|
Post by Vĩnh Long on Mar 19, 2008 10:37:26 GMT 9
The Economist 13 tháng 3, 2008 Những thực dân mới Trung Quốc đói tài nguyên thiên nhiên đang đặt ra nhiều vấn đề đối với trong nước hơn là những vấn đề đối với bên ngoài. Chẳng hề là thổi phồng khi nói về việc Trung Quốc đang đói hàng hóa. Trung Quốc dù chỉ chiếm 1/5 dân số toàn cầu nhưng ngốn hơn một nửa lượng thịt lợn, một nửa lượng xi-măng, và một phần ba lượng nhôm toàn thế giới tiêu thụ. Trung Quốc chi cho nhập khẩu đậu tương và dầu lửa gấp 35 lần số tiền chi cho lượng nhập khẩu năm 1999, và chi cho nhập khẩu nguyên liệu đồng gấp 23 lần -- thực vậy, Trung Quốc đã ngốn hết 4/5 lượng tăng cung nguyên liệu đồng của thế giới kể từ năm 2000. Chưa hết, Trung Quốc trở nên ngày càng đói hơn. Mặc dù lượng tiêu dùng xăng đang giảm đi ở Mỹ, giá dầu vẫn đang lập những kỷ lục mới bởi vì nhu cầu dầu lửa từ Trung Quốc và các nền kinh tế đang phát triển khác vẫn đang tăng lên. Tổ chức Năng lượng Thế giới cho rằng lượng nhập khẩu dầu lửa của Trung Quốc sẽ tăng gấp ba vào năm 2030. Nhu cầu nguyên liệu thô ở tất cả các loại hàng của Trung Quốc tăng nhanh đến mức tạo ra sự thịnh vượng cho các nông dân, những nhà khai thác mỏ và nhà sản xuất dầu mỏ, tăng đến nỗi những cụm từ như “thị trường đầu cơ giá – bull market” hay “bùng nổ chu kỳ - cyclical expansion” hầu như không nói hết được ý nghĩa của nó. Các ngân hàng, để mô tả hiện tượng này, đã phải đặt ra một cụm từ mới: siêu chu kỳ (supercycle) Tuy thế, không phải tất cả những nhà quan sát cho rằng cơn đói hàng hóa triền miên này của Trung Quốc là "siêu". Lập luận phản bác tập trung vào chính sách đối ngoại của nước này. Nhiều người cho rằng trong nỗ lực bảo đảm một nguồn cung nguyên liệu thô ổn định, Trung Quốc đang ve vãn những nhà lãnh đạo độc tài, tước đoạt của các nước nghèo, và làm yếu đi những nỗ lực mở rộng dân chủ và thịnh vượng của các nước Phương Tây. Những tiếng kêu gào mạnh nhất ở Hoa Kỳ và Châu Âu cho rằng họ đang “đánh mất” Châu Phi và Châu Mỹ La tinh. Lập luận này không tính tới những lợi ích mà cơn khát hàng hóa của Trung Quốc mang lại, không những chỉ cho các nước nghèo mà còn cho một số nước giàu trong đó có cả Úc. Các nền kinh tế ở Châu Phi va Châu Mỹ La tinh chưa bao giờ tăng trưởng nhanh như ngày nay. Sự tăng trưởng ấy đến lượt nó rõ ràng sẽ đưa nhiều người dân thoát khỏi cảnh đói nghèo hơn là cứ dựa vào các chương trình hỗ trợ phập phù của Phương Tây. Hơn nữa, Trung Quốc không chỉ là nước duy nhất ve vãn các chế độ độc tài. Hãy xem trường hợp quân đội Pháp rải rác khắp Châu Phi, một số gần đây chuyển vũ khí của Libya cho nhà độc tài của Chad, Indriss Deby. Sắc thái mới Trung Quốc có khả năng - và cũng nên - sử dụng ảnh hưởng của mình để kìm chế một số nước tệ nhất trong số những nước bạn bè của mình như trường hợp của Sudan và Myanmar. Và họ đang bắt đầu làm việc này. Trung Quốc đã thôi không chống lại việc triển khai lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp quốc tại Dafur, và thậm chí còn gửi một số kỹ sư quân sự của mình tham gia vào hoạt động này. Thủ tướng Trung Quốc, Ôn Gia Bảo, đã công khai kêu gọi cần có dân chủ ở Myanmar cho dù cách hiểu về dân chủ của Trung Quốc có khác với Phương Tây nhưng đây cũng là một bước đi mạnh bạo đối với một chính phủ luôn tuyên bố rằng không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác. Quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới càng sâu sắc thì sắc thái của nó càng phản ảnh rõ vào chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Tuy thế, cơn khát tài nguyên thiên nhiên của Trung Quốc cũng đang tạo ra nhiều vấn đề. Hầu hết các vấn đề này lại nằm ở Trung Quốc chứ không phải ở bên ngoài. Trung Quốc đang ngốn nhiều hàng hóa hơn bao giờ hết không chỉ vì nền kinh tế của họ đang tăng trưởng quá nhanh mà còn là do sự tăng trưởng của Trung Quốc tập trung ở các ngành tiêu dùng nhiều tài nguyên. Trong vài năm gần đây đã có một sự chuyển dịch mạnh mẽ từ các ngành công nghiệp nhẹ sang các ngành công nghiệp nặng. Vì thế cho mỗi sản phẩm làm ra, Trung Quốc lại tiêu dùng nhiều nguyên liệu thô hơn. Có thể điều này xem ra chỉ là một thay đổi nhỏ nhưng sự thực thì hệ lụy của nó rất kinh khủng. Điều đầu tiên, nó khuyến khích một hình thức liên kết chặt chẽ với các đối tác nước ngoài mà hiện nay đang khiến cho Trung Quốc bẽ mặt. Đáng lo ngại hơn là nó đang làm cho tình trạng ô nhiễm của Trung Quốc, vốn đã tệ, lại càng tệ hơn. Công nghiệp nặng đòi hỏi sử dụng nhiều năng lượng. Đơn cử như sản xuất thép sử dụng 16% năng lượng của Trung Quốc so với 10% năng lượng sử dụng cho toàn bộ các hộ gia đình. Cho tới nay nguyên liệu phổ biến nhất tạo ra năng lượng là than đá. Chính vì thế càng có nhiều nhà máy thép và nhà máy hóa chất thì càng có nhiều mưa a-xít, khói bụi, đó là chưa nói tới biến đổi khí hậu toàn cầu. Những điều này không chỉ đơn giản là những điều gây ra sự khó chịu mà nó còn gây ra nhiều vấn nạn lớn cho xã hội. Mỗi năm, nhiều triệu người mắc bệnh, nhiều trăm ngàn ca chết yểu, sản lượng nông nghiệp kém đi và nhiều chuyện khác nữa. Pan Yue, hàm Thứ trưởng một Tổ chức theo dõi về Môi trường của Trung Quốc tin rằng cái giá phải trả của ô nhiễm mỗi năm tương đương với khoảng 10% GDP. Không có lửa sao có khói Thế nên không còn nghi ngờ gì nữa nạn ô nhiễm chính là nguyên nhân của biết bao nhiêu vụ phản đối và biểu tình. Chỉ riêng năm 2006 đã có tới 60.000 vụ, theo thống kê của chính các chính quyền địa phương. Một số vụ được cầm đầu không do những nông dân nghèo mà chính là dân ở những thành phố lớn được tổ chức bài bản như ở Thượng Hải và Hạ Môn, một biểu hiện khiến cho những nhà Lãnh đạo Trung Quốc chắc chắn phải rất lo ngại. Và mầm mống sẽ làm bùng nổ các cuộc khủng hoảng về môi trường là rất lớn: đó là nước ở miền Bắc của Trung Quốc đang cạn kiệt; các tảng băng là nguồn cung cho càng dòng sông ngày càng teo dần đi lại đang tan ra do biến đổi khí hậu toàn cầu. Chính phủ Trung Quốc nhận thức rõ được các vấn đề này và đang tìm cách giải quyết. Trong kỳ họp quốc hội vào tháng này, Trung Quốc đã nâng tổ chức của ông Pan lên cấp Bộ. Trung Quốc tăng mức phạt gây ô nhiễm, giảm trợ cấp chính phủ đối với năng lượng và không cho các ngành công nghiệp nặng được hưởng ưu đãi thuế. Trung Quốc cũng thúc đẩy sử dụng các nguồn năng lượng sạch hơn như là sức gió và khí thiên nhiên. Thế nhưng cho dù đã nỗ lực rất nhiều để làm sạch không khí ở Bắc Kinh dịp Thế vận hội vào tháng 8 này nhưng những vận động viên vẫn cho rằng họ sẽ không có đủ không khí sạch để thở. Vận động viên chạy ma-ra-tông nhanh nhất thế giới, chẳng hạn, đã lên tiếng đe dọa sẽ không tham dự vì lý do ô nhiễm môi trường. Tất cả các kế hoạch làm xanh, sạch môi trường của Chính phủ đang bị cản trở bởi nguồn tài chính quá dồi dào giả tạo và sự nhiệt tình thái quá của các quan chức muốn hướng các nguồn tài chính này vào các ngành công nghiệp gây ô nhiễm. Các ngân hàng của Trung Quốc, do có sự nâng đỡ của chính phủ, chi trả mức tỷ giá âm cho các khoản tiền gửi và do đó có khả năng cho các công ty nhà nước vay với lãi xuất rất thấp. Rất nhiều trong số các công ty này hưởng lợi vì được cấp không đất và trả lợi tức nhỏ cho nhà nước đã dùng rất nhiều tiền đầu tư vào các nhà máy gây ô nhiễm. Những người gửi tiền và những người dân nộp thuế của Trung Quốc trên thực tế đang trợ cấp cho các ngành công nghiệp mà đang từng ngày đầu độc họ. Vì phát triển, chắc chắn Trung Quốc vẫn phải tiêu dùng một lượng khổng lồ nguyên liệu thô. Thế nhưng trước thực trạng đất nước đã phải chịu đựng mức độ ô nhiễm nặng nề và sự bất ổn lớn mà ô nhiễm mang lại, Trung Quốc cần phải kiềm chế cơn khát tài nguyên của mình. Một chiến lược phát triển ít lãng phí và ít ô nhiễm hơn sẽ là một chiến lược phát triển lành mạnh hơn. Nguyễn Thành Huy (theo The Economist)
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:18:54 GMT 9
Việt Nam và áp lực từ Phương Bắc Ngô Vĩnh Long Trong thời gian gần đây, Việt Nam xem chừng như ngày càng bị áp lực khá dồn dập từ Phương Bắc trên nhiều lĩnh vực. AFP photo Hiện nay nhiều tàu thuyền Việt Nam không dám ra khơi đánh cá sợ bị đánh chìm hoặc bị TQ bắt Thái độ lấn lướt của bắc Kinh được thể hiện qua những diễn biến như phân định ranh giới trên bộ và trên biển; việc Bắc Kinh đe dọa các công ty nước ngoài hợp tác với VN dò tìm dầu khí; đông đảo công nhân TQ vào vùng Tây Nguyên qua dự án khai thác bauxite; và gần đây nhất, tàu TQ bắt, bắn giết ngư phủ VN hoạt động trong vùng biển của mình... Câu hỏi được nêu lên trước tiên là những nguy cơ như vậy có thể đưa VN về đâu? Qua cuộc trao đổi với Thanh Quang, Giáo sư Ngô Vĩnh Long chuyên về các vấn đề Á Châu và đang giảng dạy tại Đại Học Maine (Hoa Kỳ) nhận xét: Lợi thế của Biển Đông GS Ngô Vĩnh Long : Việt Nam phân chia ranh giới trên bộ với Trung Quốc đã ba bốn năm nay rồi, tôi cho vấn đề đó là hữu lý là bởi vì Việt Nam là một nước nhỏ, Trung Quốc là một nước to, trên bộ mà không giải quyết vấn đề biên giới vốn bị một áp lực rất lớn của khối người Trung Quốc ở vùng biên giới thì Việt Nam bị kẹt vấn đề đó thì không thể lo những vấn đề lớn khác như là vấn đề an ninh trên Biển Đông, cho nên tôi nghĩ rằng phải giải quyết vấn đề trên bộ để có thời gian chuẩn bị cho an ninh trên Biển Đông và an ninh trên các khu vực khác. Nếu Trung Quốc lấn chiếm hay là bành trướng mạnh vô khu vực Biển Đông thì sẽ rất là khó khăn cho thông thương trên Biển Đông, nhất là qua vùng eo Malacca, có đến 52 đến 55% hàng hoá thế giới lưu thông qua đường hàng hải này Nhưng vấn đề chính là vấn đề Biển Đông. Đây không những là vấn đề an ninh của riêng Việt Nam mà là vấn đề an ninh của cả thế giới, trong đó có cả Trung Quốc. Nếu Trung Quốc lấn chiếm hay là bành trướng mạnh vô khu vực Biển Đông thì sẽ rất là khó khăn cho thông thương trên Biển Đông, nhất là qua vùng eo Malacca, có đến 52 đến 55% hàng hoá thế giới lưu thông qua đường hàng hải này, như là dầu cho Trung Quốc, dầu cho Đài Loan, dầu cho Hàn Quốc, dầu cho Nhật ở trên vùng Bắc Á. Nhật, Hàn Quốc và Đài Loan là 3 nước đã là đồng minh của Mỹ từ lâu, thì nếu Trung Quốc càng lấn vào Biển Đông thì trước sau gì Mỹ cũng phải có phản ứng. Đó là một. Thứ hai nữa, an ninh Biển Đông là an ninh cho cả khu vực Đông Nam Á, vì thế phần lớn những nước trong khu vực đối với họ an ninh trên Biển Đông là vấn đề rất quan trọng. Nếu Việt Nam biết kéo sự đồng tình của các nước trong khu vực và ngoài khu vực như Mỹ và các nước khác, thì có thể không những bảo đảm vấn đề an ninh Biển Đông mà bảo đảm cả tương lai của đất nước việt Nam. Từ xưa tới giờ Việt Nam cũng giống như Trung Quốc chỉ nghĩ tới vấn đề trên bộ mà thôi chớ không nghĩ rằng vấn đề đi ra biển tức là đi ra thế giới là vấn đề quan trọng. Trung Quốc đã hiểu vấn đề đó từ khi Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền, từ đó Trung Quốc mới hướng tới toàn cầu hoá, vân vân. Nếu Trung Quốc lấn chiếm hay là bành trướng mạnh vô khu vực Biển Đông thì sẽ rất là khó khăn cho thông thương trên Biển Đông, nhất là qua vùng eo Malacca, có đến 52 đến 55% hàng hoá thế giới lưu thông qua đường hàng hải này Còn Việt Nam lại chậm hơn Trung Quốc mấy chục năm rồi. Tôi nghĩ Việt Nam phải khôn ngoan để thấy cái lợi của mình ở đâu. Sai lầm của sự nhượng bộ thái quá Thanh Quang : Như vậy, nhà cầm quyền Việt Nam lẽ ra phải khôn ngoan như thế nào, thưa Giáo Sư? GS Ngô Vĩnh Long : Việt Nam trong những năm qua thay vì mua thời gian để mà hợp tác với các nước trong khu vực cũng như với các nước ngoài khu vực như Mỹ, vân vân, thì Việt Nam lại không làm chuyện đó cho tốt mà Việt Nam càng ngày càng đi sâu vào quỹ đạo Trung Quốc, tưởng rằng nhượng bộ Trung Quốc, làm cái gì cho Trung Quốc bằng lòng thì Trung Quốc sẽ tha cho Việt Nam, sẽ không ép Việt Nam nữa. Cách đây hơn 2 năm Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc bằng cách cho Trung Quốc mở vùng cao nguyên khai thác