|
Post by NhiHa on Aug 7, 2008 10:34:52 GMT 9
1001 CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền nữ sĩ
Christopher Thai (1964) (Qua Văn phòng Chủ Nhiệm):
1. Ai sáng lập ra phái ĐẠO GIA ? Đạo gia đó nói lên điều gì?
* Người sáng lập ra ĐẠO GIA là LÃO TỬ. Đây là một tôn giáo bản địa, xuất phát ngay từ trong lòng đất Trung Quốc. Cội nguồn của nó thật phức tạp,nó vừa kế thừa tư tưởng quỉ thần vừa kết hợp với thuật bói toán cổ đại. Chẳng những vậy nó còn tiếp thu tư tưởng thần tiên,luôn cả thần học sấm vĩ cũng như cọng chung tư tưởng Hoàng Lão.... Các nhà nghiên cứu về Đạo giáo Trung Quốc còn tìm thấy trong ĐẠO GIA có dung nạp lý luận của Nho gia và Phật giáo. Ta có thể nói ĐẠO GIA là trung tâm tư tưởng thần tiên. ĐẠO GIA chủ trương “thanh đạm, không ham muốn hoặc có thể nói là chủ trương tiết dục. Nhưng càng đi sâu vào Đạo Gia sẽ thấy là họ thần bí hóa và tôn giáo hóa cái đạo của họ , Không những Đạo Gia coi ĐẠO là cái gốc cội của vạn vật trong vũ trụ mà còn phát sinh ra nguyên khí ,từ cái khí nguyên sơ biến thành cái cõi tiên ngoài trời như Ngọc Thanh,Thượng Thanh, Thái Thanh v.v... Như trong cõi tiên có các thủ lĩnh thần tiên như Nguyên Thủy thiên tôn,Linh Bảothiên tôn và Đạo Đức thiên tôn tức Thái Thượng lão quân...Đó là "nhất khí hóa tam thanh". Phía trên Tam Thanh còn có Đại la thiên,phía dưới có 32 thiên v.v...
2. Phong trào NGŨ TỨ là gì ? Ai là người đề xướng ra?
NGŨ TỨ là một phong trào văn hóa mới của Trung Hoa. Trước hết là nhóm nhà văn có tên tuổi như Lý Đại Chiêu,Trần Độc Tú, Lỗ Tấn v.v..đã đi tiền phong khởi xướng lên phong trào này. Cuộc cách mạng văn học bắt đầu từ khi các bài :”Văn học cải lương sô nghị” của Hồ Thích,”Văn học cách mạng luận” của Trần Độc Tú, “Phân tích văn học của Chu Tác Nhân lần lượt đăng tải nói lên tinh thần cách mạng đang dấy lên đã tạo thành một luồn sóng chống văn ngôn, và đề xướng lối văn bạch thoại...
3. Trung Hoa có câu: :Tảo trị bất nhập thời nhân nhãn,đa dụng yên chi họa mẫu đơn". Có nghĩa:
"Sớm hay chẳng hợp mắt người,
Thà đem son phấn vẽ vời mẫu đơn.”
Ông Nguyễn Thanh Hiệp (Qua thư thingy Tran San Lucas Dr. Houston TX) Tôi vốn thích về Phong Thủy, nhưng vẫn còn kém cỏi ,chưa hiểu một cách đầy đủ về chọn phương hướng, làm thế nào chọn đại lợi ví như nhằm vào vị trí tốt nhất v.v... Chẳng biết bà cụ có am tường về chuyện "Phong Thủy" hay không ? Điều thứ 2: Ngày Quý Hợi giờ nào tốt nhất ? Nếu được xin bà chị chỉ vẽ hộ. Kính cẩn cám ơn bà chị nhiều.
1.- Tôi xưa nay không biết về việc xem "Phong Thủy",tuy rằng ngày xa xưa tôi cũng có đọc qua về khoa này. Khoa Phong Thủy ngày nay người Aâu Mỹ cũng rất ưa thích, nhiều người Việt của chúng ta cũng nghiên cứu và am tường nhiều. Tưởng ông nên tìm các vị danh sư hay các nhà nghiên cứu để tìm hiểu . Tôi hi vọng ông sẽ được thỏa nguyện. Tuy nhiên, tôi có thể đưa ra vài nét đại khái để ông có thể tham khảo thêm như sau:” Như ông đã biết, việc chọn ngày dựng nhà trước tiên là phải biết xem hướng. Điều ta không thể quên là "Tọa sơn" của nhà phải là đại lợi, trúng vào vị thế tốt của tay Tổng thánh kim hàm...nếu không thì chẳng nên cưỡng lại. Cứ vào Tọa sơn mà ta tìm thấy đó tìm ngày lành tháng tốt và cũng phải chọn giờ tốt nữa. TÔi nêu ra ví dụ: Nếu ông chọn Tọa sơn là Hợi,Nhâm,Tý ,Quý thì thuộc Thủy mà Thủy thì không nên dựng nhà vào mùa Thổ cũng như Tháng,Ngày,Giờ có liên can đến Thổ. Có thể ông hiểu điều này vì là Thổ khắc Thủy. Cũng như các năm Giáp,Aát thì phải tránh các Tọa sơn Cấn,Khôn,Thìn,Tuất,Sửu,Mùi vì đó là niên can khắc , tuyệt đối không được. Đã vậy, ta còn phải cẩn trọng về tuổi tác, như người đứng ra làm nhà có bị phạm Kim Lâu không ? Nếu phạm,thì nên mượn tuổi của người thân trong gia đình. Ngày bắt đầu dựng nhà cũng vậy. Ta cần phải xem kỷ ngày dựng nhà đó có bị phạm của người đứng ra làm nhà hay không? Nếu thấy "Sinh Hiệp" với tuổi thì tốt . Trường hợp đặc biệt là người đứng làm nhà khi vợ đang mang thai hay bị đại tang (như cha mẹ,ông bà qua đời) thì tuyệt đối không nên. V.v.. Tôi chỉ biết đại khái như vậy. Nếu cần ông nên đến hỏi han các nhà phong thủy hiện có rất nhiều trên đất nước Hoa Kỳ này.
2. Ngày Quý Hợi giờ tốt là : Sửu,Mão,Tị,Ngọ,Mùi.
Cụ Phan Trọng Hùng (Qua Diệp Năng Hồng Rowland Height CA. Tôi thường nghe danh từ Man Da Ra có nghĩa là Bùa Chú, có đúng như vậy chăng ? Vậy bùa chú để làm gì ? Bà cụ có biết xin chỉ giáo . Thành thật cám ơn bà cụ.
Mạn Da Ra tức là Linh Phù. Linh Phù là những Pháp thuật để bảo vệ Chánh Pháp,ngăn ngừa Aùc Pháp. "Sự Linh Diệu và Bí Mật của Man Da Ra" là bộ Kinh tối cổ,ẩn chứa một năng lực mầu nhiệm phi thường,chỉ được phép truyền thụ cho các tín đồ của Man Tra La giáo tức ta thường nghe đến là Mật Tông. Lẽ dĩ nhiên khi một hành giả nào được truyền thụ thì hành giả ấy đã phải hội tụ đủ Bát Định hay còn được gọi là Bát Thiền Định. Hình như tôi đã có lần mang ra bàn thảo cùng một vị độc giả về vấn đề Bát Thiền Định. Tuy nhiên, hôm nay tôi cũng xin nhắc lại Bát Thiền Định này gồm có thứ tự như sau :
1. Sơ Thiền Định
Đệ nhị thiền định
Đệ tam thiền định
Dệ tứ thiền định
Không vô biên xứ định
Thức vô biên xứ định
Vô sở hữu xứ định
Phi tưởng phi phi tưởng xứ đnh
Sau khi hành giả thụ nhận qua tám phép Định này thì thoát khỏi Dục giới bao gồm sắc giới và vô sắc giới. Tưởng cũng nên biết từ pháp định thứ nhất đến pháp định thứ tư thuộc về miền sắc giới ,còn từ thứ 5 đến thứ 8 thì thuộc về miền vô sắc gới. Nói chung cả hai giới này gọi là Tứ Thiền Bát Định. Lúc bấy giờ hành giả mới nhận hiểu được sự vi diệu của Mật Kinh. Đương nhiên giác ngộ được những bí ẩn này hành giả phải bỏ công tu trì độ hạnh,để dần dần tiến đến một cảnh giới đặc biệt của giáo tông,thông thường thì khoảng 5 năm sau nếu huệ căn linh mẫn thì hành giả sẽ đạt được linh quang ngũ thông (Abhinnà) là năm phép thần thông v.v... Có thể lần sau chúng tôi sẽ cùng bàn với cụ về 5 phép thần thông kể trên.
Bà cụ Ngô Xuân Thu (Qua Hồ Nghĩa) Rue Dr. Schweitzer 93600 Aulnay (France): Xin lỗi,tôi được biết bà chị là chị của chi Hồ Nghĩa, nên nhân chuyến đến viếng thăm, biết chị ấy là hàng họ với bà chị,nên mạo muội nhờ chuyển lời nhờ bà chị giải hộ cho câu Thành Ngữ" của Trung Hoa như sau :
CƯ AN TƯ NGUY
Thành thật cảm ơn bà cụ.
Sự tích của câu số 1 : CƯ AN TƯ NGUY , câu này có nghĩa là "Lúc sung sướng phải nhớ d0ến khi hoạn nạn,phải chẩun bị trước! Kông phải đợi xảy ra rồi mới nghĩ đến thì đã muộn rồi. Lúc An phải nghĩ đến hồi Nguy.
Có điển tích như sau:
"Thời Xuân Thu Chiến Quốc" ít có bình yên, Lúc bấy giờ nước Trịnh đem đem quân xâm phạm Tống,Tấn,Lỗ,Vệ...tất cả 11 quốc gia thời bấy giờ đều tỏ ra bất mãn,kết hợp nhau lại đem binh lính vây hãm lấy kinh thành của nhà Trịnh buộc Trịnh phải rút. Đánh không lại TRịnh đành xin ký hòa ước với 11 quốc gia này.
Cùng thời đó có nước Sở bị các nước Trung Nguyên cho là vua nước ấy dã man. Sở thấy nước Trịnh ký hòa hảo với 11 quôqc gia trên thì lập tức hướng về nước Tần mượn binh đánh Trịnh. Nước Trịnh có ý hàn phục Sở ! (Trung Nguyên thời ấy có đến 12 nước). Mười một nước vừa ký hòa ước với Sở nhận thấy như vậy là Sở có hành vi bội ước đều bàn thảo hợp nhau chinh phạt Trịnh. Thấy bị nguy khổn đến nơi, nước Trịnh bèn cho sứ sang thỉnh cầu nước Tấn - là một đại quốc – đứng giảng hòa. Tấn bèn chuyển lời yêu cầu của Trịnh nên chuyển lại lời cầu hòa của Trịnh cho các nước đồnh minh và được các quốc gia trên tha tội, Trịnh cảm ơn Tấn đã giúp mình bèn đem tặng nhiều binh xa cũng như nhạc khí luôn cả Nhạc sư ,ca nữ... Tấn Vương liền mang một nửa số ca nữ cho công thần tên là Ngụy Giáng. Vị công thần này từ chối không nhận, bèn quì tâu:" Bây giờ Hoàng Đế có thể đoàn kết,thống lãnh rất nhiều nước,đó là do công lao của nhiều người chứ không phải riêng gì của khanh . Riêng khanh hiện nay đã d0ược hưởng cảnh thanh bình thật không gì quý bằng. Tuy nhiên, thánh nhân có câu:"CƯ AN TƯ NGUY,TƯ TẮC HỮU BỊ,HỮU BỊ VÔ HOẠN". (Câu này có nghĩa lúc có cuộc sống bình an, hoan lạc thì phải phải nghĩ đến hồi nguy nan đau khổ. Và có nghĩ như vậy thì chẳng bao giờ bị gặp cảnh hoạn nạn cả.) Tóm lại, đừng nên vì quá vui mà quên đi lúc nguy nan.
Ông Hoàng Tụy Orang County : Ngày Nguyên Đán năm Tân Mùi là ngày tháng nào Dương lịch ? Và nó cũng là ngày gì tính theo Aâm lịch?
Ngày Nguyên Đán của năm Tân Mùi là ngày 1 tháng 2 năm 2003. Tháng Giáp Dần (đủ) và ngày Aát Tị.
Ô,Bà TNHULAN : Chúng tôi xin tiếp tục ghi thêm một số câu hầu ông: TƯỚC sẻ, KÊ gà, NGỘ ta, THA khác. BÁ bác, DI dì, DIÊN chì, TÍCH thiếc, DỊCH việc, CÔNG công, HÀN lông, DỰC cánh, THÁNH thánh, HIỀN hiền, TIÊN tiên PHẬT bụt, LẠO lụt, TRIỀU triều, DIỀU di ều, PHƯỢNG phượng.
Cháu Bùi thị Ngọc Hạnh San Jose : Bà cụ nhắc hô cho cháu vài lời ca dao nói về lòng bội bạc phụ nghĩa phụ tình.
*Trăm năm xe sợi chỉ điều
Sao anh nắng sớm,mưa chiều thế anh ?
*
Phụ đây,đây chẳng có lo
Cầu gãy còn đò,giếng cạn còn sông.
*
Đã lòng hẹn bến hẹn thuyền
Chờ anh hàng muối cho duyên mặn mà
Vì chưng bướm bướm hoa hoa
Gặp anh hàng trứng hóa ra đôi lòng.
*
Ở chi hai dạ ba lòng
Dạ cam thì ngọt, dạ bòng thì chua.
*
Những người mua chả bán nem
Mua gừng bán sả thì em chớ màng.
Những người mua gánh bán quang
Mua tơi bán bị chớ màng em ơi !
Còn nhiều câu khác nữa, có dịp bà sẽ ghi lại gửi cháu.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 5:01:13 GMT 9
1001 CHUYỆN NHỚ QUÊN
MỘNG TUYỀN NỮ SĨ
Vào trung tuần tháng Năm, chúng tôi nhận được một số thư của các độc giả xa gần gửi đến vấn an và nhờ nhắc lại hộ một số vấn đề nếu có thể mà quí vị vì công việc đa đoan đã bị quên lãng. Như trường hợp Cụ ĐỖ ĐÌNH VẬN cư ngụ tại vùng N. Hollywood muốn tham khảo lại Dịch Kinh, về các "Quẻ" Hỏa Sơn Lữ, Thuần Khôn, Địa Trạch Lâm và Bộ Đoài...
* HỎA SƠN LỮ là Quẻ Ly tức lửa và quẻ Cấn tức núi nhập lại gọi tắt là Quẻ Lữ. Chữ Lữ đây có nghĩa là đi đường, ở trọ,lữ hành,lữ khách; đây là ý nói của sự giang hồ phiêu bạt, muốn nhen nhúm một chút tương lai nhưng cho dù quyết tâm đến bao nhiêu cũng khó lòng thực hiện điều mình mong muốn.
* THUẨN KHÔN: Đây là quẻ hai "Khôn" nhập lại, tức là Quẻ Khôn và Quẻ Khôn nhập chung gọi tắt là quẻ Khôn. Quẻ này có nghĩa là mềm và thuận. Quẻ Khôn gồm bốn đức tính của bốn quẻ sau:
" Hàm" là không gì không bao dung.
"Hoàng" là không gì không có.
"Quang" là không đâu không tỏ.
"Đại" là không đâu không che trùm.
Như vậy quẻ Khôn có nghĩa là sự to lớn,uy nghiêm quang minh lỗi lạc...sự rộng lớn của nó biểu tượng chí khí của các bậc anh hùng có lắm hoài bảo to lớn.
* ĐỊA TRẠCH LẤM: Quẻ Khôn và quẻ Đoài (trạch) nhập chung lại gọi tắt lại là quẻ Lâm. Quẻ Lâm đây có nghĩa là biểu tượng cho sự soi xét cho cử chỉ,ngôn ngữ cùng ý chí của con người qua cái ánh sáng thiêng liêng ma ta thường gọi là linh hồn. Lâm là tiến lên mà lấn bước một việc gì, chẳng hạn trong đạo trị dân, thân dân và cảm hóa để cùng mình đi cùng một hướng...
* BỘ ĐOÀI
Quẻ Đoài (đầm,bùn) và quẻ Kiền (trời) nhập chung gọi tắt là quẻ Quải.
Quải có nghĩa là quyết liệt,lý cho tới cùng mới thôi,làm cho tới cùng mới được...
Một thư khác: Ông Trương Ngọc Thơ ngụ tại vùng Reseda muốn được biết về "lai lịch và cách nấu Qui Bản Cao", đây là loại cao nấu ra từ xương mu rùa và xương ức của rùa một giống vật được sắp hạng trong bộ tứ linh, tức là Long,Ly, Qui,Phượng. Như ông đã viết trong thư :Long là rồng, một giống vật chỉ nghe mà chưa hề được thấy. Ly: là loại kỳ lân, giống vật tinh khôn, cũng chỉ thấy xuất hiện trong các tranh ngày xưa hay nhìn thấy các kiến trúc trên dinh thự,các đồ cổ v.v...Phượng là loại chim đẹp nhất trong các loài chim ở thế gian này. Trong thi ca, thi hào Lý Bạch nhắc đến trong bài "Đăng Kim Lăng Phượng Hoàng Đài" : "Phượng Hoàng đài thượng Phượng Hoàng du Phượng khứ đài không giang tự lưu Ngô cung hoa thảo mai u kính Tấn đại y quan - thành cổ khâu"
Qui: là rùa,được sắp trong tứ linh kể cũng không ngoa.,vì mang những tính chất phi thường, như rùa ít ăn hơn các giống vật khác...Linh chất đặc biệt của rùa là có thể tiếp thu dưỡng khí tinh túy của trời đất không cần ăn nhiều mà vẫn sống lâu trong trời đất. Những huyền thoại về Cổ Loa Thành với những móng vuốt của rùa thần giúp cho An Dương Vương lập nên nghiệp cả, hay sự tích Hồ Hoàn Kiếm với giai thoại oai hùng...v.v... Cũng như loài voi,rùa cũng có nghĩa địa riêng để khi cảm thấy mình sắp chết tự động bò đến khu an nghỉ nghìn đời này. Ít nghe có ai biết chốn nghĩa địa của rùa, nếu may mắn tìm thấy thì chắc chắn sẽ có cả một mỏ mua rùa vô tận. Cách nấu cao đại khái như sau:" Tìm trên 30 bô mai rùa, loại thật tốt mang về rửa sạch, ngâm trong vại nước gạo lối một đêm,xong xuôi đem phơi khô. Dùng muối rang tất cả mai rùa cho đến khi nào các mu rùa trở sang màu vàng sẫm thì xem như đã được. Đổ nước nấu cho thật sôi, xong chắt tất cả nước . Bây giờ mới đổ thật nhiều nước vào đun cho đến khi nào còn lại một phần nước, lại chắt bớt phân nửa nước ấy ra nơi khác xong lại đầy nước sôi vào có mu rùa tiếp tục nấu, cứ như thế bốn lần. Sau đó đổ chung bốn lần nước trong một cái nồi khác, nấu cho đến khi nào nước dần dần cạn đến "sệt" lại. Thời gian này phải dùng cây quậy cho đều. Nhớ là quậy luôn tay để tránh khỏi bị cháy khét. Khi hoàn toàn sệt mới đổ ra khuôn. Hoàn tất rồi để trong bóng mát, đúng 3 ngày là hoàn tất. Công dụng của Qui Bản Cao là làm cho thân thể cường tráng, gân cốt cứng rắn, máu huyết lưu thông. Qui Bản Cao chủ trị "phong thấp tê bại", các chứng nhiệt nóng, mụn trứng cá. Đàn bà trị âm hàn, những người không sinh nở v.v...
Ông Vũ Khắc Thúc vừa từ Washington di chuyển về tại Orange County có thư hỏi về sự tích Ông Bàn Cổ đôi mắt trở thành Ông Mặt Trời...v.v... Câu hỏi này khiến tôi sực nhớ lại trong Tam Tự Kinh có đoạn:"Viết Giang Hà - Viết Hoài tế - Thử Tứ Độc - Thủy Chi Kỷ. Viết Đại Hoa - Tung Hằng Hành - Thử Ngũ Nhạc - Sơn Chi Danh.". Có nghĩa là: Những sông ngòi trực tiếp chảy ra biển, có bốn sông đại diện là Trường Giang,Hoàng Hà, Hoài Thủy và Tế Thủy. Năm ngọn núi cao nổi danh là Thái Sơn ở phía Đông, Hoa Sơn ở phía Tây. Hằng Sơn ở phía Bắc. Hành Sơn ở phía Nam và Tung Sơn ở giữa...Trong bài học nhỏ này có sự tích nói về ông Bành Tổ như sau:
"Hoàng Hà và Trường Giang là hai con sông nổi tiếng nhất ở Trung Quốc. Trường Giang là sông dài nhất và đứng thứ tư trên thế giới,gần như chia Trung Hoa ra làm hai phần Nam và Bắc.Đời nhà Tống giặc Kim thường uy hiếp phần phía Bắc mà không qua được Trường Giang. Một lần muốn vượt Trường Giang để tấn công Nam Tống, bị đại tướng Hà Thế Trung chặn đánh, vợ là Lương Hồng Ngọc đánh trống trợ chiến. Quân lính nghe thấy tiếng trống tinh thần phấn chấn chiến đấu rất anh dũng, quân Kim bị chết nhiều, sau phải lui về phía Bắc đành cịu thất bại. Hoàng Hà là nơi phát sinh ra nền văn minh của Trung Hoa,nhưng thường xuyên lũ lụt, gây thiệt hại rất nhiều về của cải cũng như tính mạng của nhân dân.Đời vua Thuấn sai Đại Vũ đi trị thủy, ông ta về khơi các đướng cho nước thoát r. Đến nơi núi Long Môn thì thì bị chắn lại. Ông ta sai người đục một cái động rất lớn cho nước được thoát, nên Hoàng Hà chảy tới đónước rất xiết,vì động rất cao. Nhiều cá lớn bơi tới đó đều phải nhảy qua. Do đó có truyền thuyết nói rằng khi nào cá chép nhảy qua được Long Môn thì sẽ hóa thành con rồng, nên mới cpó câu chuyện "Cá chép nhảy cửa rồng".
Sự hình thành của Ngũ Nhạc theo truyền thuyết nói là,thời thượng cổ , khi trời đất còn là một khối hỗ độn, có một ông thần tên là Bàn Cổ đang ngủ bị một tiếng nổ rất lớn khiến ông gật mình mở mắt nhìn chung quanh thấy bóng đen phủ kín như mực mài. Ông bèn quơ tay lấy một cái rìu chém ngang một nhát, tự nhiên khối hỗn độn chia làm đôi và cái gì nhẹ sẽ bay lên trên và cái gì nặng sẽ chìm xuống dưới, như vậy dần dần,khối nhẹ càng bay lên cao dần và trở thành trời, cái nặng đã chìm lắng xuống trở thành đất,như vậy bắt đầu có trời và đất. Sau này khi ông Bàn Cổ chết đi, hai con mắt trở thành Mặt Trời và Mặt Trăng. Đầu ông ta biến thành Thái Sơn, bụng biến thành Tung Sơn. Tay trái biến thành Hành Sơn. Tay phải biến thành Hằng Sơn, còn hai chân biến thành Hoa Sơn.
Đông Nhạc Thái Sơn vì là cao nhất, nên các đời vua chúa hay lập đàn tại đây để tế Trời và biểu thị sự oai nghiêm. Nhưng bạo chúa Tần Thủy Hoàng một lần muốn lên khi tới lưng núi bị mưa to gió lớn mà không lên được tới đỉnh núi. Tây Nhạc Hoa Sơn, núi cao vách đá cheo leo, trông rất là khiếp đảm, có một ông quan đại thần đời nhà Đường tên là Hàn Dũ. Sau khi lên được tới đỉnh nú, khi xuống núi,lúc nhìn xuống sợ hãi quá, hai chân bủn rủn không đi nổi. Sau phải cho ông ta uống rượu say rồi cho người khiêng ông ta xuống núi. Các núi cao theo truyền thuyết đều có các ông Tiên tu hành đắc đạo,như Hoa Sơn Lão Tổ tức ông Trần Đoàn,Thái Tử của Chu Linh Vương là Vương Tử Kiều, thổi sáo rất hay đã tu và đắc đạo tại Tung Sơn gọi là Bạch Hạc Tiên Nhân. Còn Trương Quả Lão là một trong Bát Tiên đã tu hành đắc chánh quả tại Hằng Sơn...
Ông Lê Văn Siêu ở Checker's Dr.San Jose hỏi về hai cái khóa xuân "hai Kiều", đó là những nàng Kiều nào? Tích này do ở đâu? Hai Kiều đó là Đại Kiều và Tiểu Kiều đời Tam Quốc. Một nàng lấy Tôn Sách và một nàng lấy Chu Du. Trong Kiều có câu: "Vẫn nghe thơm nức hương lân Một nền Đồng tước,khóa xuân hai Kiều.
Thơ Đỗ Mục đời Đường :"Đông phong bất dữ Chu lang tiện/ Đồng tước xuân thâm tỏa nhị Kiều: Nếu gió đông không giúp cho Chu Du, thì hai Kiều phải khóa xuân trong đền Đồng tước.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 5:04:09 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền
Cháu Hà Hồng Thủy Carnation Dr. Winter Park, Florida: Thời gian gần đây lụt lội dâng lên cùng khắp, gây nên cảnh màn trời chiếu đất, đói khát, bệnh tật lan tràn ... Cháu có cảm tưởng có thể là nạn lụt đại hồng thủy đã bắt đầu tràn ngập khắp nơi ở thế gian này. Sực nhớ lại cháu có lần được nghe các cụ ngày xưa thường nói đến hai ông Cổn,Vũ...đã trị được thủy nhờ trộm được loại đất giản nở mà ngăn chặn được nước cứu cho sinh linh thoát khỏi vòng nguy khổn. Ngoài ra, còn lắm chuyện thần thoại về hai ông Cổn,Vũ...bà cụ có nhớ không? Nếu được bà cụ kể lại thì còn gì sung sướng bằng!
* Chuyện Cổn,Vũ trị thủy, theo Hải nội kinh sách Sơn hải kinh có ghi về một thời có cơn Ðại Hồng Thủ ngập cả đất trời.... Trước cơn nguy khổn đó hai ông Cổn. Con trai Cổn là Vũ kế tục nhiệm vụ của cha, trị được nạn hồng thủy. đã nhận lãnh nhiệm vụ ngăn chặn không cho nước lụt dâng tràn thêm nữa. Ông Cổn được biết "Ðế" có loại đất giản nở tên là "tức nhưỡng", tự giản nở ra khi gặp nước, bèn lén lút đánh cắp dùng ngăn chận cảnh đại hồng thủy đang trong tình trạng mỗi ngày mỗi dâng cao lên...Chuyện bại lộ, Cổn bị giết . Con Cổn là Vũ, kế nhiệm vụ của cha và ông đã thành công, trị được nạn đại hồng thủy. Theo Thiên Vũ đế ghi và được Nam Sử Cổ do Hoài Nam tử dẫn chú, có đoạn mô tả "Khi trị đại hồng thủy, Vũ biến thân thành con gấu đi dào núi để cho nước thoát đi. Nguyên câu ấy viết đại khái là "Vũ trị đại hồng thủy ông đã biến thân thành con gấu để đào xuyên qua núi Hoàn Viên. Sách Thượng Thư còn ghi: "Vũ có vợ trước khi kế tục nhiệm vụ cha lo việc trị thủy. Người vợ đó là con gái họ Ðồ Sơn. Cưới được bốn ngày thì sinh ra Khải. Khải khóc, nhưng Vũ không đủ thì giờ giúp vợ, phải lên đường đi trị thủy ngay. Còn sách Hoài Nam tử có ghi về đời sống gia đình của Vũ. Sách đó ghi rằng:" Ông Vũ đi trị hồng thủy bằng đường thủy, vốn có phép nên tự mình có thể biến thành con gấu mà vợ vẫn không hề hay biết được điều này. Một hôm ông dặn dò vợ hễ khi nào nghe tiếng trống hãn xách cơm. Không biết loay hoay thế nào, ông Vũ quăng đá trúng nhằm mặt trống. Tưởng chồng bảo mang cơm, vội xách đến, bắt chợt trông thấy chồng biến thành con gấu , nàng xấu hổ bỏ trốn đi. Khi nàng Ðồ Sơn đến dưới chân núi Tung Cao thì rùng mình hóa thành tảng đá. Khi đi tìm vợ, thấy vậy, Vũ thét lên:"Trả lại con ta", tức thì tượng đá đó nứt ra làm đôi và sinh ra Khải." Chuyện ông Vũ chỉ có thế. Những chuyện có tính thần thoại như thế này không hiếm trong cồ sử của Trung Hoa.
Ông Ðỗ Lăng Nghiêm Storm Meadow Dr. Houston TX. muốn nhắc lại bài Mười Yêu trong ca dao Việt Nam ta. Xin vui lòng nhắc hộ.
* Bài Mười Yêu là một bài thơ lục bát của cụ Thuần Phong đăng trên một tạp chí tại Sàigon vào khoảng năm 1934. Bài đó như sau:
Một yêu mặt trắng má tròn,
Hai yeu môi mỏng thoa son điểm hồng.
Ba yêu mắt sáng mày cong
Bốn yêu mái tóc nực nồng nước hoa.
Năm yêu manh áo ngắn tà,
Sáu yên quần trắng là đà gót sen.
Bảy yêu vóc liễu dịu mềm,
Tám yêu giọng nói vừa hiền vừa vui.
Chín yêu học thức hơn người,
Mười yêu,yêu cả đức tài hình dung.
Yêu em khó để trong lòng
Ðể lòng e sợ em không thấu tình:
Yêu em từ mái tóc xanh
Ðến hàm răng trắng,đến manh áo màu.
Yêu em, yêu chẳng biết bao
Sông dài,bể rộng,trời cao dễ bằng.
Ðôi ta như Bụt với Tăng,
Yêu nhau ta phải thì thầm tỏ ra,
Tăng thì tụng niệm Di Ðà
Ta thì khấn vái Nguyệt Bà,Tơ Ông.
Cháu Kiến Hoa Center Rd. Drexel Hil, Phila. Cháu muốn được nhắc lại trong Kinh Thi có các bài "Con chim sẻ" và bài "Con chuột". Bà cụ giúp cho.
* Nguyên văn bài Kinh Thi "Con chim sẻ" và " Con chuột" như sau:
Thùy vị tước vô dốc.
Hà dĩ xuyên ngã ốc?
Thùy vị nhử vô cốc (1)
Tuy tốc ngã ngục,
Thất gia bất túc.
Bài này được cụ Tản Ðà dịch:
Con sẻ kia,
Ai bảo sừng không có?
Mái nhà đó,
Lấy gì làm thủng ra?
Mình với ta,
Ai bảo không cheo cưới.
Gì làm cớ,
Ðem ta đến ngục đình...
Cưới cheo chẳng đủ cho mình lấy ta.
Bài "Con chuột":
Thùy vị thử vô ngông (2)
Hà dĩ xuyên ngã dung?
Thùy vị nhử vô công?(3)
Hà dĩ tốc ngã tụng?
Tuy tốc ngã tụng,
Diệc bất nhử tùng.
Cụ Tản Ðà dịch:
Con chuột kia,
Ai bảo nanh không có.
Bức tường đó,
Lấy gì làm thủng ra.
Mình với ta,
Ai bảo không cheo cưới.
Gì làm cớ?
Ðem ta đến tụng đình,
Thời ta cũng chẳng theo mình lấy nhau.
Ông Phạm Thế Trung Orange County:...Nữ sĩ và nữ nghệ sĩ có khác nhau không? nếu khác thì khác ở chỗ nào? Xin bà cụ chỉ giáo hộ.
* Có. "Nữ thi sĩ tiếng Anh gọi là Poetess, nữ văn sĩ gọi là woman writer, người Trung Hoa và ta hay các nước Nhật, Ðại Hàn gọi chung một danh từ chỉ cho hai giới làm văn thơ này. Còn nữ nghệ sĩ thì gọi là woman artist, hay actress là giới chuyên về nghệ thuật sân khấu, như các cô đào hát chẳng hạn. Nói chung giới làm nghệ thuật sân khấu hay các cô đào hát thường được gọi là nữ nghệ sĩ.
Cụ Ðào Trung Hậu Virginia (do cháu Kiến Hoa - Philadelphia chuyển) :Trong Kiều có câu:
"Từ rằng lời nói hữu tình
Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân".
Bình guyên Quân đó là gì?
