại thực phẩm chức năng bao gồm một số chất dinh dưỡng với liều lượng vừa phải, dường như đủ để cho thấy rằng các chất dinh dưỡng này được con người hấp thụ một cách thích đáng. Một vài ví dụ như các loại thực phẩm có tăng cường acid folic hay calcium. Đối với một số thành phần lạ hay một liều lượng cao hơn bình thường, các bằng chứng chứng minh đòi hỏi phải gần giống như đối với một loại thuốc mới, ví dụ như các cuộc thử nghiệm có quản lý trong thời gian ngắn hay dài chứng minh độ an toàn và tính hiệu quả trên động vật thử, trên các tính nguyện viên khoẻ mạnh hay trên một bộ phận dân số thử nghiệm mà loại thực phẩm đó nhắm tới. Các cuộc thử nghiệm trị liệu chứng minh hiệu quả thực tế trong việc làm giảm bệnh tật ở người (được gọi là thử nghiệm giai đoạn III) thông thường được cho là đắt ghê gớm. Tuy nhiên, hầu hết các ngành công nghiệp thực phẩm chủ yếu hay các công ty hàng hoá đều có thể chấp nhận giá của các cuộc thử nghiệm này, vì họ cho rằng kết quả mà nó mang lại sẽ tăng cường việc kinh doanh, cũng như tăng cường nhiều lợi nhuận cho họ. Ví dụ, các dữ liệu của ngành dịch tể học (Mukamal et al., 2002) cho rằng việc tiêu thụ trà liên quan tới việc giảm thiểu 30% tỉ lệ tử vong của các bệnh nhân bị chứng nhồi máu cơ tim. Một thử nghiệm trị liệu nhằm kiểm tra giả thuyết này cần đến 2500 bệnh nhân để đạt tới mức 80% ở α = 0.05. Một cuộc thử nghiệm như vậy có thể tiêu đến 2 triệu đô la mỗi năm trong vòng 5 năm. Nếu mang ra so sánh, số tiền dành cho việc quảng cáo một loại trà ở Mỹ vào năm 1998 là 41.8 triệu đô la cho một năm (Nestle, 2002). Vì thế cho nên, ngành công nghiệp trà trên thế giới có thể dễ dàng đầu tư vào một cuộc thử nghiệm trị liệu nếu như kết quả mà nó mang lại hy vọng sẽ thúc đẩy việc kinh doanh. Một cuộc nghiên cứu có thể sẽ được tiến hành nếu như chính phủ có thể đưa ra viễn cảnh của một mục tiêu sức khoẻ mà các thử nghiệm sẽ thành công. Các mục tiêu sức khoẻ như thế này có lẽ không phải duy nhất dành cho công ty đã đầu tư vào nghiên cứu nhưng điều đó làm cho việc nghiên cứu trở nên không có ích một cách không cần thiết. Một công ty có thể muốn chứng minh tính hiệu quả đối với sức khoẻ của một thành phần với hy vọng sẽ đánh gục đối thủ cạnh tranh trong việc tạo ra một hương vị mới, sự tiện lợi và giá cả cạnh tranh. Cũng như vậy, các nhà sản xuất có thể cùng nhau đầu tư vào việc nghiên cứu các loại hàng hoá có thể mang lợi cho họ.
Pháp chế chung là rất cần thiết cho sự thành công của các loại thực phẩm chức năng dựa vào bằng chứng. Nếu một mục tiêu sức khoẻ được chứng minh, ví dụ, qua một cuộc thử nghiệm trị liệu, sau đó, các nhà sản xuất có thể tự do quảng cáo sản phẩm đó; nếu một mục tiêu sức khoẻ là không có thật, nó cần bị pháp luật ngăn cấm.
Thực phẩm chức năng liệu có tương lai không? Nếu dựa trên các cơ sở không lâu dài như vậy, thực sự có một tương lai dành cho thực phẩm chức năng nhưng còn có rất nhiều yêu cầu. Vào năm 1999, người tiêu dùng Mỹ tốn khoảng 15 tỉ đô la cho các thành phần phụ bổ trợ ăn kiêng và 16 tỉ đô la cho thực phẩm chức năng (Phòng tổng thống kê Hoa Kỳ, 2000). Tuy nhiên, hệ thống đảm bảo giá trị cho các mục tiêu sức khoẻ (hoặc theo thuật ngữ hợp pháp là: các mục tiêu về cấu trúc/chức năng hay các phát biểu về việc bổ trợ dinh dưỡng) đang bị xói mòn, và việc quản lý trên hầu hết các quốc gia còn lại trên thế giới thậm chí còn yếu ớt hơn. Như kết quả tất yếu, người tiêu dùng bị kéo vào các mục tiêu vô căn cứ và các lời ám chỉ bóng gió về các lợi ích dối với sức khoẻ của thực phẩm và các thành phần bổ trợ. Thế nhưng, đó không phải là cơ sở vững chắc cho thành công lâu dài trong kinh doanh. Sớm hay muộn, người tiêu dùng cũng nhận ra rằng họ đang bị lừa gạt. Điều này có thể lý giải tại sao việc buôn bán các thành phần bổ trợ ăn uống tại Mỹ bị suy sụp trong những năm đỉnh cao vào khoảng giữa cuối những năm 1990. Nếu như chính phủ không lập ra các tiêu chuẩn rõ ràng và nghiêm khắc cho độ an toàn và tính hiệu quả của thực phẩm chức năng thì lĩnh vực này sẽ không có một tương lai tốt đẹp.
Nguyễn thị Nhật Thư dịch
(HLT hiệu đính)
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 3:57:25 GMT 9
Hóa Chất Không Dính: Teflon Cho đến nay, hầu hết dân chúng trên thế giới đều biết đến hóa chất Teflon đặc biệt là trong các công việc bếp núc. Tính chất đặc thù của hóa chất nầy là không làm thức ăn dính vào nồi niêu soong chảo sau khi đã được phủ một lớp mõng bên trong. Nhưng trong những năm gần đây, tại Hoa Kỳ đã xảy ra những vụ kiện của dân chúng về những tính độc hại của Teflon. Xin mời thính giả của Đài ACTD theo dõi cuộc thảo luận của chúng tôi với TS MTT về vấn đề trên. Hỏi 1: Trước hết xin TS cho biết Teflon là hóa chất gì và được tung ra thị trường như thế nào? Đáp 1: Teflon là tên thương hiệu của một chất polymer do nhà khoa học Roy Plunkett (1910 - 1994) khám phá vào năm 1938. Sản phẩm nầy được hãng DuPont tung ra thị trường từ năm 1946. Đây là một hóa chất hữu cơ chứa fluor, có tính chất chịu nhiệt và không kết dính. Khoảng 50 năm về trước DuPont đã bắt đầu sản xuất đủ loại sản phẩm dùng trong nấu nướng có phủ một lớp Teflon. Có thể nói đây là một cuộc cách mạng nấu nướng làm cho dịch vụ nầy được thực hiện dễ dàng và thâu ngắn thời gian làm bếp của những ông bà nội trợ. Các dụng cụ bếp núc mới tiếp tục ra đời, ngay cả lò nướng và soong chảo bằng điện. Hiện tại, 70% dụng cụ nấu nướng ở Hoa Kỳ là thuộc loại không dính. Hỏi 2: Tại sao chất Teflon là một chất không dính, TS có thể giải thích thêm cho thính giả của Đài rõ? Đáp 2: Chất Teflon không dính là do một tính chất đặc biệt của hóa chất nầy. Teflon chỉ là một tên thương hiệu dùng để gọi thay thế tên hóa chất của một loại polymer polytetrafluoroethylene viết tắt là PTFE. Đặc tính độc đáo của PTFE là hệ số cọ sát (coefficient of friction) của chất nầy thấp nhất đối với tất cả các kim loại hiện diện trên trái đất. Do đó nó có thể được dùng như một lớp áo tráng bên trong nồi niêu trong kỹ nghệ nấu nướng. Độ nóng chảy của PTFE là 3270C. Vì hệ số cọ sát thấp, PTFE còn được dùng trong kỹ nghệ không gian và trong kỹ nghệ tinh luyện uranium, áo giáp chống đạn, vật cách điện v.v... Bốn năm sau khi tung ra thị trường từ năm 1950, hảng DuPont đã sản xuất trên 500 tấn PTFE tại cơ xưởng ở Virginia. Hỏi 3: Với những tiện lợi trong việc nấu nướng, nhưng tại sao lại có những vụ kiện trong vài năm trở lại đây, thưa TS? Đáp 3: Thưa Anh. Chúng tôi xin nhắc lại một lần nữa là khi áp dụng một hóa chất nào trong đời sống, chắc chắn chúng ta sẽ phải chấp nhận nhiều điểm thuận lợi và cũng có những bất lợi kèm theo sau. Trường hợp của Teflon cũng không là một ngoại lệ nào cả. Từ những ứng dụng trên đặc biệt trong kỹ nghệ nấu nướng, nếu các chảo không dính được đun ở nhiệt độ cao, khí độc có thể bốc lên tùy theo nhiệt độ đang đun. Khí nầy có thể là một vũ khí có thể giết chết chim chóc, và ảnh hưởng lên con người qua cảm giác như bị bịnh cúm (flu-like), làm cơ thể bị nóng sốt trong vòng một tuần lễ tùy theo cung cách và cường độ bị tiếp nhiễm. Việc tiếp nhiễm có thể xảy ra khi chảo Teflon vẩn còn trên bếp nóng ở trong một gian nhà bếp nhỏ, không thoáng khí và không có máy hút khói. Trong trường hợp hệ trọng, nghĩa là lớp Teflon bị nun nóng quá độ, Teflon sẽ bị phân hủy và khí thoát ra có thể gây tử vong cho người. Teflon bắt đầu bị phân hủy từng phần ở khoảng 5000F (tương đương 2600C), và bị phân hủy hoàn toàn ở nhiệt độ 6600F (3500C). Để có thể có một khái niệm để so sánh, dầu mở hay bơ bắt đầu chảy và sôi cùng ra khói vào khoảng 3920F (2000C), còn thịt bị cháy khi được nun nóng đến khoảng 400 - 4500F (200 - 2300C). Chúng ta cũng cần nên nhớ rằng khi đạt đến các nhiệt độ kể trên thì nhiệt độ của đáy chảo sẽ cao hơn khoảng 300F, nghĩa là lớp Teflon có thể đã bắt đầu phân hủy rồi. Hỏi 4: Các cơ quan y tế Hoa Kỳ có lên tiếng về những nguy cơ TS vừa nêu ra hay không? Đáp 4: Dạ có, thưa anh. Năm 2005, Hội đồng Cố vấn Khoa học (SAB) của Cơ quan BVMT HK (USEPA) đã khám phá rằng hóa chất perfluorooctanoic acid (PFOA), một hóa chất dùng để điều chế Teflon là dường như gây ra ung thư (likely carcinogen). Suzan Hazen, Phụ tá Hành chánh của EPA, sau khi nhận được một báo cáo khoa học công bố rằng đã có chỉ dấu của hóa chất PFOA trong máu của 90% người HK, tuyên bồ rằng: “Mặc dù nguồn gốc của sự tiếp nhiễm nầy còn mơ hồ, nhưng các dụng cụ nấu nướng không dính đang là một nghi vấn lớn”. Và EPA cũng đã nghiên cứu vấn đề nầy để có thể đem ra thảo luận trong các hội nghị chuyên đề sắp tới. Hỏi 5: Còn các vụ kiện tụng do ảnh hưởng của hóa chất PFOA như thế nào, TS có thể cho biết một vài trường hợp điển hình. Đáp 5: Có hai trường hợp chúng tôi muốn nêu ra đây, đó là việc ảnh hưởng lên súc vật và người của hóa chất vừa kể trên. Vào tháng 6, 1999 tại West Virginia, gia đình Tennent đã kiện hãng Dupont vì đã làm chết 280 con bò của gia dình nầy do hóa chất PFOA phế thải vào bãi rác lộ thiên, không độc hại ở gần nơi cư trú của gia đình. Nước rỉ của bãi rác trên đã đi vào rãnh nước xuyên qua khu đất nuôi bò. Vụ kiện đã được dàn xếp nội bộ, nhưng số tiền bồi thường không được công bố. Hỏi 6: Còn trường hợp xảy ra cho con người như thế nào thưa ông? Đáp 6: Vào năm 2004, DuPont đã phải trả 300 triệu Mỹ kim để dàn xếp một vụ kiện khác do các cư dân sống chung quanh nhà máy sản xuất Teflon ở Ohio và West Virginia căn cứ vào nguồn nước ngầm ở hai nơi nầy bị ô nhiễm vì hóa chất trên, và một số người dân bị tiếp nhiễm và sức khỏe bị ảnh hưởng cũng như có một số chỉ dấu liên quan đến mầm móng ung thư. Hỏi 7: Như TS đã trao đổi ơ phần trên, Cơ quan EPA HK vẫn chưa có một quyết định dứt khoát nào về hóa chất PFOA nầy, lý do tại sao? Vì chưa có những bằng chứng khoa học hay vì một lý do nào khác như áp lực kinh tế chẳng hạn? Đáp 7: Theo ý kiến chúng tôi, sở dĩ HK chưa quyết định dứt khoát là vì các cơ quan y tế và nghiên cứu chưa thu thập đủ dữ kiện để kết luận tính chất ung thư của hóa chất nầy. Sự thận trọng nầy rất cần thiết và áp dụng cho mọi trường hợp. Ngoài ra chúng tôi không nghĩ là có những sức ép nào khác ngoài có thể ảnh hưởng lên các kết luận của cơ quan y tế HK ngoài vấn đề ảnh hưởng lên sức khỏe và môi trường. Cho đến nay 2006, hóa chất nầy vẫn chưa được EPA liệt kê vào danh sách hóa chất có nguy cơ gây ra bịnh ung thư. Báo Washington Post ngày 23/12/2005 có loan tải tin tức như sau: “EPA đang cứu xét sự kiện hóa chất PFOA có nguy cơ ảnh hưởng lên sức khỏe con người và phải được qui định thành luật. Hóa chất nầy là một trong những hóa chất hữu cơ sinh tụ và không phân hủy (bio-accumulative persistent organic pollutants), liên quan đến bịnh ung thư và phát sinh dị hình dị dạng nơi thú vật; do đó, có thể gây ra ung thư cho con người”. Như vậy chúng ta đã thấy EPA Hoa Kỳ rất thận trọng trong lãnh vực làm luật. Hỏi 8: Trở qua trách nhiệm của những nhà sản xuất, TS thấy lương nghề nghiệp của họ như thế nào nhất là trong một xã hội lấy vật chất làm đầu như xã hội chúng ta đang sống ở đây? Đáp 8: Trong trường hợp hãng DuPont, ngoài hóa chất PFOA, hóa chất dùng để sản xuất Teflon, hãng nầy còn sản xuất một hóa chất rất nổi tiếng là CFC viết tắt của tên hóa chất chlorofluorocarbon. Đây là một hóa chất dùng trong kỹ nghệ lạnh và là một hóa chất gây ảnh hưởng đến tầng lớp ozone của bầu khí quyển, còn gọi là hiệu ứng nhà kính. Trong quyết định của 189 nguyên thủ quốc gia ở kỳ nhóm họp tại Montreal năm 1989, Nghị định thư Montreal ra đời với kết luận là phải chấm dứt việc sản xuất hóa chất CFC vào năm 2006. Chính hãng DuPont vào năm 1992 cũng đã tuyên bố là sẽ chấm dứt việc sản xuất chất CFC càng sớm càng tốt. Nhưng hãng nầy vẫn tiếp tục tung ra thị trường hóa chất trên.Tiếc thay, điều nầy nói lên được sức ép của những thế lực tư bản ở đất nước nầy, và các thế lực trên có khả năng khuynh đảo những luật lệ đã được quốc tế đồng thuận. Trở qua việc sản xuất PFOA, kể từ đầu năm 2006, hãng DuPont, công ty duy nhất sản xuất chất PFOA tại HK, chiếm 25% mức sản xuất trên thế giới đã đồng ý tiết giảm dần dần sự phát thải của chất nầy vào môi trường và hứa chấm dứt vào năm 2015. Hãng cũng hiện đang nghiên cứu một loại hóa chất khác để điều chế Teflon như tổng hgợp trực tiếp fluor và ethylene. Chúng ta cũng khó biết hãng nầy có giữ được lời hứa hay không, hay cũng giống như trường hợp của chất CFC. Hỏi 9: Câu hỏi sau cùng cho TS, TS có lới khuyên nào đối với người xử các dụng cụ nấu nướng có lớp Teflon. Đáp 9: Như chúng tôi đã trình bày trên đây, các dụng cụ nấu bếp có Teflon đem lại nhiều tiện lợi trong việc nấu nướng; tuy nhiên những thuận lợi đó có thể mang lại cho chúng ta phiền não nếu xử dụng không đúng cách. Trong cung cách nấu nướng của VN, chúng ta thường hay nấu ở nhiệt độ cao, và chưng hay hầm thức ăn trong một thời gian dài. Điều nầy có thể làm cho lớp Teflon bị phân hủy mà chúng ta không nhận biết được. Do đó ảnh hưởng lên sức khỏe có thể xảy ra trong một thời gian dài ít người để ý đến. Vì đây là những chất hữu cơ bền vững, không bị phân hủy theo thời gian, sẽ tích tụ trong cơ thể chúng ta. Một khi liều lượng đã đạt đền mức gây nhiễm độc, khả năng được chửa trị lành sẽ rất thấp. Vì vậy chúng tôi đề nghị trong công việc nấu nướng, cần thận trọng khi xử dụng các dụng cụ có lớp Teflon, cũng như không nên dùng lại các dụng cụ trên khi thấy có những vết trầy hay lớp Teflon trên mặt không còn trơn láng nữa. Điều sau nầy nói lên mức độ phân hủy của Teflon rất cao vì không còn có lớp bảo vệ trên mặt nữa.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 6, 2009 4:31:00 GMT 9
Từ khóa: Plastic migration Lon Hộp Plastic Và Lò Vi Ba
Trong cuộc sống hằng ngày, lon hộp plastic dùng chứa thực phẩm và lò vi ba (microwave oven) là những vật dụng rất cần thiết và rất tiện lợi cho mọi gia đình. Bạn thử mở kệ bếp ra mà xem. Ôi thôi, sao mà lỉnh kỉnh đủ thứ! Nào là lon bơ, nào là hộp margarine, hộp sauce, hộp cà rem, hộp tofu, hủ yogurt vv… tất cả đều là hộp không! Đây là “chiến lợi phẩm” mà các bà xả kim chỉ đã cắt ca cắc cũm chịu khó giữ lại để lỡ lúc nào cần đến thì có sẵn mà xài. Ngoài lon hộp ra, chúng ta cũng phải kể đến một sản phẩm đặc biệt khác nữa, đó là màng nhựa plastic (cling wrap, pelliculle plastique, pelli moulante). Loại màng này được sử dụng rộng rãi để bịt tô canh, đĩa đồ xào, hay để bao miếng bánh lại cho nó vừa hạp vệ sinh mà cũng lại vừa đẹp mắt nữa. Trong chợ, màng nhựa cũng được thấy sử dụng để bao để gói thực phẩm, thịt thà, rau cải, bánh trái, và fromage vv… Sự tiện ích của đồ nhựa plastic đã quá rõ ràng rồi, nhưng gần đây một số nhà khoa học trên thế giới đã cảnh giác mọi người về mối nguy cơ của chất plastic có thể gây hại đến sức khỏe chúng ta. Đặc biệt là khi thực phẩm tiếp xúc trực tiếp với plastic lúc được đem hâm nóng trong lò vi ba. Trong điều kiện này, nhiệt độ có thể giúp cho một số chất độc trong màng nhựa có điều kiện nhiễm vào thức ăn. Khoa học gọi đây là hiện tượng di chuyển plastic (plastic migration). Cơ quan trách nhiệm về vệ sinh an toàn thực phẩm Joint Food Safety and Standards Group của Anh Quốc đã đặc biệt quan tâm và nghiên cứu vấn đề này từ nhiều năm nay rồi. Các chất liệu nào nguy hiểm nhất? Nói chung thì các vật dụng nào có chứa chất plastic PVC (polyvinyl chloride) đều được xem là nguy hiểm hết! Để tăng tính chất dẻo dai của sản phẩm, nhà kỹ nghệ thường cho trộn vào thêm chất di-(ethylhexyl) adepate, gọi tắt là DEHA. Dưới tác dụng của nhiệt độ cao lúc hâm trong lò vi ba, chất DEHA được thải ra từ màng nhựa và nhiễm vào thức ăn. Thực phẩm càng chứa nhiều dầu mỡ thì phản ứng càng mạnh hơn. Mức độ tiếp xúc giữa màng nhựa và thực phẩm cũng như thời gian hâm nóng lâu hay mau, quyết định độ nhiễm của chất độc nhiều hay ít . DEHA ảnh hưởng thế nào đến sức khỏe? DEHA được các nhà khoa học gọi là chất làm xáo trộn hoạt động nội tiết tố (endocrine disrupter). Bởi lý do này nên nó ảnh hưởng đến chức năng của tuyến sinh dục, làm giảm lượng tinh trùng sản xuất, tạo ra quái thai, và có thể gây ra cancer nữa. Ghê chưa! Nhưng thật ra, đây mới chỉ là kết quả thí nghiệm ở trên loài chuột mà thôi. Mối liên hệ giữa chất DEHA và sức khỏe con người vẫn còn là một giả thuyết nằm trong vòng tranh luận và dự đoán mà thôi. Vẫn còn trong vòng tranh luận! Kỹ nghệ plastic Hoa Kỳ có cho biết là hai cơ quan US Food & Drug Administration (FDA) và Environmental Protection Agency (EPA) đều xác nhận là công chúng không nên lo ngại vì lẽ các sản phẩm plastic hiện có trên thị trường đều đã được thông qua các thủ tục xét nghiệm chặt chẽ. Tất cả đã đáp ứng đầy đủ các điều kiện an toàn mà cơ quan FDA đã đòi hỏi. Tuy vậy vẫn có một số người còn hoài nghi. Hiệp hội các nhà tiêu thụ Hoa Kỳ (Consummers Association) cũng như một số nhà khoa học trên thế giới đều e dè thận trọng trước những lời tuyên bố đầy lạc quan của chính phủ và của giới kỹ nghệ đã đưa ra. Tại Canada thì sao? Santé Canada không mấy quan tâm về vấn đề plastic cho lắm vì lẽ chưa có báo cáo cụ thể nào nói lên hiểm họa cấp thời của plastic cả. Tuy vậy vẫn có một số nhà sản xuất vật liệu plastic như Dow Brands (Saran wrap, Handi wrap, Strech’n seal) nhằm mục đích quảng cáo, đã cẩn thận cho ghi chú thêm cách sử dụng an toàn trên sản phẩm của họ bán ra. Chẳng hạn như đối với hiệu Saran Wrap, chúng ta thấy có ghi câu: dùng để bịt thức ăn lúc hâm nóng trong lò vi ba trong một thời gian lâu dài ở nhiệt độ cao! Hiệu Handi Wrap thì có ghi câu: chỉ được sử dụng để hâm nóng trong một thời gian ngắn mà thôi! Strech’n Seal: không được đem dùng trong lò vi ba! Cũng có những hiệu khác chỉ nêu những câu chung chung như: rất hữu ích, tiện lợi và lý tưởng cho lò vi ba! Tại Quebec có 9 hiệu màng nhựa có mang câu chỉ dẫn đặc biệt, chẳng hạn như: có thể dùng cho lò vi ba (aussi pour micro onde, microwaveable). Câu này do hiệp hội các nhà sản xuất hàng bách hóa (Grocery Products Manufacturers of Canada) tự đặt ra chớ không có điều lệ nào của chính phủ quy định hết. Nên cẩn thận! Hiện tượng di chuyển plastic còn rất mới mẻ, chưa rõ rệt cho lắm. Người thì nói nguy hiểm, người thì nói không. Nếu chất plastic thật sự có hại thì cũng cần hội thêm nhiều yếu tố khác nữa mới có thể ảnh hưởng thật sự đến sức khỏe, chẳng hạn như phải ăn thường xuyên trong một thời gian thật lâu dài. Thôi thì tốt hơn hết là chúng ta nên cẩn thận và đề phòng: 1* Chỉ sử dụng loại vật dụng plastic nào có ghi chú câu: For Microwave use, Microwave safe, Microwaveable, Aussi pour Four à Micro Onde vv… Tuyệt đối không sử dụng lại các lon, hộp cũ đã được dùng để đựng các thực phẩm lạnh như hộp đựng tàu hũ, hộp bơ, hộp margarine, hủ đựng yogurt, hộp cà rem vv…để đựng thức ăn và đem hâm nóng trong lò vi ba. Ở nhiệt độ cao, chúng sẽ bị méo mó, tiết ra mùi hôi lạ thường và đồng thời cũng tiết ra những chất nguy hại cho sức khỏe nữa. 2* Mỗi khi cất vào tủ lạnh cũng vậy, nên tránh có sự tiếp xúc trực tiếp giữa màng nhựa với thức ăn, đặc biệt là với những món có chứa nhiều mỡ dầu. 3* Nhớ gỡ bỏ màng nhựa đậy bịt thức ăn mỗi khi đem hâm nóng trong lò vi ba. Nếu có muốn giữ màng này lại thì phải chừa hở một khoảng cách độ 2.5 cm trên mặt thức ăn, và nên để hở một góc cho hơi nước dễ bốc ra ngoài. 4* Không nên đem hâm nóng trong lò vi ba các vật liệu bằng chất styrofoam, là chất liệu xốp nhẹ mà có người thường hay gọi là chất mốp. Lon hộp bằng styrofoam sẽ bị mốp méo, bốc múi hôi khó chiụ và thải ra chất styrene không tốt cho sức khỏe 5* Trước khi làm tan đông (defrost) thịt trong lò vi ba, nhớ gỡ bỏ màng nhựa cũng như vỉ đựng bằng styrofoam ra ngoài . 6* Không nên bỏ các loại rau cải như broccoli, bông cải trắng vv… vào bao plastic để đem hâm nóng trong lò. Kết luận Phải chăng đây là mặt trái của sự tiến bộ khoa học? Hình như ngày nay các trường hợp bị cancer xuất hiện nhiều hơn xưa! Có lẽ thật đúng vậy, nhưng cũng có thể là nhờ vào các phát minh không ngừng của khoa học mà các phương pháp chẩn đoán bệnh cũng chính xác hơn ngày xưa, lại nữa con người cũng có khuynh hướng sống lâu hơn nên bệnh cancer càng dễ được phát hiện ra. Thỉnh thoảng, những tin giựt gân loại này thường được tung ra làm mọi người hoang mang lo ngại. Đúng hay sai? Không ai dám khẳng định trả lời một cách chính xác được, nhưng rồi dần dần chúng ta cũng phải quên nó đi và tiếp tục cuộc sống bình thường của chúng ta mà thôi! Que sera, sera ….whatever will be, will be! Montreal, June 23, 2006
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 26, 2009 14:28:37 GMT 9
Ăn chay như một cách trị liệu - Nguyễn Văn Tuấn 22/03/2009
Ăn chay đang trở thành một trào lưu trên thế giới, nhất là trong giới trí thức và chuyên gia. Ở các nước phương Tây, theo một thống kê chưa đầy đủ, có khoảng 5% dân số Anh và Mĩ cho biết họ ăn chay trường hay ăn chay thường xuyên. Ở nước ta, tuy chưa có số liệu chính thức, nhưng sự có mặt của các nhà hàng và quán ăn chay cùng lượng thực khách đông đảo cho thấy số người ăn chay đang tăng dần trong thời gian gần đây.