bauxite. Việt Nam tưởng nhượng bộ lớn như thế này thì Trung Quốc sẽ không ép, nhưng Việt Nam không thuộc lịch sử Trung Quốc trong mấy nghìn năm là càng nhượng bộ thì Trung Quốc càng ép. Việt Nam nhượng bộ Trung Quốc bằng cách cho Trung Quốc mở vùng cao nguyên khai thác bauxite. Việt Nam tưởng nhượng bộ lớn như thế này thì Trung Quốc sẽ không ép, nhưng Việt Nam không thuộc lịch sử Trung Quốc trong mấy nghìn năm là càng nhượng bộ thì Trung Quốc càng ép. Thanh Quang : Nhưng thực trạng là Việt Nam đã nhượng bộ như vậy rồi. GS Ngô Vĩnh Long : Bây giờ nếu Việt Nam không khéo thì như tôi đã nói nhiều lần, Việt Nam cũng giống như một tuýp thuốc đánh răng, Trung Quốc sẽ ép từ biên giới phía Bắc xuống, Biển Đông sang, nó bóp Việt Nam bây giờ anh có phọt ra Phú Quốc thì nó cũng không tha, giống như là nó ép Tưởng Giới Thách ngày xưa chạy ra Đài Loan rồi bây giờ nó cũng không tha, thành ra Đài Loan phải nhờ cậy mấy nước khác mới có thể giữ được. Mà Việt Nam, tôi nghĩ rằng đi lá bài trong 2 năm qua càng ngày càng nghiêng về Trung Quốc, tưởng rằng như vậy thì Trung Quốc sẽ tha, đây là lá bài sai. Mà cùng lúc Việt Nam lại đòi phần lớn các đảo Trường Sa là của Việt Nam thì tôi nghĩ rằng cái này là vấn đề càng sai nữa, vì mình muốn các nước Đông Nam Á ủng hộ mình thì phải nhượng bộ cho họ về những gì mà mình thấy không quan trọng thì mình nên bỏ, những cái gì mình thấy là đúng về phần mình thì mình thương lượng với họ. Trung Quốc thấy Mỹ đang bị kẹt ở vùng Trung Đông, mà nó muốn làm cho Việt Nam sợ trước, vì Việt Nam là tiền đồn ở Đông Nam Á, thì Việt Nam sợ trước mà nhượng bộ cho nó nhiều thì các nước khác nghĩ rằng vấn đề lớn nhất của Việt Nam mà nó nhượng thì mình dại gì lại chường đâu ra. Nhưng mà vấn đề lớn không phải là mấy cái đảo nhỏ xíu, vấn đề lớn là vấn đề thông thương, vấn đề an ninh của quốc gia. Tôi nghĩ rằng chính sách của Việt Nam bây giờ là sai trong vấn đề này. Mà Trung Quốc thấy vậy lại càng lấn. Trung Quốc thấy Mỹ đang bị kẹt ở vùng Trung Đông, mà nó muốn làm cho Việt Nam sợ trước, vì Việt Nam là tiền đồn ở Đông Nam Á, thì Việt Nam sợ trước mà nhượng bộ cho nó nhiều thì các nước khác nghĩ rằng vấn đề lớn nhất của Việt Nam mà nó nhượng thì mình dại gì lại chường đâu ra. Vấn đề này Trung Quốc lại chơi quá, không những nó thách đố tàu Mỹ Impaccable, nó lại theo dõi tàu Mỹ và đụng tàu Mỹ trên đường đi đến Phi Luật Tân, rồi thấy Mỹ chưa nói gì thì Trung Quốc lại quá lố đâm vào các tàu của ngư dân Việt Nam, bắt ngư dân Việt Nam. Đây là cơ hội rất tốt cho Việt Nam để đem vấn đề này ra trước công luận thế giới, trước Liên Hiệp Quốc, mà bây giờ Việt Nam đang là thành viên của Hội Đồng Bảo An, cho nên nếu Việt Nam đưa vấn đề này ra thế giới thì Trung Quốc sẽ bị kẹt. Đây là một cơ hội để Việt Nam phản công, vậy mà Hà Nội lại phản ứng bằng cách đề nghị Trung Quốc đừng bắt ngư dân, đề nghị thế này đề nghị thế kia, mà là những đề nghị không ra gì cả. Việt Nam quá nhu nhược hay ở thế kẹt? Thanh Quang : Như Giáo Sư vừa giải thích là vấn đề phát xuất từ sự nhượng bộ thái quá của Việt Nam. Theo nhận xét của Giáo Sư, có phải là nhà cầm quyền Hà Nội vì trong thế kẹt mà hành động như vậy, hay theo như chỉ trích của công luận là vì quá nhu nhược mà hành động như vậy? Thay vì tự do để phát triển thì Việt Nam lại theo mô hình đàn áp để phát triển. Mô hình này thì trước đó Nhật đã theo rồi, Hàn Quốc đã theo rồi, nhưng mà lúc đó là trong thế chiến tranh lạnh. Bây giờ thời đại đã khác rồi, không thể làm như vậy được nữa. GS Ngô Vĩnh Long : Nó là cả hai. Việt Nam có vấn đề kinh tế thế giới đi xuống, và Việt Nam nghĩ cách phát triển của các nước Âu Mỹ là không hợp thời, và của Bắc Kinh là hợp thời tức là đàn áp để phát triển. Thay vì tự do để phát triển thì Việt Nam lại theo mô hình đàn áp để phát triển. Mô hình này thì trước đó Nhật đã theo rồi, Hàn Quốc đã theo rồi, nhưng mà lúc đó là trong thế chiến tranh lạnh. Bây giờ thời đại đã khác rồi, không thể làm như vậy được nữa. Nhưng mà Trung Quốc nó vẫn làm theo mô hình đàn áp để phát triển, mà phát triển bằng cách xuất khẩu. Nó tưởng rằng mô hình đó là mô hình thắng thế, nhưng mà bây giờ anh có đàn áp đi nữa, anh có thể sản xuất rất là nhiều, nhưng mà nếu Mỹ và Châu Âu và các nước khác không nhập hàng của anh thì anh làm gì? Trung Quốc là nước lớn nên nó có thể quậy lung tung để các nước khác nhượng bộ nó, nhnưg Việt Nam là nước nhỏ nên quậy lung tung không được, đàn áp dân chúng cũng không đàn áp được giống như Trung Quốc, thành ra Việt Nam đi theo mô hình Trung Quốc là theo cái mô hình bậy. Vấn đề là không phải chống Trung Quốc, vấn đề là chống chính sách bành trướng của một giới nào bên Trung Quốc thì mình phải có chính sách khôn ngoan. Chứ bây giờ mà đi ra chửi đổng dân tộc Hán như thế nào, Trung Quốc như thế nào, thì chả làm được cái gì hết trơn mà nó còn gây rối thêm. Thanh Quang : Thưa Giáo Sư, thật ra dân tộc Việt Nam mình từng chứng tỏ bất khuất và từng ngăn chặn được Phương Bắc dù bị Tàu đô hộ một ngàn năm. Nhưng liệu phản ứng hiện nay của chính quyền Hà Nội như vừa nói có thể là một trở lực cho nhân dân Việt Nam ngăn chặn sự bàng trướng cố hữu của Bắc kinh hay không? GS Ngô Vĩnh Long : Vấn đề này cũng khó nói. Tôi nghĩ khi một số lãnh đạo trong chính phủ khiếp nhược hay hèn hạ thì nó sẽ giúp cho dân chúng thấy rằng có sự khiếm khuyết và dân chúng có thể vì đó mà đoàn kết và đồng tình hơn. Vấn đề bất khuất thì tôi nghĩ có một lúc bất khuất cũng được, nhưng Việt Nam bây giờ là phải khôn ngoan. Vấn đề này không phải là vấn đề dân tộc với Trung Quốc, vấn đề này là mình sống gần bên Trung Quốc, mình muốn Trung Quốc đối đãi với Việt Nam đàng hoàng để cho cả khu vực có thể phát triển. Vấn đề là không phải chống Trung Quốc, vấn đề là chống chính sách bành trướng của một giới nào bên Trung Quốc thì mình phải có chính sách khôn ngoan. Chứ bây giờ mà đi ra chửi đổng dân tộc Hán như thế nào, Trung Quốc như thế nào, thì chả làm được cái gì hết trơn mà nó còn gây rối thêm. Vấn đề không phải là vấn đề dân tộc, mà Trung Quốc là liền núi liền sông với mình, nếu mình không khôn ngoan thì mình bị khó khăn liền.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:19:45 GMT 9
Đàn áp để ổn định và phát triển: Mô hình Trung Quốc Ngô Vĩnh Long 1. Lời nói đầu Bài “Ổn định và phát triển: Trí thức Trung Quốc đang nghĩ gì?” của Trần Hữu Dũng (Thời Đại Mới, số này) rất hữu ích vì không những nó cho biết trí thức Trung Quốc đang nghĩ gì về ổn định và phát triển trên đất nước họ mà còn cho thấy người trí thức nước nầy, tuy không giữ chức vị trong chính quyền, vẫn có những cơ hội và vai trò nhất định để đóng góp cho việc ổn định và phát triển của đất nước.
Thật ra, trong suốt lịch sử của Trung Quốc từ thời nhà Chu (周) cho đến thời Mao Trạch Đông, giới trí thức (知識) mà ngày xưa gọi là kẻ sĩ (士), thường được coi là quan trọng hàng đầu (sau vua) trong việc trị quốc (zhì guo 治國) và bình thiên hạ (píng tian xìa 平天下).[1] Trong thời Xuân Thu Chiến Quốc (770-476) chế độ quân chủ (君主) phát triển và ngày càng chuyên chế, gây nên mất ổn định triền miên. Khổng Tử, một trong những nhà “hiền triết” trưởng thành trong giai đoạn nầy, thấy không thể nào dẹp chế độ quân chủ được. Nhưng ông nghĩ rằng nếu có một tầng lớp sĩ phu được trau dồi với những giá trị đạo đức chung (nhân 仁, trí 智, nghĩa 義, trung 忠, thứ 恕) để làm cố vấn hay để phò các vị vua thì việc bạo chúa sử dụng bạo lực để “cai trị” sẽ được giảm bớt. Khổng Tử gọi những người có ngũ đức và có học nầy là “quân tử” (君子) và ông khuyên vua chúa nên sử dụng những người như thế. Nếu không thì sẽ có “cách mạng.”[2]
Cuộc cách mạng trong nửa đầu thế kỷ 20 phần lớn do trí thức lãnh đạo, tuy thành phần nông dân là tuyệt đại đa số. Sau khi cách mạng thành công và đảng Cộng Sản Trung Quốc, do Mao Trạch Đông lãnh đạo, lên nắm chính quyền cuối năm 1949, các thành phần trí thức (kể cả những người theo Quốc Dân Đảng và Tưởng Giới Thạch không bỏ nước ra đi) vẫn còn được trọng dụng. Do đó, tuy có khác nhau về quan điểm, sự đóng góp của các tầng lớp trí thức đã giúp kinh tế và xã hội phục hồi và phát triển rất nhanh chóng trong 7 năm đầu.
Để vận động các tầng lớp trí thức thi đua tích cực và thẳng thắn phát biểu những ý kiến của mình đối với các chính sách của nhà nước hòng thu được nhiều kết quả tốt đẹp hơn, đến cuối năm 1956 và đầu năm 1957 Mao đồng ý phát động phong trào “trăm hoa đua nở” (tiếng Trung Quốc gọi là “trăm hoa vận động” 百花運動). Tên của phong trào nầy được đặt ra từ một câu thơ của Mao mà tiếng Việt dịch ra là: “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng” (Tiếng Trung Quốc là: 百花齊放,百家爭鳴 bǎi huā qífàng, bǎi jiā zhēngmíng). Trong câu nầy Mao muốn ám chỉ việc “hàng trăm” (tức là nhiều) nhà hiền triết thời Chiến Quốc đã thi đua trên bình diện ý thức hệ, chứ không phải trên bình diện bạo lực, để tìm ra những tiêu chuẩn tốt cho việc ổn định và phát triển. Mao nghĩ rằng vì các cuộc tranh luận thời Chiến Quốc đã phát sinh ra triết lý Khổng Tử và Lão Tử và bổ sung cho nhau như âm dương cuồn cuộn, thì phong trào “trăm hoa đua nở” cũng sẽ giúp chứng minh tính “hơn hẳn” của chủ nghĩa xã hội và tư tưởng của Mao (được trình bày trong “Mâu thuẩn Luận” và “Thực tiễn Luận” là hai trước tác kinh điển của Mao Trạch Đông.)
Hàng triệu trí thức và sinh viên (cùng với nhiều phần tử xã hội khác) hưởng ứng nhiệt liệt. Chỉ từ đầu tháng 6 đến giữa tháng 7 năm 1957 họ đã gởi cho văn phòng thủ tướng Chu Ân-Lai và các cơ quan chính quyền các cấp mấy triệu bức thư. Nhiều bức thư này chỉ trích các chính sách của chính phủ cũng như sự tham nhũng của cán bộ đảng và quan chức nhà nước khá nặng nề. Thậm chí còn đòi đảng Cộng Sản phải tự giải tán vì nếu đảng nầy còn nắm quyền thì sẽ còn mất tự do dân chủ và trí thức sẽ còn tiếp tục bị ngược đãi. Mao thấy sẽ có nguy cơ cho chế độ nếu cái đà này tiếp tục nên ra lệnh cho dẹp phong trào, nói rằng (dịch nôm na ra tiếng Việt) “trí thức không bằng cục phân.” Đã có nhiều phân tích cho biết tại sao họ Mao nghĩ như thế, tại sao ông ta mở các chiến dịch đàn áp trí thức sau đó, và tại sao việc nầy dẫn đến hậu quả xã hội mất ổn định và kinh tế suy thoái trầm trọng trong gần hai thập kỷ. Việc tôi muốn đề cập đến ở đây là theo nghiên cứu và phân tích của Uông Huy (Wang Hui), cùng với nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước khác, bắt đầu từ năm 1976 Đặng Tiểu Bình đã cố tình tạo cơ sở cho việc hoàn toàn phủ định những thành quả trong thời kỳ Mao làm tiền đề cho việc ổn định và phát triển trong thời kỳ mới. Để thiết lập một trật tự mới, Đặng Tiểu Bình không những đã triệt tiêu các hình thức trại lính và “nhân dân công xã” mà còn (oái ăm thay!) đưa ra những chính sách đàn áp mới mà cuối cùng đã dẫn đến sự kiện đẫm máu Thiên An Môn năm 1989.
Trong bài tham luận tại hội thảo “Trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển” tại Nha Trang tháng 7 năm 2008 tôi đã trích Uông Huy khá nhiều trong phần nói về Trung Quốc.[3] Theo trình bày của Trần Hữu Dũng tại hội thảo Nha Trang (cũng như đọc bài đã hoàn chỉnh trong số Thời Đại Mới nầy) về ba trường phái trí thức Trung Quốc hiện nay thì không “ba phải” đi nữa cũng phải công nhận là mỗi trường phái có những quan điểm đúng và sai ̶ có những quan niệm xây dựng và bổ ích, nhưng cũng có những nhận xét rất nguy hiểm không những cho nhân dân Trung Quốc mà còn cho các dân tộc khác nữa. Vì thế, nhân bài Trần Hữu Dũng đã hoàn chỉnh và đăng trong số Thời Đại Mới nầy tôi cũng xin trích phần tham luận của tôi về Trung Quốc (bắt đầu từ lúc tôi đề cập đến Uông Huy cho đến cuối bài) tại Nha Trang dưới đây ̶ một là, để nối kết với bài của Trần Hữu Dũng; và hai là, để độc giả xem cục diện đã có gì thay đổi sau một năm không. Trong “phần viết thêm” (postscript) tôi sẽ đề cập đến một vài số diễn biến và kèm theo những nhận định và phân tích trong năm qua của vài nhà nghiên cứu.
