|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:56:46 GMT 9
Mộng Tuyền Nữ Sĩ Cụ Hà Hữu Chi Orange County (CA). Tôi được nghe nhiều người ca tụng công trình xây dựng Vạn Lý Trường Thanh, bà cụ có biết qua về sự tích xây dựng kỳ quan này không? nếu được xin bà cụ vui lòng trình bày cho chúng tôi rõ. Kính cẩn cám ơn bà cụ. * Vạn Lý Trường Thành xây lên cách nay 2500 năm, có chiều dài 5000 cây số tức lối 3000 dặm Anh. Bức trường thành này nối dài từ ải Gia Du thuộc tỉnh Cam Túc dẫn đến Liên Minh gấp ba lần ải Nam Quan đến mũi Cà Mau của VN ta. Vạn Lý Trường Thành do tần Thủy Hoàng xây lên sau khi chiếm cả khu vực sông Hoàng Hà. (Bức tường này nối dài với bức tương cũ của hai nước Yên, Triệu). Bức Vân Lý Trường Thành này không dừng tại đây mà nó vẫn được tiếp tục xây đến các triều Hán, Bắc Ngụy, Bắc Tề, Bắc Châu... Đầu đời nhà Minh lại được mở rộng thêm ra hoàn thành một bức trường thành vĩ đại. Các du khách ngày nay đến viến Trung Hoa đều đến chiêm ngưỡng kỳ quan lớn nhất thế giới. Các phi hành gia khi đặt chân lên mặt trăng nhìn xuống địa cầu họ chẳng nhìn thấy gì trên trái đất, ngoại trừ bức Vạn Lý Trường Thành. Cụ Vũ Đình Linh Humble TX. Bà cụ biết bốn chữ "Lương sĩ cù cù" là nghĩa gì không? 2. Hàn Tín xuất xứ ở đâu và cuối cuộc đời của Hàn Tín như thế nào? * Đó là bốn chữ trong Kinh Thi. Nó có nghĩa nói về tướng sĩ giỏi mạnh mẽ. 2. Hàn Tín là con cháu cua hàng quí tộc. Vì vậy người lúc bấy giờ gọi là Hàn vương tôn. Ông người đất Hoài Âm, danh tướng của vua Hán Cao Tổ. Khi xuất thân, Hàn Tín ra mắt Hạng Vũ nhưng Hạng Vũ không thu nhận bèn đi theo vua Hán và được phong làm tề vương, sau đổi làm Sở vương. Sau này, có kẻ tố cáo là Tín muốn tạo phản, vua Cao Tổ giả cách đến thăm chơi Vân Mộng bắt Tín nhưng rồi tha mạng sống, giáng xuống làm Hoài âm hầu. Nhưng về sau bị bà Lũ hậu tức vợ vua cao Tổ hạ lệnh giết chết. Bà Vương Bá Hạnh và cụ bà Huyền Tâm Canada: Những người sùng đạo tiên thường nói đến tên Đức Tùng. Vậy Đức Tùng đó là ai, bà cụ biết không?Lại nghe có tích nói về ba con chim xanh theo hầu thần thánh... Tôi tò mò muốn biết bà cụ giải thích luôn hộ. Cám ơn bà cụ vô cùng. * Đức Tùng đó là Xích Tùng Tử, tên của một vị tiên. Còn về chuyên ba con chim xanh, đó là thanh điểu. Ba con thanh điểu này thường theo hầu Tây vương mẫu. Trong bài thơ "Yến Mai Đạo Sĩ Sơn Phòng" của Mạnh Hạo Nhiên nói đến tên của Đúc Tùng và chuyên ba con thanh điểu, như sau: Lâm ngọa sầu xuân tận Khiên duy lãm vật hoa. Hốt phùng thanh điểu sử Yêu nhập Xích Tùng gia... (Lâm cư buồn nỗi xuân qua, Vén màn ngắm cảnh đậm đà trước hiên. Chim xanh chợt thấy đem tin, Mời vào nhà ở của tiên Xích tùng... Ông Nguyễn Duy Vĩ qua Thái Kỳ Philadelphia: Nghe nói khi bên Trung Hoa có tục tảo hôn, chú rể chỉ mới 8 tuổi, còn nàng dâu... thì vỏn vẹn 6 tuổi. Có không? * Có. Theo sách Khảo về lễ tục hôn tang đời Hán của Dương thụ Đạt, đến đời Hán, con trai mới 15, 16 tuổi lấy vợ, con gái 13, 14 tuổi bước xuống thuyền hoa... Ngay cả nước Việt nam ngày xa xưa cũng có tục đó, nên thường mang câu "Nữ Thập Tam, Nam Thập Lục" ra nói về khuôn phép này. Tuy nhiên, tuồi này cũng còn khả dĩ, điều khiến cho nhiều người ngạc nhiên là có cả trường hợp đứa con trai mới lên 8 tuổi đầu, còn con gái thì mới tròn... 6 tuổi đã làm lễ cưới nhau. Đứa con trai bé tí xíu đó là Hán Chiêu đế khi mới lên ngôi, tuổi vừa lên 8, đã lập con gái của Thượng Quan An lên làm làm hoàng hậu (tí hon) vừa tròn 6 tuổi... Cụ Hoàng Vũ Duy Westminster (CA) Ngày xưa, tôi có lần được thấy có nhà viết lên bốn chữ "Đẩu Bính Hồi Dần" rồi mang dán trước cửa nhà, là gì, xin bà cụ giải thích hộ. * "Đẩu Bính Hồi Dần" có nghĩa là chuôi sao Bắc Đẩu lại trở về phương vị Dần, tức biểu thị tháng Giêng lại về, có nghĩa lại bắt đầu trở lại năm mới. Cô Bùi Hằng Nga Mc.Laughling San Jose. Bà cụ cho biết có phải ăn canh chua giải nhiệt không? Nếu được xin bà cụ giải thích đặc tính của các món nấu đó. * "Canh Chua Giải Nhiệt" gồm các vật liệu như: A. 1/ thịt gà, thịt heo hoắc cá. 2/ Rau nấu canh, đậu bắp , khế me... 3/ Rau sống, hoa so đũa, bông điên điển, hoa thiên lý, giả đậu... hay rau muống chẻ, rau hoa chuối, ngó bông súng (cuống hoa). Tất cả đều có tính giải nhiệt. B. Cá diếc có vị ngọt, tính ấm, không độc. Có tính điều khí, hòa trung, giải nhiệt. Cà trạch cũng được. Cá này có vị ngọt, tính lành không độc, dùng dể giải say rượu và trị được bệnh đái đường. Hoặc cái lưỡi trâu hoặc cá thờn bơn (có thân hình dẹp lép)- đặc biệt giống cá này miệng méo lệch về một bên. Ăn vào bổ hư thêm khí lực dùng chữa bệnh rất tốt. Ông Đỗ Phú Trung Monterey Park (CA): Các loại nhạc cụ ngày xưa, mỗi loại phát ra một âm hưởng khác nhau. Bà cụ có biết về các âm hưởng đó không? * Tam Tự Kinh có đoạn nói về nhạc cụ như sau: "Bào Thổ Cách. Mộc Thạch Kim. Ty Chỉ Trúc. Nãi Bát Âm. Viết Bình Thượng. Viết Khứ Nhập. Thử Tứ Thanh. Nghi Điều Hiệp." Theo nghĩa từng chữ: BÀO: là một loại bầu. Một loại nhạc cụ bằng trúc tím còn gọi là Sanh. THỔ: loại nhạc cụ làm bằng đất sét nung. CÁCH: loại nhạc cụ làm bằng da bò. MỘC: Loại nhạc cụ bằng gỗ. THẠCH: loại nhạc cụ bằng đá, gọi là khách. KIM: loại nhạc cụ làm bằng kim loại. TY: loại nhạc ụ làm bằng tơ, như Tỳ Bà. TRÚC: loại nhạc cụ bằng trúc, nhu sáo, tiêu. TỨ THANH gồm: Bình, Thượng, Khứ, Nhập là bốn loại âm điệu. Dịch nghĩa: Tám loại âm thanh do tám loại nhạc cụ phát ra. Ví như tiếng nhạc cụ bằng trúc gọi là Bào, như tiếng các nhạc cụ làm bằng đất sét nung gọi là Thổ, như tiếng của loại nhạc cụ làm bằng da bò gọi là Cách, như tiếng của nhạc cụ bằng gỗ gọi là Mộc, như tiếng của nhạc cụ bằng đá gọi là Khánh hay Thạch. Như tiếng của loại nhạc cụ bằng Kim loại như chuông đồng gọi là Kim, như tiếng của loại nhạc cụ bằng tơ sợi như Tỳ Bà gọi là Ty. Như tiếng của loại nhạc cụ bằng ống tre gọi là Trúc. Còn cách phát âm của tiếng nói có bốn âm điệu là Bình, Thượng, Khứ, Nhập. Bốn âm điệu này cần phải điều hòa thì mới nghe được rõ ràng... Mộng Tuyền DC 90
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:57:46 GMT 9
KHOA HỌC VÀ Y KHOA
Hữu học sinh họ Vương biên soạn
1.- Aspirine giup trị bệnh tiểu đường:
Tại Đại Học Havard / Boston (Ykhoa) các nhà nghiên cứu cho thấy nếu dùng thuốc aspirine với liều lượng cao cho loại chuột mập phì, thì chúng sẽ xuống cân, đồng thời lại giảm bệnh tiểu đường. Báo Science (New York) cho lên trang nhất về công dụng thuốc Aspirine mà từ lâu khoa học chì nghỉ dùng cho bệnh đau nhức mà thôi.
Nhưng họ cho biết nếu dùng Aspirine với liều lương cao thì rất nguy hiểm về đường tiêu hóa, vì nó tạo nhiều chất chua trong bao tử. Chất này có thể làm cho ruột bị lỡ loét.
Khoa học biết bệnh tiểu đường có một loại enzyme gây ra bệnh này. Chất enzyme này gọi là IKK-Beta, nó sẻ cản trở tụy tạng sinh ra chất insuline. Nghĩa la chất insuline tiết từ tụy tạng (lá lách) sẽ bị enzyme này làm hư hoại trước khi đi vào châu thân. Nhưng enzyme này gặp chất lượng Aspirine từ thuốc ra thì sẽ bị đóng khung lại mà trôi theo hệ thống tiêu hóa của cơ thể.
Sau khi biết được loại trị được enzyme này do chất Aspirine thì khoa học đã đi đến một bước xa. Hy vọng những người bị bệnh tiểu đường nay mai sẽ có chất thuốc rất hữu hiệu mà trị bệnh này.
2.- Chocolat có lợi cho sức khỏe:
Từ lâu người ta thấy dùng chocolat vào việc ăn uống mà thôi. Số lượng tiêu thụ chocolat rất nhiều. Càng lúc càng tăng. Nhưng đồng thời đi chung với chocolat này người ta lại tiêu thụ đường và những hóa phẩm tạo ra đường như dường hóa học. Dường hoa học rất gây nguy hại cho lá gan và não bộ thuộc về khu vực suy nghĩ và trung tâm hoạt động thuộc phần Broca của não.
Trong chất Chocolat người ta thấy chất: "flavonoid" rất tốt cho hoạt động của tim hơn trăm lần chất cafeine lấy từ trong coffee ra.
Đồng thời chất tốt này (flavonoid) tăng sự vận tải oxygen trong máu. Máu càng nhiều hàm lượng oxygen thì tế bào càng khỏe ra nhiều. Chất oxy hóa sẽ giúp thêm cho vitamine C, mà chất vitamine C rất dễ bị hủy hoại bởi nhiệt độ cao trong cơ thể hay ngoài trời. Nhờ chất flavonoid này mà vitamine C bền dẽo hơn xưa. Chất vitamine C có khả năng tốt nhất trong việc ngừa những tế bào sanh sôi quá mức cơ thể định, nghĩa là sẽ tạo ra bướu độc gây ra ung thư chẳng hạn.
Người ta dùng chuột và khỉ trong thí nghiệm này, nếu cho động vật đó ăn thức ăn có thêm chocolat thì động vật đó có vẻ hăng hơn, nhưng trong máu lại không có độc tố tạo ra từ sự biến đổi calories đốt ra.
Chất trong chocolat có thể làm giảm chứng máu đông trong tim mạch. Chứng máu đông rất gây nguy hại cho những mạch máu nhỏ trong não bộ. Chính chứng này gây ra bệnh Stroke mà bệnh nhân nào thoát khỏi cũng đều bị bán thân bất toại hay tê liệt trọn đời.
Nhiều người thích ăn chocolat cho rằng chocolat rất tốt, đúng trong phần nhận định này. Nhưng lại nguy hiểm khi người ta không biết các nhà làm kẹo ngọt thường dùng chocolat kèm thêm rất nhiều loại đường, sữa quá mức an toàn cho cơ thể. Nên khi chocolat chưa tạo ra sự tốt cho cơ thể thì cơ thể đã bị đường và chất hóa học trong kẹo bánh hại trước rồi. Chocolat nguyên chất có một vị khá đắng và nhạt, nếu không thêm đường sữa thì rất khó tiêu thụ. Bạn thử vào chợ super market mua một gói chocolat nhỏ nguyên chất không có đường sữa thì vị chocolat này rất khó ăn. Cho nên ai thích ăn chocolat thì nên bớt dùng đường hay sữa quá ngọt trộn vào.
3.- Chuối phòng ngừa Tai biến mạch máu não.:
Theo báo nghiên cứu Ykhoa của Hoakỳ, báo JAMA thì chuối rất bổ cho não, nhờ chất Kali. Kali cần cho não bộ nhưng củng giúp cho những mạch máu nhỏ liti trong não được dẽo, không bị dòn dể vở khi bị áp xuất quá mạnh của máu dồn đến.
Khoa học nghiên cứu một giống dân tại PhiChâu, một làng này mà từ người già tới trẽ chưa bao giờ thấy một trái chuối là gì. Họ đo máu trong cơ thể thì tháy những người này hàm lượng Kali trong máu huầ như rất thấp (dưới 1.5 mg / ngày) và rất nhiều người bị bệnh thuộc về não như những người bị chậm phát triển khù khờ vậy.
Khoa học liền cho nhóm này ăn chuối trong vòng một tháng, còn một nhóm khác người ta dùng thẳng chất Kali cho thức ăn, còn nhóm thì không có chuối và không có chất Kali. Thì thấy những người nào ăn chuối có triệu chứng tốt cho não rất nhiều, sau đó là nhóm người đả dùng kali, còn nhóm kia thì lượng máu không có chất này.
Khi người ta đo lượng hoạt động não bộ bằng điện não đồ thì thấy não cũa nhoám dùng chuối tăng hoạt động rất cao và liên tục.
Một trái chuối có chứa đến 400 mg Kali. Rất dư thừa cho một ngày về khoáng chất Kali.
4.- Đã nhận dạng được Gene gây bệnh mù:
Theo bán nguyệt san Cape Argus tại Nam Phi. cho biết dân Nam Phi có rất nhiều người bị bệnh mù, có khi từ mới ra đời, có khi đến tuổi dậy thì thì con mắt lần lần bị biến chứng, sau đó mù lòa. Lúc đầu Bác sĩ nhãn khoa cho rằng những người này bị bệnh vi trùng hau siêu vi trùng gây ra. Nhưng sau đó, người ta nhận thấy có nhiều người trong một dòng họ bị bệnh mù, cho dù những người này ở khác nhau xa cã vài trăm cây số.Khao học đả biết bệnh mù này là do di truyền, nghĩa là do Gene tạo ra. Người ta cô lập được môt loại gen lấy từ võng mạt bệnh nhân. Đây là loại Gen mà Nam phi đặt tên là: " RP 13 ". Gene này gây sự viêm lở nơi võng mạc, đặc biệt là tụ vào vùng điểm vàng, nơi có nhiều sắc tố chứa một protein giữ vai trò theit yếu trong việc sãn xuất các protein khác. Theo Bác sỉ Raj Ramesar (người Aánđộ) cho biết chính Gene này đánh vào võng mạc làm tróc vãy võng mạc…tróc ít thì bệnh nhân sẽ bị lòa một góc độ nào đó, troc nhiều thì bệnh nhân sẽ bị đui mù vỉnh viển. Nhưng đieuỳ khám phá của Bác sỉ Raj này làm giới Nhàn khoa Y học rất phấn khởi, vì tìm được hung thủ …nghĩa là sẽ tìm được người trị nó.
Bệnh mù di truyền này hàng năm làm trên 2 triệu người bị mất thị giác mà các khoa học không biết tình ra sao. Không riêng gì Phi Châu mà nó có mặt ở Trung Hoa từ lâu rồi.
5.- Viagra sẽ có đối thủ:
Trong tờ nguyệt san Medicine (Anh) cho biết Viagra và Bill Gates sẻ đụng độ một trận kinh hồn, trời long đất lở..ï. Làm nhiều người ngạc nhiên tưỡng nhà tỉ phú giàu nhất hành tinh này bị bệnh bất lực…nên mới dùng thuốc Viagra. Xin thưa, không phãi vậy. Bill Gates đã tổ hợp với một côngty Dược Phẩm tại New York, côngty này mang tên Icos Corp.. Công ty này đang kiểm nghiệm một loại thuốc có công dụng như Viagra, rồi sau đó xin giấy phép mà tung ra thị trường. Bill Gates không thích sự độc quyền Viagra vì một mình một chợ thuốc Viagra tăng lên đến mức mà người ta gọi là quá…tham lam ích kỷ.Dr. Eli Lilly cho biết công ty dược phẩm này sẽ tung ra thị trường ngày gần đây một loại thucố có khả năng tương đương Viagra nhưng nhiề huũ hiệu hơn:
a.- rẽ gấp 3 lần Viagra. b.- Uống vào có hiệu quã trong vòng 16 phút. Còng Viagra cần đến thời gian 4 tiếng. Một thời gian quá dài mà bệnh nhân có thể quên vì quá buồn ngủ rồi. c. - Có hiệu quã lâu dài cho ngày sau. Còn Viagra người ta giãm lại để cho bệnh nhân ngày mai cần uống nữa và mua thêm nhiều nửa, như vậy quá tham lam về tiền bạc.
Công ty này người ta tìm ra một loại thuốc có thể khắc phục được chứng liệt dương bằng cách ngăn cản chất enzyme phát ra từ người tuổi già hay những người bị chứng bất lực. Chất enzyme này mà những người đàn ông bị bệnh bất lực rất sợ hãi khi về đêm.
Chất kháng enzyme này được đặt tên khoa học là EPE 5 , nghĩa là người ta thử nghiệm trong phòng thí nghiệm đến 5 lần, cho nó hoàn hão khi tung ra thị trường.
Bill Gates và Ban Gáim đốc đồng ý đặt tên thuốc này là: " Cialis " (rên một vị thần HyLạp, rất thích cười và rất yêu đời…mà người ta gọi là..thằng cha già dê..hay thằng cha…mắc…dịch…). Họ hy vọng sẽ thâm nhập vào thị trường cũa Viagra mà năm vừa rồi công ty chế thuốc Viagra đem về lời trên $ 1.8 tỉ USD mà chưa cần suy nghĩ như làm ra một nhu liệu software như hãng Microsoft mà Bill Gates hàng năm phãi nặn óc suy nghĩ sao cho tân tiến đừng cho đối thủ qua mặt.
Viện Dược Phẩm Icos Corp./ New York cho một số người tình nguyện, thì họ thấy loại thuốc của Bill Gates và côngty tạo ra mang tên là: "Oâng già Dịch" rất tốt hơn Viagra và rất không bị mệt bị uể oãi khi vào sở làm vào sáng ngày mai. Và nhóm đàn ông này uống đúng liều lượng thuốc: " Oâng Già Dịch " (Cialis) thì vào sở rất thấy yêu đời và mong muốn sở cho về sớm sớm càng tốt. Vì rẽ tiền, dài lâu, ngày mai không sợ bần thần uể oãi và rất yêu đời…và không sợ…ngũ quên như loại Viagra vì uống vào phãi chờ đến …4 tiếng…mà từ đó đến 4 tiếng…không biết làm gì..cho qua giờ.
6.- Một loại Super Computer vừa được trình làng:
California. Livermore. Sau gần 1 năm giử bí mật, nay chánh phủ tiết lộ cho Quốc Hội Hoakỳ lý do tại sao họ tiêu xài quá nhiều cho một chuyện nghien cứu về Super Computer mà trước đó hãng IBM đả làm xong. Số tiền $ 300 triệu USD mà Quốc Hội vừa cấp cho năm ngoái, thì khoa học gia tại Livermore đả xài hết gần $ 250 triệu USD rồi.
Với khả năng xử lý đến 12.3 trillion trong một giây (nghĩa là 12.3 ngàn tỉ con toán trong một giây) thì Super Computer tại phòng thí nghiệm Nguyên tử cũa Hoakỳ (Lawrence Livermore National Laboratory) có thể dùng thí nghiệm con tính cho Vậtlý hạt nhân.
Trung tướng John Gordon,thuộc ban nghiên cứu nguyên tử lực cho biết: " máy này sẽ giúp cho nhiều nhá bác học cần tính những công thức mà máy computer loại thường phãi mất đến 15 năm trường.
Máy Super Computer này mang danh khoa học là: " Accelerated Strategic Computing Initiative White / hay gọi tắt là: ASCI White ".
Giãng nghĩa theo ngoài đời thì máy ASCI White này tương đương với 50 ngàn máy tính computer hạng kỷ nghệ…Nó có thể chứa 300 triệu books (tương đương 6 Thư Viện Quốc Hội Hoakỳ nhập lại) Phòng chứa nó phải rộng đến 12 ngàn square-foot room (tương đương 2 sân bóng bầu dục vậy . Máy điều hòa nhiệt độ cho máy tính Super Computer này cần đến 300 Megawatts (tương đương điện lực cung cấp cho Saigon và Chợ Lớn nhập lại). Vì không có nhà máy điện lực ngoài xã hội cung cấp nổi, hay là sẽ làm máy yếu đi, nên người ta xây riêng một nhà máy điện cho nó…một mình xử dụng.Máy ASCI (đọc là: Ask-ee) do hai công ty IBM và Compaq hợp lại.
Chánh quyền Bush II cho rằng máy này chỉ dùng để tính toán cho công việc thuộc thuần túy VậtLý Nguyên tử. Nhưng ai ai củng biết máy này dùng thẳng cho một lập trình đạn đạo đới phương bắn vào Hoakỳ, nghỉa là chương trình Star War hay NMSD: National Missilies Defense. Và đối phương không ai khác hơn là Moscow, vì Nga sô có khả năng phọng một tên lữa Hỏa tiển có khả năng mang 3 đầu đạn nguyên tử với vận tốc cực nhanh.
Máy thông thường cũa Quốc Phòng Hoakỳ chỉ đủ sức tính cho một tên lữa hỏa tiền nào có mang 1 đầu đạn nguyên từ mà thôi, còn tên lửa nào mang 2 đầu đạn nguyên tử thì máy tính không kịp, vì một tên lửa bay vào vùng trời mà Hoakỳ gọi là khu vực báo động số 1 thì củng chung mọt đạn đạo parabole, cùng một phương trình đạn đạo rơi xuống vòng cung, nhưng khi mang 3 đầu đạn thì tương tự như 3 tên lữa xài cùng một phương trình nhưng khác mục tieu đánh xuống.
Chương trình softe ware (nhu liệu) xử dụng trong giới Khoa Học và Vật lý, người ta dùng nhu liệu chương trình thuộc UNIX, rất khác xa nhu liệu ï của hệ điều hành Window (hệ điều hành Window, họ dùng DOS)..Nhu liệu UNIX này khi vào thị trường dân chúng thì được chuyển một phần tên là Red Hat…Linux vậy. Nhu liêu Linux rất dể xử dụng hơn Window và hệ Apple Mac Intosh. Hiện nay Việtnam đang chuẩn bị đổi sang hệ Linux này, vì họ nói hệ Window năm nào cũng phãi tân cấp hay nâng cấp (up-grade) rất tốn công và tốn tiền. Hiện nay gần đây, hầu hết Web Sites của VN người ta dùng Unicode 7 và 8. Còn Việt kiều chúng ta đang xài VNI lổi thời rồi.
7.- Scooter kiểu mới Thế kỷ 21 hay là đôi giày Thần kỳ?
CÓ nhiều hãng xưỡng rất rộng, nếu đi bộ thì tốn gần 1, 2 tiếng là chuyện thường. Nhiều người dùng xe chạy bằng khí thiên nhiên, có nơi tại Trung Hoa, hãng đóng tàu hay nhà máy điện lực…người ta…đạp xe đạp cho tiện lợi sổ sách. Nhưng Hoakỳ không có chuyện xếp…đạp xe..đạp mà thăm nhân viên được. Kỷ sư Dean Kamen ra m?t dân chug Hoakỳ trong chương trình: " Good Morning America " của đài BBC..anh cho người ta thấy loại xe nhỏ như xe con noit chơi vậy..Nhưng nó đứng được mà không cần dựa vách tường khi chủ đi vắng.
Nhìn xa xe của kỷ sư Dean Kamen trông tựa như một máy cắt cỏ đẩy tay vậy. Nhưng có hai bánh khá lớn, chạy kha nhánh và không gây tiếng đông. Rất dể dàng lái, chị việc đứng lên trên xe hai bánh thì bạn nghiêng hướng nào thì xe quẹo theo hướng đó, bạn muốn giãm tốc độ thì cứ việc ngửa người nhẹ ra sau thì xe tự động bớt tốc độ và ngừng lại. Truing tâm chánh của xe scooter này là một loại Gyros, tương tự như con lật đật mà bạn liệng kiểu nào nó củng đứng thẳng vậy.
Nhà sản xuất này hy vọng mổi năm sẽ bán trên trăm ngàn chiếc, hiện nay giá mổi chiếc là khoãng $ 3000 USD. Nó gọn và tiện hơn xe hơi 3 bánh chạy bằng khí đốt thiên nhiên, nó tiện hơn xe đạp..ví không cần đạp …Hãng thơ giao nhanh là UPS hay DHL là thích nhất, vì các công ty này rất rộng, lớn như một sân bay vậy, dùng xe đạp thì bất tiện lắm.
Hãng này trước khi trình làng thì đả xin bản quyền tại Quốc Hội rồi. DC 89
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:58:47 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Vũ Viết Khuê S.E.Vicks Burg F 3 Norman OK. (Qua Anh Tuấn): Tôi thắc mắc ngày xưa tại Trung Hoa mà cho đến ngày nay cũng còn tục này là "trẻ con không có tên chữ"? Bà cụ có thể giải luận về tính họ được không?
* "Tên tự" là sau khi con trai làm quán lễ, còn con gái thì sau lễ cài trâm thì mới được có tên "Tự". Nguyên là ngày xưa cổ nhân ta hễ sinh ra là đặt "tên", nhưng tuyệt đối không được đặt tên "tự". Chỉ khi nào sau quán lễ, kê lễ thì mới được đặt tên "tự". Vì vậy người xưa thường bảo rằng: "Đồng tử vô tự". Tóm lại khi trai gái lớn lên đúng là thành niên mới được đặt tên "tự". Họ (tính) đặt trước tên (danh), rồi khi có tên "tự" thì đặt sau rốt hết.
Cụ Lê Văn Phúc Atascocita Timber N. Humble TX. Bà cụ có nhớ bài Sơn hành của Đỗ Mục không? Xin bà cụ nhắc và dịch hộ lại cho.
* Đỗ Mục có hai bài nổi tiếng: 1. Bạch Tần Hoài. 2. Sơn hành như cụ hỏi. Bài này như sau:
"Viễn thượng hàn sơn thạch kính ta,
Bạch vân thâm xứ hữu nhân gia.
Đình xa tọa ái phong lâm vãn,
Sương diệp hồng vu nhị tuyệt hoa.
có nghĩa:
Trên cao cao (kìa), hòn núi lạnh, (có) con đường đá đi xuống nghiêng nghiêng.
Trong đám mây bạc (nơi) chỗ sâu thẳm có ngôi nhà ai.
Buổi chiều dừng xe ngồi dưới rừng phong
Lá nhuốm sương đỏ tựa hoa tháng hai.
Ông Vũ Như Tường 49 Philadelphia (qua Chu Trương): Tôi còn nhớ câu ca dao Tàu có câu: 1/ "Long sinh long, phương sinh phượng, lão thử sinh nhi hội đả động".
2./ Long du thiển thủy tao hà hý. Hổ lạc bình dương bị khuyển khi.
Nhưng cả hai câu tôi không nhớ được nghĩa của nó. Bà cụ nhớ xin giảng giải lại hộ.
* Nghĩa câu 1 như sau: "Rồng sinh rồng, phượng sinh phượng, chuột sinh chuột con cũng biết đào hang".
Ta cũng có câu:
"Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra giòng liu điu.
hay câu: "Nòi nào giống nấy".
Câu thứ 2/ có nghĩa:
"Rồng chơi sông cạn tôm dỡn mặt. Hổ lạc đất bằng bị chó khi.
Bà cụ Đõ Võ Hà Thúc Brookhurst Westminster CA, Tôi nhớ man máng bài thơ ở sách Trinh Thử, phản đối tư tưởng bế quan , độc tôn của Hồ Quý Ly. Bà cụ nhớ đoạn thơ đó không? Xin nhắc hộ.
* Chuột đực tự giới thiệu là Hồ Quý Ly qua lời thơ như sau:
"... Anh nay nhờ phận ấm no,
Tổ nhân thiên táng, huyệt do mối đùn.
Hợi long nhập thủ chuyển khôn,
Bao nhiêu họ thủy cũng tuôn nhập đoài.
Rày khen vượng tướng hào tài,
Đông phương tí ngọ mấy đời đến nay.
Vả xem cây lộc tốt thay
Quí nhân phù trợ tằ này làm nên.
Lại xem tiền định chẳng hèn,
Mười thầy cũng nói như in một lời.
Số tử vi đã giải bày,
Tham lang thủ mệnh, ắt rày vượng thay... v.v...
Có dịp chúng tôi sẽ ghi tất cả bài thơ như bà yêu cầu.
Ông Phạm hải Hồ Maryland (Qua Thọ Phan ): Rùa nói chung chữa những chứng bệnh nào, bà cụ có biết không? Nếu được xin giảng giải hộ cho.
* Theo y luận tổng hợp của Đông phương qua luận lý triết học... thì bất cứ việc gì có linh khiếu đặc biệt đều được triển khai hầu xử dụng trên mọi mặt. Các y tổ và danh sư đã tìm thấy và truyền lại cho đời sau về các phần cơ thể của rùa có tác dụng như sau:
1. Qui nhục (thịt rùa) chữa chứng phế lao, ho lao kinh niên.
2. Qui đảm: mật rùa. Chữa chứng kinh nguyệt bất thường hay bí kinh nguyệt.
3. Qui huyết: (máu rùa) Chữa chứng đầy hơi, ứ đàm, cổ có bướu.
4. Qui tâm:Tim rùa. Dùng bảy cái đốt cháy còn tính pha với rượu, trị chứng mất ngủ, rất hiệu nghiệm.
5. Qui vĩ: Đuôi rùa. Lấy một cặp đực và cá, nhất là loại có ức màu vàng thì tốt nhất, làm thuốc chữa bệnh hiếm muộn con. Nếu uống toàn đuôi rùa đực sẽ sinh con trai.