Danh từ “ăn chay” đối với người Việt chúng ta là chế độ ăn uống không có đạm động vật, nhưng với người phương Tây, có đến 3 nhóm ăn chay. Nhóm thứ nhất là ovo-lacto gồm rau, đậu, hạt, trứng và bơ sũa. Nhóm thứ hai là lacto cũng có chế độ ăn uống như nhóm ovo-lacto, nhưng không ăn trứng. Nhóm thứ ba là vegan, hoàn toàn không ăn đạm động vật, có lẽ là nhóm gần như “ăn chay” theo cách của người Việt hay các tu sĩ Phật giáo đại thừa.
Thời gian gần đây, qua báo chí phương Tây, một số người bày tỏ quan tâm đến sức khỏe của người ăn chay, vì họ cho rằng ăn chay có thể bất lợi cho sức khỏe của xương. Tuy nhiên, bằng chứng khoa học cho thấy ăn chay không có ảnh hưởng tiêu cực đến xương; ngược lại, ăn nhiều chất đạm động vật có thể là yếu tố nguy cơ của loãng xương và gãy xương.
Sức khỏe của xương có lẽ phản ảnh chính xác nhất qua mật độ chất khoáng trong xương (viết tắt là MĐX) và tần số gãy xương trong một quần thể. Nhiều nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ học trên thế giới cho thấy MĐX ở người ăn chay tương đương với MĐX ở người ăn mặn. Một nghiên cứu do các bác sĩ thuộc trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch thực hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh năm ngoái cũng cho thấy không có sự khác biệt nào về MĐX giữa người ăn chay và ăn mặn.
Gãy cổ xương đùi là một hệ quả nguy hiểm nhất của loãng xương, vì bệnh nhân gặp nhiều biến chứng, thậm chí sau khi bị gãy xương. Khoảng 15-20% bệnh nhân, nhất là bệnh nhân nam, tử vong sau 12 tháng gãy cổ xương đùi. Nguy cơ gãy cổ xương đùi ở người ăn chay hoặc thấp hơn so với người ăn mặn. Thật vậy, một phân tích trên 34 nước trên thế giới cho thấy những nước có lượng tiêu thụ đạm động vật nhiều cũng là những nước có tỉ lệ gãy cổ xương đùi (hệ quả nguy hiểm nhất của loãng xương) so với những nước có lượng tiêu thụ đạm thấp.
Đứng trên phương diện sinh học, ảnh hưởng tiêu cực của đạm động vật đến xương là điều có thể hiểu được. Sức khỏe của xương tùy thuộc vào sự cân bằng giữa acid và base. Tất cả các thức ăn phải được chuyển hóa qua thận dưới dạng acid hoặc base. Khi ăn nhiều chất đạm động vật, cơ thể hấp thu nhiều acid hơn base. Tăng hàm lượng acid cũng có nghĩa là máu và các mô trong cơ thể trở nên “chua” hơn, và để dung hòa tình trạng này, hệ thống nội tiết phải huy động calcium để đóng vai trò chất base. Vì phần lớn calcium xuất phát từ xương, cho nên khi cơ thể huy động calcium cũng có nghĩa là giảm chất khoáng trong xương, dẫn đến hệ quả giảm sức mạnh của xương, và làm cho xương dễ bị gãy.
Rất nhiều nghiên cứu khoa học trong 20 năm qua đều cho thấy ăn chay có lợi cho sức khỏe, vì giảm nguy cơ mắc các bệnh liên quan đến “hiện đại hóa” như tim mạch, tai biến mạch máu não, đái tháo đường, và ung thư. Chế độ ăn chay, do sử dụng nhiều rau quả, thường hàm chứa ít chất béo và cholesterol hơn chế độ ăn mặn. Chất béo và cholesterol là hai yếu tố nguy cơ của bệnh tim mạch, đái tháo đường và ung thư. Do đó, có nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy người ăn chay ít mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường và ung thư hơn những người ăn mặn. Trong một nghiên cứu trên 47.000 người Mĩ, nhóm ăn chay có nguy cơ mắc bệnh tim mạch thấp hơn nhóm ăn mặn khoảng 20%. Ăn chay và ăn nhiều rau quả còn giảm nguy cơ tai biến mạch máu não đến 22%. Ngoài ra, ăn chay còn giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, ruột, và phổi so với chế độ ăn mặn.
Một nghiên cứu khác trên 26.000 người Mĩ cho thấy người ăn chay có tỉ lệ mắc bệnh đái tháo đường thấp hơn người ăn mặn khoảng 25%. Vì chế độ ăn chay có chỉ số glycemic thấp, nên ăn chay còn được xem là một liệu pháp điều trị bệnh đái tháo đường. Trong một nghiên cứu lâm sàng trên 652 bệnh nhân đái tháo đường, các bác sĩ cho bệnh nhân ăn uống có rất thấp hàm lượng chất béo (dưới 10% năng lượng, tức như ăn chay), và họ ghi nhận rằng ở những bệnh nhân được điều trị bằng insulin, 40% không cần đến insulin nữa; trong số bệnh nhân điều trị do chỉ số glycemic thấp, 71% không cần tiếp tục điều trị. Trong cùng thời gian, nồng độ đường trong máu giảm 24%, cholesterol giảm 30%. Ảnh hưởng của chế độ ăn chay đến các chỉ số lâm sàng liên quan đến bệnh đái tháo đường tương đương với ảnh hưởng của các thuốc thông dụng trên thị trường. Vì ăn chay chẳng tốn kém gì nhiều, nên hiệu quả kinh tế của ăn chay có phần cao hơn so với một số thuốc điều trị bệnh đái tháo đường.
Trong một nghiên cứu quan trọng về ảnh hưởng của ăn chay đến bệnh viêm thấp khớp, các nhà nghiên cứu Na Uy chia bệnh nhân thành 2 nhóm: nhóm ăn chay và nhóm ăn mặn. Sau 12 tháng theo dõi, bệnh trạng nhóm ăn chay giảm rõ rệt, trong khi nhóm ăn mặn không có thay đổi đáng kể. Dù cơ chế ảnh hưởng của ăn chay đến bệnh viêm thấp khớp chưa được hiểu rõ, nhưng có thể lí giải rằng vì chế độ ăn chay hạn chế năng lượng, đạm và một số chất khoáng có chức năng ức chế hệ thống miễn dịch, và ức chế hệ thống miễn dịch là một phương án điều trị các bệnh tự miễn, nên ăn chay có thể đem lại lợi ích cho bệnh nhân viêm thấp khớp.
Nói tóm lại, bằng chứng khoa học cho thấy ăn chay có lợi cho sức khỏe. Thật ra, người ăn chay tính trung bình có tuổi thọ cao hơn người ăn mặn. Các nghiên cứu mới nhất gợi ý rằng ăn chay còn có thể là một phương án thực tế để điều trị bệnh đái tháo đường và viêm khớp xương.
Trong vài năm gần đây, tỉ lệ béo phì trong dân số nước ta càng ngày càng tăng. Theo nghiên cứu dịch tễ học, tại Thành phố Hồ Chí Minh, cứ 3 người tuổi trên 40 thì có 1 người béo phì. Tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ ở Mĩ và các nước Âu châu! Béo phì là một yếu tố nguy cơ của bệnh đái tháo đường và tim mạch. Một xu hướng và cũng là một nghịch lí đáng quan tâm là ở các nước Âu Mĩ, bệnh đái tháo đường thấy ở những người lao động có thu nhập thấp, thì ở nước ta bệnh này tập trung ở những người giàu có hay với thu nhập cao. Xu hướng “Tây hóa” (như ăn uống với nhiều chất đạm động vật) có thể là một yếu tố đóng góp vào tình trạng đáng ngại này. Đã đến lúc chúng ta quay về với chế độ ăn uống truyền thống (với gạo, rau quả) hơn là nhiều chất đạm động vật.
Một số tài liệu đọc thêm:
Abelow BJ, Holford TR, Insogna KL. Cross-cultural association between dietary animal protein and hip fracture: a hypothesis. Calcif Tissue Int 1992;50(1):14-8.
Barnard ND, Gloede L, Cohen J, Jenkins DJ, Turner-McGrievy G, Green AA, Ferdowsian H. A low-fat vegan diet elicits greater macronutrient changes, but is comparable in adherence and acceptability, compared with a more conventional diabetes diet among individuals with type 2 diabetes. J Am Diet Assoc. 2009 Feb;109(2):263-72.
Elkan AC, Sjöberg B, Kolsrud B, Ringertz B, Hafström I, Frostegård J. Gluten-free vegan diet induces decreased LDL and oxidized LDL levels and raised atheroprotective natural antibodies against phosphorylcholine in patients with rheumatoid arthritis: a randomized study. Arthritis Res Ther. 2008;10(2):R34.
Frassetto LA, Todd, KM, Morris, RC, Jr., Sebastian, A (2000) Worldwide incidence of hip fracture in elderly women: relation to consumption of animal and vegetable foods. J Gerontol A Biol Sci Med Sci 55:M585-592.
Ho-Pham LT, Nguyen PLT, Le TTT, et al. Veganism, bone mineral density, and body composition: a study on Buddhist nuns. . Osteoporosis International 2009;In-press.
Morris RC, Jr., Schmidlin, O, Frassetto, LA, Sebastian, A (2006) Relationship and interaction between sodium and potassium. J Am Coll Nutr 25:262S-270S
Sellmeyer DE, Stone KL, Sebastian A, Cummings SR. A high ratio of dietary animal to vegetable protein increases the rate of bone loss and the risk of fracture in postmenopausal women. Study of Osteoporotic Fractures Research Group. Am J Clin Nutr 2001;73(1):118-22.
Smith AM. Veganism and osteoporosis: a review of the current literature. Int J Nurs Pract 2006;12(5):302-6.
Wang YF, Chiu, JS, Chuang, MH, Chiu, JE, Lin, CL (2008) Bone mineral density of vegetarian and non-vegetarian adults in Taiwan. Asia Pac J Clin Nutr 17:101-106.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 10, 2009 8:10:11 GMT 9
PHO: HƯƠNG VỊ QUÊ HƯƠNG
Kỹ sư Sagant Phan
Không hẹn mà nên chúng ta rời nước và đem theo hương vị quê hương theo chúng ta. Trước năm 75, người ngoại quốc hầu như không nghe biết gì đến chữ Phở của người Việt. Nay thì tung ra khắp bốn phương trời dâu bễ rồi. Từ xứ lạnh như Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển... đến xứ nóng như Ả Rập hay Algerie, rồi đến Úc châu, Tân tây Lan, Gia Nã Đại, Đức, Pháp, Ý, Nhật... Nơi nào có người Việt là lơi đó có Phở.
Nhưng nguồn gốc Phở phát sinh thì mơ hồ. Cho đến một ngày gần đây thì Phở mới biết được nguồn gốc của nó...
Phở gắn liền với Bò. Trước khi người Pháp sang cai trị nước Việt, thì thịt Bò không ai ăn được, vì nó có mùi bò bò ấy... Như một người chị giúp việc trong nhà cho cha mẹ chúng tôi. Chị gốc từ Châu Đốc, miệt Hậu Giang. Nhà chị ở trong sâu hơn nữa, phương tiện duy chuyển duy nhất là bằng ghe mà thôi. Từ nhà lá gia đình chị dùng ghe ra ngoài Vàm, rồi đến thị xã nhỏ, rồi từ đó mới biết thế nào là xe cộ. Nghĩa là chị ở rất sâu, thâm căn cùng cốc.
Khi chị lên saigon đến nhà Ba má tôi mà giúp chuyện nhà, còn Má tôi thì phải lo buôn bán ngoài chợ Bến Thành suốt ngày. Như vậy chị là vị tướng quyền uy trong nhà sau Ba má tôi rồi, lý do nữa là Ba má tôi rất nể trọng chị, vì theo vai vế thì cũng bà con bên ngoại rồi.
Chị nấu ăn rất giỏi, nhưng khi chị thấy một miếng phó mát trong tủ lạnh hay một miếng bơ Pháp mà tôi thích quẹt trong bánh mì, chị có thử và chê liền: "cái mùi gì hôi như Bò vậy". Đó là vào năm 1955 mới đây thôi. Nhưng khi lâu ngày chày tháng thì chị lại là người thích nhất miếng phô mai và thích quẹ miếng bơ Pháp trên bánh mì hay chiên chung với trứng gà mà ăn sáng. Mùi Bò chị không còn thấy nữa. Y như một người trước đó chưa từng biết mùi vị của trái sầu riêng là gì. Nhưng khi ăn rồi thì không cách chi mà không ghiền nhớ lại. Thành thử tại Thái Lan người ta gọi sầu Riêng là "King Fruit".
Phở không định nghĩa rõ lắm nơi xuất xứ của nó. Nhưng quyển Tự Điển Việt Nam xuất bản trước năm 1930 do Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản tại Hà Nội thì nói rõ hơn: "ghi nó có nguồn gốc từ chữ Phấn và định nghĩa nó là món ăn thái bằng bằng bánh cuốn thái nhỏ rồi nấu với thịt bò". Bánh cuốn thái nhỏ ra mà mình gọi như là hủ tiếu mềm vậy...
Đây là nguồn gốc của Phở mà chúng tôi sưu tầm được trong thời gian không xa xôi gì lắm. Phở ngày nay tại Hoakỳ thì có rất nhiều người thích nó rồi, Mễ, Mỹ hay người Hoa thì ghiền nó ra mặt. Nhiều tờ báo lớn Hoakỳ có giới thiệu món Phở là món Soup ăn rất bổ dưỡng của người Việt tị nạn di tản đem sang đây.
Trở lại Phở.
Phở không phải là món ăn có từ ngày xưa của chúng ta. Nó xuất hiện đầu tiên tại Hà Nội khoảng trước sau vài năm vào năm 1910 trở lại. Gốc nó là món canh thịt Trâu, xáo hành ăn chung với bún. Ngày xưa thời ấy món nầy rất thịnh hành cho các bà con nông dân nghèo từ vùng quê lên đến kẻ Chợ. Kẻ Chợ là danh từ xưa của Hà Nội.
Trước thời Pháp thuộc dân Hà Nội hay dân Saigon không bao giờ thích ăn thịt Bò. Vì người ta cho rằng nóng và gây gây người. Nhưng khi Pháp sang thì người Pháp lại không ăn được thịt Trâu của chúng ta, vì họ nói nó dai nhách và lạt lỏng. Nên nhớ sau khi thôn tính xong Việt Nam và Miên Lào, thì Saigon là nơi riêng của người Pháp. Còn Hà Nội thì người Pháp đặt làm trung tâm điều khiển Đông Dương (Việt Miên Lào). Những quyết định liên hệ đến Đông Dương phát xuất từ nơi này.
Rồi đến có những cửa tiệm hàng ăn, đa số là thịt bò và rất ít người địa phương bước vào vì món ăn gì cũng lạt lõng hết. Xương Bò thì người ta vụt không ai nhận.
Trong cùng thời gian ấy thì phương tiện vận chuyển đắc lợi nhất là đường thủy, vì lúc đó xe cộ hay xe hơi hình như chưa ai thấy xuất hiện trên đường Phố Hà Nội. Tàu thủy thì chạy bằng máy hơi nước. Chạy khắp các tuyến đường thủy Bắc Kỳ như: Hà Nội đi Hải Phòng, Hà Nội đi Nam Định, Hà Nội đi Phủ lạng Thương (Bắc Giang). Vào khoảng năm 1910 thì chủ tàu thủy đa số là người Hoa hay người Pháp, nhưng người lao công tạp dịch trên tàu thủy đa số là người Hoa. Vì nhân công người Hoa rất rẻ, nên chánh quyên Pháp tại Hà Nội mướn người Hoa gốc Quảng Đông hay Phúc Kiến sang làm lao công mà người Pháp gọi là: "tụi coolie" (tụi cu-li) khuân vác. Lúc đó người Việt có một hãng tàu thủy chủ nhân là Bách thái Bưởi. Người này là tay giàu nhất Hà Nội thới bấy giờ, còn miền Nam thì có họ Trịnh tại Bạc Liêu mà có đứa con ăn chôi giàu sang gọi là Hắc công Tử Bạc Liêu vậy.
Chủ tàu Bạch thái Bưởi mới mướn nhân công người Việt vào làm hãng cho Công ty này. Hà Nội lúc đó có ngành nước mắm mà miền Nam gọi là chành nước mắm. Nước mắm Hà Nội là từ Thanh Hóa, Nghệ An chở tàu thủy vào. Chuyện khuân vác nước mắm này đa số đều chê hết và người đàn bà đành làm vậy. Có nhiều đàn bà gồng gánh nước mắm đi khắp phố phương mà rao hàng inh ỏi: "Nước mắm ngon đây ”. Bán từng chai nhỏ hay lít to.
Nơi đông nhất cũng là bến tàu, còn ngày nay nơi đông nhất là bến xe đò vậy. Hàng quán mọc khắp nơi quanh bến tàu. Sáng thật tinh sương, chiều thật tối đen hàng quán vẫn không ngớt người ăn.
Món ăn rất bình dân, còn muốn ăn sang thì lên Thủ đô Hà Nội mà vào cao lâu do người Hoa làm chủ, nhiều món ngon vật lạ tại những tiệm quán cao lâu này.
Món ăn mà nhiều người nghèo hay phu khuân vác cần chất thịt để có đủ sức lực khuân vác chính là món xáo trâu. Món này ăn với Bún và xào chút nước xúp lỏng, rồi rau, cải... vv... rồi tí nước mắm ớt ngon miệng và no lòng cùng rẻ tiền túi nữa.
Rồi món xáo Trâu được các bà gống gánh đến hang cùng ngõ hẻm khu vực nghòe hay nói nôm na là khu vực của những người Bình Dân. Danh từ người Bình Dân chính là do người Pháp đem sang cho chúng ta, rồi danh từ Công Lý, danh từ Cách Mạng, danh từ Giải Phóng cũng xuất hiện gần đây thôi.
Mấy bà gồng gánh hàng món xáo trâu quen thuộc khắp nơi hang cùng ngõ hẻm. Gánh hàng các bà này thường thường giống nhau như: một bên là thúng chéc nồi đất lớn đựng canh xáo trâu nóng được ủ kỷ trong bao tải có rơm bện. Bên kia là thúng to khác đựng bún, cũng được đậy kín bằng một cái mẹt mà ta gọi như là cái rỗ miệng rộng vành vậy.
Trên mẹt úp một số bát, đũa thìa, có thêm tô ớt bằm và chai nước mắm. Rồi có một Bà bán xáo trâu khi bán xong và đi ngang một hàng quán chuyên bán thịt Bò, Bà này thấy xương bò người ta như vứt vào sọt rác và thịt Bò là lại rất rẻ vì ít ai vào ăn. Xương Bò nào hàng đống xương ống chân, xương sườn Bà mua thì người ta bắt phải mua thịt bò mới bán hay cho không xương. Bàn biết xương Bò và xương Trâu không khác gì bao nhiêu. Nhưng hầm thì cho ra xúp rất ngọt nước hơn hầm xúp bằng xương Trâu. Tại sao không thay thế thịt Trâu bằng thịt Bò vì nó quá rẻ gần như cho không mà. Nhưng khi Bà làm thì nước xáo Bò nào ăn với Bún thì thấy không ngon.
Bà mới dùng bánh cuốn sắt mỏng sợi ra thì ăn rất ngon. Để tránh múi vị hôi của con Bò, Bà thêm rất nhiều loại rau mùi nồng hết sức như bà thêm hành, hành lá hành củ và thêm gừng, riềng, tõi rồi nhiều loại rau mùi rất nồng.
Như vậy mùi nồng găng của gia vị, hành lá xanh và cũ hành và của rau mùi đã làm tan hết mùi Bò của bà rồi, như vậy nước xáo Trâu bà thay bằng nước xáo Bò. Lúc đó tại Hà Nội 36 phố phường chỉ có món quà bánh cuốn. Thường bánh cuốn chay hành ăn mỡ bánh nguội. Còn bánh cuốn nhân thịt heo thì ăn nóng. Báng cuốn làm từ bột gạo mà ra, như bún vậy.
Món xáo Bò của bà bán tại bến tàu thủy lần lần nhiều người ham chuộng, Bà nói rộng quán ăn cho nhiều người. Bà có thêm nhiều người gánh đến xin nhận hàng. Trong số này có nhiều người Hoa. Từ bến Ô Quan Chưởng đến bến Ô hàng Mắm món xáo trâu lần lần biến mất, nhường chỗ lại cho món xáo Bò. Món xáo Bò lần lần thay đổi thêm nhiều hương vị hấp dẫn khách hàng. Quán này có gia vị này quán kia có gia vị nọ.
Khi ăn lại bày thêm mấy lát thịt bò thái mỏng và chín. Song nó có nhược điểm là nếu nguội thì rất tanh hôi hơn xáo trâu. Nên người chủ quán phải đun nóng nồi xúp này ngày đêm sôi xùng xục.
Từ bến bãi sông lan dần đến trên bờ, ăn sâu vào trong hẽm nghèo dân Bình dân. Người hàng rong gánh gồng chính là các người Hoa. Họ chế ra xe đẩy hàng quán di động hơn là gồng gánh. Vì xe quán có thể chứa được nồi lửa được châm củi hàng giờ cho nồi đừng nguội nước xúp. Gánh xe này có đầy đủ, như có nguyên ngăn đựng đầy bánh cuốn sắt mỏng sợi. Có thêm ghế cho khách ngồi.
Chú người Hoa này cho nhiều trẻ em nhõ đi khắp hang cùng ngõ hẽm mà rao hàng. Chú rao hàng: "Ngầu dục phắn a!". Tiếng Việt gọi là Ngưu nhục phấn. Người Hoa gọi trâu là hắc ngưu, còn bò gọi là hoàng ngưu.
Thời gian không lâu thì nhiều người Hoa ra gánh hàng này. Họ đều rao là: "Ngầu phắn a!". Rồi vắn tắt gọi là: "phấn a!". Nghe tiếng rao hàng từ xa như âm là: "Phở a".
Và cuốn Việt Nam Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức ghi Phở là do nguồn gốc Phấn a.
Món ăn nào cũng đều bị thời gian thử thách. Nếu dở thì từ từ biến mất, còn nếu ngon thì càng lúc càng tinh vi hơn.
Phở cũng vậy, lúc đầu giới phong lưu Hà Thành không ưa chuộng vì họ cho là món dành cho những người thấp. Chúng ta có thể thấy lịch sử bún riêu cũng vậy. Bún riêu ngày xưa từ chất còng cáy ruộng lên, dành cho dân nghèo gồng gánh bún riêu. Nay bún riêu đã hết con món cho dân nghèo như xưa nữa mà trở nên đắt tiền rồi.
Khách phong lưu Hà thành lúc đó thích đi ăn cao lâu, họ gọi mì: "vằn thắn" mà không ai mới đi ăn Phở cả.
Xuất xứ Phở là từ bến sông Hồng, nơi có nhiều tàu thuyền xuôi ngược khắp nơi. Sau đến khi người Pháp làm đường xá và xe hơi bát đầu lăn bánh thì bến tàu thủy lần lần nhường bước cho xe đò. Phở cũng đi theo vào bến xe đò luôn. Vì có tánh cách bình dân nên Phở người ta xem rẻ nhiều hơn và họ mời khách quý đi ăn cao lâu của người Hoa làm chủ. Hàng quán Phở không có tên người ta gọi tắt như quán Phở Sút hay quán Phở Gù vì chủ hiệu là người Gù lưng.
Đến năm 1918 thì tại Hà Nội có một phong trào tẩy chay người Hoa. Họ cho người Hoa đến xứ này chỉ biết hưởng lợi và ăn chơi, nên nhiều người lúc đó ít ai dám vãng lai đến các hiệu ăn cao lâu mà đa số người Hoa làm chủ. Thế là món Phở tự nhiên trở lại đắt hàng hơn nhờ các khách thượng lưu văn hóa đến thưởng thức.
Lúc đó tại Hà Thành có 2 cửa tiệm bán Phở. Cửa hiệu thứ nhất là tại Phố Hàng Quạt (nay là đường Lương văn Can) ở gần rạp tuồng Thông sáng và nhìn ra rạp tuồng Năm Chăn. Còn hiệu tiệm thứ nhì là tại phố Hàng Đồng. Trước đó cửa hiệu này bán cơm cho khách buôn suôi ngược. Sau đó có nhiều người gồng gánh có tiền nên vào thuê hẳn quán tiệm cho khách thưởng lãm hơn. Như Phở phố Cầu Gỗ, phở hàng Giấy... các cửa hiệu này phải tranh nhau, cải tiến chất lượng cho thêm phần bắt mắt. Lúc đầu chỉ có Phở Bò chín, sau có nơi dùng thịt Bò tái và được đặt tên Phở tái. Rồi thêm thịt mỡ gầu, thịt nạm, sách bò nên Phở có nhiều tên là Phở tái gầu, tái nạm, tái sách...
Dù gánh rong hang hàng tiệm Phở phải có những đặc tính như sau: "nước dùng phải nóng, trong, bánh cuốn thịt bò, gia vị. Bát Phở có ngon hay kém là nồi nước dùng bằng xương Bò có ngọt hay không? Hầm bằng xương gì của Bò cho béo thơm? Nồi nước Phở phải có chất béo vàng nổi lên thì mới thơm. Gia vị đầu tiên chỉ có nước mắm ngon và tiêu ớt. Sau đó thêm chanh, dấm, rồi đến magi, tương ớt... Hành hoa thái nhỏ, sau thêm hành tây, hành củ chần và thơm mùi."
Như vậy xuyên qua một phần lịch sử nhỏ của Hà Nội, chúng ta thấy Phở phát xuất từ bến tàu thủy trên bến sông Hồng. Hồi đầu thế kỷ 20 chứ không phải từ xứ nào ngoại nhập vào. Nay nó có mặt khắp nẽo đường quê hương và vượt biên theo người tị nạn đến năm châu bốn biển.