* Trong Ðường thi có câu: "Bất tri can đảm hưng thùy vị,linh nhân khước ức Bình nguyên quân". Có nghĩa: Chẳng biết gan mật cùng ai tỏ,khiến người lại nhớ Bình nguyên quân. Ðây là tên một tướng nước Triệu đời Chiến Quốc, có hiếu khách. Trong nhà lúc nào cũng có hơn cả 3000 tân khách.
Cụ Lữ Hồng Quân Garvey Monterey Park CA. Trong Tam Tự Kinh có đoạn :"Thủ Hiếu Ðệ. Thứ Kiến Văn. Tri Mỗ Số. Thức Mỗ Văn." Cụ cho biết nghĩa chung chung nó như thế nào?
* Cụ quên đi đoạn sau mất. Xin nhắc lại để cụ nhớ: "Nhất Nhi Thập. Thập Nhi Bách. Bách Nhi Thiên. Thiên Nhi Vạn." Có nghĩa chung toàn đoạn đó như sau: "Là một con người trước tiên phải biết hiếu thảo cha mẹ, đối với anh em phải biết trên kính dưới nhường. Sau đó mới đến việc học hỏi các kiến thức. Như muốn biết tính các con số,muốn hiểu các bài văn, cần phải học tuần tự từ thấp đến cao như ta đếm những con số từ một đến mười,từ mười đến trăm,từ trăm đến nghìn và từ nghìn đến vạn.
Dưới đây là một bài kể chuyệnliên quan đến mấy câu trong Tam Tự Kinh ghi bên trên:
"Xưa kia có một chàng thanh niên là Ngô Ðồng đời nhà Minh. Từ nhỏ đã theo thầy học nghề thợ nề. Thầy thợ nề là một người thợ rất giỏi vè nghề nghiệp, nên thầy làm bất kỳ việc gì cũng cảm thấy rất dễ dàng và nhặm lẹ. Nhưng Ngô Ðồng lại là một cậu học trò lười biếng. Mỗi khi thầy trao cho làm việc gì thì cũng kéo lê thê , đợi khi nào đáo hạn mới làm qua loa để hoàn thành công việc. Chàng ta cứ muốn được tay nghề giỏi như thầy nhưng lại biếng nhác không chịu học hỏi cẩn thận từng bước mộttừ những động tác căn bản, mà cứ muốn một bước đã tới trời ngay. Do đó hắn đã học biết bao nhiều năm mà vẫn không làm cho được cn phòng ra hồn. Một hôm thầy thấy Ngô Ðồng học nghề với mình cũng đã lâu, bèn thử tay nghề của hắn xem đã đủ trình độ để giao một mình chưa. Bèn giao cho hắn phải xây xong một căn nhà nhỏ trong vòng tuần lễ.
Ngô Ðồng nghĩ thầm trong bụng là việc này thì quá dễ dàng. Ta chỉ cần dùng những mánh học lỏm được của thầy là đã đủ rồi. Hắn bèn ra tay xây nhà . Quả nhiên hắn đã xây xong căn nhà nhỏ chỉ có ba ngày . Hắn mừng thầm và định mời thầy đến xem xét vài ngày sau. Nhưng đến ngày thứ tư đột nhiên có cơn mưa to gió lớn, căn nhà hắn xây bị sụp đổ như đống gạch vụn mà hắn còn chưa kịp mời thầy tới xem. Hắn thật buồn bã, vừa ân hận,vừa hổ thẹ.
Kể từ đó hắn tự hạ quyết tâm học tập lại từ đầu từng bước một những động tác cơ bản, cả những động tác nhỏ nhặt nhất cũng không dám bỏ qua.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 5:15:40 GMT 9
1001 CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Hoàng Quốc Bảo Brookhurst St. Orange County (CA) Tôi nhớ mường tượng là trong thể văn Trung Hoa có "Khúc". Vậy "Khúc" đó là gì? Bà cụ có nhớ xin diễn giải hộ cho.
_ Trong thể văn Trung Hoa có Khúc, mà Khúc có một địa vị cao trong nền văn học sử của đấy nước có nền văn minh tối cổ này. Khúc xuất hiện từ đời Nguyên và được xếp ngang hàng với Đường thi, Tống từ. Khúc gồm có hai loại, đó là "hý khúc" và "tản khúc". Hý khúc thuộc loại tạp kịch, đời Nguyên vận dụng ca hát, nói năng, phối hợp với âm nhạc để biểu thị các tình tiết trên sân khấu,nó biểu trưng cho nghệ thuật. Còn "tản khúc" tức là "thi ca", một hình thức mới của cách luật. Tản khúc có hai loại: tiểu lệnh và sáo số. Tôi chỉ nhớ đại khái như thế, xin ghi lại hầu cụ.
Ông Văn Hồng Vân New York ( qua Chu PA): Ai tự xưng mình là "Tam Giáo Ngoại Nhân" và nghĩa của nó. Bà cụ nhớ chỉ giúp.
_ Đặng Mục người Hàng Châu thuộc tỉnh Chiết Giang, suốt đời không lập gia đình, mà cũng chẳng chịu ra làm quan, ông có nhiều tác phẩm. Tác phẩm nổi tiếng của ông "Bá Nha cầm". Ông nuôi ý chí chống Mông Cổ dành lại nền độc lập cho người Hán. Ông tự xưng mình là người ngoài tam giáo.
Cụ Cư sĩ Tịnh Hạnh San Jose (CA): Tôi muốn được am tường ý nghĩa của kinh Thủ Lăng Nghiêm. Bà cụ có biết về điểm này không? Nếu có xin giải thích hộ.
_ Kinh Thủ Lăng Nghiêm là bộ kinh đại thừa. Nội dung của kinh hàm dưỡng Thiền quán và mật giáo. Thiền quán truy về cội nguồn, căn nguyên tự tánh chân tâm. Mật giáo là Thn chú với sức mạnh vạn năng tiêu trừ nghiệp chướng. Kinh Thủ Lăng Nghiêm thâm hậu thông hiểu cả hệ thống tư tưởng Quán Không của bác Nhã, và chứng Đắc Nhất Thừa Diệiu Pháp của kinh Pháp Hoa... Văn kinh còn thuyết minh công đức trì giới cả công hạnh và năng lực nhiệm mầu của các
Chư Phật Bồ Tát. Tóm lại kinh Thủ Lăng Nghiêm là tập hợp cả hệ thống tư tưởng Thiền, Mật, Luật, Tịnh. Có nghĩa là nó toàn thu tất cả những tư tưởng trọng yếu Đại Thừa Phật Giáo. Nó là kim chỉ nam cho những ai muốn đạt được "trực chỉ bản tâm, thấy tánh thành Phật" v.v... Đại khái là như vậy.
Ông Lê Thúc Bảo Second St. Los Angeles: Bà cụ có biết về quan niệm chết của người Tây Tạng như thế nào không?
_ Bất cứ quốc gia, dân tộc hay bất cứ tôn giáo nào trên thế giới cũng đều có một quan niệm về sự chết của con người. Trước cái chết ai cũng buồn, cũng xót thương, cho những người thân, những bạn bè... vì tất cả đều có cùng một quan niệm:"Tử giả biệt luận". Chết là hết, là không còn có cơ hội trở về nữa. Tuy nhiên người Tây Tạng xem sự chết như một điều gì rất thường tình. Họ quan niệm thể xác âu chỉ là một vật giống như chiếc áo quan, không cần phải đáng quan tâm lắm. Người Tây Tạng cho đó chỉ là cái lớp vỏ bọc bên ngoài, nhiệm vụ du nha6t là chuyên chở linh hồn... Họ quan niệm ví như người già chết thì chẳng khác nào cái vỏ đã quá cũ cần phải được thay đổi, để linh hồn đi đến một cảnh giới khác...nếu có đầu thai thì linh hồn có thể trở lại với xác thân mới mẻ nào đó không cùng một địa vị, một sự liên hệ máu mủ của kiếp trước để tiếp tục làm những công việc còn dang dở. Tưởng cũng nên biết về phong tục chôn cất của Tây Tạng có nhiều hình thức, nhưng được áp dụng những cung cách sau đây:
1. Điểu táng (đem xác cho chim ăn)
2. Hỏa táng...
3. Lưu táng: Giữ xác chết lại bằng cách ướp xác.
Cụ Lữ Vũ Đức Virginia (Thu - Tulsa - OK 74133: Mục đích của Dịch Kinh là gì, bà cụ giải hộ.
_ Mục đích của Dịch Kinh là : Để định giải muôn vật – thành được mọi việc - bao trùm đạo lý của con người. Vì thế thánh nhân áp dụng đạo dịch để khai mở được hoài bảo của thiên hạ – định được cơ nghiệp của thiên hạ và đoán được sự ngờ của thiên hạ.".Nguyên văn như sau:"Phù dịch khai vật - thành vụ - mạo thiên hạ chi đạo như tư nhi dĩ. Thị cố thánh nhân dĩ thông thiên hạ chi chí dĩ định thiên hạ chi nghiệp - dĩ đoán thiên hạ chi nghi". Trong những bộ kinh tối cổ của nhân loại như Cựu Ước, Dzyan, thì Dịch Kinh được xem là lâu đời nhất. Theo Nho giáo thì đây là bộ sách thuộc loại bói toán việc cát hung, Theo Phật giáo thì đây là bộ kinh soi sáng thêm đời sống con người với vũ trụ. Theo Mật Tông thì đây là bộ kinh dành để nghiên cứu về về sự vận chuyển các từ lực của con người với các đối thể hiện hữu chung quanh. Theo Tân Gia Mặc Pháp thì đây là bộ kinh tôi luyện tư tưởng và dùng nó để khắc chế thiên nhiên. Cò với các nhà tư tưởng phương Tây thì cho đây là bộ triết học uyên bác có khả năng chuyển cải tư tưởng bất thuần động của nhân loại. Với khái niệm ấy, nên tùy mỗi nơi, môpi tôn giáo, tùy mỗi quốc gia hay địa phương đều áp dụng và nhìn Kinh Dịch với con mắt đặc tính trong khái niệm của họ. Thậm chí các môn phái võ thuật cũng bị những khái luận khác nhau về Kinh Dịch làm thay đổi các tư tưởng võ thuật. Như phái Võ Đang chẳng hạng với môn huy là Thái Cực, dùng Kinh Dịch để lập thành chiêu thế, như Gs. Vũ Đức trong Ban Biên Tập Đại Chúng đã nói các chiêu thế đó là:
Thái Cực Đại Tâm Quyền
Càn Khôn Kiếm
Hỏa Muội Phong Sơn Côn
Địa Tấn Thương
Lôi Tùy Giang Hành Trảo
và bộ quyền cao đẳng vi diệu nhất của Võ Đang do Trương Tam Phong khi thọ được 103 tuổi lúc sắp chết đã minh ngộ để lập thành sau khi đã tịnh giải được quẻ: Thủy Phong Tĩnh v.v... Tôi chỉ biết đại khái như vậy ghi lại để hầu ông.
Bà Đào Thị Hồng Đào Reseda: Thưa cụ, cháu đang cho con bú sữa mẹ, bỗng dưng cạn sữa. Lúc ở Việt Nam mình cháu nghe có phương thuốc Nam gia truyền hay lắm, vậy cụ có biết toa này không? Cháu đợi tin bà cụ.
_ Tôi cũng nghe nói có một phương thuốc dành cho người đàn bà nuôi con không sữa. Đại khái toa thuốc được truyền khẩu là phương thuốc tổ truyền như sau: Dùng Bối mẫu, Tri mẫu, Mầu lệ phấn, ba thứ bằng nhau tán ra thành bột, nước nấu móng chân lợn làm than mà uống 2 đồng cân, hoặc nấu cháo chân lợn hòa vào hai đồng cân thuốc bột mà ăn càng tốt. Đại khái là vậy. Tôi chẳng phải là thần thuốc, nên chẳng biết thật hư, tốt hơn, bà hỏi các vị Đông Y thử xem.
Cháu Chu Vũ Hà Trinity St. PA. Cháu nghe nói trong Ca dao của nước ta có nhiều câu nói về thời tiết. Bà cụ cho cháu ít câu đi.
_ Chuồn chuồn liệng thì nắng Chim én liệng thì mưa
_ Đang mưa quạ kêu thì nắng Đang nắng quạ kêu thì mưa
_ Đông sao thời nắng,vắng sao thời mưa
_ Gió bấc hiu hiu Sếu kêu thì rét
_ Cơn mưa đằng đông,vừa trông vừa chạy Cơn mưa đằng tây, mưa giây gió giật Cơn mưa đằng nam, vừa làm vừa chơi Cơn mưa đàng bắc,để thóc ra phơi. v.v...
Còn nữa, có dịp sẽ ghi thêm cho cháu.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 5:41:33 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
MỘNG TUYỂN Nữ Sĩ
Ông Nguyễn Văn Như Hà Brookhurst Orange County (CA). Tôi có dịp nghe một người bạn đọc một bài thơ cuối cùng của nhà thơ cổ điển Quách Tấn, hình như là bài thơ "Sau Tết", tôi chỉ nhớ mường tượng như vậy. Bà cụ có nhớ bài thơ này không?
* Bài ông nói đó có thể là bài "Một Buổi Chiều Sau Tết". Nếu đúng bài thơ ông muốn nhắc lại, tôi xin ghi lại để ông đọc nếu đúng thì chính bài này:
Tết đã qua rồi chợ đã tan
Ngày vui đã hết, hứng chưa tàn.
Duyên vầy nửa gối hoa trì mộng
Tin gửi đầy hương Thiết Mộc Lan.
Man mác mây lồng cây Vị Bắc
Bồi hồi địch vẳng khúc Dương Quan.
Bay về núi cũ bầy sương lộ,
Cánh quạt vào song ngọn gió ngàn.
Cụ Hoàng Hữu Thành San Jose: Trong truyện Kiều có hai câu, mà tôi thấy có nhiều bản viết khác nhau:
1. Kiếp này nợ trả chưa xong
Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau.
Còn một bản khác thì viết:
2. Kiếp này nợ trả chưa xong
Làm chi thì cũng một chồng kiếp sau.
Vậy trong hai câu này, câu nào thì đúng?
* Theo hai cụ Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim thì: “Chồng đó là chồng chất", chứ không phải là chồng. Theo nguyên văn của chính bản: “Kiều tưởng đạo tiền sinh nghiệp trái, kim nhật vị hoàn, hựu tăng lai sinh nhất trùng oan trái, hà thời hoàn đắc càn tĩnh”. Có nghĩa: Kiều nghĩ thầm rằng: nợ kiếp trước mà kiếp này không trả, lại để kiếp sau nợ chồng lên một lần nữa, thì bao giờ mới trả cho xong?” Theo tôi nghĩ hai cụ Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim là đúng.
Ông Vũ Ngọc Ngữ Chiêu Spartalus Dr. Grand Prairie TX. 77502: Bà cụ có nhớ hai bài thơ "Thường Nga" của Lý Thương Ẩn và bài "Thu Tịch" của Đỗ Mục không? Nếu nhớ xin nhắc hộ cho.
* Bài Thường Nga dưới đây là của nhà thơ Lý Thương Ẩn, đời Đường:
Vân mẫu bình phong chức ảnh thâm
Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm,
Thường Nga ưng hối du linh dược
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.
Có nghĩa:
Đèn lụn giữa đêm khuya, mờ chiếu bóng bình phong, canh vắng sao thưa bến sông trắng xóa. Tội trộm lấy thuốc nàng đành gánh chịu, đêm thanh,mây thẳm đớn đau lòng.
Còn bài: Thu Tịch là của Đỗ Mục:
Ngân chức thu quang lãnh họa bình,
Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh.
Thiên giai dạ sắc tương như thủy
Ngọa khán khiên ngưu chức nữ tinh.
Có nghĩa:
Trăng mờ hiu hắt khiến cho tấm bình phong lạnh, Tung cánh quạt mềm lên con đóm lướt ngang qua. Lưng trời gió thoảng nhè nhẹ lại, nằn yên lặng mà ngắm hình nguyệt nga.
Cụ Mã Vi Tuyền Trinity St. Philadelphia: Tôi muốn cụ dịch sát hộ nghĩa của cái câu: "Phù địch khai vật thành vụ, mạo nhiên hạ chi đạo như tu nhi dĩ. Thị cố thánh nhân dĩ thông thiên hạ chi nghiệp - dĩ đoán thiên hạ chi nghi.
2. Trong các bộ kinh tối cổ, tôi đọc được các tập sách khảo cứu về Dịch Kinh nói là Pho Kinh Dịch là pho kinh tối cổ của nhân loại, có đúng thế không?
3. Chẳng biết Dịch Kinh nó huyền nhiệm như thế nào để đến nổi Đức Khổng Tử phải bỏ ra rất nhiều thời gian ra để hệ thống và định giải về bộ kinh này?
* Câu: “Phù dịch khai vật thành vụ..." có nghĩa: "Dịch là để định giải muôn vật - thành được mọi vật - bao trùm đạo lý của con người. Vì thế thánh nhân áp dụng đạo dịch để khai mở được hoài bảo của thiên hạ - định được khả nghiệp của thiên hạ và đoán được sự ngờ của thiên hạ."
2. Trong các bộ kinh tối cổ của nhân loại như Cựu Ước, Dzyan... Dịch Kinh của Đông phương là lâu đời hơn cả, Chính bộ Kinh Dịch là mầm mống khỏi thủy ra văn hóa, luân lý, đạo đức... theo tinh thần Đông phương.
3. Dịch Kinh quả thật có tiết tấu huyền diệu nên Đức Khổng Phu Tử - người đã bỏ bao lao lâu trong thời gian dài để nghiên cứu, hệ thống và và đọnh giải, nó bao la và huyền nhiệm nên gần chết mà vẫn không thể lý giải hết. Vì vậy mà ngài đã than trước khi nắm mắt: "Gia ngã sổ niên, tốt dĩ học dịch, khả dĩ vô đại quá hỷ". Câu nói bất hủ này của ngài Sư Biểu mà sau này nhiều nhà nghiên cứu dịch ở Tây phương cũng phải dịch ra: Confucius said: "Give me a few more years, so that I may have spent a whole fifty in study and I believe that after that allI should be fairly free from error".
Cụ Vũ Hảo Thomas Ave, St,Paul MN.55103. Trước kia tôi được nghe câu thành ngữ của Trung Hoa như sau: "Cư an tư nguy". Bà cụ giảng giải hộ.
* Thành ngữ "Cư an tư nguy" do câu chuyện như bên dưới đây mà có:" Thời Xuân Thu Chiến Quốc loạn lạc nhiều, ít khi có được thanh bình dài lâu, thuở ấy nước Trịnh đem binh xâm lược Tống, Tấn, Lỗ, Vệ... khiến tất cả 11 quốc gia đều bất mãn. (Nguyên nước Sở lúc bấy giờ bị các nước Trung Nguyên cho là dã man). Sở thấy Trịnh hòa hảo với 11 quốc gia trên, bèn hướng về nước Tần mượn binh diệt Trịnh. Nước Trịnh có ý hàn phục Sở, trải qua thời gian đó, 12 nước Trung Nguyên nhận thấy Trịnh có hành vi bội ước đi hàng Sở. Tất cả các quốc gia đều hội lại hiệp sức đánh Trịnh. Đầu tiên Trịnh thỉnh cầu nước Tấn là một đại quốc đứng ra giảng hòa. Tấn nhận lời yêu cầu của Trịnh và thông báo cho các nước đồng minh. Các quốc gia đồng thuận kéo quân rút về. Trước ơn ấy, nước Trịnh cảm tạ nước Tấn đã giúp mình nên đem tặng nhiều binh xa và nhạc khí luôn cả nhạc sư và vũ nữ... Tấn Vương bèn mang một nửa số ca vũ nữ ra tặng lại cho công thần Ngụy Giáng. Công thần này không chịu nhận bèn quì tâu: "Công đức giúp cho Hoàng Thượng được thành công là của nhiều người chứ không riêng gì của hạ thần. Còn Hoàng Thượng bây giờ có thể đoàn kết rất nhiều nước... để cùng giữ yên bờ cõi. Thần nghe người xưa nói: "Cư an tư nguy", tư tắc hữu bị, hữu bị vô hoạn". Lúc sung sướng phải nhớ khi hoạn nạn, phàm việc gì cũng vậy phải chuẩn bị trước mới đợc. Đại khái là vậy.
Cư sĩ Tịnh Sơn Garden Grove: Bà cụ nhớ nhắc lại hộ Thần chú Đa Ra Ni, đồng thời giải cho cái nghĩa của Thần Chú... Xin cho một ít ví dụ. Cám ơn bà cụ nhiều.
* Nguyên chữa viết Đa Ra Ni: Dhârani, có nghĩa là "Trì" tức giữ hay "tổng trì" là giữ tất cả lại. Ngoài ra còn có nghĩa là "năng già" chận đứng những ác nghiệp hay ác ý không cho thoát ra ngoài. Có 4 loại Đa Ra Ni:
a: Văn Đa Ra Ni hay Pháp Đa Ra Ni là các giáo pháp.
b: Nghĩa Đa Ra Ni:nghĩa lý của các pháp.
c: Chú Đa Ra Ni: hay là chơn ngôn thần chú (formules magiques) là những câu bí mật của chư Phật, chư Bồ Tát truyền lại để trợ giúp cho hành giả trên đường hành đạo, trừ khử các sự độc ác tai nghiệp của thế gian.
d. Nhân Đa Ra Ni: Đối với các thật tướng của pháp, trì nhẫn cho thân tâm khỏi xao động.
Thần chú có nghĩa những ngôn từ bí mật, có tác năng chuyển hóa những sự vật, khi hành giả muốn chuyển hóa sự vật theo ý muốn của mình, ngoài ra còn có nhiệm vụ cho chính bản tâm của hành giả đặng tránh những tai biến. Hoặc nó còn hộ trì cho đối tượng chúng sanh hạnh ngộ được thiện nghiệp. Thần chú mà đọc thành tiếng gọi là "Động thanh thần chú" còn đọc không thành tiếng thì gọi "Thịnh thanh thần chú". Còn Thần chú chỉ nghĩ đến bằng tư tưởng không thôi thì gọi "Mật thanh thần chú. ...
Ông Nguyễn Văn Tân San Jose: Bà cụ có nhớ bài "Con Chó Đá" của Lê Thánh Tôn không? Xin nhắc lại hộ.
* Con Chó Đá
Quyền trọng ơn trên trấn cõi ngoài
Cửa nghiêm chôm chổm một mình ngồi
Quản bao sương tuyết nào chi kể
Khéo nhử cao lương cũng chẳng nài
Mặc khách thị phi giương tráo mắt
Những lời trần tục gác ngoài tai
Một lòng thờ chúa nghìn cân nặng
Bền vững ai lay cũng chẳng dời.
Ông Văn Thành Bảo San Jose: Thỉnh thoảng thấy bài viết hay thơ của nhà thơ Mộng Đài, đó có phải là cây bút thời tiền chiến không? Xin bà cụ cho biết.
* Đúng. Nhà thơ tiền chiến Mộng Đài, được nhiều người biết đến, đồng thời với Thế Lữ, Hàn Mạc Tử, Bích Khê, là bạn vong niên của cụ Diệp Văn Cương, Bút Trà... Hiện cùng sống với ông tại Thung Lũng Hoa Vàng.
Mộng Tuyền DaiChung
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 5:48:26 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Ông Vũ Bắc Tiến Brookhurst Orange County (CA): Trong Kinh Thi có mấy vần thơ nhắc đến mối tình giữa Ngưu Lang và Chức Nữ, có lần tôi được đọc qua, song từ ngày sang Hoa Kỳ thì gần như quên khuấy mất. Kể cả các bài Thường Nga và Thu Tịch đời Đường tôi cũng chẳng còn nhớ đến nữa. Bà cụ nhớ xin nhắc hộ cho.
_ Các bài mà ông nêu ra chỉ về câu chuyện tình giữa Hằng Nga và Hậu Nghệ, mãi đến ngày nay vẫn còn được sùng bái, như câu chuyện anh hùng và mỹ nhân, xem đó thứ tình yêu thơ mộng được thần thánh hóa. Đây là mối tình đẹp nhất trên đời. Trong Kinh thi nơi thiên Tiểu Nhã có bài:
Bạt bỉ chức nữ, Chung nhật thất tương; Hoãn bỉ khiên ngưu, Bất dĩ phục sương.
Bài Thường Nga mà ông muốn được nhắc lại là của Lý Thương Ẩn như sau:
Vân mẫu bình phong chúc ảnh thâm, Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm, Thường Nga ưng hối du linh dược, Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.
Có nghĩa:
Đèn khuya mờ chiếu bóng bình phong, giữa canh vắng, sao thưa, trắng cả bến sông. Thường Nga cam chịu gánh lấy một mình tội trộm thuốc, giữa đêm vòm trời trong xanh mà cảm thấy xoqt xa lòng.
Còn bài Thu Tịch của Đỗ Mục như sau:
Ngân chúc thu quang lãnh họa bình, Khinh la tiểu phiến phác lưu huỳnh, Thiên gia dạ sắc lương như thủy Ngọa khán khiên ngưu chức nữ tinh.
Có nghĩa:
Bóng trăng mờ hiu hắt khiến cho bức bình phong phải lạnh lẽo, cánh quạt mềm phe phẩy, con đóm lướt ngang qua. Lưng trời gió thoảng nhẹ nhàng thổi lại, nằm một mình lặng ngắm bóng Ngưu lang.
Cháu Hoàng Dung Orange County : Nhân chuyến đến thăm viếng quận Cam của Đức Đạt Lai Đạt Ma vừa rồi, cháu sực nhớ có câu chuyện được nghe thuật lại tại đất Tây Tạng có cả một làng "không có người chết". Chẳng biết chuyện này có đúng như thế không? Bà cụ chỉ giáo.
_ Có. Bà còn nhớ có lật lần đọc được chuyện này trên tuần báo Tri Thức - do ông Thinh Quang - đứng làm chủ bút, có đăng tải về câu chuyện hi hữu khá lạ lùng này mà các khoa học gia trên thế giới đã đổ xô đến tìm hiểu nguyên nhân các cư dân tại làng
Tungchu, Tây Tạng được "trường sinh bất tử" như vậy. Theo bác sĩ Steven Curtis thì trong lịch sử loài người chưa hề có hiện tượng kỳ lạ này. Ông cho biết người chết đến trụ sở xã khai tử người cuối cùng vào năm 1942 và cũng kể từ đó đến 1991 - theo tờ Sun ấn hàng vào ngày 31 tháng 12 năm 1991 - thì không thấy có ai đến khai tử nữa, có nghĩa là không có người chết tại làng này. Ông xác định sau cuộc điều tra thì cư dân tại đây sống mãi và ông cũng chẳng biết lý do nào đã giúp họ được ơn phước lớn như vậy!"
..."Tôi chẳng thấy có một người nào tại xã Tungchu đó bị bệnh tim, ung thư hay các bệnh đột biến khác. Trẻ em sinh ra không một bé nào tử vong cả.”
Bởi không có người chết kể từ năm 1942 đến năm 1991 - ngót nửa thế kỷ - ngôi làng cổ Tungchu này gia tăng dân số đáng kể, từ chỗ 680 người tăng vọt đến 6.224 ở năm 1991. Người được xem là thọ nhất trong làng Tungchu này 142 tuổi (tính đến năm 1991) và 188 người sống đến 130 tuổi cũng tính đến thời gian ghi trên.
- "Tôi đã khám thật cẩn thận sức khỏe của các bậc trưởng lão này , họ đều nằm trong tình trạng tốt cả.”
Được hỏi là da dẻ của các cụ như thế nào, được nhà khoa học này cho biết: "Da họ có nhăn đi, răng cũng rụng toàn bộ, nhưng thân thể họ thật cường tráng." Và ông kết luận: "Trong đám trường sinh bất tử này chẳng một ai có bệnh tật gì?!"
Theo nhà nhân chủng học - ông Dennis Johnson - người phát hiện đời sống lạ thường ở đây cho biết:" Tunbgchu không giống bất cứ một địa phương nào trên trái đất. Có những người rất già, nhưng tôi không thể tin nổi là số tuổi của họ đến 120 hoặc 130 cả. mặc dù trên mặt họ cũng có những vết nhăn nheo và răng cỏ có cụ rơi năm mười cái, có cụ trọn cả hàm nhưng chẳng phải vì thế mà họ lọm khọm già yếu. Họ vẫn còn đi xe đạp với những đoạn đường dài không biết mệt. Không phải chỉ thỉnh thoảng mà ngày nào họ cũng đạp những cuốc xe mà tuổi trẻ các địa phương khác không thể theo kịp.
Được hỏi vì sao mà họ được phép mầu như vậy, được họ cho biết nhờ vào lòng tin tuyệt đối của họ đối với nhà Phật. Theo các bác sĩ thì họ chỉ ăn uống các thực phẩm như gạo, các loại đậu và cá, ngoài ra chẳng có gì khác nữa. Theo bác Curtis, cho dù họ có bất cứ lối ăn uống thế nào thì con người hay mọi vật thể khác cũng phải theo qui trình của hoại vong.
Đại khái là như vậy. Bà cũng chẳng biết đến bây giờ thì làng Tungchu các cụ trường thọ ấy còn sống hay đã chết? Và dân cư còn ở trong hoàn cảnh nhiệm mầu này nữa không?!
Ông Đoàn Duy Hùng 49 st. Philadelphia (qua Thu Center Road Derxel Hill) Trong Tam Tự Kinh có câu:" Toan khổ cam. Cập Tân Hàm. Thử ngũ vị. Khẩu sở hàm..." Tôi muốn hiểu từng nghĩa của mỗi chữ và đạt được ý của lời dạy này của thánh nhân. Nếu được xin cho lời diễn giải".
_ Nguyên câu như sau: "Toan khổ cam. Cập tân hàm. Thử ngũ vị. Khẩu sở hàm. Thiên tiên hương. Cập tinh hư. Thử ngũ xú. Tị sở khứu".
Nghĩa của từng chữ: Toan (vị chua). Cam (vị ngọt) Khổ (vị đắng). Tân (vị cay). Hàm (vị mặn). Hàm (ngậm trong miệng). Khẩu (cái miệng). Thiên (mùi gây hay mùi hôi của con dê). Tiên (mùi khét,mùi các vật bị khét cháy). Tình (mùi tanh hôi của thịt cá). Hư (mùi mục nát hay mùi thịt bị rữa nát). Xú (mùi thối). Khứu: ngửi bằng mũi. Tị (cái mũi). Nghĩa chung: Chua, ngọt, đắng, cay, mặn là năm loại vị mà ta có thể ngậm vào miệng là phân biệt ra được. Còn hôi, cháy, thơm tanh, mục nát là năm loại mùi thối mà ta dùng mũi ngửi là phân biệt được.
Câu chuyện kể bên dưới nói về ý nghĩa lời dạy của thánh nhân:
Có câu chuyện về sự tích con kiến như sau:" Ngày xửa, ngày xưa, có một anh chàng rất lười biếng không chịu làm việc, hắn ta rất thích ăn đồ ngọt, lại có cái mũi rất thính ngửi, một viên kẹo nhỏ rơi rơi ở đâu hắn cũng có thể ngửi thấy và tìm ra được. Vì tính hay ăn biếng làm, nên ruộng vườn đều bị bỏ hoang. Một hôm người vợ thấy vậy bèn nói với hắn là bây giờ mình còn trẻ, còn có sức lực, nên ra ngoài học hỏi người ta, để rồi học được một cái nghề giữ thân và nuôi vợ nuôi con sau này. Anh chàng nghe vậy bèn thu xếp. Trên đường ra đi qua một cái vườn rau, thấy một con ngỗng rơi xuống hố phân lên không được. Anh chàng cứ tiếp tục đi, mãi một lúc sau thấy một số dân làng chạy ra gặp anh hỏi có thấy một con ngỗng trắng không. Anh ta sực nhớ và nói với dân làng là: "Tôi có thể dùng cái mũi của tôi để ngửi và tìm hộ cho". Thế là hắn bèn làm ra vẻ ngửi hết chỗ này đến chỗ kia rồi đi dần tới cái hố phân trong vườn ra và bảo dân làng cứu con ngỗng lên. Từ đó dân làng rất tín nhiệm hắn và đặt cho hắn cái tên là "Hiếu Tị Sư". Cái biệt danh này truyền đến được tai vua. Khi vua bị mất cái ngọc tỉ, tức cái dấu ấn của vua. Vùa bèn truyền cho gọi hắn lên để tìm. Hắn vô tình và may mắn tìm được kẻ ăn trộm ngọc tỉ của vua. Vua bèn ban cho hắn muốn lấy cái gì thì cứ nói lên. Vốn bản tính thích ăn đồ ngọt, mà lại nghe nói đồ ngọt trên thiên đàng còn ngon hơn ở dưới trần gian xấp trăm ngàn lần. Hắn mới yêu cầu Vua làm cho một cái thang lên trời để hắn có thể leo lên trên ấy mà ăn đồ ngọt. Khi hắn leo đến nửa chừng, không ngờ gặp phải ông thần Sấm Sét và bị ông thần này đánh cho một rìu làm hắn ngã từ trên trời xuống đất. Khi chạm đến đất thân xác hắn vỡ ra hàng trăm ngàn mảnh và biến thành một đám kiến nhỏ, đi đến đâu ngửi đến đó.”