6. Qui niệu: Nước đái rùa. Đây là môt vị thuốc vô cùng thần hiệu, nhưng phải chọn rùa có ức trắng, mu xanh thì hiệu nghiệm hơn...
Tôi không là thầy Đông y, Nếu ông cụ muốn rõ hơn hãy đến tim các Đông y sĩ tại các hiệu bán thuốc Bắc.
Ông Lê Phú Hào Reseda: Bà cụ có nhớ bài thơ "Mệ Mốc" của Nguyễn Khuyến không? Nếu nhớ xin nhắc hộ.
* Bài thơ đó như sau:
"So danh giá ai bằng Mẹ Mốc
Ngoài hình hài , gấm vóc, cũng thêm ra.
Tấm hồng nhan đem bôi lấm, xóa nhòa.
Làm thế để cho qua mắt tục.
Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc,
Tâm trung thường thủ tự kiên kim
Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm
Giữa son sắt êm đềm một tiết.
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương Trinh vằng vặc quyết không nhơ.
Đáp tai ngảnh mặt làm ngơ
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
Khôn em dễ bán chợ này.
Bà Văn Thanh Tùng Orange County: Trong Tam Tự Kinh có mấy câu: "PHÀM, HUẤN, MÔNG - TU, GIẢNG, CỨU - TƯỜNG, HUẤN HỖ - MINH, CÚ, ĐỘC, VI HỌC GIẢ - TẤT HỮU SƠ - TIỂU HỌC CHUNG - CHÍ TỨ THƯ.
Bà cụ giảng hộ mấy câu này cho. Cám ơn.
* HUẤN: giáo dục. Huấn luyện.
MÔNG: Trẻ nhỏ mới bắt đầu học chữ , đọc sách gọi là Mông.
TU: Cần phải.
CỨU: Giảng cứu. Giải cái lý.
TƯỜNG: Tường tận.
HUẤN HỖ: Giải thích từng chữ từng câu vămn xưa.
MINH: hiểu rõ.
SƠ: bắt đầu.
TIỂU HỌC: Lúc bắt đầu học.
CHÍ: đến.
TỨ THƯ: bốn cuốpn Luận Ngữ, Mạnh Tử, Đại Hạ, Trung Dung.
Mộng Tuyền DC 89
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 17, 2008 9:59:48 GMT 9
BẠN BIẾT GÌ VỀ...?
Người thứ Chín biên soạn
Vói chuyện thương tâm xảy ra tại New York ngày 9-11 vừa qua và kéo đến trân chiến diệt ổ khủng bố của Osama bin Laden, làm hàng triệu dân chúng Afghanistan, đã khổ càng thêm khổ. Kỳ này chúng tôi trình bày về những Hội Từ Tâm đã có mặt trên Thế Giới từ lâu, và luôn tại Hoakỳ, một vùng đất tạm dung đầy lòng nhân đạo cho Việt kiều chúng ta. Nay vùng đất tạm dung đã có người nằm sâu trong lòng đất này rồi.
A.- Cơ quan Red Cross:
Cơ quan Hồng thập Tự Quốc Tế khởi duyên lành từ một tạp chí nhan đề: "Un Souvenir de Solferino (1862)" (tạm dịch là chuyện khó quên tại Solferino) do Jean Henri Dunan chủ biên. Năm 1859 tại chiến trường Solferino, Dunan (người Thụy Sĩ) thấy nhiều thương binh bị bỏ lại mặt trận, không người chăm sóc vì lúc đó đôi bên đều không muốn nhận thương binh của mình làm chi, vì trị cũng vô ích, tốn công... nên Dunant ra tạp chí khởi động lòng từ tâm của loài người, từ cuộc chiến này. Anh kêu gọi thành lập một đoàn người giàu lòng từ tâm, nên bỏ gia đình no ấm mà đưa bàn tay cứu người gặp cảnh nguy nàn...
Cơ quan Xã Hội Thụy Sĩ (The Société genovoise d' Utilité publique) rúng động lương tâm sau khi đọc bài báo của Jean henri Dunan, nên họ cho thành lập một cơ quan chuyên về chuyện này (1863). Và Hội Hồng Thập Tự (Hội Chữ Thập Đỏ / từ Cộng Sản) mà nay chúng ta ai ai cũng đều biết đến. Năm 1864, có 16 quốc gia Âu Châu gặp nhau tại Geneva danh xưng là: "the Amelioration of the Condition of the Wounded and Sick of Armies in the Field" (nghĩa là Hội Cứu cấp các Thương bệnh Binh tại Chiến Trường). Để vinh danh Jean Henri Dunan, cha già thành lập) Âu Châu đồng ý chọn màu cờ cho Hội này là nền trắng Chữ Thập Đỏ (vì Dunan quốc tịch Thụy Sĩ, màu cờ là nền đỏ, chữ thập trắng). Sau đó Hội Hồng Thập Tự đi đến thành lập một cơ quan, có Hiến Chương về Tù Binh... phải đối xử nhân đạo với các Tù Binh khi họ bị bắt tại chiến trường.
Năm 1917, 1944 Hội Hồng thập Tự này được vinh danh Nobel Hòa Bình từ Thụy Điển phát ra (vì hai năm này là Đệỉ Nhất Thế Chiến và Đệ Nhị Thế Chiến).
a.- Hội Hồng thập Tự Hoakỳ:
Hội này được thành lập năm 1881 do Bà Clara Barton, sau này được Liên bang Hoakỳ thừa nhận vào năm 1900. Đến năm 1905 thì Hội Hồng Thập Tư Hoakỳ rất sát cánh với chánh phủ Hoakỳ, như hai anh em sanh đôi vậy. Còn Hội Hồng Thập Tự Quốc tế tại Geneva (Thụy Sĩ) thì chánh phủ Thụy Sĩ và Thế giới đứng sau lưng mà thôi. Hiến chương của Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế được Thế Giới tuân thủ bằng giấy tờ và chữ ký của nước mình.
Năm 1947 Tổng đà Chủ American Red Cross (xin lỗi dùng danh từ Kiếm hiệp trong này, vì nó sát nghĩa hơn dịch là: Headquarters = Cơ quan đầu não) lập tại Washington DC. Tổng thống Hoakỳ được mời ghế Chủ tịch Danh Dự (the Honorary Chairman of the Society), có nhiệm vụ bổ nhiệm Chủ tịch Hành Sự (President) và 7 Phụ Tá. Cơ quan này chuyên trách về: Cứu trợ Thiên tai, Giúp Quân Đội Hoakỳ, Cứu trợ Ytế và An Toàn Công Cộng... Nhưng mục đích chánh nằm sâu trong American Red Cross là tiếp nhận máu, phân phối máu cho những bệnh nhân khắp Hoakỳ, sau đó nhận tiền rồi phân phối khắp Hoakỳ.
Sau này American Red Cross mới bắt tay chặt chẻ với Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế... vì lúc đó Hoakỳ tự xem mình là độc tôn, họ ngầm tự phụ với Slogan (Câu Châm Ngôn) mà ai ai cũng biết: "American is Number One". Quả thật vậy, lúc đó Hoakỳ có tàu lớn nhất Thế gới, sản xuất xe nhiều nhất và vang danh Thế Giới về nhiều nhất và tốt nhất: như Ford và Ca-di- dắc (Cadillac), Radio nhiều nhất, điện thoại nhiều nhất, Truyền hình nhiều nhất... Nay họ tỉnh mộng rồi: Xe hơi hư hoài nhất thế giới, Đồng hồ Timex chậm sai nhất Thế Giới, máy chụp hình dở nhất thế giới, Tivi màu dở nhất Thế giới...
Thành thử Hội này lập ra mang danh Hồng thập Tự Hoakỳ nhưng mục đích chánh là cho dân Hoakỳ mà thôi. Họ có Hiến chương riêng của Hội Chữ Thập Đỏ này. Hiện nay, bà chủ tịch Hội American Red Cross là Elizabeth Dole (vợ của Thượng nghị Sĩ Bob Dole và đã tranh cử chức vị Tổng Thống Hoakỳ vừa qua). Bà Elizabeth Dole được bầu năm 1991 (người đàn bà thứ nhất là người sáng lập Hội: Bà Clara Barton, người đàn bà thứ nhì là Bà Dole). Năm 1993 Bà Dole cải tổ Hội này cho đi sát với quần chúng như giáo dục văn hóa và ngăn ngừa phá thai và bệnh AIDS, và ngừa Tự Vận...
So sánh Hội Red Cross Quốc tế và Hội Red Cross Hoakỳ, thì Hội Hoakỳ làm việc siêng năng hơn, và có nhiều tiền hơn. Hội thường lên Quốc Hội Hoakỳ mà xin thông qua luật này luật kia liên quan đến hoàn cảnh dân chúng Hoakỳ. Còn Hội Quốc Tế thì khi Thế Giới có chuyện như động dất, thiên tai, chiến tranh, thảm sát chủng tộc... thì Hội Quốc tế mới can thiệp, nhưng đôi khi không hiệu quả lắm, ví dụ nhóm Khmer Đỏ khát máu theo sát chủ nghĩa của Mao trạch Đông là càng giết nhiều người thì càng bớt miệng ăn. Nhóm Khmer Đỏ tàn sát dân Khmer của họ, và Hội Chử Thập Đỏ kêu gào mà lãnh tụ Khmer Đỏ không thèm nghe đến. Chút xíu nữa nhóm này... bỏ đói vua Norodom Sihanouk cho đến chết tại Hoàng thành Nam Vang, nếu không có Bà cụ Tôn dật Tiên bay phi cơ sang can thiệp, vì Bà này họ Tống rất được lòng Cộng Sản Trung Hoa. Và sau đó vua Norodom Sihanouk được phép sang Bắc Hàn cùng vợ mà trị bệnh, còn Hoàng tử thứ hai và Công chúa thứ ba thì bị bọn Khmer Đỏ dẫn đi... cày ruộng đến nay chưa thấy về.
b.- Hội Trăng Lưỡi Liềm Đỏ (The Red Crescent):
Hội này do nhóm Ả rập lập ra, các thành viên đều là người Ả Rập. Mục đích y như Hội Hồng Thập Tự Quốc Tế, nhưng vì người Ả rập không muốn các bàn tay Tây Phương rớ vào vết thương chiến trận của dân Ả Rập với dân Ả Rập, nhất là các bàn tay phụ nữ Tây Phương mang cờ Hồng thập Tự rớ vào thì mấy trự Ả Rập này... khó lên Thiên đàng mà ở gần Allah lắm. Họ rất kỵ bàn tay phụ nữ Tâây phương đụng chạm lắm. Hội này Trăng Lưỡi Liềm Đỏ (Red Crescent) gia nhập vào Hội hồng Thập Tự Quốc Tế từ năm 1986, tuân thủ theo điều lệ Hội Quốc tế chánh này. Nhưng Tổng Đà Chủ đóng tại Thủ đô Saudi Arabia (vì xứ này rất giàu về dầu hỏa) nhưng Hội này bị Do Thái không cho phép vào lãnh thổ Israel... vì khác đạo vì tử thù của đạo giáo với nhau. Củng cùng trong Đại lục Ả rập (mà ta gọi bán đảo Á Rập, danh từ này không trúng lắm) cùng có lạc đà, cùng ăn thịt dê cùng mầân ăn với nhau, nhưng khi Israel bị chuyện thì họ cho phép The International Red Cross hay Americam Red Cross vào lo cho họ mà thôi, họ đây là dân Israel.
The International Red Cross nổi danh trong việc cứu trợ nạn đói Hung gia Lợi (1956) mặc dầu lúc đó xứ này vẫn còn trong bàn tay sắt thép của Moscow (Nga sô), Somalia (1992), nạn diệt chủng Rwanda (1994)... Trong năm 1952 Hội Red Cross Quốc Tế chứng giám việc trao trả tù binh Bắc và Nam Hàn, sau đó đến chuyện Vietnam khi vĩ tuyến 17 chia đôi và dân Bắc bỏ Cộng Sản vào Nam hay trao trả tù binh... Mặc dầu đôi khi Hội Chữ Thập Đỏ thiên vị với Cộng Sản Miền Bắc về vấn đề thanh tra tù binh, nhưng vì CS Miền Bắc rất khép thủ đoạn che dấu, họ làm khó dễ và sau đó cho phái đoàn Hồng thập Tự Quốc tế đến viếng những nhà tù chiến tranh mà họ... chuẩn bị cờ xí xong rồi. Còn miền Nam họ đến thẳng các nơi giam giữ tù binh chiến tranh như thình lình đến thẳng Côn Đảo mà thăm hỏi Cộng Sản Tù Binh... Nhưng dù sao đi chăng nữa họ, đôi bên Nam Bắc đều nể trọng hội Chữ Thập Đỏ Quốc Tế lắm. Nay tại Hà Nội có cơ quan của Red Cross, nhưng để làm kiểng mà thôi... vì đã có Hội Chữ Thập Đỏ ViệtNam, với Hiến chương riêng của Việt Nam như bên Hoakỳ vậy. Tuy tất cả hiện nay đều là thành viên của Hội này tại Geneva (Swiss) gồm 175 Quốc Gia tham dự và ký Hiệp Ước của Hội Quốc Tế này.
B.- Hội Con Đường Hợp Nhất (danh từ này khó dịch sát nghĩa, dịch Con Đường Thống Nhất... thì càng kỳ nữa). Nó chính tên là: the United Way of America. Hội United Way of America.
Hội này đặc biệt dành cho dân chúng Hoakỳ mà thôi. Tổng đà Chủ đóng tại Alexandria, Virginia. Mỗi Tiểu bang Hoakỳ đều tự thành lập mà ra Hội này.Mổi tiểu bang lập ra, lạc quyên tiền bạc, vật chất... thì tiểu bang được hưởng, không chia ra cho tiểu bang kế cận. Khác với Hội American Red Cross là nghe lệnh Tổng Đà Chủ tại Washington DC.
Vì luật lệ địa phương (hay từng tiểu bang) đều khác nhau, nên không ai áp dụng luật lệ Liên bang vào Hội này được. Họ dùng chung phù hiệu là bàn tay mặt khum lại, có một người đứng giữa lòng bàn tay, từ cổ tay đến tận ngón tay có 4 vòng tròn hào quang màu cam bao phủ. Châm ngôn là: "The Best Way to Care".
Từng tiểu bang Hoakỳ, có nhiều Hội chi nhánh, xuống đến từng County. Mỗi County thành lập Hội viên Điều hành. Mỗi cơ xưởng có nhiều nhân viên thì hy vọng Hội United Way mạnh nhất, như hãng xưởng đóng xe hơi General Motors (trước đó đóng tại Burbank, chuyên sản xuất xe Trans Am và Fire Bird và Mustang...), có trên 20 ngàn nhân công làm việc 3 ca luân phiên, chính hãng này đóng góp rất lớn. Sau đó đến hãng Rockwell, Hughes và Litton (chuyên về hợp đồng tạo món hàng cho Quân Đội Hoakỳ...) Thường thấy nhiều vị Supervisors (Giám Thị) mỗi lần ba tháng các vị này đưa giấy cho nhân viên khoanh tròn ô vuông, như hiến tặng Contribution bao nhiêu phần trăm lương tuần của mình cho Hội United Way. Vì Supervisor mỗi tuần cầm phong thư phát lương cho từng nhân viên của mình, rồi Supervisor đứng chờ nhân viên khoanh tròn số tiền phần trăm lương bổng của mình... nên nhân viên khó lòng khoanh ô cho tiền in ít hơn bạn của mình được. Nhân viên có người khoanh cho 0.5% tiền lương thì Supervisor không vui lắm. Còn khoanh cho 5% thì Supervisor rất vui, bù lại được làm overtime thứ bảy, có khi chúa nhật... Rồi cứ 6 tháng được Review cho tăng lương kèm theo phụ cấp đắt đỏ... Cho nên hệ thống United Way từng tiểu bang lại rất mạnh về tiền bạc. Nhất là những tiểu bang giàu như California chẳng hạn, còn tiểu bang nghèo như Alaska có lạnh queo râu thì ráng chịu. Cơ quan United Way có thêm văn phòng phụ lập ra khuyên bảo những người sắp... tự vận, nên gọi họ trước rồi... tự vận sau. Và có văn phòng khuyên trẻ vị thành niên chớ phá thai vv.vv... Địa chỉ và điện thoại đều có sẵn tại Telephone Books.
Bởi vậy năm 1992 President của United Way of America, Bill Aramony thấy tiền thiên hạ tưởng tiền gia đình mình, nên bị kết án 7 năm tù (đối với Hoakỳ 7 năm tù là tội trọng hình cao nhất), Tòa ra lệnh tên này bồi hoàn tiền mà y nhũng lạm (dùng tiền đi đánh bạc, đi nghỉ hè những nơi cực kỳ sang trọng, mua nhẫn kim cương cho vợ vv.vv...) Từ đó United Way được bài học kinh nghiệm là kẻ trộm tiền chính là vị Chủ tịch khả kính của mình.
C.- The Salvation Army (Đạo quân Cứu Rỗi):
Tên này là biết phát xuất từ nhánh nhà thờ rồi. Quả như vậy, nó là một phần của Christian Church, mặc dầu ngày nay nó vượt khỏi phạm vi nhỏ bé của nhà thờ Đạo Tinh Lành bên United Kingdom. Dựa theo lời Kinh Thánh họ tin rằng giúp người nghèo cũng là một chuyện làm tốt đẹp vinh danh Thượng Đế.
Từ đó đến miếng cơm manh áo, đến chuyện học hành, đến chuyện chăm sóc sức khỏe bệnh nhân nghèo. Do vị mục sư William Booth, sáng lập tại thành phố London, sau đó lan rộng khắp nước Anh và Ái nhỉ Lan (Ireland). Nay thì khắp Thế Giới rồi. Danh từ Army nghĩa là Đạo quân của Chúa Trời, nên họ có đồng phục riêng rất dễ nhận diện. Tin Lành nhưng là gốc từ Evangelistic. Hiện nay tại London hay tại Nottingham (gần London) có Viện Bảo Tàng vị mục sư sáng lập Dòng Phước Thiện này. Hình ảnh một vị mục sư gầy, nhiều râu (loại râu của nhóm Tin Lành thủ cựu ngày xưa).
Ấn Hiệu là một Thập Giá, chữ S quấn quanh, có hai thanh kiếm nho nhỏ trong trung tâm, vòng tròn ngoài ghi là Blood and Fire, vòng ngoài là mặt Trời tua gai ra, dưới đó là một băng nơ ghi là The Salvation Army. Sở dĩ có chữ Blood là Chiến Tranh gây máu đổ, mạng người... Còn Fire là nhà cháy, thiên tai v.v... Ai mà bị cháy nhà thì thấy chữ Fire này rất linh thiêng.
Còn Phù hiệu là một cái khiên chắn ghi: "The Salvation Army", chữ trắng, nền đỏ.
Đạo quân này xuất hiện nhiều nhất vào dịp lễ Giáng Sinh, tại những nơi Shopping hay Mall lớn của Hoakỳ, họ rung chuông... Tiền thu được họ dùng cho những người nghèo cần một món quà hay một miếng ăn vào dịp Chúa Cứu Thế xuống trần. mùa Đông lạnh lẽo.
Họ có cơ sở nhận những quần áo cũ, vật dụng cũ thay vì vất vào thùng rác, họ cho người đến chở và phân phối cho gia đình nghèo cần đến. Có nơi, cơ sở này họ bán những vật dụng cũ cho những người nghèo với giá rất rẻ.
Năm 1975 chính đạo Quân này giúp rất nhiều những người Việt Tị nạn Chính Trị mà ta gọi là Vietnamse Refugees, tại những trại tạm trú đều có cơ sở này chung với American Red Cross. Họ tổ chức dạy Anh Ngữ, và nhiều lớp cho phụ nữ Việt tị nạn biết đi... chợ mua những món cần dùng cho phụ nữ. Cho nên những quý bà Việt kiều hiện nay rất giỏi trong việc đi... shopping này. Phải không?
Riêng về việc American Red Cross, chúng tôi và một anh giàu lòng từ tâm (tại tỉnh nhỏ gần Los Angeles) đã có một kinh nghiệm như sau: năm 2000 tại Việt Nam bị Thiên tai Bão lụt từ Miền Trung đến Hậu Giang, Đồng Bằng Sông Cửu Long bị ngập lụt nặng nề. Chúng tôi có tổ chức một Hội Mùa Xuân nhằm Cứu Trợ Nạn Nhân Bão Lụt tại Việt Nam. Số tiền thu được... chúng tôi đâu dám đưa cho Hội Trưởng Hội Người Việt của một vị tuổi rất lớn, nhưng tâm địa như Nhạc bất Quần vậy. Chúng tôi bèn trao số tiền mọn này cho Hội Hồng Thập Tự địa phương. Có hình chụp và tấm check số tiền đó. Được biết Cơ quan Hồng thập Tự (American Red Cross) tại địa phương sẽ chuyển số tiền đó qua Việt Nam qua ngã Hội Chữ Thập Đỏ tại Thành phố Hồ chí Minh. Dĩ nhiên số tiền này, cơ quan Hồng thập Tự Hoakỳ sẽ lấy 15% (mười lăm phần trăm) làm tiền... tem cò. Và dĩ nhiên tại Việtnam, Hội Chữ Thập Đỏ cũng sẽ lấy ra không dưới 15% tiền... tem cò... vv... Rồi đi đến Thị Xã, rồi Quận lỵ nhỏ... số tiền sẽ còn lại rất ít. Nhưng còn đỡ hơn là đưa nguyên gói cho nhóm Hội Người Việt... mà báo Đại Chúng đã vạch mặt chỉ tên nhưng rất ít quý độc giả tin chuyện này. Hội Người Việt tại Hoakỳ rất thua xa Hội Người Việt tại Toronto / Canada... vì chúng tôi qua đây từ 1975 nên những trò dâu biển chúng tôi đều thuộc nằm lòng như chỉ tay trong lòng bàn tay chúng tôi vậy.
Đó là những Hội Thiện Nguyện có tổ chức quy mô và lâu đời, ai ai cũng biết. Nhưng gần đây có một Hội Thiện Nguyện tư nhân vừa thành lập, nhóm này bỏ tiền riêng lập Hội, số tiền nghe mà chóng mặt $ 15 tỉ USD (Vâng, mười lăm tỉ Dollars Hoakỳ). Đó là hội của vợ chồng Bill Gates. Cách đây không lâu Hội này tuyên bố là sẽ không còn những trẻ em Đông Nam Á bị bệnh sốt Tê Liệt, và Bệnh Đậu Mùa trong vòng 5 năm tới. Buổi lễ chích mũi thuốc ngừa đầu tiên được tồ chức tại Phnom Penh (Thủ đô của Cambodge) vào đầu năm 2001 vừa qua, rồi sau đó sẽ đến ViệtNam, AiLao và TháiLan...
Vì khuôn khổ tờ báo Đại Chúng chật hẹp, chúng tôi không thể đăng hết những cơ quan Từ Thiện của Tư Nhân tại Hoakỳ hay tại Ngoại Quốc. Kỳ tới, chúng tôi sẽ nói đến những cơ quán giúp ích rất nhiều cho Nhân Loại... như Hội Bác Sỉ Không Biên Giới mà Tổng đà Chủ tại Paris (Pháp). Xin đón chờ ý kiến cùng tài liệu thêm của quý bạn. Nhiều khi không cần Tài Lực nhưng nếu có Lòng Tha Lực thì cũng được Thượng Đế mến thương. Phải không?