Nay tại quận Cam, nơi có nhiều người Mễ chúng ta thấy quán ăn của Mễ có món xáo thịt gọi là "Menudo". Nay quán Phở người Việt mọc kế bên thì thực khách Mễ đến viếng và món nước xáo Mễ gọi là Menudo vắng khách luôn.
Nhớ lại ngày xưa, cỏn nhỏ, tôi thường đạp xe đạp đến một quán Phở ven đường. Trời mưa bất chợt vào tháng năm tháng sáu và con đường vắng lạnh. Nhưng bưng một tô Phở lên thì lòng ấm lại.
Mưa rót ngoài đường còn trong lòng mình thật ấm lá me rơi rãi rác trên vai người đạp xích lô che mình bằng mảnh ny-lon trắng. Ông lão đạp xích lô cũng ghé lại quán và trong lòng lão cũng ấm lại. Ông nói ngày xưa ông ở tận Hà Nội và cũng bưng tô phở ăn ngon như ngày hôm nay vậy. Nhung quê hương giờ chừ xa rồi. Nay gần 30 năm, bưng tô phở tại Bolsa vào một chiều thu muộn tôi thấy lại món Phở ngày xưa mà người ta gọi là: "Ngầu Dục Phấn A!"
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 6, 2009 4:07:48 GMT 9
Câu Chuyện Thầy Lang: Tản Mạn Về Bia BÁC SĨ NGUYỄN Ý ĐỨC . Việt Báo Thứ Sáu, 12/4/2009, 12:00:00 AM Câu Chuyện Thầy Lang: Tản Mạn về BIA
Bác sĩ Nguyễn Ý Đức Lại một tình cờ đã đưa tới sự khám phá ra cách chế biến món nước “Tinh Thần”, uống cho tới tận cùng say xỉn này. Truyền thuyết kể lại là cách đây trên mươi ngàn năm, một cô bé đang ăn miếng bánh mì khô uống với ly nước lạnh, thì có bạn gọi đi chơi trò nhẩy dây. Cô ta ném miếng bánh vào ly nước, để trên mặt bàn rồi chạy ra ngoài. Đó là miếng bánh cũ bỏ quên trong cặp sách đã lâu, có bám bụi xanh. Mấy ngày sau bà mẹ dọn bàn thấy ly nước trong trong, có mùi thơm thơm. Đang khát nước, bà bèn uống. Một lúc sau cảm thấy trong người sảng khoái, lên tinh thần. Bà khoe với ông chồng và ngỏ ý muốn có thêm. Chiều vợ, ông chồng làm nước đó cho vợ và gia đình. Lối xóm bắt chước và thiên hạ cũng làm theo. Thế là Bia ra đời. Anh ngữ gọi là Beer, Pháp ngữ là Biere từ chữ Latin “Bibere” nghĩa là Uống. Người Việt ta phiên âm là LA DE từ chữ La Biere cho tiện việc sổ sách. Tiếng Đúc Baere, từ chữ Barley là loại lúa mạch dùng nhiều nhất để làm la de. Trung hoa gọi bia là Ty tửu vì có ít ethanol. Theo các nhà khảo cổ, thì la de được dân chúng thành phố Babylon chế ra đầu tiên một cách khá quy mô, cách đây trên 6000 năm. Họ ngâm nước cho hạt lúa mạch lên mốc xanh, nghiền nát, trộn với nước, để dăm ngày rồi uống. Khi đó, la de rất được dân chúng ưa thích, mà khả năng biến chế giới hạn nên các Lãnh Chúa bèn đặt chế độ khẩu phần. Dân lao động chỉ được mỗi ngày hai lít, công nhân viên nhà nước ba lít, quan chức cao cấp và quý ngài tu sĩ năm lít. Từ Ai Cập, la de lan tràn ra các nước khác và được phổ thông trước khi nho được trồng làm rượu vang, vào thời kỳ đế quốc La Mã. Con dân đế quốc coi la de như thứ nước uống của người man di, còn họ uống thứ nước dành cho Thần Linh, ấy là rượu vang. Cũng nên nhắc là việc nấu la de, theo luật đời xưa, là việc làm của nữ giới. Đến sau Thiên Chúa giáng sinh thì la de được đưa vào thị trường thương mại, ai mua cũng được. Chuyện này cũng có lý do. Vì đã có một thời kỳ, làm la de được các tu viện hầu như dành quyền ưu tiên chế biến và là nguồn lợi tức đáng kể cho cơ sở tôn giáo. Ngoài lợi tức, các tu sĩ còn muốn tự do dùng la de chung với thực phẩm ngon mà họ được cung cấp. Đồng thời la de không bị cấm trong thời gian ăn chay, nên các ngài tự do dùng và mỗi tu sĩ được chia tới 5 lít một ngày. Chỉ sau thời kỳ Cải Cách giáo hội Thiên Chúa Giáo La Mã, đưa đến sự thành lập các giáo hội Tin Lành vào thế kỷ 16, sự ưu đãi độc quyền làm bia này cho tu viện mới được bãi bỏ. Bia được các nhà sản xuất thương mại trách nhiệm. Nhưng phải công nhận là nhờ kiến thức của các tu sĩ mà kỹ nghệ làm bia tiến bộ rất nhiều, từ việc một miếng bánh rơi vào ly nước tới những máy móc, tuy thô sơ, nhưng mau lẹ, làm được nhiều lại an toàn vệ sinh, có phẩm chất ngon hơn. Kỹ nghệ sản xuất bia thực sự cải thiện vào đầu thế kỷ thứ 19 với sự sáng chế ra máy hơi của James Watt và hệ thống làm lạnh của Carl von Linde. Trước đó, bia thường được làm vào mùa Đông, thuận tiện cho sự lên men của bánh. Từ khi khám phá ra hệ thống làm lạnh, bia được sản xuất quanh năm. Đầu máy hơi nước của James Watt giúp sự sản xuất bia từng loạt với số lượng nhiều hơn. Trong việc làm bia, nhà bác học Pháp Louis Pasteur cũng cống hiến một khám phá quan trọng: Đó là sự tìm ra những nấm lên men mà ông đã trình bày trong nghiên cứu tựa đề “ Etude de la Bierre”, vào năm 1876. Nhờ khám phá này mà ngày nay ta đã nuôi được men và dùng rộng rãi trong kỹ nghệ làm bia và rượu vang. Một khoa học gia khác người Đan Mạch, Christian Hansen, đã thành công trong việc tách một thứ nấm, trồng trong dung môi dinh dưỡng và dùng hàng loạt vào việc lên men lúa mạch để làm bia. Làm bia. Muốn có một lon bia, ta cần bốn vật liệu chính yếu: Nước, ngũ cốc, men và cây Hoa Bia (Hop= Houblon). a-Ngũ cốc Bia có thể được làm từ gạo (Việt Nam,Trung Hoa Nhật Bản), ngô (Thổ dân American Indian), mì ( Đức wheat), lúa mạch đen ( Nga, ryes) yến mạch ( Oats) nhưng thông thường nhất vẫn là bằng hạt lúa mạch ( Barley) rồi đến lúa mì. Ngô và gạo cho loại bia kém phẩm chất. Lúa mạch có nguồn gốc từ Châu Á và Ethiopia và là loại ngũ cốc được sản xuất đứng hàng thứ tư sau lúa mì, gạo và ngô. Lúa mạch có lượng carbohydrates khá cao, tới 67% và 13% chất đạm. Trước hết, mạch được ngâm trong nước độ một tuần cho nẩy mầm đồng thời tinh bột của mạch được chuyển hóa thành đường maltose. Sau đó mạch có mầm được đun chín rồi sấy khô, say khỏi vỏ rồi ngâm trong nước nóng. Đường trong mạch sẽ hòa vào nước cho một dung dịch có vị ngọt. Dung dịch này được đun sôi khoảng hai giờ để diệt hết vi khuẩn. Đây là lúc mà Hoa Bia được thêm vào để tạo ra vị đắng cho bia. b-Hoa bia Houblon là loại cây leo có hoa mọc thành từng chùm. Hoa được sấy khô để tạo vị đắng cho bia. Đun càng lâu thì chất đắng của hoa bia càng tan nhiều trong nước, bia sẽ đắng hơn. Nghiên cứu ở Mỹ cho biết cây Hoa Bia có chất chống oxy hóa Antioxidant Prenylated Flavonoids rất tốt để giúp cơ thể giảm nguy cơ bị các bệnh tim, ung thư, sa sút trí tuệ và cao cholesterol. Dung dịch được để nguội, vớt hết lá hoa bia và cặn bã ra rồi men được thêm vào. c-Men Men bia là những nấm nhỏ li ti có khả năng chuyển đổi tinh bột ra đường. Nấm có nhiều trong thiên nhiên. Hai loại men thường dùng trong kỹ nghệ bia là Sacchromyces cerevisiae nổi lên mặt dung dịch và loại Saccharomyces uvarum, chìm dưới đáy. Mươi ngày sau men sẽ chuyển hóa hầu hết đường maltose và lúc đó ta đã có một lon bia. Nhưng chưa đủ, muốn có hơi sủi bọt, bia được chuyển vào một bình điều hòa để lên men lần thứ hai và có hơi carbonates.Vì còn vẩn đục, nên bia được lọc. Bia vô lon hoặc chai được đun nóng (Pasteurized) để diệt hết các vi khuẩn còn sót và để chặn sự lên men. Draft bia không đun nóng nhưng phải giữ ở nhiệt độ lạnh cho tới khi dùng để bia thôi lên men. Uống ngay sau khi sản xuất, Draft bia ngon hơn vì trong khi chuyên trở đi xa, sự thay đổi nhiệt chung quanh ảnh hưởng tới phẩm chất của bia. đ-Nước Nước dùng để làm bia cũng rất quan trọng. Nước có nhiều khoáng chất thì bia đắng hơn là nước có ít khoáng chất. Beer cũng như rượu vang có từ 2-6% Ethanol trong khi đó rượu mạnh như wisky, gin, vodka có tới 45-50% ethanol. Một vài loại bia Như đã nói ở trên, bia có thể làm từ lúa mì, ngô, gạo nhưng lúa mạch thường được dùng nhiếu nhất. Ngay cả làm từ lúa mạch, bia cũng có nhiều loại tùy theo men nổi hay chìm, nhiệt độ và thời gian để mạch lên men, số lượng Hoa bia, thời gian và nhiệt độ nơi cất giữ bia. Theo luật, bia không được có quá 5% chất rượu ethanol. -Ale nặng hơn beer và dùng men nổi mà beer thì dùng men chìm dưới đáy. -Bitter là la de có nhiều Hoa bia nên đắng hơn và được dân Anh rất thích. -Lager cũng là la de nhẹ, mầu lạt, rất phổ thông bên Đức. -Malt liquor mạnh hơn beer. -Shandy là hỗn hợp beer với nước chanh (lemonade) hoặc ginger beer) -Sake của Nhật được chế từ gạo, có nồng độ ethanol từ 14-%, nên thường được gọi là rượu gạo rice wine. Nhưng thực ra sake là một loại beer vì cũng được làm bằng sự lên men của gạo. Sake không có mầu, không có hơi, hâm nóng uống ngon hơn, trong khi đó beer phải uống lạnh mới đã. Dinh dưỡng Về phương diện ăn uống, ngoài nước, bia có một số lượng các chất dinh dưỡng rất khiêm nhường vì đa số đã bị tiêu hủy trong quá trình chế biến. Một ly 360 cc (12 Oz) cho 140 calories mà 60% là do chất rượu ethyl alcohol của bia; 17mg calcium; 28mg magnesium; 40mg phosphore; 85mg potassium; rất ít Zinc, sinh tố B. Các chất đạm, chất béo, sinh tố C và sinh tố hòa tan trong chất béo đều có rất ít nên bia được nhiều người coi như chẳng bổ dưỡng gì ngoài một số calories. Chẳng thế mà bác sĩ David Williams của đại học Wales, Anh Quốc đã cổ võ là trong chương trình giảm béo, nên uống nửa lít bia một ngày vì bia có tới 93% là nước lã, không đường, không chất béo. Bia còn giữ hương vị thơm ngon nếu tiêu thụ trong vòng hai tháng sau khi làm, do đó không nên mua tích trữ quá nhiều và quá lâu. Cất bia ở chỗ mát, không có ánh nắng mặt trời để bia khỏi lên mùi. Ly để uống bia cần sạch, không vết mỡ vì mỡ làm bia hết bọt. Cũng không nên uống bia quá lạnh vì nhiệt độ thấp làm giảm mùi thơm của bia. Bia với Sức Khỏe Trang báo Forbes ngày 17 tháng 3 năm 2008, tác giả Allison Van Dusen có nêu ra 8 lý do lành mạnh để uống bia, căn cứ vào một số nghiên cứu khoa học. Đó là từ 30-35% ít bị heart attack, tăng chất béo lành HDL, giảm rủi ro máu cục, giảm hóa già, bảo vệ khỏi tử vong vì bệnh tim mạch, tăng trí tuệ giảm Alzheimer, giúp xương chắc mạnh, giảm biến chứng tiểu đưởng. Nhưng Allison nhấn mạnh ở chữ vứa phải moderation. Vừa phải là 240 cc, ngày hai lần, quý bà thỉ chỉ ½ mà thôi. Lưu ý là uống bia mãn ngày mãn tháng, lon trước rước lon sau thì hậu quả tai hại cũng nhiều. Chẳng hạn như trở thành bét nhè nghiện rượu, xơ cúng ung thư gan, ung thư miệng…Ấy là chưa kế phá rối an ninh trật tự công công khi say xỉn, gây gổ hận thù, than chủ thường xuyên của khám nhỏ khám lớn. Ngoài ra, có nghiên cứu cho là uống vài ly bia/ngày có thể tăng rủi ro ung như nhũ hoa nữ giới. Thành ra bia không phài là tốt cho mọi người. Như giáo sư Charlie Bamforth, Đại học California ở Davis, nhắc nhở là không nên coi bia như một dược phẩm. Uống bia vì ý thích nhưng vừa phải là điều cần nhớ. Bác sĩ Nguyễn Ý-Đức M.D. Texas-Hoa Kỳ BÁC SĨ NGUYỄN Ý ĐỨC
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 6, 2009 4:09:15 GMT 9
Khoai Lang: Dinh Dưỡng Tốt Cho Người Bị Bệnh Tiểu Đường Việt Báo Thứ Ba, 11/24/2009, 12:00:00 AM Khoai Lang: Dinh Dưỡng Tốt Cho Người Bị Bệnh Tiểu Đường Đồ biểu dinh dưỡng của hai loại khoai lang: Sweet Potato và Yam potato Tâm Linh biên dịch (Lời Thư Viện Hoa Sen: Khoai lang, tiếng Mỹ goi là sweet potatoes là một phần của thực phẩm không thể thiếu trong Lễ Tạ Ơn. Khoai lang là một trong những loại lương thực lâu đời nhất trên thế giới được biết của con người. Ngày nay những nghiên cứu khoa học cho thấy khoai lang không chỉ có giá trị dinh dưỡng cao mà có những công dụng phòng chữa bệnh, đặc biệc là bệnh tiểu đường loại 2 và là một trong những thực phẩm tạo miễn dịch tốt cho cơ thể. Nhân dịp Lễ Tạ Ơn, chúng tôi hân hạnh giới thiệu bài viết dưới đây của soạn giả Tâm Linh.) Sau một thời gian thử nghiệm, các nhà nghiên cứu khoa học tại hai quốc gia Austrian và Italian đã công bố kết quả chất Caiapo, một tinh chất được chiết xuất từ củ khoai lang trắng (white-skinned sweet potato -Ipomoea batatas ), có khả năng kiểm soát tốt lượng đường máu và cholesterol trong bệnh tiểu đường loại 2. [1] Trong thử nghiệm lâm sàng, Bác sĩ Bernhard Ludvik, MD và nhóm cộng sự của ông tại University of Vienna, Áo Quốc, đã chọn 61 bệnh nhân nam mắc bệnh tiểu đường loại 2 có độ tuổi trung bình là 58. Họ chia bệnh nhân ra làm hai nhóm: nhóm một 30 người dùng 4 grams Caiapo mỗi ngày, và nhóm hai 31 người dùng thuốc giả cũng 4 grams mỗi ngày. Tất cả được uống trước bữa ăn sáng mỗi ngày và kéo dài trong 3 tháng. Sau ba tháng, kết quả thử nghiệm cho thấy, ở nhóm điều trị bằng Caiapo thật, lượng hemoglobin HbA1c (yếu tố đánh giá khả năng kiểm soát lượng đường huyết của cơ thể) [2] giảm đáng kể, từ 7,21% xuống còn 6,68%. Trong khi đó, HbA1c ở nhóm dùng thuốc giả không thay đổi. Đến cuối giai đoạn thử nghiệm, lượng đường máu ở nhóm Caiapo giảm nhanh chóng, từ 143,7 xuống 128,5 milligram/decilit, trong khi không có sự thay đổi nào ở nhóm dùng thuốc giả. Ngoài ra, lượng cholesterol ở nhóm một (Caiapo)(214.6 mg/dL) thấp hơn hẳn so với nhóm đối chứng (nhóm hai dùng thuốc giả)(248.7 mg/dL. Kết quả trên xác nhận Caiapo là chất có thể kiểm soát một cách hữu hiệu bệnh tiểu đường loại 2. Bác sĩ Ludvik kết luận như vậy. Không một phản ứng phụ nào được ghi nhận ở những bệnh nhân được điều trị bằng Caiapo. Tưởng cũng nên biết Caiapo là chất được chiết xuất từ khoai lang trắng đã được Nhật Bản điều chế thành dược phẩm bổ sung bày bán trên thị trường Nhật từ lâu để phòng ngừa và điều trị cho những người bị bệnh tiểu đường nay mới được sự xác nhận bởi các nhà nghiên cứu khoa học phương Tây. *** Một nghiên cứu mới đây ở trường đại học College of Agriculture and Life Sciences (AALS) thuộc Viện Đại Học North Carolina State University gồm Dr. Jone Allen, giáo sư; Dr. Van Den Truong, khoa học gia về thực phẩm thuộc Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ USDA-ARS phó GS AALS; và Dr. Masood Butt, GS thỉnh giảng từ Viện Đại Học Nông Nghiệp University of Agriculture in Pakistan, đã xác nhận khoai lang là loại thực phẩm có trị số GI thấp (low-glycemic index food), rất tốt cho bệnh nhân tiểu đường. Ngoài ra họ cũng khám phá khoai lang trồng tại bang North Carolina có chứa nhiều tinh chất Caiapo hơn loại khoai lang Nhật điều chế thành dược phẩm bổ sung bày bán trên thị trường Nhật. “Với nhiều nghiên cứu hơn nữa trong lãnh vực này, rất có thể sẽ có những khuyến cáo những bệnh nhân tiểu đường dùng tinh chất chiết xuất từ khoai lang North Carilina để kiểm soát bệnh tiểu đường”. Dr. Allen đã nói như vậy trong một tờ báo cáo về dự án của nhóm nghiên cứu. “Khoai lang liệu pháp sẽ rẻ hơn là phương pháp trị liệu hiện nay, và sẽ ít có phản ứng phụ”. Dr. Allen nói thêm. " (Suzanne Stanard report) [3] *** Được biết khoai lang có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới Nam châu Mỹ, lan truyền sang các quần đảo Thái Bình Dương, các nước Châu Á, được Cristophe Colombo đưa về châu Âu và người Bồ Đào Nha đưa vào Châu Phi. Khoai lang đã từng là một phần quan trọng trong khẩu phần ăn tại Hoa Kỳ trong phần lớn lịch sử của quốc gia này, đặc biệt là tại khu vực đông nam. Tuy nhiên, trong những năm gần đây thì nó đã trở nên ít phổ biến hơn. Tiêu thụ bình quân trên đầu người tại Hoa Kỳ ngày nay chỉ khoảng 1,5-2 kg (4 pound) mỗi năm, trong khi trong thập niên 1920 là 13 kg (31 pound). Kent Wrench viết: "Khoai lang đã gắn liền với thời kỳ khó khăn trong suy nghĩ của tổ tiên chúng ta và khi họ trở nên giàu có đủ để thay đổi thực đơn của mình thì người ta ít ăn khoai lang hơn." *** Hiện nay, theo các nghiên cứu khoa học, khoai lang là một loại thực phẩm rất tốt cho sức khỏe nhờ có nhiều chất xơ (gấp ba lần khoai tây) nhiều vitamin như vitamin A dưới dạng beta-caroten, glutathione, vitamin C, B6, Kali, Manganese, Iron và Sắt, [4] do vậy nó có khả năng mạnh chống ôxy hóa (Antioxidant), ngăn ngừa bệnh và làm tăng khả năng miễn dịch và chống lại các tế bào bị bệnh. Đặc biệt như kết quả thử nghiệm nói ở phần trên, nó giúp điều chỉnh insulin ở trạng thái cân bằng. Do vậy, ăn khoai lang vừa là cách để phòng ngừa vừa là cách để hạ thấp mức độ nghiêm trọng bệnh tiểu đường. Ngoài ra khoai lang lại có tác dụng giảm cân hiệu quả, là thực phẩm lý tưởng cho phái nữ trong việc giảm trọng lượng cơ thể. Năng lượng có trong khoai lang rất ít, chỉ bằng 30% so với cơm trắng và 50% so với khoai tây. Ăn khoai lang trước bữa ăn chính sẽ giảm được một lượng lớn thức ăn sẽ đưa vào cơ thể mà không hề gây ra cảm giác đói. Ăn khoai lang lại rất có lợi cho hệ tiêu hóa vì thành phần chất xơ, vitamin C, các axit amino và nhiều loại enzyme giúp dạ dày co bóp, kích thích nhu động ruột, làm quá trình tiêu hóa thức ăn trở nên nhanh hơn, dễ dàng hơn, ngăn ngừa tình trạng táo bón.. Tâm Linh (Tổng hợp từ các nguồn tin khoa học) THAM CHIẾU [1] Ludvik B, Neuffer B, Pacini G. Efficacy of Ipomoea batatas (Caiapo) on Diabetes Control in Type 2 Diabetic Subjects Treated With Diet. Diabetes Care 27:436–440, 2004. And Diabetes Obes Metab. 2008 Jul;10(7):586-92. Epub 2007 Jul 21. [2] HbA1c is a test that measures the amount of glycated hemoglobin in your blood. Glycated hemoglobin is a substance in red blood cells that is formed when blood sugar (glucose) attaches to hemoglobin. An HbA1c of 6% or less is normal. If you have diabetes, you should try to keep your HbA1c level at or below 7%. However, you and your health care provider must decide what is a normal HbA1c level for you. (U.S. National Library of Medicine, National Institutes of Health ) HbA1C là phần cấu trúc hemoglobin (viết tắt là Hb) của hồng cầu. Mỗi khi các tế bào hồng cầu được tủy xương sản xuất và giải phóng vào dòng máu, nó sẽ gắn với một lượng glucose trong máu. Mức độ gắn nhiều hay ít tùy thuộc vào nồng độ đường trong máu tại thời điểm đó cao hay thấp. Do hồng cầu có đời sống khoảng 100-120 ngày nên HbA1C có giá trị đánh giá nồng độ đường máu của bạn trong vòng 3-4 tháng trước đó, và các bác sĩ thường chỉ định làm xét nghiệm HbA1C cho bệnh nhân mỗi 3-4 tháng (tương đương 3-4 lần mỗi năm). Cần biết rằng việc xét nghiệm đo tỷ lệ HbA1C không giống và cũng không thay thế được cho việc thử đường máu của bạn. Nó chỉ có giá trị theo dõi, đánh giá kết quả điều trị bệnh TĐ chứ không có giá trị để chẩn đoán bệnh. Nói cách khác là xét nghiệm HbA1C cho biết đường máu của bệnh nhân có được kiểm soát tốt và có cần điều chỉnh chế độ điều trị TĐ hay không, nhưng điều chỉnh thế nào lại phải dựa vào kết quả thử đường máu cụ thể. Mục tiêu của điều trị bệnh TĐ là phải đạt được HbA1C ở mức dưới 7%, hoặc có thể hơi cao hơn ở các bệnh nhân TĐ là trẻ em, người cao tuổi hoặc người bị bệnh nặng. (www.ykhoa.net) [3] Stanard S. Researchers reveal sweet potato as weapon against diabetes. www.cals.ncsu.edu/agcomm/magazine/winter07/diabetes.html[4] Đồ biểu dinh dưỡng của hai loại khoai lang: Sweet Potato và Yam potato The World's Healthiest Foods book by George Mateljan.
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 28, 2010 11:02:25 GMT 9
Muốn giảm căng thẳng hãy uống nước trà
LONDON (Reuters) - Uống nước trà thường xuyên có thể giúp quý vị thư giãn và giảm căng thẳng, theo lời các nhà nghiên cứu tại trường đại học University College London (UCL) hôm mùng 4 Tháng Mười. Các chuyên gia nhận thấy những người tham gia một cuộc nghiên cứu uống trà đen bốn lần một ngày trong sáu tuần lễ đã giảm bớt những mức của chất kích thích tố gây căng thẳng gọi là “cortisol” khi so sánh với một nhóm được cho uống thứ nước trà giả được pha chế để có mùi vị và màu sắc giống như nước trà thật, các nhà nghiên cứu nói trong một bản phúc trình đăng trong đặc san Psychopharmacology (Dược Khoa Tâm Lý). Những người uống nước trà cũng báo cáo rằng họ cảm thấy thư giãn hơn sau khi làm những công việc được thiết kế đặc biệt để làm tăng cao những mức độ căng thẳng. Ông Andrew Steptoe, một chuyên gia thuộc khoa bệnh dịch và y tế công cộng (Epidemiology and Public Health) của trường UCL và là một trong những đồng tác giả của cuộc nghiên cứu, nói rằng những kết quả tìm thấy này có thể bao hàm những ý nghĩa quan trọng về sức khỏe. Ông nói: “Sự phục hồi chậm chạp sau khi bị căng thẳng cấp tính (acute stress) có thể dẫn tới nguy cơ mắc bệnh kinh niên, như bệnh tim mạch. Tuy uống nước trà có vẻ không thực sự làm giảm những mức căng thẳng mà chúng ta trải qua, nhưng nó có vẻ giúp cho những mức kích thích tố gây căng thẳng giảm xuống mức bình thường.” Trong cuộc nghiên cứu, 75 người đàn ông thường uống trà hàng ngày được chia thành hai nhóm, tất cả đều ngưng uống các loại nước trà mà trước đây họ thường uống, ngưng uống cà phê và những thứ nước giải khát có pha chất caffeine. Một nửa số người nói trên được cho uống một hỗn hợp gồm trà, cùng với chất caffeine, và có hương vị trái cây - đã được pha chế để bao gồm những thành phần thông thường của một ly trà đen. Nhóm thứ nhì được cho uống một thứ nước trà giả, trong đó có pha chất caffeine và có mùi vị giống hệt như hỗn hợp của nhóm thứ nhất, nhưng không có những thành phần của trà thật. Cả những người tham gia lẫn các nhà nghiên cứu đều không biết ai uống trà thật hay trà giả. Sau sáu tuần lễ, những người tham gia trải qua những cuộc trắc nghiệm được thiết kế để làm tăng cao những mức căng thẳng của họ, thí dụ như họ chỉ có thời gian 5 phút ngắn ngủi để chuẩn bị và trình bày một tài liệu trước thính giả. Các nhà nghiên cứu thấy rằng trong cuộc trắc nghiệm những mức căng thẳng, áp huyết và mức tim đập đã gia tăng giống nhau trong cả hai nhóm. Nhưng 50 phút sau cuộc trắc nghiệm, những mức của kích thích tố cortisol đã giảm bớt trung bình 47 phần trăm trong số những người uống nước trà, so với 27 phần trăm nơi nhóm người uống nước trà giả. Ông Steptoe nói rằng các nhà nghiên chưa biết những thành phần nào trong trà đã đem lại những hiệu ứng tìm thấy trong cuộc nghiên cứu. (n.m.)