Tại Nha Trang tôi đã mở đầu phần phát biểu của mình qua cách đặt vấn đề như sau:
Có quan hệ gì giữa trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển không? Nếu có, thì ai có trách nhiệm chủ yếu? Ổn định như thế nào và với phương thức gì? Và phát triển những gì, cho ai và vì ai? Để có thể một phần nào giúp trả lời những câu hỏi trên, trong bài nầy tôi trình bày một số kinh nghiệm của một số nước Á Châu, đặc biệt là trong bối cảnh chiến tranh lạnh và toàn cầu hóa. Chúng ta hãy bắt đầu với Trung Quốc ̶ một là vì Trung Quốc lớn nhất ở Á Châu và có kinh nghiệm “trị quốc” và “bình thiên hạ” lâu nhất, hai là vì việc ổn định hóa và hiện đại hóa của Trung Quốc trong vài thập kỷ vừa qua đã làm cho một số người tung ra khẩu hiệu “Đồng thuận Bắc Kinh” (Beijing Consensus) để thay cho khẩu hiệu “Đồng thuận Hoa Thịnh Đốn” (Washington Consensus) như là mô hình phát triển tối ưu cho tất cả các nước đang phát triển, và ba là Trung Quốc “núi liền núi sông liền sông” với Việt Nam cho nên những kinh nghiệm và bài học của Trung Quốc cũng có thể có ảnh hưởng trực tiếp với Việt Nam. 2. Trích trình bày về Trung Quốc tại Nha Trang Theo Uông Huy và một số nhà nghiên cứu khác thì cuộc đấu tranh chính trị trong những năm 1975-1976 phản ánh việc tranh luận sâu đậm về ý nghĩa của sự bình đẳng là phải như thế nào trong xã hội chủ nghĩa và dưới một thể chế do đảng và nhà nước lãnh đạo mà Mao Trạch Đông đã nêu lên trong năm 1974. Đây là vấn đề được gọi là “pháp quyền tư sản” (bourgeois right) trong hệ tư tưởng Mác-xít, tức là quan hệ giữa hệ thống của sự bất bình đẳng xã hội và cơ cấu nhà nước. Đặng Tiểu Bình cho đây là vấn đề giả tạo được đưa ra với mục đích tranh chấp phe nhóm và gây thêm mất ổn định. Đặng Tiểu Bình dùng từ ngữ chính thống Mác-xít để nói lên rằng vấn đề lúc nầy không phải là việc bàn luận về “pháp quyền tư sản” mà là làm sao phát triển các lực lượng sản xuất vẫn còn ở dạng tiềm năng. Bàn về quan hệ sản xuất, theo Đặng Tiểu Bình, là đề cập đến việc còn quá xa vời. Từ đó trở đi vấn đề bất bình đẳng bị đẩy ra khỏi chân trời chính trị của Trung Quốc và việc phát triển các lực lượng sản xuất đã giành được thế thượng phong. Mãi cho đến nay chế độ nhà nước đảng (party-state) Trung Quốc vẫn tự cho mình là đại diện của các “lực lượng sản xuất tiên tiến” gồm đủ các thành phần vô sản và tư bản.[4]
A. Hai sự kiện quyết định: Phá vỡ “nhân dân công xã” và đàn áp Thiên An Môn Để phát triển các lực lượng sản xuất, chương trình hành động của Đặng Tiểu Bình là tìm cách triệt tiêu tất cả các thí nghiệm chính trị về bình đẳng và đàn áp các xã hội dân sự. Để dọn đường cho việc đàn áp các “công xã nhân dân” năm 1976 Đặng Tiểu Bình phục hồi “danh dự” cho Bành Đức Hoài (彭德懷 Péng Déhuai) người được xem là nạn nhân tiêu biểu của chính sách Mao-ít. Mao Trạch Đông đã ủng hộ Bành Đức Hoài trở thành nguyên soái của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc tại Hội nghị Tuân Nghĩa tháng giêng năm 1934. Nhưng tháng 6 năm 1959, tại Hội nghị Lư Sơn, Bành Đức Hoài đã tranh cãi với Mao về Đại Nhảy Vọt; về việc quân đội phải chính quy, chuyên nghiệp và giảm tính chính trị; và về việc triệt tiêu các “nhân dân công xã.” Theo một cuốn sách có tựa đề Lushan huiyi shilu (Báo cáo trung thực về Hội nghị Lư Sơn), mà tác giả là một người đã ủng hộ Bằng Hoài Đức rất mạnh mẽ, thì đây không phải là một cuộc tranh chấp giữa một trung thần dám nói lên sự thật và một vị hoàng đế bạo tàn, mà là một cuộc đấu tranh chính trị công khai và trực diện. Lập trường của Bành Đức Hoài lúc đó đơn giản là phải nhất thiết triệt tiêu tất cả các hình thức hợp tác nông nghiệp. Ông ta có gần hai tuần để giải thích quan điểm của mình trước khi ông Mao trả lời ông ta.[5]
Nhưng mãi đến sau cuộc Cách Mạng Văn Hóa thì tình hình mới cho phép bắt đầu triệt tiêu các “nhân dân công xã.” Cuộc Cách Mạng Văn Hóa đã phủ định tất cả các hình thức thí nghiệm chính trị mà cơ chế nhà nước đảng đã ủng hộ, mặc dầu các hình thức hợp tác xã là những thí nghiệm bắt nguồn từ những yêu cầu bức thiết của thực tế ở những vùng nghèo khổ của Trung Quốc. Mao đã nhiệt tình ủng hộ “nhân dân công xã” vì ông ta tin chắc rằng nông dân biết suy nghĩ, rằng họ có quan điểm chính trị, và có năng lực phát minh ra những quan hệ xã hội mới. Chiến lược chính trị của Mao từ những thập kỷ 20 bắt nguồn từ niềm tin nầy.
Nhưng việc coi nông thôn như là nơi có thể phát minh những hình thái chính trị mới đã tạo thêm trọng trách cho nhà nước đảng. Việc triệt tiêu “nhân dân công xã” cho đến nay được chính thức giải thích là để giúp nông dân thoát ly khỏi những gánh nặng tàn bạo của hợp tác xã. Nhưng trên thực tế là giúp “nhà nước đảng” thoát khỏi trọng trách với nông dân, khỏi trách nhiệm phải xem họ là chủ thể chính trị một cách chủ quan. Đối với Đặng Tiểu Bình vấn đề không phải là nông dân có thể suy nghĩ hay không, mà là làm sao biến nông dân thành lực lượng lao động với giá rẻ mạt. Kết quả là phần lớn nông dân đã mất sở hữu đất đai và hiện nay có khoảng 150 triệu “du dân” (youmin) hay “lưu dân” đi lang thang khắp mọi nơi tìm việc làm. Trong khi đó thì có khoảng 150 triệu người khác làm trong các xí nghiệp quốc doanh với đồng lương rất thấp vì nếu họ tranh đấu đòi lên lương thì họ có thể lập tức bị sa thải và thay thế bởi những người khác đang thất nghiệp. Những người du dân thất nghiệp và bán thất nghiệp sẵn sàng bán sức lao động của mình với giá rẻ mạt nầy đã được Mác gọi là “đạo quân dự trữ công nghiệp.” Việc giải thể các “nhân dân công xã” là việc làm có chủ định để kiềm chế công nhân và các xí nghiệp và để tạo thêm sự phân hóa (bất bình đẳng) giữa thành thị và nông thôn hầu thúc đẩy phát triển kinh tế ở các thành thị.[6]
Một sự kiện then chốt khác giúp “nhà nước đảng” Trung Quốc dựng lên “trật tự mới” là sự kiện Thiên An Môn. Uông Huy, trong cuốn sách đã dẫn, chứng minh rằng việc đàn áp đẫm máu phong trào tranh đấu năm 1989 là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của “chủ nghĩa tân tự do của Trung Quốc” từ đầu thập kỷ 90. Đây là luận điểm chính của cuốn sách. Luận điểm thứ hai bổ sung cho luận điểm trên là các phát triển kinh tế của Trung Quốc trong thập niên trước không bắt nguồn từ sự tự phát cá biệt của các quá trình kinh tế được tạo ra do sự rút lui của nhà nước ra khỏi lĩnh vực kinh tế. Ngược lại, những phát triển đó đã chỉ có thể xảy ra vì những can thiệp hàng loạt của nhà nước. Hai luận điểm nầy nói lên sự quan hệ giữa chính trị và nhà nước và giữa nhà nước và nền kinh tế. Trọng tâm của phong trào đấu tranh năm 1989 là một sự căng thẳng rất lớn về quan hệ bất bình đẳng trong xã hội. Những chính sách kinh tế của thập kỷ 90 chỉ có thể được thi hành sau khi căng thẳng ấy đã bị triệt tiêu.[7]
Sự kiện Thiên An Môn đã được trình bày với rất nhiều chi tiết trong cuốn sách tập hợp các văn kiện chính thức gọi là The Tiananmen papers (Những văn kiện Thiên An Môn.)[8] Sách nầy gồm những tài liệu Uông Huy cung cấp trong cuốn sách của ông ta, và những nhận xét của Claudia Pozzana và Alessandro Russo (hai nhà nghiên cứu về Trung Quốc và cũng là nhân chứng sự kiện Thiên An Môn) đều cho biết rằng cuộc đấu tranh ở Thiên An Môn gồm nhiều phần tử xã hội khác nhau với nhiều đòi hỏi khác nhau. Nhưng ngay khi cuộc đấu tranh chưa lan rộng thì Đặng Tiểu Bình, theo các bản sao các cuộc họp của Đặng Tiểu Bình với Bộ Chính Trị, đã qui kết các cuộc biểu tình của sinh viên là đồng loạn gây mất ổn định và buộc phải đàn áp vô điều kiện. Ông ta cho rằng tất cả các hình thức tổ chức chính trị độc lập đều là nguyên nhân của mất ổn định và phải được dẹp lập tức. Đặng Tiểu Bình đọc từng chữ bài xã luận đăng trên các báo ngày 26 tháng 4 để công bố chính thức là ông ta sẽ đàn áp phong trào đấu tranh. Nhưng trong khi Đặng Tiểu Bình chưa điều động kịp quân đội để đàn áp thì phong trào đã dịu xuống từ giữa tháng 5, số người biểu tình ở Thiên An Môn đã thưa dần. Đến cuối tháng 5 thì hầu hết các nhà báo nước ngoài đã bỏ về nước vì họ cho rằng cuộc đấu tranh đã kết thúc. Nhưng đối với Đặng Tiểu Bình nếu để cho những người biểu tình còn lại ở Thiên An Môn tự giải tán một cách yên ổn thì không giải quyết được vấn đề là làm sao có thể đàn áp thẳng tay nhằm gây một dấu ấn kinh hoàng trong đầu óc của người dân khiến cho họ không dám màng đến những hoạt động chính trị nữa trong tương lai. Do đó, Đặng Tiểu Bình và Lý Bằng (Thủ tướng chính phủ đương nhiệm) đã ra lệnh cho các tướng lĩnh cố tình gây hàng loạt vụ khiêu khích chết người ngày 2 và ngày 3 tháng 6 để kéo dân chúng trở lại Thiên An Môn. Sau đó lấy cớ đàn áp một cách tàn bạo từ ngày 4 tháng 6 trở đi. Công nhân là những người bị đàn áp tàn nhẫn nhất vì họ có tổ chức.[9]
B. Đàn áp và Phát triển sau sự kiện Thiên An Môn
Như đã đề cập ở trên, Uông Huy đã chứng minh rất rõ là trong những tháng sau sự kiện Thiên An Môn chính quyền Trung Quốc thi hành hàng loạt các biện pháp kinh tế chống bình đẳng mà đã không thể thông qua được trước đó. Luận điểm chính của Uông Huy là cuộc đàn áp phong trào đấu tranh năm 1989 đã giúp đẩy mạnh chủ nghĩa tân tự do. Uông Huy cho biết là không có sự khác biệt giữa các nhóm “tân tự do” và các phe nhóm của “nhà nước đảng,” cả hai đều không khoan nhượng nhất là trong việc dùng bạo lực để đàn áp. Trên thực tế có sự liên minh chặt chẽ giữa các nhóm nầy; và các lực lượng kinh tế chóp bu của Trung Quốc chưa bao giờ độc lập đối với “nhà nước đảng.” Đảng Cộng Sản Trung Quốc bảo đảm trật tự tuyệt đối, không ai có thể nhúng tay vào các hoạt động của nhà nước từ bên ngoài, và chính trị là lĩnh vực biệt lập của tầng lớp thống trị. Do đó, trong 20 năm qua tầng lớp lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã bóp chẹt tất cả các nguyện vọng đổi mới trong hầu hết mọi lĩnh vực, trừ lĩnh vực tăng trưởng kinh tế một cách vô tội vạ.[10]
Nhưng tăng trưởng kinh tế như thế nào, cho ai, và có mầm móng bền vững không? Theo nhiều nghiên cứu thì cuộc đổi mới theo chủ nghĩa tư bản “mang màu sắc Trung Quốc” trong 20 năm qua đã đưa Trung Quốc, vốn là một nước liệt vào hạng thu nhập thấp nhất thế giới, trở thành một nước có cách biệt giàu-nghèo cao nhất thế giới. Thu nhập ở Thượng Hải cao gấp 8 đến 10 lần thu nhập tại các địa phương khác.[11] Viện Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Trung Quốc của Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng đã phải công nhận rằng sự cách biệt giàu-nghèo ở Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cao nhất thế giới, trong đó mức thu nhập ở các thành thị cao hơn nông thôn gấp 6 lần.[12] Đến năm 2006, trong khoảng trên dưới 10 năm, hơn 70 triệu hộ nông dân đã bị tước đoạt toàn bộ ruộng đất và khoảng 30 triệu hộ nữa đang trong danh sách sắp bị truất hữu.[13] Trong khi đó, để có được tăng trưởng GDP với tỷ lệ trung bình là 10% trong 20 năm qua, Trung Quốc đã gây ô nhiễm rất lớn và đã sử dụng cạn kiệt các nguồn nguyên liệu và nhiên liệu trong nước.[14]
Hơn thế nữa, theo phân tích của nhiều kinh tế gia trên thế giới, con số tăng trưởng GDP được chính phủ Trung Quốc đưa ra là giả tạo, là trong thực tế tỷ lệ tăng trưởng chỉ khoảng 5% nếu không có đầu tư rất cao của tư bản toàn cầu.[15] Ngân Hàng Phát Triển Châu Á cho rằng các số liệu tăng trưởng GDP của Trung Quốc đã được thổi phồng quá lớn, phải trừ ít nhất là 2% ra khỏi các báo cáo chính thức. Họ cũng trừ thêm 3% khỏi tỷ lệ tăng trưởng GDP vì cho là việc nông dân bỏ đất đai trồng trọt để lên thành thị kiếm việc làm chỉ có thể kích thích phát triển kinh tế trong tạm thời, nhưng lâu dài sẽ gây rất nhiều khó khăn xã hội. Nếu không có đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI, Foreign Direct Investment), đến năm 2004 đã lên đến 60 tỷ Mỹ kim, thì kinh tế Trung Quốc đã có thể bị suy thoái liên miên.[16] Một đều lạ nên được lưu ý là mặc dầu những con số chính thức của Trung Quốc cho biết là trong 20 năm qua GDP tăng trưởng trung bình 10% một năm, tỷ lệ tăng việc làm chỉ trung bình có 1% một năm trong suốt thập kỷ 90. Trên thực tế số người có việc làm chỉ tăng trong khu vực kinh tế không chính thức, trong khi chất lượng việc làm giảm sút trầm trọng.[17] Số người thất nghiệp hiện nay rất lớn. Một số nghiên cứu cho biết là trong 10 năm tới Trung Quốc phải tìm việc làm mới cho 300 triệu người hầu mong có thể ngăn chặn được một sự bùng nổ của khủng hoảng xã hội.[18]
C. “Phát triển khoa học, xã hội hài hòa”?
Theo những con số chính thức chính quyền Trung Quốc đưa ra thì đã có những “sự cố” lớn bùng nổ trong nông thôn vì một số lý do như đất đai bị quan chức địa phương cướp: Năm 1993 có 8,700 vụ biểu tình và nổi loạn của nông dân, năm 1999 có 32,000 vụ, năm 2003 có 58,000 vụ, năm 2004 có 74,000 vụ, và năm 2005 có 87,000 vụ.[19] Đầu năm 2006 bộ trưởng an ninh công cộng của Trung Quốc, ông Zhou Yongkang (周永康 Chu Vĩnh Khang), công nhận là hàng năm có hàng vạn “sự cố lớn” (mass incidents) và những cuộc biểu tình nổi loạn đã tăng 10 lần trong thời gian 10 năm. Ông Zhou Yongkang cũng cho biết thêm rằng Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã bắt đầu truyền bá các “tiêu chuẩn đạo đức” của Khổng Tử hòng kiềm chế các sự bùng nổ khủng hoảng xã hội.[20] Hồ Cẩm Đào cũng đã thường phải đề cập đến “bình đẳng xã hội”, phát triển một cách khoa học để xây dựng một “xã hội hài hòa,” và một “nông thôn xã hội chủ nghĩa mới.” Nông dân được cam kết giáo dục sẽ miễn phí, y tế và các phương tiện công cộng sẽ tốt hơn, và bao cấp của nhà nước cấp sẽ lớn hơn. Nhưng quyền sở hữu đất đai mà nông dân đang cầy cấy thì không có trong danh sách hứa hẹn ấy vì Hồ Cẩm Đào phải làm vừa lòng các thế lực tư bản trong và ngoài nước.[21] Không có quyền cơ bản nầy thì nông thôn sẽ không có thể chui vào con lốc của quyền lực và lợi nhuận hiện nay tại Trung Quốc. Sự phân cấp xã hội-kinh tế sẽ tiếp diễn và sẽ không cho phép Hồ Cẩm Đào thực hiện lời hứa xây dựng một “xã hội hài hòa” cho Trung Quốc.