Người Thứ Chín DC 89
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 17:30:44 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN Mộng Tuyền Nữ Sĩ Cụ Việt Dương Lacsa Court San Jose (qua Cung): Đọc Internet thấy bà cụ có nói về việc tiệc tùng ăn uống, cho biết là nguời Trung Hoa có lắm thức ăn để đãi đằn quan khách, nhất là hai đời Minh, Thanh. Vua Gia Khánh lúc bấy giờ có mở đại tiệc đến 1500 hỏa lò (Táo) để nấu 326 món ăn đặc biệt. (Tôi cũng nghe riêng từ những người sành điệu vấn đề ẩm thực, lắm món ăn mình được đãi đằn đó chẳng biết mình đang ăn món gì).Tôi hằng thắc mắc nước ta có những bữa tiệc nào khác lạ và có lám món ăn không? Nếu biết bà cụ vui lòng chỉ giáo. Cám ơn bà cụ nhiều. * Vấn đề ẩm thực thì quả Trung Hoa dẫn đầu thế giới. Do đó mới có câu:"Ăn cơn Tàu, ở nhà Tây, lấy vợ Nhật". Ăn cơm Tàu thì bây giờ còn giữ nguyên vị trí hàng đầu, còn nhà Tây hiện thời thua xa nhà Mỹ, và vợ Nhật thì... ngày nay người phụ nữ Nhật đã bị ảnh hưởng nặng tinh thần của người đàn bà Tây Phương rồi. Việt Nam ta cũng có lắm món ăn ngon lạ mà triều đình ngày xa xưa đã thiết đãi các Sứ Thần Trung Quốc. Như "Triều Minh Mệnh thứ hai vào năm 1821 vua ngự giá Bắc tuần để tiếp đón Thanh sứ và lễ dụ tế. Nghi lễ hoàn tất, vua lập tiệc khoản đãi Khâm sứ và các tùy viên Tàu. Theo thông lệ, thì việc thiết đãi Khâm sứ cỗ hạng nhất là 2 mâm, mỗi mâm 60 món; có các đại thần bồi yến; cỗ hạng nhì thì 4 mâm, mỗi mâm có 40 món; cỗ hạng 3 có 30 mâm, mỗi mâm 30 món thiết đãi các tùy viên. Sau đây là tên các món ăn hạng nhất: 1: Yến 2 bát. 2: Long tu. 3: cá mực. 4: Vi cá. 5: Hải sâm (đĩa biển). 6: Bong bóng cá thủ, 7: Gà trần. 8: Cá hấp 9: Gà quay lò cả con.10: Tôm rồng. 11: Thịt dê hầm.12: Lòng lợn luộc.13: Cua biển cả con. 14: Gà ninh cả con. 15: Chân giò hấp. 16:Cá xào bột. 17: Vịt ninh cả con.18: Chim bồ câu hầm.19: Thịt heo ninh. 20: Giò nạc. 21: Thịt gà quay.22: Giò hoa hầm.23: Chân heo ninh. 24: Ngỗng quay vàng dòn da.25: Chã nướng. 26:Thịt vịt hầm. 27: Thịt gà chặt miếng. 28: Bánh gai. 29: Bánh rán. 30: Bánh bột lọc.31 bánh bọt vàng. 32: Bánh Ngũ sắc. 33: Bánh bò trứng. 34: Bánh khảo. 35:Bánh Phu thê. 36: Bánh sắn trắng. 37: Bánh bột sắn vàng. 38: Bánh tráng mỏng. 39: Xôi màu xanh. 40: Xôi gấc. Quít một quả. 42: Cam một quả. 43: Chuối ngự, một quả. 44: Chè đậu xanh nhiễn.45: Mứt một bát. 46: Mứt Tứ linh. 47:Mứt làm thành các loại hoa. 48: Mứt làm bằng các loại trái cây. 49: Mứt nho. 50: Mứt táo. 51: Mứt bí. 52: Mứt hồng. 54: Mứy soan trà. 55: Mứt hạt dưa. 56: Mứt gừng. 57: Mứt củ gừng. 58:Bánh trứng chim. 59: Bánh vừng và 60: Bánh ngọt hình con ốc, con hến... Tóm lại, ta có thể liệt kê thấy trên bàn đại yến gồm có 27 thức ăn. Mứt: 12 thứ. Trái cây 3 thứ. Xôi hai thứ và chè một thứ. Đây là những món ăn quốc hồn vào thế kỷ 19.Tuy nhiên ngày nay Có nhiều món không còn thấy xuất hiện trong dân gian nữa. Cụ Vũ Đình Quý (qua Thu Thu Romain Rolland Ave. 93200 St. Dennis France): Tôi vừa qua Pháp cách đây nửa năm, tình cờ đọc tờ Đại Chúng của một người bạn cho mượn. Khi đọc đến mục nói về tiệc tùng ăn uống, sực nhớ lại trong Kinh thi có đề cập đến thực phẩm đời Tây Chu có đến hàng trăm thức ăn. Các thức ăn được đề cập đều là những thức ăn ngon. Bà cụ có biết tập tục ăn uống và ai là người thầy đầu tiên của việc bếp núc ấy? Nếu bà cụ biết xin chỉ giáo.Thành kỉnh cám ơn. * Đúng như cụ đã nói. Trong Kinh thi có đề cập thực phẩm thời Tây Chu có đến 130 loại và 200 loại thực vật. Kinh thi có câu: "muốn ăn cá, phải là cá phương dưới sông", "muốn ăn cá, phải là cá chép dưới sông. Dần dà đến đời Xuân Thu việc ăn uống lại càng phong phú hơn nhiều, những nhà chuyên lo về bếp núc ra sức chăm chút hơn. Chính Đức Khổng tử từng đề ra lời khuyên "Thất Bất Thực". Có nghĩa bảy điều không nên ăn. Muốn thức ăn ngon không phải đơn giản, mà khá phức tạp. Như người đời Hán dùng muối, dấm để nấu ăn. Ngoài ra họ còn dùng cả mật mà ta thường gọi là "màu" do đường thắng ra, làm gia vị. Cò hương liệu ngoài gừng, quế ra, còn có cả rau thơm... hành tỏi... Trương Tiến là người khai thông du nhập các loại thực phẩm mới mà Trung Quốc chưa có lúc bấy giờ như dưa hấu, dưa chuột, hồ đào, thạch lựu, nho v.v... nhập từ Tây Vực. Ngoài ra các thức uống đời nhà Hán cũng có lắm sáng kiến, như mùa hè dùng "băng" tự nhiên để uống, mùa đông dùng lò hâm nóng thức ăn. Đặc biệt đời Hán thích ăn thịt chó, người ta nghi ngờ việc thích ăn thịt các chú khuyển từ Triều Tiên du nhập vào. Dân chúng thích ăn đến nổi lắm người học làm nghề giết chó. Việc ăn uống tại Trung Nguyên ngày càng được thiên hạ ưa thích và truyền đi khắp nơi vào thời Ngụy Tấn Nam Bắc Triều. Các thực phẩm mà chúng ta ăn ngày hôm nay đều xuất hiện từ thời này. Qua đời nhà Tống có lắm quán ăn uống suốt cả ngày đêm. Và cũng thời kỳ này dân chúng đổ xô ăn bánh ngày tết. Các loại bánh Nguyên Tiêu cũng xuất hiện cùng một thời kỳ này. Lúc bấy giờ dân chúng ăn bánh "huân đồn", một loại bánh có hình dạng tròn bên trong có nhân thịt. Không phải ai cũng ăn được loại bánh ngon và quý này mà chỉ có giới giàu sang mới đủ điều kiện tiền bạc để mua ăn mà thôi. Ngoài ra còn đủ các loại bánh khác như Bắc Tống thì có bánh bao "Vương lâu mai hoa, bánh thịt Tào phu nhân, quán ăn thịt dê nhà họ Tiết, thịt vịt nhà họ Mai, sữa tươi nhà họ Vương v.v... Tiệc tùng ngày nay đơn giản hơn nhiều. Từ 8 đến 12 món, tùy theo khả năng của người chủ. Các nhà giàu có thì dùng toàn các loại cao lương mỹ vị kể cả yến sào, bào ngư thứ thật đắt tiền, óc khỉ, bánh bao nhân thịt chuột v.v... Tiệc nào cũng có rượu, nhưng nếu là đại yến thì rượu cũng phải đắc giá để cân bằng với thức ăn, có loại rượu mỗi chai đến cả chục ngàn đô la... v.v... Nói thế chẳng phải tiệc nào cũng được như vậy... tùy theo khả năng của người chủ và cũng tùy theo từng thành phần mà người chủ mời đến dự nữa. Cháu Trần Long Orange County (CA): Cháu tuy nhỏ song lại thích được học hỏi các thuyết của người xưa. Một hôm cháu ngồi nơi phòng làm việc của một cơ sở Bán Nhà Đất, nghe các cụ đến bên ngoài nói chuyện với chủ nhân của cơ sở này về về thuyết của Vương Thông ngày xưa. Cháu muốn biết Vương Thông đó là nhân vật nào? Và thuyết của nhân vật này ra làm sao mà được người đời ca tụng. Xin bà cụ chỉ giáo. * Vương Thông mà cháu muốn biết đó vào đời nhà Tùy. Ông chưa được xưng tụng như một nhà đại tư tưởng như Khổng Tử, mà chỉ xem là nhà Đại Nho. Suốt đời ông chỉ dạy học. Học trò ông về sau có nhiều người trở thành danh thần thời Sơ Đường. Ông đề cao thi, thư, lễ, nhạc, nhân chính, đức trị, quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử... Ông chủ trương Tam Giáo Qui Nhất đưa cả ba giáo (Nho, Phật, Đạo) vào một mối. Khi Trần Thúc Đạt hỏi về đạo quỉ thần, ông bảo:Kính nhưng xa ra. (Thiên địa). Có người hỏi về đạo trường sinh của thần tiên, ông trả lời: "Không trau dồi nhân nghĩa, không ăn ở cho hiếu để, trường sinh mà làm gì ? Quả con người ta tham lam quá (Lễ nhạc). Theo ông thì :"Trước tiên hãy nói chuyện người, sau hãy bàn ma quỉ.". Vể tu dưỡng đạo đức và vấn đề "tri hành", ông có nhiều kiến giải đáng cho ta học hỏi. Như câu ông nói: "Không đau xót nào bằng không được nghe nói đến mình, không nhục nào bằng không biết xấu hổ. (Quan lăng). Hoặc: "Ta chưa từng thấy ai bị chê mà mừng, được khen mà hãi sợ" (Thiên địa... ) Hoặc khi được Lý Mật hỏi:"Thế nào gọi là anh hùng?". Ông trả lời: "Tự biết mình là "anh" đã tự thắng mình, ấy đó là "hùng". (Chu công) Thuyết của Vương Thông nói không cùng. Có dịp bà sẽ cùng cháu bàn tiếp.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 22, 2009 17:43:40 GMT 9
VÀI NÉT SINH HOẠT VĂN HỌC NGHỆ THUẬT VỀ NGUYỄN HỮU NHẬTSinh ngày 22 tháng 06 năm 1942 tại La Khê Hà Đông. Sống tại Hài Nội từ năm 4 tuổi, di cư vào Nam 1955. Tham dự chiến tranh từ 67 – 75. Hai lần 11 năm tù đến 1989. Hiện sống tại Oslo. Đã xuất bản 12 tác phẩm thơ và truyện. Điều hành nhà xuất bản Anh Em từ 1970. Hiện là chủ bút tạp chí Hương Xa. LÝ TÓET & XÃ XỆ LTS: Lý Toét và Xã Xệ là hai nhân vật chính trong loại tranh cười cùng có mặt lần lược trên cá trang báo Ngày Nay và Phong Hóa, theo chủ trường "cười cợt để sửa đổi phong hóa” của Tự Lực Văn Đoàn, về một nền phong hóa giao thời Việt, Pháp, nử Đông nửa Tây, nửa phong kiến, nửa thực dân, nơi mà cụ Tú Xương đã ghi lại rằng: "Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt, Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng.” Nguồn gốc tranh cười nước ta. Lịch sử tranh biếm họa Việt Nam không chỉ có từ thời này càng không vì nhờ bắt chước Pháp mà ta có loại tranh cười. Tranh "tiến sĩ chuột vinh quy" hối lộ cá chép cho mèo. Tranh "đánh ghen" vợ cả cầm kéo tính xén tóc vợ lẽ, con bênh mẹ, ném đá về phía cha, chồng bênh vợ mới, tay huơ, tay giữ ngực. Tranh tốc váy lên hứng dừa... là những "tiếng cười bằng hình vẽ" đã có từ thuở xa xưa. Tranh cười dân gian, như các bài vè diễu, từ bao đời đã trở thành th vũ khí sắc bén, giữ gìn truyền thống và phong tục tốt đẹp; chúng chỉ chua cay, cưỡi cợt, nhạo báng trước những tục lệ hủ lậu, làm mục nát xã hội, do thói hư, tất xấu con người nói chung hoặc của giới thống trị nói riêng… Chính các tác giả của thơ cươiì hay tranh diễu cũng không có "thói hư" vơ đũa cả nắm, khi nói về "tật xấu" của người mình. Vì thế mà biếm họa, một lối vẽ châm biếm của tranh dân gian truyền thống đã được giới báo chí Việt ngữ đầu thế kỷ 20, kết thừa và phát huy, trong đó nổi bật nhất là hai tuần báo Phong Hóa, Ngày Nay. Nếu như tranh dân gian thời Pháp thuộc chỉ họa hình ảnh một người nào đó, không tên tuổi, leo cột mỡ thì Phong Hóa đã cho Lý Toét hoặc Xã Xệ vào hẳn trong tranh, trở thành các nhân vật lừng danh từ Bắc chí Nam… "Hội Thăng Bình", 14 tháng 7 Lý Toét từ quê ra tình "xem hội", đeo đôi giầy lên cán ô vì sợ đi nhiều thì giầy sẽ mau mòn. Thấy một người đang với tay lấy đôi dép treo trên cột mỡ, Lý Toét vội vã la to mách nước: "Này, lấy đôi giầy! Lấy đôi giầy hơn!” Trong khi đó, một tên căn cắp cũng đang cắt dây, lấy giầy của Lý Toét. Thời mà thể thống quốc gia, tức giềng mối nước nhà bị lung lay mạnh thì ít người dân đứng vững. Nhân cách đã mất còn nói gì đến quốc thể, khiến thơ văn của giới sĩ phu không ngớt lên tiếng chỉ trích. Thơ Nguyễn Khuyến đã nói ngay: "Ngày xưa nào thấy hội này đâu, Từ có quan Tây mới bắt đầu Nhọ mặt, than ôi người liếm chảo Bày trò, tệ nhỉ bọn vênh râu." Thơ Trần Tế Xuong đã nói thẳng: “Cậy sức, cây đu nhiều chị nhún Tham tiền cột mỡ lắm anh leo. Khen ai khéo vẽ trò vui thế Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu." Tranh dân gian liền ghi nhận ngay hình ảnh một người dân đóng khố, cố lêo lên cái cột cao có thoa mỡ cho trơn trượt để giật lấy lấy giải thưởng. Tranh "tả cảnh" , không phê bình. Tranh chỉ vẽ, không bình cảnh "người liếm chảo". Còn tranh cưới Lý Toét và Xã Xệ vì đăng chính thức trên báo nên phải tránh lưỡi kéo thực dân kiểm duyệt, cũng không đả kích thẳng vào ngày 14 tháng 7. Tùy theo người xem tranh một mà thấy được ngụ ý; "thằng cám hấp" không chỉ là kẻ đã leo lên được cột mỡ, lại tính lấy đôi dép, không lấy giầy, mà Lý Toét, kẻ mất giấy bên dưới mới đáng cười. Cuối cùng: Phần lớn những kẻ đi xem “hội Tây” đều ranh ma hoặc ngu dần? Ngu dần không thấy ngày quốc khánh đó là của kẻ cướp nước chứ đâu phải của mình. Lý Toét và Xã Xệ, những chất liệu để Phong Hòa, Ngày Nay vẽ lên bức tranh xã hội nước ta đầu thế kỷ 20. Ai đã sinh ra Lý Toét và Xã Xệ Không riềng người mình ở thời đó thích Lý Toét và Xã Xệ mà cả đến một số báo Pháp cũng trích đăng… Goerge Pisier đã đăng bức tranh sau đây trên tờ Indochine (Đông Dương) 75 – 76 ra ngày 12 tháng 2 năm 1942. Nội dung tranh đại khái “Bác Xã đến đúng giờ đã định, với quà tặng biếu bác Lý một đĩa táo Tây, vốn là thứ quý vì giá đắt. Bác Lý quê mùa, không biết là thứ quả gì, bèn hỏi: _ Bác mang sang cho tôi quả gì đẹp thế bác Xã? _ Tôi hân hạnh đư?c mang tặng bác mấy quả "bom" (pomme). Lý Toét tưởng là bom thật, sợ quá ngất xỉu ngay." Cách chơi chữ "bom" từ tiếng Tây pomme thường thấy ở miền Nam. Nhưng ai là người đầu tiên tạo ra hình dáng, cá tính hai "nhân vật ảo" mà sống động y như thật? Cho tới nay, người ta bảo họa sĩ nguyễn Gia Trí đã sinh ra Lý Toét và Xã Xệ. Căn cứ vào bút hiệu viết tắt "Gtri" trên một số tranh vẽ. Rồi sau đó, ai vẽ cũng được dù là họa sĩ hay người yêu hội họa, miễn là bức tranh có ý nghĩa, Phong Hòa và ngày Nay đều đăng. Người đó có thể là Đông Sơn, tức nhà văn Nhất Linh hay Tô Tử hoặc Ái Mỹ, tức họa sĩ Tô Ngọc Vân, hoặc Lemur tức họa sĩ Nguyễn Cát Tường, người vẽ kiểu áo dài tân thời Lemur. Một nguồn tin khác, qua bài báo "Có nên sửa bộ đời Lý Toét, Xã Xệ" đã dăng trên báo xuân Bình Minh, Sài Gòn 1968: Khoảng năm 1931 Phong Hóa mở cuộc thi vẽ tranh hài hước, như từng mở các cuộc thi văn họa sĩ Bút Sơn ở miền Nam, gửi trang dự thi và trúng giải nhất. Tranh vẽ Xã Xệ leo lên một bàn cân gạo nói "Bác Lý! Lên đây cân rồi chúng ta chia hai. Có sao đâu!” Sau đó, Lý Toét và Xã Xệ trở thành của chung trên Phong Hóa, Ngày Nay, không kể tới tác quyền của Bút Sơn. Hiện nay, hương Xa chưa có đầy đủ các số báo Phong Hóa, Ngày Nay đã in nên không biết sự thật ra sao. Theo lời tác giả Nguyễn Thị Vinh “ngay từ khi nhận tờ Phong Hoa do Phạm Hữu Ninh giao lại năm 1932, với tư cách là giám đốc kiêm quản lý, Nhất Linh đã tính tới việc tập hợp một số nhà văn, nhà thơ cùng một chí hướng "Chống phong kiến, chống thực dân, phổ biến những quan niệm nhân quyền và dân quyền, trình bày những quan niệm về tiến bộ cá nhân, gia đình va xã hội đặc biệt là khơi dậy lòng yêu nước của người mình. Năm 1936, Phong Hóa bị đóng cửa, tờ Ngày Nay do Nguyễn Tường Cẩm điều khiển lạinh nhanh chóng ra đời, tờ nào cũng đông độc giả khiến cho thực dân Pháp lo sợ trước tầm ảnh hưởng ngày càng lan trộng của Tự Lực Văn Đoàn. Nên tới năm 1939 thực dân Pháp lại ra lệnh cho đóng cửa nốt tờ báo Ngày Nay". (Thư gửi cô Mai, cô Loan, trích thi phẩm Cõi Tạm). Trước hết chúng ta cần để ý tới: 1932 – 1936: Phong Hóa 1936 – 1939: Ngày Nay. Ngày Nay đình bản năm 1939 là sai, vì ngày 24 tháng 8 năm 1940, Xã Xệ còn hỏi: _ Nước ta ở đâu có mỏ vàng cụ nhỉ? Lý Toét: _ Tôi nói ra bác biết để bác đi đào tranh tôi à? Vậy, khó tin được rằng cuộc thi vẽ tranh hài hước lại xuất hiện trước một năm Phong Hóa ra đời. Cho quảng cáo từ năm năm 1931? Nên cuộc thi chỉ có thể xảy ra từ năm 1932? Quí bạn đọc nào có tài liệu chúng tỏ Lý Toét, Xã Xệ có mặt từ ngay số ra mắt của Phong Hóa hoặc số Phong Hóa có loan tin họa sĩ Bút Sơn trúng giải nhất cuộc thi vẽ tranh hài hước, xin vui lòng gửi cho chúng tôi bản sao. Nhiều nguời đã vẽ LT & XX Nhiều tác giả và độc giả của Phong Hòa & Ngày Nay đã vẽ tranh cưới Lý Toét, Xã Xệ dù hai nhân vật này do nguyễn Gia Trí hay Bút Sơn sinh ra. Chắc chắn trong bảng chữ ký kể trên có họa sĩ Nguyễn Gia Trí và họa sĩ Nguyễn Cát Tường. Cũng do nhiều người vẽ nên chân dung của Lý Toét và Xã Xệ cũng có những nét khác nhau vì bút pháp không giống nhau, nhưng tất cả những hình vẽ Lý Toét và Xã Xệ đều cùng chung những tính chất không thay đổi như: 1. Lý Toét gầy, cao, rậm râu, nhiều tóc, tóc búi tó củ hành, khăn đống áo dài hay đi chân không vì sợ giầy dép mau hư. Quen sống ở nhà quê. Lý Toét làm chức Lý Trưởng và bị bệnh toét mắt nên gọi là Lý Toét. 2. Xã Xệ béo thấp đầu hói, chỉ còn độc nhất 1 sợi tóc, quần áo Tây Tàu đủ kiểu, thích đi guốc, khá văn minh… Xã Xệ một người ở thịnh xã, béo xệ nên được gọi là Xã Xệ. Cả hai đều có một hệ thống lý luận riêng, không giống nhau cũng chẳng giống ai. Nhưng ai cũng giật mình, đôi khi thấy trong người Lý Toét và Xã Xệ có cái… Ta. Nhưng vì tranh cười Lý Toét Xã Xệ không chạm tới cái to nên ai cũng thích. Phần khác, Lý Toét và Xã Xệ hoàn toàn không giống Ba Giai Tú Xuất, là hai nhận vật dân gian thông minh, ranh mãnh, quỷ quyệt. Lý Toét và Xã Xệ chưa từng bày mưu, tính kết để châm chọc, vụ lợi hay trả thù ai. Hai người này nghĩ, nói và làm nhiều việc khiến nhiều người phải cười. Lý Toét và Xã Xệ không hề dụng công, song người vẽ ra họ đều có dụng ý. Nhận diện Lý Toét và Xã Xệ Chính những nét bút, bố cục hay nghệ thuật tạo hình ly, Xã Xệ khác nhau, khi sắc xảo, lúc giản dị đủ cho thấy, chỉ riêng về mặt hí họa, Phong Hóa, Ngày Nay là tờ báo được độc giả bốn phương hưởng ứng. Đúc kết nhiều tin văn nghệ, rải rác trên một số báo chí miền Nam hoặc qua chuyện kể của kịch tác gia Vi Huỳn Đắc trước năm 975, về sự gợi ý ban đầu để báo Phong Hóa tạo ra hai nhân vật Lý Toét, Xã Xệ tựu trung: 1. Phỏng theo hai diễn viên "béo gầy" của loại phim cười thập niên 30 – 40. 2. Lý Toét là hình ảnh nhà báo Nguyễn Văn Tố, người mà tuần báo Phong Hóa thường châm chọc cái búi tó củ hành của ông. 3. Xã Xệ hao hao nhà thơ Tản Đà nguyễn Khắc Hiều. Nhân cuộc bút chiến thơ cũ, thơ mới, báo Phong Hóa số 14 ra ngày 22 tháng 9 năm 1932 đả kích thơ cũ không tiếc lời: “Phong Hóa đã bàn về những chỗ không hay, không hay vì bị bó buộc vào trong khuôn sáo của lối thơ Đường luật… Bỏ luật, niêm đối, bỏ điển tích, sáo ngữ, nghĩa là tóm tắt, đừng bắt chước cổ nhân một cách nô lệ. Thơ ta phải mới, mới văn thể, mới ý tưởng." Các báo bênh vực thơ mới sôi nổi nhất là Phong Hóa, Phụ Nữ, Tập Văn, Tiểu Thuyết Thứ Bảy… Tản Đà không hẳn bênh vực thơ cũ nhưng cho rằng thơ mới Tây quá. Ông đã làm bài Tử Nhập Xuân Thi đăng trên An Nam Tạp Chí của Tản Đà, số 6. Bài thơ lên giọng hết sức kẻ cả, ông Tản Đà bảo cho bạn Phong Hóa. Ông Tản Đà Nhắn Bạn Phong Hóa Mấy lời nhắn bảo anh Phong Hóa Báo đến như anh thật láo quá Từ tháng đến năm không ngớt mồm Sang năm Qúi Dậu phải kiếm khóa Ông nỉnh ông ninh có liệu mà Tứ tái tứ tam đừng trách nhá Chút tình đồng nghiệp bảo cho nhau Giờ gió (8) thổi đi mong cảm hóa (*) (*) Gió + hóa = Phong Hóa Báo Phong Hóa qua Lê Ta Nguyễn Thứ Lễ, tức nhà thơ Thế Lũ, người đứng đầu phong trào thơ mới vội họa thơ trả lời An Nam Tạp Chí: Gửi Bác Tản Đà Anh lên giọng ruợu Khuyên Phong Hóa Sặc sụa hơi men khó ngửi quá Đã dạy bao lần, tai chẳng nghe Hẳn còn nhiều phen mồm bị khóa Thâm mềm chưa chắc đứng ngay đâu Lưỡi ngắn thì nên co lại nhá. Phong hóa mà không hóa nổi anh Túy nhân quả thật là nan hóa. 3. Năm 1954 ở Hà Nội một tờ báo, không nhớ là nhật báo Giang Sơn hay Tia Sáng trong đó có bài báo viết về họa sĩ Lemur nguyễn Cát Tường, đại ý: Dựa theo những hình vẽ thường thấy trong loại tranh cười của tuần báo trào phúng Phong Hóa dưới đây, ông Tường đã sáng tạo ra hai nhân vật độc đáo Lý Toét và Xã Xệ. Chúng tôi ghi lại, không ghi nhận các nguồn tin trên chưa có bằng chứng xác đáng để có thể xác nhận nguồn gốc của Lý Toét và Xã Xệ. Hai nhận vật này dù muốn hay không chỉ là phương tiện của mục cười trong báo cười Phong Hóa, Ngày Nay rói riêng và của Tự Lực Văn Đoàn nói chung, cho một cứu cánh: “Cười cợt để sửa đổi phong hóa” Văn hóa và phong tục nước ta thời thuộc Pháp giữa hai luồng gió Đông Tây xoáy tít, bụi rác của nhiều hủ tục xưa cùng vơi mọi chất cặn bã của thứ a dua Tây hóa sốp nổi làm mờ mịt bức tranh xã hội. Nên văn hóa, nghệ thuật và báo chí của Tự Lực Văn Đoàn chủ trương nâng cao trình độ dân trí. Nhưng không sửa chữa thì không thay đổi được, nếu muốn đổii nhưng cái xấu cũ để thay vào đó bằng những cái tốt mới. Nên Phong Hóa và Ngày Nay không chọn con đường để trở thành một tạp chí văn hóa nghệ thuật thuần túy hoặc một tạp chí chính trị, xã hội, chuyên nhghiên cứu và lý luận. Phong Hòa và Ngày Nay chỉ là hai tờ tuần báo cười, trong đó có nhiều tranh hài hước, biếm họa hí họa. Lý Toét, một anh chàng nhà quê học đòi và Xã Xệ, một anh giàu sổi học làm sang. Cả hai khi thì ngây ngô, lúc lại hợm hĩnh, nhưng Phong Hóa và Ngày Nay không nhắm chỉ trích dân quê hay thị dân, không cho rằng ơ 3nhà quê thì "gạo trắng, trăng thanh, gió mát" và ở thành thị thì "cơm máu, ngựa người, bụi khói." Cũng không nghĩ là dân phố sang hơn dân ruộng. Từ làng ra tỉnh, bất cứ nơi đâu phong hóa suy đồi đều bị cười cợt. Chẳng cười choi, cười cho vui, mỗi bức tranh cười là một vấn đề văn hóa xã hội. Tiếng cười như tiếng chuông đánh thức dân Việt dậy ra khỏi cơn mê mộng tự tôn "bốn ngàn năm văn hiến” hoặc như tự ti “dân an nam mít” thấp kém. Xã Xệ: _ Còn độc một chiếc lược, lại còn đúng hai cái răng, rõ chán! Lý Toét: _ Còn chán gì nữa! Đầu bác có một sợi tóc ranh thì hai cái răng là đủ chải. Đến đầu toi hàng vạn sợi tóc mà cũng chỉ dùng lược có hai ba chục răng thoi! Sợi tóc của Xã Xệ "như cái đuôi giữa hai cái mông lợn" cần chi tới lược? Người xem tranh mỉm cười về sự ngớ ngẩn của Xã Xệ. "nhưng có người xem tranh nào nhận ra mình cũng vớ vẩn như Xã Xệ, ở một khía cạnh khác: Khi đất nước mất tự do cũng tựa hồ như đầu rụng gần hết tóc, người dân sống trong nô lệ mà còn cần đến các thứ Hội đồng Hàng tỉnh, Hội đồng Dân chính Bắc kỳ như lược 2 răng c?a thực dân Pháp. Ngày nay nhiều người còn hy vọng vào bản Hiến Pháp và Quốc Hội của một chế độc độc đảng, độc tôn. Chưa biết Xã Xệ hay người xem tranh nào đó ở thời này, ai ngớ ngẩn hơn ai?" Nhà văn và nhà thơ Thụy An Lưu Thị Yến, mười lăm năm tù trong vụ Nhân Văn Giai phẩm năm 1978 đã nhận xét như vậy khi coi tranh trên. Lý Toét: _ Chà khổ quá! Xuất hành hướng Đông mà hướng Đông tường chắn thế này thì làm sao? Năm mới ngày đầu tiên Lý Toét ra khỏi nhà gọi là xuất hành, chọn hướng đi và giờ giấc hợp với tuổi, để mong suốt năm may mắn. THay vì chọn hướng dù đi đường nào cũng được, miễn là đúng hướng, Lý Toét chỉ chọn đường. Gặp trở ngại thì kêu khổ. Hướng tiến tới của cuộc cách mạng dân tộc đầu thế kỷ 20 là Độc Lập, Tự Do, hạnh Phúc. Có nhiều ngả đường, học thuyết chính trị để đi tới hướng này. Nhưng thực tế, cuộc cách mạng đã bị dồn vào lối độc đạo mà trở ngại của nó là dẫn tới bế tắc, sau nửa thế kỷ mới tính quay đầu trở lại. Suốt mười năm Tự Lực Văn Đoàn làm Phong Hóa, Ngày Nay qua mấy trăm số báo ra hàng tuần, tuần nào cũng có nhiều tranh cười Lý Toét và Xã Xệ, biết bao nhiêu vấn đề xã hội được nêu lên nhằm sửa đổi cách suy nghĩ của người mình. Vua coi xã tắc như của riêng mà mình độc quyền cai trị để hưởng đặc lợi. Dân chúng phần đông coi của công là chẳng phải của ai. “Ăn cắp của công là không ăn cắp của ai hết.” Cách suy nghĩ của phần đông trên, dưới rất "Xã Xệ" khó có Tự Do, Dân Chủ, Công ích và Kỷ Luật. Đội Xếp: _ Ê, ai cho phép tắm ở đây? Xã Xệ: _ Rõ cái ông này mơi sinh sự chứ! Tôi tắm ở hồ nhà nước, chứ tôi tắm ở hồ nhà ông à? Những vấn đề mà báo Phong Hóa, Ngày Nay nêu lên từ 1932 tới nay 2002, bảy mươi năm qua vẫn còn mới nguyên, như nạn bóc lột, cửa quyền, tham nhũng, bè đảng, cá lớn nuốt cá bé, mạnh được yếu thua... Chắc cũng vì quen sống lâu trong cảnh tù giam, bị trói tư tưởng, câu thúc thân thế mà những người tù, nhân dịp năm mới, thay vì chúc nhau sớm được tự do, lại chỉ mong cho nhau Phát tài và sinh cháu trai!
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 17:36:27 GMT 9
CÂU CHUYỆN XƯA
Kỹ sư sagant Phan
Vừa rồi tại thủ đô tị nạn Little Saigon, Westminster người ta tổ chức nhiều vụ biểu tình và nhiều vụ tưởng nhớ đến ngày 30/4, người ta cũng gọi ngày này là Tháng Tư Đen. Không dè ở nơi xứ lạ quê hường cũng gần 28 năm rồimột thời gian quá dài và cũng có thể nói là quá ngắn cho một đời người. Dài là mong ngóng, trông đợi và không đến được, còn ngắn là đã đoạt được và mong có thêm nữa chẳng hạn như có nhiều Việt kiều ngày xưa tại quê hương họ không làm được một chuyện gì cho ra hồn, nay qua xứ này thì mọi chuyện thịnh vượng may mắn đến với họ không kịp hưởng hết. Như vậy đời là quá ngắn ngũi. Còn một anh lính chiến, ngày xưa anh cầm súng gìn giữ quê hương rồi khi qua đâyhọ không làm được điều gì cho nên hồn thì đời quá dài là như vậy.
Không riêng gì chúng ta có tâm trạng này mà chính hai vua Việt bị Pháp đi đày cũng mang tâm trạng giống chúng ta. Hai Vua là Vua Thành Thái và Vua Duy Tân.
Tôi đọc một quyển tùy bút của một tác giả nào đó mà chúng tôi không nhớ rõ lắm, âu đành viết khuyết danh vậy. Đây là lời của một anh lính thợ ngày xưa, năm 1937-1938. Nay anh không còn nữa, nếu còn anh sẽ ở vào tuổi trên 90. Lời người lính thợ nói như sau: “Khoảng năm 1937-1938, tôi xin được làm thợ xếp chữ tại nhà in khuyến nông do cụ Nguyễn công Tiểu, một nhà khoa học Việt Nam hồi đó điều hành. Lúc tôi đến làm, cụ Tiểu đã bán lại nhà in này cho một chủ khác. Tôi sắp chữ còn chậm nên tiền lương chả đáng là bao, chỉ đủ cơm muối, rau dưa. Hàng ngày đến nhà in tôi cũng được nghe tin tức sắp đánh nhau to ở Châu Âu. Vừa lúc bọn Pháp ở Đông Dương tuyển mộ lính sang Pháp. Là thanh niên, muốn đi đó đây, nên tôi tình nguyện xin vào lính không có chuyên môn gì. Vừa tới Marseille, Pháp thì nghe tin nước Pháp đầu hàng Đức Hitler. Bọn Pháp đưa chúng tôi đi nhiều nơi, mỗi nơi chỉ ở lại vài ngày. Vì mới sang Pháp nên không biết những vùng đặt chân tới, sau mới được biết là ở các miền được tự do của Pháp do chính quyền PêTanh thân Đức cai quản. Qua thông tin khác nhau trong anh em binh lính Việt Nam chúng tôi được biết là trên 1.5 triệu lính Pháp bị bắt làm tù binh. Cũng may cho số lính Ta, chưa được phiên chế vào một đơn vị nào nên chúng tôi mới thoát khỏi bàn tay cầm tù của Phát Xít Đức. Khoảng nữa năm sau, bọn sĩ quan Pháp thông báo cho chúng tôi biêt là họ chọn 60 người lính tình nguyện sang Bắc Phi. Tôi liền dơ tay xin đi.
Anh em chúng tôi, quá nửa quê ở Nam Bộ, còn lại ở Trung Bộ và Bắc Bộ. Anh em chúng tôi sống vui vẻ và đoàn kết. Chúng tôi tới Angiê (thủ đô Algeri), đi tàu xuống Calabansa, thủ đô Marốc. Quanh quẫn độ vài tháng trôi qua, chưa biết mình sẽ đi đâu nữa và làm gì. Một hôm chỉ huy Pháp tạo hợp 60 anh em chúng tôi lại chuẩn vị hành trang. Đến chiều họ dẫn chúng tôi ra cảng xuống tàu. Tàu nhổ neo rời bến. Xin nói thêm là cùng chuyến này có khoảng 300 chuẩn úy vừa tốt nghiệp trường Võ Bị Saint Cyr của nước Pháp. Pháp thua trận đã đầu hàng Đức, họ may mắn thoát khỏi bị làm tù binh Đức, và được đưa sang Đông Dương tránh họa. Tàu có 2 tầng, 60 anh em chúng tôi ở tầng 2. Số chuẩn úy này cư xử chúng tôi rất bình đẳng vui vẻ. Nhiều lần tàu phải đỗ xa bến, canô ra đón, anh em ta nhanh nhẹn nhảy xuống chiếm chỗ ngồi. Họ chậm chân xuống sau, hết chỗ ngồi, cười thản nhiên như không.
Khi xuống tàu chúng tôi mới được biết là sẽ trở về Việt Nam nên rất vui mừng. Tàu không dám qua kênh đào Suez là con đường ngắn nhất, mà phải qua ngang eo biển Gilbrata Đại tây Dương, vòng phía trên mũi Ảo Vọng Hope Cap vào Ấn độ Dương để về Saigon. Thời gian kéo dài trên nữa năm. Vừa đi vừa phải nghe ngóng sợ bị máy bay, tàu chiến, tàu ngầm của Đức và Anh săn đuổi đánh chìm. Tàu tranh thủ dừng lại ở tất cả các xứ thuộc Pháp ở bờ biển Tây Châu Phi: Senegal, Guine... lấy nước ngọt, lương thực thuốc men. Có nơi tàu đổ lại tới 2 tuần. Chưa kể sóng gió ngoài khơi, nhất là khi đi vòng qua mũi Ảo Vọng thật là kinh khủng. Rất nhiều lần có thể do tình hình giông bão mà người Chỉ Huy trên tàu ra lệnh cho tất cả mọi người là đêm ngủ phải buộc phao vào người.
