|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 9:57:03 GMT 9
Diêu bông gọi mãi @trang Tho PhoXua Bao giờ nói hết... Hoàng Cầm Dẫu anh biết diêu bông không thực Sao diêu bông cứ thức hồn em Cứ sao băng mãi đường đêm Cứ trăng lên đậu cành mềm xuân quê Cứ lơi áo cởi trưa hè ngực trần vỗ yếm gọi về tuổi hoa Cứ hương thiên lý đường xa Cứ lưng chừng đợi ngọc ngà hồ ly Cứ môi hôn yên chi chụm cánh dẫn anh về chuốt mảnh chiếu gon Hương nhu xoải tóc lưng tròn cái đêm hôm ấy mắt mòn men tê Diêu bông gọi mãi không về Cứ ngồi canh một giấc mê mặn nồng Lá - em tuyệt sắc thành không Tòa sen tỏa rọi bềnh bông kiếp người Gọi đôi dế hát đôi hồi Nhớ con bướm trắng dập vùi mà thương Chuyện đời ư? - Vạn nẻo đường Cứ lang thang mãi biết phương nào về Ùn ùn phố phố xe xe Cứ trông lốc bụi cứ nghe thét gào Chợt nhìn hẻm hẹp xi xao Ai vui đã cất cánh vào hư vô Ai buồn mà hát líu lo Chớm say ai tỉnh đúng giờ hóa thân Diêu bông biệt chẳng cần em tiễn Cứ chập chờn ẩn hiện tháng năm Sao - em trằn trọc nỗi nằm Một pho cẩm thạch ôm chằm trắng đêm Xuân Hương gọi tên em mờ tỏ Càng long đong phận nhỏ vành khuyên Tầm cao thánh giá thánh hiền Em dang tay đứng lâu bền đợi anh Khổng phu tử muốn thành em bé Thả diều bay Kinh Lễ Kinh Thư Hoãn vần thơ nhé Nguyễn Du! Nghe hồn rêu đá vọng phu ngút rừng Diêu bông dẫu tận cùng chuyện kể Cũng không bằng con trẻ nghêu ngao Rằng... xưa... ai biết vì sao Lá gì lại gọi thế nào... Diêu bông...! (H.C)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:00:16 GMT 9
Một người bạn quý gửi cho một bản copy mờ nhạt nhưng hiếm có của một bài thơ mà nhiều người đã tranh cãi về tên tác giả của nó: đó là bài thơ "Cuộc Đời" của Minh Phẩm tức nhà văn Trang Thế Hy đăng trên tạp chí Vui Sống số 9 năm 1959. Bài Thơ này đã được nhà văn Bình Nguyên Lộc đăng trong tập truyện "Quán Bên Đường" nhưng vì lý do nào đó không ghi tên tác giả. Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc và phát hành bài này thành bản nhạc "Quán Bên Đường" vào cuối thập niên 60, để tên tác giả là "Vô Danh" vì nhà văn Bình Nguyên Lộc không nhận là của mình. Sau này khi sang Mỹ, trong trang phamduy.com ông Phạm Duy lại ghi tên tác giả là Bình Nguyên Lộc với chú thích: "Sau này, khi gặp lại anh ở Hoa Kỳ, anh cho phép tôi đề tên anh là tác giả.". Điều mâu thuẫn là lúc đó ông BNL đã mất từ lâu rồi và trong 1 email của ông được phổ biến sau này trên mạng để trả lời câu hỏi về lai lịch của bài thơ này nhạc sĩ Phạm Duy cho biết "Chưa bao giờ anh Lộc nói với tôi tác giả là ai" Cuộc Đời Ngày xưa hồi còn thơ Một chiều nắng đẹp khoe màu tơ Tôi cùng em hai đứa Thơ thẩn ngồi chơi trên ngạch cửa. Tóc em chừa bánh bèo Môi chưa hồng, da mét: con nhà nghèo ! Đầu tôi còn hớt trọc Khét nắng hôi trâu, thèm đi học Em cầm một củ khoai Cạp vỏ bằng răng rồi chia hai Thứ khoai sùng lượm mót Mà sao nó ngọt thôi là ngọt. Bây giờ giữa đường đời Kỷ niệm ngày xưa mù khơi Gặp nhau chiều mưa lạnh Hai đứa đều sang trong bộ cánh Dung nhan em còn tươi Anh mừng tưởng đâu đời em vui. Dè đâu đây là quán Em bẹo hình hài rao lên bán Đang thời đông khách mua Chợ thịt còn sung được vài mùa. Nghe nói anh cầm viết Nghệ thuật là gì em muốn biết. - “Mùi hôi nói mùi thơm Cây bút cầm tay : cần câu cơm Đó em ơi ! Nghệ thuật : Nhắm mắt quay lưng chào sự thật.” Rồi đôi ta nhìn nhau Không có ai đánh mà lòng đau Em mời ăn bánh ngọt Nhắc củ khoai sùng mình lượm mót Đường bánh tươm vàng mơ Như nắng chiều xưa khoe màu tơ Mới cầm tay chưa cắn Mà sao nó đắng thôi là đắng ! Xin anh một nụ cười Cười là sao nhỉ ? Quên rồi ! Xin em chút nước mắt Mạch lệ em từ lâu đã tắt ! Hỏi nhau : buồn hay vui ? Biết đâu ? Ta cùng hỏi cuộc đời. Minh Phẩm (Vui Sống số 9, 1959)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:01:50 GMT 9
GỞI NGƯỜI DƯỚI MỘ – Đinh Hùng Trời cuối thu rồi em ở đâu? Nằm trong đất lạnh chắc em sầu? Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy, Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu. Em mộng về đâu? Em mất về đâu? Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu Đây màu hương khói là màu mắt xưa Em đã về chưa? Em sắp về chưa? Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ, Ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn Em hãy cười lên, vọng cõi âm Khi trăng thu lạnh bước đi thầm Những hồn phiêu- bạt bao năm trước Nay đã vào chung một chỗ nằm, Cười lên em! Khóc lên em! Đâu trăng tình-sử Nép áo trần duyên? Gót sen Tố-nữ Xôn-xao đêm huyền Ta đi lạc xứ thần-tiên Hồn trùng-dương hiện bóng thuyền u-minh Ta gởi bài thơ anh-linh Hỡi người trong mộ có rùng-mình! Nắm xương khô lạnh còn ân-ái? Bộ ngực bi-thương vẫn rợn tình? Hỡi hồn tuyết trinh! Hỡi người tuyết-trinh! Mê em ta thoát thân hình, Nhập hồn cây cỏ, đa-tình mỗi đêm. Em có vui thêm? Em có buồn thêm? Ngồi bên cửa mộ Kể cho ta biết nỗi niềm. Thần chết cười trong bộ ngực điên, Ta nghe em thở tiếng ưu-phiền, Nỗi lòng xưa dậy tan thanh vắng, Hơi đất mê người! Trăng hiện lên!