Thật ra Hồ Cẩm Đào và hầu hết các lãnh tụ của “nhà nước đảng” Trung Quốc chỉ muốn cho “xì hơi” bớt để tránh bùng nổ và để cho hệ thống thống trị có thể tiếp tục hoạt động. Nếu không cải thiện, sự căng thẳng nầy sẽ đẩy một số công ty đa quốc gia chuyển đầu tư sang các nước khác ở Châu Á và sẽ tạo điều kiện cho các nước nầy có cơ hội cạnh tranh với Trung Quốc. Hồ Cẩm Đào dùng khẩu hiệu xây dựng một “nông thôn xã hội chủ nghĩa mới” và “phát triển khoa học, xã hội hài hòa” như là chiêu bài đấu tranh quyền lực với các nhóm tư bản thành thị, nhất là nhóm Thượng Hải. Từ khi trở thành chủ tịch nước năm 2002 Hồ Cẩm Đào đã cố gắng củng cố quyền lực của chính quyền trung ương và thiết lập một trật tự mới mà nhiều nghiên cứu cho rằng áp bức hơn tất cả các chính quyền nào khác từ thời Mao Trạch Đông.[22]
Thế thì tại sao các chính quyền phương Tây, đặc biệt là Hoa Thịnh Đốn, đã hô hào là Trung Quốc càng ngày càng dân chủ và đã đối đãi với Trung Quốc đặc biệt hơn tất cả các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương? Đó là vì có các thế lực công ty đa quốc gia giựt dây phía sau, nhất là sau cuộc khủng hoảng tiền tệ/kinh tế năm 1997-98. Những năm phát triển “thần kỳ” đã giúp cho các nước Đông Nam Á có năng lực và thế cạnh tranh tốt hơn. Sau cuộc khủng hoảng thì các nước nầy và Hàn Quốc có cơ hội trở thành những nước dân chủ hơn, là những nước có nhiều tài nguyên; và sau các cuộc cải cách do áp lực của IMF cũng đã có thể cạnh tranh tốt hơn nhờ chi phí lao động còn rẻ. Trung Quốc có sức hấp dẫn lớn hơn cả vì có một chính quyền có thể ra tay trấn áp nhân dân lao động mạnh nhất và có chính sách thương mại khá thông thoáng. Trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ tháng 4 năm 2006 ông Hồ Cẩm Đào cam kết sẽ mở cửa rộng thêm hơn nữa cho đầu tư nước ngoài vào vì ông ta biết rằng đối với các chính quyền tư bản, đặc biệt là Hoa Kỳ, vấn đề có hàng tiêu dùng rẻ vẫn quan trọng hơn những giá trị căn bản nhưng trừu tượng như là tự do và nhân quyền.
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 3, 2009 16:20:42 GMT 9
D. Càng phát triển càng tự do? Mô hình phát triển của Trung Quốc là dùng tăng trưởng kinh tế để đè bẹp tự do và dân chủ. Đặng Tiểu Bình đã nói: “Làm giàu là vinh quang.” Nhưng làm giàu cho ai? Ai vinh quang? Theo số liệu chính thức của Trung Quốc thì từ năm 1980-1997, tức là những năm nền kinh tế Trung Quốc cất cánh, tỷ lệ bất bình đẳng tăng 50%. Sau đó, tốc độ còn tăng nhanh hơn; để rồi đến năm 2006 hơn 60% giá trị của tất cả của cải và tài sản nội địa Trung Quốc đã thu gom vào tay của dưới 1% tổng số hộ gia đình.[23] Gần 30% số hộ nông thôn không dủ ăn, thu nhập trung bình dưới 1 Mỹ kim một ngày.[24] Số người ăn xin trong các thành phố tăng lên gấp bội vì các chính quyền địa phương bất lực và vì chính sách hộ khẩu không còn có thể kiểm soát các luồng dân nông thôn chảy vào thành phố để kiếm việc làm.[25] Mặt khác, Trung Quốc đã trở thành nước tiêu dùng xa xí phẩm nhiều thứ ba trên thế giới.[26] Lý do chính cho sự cách biệt trên là chính trị chứ không phải kinh tế. Nếu người dân Trung Quốc có tiếng nói chính trị thì sự cách biệt nầy đã không xảy ra lớn và nhanh như vậy. Câu hỏi được đặt ra ở đây là liệu mô hình phát triển kiểu Trung Quốc nầy có thể tồn tại lâu dài và đem đến “an cư lạc nghiệp” cho nhân dân Trung Quốc không? Antonio Gramsci, nhà tư tưởng chính trị người Ý theo truyền thống Mác-xít, nói rằng bất cứ một chính quyền nào cũng cần có hai vòng đai bảo vệ: Vòng ngoài là vòng “thiết giáp của trấn áp”; vòng trong là vòng đồng thuận (vòng ý thức hệ) được thiết lập để củng cố vòng ngoài và để biện minh hay chính thống hóa sự trấn áp của chính quyền. Vòng trong được cấu tạo với xã hội dân sự và là vòng đai bảo vệ quan trọng nhất của chính quyền.[27] Vì “nhà nước đảng” Trung Quốc hiện nay chủ yếu chỉ có một vòng đai, vòng đai trấn áp bằng vũ lực, họ đã và đang phải cố gắng hô hào và cổ vũ cho một loại chủ nghĩa dân tộc (chủ yếu là chủ nghĩa Đại Hán) để tạo nên một ý thức hệ đồng thuận có thể dùng làm vòng đai phía trong. Chủ nghĩa dân tộc nầy được nhào nặn và sử dụng bằng nhiều hình thức mà một số nhà nghiên cứu đã phân tích.[28] Những thể hiện hết sức nguy hiểm của chủ nghĩa dân tộc nầy trong các lĩnh vực quân sự và ngoại giao cũng đã được người viết bài nầy phân tích trong một số nghiên cứu đăng trên các tạp chí nước ngoài.[29] Nếu Trung Quốc không thể giải quyết những mâu thuẫn trong nước bằng bạo lực được thì Trung Quốc sẽ có thể dùng vũ lực để xuất khẩu các mâu thuẫn đó ra bên ngoài như Nhật Bản đã áp dụng từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 dưới học thuyết “phú quốc cường binh” hay không? Các nước khác ở châu Á có nên bắt chước mô hình phát triển Trung Quốc không? 3. Phần viết thêm (Postscript) Trong năm qua tình hình kinh tế xã hội của Trung Quốc chỉ xấu thêm chứ không khá hơn. Theo các công bố chính thức của chính phủ Trung Quốc vào đầu tháng 3 năm 2009 thì trong 5 tháng trước đó đã có hơn 20 triệu công nhân trong các xí nhiệp đã bị mất việc và đã phải chạy về nông thôn. Đây là một con số lớn bằng tổng dân số của Australia. Cũng theo các báo cáo chính thức, Trung Quốc cần tăng trưởng GDP khoảng 9-10% mới có thể cung cấp việc làm cho khoảng 24 triệu người đến tuổi lao động mỗi năm. Thủ tướng Ôn Gia Bảo tuyên bố là GDP của Trung Quốc sẽ tăng khoảng 8% năm 2009.[30] Nhưng theo phân tích của nhiều kinh tế gia nước ngoài thì GDP Trung Quốc sẽ tăng tối đa khoảng 6,5% vì một số lý do như sau. Lý do thứ nhất là tuy chính phủ Trung Quốc đã công bố (ngày 9 tháng 11 năm 2008) một chương trình kích cầu với tổng số tiền là 586 tỷ Mỹ kim cho 2 năm 2009-10 (khoảng 7,5% GDP mỗi năm), trong thực tế thì chính quyền Trung Ương chỉ hứa sẽ bỏ ra khoảng 175 tỷ Mỹ kim mà thôi. Số còn lại là do đầu tư của địa phương và tư nhân. Khó mà hiểu được trong lúc tình trạng kinh tế trong nước và thế giới sa sút như trong năm qua thì làm sao địa phương và tư nhân muốn đầu tư thêm. Nên nhớ rằng 40% GDP của Trung Quốc là từ công nghiệp chế biến, 40% GDP là do xuất khẩu; và xuất khẩu ròng (tức xuất siêu) là 12% GDP năm 2007-2008. Đầu tư cho sản xuất các năm trước trung bình khoảng 45% GDP và vì thế đã giúp Trung Quốc tăng xuất khẩu sang Mỹ, chẳng hạn, khoảng 20% mỗi năm. Nhưng các con số trao đổi mậu dịch song phương Trung-Mỹ trong 6 tháng đầu năm 2009 đã cho thấy là xuất siêu của Trung Quốc đối với Mỹ đã giảm gần đến số không. Năm 2007 xuất siêu Trung Quốc sang Mỹ là 252 tỷ Mỹ kim, tức khoảng 100 tỷ Mỹ kim nhiều hơn số tiền mà chính quyền Trung Ương Trung Quốc nói là sẽ dành cho kích cầu trong hai năm 2009-2010. Nếu Trung Quốc vẫn dựa vào xuất khẩu để phát triển thay vì tìm cách tăng mại lực của nhân dân, nhất là cho những người có thu nhập thấp, thì kinh tế Trung Quốc khó mà phục hồi nhanh chóng. Vì Trung Quốc không có quỹ an sinh xã hội, người dân Trung Quốc phải để dành, khoảng 20% thu nhập, để phòng những lúc khó khăn hay rủi ro. Các xí nghiệp lớn của Trung Quốc cũng để dành tiền. Cho nên tổng số tiền để dành của Trung Quốc là khoảng 45-50% GDP. Chính phủ lấy tiền nầy để đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu. Đó là lý do tại sao tỷ lệ đầu tư cho sản xuất và xuất khẩu chiếm khoảng 45% GDP. Phần lớn tiền để dành của các xí nghiệp quốc doanh là tiền dự trữ ngoại tệ giữ ở nước ngoài để cho nước ngoài vay mua hàng của Trung Quốc. Theo một bài nghiên cứu đăng trong tờ The Wall Street Journal thì phần lớn của cải của Trung Quốc đang nằm trong tay của 140 tổng công ty quốc doanh.[31] Từ năm 2003-2008 tài sản (assets) của các tổng công ty nầy mỗi năm tăng trung bình khoảng 1,5 nghìn tỷ nhân dân tệ (1.5 trillion yuan) và giá trị hàng bán ra (sales) mỗi năm tăng trung bình khoảng 1,3 nghìn tỷ. Các công ty nầy được các ngân hàng quốc doanh cho vay 1,08 nghìn tỷ nhân dân tệ trong 6 tháng đầu năm 2009, con số lớn hơn tổng số cho vay năm 2008. Trong khi đó chưa đến 5% của số tiền nầy được cho các xí nghiệp nhỏ và vừa vay. Phần lớn các xí nghiệp nhỏ và vừa nầy là của tư nhân và chính phủ Trung ương ngăn cấm họ hoạt động trong những ngành nghề kinh doanh có lợi nhuận lớn nhất. Cũng theo bài báo trên thì người giàu càng ngày càng giàu thêm và người nghèo càng ngày càng nghèo thêm. Hiện nay tại Trung Quốc có khoảng 300 nghìn người có tài sản trên 10 triệu đồng nguyên mỗi người. Trong khi đó thì thu nhập của nông dân và công nhân (hơn 65% của tổng số 1,3 tỷ người) đã giảm xuống đến 41,4% GDP năm 2006—tức năm cuối cùng có số liệu chính thức—so với 53% năm 1998. Ở các nước phát triển như Nhật và Mỹ thu nhập của công nhân và nông dân thường là từ 50-60% GDP. Thêm vào đó y tế và giáo dục cho nông dân và công nhân một là, không có, hai là, nếu có, thì rất tồi tệ. Theo báo cáo năm 2008 của Bộ Y Tế có khoảng 200 triệu công nhân và nông dân mắc bệnh từ những công việc làm của họ. Không phải giới cầm quyền Trung Quốc không biết là khoảng cách giàu-nghèo đã đến mức trầm trọng. Trong một bài báo đăng ngày 26 tháng 6 năm 2009 một tác giả khác cho biết là trước đó vài ngày một thành viên của Bộ Chính Trị Đảng Cộng Sản Trung Quốc công bố một vài con số chính thức về phân cấp giàu-nghèo như sau: 70% của tất cả của cải tài sản tại Trung Quốc tập trung trong tay của 0,4% dân số (tập trung cao hơn tại Mỹ). Hay nói cách khác, 99,6% tổng dân số Trung Quốc chỉ hưởng có 30% của cải của nước họ.[32] Giới cầm quyền Trung Quốc biết là phân cấp giàu-nghèo nầy, chủ yếu là qua tham nhũng và lạm quyền của quan chức các cấp, đã và sẽ gây thêm nhiều cuộc nổi dậy của quần chúng mà họ dùng mỹ từ “sự kiện đại chúng” để gọi. Vì thế, giới cầm quyền Trung Quốc đã dùng mọi thủ đoạn ̶ từ làm “công tác tư tưởng” đến đàn áp bằng vũ lực ̶ để “trị an.”[33] Theo Perry Link và Joshua Kurlantzick, hai học giả về Trung Quốc, “Điều rất đáng lo ngại hơn là chính phủ [Trung Quốc] đang chuyển sự thành công của họ trong nước ra thành sự thành công ở nước ngoài, nơi mà “mô hình Trung Quốc” về chủ nghĩa tư bản độc đoán đang rất ăn tiền. Chính phủ các nước từ Syria đến Việt Nam đang ca ngợi Trung Quốc.”[34] Nhiều người đang quan tâm, nếu không nói là quan ngại, trước thái độ khâm phục Trung Quốc của một số lãnh tụ và trí thức Việt Nam hiện nay cũng như trước các hoạt động bành trướng của Trung Quốc tại Việt Nam và trong khu vực Đông Nam Á. Các hành động khiêu khích của Trung Quốc trên biển Đông Nam Á như vây quanh hay va chạm chiến thuyền của Mỹ và bắt ngư dân Việt Nam buộc Mỹ gần đây phải đưa ra hàng loạt chính sách cụ thể để chứng tỏ rằng Hoa Kỳ vẫn còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của họ cũng như của những quốc gia khác trong khu vực.[35] Đây là vấn đề khá phức tạp và ngoài phạm vi bài nầy. Nhưng cũng đã có một số phân tích về chính sách hiện nay của Mỹ và Trung Quốc trên một số diễn đàn khác.[36] Tháng 7-2009 Ngô Vĩnh Long Chú thích [1] Hai tên gọi, Trung Quốc (中國 zhongguó) và Trung Hoa (中華 zhonghuá), đã được sử dụng từ thời nhà Chu (周) — từ thế kỷ thứ 10 đến năm 221 trước công nguyên — để phân biệt với “thiên hạ” (天下 tian xìa), tức là những nước và dân tộc chưa được nhà Chu thôn tính và khai hóa. [2] Ngay sau khi nhà Chu vừa mới thôn tính nhà Thương (商) thì Chu Công đã nói là người ta có thể chiếm một nước trên lưng ngựa nhưng không có thể giữ nước đó trên lưng ngựa được. Nghĩa là không có thể dùng vũ lực và bạo lực để cai trị một cách ổn định được. Để trị an, Chu Công quan niệm rằng phải có một ý thức hệ bao trùm tạo ra được sự đồng thuận trong xã hội, đặc biệt là trong các tầng lớp cai trị. Vì thế, Chu Công và các vị vua đầu tiên của triều đại Tiền Chu hay Tây Chu (1122-771 trước công nguyên) giới thiệu hai khái niệm đi đôi với nhau là “Thiên” (天 ) và “Đức” (德). Thiên là một động lực đạo đức bao quát cai quản toàn thể vũ trụ và loài người và được nhà Chu dùng để thay thế “Thượng Đế” (上 帝), ông tổ của nhà Thương và cũng là vị thần làm mưa làm gió. Đức là hành động đứng đắng của con người, hài hòa với các nguyên lý đạo đức của vũ trụ. Thiên ngồi trên phán xét, một cách không thiên vị, các hành động của người cầm đầu thiên hạ và cho người nầy có quyền, gọi là “thiên mạng” (天 命), để làm trung gian giữa thiên ý và nhân mạng, tức là vận mạng của con người. Người có thiên mạng để cai trị (thiên tử 天 子) là người phải có Đức, tức là phải có trách nhiệm đối với xã hội loài người bằng cách làm cho dân chúng được “an cư lạc nghiệp.” An cư lạc nghiệp có nghĩa là xã hội ổn định và kinh tế phát triển cho hạnh phúc của quần chúng. Khái niệm trên được coi như là một khế ước giữa trời và người (thiên và thiên hạ) và trời không có quyền tự hủy cái giao kèo đó. Khi có “thiên tai” làm cho con người bị đau khổ, đó không phải là vì trời thất hứa mà là vì giới cầm quyền không có chính sách đứng đắng và hài hòa với các nguyên lý đạo đức của vũ trụ nên mới gây mất ổn định. An lạc là nguyên lý trọng tâm. Nếu dân chúng bị đau khổ, vì thiên tai hay là vì chính sách không đứng đắng của nhà cầm quyền, thì quần chúng có quyền “cách mạng” (革 命). Hai luận điểm trên được