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 28, 2010 11:13:03 GMT 9
Drink water
It is popular in Japan today to drink water immediately after waking up every morning. Furthermore, scientific tests have proven its value. We publish below a description of use of water for our readers. For old and serious diseases as well as modern illnesses. The water treatment had been found successful by a Japanese medical society as a hundred percent cure for the following diseases:
•• Headache (nhức đầu) •• Body ache (đau nhức mình) •• heart system (bệnh tim) •• arthritis (viêm khớp) •• fast heart beat (tim đập nhanh) •• epilepsy (động kinh) •• excess (ăn uống quá mức) •• fatness (béo phì) •• bronchitis (viêm phế quản) •• asthma (hen suyển) •• TB (bệnh lao) •• Meningitis (viêm màng não) •• Kidney and Urine diseases (thận và đường tiểu) •• vomiting gastritis (viêm dạ dày) •• diarrhea (tiêu chảy) •• piles (bệnh trĩ) •• diabetes (đái đường) •• constipation (táo bón) •• all eye diseases (các bệnh về mắt) •• womb cancer (ung thư tử cung) •• menstrual disorders (kinh nguyệt không đều) •• ear nose (các bệnh về mũi, tai) •• throat diseases (cổ họng)
METHOD OF TREATMENT: 1. As you wake up in the morning before brushing teeth, drink four glasses of water each of 160 ml. 2. Brush and clean the mouth but do not eat or drink anything for 45 minutes. 3. After 45 minutes you may eat and drink as normal. 4. After 15 minutes of breakfast, lunch and dinner do not eat or drink anything for two hours. 5. Those who are old or sick and are unable to drink four glasses of water at the beginning may commence by taking little water and gradually increase it to four glasses per day. 6. The above method of treatment will cure diseases of the sick and others can enjoy a healthy life. The following list gives the number of days of treatment required to cure main diseases: 1. High Blood Pressure (cao huyết áp) : 30 days (30 ngày) 2. Gastric (bệnh dạ dày) : 10 days (10 ngày) 3. Diabetes (đái đường) : 30 days (30 ngày) 4. Constipation (táo bón) : 10 days (10 ngày) 5. Cancer (ung thư) : 180 days (180 ngày) 6. TB (lao) : 90 days (90 ngày) Arthritis patients should follow the above treatment for only 3 days in the first week to be followed by daily treatment. This treatment method has no side effects, however at the commencement of treatment you may have to urinate a few times.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 6, 2010 13:09:05 GMT 9
Cà phê: tốt hay xấu cho sức khỏe?Vietsciences- Hoài Hương - VOANews Đối với rất nhiều người Việt Nam, ly cà phê buổi sáng là một thói quen hàng ngày, mà nếu không có, sẽ khiến ta cảm thấy bồn chồn, thiếu thốn. Tại Hoa kỳ, hơn 100 triệu người Mỹ cũng có thói quen dùng cà phê mỗi ngày, nhưng cà phê có công dụng gì, tốt hay xấu cho sức khỏe? Tạp chí Khoa Học và Đời sống tuần này xin được dành để bàn về những lợi ích của cà phê, dựa trên các công trình nghiên cứu y khoa hồi gần đây, được đề cập đến trong Bản Tin Y Tế của Trường Y Khoa- Đại học Harvard, và ý kiến của một số chuyên gia. Mời quý vị theo dõi với Hoài Hương. Roasted coffee beans Hình: Wikipedia Commons Thưa quý vị, các nhà khoa học thừa nhận rằng cà phê là một phối hợp phức tạp các hợp chất hóa học với những tác dụng tiềm tàng, cả tốt lẫn xấu. Dựa trên nhiều cuộc nghiên cứu hồi gần đây thì cà phê có thể mang lại một số lợi ích cho sức khỏe. Thông tín viên Art Chimes của Đài VOA tường trình rằng một cuộc nghiên cứu mới phối hợp kết quả của nhiều cuộc nghiên cứu khác, cho thấy là những người uống nhiều cà phê, ít có nguy cơ phát bệnh ung thư miệng và cổ họng hơn, so với những người không uống hoặc uống ít cà phê hơn. Bác sĩ Mia Hashibe thuộc Trường Y Khoa Đại học Utah, nghiên cứu sự liên hệ giữa thói quen uống cà phê với một số loại ung thư ở cổ và đầu. Bà giải thích: “Chúng tôi thấy tác dụng chống ung thư nơi nhóm người uống 5 tách cà phê mỗi ngày hay nhiều hơn. Nguy cơ có thể giảm tới 40%. Nhưng chúng tôi không thấy có tương quan nào giữa hiện tượng này nơi những người chỉ uống 3 tách cà phê, hay ít hơn mỗi ngày.” Bà Hashibe nói hiện chưa rõ vì nguyên do nào cà phê có thể bảo vệ những người uống cà phê chống một số hình thức ung thư. Bà nói: “Có một số hóa chất được gọi là “chất chống oxid-hóa” trong cà phê. Cho nên chúng tôi nghĩ rằng có lẽ những hợp chất ấy đóng một vai trò trong việc bảo vệ người tiêu thụ chống lại nhiều chứng ung thư.” Bản tin tháng Sáu của Trường Y Khoa, Đại học Harvard, nói cà phê có thể giúp chống lại bệnh Alzheimer. Các nhà nghiên cứu nói muốn có tác dụng, cần đến 500 mg cafein mỗi ngày, tức tương đương với khoảng 5 tách cà phê, mới có đủ cafein để bảo vệ não bộ. Uống một hay 2 tách cà phê mỗi ngày, theo các chuyên gia, sẽ không mang lại tác dụng đó. Đối với nhiều người, 5 tách cà phê mỗi ngày là quá nhiều, tiêu thụ một lượng cafein cao như thế có thể gây khó chịu, đưa đến những triệu chứng như cảm thấy bồi hồi, tim đập mạnh. Đối với những người ghiền cà phê, thì 5 tách cà phê là chuyện thường tình. Ông Gary Arendash làm việc tại Trung tâm Nghiên cứu Bệnh Alzheimer thuộc Đại học Florida, uống từ 5 đến 6 tách mỗi ngày, và ông tin rằng cafein có tác dụng bảo vệ não bộ. Ông cùng các đồng nghiệp nghiên cứu tác động của cafein trên não bộ các con chuột mắc bệnh Alzheimer. Toán nghiên cứu phát hiện rằng cho thêm cafein vào chế độ dinh dưỡng hàng ngày của chuột đưa đến nhiều cải thiện đáng kể. Các con chuột thí nghiệm đạt kết quả tốt hơn trong các cuộc xét nghiệm trí nhớ ngắn hạn và khả năng tư duy, với điều kiện chúng được cấp đủ cafein. Ông Arendash nói một lượng cafein tương đương với cafein chứa trong từ 2 tới 3 tách cà phê cho một người, không đủ để có tác dụng đối với các con chuột thí nghiệm. Sau khi thu thập chứng cứ, toán nghiên cứu kết luận rằng các con chuột tiêu thụ đủ cafein cho thấy mức protein dạng sợi bất thường giảm tới 50%, người ta tin loại protein này là yếu tố then chốt trong tiến trình phát bệnh Alzheimer. Kết quả cuộc nghiên cứu nơi các con chuột thí nghiệm đã không được chú ý, nếu các nhà khoa học khác không khởi sự thu thập chứng cớ cho thấy thói quen uống cà phê đều đặn cũng có lợi cho con người. Trong một cuộc nghiên cứu tại Phần Lan mới đây, 1,400 đối tượng có thói quen uống cà phê được theo dõi trong suốt hơn 2 thập niên. Các nhà nghiên cứu phát hiện rằng có một nhóm đặc biệt được hưởng nhiều lợi ích y tế nhất: đó là nhóm người uống từ 3 đến 5 tách cà phê mỗi ngày, và trong lứa tuổi từ 40 đến 50. Ông Huntington Potter, một nhà sinh học thần kinh tại Đại học South Florida nói: “Trong nhóm này nguy cơ phát bệnh Alzheimer vào lứa tuổi 70 giảm từ 65 đến 75%.” Một số cuộc nghiên cứu kém quy mô hơn tại Châu Âu cũng đưa đến những kết quả tương tự. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu chuyên về bệnh Alzheimer làm việc cho Bệnh Viện Phụ Khoa Brigham tại Đại học Harvard, bà Reisa Sperling khuyến cáo: “Thực tình tôi do dự, không dám nói chắc là có chứng cớ rộng rãi cho thấy cà phê có thể ngăn chận bệnh Alzheimer.” Bà nói một giả thuyết là những người uống cà phê thường xuyên có chung một số thói quen khác, có thể dẫn đến kết quả tích cực như vừa nói. Bà đoán rằng những người có thói quen uống cà phê, cũng là những người thích hoạt động hơn, cả về mặt tinh thần lẫn thể chất, so với những người cùng lứa tuổi, chỉ ngồi xem Tivi cả ngày. Nhà nghiên cứu Sperling nói bệnh Alzheimer là một chứng bệnh vô cùng phức tạp. Hoạt động tay chân và một chế độ dinh dưỡng tốt có thể bảo vệ một người chống bệnh Alzheimer, nhưng về phần lớn, nguy cơ mắc bệnh này là do các yếu tố di truyền định đoạt. Thưa quý vị, một ly cà phê thơm ngon có thể giúp chúng ta tập trung, và cảm thấy hưng phấn khi bắt đầu một ngày làm việc hay học tập, mặc dù vậy các nhà nghiên cứu khuyến cáo rằng nếu uống cà phê làm cho ta mất ngủ cả đêm, thì cà phê vẫn có hại cho sức khỏe, bởi vì giấc ngủ cũng là yếu tố hết sức quan trọng cho sức khỏe của chúng ta.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 3:39:23 GMT 9
Nấm Nguyễn Ý Đức Có thật nấm Vân chi phòng chống được ung thư và AIDS? Nấm là những thực vật bực thấp không có hoa, lá. Vì không có diệp lục tố, nấm không lấy năng lượng qua ánh sáng mặt trời được nên phải sống ký sinh trên các cây khác hoặc trên chất mục nát. Có loại nấm sống cộng sinh lấy chất dinh dưỡng của cây và cung cấp cho cây khoáng chất như phospho. Có rất nhiều loại nấm, nhưng chỉ có một số loại ăn được, gọi chung là nấm ăn. Một số nấm có độc tố ăn vào chết người. Nấm là một thực phẩm ngon, được nhiều người sành ăn ưa thích. Các vị vua chúa Ai Cập ngày xưa coi nấm như món ăn quý hiếm, ra lệnh cho thần dân khi kiếm được nấm phải dâng lên để ngài ngự và hoàng gia dùng. Dân chúng Trung Hoa, Nhật xưa coi nấm như một thứ thuốc đại bổ, mang đến cho người ăn sức khỏe vô địch, sống lâu và khi tới khâu Tử thì nhẹ nhàng ra đi vào cõi vĩnh hằng. Nấm cũng được dùng trong y học, làm chất kích thích hoặc gây ảo giác trong các lễ nghi tôn giáo từ nhiều ngàn năm trước. Giá trị dinh dưỡngAthenaeus, người sành ăn nổi tiếng của La Mã thời cổ đại đã viết là nấm có nhiều chất dinh dưỡng, lại dễ tiêu cho nên rất tốt cho bộ máy tiêu hóa. Nấm có kali, calci, selen, sắt, đồng, sinh tố C, vài loại sinh tố B như B2 (riboflavin), B3 (niacin). chất xơ hòa tan pectin ở phần mềm ( thịt ) của nấm, và một ít chất dẻo cellulose ở màng bọc nấm. Vì có rất ít chất béo lại cung cấp rất ít năng lượng (nửa ly chỉ có 10 calori) cho nên nấm rất tốt cho người thích ăn mà không muốn bị béo phì. Đặc biệt nấm có nhiều glutamic acid, một loại bột ngọt monosodium glutamate, vì vậy nấm thường được nấu chung với nhiều món ăn như một gia vị để tăng hương vị đậm đà. Nấm tốt tươi chắc mịn như thịt nên có thể ăn nướng, bỏ lò hoặc thay cho thịt khi nấu canh làm súp. Nấm tươi trộn với các loại rau cũng là món ăn ưa thích. Khi thái nhỏ, nấm thường mau bị đen vì oxy hóa, đồng thời cũng mất tới 60% vitamin B2. Để làm chậm sự oxy hóa này, có thể ngâm nấm trong nước chua như chanh, giấm. Khi nấu chín, riboflavin không bị tiêu hao mấy vì sẽ hòa tan trong nước, làm ngọt món ăn, nhưng tai nấm mất bớt nước, teo lại, còn cuống nấm thì cứng hơn và giòn sựt. Nấm với Sức KhỏeThủy tổ nền y học phương Tây là Hippocrates (460- 377 trước Công nguyên) đã dùng nấm trong việc ăn uống và trị bệnh. Cách đây trên 3000 năm, người Trung Hoa đã coi nấm như là một loại thuốc bổ tổng quát, có khả năng tăng tính miễn dịch của cơ thể chống lại nhiều bệnh nhiễm trùng. Các khoa học gia Nhật Bản đã nghiên cứu công dụng trị bệnh của nấm. Theo họ, nấm có vài hóa chất có thể làm tăng tính miễn dịch chống lại vi khuẩn, ung thư và chữa các bệnh phong khớp xương. Họ tìm ra chất lentinan, một loại beta glucan tự nhiên trong nấm đông cô có đặc tính bảo vệ cơ thể, kéo dài tuổi thọ và tránh các tác dụng phụ của hóa và xạ trị liệu. Các nghiên cứu khác ở Mỹ cho là nấm có nhiều phytochemical, có thể là chất chống ung thư rất tốt cũng như làm giảm cholesterol, làm cơ thể bớt mệt mỏi. Viện Ung Thư Hoa kỳ đang nghiên cứu công dụng của nấm trong việc chữa trị các bệnh nhân bị nhiễm HIV/AIDS, cũng như tăng cường sức khỏe cho các bệnh nhân này. Năm 1960, Tiến sĩ Kenneth Cochran, thuộc Đại học Michigan, có nghiên cứu nhiều về loại nấm Đông cô (Shiitake) và thấy rằng nấm này làm tăng tính miễn dịch mạnh hơn chất interferon, một loại thuốc thường dùng trong việc chữa bệnh do virus và ung thư. Nhiều người còn cho là ăn nấm đông cô sẽ làm giảm cholesterol và làm máu dễ lưu thông nên có tác dụng tốt với tim. Nghiên cứu ở Bắc Kinh cho hay trà nấm linh chi (Zhu Ling , hay Lingzhi) đuợc dùng để trị ung thư bao tử, cuống họng, ruột... Nấm thường dùngCó nhiều loại nấm khác nhau. Xin cùng tìm hiểu một số nấm thường dùng. a-Nấm hương ( Lentinus edodes , Shiitake) Đây là một loại lâm sản rất quý, thường mọc dại trong các rừng ẩm mát ở miền núi cao. Nấm có mùi thơm, mọc trên các cây côm, cây giẻ trong rừng. Nấm hương hiện nay được nuôi trồng tại nhiều quốc gia như Việt Nam, Trung Hoa, Đại Hàn. Ngoài giá trị thực phẩm, người Việt ta còn dùng nấm hương dễ chữa bệnh kiết lỵ. b-Nấm linh chi ( Ganoderma lucidum). Nấm này còn được gọi là nấm trường thọ, cỏ linh chi, thuốc thần tiên. Nấm linh chi đã được dùng nhiều ở Trung Hoa từ nhiều ngàn năm về trước như một loại thuốc quý hiếm mà chỉ vua chúa, người giầu mới có khả năng sử dụng. Nấm thường thấy mọc hoang dại ở các vùng núi cao lạnh tại một vài tỉnh Trung Hoa như Tứ xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây. Nấm hiện đang được trồng thử ở Việt Nam, Nhật Bản nhưng kết quả không khả quan vì khí hậu không phù hợp như ở Trung Hoa. Theo các nhà khoa học Trung Hoa, nấm linh chi làm khí huyết lưu thông, làm tăng tính miễn dịch, bổ gan, diệt tế bào ung thư, chống dị ứng và chống viêm. Cũng ở Trung Hoa, nấm linh chi được dùng trong việc trị các bệnh đau thắt cơ tim, ổn định huyết áp, thấp khớp, hen suyễn, viêm gan, bệnh đường tiêu hóa cũng như tăng cường trí nhớ. Trong ăn uống, nấm linh chi thường được nấu canh với thịt. c-Nấm tai mèo (Auricularia polytricha). Còn được gọi là mộc nhĩ, nấm này thường mọc hoang trên cây cành gỗ mục của các cây sung, cây duối, cây sắn, trong rừng hay ở dưới đồng bằng. Nấm trông giống tai mèo, mặt ngoài mầu nâu sẫm, có lông nhỏ, mặt trong mầu nâu nhạt. Hiện nay nấm cũng được nuôi trồng Nấm tai mèo dùng để ăn như nấu canh miến gà, thái nhỏ trộn với trứng làm món mộc.. Theo giáo sư Đỗ Tất Lợi, Đông y dùng nấm để chữa bệnh kiết lỵ, táo bón, giải độc... Bác sĩ Dale Hammerschmidt, giáo sư y khoa Đại học Minnesota, cho rằng nấm tai mèo có tính chất chống lại sự đông máu, công hiệu như aspirin trong việc phòng ngừa bệnh tim và tai biến động mạch não. d-Nấm cúc (ascomycete ectomycorhizien , Truffe ) Bên Pháp và Ý, có loại nấm mọc dưới đất, trong đám rễ cây sồi, cây phỉ (hazel).. Nấm này rất thơm vì có chất pheromone giống như kích thích tố sinh dục trong nước miếng con heo. Nấm rất ngon, hương vị thơm, nhưng hiện nay rất hiếm nên đắt giá, vì nấm mọc tự nhiên nên bị săn lùng gần hết. Nhiều người đã thử trồng loại này nhưng chưa thành công. e-Nấm Đông Trùng Hạ Thảo.Có ở vùng Tây Nam Trung Hoa. Nấm ký sinh trên loại sâu giống như con bướm. Khi sâu chết thì nấm phát triển trên đất, mọc qua mình sâu. Nấm được đào lên, phơi khô để sử dụng. Nấm được dùng để trị bệnh thần kinh suy nhược, liệt dương, tăng cường sinh lực. g-Nấm Phục Linh.Nấm mọc ký sinh trên rễ cây thông, nặng có thể tới cả vài kg, có nhiều ở Trung Hoa. Nấm được dùng làm thuốc bổ, trị mất ngủ, di tinh. h-Nấm Vân Chi.Nấm thường mọc ký sinh trên thân cây sồi, liễu, mận, táo và có nhiều ở những vùng có khí hậu ôn đới tại Á châu, Bắc Mỹ. Nấm ít được phương Tây biết tới nhưng lại được Đông y sử dụng rất nhiều trong trị bệnh và tăng cường sức khỏe. Kết quả nhiều nghiên cứu tại Trung Hoa, Nhật Bản cho thấy nấm Vân Chi có khả năng chống ung thư, bao tử, ruột già, thực quản, tăng khả năng miễn dịch của cơ thể và chống oxy hóa. Nấm dạiTrong thiên nhiên có cả vài chục ngàn loại nấm dại khác nhau nhưng chỉ có hai ba trăm loại là ăn được. Đa số nấm độc thuộc hai nhóm nấm Amanita muscaria và A. phalloides. Nấm A muscaria có chất muscarine, một độc chất với hệ thần kinh phó giao cảm, khiến người ăn vào bị ói mửa, chẩy nước mắt, đổ mồ hôi, tiêu chẩy, đau bụng, chóng mặt , lên kinh phong, bất tỉnh nhân sự... đôi khi chết người. Chất độc phalloidine trong nấm A. phalloides làm gan hư và có đến khoảng 50% người trúng độc bị tử vong. Nhiều loại nấm dại ăn vào có thể nguy hại đến tính mạng, cho nên tốt nhất là không ăn bất cứ loại nấm nào mà ta không biết rõ. Nấm mọc hoang nhiều khi ăn lại ngon hơn nấm trồng nên nhiều người ưa thích nhưng có nhiều nguy cơ ăn phải nấm độc nên phải hết sức cẩn thận. Mua nấm và cất giữ nấmKhi mua nên chọn nấm còn tươi, lành lặn, hình dáng đầy đặn, bụ bẫm, thịt chắc, mũ nấm khép kín bao che những phiến mỏng dưới mũ. Khi hư hỏng, nấm đổi sang mầu đen sậm, mũ mở rộng để lộ lá mỏng, nấm khô hơn và mất bớt vị ngọt. Để dành lâu, nấm ăn giòn vì màng bọc nấm trở thành cứng. Nấm tươi cất giữ cẩn thận có thể ăn trong khoảng 4-5 ngày sau khi hái. Nấm cũng được sấy hoặc phơi khô để dành, quanh năm. Nấm khô cần được bọc kín để tránh ẩm, giữ nơi mát và không có ánh sáng vì sinh tố B2 bị ánh mặt trời phân hủy. Nấm khô bảo quản tốt có thể để dành được tới sáu tháng ăn vẫn ngon. Trước khi nấu, rửa qua cho sạch bụi đất rồi ngâm nấm khô trong nước nóng độ 15 phút. Đừng loại bỏ nước ngâm này vì nước có hương vị thơm như nấm. Nấm hộp có rất nhiều muối natri nhưng riboflavin còn nguyên vẹn. Nấm tươi nên được cất trong tủ lạnh, trong hộp thoáng khí, tránh hơi ẩm làm nấm mau hư. Không bao giờ giữ nấm trong túi nylon bịt kín vì hơi ẩm đọng lại làm nấm mau hư. Nấm trồng thường được xịt nhiều phân bón hóa học nên cần được rửa sạch trước khi ăn. Cách tốt hơn cả là dùng giấy mềm mà lau hoặc chải bằng loại bàn chải dành riêng cho nấm. Tránh rửa nấm trong nước quá lâu vì nấm hút rất nhiều nước. Vài điều cần lưu ý.Những người cai rượu thường được bác sĩ chỉ định dùng một loại dược phẩm là disulfiram (antabuse). Khi đang dùng chất này mà uống rượu vào thuốc sẽ tương tác với rượu gây ra những triệu chứng rất khó chịu như khó thở, nặng ngực, buồn ói, mặt nóng bừng, tim đập nhanh. Một vài loại nấm cũng có chất disulfiram này nên có khả năng gây ra các triệu chứng tương tự khi ăn nấm và uống rượu. Mặt khác, trong thời gian ba ngày trước khi tiến hành xét nghiệm phân để coi có máu không, phải tránh ăn nấm. Vì trong nấm có một hóa chất làm cho thử nghiệm này cho kết quả dương tính ngay cả khi phân không có máu! Bác sĩ Nguyễn Ý Đức M.D. Dallas-Texas
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 3:49:13 GMT 9