Một hôm chúng tôi dược biết tàu sẽ cặp bến ở đảo Reunion nghỉ lại 1 tuần như mọi lần để tiếp tế nước và lương thự ccùng nhận một số lượng hàng hóa như đường cát khá lớn có lẽ đem vào Sài Gòn mua bán chăng?
Tới bến nào cũng vậy, chúng tôi và nhóm chuẩn úy được hưởng quy chế y như nhau lutậ lệ như nhau. Được tự do lên bến chơi từ sáng đến chiều. Sáng tối điểm danh có mặt là được.
Tôi quệ ở Ý Yên (Nam Định). Ông Nội và Ngoại tôi đều là sĩ phu Bắc hà, theo chiếu Cần Vương của vua hàm Nghi tham gia nghĩa quân chống Pháp. Lúc tôi còn nhỏ, thưởng được hầu trà, điếu đóm cho hai Ông Nội, Ngoại. Các Ông thường nhắc đến các vua Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân với niềm thương xót vô hạn, đáng vì Minh quân còn vua đương thời là vua Bảo Đại, hai Ông đều gọi là Bảo Khuyển vì chữ đại viết theo chữ Hán thêm một dấu thành chữ Khuyển ngay). Và đem câu vè dân gian ra giễu cợt: "Ba con đổi lấy một cha, Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền " lý do khi vua Khải Định lên ngôi, tiền tệ lưu hành có đồng Chinh tức nửa xu mà 100 xu bằng 1 đồng bạc) trên có khắc chữ: Khải Định Thông Bảo, khoảng 1934-1935. Ngân hàng Đông Dương cho lưu hành đồng Bảo Đại Thông Bảo. Nhưng 3 đồng Bảo Đại bằng 1 đồng Khải Định).
?n tượng tuổi thơ về hai vị Minh quân yêu nước bị Pháp bắt đi đày biệt xứ sao mà in sâu đậm vào đầu tôi đến thế.
Đảo Reunion kia rồi! Đầu tôi bỗng nóng ran, tim đập thình thịch như trống làng. Cái gì ma run rũi chúng tôi được đặt chân lên hòn đảo chơi vơi giữa đại dương như thế? Trong số 60 anh em có anh Tuệ – con một gia đình viên chức- là học sinh HàNội hợp tính nết nên chúng tôi trở thành đôi bạn tâm giao. Hai chúng tôi nhất trí ngay với nhau là phải bằng mọi cách đến thăm hau đức minh quân ấy. Thời cơ có một không hai trong đời mình. Lệnh của chỉ huy trưởng là 60 anh em chúng tôi chỉ được chơi ở bến cảng, không được vào Saint Denis thủ phủ đảo.
Bến cảng có một dãy phố khá dài, nhiều hiệu ăn, hiệu tạp hóa phần lớn là của người Trung Quốc. Chẳng gặp một người Việt Nam nào. Tiền lương tháng lĩnh trên tàu chỉ đợi lên bến để chi tiêu xả láng. Bến nào cũng vậy. Hai chúng tôi đến một hiệu ăn người Hoa. Do biết chữ hán nên chúng tôi bút đàm với chủ hiệu nên tranh thủ được cảm tình của ông. Chúng tôi viết là người Việtnam, nhìn tôi một lát ông viết: "An Nam Hoàng đế cư tại thứ xứ" nghĩa là Hoàng đế An nam ở tại xứ này. Thế là có manh mối. Chúng tôi đặt ngay vấn đề muốn đến chào hỏi hai đức Hoàng đế, nhờ ông giúp cho. Chúng tôi cũng nói thật là chỉ huy trên tàu cam chúng tôi vào thủ phủ, chúng tôi phải đi lén. Suy nghĩ một lát ông viết trên giấy là sẽ giúp, dặn ngày mai phải đến sớm có người giúp, cho mượn quần áo và lấy vé tàu cho vào sâu, ông không đi được nhưng sẽ có người nhà dẫn chúng tôi đi. Đến một hiệu ăn trong phố, chúng tôi sẽ gặp một người đàn ông dị tật đầu nghiêng qua một bên. Người đó là người Việt Nam sẽ dẫn chúng tôi đến nhà của Hoàng đế.
Hôm sau chúng tôi đến biệu ăn thật sớm, tưởng là hai bộ quần áo người Hoa, té ra 2 bộ cômlê ca vát lịch sự. Người đưa đi cũng ăn vận bảnh bao như chúng tôi. Từ bến vào cảng thủ phủ chừng 30 kí lô mét, có đường xe goòng để chuyên chở đường đóng bao. Toa xe chở người tuy noh nhưng cũng có ghế cửa kính, chớp đàng hoàng. Dọc đường goòng hai bên nứa bạt ngàn tít tắp của chủ đồn điền thực dân Pháp. Những cây mía cao to lực lưỡng, lá mía tua tủa chọc trời. Mấy tháng lênh đênh biển cả chán ngán với màu xanh dương của biển, nay gặp cây cỏ thấy ấm áp làm sao lạ. Chúng tôi tới Saint Denis, thủ phủ của đảo Reunion, người đưa đường dẫn chúng tôi đến một tiệm ăn cũng của người Hoa, xong người này xin phép ra về. Chúng tôi vào ngay cửa hiệu thì gặp ngay người dị tật nọ. Nhìn quanh ngó quẫn xung quanh một lát chúng tôi hỏi nhỏ: "Ông là người Việt Nam?", ông lặng người một lát rồi lặng lẽ chùi nước mắt gật đầu. Ông ta cho biết ông là con của nghĩa quân Hoàng hoa Thám, bảy tám tuổi làm giao thông cho nghĩa quân. Khi cụ Thám bị sát hại, ông bị Pháp bắt đày tới đảo này. Ông nói tiếp giờ không hiểu bố mẹ còn hay đã mất, quê quán không rõ là nơi đâu, ở đây nhờ các chị Hoa người Hoa kiều giúp đỡ nên đành ở lại tại đây. Chúng tôi nói rõ ý định muốn gặp Hoàng đế thí ông đáp ông bận trông nhà nên đi không được nhưng ông chỉ đường cho chúng tôi đến nơi đó, cuối phố cạnh một cửa hiệu chụp ảnh có ngôi nhà 2 tầng, cổng sắt là nhà của đức vua. Ông ta còn căn dặn: “nhà Vua lễ giáo quy củ lắm, con cháu cứ răm rắp hai ông nên ý tứ”. Cám ơn xong chúng tôi đến ngay nhà đó hiệu chụp ảnh giả vờ đi qua đi lại đôi lần.
_ Hai bác muốn vô thăm? người nhà hỏi bên trong cửa sắt là một thanh niên trạc 16 tuổi, khỏe mạnh dễ thương. Chúng tôi vừa gật đầu nói xin vào là một bên cửa sắt mở rộng. Ngôi nhà của đức Vua hai tầng, mỗi tầng khoảng 24 m2. Tanb dưới có hàng hiên rộng, bên trong cổng sắt chừng 10 bước. Đập vào mắt tôi là có hai người đàn bà béo đậm, mặc quần áo kiểu bà ba, tóc búi. Có thể đã nghe tiếng nói quê hương "xin vào", biết chúng tôi là người Việtnam, cả hai cùng òa lên khóc nức nở. Vừa khóc vừa nói: "lên mời đức Ông xuống".
Chúng tôi sững lại trước hiên rưng rưng nước mắt. Cả hai bà cáng khóc to, vừa chùi hai dòng nước mắt lã chã tuôn rơi, vừa dậm chân nói lớn: "Kìa lên mời đức Ông xuống ngay chớ?"
Ba bốn phút sau, nhà vua mới từ trên lầu xuống. Ngài mặc áo gấm xanh, quần lụa trắng, tất trắng đi hài. Nhà vua để đầu trần, tóc còn đen, mới lơ thơ vài sợi bạc. Tầm vóc cao săn chắc, cân đối còn nguyên vẻ phong lưu mã thượng. Có cái gì tiềm ẩn trong dòng máu, tự dưng hình hài Ông Nội tôi xuất hiện, được vào yết kiến một minh quân biết bao nguỡng mộ. Dang rộng cả hai cánh tay, ngài bước tới nhanh ra hiên, ôm chầm lấy hai chúng tôi, ghì mạnh hồi lâu, hơi thở dồn dập. Rồi Ngài cầm tay chúng tôi ra hiên sau, trước một khoảng vườn xinh xinh vừa phải.
Trên nửa thế kỷ trôi qua, tôi đã gần ở tuổi 80 nên không nhớ được cụ thể lắm, lúc ấy chúng tôi đã nói những gì với Ngài. Chỉ biết hôm đó, chúng tôi được sống bên Ngài liền 6 tiếng đồng hồ (từ 9 giờ sáng đến 3 giờ chiều). Ngài hỏi chúng tôi rất nhiều về quê hương đất nước, vụ chiêm, vụ mùa, con cá, con cua, củ khoai, củ sắn, thuế má, phu phen tạp dịch, sưu cao, cùm kẹp, chính sách ngu dân của Pháp ra sao, đỉ điếm bàn đèn thuốc phiện, rượu chè nhảy đầm. Đường xa đèn điện, bệnh viện trường học bao nhiêu... Ngài hỏi rất nhiều, thượng vàng hạ cám, chợt nhớ là hỏi liền. Hỏi bao nhiêu cũng chưa thỏa lòng. Biết chúng tôi có ghé bến Algerie, Ngài hỏi: "Đấng tiên vương Hàm Nghi bị đày ở đó, hai ông có đến bái kiến không? Chúng tôi thú thật là có tìm hỏi nhưng không ai biết cả. Ngài nói giọng rầu rầu: "Algerie rộng lớn lắm. Chính tôi cũng không rõ họ giam đấng Tiên Vương ở đâu."
Tuy hận thực dân Pháp, nhưng nhà vua chỉ nhắc một lần diễu lạnh lùng: "Họ giam tôi ở Cấp 4 năm, dụ dỗ tôi nhận tội với nước Đại Pháp đi, sẽ được trở về với vợ con sung sướng. Cất to giọng Ngài nói tiếp, tay chỉ lên mắt trái: "Tụi nó chích thuốc làm tôi chột một con mắt đây này". Tôi nhìn thấy đúng là con mắt trái của Ngài bị hư như lé một bên.
Đang nói về sông Hương núi Ngự, Ngài dừng lời giây lát rồi nói: “Lúc Khải Định mất, tôi có gửi về hai câu đối như sau:
_ Ông đi đâu, bỏ cả nàng hầu, bỏ hết trần duyên trong một cõi
Tôi còn ở lại, còn Trời còn Đất, còn cơ hội với Năm Châu.
Trong lúc hầu chuyện Ngài, tôi vẫn thấy mọi người đi lại làm những việc trong nhà như mọi ngày. Hai người đàn bà to béo chốc chốc lại bưng khay trà mới đặt lên bàn. Hai năm sống ở Pháp, Bắc Phi thường dùng cà phê, nước sôi để nguội, hôm đó được uống trà với Ngài, tôi càng thấy đậm thế nào là hương vị quê hương đắt nước.
Ngài có 6 người con. Hai trai, bốn gái. Ba cô gái lớn đã lập gia đình, còn một cô bị liệt.
Ngài chỉ về phía cô ấy đang ngồi góc hiên chăm chú theo dõi câu chuyện của chúng tôi với Ngài. Con trưởng là Duy Tân cùng chung số phận như người con thứ, mở hiệu chụp ảnh ngay bên cạnh. Lúc đó chúng tôi qua hiệu ảnh, nhìn vào thấy một người đàn bà bản địa, da hơi nâu như người Ấn Độ, đó là vợ của người con trai thứ. Còn hai người đàn bà béo đậm, chúng tôi đoán là hai thứ phi đi theo Ngài từ lúc Ngài vứt bỏ ngai vàng bị đi đày biệt xứ. Con cái đã phương trưởng, nên cuộc sống của Ngài đỡ eo hẹp.
_ Trước trợ cấp của tôi tạm đủ. Khải Định lên ngôi liền xén bớt một chút. Nay Bảo Đại xén thêm nữa.
Từ chuyện đời sống, gia đình hiện tại, nét ưu tư phiền muộn hẳn sâu trên vầng trán của Ngài. Ngài rầu rầu nhắc đến bà chánh phi và người con dâu của Ngài là vợ vua Duy Tân. Ngài cho biết hiện giờ cả hai đều đi tu ở chùa ở Huế. Nhân dân ở đấy gọi là vợ vua Thành Thái và vợ vua Duy Tân. Đến đây Ngài ôm mặt gục đầu xuống lát lâu. Qua cơn xúc động Ngài đọc luôn bài thơ của bà chánh phi gởi cho chồng:
Chồng hỡi chồng, con hởi con
Cùng nhau xa cách mấy năm tròn
Bên trời, góc biển nơi chim cá
Dãi gió dàn sương tủi nước non
Mông điệp khó vì ai lẽo đẽo
Canh khuya luống để thiếp chon von
Ngày qua tháng lại đăm đăm tưởng
Muôn dặm xa xa mắt đã mòn
Đã mòn con mắt một phương Âu
Có thấy chồng đâu, con ở đâu?
Dẫu có non xanh cùng biển tốt
Không ngăn giọt thảm với mưa sầu
Bài thơ này có đến 43 câu
Ở góc vườn có một cái giếng nước rất trong, xây thành cao, cạnh giếng có cây bưởi to cao in bóng xuống đấy sâu. Tôi nhẫm đọc hai câu vế đối ghi bàng chữ Nôm, nét bút khá đẹp trên một tấm gỗ bào nhẵn ghim vào thân cây:
Cây Tùng bóng nước oằøn oại lội
Hoa hồng, đào non, hớn hỡ cười!
Thấy tôi độc được chữ Nôm, Ngài tỏ vẻ thích thú nói: “Khải Định sang Pháp bày nhiều trò nhục quốc thể." Đi và về đều qua Ấn Độ Dương, đảo chúng tôi ở. Tức cảnh tôi làm hai câu vế đối này.
Tại bức tường, nhà phụ gần đây lại có biển với bốn câu thơ nôm:
Tám mưới năm lẽ chán âu lo
Cái nợ tang bồng đã trã đâu
Nhờ trận gió Đông hăng hái thổi
Tan mui tanh khét, háo thơm tho.
Rồi Ngài hỏi: "Ủa hai anh không biết quân Nhật đã vào chiếm ba nước Đông Dương rồi hay sao?"
Chúng tôi thú nhận là từ đầu năm 1940 sang Pháp rồi tới đây chẳng được biết tin gì.
Nhà vua chau mày, nói tiếp: "Quân Phiệt Nhật đưa thuyết Đại Đông Á khu thịnh vượng chung ra để lòe bịp thiên hạ người Châu Á da vàng chúng ta. Khối kẻ thoạt đầu chuỗi tay người nhẹ dạ háo hức đấy.
Tôi làm bài thơ Nôm này khi nghe tin quân Nhật vào Đông Dương.
Những năm sau về đến Saigon ra Huế rồi HàNội, tôi gặp một số anh em họ Tôn Thất tôi được biết thêm là vua Duy Tân trong thời gian bị đi đày, ngài tự học rất nhiều văn học, nghệ thuật và khoa học kỹ thuật. Thực dân Pháp giàm sát chặt chẽ, nhưng Ngài tự mần mò nghiên cứu lắp ráp được cả máy thu thanh để theo dõi tin tức năm châu bốn biển. Lắp ráp được máy điện thoại mà chúa đảo không thể ngăn cản được.
Bữa cơm trưa, quanh chiếu bàn tròn có phần đông thành viên của gia đình Ngài: Hai bà vợ, hai cô con gái, cô gái bị liệt hai chân, cậu cháu Nội thanh niên 16 tuổi người mở cửa cho chúng tôi vào. Thịt gà, lá chanh đậu phụ. Toàn các món ăn dân tộc. Chắc là mọi ngày gia đình Ngài vẫn dùng các món như vậy.
Chúng tôi nâng cốc, rượu nếp như ở ta. Thú thật là lậu rồi chúng tôi mới được ăn buổi cơm, uống rượi nếp đặm đà thi vị quê hương đến vậy. Ngài chỉ dùng hai lưng cơm, ăn ngon miệng. Các thành viên khác ăn uống vui vẻ, coi chúng tôi như người trong nhà.
Chợt nghĩ đến Ông Nội Ông Ngoại tôi thầm ước, giá lúc này có hai cụ còn sống được gặp ngài thì sung sướng biết bao.
Tranh thủ lúc Ngài lau miệng rửa tay sau bữa cơm, chúng tôi hỏi nhỏ người cháu Nội và được biết là từ cái ăn đến cái mặc Ngài không bao giờ mặc đồ tây, ăn cơm tây uống rượu tây. Từ bé đến giờ cậu ta chỉ biết ăn cơm ta dùng đồ ta. Người con trai lớn đến chụp hình nhiều kiểu xa gần, toàn cảnh, cân ảnh hai chúng tôi ngồi cạnh Ngài hai bên. Anh về rửa ảnh ngay, kịp tặng lưu niệm cho chúng tôi.
Phút chia tay thật bịn rịn, xao xuyến lạ thường. Tôi cứ bâng khuâng như phải ly hương một lần nữa. Đức Vua ghì chặt hai chúng tôi trong vòng tay rất lâu. Rồi Ngài buông tay, quay vội vào nhà. Bắt tay từ biệt người cháu Nội ngoài cổng. Khi cổng sắt vừa đóng lại thì tiếng khóc lại òa lên nức nở sau lưng chúng tôi.
Đó là những lời kễ lại của một người mà vẫn còn nhớ đến kỷ niệm ngàn năm khó quên như vậy.
Ngày đặt chân lên nước Hoakỳ, ngày đầu tiên chúng tôi cũng rơi nước mắt như giọt nước mắt của Vua Thành Thái vậy, không cần phân biệt thứ dân hay Hoàng đế âu dư vị quê hương vẫn ngàn đời trong tôi.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 21, 2010 4:36:15 GMT 9
Táo quân Việt Nam và táo quân Trung Quốc Lê Anh Minh «THẾ GIAN MỘT VỢ CHỒNG, KHÔNG NHƯ VUA BẾP HAI ÔNG MỘT BÀ». ĐÂY LÀ CÂU CA DAO CỦA NGƯỜI VIỆT NAM NHẮC LẠI SỰ TÍCH VỀ TÁO QUÂN, NHƯNG ĐÓ LÀ TÁO VIỆT NAM, CÒN TÁO QUÂN TRUNG QUỐC THÌ SAO? PHẢI CHĂNG TÁO TRUNG QUỐC CŨNG CÓ CẢNH CHUNG SỐNG HÒA BÌNH VỚI MỐI TÌNH TAY BA TƯƠNG TỰ NHƯ TÁO VIỆT NAM? Hầu như mỗi người Việt chúng ta ai cũng thuộc lòng sự tích Táo Quân, còn gọi là Vua bếp hay Ông Công. Hằng năm, trong cái không khí tất bật của năm tàn tháng tận, đa số chúng ta đều không quên phong tục cổ truyền: ngày 23 tháng Chạp, cúng tiễn ông Táo về Trời. Gia đình giàu có thì tha hồ bày biện lễ vật: hoa quả, trầu rượu, xôi gà... nhân tiện cũng cúng gia tiên luôn một thể. Người miền Bắc và Trung thường cúng thêm một con cá chép sống, bởi vì cá chép có thể hóa rồng (Lý ngư hóa long) để vượt qua chín tầng trời, đưa ông Táo gặp Ngọc Hoàng Thượng Đế, tâu trình việc thiện ác của nhân gian trong suốt năm qua. Người miền Nam không cúng cá chép, thay vào đó là đốt giấy in mộc bản hình «cò bay, ngựa chạy» coi như hai con vật này cũng có thể giúp ngài bay về thượng giới. Cò bay thì đã đành, nhưng ngựa chạy thì làm sao mà lên trời được, có lẽ ở đây mang ngụ ý đễ cưỡi mà thôi. Gia đình nào kinh tế eo hẹp, chút hoa chút trà, ba nén nhang, một dĩa kẹo thèo lèo, giấy cò bay ngựa chạy, tưởng cũng đã đủ. Lòng tự nhủ: «Việc lễ quý ở lòng thành!» Táo quân Việt Nam (nguồn: Lối xưa xe ngựa tập II của Nguyễn Thị Chân Quỳnh) Tìm lại những sách ghi chép huyền thoại Táo Quân, ta nhận ra các sách này chép nhiều chi tiết sai biệt. Theo Trần Ngọc Ninh (Huyền Thoại Học và Huyền Thoại Lí Học Việt Nam, Văn Hóa Tập San số 2-1974), công việc biên chép các huyền thoại Việt Nam bắt đầu từ thời Bắc thuộc do người Trung Quốc viết và được tiếp nối cho đến nay qua các ngòi bút người Việt, người Pháp. Các sự biên chép này còn thiếu sót, thiếu trung thực, nhiều tác giả cố ý muốn làm văn chương nên đã xen vào những ý tưởng cá nhân, thêu dệt, phẩm bình. Có tác giả còn cắt xén, sửa đổi các tình tiết sao cho phù hợp ý thức hệ, hoặc cắt bỏ những chi tiết để tránh lời phê bình là kể lại các câu chuyện có tính xúc phạm thuần phong mỹ tục. Theo ông Ninh, các tác giả cổ như Trần Thế Pháp (Lĩnh Nam Chích Quái), Lý Tế Xuyên (Việt Điện U Linh Tập) cho đến các tác giả cận và hiện đại như Nguyễn Đồng Chi (Lược Khảo Thần Thoại Việt Nam, 1956), Hoàng Trọng Miên (Việt Nam Văn Học Toàn Thư, 18-1959) hay Phạm Duy Khiêm... đều để lộ cái ý định làm văn chương thông qua huyền thoại. Do đó, sự tích Táo Quân được truyền khẩu, rồi ghi chép, như vậy nhất định đã qua mấy lần sai biệt. Nhất Thanh (Đất Lề Quê Thói, Saigon 1970, tr. 320) chép huyền thoại này như sau: «Ngày xưa có hai vợ chồng nghèo đến nỗi phải bỏ nhau. Sau, người vợ lấy được người chồng khác giàu có. Một hôm cúng, đang đốt vàng mã ngoài sân, vô tình người chồng trước vào xin ăn, vợ nhận ra, động lòng thương cảm, đem cơm gạo tiền bạc ra cho. Người chồng sau biết chuyện, người vợ bèn lao đầu vào đống vàng cháy chết thiêu. Người chồng cũ cảm kích nhảy vào lửa chết theo. Chồng sau vì thương, nên cũng nhảy vào nốt. Cả ba đều chết cháy. Ngọc Hoàng thấy ba người có nghĩa, phong làm vua bếp.» Ông Nhất Thanh trích dẫn sự tích này trong quyển Việt Nam Phong Tục của Phan Kế Bính. Trong câu chuyện trên, có nhiều chi tiết phi lý, như: giấy đốt vàng mã không thể nào đủ để tự thiêu chết, thứ hai: người chồng trước và sau lần lượt nhảy vào đống lửa để được chết chung với nàng, như vậy đống vàng mã đó phải lớn lắm ắt cỡ một giàn hỏa mới phải! Ta có thể bỏ qua sự phi lý này, bởi lẽ trong huyền thoại luôn luôn chất chứa những tình tiết phi lý (theo lối suy nghĩ của con người hiện đại), nhưng yếu tố này không quan trọng. Quan trọng hơn cả chính là những ý nghĩa biểu tượng ẩn tàng sau các tình tiết phi lý đó. Cổ tích và huyền thoại lưu truyền cả ngàn đời, sự suy luận của người ban sơ tất nhiên khác biệt với sự suy luận của chúng ta ngày nay. Tìm hiểu và ghi chép huyền thoại, ta cần phải quên hiện tại, mà phải lui về bóng tối quá khứ mịt mờ, đặt mình vào hoàn cảnh của người thiên cổ. Chỉ vì muốn chỉnh đốn lại những gì chúng ta cho rằng phi lý, chỉ vì muốn biến huyền thoại nghe có lý, phù hợp với lối nghĩ suy hiện tại, chúng ta đã làm hỏng huyền thoại. Đó là chưa xét tới tham vọng làm văn chương của nhiều tác giả. Nhất Thanh ghi chú thêm một chi tiết khác về vua bếp, nghe «hợp lý» hơn đó là đống rơm chứ không phải đống vàng bạc giấy: «... vì bất thần người chồng sau đi làm đồng trở về, người vợ dẫn chồng cũ ra núp ở đống rơm. Người chồng sau đốt cháy đống rơm để lấy tro bón ruộng. Do ngủ quên, người chồng cũ bị chết cháy trong đống rơm. Vợ cảm kích nhảy vào lửa tự thiêu, Người chồng sau thương vợ cũng nhảy vào nốt.» Hoàng Trọng Miên (sách đã dẫn, tr.77) chép một cách dài dòng và văn chương hơn về Thần Bếp, tóm lược đại khái như sau: Có hai vợ chồng tiều phu nghèo không con. Vợ thương yêu chồng, nhưng chồng hay nhậu nhẹt đánh đập vợ. Vợ buồn bỏ đi, gặp túp lều tranh của một thợ săn, xin tá túc. Sau, hai người làm vợ chồng. Người chồng cũ hối hận, bỏ đi tìm vợ. Tình cờ lạc bước túp lều tranh ấy, đương lúc người thợ săn đi vắng, chỉ có người vợ ở nhà. Người chồng cũ van xin vợ tha thứ và quay trở lại, người vợ cũng động lòng tỏ ý còn thương. Lúc đó người chồng sau về tới. Người vợ bảo chồng cũ ra trốn trong đống rơm. Người thợ săn mang về con thỏ, đem ra đống rơm thui, làm gã chồng cũ chết cháy. Người vợ đau lòng nhảy vào chết theo. Anh thợ săn tưởng mình làm điều bất nghĩa, hối hận lao vào nốt. Trời cảm động trước tình yêu tay ba này, bèn cho cả ba hóa thành vua bếp, dụm đầu thành bộ ba trong bếp lửa. Phân tích và đối chiếu các dị thoại này, gạt bỏ các chi tiết rườm rà, ta nhận ra các thoại vị (mythème: đơn vị huyền thoại): (1) Tình tay ba hai ông một bà: mang dấu vết của chế độ mẫu hệ (matriarchy). (2) Sử dụng lửa để đốt rơm lấy tro làm ruộng: mang dấu vết của nền văn minh nông nghiệp. (3) Sử dụng lửa để thui nướng thú săn: mang dấu vết của nền văn minh săn bắt và hái quả. (4) Trời: bày tỏ niềm tín ngưỡng chung của các dân tộc Á Đông. Tin tưởng vào một đấng tối cao, Ngọc Hoàng Thượng Đế, bày tỏ sự giao cảm giữa con người với thần linh. (5) Bếp lò: giải thích nguồn gốc của bếp lò, cơ cấu của bếp (có ba đỉnh để đặt nồi niêu...). Lửa và bếp lò, hai phát minh này của con người ghi dấu sự kết thúc giai đoạn con người ăn sống nuốt tươi, ăn lông và ở lỗ. Lửa mở đầu cho nền văn minh nhân loại. Xác định được các thoại vị trên, ta có thể bảo rằng huyền thoại về Táo Quân đã có kể từ lúc tổ tiên ta sống đời định cư nông nghiệp thuở còn chế độ mẫu hệ, biết sử dụng lửa trong việc nấu nướng ẩm thực và phát minh quan trọng là bếp lò. Tổ tiên ta đã trình bày một tiên đề hình học không gian mà một học sinh cấp ba ngày nay đều biết: «Ba điểm không thẳng hàng xác định một mặt phẳng.» Tiên đề này được trình bày một cách huyền thoại hóa. Tổ tiên ta đã ứng dụng nó để chế ra bếp lò. Rất có thể tổ tiên ta chưa có một hệ thống lý luận toán học, nhưng trong quá trình lao động và sinh sống, kinh nghiệm dạy cho họ biết rằng nếu dùng ba cục đá đều nhau đặt không thẳng hàng trên mặt đất họ có thể đặt vững vàng trên đó một cái nồi hay cái chảo. Sự vững vàng đó có người đem ví von với tấm lòng kiên quyết riêng tư qua câu ca dao: «Dù ai nói ngả nói nghiêng, lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.» Kiềng ba chân là một dạng bếp lò. Từ Điển Việt Nam của Lê Văn Đức giải thích: «Lò bằng vòng sắt có ba chân.» cà-ràng Ông Táo của người Nam bộ – những người chịu ảnh hưởng của «nền văn minh miệt vườn» (theo cách gọi của Sơn Nam) và trải cuộc đời trên sông nước – còn có một dạng độc đáo khác: cái kiềng đất, còn gọi là «cà-ràng». Hầu như người miền Bắc và Trung không sử dụng «cà-ràng». Căn cứ theo tên gọi, người ta phỏng đoán gốc gác của nó là Khmer. Ưu điểm của cà-ràng là có thể đặt trên ghe thuyền phục vụ việc nấu nướng an toàn, đặc biệt cho những người dân sống trên sông nước, lấy ghe thuyền làm nơi trú ẩn. Trên đây là đôi nét phân tích sơ lược về huyền thoại Táo Quân Việt Nam, thế còn Táo Quân Trung Quốc thì sao? Táo quân Trung Quốc (nguồn: E.T.C. Werner, Myths & Legends of China) Học giả E.T.C. Werner dịch «Táo Quân» ra tiếng