nhà Chu phát triển như là một ý thức hệ giúp cho triều đại nầy cai trị ổn định mấy trăm năm. Sáu trăm năm sau giai đoạn Chu Công thi hành hai luận điểm trên thì Khổng Tử dùng chúng làm cốt lõi cho hệ thống tư tưởng của ông. Sau đó, các trường phái Nho học, đặc biệt dưới thời Hán, thể chế hóa các luận điểm nầy thành nền tảng của ý thức hệ cai trị mà các triều đại đế chế Trung Quốc đã liên tục sử dụng để ổn định xã hội và bảo vệ chính quyền. Một tầng lớp sĩ phu đã được đào tạo và liên tục trưởng thành trong hơn hai nghìn năm để điều hành và củng cố các thể chế đặt ra. Vị trí của “Sĩ” phản ánh qua câu: Tước hữu ngũ sĩ cư kỳ liệt Dân hữu tứ Sĩ vi chi tiên Có giang sơn thì Sĩ đã có tên Thời Chu Hán vốn Sĩ nầy là quí… (Kẻ Sĩ—Nguyễn Công Trứ) [3] Bài tham luận đó có tựa đề là: “Một vài nhận xét về quan hệ giữa ‘trách nhiệm xã hội, ổn định và phát triển’ trong lịch sử một vài nước Á Châu.” Vì lý do kỹ thuật, chỉ có phần nói về Trung Quốc đã được đưa lên mạng hội thảo trước và hiện nay còn nằm tại đây: hoithao.viet-studies.info/2008_NgoVinhLong.pdf. Trong bài tham luận của tôi tại hội thảo tôi đã dùng hơn một nửa thời gian trình bày diễn tiến của mô hình phát triển Hàn Quốc từ đầu thập kỷ 50 của thế kỷ trước cho đến năm 2007. Sau hội thảo tôi đã phát triển phần Hàn Quốc nầy đến gần 50 trang và hiện nay còn đang hiệu đính để có thể cho xuất bản. [4] “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 348-349. [5] Như trên, trang 339. Li Rui, Lushan huiyi shilu (Báo cáo trung thực về Hội nghị Lư Sơn). Changsha: Hunan jiaoyu chubanshe, 1989. [6] “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 341-342. [7] Wang Hui, như trên. “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 330-331. [8] Perry Link and Andrew Nathan, eds. The Tiananmen Papers. New York: Public Affairs, 2001. [9] “China’s New Order and Past Disorders…”, như trên, trang 330-339. Muốn có thêm chi tiết, xin xem The Tiananmen Papers. [10] Xem: William H. Thortorn, “Hu Goes There? Sino-globalism and the Ghost of Tiananmen,” ZNet, ngày 25 tháng 4 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.zmag.org/content/print_article.cfm?itemID=10153§ionID=103[11] Richard Baum, “Where is China Going?” UCLA Asia Institute, ngày 13 tháng 12 năm 2002. Bài nầy có thể tải về từ: international.ucla.edu/asia/print.asp?parentid=2799. [12] Richard Spencer, “China Rich-Poor Gap is World’s Worst,” Telegraph, ngày 17 tháng 2 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.telegraph.co.uk. [13] Jim Yardley, “Farmers Being Moved Aside by China’s Real Estate Boom,” The New York Times, ngày 8 tháng 12 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2004/12/08/international/asia/08china.html[14] Jim Yardley, “Bad Air and Water, and a Bully Pulpit in China,” The New York Times, ngày 25 tháng 9 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2004/09/25/international/asia/25fprofile.html[15] Xem: Thomas G. Rawski, “What’s Happening to China’s GDP Statistics?” China Economic Review 12:4 (2001), Bài nầy có thể tải về từ: www.pitt.edu/~tgrawski/papers2001/gdp912f.pdf. Arthur Waldron, “China’s Economic Façade,” Washington Post, ngày 21 tháng 3 năm 2002. Bài nầy có thể tải về từ: www.taiwandc.org/wp-2002-01.htm[16] William H. Thornton, “Sino-Globalization: Politics of the CCP/TNC Symbiosis,” New Political Science, Volume 29, Number 2, June 2007, trang 217. [17] Như trên. [18] Guy Ryder, “Whose Miracle in China?” New Perspectives Quarterly 23:1 (2006). Bài nầy có thể tải về từ: www.digitalnpq.org/archive/2006_winter/ryder.hmtl[19] “Sino-Globalization…”, trang 219. [20] “Who Should Own the Good Earth of China,” The Christian Science Monitor, ngày 15 tháng 3 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.csmonitor.com/2006/0315/p08s01-comv.html[21] Jim Yardley, “China Unveils Plan to Aid Farmers, but Avoids Land Issue,” The New York Times, ngày 23 tháng 2 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2006/02/23/international/23rural.html[22] Xem: Robert Marquand, “Hu Sets Out Blueprint for China’s Future,” The Christian Science Monitor, ngày 6 tháng 10 năm 2005. Bài nầy có thể tải về từ: www.csmonitor.com/2005/1006/p06s02-woap.htm. Minxin Pei, “The Chinese Communist Party,” Foreing Policy, September/October 2005. Bài nầy có thể tải về từ: www.foreignpolicy.com/story/cms.php?story-id=3174&print=1. [23] C. T. Kurien, “Giants of the East,” FrontLine 23:26, ngày 30 tháng 12 năm 2006—ngày 12 tháng giêng năm 2007. Bài nầy có thể tải về từ: www.hinduonnet.com/fline/fl2326/stories/20070112000507400.htm. [24] Pranab Bardhan, “Does Globalization Help or Hurt the World’s Poor?” ScientificAmerican.com, ngày 26 tháng 3 năm 2006. Bài nầy có thể tải về từ: www.sciam.com. [25] Jim Yardley, “China is Paying a Price of Modernization: More Beggars,” The New York Times, ngày 7 tháng 4 năm 2004. Bài nầy có thể tải về từ: www.nytimes.com/2004/04/07/international/asia/07beggars.html. [26] Zijun Li, “Luxury Spending: China’s Affluent Entering ‘Enjoy Now’ Phase of Consumption,” World Watch Institute, ngày 16 tháng 12 năm 2005. Bài nầy có thể tải về từ: www.worldwatch.org/features/chinawatch/stories/20051216-1. [27] Antonio Gramsci, Selections from the Prison Notebooks. London: Lawrence and Wishart (1971), trang 124, 238, 263, 363. [28] Một ví dụ là: William A. Callahan, “History, Identity, and Security: Producing and Consuming Nationalism in China,” Critical Asian Studies 38: 2 (2006), trang 179-208. [29] Một số bài tiếng Việt đã đăng trên Tạp Chí Thời Đại Mới: tapchithoidaimoi.info. [30] “Wen says China to grow about 8% despite crisis.” Bài nầy có thể tải về từ trạm: www.channelnewsasia.com/stories/afp_asiapacific_business/view/413312/1/.html. “PM Wen says China faces ‘unprecedented’ challenges over crisis.” Tải về từ trạm: www.channelnewsasia.com/stories/afp_asiapacific_business/view/413202/1/.html. [31] Willy Lam, “Rich China, Poor Peasants: A Country where weatlh trickles up,” The Wall Street Journal, July 24, 2009. Bài nầy có thể tải về từ: online.wsj.com/article/SB10001424052970203946904574301110723410346. [32] Alice thingy, “"A Country Whose People Are Poor Cannot Be Called a Rich Country." Nguyên văn câu tiếng Anh như sau: “A few days ago, Politburo member 蔡繼明 quoted a report issued by the authorities that says presently 0.4 percent of China’s population controls about 70 percent of the country’s wealth – the degree of wealth concentration is higher than in America. In other words, the remaining 99.6 percent of China’s citizens share only 30 percent of its wealth.” Bài nầy có thể tải về từ: www.asiasentinel.com/index2.php?option=com_content&task=view&id=1951&pop=1&page=0&Itemid=324. [33] Xem: Hugo Restall, “China Enters a Period of Eruptions,” Far Eastern Economic Review, July 2009. Bài nầy có thể tải về từ: www.viet-studies.info/kinhte/china_period_of_eruption.htm. [34] Perry Link và Joshua Kurlantzick, “China's Modern Authoritarianism: The Communist Party's ultimate goal is to stay in power, not to liberalize,” The Wall Street Journal, May 25, 2009. Bài nầy có thể tải về từ: online.wsj.com/article/SB124319304482150525.html#printMode. Nguyên văn tiếng Anh: “Even more worryingly, the government is translating its success at home into success abroad, where the "China model" of authoritarian capitalism is gaining currency. Governments from Syria to Vietnam have sung its praises.” [35] Những tài liệu về chính sách của Mỹ gần đây cũng như những bài vở về hoạt động của Trung Quốc tại Việt Nam và khu vực trong những tháng qua có thể tải về từ trạm: www.viet-studies.info/kinhte/kinhte.htm. [36] Một ví dụ là bài phỏng vấn Radio France Internationale (RFI) tại đây: www.rfi.fr/actuvi/articles/115/article_4360.asp.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:46:50 GMT 9
Nhìn lại cuộc chiến Việt-Trung năm 1979
Trương Tiểu Minh Air War College Montgomery, Alabama, Mỹ
Nguyên tác: Xiaoming Zhang, “China’s 1979 War with Vietnam: A Reassessment” The China Quarterly, bộ 184, tháng 12 năm 2005, trang 851-874
Lời người dịch: Thấm thoát đã hơn 30 năm từ ngày cuộc chiến Việt-Trung nổ ra năm 1979, và mặc dù cả hai nước đều cho là mình đã thắng, số lượng tài liệu được Trung Quốc và Việt Nam công bố về cuộc chiến tranh này vẫn còn rất ít. Bài viết dưới đây của một học giả gốc người Trung Quốc (hiện giảng dạy tại trường Cao Đẳng Không Chiến (Air War College) thuộc Bộ Không Quân Mỹ) được đăng vào năm 2005 trên tờ China Quarterly, một tạp chí quốc tế có uy tín xuất bản tại Anh, là một công trình học thuật đáng chú ý về cuộc chiến tranh này. Để giữ sự trung thực so với nguyên bản, người dịch đã cố gắng truyền đạt cách diễn tả của tác giả. Khi đọc bài này, nhiều độc giả Việt Nam có thể sẽ cho rằng một số nhận xét của tác giả là rất chủ quan và nhiều vấn đề là khá nhạy cảm. Tuy nhiên bài viết này, ở mức độ nào đó, cung cấp nhiều thông tin đã được kiểm chứng và có giá trị sử liệu. Hy vọng bài viết này cũng tạo nên một sự thôi thúc để Trung Quốc, và đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cung cấp thêm nhiều thông tin và bằng chứng để các nhà sử học cũng như thế hệ tương lai có một cái nhìn đầy đủ và chính xác hơn về cuộc chiến tuy ngắn ngủi nhưng đẫm máu này.
Mục đích của bài báo này là nhằm trình bày về cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1979. Bài báo nhắc lại những mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc với Việt Nam và ảnh hưởng của những mối quan hệ này lên những toan tính chiến tranh của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình, chiến lược quân sự và sự chuẩn bị của Trung Quốc cho cuộc tấn công. Bài báo cũng chỉ ra cách thức tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh mang màu sắc đặc thù Trung Quốc như thế nào: tính toán khi nào và sử dụng ra sao sức mạnh quân sự, mục tiêu quan trọng trong chiến tranh, và cơ sở trong việc nhận định về thắng lợi. Bài báo cũng điểm lại những hậu quả của cuộc xung đột ở cả hai lĩnh vực chính trị và quân sự, những bài học đã được rút tỉa dưới con mắt của chính người Trung Quốc.
Đầu năm 1979 Trung Quốc đã xâm lược Việt Nam, theo cách nói của lãnh đạo Trung Quốc là để “dạy cho Việt Nam một bài học” nhớ đời. Mặc dầu Bắc Kinh tự cho là đã thắng lợi nhưng nói chung trong giới học giả vẫn tồn tại nhiều tranh cãi cho rằng cuộc chiến tranh đã không diễn ra như Trung Quốc mong đợi vì trong cuộc xung đột này Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc (QGPND) đã tác chiến hết sức tồi tệ. Chính Trung Quốc chứ không phải Việt Nam đã rút ra một bài học từ cuộc chiến này. Các tài liệu của Trung Quốc về cuộc chiến tranh này vẫn được niêm phong rất cẩn mật do đó các thông tin về cuộc chiến không chỉ chắp vá chủ quan mà còn đáng ngờ về tính xác thực. Mặc dù đã có một ít tài liệu bằng tiếng Anh, nhưng phần nhiều chỉ là đồn đoán và không chính xác, lưu truyền không chính thức ở Hồng Kông và Đài Loan. Gần đây do việc kiểm soát thông tin của Bắc Kinh có phần lỏng lẻo hơn nên nhiều tài liệu lưu hành nội bộ về khả năng và kinh nghiệm của QGPND trong chiến tranh 1979 đã thấy xuất hiện rải rác trong các thư viện tại Mỹ và có thể truy cập trên Internet. Thêm vào đó, hồi ký của một số sĩ quan cao cấp Trung Quốc cũng đã cho thấy nhiều thông tin giá trị.
Dựa trên các tư liệu nghiên cứu của một số học giả hàng đầu, bài viết này cố gắng trình bày cái nhìn của người Trung Quốc đối với cuộc chiến Việt-Trung năm 1979. Đầu tiên là thảo luận về các mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Việt Nam và ảnh hưởng của các mối quan hệ này trên quyết định tấn công Việt Nam của Bắc Kinh, cũng như vai trò của Đặng Tiểu Bình. Kế đến là xét lại vai trò của QGPND bao gồm chiến thuật, chiến lược của Trung Quốc cho cuộc xâm lăng và những quan điểm riêng của QGPND về vận hành bộ máy quân sự. Cuối cùng là điểm lại những tác động của cuộc xung đột, trên cả hai lĩnh vực chính trị cũng như quân sự, và những bài học rút ra bởi chính người Trung Quốc. Bài báo cũng đưa ra những dẫn chứng về cách thức tiến hành chiến tranh của Bắc Kinh, chỉ ra tính đặc thù kiểu Trung Quốc trong tác chiến: không ngần ngại sử dụng sức mạnh quân sự sau khi tính toán một cách cẩn thận khi nào và sử dụng ra sao; mục tiêu quan trọng của QGPND là giành và giữ thế chủ động trong tác chiến, và nền tảng cơ bản mà người Trung Quốc đã dựa vào đó để đánh giá thành công về mặt quân sự, đó là lợi thế địa chính trị hơn là hiệu suất tác chiến. Mặc dù đã bị người Việt Nam làm khốn đốn nhưng QGPND đã hoàn thành được mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh, buộc Việt Nam phải chia lửa cho phòng tuyến ở biên giới phía bắc, và buộc quốc gia này phải giảm phiêu lưu quân sự ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, QGPND vẫn chưa rút ra được bài học từ cuộc chiến tranh này, đó là truyền thống và triết lý quân sự của Trung Quốc đã quá lỗi thời, điều này có thể cản trở công cuộc hiện đại hóa thay đổi bộ mặt của Trung Quốc trên trường quốc tế.