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:02:49 GMT 9
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:11:28 GMT 9
Bang Ba Lan Bui Giang
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:13:12 GMT 9
Thương Về 5 Cửa Ô Xưa Tôi đứng bên này vỹ tuyến Thương về 5 cửa Ô xưa Quan Trưởng đêm tàn dẫn lối Đê cao hun hút chợ Dừa Cầu Rền mưa dầm lầy lội Gió về đã buốt lòng chưa ? Yên Phụ đôi bờ sóng vỗ Nhị Hà lấp lánh sao thưa Cầu Giấy đường hoa phượng vỹ Nhớ nhung biết mấy cho vừa... Cửa Ô ơi, cửa Ô 5 ngả đường đất nước Trôi từ vạn nẻo sông hồ Nắng mưa bốn hướng đổ vào lòng Hà Nội Gục đầu nhớ tiếng võng đưa !... Có biết chăng ai, mái tóc bồng bềnh chảy suôi ý đẹp Có nhớ chăng ai, lệ nào ướt đẫm tình người Tê tái tiếng cười Từng cánh hoa đời khép lại Thương về 5 cửa Ô xưa !... Tạ Tỵ (1955) *Bài thơ này đã được phổ thành bài hát cùng tên. Nếu tôi nhớ không lầm thì người phổ là nhạc sĩ Y Vân. Bài hát Thương Về Năm Cửa Ô Xưa trước kia do Thái Thanh hát trên đài phát thanh đã làm mủi lòng những người xa xứ. Giờ không biết có ai còn giữ được ?... *Đoạn đầu của bài thơ, ông Tạ Tỵ đã kể ra 5 cửa ô ở Hà Nội: Ô Quan Chưởng, Ô Chợ Dừa, Ô Cầu Dền, Ô Yên Phụ, Ô Cầu Giấy. Cách viết của một số tác giả thời đó có hơi khác với bây giờ (tr, ch, d, r, x, s...), nhưng tôi vẫn gõ lại đúng theo nguyên bản của ông Tạ Tỵ. Hãy Cho Tôi Hãy cho tôi vần ca dao ngày trước Lời mẹ hiền ru nhẹ ở bên nôi Đã lâu quá, thời gian nghiêng lối bước Tóc phai xanh, ý trẻ cũng tan rồi Hãy cho tôi chuyện thần tiên, cổ tích Cùng mùa thu lá khóc buổi lìa cây Cuộc sống nhỏ quay theo vòng chuyển dịch Ngó tương lai trong hố mắt tròn đầy Hãy cho tôi tuổi học trò thơ dại Với mái trường, thầy cũ, bạn bè xưa Kỷ niệm ơi, bây giờ và mãi mãi Đáy tâm tư sót lại mất âm thừa Hãy cho tôi dáng người tình bé bỏng Lời thương đầu quấn quít giữa trang thư Mỗi chiều xuống là mỗi lần trông ngóng Cứ buông xuôi không cất tiếng giã từ Hãy cho tôi sự cuồng mê bùng cháy Như mặt trời rừng rực lửa tin yêu Tay úp mặt nghe trái sầu run rẩy Trôi, trôi đi màu ảo ảnh diễm kiều Hãy cho tôi tiếng sáo diều bay ngất Cả vầng trăng xanh ngắt góc vườn xa Lũy tre mướt ôm ruộng đồng thơm mật Tưởng đâu đây hơi ấm của quê nhà Hãy cho tôi điệu thanh bình nhung lụa Với tiếng cười bát ngát vút lên cao Đêm bỏ ngỏ đón chờ duyên đôi lứa Nhịp võng đưa chen giọng hát ngọt ngào Hãy cho tôi khoảng đời hoa đã mất Trót lỡ lầm hoang phí kiếp nhân sinh Bao tội lỗi chất đầy khung cửa chật Bỗng xôn xao vang rộn khúc xuân tình Hãy cho tôi từng mộng mơ hiền hậu Từng hẹn hò tha thiết thuở yêu em Xin xua đuổi những lời đau, ý xấu Cho yên vui chung giấc ngủ khuya mềm Hãy cho tôi, hãy cho tôi, người hỡi Cuộc chiến này đan kết chuỗi đau thương Cơn mê ngất với thịt xương kêu gọi Hãy cho tôi được chối bỏ thiên đường!... Tạ Tỵ (Trích trong Tuyển Tập Tạ Tỵ. Bài thơ này đã đăng ở tạp chí Bách Khoa tháng 10-1972)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:15:20 GMT 9
Tráng Ca Sinh ta, cha ném bút rồi Rừng nho tàn rụng, cho đời sang xuân Nuôi ta, mẹ héo từng năm Vắt bầu sữa cạn tê chân máu gầy Dạy ta, ba bẩy ông thầy Gươm dài sách rộng, biển đầy núi vơi Nhà ta cầm đợ tay người, Kép bông đâu áo, ngọt bùi đâu cơm? Chông gai đổi dại làm khôn Ba vòng, mòng sếu liệng tròn lại bay… Bông hoa chu giáp vần xoay Cánh vàng non nửa đài gầy tả tơi… Chữ nhân sáng rực sao trời Đường xe mở rộng chân người bước xa… Bọn ta một lớp lìa nhà Cháo hàng cơm chợ, ngồi ca lúa đồng Hây hây tóc óng từng vòng Gió nào là gió chẳng mong thổi lùa ! Trường đình phá bỏ từ xưa Đất này sạch khí tiễn đưa cay sè Bốn phương tản mát bạn bè Nhớ nhau hẹn quả mùa hè gặp nhau …Rầm trời chớp giật mưa mau, Lửa đèn chấp chới, khói tàu mù u Bốn phương đây bạn đó thù Hiệu còi xoáy lộng bản đồ năm châu - A, cơn thảo muội bắt đầu, Tuổi xanh theo gió ngậm câu dặm dài Thét roi lượng sức ngựa tài Coi trong cuộc rối tìm người chờ mong… Trai lận đận, gái long đong Chờ mong khắc khoải nản lòng dăm ba: Nẻo về gốc mẹ cỗi cha Thuyền ai nặng chở món quà đắng cay ! Từng nơi xống áo trùng tay Gió thu thổi bạc một ngày lòng son; Từng nơi cơm trấu, áo rơm Mưa xuân nhuốm tái mấy cơn mặt vàng Vượn kêu ruột buốt trên ngàn Nhưng thôi ! Sao việc dã tràng lầm theo? Nện cho vang tiếng chuông chiều Thù đem sức sớm đánh kêu trống đình Thở phù hơi rượu đua tranh Quăng tay chén khói tan thành trời mưa Dặm dài bến đón bờ đưa Thuyền ai buồm lái giúp vùa vào nhau Kia kìa lũ trước dòng sau Trăm sông rồi cũng chung đầu đại dương Thâm Tâm 1944 Theo: Thâm Tâm và T.T. KH (Tủ sách Thế giới văn học ) Hội Nhà Văn Việt Nam xb 1991
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:16:38 GMT 9
Trời Chớm Vào Thu
Thanh Nam*
Trời chớm vào thu ươn ướt mưa Sông sâu chừng thấm lạnh đôi bờ Hoa vàng ý cúc phơi mầu nhớ Nằm giữa thôn hiền gọi cố đô
Ta ở nơi này nhớ những ai Đành thôi câu chuyện khách trang đài Sông kia có gợi niềm u uất Cũng thể đôi lòng sớm nhạt phai
Ôi tóc xanh này phai với thu Ngàn năm còn khóc chuyện sông hồ Bài ca trường dạ ngâm chưa dứt Đã thấy dâng buồn ngát ý thơ
Chiều xuống mưa xanh màu nhớ thương Hơi thu man mát gió lên đường, Cố nhân xa cách nghìn sông núi Cách biệt đôi bờ thoáng phấn hương
Ta gọi em thầm em gái ơi Chiêm bao toàn những chuyện phương trời Hờn lên ly rượu miền gai lửa Chợt thấy em sầu lệ đẫm rơi
(*) Bài thơ này được ký dưới tên Nguyễn Minh Lang, đăng trên báo văn nghệ Thẩm Mỹ của nhóm Thanh Nam năm 1954 Nhà văn Duyên Anh kể lại lời Thanh Nam “Ừ. Tao ký tên Nguyễn Minh Lang. Hơi hớm Đôi Bờ của Trần Quang Dũng, phải không mày?”
(trích Hồi Ký “Nhìn Lại Những Bến Bờ” của Duyên Anh. Xuân Thu xb USA 1988) Đọc phần trên, có khi người ta sẽ hiểu lầm Thanh Nam và Nguyễn Minh Lang là một người. Thật ra, Thanh Nam và Nguyễn Minh Lang có khoảng thời gian sáng tác chung, có khi người này ký tên của người kia, nhưng họ cũng có những sáng tác riêng.
...Đầu thập niên 50 Thanh Nam giao du với Nguyễn Minh Lang một bác phó may ở phố Tràng Tiền yêu văn nghệ và hai người rủ nhau viết lách cả hai thi nhau sáng tác những thiên tiểu thuyết diễm tình rồi gửi vào Sài Gòncho mấy nhà xuất bản trong Nam in và cuốn Nước Mắt Đêm Mưa của Thanh Nam sáng tác bỗng trở thành một trong những cuốn tiểu thuyết tình cảm bán chạy, và lúc đó. Thanh Nam được Tô Kiều Ngân rủ vô Sài Gòn chủ trương tuần báo Thẩm Mỹ. Thế là Thanh Nam bán tiệm sách giã từ Nguyễn Minh Lang vô Nam cho thỏa chí là uống rượu và đi giang hồ. Trước khi đi Nam, Thanh Nam đã làm bài thơ gửi Nguyễn Minh Lang có những câu:
Tôi tóc xanh và anh tóc xanh Tuổi chưa xế nắng đời chưa ngả Hồn vẫn mơ chung một viễn hành Nhất khứ chưa hề say vạn dậm Bụi hòang hôn thẫm mắt tinh anh
(trích 100 Khuôn Mặt Văn Nghệ Sĩ của Hồ Nam và Vũ Uyên Giang)
...Trước năm 1954, ở Hà Nội người ta đọc Cuộc Đời Một Thiếu Nữ của Thanh Nam, Nhìn Xuống của Sao Mai, Cánh Hoa Trước Gió của Nguyễn Minh Lang, Mẹ Tôi Sớm Biệt Một Chiều Thu của Hòang Công Khanh...