Bà Vũ Ngọc Hồng Washington DC. Tôi được biết về "Sâm Đại Hàn" mà người ta thường gọi là Sân Cao Ly, nhất là Linh Sâm, nhưng chưa rõ về tác dụng của nó. Vậy bà cụ nếu biết xin chỉ giáo hộ cho.
_ Sâm Cao Ly là đệ nhất linh thảo lừng danh khắp năm châu bốn bể. Hình dáng nó giống người có chân tay, có nhiều củ còn có cả bộ phận sinh dục nam hay nữ nữa. Loại sâm tự nhiên thường phát hiện ở Tây bắc Đại Hàn, loại đặc biệt to như đứa hài nhi, đương nhiên là không bán, chỉ gặp được khi có kỳ duyên. Tuy nhiên có một thời gian cách đây gần nửa thế kỷ họ tìm thấy một củ như vậy và hiện để tại viện bảo tàng của Bắc Kinh. Loại được trồng nổi tiếng ở nơi Linh Sơn,Tùng Đô,Thiên Quan, những địa điểm này nằm phía Tây bắc của thủ đô Bắc Hàn khoảng 100 dặm. Sân Đại Hàn có cả thảy 14 loại như sau: Sâm Thiên Nhiên (loại mọc hoang), người ta thường gọi là Linh Sâm. Có giai thoại về loại sâm này thường hiện thành hình các trẻ để đi chơi hay nhập bạn với các thiếu nhi khác để nô đùa. Loại này thường xuất hiện ở tỉnh Kuamo nơi có những ngọn núi cao nằm gần cực Bắc của Đại Hàn. Loại sâm này có thể cải tử hoàn sinh.
Ngoài ra còn có Bạch Hồng Sâm, Bách tế Sâm, Bạch Sâm, Hoàng Sâm, Linh Sâm, Thiên Quan Sâm,Dạ Điểu Sâm, Hoàng Đản Sâm, Lộc Sâm và Triều Tiền Sâm. Có dịp, sẽ nói về tác dụng của mỗi loại.
Ông Đỗ Ngũ Hồ BewtGrasse Dr. Charlotte,NC. 28269: Bà cụ có nhớ bài Tự Tình và bài Chiều Hôm Nhớ Nhà của Hồ Xuân Hương xin nhắc lại hộ. Xin thành kỉnh cảm ơn.
_ Bài: Tự Tình
Tiếng gà văng vẳng gáy trên bom? Oán hận trông xa khắp mọi chòm. Mõ thảm không khua mà cũng cốc, Chuông sầu chẳng đánh đánh, cớ sao om? Trước nghe những tiếng thêm rầu rĩ, Sau giân vì duyên để mõm mòm! Tài tử văn nhân ai đó tá! Thân này đâu đã chịu già tom?
Chiều Hôm Nhớ Nhà
Vàng tỏa non tây, bóng ác tà; Đầm đầm ngọn cỏ, tuyết phun hoa. Ngàn mai lác đác chim về tổ; Dặm liễu bâng khuâng khách nhớ nhà. Còi mục thét trăng miền khoáng dã; Chài ngư tung gió bãi bình sa. Lòng quê một bước nhường ngao ngán, Mấy kẻ tình chung có thấu là?
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 6:00:48 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Vương Đình Ái Lakebird Sunny Valley CA. Có mấy câu tục ngữ Trung Hoa tôi chỉ còn nhớ mang máng, bà cụ biết xin chỉ giáo hộ:
1. Phật tại tâm đầu tọa. 2. Phạ hoa thập tự liệt,lăng giác lưỡng đầu tiêm. 3. Phong tranh phóng đắc cao. 4. Xảo ngôn loạn đức. 5. Nhất bộ đăng cao tựu bất nhận lão hương thân, 6. Ngưu tầm ngưu,mã tầm mã.
* Câu thứ nhất ông thiếu đoạn sau. Nguyên câu tục ngữ này như sau: "Phật tại tâm đầu tọa, tửu nhục xuyên trường quá." Có nghĩa: Phật ở trong lòng ta, còn rượu thịt thì tuôn qua ruột. 2. "Phật hoa thập tự liệt,lăng giác lưỡng đầu tiêm". Có nghĩa: Sợ hoa xé chữ thập, củ ấu nhọn hai đầu. Ta cũng có câu:"Sợ gái thập thành, sợ người đòn xóc hai đầu." 3. Câu thứ ba này ông cũng bị thiếu mất một phần của câu. Nguyên cả câu như sau:"Phong tranh phóng đắc cao, điệt hạ lai nhất đoàn tao". Có nghĩa: Diều giấy bay càng cao, Rơi xuống thành đống vụn. Tục ngữ ta cũng có câu tương tự:"Càng trèo cao, càng té nặng". Nguyễn Hữu Chỉnh ngày xưa cũng có lời tương tự:" Kêu lắm lại càng tan xác lắm/ Rồi ra chỉ một tiếng mà thôi. 4. "Xảo ngôn loạn đức", có nghĩa: Lời xảo làm loạn đức. Tục ngữ ta có câu tương tự: "Miệng thơn thớt, da ớt ngâm". 5. Nhất bộ đăng cao tựu bất nhận lão hương thân". Có nghĩa: "Một bước lên cao,quên tình quê cũ". Tục ngữ ta cũng có câu như vậy:"Giầu đổi bạn,sang đổi vợ". 6. "Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã", có: Trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa. Ý nói bạn nào bè nấy.
Bà Ngô Đình Vinh Hiển (Qua Trọng Thu New York) Tôi nghe nhắc đến "Giấc Hòe", vậy giấc hòe có điển cố gì?
* Kiều có câu: "Tiếng sen dẽ động giấc hòe". Theo điển tích: Thuần Vu Phần ngày xưa năm ngủ dưới gốc hòe, chiêm bao thấy có hai sứ giả vời vào triều làm Phò mã, rồi sau đó được phong làm Thái thú ở đất Nam Kha, vinh hiển hơn hai mươi năm. Đến khi giật mình tỉnh dậy thì chỉ thấy có đàn kiến bên mình, còn tất cả vợ đẹp con xinh, vinh ba phú quí đều tan biến theo giấc chiêm bao.
Cụ Lữ Thắng tự Hoa Viên qua Thọ Phan Maryland: Tôi có nghe câu thành ngữ "Cảm đái nhị thiên". Có nghĩa cảm thấy có hai ông Trời. Vậy câu này tất có điển cố. Xin bà cụ chỉ giáo.
* Câu này có điển tích như sau:" Đời nhà Hán có người tên Tô Chương làm đến chức Thích Sử có nhiệm vụ giám sát các quan Châu. Ông ta có người bạn cũ, làm chức Thái Thú ở quận Thanh hà, quận này cũng thuộc Châu.
Có lần ra ngoài điều tra, quan Thanh Hà biết được bạn cũ của mình thuộc hàng tham nhũng, ông nắm được đầy đủ chứng cớ. Ông Thái Thú muốn mua chuộc bạn cũ bèn thiết đại tiệc mời đãi đằn.
Ông Tô Chương vẫn tới tham dự như thường. Qua tuần rượu, giữa bữa ăn nói lên một câu"Thiên hạ chỉ có một ông Trời, mà riêng tôi có đến những hai". Ông Tô Chương cười lớn đáp:"Ngày hôm nay uống rượu là chuyện riêng tư, còn mai kia xử án thì phải chiếu theo pháp luật".
Và, đúng như lời Tô Chương nói, ông vẫn thi hành đúng theo luật pháp trị tội viên quan tham nhũng này.
Cụ Vũ Hà Phong Brookhurst Westminster: Người xưa bảo, con gà có "Năm Đức" vậy năm đức đó là đức gì? Có sự tích nào về câu chuyện này không?
* Đúng như lời cụ nói, con gà có năm đức. Đó là Văn.Vũ, Nghĩa, Dũng, Tín. Gà có mào trên đầu là Văn. Có cựa ở dưới chân để chiến đấu là Võ. Có ăn thì gọi nhau là Nghĩa, có kẻ lạ đến gần thì đánh là Dũng. Sáng sớm luôn luôn gáy đúng giờ là Tín.
Do đó người xưa gọi là một loại "Đức cầm".
Sự tích kể rằng: "Đời Tống ngày xưa trong chốn học của vua Sử Tôn có nuôi một con gà biết nói, hàng ngày thường hay đàm luận với Quốc Sư. Do đó Đức nghiệp của vua Sứ Tôn càng ngày càng tiến bộ và học vấn càng ngày càng cao. Cùng thời có ông Lục Quy Mông cũng có nuôi một con vịt biết nói, đấy là những chuyện lạ trên đời.
Con chó lớn gọi là "khuyển", chó nhỏ gọi là "cẩu". Ngày xưa có người tên là Dương Sinh, có nuôi một con chó, suốt ngày nó đi theo chủ. Một hôm Dương Sinh uống rượu say, khi về nhà nằm ngay trên bãi cỏ hoang. Dân làng đốt núi, chó thấy vậy, bèn nhảy xuống sông làm ướt hết lông rồi chạy lên nhảy nằm lên thân hình của chủ để cho ướt ướt quần áo, nhờ vậy đã cứu được chủ khỏi bị chết cháy. Chó thật là có nghĩa đối với con người.
Đời nhà Chu, Chu Mục Vương có tám con ngựa rất quí, gọi là Bát Tuấn. Tên của tám con tuấn mã này là: 1. Tuyệt Địa. 2. Phiên Vũ. 3. Bôn Tiêu. 4. Việt Ảnh. 5. Ngọc Huy. 6. Siêu Long. 7.Đằng Vụ. 8. Hiệp Dực. Ngựa của Quan Công tên là Xích Thố. Ngựa của Lưu Bị tên là Đích Lự. Ngựa của Trương Phi gọi là Ô Truy. Ngựa của Tào Thực tên là Kinh Phàm. Ngựa của Tôn Quyền gọi là Khoái hàng v.v... đều là những con ngựa hay nổi tiếng.
Ngựa dùng để cưỡi và vận chuyên. Bò dùng để vận tải và cày bừa. Dê khi bú sữa mẹ phải quì gối tỏ ra có ân với mẹ. Gà để báo thức. Chó để giữ nhà. Lợn để ăn thịt. Đó là sáu loại gia súc.
Ông Khang Vũ West Covina CA. (Qua GS. Vũ Đức) Tôi muốn biết về truyện Lưu Thần - Nguyễn Triệu du Thiên Thai. Bà cụ giúp thuật lại hộ cho. Thành kính cám ơn.
* Sự tích ấy như sau: "Năm Vĩnh Bình đời vua Hán Minh Đế, nhằm ngày Tết Đoan Ngọ, Lưu Thần, Nguyễn Triệu rủ nhau vào núi Thiên Thai hái thuốc bị lạc trong rừng gần nửa tháng, lương thực không còn để ăn lấy sống qua ngày. Hai chàng phải hái những quả đào chín mọc bên sườn núi ăn, lúc xuống khe uống nước thấy có những hạt cơm vừng và lá rau trôi, mới bảo nhau chắc gần nơi này có người ở.
Hai chàng cố vượt qua mấy dẫy núi nữa, đến được một cái khe trông thấy hoa lá cây cỏ đẹp vô cùng. Trong lúc ngắm cảnh đẹp của hoa , bỗng có hai mỹ nhân xuất hiện đang rẽ hoa ra gọi: "Lưu, Nguyễn sao mà đến chậm thế?" Hai chàng giật mình lấy làm lạ. không biết làm sao hai mỹ nhân này lại biết tên mình. Nhìn thấy hai chàng bỡ ngỡ hai nàng mỉm cười, đoạn cất tiếng mời đi theo mình. Tới động lại trông thấy được trang hoàng lộng lẫy, mùi hương tỏa ra sực nức, hai cô bèn thân mời Lưu, Nguyền uống rượu.
Tối lại, thêm nhiều mỹ nhân khác bưng một mâm đào đến, tặng mỗi người một quả nói: "Chúng em mừng tân lang và tân giai nhân, rồi các nàng tự ra ca múa chúc mừng ngày hội ngộ.
Khi tiệc tàn, khách khứa ra về, hai chàng vào động phòng với hai nàng tiên nữ. Và từ đấy hai chàng vui chơi cùng tiên nữ, quên hẳn quê hương. Cảnh trong động ngày thì luôn luôn ấm áp, khí hậu quanh năm như mùa xuân, lại thêm cỏ thắm hoa tươi, chim ca vượn hót. Đêm thì trăng sáng sao thưa, đêm thanh gió mát, lúc nào cũng nghe thoảng mùi hương phảng phất quanh mình.
Ở gần hai năm, hai chàng tự nhiên bỗng thấy động lòng nhớ nhà, ngõ ý với tiên nữ muốn được về thăm quê hương, để thu xếp việc nhà cửa, ít lâu sau thế nào cũng trở lại cùng nhau chung sống.
Biết lưu giữ không được, hai nàng ngậm ngùi nói: "Cũng vì hồng phúc tiền thân nên hai chàng được đến đấy kết duyên với tiên nữ, nhưng vì trần căn chưa dứt hết nên mới xui ra chuyện muốn trở về trần tục. Rồi tiên nữ cùng các bạn tiên nữ khác đặt tiệc tiễn hành đưa hai chàng ra khỏi động.
Khi ly biệt hai nàng cầm tay chồng ân cần căn dặn: "Cõi trần nhỏ bé, kiếp trần ngắn ngủi, dù hai chàng có về, nhưng nay thì liễu cũ, hoa xưa, làm sao như ngày chưa rời nhân thế!
Hai chàng ra khỏi núi, đi không bao lâu đã đến quê nhà, trông thấy phong cảnh tiêu điều, khác hẳn ngày xưa, làng xóm chẳng ai nhìn nhận ra mình nữa. Hỏi thăm mãi mới có một ông cụ già kể cho biết: “Ngày xa xưa có hai ông cụ bảy đời tên là Lưu Thần-Nguyễn Triệu đi vào núi hái thuốc rồi mất tích hẳn."
Lúc bấy giờ hai chàng mới biết mình đã lên cõi tiên tính đến nay đến bảy đời người, nên chẳng còn ai quen biết, bèn bàn nhau trở lại tìm cửa động, nhưng ôi thôi, đã quên lối đường lên tiên.
Đại khái là như vậy.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 6:06:49 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Văn Hà Bảo 49th St. Phuladelphia (qua Tuyết Hoa). Tôi còn nhớ một số tục ngữ của Trung Hoa,nhưng không hiểu được một cách sâu sắc, xin bà chị giúp giải hộ:
1. Hoàng thử lang đối kê bái niên.
2. Hữu tương ngã ngữ đồng tha ngữ
Vị tất tha tâm tự ngã tâm.
3. Hữu tiền nan mãi bối hậu hảo
4. Tha thị cửu vĩ hồ ly tự đích bất hảo nhạ
5. Vương hầu tướng, quản bất trụ nhi tôn lưu đãng
* Các câu cụ nêu ra có nghĩa như sau:
1."Hoàng thử lang đối kê bái niên" Có nghĩa chàng cáo vàng mừng tuổi gà. (Cáo mà đến cửa mừng tuổi gà thì... gà còn có nước hiến dâng mạng sống của chính bản thân mình.
2. Hữu tương ngã ngữ đồng tha ngữ/Vị tất tha tâm tự ngã tâm. Có nghĩa: Khoan rằng ta nói như người nói/ Chưa chắc lòng người giống bụng ta.
3. Hữu tiền nan mãi bối hậu hảo. Có nghĩa: Dù giàu có khó mua, sau lưng người nói tốt. Tục ngữ ta cũng có câu:
Trăm năm bia đá thì mòn Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ.
4. Tha thị cữu vĩ hồ ly tự đích bất hảo nhạ. Có nghĩa:
Ả là cửu vĩ hồ ly/Chớ có trêu vào mà khốn.
Ta cũng có câu:
"Biết tay ăn mặn thì chừa Đùng trêu mẹ mướp mà xơ có ngày".
5. Vương hầu tướng,quản bất trụ nhi tôn lưu đãng. Có nghĩa: Dù vương hầu tướng, cũng không ngăn cháu con lưu đảng.
Ta cũng có câu: "Dao sắc không gọt được chuôi".
Cư sĩ Tịnh Sơn Garden Grove: Bà cụ có biết về Tử Vi không? Nếu bà cụ biết xin giúp giải hộ cho mấy câu trong Thiên Phủ:
1. Thiên Phủ Ôn Lương
2. Nam Thiên Phủ Giao Long Vãng Dực.
3. Thiên Phủ Tối Kị Không Tinh Nhi Ngộ Thanh Long Phản Vị Cát Tượng. v.v...
* Về Tử Vi như Cư sĩ hỏi, tôi chỉ nghiên cứu và chỉ biết đại khái mà thôi, thật ra tôi chẳng biết gì nhiều. Đại khái tôi chỉ biết sơ qua về "THIÊN PHỦ" mà Cư sĩ nêu ra như sau:
1."Thiên Phủ Ôn Lương": Ta thấy Cung Mệnh có sao Thiên Phủ tọa thủ, thì người này bẩn tính ôn hòa, đã vậy mà còn có lòng từ tâm. Tất nhiên là thích làm công việc từ thiện bác ái.
2. "Nam Thiên Phủ Giao Long Vảng Dực".: Nếu trong nam mệnh tọa thủ có Thiên Phủ ắt là người có tính cẩn thận, ít hay phát ngôn và làm bất cứ điều gì cũng suy nghĩ thật chín chắn, người đời ví như thuồng luồng qua họng vực.
3. "Thiên Phủ Tối Kị Không Tinh Nhi Ngộ Thanh Long Phản Vi Cát Tượng". Câu này có nghĩa: nếu mà Cung Mệnh có Thiên Phủ tọa thủ thì tối kị gặp Thuần, Triệt, Thiên, Địa không xâm phạm, ví như cái kho trống rỗng; nhưng đặc biệt là nếu gặp được Thanh Long thì vô cùng tốt đẹp... Đại khái là vậy, thưa Cư sĩ.
Cụ Văn Khúc Hà Uyên Brookhurst Westminster: Bà cụ có nhớ bài "Dân Ca Cổ Hung Nô" cùng bài "Kích Nhưỡng Ca" không? Nếu có ,xin bà cụ nhắc lại hộ.
* Bài "Dân Ca Cổ Hung Nô" như sau:
"Vong ngã Yên chi sơn Sử ngã phụ nữ vô nhan sắc. Vong ngã Kỳ liên sơn, Sử ngã lục súc bất phiền tức.
Có nghĩa:"Xin đừng làm mất đi núi Yên chi sơn của chúng tôi, mà phải khiến cho phụ nữ của chúng tôi mất đi nhan sắc! Xin đừng bỏ mất núi Kỳ liên sơn của chúng tôi mà khiến cho súc vật của chúng tôi phải biến bớt dần đi."
Bài Kích Nhưỡng Ca, tôi nhớ có lần đã nói đến, tuy nhiên cũng xin chiều ý bà nhắc lại. Bài ấy như sau:
"Nhật xuất nhi tác, Nhật nhập nhi tức, Tạc tình nhi ẩm, Canh điền nhi thực, Đế lực ư ngã, Hà hữu tai."
Có nghĩa: Mặt trời mọc thì làm, mặt trời lặn thì nghỉ. Đào giếng lấy mà uống, cày ruộng lấy mà ăn. (Đừng có trông mong vì) sức vua giúp ta thì không hề có.
GS. Hà Thúc Khải San Jose : Nghe BS. Đinh Xuân Dũng giới thiệu, thật là may mắn vì tôi đang nghiên cứu bước đầu về Dịch Kinh, muốn được biết đại khái về kho tàng quí báu và vĩ đại này. Xin bà cụ chỉ giáo!
* Thật ra,tuy tôi có nghiên cứu về pho kinh tối cổ này nhiều năm, song vẫn không thể nào thông suốt được. Có thể nói Kinh Dịch mênh mông như trời cao bể rộng. Càng đi vào càng cảm thấy mình chẳng biết gì cả, mò mẫm lẩn quẩn và cuối cùng là của Dịch trả về cho Dịch. Tôi chỉ biết đại khái: Dịch là để định giải muôn vật thành được mọi việc, bao trùn đạo lý của con người. Vì thế thánh nhân áp dụng đạo dịch để khai mở được hoài bảo của thiên hạ, định được khả nghiệp của thiên hạ và đoán được sự ngờ của thiên hạ.
Như Giáo sư đã thấy trong những bộ kinh tối cổ của nhân loại như Cựu ước, Dzyan, Dịch Kinh... thì chính Dịch Kinh của Đông phương là lâu đời nhất. Có thể nói nó là cơ sở phát triển ra văn hóa, lập ra nền luân lý, chỉ ra con đường đạo đức của người Đông phương. Dịch Kinh thật huyền bí vi nhiệm đến nổi Đức Khổng Phu Tử, đã phải ra rất nhiều thời gian để hệ thống và lý giải bộ kinh vĩ đại này... mà vẫn không làm hết được, đến nổi trước khi nhắm mắt ngài đã phải thản thốt kêu lên: "Gia ngã sở niên, tốt dĩ học dịch, khả dĩ vô đại quá hỷ". Câu nói bất hủ này ngày nay nhiều ngôn ngữ khác nhau khi nghiên cứu cứu Dịch Kinh cũng đều dịch lại lời ngài đã nói như trên. Trong tập A Philosophical Prophecy I Ching của Jayme F. Simmons đã dịch ra đăng ngay trang đầu: "Confucius said: "Give me a few more years, so that I may have spent a whole fifty in study (of the Iching) and I believe that after that all I should be fairly free from error."
Dịch Kinh nói về lẽ biến hóa của trời đất cùng sự năng hành chuyển động của muôn vật. Ngay trong thờ khai minh thượng cổ Đông phương tin rằng trong trời đất có lẽ âm dương, lúc ẩn lúc hiện... khó lòng mà đo lường được v.v... Chắc như Giáo sư đã đọc qua và đã thấy: "Vua Phục Hy (4477-4363) trước Tây lịch chiêm nghiệm Hà Đồ lập ra thành quẻ lấy vạc liền (-) biểu thị cho Dương, lấy Cái Vạch (-) biểu thị cho lẽ âm... Dương là "Cơ", Âm là "Ngẫu", mỗi cái vạch liền gọi là một hào v.v... lập ra Bát Quái như ta thấy có sự ấn định Kiền, Đoài, Ly, Chấn, Tốn, Khảm, Cấn, Khôn v.v... Thật khó lòng mà viết tóm lược nơi mục 1001 Chuyện hạn hẹp này được. Tưởng Giáo sư nên tìm các nhà nghiên cứu như Bác sĩ Thọ đã thực sự in thành sách thì hơn. Riêng cá nhân tôi chỉ biết đại cương chưa được thông suốt lắm.
Cụ Tịnh Hải Garden Grove: Bà cụ có nhớ câu Thần Chú Phật Đỉnh Thủ Lăng Nghiêm thứ 30 không? Nếu nhớ xin nhắc hộ.
* Đó là câu:"Ma Đát Rị Già Noa.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 6:11:08 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Ông Lê Hồng Vũ (qua Nguyễn Bạch Hạc Washington DC): Trong nhiều năm gần đây tôi cứ nghe cuộc chiến giữa người Do Thái và người Palestine... Tôi muốn biết đại khái về hai quốc gia này.
* Vào thời kỳ Tân Vương Quốc ở Ai Cập là giai đoạn của một nền văn minh đạt tới đỉnh cao. Tôi nhớ đại khái vào những năm 1292 đến 1225 (Tr. CN.) Pharaon Ramsès ll hoàn thành việc kiến trúc các đền đài nổi tiếng Cacnat, Thebès, Luxo v.v... Moses dẫn người Do Thái tức là giống người Hèbreux khỏi lãnh thổ Ai cập. Khi người hèbreux tức người Do Thái tiến vào đất Canaan, tại đây Daun trở thành là vị Hoàng đế đầu tiên của người Do Thái. Cũng cùng thời kỳ này quốc gia Palstine được thiết lập và cũng chính là thời gian đạo Do Thái được hình thành.
Cháu Vũ Thanh Bình Brookhurst Orang County: (Qua bác Lê Văn Ba Westminster) Nghe nói cái bàn toán đầu tiên trên thế giới là của Ấn Độ đúng không, thưa bà cụ?
* Không. Phát minh ra cái bàn toán đầu tiên là người Trung Hoa, khoảng 500 năm Tr.CN. Khi phát minh ra bàn toán, nhà toán học thời xa xưa này còn lập ra bản qui pháp để người muốn xử dụng học thuộc lòng, ví như: "Nhì nhất thiêm tất ngũ, phùng nhì tấn nhứt. Tam nhứt tam thập nhứt, phùng ngũ tấn tam v.v... Tôi chỉ nhớ đại khái là vậy.
Ông Hà Thái Đạo tự Bạch Monterey Park CA. 1.- Trên lĩnh vực văn hóa cổ thần bí của Đông phương cũng như Tây phương ra đời từ bao giờ? Đông phương ta có những khoa nào trên lĩnh vực huyền bí này? Bà cụ biết xin giải thích hộ. 2.- Tôi nghe nhiều về Kinh Koran, bà cụ có biết qua đại loại của kinh này, xin chỉ giáo.
* Nói về lĩnh vực này thì thật vô cùng. Trên phương diện này Tây phương xuất hiện cách đây lối vài ba nghìn năm. Tây phương có Chiêm Tinh Học, Tử Vi Hy Lạp... Còn phương Đông thì xuất hiện lâu hơn, gồm có các bộ môn như Bói, Độn, Thuật số, Tượng số, Tam Thế Diễn Cầm, Lục Nhâm Đại Độn, Bát Quái, Phong Thủy v.v...
2. Koran do dịch âm từ tiếng Á Rập có nghĩa là tụng niệm. Koran do từ Ku'ran hay Qu'ran, nó còn có nghĩa là truyền giảng. Theo Đạo Hồi giáo là lời phán truyền của Thánh Allah lưu giữ tận chín tầng mây và được thiên thần Capeli truyền lại cho vị sứ giả Muhammad... Toàn bộ của pho kinh gồm 30 tập và rất nhiều chương... ảnh hưởng sâu đậm trên đời sống văn hóa, chính trị, kinh tế luân cả về luân lý và đạo đức của con người.
Ông Lại Đức Thùy Miên Timber N. Humble TX. Tôi nghe nói Kinh Thi, vậy Kinh Thi là gì? Xin bà cụ vui lòng chỉ giáo.
* Kinh thi là một tổng hợp thơ đầu tiên của dân tộc Trung Quốc. Kinh Thi chia ra làm ba phần: Đó là Phong, Nhã, Tụng, chẳng những là có tác dụng nghiên cứu lịch sử cổ đại Trung Quốc mà còn xem là một tác phẩm giá trị về văn học. Các nhà nghiên cứu Kinh Thi nổi tiếng của các thời đại như Mao Hanh và Trịnh Huyền, Khổng Dĩnh Đạt đời Đường, Chu Hi đời Tống cùng các nhà biên khảo khác như Vương Phu Chi, Ngô Khải Sinh v.v...
Bà cụ Lý Đại Nguyên Orange County: Trong bản tử vi có câu: "Dần phùng phủ tướng vi đăng nhất phẩm chi vinh", chẳng biết hàm ý của câu này muốn nói điều gì? Bà cụ giúp giải hộ.
* Tôi không thông thạo Tử Vi, nên không thể giảng giải cho bà chị được. Theo tôi thiển nghĩ, có thể là "Cung mệnh mà an tại Dần, Ngọ, Tuất gặp Phủ, Tướng hội hợp lại không gặp phải Sát Tinh thì ắt giàu sang vinh hiển. Nếu làm quan ắt đến bậc cao cấp, ngày xưa bảo là nhất phẩm triều đình... Bà chị nên nhờ các nhà giải đoán Tử Vi giải đáp hộ cho. Thật tình tôi dốt đặc về khoa này.
Ông Nguyễn Trọng Phùng Maryland (qua Quỳnh Liên Spring) Có hai câu tục ngữ Trung Hoa, xin bà cụ giải thích hộ:
a. "Thế thượng một nhân biến, ngưu mã một nhân biến"
b. "Thiện môn nan khai ác môn nan bế".
c. "Tri vi tri, bất tri vi bất tri, thị tri"
d. "Vị tố quan kiến thuyết thiên ban
Tố liễu quan nhi thị nhất ban."
* Câu thứ nhất: "Trên đời không kẻ trí trá / Ngựa trâu chẳng hóa ra người."
Câu thứ hai: "Cửa thiện khó mở, cửa ác khó đóng".
Câu thứ ba : "Biết thì nói là biết,không biết nói là không biết mới là biết". Tục ngữ ta cũng có câu:" Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe". Và một câu ca dao nữa cũng cùng một nghĩa: "Biết thì thành thật nói ra / Nhớ đừng thêm mắm mặn mà làm chi!".
Câu thứ tư:
"Chưa làm quan nói rồng, nói phượng Làm quan rồi cũng một giuộc mà thôi".
Cụ Quan Thủy Văn Townsend, Worcester,MA 01609 (Qua Thai Chu Trương PA.) Bà cụ có nhớ về truyền thuyết lời đối đáp giữa Chu Công và sứ giả nước Văn Lang không? Xin chỉ giáo.
* Theo sách Lĩnh Nam Chích Quái nói về việc vua Hùng Vương sai bề tôi mang chim bạch trĩ tặng nhà Chu. Tiếp sứ giả là quan tể tướng nhà Chu là Chu Công vâng mệnh lệnh nhà Vua mang tặng năm cỗ xe chỉ nam để trở về nước khỏi sợ bị lạc đường. Trong giai thoại này có nhắc đến những lời đối đáp của Chu Công cùng sứ giả của nước Văn Lang. Chu Công hỏi: "Cớ sao người Giao Chỉ lại cắt tóc ngắn, xăm mình, đều để trần, đi chân đất, lại còn nhuộm răng đen?" Sứ giả đáp: "Cắt tóc ngắn cho tiện việc đi sâu vào rừng rú. Xăm mình cho giống hình Long Quân mà bơi lội dưới sông thì loài giao long mới không xúc phạm đến. Còn đi chân đất mục đích để tiện việc leo trèo trên cây... Còn cấy thì bằng dao, trồng bằng lúa mới không có tóc để mà bị cháy. Trầu cau trừ được ô uế nên người Giao Chỉ ăn nó để tiêu trừ xú khí."
Bà Lê Anh Thư San Jose: Bà cụ có nhớ trong Kinh thi có câu nói về "Con dế" Không? Xin nhắc giúp!
* Đó là bài:
Ngũ nguyệt tư chung động cổ, Lục nguyệt sa kê chấn vũ. Thất nguyệt tại dã, Bát nguyệt tại vũ. Cửu nguyệt tại hộ, Thập nguyệt tất suất nhập ngã sàng hạ. Khung thất huân thử, Tắc hướng cận hộ. Ta ngã phụ tử, Viết vi cải tuế. Nhập thử thất xử.
(Tháng Năm dễ búng chân nhảy mạnh, Tháng Sáu thì khua cánh bay cùng. Dế mùa tháng Bảy ngoài đồng, Dế qua tháng Tám vào trong bực thềm. Tháng Chín lạnh, thiến thêm vào cửa. Dế tháng Mười chung giữa gần sàng. Để xông khói chuột,bít hang, Bít song hướng Bắc để ngăn gió vào. Dặn vợ con ta mau ghi nhớ, Rằng: Tháng Mười sẽ trở tân niên. Hãy vào nhà ấy ở liền.)
(Tạ Quang Phát dịch)
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 6:55:11 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Diệp Đạo Gulluzzo Dr. LA. Trong một cuộc trà đàm, tôi được nghe câu chuyện là tại Trung Hoa có tấm mộ bia hoàn toàn không khắc một chữ nào. Sở dĩ tôi ngạc nhiên người ngồi thuật lại là nhân khi ông ta đi du lịch được tận mắt nhìn thấy... tấm bia trống trơn đó tại ngôi mộ của một người đàn bà hiển hách quyền uy bao trùm thiên hạ, đó là bà Tư Hi Thái Hậu. Bà cụ có biết xin nhắc lại. Vô cùng cám ơn.