Yếu tố văn hóa lịch sử
Bắc Kinh và Hà Nội đã từng là đồng minh thân thiết kể từ cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất vào những năm đầu thập niên 1950. Thế thì tại sao sau đó nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lại đi đến quyết định tiến hành chiến tranh với nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào cuối năm 1978? Theo lý lẽ của Bắc Kinh thì dường như nguyên nhân là do “giấc mộng xưng bá” của Hà Nội ở khu vực Đông Nam Á; gây hấn ở biên giới với Trung Quốc và xâm phạm vào lãnh thổ của Trung Quốc; ngược đãi người Hoa ở Việt Nam; đi theo Liên Xô trong lúc nước này đang muốn mở rộng ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Các nhà quan sát vào thời điểm đó và nhiều nghiên cứu sau này cho rằng mục tiêu hàng đầu của Bắc Kinh là làm giảm bớt áp lực quân sự lên Campuchia, buộc quân đội Việt Nam phải chia lửa ở mặt trận thứ hai. Robert Ross (học giả người Mỹ, hiện là giáo sư ở Boston College - ND) thì cho rằng việc Trung Quốc sử dụng quân đội chống lại Việt Nam không phải là phản ứng trước sự bành trướng của Hà Nội ở Đông Dương mà là phản ứng trước sự về hùa của Việt Nam với Liên Xô nhằm bao vây Trung Quốc từ Đông Nam Á. Những nghiên cứu khác lại cho rằng Trung Quốc hành động như thế để làm mất thể diện của Liên Xô, nước đang đóng vai trò như một đồng minh tin cậy của Hà Nội trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.
Trong một nghiên cứu về mối quan hệ của Bắc Kinh với Hà Nội trước chiến thắng 1975, Trại Cường (Zhai Qiang) tác giả cuốn China and the Vietnam Wars, 1950-1975 -- ND) đã cho rằng “chính sách thực dụng không chỉ là lời nói suông” được phát đi từ các nhà lãnh đạo Trung Quốc khi đề cập đến các mối quan hệ quốc tế. Mặc dầu họ tuyên bố chính họ là những môn đồ của chủ nghĩa quốc tế Mác-Lênin song họ lại kế thừa hoàn toàn cái di sản lịch sử của Trung Hoa: quan niệm Đại Hán theo đó Trung Quốc là cái nôi của thế giới. Các quốc gia nhỏ bé khác bên ngoài Trung Quốc, trong đó có Việt Nam, là man di và phải là những chư hầu trong vùng ảnh hưởng của Trung Quốc. Mặt khác, “niềm kiêu hãnh lịch sử và độ nhạy cảm văn hóa” là nhân tố chính có ảnh hưởng đến thái độ của người Việt Nam đối với Trung Quốc. Suốt chiều dài lịch sử của mình, người Việt Nam đã thích thú khi vay mượn và bắt chước nền văn minh cũng như thể chế Trung Quốc để làm nên bản sắc riêng, nhưng họ lại rất sắt đá trong việc bảo tồn di sản văn hóa và nền độc lập của họ. Họ yêu cầu Trung Quốc giúp đỡ khi gặp khó khăn nội bộ, nhưng khi họ giành được tự do và thống nhất đất nước thì họ lại quay ra thù địch với Trung Quốc. Những hình ảnh được khắc ghi trong lòng các lãnh tụ và nhân dân hai nước về tình hữu nghị giữa hai quốc gia dường như đã đóng một vai trò đáng kể trong quyết định của Bắc Kinh khi tiến hành cuộc tấn công trừng phạt chống lại Việt Nam.
Từ đầu những năm 1950, Trung Quốc đã là người hậu thuẫn mạnh mẽ của Hà Nội trên cả hai lĩnh vực quân sự lẫn chính trị. Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam trong cuộc đấu tranh cách mạng chống lại Pháp và đánh đuổi xâm lược Mỹ. Những nghiên cứu ngày nay đã chỉ ra rằng chính sách của Trung Quốc dành cho Hà Nội trong hai cuộc chiến tranh Đông Dương đầu tiên là xuất phát từ việc cân nhắc nhiều mặt từ truyền thống lịch sử đến ý thức hệ cách mạng và an ninh quốc gia. Tuy nhiên, thái độ bề trên của Bắc Kinh vẫn thống trị tư tưởng của họ trong quan hệ với Việt Nam. Mặc dầu các lãnh tụ Trung Quốc lặp đi lặp lại tuyên bố rằng Việt Nam sẽ được đối xử “bình đẳng” nhưng Trần Kiên (Chen Jian) lại thấy rằng chính những phát biểu hùng biện đó đã phản ảnh niềm tin mạnh mẽ rằng “họ đã nắm được vị thế để có thể chi phối mọi quan hệ với các nước láng giềng”. Bắc Kinh luôn nói rằng họ không bao giờ gây sức ép về chính trị và kinh tế thông qua viện trợ vật chất và quân sự khổng lồ cho Hà Nội, nhưng họ lại muốn Hà Nội phải thừa nhận vai trò lãnh đạo của Trung Quốc đối với phong trào giải phóng dân tộc trong khu vực và trên thế giới. Thái độ này của Trung Quốc đã khiến Việt Nam, một quốc gia rất nhạy cảm với quá khứ đầy rẫy những rắc rối với Trung Hoa, trở nên tức giận. Mặc dầu có lúc Bắc Kinh và Hà Nội gọi nhau là “những người đồng chí anh em” nhưng sự thật thì mối ác cảm của người Việt Nam đối với Trung Quốc đã được Bắc Kinh nhận thức một cách rõ ràng
Một tài liệu của Trung Quốc đề cập đến chiến tranh 1979 đã ghi lại những hoạt động được coi là thù nghịch của Việt Nam từ sau năm 1975 đã làm tổn thương mạnh đến quan niệm bề trên của người Trung Quốc. Bộ Chính Trị Việt Nam đã thông qua một chính sách coi đế quốc Mỹ là kẻ thù lâu dài nhưng lại coi Trung Quốc là “kẻ thù nguy hiểm, trực tiếp nhất”, và là “kẻ thù tiềm năng mới” mà Việt Nam phải chuẩn bị để chiến đấu. Trong một phản ứng với Trung Quốc, Chủ nhiệm tổng cục chính trị của Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đã nhấn mạnh rằng các lực lượng vũ trang Việt Nam sẽ phải tiến hành một cuộc tổng tiến công quân Trung Quốc, chủ động tấn công và phản công đánh đuổi kẻ thù bên trong và thậm chí cả bên ngoài lãnh thổ Việt Nam, và biến cả miền biên giới thành mặt trận chống Tàu. Thái độ coi thường của Việt Nam đối với QGPND và sự cả tin vào sức mạnh quân sự của mình đã là chất xúc tác thúc đẩy quân đội Trung Quốc tiến hành chiến tranh. Lực lượng chiến đấu đã được tôi luyện của QĐND Việt Nam đã tham gia tác chiến hầu như liên tục trong nhiều thập kỷ và đã chiến thắng được hai cường quốc lớn phương Tây. Trong khi đó các chuyên gia Việt Nam cho rằng khả năng và tinh thần chiến đấu của QGPND là thấp kém và hạn chế. QĐND Việt Nam rất tự hào với vũ khí của Nga và các trang thiết bị quân sự thu hồi của Mỹ. Theo các hãng truyền thông của Việt Nam các vũ khí đó hơn hẳn với bất kỳ trang bị nào của QGPND.
Trong hơn hai mươi năm Trung Quốc đã viện trợ cho Hà Nội trên 20 tỷ đô la Mỹ, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác. Khi Việt Nam bắt đầu ép buộc người Hoa ở miền bắc hồi cư và gia tăng bạo lực trên biên giới với Trung Quốc, nhiều người Trung Quốc đã cho rằng Hà Nội vong ơn bội nghĩa trước những giúp đỡ và hy sinh của Trung Quốc. Những người Trung Quốc đã từng giúp đỡ những người cộng sản Việt Nam trong chiến tranh chống Pháp và Mỹ đã cảm thấy như bị phản bội và đã hăm hở để “dạy cho Việt Nam bài học”. Trong số đó có Đặng Tiểu Bình, phó thủ tướng và là tổng tham mưu trưởng QGPND. Họ Đặng đã tỏ ra bực mình với thái độ khiếm nhã của Việt Nam đối với những giúp đỡ của Trung Quốc đã được sử sách ghi chép từ giữa những năm 1960. Sự thù nghịch giữa hai nước đã tăng mạnh vào cuối những năm 1970, và ngày càng trở nên nhạy cảm, thậm chí đã có lúc Việt Nam được Trung Quốc gọi là đồ khốn nạn (wangbadan) trước một nhà lãnh đạo nước ngoài. Các nhà lý luận quân sự nói chung đều nhất trí rằng tình trạng “thù nghịch ở cả hai phía, giận dữ và căm thù đã hình thành và ngày càng sôi sục”. Sự láo xược của Việt Nam thể hiện qua những va chạm dọc biên giới mỗi ngày một tăng và sự ra đi ồ ạt của Hoa kiều đã tác động mạnh lên quyết định dùng vũ lực của các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:47:43 GMT 9
Động thái của Trung Quốc trước cuộc tấn công
Vẫn chưa có những tài liệu chắc chắn nào cho thấy lúc nào và như thế nào Bắc Kinh đã ra quyết định tiến hành chiến tranh chống Việt Nam. Nayan Chanda, phóng viên Đông Nam Á kỳ cựu của Tạp Chí Kinh Tế Viễn Đông đã chỉ đưa ra được vài chi tiết cho rằng cấp lãnh đạo Trung Quốc đã ra quyết định “dạy cho Việt Nam bài học” vì thái độ “vô ơn và ngạo mạn” trong một cuộc họp Bộ Chính Trị hàng tuần vào đầu tháng Bảy năm 1978. Tuy nhiên ông ta lại cho rằng trong cuộc họp đó cấp lãnh đạo Trung Quốc, khi thông qua quyết định tấn công Việt Nam, có vẻ như họ đã được thuyết phục rằng việc này chỉ để nhằm “làm suy yếu vị thế của Xô-viết trong thế giới thứ ba”. Các nguồn tin mới đây từ Trung Quốc thì lại giả thiết rằng sự tính toán đến các phản ứng quân sự đối với cuộc khủng hoảng giữa Việt Nam và Trung Quốc là một quá trình hết sức chậm chạp vì khá lâu sau đó cũng không có một quyết định nào được thông qua. Hơn nữa, cuộc chiến khởi đầu được coi như là một xung đột cục bộ giữa hai nước chứ không phải là một phần của chiến lược chống bá quyền toàn cầu của Trung Quốc. Trong những năm đầu của thời kỳ hậu Mao, Bắc Kinh áp dụng chính sách lãnh đạo thừa kế. Chính sách lãnh đạo thừa kế này liên quan đến việc gia hạn năm công tác với chức năng tư vấn không chính thức cho các lãnh tụ cao cấp và các cấp thấp hơn như các viên chức chính phủ và sĩ quan quân đội để họ đảm nhận các vấn đề trước khi có quyết định cuối cùng.
Châu Đức Lễ (Zhou Deli), tham mưu trưởng quân khu Quảng Châu, kể lại rằng vào tháng Chín năm 1978 đã có một cuộc họp được tổ chức trong bộ tổng tham mưu QGPND bàn về vấn đề “làm sao đối phó với nạn xâm chiếm lãnh thổ của quân đội Việt Nam”. Mối quan tâm ban đầu là vấn đề xung đột biên giới. Vấn đề này lúc đó đã được coi như nguyên nhân chính dẫn đến căng thẳng ngày càng gia tăng giữa hai nước từ năm 1976.
Một đề xuất sơ bộ đề nghị tiến hành một chiến dịch quy mô nhỏ nhằm vào một trung đoàn bộ đội địa phương thuộc huyện Trùng Khánh của Việt Nam nằm sát đường biên giới với tỉnh Quảng Tây. Tuy nhiên, sau khi một báo cáo của tình báo cho biết cuộc xâm lăng Campuchia của Việt Nam sắp xảy ra thì đa số người tham gia đều đồng ý rằng bất kỳ một hành động quân sự nào được tiến hành cũng đều phải gây được ảnh hưởng đáng kể với Hà Nội và tình hình ở Đông Nam Á. Mọi người đều khuyến cáo phải tiến công vào các đơn vị quân đội chính quy của Việt Nam trên một địa hình rộng lớn. Mặc dầu cuộc họp kết thúc mà không đưa ra bất cứ quyết định cụ thể nào nhưng nó đã cho thấy hình hài của một kế hoạch chiến tranh có thể xảy ra của Trung Quốc nhằm vào Hà Nội và có thể nó là những bằng chứng đầu tiên có liên quan đến những hoạt động quân sự của Trung Quốc trên biên giới phía bắc của Việt Nam nhằm tạo áp lực lên thái độ được coi là hiếu chiến của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên, một chiến dịch quân sự quy mô lớn có thể làm xấu đi hình ảnh của Trung Quốc trên trường quốc tế trong khu vực lẫn thế giới. Họ Đặng đã lập kế hoạch thăm chính thức Thái Lan, Mã Lai và Sinh-ga-po vào đầu tháng 11 năm 1978 nhằm dò xét và tìm sự hậu thuẫn của các nước này đối với chính sách của Trung Quốc lên Việt Nam. Trong chuyến thăm viếng, Đặng đã thuyết phục các nước chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ sử dụng vũ lực chống lại sự xâm lược của Việt Nam nếu nước này tấn công Campuchia. Trong nước, các phương tiện truyền thông đều đăng xã luận và bình luận về việc trừng phạt sự xâm lăng của Việt Nam vào lãnh thổ Trung Quốc và cảnh báo về một sự trả đũa có thể xảy ra.
Ngày 23 tháng 11 năm 1978, Bộ Tổng Tham Mưu Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp khác. Tại đây một kịch bản mới về chiến tranh đã được bàn bạc kỹ lưỡng. Sau khi cân nhắc các khuyến cáo trước đó, Bộ Tổng Tham Mưu đã quyết định mở rộng quy mô và thời gian của chiến dịch. Các kế hoạch đã nhằm vào các vị trí quân sự chính của Việt Nam và các thành phố bên kia biên giới của Vân Nam và Quảng Tây như các mục tiêu cần tấn công, ngăn chặn nhằm làm nhụt ý chí xâm lược của Việt Nam. Có một số ý kiến cho rằng các chiến dịch như thế không đủ rộng lớn vì mới chỉ đến các vùng hẻo lánh và không đủ sức răn đe tức thời Hà Nội. Tuy nhiên cuối cùng không có sự phản đối vì họ cho rằng ban lãnh đạo Trung ương đã cân nhắc kỹ lưỡng vấn đề. Cuộc họp chỉ định hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh sẽ thực hiện chiến dịch này. Ngoài ra cuộc họp cũng khuyến cáo về việc chuyển giao một lực lượng dự bị chiến lược QGPND bao gồm 4 quân đoàn và 1 sư đoàn lấy từ quân khu Vũ Hán và Thành Đô để củng cố cho mặt trận Quảng Tây và Vân Nam.
Ngày 7 tháng 12 năm 1978, Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã triệu tập một cuộc họp, kéo dài khoảng 4 đến 5 giờ và quyết định phát động một cuộc chiến tranh hạn chế trên tuyến biên giới phía nam Trung Quốc để “giáng trả” Việt Nam. Ngày kế tiếp là việc chỉ thị cho hai quân khu Quảng Châu và Côn Minh tiến hành chiến dịch quân sự này với các đơn vị đã sẵn sàng chiến đấu từ ngày 10 tháng Giêng năm 1979. Chỉ thị này nêu rõ cuộc chiến tranh được hạn chế nghiêm ngặt trong vòng bán kính 50km từ đường biên giới và kéo dài trong 2 tuần. Binh pháp truyền thống của QGPND đã được nhấn mạnh đó là việc dùng hai đội quân nhằm “Tập trung biển người để bao vây quân địch từ hai bên sườn nhằm tiêu diệt từng bộ phận quân địch bằng những trận đánh hủy diệt theo phương thức đánh nhanh rút gọn”. Tuy thời điểm cho mệnh lệnh này được hiểu là Trung Quốc phản ứng lại với sự xâm lăng Campuchia sắp xảy ra của Việt Nam, nhưng bằng cách dựng lên một chiến dịch quân sự lớn thậm chí trước khi quân đội Việt Nam vượt sông Mê-kông cũng đã thể hiện sự giận dữ từ nhiều năm do thái độ vô ơn của Việt Nam gây nên.