Anh là: «The God of the Stove», «The God of Hearth», «The Kitchen-god». Còn Léon Wieger dịch ra tiếng Pháp là «Génie de l’âtre», «Génie du fourneau alchimique». Táo Quân là một phát minh của Đạo giáo (Taoism) Trung Quốc, nhưng cho đến nay hầu hết các gia đình người Hoa đều thờ phượng. Theo tín ngưỡng của họ, có những vị thần bảo hộ cho dân chúng, trong đó những vị quan trọng nhất là: Thần Xã Tắc (về đất đai, mùa màng), Thần Nông (về nông nghiệp), Thần Hậu Thổ (nữ thần đất), Thành Hoàng (bảo hộ dân làng), Thổ Địa (thần đất địa phương), Táo Quân (Thần Bếp), Thiên Hậu (Nữ thần phù hộ dân đi biển), Tàm Nữ (Nữ thần về dâu tằm), Thần Tam Đa tức là 3 ông Phúc-Lộc-Thọ, Thần Môn Hộ (thần giữ cửa, nhà)... Người Trung Quốc cho rằng có một vị tối cao trong vũ trụ gọi là Nguyên Thủy Thiên Tôn tạo dựng muôn loài. Nguyên Thủy Thiên Tôn còn đứng cao hơn Tam Thanh tức tam vị nhất thể (Trinity) của đạo Lão (Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh). Theo Werner, Táo Quân là ... «Trùm Mật Vụ» (The Chief of the Secret Police) của Nguyên Thủy Thiên Tôn, ghi chép những việc làm thiện ác của từng gia đình để rồi cuối năm báo cáo lại cho Nguyên Thủy Thiên Tôn biết. Còn Thiên Lôi là «nhân viên hành pháp» của Ngài. Thông thường quần chúng hay gán cho Nguyên Thủy Thiên Tôn là Ngọc Hoàng Thượng Đế. Truy lại huyền thoại về Táo Quân, như đã nói, Táo Quân là phát minh của Đạo giáo (Taoism). Vào đời Hán, giới phương sĩ (magician) đã truyền bá thuật trường sinh bất tử. Những phương sĩ này đã xuất hiện trước đó từ thời Tần Thủy Hoàng (người thống nhất Trung Quốc vào năm 221 tcn). Họ từ miền duyên hải Đông Bắc Trung Quốc quy tụ về dưới trướng của Vua Tần để hiến thuật trường sinh cho Vua. Nổi bật trong đám là bọn Lư Sinh, Từ Phúc. Nhưng rồi Vua Tần sớm nhận ra rằng mình đã bị đám phương sĩ lừa bịp, công việc triều chính hư hỏng, công quỹ hao tổn. Vua nổi thịnh nộ, bèn chôn sống 460 người gồm bọn phương sĩ lẫn đám nho sĩ thích dèm pha phỉ báng. Nhưng bọn Lư Sinh và Từ Phúc thì đã cao bay xa chạy. Đến khi nhà Hán lên thay nhà Tần. Đám phương sĩ lại lục tục kéo tới triều đình với bổn cũ soạn lại. Đời vua Hán (Hán Vũ Đế, Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế) đều là những người hâm mộ Lão Tử và cái học trường sinh bất tử. Dưới triều Hán Vũ Đế (140-87 tcn) đám phương sĩ được vua biệt đãi và sủng ái. Đứng đầu là bọn Lý Thiếu Quân. Lý đề xướng quan điểm mới khác với bọn Lư Sinh và Từ Phúc xưa kia. Muốn được trường sinh, phải luyện đan nấu thuốc. Nghi lễ đầu tiên mà Lý đề nghị với Hán Vũ Đế là Lễ Tế Lò. Vị thần được tế là Táo Quân, vốn là sản phẩm tưởng tượng của Lý Thiếu Quân. Vậy lễ cúng ông Táo đầu tiên được tính từ thời Hán Vũ Đế. Bằng tà thuật, Lý đã làm say mê vị vua nhẹ dạ cả tin này qua phép chỉ đá hóa vàng. Nhưng rồi dần dần vua khám phá thói bịp bợm của họ Lý. Một hôm Lý viết chữ trên một tấm lụa rồi cho một con bò nuốt vào bao tử. Sau đó Lý tuyên bố với vua sẽ tìm được một lá bùa trong bụng con bò. Lá bùa được moi ra từ bụng con bò xấu số. Tuy nhiên vua còn đủ sáng suốt để nhận ra nét bút của họ Lý. Ngay lập tức, vua ban lệnh xử trảm Lý Thiếu Quân. Thế nhưng, tục thờ cúng ông Táo vẫn lưu truyền từ đời Hán cho đến nay. Từ đời Hán đến đời Tống, Táo Quân không chỉ là vị thần lò luyện đan của giới đạo sĩ. Táo Quân được phổ biến hơn và được tin tưởng như là một vị thần bảo hộ bếp núc, gia cang. Chữ Táo 灶 trong Hán ngữ có nghĩa là «bếp lò». Người ta không tìm được chứng cớ nào xác minh sự thay đổi tín ngưỡng Táo Quân từ cục bộ sang phổ thông. Có thể phỏng đoán rằng vào đời Đường, các đạo sĩ ngoài việc tạo các vị thần mới, họ còn truyền bá ảnh hưởng của các vị thần cũ của họ có tính phổ thông đại chúng hơn trong quá trình cạnh tranh với đạo Phật là một đạo rất phồn thịnh ở đời Đường (618-907). Tư liệu đầu tiên có ghi chép về Táo Quân là thi tuyển Thạch Hồ Từ của thi sĩ Phạm Thành Đại sống dưới triều vua Cao Tông (1127-1126) của nhà Tống (960-1280). Trong tập thi tuyển, Phạm có bảo mỗi gia đình dân chúng thường cúng ông Táo vào dịp cuối năm để ngài bay về trời báo cáo cho Ngọc Hoàng Thượng Đế biết việc thiện ác của gia chủ đã làm. Tuy nhiên, chẳng có thư tịch nào trưng được nguồn gốc của phong tục này. Như vậy Táo Quân có quyền năng đối với từng sinh mạng mỗi thành viên của từng gia đình, những báo cáo hằng năm của Táo Quân cho Thượng Đế biết sinh hoạt của gia chủ sẽ tác động rất lớn đến thịnh suy của gia chủ. Táo Quân lẳng lặng ghi chép rồi cuối năm lẳng lặng phúc trình cho Thượng Đế, cho nên vai trò của Táo Quân cũng không khác vai trò của «Trùm Mật Vụ» bao nhiêu! Có người lại cho rằng các báo cáo ấy được thực hiện mỗi tháng hai lần. Việc đưa tiễn ông Táo được bày thiết lễ cúng khác nhau, thông thường lễ vật là mật ong và bánh nếp. Có lẽ chất ngọt của mật và chất dính của nếp sẽ làm ngài báo cáo bằng những lời ngọt ngào hơn chăng? Theo Werner, có ít nhất là 40 truyền thuyết về nguồn gốc của Táo Quân. Truyền thuyết phổ biến nhất như sau: Có người tên là Trương Táo Vương lấy vợ tên Quách Đinh Hương, một người đức hạnh và giỏi giang. Một thời gian sau, Trương chán chê vợ, bèn dan díu với một ả kỹ nữ tên là Lý Hải Đường. Lý xúi giục Trương bỏ vợ theo ả. Đinh Hương ra đi với hai bàn tay không, rồi trở về nhà bố mẹ ruột. Trương và Lý chung sống với nhau, gia đình dần dần suy sụp, Lý quay trở lại nghề bán phấn buôn hương, Trương nghèo đói, mù lòa, bèn đi ăn xin. Tình cờ, Trương lạc bước đến nhà vợ. Đinh Hương nhận ra chồng ngày xưa, đau lòng thấy chồng mù mắt, xin ăn, bèn dọn cho chồng cũ món mì sợi mà ngày xưa chàng rất thích. Trương ăn, bỗng sững sờ, sao món ăn nầy giống món ăn ngày xưa vợ anh từng nấu. Bèn khóc. Đinh Hương gọi: «Trương Lang! Trương Lang! Mở mắt ra!» Trương mở mắt ra, mắt sáng trở lại, nhìn thấy vợ cũ, lòng hổ thẹn bèn chạy trốn, nào ngờ chạy tọt vào bếp lò cháy chết. Đinh Hương cố sức kéo chân chồng ra, ai ngờ chân lìa ra. Kể từ đó người đời gọi dụng cụ để cào than trong bếp là «Trương Lang Túc» (chân Trương Lang.) Đinh Hương thương xót chồng và thờ tại bếp lò nơi chồng mất mạng. Tục thờ Táo Quân có lẽ từ đó. Nếu gốc gác Táo Quân đúng như truyền thuyết trên, thiết tưởng nhân vật Trương Táo Vương không đáng cho người đời thờ cúng. Nhiều tác giả Trung Quốc cho rằng Táo Quân có nhiều tên khác nhau ứng với nhiều nhân vật khác nhau. Có thể là Viêm Đế (tức Thần Nông) phát minh ra lửa, hoặc đó là Hoàng Đế (người đầu tiên xây dựng bếp lò). Danh sách này còn dài, liệt kê thêm: Trọng Lê, Ngô Hồi, Tô Cát Lợi và vợ là Vương Thị, Thần Tử Quách, Trương Đan, Nhưỡng Tử, v.v... Ngoài ra người ta còn phân biệt Táo Quân ở phương Đông mặt xám, ở phương Nam mặt đỏ, ở phương Tây mặt trắng, ở phương Bắc mặt đen, và ở trung tâm mặt vàng. Có người còn cho rằng có rất nhiều Táo Quân, ứng với từng thành viên trong gia đình. Nhiệm vụ của Táo Quân, như đã nói, là giữ gìn bảo hộ sinh mạng cho từng thành viên gia chủ cho nên Táo Quân còn được gọi là Tư Mệnh Phủ Quân. Mỗi người sẽ giàu hay nghèo, thọ hay yểu là tùy thuộc vào báo cáo của Táo Quân. Báo cáo này được đưa về trời vào ngày rằm mỗi tháng lúc nửa đêm. Hoặc vào ngày canh và ngày thân của tháng âm lịch. Có người cho rằng ngày đưa báo cáo là ngày mồng một và ngày rằm mỗi tháng. Nhưng hầu hết thường tin tưởng rằng ngày báo cáo đó rơi vào ngày 23, 24, hoặc 26 tháng Chạp. Ngày ông Táo từ trời quay trở về gia chủ là ngày 30 tháng chạp hoặc trễ hơn một chút. Lễ đưa tiễn ông Táo được gọi là lễ Tống Táo. Gia chủ đốt hình Táo cũ, đốt pháo để thêm long trọng và hoan hỉ, bánh trái trà rượu được bày thiết tỏ lòng thành. Chiều ba mươi tết, người ta làm lễ Tiếp Táo, đón vị Táo mới cho gia chủ, pháo nổ và lễ vật cũng long trọng không kém buổi Tống Táo. Đối chiếu huyền thoại Táo Việt Nam và Táo Trung Quốc, ta thấy hai dân tộc đều có chung niềm tín ngưỡng Táo Quân, coi như đây là vị thần bảo hộ cho gia đình. Các phong tục cúng bái cũng rơi vào ngày cuối năm, tức 23 tháng Chạp, với niềm hy vọng ngài sẽ báo cáo cho Ngọc Hoàng biết những điều tốt đẹp về gia chủ, nhờ đó hưởng thêm nhiều phúc thọ. Có thể nói rằng sự giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc đã đem lại sự tương đồng về tín ngưỡng này. Tuy nhiên, phải nhìn nhận rằng các thuyết về Táo Quân Trung Quốc quá mơ hồ, người đời lại thêu dệt bịa đặt quá nhiều, nên khó chấp nhận được (trừ trường hợp của Lý Thiếu Quân). Huyền thoại Táo Quân Trung Quốc chịu ảnh hưởng của tôn giáo (Đạo giáo: Taoism) còn huyền thoại Táo Quân Việt Nam thì không. Huyền thoại Táo Quân Việt Nam là một bộ Tam, có nét độc đáo đầy bản sắc dân tộc, minh hoạ trí thông minh sáng tạo của người Việt trong lao động và sinh hoạt. Táo Trung Quốc không có một mối tình tay ba đầy thú vị như Táo Việt Nam. Nói cách khác, huyền thoại Táo Trung Quốc không giải thích được nguyên tắc của bếp lò, giỏi lắm là chỉ nhắc lại được phát minh về lửa. Táo Quân từ đời Hán là sự bịa đặt của Lý Thiếu Quân, Táo Quân theo các thuyết về sau hình như phát sinh từ thuyết nhân quả báo ứng của nhà Phật (Trương Táo Vương phụ rãy vợ hiền, sau bị mù lòa phải xin ăn, quả báo cuối cùng là bị chết cháy). Những nhận xét trên cho ta bảng đối chiếu sau đây: TÁO QUÂN VIỆT NAM TÁO QUÂN TRUNG QUỐC TƯƠNG ĐỒNG * Thần bảo hộ cho gia đình, ảnh hưởng phúc thọ từng thành viên gia chủ do báo cáo hằng năm (23-Chạp) về trời. * Lễ Tống Táo (23-Chạp) – Lễ tiếp táo (30-Chạp hoặc ít ngày sau đó) * Cúng tế thành khẩn (Hoa quả, trà rượu, nhang, đốt pháo, vàng mã, xôi gà, cá chép ... Người Trung Quốc thường cúng mật ong và bánh nếp....) Lễ vật không bắt buộc, tùy gia đình. Táo Quân được thờ trong bếp mỗi gia đình. * Được dịch sang ngôn ngữ Tây phương: ANH (The God of the Stove, The God of the Hearth, The Kitchen-God) – PHÁP (Génie de l’âtre, Génie du fourneau) – ĐỨC (Herdgott). DỊ BIỆT TÁO QUÂN VIỆT NAM A* Ảnh hưởng tín ngưỡng thờ TRỜI, tin tưởng người và thần linh có thể giao cảm với nhau. B* Có khoảng vài ba dị thoại (tức là huyền thoại ít bị cải biến) C* Bộ Tam: Hai ông một bà (ngụ ý: chế độ mẫu hệ, nguyên tắc cấu tạo bếp lò) D* Có từ thời rất xa xưa, phỏng định vào lúc người VN biết sống định cư nông nghiệp, theo chế độ mẫu hệ, biết sử dụng lửa nấu nướng ẩm thực. E* Giải thích nguyên tắc cấu tạo bếp lò – Nhắc lại về lửa (bắt nguồn cho nền văn minh nhân loại) – Thể hiện óc thông minh sáng tạo của tổ tiên người Việt (chế tạo bếp lò, sử dụng lửa, đời sống nông nghiệp, săn bắn). G* Tên gọi: ông Táo, Vua Bếp, Táo Quân, ông Công, Thần Bếp, Đông Thần (Đông Trù Tư Mệnh Táo Phủ Thần Quân), Đông Trù... TÁO QUÂN TRUNG QUỐC A* Ảnh hưởng Đạo giáo (sản phẩm tưởng tượng của Lý Thiếu Quân) – Ảnh hưởng Phật giáo (luật nhân quả báo ứng đối với Trương Táo Vương.) B* Có trên 40 dị thoại, phổ biến nhất là Trương Táo Vương và Quách Đinh Hương. C* Một người (của Đạo giáo) hoặc hai người (vợ chồng Trương-Quách) D* Có từ đời Hán (206 tcn- 220cn), thoạt đầu phổ biến trong giới Luyện Đan (alchemy) trong Lễ Tế Lò. Về sau (khoảng Đường, Tống phổ biến đại chúng thành thần bảo hộ gia đình). E* Không giải thích nguyên tắc cấu tạo bếp lò – Nhắc lại về lửa – giải thích tên gọi của cái cào than (Trương Lang Túc) – Dấu vết ảnh hưởng của tôn giáo (Lão, Phật) G* Tên gọi: Táo Quân, Táo Vương, Tư Mệnh Phủ Quân, Táo Thần, Viêm Đế, Hoàng Đế, Trọng Lê, Ngô Hồi, Tô Cát Lơi, Thần Tử Quách, Trương Đan, Nhưỡng Tử, Định Phúc Tài Thần... LÊ ANH MINH SÁCH THAM KHẢO 1- Trần Ngọc Ninh, Huyền Thoại Học và Huyền Thoại Lí Học Việt Nam, 1974. 2- Nhất Thanh, Đất Lề Quê Thói, Saigon 1970. 3- Hoàng Trọng Miên, Việt Nam V ăn Học Toàn Thư, Saigon 1973. 4- E.T.C. Werner, A Dictionary of Chinese Mythology, Shanghai 1932. 5- E.T.C. Werner, Myths & Legends of China, Shanghai 1922. 6- Léon Wieger, Histoire des Croyances religieuses et des Opinions philosophiques en Chine, 1927.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 4:06:28 GMT 9
MỘT CHÚT VỀ KHOA HỌC VÀ Y KHOA
Hữu học sinh họ Vương biên chép 1.- Chất dinh dưỡng trong thực phẩm sẽ ngăn ngừa mắt mờ, vẫy cá. Đại học Tuffs nghiên cứu cho biết, hơn 500 phụ nữ tuổi từ 53 đến 73 của chương trình Nurse Health Study... những phụ nữ này không có bệnh tiểu đường (diabetes) và bệnh mắt cườm (cataracts). Trong thời gian liên tục 15 năm khảo sát, những phụ nữ này trả lời hàng tháng cho trường Đại Học, là những món ăn thường xuyên hàng ngày mà họ dùng... Chứng bệnh mắt bị cườm (cataracts) thường xảy cho những người lớn tuổi, là thủy tinh thể lần lần bị mờ trắng nặng hơn sẽ đem mù lòa đến. Nhóm phụ nữ này được tặng cho những chất vitamins và khoáng chất trong suốt 15 năm liên tiếp... Chất này gồm có vitamins C, vitamins E, Riboflavin (chất này có nhiều trong cám, ăn gạo lức là có chất này), carotene (trong củ cà rốt). Nhưng quan trọng nhất là chất vitamins C. Chất này có nhiều trong trái chanh, bưởi hay những trái cây có chất chua. Cho nên không lấy làm lạ là mấy cô học trò choai choai, có đôi mắt rất dễ thương, nhờ ăn me chua hay trái mơ chua... (ghi lại từ tuần san Ophthalmology năm 2001) 2.- Gene Di Truyền của người Trung Hoa không phải tất cả đều giống nhau.Đúng hay Sai? Hầu hết những người da trắng đều xem người Hoa là mắt xết, da vàng, mũi tẹt, tóc đen. Nhưng người Hoa thì có thể phân biệt được rõ ràng. Lý chấn Huỳnh (Li shan Jin) nói rằng: "Chỉ bất cứ người Hoa nào đi ngoài đường tại Thương Hải, tôi có thể nói người đó là người Phương Bắc hay phương Nam". Anh phân biệt được, còn chúng tôi thì không. Anh giải thích thêm, người Phương Bắc có hình dáng hơi to thô hơn, và gường mặt thì thẳng trẹt. Còn người phương Nam thì lùn hơn và da đen hơn. Nhưng khoa học ngày hôm nay họ đi vào làn da mà phân biệt rất trúng hơn. Lý chấn Huỳnh cùng nhóm khoa học gia về Di truyền học và Genome tại University of Texas at Houston, đã vẽ được bản đồ phân bố của người Trung Hoa, gồm 43 nhóm người Hoa tai Trung Quốc và kể luôn ÁChâu (có thể tính luôn ViệtNam, AiLao và Tháilan). Sau một thời gian khảo cứu tại Á Châu. Họ đến từng làng sơn cước mà xin tí huyết... họ chận đường nhiều người, đang đi chợ tại Bắc Kinh, Thương Hải và Hongkong... Họ đến Hà Nội, xuống Saigon, họ qua Vientianne, họ đến Bangkok... đều mục đích xin tí huyết về nghiên cứu chơi tại phòng thí nghiệm tối tân nhất nhì trên thế giới. Họ kết luận rằng người Hoa ngày hôm nay là một hỗn hợp rất nhiều di truyền tính Gene vào máu người Hoa hơn mọi người khác tưởng tượng. Nhưng tất cả đều cùng đi một con tàu chạy suốt từ Phi Châu đến Á Châu rồi sang America là hết đường. Tận cùng là tại America, mà phát khởi hành từ nhà ga Phi Châu... Đoạn đường này chạy hết 200 ngàn năm. Lời kết luận này được Ranjan Deka (người Aán Độ) tại University of Cincinnati tán đồng. Deka cho rằng đi ngược lại thì cùng một gốc... đó là gốc từ lục địa Phi Châu mà ra, khoảng 200 ngàn năm vừa đây. Bởi vì "Homo Errectus" (người vượn đứng thẳng) cha của nhóm "Homo Sapiens" (Người vượn thông minh) đã từ Phi Châu mà di cư đến lục địa Trung Hoa. Trước đó những nhà nhân chủng học (Paleontologist) cho rằng có nhiều nhóm người vượn khác nhau, không hẳn từ Phi Châu mà ra. Nếu theo những nhà nhân chủng học đã nói thì dĩ nhiên gene phải khác nhau rất nhiều. Ranjan Deka nhìn vào bảng mục lục Genes của Lý chấn Huỳnh cho thấy Genes đi rất đều và cùng đường thẳng, nghĩa là giống nhau hết... Nghĩa là lịch sử biến hóa loài vượn nhỏ con biết leo cây, sống trên cây thành loài vượn người không sống trên cây. Nhóm di dân migration này có thể kiểm chứng qua phần DNA (mới khám phá chưa đầy 20 năm gần đây) nhưng họ gọi là "microsatellites" là nhân chủng rất ngắn, được lập đi lập lại hoài trong chuỗi DNA dài gần chục cây số, hình xoán ốc. Rồi khoa học gia người ta đi đến kết luận: Con đường phương Nam (Southern Route) Những di truyền học cho biết rằng con người tản ra từ Trung Đông (Middle East) qua Pakistan, rồi qua Ấn Độ... họ theo dọc theo ven biển miền Nam, rồi họ đến Đông Nam Á Châu (Southeast Asia) khoảng từ 60 ngàn năm hay 70 ngàn năm trước đây. Rồi tới đây nhóm này nghỉ mệt một thời gian khoảng 10 ngàn năm rồi đi nữa, nhưng kỳ này lên Bắc tiến, họ tản ra lần nữa đi đến Trung Hoa, Tây bá lợi Á (Siberia)... rồi họ vượt đường mòn hải hành Bering Strait đến Alaska rồi xuống Bắc Mỹ, rồi Nam Mỹ. Hành trình thiên lý vạn dặm từ Nam đến Bắc cho thấy người Trung Hoa được nhiễm nền văn minh từ phương Bắc rồi bành trướng rộng ra. Nhiều nha nhân chủng học, trước đó cho rằng người Hoa là một nhóm hơi đặc biệt,họ đi theo hướng gian truân hơn là hướng Bắc Kazakhstan vào Á Châu, nhưng di truyền học cho thấy nhóm nhỏ này rốt cuộc cũng nằm trong bản đồ Genetic của Lý chấn Huỳnh và đồng nghiệp thuộc trường Texas nói trên. Rồi nhóm người Hoa này từ phương Nam đi lên đến Trung quốc, thì họ vấp chân té ành ạch bởi những núi non, sông ngòi... Họ té rồi họ ở lỳ tại chỗ, sanh con đẻ cháu luôn. Và người Hoa lúc này đến được hàng trăm nhóm, và nói đến 200 thổ ngữ khác nhau, khỏi ai hiểu ai luôn. Như vậy từ khi phát sinh ra Genome khoa học nhân chủng thể di truyền, thì hiện nay có rất nhiều nhóm người khác nhau... Nhưng rồi tất cả cùng quy về một đầu mối. Đầu mối đó là phát tích từ Phi Châu. Chuyện khám phá với những bằng chứng khoa học tân tiến ngày nay, làm đau buồn rất nhiều các vị Trưởng Lão tại Bắc Kinh hay tại Tử Cấm Thành... vì họ vẫn còn cho rằng họ là Con của Trời, rồi từ từ thiên di đi xuống phương Nam. Nhưng các vị Trưởng Lão Cái Bang tại Tử Cấm Thành Bắc Kinh, họ quên rằng nhà vua của họ... mà họ gọi là Đế Quốc Phong Kiến cai trị bằng Nô Lệ... đó là những vị Hoàng đế Tàu, ghế bureau làm việc hàng ngày của các vị Thiên Tử đó đều ngó về Phương Nam... có nghĩa là họ nhớ về nơi mà tô tiên họ từ Phương Nam đi lên. Rồi luận cứ khoa học ngày nay cũng làm buồn không ít nhà học giả Lương kim Định, hay gọi là linh mục dòng tên Kim Định, với Triết Thuyết An Vi, An Việt cho là người Việt là tổ của người Hoa... từ phương Bắc xuống mà hình thành. Thuyết này khoảng 35 năm trước tại Đại học Văn Khoa Saigon... đã làm chúng tôi khoái ngất trời... Nay trật đường rầy hết ráo rồi. Đúng một phần là người Miền Nam là tổ tiên của người Trung Hoa phương Bắc... như vậy ghế ngồi mà ta gọi là Long Ngai hướng về Nam chào đón chúng ta mà... phải không các vị Trưởng Lão Cái Bang hiện đang cư ngụ tại Tử Cấm Thành Bắc Kinh. Các vị Trưởng Lão Cái Bang này gặp chúng tôi người miền Nam Việt Nam là phải lạy Tổ à! Nếu không lại thì là đồ bất hiếu đấy nghen. Học sinh họ Vương
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 4:42:40 GMT 9