* Vâng, quả có vậy. Theo sử chép, trước khi Võ Tắc Thiên qua đời có hạ lệnh cho triều đình là khi bà qua đời, có thể dựng mộ bia nhưng không được khắc tên tuổi, chức vị bà cũng như khắc bất cứ một chữ nào. Có nghĩa phải hoàn toàn để tấm bia đá đó còn nguyên vẹn. Phàm: Theo qui định của các triều đình thời xưa, người có tội không được khắc tên tuổi vào bia đá. Có thể Võ Tắc Thiên trước khi nhắm mắt cảm thấy mình có quá nhiều tội lỗi nên không cho khắc tên mình trong bia đá chăng?!
Cháu Lê Hà Vương Nguyễn San Jose: Bà cụ có nhớ bài Vịnh Cái Quạt của Hồ Xuân Hương không? Xin nhắc hộ. Cám ơn bà cụ nhiều.
* Bài "Vịnh Cái Quạt đó như sau:
Mười bảy hay là mười tám đây,
Cho ta yêu dấu chẳng rời taỵ
Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc,
Rộng hẹp dường nào, cắm một cây
Càng nóng bao nhiêu thờ càng mát,
Yêu đêm chưa phỉ lại yêu ngày
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.
Ông Vũ Hồng (qua Kiển Thái (Philadelpia) Cháu có mấy điều muốn được bà cụ nhắc hộ: Tác giả của Tây Du Ký là ai? Câu hỏi của các vị Bồ Tát hỏi về Chân Kinh Tam Tạng của Như Lai như thế nào? Chẳng biết Đức Phật Như Lai trả lời làm sao? Bà cụ nhắc lại hộ.
1. Tác giả Tây Du Ký là Ngô Thừa Ân. 2. Trong Tây Du Ký có bản dịch về câu chuyện này như sau: "Chân Kinh Tam tạng của Đức Phật Như Lai như thế nào?". Như Lai đáp: "Pháp tạng là một. Pháp này bàn về việc trời. Luận tạng là hai: nói về việc đất. Kinh Tạng là ba: độ cho ma quỷ. Ba tạng đó cộng ba mươi lăm bộ, một vạn năm nghìn bốn mươi bốn quyển, ấy là kinh tu mà giữ lấy chân tâm.
Nó dẫn dắt con người làm điều lành, ta muốn truyền sang cõi Đông Độ. Nhưng mà, than ôi! Người ở phương ấy đầu óc đen tối, ngu xuẩn, dốt nát, chẳng biết điều phải điều trái nên thường phỉ báng chân ngôn... Ta muốn tìm người có pháp lực để đưa sang Đông Độ, tìm người thiện tín mà dạy dỗ họ chịu khó vượt núi qua đèo mà lưu truyền sang Đông Độ khuyến hóa chúng sinh..." Rồi Người hỏi: "Làm được việc này thì duyên cao như núi, ân đức sâu như bể thẳm... Vậy có ai chịu đi không?" Tất nhiên có người xuất hiện xin nhận lãnh nhiệm vụ cao cả cực kỳ gian nan này, ấy đó là Đức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Cụ Lý Hải Thu (qua Quỳnh LawnBerry ) Maryland: Tôi có mấy câu tục ngữ Trung Hoa bà cụ giải thích hộ:
1. Hạ Trùng bất khả dĩ ngữ băng.
2. "Đa ngật vô tư vị,
Đa thoại bất trị tiền".
3. "Đa ngôn đa quá."
4. "Thiên tác nghiệt do khả vi,
Tự tác nghiệt bất khả hoạt."
Xin bà cụ giải hộ,thành kỉnh cám ơn bà cụ nhiều.
* 1. Cụ thiếu mất câu thứ hai trong cùng tục ngữ này. Tôi xin ghi lại cả hai trong cùng một câu để hầu cụ:
"Hạ trùng bất khả dĩ ngữ băng
Tỉnh để oa bất khả dĩ đàm thiên."
có nghĩa:
Trùng mùa hạ sao nói được băng
Ếch đáy giếng sao bàn trời nổi.
Ý nói: Ba tuổi ranh con mà nói chuyện ông Bành Tổ.
2. Câu tục ngũ thứ 2 này có nghĩa:
"Ăn nhiều không ngon miệng,
Nói lắm chẳng đáng tiền."
Ta cũng có câu nghĩa tương tự:
"Ăn lắm thì hết biết ngon,
Nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ."
3. "Nói nhiều, lỗi lắm"
Vì vậy mới tục ngữ ta mới có lời ca dao khuyên răn: "Nói hay hơn là hay nói"
4. Câu thứ tư này có nghĩa: "Trời gieo tai họa còn mong thoát, Mình tự gieo tai khó thoát vòng."
Cư sĩ Tịnh Sơn Garden Grove: Nghe nói Phật bỏ lối tu khổ hạnh có thật không? Bà cụ có đọc sách nào nói về sự kiện này. Nếu bà cụ nhớ xin nhắc hộ.
* Sự kiện này có thật. Đức Phật có một thời gian đến sáu năm chuyên tu khổ hạnh, nên sức khỏe bị giảm sút quá nhiều. Ngày Ngài ngự đến ven dòng Ni Liên Thiền, nàng Na Đà cùng nàng Ba La nhìn thấy Ngài quá gầy yếu bèn bàn với nhau lén đi nặn sữa một con bò mập mạp rồi mang đến dâng cúng dường cho Phật. Và, cũng kể từ đó lối tu khổ hạnh không còn nữa.
Nguyễn Anh Hùng, San Lucas Dr. Houston: (qua thingy) Chữ "DỤNG" có nghĩa là DÙNG, có mấy nét.
* DỤNG là DÙNG có 5 nét.
Cụ Vũ Thùy Yên Brookhurst, Orange County, CA. Tôi có nghe câu thành ngữ "Lạm Vu Sung Số", vậy bà cụ có biết câu thành ngữ này không?
* Vâng. Tôi cũng được biết đại khái như thế này: "Đời nhà Tề, có vua Tề Uyên Vương, thích âm nhạc. Nhạc cụ làm cho nhà vua thích nhất là "Nhạc Vụ". Đó là một cái kèn gồm 36 ống tre trí vào một cái bình thủy tinh, thổi ra tiếng nhờ có lưỡi gà đồng, làm người nghe phải mê mẩn tâm thần. Thường thường ban nhạc này gồm có 300 người hợp nhau hòa tấu cho nhà vua thưởng thức.
Lúc bấy giờ có một người tự xưng mình là Nam Quách Xứ Sĩ, tìm cách tâu lên nhà vua, là mình cũng là một tay hòa nhạc không kém gì với những tay trong ban nhạc của triều đình. Nhà vua chấp thuận. Về sau Tề Tuyên Vương băng hà, thái tử lên nối ngôi vua chạ Tân Vương cũng ham chuộng nhạc, song lại không thích hòa tấu:
_ Trẫm chỉ muốn thưởng thức độc tấu. Vậy các khanh người nào có tài riêng gì lần lượt lên trình diễn cho trẩm được cùng thưởng thức với.
Lần lượt từng người lên trổ tài trước mặt nhà vua. Khi gọi đến tên Nam Quách Xứ Sĩ liên tiếp cả bao nhiêu lần vẫn không thấy xuất hiện. Thì ra, nhà nhạc sĩ này sợ bị lộ chân tướng bất tài của mình đã bỏ xa bay cao chạy từ bao giờ rồi. Vì vậy mới có câu:"Lạm Vu Sung Số".
Cư sĩ Tịnh Hải Nan Độ Orange County CA. Thủ Lăng Nghiêm kinh là gì? Bà cụ nhớ xin nhắc hộ. Cám ơn thật nhiều.
* "Kinh Thủ Lăng Nghiêm là bộ kinh đại thừa. Nội dung của kinh hàm dưỡng tư tưởng Thiền quán và mật giáo. Thiền quán là truy về cội nguồn tự tánh chân tâm. Mật giáo là thần chú với sức vạn năng tiểu trừ nghiệp chướng.
Kỳ sau xin thảo luận tiếp với cư sĩ.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:07:09 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
MỘNG TUYỀN Nữ Sĩ
Ông Văn An Thomas Ave. St. Paul MN. 55104: Xin bà cụ giải giải hộ cho mấy câu thành ngữ chữ Hán: 1. Cơ thâm họa diệc thâm. 2. Danh ô nan thục. 3. "Hoa đối hoa,liễu đối liễu, phá bản ki...4. Hòa thượng yếu tiền, mộc ngư xao xuyên. Xin cám ơn bà cụ.
* 1. Có thâm họa diệc thâm: Có nghĩa: "Mưu sâu thì họa càng sâu" 2. Danh ô nan thục, có nghĩa: danh nhơ khôn chuộc. Ta cũng có câu:Tiếng nhơ khôn rửa,tên xấu để đời.Cũng còn có câu:"Ăn một miếng,tiếng để đời. 3. Câu này ông viết thiếu mất vế dưới. Nguyên câu như sau:
"Hoa đối hoa,liễu đối liễu, phá bản ki
Tương đối hoại thiều trửu." có nghĩa:
"Hoa đối hoa,liễu đối liễu,sọt thủ đối chổi cùn".
Ta cũng có câu cùng nghĩa:
"Thuyền đua thì lái cũng đua
Con cóc nó nhảy,con cua nó bò."
4: Hòa Thượng yếu tiền,mộc ngư xao xuyên.
Có nghĩa: Hòa thượng nôn tiền,gỏ thủng cả mõ. Nó cùng nghĩa với câu: "Hòa thượng yếu tiền,nảo bạt huyên thiên". Có nghĩa: "Hòa thượng cần tiền khua inh nảo bạt.
Ông Phan Thành Cao West Covina (Qua VD) Tôi có lần nhìn thấy một loài hoa lạ màu trắng có hình dạng như trái chuông. Bà cụ có biết loại hoa này không?
* Tôi đã được ngắm qua một lần. Đó là loại hoa Triều Nhan. Loại hoa này sớm nở tối tàn. Trông nó rất mỏng manh như rất đẹp.Người Nhật thường thích thưởng ngoạn trong dịp Trà Đạo. Họ hay uống trà thưởng hoa, về buổi sáng thì ngắm loại hoa Triêu Nhan này. Quả thật uống trà thưởng hoa triêu nhan thì còn gì thú bằng!
Cháu Vũ Quí Đông: Bà cụ có biết về câu chuyện thần thoại hai vị thần dữ thờ xa xưa ở Trung Hoa không? Nếu biết xin kể cho cháu nghe. Thành kính cám ơn bà cụ.
* Đó là giai thoại nói về hai vị hung thần của nhà Hán: 1: Phong Bá,tức thần gió tên là Phi Liêm. Cả ngày say rượu li bì, thổi gió tùy hứng,lúc nào muốn thổi thì thổi không cần tính toán.Nhiều lúc làm cho nhà cửa đổ nát,cây cối ngả nghiêng. Vì vậy người đời gọi là Phong Bá. 2: Bình Y là vị thần có thể kêu mây mưa,sấm,sét, tay bên trái ôm trống,tay bên phải cầm dùi, chẳng khác nào thần gió, cả ngày uống rượu say li bì sẵn dùi trên tay gióng trống ầm ĩ thành ra sấm sét giết hại nhiều người.
Cháu Lê Văn Hồ Quang Westminster CA. Tại sao Tàu cũng như ta có các tục rườm rà về tang ma? Cháu thật tình không hiểu nổi.
* Không phải chỉ riêng Việt hay Hoa mà luôn cả các nước khác ở Phương Đông như Triều Tiên,Nhật Bản...đều có lắm tập tục cho người qua đời. Thường ta thấy có tục "đắp mặt", mục đích là không muốn để người đã ra đi vĩnh viễn rồi còn để thố lộ mặt mày trước õi tục nữa. Tiếp đến là lễ "nhập quan", tức liệm xác và đặt xác vào quan tài,tiếp sau là lễ "thành phục" tức bịt khăn (dể chế hay để tang)...chôn cất,cầu siêu, cúng thất (tức bảy ngày cúng một lần) cho đến khi đủ "bảy thất"49 ngày... cúng năm mươi ngày, sau đó một trăm ngày, một nam và ba năm...mãn tang chế...Đại khái như vậy.
Ông Hồ Hữu Đồng Brookhurst Westminster CA. Xin bà cụ giải mấy từ ngữ sau đây: 1. Cầm đài. 2. Tư mã Phượng Cầu. 3.Hoàng Thạch. Và 4: Kinh quyền. Xin cám ơn bà cụ.
* 1. Cần đài: Chính là chỗ gảy đờn của Tư Mã Tương Như ngày xưa. Kiều có câu:
"Rằng nghe nổi tiếng cầm đài Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ.
2. Tư Mã,Phượng Cầu, hai từ riêng biệt. Tư Mã chỉ Tư Mã Tương Như,người đời nhà Hán. Còn Phượng Cầu là là khúc Phượng Cầu Kỳ Hoàng (có nghĩa chim phượng tìm chim hoàng) của Tương Như gảy, tiếng đàn tấu lên nghe thật não nùng ai oán. Trác Văn Quân - người đàn bà góa còn son trẻ nghe thấy động lòng đâm ra mê mẩn, về sau đôi bên lấy nhau. Kiều có câu: "Khúc đâu Tư Mã Phượng Cầu Nghe ra như oán như sầu phải chăng?
3. Hoàng Thạch: tức Hoàng Thạch công, một bậc kỳ tài ẩn dật tời xưa ở Trung Hoa. Thơ Nguyễn Công Trứ có câu:
Nhà nước yên mà sĩ được thung dung.
Bấy giờ sĩ tìm ông Hoàng Thạch.
4. Kinh quyền xuất phát từ câu:"Xử thường chấp kinh,xử biến tòng quyền". Có nghĩa: Ở vào cảnh thường thì giữ đạo thường mà làm, nhưng khi mà gặp cảnh biến thì phải biết theo tình thế mà ứng phó,định đoạt không thể câu nệ được.
Cháu Vũ Quốc Bảo Maryland (do Liên chuyển về) Kỷ thuật chế tạo thủy tinh từ Trung Quốc du nhập nước ta từ bao giờ?
* Câu này bà đã có lần đề cập đến khi ông Hồ Văn Đồng vùng Hoa Thịnh Đốn gửi về ở báo Viễn Xứ. Không có chuyện kỹ thuật chế tạo thủy tinh từ Trung Quốc truyền sang ta, mà ngược lại chính Việt Nam đã truyền sang kỹ thuật chế biến thủy tinh sang cho Trung Quốc từ lúc có sự giao lưu giữa nước này với các quốc gia vùng Đông Nam Á vào thời Tùy Đường.
Ông Vũ Khắc Lê Thùy Mc. Laughling San Jose: Đồng hồ đã xuất hiện từ lâu tại Trung Hoa phải không?
* Có như vậy. Lúc bấy giờ đồng hồ được gọi dưới cái tên"Đếm thời gian". Nguyên tắc chế tạo thành chiếc máy đếm thời gian như sau: Họ cho đổ nước vào thùng đục một lỗ hổng vừa đủ kê cao lên,nước chảy thành từng giọt nhỏ xuống để đếm thời gian . Họ gọi là "lậu khắc". Phương pháp này được truyền sang cho Ấn Độ cũng như họ đã truyền cho "phép tính":Nhân (X) và (-).
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:21:58 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Vũ Quốc Hanh Bender TX. 77338. Tôi muốn được rõ nghĩa hơn mấy câu tục ngữ như sau: 1. Muốn ăn lăn vô bếp / muốn chết lết vô hòm", nghĩa của nó như thế nào? 2. Tục ngữ ta có câu nói về thời tiết "Sấm to, gió lặng" có đúng vậy không? 3. Tàu có câu:"Vô tiền bất thành sự", có phải không có tiền chẳng làm chẳng làm gì được. Đúng như vậy chăng? Hay còn nghĩa gì khác?
Đáp: 1. "Muốn ăn lăn vô bếp". Tục ngữ Trung Hoa cũng có câu: "Yếu ngật long nhục, thân tư hạ hải". Có nghĩa: Muốn ăn thịt rồng thì phải lồng xuống biển / muốn ăn hét phải đào giun / muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh. Đó là những câu đồng nghĩa với câu cụ hỏi. Tuy nhiên, câu thứ hai: "Muốn chết lết vô hòm" thì chỉ nói để cho điệp với câu thứ nhất. Nhưng cũng có người cho là câu thứ hai này có ngụ ý bảo với những người quá buồn lòng nhiều khi muốn chết thì cứ lết vào trong hòm săn mà nằm để chờ mang đi chôn.
2. Ông bà ta ngày xưa có câu tục ngữ như vậy. Thường trời đang mưa to gió lớn bỗng dưng có tiếng sấm thì mưa gió đều lặng. Tục ngữ Tàu cũng có câu: "Vị vũ tiên lôi đáo dạ bất lai / Vị vũ tiên phong đáo dáo dả bất hung" (có sách ghi là đáo dã chứ không là đáo đáo "dả"). Có nghĩa của câu tục ngữ này: "Chưa mưa đã sấm đến tối không mưa / Chưa mưa đã gió, có mưa, chẳng to" hay "Sấm to, gió lặng".
3. Đúng vậy. Ta cũng có mấy câu chỉ về kẻ khó chẳng làm gì nên nổi: "Không tiền không nên việc" hoặc có câu:
"Bố đĩ giầu bố đĩ tiên
Ông tổng không tiền là ông tổng tểnh".
4. Xin bà vui lòng nói về sự tích của Vạn Lý Trường Thành - một di tích lịch sử của Trung Hoa. 5. Bà cụ có nhớ đoạn "gà heo tranh nhau" trong bài Lục Súc Tranh Công, xin nhắc hộ. Thành thật cảm ơn bà cụ.
4. Vạn Lý Trường Thành được xây lên từ 2.500 năm về trước. Bức trường Thành này dài đến 5.000 cây số ngàn tức 3.000 dặm Anh, bắt đầu từ ải Gia Du, tỉnh Cam Túc đến tận Liêu Minh, tính ra xấp ba lần từ Ải Nam Quan đến Mũi Cà Mau chiều dài của Việt nam.
Vạn Lý Trường Thành do tần Thủy Hoàng xây lên sau khi chiếm cả khu vực sông Hoàng Hà. Bức trường thành này nối dài với trường thành cũ của nước Yên, Triệu. Tuy nhiên việc xây dựng bức trường thành vĩ đại này không dừng lại tại đây mà liên tục đến triều Hán, Bắc Ngụy, Bắc tề, Bắc Châu v.v... Cho mãi đến đời nhà Minh mở rộng thêm ra thêm ra hoàn chỉnh như hiện nay. Các du khách ngày nay viếng Trung Hoa thường đến chiêm ngưỡng kỳ quan nổi tiếng thế giới này. Ngày các phi hành gia lên mặt Nguyệt Cầu nhìn xuống trái đất đều bảo rằng, họ chẳng nhìn thấy gì ở Địa cầu ngoại trừ bức Vạn Lý Trường Thành.
5. Đoạn gà heo tranh nhau trong Lục Súc Tranh Công như sau:
Lời lẽ của gà:
Heo ăn rồi ngủ ngáy sì sì
Giả ngây dại biết gì việc chủ.
Ngắm diện mạo,dị hình dị thú
Xem dung nhan khác thế lạ đời.
Như nuôi chơi chẳng phải giống chơi
Chạy rau cám như tiền nội án.
Lợn cãi lại:
Kìa những việc hôn nhơn giá thú
Không heo ra tính được việc chi?
Dẫu cho mời năm bảy chuyến đi
Cũng không thấy một người thấp thoáng.
Việc hòa giải heo đầu công trạng
Thấy mặt heo nguôi dạ oán thù.
Nhẫn đến khi ngu phụ, ngu phu
Giận nhau đánh giập đầu,chảy máu.
Làng xã tới lao đao.láu đáu,
Nào thấy ai gở rối cho xong.
Khiên heo ra để lại giữa giòng
Mọi việc rồi liền xong trơn trải.
Phải chăng,chẳng phải
Nghĩ lại mà coi
Việc quan hôn tương tế vô hồi
Thảy thảy cũng lấy heo làm trước.
Cô Trần Hải Thụy Westminster Orang County (CA) Bà cụ có nhớ bài thơ "Tự Chữa Bệnh" của cụ Huỳnh Thúc Kháng,xin nhắc hộ. Cám ơn nhiều.
Đáp: Bài thơ đó như sau:
Bệnh lão sao mà giống Ngọc Long
Việc nhiều ăn ít mạch như lông.
Lót lòng ngày dặm ngày hai bữa
Tiểu tiện đêm đi ít sáu lần.
Tiêu khát trà ngon dùng chẳng hiệu
Trừ trung thuốc bổ uống hoài công.
Bệnh mình,mình chữa còn là quí
Hơn bạn Đông du tiếng thọ ông.
Cụ Hàn Tường Nguyên LA.(CA) Xin bà cụ giải hộ về khoa Kỳ Môn Độn Giáp.
Đáp: Hình như đã có lần tôi đã tóm lược về khoa Độn Giáp này. Tuy nhiên để được đầy đủ hơn, tôi xin mang ra lạm bàn cùng cụ để được một phần nào minh bạch hơn.
1. Khoa Kỳ Môn Độn Giáp ra đời vào khoảng 5000 năm về trước. Có thể nói đây là môn cổ học tinh hoa của người Trung Hoa - một đất nước vốn có nền văn minh tối cổ. Từ thời Hoàng Đế lập quốc, khoa Kỳ Môn Độn Giáp đã được mang ra sử dụng trong trận chiến Si Vưu. Các bậc thánh hiền sau này như Thái Công, Lã Vọng, Trương Lương, Gia Cát Khổng Minh. Lưu Bá Ôn phát triển thêm ra.
2. Kỳ Môn Độn Giáp còn được gọi là Tam Nguyên Kỳ Môn Độn Giáp. Tam Nguyên gồm: Thượng Nguyên, Trung Nguyên và Hạ Nguyên. Tam Nguyên còn gọi Thiên Nguyên, Nhân Nguyên và Địa Nguyên, dựa trên cơ sở Tam Tài tức Thiên, Địa, Nhân. Từ đó mới tìm ra Thiên
thời, Địa lợi, Nhân hòa. Còn Kỳ là Tam Kỳ và Lục Nghi. Nên lưu ý là trong Thiên Can thì Ất, Bính, Đinh được gọi là Tam Kỳ. Còn Lục Nghi thì gồm: Mậu, Kỹ, Canh, Tân, Nhâm, Quý... Con Giáp được ẩn trong Lục Nghi nên gọi là Độn Giáp.
3. Cửu Cung Kinh: tức chín cung màu, (cửu sắc cung) gồm:Trắng, đen, biếc, lục, vàng, đỏ, xám, tím, xanh, đỏ. Đó tức là chín loại bức xạ của tuyến vũ trụ. Chúng xuyên qua lớp khí quyển tới
mặt đất ảnh hưởng đến sinh lý và hành vi của tất cả các sinh vật trên trái đất. Cửu Thiên Kinh gồm 9 ngôi sao gồm 7 ngôi sao thuộc hệ Bắc Đẩu và hai ngôi sao phụ. Các ngôi sao này có tên như sau:Thiên Bồng, Thiên Nhuế, Thiên Xung, Thiên Phụ, Thiên Cầm, Thiên tâm, Thiên Trụ, Thiên Nhiệm và Thiên Anh. Chín ngôi sao thuộc hệ Bắc Đẩu này có ảnh hưởng tới đời sống con trên trái đất này. Còn Bát Thần tức 8 Ông Thần có tên Trực Phù, Đằng Xà, Thái Âm, Lục Hợp, Câu Trần, Chu Tước, Cửu Địa và Cửu Thiên... Những yếu tố mà tôi trình bày bên trên đây, nó ảnh hưởng đến sự vận chuyển của Địa Cầu theo "Niên, Nguyệt, Nhật, Thì" và luôn cả thời tiết nữa, gây nên những cảm ứng khác nhau cho muôn loài trên trái đất, tất nhiên có cả con người của chúng ta. Nếu cái gì đó hình thành "tốt" gọi đó là "Cát", hình thành "Xấu" gọi đó là "Hung". Sự biến hóa thay đổi đó được thể hiện trên 9 Cung của bản Kỳ Môn Độn Giáp chẳng khác nào mạch điện tử, nó thay đổi, biến hóa theo sự vận chuyển của Địa Cầu... Tất nhiên Kỳ Môn Độn Giáp có thể mang ra áp dụng cho đời sống hằng ngày của con người...
Cô Ngô Thụy Long MO. (Tịnh Huỳnh Trinity St.Phila) Cái nghĩa của "Giá áo túi cơm" như thế nào, xin bà cụ giải hộ.
Đáp: Giá áo túi cơm do câu:"Y giá phạn nang" chỉ vào những đồ vật tầm thường, như cái giá để treo áo, cái ruột như cái túi để đựng cơm.
Ông Thái Kiến Hoa, Center Rd Drexel Hill Philadelphia, PA.19026: Xin bà cụ giải thích hộ từ "Bức Tranh Vân Cẩu" có nghĩa gì?
Đáp: Giải theo nghĩa trắng là "bức tranh mây chó". Hai chữ Vân Cẩu xuất xứ từ hai câu thơ của Đỗ Phủ như sau:
"Thiên thượng phù vân như bạch y,
tư tu biến ảo vi thương cẩu.
có nghĩa: mây nổi trên trời như áo trắng, bỗng chốc biến đổi thành chó xanh. Ý bảo rằng cuộc đời biến đổi thất thường. Ngày trước làng báo ta thường có mục "Bức Tranh Vân Cẩu" để nói lên tình đời với mục đích cảnh tỉnh những người làm những điều sai trái. Trong Quan Âm Thị Kính có câu:
"Phù vân một đóa bay đi,
Khi thì áo trắng, lúc thì muông đen."
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:28:25 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN Mộng Tuyền Nữ SĩÔng Hà Vĩ Mô W.Kingsbridge Rd.Bron, NY 10468. (Qua Trương Chu Drexel Hill, PA.19026) Nghe nói ở Campochia có cái tết gọi là Tết "Chôn Năm Mây", vậy đó là cái tết gì? Bà cụ biết không? Đáp: Tết này người dân Campochia gọi là Chol Chnam May. Đây là cái tết lớn nhất của xứ sở Chùa Tháp này. Hàng năm sau Tết Âm lịch của Việt Nam ta lối vài ba tháng thì đến Tết Chol Chnam May của Cao Miên. Lễ tết được tổ chức tôn nghiêm ngay trong các chùa chiền và luôn cả ở các đền thờ của Nhà Vua. Dân chúng cũng tổ chức hội hè đình đám, mở tiệc tùng, rượu chè khoản đãi nhau. Họ mở các sòng bạc ở dọc theo các bờ hè nếu là ở chốn phố phường đô hội. Các trò chơi cờ bạc thường là "bầu, cu, tôm, cá"gọi là "Khla Khlôt" hay "À Pun" còn gọi là "Xe Vu", họ cũng chơi các loại bài cào, xì phé... Tuy nhiên trò chơi mà các thanh niên nam nữ thích nhất vũ múa. Họ tập trung đến một nơi được ấn định sẵn để nhảy múa, ca hát vui chơi để chào mừng năm mới... Bà Trọng Thủy Brookhurst Westminster: Trong Kiều có mấy câu: 1. "Lòng còn gởi áng mây vàng Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay" Mây vàng đó có phải lấy từ "từ" của một câu thơ nào đó của Trung Hoa không? 2. "Vẫn nghe thơm nức hương lân Một nền Đồng tước, khóa xuân hai Kiều..." Ý của hai câu này như thế nào? Xin bà cụ giải hộ cho. Đáp: 1: Câu "Lòng còn gởi áng mây vàng / Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay": Mây vàng đó lấy từ "từ" "hoàng vân ảnh" ra. Nguyên câu đó như sau: "Thiên thượng hoàng vân ảnh, du tử hà thời quy" Có nghĩa: Trên trời có áng mây vàng, con đi bao giờ trở về? 2: "Vẫn nghe thơm nức hương lân / Một nền Đồng tước, khóa xuân hai Kiều." Trong thơ Đỗ Mục có câu: "Đông phong bất dữ Chu lang tiện Đồng tước xuân thâm tỏa nhị Kiều." có nghĩa: Nếu gió Đông không giúp cho Chu Du thì hai Kiều phải khóa xuân trong đền Đồng tước. Đời Tam Quốc có hai Kiều là Đại Kiều và Tiểu Kiều. Một là vợ Chu Du và một là vợ Tôn Sách. Cụ Hoàng Trọng Khải Little Saigon: Tôi có nhớ về cách tôn kính của người xưa theo Tam Tự Kinh ví như cha hiền thì con hiếu, chồng hòa thì vợ thuận v.v... Bà cụ có nhớ nguyên bản chữ Hán này không và lối diễn dịch của họ như thế nào, xin nhắc nhở hộ. Vô cùng cảm tạ. Đáp: Nguyên văn chữ Hán của mấy câu cụ quên đó như sau: "...Thử Thập Nghĩa, Nhân Sở Đồng, Đương Thuận Tự, Hốt Vi Bối, Trảm Tề Suy, Đại Tiểu Công, Chí Ty Ma, Ngũ Phục Chung". Thập Nghĩa đó là: Cha hiền, con hiếu, Chồng hòa vợ thuận, em kính anh nhường, Bạn bè nghĩa tín, Quân kính thần trung. Còn nghĩa của từng chữ: Đồng là đồng ý, Đương là cần phải, Thuận tự là tuân theo, Hốt là không được, không thể, Vi bối là làm trái ngược, Trảm suy là tang phục của con cái mặc cho cha mẹ chết, Tề suy là tang phục của cháu mặc khi ông bà nội qua đời. Đại công là tang phục của anh hoặc em mặc khi anh hoặc em chết. Tiểu công là tang phục của Cháu mặc khi chú bác ruột qua đời. Ty Ma là tang phục của cháu ngoại hoặc anh em họ mặc cho ông ngoại hoặc anh em họ chết. Tóm lại các từ trong "Ngũ Phục", đó là Trảm Suy, Tề Suy, Đại Công, Ty Ma, áp dụng cho việc tang chế. Có chuyện kể rằng:"Trong truyện Tam Quốc, khi Từ Thức từ biệt Lưu Bị, có tiến cử hai người cho Lưu Bị: Một là Phượng Sồ, hai là Gia Cát Khổng Minh. Từ Thức nói rằng nếu được một trong hai người thì Lưu Bị cũng lập được Nghiệp Bá. Trong khi Lưu Bị chuẩn bị lễ vật để lên đường tìm đến chỗ của Khổng Minh.Trương Phi nổi nóng nói: "Huynh không cần phải đi cho vất vả, để đệ cho người đi mời ông ấy tới là xong." Lưu Bị bèn trách mắng: "Đệ không được lỗ mảng. Gia Cát Lượng là một hiền tài mà ta đang cần, tự ta phải thân hành để mời ông ta ra giúp mình mới phải. Các đệ không được vô lễ." Nói xong cả ba người lên đường tìm đến gò Ngọa Long. Khi tới đầu làng gần nhà, Lưu Bị xuống ngựa mà đi bộ tới cổng. Gõ cửa hồi lâu, một thư đồng ra Lưu Bị nói rõ ý đồ và xin được vào gặp Khổng Minh. Nhưng thư đồng trả lời là Thầy mình đi chơi chưa về. Một tháng sau ba anh em Lưu Bị lại tới lần nữa, nhưng vẫn không được gặp. Trương Phi nổi nóng nói với Lưu Bị rằng: "Để đệ vào xách cổ nó ra cho". Lưu Bị quát mắng Trương Phi rồi ba người lại ra về. Một tháng sau Lưu Bị tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị lễ lộc rồi lên đường. Khi gần tới nhà ở của Khổng Minh Lưu Bị bảo với Quan Vân Trường và Trương Phi là: "Hai em ở đây chờ để Huynh tới xem sao", rồi tự thân hành đến gõ cửa, liền thấy thư đồng ra nói là"Tiên sinh" vừa về tới nhà và đang còn say ngủ". Lưu Bị bèn nói:"Vậy để tôi chờ ở ngoài, hãy để yên cho Tiên Sinh an giấc". Khoảng một giờ sau (tức hai tiếng đồng hồ bây giờ), thư đồng mới ra mời Lưu Bị vào nhà. Vì cảm phục lòng thành của Lưu Bị, Gia cát Lượng khứng lời giúp cho Lưu Bị và đã dựng lên được nước Thục để kình chống với Ngụy và Đông Ngô lập thành thế chân vạc/ Đó là thời đại Tam Quốc. Sau khi Quan Công bị chết, Lưu Bị không nghe lời khuyên của Gia cát Lượng, cứ xuất quân đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Công, kết quả Lưu Bị thua, lui binh về Bạch Đế Thành vì quá phẩn uất nên bị ốm nặng. Trước khi chết Lưu Bị cho gọi Khổng Minh vào bảo: "A Đẩu" còn nhỏ không thể trông coi việc nước được Trẩm giao hết quyền hành cho Khanh. Lượng vội quì xuống tâu:"Thần không dám. Ấu Chúa tuy nhỏ nhưng Thần vẫn hết lòng phò trì một lòng một dạ quyết không ở hai lòng. Thần cam kết sẽ làm tròn nhiệm vụ của kẻ bề tôi." Về sau, vì Gia Cát Lượng làm việc quá sức ngả bệnh qua đời ở Ngũ Trượng Nguyên. Trước khi chết Khổng Minh còn bày mưu kế cho Lục Tốn để đưa toàn bộ quân lính cùng Ấu Chúa trở về được an toàn. Xét từ câu chuyện trên ta thấy Lưu Bị là vua của một nước mà biết tôn kính những người tài giỏi. Như vậy những người như Khổng Minh làm sao mà không trung thành với vua để hoàn thành sứ mệnh. Còn những lễ nghi trong tang chế, ta cần phải tuân theo những việc hiếu thảo đối với cha mẹ lại là việc cần thiết phải làm khi cha mẹ còn sống. Tăng Tử là học trò của Khổng Tử có nói rằng: "Lúc người thân mất đi, ta giết trâu bò để cúng tế để tỏ lòng hiếu thảo, thì tại làm sao khi người thân còn sống ta lại không đem dâng cao lương mỹ vị để kẻ trưởng thượng của mình được hưởng, làm như vậy há không tốt hơn sao!" Ý của Đức Khổng Tử muốn bảo rằng:"Sống chẳng cho ăn, đợi chết để làm văn tế ruồi." Ông La Thoại Khanh Towsend St. Worcester MA. 01609 (qua Chu Lee Philadelphia): Thành ngữ Trung Hoa có câu:"Thố Tử cẩu Hanh", ý nghĩa của ông ấy như thế nào? Xin bà cụ giải hộ. Đáp: “Tố tử cẩu hanh" có nghĩa săn được thỏ thì giết chó. Ta cũng có câu: "Được chim bẻ ná, được cá quên nơm". Câu thành ngữ này lấy ra từ sự tích: Triệu Vương Câu Tiển và Đại phu Phạm Lãi từng bức xúc nước Việt nhiều lần. Khi hai nước Ngô Việt phát sinh chiến tranh, kết quả Việt thua. Phạm Lãi khuyên Câu Tiển nên tạm thời đầu hàng Ngô Phù Sai, đợi thời cơ sẽ ra sức hưng binh tấn công trả thù. Câu Tiển nghe lời và quả nhiên thắng trận. Sau khi chiến thắng, lẽ ra Câu Tiển lưu Phạm Lãi để tiếp tục giúp việc nước, lại để cho ông ta ra về hưởng thú với gia đình. Phạm Lãi biết lòng dạ của câu Tiển như thế nào bèn gửi thư cho người đồng sự tên là Đại Phu Văn Chủng khuyên nên từ bỏ danh lợi hầu tránh tai họa về sau. Trong thư gửi đó có câu: "Phi điểu tận, lương cung tàn, Giao thố tử, Tẩu cẩu hanh". Có nghĩa: "Chim hết rồi, cung có hay đó cũng dẹp bỏ đi, con giao con thỏ chết hết rồi, chó săn cũng bị thịt luôn". Ý nghĩa của câu thành ngữ trên là vậy. Ông Tấn Dũng N Hanthingy St. Phila. 19120. (qua Võ Thu Tịnh): Trong Định Chế của Kinh Dịch có đề cập đến "Trạch Địa Túy", bà cụ có biết giải hộ cho. Kính cẩn cám ơn bà cụ. Đáp: Trạch Địa Túy, theo hình vạch ra thì: Quẻ ĐOÀI (bùn, đầm) và quẻ KHÔN (đất) nhập chung lại gọi là quẻ TỤY. TỤY có nghĩa là hợp, có cuộc gặp gỡ tụ hợp quây quần. Đại ý nói muốn họ hưởng ứng thì phải tụ họp họ, cũng có nghĩa là tụ họp nhau lại để bàn tán, nếu cuộc họp đó tất cả thật lòng với nhau trong một mục đích chung phụng sự cho xã hội thì thường thành công; nhưng tụ hội mà mỗi người mỗi ý chỉ muốn thủ lợi về mình thì ắt phải là chưa họp đã tan. Đại để là như thế. Cư sĩ Sơn Hải Brookhurst Westminster (CA. Bà cụ có nhớ ba câu đầu Thần Chú Phật Đình Thủ Lăng Nghiêm không? Xin nhắc hộ cho. Cám ơn bà cụ vô cùng. Đáp: Theo thứ tự như sau: 1. Na mô tát đát tha tô già đa gia a la ha để tam điểu tam bồ đà tả. 2. Tát Đát tha Phật đà câu chi sắt ni sam. 3. Na mô tát bà bột đà bột địa tát đá bệ tệ, Cháu Hồ Hải San Jose: Bà cụ có nhớ bài thơ của Nguyễn Hữu Chỉnh không? Nếu có xin nhắc hộ cho. Cám ơn bà cụ! Đáp: Bài cháu hỏi đó như sau: "Ai có hay chăng là chẳng hay? Lòng này vốn đã dạy thân này. Kẻo lầm kẻo lỡ người yêu ghét Đà tỏ đà tường kẻ thảo ngay. Xem nỗi thế thời, xem đã nhạt Bén mùi đạo lý, bén càng say. Phải cơ, mới biết cơ trời nhiệm, Có rủi, bằng dường lại có may." Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:41:28 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Nhà thơ Tú Lắc, (Checker's Dr. San Jose): Một người bạn hỏi tôi cái nghĩa của từ "Thuyền Quyên" là gì? Xin bà chị vui lòng giải hộ.