(trích Bông Hồng Tạ Ơn của Nguyễn Đình Toàn)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:18:04 GMT 9
Mai Mốt
Mai mốt em tôi về xứ Bắc Cách bao rừng núi cách bao sông Tôi nằm mộng thấy em cười khóc Lo ngại đời hoa bạc má hồng
Mai mốt con tàu say khói sóng Em về như một dáng hoa bay Tôi nhìn muôn dặm còn thương nhớ Theo dõi em đi trọn tháng ngày
Mai mốt con đường xa lạ quá Phố phường nào thấy bóng em qua Em đi tha thiết tình nhau lắm Trang giấy băng sương mực chửa nhoà
Mai mốt em về thôn xóm cũ Con đường Kinh Bắc lá tre rơi Giữa trưa đường vắng em ngừng bước Nghiêng nón môi em sẽ hé cười
Mai mốt em sầu như dáng liễu Pháo hồng làm bạn với xe hoa Rưng rưng mắt lệ em thầm nói Thôi nhé, thôi rồi chuyện chúng ta
Mai mốt đời em vui hạnh phúc Bên chồng, bên một đứa con ngoan Rồi khi chiều xuống trăng lên ấy Giở áo em ngồi lặng lẽ đan
Mai mốt em ơi em có nhớ Cuộc đời còn nhắc đến tên tôi Và em bình thản cười vơ vẩn Người ấy, chờ chi cưới vợ rồi
Mai mốt, thôi em về xứ Bắc Nói gì em đã của phương xa Cầu cho đôi mắt em trong mãi Và vẫn xanh màu như thuở xưa
Tôi vẫn chẳng buồn vì cách biệt Dù rằng còn gọi: cố nhân ơi Tôi không lưu luyến mùi son phấn Thôi nhé ! Em đi, hết, hết rồi !
Thanh Nam
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:18:37 GMT 9
Hoa Lúa của Thi Sĩ Hữu Loan.
Em là con gái đồng xanh Tóc dài vương hoa lúa Đôi mắt em mang chân trời quê cũ Giếng ngọt, cây đa Anh khát tình quê ta trong mắt em thăm thẳm Nhạc quê hương say đắm Trong lời em từng lời Tiếng quê hương muôn đời và tiếng em là một Em ca giữa đồng xanh bát ngát Anh nghe quê ta sống lại hội mùa Có vật trụi, đánh đu, kéo hẹ, đánh cờ Có dân ca quan họ Trai thôn Thượng, gái thôn Đoài hai bên gặp gỡ Cầm tay trao một miếng trầu Yêu nhau cởi áo cho nhau Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay Quê hương ta núi ngất, sông đầy Bát ngát làng tre, ruộng lúa Em gái quê hương mang hình ảnh quê hương Xa em năm nhớ, gần em mười thương Còn bàn tay em còn quê hương mãi Em mang nguồn ân ái Căng ngực trẻ hai mươi và trong mắt biếc nhìn anh Em gái quê si tình Chưa bao giờ được yêu đương trọn vẹn...
Anh yêu em muôn vàn như quê ta bất diệt Quê hương ta ơi từ nay càng đẹp Tình yêu ta ơi từ nay càng sâu Ta đi đầu sát bên đầu Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hương.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:20:13 GMT 9
Mẹ ơi, đời mẹ thi sĩ Huy Cận
Mẹ ơi, đời mẹ khổ nhiều Trách đời, mẹ giận bao nhiêu cho cùng Mà lòng yêu sống lạ lùng Mẹ không phút nản thương chồng, nuôi con. "Đắng cay ngậm quả bồ hòn, Ngậm lâu hoá ngọt!" Mẹ còn đùa vui! Sinh con mẹ đã sinh đời Sinh ra sự sống, mẹ ngồi chán sao? Quanh năm có nghỉ ngày nào! Sớm khuya làm lụng người hao mặt gầy. Rét đông đi cấy đi cày Nóng hè bãi cát, đường lầy đội khoai. Bấu chân khỏi ngã dốc nhoài Những chiều gánh nước gặp trời đổ mưa. Giận thầy, mẹ chẳng nói thưa, Vỉa câu chua chát lời thơ truyện Kiều. Cắn răng bỏ quá trăm điều Thuỷ chung vẫn một lòng yêu đời này. Mẹ là tạo hoá tháng ngày Làm ra ngày tháng sâu dày đời con.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:21:48 GMT 9
Dưới Giàn Mồng Tơi (Kính tặng Má) Mẹ già nấu rượu nếp than Kiếm tiền trả bớt nợ nần thâm niên Trán nhăn cày nếp ưu phiền Bàn tay nào sạch? đồng tiền nào dơ * Cao già xa gốc trơ vơ Trái đau trổ muộn bạc phơ mái đầu Nửa đêm ngồi ngoáy cối trầu Nghiền tan cay đắng trộn màu thời gian. Nhìn màu tím rượu nếp than Ngỡ ngồi hóng mát dưới giàn mồng tơi Nghe mòn mỏi nhịp võng lơi, Thoáng hương cau ngát mây trời quê hương. * "Bần gie, đom đóm lập lòe Năm mười chín tuổi, mẹ về với cha" Hai mươi, nở nhụy khai hoa Vầng trăng mười chín xế tà vì đâu? Mùa mưa cắm cá giăng câu, Mùa khô, bắc ách xe trâu băng đồng * Hai vai gánh nợ con chồng, Tay nhen bếp lửa, tay bồng con thơ Thở dài theo điệu ầu ơ "Lấy chồng xa xứ, bơ vơ một mình" Bên ven rừng xứ U Minh, Trọn niềm dâu thảo, trọn tình mẫu thân Bây giờ héo hắt tuổi xuân, Sáu mươi năm, sáu mươi năm mỏi mòn. Vầng trăng Xẻo Đước thôi tròn, Đường câu đã cuốn, lối mòn đã qua. * Tàu súp lê một Tàu súp lê ba Con sông Cái Lớn... làng xa... khói mờ. Trưa buồn nghẹn tiếng hít cô Xót xa chim vịt bơ vơ gọi bầy. * Ới sông Cái Lớn Ới ngọn bần gie Lửa đom đóm chẳng lập lòe, Bao giờ mới thấy lối về quê xưa. Kiên Giang Súp lê Súp lê là còi tàu hụ. Trước khi tàu nhổ neo có ba lần còi hụ để báo cho hành khách chuẩn bị xuống tàu. súp lê một còn than còn thở súp lê hai nửa ở nửa về súp lê ba tàu ra biển Bắc tay vịn song sắt miệng chắc lưỡi kêu trời chồng Nam vợ Bắc sống đời đặng sao ! Bần Nếu những cây gạo, cây đa, cây cau, cây tre, cây chuối... là hình ảnh quen thuộc đối với những người sống ở những vùng nông thôn khác của Việt Nam, thì cây bần là bạn những người sống ở những vùng sông nước miền Nam. Đất miền Nam là đất bồi, đất xốp - trời cho cây bần sinh sôi ở đó để giữ đất. Rễ bần là rễ chùm, đâm sâu vào đất rồi bám chặt lấy không cho đất trôi đi. Dọc ven sông, đi đâu cũng thấy bần. Cây bần đi vào tiềm thức của dân vùng sông nước cũng như cây chuối đối với dân ở vườn ở ruộng. Dân ở vườn ru con rằng: "gió đưa bụi chuối sau hè anh mê vợ bé bỏ bè con thơ" Còn dân ven sông thì hát: "bần gie đóm đậu sáng ngời lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên" Hoặc có một điệu hò như sau: "cây bần gie, bầy đom đóm đậu sáng loà bởi qua thương em bậu bởi qua nhớ em bậu nè, bớ em bậu ơi ! bởi qua thương qua nhớ cho nên giữa nửa đêm tăm tối giữa nửa đêm tăm tối qua cũng thả bè mà qua lội qua sông..." Cây bần có tên chữ là Thuỷ Liễu. Hoa bần màu trắng tím, cánh hoa đỏ đậm, mảnh, cao, tiểu nhuỵ nhiều, đáy chỉ đỏ tím. Rễ bần dùng làm nút chai. Trái bần tròn giẹp, khi chín ăn có vị chua, hơi chát, hột nhiều. Chỉ có trẻ con hái ăn cho vui hoặc để chọi nhau. Người ta nói khỉ thích ăn trái bần. "cây bần gie, cây bần ngã, cây bần quì cảm thương con khỉ đột, lấy gì nó ăn ?" "tuổi thân con khỉ ăn bần chuyền qua chuyền lại té ùm xuống sông..." Hít cô Là tên một loài chim. Có sự tích chim hít cô trong kho tàng chuyện cổ tích Việt Nam. Tôi quên mất tiêu rồi. Ai nhớ xin làm ơn kể lại giùm. Chim vịt Chắc ai cũng biết câu ca dao này: "chiều chiều chim vịt kêu chiều bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau." Tích con chim hít cô Năm đó trời hạn, ruộng nương mất mùa, cả làng phải đói kém. Có hai cô cháu sống kham khổ, nương tựa nhau. Còn dư một nắm đậu, họ đem luộc chín rồi rồi ngậm mà nuốt nước cho đỡ đói. Cô ngậm xong thì nhả ra cho cháu ngậm. Cứ như vậy thay phiên nhau. Lần lần mấy hạt đậu mòn ta ra. Lần chót đứa cháu ngậm hột đậu cuối cùng, rủi hột đậu chạy vô miệng mất luôn. Người cô đành chịu đói mà chết. Qua những năm đó, gió mưa trở lại thuận hòa, cây trái xum xuê. Đứa cháu hóa thành một con chim, tối ngày nhảy nhót tìm hình ảnh của người cô chết đói năm trước. Nó gọi cô về để chung hưởng hoa quả: "Hít cô!" Tức là gợi lại chuyện ngậm hột đậu cho đỡ đói. Chim Hít Cô hay Huýt Cô là 1 loài chim hót hay, còn có tên là chim Nghệ hay chim Vàng Nghệ . Tên khoa học của nó là Aegithina tiphia
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:27:03 GMT 9
Bánh Ống Trà Vinh -Kiên Giang-
Tôi yêu kiểu áo "Tầm vong" nhỏ, Đôi mắt đen huyền cô gái lai, Đôi mái chùa cong như cánh phượng, Gió bay cờ phướn đẹp mây trời.