Đặng Tiểu Bình ra quyết định
Mặc dầu cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc đã được khởi động từ đầu tháng 12 năm 1978, nhưng ngày tấn công chính xác vẫn chưa được ấn định. Những nghiên cứu ban đầu đã suy diễn rằng quyết định tấn công của Bắc Kinh đã xuất hiện từ Hội Nghị Công Tác Trung Ương vào khoảng 10 tháng 11 đến 15 tháng 12 năm 1978. Thực tế, cuộc họp này đã kêu gọi xem xét một nghị trình cải cách kinh tế trong vòng 10 năm, chấm dứt việc đề cập đến những di sản của Cách Mạng Văn Hóa. Đến nay vẫn chưa được biết là đã có cuộc thảo luận quan trọng về tình hình Đông Dương hay không. Tuy thế, cuộc họp đã củng cố vị trí của họ Đặng trong ban lãnh đạo, cho phép ông ta, dù chỉ là một trong năm phó chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) nhưng kiêm chức Tổng tham mưu trưởng quân đội, trở thành người ra quyết định về vấn đề Việt Nam.
Trong cuộc họp Quân ủy Trung ương vào trước đầu năm Dương lịch, họ Đặng đã chính thức đề xuất một cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam. Tất cả những người tham gia cuộc họp bao gồm cả chủ tịch ĐCSTQ Hoa Quốc Phong, theo như báo chí đã đưa tin, cũng ủng hộ đề xuất này. Cũng tại cuộc họp này Đặng đã chỉ định Hứa Thế Hữu (Xu Shiyou) làm chỉ huy chiến dịch ở đông Quảng Tây và Dương Đắc Chí (Yang Dezhi), tư lệnh quân khu Vũ Hán, chỉ huy ở miền tây Vân Nam, không dùng Vương Tất Thành (Wang Bicheng), tư lệnh quân khu Côn Minh. Để đáp ứng với việc thay đổi các cấp chỉ huy chiến trường, Đặng đã cử hai phó tổng tham mưu trưởng của ông ta đến Côn Minh để giám sát việc chuyển giao quyền lực và chuẩn bị chiến tranh. Không có một bộ tư lệnh trung tâm, hai quân khu sẽ tiến hành chiến đấu một cách độc lập không có phối hợp hoặc hiệp đồng. Cuộc họp cũng nhắc lại rằng cuộc tấn công phải được tiến hành chớp nhoáng và tất cả các đơn vị phải rút về sau khi đạt được mục tiêu của chiến dịch.
Các tài liệu hiện nay đều đưa ra giả thiết là có một vài lãnh tụ Trung Quốc đã phản đối việc tấn công Việt Nam, nhưng các tài liệu đó đã không thống nhất được là những lãnh tụ nào đã phản đối và phản đối theo hình thức nào. Khi Đặng đã là kiến trúc sư trưởng của kịch bản thì khó có ai dám thách thức được quyết định của ông ta, một con người đầy uy tín cũng như thâm niên trong đảng. Kiểm soát được Bộ Tổng Tham Mưu Đặng đã có được các phương tiện thuận lợi nhất để thúc cỗ máy chiến tranh của Trung Quốc vận hành trước khi ban lãnh đạo Trung ương đưa ra một quyết định chính thức. Hành động giống như Mao, Đặng đã tham khảo ý kiến của các đồng sự tin cậy trong chỗ riêng tư trước khi ra quyết định và sau đó chỉ thực hiện quyết định khi đã có sự tán thành của Bộ Chính Trị. Một trong những đồng sự gần gũi nhất của Đặng là Trần Vân (Chen Yun), một phó chủ tịch khác của ĐCSTQ và cán bộ trung kiên của đảng, đã có những đóng góp quan trọng cho quyết định tấn công Việt Nam.
Có một số quan tâm hàng đầu trong Bộ Chính Trị: liệu Liên Xô có phản ứng bằng cách tấn công từ phía bắc khiến quân đội Trung Quốc phải chiến đấu trên hai mặt trận; liệu Liên Xô có nhân cơ hội để trục lợi từ tình hình chăng? Thế giới sẽ phản ứng lại thế nào? Và liệu chiến tranh với Việt Nam có làm trở ngại đến nghị trình mới của Trung Quốc là hiện đại hóa nền kinh tế? Mối lo lớn nhất là phản ứng của Liên Xô. Theo các phân tích tình báo của Bộ Tổng Tham Mưu, Matx-cơ-va có thể sẽ tung ra 3 chiến dịch quân sự nhằm đáp trả cuộc xâm lăng của Trung Quốc và Việt Nam: một cuộc đột kích quân sự lớn bao gồm cả tấn công trực diện vào thủ đô Bắc Kinh; xúi giục các phần tử dân tộc thiểu số có vũ trang đang lưu vong ở Liên Xô quay về tấn công vào các tiền đồn Trung Quốc ở Tân Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia); hoặc sử dụng các cuộc giao tranh nhỏ gây ra sự căng thẳng biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, khi mà Liên Xô chưa có lực lượng đầy đủ để tiến hành bất cứ các hoạt động quân sự lớn nào chống lại Trung Quốc một cách ngay lập tức thì các lãnh tụ đảng, đặc biệt là Đặng, đã tin rằng một cuộc chiến tranh vào Việt Nam chớp nhoáng, có giới hạn, và mang tính tự vệ sẽ không kích thích đủ sự can thiệp của Matx-cơ-va hay một làn sóng phản đối quốc tế nào. Hai cuộc xung đột biên giới trước đó với Ấn Độ (1962) và Liên Xô (1969) đã minh chứng cho lập luận này. Ý định về một cuộc chiến tranh nhanh gọn cũng đã thuyết phục được một số phản đối trong nội bộ và biện hộ cho sự lựa chọn chính sách của Bắc Kinh. Tuy nhiên các lãnh tụ Trung Quốc cũng không dám lơ là cảnh giác bằng cách đồng thời ra lệnh cho các đơn vị quân đội ở các quân khu miền bắc và tây bắc luôn ở vào tư thế sẵn sàng chiến đấu trong trường hợp Liên Xô tấn công.
Cuộc họp vào ngày lễ Giáng Sinh đã quyết định hoãn lại thời điểm tấn công Việt Nam. Các nhà phân tích phương Tây đã cho rằng lý do Bắc Kinh vẫn còn đắn đo là vì lo sợ phản ứng quốc tế. Chuyến công du nằm trong kế hoạch của Đặng đến Mỹ và Nhật đã được thu xếp để “thăm dò phản ứng dư luận”. Tuy nhiên những đồng sự thân cận của Đặng đã cho rằng ngay cả những sự chống đối của quốc tế, nếu có, cũng không ngăn cản được ông ta vì Đặng chưa bao giờ nhân nhượng bất cứ điều gì một khi ông ta đã quyết. Các lãnh tụ Trung Quốc cũng rất lo lắng vì không biết lực lượng của họ có đủ thời gian để chuẩn bị đầy đủ cho cuộc chiến tranh hay không. Binh lính Trung Quốc chưa tham gia vào bất cứ cuộc chiến tranh lâu dài nào, trong khi nhiều người trong quân đội không thể hiểu được vì sao cuộc chiến sắp xảy ra lại nhằm vào một đồng minh truyền thống và là một quốc gia láng giềng nhỏ bé. Không lâu sau cuộc họp lễ Giáng Sinh, Đặng đã cử Dương Dũng (Yang Yong), tổng tham mưu phó, và Trương Chấn (Zhang Zhen), chủ nhiệm tổng cục hậu cần lần lượt đến Vân Nam và Quảng Tây để thị sát điều kiện chiến đấu của bộ đội. Lo sợ binh lính chưa sẵn sàng chiến đấu, Trương đã lập tức đề nghị hoãn cuộc chiến lại một tháng. Sau này ông ta có kể lại rằng Quân ủy Trung ương đã đồng ý để lùi thời gian tấn công lại đến giữa tháng Hai. Dương đã làm một báo cáo trong đó có những đề xuất về kế hoạch cho chiến tranh, để trình bày ngày 22 tháng Giêng tại tư gia của họ Đặng trước sự hiện diện của các lãnh tụ chủ chốt của Quân ủy Trung ương. Có thể trong cuộc họp này các lãnh tụ Trung Quốc đã tái khẳng định quyết định tấn công của họ và định ra một khung thời gian cho “ngày N”. Ngày tiếp theo, Bộ Tổng Tham Mưu lại tổ chức một cuộc họp khác, tại đây kế hoạch chiến tranh được thông qua lần cuối và quân đội được lệnh sẵn sàng khởi sự vào ngày 12 tháng Hai. Để đề phòng tình hình có thể vượt ngoài tầm kiểm soát, ban lãnh đạo Trung ương đã yêu cầu Hứa Thế Hữu phải dừng ngay các chiến dịch quân sự và rút lui ngay khi quân đội của ông ta chiếm được Lạng Sơn và Cao Bằng là hai thành phố chính của Việt Nam nằm gần biên giới.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:48:49 GMT 9
Ngày 11 tháng Hai 1979, hai ngày sau khi Đặng trở về Bắc Kinh từ chuyến đi Mỹ và Nhật, cuộc họp Bộ Chính Trị mở rộng đã được triệu tập. Đặng trình bày rõ ràng lý do căn bản để đánh Việt Nam, và sau đó mệnh lệnh phát động cuộc tấn công Việt Nam vào ngày 17 tháng Hai năm 1979 đã được gửi tới các tư lệnh quân khu Quảng Tây và Vân Nam. Đây là ngày họp mà các thành phần không phải chủ chốt được tham dự lâu trong đó một số lý lẽ được đưa đẩy rằng thời điểm tấn công có thể liên quan mật thiết đến yếu tố thời tiết: vào mùa mưa, thường từ tháng Tư trở đi, nó có thể bất lợi cho việc tiến hành các chiến dịch quân sự, hoặc nếu tấn công sớm quá thì quân đội Liên Xô có thể dễ dàng vượt qua những con sông dọc biên giới Trung-Xô khi đó đang còn đóng băng. Đặng và các lãnh tụ khác đã tính toán một cách cẩn thận tất cả các khả năng có thể có một khi quân đội của họ đã vượt qua biên giới Việt Nam. Họ đã giới hạn phạm vi, thời gian, và không gian cho một cuộc chiến tranh đã được gắn cái tên là “cuộc phản công tự vệ” để cố gắng giảm thiểu những phản ứng tiêu cực từ trong nước và quốc tế. Tuy nhiên, khi chiến tranh đã nổ ra, Đặng vẫn theo dõi chặt chẽ mọi diễn biến xảy ra, vẫn ban hành những chỉ thị và mệnh lệnh đặc biệt (điều này khác hẳn với phong cách lãnh tụ của Mao).
Gerald Segal (tác giả cuốn Trung Hoa tự vệ-ND) cho rằng động cơ đầu tiên của Trung Quốc khi tấn công Việt Nam là nhằm ngăn chặn tham vọng và ý đồ xâm lăng Đông Nam Á cùng với mối đe dọa của Việt Nam đang nhằm vào an ninh của Trung Quốc, lật tẩy sự nhu nhược của Liên Xô. Nhưng tính toán chính trị sai lầm đã cho thấy rằng các lãnh tụ Trung Quốc đã đặt chính họ vào thế khó khăn khi xây dựng một chiến lược trừng phạt Việt Nam mà không bao giờ có cơ hội thành công. Ý đồ đã được tuyên bố của Trung Quốc là “dạy cho Việt Nam bài học” đã biến mục tiêu hàng đầu của cuộc chiến tranh thành một “hành động trả thù”. Từ đầu, Bắc Kinh đã giới hạn mục đích và chỉ đạo để cuộc chiến không vượt quá giới hạn của một cuộc xung đột biên giới tay đôi. Bộ chỉ huy quân sự ở Quảng Châu và Côn Minh được yêu cầu phải xây dựng các chiến lược tác chiến sao cho không chỉ hoàn thành mục tiêu là trừng phạt mà còn phải giới hạn chiến sự về thời gian lẫn không gian.
Câu hỏi thực tế cho những người lập kế hoạch quân sự Trung Quốc địa phương là đến chừng mực nào thì mục tiêu dạy cho Việt Nam bài học mới đạt được và đo lường được. Phương thức tác chiến thông thường của QGPND luôn luôn tạo nên một áp lực đặc biệt trong vấn đề tiêu diệt sinh lực địch (yousheng liliang). Một trong những truyền thống tác chiến của QGPND là chiến thuật biển người để đảm bảo thắng lợi. Khoảng giữa tháng Giêng 1979 hơn một phần tư quân đội thường trực của QGPND đã được đưa đến biên giới Trung-Việt, tổng cộng khoảng hơn 320.000. Theo kinh nghiệm chiến đấu của mình và dựa trên các bài bản chiến thuật của QGPND trong quá khứ, Hứa Thế Hữu đã trả lời những yêu cầu chiến tranh của ban lãnh đạo Trung ương bằng một chiến thuật gọi là niudao shaji (ngưu đao sát kê - dùng dao mổ trâu để cắt tiết con gà). Nguyên tắc chủ đạo khi giao chiến gồm ba điểm: tập trung tấn công vào vị trí quan trọng nhưng không phải điểm mạnh của quân địch; sử dụng lực lượng và hỏa lực áp đảo (tiền pháo hậu xung) để đập tan hàng phòng ngự của địch tại những những điểm mấu chốt; các đơn vị xung kích phải hết sức nhanh chóng thọc sâu và tấn công tất cả các con đường dẫn đến sào huyệt kẻ thù. Theo cách này Hứa tin rằng quân đội của ông ta có thể cắt nhỏ hệ thống phòng thủ của Việt Nam thành từng mảnh, đập tan mọi sự kháng cự, và sau đó tiêu diệt hết quân địch.
Theo tinh thần và chiến thuật đó, các quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã xây dựng những kế hoạch tác chiến riêng của họ trong đó nhấn mạnh đến việc tiêu diệt các sư đoàn quân chính quy của Việt Nam dọc biên giới Trung-Việt. Chiến tranh có thể chia thành hai giai đoạn. Trong giai đoạn đầu, hai mũi nhọn tấn công và Cao Bằng và Lào Cai nhằm bao vây và tiêu diệt các sư đoàn của quân đội Việt Nam tại đó đồng thời phát động các cuộc tấn công ở Đồng Đăng để ly gián Hà Nội về mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc. Sau đó lực lượng QGPND ở Quảng Tây sẽ tập trung tấn công vào Lạng Sơn trong khi các cánh quân bạn ở Vân Nam sẽ giao chiến với sư đoàn quân Việt Nam ở Sa Pa. Tổng cộng 8 quân đoàn QGPND sẽ đồng thời tham gia tác chiến, một quân đoàn được giữ lại làm lực lượng trừ bị.
Bắc Kinh cũng tính đến khả năng tham chiến của không quân. Không quân của QGPND sẽ cam kết dùng 18 trung đoàn và 6 phi đội tăng phái để chuẩn bị hỗ trợ cho các chiến dịch mặt đất. Để tránh leo thang xung đột, Quân ủy Trung ương ra lệnh không lực chỉ trợ chiến bên trong lãnh thổ Trung Quốc, trong khi đó lại ra lệnh các đơn vị không quân sẵn sàng yểm hộ cho các chiến dịch dưới đất “nếu cần”, mặc dầu không đưa ra định nghĩa chính thức tình hình thế nào và bao giờ được coi là “cần”. Mệnh lệnh đã quy định rằng bất cứ chiến dịch nào bên ngoài không phận Trung Quốc đều phải được phép của Quân ủy Trung ương. Dựa trên những nguyên tắc này, một chiến lược yêu cầu các đơn vị không quân sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ vùng trời và yểm trợ cho mặt đất. Khi chiến dịch dưới đất bắt đầu, cùng lúc không quân được lệnh xuất kích với tần suất cao trên không phận biên giới nhằm ngăn chặn không quân Việt Nam tham chiến. Nhân viên kiểm soát và điều hành hàng không cũng như các nhóm chỉ huy tác chiến đã được cử đến sở chỉ huy tiền phương của hai quân khu ở Quảng Châu và Côn Minh, các chỉ huy của các đơn vị không quân và một vài đơn vị phục vụ mặt đất cũng sẽ tham gia vào nhiệm vụ tấn công chính
Từ cuối tháng 12 năm 1978 đến hết tháng Giêng năm 1979 binh lính Trung Quốc bị cuốn hút vào các hoạt động huấn luyện chiến đấu và diễn tập. Vì trước đó hầu hết quân đội Trung Quốc chỉ tham gia vào sản xuất nông nghiệp trong một thời gian dài, những nỗ lực điên rồ vào giờ phút cận kề như vậy, dù là có ích, chắc chắn cũng không thể đủ được. Huấn luyện quân sự được tập trung nhiều vào những kỹ năng cơ bản của người lính như bắn, ném lựu đạn. Chỉ một vài đơn vị có khả năng tiến hành các cuộc huấn luyện có ý nghĩa về chiến thuật hoặc diễn tập cấp trung đoàn hoặc sư đoàn. Nhiều sĩ quan báo cáo rằng họ không thể đảm bảo các binh sĩ của họ có khả năng tác chiến. Việc các đơn vị bộ đội của QGPND chỉ được huấn luyện một cách sơ sài và không đầy đủ cho một cuộc chiến tranh hiện đại nhằm vào quân đội Việt Nam, những người đã có 25 năm kinh nghiệm chiến đấu trước khi có cuộc chiến tranh này dường như không được giới lãnh đạo Trung Quốc quan tâm.