* Thuyền có nghĩa là dáng dấp đẹp đẽ dễ yêu. Quyên là xinh đẹp. Quyên còn được lặp lại thành "điệp tự" như "Quyên Quyên", có nghĩa là đẹp đẽ thường đi đôi với chữ Thuyền (beautiful, pretty). Danh từ Quyên còn có nghĩa là một giọt nước hay dòng nước trong trẻo có vẻ ẻo lả. Dòng nước nhỏ nhắn ẻo lả này thường gọi là "Duềnh quyên" tức là "Dòng quyên". Chữ Quyên là đẹp đẽ viết khác với chữ Quyên của con Đỗ Quyên tức Đỗ Vũ như theo điển tích "Vua Đỗ Vũ nước Thục sau khi phải nhường ngôi cho Bá Linh hóa ra chim giống chim này".
Thuyền quyên mà ông bạn anh hỏi theo Hán tự không phải Thuyền của nghĩa là ghe, tàu, mà nó có nghĩa dung nhan đẹp đẽ như ghi bên trên. Chữ "Thuyền" này còn được đọc là "Thiền", cũng cùng nghĩa là "đẹp". Vì vậy mà còn viết là "THIỀN QUYÊN", chữ Thiền và chữ Quyên đều có bộ "Nữ" một bên (chỉ phái yếu) khác với chữ Thiền như "thiền định" tham thiền, tiếng nhà Phật địch theo âm chữ Phạn (dhyana, có nghĩa là yên lặng và nghỉ ngơi)). Vậy nghĩa của danh từ "THUYỀN QUYÊN" chỉ về dáng đẹp đẽ của người phụ nữ. Ca dao có câu:
"Thuyền quyên muốn sánh anh hào, Vốn không thả lý gieo đào như ai."
Nhưng từ xưa nay người đời vẫn thấy, anh hùng thường "nan quá mỹ nhân quan", vì vậy mà thuyền quyên chỉ cần "ứ hự" một tiếng cũng đủ cho đấng anh hùng ra tay rồi. Câu "Thuyền quyên ứ hự anh hùng ra tay"nhằm mỉa mai các đấng mày râu này.
Như vậy chúng ta đủ thấy gái thuyền quyên chỉ có mỗi cái "ứ hự" không thôi cũng đủ làm cho đấng anh hào ra tay rồi, đâu cần phải binh hùng tướng mạnh?! "Thuyền Quyên" chẳng có điển tích như anh muốn tìm hiểu, mà nó là một danh từ chỉ cho dung nhan sắc nước hương trời được ghép lại bởi hai từ có cùng một nghĩa như nhau.
Ông Đỗ Đức Nhuận Los Angeles: Tôi có mấy câu xin bà cụ giúp cho: 1. Quạt ngà trâm ngọc 2.Án kia nâng ở ngang mày. 3. Cái nghĩa của "Phượng cầu kỳ hoàng".
* 1. "Quạt ngà trâm ngọc": Có nghĩa khi hai họ đính ước gả con cái cho nhau thì họ đàng gái trao quạt ngà cho đàng trai, còn đàng trai thì trao trâm trâm ngọc cho đàng gái. Trong Phan Trần có câu: "Quạt ngà, trâm ngọc, kết nguyền họ Phan."
2. Án kia nâng ở ngang mày, có nghĩa: Ý nói người vợ kính trọng chồng. Do điển
Lương Hồng với nàng Mạnh Quang, hai vợ chồng kính trọng nhau như khách. Khi dâng cơm lên chồng ăn, nàng nâng chén cơm và đũa lên cao ngang lông mày.
3. Phượng cầu kỳ hoàng: tên khúc đàn của Tư Mã Tương Như người đời nhà Hán gảy. Tiếng đàn nghe não nùng ai oán, nàng Trác Văn Quân là một người đàn bà trẻ tuổi góa chồng nghe phải cảm động đem lòng mê mẩn. Sau hai bên lấy nhau.
Cậu Vũ Quang Thuật Dayton Dr. San Jose (Thanh Huơơng chuyển), bà cụ có nhớ bài "Thanh Phong, Minh Nguyệt của Ngô Thế Vinh không? Nếu có xin nhắc hộ. Thành thật cám ơn.
* Bài cậu hỏi đó như sau:
Giang tâm thu nguyệt bạch, Não nùng thay khi gió mát, lúc trăng thanh! Bóng thiềm soi đáy nước long lanh, Quang cảnh ấy cũng thanh mà cũng lịch. Vạn khoảnh tịch nhiên thu dạ vĩnh, Nhất hồ oánh nhĩ nguyệt minh thâu. Đàn năm cung, thơ một túi, cờ một cuộc, rượu một bầu, Tiếng ca quản một vài câu khiển hứng. Chèo mấy mái, thuyền lan lững thững, Bạn mấy người tài tử ngao du, Non mấy tầng, đá mọc lô nhô, Cầu mấy nhịp, bắc ngang sông Vị thủy. Hội Xích Bích nọ năm Tuất nhỉ! Thú phong lưu há để một Tô công? Trăng thanh gió mát kho chung...
Cụ Hà Thành Đạo (qua Văn Đồng Virginia) Bà cụ có nhớ điển cố của con chim tinh vệ không? Xin nhắc hộ. Thành kính cảm ơn.
* Con gái của vua Viêm Đế bị chết đuối ở Biển Đông, hóa ra chim tinh vệ. Sau khi hóa thành chim tinh vệ rồi cứ bay đi nhặt đá ở núi Tây để lấp biển. Về sau người ta thường mượn điển cố này để chỉ cho người mang mối hận thù hoặc nói lên mối hận ở lòng mình.
Cháu Nguyễn Thanh Hùng Monterey Park (California): Cháu thường nghe nói đến "Chỉ Hồng". Cháu cũng được biết đó là "Sợi Xích Thằng", nhưng không biết ý nghĩa sâu xa của nó. Bà cụ giải hộ cho.
* Chỉ Hồng cháu hỏi đó dịch từ chữ "xích thằng" mà ra. Nó chỉ cho sự hôn nhân. Trong Tình Sử có chép: "Đời Đường Vi Cố đi kén vợ gặp một ông cụ đang ngồi dựa vào tường đá núi nơi chỗ khoáng đạt dưới bóng trăng thanh xem sách. Vi Cố hỏi: “Sách ấy là sách gì?". Ông cụ bảo: "Sách chép tên những người lấy nhau làm chồng vợ." Vi Cố hỏi: "Còn cái túi bên mình kia chứa gì bên trong ấy?" Ông cụ bảo:"Trong túi ấy chứa những sợi tơ hồng tức là sợi xích thằng".
Cư sĩ Tịnh Sơn Garden Grove (CA). Trong kinh Kim Cương có đoạn nói về cái có có không không. Bà cụ có nhớ đoạn này không? Tôi đã có lần thảo luận về điểm này với cư sĩ Tịnh Hải, nhưng chúng tôi đều không nhớ được đầy đủ. Xin bà cụ nhắc hộ.
* Theo triết của nhà Phật phủ nhận cái thế giới hiện tượng hình danh sắc tướng, bao gồm trong bốn câu như sau:
"Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng ảo bào ảnh Như lộ diệc như điện ?ng tác như thị quan"
Nghĩa:
Tất cả hiện tượng có Nên xem tuồng mộng ảo Như bọt (nước) như điện chớp Tương đối không, có, hảo huyền.
Ông Tony Quan Laurel St. Preston 3072 Victoria Australia (qua nhà thơ Mộng Đài): Nền văn hóa của Trung Quốc có ảnh hưởng gì đến nền văn hóa Nhật Bản không? Cháu đang tìm hiểu cứu về đề tài này, bà cụ nhắc lại hộ.
* Ngoài Việt Nam ra, Trung Quốc còn là nước láng giềng của các nước Nhật Bản, Triều Tiên và cả với Mông Cổ nữa. Tuy nhiên về mặt giao lưu văn hóa giữa Trung Quốc cùng hai quốc gia Nhật và Triều Tiên đã có từ ngàn xưa và cả hai phía đã trao đổi về hệ thống văn hóa vốn có của mình. Công cuộc giao lưu văn hóa giữa Trung Hoa và Nhật đã thực hiện ngay từ thế kỷ thứ hai, thứ ba... Trung Quốc đã mang lại cho Nhật Bản các loại lúa nước, hay về mặt kỹ thuật trong việc canh tác, luôn cả đồ đồng, đồ sắt v.v... liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác thúc đẩy được sự phát triển của xã hội đất nước Phù Tang. Có dịp tôi sẽ bàn thảo của ông bạn về các cuộc trao đổi văn hóa giữa hai xứ sở này từ thời kỳ Tam Quốc Tây Hán đến thời Hán Vũ Đế - thời kỳ mà hơn 30 nước của Nhật lần lượt cử sứ thần sang Trung Quốc để kết thân - cũng là thời kỳ Kiến Vũ Trung Nguyên của thời Đông Hán trao đổi sứ thần giao hảo với nhau. Chính thời kỳ này Hán Quang Vũ Đế đã tặng "ấn vàng" cho quốc vương Yamayhai của Nhật. Giai đoạn cực thịnh của mối tình giao hảo hai nước Trung-Nhật vào triều đại nhà Đường. Nhật đã cho hàng loạt các đoàn du học sinh cũng như tăng lữ sang Trung Quốc nghiên cứu học hỏi thêm. Trong số đông đảo lưu học sinh này có nhiều người lưu lại đất nước Trung Hoa từ 20 đến 40 năm,như Chiêu Hoành, Cao Hướng Huyền Lý, hay Không Hải, Tăng Mân v.v... Ngoài ra, còn về mặt chính trị, như việc nước Nhật tiến cử Thái tử Nhiếp chính của Suy Cố nữ vương tham dự vào các cuộc đấu tranh chính trị áp dụng tư tưởng Nho, Pháp, Mặc và Phật của Trung Quốc... Đó là chưa kểvề mặt giáo dục mà người Nhật đã mô phỏng theo v.v... Hoặc như về mặt văn học của thời Đường được các nhân sĩ Nhật Bản ham mộ. Họ đã thu tập các tác phẩm thi văn của các tác giả nổi tiếng đời Đường như Bạch Cư Dị (bài trường thi Trường Hận Ca và Tỳ Bà Hành) v.v... Có dịp tôi sẽ trình bày thêm.
Cụ Võ Khải Hoàn,Philadelphia (qua Kiển Thái Drexell Hill,PA.19026): Tôi còn nhớ năm 1942, có đọc được trong tạp chí Tri Tân, bài nghiên cứu lịch sử "Từ binh chế đến hình phạt của nhà Đinh" của ông Tiêu Dàm trong đó nói về thời loạn lạc, giặc giả, trộm cướp khắp nơi, nhà vua cho lập một ngục thất giữa lòng núi ở làng Yên Hạ rồi ra lệnh nhốt hổ báo vào, kẻ nào phạm trọng tội cho quăng vào đó để mãnh thú ăn thịt. Kẻ phạm tội trọng quá nhiều nên đầu lâu ở lòng núi này cũng chẳng ít. Hết đời Đinh hình phạt này được bải bỏ những oan hồn trong ngục thất giữa lòng núi đó đêm nào cũng hiện lên kêu khóc nghe đến ghê rợn. Những người tiều phu thường nghe thấy khi ngang qua dải núi non này. Chuyện ấy thực hư ra sao, bà cụ có nhớ xin nhắc nhở hộ.
* Vâng. Tôi có dịp đã đọc qua dường như trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư nơi q.1, có nói về trường hợp kinh hoàng này. Nhiều người qua lại nơi này đều nghe thấy kêu khóc của oan hồn, tiếng hổ thét, báo gầm... đều hoảng sợ. Cho mãi đến đời nhà Lý có vị Cao Tăng Nguyên Minh Không nổi tiếng pháp thuật cao cường, ngang nhiên vào trong hang tụng kinh thuyết pháp cho ma quỉ nghe được siêu thoát và từ đó không còn tiếng khóc than nữa. Hang này, nay được gọi là Am Tiên Động được xem là thắng cảnh của huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình ngày nay. Đó không còn nghe tiếng khóc than nữa.
Ông Lý Nguyên Westminster (CA): Nhà Tần có văn học không? Xin bà cụ giải thích hộ.
* Không. Có thể nói nhà Tần không có văn học. Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc thì mọi học thuật, mọi tư tưởng, văn học đều tự do nẩy nở. Nhưng đến khi Tần Thủy Hoàng thôn tính lục quốc thì nền văn hóa bị tàn phá: đốt sách, giết học trò... từ đó nền văn học bị gần như biến hẳn...
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:45:21 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Ông Võ Hữu Pasadena (qua Thân Trọng New Caney TX. 77357. Tôi có lần nghe mấy từ "Hôn", "Mặc", "Sát" nhưng không rõ nghĩa nó. Bà cụ có nhớ về điển tích nói về mấy từ này không? Xin nhắc hộ.Cám ơn bà cụ nhiều.
* Mấy từ đó là:"Hôn, Mặc, Tặc, Sát" trong Kinh Thư. Đó là hình pháp của thời xưa gồm 4 điều liệt kê như sau:
1. Tự mình phạm tội mà cố cướp đi mỹ danh của người khác, tội đó gọi là "Hôn". 2. Vì tham lam làm bại hoại đến chức vụ của mình gọi đó là "Mặc". 3. Phạm tội sát nhân mà chẳng kiêng nể gọi là "Tặc, Sát”.
Trong Tả Truyện - Chiêu Công thập tứ niên có ghi lại câu chuyện như sau:" Ngày đó ở nước Tần có cuộc tranh chấp một khoảnh ruộng tại đất Súc giữa hai người tên là Hình Hầu và Ung Tử làm náo loạn cả lên, đến độ phải kéo nhau lên cửa quan có tên là quan tư pháp Cảnh Bá để được phân xử. Hai bên đưa ra lý lẽ trình bày, đối với bên nào quan Cảnh Bá cũng không dám vội đưa ra lý lẽ ai phải ai quấy! Vì vậy mà kéo dài một khoảng thời gian dài không sao kết thúc được. Trong thời gian này quan Cảnh Bá lại được triều đình cử đi sứ nước Sở và truyền bàn giao cho Đại phu Thúc Ngư tạm thời thay thế. Thương Khanh Hàn Tuyên Tử tại triều hạ lệnh cho Thức Ngư xét xử công minh vụ án đã bị để quá lâu này. Không dám chậm trễ, Thụ Ngư bèn mang bản án ra nghiên cứu, cho đòi cả hai đương đơn và bị đơn đến cửa quan hầu nghe xử lý. Nhận thấy rõ ràng là Ưng Tử cưỡng chiếm phi pháp ruộng đất buộc Ưng Tử phải trao trả khoảng đất lại cho Hình Hầu. Bị thua kiện, tìm cách đảo ngược lại bằng cách tìm người mai mối để đem con gái của mình ra gả cho Thúc Ngư để làm thiếp. Nhìn thấy gái đẹp, Thúc Ngư không cầm lòng được, bèn thuận lời, mang đơn ra xử lại. Cuối cùng phán quyết là Hình Hầu có tội. Đang mừng rỡ là mình được thu hồi lại ruộng đất, đang cho người đến thửa ruộng đo đạt lại, bỗng nghe tin này chẳng khác nào như sét đánh ngang tai, vội vàng chạy lên triều đình để tìm Thúc Ngư và Ưng Tử tranh luận. Nhìn thấy Thúc Ngư và Ưng Tử mặt mày Hình Hầu đỏ bừng lên vì giận dữ, trừng mắt nhiếc mắng không tiếc lời. Hơi giận càng lúc càng trào lên đến nổi tuốt kiếm ra chém chết ngay Thúc Ngư và Ưng Tử. Vụ án này lại càng trở nên phức tạp.
Hàn Tuyên Tử bèn lý vào để sữa trị, hỏi ý kiến các đại phu tại triều nên phải xử như thế nào? Các quan triều chỉ đưa mắt nhìn nhau chẳng ai phát biểu, khiến Hàn Tuyên Tử đàng quay lại hỏi Thúc Hướng là bào huynh của Thúc Ngư.
Thúc Hướng sau khi tìm hiểu bèn trả lời: "Cả ba người đều có tội". Hàn Tuyên Tử hỏi: "Vậy phải xử làm sao?". Thúc Hướng bảo: "Đối với người sống nên xử tử, còn đối với người chết thì phanh thây. Ung Tử biết mình thua kiện, hối lộ con gái cho Thúc Ngư, ham mê gái đẹp cố làm sai đi pháp luật. Thúc Ngư nhận hối lộ rồi chuyển tội cho người khác. Còn Hình Hầu phạm tội giết chết triều thần, phạm tội sát nhân đáng tội chết. Phàm mình đã phạm tội mà lại cướp mỹ danh của người khác thì gọi đó là "Hôn”, vì lòng tham lam mà làm cho bại hoại chức vị cùng trách nhiệm của mình thì gọi là "Mặc". Còn giết người chẳng kiêng nể ai thì gọi đó là "Tặc". Trong Kinh thư đã ghi "Hôn, Mặc, Tặc, Sát" đó là hình pháp được lưu truyền từ thời xưa chiếu theo đó mà làm. Mặc dù Thúc Ngư là bào đệ của tôi, tôi cũng không thiên vị.
Thế là Hàn Tuyên Tử bèn theo ý kiến của Thúc Hướng mang Hình Hầu (người còn sống duy nhất) ra xử tử và đồng thời truyền mang thi thể của Thúc Ngư và Ưng Tử ra phanh thây tại ngay cửa chợ.
Cụ Lê Văn Phan, Brookhurst, Orange County : Tôi nhớ hai câu Đường Thi:
Sơn tự minh chung trú dĩ hôn, Ngư lương độ đầu tranh độ huyên.
Hai câu này của nhà thơ nào? Bà cụ có nhớ xin ghi lại đề của bài thơ và trọn bài này. Nếu có thể có bài thơ nào đã dịch xin cho ghi lại cho luôn. Trân trọng cám ơn bà cụ.
* Hai câu của cụ hỏi thuộc trong bài thơ có tựa đề "Dạ Qui Lộc Môn Ca" của Mạnh Hạo Nhiên. Toàn bài thơ đó như sau:
Sơn tự minh chung trú dĩ hôn,
Ngư lương độ đầu tranh độ huyên.
Nhân tùy sa ngạn hướng giang thôn,
Dư diệc thừa chu qui Lộc môn.
Lộc môn nguyệt chiếu khai yên thụ,
Hốt đáo Bàng công thê ẩn xứ.
Nham phi tùng kính trường tịch liêu,
Duy hữu u nhân tự lai khứ.
Trên non vẳng vọng chuông chùa
Chiều hôm.Huyên náo bến đò dậy vang...
Thuyền ngang dọc bến thôn Giang
Đưa ta đến chốn Lạc môn nẻo ngoài.
Trăng thì rọi, khói thì bay
Bàng công thoắt đã đến ngay lúc nào!
Đường tùng cửa núi âm hao
U nhân qua lại viếng nhau mấy người!
Thinh Quang dịch
Cháu Vũ Quốc Thúc UCLA (qua cô Sương MPK, CA.) Nghe nói Trung Hoa có trò chơi thể thao từ ngàn xưa giống như môn trượt băng của Tây phương ngày nay. Trò chơi này ở vào triều đại nào bên Trung Hoa? Cháu rất thích về môn này nên muốn tìm hiểu. Xin bà cụ biết chỉ giáo giúp. Kính cẩn cám ơn bà cụ nhiều.
* Có như vậy. Đó là môn trượt băng xuất hiện từ thời cổ đại ở Trung Hoa, nhưng thịnh hành vào triều đại nhà Minh. Danh từ trước gọi cho môn trượt tuyết này là "Băng Hí" tức là "vui đùa trên băng", nó còn có tên nữa là "Kiên Băng Chi Hí" có nghĩa chung là vận động thể dục trên băng tuyết. Thời cổ đại Trung Quốc xem đây là môn hoạt động thể thao được xếp hạng quan trọng.
Nhân đây cũng ghi luôn để cháu được biết thêm, theo sách Tùy Thư thì cách đây 1.300 năm tại vùng rừng núi An Lĩnh có bộ tộc gọi là Thất Vi có trò chơi "Kỵ Mộc Hành" có nghĩ "đi bằng cưỡi gỗ". Người đời nhà Nguyên giải thích: con ngựa gỗ có hình cong như cánh cun, chiều dài bốn xích, chiều rộng năm thốn" dùng để đi trên tuyết nhanh tợ thể ngự phi.
Ông Hồng Hà San Gabriel (CA) Nghe nói nhà cũng có tướng của nhà cũng như con người cũng vậy. Có hay không? Và hơn nữa, người xưa thường trước khi rước dâu về nhà, phải coi hướng kê giường ngủ để được hạnh phúc và sinh con nở cái được nhiều. Có vậy chăng?
* Tôi không là thầy phong thủy cũng như tướng mệnh. Tuy nhiên tôi cũng nghiên cứu đại khái, xin mang ra trình bày để cùng ông thảo luận. Phàm, thì nhà cũng có tướng như người, tướng mặt, tướng tay v.v... tốt xấu đều thể hiện ngay các sắc diện của mỗi cá nhân.Ví như nhà cửa có an vui hay không, làm ăn phát đạt ra làm sao? Thịnh, suy, cát, hung như thể nào? Người ta thường quan sát cái đẹp, cái xấu, nghệ thuật thiết kế về tướng nhà mà suy tính theo cách lý tắc liên quan đấn sự lành dữ giữa người chủ với cái nhà đang ở. Phương pháp luận về tướng nhà không ngoài những thuật ngữ cố hữu như: bát quái, ngũ hành, can chi... xưa nay thường dùng. Ngoài ra còn có những phương pháp chuyên môn nghiên cứu về môn xem tướng nhà. Trong một xã hội con người sống giữa thời đại khoa học gần như lên tận đỉnh tối cao, không tránh khỏi những bở ngở về những lý luận thuật ngữ cũng như những phương pháp mà những nhà địa lý thường áp dụng. Người xưa bất cứ người nào sắp tiến hành đến ngày cưới thường xem hướng đặt giường. Chẳng biết việc này tuổi trẻ ngày nay tin hay không, nhưng thật ra vô cùng quan trọng...Ví dụ:
Người tuổi Giáp Tý, giường đặt về hướng Tây đối với phái nữ vô cùng bất lợi. Nếu đặt hướng Tây Bắc thì thường tật bệnh ở mắt và phổi. Nếu đặt đúng hướng Đông thì con cháu hưng thịnh. Nếu là Đông Nam thì mọi việc đều kiết tường. Đặt ở hướng Bắc sản nghiệp kiết tường, nhưng có điều tiền thịnh hậu suy. Đặt nhằn Chánh Nam thì tiền kiết hậu hung, lại còn bất lợi cho việc tạo dựng sản nghiệp. Nhưng kê vào hướng Tây Nam thì tật bệnh về dạ dày và đường tim. Còn ở hướng Đông Nam bị đau bệnh về mắt...
Cháu Lý Thường Đạo Daytona San Jose CA. Cháu thường nghe U.F.O. biết là chỉ về Đĩa Bay, tuy nhiên nguyên cả ba chữ đó đọc như thế nào? Và, đĩa bay có thật hay không?
* U.F.O là chữ viết tắt của Undefined Flying Objects – những vật thể bay chưa được định nghĩa. Hơn cả nửa thế kỷ khắp cả thế giới đều nhắc nhở đến "Đĩa Bay" nhưng chưa có một quốc gia nào chính thức công bố là... sự thật có sự hiện diện của loại đĩa bí mật này!
Cháu Vũ thị Thanh Hương Virginia qua Liên Diep (Maryland): Cháu thường nghe "Rươi" nhưng chẳng biết rươi là gì, bà cụ giải thích hộ cho.
* Rươi là một giống thuộc loại hải trùng.Nó sống bằng mồi bọ nhỏ li ti dưới biển. Cứ vào những dịp trăng thượng huyền thàng Giêng, tháng Hai khi nước thủy triều rút xuống; đó là lúc con rươi vào ruộng đẻ trứng dưới độ sâu của đất lối bốn, năm mươi phân Tây. Đến vào mùa trăng hạ huyền lúc nước tủy triều dâng cao, nước biển tràn vào ruộng, trứng rươi nở ra con rươi nhỏ rồi nhô lên và đứt ra thành từng đoạn chẳng khác các loài sâu bọ khác. Mỗi đoạn là một con rươi. Con rươi có đặc điểm là nếu chặt đầu, mà nó có nước biển thì nó lại sinh ra ngay một đầu khác hoặc chặt đuôi nó thì nó lại sinh ra cái đuôi khác... (Rươi con từ trứng nở ra xuất hiện trên mặt đất vào những ngày mồng 5 tháng 9, 25 tháng 10, tháng 9 đôi mươi, tháng 10 mồng 5 - là những ngày nước thủy triều dâng lên) Rươi là món ăn đặc biệt chỉ có ở mùa Thu của miền Bắc Việt Nam. Rươi làm các món ăn như: chả rươi, rươi hấp, rươi xào, rươi nấu và rươi chiên với trứng... Đặc buệt mắm rươi là ngon nhất. Người ta thường ăn rươi xào với miếng thái chỉ, tức là bún. Còn rất nhiều món ăn làm bằng rươi rất thơm ngon nhờ những gia vị như vỏ quýt thái mỏng, ướp nước mắm nhỉ, hành tây đảo trộn mỡ thơm, thịt ba rọi thái nhỏ mùi thơm tỏa ra ăn vào ngon để không thể quên đi được... Có dịp bà sẽ kể tiếp để cháu rõ hơn.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 7:47:52 GMT 9
1001 CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Ông Thái Kiến Hoa, Center Rd. Dreell Hill, PA. 19026: Tin Cựu Tổng Thống VNCH đã thất lộc tại Boston, tang lễ được cử hành long trọng, đồng thời sau đó một Thánh lễ cầu hồn ngay tại San Jose tại Thánh đường St. Patrick tại San Jose với sự tham dự với hàng ngàn người cùng hàng ngũ tướng lãnh cùng các cấp trong binh chủng VNCH trước kia... do Đức Ông Đỗ Văn Đỉnh chủ tế... Tôi sực nhớ đến vụ tai tiếng 16 tấn vàng mà có nguồn tin đồn đãi là Cựu TT Nguyễn Văn Thiệu đã mang đi ngày ra đi ngoại quốc tị nạn... Chuyện này có hay không? Bà cụ có nghe hay biết điều này xin mách hộ cho.