Tôi yêu hơi nước trong nồi đất, Nấu chín mùi cơm bánh Phú Vinh, Lá dứa thiên thanh màu lá mạ; - Cô em mặc áo cũng thiên thanh.
Tôi yêu múi bưởi Thanh Trà ngọt (Những hột kim cương của đất lành) Thay tách nước trà khi đụt nắng, Ra về còn luyến chút ân tình.
Đời lặng lờ trôi trên biển lúa Vờn theo bóng nhạn, cánh cò bay, Lưới tung chụp sóng, tìm cơm áo, Thuyền trở về sông, bến cá đầy.
Tiếng trống cơm hòa nhạc ngũ âm, Trong ngày Đưa Nước, hội trăng rằm, Dù Kê hát bội vui chùa miễu, Sống thái bình, quên cả tháng năm.
Hơi nước còn thơm mùi bánh ống, Còn thơm tà áo sắc thiên thanh, Cô em bán bánh sao hiền quá, Lóng lánh mắt huyền in bóng anh.
Vườn bưởi Biên Hòa tuy ngọt lịm, Cũng không bằng nửa múi Thanh Trà Vì hương tóc rối thơm bông bưởi. - Cô gái Trà Vinh đẹp mặn mà.
Về xứ Trà Vinh ăn bánh ống Thương màu lá dứa, áo thiên thanh - Gió đưa hương bưởi vào hơi thở Thương xứ thương luôn gái Vĩnh Bình.
-Lúa Sạ Miền Nam, 1970-
bánh ống Trà Vinh. Bánh đơn giản chỉ có bột gạo màu lá dứa, dừa sợi vừa bào, muối mè cuốn vào lớp bánh cuốn mỏng vừa nướng tại gánh hàng. Tất cả cuốn thành một cái ống. Đơn giản vậy mà ăn ngon.
Ok Om Bok
Trà Vinh cũng như Sóc Trăng, Kiên Giang... là những nơi có nhiều người Khmer sinh sống chung với cộng đồng người Việt từ lâu đời. Ở đó ngoài những lễ, tết, hội hè... theo phong tục người Việt còn nó những lễ, tết, hội hè... của người Khmer. "Ngày Đưa Nước, hội trăng rằm" trong bài thơ trên, người Khmer gọi là Ok Om Bok. Theo truyền thống, vào rằm tháng 10, để tưởng nhớ đến công ơn của mặt trăng, được xem như vị thần điều tiết mùa màng, bảo vệ cá tôm, người Khmer lấy lúa nếp mới thu hoạch giã thành cốm dẹp để làm lễ vật chính cúng trăng. Trong ngày hội này, người ta tổ chức hát Dù Kê, nhảy Sạp, múa Lâm Thol, đua ghe Ngo, thả đèn trên nước, và nhiều cuộc vui khác...
Dù Kê
Dù Kê là một loại hình sân khấu hát tuồng của người Khmer (ở Cambodia người ta gọi là Lòkhon), nó có thể so sánh với loại hình hát bội của Việt Nam. Sân khấu để hát Dù Kê có thể dựng lên ở bất cứ chỗ nào: sân chùa, sân trường, ngoài vườn, giữa ruộng... miễn là có khoảng đất trống để khán giả ngồi chung quanh xem. Trong những lúc nông nhàn, lễ cưới, hội hè...người Khmer thường mời đoàn hát đến để thưởng thức Dù kê. Tuồng hát thường là những tích xưa trong bộ sử thi Ramayana của Ấn Độ (dân tộc Khmer chịu ảnh hưởng của nền văn minh Ấn Độ). Có một tuồng Dù Kê rất phổ biến mà người Việt cũng biết, là tuồng Sĩ Thạch, tức Thạch Sanh chém chằng. Người Khmer mê Dù Kê cũng như người Nam bộ mê cải lương, các tuồng tích của Dù Kê không nhiều, năm này qua năm khác cũng chỉ có nhiêu đó, các lời thoại, tình tiết... họ đều thuộc lòng nhưng hễ có hát Dù Kê là họ phải đi xem.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:31:06 GMT 9
Kim Tuấn tên thật là Vĩnh Khuê, sinh ngày 15 tháng 10 nãm 1940 tại Huế. Kiên Giang tên thật là Trýõng Khýõng Trinh, sinh ngày 17 tháng 2 nãm 1929 tại làng Ðông Thái, huyện An Biên, tỉnh Rạch Giá. Những bút hiệu khác: Cửu Long Giang, Hà Huy Hà.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:32:37 GMT 9
Sương Gió Bồng Bềnh
Vũ Hoàng Chương
(Xa gửi bạn Nguyễn Bính)
Hỡi kẻ đúc gươm lò Trần Quốc Từng đem mạng sống đổi gươm linh Chí mong ánh thép thay thời cuộc Trở lại mùa thiên hạ thái bình
Nhớ người ai nhớ bằng ta nhớ Ta tráng sỹ từng như mây bay Ghé bến Hoàng Sa chân dẫm lửa Tim gươm…. và đã được trao tay
Tráng sỹ là ta, người ẩn sĩ Hai vai sống, chết nay chia bờ Hỡi ơi ! Bính nhớ Hoàng không nhỉ? Hà Nội đêm nào diễn kịch thơ !
Ôm bóng giai nhân từ mộng ảo Vào không gian, kịch hiện chân thân Ta cùng người đã chung hoài bão Gươm sáng ngời lên giữa điệu vần
Nhưng rồi sân khấu nằm tê liệt Trời cố đô như bóng mất hình Khói đắng men cay đâu tiễn biệt Chim bằng vỗ cánh rời Nam Ninh
Bài ca “tận túy” rung thành lệ Người bảo “Thơ Hoàng phải Bính ngâm” “Lỡ Bước Sang Ngang” ta nhủ khẽ: Gươm thiêng trong kịch chớ trao lầm !
Ai hay đời chẳng thơ như kịch Năm ấy người đi là “một đi” Dẫu có trở về nhưng tịch mịch Hình phai bóng lợt đâu còn chi !