Nước uống từ thảo dược Nguyễn Lân Dũng Trên thế giới ngoài nước trà chế biến từ lá của cây Chè xanh (tên khoa học là Camellia sinensis, đôi khi được gọi là chè Assam với tên khoa học của một loài phụ là đôi Camellia sinensis assamica). Cây chè có nguồn gốc từ khu vực Đông Nam Á và những nước có chè nổi tiếng là Trung Quốc (bao gồm cả Đài Loan, Nhật Bản, Việt Nam, Sri Lanka...). Ngoài lá dùng để làm các loại nước uống (chè tươi, trà nóng, trà đá...) thì hạt còn được dùng để ép dầu. Nước ta hàng năm xuất khẩu trung bình tới khoảng 2000 tấn chè khô. Diện tích trồng chè là khoảng 125 000 ha và cho sản lượng khoảng trên 1 triệu tấn mỗi năm. Ngoài cây chè thông thường, một số vùng núi phía Bắc còn có Chè tuyết (hay chè San tuyết) lấy từ những cây chè cổ thụ lâu năm mọc trên núi cao (nhất là ở vùng Suối Giàng (Yên Bái). Thời Pháp thuộc, vào thập niên 1930 chè được đem trồng một cách quy mô trên cao nguyên vùng B’Lao và Dji Ring và vùng này sau chiếm địa vị là vựa chè của tỉnh Lâm Đồng. Khi hái chè người ta phân biệt loại 1 là Chè búp (chỉ chọn toàn búp non của cây chè), loại 2 là lá chè thứ hai, thứ ba. Còn chè lấy từ lá thứ tư, thứ năm được gọi là loại được dùng để chế biến Chè mạn. Chè xanh Chè Tuyết Suối Già Bản chất chè là một thảo dược. Các nghiên cứu ở nhiều nước trong lá chè Assam có chứa 22.2% polyphenol, 17.2% protein, 4.3% caffeine, 27.0% cellulose thô, 0.5% tinh bột, 3.5% đường khử, 6.5% pectin, 2.0% chất chiết xuất bằng ether và 5.6% tro (muối khoáng). Trong 100 g chè khô còn có chứa một nhiệt lượng khoảng 293 calo, 8.0 g nước, 24.5 g protein, 2.8 g lipidt, 58.8 g hydratcarbon, 8.7 g cellulose, 5.9 g tro, 327 mg Ca, 313 mg P, 24.3 mg Fe, 50 mg Na, 2700 UG đương lượng beta-carotene, 0.07 mg thiamine (B1), 0.8 mg riboflavin (B2), 7.6 mg niacin (B3), và 9 mg acid ascorbic (C) (theo Duke và Atchley, 1984). Lá chè còn có chứa acid malic và acid oxalic cùng với kaempferol, quercitrin, theophylline, theobromine, xanthine, hypoxanthine, adenine, gôm (gums), dextrins, và inositol. Thành phần dầu bay hơi chủ yếu (0.007-0.014% trọng lượng tươi của lá) chủ yếu là hexenal, hexenol, và các aldehyde bậc thấp, butyraldehyde, isobuteraldehyde, isovaleraldehyde, n-hexyl, benzyl và các phenylethyl alcohol, phenol, cresol, hexoic acid, n-octyl alcohol, geraniol, linalool, acetophenone, benzyl alcohol, citral. Một số thành phần trong lá chè có tác dụng chống oxy hóa như catechin, epigallocatechin, epigallocatechin gallate (Leung, 1980). Tác dụng dược liệu của chè được xác định từ lâu trong các y văn Trung Hoa. Chủ yếu là các tác dụng chống độc (antitoxic), lợi tiểu (diuretic), long đờm (expectorant), kích thích (stimulant) và kích hoạt dạ dày (stomachic) (theo Leung, 1980). Chè còn có tác dụng co (astringent), kích thích (stimulant) và tác động như chất làm dịu thần kinh (giảm đau đầu). Nó còn có tác dụng làm tiêu tan rối loạn thần kinh (digestive disturbances). Lá chè có tạc dụng dieetjn trực khuẩn lỵ và amib lỵ (amebic dysentery), chống viêm dạ dày-ruột (gastroenteritis) và viêm gan (hepatitis). Ngoài ra còn có hiệu ứng chống xơ vữa động mạch (antiatherosclerotic) và có hoạt tính của vitamin P (theo Leung, 1980).. Duke và Wain (1981) chứng minh chè được dân gian dùng để giảm đau (analgesic), giải độc (antidotal), chất làm se (astringent), trợ tim (cardiotonic), thông trung tiện (carminative), chống viêm (demulcent), trợ giúp tiêu hóa (digestive), lợi tiểu (diuretic), long đờm (expectorant), tăng tiết sữa (lactagogue), gây mê (narcotic), bổ thần kinh (nervine), thanh nhiệt (refrigerant), kích thích (stimulant), kích hoạt dạ dày (stomachic)... . Chè rõ ràng là một loại đồ uống tốt, vừa có tác dụng giải khát, vừa có tác dụng bồi dưỡng sức khỏe, tăng sức đề kháng với nhiều loại bệnh tật (kể cả bệnh ung thư). Gần đây trên thị trường xuất hiên Trà Dr. Thanh (loại có đường và loại không đường) được giới thiệu là chế tạo từ 9 loại thảo mộc cung đình và có tác dụng thanh lọc cơ thể. Tôi uống thử và thấy hương vị rất dễ chịu. Ngay cả loại không đường vẫn có vị ngọt của thảo mộc. Tìm hiểu về 9 loại thảo mộc cung đình tôi thấy toàn là những dược liệu quý, có tác dụng bồi bổ sức khỏe và giúp hạn chế một số bệnh tật. 1-Hạ khô thảo (chứa 1,8% trong trà Dr.Thanh): Đây là loại thảo dược có tên khoa học là Prunella vulgaris L., thuộc họ Hoa Môi (Lamiaceae). Cây vào mùa xuân thì tươi tốt, mùa hạ khô héo, cây sống dai, thân vuông màu hơi tím đỏ, lá mọc đối, hình trứng hay hình mác dài. Hạ khô thảo vị đắng, tính hàn, có thể đi vào can - đởm (hai tạng phủ có liên quan với nhau).Theo Đông y Hạ khô thảo có vị đắng, tính hàn, thanh hoả minh mục, tán kết tiêu thũng; có tác dụng lợi tiểu mát gan, sát trùng, tiêu độc, trị đau mắt hay chảy nước mắt, tràng nhạc (lao hạch), bướu cổ, áp xe vú, viêm tử cung và âm hộ, gan mật nhiệt, huyết áp cao; viêm thần kinh da, lở ngứa mụn nhọt, hắc lào, cước khí, vẩy nến, phù thũng, tiểu tiện ít không thông. Ở Pháp, người ta cho nó có các tính chất làm se, tiêu sưng, làm giảm đường huyết, dùng trong trị tiểu đường, dùng ngoài chữa mụn nhọt, đau thắt, viêm họng, viêm lưỡi, viêm miệng. Ở Trung Quốc, dân gian dùng trị đái buốt, lao hạch, đau mắt phong sưng đỏ; cũng trị được cao huyết áp, giữ mức hạ áp được lâu, giảm bớt bệnh buồn rầu. Hạ khô thảo chứa alcaloid tan trong nước, 3,5% muối vô cơ, tinh dầu. Trong các muối vô cơ có chủ yếu là clorua kali. Tinh dầu chứa d-camphor (khoảng 50%), fenchon, một lượng nhỏ rượu fenchylic. Chất đắng là prunellin (trong đó phần không đường là acid ursolic, ngoài ra còn có denphinidin cyanidin. Ở Pháp, người ta đã xác định trong cây có chất đắng, tanin, tinh dầu, chất béo, lipase, một glucosid tan trong nước (0,70g/kg cây khô) và một saponosid acid (1,10g). Hạ khô thảo còn có tác dụng chống sự tăng trưởng của tế bào ung thư di căn ( thử nghiệm trên ung thư cổ tử cung của chuột nhắt). 2-Hoa cúc (chứa 3,2% trong trà Dr.Thanh): Là hoa của cây Cúc, tên khoa học là Chrysanthemum indicum, thuộc họ Cúc (Asteraceae). Hoa có vị ngọt đắng, tính hơi hàn đi vào can thận, phế cho tác dụng tán phong giáng hỏa, thanh nhiệt, giúp cân bằng âm dương của can, giúp khí huyết lưu thông, giúp thư giãn, làm dịu căng thẳng thần kinh, giúp ngủ ngon, điều hoà kinh nguyệt, thúc đẩy hoạt động của hệ miễn dịch, giúp đào thải độc tố, làm giảm đau, chống viêm sưng, chữa mụn nhọt sưng đau, đau mắt đỏ, đau đầu chóng mặt, chữa cảm lạnh, cúm, viêm não nhẹ, viêm mũi, viêm da mủ, viêm vú, hoa mắt, huyết áp cao, viêm gan, kiết lỵ, chảy nước mắt nhiều. Dịch chiết xuất của Cúc hoa được xác nhận là có tác dụng chống vi khuẩn (antibacterial), chống nấm (antimycotic) và ức chế cả virus HIV-1 (theo Collins RA, Ng TB, Fong WP, Wan CC, Yeung HW,1997; Hu CQ, Chen K, Shi Q, Kilkuskie RE, Cheng YC, Lee KH, y 1994; Sassi AB, Harzallah-Skhiri F, Bourgougnon N, Aouni M, 2008; Marongiu B, Piras A, Porcedda S, et al.,2009). 3-Hoa sứ đỏ (còn gọi Hoa đại hay Đản hoa, chứa 1,5% trong trà Dr.Thanh): Hoa sứ đỏ có tên khoa học là Plumeria rubra (P. acutifolia, P. obtusifolia, thuộc họ Apocynaceae. Hoa có mùi thơm nhẹ, hay trồng ở các đền chùa. Theo Đông y hoa sứ đỏ đi vào kinh phế có tác dụng thông khí, dưỡng phế, vì vậy khi dùng hoa sứ đỏ để tắm sẽ làm da dẻ hồng hào, giúp lỗ chân lông đóng mở theo quy luật, ngăn cản khí độc vào lỗ chân lông gây bệnh. Khi uống, có tác dụng thông phế khí, tiêu đàm, thanh nhiệt, giải độc, hạ huyết áp. 4-Quả La hán (chứa 2,1% trong trà Dr.Thanh): Đây là quả chín của cây La Hán, tên khoa học là Momordica grosvenori Swingle, thuộc họ Cucurbitaceae. Theo Đông y thì La Hán quả có vị ngọt, tính mát, không độc, đi vào hai kinh phế và đại tràng. Có tác dụng thanh phế, hóa đàm, chỉ khát, lợi hầu, hóa đàm chỉ, nhuận tràng, thông tiện. Trong nhân dân thường dùng làm nước uống giải nhiệt, giúp cơ thể thư thái, chữa ho, thanh nhiệt, chữa tiện bí... La Hán quả có tỷ lệ đường cao gấp 300 lần so với mía, dễ hoà tan trong nước và dung dịch cồn, có tính ổn định tốt, không bị phân huỷ ở nhiệt độ 160 0C trong thời gian dài, không lên men. Glucosid ngọt từ quả La Hán có hiệu quả chữa bệnh, nâng cao chức năng hoạt động của dạ dày, giảm nóng, ẩm phổi, làm mất cảm giác khát, giảm đờm và chống virus. La Hán dùng rất tốt cho người mắc bệnh phổi họng, ho hen, huyết áp cao, tiểu đường… 5- Cam thảo (chứa 1,6% trong trà Dr.Thanh): Cam thảo hay Cam thảo Bắc là rễ của loài cây có hoa, tên khoa học là Glycyrrhiza uralensis, thuộc họ Đậu (Fabaceae). Cam thảo một vị được dùng trên 90% bài thuốc của Đông y. Cam thảo tính vị ngọt, bình, chủ yếu dùng vào bổ tì, thanh nhiệt, giải độc, hoãn cấp, nhuận phế và là vị thuốc dược tính điều hòa. Dùng cho người ốm đau lâu ngày, chân tay vô lực, hụt hơi, ít nói, ăn không ngon, tiêu hóa kém, đại tiện lỏng. Cam thảo kích thích chức năng bảo vệ của cơ thể giúp ngừa các dạng viêm loét rất hiệu quả. Theo một số nghiên cứu thì dùng cam thảo điều trị thành công bệnh viêm loét dạ dày với hiệu quả lên đến 91%. Cam thảo có tác dụng chữa viêm và chống dị ứng lại không gây tác dụng phụ có hại cho cơ thể .Cam thảo có tác dụng điều chỉnh cân nặng vì nó giúp duy trì mức độ acid trong dạ dày. Trong cam thảo có chất chống dị ứng nên điều trị các rối loạn về đường hô hấp rất hiệu quả. Cam thảo còn có vai trò giúp ngăn ngừa các bệnh sốt. Nhiều nghiên cứu cho biết có thể dùng Cam thảo trong điều trị các bệnh như bệnh Herpes, bệnh viêm gan mãn tính, xơ gan, thấp khớp, các triệu chứng của thời kỳ tiền kinh nguyệt và mãn kinh, làm giảm đường huyết, giúp nhuận tràng và lợi tiểu, chống các cơn co thắt... Khi kết hợp trong bài thuốc này:Hạ khô thảo là vị quân sẽ điều tiết gan mật, âm dương cân bằng. Cúc hoa đóng vai trò thần đi với hạ khô thảo, giúp bình can giáng hỏa, giảm đau đầu choáng váng. Hoa sứ đỏ giảm huyết áp giúp khí huyết lưu thông. Theo Đông y khí huyết lưu thông thì tâm và can hoạt động tốt, cơ thể thư thái. La hán quả vị ngọt, giúp kiện tỳ (một tạng có chức năng biến thức ăn thành khí và huyết để nuôi dưỡng cơ thể), làm tỳ mạnh lên cho tiêu hóa tốt. Cam thảo phải sao để giữ tính ôn giúp La hán quả “phát huy” bổ tỳ vị, và dẫn thuốc đi vào 12 kinh lạc. 6-Kim ngân hoa (chứa 1,4% trong trà Dr.Thanh): là hoa của cây Kim ngân là một cây thuốc được dùng trong phòng chữa ung thư của Đông y. Nó đang ngày càng được phát hiện thêm nhiều tác dụng quý, nên ngày càng được dùng nhiều hơn để đương nhiên trở thành cây thuốc quý của cả Đông, Tây y. Cây có tên là Kim ngân vì hoa có hai màu: Màu trắng vào buổi sáng và chuyển sang vàng buổi chiều. Tên khoa học là Lonicera japonica Thunb, thuộc họ Cơm cháy Caprifoliaceae. Theo Đông y: Kim ngân hoa tính mát lạnh, vị ngọt, hơi đắng, vào 4 kinh phế, tâm, tỳ, vị; không độc, có công năng thanh nhiệt, lợi thấp, giải độc, giải biểu, lợi tiểu. Nước sắc Kim ngân có tác dụng mạnh hơn các dạng bào chế khác; hoa tốt hơn cành lá (nếu dùng cành lá phải tăng liều lượng gấp 2 - 3 lần). Trong thành phần hoá học của Kim ngân hoa có nhiều Flavonoid. Hoa chứa Colymozid (Lonicerin), một số carotenoit (Scaroten), Cryptoxantin, Auroxantin; lá chứa Loganin, có tác dụng kháng khuẩn, tăng cường chuyển hoá chất béo. 7- Hoa Mộc miên hay Hoa gạo, Hoa Hồng miên (chứa 0,7% trong trà Dr.Thanh). Cây gạo có tên khoa học là Bombax ceiba, thuộc họ Gạo (Bombacaceae). Đây là loài có nguồn gốc ở Ấn Độ nhưng hiện nay đã được trồng rộng rãi ở các bang của Malaysia, Indonesia, miền nam Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan và Việt Nam. Đông y cho rằng, hoa mộc miên có vị đắng chát, hơi ngọt, tính bình, tác dụng làm se, tiêu viêm, sát khuẩn, thông huyết nên đã trở thành dược liệu sử dụng nhiều trong trị liệu. Thường được dùng để chữa đau bụng tiêu chảy, kiết lị vi khuẩn, viêm dạ dầy và viêm ruột, chảy máu dạ dày, nôn ra máu, đại tiện ra máu, chữa bỏng, chữa ứ huyết sưng đau, chữa mụn nhọt sưng tấy đau nhức, chữa thiếu máu nhược sắc do rong kinh, mất máu, phù thũng sau khi sinh, chữa sốt nóng ở trẻ em, chữa viêm khớp, tê đau do phong thấp, đau thắt lưng và đùi, chữa ít sữa, chữa suy nhược cơ thể, thần kinh yếu choáng do thiếu máu ... 8- Bung Lai, còn gọi là Chua kè, Cò kè, Mé (chứa 0,7% trong trà Dr.Thanh). Tên khoa học của cây Bung Lai là Microcos panicutula L., thuộc họ Đay (Tiliaceae). Lá có vị nhạt, hơi chua, tính bình; có tác dụng thanh thử, tiêu thực, thu liễm chỉ tả, hoá đàm. Thường được dùng để trị cảm lạnh, đau đầu; tiêu hoá kém, trướng bụng, ỉa chảy; viêm gan. Ở Trung Quốc, người ta còn dùng để chữa cổ trướng, sưng thũng vàng da, tiêu nhiệt độc, giải độc rắn cắn, pha làm nước uống trừ tích thực. Dân gian vẫn dùng quả để ăn,lá đem hơ sấy trên than dùng sắc lấy nước cho trẻ em uống trị giun. Ở Ấn Độ, cũng được sử dụng làm thuốc trị tiêu hoá kém, sốt, thương hàn, lỵ và loét ở môi, chữa bệnh phó đậu, eczema và ghẻ ngứa... Bung Lai, còn gọi là Chua kè, Cò kè, Mé (chứa 0,7% trong trà Dr.Thanh). Tên khoa học của cây Bung Lai là Microcos panicutula L., thuộc họ Đay (Tiliaceae). Lá có vị nhạt, hơi chua, tính bình; có tác dụng thanh thử, tiêu thực, thu liễm chỉ tả, hoá đàm. Thường được dùng để trị cảm lạnh, đau đầu; tiêu hoá kém, trướng bụng, ỉa chảy; viêm gan. Ở Trung Quốc, người ta còn dùng để chữa cổ trướng, sưng thũng vàng da, tiêu nhiệt độc, giải độc rắn cắn, pha làm nước uống trừ tích thực. Dân gian vẫn dùng quả để ăn,lá đem hơ sấy trên than dùng sắc lấy nước cho trẻ em uống trị giun. Ở Ấn Độ, cũng được sử dụng làm thuốc trị tiêu hoá kém, sốt, thương hàn, lỵ và loét ở môi, chữa bệnh phó đậu, eczema và ghẻ ngứa... 9-Tiên thảo, còn gọi là Thạch đen, Sương sáo,Thủy cẩm Trung Quốc (chứa 0,7% trong trà Dr.Thanh) . Loài này có tên khoa học là Mesona chinensis Benth.) thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae hay Labiatae). Tiên thảo được cho là có vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải thử, giúp hạ huyết áp, trị cảm mạo, đau khớp. Nhân dân thường khai thác để chế biến thành loại Thạch đen dùng làm nước giải khát. Như vậy Trà Dr. Thanh đã biết khai thác các loại thảo dược cung đình được nhân dân ta vẫn thường dùng theo Đông y để chữa bệnh này, bệnh khác. Hướng khai thác này theo tôi là cần được khuyến khích và cần được nghiên cứu sâu hơn. John Stith Pemberton(08/01/1831 - 16/08/1888), cha đẻ Coca Cola Ở nước ngoài các loại nước giải khát nổi tiếng như Coca Cola, Pepsi Cola cũng được khai thác từ các thảo mộc. Coca Cola được sử dụng hai nguyên liệu là lá cây Coca và quả của cây Cola. Nhãn hiệu Coca Cola được đăng ký năm 1893 tại Mỹ và cha đẻ của Coca Cola là một dược sĩ. Cây Coca có tên khoa học là Erythroxylum coca, thuộc họ Coca (Erythroxylaceae). Lá Coca có chứa loại alkaloid là Cocaine (từ 0,3 đến 1,5%), ngoài ra còn có các alkaloid khác nhu methylecgonine cinnamate, benzoylecgonine, truxilline, hydroxytropacocaine, tropacocaine, ecgonine, cuscohygrine, dihydrocuscohygrine, nicotine và hygrine. Nguồn gốc ở Nam Mỹ, chủ yếu ở Bolivia, Peru, trên các vùng cao, lá lớn, to và dài. Cây coca được nhập vào nước ta cách đây 50 năm, trồng làm cảnh ở các vườn hoa chính của TP Hồ Chí Minh vì màu lá rất xanh, hoa màu trắng, quả màu đỏ, lại là thứ coca cảnh Erythroxylon coca var. novogratene. Lá coca dễ nhận vì có hai nếp gấp của lá trong chồi (gân giả). Nguồn gốc cây này ở Nam Mỹ, chủ yếu là ở Bolivia, Peru, trên các vùng cao, lá lớn, to và dài. Từ xa xưa, người dân Nam Mỹ đã dùng lá coca để nhai với vôi hay tro đốt như người Việt Nam dùng lá trầu để nhai trầu thì sẽ cảm thấy không đói. Cây Coca Hạt Cola được lấy từ loài cây Cola acuminata (họ Bông-Malvaceae). Chưa rõ lắm về các hoạt chất chứa trong hạt Cola. Hạt Cola có tính chất kích thích, nên được sử dụng cả trong nước giải khát Coca-Cola lẫn trong Pepsi. Hoạt chất kích thích này tương tự như Xanthine có chứa trong chocolate, tea, coffee, guarana và yerba mate. Hoạt tính kích thích tác động lên hệ thần kinh trung ương. Thành phần hóa học của hạt Cola gồm có caffeine (2- 3.5 %), theobromine (1.0-2.5%), theophylline, catechin, epicatechin, D-catechin, phenolic, phlobaphen, betaine, protein, tinh bột, lipid. các vitamin B1, B2, C, niacin, đường, gôm (gum), cellulose... Tất nhiên công thức chế biến các loại nước giải khát Coca-Cola và Pepsi đều được bảo mật ở mức cao nhất. Quả và hạt Cola
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 3:53:09 GMT 9
Dứa và dưa ăn nhiều không tốt Tuấn Thảo RFI Vào mùa hè, các tạp chí thời trang đều cho đăng hàng loạt bài viết về những bí quyết giảm cân, về cách ăn uống để giữ cho thân hình thon thả, mặc đồ tắm làm sao cho thật mát mắt. Để giảm số đo vòng eo, các tờ báo đều khuyên ăn nhiều loại rau quả. Theo tạp chí khoa học đời sống Science & Vie, điều đó chỉ đúng có một phần vì một số trái cây khi ăn quá nhiều lại có nguy cơ phản tác dụng. Nhìn chung, quả thật là các loại rau quả đều chứa nhiều nước và chất xơ, dễ cho bạn cái cảm giác no nhanh và ít thèm ăn hơn. Các loại trái cây mùa hè lại có nhiều màu sắc và hương vị hấp dẫn, rất dễ ăn và không cần chế biến nên có thể ăn vào bất cứ lúc nào cũng được. Theo tờ báo, thì trong số loại rau quả được tiêu thụ nhiều nhất có cà chua, cần tây, cà rốt, dưa chuột, mướp xanh, cà tím, ớt tây, bông cải, giá đỗ… Còn các loại trái cây, thì có dâu tây, nho táo, dưa hấu, dưa gan, đào mơ, chuối bưởi, trái lựu, chanh dây, mận tây, kiwi, trái dứa…Ngoại trừ quả chuối, hầu hết các loại trái cây khác đều chứa nhiều nước và ít calorie. Mỗi loại quả đều có tác dụng riêng của nó : chẳng hạn như vỏ nho có tác dụng chống lão hóa, ăn cam bưởi dễ giúp tiêu hóa, giảm mệt mỏi và giúp cho cơ thể dễ tiếp thu các chất dinh dưỡng, ăn mận tây và kiwi thì lợi tiểu nhuận trường, đào mơ thì tốt cho làn da, khi ra nắng nước da vừa bớt khô, vừa đẹp màu. Trái táo thì chứa nhiều chất tự nhiên chống khuẩn, tăng nhanh quá trình tiêu độc và giảm sự hấp thụ nhiệt, giảm hiện tượng phù chân, nơi những người đi đứng nhiều. Trên nhiều điểm, trái dứa do có nhiều vitamine nhưng lại ít calorie nên khá hiệu quả trong việc giúp giảm cân. Nhưng quả dứa nổi tiếng là một loại trái cây rất “sắc”, ăn nhiều không tốt cho bao tử, vào tránh ăn ngoài giờ bữa cơm. Theo Science & Vie, điều đó cũng vì trái dứa hàm chứa một loại enzyme tức là men phân giải protein rất mạnh, giúp cho cơ thể tiêu hóa chất đạm, nhiều hơn là tiêu mỡ. Tuy dứa có nhiều tác dụng, nhưng ăn dứa trước bữa cơm lại dễ bị rát lưỡi, và đôi khi dẫn đến dị ứng cấp tốc. Theo các nhà nghiên cứu, để tránh bị ngứa ngáy, nổi mề đay, nổi nhọt trên lưỡi, thì sau khi gọt vỏ, nên cắt dứa thành từng miếng rồi ngâm trong nước muối lạt khoảng chừng 10 phút. Loại enzyme của trái dứa sẽ bị nước muối hóa giải. Cách ngâm này cũng sẽ giúp người ăn không bị rát lưỡi và nước muối làm cho vị dứa thơm và ngọt hơn. Ngoài ra, để vô hiệu hóa tác dụng của dứa, thì chỉ cần xào nấu trái này với hải sản như tôm mực, tác dụng của nhiệt độ sẽ vô hiệu hóa khả năng gây dị ứng của dứa, đối với người ăn. Riêng về dưa hấu, tuy được xem là một món giải khát lý tưởng trong những ngày hè oi bức, nhưng cũng như đa số các loại dưa, loại trái cây này có tính hàn rất cao nên ăn quá nhiều sẽ làm cho cơ thể khó chịu, người đang yếu dễ bị trúng gió, dưa hấu cũng làm cho tiêu hóa kém đi, giảm sức đề kháng của đường ruột, gây chứng chướng bụng hay tiêu chảy. Mùa hè càng nóng, thì ta càng thích ăn dưa hấu lạnh, nhưng điều đó lại càng không tốt cho bao tử vì dưa hấu thường dễ làm loãng dịch tiêu hóa trong dạ dày. Chẵng những thế, dưa hấu cũng không tốt cho những ai bị chứng suy thận, tay chân bị sưng phù hay mắc bệnh viêm, loét miệng. Theo tờ báo thì những chất tự nhiên có sẵn trong trái cây, dùng quá nhiều thì dễ phản tác dụng chẳng hạn như uống trà xanh thì chống lão hóa, nhưng uống quá nhiều thì xương lại không hấp thụ được chất calcium. Suy cho cùng, tốt hay xấu là còn tùy theo liều lượng **************
Trái thơm huyền diệu Võ Thị Diệu Hằng