Trong những tháng đầu ngày mất nước vào năm 1975, tôi cũng nghe người ta đồn đãi như vậy, nhưng chẳng bao lâu sau đó, thì nguồn tin này đã được chính ngay ông Nguyễn Xuân Oánh - cựu Thống Đốc Ngân Khố Quốc Gia - người có nhiệm vụ quản thủ tài sản to lớn này cho đất nước, ở lại cộng tác với Cộng Sản Việt Nam - tuyên bố là 16 tấn vàng của quốc gia VN hiện còn ở trong kho Ngân Khố. Từ đó nguồn tin Cựu TT Nguyễn Văn Thiệu mang đi số vàng hàng chục tấn đó được hoàn toàn bạch hóa... Chuyện này hoàn toàn sai lạc.
Cụ Tôn Thất Viên Mãn Borcelone Plaza Westminster, Aali. Một hôm tôi được hân hạnh biết Hoàng Tử Bảo Ân, thứ nam của cố Cựu Hoàng Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, tôi sực nhớ lại "Ngọc Như Ý" mà các sử sách Trung Hoa ghi lại về bảo vật này, đem bàn thảo nhưng Hoàng tử Bảo Ân không biết rõ loại ngọc như ý này. Tôi muốn biết ý nghĩa của ngọc như ý này bà cụ biết xin chỉ giáo cho. Thành thật cám ơn cụ vô cùng.
Thời Ngũ Đại Tề Cao Đế Tiêu Đạo Thành từng ban thưởng cho Minh Tăng Thiệu là một ẩn sĩ lúc bấy giờ một cây như ý bằng thân trúc, cũng như Chiêu Minh Thái Tử được Lương Võ đế Tiêu Diễn một cây như ý bằng sừng con tê giác... Đồng Xương công chúa đời Đường đặc biệt có cây ngọc như ý trông giống như cây đào ngọc, phía trên đeo bảy lỗ rất sáng... Giá trị của cây như ý này là khi đeo vào người cảm thấy toàn châu thân mát mẻ khiến cho tâm hồn thoải mái tràn ngập cả sự vui vẻ... theo như ý muốn. Tưởng cũng nên biết Ngọc như ý thường lấy ngọc điêu khắc hình dạng như nấm linh chi được xem là loại thần dược mọc trên núi cao...đến cả ngàn năm mới nở một lần. (Ngày nay Trung Quốc mang xuống đồng bằng trồng, và sinh sôi nẩy nở mau chóng như các loại nấm thông thường).
Về sau, đến đời Thanh, còn lưu lại rất nhiều bức tranh vẽ hình cung phi mỹ nữ, người nào cây ngọc như ý. Nghĩa của Ngọc như ý là "xứng tâm vừa ý". Người ta thường dùng vật quý này để chúc thọ cho nhà vua, nhất là dùng loại "Cửu Cửu Như Ý" gồm có chín cây ngọc như ý đựng trong một cái hộp, dâng lên cho nhà vua phải đủ 9 hộp như vậy. Con số 9 biểu tượng cho số dương lớn. Chín hộp dâng lên nhà vua tức biệu tượng cho chín lần chín là con số lớn nhất, phúc phần nhất, cao cả nhất trong trời đất. Câu: "Cửu ngũ, phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân." Câu này trích ra từ Kinh Dịch tiêu biểu cho sự tôn quý của bậc thiên tử... ý nghĩa nói lên sự trường thọ... v.v... Còn rất nhiều điển tích nói về Ngọc như ý, có dịp tôi sẽ cùng cụ lạm bàn.
Bà Trần Xuân Hương Brookhurst Orange County: Bà cụ có nhớ bài thơ "Tứ Thời" của nhà nữ sĩ Ngô Chi Lan không? Nếu có xin bà cụ nhắc hộ.
Bài "Tho Tứ Thời" đo như sau:
Mùa Xuân
Khí trời ấm áp đượm hơi dương,
Thấp thoáng lâu đài vẻ ác vàng.
Rèm liễu líu lo oanh hót gió,
Giậu hoa phấp phới bướm châm hương.
Mùa Hạ
Gió bay bông lựu đỏ tơi bời,
Tựa gốc cây đu đứng nhởn chơi.
Oanh nọ tiếc xuân còn vỗ cánh
Én kia nhớ cảnh cũng gào hơi.
Mùa Thu
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa.
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.
Mùa Đông
Lò sưởi bên mình ngọc lửa hồng,
Giải buồn chén rượu lúc sầu đông.
Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa,
Gió phẩy mưa băng giải mặt sông.
Cụ Hoài Nam Nhân Raleigh Dr. Carrollton, TX.75007: (Qua Trương Thị Thu - Philadelphia: Gần đây người ta lại bàn về "Sấm", tôi bỗng sực nhớ lại sấm Vạn Hạnh. Bà cụ có biết gì về câu chuyện này chăng? Nếu bà cụ nhớ xin ghi lại cho. Trân trọng đội ơn bà cụ.
Tôi xin tóm lược như sau: "...Khi hoàng tử Thầm lên làm vua chạy đến thôn Lưu Gia Hải Ấp gặp được người thiếu nữ có nhan sắc, con của Trần Lý hành nghề ngư phủ lấy làm vợ và phong Lý tước minh tự còn phong cho cậu vợ là Tô Trung Từ làm chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Cũng kể từ đấy nhà Lý suy sụp hẳn, quần thần thì ganh ghét tị hiềm ai cũng nghĩ đến tư lợi... mà quên hẳn bảo vệ quốc gia. Đến thái tử Sảm kế vị xưng hiệu là Huệ Tông, lại càng tỏ ra nhu nhược, đam mê gái họ Trần, sách lập Trần thị làm nguyên phi, và dùng cậu Tô Trung Từ làm thái úy phụ chánh v.v...Về sau vua Huệ Tông mắc phải bệnh điên, nguyên nhân, cứ theo Việt sử Thông giám Cương mục thì, nhà vua bị trúng ác phong, dần dần biến chứng cuồng dịch, khi xưng mình là tướng nhà trời giáng hạ, lúc thì cầm giáo và khiêng mộc múa may cả ngày lẫn đêm... Lắm lúc nhà vua uống rượu say khướt ngủ li bì giao tất cả quyền hành cho anh vợ là Trần Tự Khánh v.v... Hoàng hậu chỉ sinh được hai nàng công chúa. Nàng công chúa lớn là Chiêu Thánh, còn nàng công chúa thứ hai là Thuận Thiên. Vì nhà vua mắc bệnh điên nên triều thần bắt phải nhường ngôi cho con gái mới lên bảy tuổi láy đế hiệu là Lý Chiêu Hoàng.
Nhà Lý tuyệt tự nên nên sang tay họ Trần. Việc này nhà sư Vạn Hạnh đã tiên tri cho Lý Thái Tổ. Bài sấm đó như sau:
Thụ căn liễu liễu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa (*)
Dị mộc tái sinh
Chấn cung hiện nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Nghĩa:
Rễ cây liễu liễu
Hoa lá xanh xanh
Lúa đao cây rụng
Mười tám con thành
Đông a nhập địa (*)
Cây khác ắt sinh
Nhật xuất phương Đông
Phương Tây sao lặn
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái bình!
(*) Đông a: họ Trần. Cho thấy cơ đồ nhà Lý sang tay nhà Trần.
Ông Lê Văn Phan Reseda California: Nghe các thầy Đông Y bảo:Trong các loài thú, chỉ có loài "hổ" là có thể chữa được nhiều bệnh. Vậy có đúng vậy không? Bà cụ biết giải hộ. Nếu được bà cụ chỉ cho cách nấu cao hổ cốt thì thật không gì quí bằng!
Đúng vậy. Máu của hổ giúp cho ta có trí nhớ lâu bền. Móng chân cọp chữa các chứng kinh phong, tà khí. Răng của cọp chữa các bệnh lao trùng, phong độc hoặc bị chó dại cắn. Tim của cọp chữa ác mộng, mồ hôi trộm.Gân hổ đốt cháy còn tính chữa chứng âm suy, cũng như cổ họng mọc mụt. Da hổ đốt cháy hiệu lực phi thường trị được bệnh báng nước, sốt rét.(điều đặc biệt lưu ý, đừng bao giờ nằm trên da cọp nếu bị các lông rơi rụng nhằm vào vết thương sẽ làm lở loét sinh trùng v.v... Ngoài ra còn nhiều bộ phận của hổ chữa trị các bệnh nan y khác. Người ta lấy 10 bộ xương cọp đúng ý mình mang ngâm nước Địa Cốt Bì mà ta thường gọi là củ khởi độ hai ngày. Sau đó lấy ra dùng dao bằng tre hay miệng chén bát (không được dùng đồ sét) cạo tất cả thịt gân ra cho thật sạch, rồi lại ngâm vào với nước muối nguyên chất cũng trong vòng 2 ngày. Cuối cùng vớt ra đập thành từng mảnh nhỏ, nạo hết tủy trong xương bỏ, đoạn rửa sạch mang phơi khô khoảng được 3 nắng xong mới nấu nước đậu xanh ngâm, để chừng 2 ngày nữa lại vớt xương ra, phơi thêm nắng 3 ngày... Xong đâu đó mới ngâm xương cọ với nước gừng nguyên chất...Cuối cùng sao cho thật khô lúc bấy giờ mới nấu thành cao được. Có thể kỳ đến tôi sẽ nói về cách nấu cao.
Bà Nguyễn Đình Lộc Monterey Park: Trong Thần Chú Phật Đình Thủ Lăng Nghiêm, tôi làm rách mất từ câu thứ 14 đến 18. Bà cụ nhớ nhắc hộ cháu. Cám ơn bà cụ nhiều.
Các câu bà bị mất đó như sau: 14. Na mô bạt ra ha ma nê. 15. Na mô nhân đà ra gia. 16. Na mô bà già bà đế.17. Rô đà ra da. 18.Ô ma bát đế.
Ba Trương Vân Cứ San Jose: Bà cụ có biết điển tích của câu tục ngữ "Vẽ Rắn Thêm Chân"không? Nếu được xin cho cháu được nghe về điển tích của câu này.
Vẽ Rắn Thêm Chân" có thể câu này được dịch ra từ câu tục ngữ Trung Hoa. Đó là câu: "Họa Xà Thiêm Túc". Thường thường người ta muốn nói lên một sự việc gì không đáng vào đâu mà cứ vẽ vời thêm ra hoặc để quan trọng hóa... Theo Chiến Quốc Sách: “Nước Sở có Miếu Vũ, chủ nhân của ngôi miếu này mướn mấy người đế ở canh giữ.
Một đêm nọ, chủ nhân mang đến một bầu rượu để cùng nhau chia uống lấy chút làm thảo. Nhìn thấy bình rượu quá nhỏ biết khó lòng chia đều, cùng nhau bàn thảo: “Nhiều người uống không thể nào đủ được nên mở một cuộc thi, kẻ thắng sẽ trọn quyền nhâm nhi một mình cả bầu rượu này". Một người trong bọn hỏi: “Vậy trong bốn được xem là nhất trên cõi đời này là "Cầm, Kỳ, Thi, Họa" ai thích thi môn nào tự nói ra. Tất cả đều kháo mình là có tài "Vẽ" thiên hạ vô địch. Thế là họ hè nhau thi "Vẽ". Trong bọn bắt đầu dốc cả sức mình để vẽ cố đạt được chức khôi nguyên... Bỗng trong thoáng chốc có tiếng reo lên: "Tôi xong trước rồi." Anh này vừa nói vừa với tay lấy chai rượu ôm vào lòng, rồi nghêng ngang cao ngạo nói:
- Tài của tớ chẳng phải chỉ bấy nhiêu không đâu, tớ còn có thể vẽ thêm chân nữa...
Trong bọn có người đến nhìn bức tranh vẽ:
- Này, này... đừng có xạo nha... Rắn đâu có chân mà vẽ? Giao lại bầu rượu đây... Chỉ được có cái... bịa chuyện ra vẽ... vời.
Người vẽ xong trước chịu thua... đành nằm giương mắt nhìn đồng bọn cùng nhau ngồi đánh chén. Kể từ đó phàm ai thấy người ta nói chuyện mà thêm thắt những điều không có hoặc chẳng nhằm vào câu chuyện, thường bảo là "Vẽ rắn thêm chân".
Cụ Trương Trọng Thu TX. (Qua Thái Kiển): Bà cụ còn nhớ bài Dịch Thủy không? Hình như bài này của Lạc Tân Vương?
Đúng. Bài Dịch Tủy là của Lạc Tân Vương. Bài thơ đó như sau:
"Thử địa biệt Yên Đan,
Tráng sĩ phát xung quan,
Tích thời nhân dĩ một,
Kim nhật thủy do hàn."
Cụ Ngô Tất Tố đã dịch:
Đất này giã cậu hoàng Yên,
Tóc người tráng sĩ dựng trên mái đầu.
Người xưa khuất bóng đã lâu,
Ngày nay còn thấy nước sâu lạnh lùng.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 8:01:44 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Bà Võ Lan Thị Bolsa Ave. Westmister CA. Tôi thường đọc đến từ "văn hóa" trong sách vở báo chí, chỉ biết mường tượng nhưng không được thấu đáo cho lắm. Xin bà cụ giải hộ. Thành kính cám ơn bà cụ.
* "Văn hóa" hiểu một cách đơn giản là nó hiện hữu trong tất cả mọi người chúng ta ngay khi mới sinh ra đời: Từ cái ăn cái mặc, đến sự nghỉ ngơi, đi đứng, suy tư trong cuộc sống hằng ngày. Quẻ Bí của Chu Dịch nói: "Quan hồ nhân văn, dĩ hóa thành thiên hạ" có nghĩa: quan sát dáng điệu của con người, lấy đó để giáo hóa cho thiên hạ. Nhưng Bổ Văn Thi của Thúc Triết thì cho rằng: "Văn hóa nội tập, vũ công nội tu". (Văn hóa là để làm cho bên trong hòa mục còn vũ công là để sửa sang bên ngoài). Thúc Triết nói "văn hóa" gần như "giáo hóa". Khổng Dĩnh Đạt trong Chu Dịch chính nghĩa thì giải thích về cái ý của bậc thánh nhân quan sát dáng vẻ con người tức nói đến cái Thi, Thư, Lễ, Nhạc... mà bày vẽ cho thiên hạ. Taylor - người đưa ra thuyết nhân loại học của nước Anh định nghĩa: "Văn hóa là một tổng thể phức tạp, trong cái phức tạp đó bao gồm đủ mọi thứ, từ tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật đến đạo đức, pháp luật phong tục... chẳng những vậy còn bao gồm cả năng lực, thói quen mà con người đã đạt được trong xã hội". Định nghĩa của "văn hóa" thật vô cùng. Nhiều học giả đã đề cập, bàn thảo, tranh luận và nhiều lúc định nghĩa trái nghịch nhau đưa ra có dến hàng trăm loại như vậy. Hiện nay vẫn còn nhiều điểm bất đồng chưa đưa đến một kết luận chung cho cái nghĩa của nó.
Cụ Hồ Tùng Châu 49th St. Philadelphia, qua Thu Trương Drexel Hill PA. Vào khoảng năm 1940 tôi có đọc trong một tạp chí có lẽ là Tri Tân,trong đó có bài viết về bài thơ do một ông tiều vừa đi vừa hát mà Hồ Hán Thương (khoảng năm Khai Đại Nhà Hồ) mà tôi chỉ nhớ một đoạn:
"Na chi sơn hữu thạch toàn ngoan
Thụ thương thương
Yên mạch mạch,
Thủy sàn sàn,
Triêu hề ngọ xuất,
Mộ hề ngọ hoàn.
Còn mấy câu bên dưới tôi chỉ nhớ loáng thoáng,nếu bà cụ biết xin nhắc hộ cho. Cám ơn bà cụ bội phần.
* Mấy câu bên dưới như sau:
Hữu y hề chế kỵ;
Hữu bội hề nhận lan.
Thát bài thanh hề bình hiểu chướng;
Điền hộ lục hề chẩm tình than.
Nhậm tha triều thị;
Nhậm tha xa mã;
Truy trần bất đáo thử giang san.
U thảo Tống triều cung kiếm;
Cổ khâu tấn đại y quan.
Vương Tạ phong lưu;
Triệu Tào sự nghiệp.
Toán vãng cổ lai kim khanh tướng,
Thạch triên đài man.
Tranh như ngã trạo đầu nhất giác,
Hồng nhật tam can.
Người tiều phu này hát xong bằng giũ áo bỏ đi một mạch. Hồ Hán Thương đoán biết đó là một bậc ẩn sĩ. Nghĩa của bài này do ông Xuân Trang địch ra như sau:
"Cây xanh xanh, Khói mờ mịt, Nước long lanh.Sớm ra khỏi động,Tối lại về ghềnh. Xiêm dây đeo mặc sức; Áo lá sắn bên mình.Cửa động rừng xanh non dịu sáng; Đầu ghềnh ruộng biếc bến thêm xinh. Mặc ai xe ngựa; Mặc ai thị thành. Nước non đây không nhuốm bụi phù sinh,Tống để cung đao vùi dưới cỏ, Tấn xưa mũ áo chẳng còn manh. Tạ, Vương phú quí; Tào,Triệu công danh; Ngồi nghĩ lại cổ kim khanh tướng, Bia đá rêu quanh, Ai đặng bằng ta choàng tỉnh giấc,Ngẩng trông ác đã đầu cành."
Cư sĩ Hải Trang Round Up Dr. Walnut, CA. Nghe nói Việt Nam ta cũng có nhiều loại sâm quí. Có đúng vậy không? Nếu có, xin bà cụ lược cho một số và tác dụng của nó. Thú thật tôi đang tìm hiểu về các loại sâm trên thế giới. Xin thành thật cám ơn bà cụ.
* Có như vậy. Các loại sâm quí ở Việt Nam gồm có:
1. Sâm Bố Chính: Rất nổi tiếng ở Việt Nam. Loại sâm này mọc rải rác ở trong rừng Quảng Ngãi, Quảng Bình, Thanh Hóa, Nghệ Tỉnh... hình dáng giống như sâm Thạch Trụ, thơm và béo. Công dụng của nó chủ trị các căn chứng suy nhược thần kinh, đặc biệt chủ trị ngũ tạng: tâm, can, tỳ, phế, thận... Sâm Bố chính còn chữa được chứng đau bụng của phụ nữ.
2. Sâm Nhị Hồng: giống sâm này mọc ở phía rừng Long Thanh, Long Khánh, Bà Rịa... mọc chung với cỏ tranh. Loại này không có củ mà duy chỉ có một bộ rễ như rễ tre nhưng chứa mọng nước dùng để nấu canh cho những người mới ốm dậy. Ngoài ra đem phơi khô, nấu uống như trà. Rất khỏe.
3. Sâm Chỉ Huyết: Củ sâm giống như sâm Hoa Kỳ vị thơm và hơi béo, củ nhỏ thường có các rễ màu đỏ. Loại này phát hiện ở rừng Sơn La, Lai Châu, Hòn Gai, Cẩm Phả. Chữa các bịnh bị lòa mắt hoặc mắt yếu của người già. Phơi khô ngâm rượu uống rất bổ.
Ngoài ra còn các loại Sâm Rừng, Sa Sâm, Thượng Đẳng Hồng Huyết Sâm... Có dịp chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này hầu Cư Sĩ.
Bà Hải Trần (qua Lien Diep MaryLand) Có một số báo nào đó, đọc thấy bà cụ trả lời về con "rươi". Tôi được nghe một số người từng ăn rươi bảo rươi còn được gọi bằng một danh từ chữ Hán. Vậy từ đó là gì? 2/ Con rươi tiếng Hán gọi thế nào? Xin bà cụ giúp cho.
* Lịch Sử Triều Nguyễn có nói về "rươi" gọi nó là Hòa Trùng. Hòa trùng giống như con rết mà cũng mường tượng như con bọ ngựa. Thân rươi mềm như con tằm và nhỏ như đầu chiếc đũa, chiều dài hơn hai tấc có màu sắc xanh và vàng sặc sỡ... bên trong có nước trắng. Rươi thường từ gốc lúa mà ra, sinh sản ở đồng ruộng hoặc bãi biển. Rươi là món ăn hợp với khẩu vị, dân chúng ở địa phương thi nhau vớt lên mang bán được nhiều tiền. 2/ Tiếng Hán gọi rươi là "hòa trùng"- có nghĩa con sâu lúa. Chữ hán còn gọi là "Há". Tam Tự Kinh có câu trong đó có chữ "há" có nghĩa là "rươi" như sau:
"MÔNG: Mịt mù. LÀNG: Sáng. KIẾN: Đầu tháng, TẠP: Ba mươi. HÁ: Rươi. TẠP: Mắm. ĐƠN: Thắm. LỤC: Xanh...”
Cụ Tịnh Hải Garden Grove. Bà cụ có nhớ mười cái chủ trương lớn của Mặc gia không? Tại sao Mặc Tử lại đề ra chủ trương này? Nếu được xin nhắc lại hộ. Kính cẩn cám ơn bà cụ nhiều.
* Mười cái chủ trương của Mặc gia do Mặc Tử chủ xướng đó là:Kiêm ái, phi công, thượng hiền, tiết táng, tiết dụng, phi nhạc, phi mệnh, tôn thiêng, minh quỹ. Theo ông chỉ vì cái "giao tương ố", có nghĩa sự qua lại hàng ngày của con người vốn xấu với nhau nên tạo ra cảnh bi lụy phiền não... Vì vậy mà ông mới đề xướng phải biết "kiêm tương ái" tức phải biết thương yêu nhau, qua lại cho có lợi cho nhau, gọi đó là "giao tương lợi" v.v... Ông chủ trương người có sức thì giúp sức cho nhau, người có tiền của thì biết giúp đở nhau, người hiểu được cái đạo thì truyền lại cho nhau... chỉ cần làm được những điều trên thì thiên hạ mới hưởng cảnh thanh bình an lạc.
Cháu Trần Tập Xương Storn Meadw Dr Houston TX(Qua Ralph Tran): Bà cụ có nhớ bài Đánh Tổ Tôm của Trần Tế Xương không? Nếu được bà cụ nhắc lại cho. Xin cám ơn.
* Bài thơ đó như sau:
Bực chẳng nhẽ anh hùng khi vị ngộ
Như lúc đen chơi cuộc tổ tôm.
Bài trạm thành cuối cánh phỗng ầm ầm,
Ngồi thôi chẳng bốc quân rác rảnh.
Cũng có lúc không chi thì bát sách
Cũng có khi bạch định bốc yêu hồng;
Cất bài lên ông lão vẫn lẩn vòng
Không đâu cả gặp kề năm bảy phỗng.
Cũng có ván tam lèo lên chờ rộng,
Vớ phải thằng bạch thủ phỗng tay trên.
Gớm ghê thay đen thực là đen!
Sắc như mác cũng thua thằng vận đỏ.
May mắn nhẽ hữu duyên năng tái ngộ,
Bĩ cực rồi đến độ thái lai;
Tiếng tam khôi chi để nhường ai,
Hết bạch lại hồng, thông mãi mãi.
Nào những kẻ tay trên ban nãy,
Đến bây giờ thay thảy dưới tay ta;
Tiếng bài cao lừng lẫy khắp gần xa,
Bát vạn ấy người ta ai dám đọ.
Thế mới biết tổ tôm có đen thì có đỏ,
Thì anh hùng vị ngộ có lo chi;
Trước sau, sau trước làm gì?
Ông Trương Tấn Thơ Rhea Ave. Reseda: Bà cụ giải hộ mấy câu tục ngữ Trung Hoa: 1. Thiếu hóa tử ngật tử, chích chích hảo. 2. Tỉnh lý hà mô, tỉnh lý hảo. 3. Hoa đối hoa, liễu đối liễu, phá bản ky, Tương đối hoại thiều trửu. 4. Hòa thượng yếu tiền, não bạt huyên thiên. Xin cám ơn bà cụ.
* 1. Ăn mày ăn cua chết, ăn con nào cũng thấy ngon.
2. a/ Ểnh ương trong giếng, giếng như trời.
b/ Của mình thì tốt, của người thì dốt.
c/ Củi mục bà để trong rương
Hễ ai hỏi đến trầm hương của bà.
3. a/ Hoa đối hoa, liễu đối liễu, sọt thủng đối chỗi cùn
b/ Thuyền đua thì lái cũng đua
Con cóc nó nhảy, con cua nó bò.
4. Hòa thượng cần tiền, khua inh não bạt.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 9:22:07 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Vũ Viết Khuê S.E.Vicks Burg F 3 Norman OK. (Qua Anh Tuấn): Tôi thắc mắc ngày xưa tại Trung Hoa mà cho đến ngày nay cũng còn tục này là "trẻ con không có tên chữ"? Bà cụ có thể giải luận về tính họ được không?
* "Tên tự" là sau khi con trai làm quán lễ, còn con gái thì sau lễ cài trâm thì mới được có tên "Tự". Nguyên là ngày xưa cổ nhân ta hễ sinh ra là đặt "tên", nhưng tuyệt đối không được đặt tên "tự". Chỉ khi nào sau quán lễ, kê lễ thì mới được đặt tên "tự". Vì vậy người xưa thường bảo rằng: "Đồng tử vô tự". Tóm lại khi trai gái lớn lên đúng là thành niên mới được đặt tên "tự". Họ (tính) đặt trước tên (danh), rồi khi có tên "tự" thì đặt sau rốt hết.
Cụ Lê Văn Phúc Atascocita Timber N. Humble TX. Bà cụ có nhớ bài Sơn hành của Đỗ Mục không? Xin bà cụ nhắc và dịch hộ lại cho.
* Đỗ Mục có hai bài nổi tiếng: 1. Bạch Tần Hoài. 2. Sơn hành như cụ hỏi. Bài này như sau:
"Viễn thượng hàn sơn thạch kính ta,
Bạch vân thâm xứ hữu nhân gia.
Đình xa tọa ái phong lâm vãn,
Sương diệp hồng vu nhị tuyệt hoa.
có nghĩa:
Trên cao cao (kìa), hòn núi lạnh, (có) con đường đá đi xuống nghiêng nghiêng.
Trong đám mây bạc (nơi) chỗ sâu thẳm có ngôi nhà ai.
Buổi chiều dừng xe ngồi dưới rừng phong
Lá nhuốm sương đỏ tựa hoa tháng hai.
Ông Vũ Như Tường 49 Philadelphia (qua Chu Trương): Tôi còn nhớ câu ca dao Tàu có câu: 1/ "Long sinh long, phương sinh phượng, lão thử sinh nhi hội đả động".
2./ Long du thiển thủy tao hà hý. Hổ lạc bình dương bị khuyển khi.
Nhưng cả hai câu tôi không nhớ được nghĩa của nó. Bà cụ nhớ xin giảng giải lại hộ.
* Nghĩa câu 1 như sau: "Rồng sinh rồng, phượng sinh phượng, chuột sinh chuột con cũng biết đào hang".
Ta cũng có câu:
"Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra giòng liu điu.
hay câu: "Nòi nào giống nấy".
Câu thứ 2/ có nghĩa:
"Rồng chơi sông cạn tôm dỡn mặt. Hổ lạc đất bằng bị chó khi.
Bà cụ Đõ Võ Hà Thúc Brookhurst Westminster CA, Tôi nhớ man máng bài thơ ở sách Trinh Thử, phản đối tư tưởng bế quan , độc tôn của Hồ Quý Ly. Bà cụ nhớ đoạn thơ đó không? Xin nhắc hộ.
* Chuột đực tự giới thiệu là Hồ Quý Ly qua lời thơ như sau:
"... Anh nay nhờ phận ấm no,
Tổ nhân thiên táng, huyệt do mối đùn.
Hợi long nhập thủ chuyển khôn,
Bao nhiêu họ thủy cũng tuôn nhập đoài.
Rày khen vượng tướng hào tài,
Đông phương tí ngọ mấy đời đến nay.
Vả xem cây lộc tốt thay
Quí nhân phù trợ tằ này làm nên.
Lại xem tiền định chẳng hèn,
Mười thầy cũng nói như in một lời.
Số tử vi đã giải bày,
Tham lang thủ mệnh, ắt rày vượng thay... v.v...
Có dịp chúng tôi sẽ ghi tất cả bài thơ như bà yêu cầu.
Ông Phạm hải Hồ Maryland (Qua Thọ Phan ): Rùa nói chung chữa những chứng bệnh nào, bà cụ có biết không? Nếu được xin giảng giải hộ cho.
* Theo y luận tổng hợp của Đông phương qua luận lý triết học... thì bất cứ việc gì có linh khiếu đặc biệt đều được triển khai hầu xử dụng trên mọi mặt. Các y tổ và danh sư đã tìm thấy và truyền lại cho đời sau về các phần cơ thể của rùa có tác dụng như sau:
1. Qui nhục (thịt rùa) chữa chứng phế lao, ho lao kinh niên.
2. Qui đảm: mật rùa. Chữa chứng kinh nguyệt bất thường hay bí kinh nguyệt.
3. Qui huyết: (máu rùa) Chữa chứng đầy hơi, ứ đàm, cổ có bướu.
4. Qui tâm:Tim rùa. Dùng bảy cái đốt cháy còn tính pha với rượu, trị chứng mất ngủ, rất hiệu nghiệm.
5. Qui vĩ: Đuôi rùa. Lấy một cặp đực và cá, nhất là loại có ức màu vàng thì tốt nhất, làm thuốc chữa bệnh hiếm muộn con. Nếu uống toàn đuôi rùa đực sẽ sinh con trai.
6. Qui niệu: Nước đái rùa. Đây là môt vị thuốc vô cùng thần hiệu, nhưng phải chọn rùa có ức trắng, mu xanh thì hiệu nghiệm hơn...
Tôi không là thầy Đông y, Nếu ông cụ muốn rõ hơn hãy đến tim các Đông y sĩ tại các hiệu bán thuốc Bắc.
Ông Lê Phú Hào Reseda: Bà cụ có nhớ bài thơ "Mệ Mốc" của Nguyễn Khuyến không? Nếu nhớ xin nhắc hộ.
* Bài thơ đó như sau:
"So danh giá ai bằng Mẹ Mốc
Ngoài hình hài , gấm vóc, cũng thêm ra.
Tấm hồng nhan đem bôi lấm, xóa nhòa.
Làm thế để cho qua mắt tục.
Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc,
Tâm trung thường thủ tự kiên kim
Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm
Giữa son sắt êm đềm một tiết.
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương Trinh vằng vặc quyết không nhơ.
Đáp tai ngảnh mặt làm ngơ
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
Khôn em dễ bán chợ này.
Bà Văn Thanh Tùng Orange County: Trong Tam Tự Kinh có mấy câu: "PHÀM, HUẤN, MÔNG - TU, GIẢNG, CỨU - TƯỜNG, HUẤN HỖ - MINH, CÚ, ĐỘC, VI HỌC GIẢ - TẤT HỮU SƠ - TIỂU HỌC CHUNG - CHÍ TỨ THƯ.
Bà cụ giảng hộ mấy câu này cho. Cám ơn.
* HUẤN: giáo dục. Huấn luyện.
MÔNG: Trẻ nhỏ mới bắt đầu học chữ , đọc sách gọi là Mông.
TU: Cần phải.
CỨU: Giảng cứu. Giải cái lý.
TƯỜNG: Tường tận.
HUẤN HỖ: Giải thích từng chữ từng câu vămn xưa.
MINH: hiểu rõ.
SƠ: bắt đầu.
TIỂU HỌC: Lúc bắt đầu học.
CHÍ: đến.
TỨ THƯ: bốn cuốpn Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Hạ, Trung Dung.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:28:29 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Vũ Hồng Phát Brookhurst Westminster. Cali. Có mấy câu tục ngữ của người Trung Hoa sau đây nhờ bà cụ giải hộ:
1. Hảo hoa năng kiến kỷ thời hông?
2. Hảo cẩu bất hòa kê nhi đấu
Hảo nam bất hòa thê tử đấu.
3. Nhân xú tâm tính"
4. Nhất nhân nan xứng bách nhân ý.
+ Câu thứ nhất này có nghĩa: "Hoa xinh được mấy lúc hồng?" hay cũng có lời giải: “Hoa đẹp có mùa, người đẹp có lúc”. Có ai đâu trẻ đẹp mãi được? Cho dù có miễn cưỡng dùng loại Botox gần đây giới khoa học tìm ra được cũng chỉ tạm bợ ngăn cản vết nhăn một thời gian ngắn... và cuối cùng cũng sẽ bị tàn tạ theo qui luật của tạo hóa...
+ Câu thứ hai có nghĩa: “Chó khôn không đuổi gà Trai tốt không đánh nhau với vợ.”
Ta cũng có câu tục ngữ tương tự như vậy:
“Khôn ngoan đá đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau."
+ Câu thứ ba có nghĩa: "Xấu người tốt nết". Tục ngữ ta cũng có câu giống đại loại như vậy:
"Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
Xẩy người đẹp nết còn hơn đẹp người.”