Còn ai diễn “bóng giai nhân” nữa? Người với cố đô cùng mất nhau Ta mất cả hai… còn một nửa Cuộc đời thôi cũng xế ngàn dâu !
Ném lên sàn gỗ ai cùng diễn? Ném xuống bào ai mở quỷ môn? Ném tới, ba chiều xương mắc nghẹn Đành thôi, Bính ạ ! Một càn khôn
Hoàng đang ở cõi “Vô hà hữu” Bính lại đừng lo đường lối mê ! Chẳng thấy ngả nghiêng hoa thạch lựu Hoàng ngâm thơ Bính…có hồn ghê !
“Chừ đây bên nớ bên tê Sương thu xuống, gió thu về bồng bênh” Còn đây vắng tiếng gươm ngày nọ Bến nước mười hai khóc nổi nênh !
Đoạn đầu của bài thơ này :
Hỡi kẻ đúc gươm lò Trần Quốc Từng đem mạng sống đổi gươm linh Chí mong ánh thép thay thời cuộc Trở lại mùa thiên hạ thái bình
Có lẽ tác giả muốn nói đến tích hai thanh kiếm Can Tương và Mạc Gia trong Xuân Thu Chiến Quốc. Theo "Ngô Việt Xuân Thu" thì Can Tương là một người luyện kiếm tài danh người nước Ngô. Có lần Can Tương tìm được một quặng thép quý và cho dựng lò luyện kiếm. Luyện mãi mà thép chẳng chịu chảy ra, vợ ông là Mạc Gia, cũng là người luyện kiếm thấy thế hỏi, Can Tương trả lời: "kim loại này phải có nhân khí mới tan được". Nghe vậy Mạc Gia tắm gội sạch sẽ, rồi nhảy vào lò luyện kiếm, nhờ vậy kim loại tan ra và Can Tương rèn được hai thanh bảo kiếm, đặt tên là Can Tương và Mạc Gia.
Câu cuối của đoạn thứ hai : "Tim gươm…. và đã được trao tay ", tôi nghĩ là "Tìm gươm... và đã được trao tay" mới đúng. Từ đoạn thứ hai trở đi, các tên riêng (như Hoàng Sa, Nam Ninh) và một số chữ trong ngoặc kép (như tận tuý, vô hà hữu...) có lẽ là những chữ đã dùng trong vở kịch thơ Bóng Giai Nhân (1942) của Nguyễn Bính.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:35:11 GMT 9
"Đất mẹ gầy có lúa Đồng ta xanh mấy mùa Con trâu từ đồng cỏ Giục mõ về rộn khua" Bài thơ Nụ hoa vàng ngày xuân của thi sĩ Kim Tuấn đã được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ nhạc trong một sự tình cờ. Từ khi nó trở thành bài hát Anh cho em mùa xuân, những lời của bài thơ này được nhiều người thuộc lòng. Nhưng ít nhất đã có một lần, Kim Tuấn "phàn nàn" vì một chữ trong bài thơ bị hiểu sai và phổ biến sai một cách tai hại. "Đất mẹ gầy có lúa" bị trở thành " đất mẹ gầy cỏ lúa". Đất mẹ gầy có lúa là một mơ ước của thi sĩ, đất mẹ tuy cằn cỗi, tuy hẹp chiều ngang, nhưng vẫn có đủ lúa để nuôi dân ở đó. Còn cỏ lúa là kẻ thù của nông dân, vì làm cỏ lúa rất cực, làm cỏ lúa là nhổ bỏ những cọng cỏ mọc lẫn trong cây lúa. Thành ra, từ có lúa sang cỏ lúa, ý câu thơ bị hiểu ngược lại với ý tác giả lúc viết ra bài thơ. Sau này, thi sĩ Kim Tuấn nhắc lại ý của mình trong bài thơ Nụ hoa vàng ngày xuân một lần nữa khi trả lời cuộc phỏng vấn của báo Thanh Niên. - Bài thơ ''Nụ hoa vàng ngày xuân'' của anh được nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ nhạc thành ca khúc ''Anh cho em mùa xuân'' rất hay. Anh có thể cho biết cảm xúc khi viết bài thơ này? - Tôi làm bài thơ Nụ hoa vàng ngày xuân để nhớ về quê mẹ: Hà Tĩnh - vùng đất sỏi đá nhiều hơn cơm gạo, với ước mơ ''Đất mẹ gầy có lúa''. Bài thơ này tôi sáng tác vào đầu thập niên 60, sau đó được in trong tập Ngàn thương và nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ thành ca khúc. Đã có nhiều ca sĩ thể hiện bài hát này nhưng tôi thích giọng ca của Hà Thanh hơn cả và điều tôi ray rứt là cho tới nay vẫn chưa nói được với nữ ca sĩ này một lời cám ơn.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:36:35 GMT 9
Những Con Đường Hà Nội Nửa đêm không ngủ Nhớ về Hà Nội mến thương Hà Nội ơi Hà Nội Tương tư thức trắng canh trường Hà Nội của tôi Của một triệu người lìa Hà Nội Bỏ quê hương bỏ cả phố phường Đánh mất tuổi thơ, chôn vùi kỷ niệm Bỗng đêm nay sống lại trong tôi Những con đường Hà Nội mến thân ơi Hỡi những con đường Có từ lúc tôi ôm bầu sữa mẹ Những vỉa hè quen thuộc tự ngày xưa Những vỉa hè phơi nắng dầm mưa Chân chập chững theo chiều tay mẹ dắt Rồi nhớn lên Giữa những con đường dằng dặc Tiếp nối nhau theo bờ ngói xiêu xiêu Tiếp nối nhau như tay của người yêu Truyền hơi thở khi gió mùa đến sớm Những con đường Những con đường rờn rợn Tiếng chân người lạnh lẽo gõ đêm khuya Nghe than van từng điệp khúc não nề Nghe rỉ rả mưa phùn lầy lội Nghe rụng xuống dưới chân tường xám hối Những thân tàn rũ gục chết mùa đông Từng âm thanh gờn gợn buốt trong lòng... Hà Nội, ôi Hà Nội ! Hà Nội của tôi Với hình ảnh Mẹ già khắc khoải Với em thơ mòn mỏi đếm ngày xanh Vọng tiếng thời gian bóng xế ngang mành Nghe thương nhớ nghẹn ngào trong ngực Đường phố cũ chôn vùi uất ức Thanh xuân nào e ấp giữa bàn tay Vào chợ đời đánh mất tuổi thơ ngây Nhìn mắt trắng buồn tênh cười thế sự Những con đường Ôi, những con đường cũ Chiều phế hưng nằm ngủ dưới thời gian Lớp bụi đời phủ trắng màu tang Trong im lặng của bao người Hà Nội Mà năm tháng chưa xoá mờ tội lỗi Cứ đêm đêm từ 5 cửa Ô xa Hát vọng về theo những canh gà Tiếng sênh phách hú hồn ma quỷ Bánh xe nghiến mặt đường rền rĩ Tóc ca nhi chảy ướt vũng bùn nhơ Hà Nội ơi ! Vỡ nát cả mong chờ Hà Nội, chao ôi Hà Nội Hà Nội với những con đường đọng tím Những con đường câm nín Những con đường chết lịm ở tim tôi. Tuổi hoa niên từng hát khúc yêu đời Và nhảy múa khắp nẻo đường Hà Nội Bao thương mến với bao nhiêu bối rối Trôi về đây tàn phá cõi tâm linh Trắng đêm thâu, trắng cả khối chân tình Từng xác lá thu về vàng lối cỏ Mùa úa héo dâng đầy đôi mắt nhỏ Em ơi em ! Có biết thuở nào khuây Nhớ thương nhau qua những cánh đêm gầy Nhìn gương mặt hãi hùng sau giấc ngủ. Ôi, Hà Nội Ôi những con đường cũ Đâu hàng Bông hàng Trống với hàng Khay Đâu hàng Đào khoe nõn những bàn tay Những đôi mắt nhìn nhau sầu ly cách Nước Hồ Gươm còn xanh màu cẩm thạch ? Tà áo ai còn đẹp buổi hoàng hôn ? Nhớ thương xưa nhạt nắng những khung tường Nghiêng nghiêng xuống mặt hồ ôm bóng nước Những con đường Những con đường năm trước. Của ngày xưa, xa lắm Hà Nội ơi Đêm nay về ngự trị giữa lòng tôi Đêm nay về, với 5 cửa Ô nghẽn lối. Thao thức mãi, từng canh gà báo vội Rạng đông nào gối lệch tóc đêm sâu Ở ngoài kia, bóng tối đã phai mầu !.. Tạ Tỵ Trích trong thi phẩm Cho Cuộc Đời xuất bản năm 1966. In lại tại Hoa Kỳ trong Tuyển Tập Tạ Tỵ.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:38:55 GMT 9
Chương trình Tao Đàn với câu giới thiệu mở đầu quen thuộc hàng đêm của thi sĩ Đinh Hùng: “Đây, Tao Đàn, tiếng nói Thi ca miền Tự Do, do Đinh Hùng phụ trách với sự cộng tác của Thanh Nam, Tô Kiều Ngân, Huy Quang, Thái Thủy….”, nhớ lại thật bùi ngùi. Xin mời cả nhà cùng đọc lại những vần thơ tiếc thương thi sĩ Đinh Hùng của thi bá Vũ Hoàng Chương:
Tiếng Đó Người Đâu?