* Học vị Phó bảng xuất hiện thời gian nào? * Việt Nam có bao nhiêu Phó bảng? * Giai thoại lý thú liên quan Phó bảng. * Một số Phó bảng lừng danh.Cuộc thi đầu tiên của nước ta do triều đình tổ chức là khoa Tam trường được vua Lý Nhân Tông mở năm Ất Mão 1075, chọn 6 người mà thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Vua Trần Thái Tông cho tổ chức khoa thi Thái học sinh vào năm Nhâm Thìn 1232, sau đó cứ 7 năm thi 1 lần, đến năm Giáp Dần 1374, vua Trần Duệ Tông đổi tên thành khoa thi Tiến sĩ. Vua Lê Thái Tông (1433 - 1442) đặt lệ 5 năm mở 1 kỳ thi Hương, 6 năm mở 1 kỳ thi Hội. Đến đời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497), thi cử được định lệ theo nhà Minh: cứ 3 năm mở 1 khoa; thi Hương vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu; thi Hội vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi. Sau khi thống nhất giang sơn, vua Gia Long cho mở khoa thi Hương vào năm Đinh Mão 1807. Khoa thi Hội đến năm Nhâm Ngọ 1822 mới được tổ chức lúc vua Minh Mạng trị vì. Khi khoa cử khá hoàn bị, triều Nguyễn mở nhiều kỳ thi, được chia làm 2 loại: * Thường khoa là khoa thi Tiến sĩ, gồm 3 kỳ thi: Hương, Hội, Đình. Thi Hương ở các trường Hà Nội, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên, Bình Định, Gia Định, An Giang, chọn Cử nhân để thi Hội. Thi Hội và thi Đình (còn gọi Điện thí / Phúc thí) ở kinh đô Huế. * Chế khoa được tổ chức từ thời vua Tự Đức, có Hoành tài, Nhã sĩ, Cát sĩ. Phó bảng là Ất tiến sĩ Xem xét lịch sử khoa cử Việt Nam (VN), thấy ngay rằng đến triều Nguyễn xuất hiện nét mới đáng lưu ý: khoa thi Hội từ năm Kỷ Sửu 1829, niên hiệu Minh Mạng thứ X, ngoài việc chọn các Tiến sĩ 進 士 , còn lựa thêm các Phó bảng 副榜 . Danh sách thí sinh đạt danh hiệu Tiến sĩ được yết ở chánh bảng. Danh sách thí sinh kém hơn nhưng vẫn đỗ được yết ở bảng phụ thì gọi là Phó bảng. Sách Khoa cử & các nhà khoa bảng triều Nguyễn của nhiều soạn giả (NXB Thuận Hoá, Huế, 2000) ghi nhận: "Những thí sinh đỗ kỳ thi Hội (gọi là Trúng cách hoặc Chánh trúng cách) sẽ được vào thi Đình. Sau khi yết bảng thi Hội, các quan Chủ khảo và Tri cống cử căn cứ theo điểm các thí sinh ở các trường thi, lập bảng Giáp và bảng Ất, mỗi thứ hai bảng. Bảng Giáp ghi danh những người đỗ chính thức, bảng Ất ghi danh những người lấy đỗ Phó bảng. Những người có tên trong bảng Giáp sẽ được dự kỳ thi Đình. Đến đời Tự Đức, có khoa thi vì số người đỗ ở bảng chính quá ít, nên vua rộng lượng xét cho những người đỗ Phó bảng cũng được vào thi Đình, như năm Tự Đức thứ XXX Đinh Sửu (1877), năm Tự Đức thứ XXXIII Canh Thìn (1880)." Trong bài 90 năm học vị Phó bảng đăng trên tạp chí Huế xưa & nay số 2 (2-1993), Lê Quang Thái viết: "Thông thường, Phó bảng được gọi là Ất khoa tiến sĩ để phân biệt với Tiến sĩ là Giáp khoa tiến sĩ. Người ta còn gọi tắt Phó bảng là Ất tiến sĩ." Bách khoa toàn thư mở Wikipedia cũng ghi rằng Phó bảng là Ất tiến sĩ 乙進 士 . 5 vị Phó bảng đầu tiên Khoa thi Hội năm Kỷ Sửu 1829, niên hiệu Tự Đức X, do Thượng thư Bộ Hình là Hoàng Kim Xán làm Chánh chủ khảo. Sách Khoa cử & các nhà khoa bảng triều Nguyễn (sđd) cho hay: "Khoa này bắt đầu dùng điểm số để chấm các bài thi và cũng bắt đầu chọn Phó bảng.Thứ tự xếp hạng căn cứ vào điểm số như sau: Hạng Ưu: 9 đến 10 điểm; hạng Ưu thứ: 7 đến 8 điểm; hạng Bình: 5 đến 6 điểm; hạng Bình thứ: 3 đến 4 điểm; hạng Thứ: 1 đến 2 điểm; hạng Liệt là không đủ 1 điểm (bất cập phân). Thí sinh nào qua được 3 kỳ mà đạt điểm tổng cộng từ 10 trở lên, xếp vào hạng Chánh bảng; nếu đạt được 3 kỳ mà điểm tổng cộng từ 4 đến 9 hoặc chỉ đạt được 2 kỳ mà cộng điểm 10 trở lên, xếp vào hạng Phó bảng." Khoa ấy chọn được 5 vị Phó bảng đầu tiên của nước nhà: 1. Phạm Văn Hợp: sinh năm Ất Mão 1795, người xã Minh Tảo, huyện Từ Liêm, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc TP. Hà Nội. 2. Dương Đăng Dụng: sinh năm Giáp Tý 1804, người xã Ỷ La, huyện Từ Liêm, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc TP. Hà Nội. 3. Phan Văn Nhã: sinh năm Bính Dần 1806, người xã Yên Đông, huyện La Sơn, tỉnh Nghệ An, nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Phan Văn Nhã là bác của Tiến sĩ Phan Đình Phùng (1847 - 1895). 4. Nguyễn Thường: sinh năm Giáp Tý 1804, người xã Minh Lương (sau đổi thành Trung Lương), huyện Thiên Lộc, tỉnh Nghệ An, nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. 5. Trần Ngọc Dao: sinh năm Kỷ Mùi 1799, người xã Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Thừa Thiên, nay là xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Trần Ngọc Dao là người Thừa Thiên đầu tiên đỗ đại khoa, từng đảm trách Tuần vũ Định Tường, Phó Đô Ngự sử, Tham tri Bộ Binh, tạ thế năm Ất Tị 1845, niên hiệu Thiệu Trị V, được an táng tại Hội An. Lăng mộ ngài Tham tri Trần Ngọc Dao đã được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa tỉnh Quảng Nam. - Mộ bia 1 trong 5 vị Phó bảng đầu tiên của Việt Nam đã được Nhà nước công nhận di tích lịch sử - văn hoá : ngài Trần Ngọc Dao - Tham tri Bộ Binh - ở phường Cẩm Phô, TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ảnh: Trần Tuấn Phó bảng có gì lạ? Tập 3 Từ điển bách khoa VN (NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2003) đề cập Phó bảng: "học vị các kỳ thi Hội trong chế độ khoa cử đời Nguyễn. Theo thang bậc, thấp hơn học vị Tiến sĩ, có thể coi là những Tiến sĩ bảng phụ. Trong một khoa thi Hội, có thể vừa có học vị Tiến sĩ, vừa có học vị Phó bảng. Cũng có khi chỉ lấy đỗ Phó bảng, mà không lấy đỗ Tiến sĩ." Từ điển bách khoa trình bày vậy quá sai lệch. Thực tế, chẳng khoa thi Hội nào chỉ lấy đỗ Phó bảng mà không lấy đỗ Tiến sĩ cả. Tuy được gọi Ất tiến sĩ, song giữa Phó bảng với Giáp tiến sĩ / Tiến sĩ tồn tại sự cách biệt khá xa. Chánh bảng, danh sách tân Tiến sĩ được viết trên giấy đỏ, được đặt trên án đỏ, che lọng đỏ, do đó mới hình thành từ vựng Châu bảng. Châu / Chu 朱 mang nghĩa sắc đỏ. Châu bảng được quan quân trịnh trọng đưa vào Hoàng Thành trình vua, sau đó đem ra Phu Văn Lâu treo 3 ngày. Danh sách tân Phó bảng chỉ treo 1 ngày mà chẳng có nghi thức gì. Các Phó bảng không được dự lễ Truyền lô, không được vua ban yến, không được thưởng hoa ở Ngự uyển rồi cưỡi ngựa dạo quanh Kinh thành, không cờ quạt ân tứ vinh quy, và không được khắc tên vào bia đá dựng tại Văn Thánh / Văn Miếu. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia còn ghi: "Phó bảng không được dự thi Đình để xếp loại Tiến sĩ. Từ năm 1851 vua Tự Đức có cho thêm một số Phó bảng có điểm số thi Hội gần với điểm chuẩn đỗ chánh bảng được tham dự thi Đình để có thêm cơ hội phấn đấu. Nếu đạt điểm chuẩn đỗ Tiến sĩ thì được công nhận là Tiến sĩ, nếu không đạt vẫn được công nhận là Phó bảng." Bùi Ân Niên - trường hợp hy hữu Bùi Văn Dị / Tự được vua Tự Đức ban tên Bùi Ân Niên, chào đời năm Nhâm Thìn 1832 tại xã Châu Cầu, tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội, nay là TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Năm Canh Tuất 1850 và Nhâm Tý 1852, mới 18 và 20 tuổi, thi đỗ Tú tài. Năm Ất Mão 1855, 23 tuổi, thi đỗ Cử nhân. Năm Ất Sửu 1865, niên hiệu Tự Đức XVIIII, thi Hội, đỗ thứ 4 hạng Trúng cách, nhưng vào thi Đình bị hỏng, đành nhận học vị Phó bảng. Sau đó, Bùi Ân Niên lần lượt đảm chức Tri huyện Lang Tài, rồi Việt Yên, rồi Yên Dũng ở tỉnh Bắc Ninh, Án sát tỉnh Ninh Bình, về Huế công tác ở Nội Các, làm quan duyệt quyển các khoa thi Hội. Năm Bính Tý 1876, được thăng Thị lang Bộ Lễ, làm Chánh sứ sang triều đình nhà Thanh. Mậu Dần 1878, Quyền Tham tri Bộ Lại. Tân Tị 1881, làm Đại thần quản lý Nha Thương Bạc. Năm sau, giữ chức Khâm sai Phó Kinh lược sứ Bắc kỳ. Giáp Thân 1884, vào Kinh, đảm trách Tả Tham tri Bộ Lại, lại được làm "Nhật Giảng quan" để giảng sách cho vua Kiến Phúc. Lúc chủ quyền quốc gia lọt vào tay Pháp, ông ghé Thanh Hoá ẩn dật với hiệu Hải Nông. Nhưng cuối năm Đinh Sửu 1877, vua Đồng Khánh triệu ông về Kinh, cho giữ chức Tham tri Bộ Binh kiêm Thương tá Viện Cơ Mật, đồng thời làm Giảng quan. Năm sau, làm Quyền Thượng thư Bộ Lễ kiêm Phó Tổng tài Quốc Sử Quán, phụ trách biên soạn phần Đệ tứ kỷ trong bộ sách Đại Nam thực lục. Vua Thành Thái lên ngôi, ông càng được trọng dụng: vừa làm Giảng quan, vừa làm Phụ đạo Đại thần. Canh Dần 1890, vua Thành Thái hỏi: - Khanh làm quan trải 3 triều, lại hưởng tuổi thọ, nay còn gì ao ước không? Bấy giờ, ông đã 59 tuổi, tâu: - Thần nhờ ơn nước như thế này là thịnh lắm rồi, còn dám mong mỏi gì hơn nữa. Duy có một việc, thần vẫn thắc mắc trong dạ từ trước đến nay là khoa thi năm Ất Sửu, thần đã Chánh trúng cách mà lại đỗ xuống Phó bảng, không hiểu tại duyên cớ nào. Vâng mệnh bà Từ Dũ, vua Thành Thái gia ân đặc cách, ban cho Bùi Ân Niên học vị Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Bia đá chỉ khắc độc nhất họ tên 1 Tiến sĩ là di vật vô tiền khoáng hậu lâu nay được bảo lưu tại Văn Thánh / Văn Miếu ở Huế. Năm Ất Tị 1905, Bùi Ân Niên mất. Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) điếu bạn thân bằng đôi câu đối: Ngư ky cựu phố, hoa sơ lạc, Long bảng tân bi, thạch vị đài. Trong sách Giai thoại làng nho (Nam Chi Tùng Thư xuất bản, Sài Gòn, 1966), Lãng Nhân dịch: Bến cá bàn xưa, hoa đã rụng, Bảng rồng bia mới, đá chưa rêu. Mấy chữ thạch vị đài / đá chưa rêu sao mà thâm trầm và hóm hỉnh, không chỉ buồn cười về bước công hầu của một sĩ phu, mà cả quan niệm quý khoa (thi đỗ) hơn quý hoạn (làm quan) đã hằn sâu vào xã hội tự bao đời! 266 vị Phó bảng Tính đến kỳ thi Hội cuối cùng vào năm Kỷ Mùi 1919, niên hiệu Khải Định thứ IV, trải 90 năm tuyển chọn đại khoa, đất nước ta đã có 266 vị Phó bảng. Do trang báo có hạn, bài này chỉ nêu 3 Phó bảng lừng danh: * Nguyễn Văn Siêu (1795 - 1872): nguyên quán làng Kim Lũ, nay thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội. Đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất 1838, niên hiệu Minh Mạng XIX. Làm Phó sứ sang Thanh năm Kỷ Dậu 1849, đoạn giữ chức Án sát Hà Tĩnh rồi Hưng Yên. Là người thiết kế quần thể đài Nghiên, tháp Bút, cầu Thê Húc, tu sửa đền Ngọc Sơn ở hồ Gươm. Lưu lại các tác phẩm Phương Đình dư địa chí, Phương Đình tuỳ bút lục, Phương Đình vạn lý tập. Về tài năng văn chương, Nguyễn Văn Siêu cùng Cao Bá Quát được người cùng thời tôn sùng "thần Siêu, thánh Quát". * Hoàng Kim Tích tức Hoàng Diệu (1829 - 1882): người xã Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đỗ Phó bảng khoa Quý Sửu 1853, niên hiệu Tự Đức VI. Làm Tri huyện Tuy Phước rồi Tri phủ Tuy Viễn ở Bình Định, Tri huyện Hương Trà ở Thừa Thiên, Tri phủ Đa Phúc ở Phúc Yên rồi Lạng Giang ở Bắc Giang, Án sát Nam Định, Bố chánh Bắc Ninh, Tham tri Bộ Hình rồi Bộ Lại. Năm 1880, làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội & Ninh Bình). Ngày 25-4-1882, giặc Pháp tấn công, thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu tuẫn tiết ở Võ Miếu. * Phan Châu Trinh (1872 - 1926): người xã Tây Lộc, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu 1901, năm sau học trường Hậu Bổ, ra làm Thừa biện Bộ Lễ ít lâu thì từ quan, ngược xuôi Nam Bắc, kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước - trong đó có Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu. Ất Tị 1905, sang Nhật Bản rồi sang Pháp. Đinh Mùi 1907, giảng dạy Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội. Mậu Thân 1908, bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Canh Tuất 1910, bị Pháp quản thúc tại Mỹ Tho. Tân Hợi 1911, cùng con trai là Phan Châu Dật sang Pháp. Ất Sửu 1925, hồi hương, tiếp tục kêu gọi dân quyền, dân sinh, dân khí. Phan Châu Trinh mất ngày 24-3-1926 tại Sài Gòn. - Mộ bia 1 trong 5 vị Phó bảng đầu tiên của Việt Nam đã được Nhà nước công nhận di tích lịch sử - văn hoá : ngài Trần Ngọc Dao - Tham tri Bộ Binh - ở phường Cẩm Phô, TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ảnh: Trần TuấnCũng nên kể thêm phương danh các Phó bảng: Nguyễn Bá Nghi, Phạm Thế Húc (em của Tiến sĩ Phạm Thế Hiển), Phan Đình Tuyển (thân phụ của Tiến sĩ Phan Đình Phùng), Trần Doãn Đạt (thân phụ của Tiến sĩ Trần Hy Tăng / Trần Bích San), Phan Đình Vận (con của Phó bảng Phan Đình Tuyển và em của Tiến sĩ Phan Đình Phùng), Đặng Huy Xán (em của Đặng Huy Trứ - bạn đọc có thể tham khảo bài Người trồng mầm nhiếp ảnh Việt Nam của Phanxipăng đã đăng Thế Giới Mới số 453 rồi truyền vào Chim Việt Cành Nam chimviet.free.fr/41/phanxipn_danghuytru.htm và Tiền Vệ tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=11628 ), Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Hoan (con trai của Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến), Cao Xuân Tiếu (con của Cao Xuân Dục và thân phụ của Cao Xuân Huy), Nguyễn Thiện Kế (em của Nguyễn Thiện Thuật), Nguyễn Sinh Huy / Nguyễn Sinh Sắc (cha của Nguyễn Sinh Cung tức Hồ Chí Minh), v.v. Đã đăng Thế Giới Mới 868 (11-01-2010) Dấu tích ghi nhận sự kiện có 1 không 2: bia Tiến sĩ đặc cách dành riêng cho Phó bảng Bùi Ân Niên được khắc dựng năm Canh Dần 1890, niên hiệu Thành Thái đệ nhị, tại Văn Thánh, Huế. Ảnh: PhanxipăngMộ bia 1 trong 5 vị Phó bảng đầu tiên của Việt Nam đã được Nhà nước công nhận di tích lịch sử - văn hoá: ngài Trần Ngọc Dao - Tham tri Bộ Binh - ở phường Cẩm Phô, TP. Hội An, tỉnh Quảng Nam. Ảnh: Trần Tuấn Tượng chân dung 1 Phó bảng nổi tiếng do Nguyễn Long Bửu tạc đá: Phan Châu Trinh (1872 - 1926). Ảnh: Phanxipăng
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 15, 2011 3:27:41 GMT 9
Bạn biết gì về " Việt điểu sào nam chi ? "Cụ Phan bội Châu có thêm bút hiệu là Phan Sào Nam cùng nghĩa như vậy thôi. Xin đón đọc vô cùng , kỳ thú. Trong câu “ Việt điểu sào nam chi ! “ , chúng ta thấy điều gì ? Nếu hỏi cho rỏ thì chúng ta là người Việt , vậy chúng ta có biết chim Việt là loại chim gì ? Nếu trả lời là loại chim ngày nay bị tuyệt diệt , thì hơi quá cương điệu . Nếu chỉ hình con chim trong trống đồng Đông Sơn hay Ngọc Lũ thì thấy hình con chim nầy . Con chim nầy đi chung với nước non , ghe thuyền…và con chim nầy chuyên ăn cá sông hay cá biển mà thôi. Không phải la loại chim ăn trái cây hoa quả như chim rừng. Đây hình con chim trong trống đồng Ngọc Lũ . Đây là loại chim bay , cổ dài , mỏ dài , lông xuôi về phía sau . Nghĩa là cò thể lao mình xuống nước mà bắt cá rất dể dàng. Nếu quý bạn có dịp đi du lịch sang Trung Hoa , đến dòng sông Hoàng hà …gần dảy núi Xích Bích thì chúng ta thường thấy có nhiều ngư dân săn bắt cá bằng con chim loại nầy. Họ chèo trên những ống tre ghép sát vào nhau như tấm phản vậy . Chống chèo bằng cây tre dài trên dòng sông nhỏ lượn lờ quanh triền núi , cạnh đó là 4 , 5 con chim cắt màu đen nhỏ,. Cần cổ những con chim nầy bị ngư phủ cho đeo kiềng nên không nuốt trọng được con cá. Khi tới nơi thấy có nhiều cá thì anh ngư phủ nầy xô những con chim ấy xuống nước mà bắt cá . Dỉ nhiên chim nầy lội nhanh hơn con cá nên gắp những con cá vào miệng rồi trồi lên cho chủ bỏ vào thúng trên xuồng tre. Những con chi nầy làm việc thật điêu luyện. Chứng thời gian sau thì giỏ cà của ngư phủ nầy đầy cá rồi. Thế là tất cả về lại bến sông. Như vậy chúng ta đã xong về chim Việt rồi , nếu căn cứ trên trống đồng có diêu khắc những loài chim trên trống. ************** Chúng ta đã định nghĩa về Chim Việt cùng hình ảnh chim Việt. Nếu nói theo khoa học thì loại chim nầy thuộc loại chim nước . Săn bắt mồi ở nước non , sông rạch.
Bây giờ chúng ta nói đến sào Nam .Sào nghĩa là tổ chim . Như yến sào là tổ chim yến . Còn Nam thì có sách cho là phương Nam , nghĩa là người Việt ở phương Nam . Chúng tôi không bình luận hay phân tích chi những ý nghĩa nầy. Nhưng khi đọc sách Đông Châu Liệt Quốc thì chúng tôi mới biết Nam là loại cây danh mộc Cây rất cao , người xưa dùng làm thuyền vượt biển , không thấm nước bao giờ. Người ta dùng làm cột đền thờ mà có nhiều đến thờ tại Trung Hoa có ghi rỏ ràng danh mộc nầy. Và nhiều nhất lá làm quan tài cho những đại gia rất giàu có. LOại gổ nầy khi chôn dưới đất thì không bao giờ bị mục nát hay rỉ sét . Vậy trước khi nói đến cây Nam để chim Việt làm tồ thì chúng ta nên đọc đoạn văn trong sách Đông Châu Liệt Quốc thì thấy rỏ hơn. ………… ………… Thời Xuân Thu Chiến Quốc , giai đoạn lịch sử Trung Hoa từ 722 đến 481 TCN ( trước Tây lịch ) , nghĩa là cách đây trên 2500 năm rồi. Trong câu chuyện “ Bàn công . Mặc thủ “ ( nghĩa là Bàn đánh , Mặc thủ )… Bàn đây là Bàn công , tên thật là Công Du Bàn . Mặc là Mặc Tử , tên là Địch . Nhà sáng lập ra phong trào Mặc gia . Tương truyền Mặc Tử là người nước Tống , chu du khắp nơi , thu đồ đệ lập ra tồng phái mặc Tử hy sinh nầy. . Giáo phái của ông chủ trương tận hiến cho tổ quốc , đất nước. Giáo phái Mặc tử nầy truyền sang Nhật , trở thành tông chỉ của đạo Samurai ( xin lỗi dùng danh từ giáo phái và đạo trong mục nầy , cho nó mạnh nghĩa hơn là thiên về giáo lý tôn giáo…). Tông chỉ đạo Samurai nghĩa là hy sinh tánh mạng vì chủ. Cuối thời Xuân Thu Chiến Quốc , một kỷ sư tài giỏi nhất nước Sở , tên là Công Du Bàn . Bàn công được lệnh vua Sở phải sáng chế một loại thang cao khoảng 5 tầng nhà , chiến cụ nầy dùng để đánh hạ thành nước Tống , vô cùng lợi hại hơn loại thang trèo tường thông thường. Loại thang nầy cao như cái chòi canh , ngựa kéo hay binh sỉ đẩy đi từ từ đến thành địch , binh sỉ nấp trong chòi mà bắn phá những lô cốt trên thành cao của địch , khi diệt được những bính lính lô cốt trên thành , thì chòi nầy bung ra 3 thang cây , lính từ dưới đất trèo lên thành và vào đầu thành mà đánh xuống đất địch. Công Du Bàn là kỷ sư trưởng nổi danh thời Xuân Thu Chiến Quốc là vậy. Khi nghe tin dữ như vậy , mặc Tử cùng 300 đồ đệ từ nước Tề vội vàng chạy ngựa nhanh đến kinh đô nước Sở. Mặc Tử nói với Bàn công : “ Ở phương bắc có người ác muốn giết tôi , xin Ông cứu mạng , tôi xin đền Ông nghìn lượng vàng hậu tạ “. Công Du Bàn tức giận : “ Tôi từ trước đến nay lấy đạo nghĩa làm gốc , không giúp vào việc giết người bao giờ , hà cớ Ông nói vậy ? “ Mặc Tử vội vàng sụp lạy , ông tiếp nói : “ Được , nếu Ông nói về nghĩa thì tôi cùng ông luận về nghĩa. Nghe nói ông dăng chế tạo loại thang cao dài , dùng chuẩn bị đánh Tống. Nước Tống nào có tội lỗi gì ? Nước Sở đất đai dư thừa , nhân dân còn ít . Không bị nạn thiếu đất đai trồng trọt , nay lại hy sinh nhân dân mà đi tranh chấp cướp đất đai cũa người khác, đấy đâu gọi là nghĩa ? Hà cớ ông lại giúp chuyện vô nghĩa đó ? Ông là trọng thần của nước Sở , biết điều bất nghĩa mà không khuyên vua như vậy là tôi bất trung , khuyên can mà không ngăn ngừa được thì gọi là bất tài. Ông nói không làm điều bất nghĩa bao giờ , nhưng lại làm loại thang giết người , cướp đất người ta , như thế nói không thông rồi. Công Du Bàn cứng họng không trả lời được , nhưng vì lệnh vua ban ra , không thể bò được. Công Du Bàn đành phải dẩn Mặc Tử đến gặp vua nước Sở . Vua Sở lấy làm lạ hỏi tại sao . Mặc Tử xin Vua Sở lý giãi dùm : “Xin hỏi bệ hạ , có một số người mà tôi lấy làm lạ là : xe nhà mình tốt , không chịu đi mà lại ăn trộm xe nhà người khác hư hõng . Áo nhà mình ấm không chịu mặc lại đi ăn trộm áo rách của người hàng xóm . Cao lương mỹ vị nhà mình không chịu ăn mà đi qua nhà lối xóm ăn trộm cơm thừa cá cặn.. Xin hỏi bệ hạ những người ấy bị bệnh gì vậy ? “ Vua Sở đáp : “ Đó là loại người ăn trộm “. Mặc Tử nói tiếp : “ Đất đai nước Sở rộng năm ngàn dặm ,nước Tống chỉ có năm trặm dặm , đem so sánh thì y như xe hư hỏng với xe tot đẹp vậy. Nước Sở có đầm Vân Mộng rộng lớn , hưu nai , tốm cá đầy rẩy. Nước Tống chỉ có loài trỉ , chồn , thỏ đem so sánh thì như thịt cá so với gạo bạc nhạc , gạo hư hõng. Nướ Sở có cây tùng , cây long não mọc khắp đồng nội , cây tử ( Cavalta Ovata ) mọc thành rừng , cây Nam ( Phoebe Nanmu ) mọc đầy dẩy. Nước Tống phần nhiều là núi hoang đồi trọc , đất cằn cò không cây cao …thì giống như áo ấm so với áo rách vậy. Vua tôi các Ngài đang âm thầm đánh Tống , thì há chẳng phải như người mắc bệnh ăn trộm chăng ? Ngoài việc tổn hại thanh danh lớn của mình để thu được mãnh đất nhỏ thì phí quá ư ? Cây Nam: Vua nước Sở nghe như vậy biết Mặc Tử có đạo lý nhất định , nhưng thang lầu đã chế gần xong , không thể bỏ ngang được , nên nhất định không chịu. Nhằm làm tiêu tan ý chí quyết đánh của vua Sở, Mặc Tử mới cùng Công Du Bàn cùng lập trận giả phá tan thang lầu cùa nước Sở. Mặc Tử cùng Công Du Bàn so tài vế công phá và phòng thủ. Một bên cởi giây áo ra làm tường thành , một bên dùng ván gổ làm khí giới . Hai người trước sau chín lần công phá . Công Du Bàn thua nhưng nói với Mặc Tử : “ Tôi biết ý ông rồi , nhưng tôi chưa dùng hết sức “. Mặc Tử cũng nói : “ Tôi biết ý ông rồi , nhưng tôi cũng chưa dùng hết sức “. Vua Sở ngạc nhiên hỏi Mặc Tử ý của Công Tôn Bàn ra sao ?Mặc Tử nói : “ Công Tôn Bàn chì còn ý chót là giết tôi được mà thôi , vì ông ta thua thế cờ của tôi rồi . Nhưng tôi có đến 300 đệ tử, sẳn sàng chết chung với tôi . Nên Bàn Công không thể nào thắng được tôi với thang lầu của ông ấy làm ra “. Trước tình hình ấy , vua Sở đành chịu nhịn không dùng thang lầu mà đánh Tống nữa. Cho đến khi Mặc Tử chết đi thì ý định đánh Tống của vua Sở mới lập lại. Cho nên câu chuyện nầy mà người đới sau nầy gọi tóm lại là “ Bàn công , Mặc thủ “ ( nghĩa là Bàn tấn công , Mặc chống trả ) Trong câu chuyện lừng danh thiên cổ ký Xuân Thu Chiến Quốc mà người ta cho là từ Khổng Tử lập thành …chúng ta thấy gì ? Chúng ta nghe thấy cây Nam( Phoebe Nanmu ) trong thiên cổ ký nầy . Cây Nam là cây gì ? Đó là loại cây rất cao , vô cùng tốt. Mọc nhiều ở phương Nam Trung Hoa thời bấy giờ . Nhiều nhất vùng Vân Nam và Việt Nam hiện nay.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 15, 2011 3:34:57 GMT 9
Đây gia trang cua Tôn dật Tiên , nơi tưởng niệm nhà ái quốc cách mạng Trung Hoa. Đặc biệt là Ông được 2 quốc gia thờ phượng là : Trung Hoa và Đài Loan/ Tư gia của ông bình thường , sang trọng như hàng trăm gia trang sang trọng tại Trung Hoa. Nhưng tư gia của ông có cây Nam mộc nhìn năm không hư hoại. Đây cây Nam mộc , loại gổ tốt nhất thế giới không sánh bằng... Đây bia đá ghi rò ràng cây Nam mộc Cay Nam moc @ Van Nam ************ Cây Nam mộc bị bọn đốn gổ lậu , chất đống tại cao nguyên Bắc Việt , chờ bán cho Trung quốc. Cứ đà nầy thì tại Việt Nam sẽ tiêu mất giống cây cực quý nầy . Đây danh mộc , Nam mộc được tạc thành hình Phật A Di Đà tại chùa nổi tiếng ở Đài Bắc ( Tai Pei ) Đài Loan . ************* Đây là cột cây Nam mộc từ gia trang của Tôn dật Tiên tại Trung quốc...Không bao giờ có mối mọt vì gổ quá cứng , loại mối mọt không đụt xuể...Cho nên người ta rất thích chọn cây Nam mộc làm quan tài chôn dưới đất hàng trăm năm vẩn tốt như thường. ************** Ngày xưa , trước 1975...nhà học giả Vương hồng Sển làm lớn trong Bảo tàng Viện Saigon ( năm trong khuôn viên Sở thú Saigon ) ...khi Nha Lộ Vận tu sửa con đường Trần hưng Đạo...phu lục lộ đào xuống đất...họ thấy một quan tài cổ của người Minh Hương ...Vì cò lệnh trên phải thu giữ những cổ vật trong quan tài ấy vào Bảo Tàng Viện Saigon....Người ta dùng búa tạ và xà beng cạy nắp hòm mà vẩn không được...Quan tài nầy được chôn từ thời vua Tự Đức trên dưới hàng trăm năm mà quan tài vẩn bền vửng...Nếu quan tài bằng sắt thép thì sẽ bị hboen rỉ từ lâu rồi.