Hoặc:
"Xấu mặt chặt dạ."
+ Câu thứ tư có nghĩa: “Một người khó vừa bụng trăm người.”
Ta cũng có câu: "Ở sao cho vừa lòng người... "
Hoặc:
“Quay đầu về Sở e Tề giận
Ngoảnh mặt sang Tề sợ Sở ghen."
Cụ Trần Uyên Bác (qua Xuân Mai Silver Spring )Maryland : Bà cụ có nhớ học giả Phạm Quỳnh trước kia định nghĩa thế nào là tục ngữ ca dao không? Nếu còn nhớ xin bà cụ nhắc lại hộ. Xin thành kính cám ơn.
+ Theo tạp chí Nam Phong số 46, có đăng tải bài nói chuyện của học giả Phạm Quỳnh đọc ở Hội Trí Tri ngày 21-4-1921, như sau:
"Tục ngữ hay ngạn ngữ là những câu nói thường hoặc vì cái thể nó gọn ghẽ dễ nhớ mà người trong nước mọi người đềy nhắc nhở đến và truyền tụng từ người này sang người nọ, đời nọ sang đời kia... Bởi chưn ở miệng người bình dân ít học, thật thà, không hoa mỹ, chải chuốt nên gọi đó là tục, chứ không phải là trò thô bỉ tục tằn... Còn phương ngôn theo học giả bảo là những câu tục ngữ riêng của từng địa phương, rất có thể phương này thông dụng nhưng phương kia lại ít dùng đến hoặc không biết đến. Cao hơn một tầng nữa là những câu cách ngôn. Theo học giả thì bất kỳ câu châm ngôn tục nào ngữ nào có ý nghĩa cao xa thì ta có thể gọi đó là cách ngôn. Tuy nhiên cách ngôn là một thể riêng đã triết lý, văn chương rồi không còn là những câu thông thường truyền khẩu nữa như những tục ngữ và phương ngôn khác. Tóm lại, theo học giả Phạm Quỳnh cho rằng tục ngữ là những câu truyền khẩu tự nhiên hoặc chỉ những sự lý công nhiên dẫu người dân nước nào cũng đều cho là phải... hoặc chỉ những phong tục riêng của một quốc gia dân tộc đó! Các câu:
“Ăn quả nhớ kẻ trồng cây” hay:
"Cao nấm ấm mồ"!
Tục ngữ thường có một hay hai câu đối chọi nhau, nhưng lắm lúc cũng có nhiều khi thành hai câu lục bát hay song thất lục bát...
Như câu:
“Mấy đời bánh đúc có xương
Mấy đời dì ghẻ mà thương con chồng!
Hay:
Mồ côi cha ăn cơm với cá
Mồ côi mẹ liếm lá đầu chợ.
Theo học giả: "Ca dao là những câu hát nhỏ, từ hai câu trở lên, không dài lắm. Tất nhiên là do truyền khẩu thành ra phổ cập trong nhân dân. Ca dao chẳng khác gì bài "Quốc Phong" trong Kinh Thi, thường là lời ngâm vịnh giữa nam và nữ trong việc đồng áng."
Cụ Túc Đạo tính Hà San Jose: Tôi có câu này nhờ bà cụ giảng hộ:
“Vi đạo nhất tổn.Tổn chi hựu tổn dĩ chí vô vi".
+ Đây là lời của Lão Tử. Nơi Chương 48 có ghi: "Vi đạo nhật tổn.Tổn chi hựu tổn dĩ chí vô vi”. Có nghĩa: “Theo đạo mỗi ngày một giảm. Giảm rồi lại giảm (nữa) cho tới mức vô vi".
Ông Vũ Như Thượng Monterey Park, CA. Thành ngữ Trung Hoa có câu: “CHỈ THƯỢNG ĐÀM BINH" nhưng không biết nghĩa và điển tích của câu này. Xin bà cụ biết chỉ giáo cho. Trân trọng cám ơn bà cụ.
+ Câu “Chỉ Thượng Đàm Binh" có nghĩa: Chỉ thượng là trên giấy. Đàm binh có nghĩa nói chuyện về quân sự". Nó có nghĩa chung là "Nói chiến lược trên giấy". Theo điển tích như sau:
“Thời Chiến Quốc, đại tướng Triệu Xa có người con tên là Triệu Quát, lúc trẻ học "Binh Thư" thuộc nằm lòng. Triệu Quát thường bàn bạc với cha về binh pháp.Đại tướng Triệu Xa hỏi điều gì, Triệu Quát đều đáp lại thông suốt. Ông mang chuyện này nói với vợ rồi bảo: " Thằng Triệu Quát chỉ giỏi về l1 thuyết nhưng không thể làm tướng được."
Người vợ hỏi: " Tại sao?". Ông trả lời: " Cầm quân ra trận là sự an nguy của đất nước. Thằng con mình bảo là cho việc cầm quyền quá dễ, có thái độ coi thường. Nếu Nhà Triệu cho là đại tướng thì tức khắc nước Triệu ta sẽ bị hủy diệt tự chính tay nó.
Về sau, Tần tấn công Triệu, lão tướng Liêm Pha của Triệu phụng mạng chống lại. Liêm Pha muốn tranh thủ cho có lợi về tác chiến nên ra lệnh xây lập doanh lũy kiên cố, đợi thời mà dấy binh đi đánh.
Nhưng Triệu Hiếu Vương nghe lời bọn phản gián nước Tần cho là Liêm Pha nay đã già nua yếu đuối không thể nào chống cự nổi với đại địch được. Vua Triệu nghe lời phái Triệu Quát thay thế Liêm Pha. Mẹ Triệu Quát được tin vội dâng sớ khuyên vua đình lại: Sớ dâng lên đó ghi như sau: “Triệu Quát tuy thông thuộc binh thư nhưng thiếu bề linh hoạt vận dụng, hắn không đủ tài đức cầm quân với chức đại tướng. Kính xin bệ hạ không nên trọng dụng nó.".
Tướng quốc Lạng Tương Như cũng đồng ý kiến như vậy. Tuy nhiên, nhà vua vẫn một mực không nghe xuống chiếu giao binh quyền cho Triệu Quát. Nhận được quyền cao tước lớn, Triệu Quát kiêu căng ngạo mạn, coi trời bằng vung, ra thói hoành hành cải đổi lại chiến lược của Liêm Pha... tất cả đều làm theo ý mình. Rốt cuộc bị quân Tần vây khổn. Triệu Phát bị tên bắn chết. Chỉ trong vòng một đêm mà có đến 40.000 quân bị Tần tiêu diệt.
Về sau, đời Minh - Minh Thái Tổ - Triều Hàn Lâm Học Sĩ, Lưu Như Tôn (Tam Ngô) có làm bài thơ châm biếm. Trong đó có câu:
"Triều giả du khoa chỉ thượng binh"
Có nghĩa:
"Ngoài rừng rú còn khoan trương nói vể binh trên giấp."
Bà Vương Lệ Los Angeles: Bà cụ có biết về tác dụng các loại sâm Trung Hoa không ? nếu có xin chỉ giáo hộ.
+ TRung Hoa có rất nhiều loại sâm thiên nhiên và sâm được sản xuất đại lược như sau:
1. Nhân Sâm Bách Chi: Hình thù nháng rể chằng chịt, sâm bách chi hiệu nghiệm với các biện chứng về thận và gan. Dùng để nấu canh, hoặc nấu lấy nước uống.
2. Sông Hồng Tu: Hình dạng nhõ như rau, màu nâu đỏ, vị hơi đắng, được bó lại và bán để hầm với gà ác chữa các bệnh hen suyễn.
3. Sâm Y Long: Loại sâm này còn có tên là Y Truật, màu vàng và có vẩn đen, củ giống như củ cà rốt.
4. Đây là loại sâm giấy giống, như Hà Thủ Ô cho nên sâm Y Long có lõi, chỉ nên dùng phần bên ngoài phơi khô.
Ông Huy Hồ, Philadelphia: Bà có biết Tú Gàn không?
+ Nhà văn Tú Gàn trước 75 ông là thẩm phán tòa Thượng Thẩm Sài Gòn. Ra hải ngoại ông gia nhập làng báo. Có thể nói ông là một nhà uyên bác lại rất có tài được mọi giới kính nể!
Mộng Tuyền DC 95
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:32:36 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyện Nữ Sĩ
Cư sĩ Tịnh Hải Garden Grove: Bà chị giải thích hộ câu: "Bộc bạch cùng đại chúng hiện tiền" là sao?
+ Là biểu lộ nỗi lòng của mình cho mọi người, mọi giới hiện diện. Có nghĩa là nói lên tình thương của mình trước đại chúng đương có mặt trước chốn thính đường...
Cháu Hồ Mộng Điệp Santa Ana: Cháu có nghe từ một người bạn của nhà thơ Huệ Thu tại San Jose có nói đến bài thơ của nhà thơ Thượng Nhân nhắc đến Quán Chùa, đến Thanh Thúy, đến Queen Bee và luôn cả Khánh Ly nữa. Bà cụ có nhớ mấy vần thơ này không? Xin nhắc hộ.
+ Có, đó là mấy câu trong "Ngày Tháng Khó Quên" tập hai trong Bên Trời Lận Đận, một thi phẩm được xem như là kiệt tác của nhà thơ nổi tiếng Hà Thượng Nhân. Các câu đó sau sau:
Nhờ hè phố xanh lam tà áo,
Nhớ trên tay trang báo vừa in.
Quán Chùa+ những buổi săn tin,
Vây quanh bàn nước mắt nhìn ngu ngơ.
Nhớ Thanh Thúy canh khuya nức nở,
Bạn bè mình ai ở, ai đi ?
Nhớ đêm ca nhạc Queen Bee,
Lúc này mái tóc Khánh Ly còn dài ?"
+ Quán Chùa là La Pagode ở đường Tự Do.
Ông Hồ Đắc Bàng Quang Brookhurst Orange County: Bên ta có trái đười ươi, ăn ngon, nghe nói y học Đông Phương dùng làm thuốc. Bà cụ có biết nó trị được bệnh gì không?
+ Trái đười ươi hay còn gọi là trái bời lời, Đông Y gọi An Nam Tử. Danh từ khoa học gọi Sterculia Scaphigera Wall. Ngoài tên An Nam Tử còn gọi là Bàn đại hải hay Hồ đại hải. Vị này chủ trị thương phong, ho mất tiếng, cổ khô, tắt tiếng, trừ đờm. Loại này nước Việt Nam có nhiều. Nhưng nơi có nhiều trái này nhất lại là đảo hải Nam Trung Hoa.
Cư sĩ Diệu Huệ Monterey Park: Thế nào gọi là Phật tánh? Xin bà cụ giải hộ.
+ Phật tánh quả thật vô cùng thâm hậu. Đó là Táng Giác Ngộ. Vốn thật lành. Căn thật thiện. Con người mang Phật tánh ngay từ khi vừa lọt lòng mẹ. Muốn tìm hiểu Phật tánh cần phải hiểu về thuyết duyên khởi. Phật tánh thật vô thủy vô chung. Bất sinh bất diệt. Không thể đo lường được. Phật tánh tuyệt nhiên không thay đổi, nó không định mà cũng chẳng động.
Cháu Nguyễn Thị Diễm Maryland qua Ký Diệp :1. Tại sao người Chiêm Thành ở Phan Rang lại gọi người đồng bào thượng Sédang là ông "Ba Bị"? Có nhiều sắc dân thượng, bà cụ biết xin ghi lại nơi mục này luôn. Cám ơn bà cụ nhiều.
+ Người Sédang vốn là người thượng sống ở vùng thung lũng tại nhưng nơi đồi núi nghèo nàn. Dân tộc này có một vóc dáng cao lớn, khỏe mạnh, da ngăm đen. Bản tính người Sédang vốn thật thà và thành tín. Nhưng có điều họ có bản tính nóng nảy và hiếu chiến. Những người mới gặp nghĩ đây là giống người thô bạo, dã man... nhưng thật ra họ rất tốt và đầy nghị lực lại thiện chiến trong rừng rú, chiến đấu hăng say không hề biết mệt mỏi. Ngày xưa người Bahnar thường lo sợ giống dân này đến cướp phá, nên rào làng đắp lũy ngăn ngừa. Về sau lời đồn đãi này đến tai người Chiêm Thành, do đó người Chàm - tức Chiêm Thành - mới cho đó là ông Ba Bị – một loại ma quái chuyên đi dọa con nít.
2. Có sáu sắc dân thượng gồm:
- Sedang
- Bahnar
- Djarai
- Rhadé
- M'nông
- Stien
- Koho
Các sắc dân này có những tục lệ như : "mừng lúa mới.lễ bó mạ, lễ đâm trâu, lễ mai táng, nghề phù thủy, cách làm rượu cần v.v...
Cụ Vũ Đình Hòe Virginia qua Huỳnh Cao: Tôi còn nhớ có hai câu duy nhất bài Kinh Thi: "Vĩ vĩ Văn vương/ Lịnh vấn bất dĩ... " nhưng mấy câu sau tôi quên khuấy mất, xin bà cụ nhắc hộ nếu được luôn bài dịch thì quí hóa vô cùng. Cám ơn bà cụ.
+ Bài Kinh Thi đó như sau:
Vĩ vĩ Văn vương,
Lịnh vấn bất dĩ,
Trần tích tai Chu.
Hầu Văn vương tôn tử
Văn vương tôn tử
Bổn chi bách thế.
Phàm Chu chi sĩ
Bất hiển, diệt thế?
Bài dịch đó như sau:
Văn vương như cố gắng hoài,
Cho nên tiếng tốt lâu dài chẳng thôi.
Vương nghiệp nhà Chu, Trời ban thưởng,
Con cháu Văn vương hưởng dồi dào.
Văn vương con cháu trước sau,
Làm vua đích thứ nối nhau trăm đời.
Phàm Chu triều những người quan chức,
Há đời đời chẳng rất hiển vinh ?
Tạ Quang Phát dịch
Bà Vương Phi Tử Valley: Đọc truyện Tàu thấy nói về nêm công chả phụng, và các món cao lương mỹ vị khác... tôi muốn được biết có thật như vậy không? nếu thật thì nó bao gồm những món ăn nào? Bà cụ chỉ giáo cho.
+ Có như vậy. Như bà biết, vua là đấng tôn quý nhất trong một quốc gia, nên bất cứ cái gì nhất là cái ăn, cái mặc đều thuộc hàng hiếm quý. Mỗi khi nói đến món ăn của các nhà vua thì người ta nói ngay đến "Bát Trân". Cái nghĩa của "Bát Trân" là tám món thượng thặng mà người dân giả khó lòng có được. Vậy tám món trân quý đó là:
1. Gan công (có sách nói gan rồng)
2. Chả phụng
3. Thai con báo
4. Đuôi cá gáy
5. Chả thịt cú
6. Môi đười ươi
7. Bàn tay gấu
8. Nhượng heo con.
Đây là món cao lương của các nhà vua đời nhà Đường. Nhưng "Bát Trân" thời Chu thì có khác hơn, gồm có:
1. Thuần ngao (xôi có gia vị)
2. Thuần mô (xôi mỡ)
3. Bào dồn (thịt lợn nướng)
4. Bào dương (thịt dê trộn mỡ chưng cách thủy)
5. Đảo trâu (giò lụa)
6. Trách (thịt heo ngâm giấm)
7. Ngao (nem)
8. Can liêu (gan chó ướp gia vị, cuốn lá thơm rồi nướng)
Còn nhiều món ăn độc đáo khác nữa, có dịp xin trở lại vấn đề này hầu bà chị.
Cụ Nguyễn Khải Orange County CA. Bà cụ có còn nhớ bài thơ lục bát vừa chữ Hán vừa chữ Nôm nói về Thiên Văn trong Ngũ Thiên Tự từ câu thứ sáu đến câu thứ tám không? Nếu có xin nhắc hộ. Cám ơn.
+ Có. Đó là một đoạn trong "Đệ Nhị Tiết" như sau:
NGUYỆT mặt trăng NHẬT mặt trời
VÃNG qua LAI lại DI dời CANH thay
VŨ mưa THỬ nắng VÂN mây
SƯƠNG sương TUYẾT tuyết TRÚ ngày DẠ đêm
NHÂN HUÂN ngi ngút TƯỜNG điềm
ĐÔN ánh THỰ sáng ÂM êm ĐIỀU hòa
LÔI ĐÌNH Sấm sét PHÁT ra
OANH ran ĐIỆN chớp HÀ xa NHĨ gần...
Hình như tập Ngũ Thiên Tự gần đây ở Việt Nam có hai tác giả Vũ Văn Kính cùng Khổng Đức soạn lại và xuất bản.
Cụ Đỗ Thạch Bình El Monte LA. Tôi còn nhớ có đọc Lỗ Tấn trong tập tiểu thuyết Cố Hương có nói đến một một con vật ở miền sơn cước thích ăn các loại dưa, mà quên mất đó là loại vật tên gì. Bà cụ biết không? nếu biết xin nhắc hộ.
+ Đó là một loài dã thú hình thù giống như con cầy (chó) có tên là TRA vốn thích ăn các loại dưa.
Cháu Vũ Quỳnh Như Maryland (qua Phan Chánh Thọ): Bà cụ có nhớ bốn câu thơ cuối của bài "Tình Gửi Gió Mây" của nhà thơ Cung Diễm không? Nếu bà cụ nhớ xin nhắc hộ. Thành kính cám ơn.
+ Bài Tình Gởi Gió Mây là một trong những bài được xem là được nhiều người thích nhất của nhà thơ Cung Diễm như sau:
"Một bóng Hoàng bay, Phượng đợi chờ
Trăng sầu nghiêng ánh, lạnh lầu Thơ
Trăng soi một bóng, ta và bóng
Một bóng đơn côi, một bóng mờ !"
Ông Trần Lưu California. Như thế nào mới gọi là lối viết phản đề, bà cụ nếu biết giải hộ. Xin thành thật cám ơn bà cụ.
+ Lối viết này thường với mục đích làm nổi bật chủ đề mà người viết muốn đề cập đến. Thông thường phần trên của bài đưa ra luận cứ bài bác điểm chính mà tác giả muốn đề cao hoặc bênh vực chủ đề của mình. Qua phần sau của bài tác giả đưa ra ý kiến thuyết phục người đọc hưởng ứng chủ đề của mình viết. Tuy nhiên, nếu không khéo léo để thiếu sự cân bằng, ví như phần bài bác lại dài dòng và sắc bén hơn phần lý luận để bênh vực lấy chủ đề của mình. Điều này rất tai hại, chẳng những không làm sáng tỏ được chủ đề của mình viết mà nó còn bị phản ứng ngược lại. Vì vậy, tác giả muốn viết theo lối phản đề cần thật thận trọng để khỏi phải bị gặp sự hiểu lầm đáng tiếc!
Mộng Tuyền DC 94
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:37:15 GMT 9
MỘT NGHÌN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Phó Đức Brookhurst Westminster (CA). Tôi nghe nói đến: 1- từ "Minh linh phù du", 2-"Giấc hòe".Xin bà cụ có nhớ nhác hộ.
+ "Minh linh du phù" đúng theo chữ Hán. Minh linh có nghĩa là một thứ sâu sắc xanh, thường ăn cá lá rau, khi lớn lên thì hóa ra bướm "du phù" tức ta gọi là phù du. Phù du là con "vò", một loại côn trùng nhỏ, sinh ra ở nước, khi nó hóa , có cánh bay được, chỉ sống thời gian ngắn ngủi ít lâu thì chết. 2.Giấc hòe chỉ về giấc mộng... do tích chép trong Nam Kha ký của Đường Lý Công Tá nói về Thuần Vu Phần ngủ dưới gốc cây hòe, mơ thấy mình đến nước Hòe An được vua nước ấy gả cho công chúa đồng thời phong cho chức quan Thái Thú tại đất Nam Kha, rất mực hiển vinh. Về sau đi đánh giặc bị thua, vợ lại chết, nhà vua nghi kị, hạ lệnh đuổi đi. Đến khi tỉnh dậy thấy mình đang nằm dươi gốc cây hòe bên cạnh tổ kiến. Thì ra quận Nam Kha, có nghĩa đien là cành cây phía nam, là ý chỉ cái tổ kiến ở dưới cành cây hòe hướng về phía nam. Nhân chuyện này người ta mới gọi là guấc hòe hay giấc Nam Kha cũng vậy.
Cụ Lại Đức Hùng San Jose: Trong "Đạo Đức Kinh" của Lão Tử có đoạn "Đạo khả đạo, phi thường đạo;danh khả danh phi thường danh", bà cụ nhắc hộ về nghĩa của nó hộ. Có bản dịch nào bằng Anh ngữ không?
+Đạo khả đạro, phi thường đạo;danh khả danh phi thường danh. Vô, danh thiên địa chi thủy; hữu, danh vạn vật chi mẫu. Cố thường vô, dục dĩ quan kỳ diệu;thường hữu, dục dĩ quan kỳ kiếu.
Thử lưỡng giả, đồng xuất nhi dị danh, đồng vị chi huyền. Huyền chi hựu huyền, chúng điệu chbi môn.
Nghĩa: Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cửu bất biến;tên mà có thể đặt ra để gọi nó (đạo) thì không phải là tên vĩnh cửa bất biến.
"Không", là gọi cái bản thủy của trời đất; "Có" là gọi mẹ mẹ sinh ra muôn vật.
Cho nên, tự thường đặt vào chỗ "không" là để xét cí thể vi diệu của nó (đạo); tự thường đặt vào chỗ "có" là để xét cái (dụng) vô biên của nó.
Hai cái đó (không và có) cũng từ đạo ra mà khác tên, đều là huyền diệu.
Huyền diệu rồi lại thêm huyền diệu, đó là cửa của mọi biến hóa kỳ diệu.
(Trong Lão Tử Đạo Đức Kinh của Nguyễn Hiến Lê)
Bản dịch về Anh văn của Gia-Fu & Jane English về đoạn này trong Lao Tsu Tao Te Ching như sau:
"The Tan that can be told is not the eternal Tao.
The nam that can be named is not the eternal name.
The nameless is then beginning of heaven and earth.
The named is the mother of teh thousand things.
Ever desireless, one can se the manifestations.
These two spring from the same source but differ in name; this appearsnas darkness.
Darkness within darkness.
The gate to all mystery.
Bà Đào Bình qua Ky Diep mary Land : Có lần tôi được nghe kể đại khái về lễ "Lục Tuần" của bà Từ Hi Thái Hậu, bà cụ có nhơ xin thuật lại để được biết tường tận hơn. Kính cẩn cảm ơn.
+ Đó là lễ "Vạn Thọ Đại Điển" được xem là cựrc kỳ quan trọng. Lễ này được tổ chức vào năm Quang Tự thứ 20 - năm này Từ Hi Thái Hậu tròn 60 tuổi. Triều đình đã dành thời gian trước hai năm mới hoàn tất một cách chu đáo. Theo sử chép:" Vua Quang Tự dâng lễ phẩm lên Từ Hi Thái Hậu ntrong lễ chúc thọ này gồm có hơn trâm vật loại như: có hai hộp ngọc "như ý", mỗi hộp 9 cây, ngoài ra còn vàng bạc châu báu trị giá khoảng 29 vạn lạng, tổng cộng cả giá trị các phẩm vật khác gần cả 60 vạn lạng, Đó là chưa kể tất cả các quan phủ địa phương lấy lòng Thái Hậu cũng đua nhau đi mừng vàng ngọc còn cả "cửu cửu như ý". Chỉ kể số cây ngọc như ấy trong lễ thọ này đã đạt đến con số 1.000 cây. Trong số người này, có người dâng cống chín hộp gồm có 81 cây. Đây là lễ vật lớn nhất lúc bấy giờ.
Đỗ Dình Viên Mãn: Humble Houston TX. Tôi biết "Nhẫn Pháp" là phép nhẫn nhưng "Thất hiền vị" gồm những gì bà cụ nhớ không?
+ Thất hiền vị gồm: 1.Ngũ đình tâm quán 2.Biệt tướng niệm trụ 3.Tổng tướng niệm trụ 4. Noãn pháp 5. Đỉnh pháp 6. Nhẫn pháp 7. Thế đệ nhất pháp.
Cụ Đồ Vũ Ninh Orange County: Thú thiệt với bà chị, tôi vốn là một Đồ Nho thích nghiên cứu về Dịch học, song càng đi sâu vào Dịch lý tôi càng cảm thấyh không hiểu gì được hết. Được các ban hữu nói nhiều về bà chị, tôi xin mạo muội nhờ bà cụ giúp cho tôi rõ về khoa Tử Dịch Học. Vậy Tử Dịch Học là gì? Do ai lập ra?
+ Tôi không được rõ lắm về khoa Tử Dịch Học, tuy nhiên có thể nói đại khái như sau:
"Tử Dịch Học do Uẩn Long chân nhân lập ra vào đời Nam Tống - thế kỷ thứ 12, lất bát quái (Hậu thiên) làm cung di hành của 96 sao. Trong tám phần liên quan đến mạng số chung quanh đời người cũng còn được gọi là 8 cung. Ví như:
a/ Bát Quái: Kiền, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài (an cố định không thay đổi.) Bát Cung:Mệnh, Hoạt, Tướng, Ý Tâym, Khí, Linh, Thần, thay đổi tùy theo ngày btháng, và quẻ gieo được khi luận bản số.
Tử dịch học là một học vôt cùng ảo bí thần diệu, đòi hỏi người tham luận phải có kiến thức cao đẳng về Dịch số, cũng như một tư giới cùng kiến văn uyên bác mới có thể hiểu được. Do đó nó chỉ còn truyền lại cho các quan coi về bốc phệ, để giải đoán hung, kiết, suy, vinh, vong, hưng cho gia đình hoàng tộc và các vị hoàng đế. (Tử dịch ít thấy xuất hiện trong đám dân gian).
Cháu Lê Viết Điền Reseda: Bà cụ có nhớ mấy vần ca dao nói về lễ hội không? Nếu có xin bà cụ nhắc nhỉ lại cho. Thành kỉnh cám ơn.
+ Trong bài nói về Một Số Lễ Hội Mùa Xuân Qua Mấy vần Ca Dao của Đào Đức Nhuận có mấy vần như sau:
1. Tháng Giêng ăn Tết ở nhà
Tháng Hai cờ bạc, tháng Ba hội hè.
2. Lễ Phật quanh năm
Không bằng hội Rằm tháng Giêng.
3. Ai là con cháu Rồng Tiên
Tháng Hai lễ hội Trường Yên thì về...
4. Tình cờ ta lại gặp ta
Vui bằng mở hội tháng Ba đền Sìng.
5. Mồng bốn là hội Kéo co,
Mồng Năm hội Ó chẳng cho nhau về.
Mồng sáu đi hội Bồ Đề,
Mồng bảy trở về đi hội Đống Cao...
Còn nhiều, có dịp sẽ viết tiếp gửi cháu.
Mộng Tuyền DC 94
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:39:22 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN MÙA XUÂN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Ông Hồ Hửu Cát Brookhurst Westminster Orange County. CA: Tôi thường nghe hoặc đọc được từ "Trừ Tịch" nhưng không biết cái nghĩa của từ ngữ này. Bà cụ biết xin chỉ giáo cho. Năm mới chúc bà khang an, trường thọ.
* Đêm Ba Mươi ta thường quen gọi là Ba Mươi Tết. Đêm này sau khi cúng vào khêm - rước thần thánh, ông bà tổ tiên và đón đợi Giao Thừa. Thời gian này gọi là đêm Trừ Tịch, còn gọi là “Đại Nguyệt Dạ". Ngày cuối năm gọi là Tuế Trừ. Tục bắt trẻ em thức đợi đón Giao Thừa để chào mừng Năm Mới và vui mừng tiếp nhận thêm một tuổi. Tập quán này gọi là "Thủ Tuế Bất Thụy."
Bà Vương Hường Thị Lainie St. West Covina, CA. Bà cụ giải thích hộ về ngày Nguyên Đán. Xin mừng tuổi bà cụ và cầu xin bà cụ sống lâu trăm tuổi.
* Ngày Mồng Một tháng Giêng gọi là Nguyên Đán còn gọi là Nguyên nhật. Đây là ngày đầu năm được xem là quan trọng nhất, còn được gọi là "Quá Niên". Ngày nay gọi là Xuân Tiết.
Ông Trần Việt (qua Quỳnh Liên Lawn Berry Ter. Silver Spring MD. ) Bà cụ có nhớ bài Mùa Xuân trong Thơ Tứ Thời của Ngô Chi Lan không ? Nếu có xin bà cụ nhắc hộ.
* Bài thơ đó như sau:
Khí trời ấm áp đượm hơi sương
Thấp thoáng lâu đài vẻ ác vàng
Rèm liễu líu lo oanh hót gió,
Giậu hoa phấp phới bướm châm hương.
Ông Đỗ Phú Quí 49th st. Philadelphia (Qua Chu Center Rd. Drexel Hill.PA. Bà cụ có nhớ về tục Thiếp Môn Thần không ? Xin bà cụ chỉ giáo cho.
* Thiếp môn thần có nghĩa là Thần giữ cửa. Nguyên là trước thời Tần trong các vị thần được thờ có thần giữ cửa. Có điều lúc bấy giờ vị thần giữ cửa chưa có tên tuổi của vị thần này. Mãi đến nhà Hán mới có tên tuổi nhất định. Nguyên do là đời nhà Hán có một người vẽ hình dũng sĩ cổ đại có tên Thành Khánh. Cũng có người lại vẽ Kinh Kha là một dũng sĩ hành thích Tần Thủy Hoàng. Hai vị thần có tên tuổi này được dán ngoài cửa trước mặt nhà. Kịp đến Nam Bắc triều người ta lại thay bằng hình Thần Dư, Ức Lỗi. Qua đời Đường thay bằng thần Tần Thúc Bảo, Uât Trì Cung. Lại đến thời Ngũ Đại người ta lại mang Chung Quì vào hàng môn thần. Sau này, thời cận đại, có nhiều người dán hình ba ông sao: Phúc, Lộc, Thọ hoặc Bồ Tát Thần Tài... Tất cả những vị thần ghi bên trên hoặc để giữ cửa tống khứ ác chướng tà ma đón rước bằng an thịnh vương.
Ông Vũ Viết San Jose: Tại sao người Trung Hoa coi mình như trung tâm vũ trụ?
* Từ thời thượng cổ người Trung Hoa đã có quan niệm như vậy rồi. Lý do nước Tàu nằm ở phía nam của nước Yên vì nước Yên ở về phía bắc và nằm ở phía bắc nước Việt vì nước Việt ở phía nam. Thật ra, bất cứ quốc gia nào cũng có thể coi mình như là trung tâm, như Tư Mã Bưu ở thế kỷ thứ lll đã từng lý giải: “Thiên hạ thì vô cùng, và vì cái vô cùng đó mà trung tâm có thể ở bất kỳ nơi nào, cũng như ta vẽ hình vòng tròn thì bất cứ điểm nào trên vòng tròn đó cũng xem như là điểm khởi đầu cả.
Ông Hoàng Hữu Triết Humble TX. Tôi còn nhớ trong Kinh thi có bài: "Kích Nhưỡng Ca" như sau:
Nhật xuất nhi tác
Nhật nhập nhi tức
Tạc tỉnh nhi ẩm
Canh điền nhi thực
Đế lực ư ngã
Hà hữu tai.
Đây có phải là ca dao của người Trung Hoa không?
* Đúng. Đây là câu ca dao đầu tiên của người Trung Hoa. Bài này của người thời Đế Nghiêu làm ra. Tuy nhiên về tính cách nguyên thủy của nó còn làm cho người ta hoài nghi vì có nhiều chữ mà thời Đế Nghiêu chưa có ai biết dùng đến như "nhi tác, nhi tức hay Hà hữu tai... Vì vậy mà các nhà nghiên cứu về văn học chưa xác quyết được. Có người bàn rằng: "Nếu nó không phải là câu ca dao thì có thể người sau thêm bớt vào, do vậy nó cũng là câu giả thác của hậu nhân vậy.”
Nghĩa của bài này như sau: "Mặt trời mọc thì làm việc. Mặt trời lặn thì nghỉ. Đào lấy giếng mà uống, cày lấy ruộng mà ăn. Sức vua giúp ta thì không hề có.”