Trái thơm vị chua, ngọt, ngoài việc dùng để ăn tráng miệng, làm nước uống, làm bánh, người ta còn dùng để trị bệnh Tên thông thường: Pineapple, Ananas, Nanas, Pina. Tên khoa học: Ananas comosus, họ Bromeliaceae Cùng giống: Ananas ananassoides , Ananas bracteatus... I/ Nguồn gốc: Nguồn gốc từ Brazil và Paraguay, được người da đỏ trồng , lan rộng từ Trung và Nam Mỹ đến miền Tây trước khi Christopher Columbus tìm thấy trái thơm trên hòn đảo Guadaloupe (1493) rồi đưa về Tây Ban Nha. Sau đó người Tây Ban Nha mang trái thơm theo tàu, để thủy thủ khỏi bị bịnh Scorbut, thành ra trái thơm được phổ biến khắp thế giới. Họ nhập trái thơm vô Phi Luật Tân và có thể qua tới Hawaii và Guam những thập niên đầu thế kỷ thứ 16 . Trái thơm được nhập qua nước Anh năm 1660 và được trồng trong nhà kiếng khoảng năm 1720. Vào năm 1800 người ta bắt đầu trồng và bán ở Açores, Australie, ở Hawaii và Nam Phi châu. Thái Lan và Phi luật Tân hiện nay là những nước sản xuất thơm quan trọng nhất. Ngày nay thơm được trồng trong hầu hết các nước vùng nhiệt đới, không những tại Nam Mỹ, Trung Mỹ, Caraibes mà còn ở Úc, các đảo của Thái Bình Dương và nhiều nước châu Á và Châu Phi Người Pháp gọi là "ananas" từ chữ "nana nana" của người da đỏ và thổ dân Paraguay, có nghĩa là "thơm", . Người Tây Ban Nha đặt tên là piña vì nó giống trái thông. Người Anh lấy ý nghĩa này và đặt tên trái này là pineapple. Thơm là trái cây nhiệt đới, thích hợp với môi trường ẩm thấp, nhưng có thể chịu đựng tới nhiệt độ 28°F (-2°C), nhưng ở nhiệt độ lạnh, cây lớn chậm và trái chua Hoa thơm Hoa hơm rụng đi, thành mắt thơm II/ Thành phần Trái thơm chứa nhiều enzyme: pectase, invertase, peroxydase, desmolases và nhất là broméline, enzyme đặc biệt nhất của trái thơm. Chất này có trong trái thơm, cộng thơm và lá thơm. Sở dĩ nó làm mềm thịt là nhờ nó có khả năng chia cắt các protéine ra làm những phân tử đơn giản hơn tức là nhỏ hơn (cũng như thể nó "tiêu hóa" giùm ta phần đầu) Thành phần trung bình cho 100 g thơm Thành phần (g) Glucide 11.6 Protide 0.50 Lipide 0.20 Acide hữu cơ 0.90 Nước 84.8 Chất xơ 1.40 Khoáng chất (mg) Potassium (K) 146.0 Phosphore (P) 11.00 Calcium (Ca) 15.00 Magnésium (Mg) 5.000 Lưu huỳnh (S) 3.000 Sodium (Na) 2.000 Sắt (Fe) 0.300 Đồng (Cu) 0.080 Kẽm (Zn) 0.090 Manganèse (Mn) 0.400 Fluor (F) 0.010 Iode (I) 0.010 Vitamin (mg) Vitamin C (ac. ascorbique) 18.00 Provitamin A (carotène) 0.060 Vitamin B1 (thiamine) 0.080 Vitamin B2 (riboflavine) 0.030 Vitamin B3 ou PP (nicotinamide) 0.300 Vitamin B5 (ac. panothénique) 0.160 Vitamin B6 (pyridoxine) 0.090 Vitamin B9 (ac. folique) 0.014 Vitamin E (tocophérols) 0.100 So sánh khả năng thủy giải: Enzyme Khả năng thủy giải tương đương Pancréatine 100 mg Trypsine 24 mg Chymotrypsine 1 mg Bromélaïne 45 mg Papaïne 60 mg III/ Công dụng của broméline Broméline hiện diện trong thân, lá, cuống thơm nhiều hơn trong thịt trái thơm. Người ta ly trích chất broméline từ vỏ trái thơm, cuống thơm, cọng thơm... , còn thịt trái thơm dùng để ăn. Ngoài việc phân cắt protéine, (các bạn đừng sợ, vì dạ dày có chất nhờn che chở), ngày nay broméline được trích ra để điều chế thuốc tây, để trị nhiều chứng bịnh. Có hai cách trị liệu: - Uống: làm giảm đau khớp, làm cho dễ tiêu hóa, tham dự vào việc giải tỏa sự bế tắt đường hô hấp, chữa bịnh viêm xoang, bịnh viêm tĩnh mạch, bớt sự trở lại chứng nhồi máu và những cơn viêm họng, giúp cho một số thuốc hấp thụ được, hỗ trợ cho việc trị các khối ung thư - Xức bên ngoài: giúp mau lành sẹo các vết thương dưới da: broméline dùng để làm lành vết thương và thành sẹo nhanh chóng sau khi giải phẫu hay bị thương vì thể thao. IV/ Những nghiên cứu lâm sàng: 1) Chữa trị chấn thương Dùng broméline để chữa bệnh sưng phù sau khi bị chấn thương. Dùng với liều lượng cao, sẽ làm giảm đau, sưng phù. Năm 1960 một nghiên cứu trên 146 võ sĩ quyền anh đau vì bị đụng giập và bọc máu thì 78% được chữa trị với broméline thì sau 3-4 ngày là hết ,trong lúc không dùng broméline thì chỉ 14% người lành. Số còn lại thì những người uống broméline hoàn toàn lành hẳn sau 8 ngày so với 14 ngày cho những người không dùng broméline. 2) Chữa thấp khớp: Hôm tháng 2 vừa qua, những nhà khoa học đã thử nghiệm một tổng hợp mới và hy vọng rằng chất broméline có thể làm giàm đau nhức các chứng thấp khớp (Arthrose) nơi đầu gối hay bả vai a) Đau nhức xương đầu gối Các nhà khoa học phân tích kết quả của 10 cuộc nghiên cứu trên tác dụng của chất broméline trên chứng đau khớp đầu gối, với lượng hàng ngày là 60 mg tơi 1890 mg. Một trong số 10 nghiên cứu đó mang lại kết quả là broméline làm giảm sưng cho 18 bệnh nhân trong số 29 người đau chứng thấp khớp. Một nghiên cứu khác để mở ngõ cho mọi người tham gia, dùng broméline 200 mg, hay 400 mg mỗi ngày và họ cảm thấy rằng sự cử động các khớp xương dễ dàng hơn và đồng thời giảm bớt sự cứng ngắc. b) Đau nhức bả vai: Có hai nghiên cứu lâm sàng trên thấp khớp nơi bả vai là cho bệnh nhân dùng liều lượng 540 mg broméline mỗi ngày thì hình như có hiệu quá gấn như chất diclofénec V / Ăn trái thơm có làm giảm cân không ? Người ta quảng cáo rằng ăn thơm làm giảm cân vì chất broméline là một "enzyme tiêu mỡ" . Nhưng thực tế thì những cây họ broméliacée có chứa enzyme broméline hầu hết ở trong thân cây, trong cuống, lõi thơm nhưng có ít trong thịt trái thơm. Broméline là một protéase nên chỉ tác dụng trên các protéine. Công dụng của broméline không đáng kể so với các enzyme do cơ thể chúng ta tạo ra. Bởi vậy ăn thơm hay uống các viên thuốc broméline trích từ cây thơm, đều không có tác dụng làm giảm cân.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 3:56:02 GMT 9
Nước và cơ thể - Một mối quan hệ kỳ diệu Hồng Lê Thọ TRAO ĐỔI VỚI TIẾN SĨ YUI TAKAO, BÁC SĨ PHÓ VIÊN TRƯỞNG BỆNH VIỆN TRUNG ƯƠNG TOKYO - CHUYÊN GIA VỀ TIẾT NIỆU HỌC: NƯỚC TRONG CƠ THỂ CON NGƯỜI NƯỚC CẦN CHO CƠ THỂ: CÂN ĐỐI VỚI LƯỢNG MUỐI HẤP THỤ HLT - Nói chung nước là một chất chuyển tải nhiều sinh chất trong cơ thể con người và còn là nguồn năng lượng phân tán sự chuyển tải để tạo ra sự sống cho cơ thể cho nên thông thường ai cũng nghĩ là cứ uống nước thật nhiều là tốt nhưng cũng có nhiều bác sĩ bảo rằng nếu uống nước nhiều sẽ làm cho tim bị mệt, khuyên không nên quá lượng v.v...nhân được gặp bác sĩ là một nhà chuyên môn về tiết niệu học, xin bác sĩ vui lòng cho biết nước có một vai trò như thế nào, và uống nhiều hay ít có ảnh hưởng ra sao đối với cơ thể con người. YUI TAKAO - Trước hết, nói một cách tổng quát là khi chúng ta ăn đồ mặn nếu không uống nước thì chúng ta sẽ cảm thấy khát ở cổ. Điều đó có nghĩa là chất muối có trong thức ăn được hấp thụ làm cho nồng độ Natri (Na+) tăng cao thì não trạng sẽ nhận được “tín hiệu”, bảo rằng không thể duy trì tình trạng này cần phải được làm “loãng” trở lại theo trạng thái bình thường (cân đối), ra “chỉ thị” phải nạp thêm nước vào cơ thể. Chính vì vậy mà chúng ta cần phải uống thêm nước. Mặc dù nước là một chất rất quan trọng trong thành phần cấu tạo ra máu nhưng cần phải được cân đối và luôn ở trong trạng thái ổn định. Bệnh viện chúng tôi có rất nhiều bệnh nhân, đau thận có, đau tim có và họ có uống bao nhiêu nước đi nữa thì sẽ bài tiết ra khỏi cơ thể một cách tự nhiên. Nước chẳng làm cho cơ thể khó chịu nhưng nếu trong nước có muối thì muối sẽ tan trong nước và lúc ấy áp suất thẩm thấu sẽ tăng lên. Thí dụ như nếu chúng ta thoa muối trên kẹo thì viên kẹo sẽ bị khô lại hay để một ít muối trên bàn thì ít lâu sau muối sẽ chảy nhờn nhớt. Có nghĩa là muối hấp thụ (hút) nước trong chất đường hay trong không khí. Điều đó cho thấy bản thân nước có một sức hút, hút nước của nơi khác về phía mình. Người Nhật mỗi ngày hấp thụ bình quân khoảng 15 gr muối thì khi vào bệnh viện chúng tôi hạn chế cho bệnh nhân ở mức 7-8 gr khi họ uống nước thì cơ thể cũng chỉ yêu cầu một lượng nước tương ứng và tất nhiên sự bài tiết cũng sẽ xảy ra theo hoạt động của cơ thể. Ngược lại thí dụ trong đời sống bình thường khi chúng ta ăn nhiều muối, cơ thể của chúng ta sẽ đòi hỏi một lượng nước cao hơn và trong trường hợp đó nước không ở lại mà sẽ tuần tự được đôi thận lọc lại, bài tiết ra ngoài theo đường nước tiểu. Phải lưu ý là nếu tim mạch đóng mở không đều hay bộ phận lọc trong thận suy yếu hoặc người mang cả hai chứng bệnh ấy trên cơ thể thì vấn đề lại khác đi vì khi lượng muối vào nước, đòi hỏi lượng nước cần thiết tương ứng thì phần dư sẽ ở lại trong cơ thể (không thoát ra được), cho nên cần phải tính toán lượng muối cần thiết cho cơ thể của bệnh nhân. Trong những trường hợp như vậy, vấn đề không hoàn toàn đơn giản mà phải tính đến trọng lượng của cơ thể, xem họ cần bao nhiêu lượng nước, trẻ em có 60- 70%, người lớn khoảng 50- 60% trọng lượng là nước, từ đó cân đối lượng nước và muối cần hấp thụ. Mặt khác đối với người già thì còn phải xem họ còn có chứng bệnh vào khác, rà soát lại cách ăn uống của họ và định lượng muối, nước cho phù hợp. Nói khái quát là người ta thường có khuynh hướng xem nước và muối là hai vấn đề riêng lẽ nhưng thực tế thì không phải như vậy. Không phải chỉ có uống nước là được hay chỉ hạn chế lượng muối trong thức ăn là xong hoặc phải uống nước ít đi... nếu tách rời quan hệ hỗ tương giữa nước và muối thì vấn đề sẽ trở thành phức tạp cho nên cần phải có quan niệm đúng đắn là “hạn chế nước uống nhằm để hạn chế lượng muối hấp thụ” trong cơ thể. HLT - Nếu như vậy thì cách uống tốt là chọn loại nước không có hàm lượng muối hay mặn hơn nước bình thường ? YUI TAKAO - Đấy là một điều rất khó. Trong trạng thái bình thường. thân thể không phải hoạt động vất vả, tức là điều kiện sinh hoạt tương đối tiện nghi; ít đổ mồ hôi thì lượng muối hấp thụ khoảng 12 mg /ngày từ các loại thực phẩm như thế lượng nước cần thiết phải uống là uống bình thường mỗi khi cảm thấy khát, nếu là người không có bệnh tật (sức khỏe tốt) nhưng nếu chúng ta hoạt động liên tục hay ở trong ngày thời tiết nóng nực thì tất nhiên muối trong cơ thể cũng sẽ thoát ra ngoài theo mồ hôi, và nếu không uống nước bổ sung kịp thời sẽ rơi vào tình trạng mất nước (mệt lả), không thể tiếp tục vận động được nữa. Trong trường hợp nầy, phải bổ sung cái gì đó cho cơ thể. Nước lạnh, nước trái cây, muối hay các loại nước giải khát có ion ? Nếu nghiên cứu loại nào tương hợp nhất thì có thể nói rằng khi cơ thể vận động thì hàm lượng nước trong máu sẽ bị giảm, cần phải cân đối lại ngay phần thiếu hụt này, có nghĩa là cơ thể đang cần có một lượng nước dễ hấp thụ nhất, cho nên các loại nước giải khát có ion có thể chấp nhận được vì loại nước này sẽ đem lại phần muối và calori mà cơ thể đang cần. Trong khi đang khát hay mỏi mệt nếu chúng ta uống một lít nước, một lít nước cam hay một lít nước giải khát có ion thì rõ ràng nước ion sẽ làm cho chúng ta cảm thấy khoan khoái, dịu hẳn hơn so với các loại nước khác. Nếu chúng ta uống nước lã đầy bụng sẽ có cảm giác ách tức hay có khi buồn nôn vì cơ thể không hấp thụ kịp, hay nói khác đi là cơ thể đang ở trạng thái khó hấp thụ. Nước giải khát có ion phù hợp với trạng thái mà cơ thể đang cần nước một cách gấp rút như khi chúng ta đổ mồ hôi, bị mất nước hay sau khi bị ói mữa. Lúc nầy trong ruột bị mất muối do người đang mệt, thiếu nước uống, vì thế nước giải khát có ion mát lạnh sẽ làm cho họ “tỉnh” lại ngay. Tóm lại phải xem xét xem trạng thái của cơ thể mà chọn lựa loại nước cần thiết để bổ sung. HLT- Như vậy cách uống “nước” đúng đắn là phải có hiểu biết và chọn lựa đúng cái mà cơ thể cần. Nhất là đối với các cháu thiếu nhi thì càng phải chọn loại thích hợp cho các cháu phải không ạ ? YUI TAKAO - Đúng vậy, tuy nhiên đây cũng là một việc khó đấy vì hầu hết các cháu bé đều ưa thích của ngọt. Đời sống ở Nhật Bản ngày càng Mỹ hóa, đâu đâu cũng có các cửa hàng bán nước ngọt (trái cây tổng hợp) và khoai tây chiên (potato chips), các cháu rất ưa thích vừa ăn vừa uống và thói quen này lập đi lập lại sớm gây ra bệnh phù hay các loại bệnh của người lớn nhưng rất tiếc là lối sống và cách ăn uống này đang được giới trẻ ưa chuộng. Lối ăn uống đó sẽ làm cho răng chóng hỏng ngoài phần bệnh tật đã nói. Một bữa ăn cân đối, thức uống không pha đường vẫn là cách tốt nhất. HLT - Rõ là như vậy rồi... Nhưng thực tế là có nhiều cháu uống nước ao hồ trong khi ra các vườn tược chơi, thì liệu có vấn đề gì không ? YUI TAKAO - Thực ra thì trong ao hồ có những thành phần gì, sẽ ảnh hưởng đến cơ thể như thế nào thì tôi cũng chưa rõ, nhưng rõ ràng là những chất trầm tích trong ao hồ và lơ lửng trong nước hoàn toàn không có gì là tốt cả... có khi là nguồn gây bệnh đường ruột, tiêu chảy. Nói một cách chung là nước uống thiên nhiên vẫn tốt nhưng đó phải là nguồn nước sạch, không nhiễm khuẩn vi sinh hay các tạp chất. Nước ao hồ trên thực tế rất bẩn, với mắt thường cũng có thể thấy được cho nên việc uống nước bừa bãi sẽ gây bệnh cho những cơ thể có sức đề kháng yếu kém, nhất là ký sinh trùng trong nước. NƯỚC VÀ SỰ KỲ DIỆU CỦA CƠ THỂ. HLT - Nước sông Edogawa ở Tokyo rất nhiều rong rêu và có mùi hôi rất ghê. Đúng là một sông đang nhiễm bẩn rất nghiêm trọng nhưng trên thực tế nhà máy nước thành phố lại lấy nước sông ở đấy để làm nguồn nước uống. Vậy nước ở các sông bị nhiễm bẩn như vậy phải được đánh giá như thế nào và xử lý chlor còn tồn đọng trong nước vào cơ thể ra sao ? YUI TAKAO - Tất nhiên trong nước uống từ nhà máy nước sau khi đã xử lý vẫn còn những hóa chất diệt trùng, và phần lớn là chất chlor. Trong cơ thể của chúng ta cũng có chlor nhưng mỗi khi cơ thể hấp thụ nhiều chlor thì thận sẽ tung ra ion CO2 để kết hợp và bão hòa lượng chlor thừa này, cân bằng lại cho cơ thể không bị nhễm độc và trở lại bình thường. Cơ thể chúng ta phản ứng tự nhiên, mỗi khi có một ion lạ hay thừa xuất hiện thì có ion khác tược tung ra phản ứng để đối phó và bảo vệ rất kỳ diệu. Tương tự như vậy, hơi đi xa hơn một tí thì người ở vùng đông bắc Nhật Bản do ăn muối nhiều nên có nhiều bệnh nhân bị huyết áp cao, và là nơi có số người bị chết vì đứt mạch máu não khá nhiều nhưng ở tỉnh Aomori thuộc vùng nầy là nơi có táo là đặc sản thì lại không bị như thế. Trong táo có nhiều kalium cũng là một loại muối chống lại natrium và thường trao đổi với natrium trong thận nghĩa là thận sẽ thay natrium bằng kalium và đẩy chất natrium ra ngoài. Đây là một bản năng bảo vệ tự nhiên của cơ thể. Kalium có rất nhiều trong rau quả, đặc biệt ở vùng đông bắc Nhật Bản táo rất trù phú nên mỗi ngày chỉ cần ăn một vài quả táo là hạ được huyết áp, không cần đến thuốc hạ áp. Điều này đã được nghiên cứu phát hiện từ lâu, tôi không nhớ rõ lắm, nhưng nếu một ngày ăn 10 quả táo thì chắc chắn huyết áp sẽ hạ một cách tự nhiên. Tóm lại với sự phát triển của khoa học ngày nay người ta có thể tính được hàm lượng kalium trong quả táo và cơ thể sẽ hấp thụ được mấy phần trăm để thay thế cho natrium và làm hạ huyết áp theo mức độ nào nhưng cứ yên chí là sáng, chiều, tối mỗi lần ăn 3 -4 quả táo thì huyết áp chắc chắn sẽ hạ. Cơ thể con người khi gặp vật lạ thì sẽ có cách chống đỡ một cách tự nhiên như là khi ăn muối nhiều tất nhiên sẽ khát nước và cơ thể luôn tìm cách để ổn định, điều hòa bằng những hoạt động “phòng chống” theo bản năng. Trở lại vấn đề chlor còn trong nước thì gần đây đã có nhiều báo cáo lên tiếng về nguy cơ gây bệnh ung thư vì chất dẫn xuất từ chlor trong nước rất độc hại. HLT - Ở Nhật Bản, Bộ Y tế và Vệ sinh Công cộng thường thống kê tỷ lệ tử vong theo từng vùng, nơi nào ít nơi nào nhiều và người ta cũng biết chất lượng của nước từng vùng cũng khác nhau nhưng chưa bao giờ cho biết các hiện tượng tử vong do nước sinh ra ? Theo từng khu vực khác nhau như thế nào ? YUI TAKAO - Tôi cũng chưa hề thấy và đọc loại tài liệu này bao giờ. Vì nước uống ở Nhật đã được tiêu chuẩn hóa, nguồn nước máy uống được đã phổ cập gần 100% và chính sách phòng bệnh từ nguồn nước của Nhật Bản là ngăn chận tuyệt đối nạn bệnh truyền nhiễm trong nước uuống đã hình thành từ lâu. HLT - Đúng vậy. Có chăng là đề cập đến mùi vị nhiều hơn là về bệnh lý học của nước, chưa có thống kê cụ thể về mối quan hệ giữa sự khác nhau về chất lượng của nước và bệnh liên quan có giá trị tổng kết. YUI TAKAO - Có thể các nhà chuyên môn về các loại nước khoáng, hay nước ion sẽ cho chúng ta nhiều kết quả nghiên cứu về bệnh lý học từ sự khác nhau chất lượng nước gây ra nhưng rất tiếc là tôi không rõ lắm vì đây không phải thuộc diện chuyên môn của tôi. HLT - Tôi đã được đọc bản đồ phân bố nước trên đất Nhật. Thí dụ như calcium (CaCO3) thì vùng nước ở Hiroshima thấp nhất khoảng 8mg/l và vùng có hàm lượng cao nhất là 50-60 mg/l ở vùng núi Nagoya, hay Maebashi, giữa hai con số 8 và 50 rõ ràng là quá sai biệt nhưng không thấy ai nói về bệnh lý do sự khác nhau này gây ra ở Maebashi hay Nagoya. YUI TAKAO - Nếu như là ở những vùng này, nơi có calcium cao mà lại có nhiều bệnh nhân có chứng sạn trong ống dẫn nước tiểu, hay trong thận thì rõ quá rồi nhưng trên thực tế cũng chưa nghe nói... HLT - Khi đi ra nước ngoài, uống nhằm phải nước có hàm lượng 600 - 1000 ppm magnésium thì sẽ gặp ngay nạn tiêu chảy và có lẽ như bác sĩ đã nói, về mặt sinh lý cơ thể không thể chấp nhận buộc lòng phải phản ứng để bảo vệ và ngăn chận ? YUI TAKAO - Đúng rồi. Trong nguồn nước có nhiều magnésium và các loại ion (khoáng) thiên nhiên như nước trong núi, ta cảm thấy được nhuận trường hơn sau khi uống. Trong điều trị, chúng tôi thường cho bệnh nhân uống các loại thuốc có magnésium để chữa bệnh táo bón và cũng có khi cho các phụ nữ mang thai uống để ngăn ngừa. Trên thực tế, có rất nhiều người bị các chứng bệnh này và nếu cho họ uống loại nước khoáng thiên nhiên có nhiều magnésium thì thay được thuốc xổ. Đối với phụ nữ mang thai lại càng tốt hơn và tạo nên sự điều hòa cho việc bài tiết cho họ vì trong thời kỳ nầy rất dễ bị táo bón. HLT - Và người ta dễ yên tâm hơn vì đây là ion khoáng thiên nhiên, không phải là loại thuốc tổng hợp ? YUI TAKAO - Tất nhiên là magnésium hay aluminium, về mặt nguyên tắc những chất nầy sẽ qua đường tiểu tiện hay phân để bài tiết nhưng nếu thận yếu thì sẽ bị chứng nhiễm độc magnésium khi thường xuyên uống thuốc xổ. Những điều tôi trình bày ở trên là đối với các cơ thể khỏe mạnh bình thường. HLT - Xin Bác sĩ vui lòng cho biết chức phận của thận là một màng lọc thẩm thấu hay còn có vai trò nào khác? YUI TAKAO - Chức phận của thận là lọc hay dù là một màng lọc thẩm thấu nhưng không chỉ để lọc đơn thuần mà Thận còn cung cấp hormone cho máu. Mỗi khi máu có ít natrium đến thận thì thận sẽ tạo thêm hormone bổ sung để nâng cao hàm lượng của natrium cho đủ, đồng thời giảm sự bài tiết natrium ra ngoài nhằm gìn giữ áp suất thẫm thấu của thận được ổn định. Đó là chức năng của thận. Thí dụ như một ngày chúng ta cho hấp thụ 5 gram natrium (điều này không thể có ở người Nhật) có phải vì vậy mà sẽ ngã bệnh vì chứng huyết áp thấp đâu bởi vì hormone trong thận sẽ được tiết ra bổ sung nhằm ngăn chận lượng natrium thiếu hụt và mất đi do bài tiết, đường ống mạch máu sẽ co thắt để giữ huyết áp ổn định trở lại. Ngược lại, nếu lượng natrium vào cơ thể nhiều thì trong máu cũng sẽ có hàm lượng natrium cao, khi ấy natrium được thận lọc và bài tiết ra ngoài. Trong trường hợp này hormone sẽ tiết ra ít đi, đường ống dẫn máu (mạch máu) thoải mái hơn và không làm cho huyết áp lên cao khi natrium được cân đối bằng chức phận bài tiết của thận qua nước tiểu. Cho nên nếu mỗi ngày chúng ta ăn 15 gram muối thì cũng có gần 15 gram bài tiết trong nước tiểu. Nhưng nếu trong cơ thể bị trục trặc chỉ bài tiết được 12 gram, 3 gram còn được giữ lại thì nếu tiếp tục giữ muối 3 gram /ngày thì sớm muộn sẽ gặp chứng suy tim và nhiều căn bệnh khác phát sinh. Cái hay của cơ thể là vận động để tự cân đối và hoàn chỉnh, cái gì vô ít thì ra ít, cái gì vào nhiều thì phải tìm cách cho ra phần thừa để bão hòa. HLT - Thật là tế nhị và lý thú. YUI TAKAO - Cơ thể con người là vậy, hay và kỳ diệu vô cùng. HLT - Thành phần của nước, hay tạp chất trong nước uống ngày nay có thể phân tích đến những yếu tố vi lượng, có thể đến một phần tỷ (ppt). Và nếu như phân tích ppt các yếu tố vi lượng trong nước tiểu biết được cái gì cần giữ lại và cái gì cần phải thải đi, từ đó có thể kiểm tra (control) một cách dễ dàng trong việc trị liệu? YUI TAKAO - Tôi cũng nghĩ như anh. HLT - Những yếu tố vi lượng này có thể giữ lại trong ngân hàng số liệu dùng để kiểm tra và so sánh tại chổ nếu việc nghiên cứu này được xúc tiến tốt trong tương lai. YUI TAKAO - Nên lưu ý thêm là dẫu sao phải theo dõi lượng nước uống vào mỗi ngày và lượng nước tiểu bài tiết trong 24 giờ thật chính xác. Kế đến là phải kiểm tra xem bệnh nhân có bị tiêu chảy hay không nữa. Trong phân, thông thường là có khoảng 100 cc nước, ngoài ra là tình trạng bài tiết qua mồ hôi... cho nên những nhân tố này phải ổn định thì mới so sánh được. Hơn thế có người lại đổ mồ hôi nhiều, hay phì nộn tức là thể trạng, tuổi tác của từng con người khác nhau ít nhiều cho nên muốn nghiên cứu chính xác thì phải tập trung vào một số người nào đó có thể trạng, tuổi tác gần nhau thì mới có thể đạt được những kết luận khoa học... HLT - Muốn đến kết luận nước nầy tốt cho sức khỏe, nước kia không đạt v.v... thì phải thực hiện những cuộc thí nghiệm lâm sàng như vậy phải không ? YUI TAKAO - Vâng. HLT - Nếu mà làm được điều này thì dễ thuyết phục hơn. YUI TAKAO - Đúng thế. Nếu không làm một cách chính xác thì cứ bảo thế nào cũng chỉ là nói đại thế thôi chứ làm sao giải thích nước này tốt cho sức khỏe hay không được. Thí dụ như bệnh sạn trong tuyến nước tiểu. Đối với người dễ bị có sạn thì cho uống nước có carbonate và làm cho nước tiểu có độ pH cao (tính kiềm) có phải vậy mà sẽ khó tạo ra sạn (vôi hóa) hay không và nếu như thế thì nước có tính kiềm sẽ làm cho người ta khó bị sạn trong thận hay không thì cũng chưa hẳn. Không phải là cứ uống nước có tính kiềm là không bị chứng này. Cho nên nhờ cách kiểm tra trên mà chúng ta có thể so sánh được phần nào. HLT - Nếu có sẵn những thông số như vậy thì người bình thường, không có kiến thức chuyên môn sâu cũng có thể hiểu được, ai cũng có thể kiểm tra mỗi khi nhà sản xuất đưa ra một sản phẩm về nước uống nào đó. YUI TAKAO - Đây cũng là một phương pháp dễ nhất. HLT - Như vậy là cứ đưa ra những sự thật đã biết được, xem cách nào là hợp lý nhất để có kết luận phải không ? YUI TAKAO - Nói ngược lại là nước có thành phần như thế này, uống vào thì sẽ như thế nầy, còn nếu nguồn nước bình thường khác thì sẽ như thế kia và thử xem 2 loại nước đó có gây ra bệnh lý sai biệt hay không. HLT - Khi bị bệnh, các bác sĩ thường cho thử nước tiểu. Điều này có ý nghĩa như thế nào ? YUI TAKAO - Tóm tắt là nếu như bệnh nhân bị tiểu đường thì đo xem lượng đường một ngày được thải ra qua nước tiểu là bao nhiêu. Tất nhiên là chúng tôi chỉ kiểm tra chỉ số đường trong 10 cc., từ đó tính ra được hàm lượng đường trong nước tiểu. Tương tự như vậy xem có