Cây Phoebe Nanmu là loại cây trường cữu , thuộc họ Lauraceae . Hiện nay mọc tại cực Nam Trung Hoa và cực bắc Việt Nam , nhưng rất hiếm khi gặp vì giá rất cao , nên thợ rừng thích cưa những cây nhỏ , đề dể chuyên chở gồ lậu ra khỏi rừng. Cây cao đến 20 mét thì mới trưởng thành , cho hoa và ra trái…nhờ hạt nên mới có cây non. Nay họ chặt hết thì không còn giống cây danh mộc nầy nữa.. Nó có thể cao đến trăm trượng ( trên 50 mét ) Tại Tử cấm Thành , hai cánh cửa gổ thật to nặng…đều làm bằng danh mộc Nanmu nầy. Danh mộc Nam nầy được tạo ra những báu vật bằng gổ như đàn tỳ bà dưới đây. Đàn Tỳ bà nầy tuổi thọ trên 400 năm , vẩn đẹp và bóng như ban đầu , người ta chỉ cần thay dây đàn là xong… Hường Nam Thiên an Môn , có nhà mồ chứa xác chủ tịch Mao trạch Đông…Ngoại trừ xi măng bên ngoài , những vật liệu bằng cây đều làm từ cây Nam mộc , dười sựộc , dười sự chứng giám đôn đốc của Chu ân Lai…. Cho chúng ta biết cây Nam nầy là loại quý nhất trong những danh mộc trên trái đất nầy…
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 5:38:24 GMT 9
Thần Mercury, Thần Hermes Sóng Việt Đàm Giang Thần Mercury Viện Bảo Tàng Louvre. Paris. Pháp Lời mở đầu. Thần Mercury (La-mã) hay thần Hermes (Hy-lạp) đã đuợc biết đến qua nhiều hình ảnh; một tượng điêu khắc nổi tiếng phải kể đến là tượng một vị thần trẻ cầm thiên sứ trượng, một cây gậy có hai cánh và có hai con rắn cuốn chung quanh, một dấu hiệu đã được thấy rất thường trong ngành Y Dược, Khoa học và cả ngành Thương mại.. Thần Mercury cũng mang mũ và dép hay đôi giầy có cánh, những biểu tượng này cũng mang nhiều ý nghĩa quan trọng và được chú ý rất nhiều trong ngành Thương mai. Vậy thần Merury hay Hermes là ai? Bài viết dùng cả hai tên Mercury và Hermes: ở đây tên thần Mercury được dùng vì sự thông dụng hơn, nhưng ý nghĩa và huyền thoại hầu hết liên quan đến Hermes trong thần thoại Hy-lạp. Thần Mercury Mercury là một sứ giả và thần buôn bán, con của Maia Maiesta và Jupiter trong thần thoại La-mã. Tên Mercury liên hệ đến từ Latin merx (merchandise, merchant, commerce, v.v..) và merces (lương bổng). Những đặc tính tiêu biểu và thần thoại của Mercury đều phản ảnh từ vị thần mang tên Hermes của thần thoại Hy-lạp. Mercury có nhiều nghĩa khác nhau, Mercury là một hành tinh nhỏ nhất trong hệ thống trái đất và mặt trời và cũng là hành tinh gần mặt trời nhất. Mercury cũng là tên một chất lỏng là chất mercury (thủy ngân). Và từ thay đổi nhanh chóng (mercurial) thường được dùng để chỉ vật thể hay nhân vật nào thay đổi rất nhanh hay bất ổn, cũng là do thoát nghĩa từ sự bay nhanh chóng của thần Mercury từ chỗ này đến chỗ khác. Theo thần thoại Hy-lạp: Hermes là thần biên giới và di chuyển, thần cừu và bò, thần trộm cắp, thần khách du lich xa, thần diễn thuyết và nhanh trí, thần văn chương và thi phú, thần thể thao, thần cân lường, thần phát minh, thần thương mại, và cả thần nói láo. Những biểu tượng liên hệ đến thần Hermes (Mercury) gồm mai rùa (tượng trưng kiên nhẫn, thời gian, lòng khôn ngoan?), con gà trống (biểu tượng mặt trời, thông minh nguyên thủy), đôi dép có cánh (có linh hồn, rõ ràng minh bạch) và biểu hiệu thiên sứ trượng với cây gậy có hình hai con rắn cuộn tréo nhau. (1) Theo thần thoại Hy-lạp, Hermes, con của thần Zeus và Maia, con gái của Atlas, ra đời trong một hang động ở núi Cyllene, Arcadia. Nằm trong nôi chăn cuốn ấm cúng của bà mẹ Maia, chỉ trong vòng vài giờ sau khi ra đời, Hermes đã lẻn trốn ra khỏi nôi, biến hoá cao lớn nhanh chóng, đi tới Pieiria và trộm vài con bò của Apollo, người anh khác mẹ cùa Hermes. Để tránh dấu vết chân để lại, Hermes đã ngụy trang đi dép và dùng lá cây che dấu vết chân bò, lùa bò đến Pylos rồi Hermes giết hai con bò và dấu kín số bò còn lại trong một hang gần đó. Hermes nấu ăn thịt một phần, mang da bò cắm vào đá và đốt cháy phần còn lại; cùng lúc đó Hermes hiến vật hy sinh cúng tế cho 12 vị thần và có lẽ vì thế mà Hermes đuợc xem như phát minh ra thờ phượng thần thánh và hy sinh vật để cúng tế lễ. Sau đó trên đường trở về Cyllene, Hermes thấy một con rùa ngay lối vào cửa hang có nôi của mình, chàng lấy mai con rùa, sỏ chỉ dây qua mai rùa và tạo nên cây đàn lia, sồ giây đàn, có sách nói 3 có sách nói 7, được làm bằng ruột của bò hay trừu. Cũng có tài liệu nói Hermes sanh ra vào ban mai, đến trưa thì ra khỏi nôi bắt rùa sỏ dây làm đàn lia và đến chiều tối thì đi ăn trộm bò. Thần Apollo với thần lực đoán trước, ngay lúc đó đã khám phá ra kẻ trộm bò và đến ngay Cyllene để tố cáo việc làm của Hermes với mẹ của Hermes là Maia. Maia không tin và cho rằng Hermes chỉ là một đứa bé mới sinh còn nằm trong nôi thì làm sao có thể làm chuyện động trời như thế. Không thuyết phục được Maia, Apollo mang đứa bé đến khiếu nại với Zeus đòi hỏi Hermes phải trả lại đàn bò. Hermes lại cãi nhưng không ai tin cả, sau cùng phải Hermes nghe lời Zeus mà dẫn Apollo đến Pylos để nhận lại đàn bò. Trong lúc đó, Apollo nghe đuợc tiếng đàn lia của Hermes thì thích quá nên đề nghi tặng Hermes luôn đàn bò để đánh đổi lấy đàn lia. . Hai anh em trở nên hoà thuận. Theo một ấn bản thì Hermes sau đó phát minh ra đàn ống sáo (syrinx) và Apollo lại cho Hermes cây gậy vàng chăn cừu để đổi lấy đàn syrinx, cùng chỉ dẫn Hermes che chở bầy gia súc, chim muông, và đồng cỏ nuôi súc vật, Apollo cũng dạy Hermes nghệ thuật nhìn trước tương lai bằng cách reo súc sắc. Thần vương Zeus sau đó lại ban cho Hermes chức làm người truyền tin cho Zeus, cùng liên lạc với thần ở thế giới bên dưới (âm phủ). Những cá tính của Hermes Hermes là truyền lệnh sứ của thần vương Zeus, chàng là thần khéo léo hùng biện trong ngôn ngữ, ngay từ khi vừa sinh ra đã biết biện luận sau khi Apollo khám phá ra là Hermes đã ăn trộm bò, đã biết dùng tài năng của mình để tạo giây liên hệ với mười hai vị thần trong vấn đề cúng tế lễ. Hermes có tài trong âm nhạc, là thần đã chế ra hai loại đàn lyre, và syrinx (theo một vài tài liệu), có tài trong ngôn ngữ, thiên văn, thể thao, trồng cây olive, đo lường và nhiều tài khác nữa. Như một truyền lệnh sứ và một sứ giả của các thần, Hermes di chuyển rất thường, và vì thế đuợc coi như là thần của đường lộ, có nhiệm vụ bảo vệ những người phải di chuyển thường xuyên và trừng phạt những kẻ làm hại họ. Như một thần thương mại Hermes giúp phát triển việc buôn bán và làm ăn phát đạt Hình ảnh của Hermes hiện diện trong những trò chơi thể thao của Hy-lạp cho thấy Hermes là giữ một vai trò quan trọng trong hoạt động thể xác và có thể vì sự năng động của Hermes mà nghệ sĩ Hy-lạp đời sau đã thêm vẽ nhiều truyền kỳ về vị thần này. Từ trái sang phải: Vase cổ (480-470BC) mang hình Hermes Tranh vẽ Hermes mang dép, đội mũ và cây gậy có đôi cánh cùng hai rắn Tượng điêu khắc nữ thi sĩ Sappho của Pradier có đàn lyre với mai rùa (Musée d'Orsay) Hermes (Musée D'Orsay) Mũ và giầy có cánh. Những vật được xem như liên hệ đến Hermes gồm một cây gậy thần, một đôi giầy hay dép hai quai có cánh, và nhiều hình ảnh với mũ có cánh. Đôi dép hay đôi giầy của Hermes đã đuợc thi vị hoá. Sự thêm đôi cánh như cánh chim để biến đổi từ bình thường thành một đôi dép/giầy thần giúp thần di chuyển qua biển cả và đất liền là một sáng kiến tuyệt vời của nghệ sĩ ngày xưa. Cái mũ và đôi giầy có cánh này được nhắc đến trong chuyện kể về Hermes và Perseus. Chuyện kể rằng đôi giầy có cánh đã giúp Perseus bay đi rất nhanh và mũ tàng hình như trong chuyện phim Clash of the Titans đã giúp Perseus theo dõi công chúa Andromedas đến tận đồng lầy của một chàng Calibos đẹp trai (con nữ thần Thetis) nay bị Zeus phạt biến thành quái vật giống thần Dê. Cây gậy của Hermes Theo Homer thì cây gậy thần mà Hermes nhận được từ Apollo chỉ là một cây gậy đơn giản, và được coi như là cây gậy của sứ thần. Cây gậy này cũng có hình đuợc miêu tả như có hai dải lụa mà sau này nghệ sĩ đã thần thánh hóa mà biến thành hai con rắn cuốn chung quanh. Và sau nữa đôi cánh lại được thêm vào để diễn tả sự nhanh chóng mà sứ thần của các vị thần đã di chuyển . Có rất nhiều huyền thoại quanh chuyện cây gậy, một rắn, hai rắn cuốn quanh cây gậy và đôi cánh. Trong một bộ bách khoa từ điển chữ caduceus đuợc giải thích như sau: Theo thần thoại Hy-lạp, cây gậy có cánh với hai con rắn cuốn chung quanh là cây gậy thần của Hermes. Một huy hiệu có hình cây gậy của Hermes đã được dùng như một biểu tượng cho nghề nghiệp y khoa. Cây gậy Hermes mang là một biểu tượng cho hòa bình, dùng để bảo vệ những sứ giả của Hy-lạp và La-mã ngày xưa. Có tài liệu nói rằng nguồn gốc miêu tả một cây gậy hay một cành olive với một dải lụa, sau này đuợc biến chế thành hai rắn với hai cánh để thích hợp với vai trò của Hermes. Còn cây gậy caduceus được chế biến thành một biểu tượng của ngành Y vì nó giống cây gậy của thần Y khoa Asclepius Theo một bộ từ điển khác thì caduceus là cây gậy có cánh một đầu và có hai con rắn cuốn chung quanh do Apollo tặng cho Hermes. Biểu tượng hai con rắn đã thấy có trong thời Babylon và có liên hệ đến biểu tượng con rắn khác của sinh sản, khôn ngoan, lành bệnh và của thần mặt trời. Từ năm 1902, huy hiệu ngành Y của quân đội Hoa kỳ đã dùng biểu tượng cây gậy có cánh với hai con rắn cuốn quanh. Biểu tượng caduceus cũng đã được dùng nhiều nơi như một biểu tượng cho thương mai, và tượng trưng cho nhiều ngành khác. Một vài hình ảnh hiện đại thường thấy. Nhãn hiệu của hãng làm lốp bánh xe Goodyear có hình một chiếc giày có cánh, hãng chuyên giao hoa đến tận địa điểm khách yêu cầu FTD cũng có hình một thanh niên mang giày và đội mũ có cánh, và có thể còn nhiều logo có hình giày và đôi cánh. Nguồn gốc của hình ảnh này liên quan đến thần Hermes trong thần thoại Hy-lạp hay Mercury trong thần thoại La-mã. Hãng giao hoa FTD Vào ngày 18 tháng 8, 1910, mười lăm tiệm bán hoa đã đồng ý với nhau trao đổi chuyện giao hoa cho những khách hành ở ngoài thành phố của họ qua điện tín telegraph và đặt tên cho tổ hợp của họ là Florists' Telegraph Delivery. Năm 1914 công ty chấp thuận dùng nhãn hiệu Mercury Man để làm logo, mục đích nhấn mạnh đến tốc độ giao hoa của họ. Năm 1965 thì công ty bắt đầu dịch vụ giao hoa khắp mọi nơi trên thế giới và đổi tên công ty thành Florists' Transworld Delivery. (2) Hãng làm lốp xe Goodyear Frank Seiberling, sáng lập viên và Chủ tịch Hội đồng công ty làm lốp xe Goodyear Tire & Rubber Company là người đã có sáng kiến dùng biểu tượng Chân có cánh (Wingfoot) để làm biểu hiệu cho công ty làm lốp xe của họ vào năm 1900. Trong căn nhà cũ của Seiberling tại Akron, Ihio, một tượng vị thần thoại nổi tiếng Mercury của La-mã hay Hermes của Hy-lạp đặt ở gần cầu thang đã gây chú ý của Seiberling. Sáng kiến dùng hình ảnh chiếc giầy có cánh để làm biểu hiệu cho hãng làm lốp xe của mình vì Mercury là thần trao đổi hàng hóa và thương mại, và cũng là sứ giả mang tin nhanh chóng cho tất cả các vị thần trong thần thoại, tưởng không còn gì thích hợp hơn. Hình chiếc giầy có cánh đặt giữa chữ Good và chữ year bắt đầu xuất hiện từ đó. Chiếc giầy lớn hơn chữ trong bảng hiệu nguyên thủy đã được biến dạng và thu nhỏ lại sau đó. (3) Tượng trưng cổ Tượng hình cũ nhất đuợc biết có hình hai con rắn cuốn quanh cây gậy là hình ghi trên một cái bình màu xanh (từ 2200-2025 trước Công nguyên) trưng trong Bảo tàng viện Louvre , đề tặng thần sanh sản Sumarian tên là Ningishzida (cũng đuợc coi như là thần của cây cối). (4) Mặc dù đuợc coi là một trong những hình ảnh cũ nhất ghi lại hai con rắn cuốn quanh cây gậy trước thời gian có cây gậy caduceus và gậy của Aslepius, và cây gậy của Moses cả ngàn năm, biểu tượng một rắn thần cuốn quanh cây gậy đã được biết đến từ thời tiền sử qua hình ảnh ghi trên giấy papyrus như là một Nữ Thần Rắn Tình Yêu của Hạ Ai Cập. Hình hai rắn trên bình xanh Tranh họa của Aubin Louis Millin(Museum Louvre) Bức họa của Aubin Louis Millin (Paris 1811] minh họa Mercury (Hermes) và một thương gia đang lại gần diện kiến Asclepius nhưng bị Asclepius nhìn một cách không vui, bàn tay phải nắm chặt lại và cánh tay như muốn tránh chạm vào người đang quỳ gối năn nỉ, với một thái độ quả quyết. Bức họa này đã cho thấy sự khác biệt giữa cây gậy caduceus của Hermes với cây gậy y của Asclepius. Caduceus của Hermes có hai con rắn, và gậy y của Asclepius có một con rắn. (5). Kết luận Nói tóm lại hình ảnh thần Mercury/Hermes cầm cây gậy từ ngàn năm trước cho đến hiện đại vẫn là hình ảnh quen thuộc tượng trưng cho tốc độ, bền bỉ, nhanh nhẹn, khôn ngoan, ngoại giao, và nhất là biểu tượng cây gậy có cánh với hai con rắn cuốn quanh hoặc có đuôi dính nhau hay không dính nhau, từ lâu đã được xem như là một biểu tượng liên hệ đến ngành Nha Y Dược cùng Thương mại. (6) Sóng Việt Đàm Giang 09 Nov, 2010 Ghi chú (1). Truy cập tại: wikicompany.org/wiki/911:Occult_symbolism_VII ngày 29 September, 2010. (2). Truy cập tại: www.ftdi.com/about.htm en.wikipedia.org/wiki/Florists'_Transworld_Delivery ngày 29 September, 2010. (3). Truy cập tại: www.goodyear.com/corporate/history/history_origin.html ngày 29 September, 2010. (4). Truy cập tại: en.wikipedia.org/wiki/Serpent_(symbolism) en.wikipedia.org/wiki/Ningishzida ngày 29 September, 2010. (5). Truy cập tại: www.ams.ac.ir/aim/010131/0015.htm ngày 29 September, 2010. (6). Trịnh, N.G., Những Biểu Tượng Ngành Y. Chim Việt Cành Nam số 35/08-05-2009: chimviet.free.fr/35/svdgn052.htm
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 7:52:10 GMT 9
Đèn Hoa Kỳ của Việt Nam! ___________
Nguyễn Dư Ngày nay, hầu như khắp nước Việt Nam chỗ nào cũng dùng đèn điện. Nhớ lại, mới ngày nào... - Chờ độ năm phút, Dung cũng ngồi dậy. Nàng sang phòng khách. Một tên người nhà ủ rũ ngồi ngủ gật trên một cái ghế tràng kỷ, dưới một ngọn đèn măng sông đã tối một nửa búp đa, vì cạn dầu. Qua phòng khách, Dung đẩy cửa vào buồng mẹ thì thấy mẹ đã ngủ kỹ. Nàng khêu nhỏ ngọn đèn dầu ở bàn rồi rón rén quay ra.
Dung tìm bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu xăng. Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi (...). (Vỡ đê (1936), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 2, Văn Học, 1987, tr. 198).
Vũ Trọng Phụng kể tên nhiều kiểu đèn của những năm 1930. Đèn măng sông (manchon) thì rõ ràng là đèn của Pháp. Nhờ cái tên gọi. Còn đèn hoa kỳ? Hoa Kỳ... là Mỹ, vậy đèn Hoa Kỳ là đèn của Mỹ sao? - Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa Đèn hoa kì là đèn dầu hoả nhỏ, có bấc tròn. Không cho biết lí lịch đèn hoa kỳ. Nó là con cái nhà ai, ở đâu chui ra mà lại mang cái tên như vậy? - Đèn Hoa Kỳ là đèn của bọn Mỹ sang ta buôn dầu hoả. Muốn bán được dầu hoả, nó phải làm đèn cho người mua dầu dùng (...). Dầu của Mỹ, viết tắt là Socony (Standard oil Company of New York), cạnh tranh với dầu của Anh viết tắt là Shell. Bất cứ ở thành thị hay nông thôn, hễ có đại lý dầu Mỹ, là ở gần đó, có ngay đại lý dầu Anh. Và trái lại. Nhà bán dầu Mỹ có biển sơn màu vàng, nhà bán dầu Anh có biển sơn màu đỏ. Những nơi bán dầu xăng ô tô, Anh Mỹ cũng cạnh tranh như vậy. Ở Hà Nội, còn có xe dầu đi bán ở phố, cũng sơn màu của hãng... Trụ sở của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật ở phố Trần Hưng Đạo, số 39, là trụ sở cũ của hãng dầu Shell của Anh, nên quét vôi màu đỏ. Ngày trước ta gọi là nhà dầu Shell (...). (Nguyễn Công Hoan, Nhớ và ghi về Hà Nội, Trẻ, 2004, tr.149). Nguyễn Công Hoan khẳng định đèn Hoa Kỳ là đèn của Mỹ ! Lạ nhỉ ! Cho đến năm 1954, mấy ông trưởng giả của Hà Nội hết mời nhau thuốc lá Mỹ, rượu Mỹ, lại quay ra khoe nhau bút máy Mỹ, đồng hồ Mỹ. Một vài đại gia vung tay " tiêu tiền như Mỹ ", dám tậu cả ô tô Mỹ uống xăng như uống nước lã. Cái gì cũng Mỹ, nhưng đến cái đèn thì lại là Hoa Kỳ ! Kị huý hay là có hiểu lầm ? Ý kiến của Nguyễn Công Hoan cần được xét lại. - Cuối thế kỷ XIX người Tây đem dầu lửa, cũng gọi dầu hôi, vào dùng và bán (...). Hãng bán dầu đã chế ra thứ đèn nhỏ, ngọn lửa vừa bằng ngọn đèn dầu chay, đèn được cho không kèm theo mỗi thùng dầu bán ra, để làm quảng cáo ; không rõ lúc ấy dầu lửa từ xứ nào nhập cảng, mà cái đèn kia được gọi là đèn Hoa-kỳ ; ngày nay tại nhiều nhà nó vẫn là bạn cố tri bên cạnh cái điếu thuốc lào. (Nhất Thanh, Đất lề quê thói, 1968, Đại Nam tái bản, tr.258). Nhất Thanh cho biết thêm là đèn Hoa Kỳ có từ cuối thế kỉ 19. Người Tây tặng đèn cho khách mua dầu lửa. Nhất Thanh thắc mắc về cái tên Hoa Kỳ. Thắc mắc là phải. Thông thường thì các mặt hàng của Mỹ đều được khoe là made in USA nhưng tại sao cái đèn Hoa Kỳ lại không thấy khoe quê quán của mình ? Thế mới có chuyện để tán gẫu. Xin phép các cụ... Trẻ con đi chỗ khác chơi, để người lớn bàn chuyện đất đai, khủng hoảng kinh tế. Dạ, xin phép các cụ cho... bênh vực phe ta! Thế à, bênh vực phe ta thì cứ việc nói, khỏi cần phải bày vẽ xin phép. Xin bắt đầu bằng... từ đầu câu chuyện. - Tên Hoa Kỳ ta dùng để gọi nước Mỹ (USA) có từ bao giờ, do ai xướng lên ? Lục tìm trong đống sách cũ thì được biết năm 1920, Phan Châu Trinh sáng tác Giai nhân kỳ ngộ, lúc cụ sống tại Pháp (Thu Trang, Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911/1925, Đông Nam Á, 1983, tr.254). Năm 1926, Giai nhân kỳ ngộ được in lần thứ nhất tại Hà Nội, nhưng bị tịch thu và thiêu huỷ. Năm 1959, mới được xuất bản tại Sài Gòn. Trong truyện có câu (252) : Xem trong thế-giới xưa nay, Cộng-hoà chỉ có một tay Hoa-kỳ (Phan Châu Trinh, Giai nhân kỳ ngộ, Lê Văn Siêu bình giải và chú thích, Hướng Dương, 1959, tr.25). Tên Hoa Kỳ chỉ được Phan Châu Trinh dùng một lần. Những lần khác, cụ gọi là nước Mỹ, người Mỹ, châu Mỹ. Tại Việt Nam, tên Hoa Kỳ được Tản Đà dùng trong bài Thú ăn chơi : Mán sừng cái bánh chưng xanh Hoa Kỳ tiệc bánh Tin lành nhớ ai Tản Đà chú : Ngày tôi làm việc báo Hữu Thanh có đến thăm một ông mục sư người Hoa Kỳ ở nhà Tin lành. Chủ nhân thết ăn bánh, toàn là thứ bánh Hoa Kỳ cũng long trọng. Báo Hữu Thanh chỉ sống được vài tháng, năm 1920 (Xuân Diệu), hoặc 1921 (Nguyễn Công Hoan) hay 1924 ( Dương Quảng Hàm). Đào Duy Anh (1931) gọi nước Mỹ là Hoa Kỳ quốc vì quốc kỳ nước Mỹ có 48 ngôi sao như 48 cái hoa. Gustave Hue (1937) cũng giải thích Hoa kỳ là drapeau à fleurs (cờ hoa), là États-Unis. Thiều Chửu (1942) gọi nước Mỹ là Mỹ lợi kiên. Nói tóm lại, tên Hoa Kỳ được dùng tại nước ta từ khoảng năm 1920. Nhà dầu Shell tại Hà Nội, nằm tại góc phố Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền ngày nay, được xây cất vào khoảng năm 1930. (René Parenteau, Luc Champagne, Conservation des quartiers historiques en Indochine, 1997, tr. 79). Như vậy thì chuyện của Nguyễn Công Hoan kể về sự cạnh tranh bán dầu, bán xăng của Shell và Socony là chuyện xảy ra sau năm 1920. Dân ta được dùng dầu Mỹ có sớm lắm thì cũng chỉ từ sau năm 1920. Còn trước đó thì sao ? Khi chưa có nhà dầu Shell của Anh, chưa có cạnh tranh của dầu Mỹ, thậm chí chưa có cả tên Hoa Kỳ, thì nước ta đã có... đèn Hoa Kỳ chưa ? Có vài tài liệu giúp ta tìm câu trả lời. 1) Dumoutier (1850-1904) cho biết (dịch) : - Nghề làm đồ bằng sắt tây (Ferblanterie) ở An Nam phát triển mạnh từ khi bị người Pháp chiếm đóng. Tại Hà Nội có cả một phố chuyên làm nghề này. Trước kia thợ sắt tây chỉ làm chóp nón, đĩa đèn, hộp đựng thuốc phiện và vài món đồ lặt vặt khác cho dân bản xứ dùng. Bây giờ họ làm tất cả những sản phẩm của kĩ nghệ phương tây như bình nước, đèn xe, đèn xách tay, đèn nhỏ (lanterne de poche), đủ loại hộp có hình dáng, kích thước khác nhau, giá cắm nến, thùng tưới, bình đựng dầu, ống hình trụ, bồn tắm, hoa sen (...). Họ lấy sắt tây từ những vỏ bọc các thùng hàng nhập cảng của Pháp, từ những thùng dầu hoả, hộp đồ ăn (...). (G. Dumoutier, Essais sur les Tonkinois, Imprimerie d'Etrême - Orient, 1908, tr. 74-75). Dầu tây (còn gọi là dầu hoả, dầu lửa, dầu hôi) ta dùng hồi đầu thế kỉ 20 là dầu của Pháp. Dầu đựng trong thùng sắt tây, được bán trong hiệu hoặc được gánh đi bán rong ngoài phố như tấm tranh Oger (1909) Bán dầu tây minh hoạ. Cái thùng sắt tây được đóng thêm một thanh gỗ làm thùng gánh nước, hay được cắt ra làm đồ dùng, đồ chơi. (Năm 1915, Léon Busy chụp ảnh một cửa hiệu bán đồ chơi Tết trung thu tại Hà Nội (Villages et villageois au Tonkin, Conseil Général des Hauts de Seine,1986, planche 24). Đồ chơi làm bằng gỗ và sắt tây, sơn màu sặc sỡ. Nhiều và đẹp không thua gì đồ chơi ngày nay). 2) Bộ tranh Oger (1909) giới thiệu kĩ thuật của người An Nam. Tranh vẽ nhiều kiểu đèn dầu, trong đó có Đèn sắt tây. Người vẽ tranh ghi rõ là đèn được làm bằng sắt tây và được đốt (thắp) bằng dầu tây. Đèn sắt tây của năm 1909 giống đèn Hoa Kỳ của Hà Nội dùng năm 1954. Đoạn viết của Dumoutier và mấy tấm tranh Oger cho thấy thông tin của Nhất Thanh chính xác hơn thông tin của Nguyễn Công Hoan. Mặt khác, nói rằng đèn Hoa-Kỳ là đèn do Mỹ làm là vô tình gây hiểu lầm, đặt ngang hàng kĩ nghệ của Mỹ năm 1930 với thủ công của ta năm 1909! Thế mà thiên hạ cứ ca tụng nhặng xị nước Mỹ nào là làm được tàu hoả, tàu thuỷ, ô tô, máy bay, tàu ngầm, nào là xây nhà chọc trời v.v. Tuy nhiên, nếu đèn Hoa Kỳ không phải là của Mỹ thì phải giải thích tại sao cái đèn sắt tây (Dumoutier gọi là lanterne de poche, đèn nhỏ để bàn) tự dưng lại " đổi quốc tịch " như vậy ? Thấy người sang bắt quàng làm họ à ? Dạ, không dám ạ. Chẳng cần phải bắt quàng làm họ làm quái gì. Hoa Kỳ chẳng phải... là Mỹ ! Ấy, ấy... lại loạn ngôn rồi ! 3) Trong phần giới thiệu nghề khảm sà cừ ( Les Incrusteurs), Oger kết luận (dịch) : - Hai trung tâm chính của nghề khảm sà cừ là Hanoi và Nam-Dinh. Các ông chủ của nghề này đều giàu sụ. Người làm ăn giỏi và khéo nhất là Hoa-Ky, ở phố Jules Ferry. Ông là người thông minh, đã biết tìm cách cải tiến một nghề truyền thống của dân tộc An Nam. (Henri Oger, Introduction générale à l'étude de la technique du peuple Annamite, Geuthner, tr. 28). Ba cái tên Việt Nam không được đánh dấu. Hanoi là Hà Nội, Nam-Dinh là Nam Định. Hoa-Ky có nhiều khả năng là Hoa-Kỳ. Nếu đúng như vậy thì Hoa Kỳ là tên người hoặc tên một cửa hiệu nổi tiếng của Hà Nội chứ không phải là nước Mỹ. Kết hợp các đoạn viết của Dumoutier và Oger, kèm thêm tranh minh hoạ, chúng ta rút ra được vài kết luận : - Đầu thế kỉ 20 thợ Việt Nam đã làm được đèn sắt tây, thắp bằng dầu tây. Sắt và dầu là của Pháp. - Hiệu Hoa Kỳ phố Jules Ferry (Hàng Trống ngày nay) làm đồ khảm sà cừ và bán đèn sắt tây. Dân Hà Nội gọi đèn của hiệu Hoa Kỳ là đèn Hoa Kỳ. - Hãng dầu của Pháp (đầu thế kỉ 20) và của Mỹ (khoảng 1930) mua đèn Hoa Kỳ tặng khách hàng mua dầu. Thương hiệu Hoa Kỳ bị hiểu lầm thành tên gọi nước Mỹ. Rốt cuộc, đèn Hoa Kỳ là đèn Việt Nam, làm bằng sắt Pháp, được hãng dầu Mỹ mua tặng khách hàng Hà Nội. Lí lịch rất... trong sáng ! Từ nay trẻ con trong Nam ngoài Bắc có thể rủ cả người lớn cùng rước đèn, ca hát líu lo : Cái gì be bé xinh xinh Nhờ tay thợ khéo xe tình chúng ta? Điếu reo, khói toả... Thế mà Mơ màng chàng ngỡ em là... Cờ hoa ! Nguyễn Dư (Lyon, 2/2009)
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2011 7:57:54 GMT 9