Cụ Hà Túc Đạo Westmister Orang County: Tết năm "Con Rắn" tôi có đến nhà một cụ thuộc hàng túc nho trước là mùng tuổi Năm Mới sau là để cùng nhau đàm đạo, thú thật với bà cụ, chúng tôi mỗi năm chỉ có một dịp thăm nhau nhằm ngày tết nhứt. Trong câu chuyện nhàn đàm ông cụ túc nho họ Hàn hỏi tôi về các câu: a/ Ngựa Có Trứng. b/Ngựa Vàng Trâu Đen Là Ba Con và c/ Con Ngựa Bồ Côi Chưa Từng Có Mẹ xuất xứ từ dâu? Tôi không thể trả lời về câu hỏi này thì cũng vừa lúc khách đến Chúc Tết lại kéo đến, nên đợi đành đến đầu năm Con Ngựa đến thăm sẽ nhờ cụ Hàn giải thích hộ. Nhưng tiếc thay năm Nhâm Ngọ này thì nhà túc nho họ Hàn đã vân du tiên cảnh, nên phải nhờ bà cụ (nếu biết) xin giải hộ cho. Kính cẩn cảm ơn bà cụ nhiều.
* Đó là những câu trong 21 luận đề vể tư tưởng của Công Tôn Long. Như câu thứ 5 nói về luận đề "Con Ngựa Có Trứng. Câu thứ 18 nói về luận đề "Con Ngựa Vàng Trâu Đen Là Ba Con" và câu 20 chỉ về luận đề Con Ngựa Bồ Côi Chưa Từng Có Mẹ... Đây là các luận đề có tính triết lý của Công Tôn Long chỉ về tính tương đối. Ví như nói về "Con Ngựa Bồ Côi" nghĩa chính của nó là con ngựa không có mẹ nhưng mà khi con ngựa có mẹ thì chẳng thể gọi nó là mồ côi được, mà gọi là con ngựa, con ngựa đực, con ngựa cái, con ngựa kim, con ngựa ô...
Ông Hồ Văn Đồng Virginia: Tôi thường nghe người ta thường nói: "Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy". Vậy ý của câu này là sao?
* "Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy" có nghĩa: Một lời đã phóng ra thì dù bốn ngựa cũng không thể nào đuổi bắt theo kịp." Câu này thánh nhân muốn răn bảo ta, trước khi muốn nói ra điều gì hãy đắn đo trước, để khỏi phải ân hận sau này.
Ông Du Vĩnh Sanh Monterey Park: Thế nào là tính tự nhiên của Đạo? Bà cụ biết không?
* Nó là tính khách quan. Đó là tự nhiên của Đạo vốn được hiểu như vậy. Nó thật mộc mạc, thật thuần phác, nó không bị nhào nặn. Nó sinh ra vạn vật nhưng không kể công, không dục vọng mà cũng chẳng chú tăm vào một mục đích nữa. Nó vẫn thản nhiên lạnh lùng như không hề biết chung quanh mình như thế nào, nó cũng không hề tiếc rẻ, nó cũng chẳng hề uất hận... thậm chí đền thản nhiên lạnh lùng"không vì kẻ rét mướt mà dẹp bỏ đi mùa đông". "Đạo" sinh ra muôn vật trong trời đất, nhưng không bao giờ cho đ là vật của chính mình sinh ra. Nó vô tình đến nỗi "coi vạn vật chẳng khác nào loài chó rơm" như trong Đạo Đức Kinh đã viết. Thế cho nên người có "Đạo" học theo tính khách quan, không can dự, cứ tự nhiên sinh sinh, hóa hóa... Lão Tử đã nói: "Trời được một mà trong.Đất được một mà yên. Thần được một mà linh." Ấy đó là tính tự nhiên của Đạo.
Mộng Tuyền DC 92
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:45:30 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Ông Hà Trung Chánh San Jose: 1. Bà cụ có nhớ các bài dịch của cụ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu về Thiên hành lộ tam chương không? Nếu được bà cụ nhắc hộ luôn cho bản chính. 2. Có lần tôi được nghe qua bài Tư Quy của Vương Bột, bà cụ có nhớ bài này chăng? Xin nhắc nhở lại, xin vô vàn cảm tạ.
+ Thiên Hành Lộ tam chương có mấy bài nguyên văn và do Tản Đà dịch lại như sau:
Yếm ấp hành lộ,
Khỉ bất túc dạ?
Vị hành đa lộ.
Đừng đi giọt móc đầm đìa
Rằng đường nhiều móc sớm khuya ngại ngùng.
Hay bài:
Thùy vị tước vô giốc.
Hà dĩ xuyên ngã ốc?
Thùy vị nhữ vô cốc?
Hà dĩ tốc ngã ngục?
Thất gia bất túc?
Con sẻ kia,
Ai bảo sừng không có?
Mái nhà đó,
Lấy gì làm thủng ra?
Mình với ta,
Ai bảo không cheo cưới.
Gì làm cớ,
Đem ta đến tụng đình...
Cưới cheo chẳng đủ cho mình lấy ta. v.v..
2. Vương Bột là một nhà thơ được xếp hàng đầu thời Sơ Đường. bài "Tư Quy" mà ông hỏi đó như sau:
"Trường giang bi dĩ trệ,
Vạn lý niệm tương quy.
Huống phục cao phong vân,
Sơn sơn hoàng diệp phi."
Bài thơ này nói lên nỗi buồn chất chứa trên dòng Trường giang. Từ nơi xa xôi muôn dặm mong muốn sao được trở về quê chốn cũ. Mỗi khi gió thổi trên cao, có cả lá vàng bay lướt ngang qua đồi núi chập chùng...
Đông Y Sĩ Linh Tòng Orange County CA. Nghe nói Trung Hoa có lắm truyền thuyết về sâm, bà cụ có nhớ xin nhắc lại hộ. Xin thành thật cám ơn.
+ Trung Hoa là nước cũng nổi tiếng về các loại Sâm có số tuổi đến cả ngàn năm chỉ đứng sau Đại Hàn. Sau khi hấp thụ đủ linh khí của trời đất, loài sâm này phát sinh ra những linh khiếu rất mầu nhiệm để từ đó trở thành hình người như huyền thoại trong các truyện cổ truyền tụng trong nhân gian. Thời gian mấy mươi năm gần đây một nông dân đã tìm được cặp "linh chi thảo nhân" giống y hệt như hình dạng của con người, đầy đủ mặt mày, chân tay... và được xác nhận có niên kỷ bản sinh hơn cả ngàn năm - do đó cặp linh chi thảo nhân này có một dược tính trị liệu ngang với gí trị nhân sâm ngàn năm. Linh chi thảo nhân tức là loại nấm lâu năm biến thành thân mộc. Ngoài ra, Trung Hoa cũng có rất nhiều loại sâm thiên nhiên và chế biến đại lược như sau:
1. Nhân Sâm Bách Chi : Sâm này đầy nhánh rễ chằng chịt, trị các chứng bệnh về thận và gan. NGười ta dùng để nấu canh hoặc nấu lấy nước uống.
2. Sâm Hồng Tu: Hình dạng nhỏ như rau, màu nâu đỏ, vị đắng được bó lại để bán dùng hầm với gà ác chữa được các bệnh hen suyễn.
3. Sâm Y Long : Loại sâm này còn có tên là Y Truật, màu vàng có vằn đen, củ giống cà rốt. Đây là loại sâm giây giống Hà Thủ Ô, sâm này có lõi, chỉ nên dùng phần bì ngoài phơi khô dùng hợp chung với các phương dược khác.
4. Điền Sâm cũng có tên Huyền Sâm. Sâm này màu đen, vị nhạt dùng để nấu canh hoặc phương dược.
5. Sâm Bạch Trụ: Khác với loại sâm thường thấy. Thạch Trụ Sâm có mùi vị rất nhạt, không có ý vị, hơi tanh, nhạt nhẽo, tuy rằng hình thể có nhiều phần giống sâm Cao Ly, dược tính duy nhất là để giúp ăn ngon. Chữa các bệnh miệng đắng, bao tử yếu v.v...
Trong Tam Tự Kinh có ghi câu chuyện một ông Viên Ngoại keo kiệt... bà cụ có nhớ tích này không?
+ Câu chuyện này một đoạn nói về sự giáo dục như sau: "PHÀM HUẤN MÔNG, TU GIẢNG CỨU, TƯỜNG HUẤN HỖ, MINH CÚ ĐỘC. VI HỌC GIẢ, TẤT HỮU SƠ, TIỂU HỌC CHUNG, CHÍ TỨ THƯ. Đoạn này có nghĩa: Tất cả mọi việc giảng dạy cho trẻ con mới học, cần phải giảng giải nghĩa lý, khảo cứu sự việc thật cẩn thận, không thể dạy qua loa đại khái được. Trước tiên phải dạy chúng hiểu ý nghĩa của từng chữ từng câu. Sau dạy chúng đọc từng câu từng đoạn cho rõ ràng. Khi đi học phải có thứ tự từ thấp đến cao, từ cái bắt đầu sơ cấp đến cao cấp. Trước tiên phải học hết tiểu học rồi mới học đến Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh tử bốn cuốn sách đó...
Câu chuyện ông muốn nhắc đến như sau:" Ngày xưa, đời nhà Đường có một ông Viên ngoại (ông chủ nhà). Một hôm có mướn một người Quản gia mới, vì ông Viên ngoại này có tính bần tiện, keo kiệt, không muốn cho người ăn kẻ ở được ăn uống đầy đủ, kể cà người Quản gia. KHi mướn người tân Quản gia, ông Viên ngoại bèn làm một tờ khế ước có điều kiện hạn chế về việc ăn uống. Khế ước ấy viết như sau: "Không gà vịt cũng được, không cá thịt cũng được. Rau xanh tuyệt đối không được thiếu, Rượu cũng không được." Nhưng khi lập tờ khế ước hồi đó, trong câu văn không có dấu chấm phẩy để phân chia rõ ràng từng câu từng đoạn. Sau một năm, người Quản gia mới này xin thôi việc về quê, và xin ông Viên ngoại bồi thường tiền ăn trong một năm. Ông Viên ngoại không chịu, bèn đưa lên quan xử. Khi lên tới quan, ông Viên ngoại trình tờ khế ước lên, ông quan bèn người Quản gia lên đọc lại tờ khế đã kỳ kết. Người Quản gia này bèn dõng dạc đọc: "Không gà, Vịt cũng được. Không Cá, Thịt cũng được. Rau Xanh tuyệt đối không được, thiếu Rượu cũng không được." Ông Quan nghe đọc vậy đành phán bảo: "Ông Viên ngoại phải bồi thường toàn bộ tiền ăn một năm cho người Quản gia mới này."
Cháu Hồ Văn Kim Philadelphia (qua Võ Thượng Cung): Bà cụ có nhớ các đặc điểm về cuộc sống cũng như các đặc sản của từng địa phương ở một số tỉnh Miền Trung được ghi nhận trong các vần ca dao không? Xin cụ chỉ giáo hộ cho.
+ Nhà sưu khảo về địa lý, cao dao Đào Đức Nhuận có loạt bài ghi nhận về điều mà cháu hỏi như sau:
"Bồng em đi dạo vườn cà
Trái non bỏ mắm, trái già làm dưa
Làm dưa ba bữa dưa chua
Để dành ăn cấy, khỏi mua tốn tiền."
Hay:
Củ lang Đồng Ngỗ
Đỗ phụng Đồng Dinh
Chồng bòn, thiếp mót để chung một gùi.
Nói về việc sản xuất trong hoàn cảnh lạc hậu:
Ai về Cà Đó
Chịu khó xách ki
Tay cầm đôi đũa
Chân đi lòm khòm.
Nói về đặc sản:
"Nem chả Hòa Vang
Bánh tổ Hội An
Khoai lang Trà Kiệu
Thơm rượu Tam Kỳ.
Còn ở Khánh Hòa:
Yến sào Hòn Nội
Vịt lội Ninh Hòa
Tôm hùm Bình Kha
Nai khô Diên Khánh.
Còn Quảng Ngãi thì:
Chim mía Xuân Phổ
Cá bống sông Trà
Kẹo gương Thu Xà
Mạch nha Thi Phổ.
hay câu:
Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ món cá bống sông Trà kho tiêu.
Cũng như nhớ cái mùi kho cá thi vị xứ ở xứ sở: "Có nàng lai khách mắt buồn mơ"
Anh đi anh nhớ quê nhà Nhớ mùi cá bống mặn mà hương tiêu.
Tuy vậy, tất cả đều nhường bước cho "Tô Don" Vạn Tượng:
Cô gái lòng son Không bằng tô don Vạn Tượng.
Hay câu:
Có nghèo có khó cũng lấy con vợ bán don Lỡ khi nó chết cũng còn cặp ui. v.v..
Còn rất nhiều nhưng khuôn khổ trang báo có hạn. Xin hẹn cháu dịp khác.
Cháu Vũ Vọng UCLA (qua Văn Đông Wanut Grove: Cháu muốn biết từ "Bích Sắt" và Bích Hổ Phẩn" là gì? Bà cụ chỉ giáo cho. Kính cẩn cám ơn bà cụ.
+ 1. Bích Sắt là con rệp, con bọ chét cũng cùng một nghĩa.
2. Bích Hổ Phẩn là phân của con thằn lằn.
Cháu Vũ Phương Uyển Maryland (quan Quỳnh Liên Lawnberry Ter): Bài thơ "Lòng Tôi Ai Chẽ Những Tàn Tro Bay" cháu rất thích, nhưng không nhớ được trọn cả bài. Bài thơ này có phải của nhà thơ Ngô Tịnh Yên không?
+ Đúng là của nhà thơ Ngô Tịnh Yên. Bài đó như sau:
Gió đem sợt tóc chẻ hai Mưa chẻ những giọt vắn dài vấn vương Tình yêu chẻ những vết thương Biệt ly chẻ những con đường lá bay Hoa hồng chẻ mấy nhánh gai Đường ngôi chẻ một, bàn tay chẻ mười Con sông chẻ sóng bồi hồi Nỗi buồn chẻ nhỏ, nỗi vui chẻ ngàn Củi ngo còn dóm bếp than Lòng tôi ai chẻ những tàn tro bay?
Mộng Tuyền DC 92
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:50:21 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Vũ Hoàng Hà Brookhurst Westmineter Orange County (CA). Tôi muốn được biết thêm về tác phẩm Tây Sương Ký. Tác giả của tác phẩm này lai ai? Xin bà cụ vui lòng nhắc hộ. Thành lính cảm ơn.
* Tác phẩm Tây Sương Ký, đúng ra là “Thôi Oanh Oanh Đãi Nguyệt Tây Sương Ký" của Vương Thục Phủ. Tác giả còn có tên Đức Tín, quán người Đại Đô. Ông đã soạn đến 14 vở tạp kịch, nhưng chỉ có ba vở còn nguyên vẹn: 1/ Thôi Oanh Oanh Đãi Nguyệt Tây Sương Ký, Lã Mông Chính Phong Tuyết Phá Dao Ký và Tứ Thừa Tướng Ca Vũ Lê Xuân Đường. Còn 11 vở kia hoặc thất lạc hoặc mất đi từng đoạn. Trong ba vở kịch còn lại, chỉ có vở Tây Sương Ký là tác phẩm được xem là thành công nhất.
Cụ Trần Trọng Nghĩa Sherman Way Van Nuys CA. Bà cụ giúp giải hộ nghĩa của từng chữ trong một số câu nhỏ trong Tam Tự Kinh như sau: "Hữu Cổ Văn. Đại Tiểu Triện. Lệ Thảo Kế. Bất Khả Loạn. Nhược Quảng Học. Cụ Kỳ Phiền. Đản Lược Thuyết. Năng Tri Nguyên."
CỔ VĂN: loại chữ cổ. TRIỆN: một loại chữ cổ là Giáp Cốt Văn và Kim Văn. Giáp Cốt Văn là chữ khắc trên xương bò hay mu rùa. Kim Văn là loại chữ khắc trên kim loại. TRIỆN : một loại chữ cổ sau Giáp Cốt Văn và Kim Văn. LỆ : một loại chữ sau loại Triện, gần với chữ bây giờ dễ đọc. THẢO: một kiểu chữ viết nhanh, nhìn rối như cỏ nên gọi là Thảo.
QUẢNG : rộng rãi, nhiều mặt.
CỤ : sợ rằng, sợ hãi, e rằng...
PHIỀN : phiền phức, phức tạp, quá nhiều...
LƯỢC : giản lược, khái quát, đại khái.
NGUYÊN : căn nguyên, nguyên do, căn bản.
Dịch nghĩa : Chữ chủ yếu gồm có Cổ văn là loại chữ cổ, như Giáp Cốt Văn và Kim Văn, rồi đến Đại Triện, Tiểu Triện, Lệ Thư và Thảo Thư là loại chữ viết nhanh . Khi học cần phải phân biệt rõ ràng không nên rối loạn.
Kiến thức trên đời rất rộng, nếu ta cái gì cũng học cho kỹ, e rằng quá nhiều, học không nổi. Nếu như ta học một cách khái quát, thì cũng dễ học và biết được nguồn gốc của sự việc.
Kể chuyện: Thời cổ xưa, khi chưa có chữ viết, con người ta muốn nhớ một sự việc gì, hay đến những con số, thường hay dùng cách buộc nút trên dây để dễ nhớ. Nhưng buộc nút trên dây qua một thời gian sau thì cũng quên đi và lầm lẫn. Do đó con người kết hợp việc thắt nút trên dây với việc vẽ hình trên vách các hang đá và dần dần phát trển đến thồi kỳ Hoàng đế, có quan ghi sử sách tên là Thương Khiệt thấy việc thắt nút và vẽ hình mà thấy nhiều sự việc giống nhau nên chỉ cần vẽ một hình tượng trưng như mặt trời, mặt trăng, chim thú v.v...cùng loại có hình tượng giống nhau...Do linh cảm đó ông Thương Khiệt đã vẽ theo các hình đó và sáng chế ra loại chữ cổ đầu tiên, nên chữ Trung Hoa là một loại chữ tượng hình. Theo truyền thuyết thì khi Thương Khiệt sáng lập ra chữ đầu tiên trên trời rơi xuống rất nhiều gạo và các ma quỉ ban đêm thì khóc la ầm ĩ. Con người đầu tiên dùng đá nhọn cứng khắc chữ lên vách đá, xương bò ha mu ru2a. Sau khi phát minh ra kim loại như đồng và sắt mới có dao khắc trên những miếng tre và gỗ mỏng và xâu lại thành từng tập gọi là Sách.
Đến thời kỳ Chiến Quốc, nước Tần có một tướng quân tên là Mông Điềm, khi đi trấn ải phía Bắc để đánh với Hung nô. Tướng quân đã thấy các chim nhạn đậu bãi sa mạc và ngậm các cây cỏ khô rồi để lại trên bãi sa mạc các dấu vết. Tướng quân mới nẩy ra ý định là lấy các cây cỏ hay ống sậy khô để chấm vào nước màu đen viết lên da hay lục, từ đó sáng chế ra cây bút. Chính cây bút đầu tiên ra đời này về sau tiến triển thàng cây bút lông ngày nay vậy.
Cụ Trịnh Đạo Nhơn, San Jose: Trong Kinh Dịch, tôi nhớ hai Trạch, đó là : TRẠCH SƠN HÀM và TRẠCH LÔI TÙY, bà cụ có nhớ hai Trạch này là gì không? Nếu nhớ xin nhắc nhở hộ. Trân trọng.
* TRẠCH SƠN HÀM do Quẻ Đoài (đầm bùn) và quẻ Cấn (núi) nhập chung gọi tắt là quẻ Hàm. Hàm có nghĩa là: Giao cảm hay cảm. Ví như trời đất cảm mà muôn vật hóa sinh. Đấng thánh nhân cảm lòng người mà muôn việc hòa bình. Con trai và con gái khi đã cảm nhau thì dễ bề đưa đến chuyện hôn nhân chồng vợ. Vì lúc ấy đã thông cảm hiểu biết nhau...
* TRẠCH LÔI TÙY do quẻ Đoài (bùn lầy) và quẻ Chấn (sấm sét) nhập chung gọi tắt là quẻ Tùy. Tùy có nghĩa là theo, phục tùng, qui thuận... Trên cõi đời này thường con người tuân theo lẽ phải. Tromg một quốc gia toàn dân tuân theo luật pháp thì quốc gia ấy sẽ trật tự.
Cụ Vương Đình (qua Liên Diệp) Philadelphia: Bà cị có biết Mật Thanh Thần Chú là nghĩa làm sao không?
* Là thần chú chỉ nghĩ đến mà không cần phải đọc thành tiếng hay đọc trong miệng. Trước kia vị tổ thứ 27 đã mật truyền cho Tổ Đạt Ma đời thứ 28 để qua Trung Hoa truyền đạo. Mật thanh hay Mật tâm thần chú có một lực mầu phi thường. Do đó nó đòi hỏi hành giả phải tâm thanh quang lực mới có thể xử dụng được. Thí dụ một câu mật thanh thần chú:”Úm Ra.Mara Đạtra Masng Ta A Bara.” Theo truyền thuyết thì đây là một chú tối cổ và tối linh được tìm thấy trên xương sườn thứ 5 của một đạt ma sau khi Ngài tạ thế 1000 năm. Vị đạt ma này tên là Tcheukiên có biệt hiệu là Trà Minh...ở vào thời Tam Quốc bên Tàu.
Cụ Lê Văn Nam Monterey Park: Câu thành ngữ "Cảm Đái Nhị Thiên" nó có nghĩa gì và xuất xứ từ đâu? Xin cám ơn cụ rất nhiều.
* “Cảm Đái Nhị Thiên” do điển:”Đời nhà Hán có người tên Tô Chương, làm đến chức Thích Sử - chức này có nhiệm vụ giám sát các việc làm của các quan Châu. Ông Tô Chương có người bạn cũ làm chức Thái Thú ở quận Thanh Hà, quận này lại thuộc quyền giám sát của ông. Khi ra ngoài điều tra biết được quan Thái Thú là người bạn chí thân từ lâu của mình đang cai trị thuộc hàng tham nhũng, thu thập có đầy đủ bằng chứng. Quan Thái Thú này hay tin bèn tìm cách đãi đằng mua chuộc bạn mình. Ông Tô Chương vẫn thản nhiên đến tham dự, hai bên chuyện vãn rất thân tình. Khi quá nửa tuần rượu, quan Thái Thú bèn nói với Tô Chương: "Người ta chỉ có một ông trời, mà tôi thì những cả hai". Ông Tô Chương nghe thế bèn cả cười, nâng chung rượu lên uống cạn chén, đoạn đáp lại: “Tiệc hôm nay cùng nhau uống rượu là chuyện riêng tư, còn ngày mai kia đăng đàn là chuyện của pháp luật. Thánh nhân từng nói "công pháp bất vị thân". Ngày hôm sau, Tô Chương đăng đàn, hạ lệnh tống giam bạn mình về tội tham nhũng.
Cháu Hoàng Văn Hà Nhân Reseda: Bà cụ có nhớ bài ca dao "Súc Sắc Súc Sẻ" không?
* Nhà nào nhà nấy, còn đèn còn lửa
Mở cửa cho anh em chúng tôi vào.
Bước lên giường cao, thấy đôi rồng ấp;
Bước xuống giường thấp, thấy đôi rồng chầu;
Bước ra đằng sau, thấy nhà ngói lợp.
Voi ông còn buộc, ngựa ông còn cầm,
Ông sống một trăm, thêm năm tuổi lẻ.
Vợ ông sinh đẻ, những con tốt lành,
Những con như tranh, những con như rối.
Mộng Tuyền DC90
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:51:35 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Vũ Hoàng Hà Brookhurst Westmineter Orange County (CA). Tôi muốn được biết thêm về tác phẩm Tây Sương Ký. Tác giả của tác phẩm này lai ai? Xin bà cụ vui lòng nhắc hộ. Thành lính cảm ơn.
* Tác phẩm Tây Sương Ký, đúng ra là “Thôi Oanh Oanh Đãi Nguyệt Tây Sương Ký" của Vương Thục Phủ. Tác giả còn có tên Đức Tín, quán người Đại Đô. Ông đã soạn đến 14 vở tạp kịch, nhưng chỉ có ba vở còn nguyên vẹn: 1/ Thôi Oanh Oanh Đãi Nguyệt Tây Sương Ký, Lã Mông Chính Phong Tuyết Phá Dao Ký và Tứ Thừa Tướng Ca Vũ Lê Xuân Đường. Còn 11 vở kia hoặc thất lạc hoặc mất đi từng đoạn. Trong ba vở kịch còn lại, chỉ có vở Tây Sương Ký là tác phẩm được xem là thành công nhất.
Cụ Trần Trọng Nghĩa Sherman Way Van Nuys CA. Bà cụ giúp giải hộ nghĩa của từng chữ trong một số câu nhỏ trong Tam Tự Kinh như sau: "Hữu Cổ Văn. Đại Tiểu Triện. Lệ Thảo Kế. Bất Khả Loạn. Nhược Quảng Học. Cụ Kỳ Phiền. Đản Lược Thuyết. Năng Tri Nguyên."
CỔ VĂN: loại chữ cổ. TRIỆN: một loại chữ cổ là Giáp Cốt Văn và Kim Văn. Giáp Cốt Văn là chữ khắc trên xương bò hay mu rùa. Kim Văn là loại chữ khắc trên kim loại. TRIỆN : một loại chữ cổ sau Giáp Cốt Văn và Kim Văn. LỆ : một loại chữ sau loại Triện, gần với chữ bây giờ dễ đọc. THẢO: một kiểu chữ viết nhanh, nhìn rối như cỏ nên gọi là Thảo.
QUẢNG : rộng rãi, nhiều mặt.
CỤ : sợ rằng, sợ hãi, e rằng...
PHIỀN : phiền phức, phức tạp, quá nhiều...
LƯỢC : giản lược, khái quát, đại khái.
NGUYÊN : căn nguyên, nguyên do, căn bản.
Dịch nghĩa : Chữ chủ yếu gồm có Cổ văn là loại chữ cổ, như Giáp Cốt Văn và Kim Văn, rồi đến Đại Triện, Tiểu Triện, Lệ Thư và Thảo Thư là loại chữ viết nhanh . Khi học cần phải phân biệt rõ ràng không nên rối loạn.
Kiến thức trên đời rất rộng, nếu ta cái gì cũng học cho kỹ, e rằng quá nhiều, học không nổi. Nếu như ta học một cách khái quát, thì cũng dễ học và biết được nguồn gốc của sự việc.
Kể chuyện: Thời cổ xưa, khi chưa có chữ viết, con người ta muốn nhớ một sự việc gì, hay đến những con số, thường hay dùng cách buộc nút trên dây để dễ nhớ. Nhưng buộc nút trên dây qua một thời gian sau thì cũng quên đi và lầm lẫn. Do đó con người kết hợp việc thắt nút trên dây với việc vẽ hình trên vách các hang đá và dần dần phát trển đến thồi kỳ Hoàng đế, có quan ghi sử sách tên là Thương Khiệt thấy việc thắt nút và vẽ hình mà thấy nhiều sự việc giống nhau nên chỉ cần vẽ một hình tượng trưng như mặt trời, mặt trăng, chim thú v.v...cùng loại có hình tượng giống nhau...Do linh cảm đó ông Thương Khiệt đã vẽ theo các hình đó và sáng chế ra loại chữ cổ đầu tiên, nên chữ Trung Hoa là một loại chữ tượng hình. Theo truyền thuyết thì khi Thương Khiệt sáng lập ra chữ đầu tiên trên trời rơi xuống rất nhiều gạo và các ma quỉ ban đêm thì khóc la ầm ĩ. Con người đầu tiên dùng đá nhọn cứng khắc chữ lên vách đá, xương bò ha mu ru2a. Sau khi phát minh ra kim loại như đồng và sắt mới có dao khắc trên những miếng tre và gỗ mỏng và xâu lại thành từng tập gọi là Sách.
Đến thời kỳ Chiến Quốc, nước Tần có một tướng quân tên là Mông Điềm, khi đi trấn ải phía Bắc để đánh với Hung nô. Tướng quân đã thấy các chim nhạn đậu bãi sa mạc và ngậm các cây cỏ khô rồi để lại trên bãi sa mạc các dấu vết. Tướng quân mới nẩy ra ý định là lấy các cây cỏ hay ống sậy khô để chấm vào nước màu đen viết lên da hay lục, từ đó sáng chế ra cây bút. Chính cây bút đầu tiên ra đời này về sau tiến triển thàng cây bút lông ngày nay vậy.
Cụ Trịnh Đạo Nhơn, San Jose: Trong Kinh Dịch, tôi nhớ hai Trạch, đó là : TRẠCH SƠN HÀM và TRẠCH LÔI TÙY, bà cụ có nhớ hai Trạch này là gì không? Nếu nhớ xin nhắc nhở hộ. Trân trọng.
* TRẠCH SƠN HÀM do Quẻ Đoài (đầm bùn) và quẻ Cấn (núi) nhập chung gọi tắt là quẻ Hàm. Hàm có nghĩa là: Giao cảm hay cảm. Ví như trời đất cảm mà muôn vật hóa sinh. Đấng thánh nhân cảm lòng người mà muôn việc hòa bình. Con trai và con gái khi đã cảm nhau thì dễ bề đưa đến chuyện hôn nhân chồng vợ. Vì lúc ấy đã thông cảm hiểu biết nhau...
* TRẠCH LÔI TÙY do quẻ Đoài (bùn lầy) và quẻ Chấn (sấm sét) nhập chung gọi tắt là quẻ Tùy. Tùy có nghĩa là theo, phục tùng, qui thuận... Trên cõi đời này thường con người tuân theo lẽ phải. Tromg một quốc gia toàn dân tuân theo luật pháp thì quốc gia ấy sẽ trật tự.
Cụ Vương Đình (qua Liên Diệp) Philadelphia: Bà cị có biết Mật Thanh Thần Chú là nghĩa làm sao không?
* Là thần chú chỉ nghĩ đến mà không cần phải đọc thành tiếng hay đọc trong miệng. Trước kia vị tổ thứ 27 đã mật truyền cho Tổ Đạt Ma đời thứ 28 để qua Trung Hoa truyền đạo. Mật thanh hay Mật tâm thần chú có một lực mầu phi thường. Do đó nó đòi hỏi hành giả phải tâm thanh quang lực mới có thể xử dụng được. Thí dụ một câu mật thanh thần chú:”Úm Ra.Mara Đạtra Masng Ta A Bara.” Theo truyền thuyết thì đây là một chú tối cổ và tối linh được tìm thấy trên xương sườn thứ 5 của một đạt ma sau khi Ngài tạ thế 1000 năm. Vị đạt ma này tên là Tcheukiên có biệt hiệu là Trà Minh...ở vào thời Tam Quốc bên Tàu.
Cụ Lê Văn Nam Monterey Park: Câu thành ngữ "Cảm Đái Nhị Thiên" nó có nghĩa gì và xuất xứ từ đâu? Xin cám ơn cụ rất nhiều.
* “Cảm Đái Nhị Thiên” do điển:”Đời nhà Hán có người tên Tô Chương, làm đến chức Thích Sử - chức này có nhiệm vụ giám sát các việc làm của các quan Châu. Ông Tô Chương có người bạn cũ làm chức Thái Thú ở quận Thanh Hà, quận này lại thuộc quyền giám sát của ông. Khi ra ngoài điều tra biết được quan Thái Thú là người bạn chí thân từ lâu của mình đang cai trị thuộc hàng tham nhũng, thu thập có đầy đủ bằng chứng. Quan Thái Thú này hay tin bèn tìm cách đãi đằng mua chuộc bạn mình. Ông Tô Chương vẫn thản nhiên đến tham dự, hai bên chuyện vãn rất thân tình. Khi quá nửa tuần rượu, quan Thái Thú bèn nói với Tô Chương: "Người ta chỉ có một ông trời, mà tôi thì những cả hai". Ông Tô Chương nghe thế bèn cả cười, nâng chung rượu lên uống cạn chén, đoạn đáp lại: “Tiệc hôm nay cùng nhau uống rượu là chuyện riêng tư, còn ngày mai kia đăng đàn là chuyện của pháp luật. Thánh nhân từng nói "công pháp bất vị thân". Ngày hôm sau, Tô Chương đăng đàn, hạ lệnh tống giam bạn mình về tội tham nhũng.
Cháu Hoàng Văn Hà Nhân Reseda: Bà cụ có nhớ bài ca dao "Súc Sắc Súc Sẻ" không?
* Nhà nào nhà nấy, còn đèn còn lửa
Mở cửa cho anh em chúng tôi vào.
Bước lên giường cao, thấy đôi rồng ấp;
Bước xuống giường thấp, thấy đôi rồng chầu;
Bước ra đằng sau, thấy nhà ngói lợp.
Voi ông còn buộc, ngựa ông còn cầm,
Ông sống một trăm, thêm năm tuổi lẻ.
Vợ ông sinh đẻ, những con tốt lành,
Những con như tranh, những con như rối.
Mộng Tuyền DC 90
|
|