bao nhiêu gram natrium, kalium... Thông thường lượng đường nhiều hay ít trong nước tiểu cho biết lượng hấp thụ qua nước uống hay thức ăn của bệnh nhân. Người lớn tuổi thường ít uống nước và khi thiếu nước thì nếu là nữ giới sẽ dễ bị viêm bàng quang hay viêm ống dẫn nước tiểu. Khi thiếu nước, nước tiểu bị đậm đặc (cô) lại để tránh bài tiết nước ra ngoài. Khi thiếu nước còn gây ra dễ bị viêm phế quản đồng thời còn có nguy cơ bị đứt mạch máu não vì lúc ấy máu bị đậm đặc dễ bị đông lại trong mạch máu. HLT - Thật không ngờ có thể dẫn đến các chứng bệnh hiểm nghèo đến thế sao? Và như thế thì cần phải uống nước thật nhiều ? YUI TAKAO - Kết luận là như vậy. Nếu thận hay tim mạch không có vấn đề gì thì cho uống nước nhiều vẫn tốt hơn. Tất nhiên là phải ăn uống bình thường. Nếu không ăn gì cả mà chỉ uống nước không mà thôi thì sẽ suy nhược cho dù có uống nước trái cây có ít nhiều calori cũng thế. Đương nhiên là thức ăn phải có muối (natrium). Thí dụ như có một bệnh nhân bị cảm cúm rồi mất nước vì tiêu chảy thì ban đầu chúng tôi sẽ truyền dịch có hàm lượng muối cao để giúp cho mạch máu giãn nở và hồi phục lại chức năng tuần hoàn, sau khi tình trạng lưu thông tốt trở lại thì chúng tôi cho dịch truyền có nồng độ muối gần bằng hàm lượng trong tế bào và dần dà cơ thể lượng máu trong mạch sẽ hồi phục. Thông thường thì sau đó cho bệnh nhân ăn uống trở lại, không cần lo lắng về nước lắm nhưng nếu là người lớn tuổi khó uống nước thì nên lưu ý cho họ uống đủ nước sau khi ăn xong. HLT - Người ta thường bảo rằng ”uống một ly nước lã sau khi thức dậy rất tốt cho cơ thể” có thật vậy không? YUI TAKAO - Về mặt y học thì chưa thuyết phục lắm đâu, nhưng điều thấy rõ là hợp với vệ sinh, kích thích bài tiết dễ dàng hơn. HLT - Vai trò của nước trong cơ thể còn là chất tẩy rửa cho các bộ phận trong cơ thể nữa phải không ? YUI TAKAO - Tất nhiên là có rồi vì vẫn phải uống nước để thải ra các chất độc trong người (qua thận), nếu không đầy đủ thì như tôi đã đề cập ở phần trước, có thể bị táo bón, viêm bàng quang, đến đứt mạch máu, viêm phổi và sưng thận .... HLT - Như thế thì phải uống nước thật điều hòa trước khi nói đến “chất lượng” của nước thế này hay thế khác? (Tất nhiên là phải uống loại uống được ở vòi theo tiêu chuẩn Nhật Bản) Bác sĩ YUI TAKAO - Đúng. Trước hết là phải xem họ có uống nước đầy đủ không đã và tìm hiểu xem họ ăn uống có muối (natri) bao nhiêu. Đó mới là vấn đề. HLT- Như vậy thì khi kiểm tra hàm lượng của natrium trong nước tiểu bao nhiêu là có thể biết được cơ thể người đó thiếu nước hay không ? YUI TAKAO - Trên thực tế thông số natrium trong nước tiểu hết sức quan trọng. Thí dụ đối với một người có huyết áp cao nhưng chỉ số natrium trong nước tiểu vẫn bình thường thì cho bệnh nhân uống thuốc lợi tiểu thải được natrium ra ngoài thì sẽ hạ được huyết áp. Tất nhiên là phải tìm hiểu thêm nguyên nhân sâu xa gây ra chứng này của người bệnh nữa. Phương châm trị liệu thì đã có sẵn sau khi đã truy tìm ra được nguyên nhân. Nếu nghiên cứu ra loại máy cầm tay có thể đo được ngay lượng đường hay natrium trong nước tiểu thì quá tiện. HLT - Tóm lại, ngoài vấn đề mùi vị, tất cả các loại nước đều có thể uống thoải mái nếu như không có chứa các chất gây bệnh. Gần đây trên thị trường có rất nhiều loại nước khoáng, đặc biệt là chỉ có mùi vị khác nhau mà thôi. Và giá của nước khoáng trong chai nhựa cũng khá đắt, gấp bội lần nước thành phố, bằng giá một mét khối nước cấp. YUI TAKAO - Một mét khối nước của thành phố có giá 600 yen trong khi giá 1 lít nước khoáng là 100-150 yen. Vấn đề chất lượng nước uống hiện nay rất được mọi người quan tâm, những kỹ thuật lọc nước hiện nay có giải quyết được không ? HLT - Vấn đề là nước cấp của thành phố ở Tokyo hiện nay có nồng độ chlor rất cao, và chưa khử hết được các tạp chất hữu cơ cho vấn đề đô thị hóa ở nguồn nước và tình trạng nước thải từ đời sống và công nghiệp ngay từ đầu nguồn dẫn đến, trong khi trang thiết bị xử lý đã có từ lâu không kịp thời giải quyết những vấn đề phát sinh mới trong kỹ thuật, hơn thế là chi phí xử lý (chi phí vận hành = running cost) quá cao cho nên cuối cùng điều đó đã làm cho mọi người cảm thấy không yên tâm và thực tế là mùi hôi của chlor khá mạnh khó uống. Trong khi đó mùa hè lại là mùa tiêu thụ lượng nước lớn hơn (so với mùa đông) vì thế chỉ còn một cách là dùng than hoạt tính đễ khử là phương pháp tốt nhất. Hiện nay trên thị trường (ở Nhật Bản) có rất nhiều chủng loại máy lọc nước gia đình hầu hết là có bộ phận than hoạt để lọc mùi. Ngoài ra còn có nhiều loại có gắn thêm bộ lọc tạp chất bằng sợi hay có cả loại điều chỉnh ngay được độ pH trong nước nhằm tìm ra một vị ngon nhất (hay hợp nhất) cho mình. Nhưng cần lưu ý rằng vi trùng và vi khuẩn vẫn có thể xâm nhập trở lại khi nước không còn chlor, tức là không còn sát trùng cho nên tốt nhất là nên uống hay sử dụng ngay sau khi lọc xong. Ngoài ra ống lọc than hoạt còn là một ổ chứa vi trùng vi khuẩn nếu không có biện pháp ngăn ngừa. Gần đây để giải quyết vấn đề này các nhà sản xuât đã dùng bạc thẩm thấu trong ống lọc để hạn chế việc sinh sôi nẩy nở của vi khuẩn. Bản thân bạc là một kim loại diệt khuẩn khá tốt và đã được ứng dụng từ thời văn minh Ai cập. Đây là phương pháp giải quyết vấn đề sát khuẩn tốt và rẻ nhất. YUI TAKAO - Đúng là “tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa”. Muốn tránh mùi hôi của chlor thì phải dùng than hoạt, mà dùng than hoạt lại xây dựng “ổ” cho vi trùng. May mà... HLT - Tất nhiên đó là phương pháp tiện lợi và rẻ nhất, ngoài ra còn có nhiều kỹ thuật tiên tiến khác như dùng đèn phát tia cực tím, hay các loại ống siêu lọc hay ozone nhưng giá thành lại cao gấp 5-10 lần (running cost) trong khi sử dụng lâu dài, phải liên tục thay khi tạp chất tăng hay không ổn định được lưu lượng. Thực ra phương pháp dùng than hoạt khử hoàn toàn hàm lượng chlor trong nước sau đó lại dùng chlor từ 0,2 ppm - 0,4 ppm bằng cách nhỏ giọt để khử trùng trở lại là phương pháp rẻ nhất. YUI TAKAO - Nhưng thế thì không hôi hay sao ? HLT - Con số 0,4 ppm là một con số cực nhỏ, nếu ít hơn chỉ số này thì hoàn toàn không nghe thấy mùi hôi của chlor... Chỉ số 0,2 ppm là lượng chlor cần thiết để tránh việc nước bị nhiễm các loại vi trùng gây bệnh truyền nhiễm. Vấn đề là phải có bộ phận điều tiết và khống chế được nồng độ này trong nước. Tốt nhất là đường ống từ đầu ra ở bộ phận xử lý đến nơi sử dụng càng ngắn càng tốt và có bồn chứa nước đã lọc, điều chỉnh nồng độ chlor ngay tại đây (bồn) và chlor được dùng ở bồn chứa phải được xem là một loại thuốc (để khử trùng). YUI TAKAO - Các loại nước dùng làm dịch truyền đều là nước tinh khiết hay siêu tinh khiết ? HLT - Ở Nhật Bản thì nguồn nước gốc vẫn là nước cấp của thành phố, được xử lý nhiều bước thành nước tinh khiết và sau đó chưng cất lại thành nước dùng cho y tế. Hiện nay các bệnh viện ở Tokyo dùng máy phát ra hơi nước tinh khiết (pure steam generator) để chưng cất lấy nước. YUI TAKAO - Trong trường hợp dùng làm nước uống thì nếu lấy nước tinh khiết đem chưng cất, có nghĩa là không còn gì cả thì có lẽ nước cũng chẳng ra sao cả, không ngon phải không ? HLT - Vâng, không mùi không vị lạt vô cùng và được gọi là “nước trơ”. Nhưng nếu dùng để pha whisky thì sẽ rất ngon vì lúc ấy nước chỉ có mùi thơm của whisky. Đó cũng là lý do tại sao tại các quán rượu ở Nhật ưa dùng nước tinh khiết hay nước chưng cất để pha cho khách. Mùi rượu thơm hẳn so với khi dùng nước vòi. YUI TAKAO - Ừ nhỉ (cười to !) HLT - Vừa rồi Bác sĩ có nói natri sẽ được cơ thể đào thải ra ngoài một cách tự nhiên khi dư thừa, nhưng thông thường người ta cho rằng nếu uống nước có natrium thì sẽ gặp chứng huyết áp cao và người có huyết áp cao rất dễ mập, phù lên. Điều này được hiểu đúng như thế nào? YUI TAKAO - Thí dụ như người bị chứng huyết áp cao thì họ chịu được bao nhiêu lượng natri. Bình thường nếu vào 100 gr thì ra cũng 100 gr nhưng nếu vào cơ thể 100 gr mà chỉ ra 95 gr tức là còn đọng lại 5 gr trong cơ thể và người bị huyết áp cao thường có khuynh hướng như thế. Hai là người huyết áp cao thường là người bị mập. Nạn mập béo là do chất hormone tạo ra mỡ gọi là insuline làm giảm chorestérol bị tiết ra từ trong cơ thể và vì insuline có khả năng lôi kéo và hấp thụ natri. Người bị mập khi ốm bớt thì huyết áp cũng sẽ hạ. Lý do là khi trọng lượng cơ thể giảm thì không những tim làm việc ít đi mà còn bớt mỡ thì insuline ít bài tiết và khi ấy natri không còn được giữ lại trong cơ thể. Vì thế người bị huyết áp cao cần phải ăn lạt, ít muối là như vậy vì cơ thể của họ đang có khả năng giữ natri lại và điều đó hoàn toàn chính xác. HLT - Nhưng lượng muối (natri) trong nước uống có hàm lượng không cao, thông thường là thức ăn vẫn chứa nhiều muối hơn. YUI TAKAO - Hầu hết thức ăn của chúng ta đều có muối, trong bánh mì, mì phở cũng đều có muối cả. Tính bình quân mỗi ngày chúng ta hấp thụ khoảng trên 15 gr muối và nếu như trong 10 ngày liền chúng ta chỉ ăn khoảng 10 gr muối/ngày thì huyết áp có thể giảm xuống nhưng người Nhật có thói quen ăn xì dầu, miso (tương bằng đậu nành) nên khó mà ăn lạt được. HLT - Người Việt chúng tôi cũng ăn loại nước mắm, là một loại nước chấm từ các loại cá được ngâm trong muối để lâu ngày cho nên nếu nói “ăn mặn” thì người Việt chúng tôi còn ăn mặn hơn. Món ăn nào cũng có pha ít nhiều nước mắm, phổ biến hơn cả xì dầu hay miso của người Nhật. Nhưng để tránh cảm giác ăn mặn, thỉnh thoảng chúng tôi còn pha chanh hay giấm trong thức ăn, cũng có người cho rằng “ăn giấm thì tốt cho cơ thể”, theo bác sĩ thì giấm có tác dụng như thế nào. YUI TAKAO - Giấm có vị chua, tức là có tính acid, tôi chưa rõ lắm về cơ cấu hoạt động của giấm trong cơ thể nhưng là một chất tốt cho cơ thể vì khi vào miệng gây kích thích và cũng có tác dụng kích thích cho bộ máy tiêu hóa nhưng lại không tốt cho màng bao tử vì màng bao tử cũng sẽ bị kích thích. Khi dùng giấm thì sẽ bớt được lượng muối, cho nên khi ăn rau tươi thường dùng giấm, tất nhiên trong nước pha giấm thì đã có ít muối. Đối với những người hạn chế ăn muối thì họ thường dùng giấm và các loại hương liệu (tiêu hành...) và đó cũng là một phương cách để chữa bệnh cho những người bị chứng cao huyết áp. HLT - Cuối cùng để tóm tắt lại câu chuyện trao đổi, xin Bác sĩ cho biết cơ thể con người và nước có quan hệ như thế nào. Xin vắn tắt và thật dễ hiểu. YUI TAKAO - Cơ thể con người gồm những thực thể chứa nước, và những chất đó chứa muối, nhờ nó mà chúng ta có sự sống, hơn thế nữa nước còn là một hoạt chất luôn thúc đẩy hoạt động “đổi mới”, “thay thế” trong cơ thể, nếu như không có nước thì những chất bã, chất bẩn trong hoạt động bài tiết sẽ không được thải ra qua đường nước tiểu hay phân và nếu không có sự thay thế trong quá trình hấp thụ và đào thải thì chúng ta sẽ bị nhiễm độc, phải dùng đến máy lọc thận nhân tạo để lọc. Ngoài ra, cơ của chúng ta khi co rút thì sự hoạt động của nó có quan hệ mật thiết với ion calcium, nhưng nếu không có nước thì sự vận động này không xuất hiện. Có thể tóm tắt là chính vì có nước mà có sự tồn tại của Ion trong cơ thể và đó chính là “nguồn sống” của muôn loài vậy. HLT - Xin chân thành cảm ơn Bác sĩ .
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 4:00:44 GMT 9
Vitamin K huyền bí giúp thông minh Phan Chiêu Quân Vitamin K không giống như những vitamin khác. Nó tác dụng lên não và giúp ta thông minh. Vitamin K làm giới nghiên cứu ngạc nhiên không ngừng. Ngoài tính chất gây sự đông máu và chống sự chảy máu (anti-hémorragie), nó còn đóng vai trò trong năng lực nhận thức (cognition). Giáo sư Guylaine Ferland, ngành dinh dưỡng tại đại học Montréal có nói: " Ai không ăn uống đầy đủ sẽ có thể có vấn đề trong năng lực nhận thức."Trong phòng thí nghiệm, bà làm thử để chuột trong hồ tắm Morris (bassin de Morris). Cuộc thí nghiệm này dựa vào một hồ tắm trong đó con vật phải tự định hướng nhờ thị giác để tìm cho nó một chỗ đứng (ngập dưới nước) để nghỉ ngơi. Bà chia ra hai loại chuột tùy theo lượng vitamin K mà bà đã cho chúng. Từ 6 đến 12 tháng, tất cả những con vật gặm nhắm này đều thành công một cách sôi nổi, không có một trường hợp đặc biệt nào cả. Nhưng bắt đầu từ 21 tháng, sự thiếu dinh dưỡng đã có ảnh hưởng là: những con chuột với chế độ dinh dưỡng thiếu vitamin K thiếu thông minh hơn những con khác. Sự khác biệt khoảng 35%. Giáo sư Guylaine Ferland Và bà kết luận: "Những con chuột thiếu vitamin K, tới một lứa tuổi nào đó sẽ thiếu năng lực nhận thức. Những nhà nghiên cứu cũng khám phá ra cách phân phối của vitamin K trong não bộ. Nó tụ họp tại não giữa (mésencéphale) và giải hành não Pons (bulbe Pons), những vùng giàu chất trắng (myéline). Guylaine Ferland định thử trên người. Vitamin K là vitamin là một trong những vitamine duy nhất mà cơ thể tự tổng hợp lấy. Nó được hấp thụ bởi ruột non nhờ muối mật và được dự trữ trong gan. Nó giúp cho sự tiết ra chất prothrombine, chất chứa trong máu và giúp cho sự đông máu. Sự đông máu do prothrombine biến đổi thành sinh sợi huyết (fibrinohène, là protéine của huyết tương = protéine du plasma sanguin) thành tơ huyết (fibrine) và fibrine-globuline là những chất làm đông máu thải huyết thanh ra để tạo thành cục huyết cần thiết cho vết thương lành. Với đàn ông, mỗi ngày cần 45 µg vitamin K. Ðàn bà cần 35 µg. Nguồn chính thực vật có chứa vitamin K là đậu nành, rau xanh (épinard, củ cải, bắp cải, brocoli...) , rau thơm như rau kinh giới (l’origan), rau ngải thơm (l’estragon), rau cần tây (le céleri en flocons), rau húng hương (la sarriette), hương thảo (le romarin) và cây hoa sauge chứa rất nhiều vitamin K. Thí dụ một trái dưa leo để cả vỏ chứa 76 µg vitamin K, nửa chén: bắp cải chứa 180 µg, épinard chứa 114 µg, đậu ve chứa 29 µg, xà lách Boston chứa 36 µg... email: Guylaine.Ferland@UMontreal.CA
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 4:02:18 GMT 9
Vitamin E Phan Chiêu Quân I)Tổng quát 1) Cấu trúc Hóa học 2) Vitamin E và da II) Tính chất mỹ phẩm 1) Tính chất chống gốc tự do 2) Tính chất chống phỏng 3) Tính chất làm ẩm 4) Giúp sự luân chuyển mạch máu li ti của da III) Vitamin E giúp chữa nhiều bệnh IV) Bảo vệ tia cực tím UV 1) Bảo vệ những nguy hại tế bào dưới da 2) Bảo vệ những nguy hại tế bào biểu bì 3) Bảo vệ những nguy hại về gène V) Cách sử dụng VI) Nguồn vitamin E ____________ I)Tổng quát 1) Cấu trúc Hóa học Vitamine E thuộc loại vitamin tan trong dầu. Từ gia đình tocophérol, là chất gồm một nhân chromanol và một dây phytyl no chứa 16 carbon. Số lượng carbon và vị trí nhóm méthyle (CH3) trên nhân chromatol cho ta những dạng tocophérol khác nhau: Có 4 loại tocopherol là alpha, beta, gamma và delta, nhưng alpha là dạng chính (Cũng là vitamin E thiên nhiên) tồn tại trong cơ thể, có tác dụng cao nhất. Tuy nhiên các dạng khác như beta, gamma và delta dù hoạt tính thấp hơn loại alpha nhưng cũng có tác dụng hỗ trợ rất lớn cho sức khỏe con người. Có 2 loại vitamin E, loại có nguồn gốc thiên nhiên và loại tổng hợp. - Vitamin E có nguồn gốc thiên nhiên: Ðược chiết xuất từ dầu thực vật như đậu tương, bắp, mầm lúa mạch, các loại hạt có dầu như hạt hướng dương. Vitamin E thiên nhiên là một đồng phân duy nhất của d-alpha tocopherol. - Mặc dù có tác dụng tốt nhất trong các loại tocopherol, nhưng do chiết xuất từ các thực phẩm thiên nhiên nên không kinh tế, vì vậy người ta đã sản xuất ra loại vitamin E tổng hợp. có công thức là dl - alpha tocopherol, gồm 8 đồng phân nhưng chỉ có 1 đồng phân giống vitamin E thiên nhiên là d - alpha tocopherol (chỉ chiếm 12,5%), vì vậy tác dụng của vitamin E tổng hợp thấp hơn so với loại có nguồn gốc thiên nhiên. Vì loại d - alpha tocopherol có tác dụng chính, vì vậy Hội đồng nghiên cứu Quốc gia Mỹ đã lấy nó làm tiêu chuẩn và dùng đơn vị quốc tế IU để đánh giá hoạt tính của vitamin E trong các chế phẩm thương mại trên thị trường. Về cơ chế hấp thu và sử dụng hai loại vitamin E thiên nhiên và tổng hợp trong cơ thể không có gì khác nhau, nhưng loại vitamin thiên nhiên được sử dụng nhiều hơn khoảng 50% so với loại tổng hợp. Vì vậy muốn đạt được hiệu quả mong muốn thì khi sử dụng vitamin E tổng hợp, phải uống tăng liều lên gấp 1,4 lần so với loại thiên nhiên. Lượng vitamin E dư thừa trong cơ thể do không được sử dụng sẽ nhanh chóng bị đào thải. Các công trình nghiên cứu đã chứng minh rằng vitamin E có tác dụng chống lại gốc tự do NO (Oxid Nitric) trong cơ thể (khi chất này dư thừa sẽ gây tác dụng xấu). 2) Vitamine E và da, tóc Phần lớn những nghiên cứu trên sự thẩm thấu của vitamin E vào da đều được công nhận rằng chất này có khả năng hấp thu rất mạnh. Có hai con đường hấp thu vitamin E ở da là: * Con đường thứ nhất, vitamin E qua giác mạc, biểu bì, lớp nối biểu bì (jonction épidermique) * Con đường thứ hai, vitamin E đi qua ống tuyến nhờn và giữa nang lông Ở da, nếu thiếu vitamine E sẽ bị per oxid hóa lớp mỡ. Hàng ngày, da thường tiếp xúc với ánh nắng có nhiều tia cực tím nên dễ bị hủy hoại, mất tính thun giãn và sạm lại. Dùng kem bôi da có chứa vitamin E sẽ giúp giảm sự bốc hơi nước và giảm mức độ nhạy cảm đối với tia cực tím, chống được sạm da. Ðối với người bị viêm da dị ứng (làm rối loạn màu sắc của da và gây ngứa do da chứa nhiều IgE), vitamin E có tác dụng giảm nồng độ IgE, trả lại màu sắc bình thường và làm mất cảm giác ngứa. Khi có tuổi, da mất tính thun giãn, đồng thời do tác dụng của lượng gốc tự do dư thừa sẽ làm da nhăn nheo, mất độ thun giãn, tóc xơ cứng, giòn, dễ gãy, vitamin E có thể giúp cải thiện tình trạng trên (làm da mềm mại, tóc mượt ít khô và gãy như trước) do đã làm giảm tiến trình lão hóa của da và tóc, giúp và tóc da chịu đựng nắng. II) Tính chất làm đẹp 1) Tính chất chống gốc tự do *** Giải nghĩa Chức vụ thiên nhiên của vitamin E là bảo vệ cơ thể chống những tác dụng độc hại của những gốc tự do. Những gốc tự do này được tạo thành từ những quá trình chuyển hóa bình thường hay dưới tác dụng của những nhân tố chung quanh (facteurs environnementaux) Nhờ dây lipide dài (16 carbon), vitamine E gắn nơi màng lipide, và chính nhờ chức vụ gắn gốc phénol mà nó có là chất có tính chống oxyd hóa. Vitamin E làm chậm sự ão hóa của da vừa bảo vệ màng tế bào. Sự hiện diện của nó giúp cho mỡ trong tế bào được giữ gìn bởi vì những màng tế bào được cấu tạo bởi acid béo có nhiều nối đôi, rất dễ bị oxyd hóa. Sự oxyd hóa của acid béo màng tế bào cho ra hàng loạt phản ứng mà kết quả cho ra gốc lipoperoxyd (LOO•) rất hoạt động vì không bền sẽ làm rối loạn chức năng sinh học của những màng. Vitamin E có khả năng ngăn chận phản ứng của các gốc tự do bằng cách nhường 1 hydro (H) của gốc phénol cho gốc lipoperoxyl (LOO•) để biến gốc tự do này thành hydroperoxyd không gây phản ứng (LOOH). Phản ứng như sau: LOO• + Tocophérol-OH —› LOOH + Tocophérol-O• Trong quá trình phản ứng, tocophérol (Tocophérol-OH) bị chuyển hóa thành gốc tocophéryl (Tocophérol-O•), bền (mặc dù là gốc) nên chấm dứt những phản ứng gốc. Gốc tocophéryl bị khử oxy để trở lại tocophé rol bởi chất khử oxy hòa tan trong nước, hiện hiện trong cytosol của những tế bào. Ngoài chức năng ngăn chận sự tạo thành những gốc tự do nơi tế bào, vitamin E còn bảo vệ những chất tạo nên tế bào như protéin và acid nucléic. Vitamin E làm giảm sự peroxy hóa của lipid trong bã nhờn của tóc, làm lớp dađầu bớt hiện tượng kích thích, nghĩa là làm giảm sự khô xơ của tóc 2) Tính chất chống viêm Vitamin E ức chế sự peroxyd hóa các lipid bằng cách bẫy các gốc tự do sẽ tạo thành prostaglandines, là chất trung gian sinh lý của sự viêm Nhiều nghiên cứu dược học đã chứng tỏ hoạt tính của vitamin E trên sự chống viêm. Vitamin E giàm bệnh ban đỏ (érythème) và bệnh phù (oedème) Bởi vậy khi ta bị nắng rát da, có thể dùng vitamin A để chữa 3) Tính chất làm ẩm 4) Giúp sự luân chuyển mạch máu li ti của da III) Vitamin E giúp chữa nhiều bệnh 1) Tác nhân nâng đỡ hệ miễn dịch Gia tăng chức năng của thực bào Kích hoạt các sát bào, những mầm ung thư và những tế bào đã nhiễm virus. - Làm khả năng sinh kháng thể của cơ thể (là chất sẽ bám vào virus hay phá hủy virus) - Làm giảm prostaglandin, một chất giống như hormone có liên quan đến chức năng miễn dịch 2) Tác nhân bảo vệ não: giảm bệnh quên Alzheimer - Não chứa một số lượng lớn các acid béo đa không bão hòa (PUFAs = polyunsaturated fatty acids), Khi các acid béo trong một tế bào não bị phá hủy, sẽ có một chuỗi phản ứng dây chuyền khiến cho hàng loạt acid béo trong tế bào não bị phá hủy theo. - vì vitamin E là chất hòa tan trong mỡ nên nó đến những nơi có mỡ và như một chất che chở cho các tế bào khỏi bị phá hủy Do đó dùng vitamin E sẽ làm giảm những bệnh thoái hóa do các gốc tự do gây ra , thí dụ chứng quên Alzheimer: Ta đã biết vitamin giữ ẩm cho màng tế bào mềm dẻo nên sẽ giúp ích cho những tế bào não thu nhận chất dinh dưỡng dễ dàng cũng như thải các chất cặn bã. Nếu màng tế bào cứng, sự thẩm thấu sẽ khó khăn, các chất thải sẽ tích tụ bên trong tế bào não khiến tế bào hoạt động kém đi và cuối cùng sẽ bị thoái hóa, dẫn đến bệnh Alzheimer. 