“ Tiếng nói Thi ca miền Tự Do…” Mười hai năm trước giữa Sài Đô Cất lên cao vút nghe đồng vọng Cả khối băng kia ngọc đáy hồ ! Chắc cũng nao nao giòng Bến Hải Cùng ba mươi sáu phố phường xưa Đêm nay, vẫn tiếng ai sang sảng Trời hỡi mà sao nghẹn gió mưa ! Vĩ tuyến nào đây toan dứt phựt? Lâu rồi căng thẳng với dây thơ !
“Đây Tao Đàn….”, sóng truyền thanh nổi Ai có nghe chăng lọt gió mồ? Ai có thấy chăng hồn nước réo? Cửa Hàn sương quyện khói sông Lô… Người mê hơi đất nay về đất, Hiểu nghĩa vầng trăng huyết dụ chưa? Hai mươi tám giọt sao mờ, Tàn đêm lửa quỷ, bất ngờ hài tiên Ờ, đây mới thực người quen: Khói thơ là áo, hoa đèn là thân Với ta, chỉ một nàng Vân * Kể chi xác mượn, phong trần bấy nay Hé môi giọng chập chờn lay: “Đinh Hùng”, tên họ ai đây thế Hoàng ?
Cơn trường mộng, kiếp đi hoang Ném xa kỷ niệm ngoài khoang phiêu bồng Quen nhau họa có vân mòng Còn tên còn họ là không còn gì ! Ngẩng trông, khói lọt hàng mi Phút giây mình đã quên đi chính mình Nhưng quên người, hỏi sao đành? Mấy luân hồi nữa cho lành vết thương !
Ngâm câu “Yếm tác nhân gian ngữ” Giục ngọn đèn thu nở thịt xương Đôi ta lại một chiếu giường Cười rung bóng quỷ Vô thường ngoài kia !
Vũ Hoàng Chương (tại Sài Đô, khởi viết đêm 23 tháng 7 Đinh Mùi 1967 – hoàn tất đêm Trung Thu)
* Nàng Vân tức Vân Muội, tên vở kịch thơ của Vũ Hoàng Chương, do Đinh Hùng đóng vai Vân Muội dưới tên Hoài Điệp.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:46:00 GMT 9
Hà Đông của mình nổi tiếng về lụa, cũng giống Trữ La bên Trung Hoa ngày xưa. Trữ La có hai cô gái đẹp giặt lụa đã kéo sụp ngai vàng của vua Ngô. Một cô là Trịnh Đán, đã được nhà thơ Thẩm Thệ Hà cảm khái bằng bài thơ dưới đây. Trịnh Đán Gió cừu thổi lạc ngàn mây, Ôi ! vàng võ lắm cho gầy nét thu Đời buồn như kẻ chinh phu : Lên yên ! vó ngựa cầu thu nhịp đều... Quan san mấy dặm phù kiều, Đem tơ đất Việt se liều đất Ngô " Thuyền ai đậu bến Cô Tô Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San ". Trữ La nhớ giải mây vàng, Đem thân này đổi muôn vàn mộng kia. Đêm nằm nghe gió vương tơ Đêm nằm nghe gió làm thơ má hồng. Canh tàn lắng giọt sầu đông, Xe dê chừng với lá đồng đã sang Thẹn mình nép bóng long nhan, Trông vời đất Việt hai hàng lệ sa. Thẩm Thệ Hà (1946)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:50:52 GMT 9
THI SĨ HOA ĐẤT NẮNG LÀ AI ?
ĐỖ HÙNG
Trong tập nhạc Kỷ Vật Của Chúng Ta của nhạc sĩ Phạm Duy (hình như) do Nhà xuất bản Gìn Vàng Giữ Ngọc phát hành vào khoảng đầu thập niên 1970, có một ca khúc tựa đề là Đi Vào Quê Hương, phổ thơ Hoa Đất Nắng. Ca khúc này đã được các chị Diễm Chi, chị Khánh Ly trình bày và được phát trên làn sóng của đài phát thanh Sài Gòn. Trong hồi ký của nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ đã xếp loại những ca khúc ra đời trong giai đoạn này (khoảng giữa thập niên 60) là Tâm Phẫn Ca. Bài hát khá hay, vả lại khi các chị Diễm Chi, Khánh Ly đã chọn bài để trình bày thì thường thường là bài... phải hay mới được (!). Chúng ta có thể nghe lại ở đây… Tôi xin phép chép lại lời của bài hát đó để quý vị tham khảo:
Đi Vào Quê Hương (Saigon - 1966) Nhạc: Phạm Duy Lời: Hoa Đất Nắng
Tôi vào quê hương bằng cuộn dây thép gai Đồng cỏ cha tôi, tôi trói gô hình hài Tôi đào thông hào, trồng cây chông nhọn hoắt Tôi giơ tay cao, tôi cấu tôi cào
Tôi vào quê hương bằng xe traction Chở mìn clay-mo, plát-tíc đi ngoài đường Tôi đặt lên sườn Mẹ Việt Nam gầy ốm Ôi Mẹ tan tành ! Ôi Mẹ phanh thân !
Tôi vào quê hương bằng dòng nước mắt Nước mắt vợ chồng, nước mắt cha con Nước mắt bạn bè, nước mắt anh em Tôi lội tôi bơi mệt nhoài trong đó Máu loang từ đầu, chảy xuống ruột mềm
Tôi vào quê hương qua nòng thép súng Lửa cháy trong làng, lửa cháy trong thôn Lửa cháy trong lòng, lửa cháy trong tim Trên da mặt tôi mọc lên cổ thụ Cổ thụ sai oằn lựu đạn mooc-chiê !
Tôi vào quê hương bằng một gánh hát quê Đả đảo hoan hô tôi đứng lên làm hề Lũ trẻ ngù ngờ cười phun nước miếng Trên da mặt tôi, trên yếm, trên đầu
Tôi vào quê hương quà tặng nhớ đem theo Một khẩu thompson hay chiếc súng cộng đồng Mỗi thằng một đứa, dành cho nhau một phát Mỗi đứa một thằng, dành một phát cho nhau.