Tết Miệt Vườn Dạ Ngân Không khí bắt đầu từ những gốc mai ấy đấy. Khoảng giữa tháng Chạp là người ta dứt lá cho mai và sau đó, cành nhánh trơ trụi của nó có cái gì trọng đại sắp bắt đầu. Một gốc mai ở giữa sân, đó là nhu cầu, thói quen và cũng là biểu hiện của văn hoá và may mắn. Ngày thường, mai chỉ là loại cây xanh uốn nắn được, nhưng ngày tết, ánh vàng và sức nở tưng bừng của nó mới thật bất ngờ. Những nhà có cụ ông nhìn vào rất dễ biết, vì gốc mai của họ được chăm sóc công phu, trông chúng y như một ông chủ điệu nghệ: tỉa gọt đấy nhưng vẫn xù xì một cách phong sương và khí phách. Nước trong sông rạch đầy dần sau mỗi con triều. Đã qua mùa lụt, phù sa đã nằm sâu ở vị trí mà thiên nhiên đền bù cho con người, nước trong vắt leo lẻo gọi là mùa nước bạc. Thế rồi, cùng với thứ gió se se ngọn dừa, với màu nắng tươi như mật loãng, với tiếng trống lân sập sận chuẩn bị, Tết đã áp sát một bên. Thật ra, Tết đã đến rục rịch đến từ sau mùa gặt, khi lúa hạt đã vào bồ nhường sân cho những chiếu bánh phồng san sát. Tuần bánh nhộn lên trước lúc đưa ông táo về trời và kéo dài cho tới ngày giáp cuối. Nếp hạt hoặc khoai mỳ (sắn) sẵn trong nhà, xôi chín lên trong nước cốt dừa rồi đưa vào cối, những chiếc cối của thời gạo giã được giữ lại chuyên cho bánh phồng. Cả xóm thức liên miên cùng với nhịp chày và tiếng giỡn hớt thả cửa của cánh chị em đi cán bánh vần vông. Đấy là dịp duy nhất họ quây quần bên nhau náo nức với cái gì đó rất chung nhưng hoàn toàn không giống với việc cấy gặt ngoài đồng. Cánh đàn ông cũng bị dựng dậy thay phiên cầm chày, trong lúc chờ đến lượt, họ lặng lẽ hút thuốc, thỉnh thoảng độp vào câu chuyện ngồi lê của cánh đàn bà bằng những câu đùa độc địa khiến con nít cũng bị lôi cuốn ra khỏi mùng. Thế là chúng biến thành cánh chạy bánh đắc lực từ người cán tới người phơi bánh. Không có loại việc nào lôi kéo được tất cả mọi người như việc làm bánh phồng. Đã nhìn thấy vết thâm quầng đáng yêu trên mi mắt các bà các cô. Nhưng nào họ đã thôi trò thi đua bánh mứt. Nếu các đức ông coi việc chăm sóc cửa nhà, mai kiểng, lân pháo là nghĩa vụ đối với Tết thì cánh đàn bà ra sức làm sống lại nghề bánh khéo đã từng mai một bởi chiến tranh. Bánh kẹp cuốn ống ngậy hương vị nước cốt dừa nầy, bánh gatô cải biên đúc bằng khuôn mỏng hình trái tim nầy, bánh thuần nướng trong nồi cát này, bánh bưa kem đường nàỵ.. để đề tài bánh trái sẽ đậm đà hương vị thăm hỏi nhau của cánh chị em trong ba ngày Tết, để tếng khéo đồn xa", để được "tết thì tết cả xóm". Còn có một loại bánh dân tộc không thể thiếu với người miệt vườn. ấy là bánh tét cải tiến từ bánh chưng thời Nguyễn Huệ thần tốc trên lưng ngựa. Đòn bánh tét là lễ với tổ tiên, là chữ hiếu với cha mẹ, là nghĩa thày trò, là miếng điểm tâm sáng ngày mồng một, là quà quê cho con cháu ở xạ Gói bánh tét không dễ vì không phải ai cũng đặt đúng cái nhân đậu mỡ ở giữa và phải niềng sao cho hai đầu cân nhau và các nuộc lạt bóng lên tăm tắp. Qua đòn bánh, người phụ nữ nhà đó được xem xét, không chỉ việc khéo vụng mà còn xem có nền nã, chặt chẽ hay không bao giờ ra bánh, người ta cũng treo thành sào cạnh bồ lúa trông thật ấm áp. Có nhà còn gói thật nhiều bánh, ngâm chúng trong nước sạch để ra giêng ăn dần. Vẫn còn thiếu nghiêm trọng nếu như Tết ở miệt vườn chưa có mét dừa, thứ vật liệu cây nhà lá trời mênh mông. Dừa được chọn kỹ như thể chọn dâu: dừa cứng, mứt có mùi dầu, khô và vô duyên, dừa ướt, mứt ỉu, ăn thấy chán. Những nhà có thẩm mỹ tinh tế thường chỉ pha vào mứt hai màu, hồng phấn và trắng tinh, trông chúng gợi cảm như thiếu nữ. Chưa đủ, chỉ mỗi thứ mứt dừa thì hộp mứt tết sẽ nghèo nàn lắm, vì vật họ còn thi nhau làm mứt bí, mứt me, mứt cà, mứt gừng, mứt khế, và cả những thư tưởng không thể nào thành mứt được như trái khổ qua (mướp đắng) chẳng hạn. Cầm chúng lên, dù thực khách là gã đàn ông kiêu ngạo, bất cần hay chai sạn cũng phải mềm lòng trước sự kỳ diệu của đôi tay, khối óc và tâm hồn người đàn bà. Thời gian đã chạy bứt lên khiến con người lao muốn đứt hơi theo nó. Người ra chợ, quả cây ngũ sắc đầt ắp ghe thuyền, tiếng máy đuôi tôm dào dạt bờ sông. Người ở nhà gấp rút đưa tất cả những thứ cần giặt giũ ra sông, tiếng đập chiếu trên mặt nước âm âm nghe thật thúc hồi. Có tiếng réo nhau vào hội, cứ mươi nhà thì hùn nhau vật một con heo sẵn trong chuồng của nhà ai đó, ai không tiền mặt cứ việc đưa thịt về ăn tết đã, ra năm tìm cách tính sau. Trẻ con bưng bê gì mà xuôi ngược hấp hởi vậy? Thì ra, nhân ngày áp chót, người ta tranh thủ đưa biếu nhau những thứ quả chỉ có ở vườn mình để sau ngày ba mươi thì không ai động đến cây và trái nữa, chính là để chúng được yên lành hưởng chọn lộc xuân như con người . Bữa cơm chiều ba mươi thật hệ trọng với từng nhà như khắp mọi nơi trong đất nước. Chỉ khác là tổ tiên luôn được ở trong vườn nhà, vì vậy, trước khi rước ông bà vào mâm cỗ thì nấm mộ phải sạch cỏ, phải khang trang. Bận rộn đến mấy, nghĩa cử này thường không được chậm trễ và, khi nén nhang cong trên bàn thờ, con cháu mừng hơn được vàng vì thế là ông bà đang về đấy, đang phù hộ cho con cháu đấy, nhất định năm mới sẽ may nhiều dữ ít. Như con người vừa được an ủi. Công việc của cánh đàn bà nào đã xong. Trong ánh lửa bập bùng từ nồi bánh tét bên góc sân, còn phải quét sân trước sân sau để ra ngoài mồng thì đố dám động chổi. Còn phải tắm táp cho lũ nhỏ để chúng được ngủ trong mùi vải mới. Trong ý tưởng trẻ thơ, tối giao thừa được mặc quần áo mới thì năm sau sẽ mau lớn. Cuối cùng việc nhà cũng phải chấm hết. Trong mệt mỏi ngọt ngào, các bà các cô mang đèn dầu xuống bờ sông, giấu chúng vào bụi cây để hé ra ánh sáng mập mờ, ấy là bữa tắm chậm rãi nhất, long trọng nhất của họ trong vòng mấy trăm ngàỵ Họ ngụp sâu trong nước mát, nhẩn nha giữa qúa khứ và tương lai, bởi tâm tư họ đang bước đến giao thừa. Họ bước lên, quần áo tóc tai cẩn trọng trong căn nhà bỗng như mới bừng lên, trên chiếc gối còn thơm mùi xà bông mùi nắng, bên cơ thể thơm tho của lũ trẻ, họ thả lưng thư giãn một cách trang nghiêm. Có biết bao điều ập đến, biết bao nỗi buồn được tiễn đưa và cũng biết bao mơ ước được gọi dậy, ấy là lúc họ tẩy trần đầu óc và tâm hồn vốn bình dị của họ. Rồi bước chân tời gian như vừa khởi động và đang tràn sầm sập qua xóm vắng. Người già dậy trước bật hết đèn lên, chốc sau đã nghe mùi bánh phòng toả ra từ bếp lửạ Giao thừa bao giờ cũng phải có phồng trên bàn thờ. Không khí bắt đầu ngầy ngà khắp xóm trẻ con bật dậy sà ngay vào trò chơi pháo chuột, như chùng chưa hề chợp mắt, còn các cụ bà thì lần ra sân bái lạy đủ bốn phương tám hướng. Đêm đen sóng sánh, cây trong vườn trầm mặc và con sông như bát ngát rạ Có cái gì đang dừnglại trong mỗi con người, bịn rịn ngậm ngùi, rưng rưng. Buổi giao thừa ở quê thường không có mấy truyền hình, người nhà ai nấy tụm vào quanh ông bà mình nghe chuyện xửa chuyện xưa chờ cho nhang tàn để đưa lộc từ trên ban thờ xuống bắt đầu nhấm nháp. Bấy giờ người ta mới thấm mệt như có cái gì đó ghê gớm xuyên qua, xâu chuỗi người ta lại và cũng đặt người ta vào vòng quay chóng mặt nhưng vô cùng thú vị. Sáng mồng một nhà nào cũng dậy muộn, trừ một vài người lớn phải cũng kiến cho ông bà. Trẻ con lăng xăng với bộ quần áo đẹp nhất, nhẩm trong đầu những câu chúc thọ người lớn sao cho được khen và được cả tiền lì xì. Xống áo thanh niên bắt đầu chộn rộn đường quê, cũng chừng ấy mẫu mã thời trang thị thành, chỉ khác là màu nổi hơn để chứng tỏ với chung quanh sự hiện diện của mình. Người đứng tuổi ra đường vào buổi xế, bấy giờ rượu mới là thứ được việc để người ta nhìn nhau thoải mái sau bao nhiêu va chạm ngày thường, để những câu chúc nhau cháy đượm. Mồng hai Tết mới thực sự là ngày của hỉ xả. Thường người ta góp nhau sắm lân sắm trống từ rất sớm, mỗi xã một đội. Người thủ vai lân phải khoẻ, phải có bước nhảy mang tinh thần thượng võ, còn ông địa thường là cậu bé con sôi nổi, cũng có khi là một bà goá có tính chọc trời khuấy nước. Cả xóm được một ngày vui, một ngày cười, cả lân, cả địa thường được thưởng rượu để bước chân tròng trành hơn. Ngày mồng ba đánh thức mọi người dậy sớm như nhau. Sau khi cúng tất niên bằng chú gà giò, người ta săm soi bộ chân nó để xem thời vận và treo nó ở hàng hiên để khoe với hàng xóm. Cũng là ngày bọn trẻ đổ ra đường khệ nệ mang lời chúc của gia đình và bánh trái đến mừng tuổi thầy cộ Phong tục cổ truyền ấy đã làm cho ngày cuối cùng của dịp tết bừng lên một lần nữa, thiêng liêng rộn rịp không kém gì ngày ba mươi vừa qua. Hết Tết, xóm ấp rã rượi một cách ngọt ngào như cô dâu sau tuần trăng mật. Đó là sự kỳ diệu mà tổ tiên và thiên nhiên cùng bạn tặng để mỗi năm một lần con người trở lại với giá trị hằng của mìn: thanh sạch, vị tha, giao hoà và mơ ước. Dạ Ngân
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 8, 2011 5:27:22 GMT 9
Ba que xỏ lá ___________ Nguyễn Dư Bạn có biết thằng ba que xỏ lá là ai không ? Không biết... thằng phải gió, thằng mắc dịch này à ? Nếu vậy thì mời bạn cùng đi... đào mả, bới gia phả nhà nó, xem nó là con cái nhà ai mà đốn mạt thế !Ngược dòng thời gian, chúng ta tìm được dấu vết xa xưa của ba que trong bài Phú tổ tôm của Trần Văn Nghĩa, một người sống dưới thời Minh Mạng (1820-1840). Tác giả kể tên nhiều trò cờ bạc, trong đó có ba que : " Lạt nước ốc trò chơi vô vị : tam cúc, đố mười, đấu lình, bẩy kiệu, thấy đâu là vẻ thanh tao ; " Ngang càng cua lối ở bất bình : xa quay, chẵn lẻ, dồi mỏ, ba que, hết thẩy những tuồng thô suất. (Phong Châu, Nguyễn Văn Phú, Phú Việt Nam cổ và kim, Văn Hóa, 1960, tr. 215). Thời Tự Đức, Trần Tấn (tức Cố Bang) nổi lên chống Pháp. Ông bị ốm và chết năm 1874. Có người làm bài Vè Cố Bang đánh Tây : (...) Lính Tây, triều mang súng, Kèn thổi " toét tò loe ", Dưới cơn (cây) cờ ba que, Quan Hồ Oai cưỡi ngựa (...) (Thơ văn yêu nước nửa sau thế kỉ 19, Văn Học, 1970, tr. 406). Ít lâu sau xỏ lá mới xuất hiện. Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) đưa ra một trò chơi : - Xỏ lá là cuộc chơi gian lận, cuộc gạt gẫm. Một người lấy giấy, lá dài xấp lại cùng vấn tròn, đố người khác lấy chiếc đũa cắm vào giữa khoanh tròn, như chiếc đũa không mắc trong cuốn giấy thì phải thua tiền (nếu mắc thì ăn tiền). Quân xỏ lá là quân điếm đàng, lận mạt. Xỏ lá gian lận, gạt gẫm ở chỗ nào ? Trò chơi như vậy mà đã bị xem là điếm đàng, lận mạt rồi à ? Chết ! Chết ! Nếu vậy thì Đầu hồ của vua quan là... điếm đàng hạng sang hay sao ? Tự điển Génibrel (1898) gọi thằng xỏ lá là thằng mưu mẹo, lừa dối. Tương truyền năm 1906, Nguyễn Khuyến bị loà mắt, bị Chu Mạnh Trinh chơi xỏ, tặng cho một chậu hoa trà, thứ hoa có sắc nhưng không có hương. Nguyễn Khuyến " Tạ lại người cho hoa trà " bằng bài thơ " Sơn trà " trong đó có câu : Tầm thường tế vũ kinh xuyên diệp Tiêu sắt thần phong oán lạc dà (Mưa nhỏ những kinh phường xỏ lá Gió to luống sợ lúc rơi dà) Hai câu thơ ý nói : Những trận gió to làm cho đài hoa rụng, ai cũng có thể biết được ; còn những hạt mưa nhỏ làm cho lá thủng, ít ai có thể trông thấy được, nên lại nguy hiểm hơn. (Thơ văn Nguyễn Khuyến, Văn Học, 1971, tr. 138 và 408). Sở Khanh, Bạc Hạnh bị Tản Đà vạch mặt: Bộ xỏ lá trông đà lộn ruột, Sức thơ đào nghĩ lại non gan. Năm 1914, Phan Kế Bính biên soạn Việt Nam phong tục. Trong chương bàn về tính tình người Việt, ông chia đàn bà và đàn ông nước ta thành các hạng người: hiền phụ, lệnh phụ, xuẩn phụ và quân tử, thường nhân, tiểu nhân. Tiểu nhân là bọn tính tình gian giảo, phản trắc, (...), ăn trộm ăn cướp, xỏ lá ba que, đàng điếm, hoang toàng v.v. Phan Kế Bính khai sinh thành ngữ Xỏ lá ba que, mở đường cho văn học sau này. " Trời đất ôi ! Ngờ đâu con người thế, mà xỏ lá ba que !... (Phạm Duy Tốn, Con người Sở Khanh, Nam Phong, 1919). *** Ngày nay, thành ngữ " Xỏ lá ba que " hay " Ba que xỏ lá " thường được dùng để chỉ chung bọn vô lại chuyên đi lừa người khác để kiếm lời (Nguyễn Lân), bọn xảo trá, đểu giả (Hoàng Phê), tụi gian lận (tricheurs), bất lương (malhonnêtes) (Gustave Hue), v.v.... Nguyễn Lân đi xa hơn, giải thích chi tiết : - Ba que xỏ lá là một trò chơi ăn tiền trong đó kẻ chủ trò nắm trong tay một cái lá có xỏ một cái que, đồng thời chìa ra hai que khác. Ai rút được que xỏ lá là được cuộc, còn rút que không lá thì phải trả tiền. Nhưng kẻ chủ trò vẫn mưu mẹo khiến người chơi bao giờ cũng thua. Vì thế người ta gọi nó là thằng ba que xỏ lá, hoặc thằng ba que, hoặc thằng xỏ lá. (Nguyễn Lân, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Văn Hoá, 1989). Tuy nhiên, trò chơi của Nguyễn Lân không đơn giản, không phải ai cũng hiểu được cách chơi. Nhà cái nắm trong tay một cái que xỏ vào lá, và hai cái que không. Nhà cái chìa 3 đầu que ra cho người chơi rút. Nếu chỉ có vậy thì mưu mẹo bằng cách nào ? Nhà cái có tài thánh cũng không thể vừa nắm tay vừa tráo được cái que xỏ lá trước mặt người chơi. Thế mà người chơi bao giờ cũng thua thì... ma quái thật ! Không biết Phan Kế Bính, tác giả của Xỏ lá ba que, có biết trò chơi này không ? Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) định nghĩa: - Ba que là một cuộc đánh tiền bằng ba cái que của bọn keo hèn bày ra đánh ở đường ở chợ. Nghĩa bóng chỉ những người dối dá điên đảo. - Xỏ lá là trò làm ra để lừa người ta mà kiếm tiền. Thường nói tắt là " xỏ " để trỏ người gian giảo lừa gạt, bợm bãi. Ba que và Xỏ lá dối dá, lừa gạt bằng cách nào ? Không biết. Gốc gác hai thằng ba que và xỏ lá sao mà mù mờ thế. Hôm nay được ngày trời tạnh mây quang, mời bạn đi tìm cho ra hai thằng này. Ba que Génibrel(1898), Gustave Hue (1937) nói trống không đánh ba que hay ba ngoe là jeu de baguettes (trò chơi bằng que). Trò chơi bằng que của ta thì có đánh khăng và đánh chuyền của trẻ con. Cả hai trò chơi đều không phải là" ba que ". Người lớn có trò chơi dùng ba cái que. Đó là trò Chạy que của hội làng. Người ta dùng ba chiếc que xếp thành hình chữ H. Người tham dự trò chơi cầm hai chiếc que đặt song song của chữ H, cùng chạy đến đích. Ai đến trước mà chiếc que nằm ngang không rơi là thắng cuộc. Chạy que vui nhộn. Người chơi phải nhanh chân, khéo tay. Người giật giải hoàn toàn không gạt gẫm, lừa dối gì ai. Giở trò " ba que " ở sân đình thì trời đánh thánh vật cho chết không kịp ngáp. Chạy que chắc chắn không dính dáng gì với Ba que. Pierre Huard, Maurice Durand (Connaissance du Vietnam, EFEO, 1954, tr. 248) cho biết Ba que giống Courte paille (que ngắn) của Pháp. Courte paille là trò chơi rút thăm. Lấy một bó que có số que bằng số người chơi. Bẻ một que cho ngắn hơn các que khác. Người chủ trò trộn lẫn các que, nắm một đầu bó que, chìa đầu kia ra cho mọi người rút thăm. Ai rút trúng cái que ngắn là thắng cuộc. Số que của Courte paille tuỳ thuộc vào số người chơi, không bắt buộc phải là " ba que ". Dù sao thì Courte paille cũng không gian lận, không mang nghĩa xấu. Ba quan Năm 1884, bác sĩ Hocquard than phiền về đám bồi người Việt : Ces boys au service des Européens sont, pour la plupart, de petits vauriens sur qui il faut avoir en tout temps l'oeil ouvert. Ils ne couchent pas à la maison, mais en ville, et leur plus grande occupation, une fois leur service fini, est de jouer aux cartes ou au bacouën. (Hầu hết đám bồi của người Âu là bọn chẳng ra gì, cần phải cảnh giác, đề phòng chúng. Bọn chúng không ngủ ở nhà, chỉ ngủ ngoài đường. Mối bận tâm lớn nhất của chúng là chờ hết công việc để rủ nhau chơi bài, hay chơi ba quen). Philippe Papin ghi chú rằng bacouën là ba quan (trois ligatures, ba quan tiền). (Une campagne au Tonkin, Arléa, 1999, tr. 55) Ba quan (Ba quan tiền) chơi như sau : - Ce jeu populaire consiste à renverser sur une natte, où sont tracées trois cases numérotées sur lesquelles les joueurs ont misé, un bol plein de haricots que l'on compte ensuite quatre par quatre à l'aide d'une baguette ; si, à la fin du décompte, il n'en reste plus un seul, le croupier gagne ; s'il en reste un, deux ou trois, c'est le nombre de haricots restant qui indique la case gagnante (qui rapporte trois fois la mise) (Pierre Huard, Maurice Durand, sđd). (Ba quan là trò cờ bạc bình dân. Chiếu bạc có ba ô để các con bạc đặt tiền. Nhà cái đổ một bát đầy đậu xuống chiếu, rồi dùng một chiếc đũa đếm từng bốn hạt đậu một. Cuối cùng, nếu không còn hạt nào, thì nhà cái được. Nếu còn lại một, hai hay ba hạt thì ô số một, số hai hay số ba được. Tiền được gấp ba lần tiền đặt). Giải thích như vậy chưa thoả đáng. Bởi vì : 1) Trò chơi không bắt buộc phải đặt một quan tiền để được ăn thành ba quan. 2) Một quan tiền ngày xưa to lắm (Một quan là sáu trăm đồng, Chắt chiu tháng tháng cho chồng đi thi...). Mấy đứa nhỏ làm bồi cho Tây (năm 1884-1886) chắc chắn trong túi không có sẵn một (hay nhiều) quan tiền để đi đánh bạc. 3) Nhà cái đổ bát đậu xuống chiếu, rồi đếm. Như vậy thì kết quả các lần chơi sẽ giống nhau sao? Vô lí. Đúng ra thì nhà cái có một bát đậu để bên cạnh, mỗi lần chơi thì bốc ra một nắm để đếm. Báo L'Illustration (1884) có một bài phóng sự ngắn về một sòng bạc bakouan (ba quan) tại Bắc kì. Emile Nolly gọi trò cờ bạc của đám lính tập là bacouan (ba quan) (Hiên le maboul, Calmann-Lévy, 1925). Bộ bưu ảnh của Dieulefils (khoảng đầu thế kỉ 20) có tấm " Trẻ con chơi bakouan " (Do-Lam Chi Lan, Chants et jeux traditionnels de l'enfance au Viêt Nam, L'Harmattan, 2002, tr. 305). Tấm ảnh cho thấy ba quan chơi bằng mấy đồng tiền, gần giống như xóc đĩa. Trò chơi không có đậu, không dùng que để đếm. Ba quan của Dieulefils khác ba quan của Huard, Durand và Papin. Ba quan không phải là ba quan tiền (trois ligatures). Nếu trò chơi có 3 cửa để đặt tiền thì Ba quan nên được hiểu là 3 cửa (quan nghĩa là cửa) chăng ? Ba quan là trò cờ bạc may rủi. Nhà cái không cần gian lận, cuối cùng vẫn được vì cách chơi có lợi cho nhà cái. Ba quan không phải là ba que. Tuy nhiên : " Chưa bao giờ ở nước ta, chế độ học tập và khảo thí lại đẻ ra nhiều bọn người vô tài vô hạnh đến thế. Đã dốt nát, chúng lại hay khoe chữ, đề thơ bừa bãi trên tường các đền chùa và Phạm Thái rất khinh ghét chúng ". Lại Ngọc Cang gọi bọn này là bọn sinh đồ ba quan (Lại Ngọc Cang, Sơ kính tân trang, Văn Hoá, 1960, tr. 37). Ba quan là vô tài vô hạnh, dốt nát, khoe khoang. Ba quan có nghĩa xấu. Tiếc rằng các từ điển của ta không có từ này. Bakouan của Dieulefils, hay ba quan của Huard, Durand khá cồng kềnh, lích kích (bát, đĩa, đũa, đậu). Mấy bác lính tập của Nolly không thể mang theo trong mình được. Trò cờ bạc bacouan của các bác có thể là trò ba quân. Ba quân Người Pháp đưa bộ bài tây (bài ít xì) vào nước ta. Một số trò cờ bạc mới bắt đầu xuất hiện. Đặc biệt là trò Ba quân, có nơi gọi là Ba lá. Ba lá là một cuộc đánh tiền, lấy ba quân bài tây đảo đi đảo lại, ai đặt tiền vào trúng quân ông lão thì được. Nghĩa bóng chỉ những đứa hèn hạ ( Việt Nam tự điển, Khai Trí Tiến Đức). Ba quân hay Ba lá là Bonneteau của Pháp. Ba quân hoàn toàn nhờ vào tài tráo bài của nhà cái và tài lừa phỉnh của cò mồi. Ai đã sống tại Sài gòn vào những năm 60 của thế kỉ trước chắc còn nhớ lề đường Lê Lợi, thứ bảy, chủ nhật nhan nhản tụi tráo bài. Ngô Tất Tố cho biết vào khoảng 1930 tại phố Hàng Ngang ngoài Hà Nội có cả đàn bà ngồi tráo bài. Ba quân là cờ gian bạc lận của bọn đầu đường xó chợ. Ba quân hội đủ những tính xấu như gian lận, xảo trá, bất lương, đi lừa người khác để kiếm lời. Nghĩa là... ba quân là ba que. Người xưa tránh không chửi thằng ba quân vì ba quân là quân đội của triều đình (Tam quân : Trung quân, Tả quân và Hữu quân). Ba quân được nói trại thành ba que. Tương tự như tụ tam nói trại thành tổ tôm, tam kết thành tam cúc... Nói tóm lại, thằng Ba que có gốc gác là trò cờ bạc Ba quân (bonneteau) của Pháp. Lá cờ tam tài (ba màu xanh, trắng, đỏ) của Pháp bị gọi là cờ ba que. Cờ của bọn gian lận, tráo trở. Dùng trò cờ bạc của Pháp để chửi Pháp. Chơi chữ khá tế nhị. (Bacouën của Hocquard có phải là Ba quân không?). Xỏ lá Nguyễn Khuyến muốn " Tạ lại người cho hoa trà " bằng câu chửi phường xỏ lá. Có lẽ vì vậy mà trong bài " Sơn trà " ông phải gò ép cho những hạt mưa nhỏ xuyên diệp. Mưa nhỏ làm sao đâm thủng (xuyên) được lá cây (diệp) ? Xét về nghĩa thì xuyên diệp không xấu xa, đểu cáng như phường xỏ lá của tiếng Việt. Hai bài thơ của Nguyễn Khuyến không giúp chúng ta tìm hiểu được thằng xỏ lá. Vào khoảng năm 1945, Huỳnh Thúc Kháng viết về Cuộc khởi nghĩa Duy Tân (1916), có đoạn : - Thế mà trừ một số ít - rất ít - đã hấp thụ học thuyết mới, xem cái ngôi " bù nhìn " đó không có giá trị gì (...). Thường xuyên xưa nay mối lợi khiến cho người ta mờ trí khôn (lợi linh trí hôn), bọn thực dân Pháp mà các tay chính trị " xỏ lá " tự phụ là cao xảo cũng không khỏi vấp phải chỗ lầm to, ấy là tấn kịch " Đày vua cha Thành Thái mà lập con là vua Duy Tân lên thay "(...). (Vương Đình Quang, Thơ văn Huỳnh Thúc Kháng, Văn Học, 1965, tr. 173). Huỳnh Thúc Kháng dùng kí hiệu " nháy nháy " để nhấn mạnh hai từ bù nhìn và xỏ lá. Bù nhìn là tiếng Pháp épouvantail được Việt hoá. Do đó, có thể suy đoán rằng xỏ lá có nhiều khả năng là tiếng Pháp được Việt hoá. Từ điển Robert và Larousse của Pháp gọi tụi đáng khinh (méprisable), đáng ghê tởm (répugnant) ; bất chính (déloyal), bọn bất lương, gian dối (malhonnête) là salaud (xa lô). Thằng xỏ lá của ta có đủ mọi tính xấu của thằng salaud của Pháp. Xỏ lá vừa có nghĩa vừa có âm của salaud. Rốt cuộc, thằng salaud sang thuộc địa kiếm chác, bị Việt hoá thành thằng xỏ lá. Thời trước, mấy ông lính tẩy, mấy bà me tây, nói tiếng tây... như gió. Thỉnh thoảng lại đem ra khoe " mẹc (merde), xà lù (salaud), cô xoong (cochon) ". Xà lù là em ruột xỏ lá. Hoá ra Ba que xỏ lá là hai thằng..." người Việt, gốc Pháp ". Nguyễn Dư (Lyon, 2/2008)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 2:25:31 GMT 9
Lề phải, lề trái Mai sau, một ngày nào đó, có ai viết về lịch sử báo chí Việt Nam đầu thế kỷ 21, rất nên nhắc tới một “trận chiến vô hình” giữa hai lực lượng báo chí quân xanh quân đỏ. Hai lực lượng này được gọi tên theo một phép ẩn dụ nổi tiếng, là Lề Trái và Lề Phải. Gọi là “trận chiến” không biết có quá không, vì không có xô xát, xung đột, đổ máu gì, mà nhiều khi chứng kiến những diễn biến chiến sự giữa hai Lề thì đến Thượng đế cũng phải cười. Đơn cử ví dụ gần đây nhất và đang diễn ra là vụ án Cù Huy Hà Vũ chẳng hạn. Hai bên kịch chiến công nhận ác liệt. MÀN 1: Ngày 5/11. Lề Phải đồng loạt nổ súng, bắn tin ông Cù Huy Hà Vũ bị bắt tại khách sạn Mạch Lâm (TP.HCM). Nguyên nhân ban đầu ngả về hướng ông Vũ “quan hệ bất chính với phụ nữ”, “có hành vi chống người thi hành công vụ”. Lề Trái lặng đi. MÀN 2: Lề Trái phản đòn bằng một tràng đạn trên Bauxite Việt Nam, Dân Luận, RFI, VOA, RFA… Lề Trái đưa tin cả về phản ứng của những người thân, người quen của ông Vũ (Luật sư Dương Hà vợ ông Vũ gửi đơn tố cáo cơ quan an ninh, luật sư Hồ Lê Như Quỳnh khiếu nại việc bị Lề Phải vu khống, bôi nhọ danh dự…). Lề Phải, trái lại, không nhắc một lời tới những diễn biến này. Nói chung là Lề Phải kiên quyết không làm diễn đàn cho bất cứ thế lực nào ngoại trừ *** (tự kiểm duyệt). Thay vì thế, Lề Phải mở một chiến dịch tổng tấn công vào “đối tượng” Cù Huy Hà Vũ. “Bài học cho những kẻ ngông cuồng và ảo tưởng”, “Cù Huy Hà Vũ là người như thế nào”… thảy đều đanh thép như dội B40 vào Lề Trái. Lề Trái tiếp tục chống trả bằng các lập luận “rất chi là lề trái”, ví dụ bàn chuyện phân tích hồ sơ cáo trạng Cù Huy Hà Vũ, nhân quyền, hiến pháp, công pháp quốc tế này nọ. Lề Phải né, gạt ra. (Tạm) bỏ qua chuyện họ Cù “quan hệ bất chính với phụ nữ”, “chống đối người thi hành công vụ” được vài báo nêu lúc đầu, Lề Phải xoáy sâu vào các khía cạnh thuộc tư tưởng, nhân thân, đạo đức của Cù Huy Hà Vũ. Hai bên ở trong thế trận cài răng lược cho tới sau Tết âm lịch – là khi Lề Phải vào mùa báo xuân. Tết nhất, nghỉ cái đã. MÀN 3: Tết Tân Mão đã qua. Hai bên Lề lại tiếp tục trận chiến vô hình. Vừa hay lại đúng lúc bên Bắc Phi có biến: cách mạng hoa nhài bùng nổ. Lề Trái như được tiếp thêm sức mạnh. Càng gần tới phiên xử Cù Huy Hà Vũ (lúc đầu định là ngày 24/3, vừa được chuyển sang 4/4), Lề Trái càng đánh mạnh, đánh rát, đánh vỗ mặt: “Cù Huy Hà Vũ và mặt trận pháp lý – công lý”, “Chúng ta là Cù Huy Hà Vũ”, “Xin các vị hãy ghi điểm cho thành tích dân chủ hóa đất nước”, v.v. Lề Phải nói chung không có nhiều chiến sĩ giỏi. Vài tay súng có vẻ khá nhất tập trung ở các đơn vị QĐND, ANTĐ, ANTG…, thì đẳng cấp và phong độ đều tầm thường như lính vét. Vậy nên, mất vài tháng trời, Lề Phải gần như bỏ ngỏ mặt trận cho Lề Trái tung hoành. Thỉnh thoảng, Lề Phải cũng nổ súng vu vơ, ví dụ đập hoặc nâng Bi ơi đừng sợ, hoặc mở một mặt trận nhỏ trên địa bàn văn hóa, cho các bên xả súng bắn vào nhau, nhân khi có một cô người mẫu giới thiệu bộ ảnh khỏa thân mới trên Internet. Lề Phải im im vậy, tưởng chừng đã đuối thế, thì “choành” một phát như tiếng sét giữa trời quang. Ấy là bài viết “Bản chất những việc làm vừa qua của Cù Huy Hà Vũ”, tuy không đăng trên Lề Phải, nhưng các lập luận “rất chi là lề phải”. MÀN 4: Sẽ diễn ra đâu đó xung quanh ngày xét xử vụ án Cù Huy Hà Vũ. Hiện tại, Lề Trái vẫn có vẻ giữ phong độ và khí thế áp đảo, nhưng cứ chờ đến ngày đó đi, cả một dàn trọng pháo của Lề Phải sẽ đồng loạt khạc lửa… Mặt trận không tiếng súng Cuộc chiến đấu giữa Lề Phải và Lề Trái này quả thật là một nét đặc trưng của báo chí Việt Nam thời Internet, mà trong tương lai, học giả nào nghiên cứu về lịch sử báo chí chớ nên bỏ qua. Suy cho cùng, đó là một cuộc nội chiến, mà phàm là nội chiến thì dễ vô nghĩa: Tại sao lại tồn tại khái niệm “Lề Phải, Lề Trái” trong báo chí? Báo chí đúng nghĩa chỉ có một Lề thôi, đó là sự thật. Sao tự nhiên lại nảy nòi ra hai cái Lề này trong làng truyền thông Việt Nam? Nhưng thôi, ta hãy nhìn vào khía cạnh tích cực của vấn đề. Dẫu sao thì sự tồn tại của cả hai Lề đều có ích cho nhau ở một chừng mực nào đó. Rút kinh nghiệm từ những nhược điểm của Lề Phải, Lề Trái (nhìn chung) thường đảm bảo những việc sau đây: • Dẫn nguồn tương đối cẩn thận. Có lẽ sợ bị kiện nên các chiến sĩ dày dạn kinh nghiệm của Lề Trái thường đề nguồn (trích dẫn ý kiến, tư liệu, hình ảnh) chu đáo. • Có lỗi, thường nhận luôn. Khoản này Lề Phải còn phải học Lề Trái dài dài. Blogger Người Buôn Gió từng “treo blog 15 ngày vì sai sót khi đưa tin”, Bauxite Việt Nam còn có “Lời cáo lỗi” vì nhầm lẫn, chứ đại nhà báo Kim Ngân của Lề Phải thì khán giả có bắc loa vào tận giường ngủ mà chửi, mặt nàng cũng vẫn bóng như thế. Đúng thôi, Lề Phải hùng hậu, mấy khi bị kiện, mà bị kiện cũng mấy khi thua đâu, trong khi Lề Trái làm sai, lơ mơ là tiêu tùng. • Tôn trọng và tương tác với độc giả. Không phải luôn luôn, nhưng Lề Trái nói chung thường cho đăng tải ý kiến độc giả thuộc cả hai phe ủng hộ và phản đối. Chứ ngó vào Lề Phải xem, đố tìm được “comment” nào theo hướng bất lợi cho Lề Phải đấy! Lề Trái nhiều khi còn là nơi cung cấp thông tin, tư liệu, ý tưởng, đề tài cho Lề Phải. Đang có cả một phong trào các chiến sĩ Lề Phải lê la trên diễn đàn của Lề Trái để “nhặt đạn”, nói nôm na là ăn cắp ý tưởng và ý kiến mang về sử dụng, đôi khi cũng có ghi nguồn, và phần lớn trường hợp là không hỏi ý kiến người có ý tưởng/ ý kiến đó. Nói vậy chứ Lề Phải không hoàn toàn là… vứt đi. Lề Phải cũng có nhiều ưu điểm, tuy nhiên đó lại là chủ đề của một entry khác rồi. Còn bây giờ, chúng ta hãy cùng chờ lần khai hỏa tới đây của hai Lề nàoooooo… Đoan Trang Nguồn: trangridiculous
|
|