3) Tác nhân bảo vệ mắt : giảm bệnh cườm mắt (cataracte) Vì vitamin E đi qua đường giác mạc, nơi mắt, nên có nó sẽ giúp nguy cơ bị cườm mắt vì gốc tự do sinh ra do môi trường ô nhiễm và tia cực tím (Ultra Violet), phá hỏng protéin của tinh thể mắt nên gây ra cườm 4) Tác nhân làm giảm bệnh tiểu đường: Ðặc tính của tiểu đường là mức đường trong máu cao. Một phần của quá trình bệnh này là hậu quả của những gốc tự do phóng thích từ mức đường cao trong máu. 5) Tác nhân chống lão hóa: Lý do chính của sự lão hóa do UV là vitamin kết hợp với những màng lọc ánh sáng ( filtres solaires) sẽ tạo thành yếu tố cần thiết trong sự bảo vệ chống tia bức xạ và chống lão hóa 6) Tác dụng của vitamin E đối với thai nghén Khi phát hiện ra vitamin E và nhận thấy nó có tác dụng tốt đối với thai nghén, người ta đã đặt tên khoa học cho vitamin E là Tocopherol, theo tiếng Hy Lạp nghĩa là mang lại sự sinh sản. Trong những trường hợp thai nghén thường có nguy cơ cao như hội chứng rối loạn tăng huyết áp trong thai nghén (Trước đây gọi là nhiễm độc thai nghén), người ta đã cho thai phụ ở tình trạng tiền sản giật uống hàng ngày vitamin E phối hợp với vitamin C. Kết quả đã làm giảm nhẹ bệnh và 76% số bệnh nhân không còn tình trạng tiền sản giật. Người ta cũng nhận thấy nếu được uống bổ sung thường xuyên 400 đơn vị vitamin E và 1.000mg vitamin C hàng ngày vào 3 tháng giữa của thai kỳ, sẽ làm giảm tỷ lệ thai phụ bị tiền sản giật. Loại vitamin E có nguồn gốc thiên nhiên được hấp thu vào máu và truyền sang thai nhi nhiều hơn và hiệu quả hơn so với loại vitamin E tổng hợp. Sở dĩ vitamin E góp phần thuận lợi cho quá trình mang thai, sự phát triển của thai nhi và giảm được tỷ lệ sẩy thai hoặc sinh non là do đã trung hòa hoặc làm mất hiệu lực của gốc tự do trong cơ thể. 7) Các tác dụng của vitamin E đối với cơ quan sinh sản phụ nữ. Vitamin E là một trong những chất nằm trong nhóm vitamin và cũng tuân theo chức năng của nhóm vitamin là tham gia vào các phản ứng của cơ thể với vai trò xúc tác, giúp cơ thể chuyển hóa (trong những trường hợp cụ thể, nếu thiếu có thể gây ra những bất thường cho cơ thể). Ví dụ phụ nữ khi mang thai những tháng đầu, nếu thiếu vitamin B9 (acid folic) có thể sẽ gây bất thường về ống thần kinh. Như vậy, tuy vitamin E không phải là một chất tham gia trực tiếp vào quá trình chuyển hóa của cơ thể nhưng lại có tính chất góp phần rất quan trọng trong quá trình này, giúp cho cơ thể khỏe mạnh, chống lại sự sản xuất dư thừa gốc tự do, chống lại quá trình chết tế bào, kìm hãm quá trình lão hóa, giúp da tóc mịn màng...., ngoài ra còn có nhiều tác dụng khác giúp nâng cao chất lượng sống của con người. Vitamin E cũng làm giảm nhẹ các triệu chứng chuột rút, đau các bắp cơ hoặc đau bụng khi hành kinh ở các em gái tuổi vị thành niên. Các em gái nếu được dùng vitamin E ngay từ đầu của kỳ kinh sẽ giảm được 36% đau khi hành kinh. - Qua nghiên cứu thực nghiệm, các nhà khoa học nhận thấy vitamin E có thể ức chế quá trình oxy hóa DNA nên đã ức chế hoạt động của chuỗi tế bào ung thư vú, làm giảm được 95% sự gia tăng tế bào ung thư vú ở người sử dụng alpha tocopherol, nghĩa là vitamin E có thể gây độc có tính chọn lọc đến các tế bào ung thư vú. - Các nghiên cứu khác cho thấy những phụ nữ được bổ sung vitamin E thì tỷ lệ bị ung thư buồng trứng thấp hơn 67% so với nhóm không được sử dụng. Liều vitamin E bổ sung hàng ngày là 75mg, tương đương với 110 đơn vị vitamin E thiên nhiên. Người ta cũng khuyến cáo: Bổ sung vitamin E kèm với vitamin C hàng ngày có thể làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng. - Ngoài ra vitamin E còn góp phần cải thiện tình dục, giúp noãn (trứng) và tinh trùng phát triển tốt hơn, nâng cao kết quả điều trị vô sinh. IV) Bảo vệ tia cực tím UV Tính chất của vitamin E là hấp thu những độ dài sóng của tia UVB. 1) Bảo vệ những nguy hại tế bào dưới da Vitamin E là hàng rào bảo vệ chống những tia bức xạ độc hại bởi vì nó được dự trữ dưới lớp màng tế bào nên ngăn cản được những tia UV trước khi những tế bào phải tự mình chống lại Nhiều thí nghiệm đã chứng mnh sự bảo vệ của vitamin E đối cới tia UV. Không có vitamin E, 85% tế bào bị bức xạ còn sống sót, trong khi có vitamin thì gần như tất cả mọi tế bào bị bức xa đều sống, tức cứu khoảng 10% Dùng ngay sau khi phơi nắng (tia UV), vitamin E giảm quan trọng chứng ban đỏ (l'érythème), giảm sự dày biểu bì và sự tróc da 2) Bảo vệ những nguy hại tế bào biểu bì 3) Bảo vệ những nguy hại về gène Dùng alpha-tocophérol 3 tuần lễ trước khi phơi UV B giảm ung thư da. Những tổn hại do UV cho phần génome của da được dịch ra bằng những sự sai lệch trong khi phân chia ADN. Nếu chúng không được sửa chữa thì những sự bất bình thường ADN sẽ mang đến những rối loạn trong những hoạt động của tế bào , đem theo sự thoái hóa tế bào. Ảnh hưởng trực tiếp của sự tấn công của tia UV trên ADN là nó làm mất sự sát nhập của Thymidine. Những nghiên cứu chứng minh rằng vitamin E làm cho thymidine sát nhập trở lại vô ADN V) Cách sử dụng Nói chung việc sử dụng vitamin E khá an toàn. Lượng dư thừa, không được sử dụng sẽ nhanh chóng đào thải ra khỏi cơ thể. Liều cần thiết cho cơ thể sử dụng hàng ngày trung bình khoảng từ 100-400 đơn vị. Vitamin E hầu như không có tác dụng phụ khi sử dụng ở liều thông thường. Tuy nhiên khi lạm dụng vitamin E, dùng liều quá cao có thể gây buồn nôn, dạ dày bị kích thích hoặc tiêu chảy, chóng mặt, nứt lưỡi hoặc viêm thanh quản. Những triệu chứng này sẽ nhanh chóng mất đi sau khi ngừng thuốc. Tuy nhiên vitamin E có thể làm tăng tác dụng của thuốc chống động gây chảy máu. Khi dùng chung với Aspirin vitamin E có thể cản trở sự ngưng kết tiểu cầu của Aspirin. VI) Nguồn vitamin E: Vitamin E có rất nhiều trong các thực phẩm nguồn gốc thiên nhiên có nhiều chất béo như: đậu nành, giá đậu xanh, mè, đậu phộng, mầm lúa mạch, dầu hột hướng dương, dầu olive.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 4:03:31 GMT 9
Thực phẩm nào tốt cho người? Vũ Thế Thành Không phải protein nào cũng giống nhauNếu chất bột, chất đường được xem là nguồn cung cấp năng lượng cho cơ thể, chất béo là nguồn dự trữ năng lượng, thì protein hay gọi nôm na là chất đạm, được xem là chất kiến tạo cơ thể, đóng vai trò quan trọng trong việc "lớn như thổi" ở trẻ em, và "bảo dưỡng" cơ thể ở người trưởng thành. Có khoảng 22 loại acid amin, và các acid amin này ráp nối lại với nhau theo một trật tự “tiền định”, để tạo ra vô vàn loại protein khác nhau: có cái dài, cái ngắn, cái nhiều acid amin này, nhưng ít acid amin nọ… Trong cơ thể, protein liên tục bị phân hủy và tái tạo. Protein phân hủy thành các acid amin, và có khi phân hủy tiếp thành chất nhỏ khác thải ra ngoài (qua nước tiểu, phân, mồ hôi, da tróc,…) Nhưng cơ thể cũng đủ khôn ngoan để biết làm "kinh tế” bằng cách tận dụng những thứ còn xài được, tổng hợp thành acid amin và tái tạo tiếp thành protein. Nếu thiếu "nguyên liệu" (mà chắc chắn thiếu), sẽ bổ sung từ nguồn thực phẩm mà chúng ta ăn hàng ngày. Cũng chỉ tại… lông chuộtNhưng trong số 22 loại acid amin kể trên, thì có 8 loại acid amin mà cơ thể chỉ biết hủy mà không "tái sinh" được, đành phải "nhập" từ nguồn thực phẩm. 8 acid amin này được gọi là các acid amin thiết yếu. Do đó, hàm lượng các acid amin thiết yếu là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng dinh dưỡng của một loại protein thực phẩm nào đó. Và từ đây, bắt đầu hành trình "nỗi oan" của đậu nành. Ta biết rằng đậu nành rất giàu protein. Trong sữa đậu nành có 4% protein, trong đậu hũ có 8% và bột đậu nành có từ 40-50%. Ðiểm độc đáo là protein đậu nành có đầy đủ các acid amin thiết yếu. Vấn đề là tỉ lệ các acid amin thiết yếu trong đậu nành có cân đối với nhu cầu cơ thể con người hay không. Thế là, vì lý do đạo đức không thể thử trên người, người ta “đè" các chú chuột ra làm thí nghiệm. Những con chuột nhắt đang “chuẩn bị lớn” được chia làm 2 nhóm. Một được cho ăn protein từ đậu nành, và nhóm kia cho ăn protein thịt. Kết quả chuột ăn thịt phát triển rất tốt so với chuột ăn đậu nành. Và kết luận phải là protein thịt tốt hơn protein đậu nành. Sau này, người ta mới khám phá ra rằng, chuột nhắt rất cần một loại acid amin thiết yếu chứa sulfur, gọi là methionine để phát triển… bộ lông của chúng. Loại acid amin này trong protein đậu nành ít hơn trong protein thịt. Chuột cần lông hơn người, nên không thể suy diễn từ chuột qua người. Protein đậu nành có thể không đầy đủ với chuột, nhưng với người lại là chuyện khác. Ðậu nành đã được giải oan… Từ "nỗi oan" này, năm 1993 các tổ chức quốc tế WHO, FAO, FDA… đã ngồi lại với nhau để thay đổi cách đánh giá về protein thực phẩm, từ phương pháp cổ điển theo “Tỉ lệ hiệu năng của protein” (PER), chuyển sang cách tính “Ðiểm số acid amin hiệu chỉnh theo khả năng tiêu hóa protein” (PDCAAS). Theo đó, chất lượng protein phải dựa trên nhu cầu của người, chứ không phải của chuột. Thực phẩm nào có nhiều acid amin thiết yếu?Các acid amin thiết yếu có nhiều trong các loại thịt, thủy sản, sữa, trứng, phó mát, đậu nành, đậu hũ. Trong khi các loại trái cây, rau quả, củ hiếm khi chứa đầy đủ 8 loại acid amin thiết yếu. Cũng cần lưu ý rằng, ăn thừa acid thiết yếu cũng chẳng lợi lộc gì, vì nếu thừa, chúng sẽ bị phân hủy để tổng hợp các acid amin không thiết yếu, hoặc bị oxyt hóa, hoặc nếu bị loại nitrogen, nó sẽ tồn trữ trong cơ thể ở dạng mỡ, hoặc dạng glycogen nếu bạn đang ăn kiêng (kiêng bột đường) KS Vũ Thế Thành
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 4:04:17 GMT 9
Sự liên quan giữa ăn thịt và ung thư Tâm Diệu Gần đây các chuyên gia y tế nghiên cứu đã có nhiều bằng chứng chính xác chứng minh sự liên hệ giữa ăn thịt với chứng bệnh ung thư ruột già. Lý do gây bệnh là vì trong thịt chứa nhiều chất béo nhưng lại ít chất xơ, nên dễ gây ra chứng táo bón. Trải qua lâu ngày các độc tố trong thịt sẽ làm cho ruột bị ung thối. Tiến sĩ Sharon Flaming thuộc Phân Khoa Dinh Dưỡng của viện Đại học Berkeley ở California đã viết rằng: "Ăn chay trường sẽ ngăn ngừa và làm giảm thiểu sự nguy hiểm của bịnh ung thư ruột già và ruột cùng". Ngoài ra các nghiên cứu gần đây cũng khám phá ra rằng ăn nhiều thịt cũng là mầm móng phát sinh nhiều chứng bệnh ung thư khác đến mức phải báo động. Trong một bài tường trình của Viện Khoa Học Quốc Gia Hoa Kỳ vào năm 1983, các chuyên gia y tế đã ân cần nhắc nhở dân chúng: "Chúng ta có thể ngăn ngừa các chứng ung thư thông thường bằng cách tiết chế thịt. Nên ăn nhiều rau quả và ngũ cốc". Ông Rollo Russell cũng đã phát biểu: "Tôi đã tìm thấy trong 25 quốc gia tiêu thụ thịt nhiều nhất trên thế giới có tới 19 quốc gia có tỷ số dân chúng mắc bịnh ung thư cao và chỉ có một quốc gia ở hàng tỷ số thấp. Ngược lại trong 35 quốc gia mà dân chúng không ăn thịt hoặc ăn rất ít thịt không một quốc gia nào có tỷ số cao về dân chúng mắc bệnh ung thư cả". Những hóa chất nguy hiểm trong thịt: Gần đây các khoa học gia đã tìm thấy rất nhiều chất hóa học độc hại tiềm ẩn trong thịt các loài thú mà khách hàng tiêu thụ không hề hay biết. Trong quyển Poisons in Your Body (Chất độc trong cơ thể của bạn), Gary và Steven Null đã nói về những mánh khóe của một số cơ xưởng sản xuất thực phẩm: "Người ta đã dùng nhiều loại thuốc kích thích tố, thuốc an thần, thuốc trụ sinh và hơn 2700 loại dược chất khác dể cho súc vật tăng trưởng một cách nhanh chóng bất thường và làm cho chúng béo mập nặng cân cũng như không bị chết chóc vì các loại bệnh tật. Họ dùng thuốc để nuôi con vật ngay trong khi chúng còn trong bụng mẹ và cũng dùng thuốc để ướp cho thịt chịu đựng được lâu ngày sau khi chúng bị sát sanh. Hiện nay chưa có quy luật nào bắt buộc các cơ sở chăn nuôi và các kỹ nghệ gia sản xuất thịt phải ghi rõ loại thuốc nào mà họ đã dùng qua trong thời gian chăn nuôi để người tiêu thụ có sự lựa chọn chín chắn. Tại Úc Châu, người ta đã dùng chất kích thích tố Diethylstilbestrol trong kỹ nghệ chăn nuôi. Đây là một chất độc có khả năng gây ra bệnh ung thư nên đã từng bị khách hàng ngoại quốc từ chối và hủy bỏ hợp dồng thương mại. Nhưng còn bao nhiêu những chất độc hóa học khác được dùng trong kỹ nghệ chăn nuôi mà hiện thời vẫn chưa bị khám phá ? Nhờ những chất hóa học này, hàng năm các kỹ nghệ gia sản xuất thịt đã thâu vô một số lợi tức khổng lồ, song cũng đã gây ra biết bao chết chóc vì bệnh tật mà những khách hàng ngây thơ đã vô tình phải gánh chịu. Năm 1972, Bộ Nông Nghiệp Hoa Kỳ đã khám phá ra chất độc thạch tín (arsenic) đã được sử dụng trong kỹ nghệ chăn nuôi gà nên đã khuyến cáo các nghiệp chủ chỉ được phép sử dụng trong một mức độ an toàn mà thôi. Chất Sodium Nitrate và Sodium Nitrite được dùng để giữ cho thịt khỏi bị hư thúi trong kỹ nghệ thực phẩm kể cả các sản phẩm của thịt đã được chế biến và cá đều là những chất có hại cho sức khỏe. Những chất hóa học này làm cho thịt luôn luôn trông có vẻ tươi tốt vì nó đã được nhuộm thấm vào máu và thớ thịt. Nếu không có các chất hóa học này, thịt để lâu sẽ đổi thành màu xám và có mùi hôi nên sẽ bị khách hàng từ chối. Một điều ít ai ngờ đến là chính những chất hóa học này đã làm cho chúng ta khó phân biệt được thịt nào đã để lâu ngày và thịt nào hãy còn mới. Vì vậy, cùng với chất độc hóa học, độc tố phát xuất ra từ thịt để lâu ngày sẽ cộng hưởng với nhau mà tha hồ tàn phá sức khỏe của chúng ta, đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ thơ vì tạng phủ của chúng vẫn còn non yếu. Vì thế Cơ Quan Lương Nông Quốc Tế (FAO) đã khuyến cáo các kỹ nghệ gia chế biến thức ăn cho trẻ con không được dùng hai chất hóa học này để ướp vào thực phẩm. Ông AJ.Lehman nói: "Chỉ một số lượng thật nhỏ của chất nitrate cho vào thực phẩm được coi là trong mức độ an toàn cũng đã là một độc chất nguy hiểm huống hồ là với một số lượng lớn". Nơi chăn nuôi gia súc thường khi bẩn thỉu và chật hẹp nên d sinh ra các bịnh dịch. Để ngăn ngừa hoặc để chữa trị các bệnh truyền nhim lan tràn làm thiệt hại tài sản, các nghiệp chủ không ngần ngại sử dụng một số lượng trụ sinh lớn lao. Họ không đếm xỉa gì đến việc sử dụng thuốc trụ sinh một cách bừa bãi trên cơ thể của loài vật đã vô tình gây ra các chất kháng thể và những vi khuẩn có sức chống cự lại với công hiệu của thuốc trụ sinh. Sau dó những kháng thể độc hại này sẽ tự nhiên được truyền vào cơ thể của con người bằng đường ăn uống. Cơ quan kiểm soát thực phẩm của Hoa Kỳ ước lượng, nhờ các thuốc trụ sinh như Penicillin và tetracyclin mà nền kỹ nghệ thực phẩm sản xuất thịt đã được cứu vớt và nâng tổng lợi tức thu nhập hàng năm lên đến 1 tỷ 900 triệu đô la. Quyền lợi và lòng tham đã khiến các nghiệp chủ làm ngơ trước những ảnh hưởng tai hại tới sức khoẻ mà những khách hàng tiêu thụ là những kẻ vô tội phải hoàn toàn gánh chịu một cách oan uổng. Một số động vật nuôi lấy thịt bị nhiễm trùng E.coli, gây ra các vụ ngộ độc thức ăn nguy hiểm ở người. Các nhà khoa học Anh mới đây đã tìm thấy 60 gene của E.coli, theo đó có thể hạn chế khả năng hoạt động của loại siêu vi trùng này. (Nature) Những mầm bệnh sẵn có trong thịt: Ngoài những hóa chất độc hại được người ta cho vào thịt trong thời kỳ chăn nuôi cho thú được mau lớn hoặc sau khi đã sát sinh để giữ cho thịt được lâu dài, thịt cũng còn chứa những mầm móng bệnh tật khác. Các nhà kiểm thực đã cố gắng thanh lọc các mầm bệnh, nhưng vì áp lực từ phía các kỹ nghệ gia giàu có và thế lực hoặc không đủ khả năng để thanh tra kiểm soát toàn bộ nên một số lượng lớn thịt đã lọt khỏi lưới kiểm tra và đã đến tay người tiêu thụ một cách dễ dàng. Trong một bản báo cáo của cơ quan kiểm dịch Hoa Kỳ hồi năm 1972, xác nhận rằng có nhiều xác thú vật đã thông qua được các mạng lưới kiểm soát sau khi những bộ phận bị nhiễm bịnh đã được cắt bỏ hoặc tẩy sạch. Điển hình gần 100 con bò bị bệnh ung thư mắt và 3.596.302 trường hợp súc vật bị bệnh bướu gan đều đã qua mắt được sự kiểm soát. Cơ quan kiểm dịch cũng còn cho phép thông qua những trường hợp gà bị bệnh viêm phổi được phép đem bán ngoài thị trường sau khi đã rửa sạch bộ phận bị nhim bệnh bằng một loại máy hút đặc biệt. Song phương pháp này cũng không thể nào thanh lọc được hết mầm bệnh đã nhiễm vào thịt. Sự kiện tương tợ này hiện nay cũng đang xảy ra trong ngành kỹ nghệ sản xuất thịt tại Úc.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 12, 2010 4:05:26 GMT 9
Quá trình rán khoai tây tạo ra chất gây ung thư Ngọc Sơn - Thu Thủy Ở nhiệt độ trên 100 độ C, asparagine (một axit amin có nhiều trong khoai tây và ngũ cốc) sẽ phản ứng với đường và tạo ra một chất gây ung thư có tên là acrylamide. Vì vậy, theo các nhà khoa học ở Đại học Reading (Anh), cần thận trọng hơn với món khoai tây rán. Đầu năm nay, người ta đã phát hiện trong khoai tây rán có hàm lượng acrylamide cao hơn mức bình thường. Kết quả nghiên cứu trên động vật cho thấy, món ăn được nhiều người ưa thích này gây ra bệnh ung thư và ảnh hưởng xấu đến hệ thần kinh. Các nhà khoa học ở Đại học Reading nghi ngờ rằng, chất này có thể là kết quả của phản ứng giữa asparagine và đường. Các thí nghiệm đã xác nhận dự đoán trên là đúng. Acrylamide được sử dụng phổ biến trong sản xuất chất dẻo và tinh chế nước. Trước đây, các nhà khoa học đã cảnh báo rằng, hóa chất này có thể ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của những người thường xuyên tiếp xúc với nó. Còn hiện nay, họ rất quan tâm đến sự hiện diện của acrylamide trong thực phẩm và tác hại của nó theo đường này. Các nhà khoa học đang tìm cách kiểm soát quá trình tạo ra acrylamide khi chế biến ngũ cốc. Tuy nhiên, theo giáo sư Donald Mottram, trưởng nhóm nghiên cứu, chất này chỉ có thể bị loại trừ hoàn toàn khi người ta không nấu đồ ăn. Tổ chức Y tế Thế giới cho biết, hiện chưa rõ ảnh hưởng cụ thể của acrylamide đối với sức khỏe con người. Tuy nhiên, để đề phòng tác hại của chất này, mọi người nên giảm bớt lượng đồ ăn rán. Ngọc Sơn Thứ ba, 1/10/2002 (theo BBC) **Tìm thấy chất gây ung thư trong chip khoai tây: acrylamide Acrylamide, hóa chất có thể gây ung thư trên động vật, đã được phát hiện với hàm lượng rất cao ở một số thực phẩm rán và nướng giàu hyđrat cácbon như ngô, gạo, khoai tây... Nồng độ acrylamide trong chip khoai tây cao hơn 2.000 lần so với giới hạn cho phép. Đó là kết luận của một nghiên cứu do các nhà khoa học tại Viện Hóa Môi trường tại Đại học Stockholm (Thụy Điển) tiến hành. Người phát ngôn của Viện cho rằng phát hiện này có thể sẽ ảnh hưởng tới nền sản xuất thực phẩm trên toàn thế giới. Acrylamide có trong nước uống và giới hạn cho phép mà Tổ chức Y tế Thế giới đưa ra là dưới 1 microgam/lít. Nghiên cứu của Thụy Điển cho thấy, hàm lượng tương đương của acrylamide có thể tìm thấy trong 0,5 g chip khoai tây hoặc 2 g khoai tây rán. Acrylamide có mặt trong hầu hết các thực phẩm đã qua chế biến như bánh mỳ, bánh quy, khoai tây rán.... Chất acrylamide hình thành khi thực phẩm có nhiều hyđrat cácbon được rán hoặc nướng dưới nhiệt độ cao. Các món luộc hoặc tươi sống chứa một lượng không đáng kể chất này. Margareta Törnqvist, người dẫn đầu nhóm nghiên cứu cho biết, trung bình mỗi ngày, một người tiêu thụ khoảng vài chục microgam acrylamide. Hóa chất này đã được chứng minh là gây ung thư ở chuột, tuy nhiên 2 nghiên cứu trên người lại cho thấy, tiếp xúc với nồng độ cao của acrylamide trong công việc không làm tăng nguy cơ ung thư. Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ vẫn xếp acrylamide vào nhóm chất "có khả năng gây ung thư" vì tác động của nó lên động vật. Thu Thủy Thứ năm, 25/4/2002(theo NewScientist)
|
|