Đã 41 năm qua từ ngày bài hát này ra đời, riêng tôi thì vẫn ghi nhớ tên của thi sĩ bài thơ là Hoa Đất Nắng, mà không biết ông là ai, và cũng chẳng nghe ai nói gì về ông hay thêm một thi phẩm nào nữa của ông. Cho mãi đến gần đây... Trong 1 dịp tình cờ đi ngang qua thị trấn Phan Rí, Bình Thuận, tôi được gửi tặng 1 tập bản thảo thơ đánh máy vi tính từ ông Huỳnh Hữu Võ, một thi sĩ địa phương. Ở trong tập bản thảo này có 30 bài thơ được sáng tác trong thập niên những năm 1960. Thi sĩ Huỳnh Hữu Võ tự giới thiệu về mình ở trang bìa : “… Sinh năm 1942 tại Phan Rí, Tuy Phong, Bình Thuận. Hội viên Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội Sài Gòn (1968-1975). Tham dự Đại Hội Văn Nghệ Sĩ Toàn Quân tại Trại Đào Bá Phước, đường Lê Văn Duyệt, Sài Gòn (1970). Trừ tạp chí Văn, Huỳnh Hữu Võ có thơ đăng ở các tạp chí văn nghệ thời bấy giờ với bút danh Thy Vũ Hà Như; Thanh Vũ. Huỳnh Hữu Võ có tên trong danh sách những tác giả thơ, văn bị Bộ Thông Tin Chiêu Hồi (do nhà văn Thế Uyên chủ trương) kiểm duyệt, đục bỏ nhiều nhất… …” Thi sĩ Huỳnh Hữu Võ cũng cho biết sau năm 1975, rất nhiều bài thơ của ông (viết sau này) đã được khoảng hơn 50 nhạc sĩ phổ nhạc, trong số đó có cả nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, (tác giả bài Dư Âm). Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đã phổ nhạc một bài thơ của Huỳnh Hữu Võ có tên là Đà Lạt, Trên Đỉnh Sương Mù thành ca khúc có tựa là Trên Đỉnh Sương Mù. Theo tôi, có lẽ Huỳnh Hữu Võ là thi sĩ có nhiều bài thơ được phổ nhạc nhiều nhất Việt Nam, khoảng trên 125 ca khúc. Riêng về tập bản thảo được đánh máy vi tính những bài thơ của thi sĩ Huỳnh Hữu Võ đã viết trước năm 1975, thì xem thấy một số bài có tựa như sau : Dưới Chân Đồi Xích Thố (Viết bởi Chương Trình Dạ Lan, Đài Tiếng Nói Quân Đội); Khi Anh Hành Quân; Chiến Tranh Và Bợm Nhậu; Thơ Gởi Chương Trình Dạ Lan; Tết Mậu Thân Ở Phan Thiết; Lời Dỗ Dành Ngày Hưu Chiến; Bài Thơ Viết Trên Lá Tole (viết tại Chi khu Hòa Đa).v.v… Và đặc biệt là bài : Trò Chơi Của Người Chưa Lớn. Tôi lại xin phép trích lại trọn vẹn bài thơ để quý vị đối chiếu với lời của bài hát Đi Vào Quê Hương mà nhạc sĩ Phạm Duy đã soạn thành ca khúc ở trên :
Trò Chơi Của Người Chưa Lớn (Huỳnh Hữu Võ, Sài Gòn 1966)
Tôi vào quê hương bằng cuộn dây thép Bằng vết chân cùn nhọn hoắt của cha Theo những thông hào ươm đầy trái phá Tôi đưa bàn chân cào cấu trên da
Tôi vào quê hương bằng xe traction Chiếc xe chở đầy chất nổ ngàn cân Tôi đặt nó lên xương sườn của mẹ Thân mẹ a ha thân mẹ tanh bành
Tôi vào quê hương bằng đường nước mắt Nước mắt bạn bè nước mắt anh em Tôi lội tôi bơi mệt nhoài trong đó Máu loang đầu tôi chảy xuống ruột mềm
Tôi vào quê hương theo nòng thép súng Lửa cháy trong hồn máu chảy trong da Trên da mặt tôi mọc lên cổ thụ Cổ thụ sai oằn lựu đạn moọc- chiê
Tôi vào quê hương theo đoàn cải lương Đứng lên làm hề đả đảo hoan hô Lũ trẻ ngu ngơ cười phun nước bọt Trên mặt mày tôi, dưới yếm, trên đầu
Tôi vào quê hương mang theo quà tặng Carbin, thompson, garant; tiểu liên Dành phát cho nhau mỗi thằng mỗi đứa Dành phát cho nhau mỗi đứa một thằng
Rồi tôi rời bỏ thành đô Chông chênh đá dựng hang dò dẫm quanh Việt Nam rách nát tan tành Quê hương máu mắt chảy quanh địa cầu
Tôi đã gọi điện ngay sau khi đọc xong bài thơ để hỏi (thăm dò!) thi sĩ Huỳnh Hữu Võ về bút danh Hoa Đất Nắng, thì được thi sĩ trả lời chính là bút danh của ông đã ký dưới bài thơ ở thời điểm lúc đó. Thi sĩ còn cho biết thêm, bài thơ này đã được ông sáng tác ngay sau khi nghe tin Khách sạn Victory bị đánh bom. Lúc đó thi sĩ đang ở Sài Gòn, và lập tức bài thơ được đăng trên tuần san Tiểu Thuyết Thứ Năm. Tôi hỏi thêm : Thi sĩ có biết bài thơ đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc không? Thì thi sĩ Huỳnh Hữu Võ vô cùng ngạc nhiên, và trả lời là không biết điều đó. Thật là khó tin, khi sự việc đã xảy ra từ 41 năm trước! Thi sĩ Huỳnh Hữu Võ giải bày rằng có lẽ vì đời lính chiến nay đây mai đó, nhất là sau khi bị thuyên chuyển về làm y tá quân y tại Chi khu Hòa Đa, thì vì ở xa Sài Gòn quá nên càng mù tịt chuyện “văn nghệ văn gừng” bên quân đội.v.v… Sau đó, tôi có gọi điện hỏi thăm nhạc sĩ Phạm Duy về bài thơ được phổ nhạc này. Nhạc sĩ Phạm Duy cho biết ông đã đọc được bài thơ trên báo chí thời đó và vì thấy hay nên đã soạn thành ca khúc. Bằng một giọng nói chậm rãi và tỏ vẻ mệt mỏi, nhạc sĩ Phạm Duy (86 tuổi) cho biết vì đã quá lâu rồi nên không còn nhớ tên của tờ báo, tên của tập nhạc có in bài hát… Tôi tin là nhạc sĩ Phạm Duy đã không thể nhớ lại mọi điều một cách chính xác khi nhạc sĩ vẫn cứ đinh ninh cho rằng ca khúc đó được in trong tập Thu Chiến Trường hay Thương Ca Chiến Trường… gì gì đó, cho đến khi tôi nhắc là bài đó được in ở trong tập Kỷ Vật Của Chúng Ta thì nhạc sĩ Phạm Duy mới trả lời : “Thế à, ừ, Kỷ Vật Của Chúng Ta, đúng vậy…”… Vâng, thế là đã 41 năm trôi qua, thi sĩ Hoa Đất Nắng là tác giả bài thơ Trò Chơi Của Người Chưa Lớn viết năm 24 tuổi, được nhạc sĩ Phạm Duy phổ thành ca khúc với tựa là Đi Vào Quê Hương, được trình bày qua hai giọng ca lừng danh là chị Diễm Chi và chị Khánh Ly, 41 năm sau đã được “giải mật”, được “tìm thấy”, đó chính là thi sĩ Huỳnh Hữu Võ, một thi sĩ hiện đang sinh sống tại thị xã Phan Rí, tỉnh Bình Thuận, là người có hơn 50 bài thơ được phổ thành 125 ca khúc sau 1975, nhưng lại chỉ có 1 bài thơ duy nhất được soạn thành một ca khúc duy nhất trước năm 1975. Chính điều… độc đáo này đã làm cho thi sĩ Huỳnh Hữu Võ phải thốt lên thành lời với tôi, người viết bài này : “Mình cảm thấy được vui gấp hai lần đó, bạn ơi…”.
ĐỖ HÙNG (5/2007 - Bình Thuận)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:53:00 GMT 9
Lời Ru Đông Phương thơ Phạm Thiên Thư Ru con bằng vòng tay ấm Cho con âu yếm dịu dàng Ru con bằng dòng sữa thơm Cho con biết tình biết ơn Ru con bằng câu hát ngắn Cho con mến nhạc và thơ Ru con bằng mây bằng gió Cho con lòng chẳng vực bờ Ru con bằng non bằng đá Như con giãi nắng dầu mưa Dạy con không oán không thù Ru con bằng hoa bằng cỏ Kết trăng sao làm nôi thơ Cho mười phương làm máu mủ Mai sau chẳng sớm bơ vơ. Tim em là vừng đông sớm Cho muôn dòng máu căng hồng Lời ru em dài mật đượm Cho đời con ngát mười phương Mắt em là viền nhật nguyệt Đưa con vào lẽ chân thường Môi em là hoa vi diệu Cho hồn con mở chiêu dương Cho đời chẳng còn chia biệt Cho đời thường giữa vô thường Em nhớ ru cho con biết Đường trần như áng mây vương Em nhớ ru cho con biết Yêu thương là tiếng đầu lòng Tâm con là trời vô hạn Tình yêu là cõi địa đường Tiếng ru ngàn năm tha thiết Khơi nên mạch sống Đông phương. Vi diệu 微 妙 = subtle, fine, delicate, profound, abstruse, recondite, mysterious. hoa vi diệu = đóa hoa tinh tế và huyền diệu. vi diệu pháp 微 妙 法 = abstruse teaching. Trong kinh Phật thường có câu "Vô lượng thậm thâm vi diệu pháp" (pháp môn vi diệu rất thâm sâu không thể lường được). triêu 朝 (thường bị viết sai chính tả là chiêu) = buổi sáng sớm, trái nghĩa với mộ 暮 là chiều tối. triêu dương 朝 陽 = ánh mặt trời sớm mai, tức là nắng sớm. Xin nói thêm, chữ 朝 có hai âm: triêu (sáng sớm) và triều (như trong các từ: triều kiến, triều đại, triều cống, triều đình, v.v...). Chữ triêu thường bị viết sai chính tả là chiêu chẳng hạn như trong bài thơ của Phạm Thiên Thư nói trên. Trước 1975 có một nhà xuất bản mang tên Chiêu Dương (lẽ ra nên viết là Triêu Dương). Bài nhạc Lệ Đá (Trần Trịnh - Hà Huyền Chi) cũng viết sai là "chiêu dương": "Tượng đá kiên trinh ru con đời đời Là nét đan thanh nêu cao tình người Là ánh chiêu dương đẩy lùi bóng tối Tháng năm xa trùng trùng sóng gối Ngóng nhìn từ bát ngát chân mây ..."
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:55:57 GMT 9
Mùa Thu Thương Nhớ (Kính dâng hương hồn từ mẫu ở quê nhà) Chớm gió may lành lạnh Gió mang mùa thu về, Cây ngàn thương lá rụng Sương mờ dâng lê thê Tiếng chiều rơi chầm chậm Tiếng nước luồn qua khe. Lạnh lùng trôi ước hẹn Nẻo lòng không cửa che, Càng buồn thân lữ khách Càng nhớ ngày ra đi Nghẹn ngào đường chia cách Hôm nao biệt kinh kỳ, Hoàng hôn chìm vàng vọt Hiu hắt lối biên thùy. Thu có về đất Bắc ? Ôi mùa thu quê hương ! Mây Ba-Vì trăng trắng Nước Tây-Hồ xanh gương Những lá vàng tâm sự Những nắng vàng yêu đương Mộng lành xây nho nhỏ Tuổi xanh đời dâng hương Bước trai vui sứ mệnh Chiều không than nỗi đường Mây trôi về viễn xứ Hay trôi về Cố Đô ? Lá sen xanh hương cốm Hoa bay lừng cửa Ô, Tưng bừng reo sức sống Một mùa thu xa xưa, Ôi những người em gái ! Chưa đau khổ bao giờ Tay duyên trao ngần ngại Những cánh thư đợi chờ, Lá vàng đan sắc áo Gửi người ngoài sông hồ. Chớm gió may lành lạnh Mùa thu lại về rồi ! Bao nhiêu là thương nhớ Người đi tận cuối trời Mộng buồn như năm tháng Ôi mùa thu chia phôi ! Quê hương chừng xa lắm Mây mùa thu phôi pha, Ngõ sâu chìm lá rụng Đìu hiu vắng bước qua. Lũy tre gầy ấp ủ Mái tranh nghèo sương sa, Mẹ hiền còn đâu nhớ Những người con đi xa, ........................ Hôm nay thu lại sang Gió vẫn chở lá vàng Nhưng không về cố xứ. Nghe Trường Sơn tâm sự Nghe Bến Hải than van Mùa thu nào chinh chiến ! Mùa thu nào ly tan Mùa thu hai đất nước Ôi mùa thu phũ phàng ! Thu 1955 Cao Tiêu
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 10:58:19 GMT 9
Thơ Chinh Yên Ẩn Em về nắng trải chiêm bao Gió thơm mùi áo ngọt ngào mùi da Ta đây ẩn bóng chiều tà Lòng khe khẽ động nhạt nhòa theo em Ngủ Nằm xuống đây nhắm mắt và ngủ Ngủ và quên ở chốn non ngàn Chim động lá giật mình tỉnh dậy Bóng theo hình tiếp tục lang thang Mỏi Nằm xuống đây hỡi một đời còm cõi Lắng tai nghe con nước mặn xô bờ Ngọn gió chiều xem chừng như đã mỏi Còn sức nào đẩy mãi một phong ba ... Ứng Chiến (Đọc Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm) Hiền sĩ đọc thơ bên lều cỏ Tôi đọc thơ giữa chốn ba quân Cách nhau mỗi ngày là mỗi lạ Huống hồ trên dưới mấy trăm năm Hiền sĩ có trăng treo ngoài ngõ Để lâu lâu ngắm nghía đỡ buồn Tôi có gì đâu ngoài súng nhỏ Máng đầu giường chạm gió kêu khan Hiền sĩ có cây già tựa gối Có chim ngàn ở ẩn chia vui Tôi có gì đâu ngoài nón trận Tránh đạn bom nhờ chút hên xui Hiền sĩ có mành che bụi đỏ Toan một lần hóa bướm tiêu dao Tôi có gì đâu thời lọan lạc Chẳng hay rồi hóa kiếp chi đây ? Hiền sĩ nhẹ tênh đường danh lợi Tôi ngược xuôi mòn nẻo phù sinh Đôi khi cũng muốn như người trước Xem đời như một giấc mơ tan Chinh Yên Một Chiều Viếng Mộ Bạn Giữa đồi sương và gió Tình cờ ta ghé qua Ngu ngơ nhìn ngọn cỏ Quanh mộ đời phôi pha Giun dế đọc giùm ta Tên một loài dễ vỡ Chim một bầy gọi nhỏ Tên một loài hư vô Ta nghe mà chợt thấy Vi vu buồn thịt da Ta nương bóng chiều tà Phủi lớp bụi đường xa (Bụi bay đời cát bụi Ta bay đời gió mưa) Người ôm bờ huyệt lạnh Ngủ cùng đất ngàn năm Ta ôm đời lẻ bạn Mang mang sầu quanh quanh Chinh Yên
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 22, 2008 11:01:38 GMT 9
VŨ HỮU ĐỊNH - CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ Phố núi cao phố núi đầy sương phố núi cây xanh trời thấp thật buồn anh khách lạ đi lên đi xuống may mà có em đời còn dễ thương phố núi cao phố núi trời gần phố xá không xa nên phố tình thân đi dăm phút đã về chốn cũ một buổi chiều nào lòng bỗng bâng khuâng em Pleiku má đỏ môi hồng ở đây buổi chiều quanh năm mùa đông nên mắt em ướt và tóc em ướt da em mềm như mây chiều trong xin cản ơn thành phố có em xin cảm ơn một mái tóc mềm mai xa lắc bên đồi biên giới còn một chút gì để nhớ để quên ĐỜI VẪN CÓ EM Về một nơi nào ta vẫn có em đường xa không đốt được ưu phiền những con đường núi sâu hun hút những phố đìu hiu không nhớ tên ta ở đây sống giữa rừng sương có bạn là chim không chút chán chường có hoa không bán giăng đầy núi có lũ vượn về chung thủy trên nương ta vẫn có em, đời vẫn có thơ ta đi quét lá đốt tương lai thở hơi sương khói tình xanh ngát không biết ngày mai - Ôi một mai sao chẳng yêu như vượn yêu rừng như hoa núi thở thả lừng hương như chim vẫn hót trên cành mát mà lại sầu phải khóc tương lai ta chẳng về đâu đời chẳng có em có em khi núi thở sương đêm có em là mộng ru trăng ngủ bên suối hồn sao hát nhạc rừng. THƯỢNG NGUỒN (Tặng Nguyễn Đình Dzu, một chiều nhớ Đại Ninh quay quắt) thượng nguồn sương ngập bờ khe màu lan của đất bốn bề gọi nhau lá xanh như thuở ban đầu lá vàng như thuở cùng nhau hẹn hò anh nghe lá mục dặn dò bước về nhè nhẹ mà mơ kẻo mà một mai cách trở đường xa nhớ non tưởng núi mặn mà phai đi cỏ bên này suối xanh rì cỏ bên kia suối vàng ghi chút màu thuyền về đi chẳng được mau nghe theo lũ quạ gọi màu chiều không ngoảnh trời lá hé màu trông bóng dương vượn hú rã lòng trong sương đây khe nước mộng thượng nguồn những hàng chuối níu màu sương trên ngàn những lời cỏ gió mang mang âm thanh của đá dội tràn tuổi thơ vàng rẫy bắp nối xanh lơ của khoai sắn rộng suốt bờ triền non nghe con cá quẫy trong nguồn nước xô đọng bóng linh hồn chiều đi
|
|