Mặc dầu nhu cầu huấn luyện là cấp bách, nhưng QGPND vẫn tiếp tục với truyền thống quân sự của mình là sử dụng học thuyết chính trị để nâng cao tinh thần và để cải thiện hiệu năng chiến đấu. Cỗ máy tuyên truyền đã được thiết lập để thuyết phục binh lính rằng quyết định của ban lãnh đạo Trung ương là cần thiết và đúng đắn. Việt Nam đã thay đổi một cách xấu xa trở thành “Cuba ở phương đông”, tên “côn đồ ở châu Á” và “chó săn của Liên Xô”, đang cố theo đuổi tham vọng bành trướng. Chủ thuyết chính trị của Mác, mặc dầu được cả hai nước suy tụng cũng không ngăn cản được việc Trung Quốc phát động một cuộc “chiến tranh tự vệ” chống lại quốc gia làng giềng nhỏ bé một khi quyền lợi dân tộc tối cao bị đe dọa. Các bài giảng, các cuộc họp quy tội Việt Nam với các bằng chứng, hiện vật, cũng như tranh ảnh được trưng bày nhằm gia tăng chủ nghĩa yêu nước và lòng căm thù kẻ địch. Ít nhất người ta cũng đã đưa ra một cách giải thích nghe có vẻ có lý cho những người lính bình thường, ít học về lý do tại sao lại cần phát động cuộc tấn công quân sự vào Việt Nam, một đất nước từ lâu đã là anh em, đồng chí.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:50:46 GMT 9
Chiến dịch quân sự Cuộc tấn công được gọi là tự vệ của QGPND được tiến hành trong 3 giai đoạn. Giai đoạn đầu từ 17 đến 25 tháng Hai. Trong thời gian đó quân đội Trung Quốc theo dự tính sẽ đập tan tuyến phòng ngự đầu tiên của Việt Nam và đánh chiếm các thị xã Cao Bằng và Lào Cai, các thị trấn biên giới quan trọng là Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ ra vào Lạng Sơn. Giai đoạn hai từ 26 tháng Hai đến 5 tháng Ba là chiến dịch đánh Lạng Sơn và các vùng phụ cận phía tây, vùng Tây Bắc Sa Pa, và Phong Thổ. Giai đoạn cuối là nỗ lực bổ sung để dẹp yên các lực lượng địch còn sót lại trong quá trình phá hủy hệ thống quân sự tại khu vực biên giới với Trung Quốc trước khi hoàn thành việc rút quân vào ngày 16 tháng Ba. Các chiến dịch quân sự đã được thực hiện bên trong lãnh thổ Việt Nam dọc theo biên giới kéo dài đến 900 km từ đông sang tây. Trong 30 ngày, quân Trung Quốc đã tiến hành những trận đánh đẫm máu nhất kể từ chiến tranh Triều Tiên. Cuộc tấn công của Trung Quốc đã khiến Hà Nội bất ngờ. Tình báo Việt Nam dường như thất bại trong việc giúp ban lãnh đạo Hà Nội chuẩn bị trước cho cuộc xâm lược của Trung Quốc. Mặc dầu màn giễu võ dương oai (saber-rattling) của Bắc Kinh đã có từ trước đó vài tháng, nhưng lãnh đạo Việt Nam cũng không thể tin nổi “một nước Xã hội Chủ nghĩa anh em” lại có thể đi xâm lược mình. Khi một số lượng lớn quân Trung Quốc đã vượt qua biên giới, thủ tướng Phạm Văn Đồng và tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam Văn Tiến Dũng còn đang ở Phnom Pênh. Mức độ dàn trải của chiến dịch của QGPND cũng đã đánh lừa được Bộ Tư Lệnh tối cao của quân đội Việt Nam trong việc nhận dạng các mũi nhọn và mục tiêu thực của cuộc tấn công. Trong lúc yêu cầu cấp bách Matx-cơ-va thực thi nghĩa vụ theo hiệp ước hữu nghị và hợp tác mới ký giữa hai nước, phản ứng tức thời của Hà Nội là “để đáp trả ngay lập tức, sử dụng bất cứ sự kháng cự nào nhằm làm giảm ưu thế của quân Trung Quốc” Các trận đánh quan trọng đã xảy ra xung quanh các thị trấn biên giới như Sóc Giàng, Đồng Hệ, Đồng Đăng, Cao Bằng, Lào Cai và Cam Đường, qua việc tranh giành từng ngọn đồi từng căn hầm. Cả hai bên đều thể hiện ý chí quyết liệt tiến công và phản công mặc cho thương vong nặng nề. Vào ngày 20 tháng Hai, cố vấn Liên Xô đã kết luận rằng lực lượng phòng thủ dân quân tự vệ của Việt Nam sẽ không thể ngăn chặn được bước tiến của quân Trung Quốc. Đã có một khuyến cáo thiết lập cầu hàng không để chuyên chở ngay lập tức 30 000 quân từ Campuchia về để tăng cường cho tuyến phòng thủ Lạng Sơn và Hà Nội. Theo tài liệu của Xô Viết các cố vấn của họ đã có những nỗ lực phi thường để tìm và thuyết phục các lãnh tụ Việt Nam có những biện pháp đối phó cấp bách với tình hình. Không hiểu mục tiêu chiến tranh của Bắc Kinh, Hà Nội đã có những phản ứng hết sức chậm chạp đối với những diễn biến nhanh chóng trên chiến trường. Mặc dầu QGPND đã chọc thủng phòng tuyến ngay từ đầu nhưng địa hình, đặc biệt là thiếu đường sá, cộng với sự kháng cự quyết liệt của quân chính quy, các đơn vị biên phòng, bộ đội địa phương Việt Nam nên quân Trung Quốc đã bị rơi vào thế bị động. Chính tình trạng này đã bộc lộ những điểm yếu và thiếu khả năng của quân Trung Quốc trong chỉ huy tác chiến, liên lạc và hậu cần bắt nguồn từ truyền thống binh pháp của QGPND. Trong một vài trường hợp, các chỉ huy mặt trận Trung Quốc đã thúc giục sự yểm trợ của không quân khi các giao tranh dưới mặt đất gặp sự kháng cự quyết liệt của quân đội Việt Nam. Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc đã không cho phép, thay vào đó là mệnh lệnh cho hải dựa vào sự hỗ trợ hỏa lực của pháo binh. QGPND cùng với những tướng lĩnh của nó được sinh trong một thể chế truyền thống, chỉ quen với tiền pháo hậu xung và biển người. Khẩu hiệu “Tinh thần của lưỡi lê” (The spirit of the bayonet) lại tiếp tục được đề cao. Kết quả cho thấy cuộc chiến tranh Việt-Trung năm 1979 là một cuộc chiến tranh đẫm máu và tàn bạo. Thành công của cuộc chiến tranh trừng phạt của QGPND phụ thuộc vào các chiến thuật xâm nhập, tấn công sườn và bao vây Cao Bằng. Tuy nhiên, hai sư đoàn đột kích thọc sâu đã không hoàn thành được dự định trong vòng 24 giờ. Địa hình núi non, với những cánh rừng rậm rạp lại không có đường và bị bộ đội địa phương và dân quân du kích Việt Nam phục kích đã khiến cho quân Trung Quốc gặp khó khăn không ngờ. Vì sự chậm trễ này mà Hứa Thế Hữu đã quyết định quay lại lập tức tấn công Cao Bằng, mặc dầu một quân đoàn của phó tư lệnh Ngô Trung (Wu Zhong) đã áp sát thành phố từ phía đông và phía nam. Tuy nhiên, do một cuộc điều tra về lý lịch chính trị trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa đang tiến hành, Vũ đã bị cách chức chỉ huy vào khoảng thời gian giữa chiến dịch. Qua đường dây nói, ngày 20 tháng 2, 1979, Hứa đã khẳng định lại việc bổ nhiệm trước đó rằng chiến dịch vẫn sẽ tiếp tục dưới sự chỉ huy của một cấp phó khác của ông thay vì dưới quyền chỉ huy của họ Ngô, thậm chí sau đó và quân đoàn ông ta vẫn chiến đấu theo đường của họ để tới Cao Bằng từ phía bắc. Ba ngày sau khi đến nơi, Hứa và các sĩ quan tham mưu của ông ta vẫn không nhận ra rằng chỉ có một số rất ít bộ đội Việt Nam đã chiến đấu để bảo vệ để cơ quan đầu não và chính quyền tỉnh rút lui. Sau đó ông đã ra lệnh tấn công vào thành phố. Chỉ sau vài giờ chiến đấu, quân Trung Quốc đã chiếm được thành phố. Việc chậm trễ tiếp quản Cao Bằng đã làm đảo lộn kế hoạch ban đầu của QGPND. Kế hoạch này được thiết kế nhằm tìm kiếm những trận giao chiến nhanh chóng và quyết định. Quân đội Việt Nam phân tán thành những toán nhỏ và các đơn vị cỡ trung đội, ẩn trên núi non, rừng rậm và hang động, và tiếp tục phát động các cuộc phản công. Sự kháng cự không hề nao núng của bộ đội và dân quân Việt Nam buộc Trung Quốc phải thay đổi chiến thuật hoạt động của họ bằng cách chia quân thành những đơn vị cỡ tiểu đoàn để tham gia vào các hoạt động tìm kiếm và tiêu diệt tại Cao Bằng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh và các khu vực Quảng Hòa. Các chiến thuật mới bao gồm khóa đường, lùng sục các ngọn đồi, tìm kiếm những hang động, săm soi mặt đất và cho nổ các hầm hào. Giao chiến dữ dội liên tục khiến hàng trăm chiến sĩ Việt Nam và dân thường bị giết. Cho đến ngày 06 Tháng Ba, theo các tài liệu tiếng Việt thu được đã cho thấy, thì dường như sư đoàn QĐND Việt Nam có nhiệm vụ bảo vệ Cao Bằng vẫn chưa bị tiêu diệt. Không tính đến việc chưa hoàn toàn kiểm soát được Cao Bằng, những tổn thất nặng nề của QGPND trong giai đoạn đầu đã cho thấy rằng chiến dịch gặt hái rất ít thành công. Bắc Kinh ngày càng trở nên lo lắng về tiến triển của cuộc chiến nên hối thúc tư lệnh chiến trường ở Quảng Tây khởi sự càng nhanh càng tốt trận đánh quyết định vào Lạng Sơn, một cửa ngõ làm lá chắn cho Hà Nội từ phía bắc. Dường như không hài lòng với những gì đã xảy ra tại Cao Bằng, họ Hứa đã tổ chức lại kế hoạch tác chiến và kêu gọi binh lính tăng thêm sức chiến đấu trong trận đánh Lạng Sơn. Sáu sư đoàn quân Trung Quốc tham gia vào trận đánh quyết định này, bắt đầu vào ngày 27 tháng hai, được mở màn bằng một trận pháo kích dữ dội. Sau các trận chiến ác liệt, quân Trung Quốc lần đầu tiên kiểm soát chắc chắn được các điểm cao xung quanh và sau đó đánh chiếm phần phía bắc của thành phố vào ngày 02 Tháng Ba, ngày mà theo lịch trình sẽ ngưng các hoạt động quân sự. Do bộ máy tuyên truyền của Hà Nội không thừa nhận thất bại của họ ở Lạng Sơn, Hứa đã quyết định tiếp tục đánh, thúc quân của ông ta vượt sông Kỳ Cùng, là ranh giới phân chia thành phố Lạng Sơn thành các huyện phía Bắc và phía Nam, để đánh chiếm toàn bộ thành phố, và sau đó phát triển xa về phía nam để đe dọa Hà Nội. Mặc dù quyết định của Hứa đã được Bắc Kinh thông qua, nhưng nó đã bị hủy bỏ vào ngày 05 tháng 3, ngay sau khi quân đội Trung Quốc chiếm phần phía nam của Lạng Sơn, với lý do được tuyên bố là họ đã đạt được các mục tiêu chiến tranh ban đầu.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:51:30 GMT 9
Đánh giá cuộc chiến tranh của Trung Quốc với Việt Nam
Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 là một hoạt động quân sự lớn nhất mà QGPND đã đề xướng kể từ sau chiến tranh Triều Tiên. Dựa trên chiến lược của Mao là “trong mỗi trận đánh, tập trung một lực lượng tuyệt đối vượt trội so với kẻ thù”, Bắc Kinh đã triển khai chín quân đoàn chính quy cùng với các đơn vị đặc biệt và địa phương, tạo nên một đội quân hơn 300.000, tiến hành cuộc chiến tranh trừng phạt Việt Nam trong một tháng. Các đơn vị không quân chiến đấu đã xuất kích 8.500 phi vụ tuần tra vùng trời, trong khi đó các đơn vị vận tải và trực thăng đã xuất kích 228 lần làm nhiệm vụ không vận; Hải quân cử một lực lượng đặc nhiệm (bao gồm hai tàu khu trục tên lửa và ba hải đội tàu trang bị tên lửa và ngư lôi tấn công nhanh) ra đảo Hoàng Sa (Xisha) nhằm đối phó với sự can thiệp của hải quân Liên Xô nếu có. Ngoài ra, Các tỉnh Quảng Tây và Vân Nam còn huy động hàng chục ngàn dân quân và dân công để hỗ trợ các chiến dịch quân sự. Trong thời gian chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm ba thị xã của Việt Nam và hơn một chục thành phố nhỏ và thị trấn dọc biên giới, họ tuyên bố đã giết và làm bị thương 57.000 bộ đội Việt Nam, đánh thiệt hại nặng bốn sư đoàn quân chính quy và mười trung đoàn trực thuộc khác, cùng với việc chiếm một lượng lớn vũ khí. Bắc Kinh khẳng định rằng cuộc chiến chống Việt Nam 1979 đã kết thúc với thắng lợi thuộc về Trung Quốc.
Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu ngày nay đều thừa nhận rằng quân Việt Nam “đã trên tay” quân Trung Quốc trên chiến trường vì khả năng tác chiến yếu kém của QGPND và thương vong quá nặng như đã được báo cáo chính thức. Hà Nội cho rằng chỉ có dân quân và các lực lượng địa phương đã tham gia vào cuộc xung đột, và không áp dụng một chiến thuật phòng thủ nào nhưng đã tấn công liên tục chống lại quân xâm lược Trung Quốc. Họ chỉ chịu mất Lạng Sơn và một số thành phố khác sau khi đã gây thương vong và thiệt hại nặng nề cho quân Trung Quốc. Đài Hà Nội vào thời gian đó đã thông báo rằng Việt Nam đã tiêu diệt và làm bị thương 42.000 quân Trung Quốc. Chỉ có một vài tài liệu chính thức của Việt Nam có giá trị cho các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu về hiệu suất chiến đấu và thất bại của họ trong cuộc xung đột, trong khi đó các thông tin được đăng tải bởi các cá nhân trên mạng khi nói về con số tham gia thực tế và thương vong nặng nề của quân chính quy Việt Nam thì trái ngược hoàn toàn. Mặc dù đánh giá lại cuộc chiến Việt Trung năm 1979 mà chỉ dựa trên nguồn thông tin từ Trung Quốc là phiến diện nhưng dầu sao điều này cũng có thể soi sáng một số vấn đề.
Một phương pháp đánh giá cái được cái mất của Trung Quốc là tập trung vào thương vong. Lúc đầu Bắc Kinh thừa nhận là có 20.000 binh sĩ Trung Quốc bị chết hoặc bị thương trong cuộc xung đột biên giới với Việt Nam. Một xu hướng mang tính học thuật hiện nay nghiêng về con số ước tính khoảng 25.000 QGPND thiệt mạng trong khi làm nhiệm vụ và 37.000 người khác bị thương. Gần đây có nguồn từ Trung Quốc đã phân loại thiệt hại của QGPND là 6.900 người chết và 15.000 người bị thương, tổng cộng thương vong là 21.900 thương vong trong một cuộc chiến với hơn 300.000 lính tham chiến. Trong bất cứ trường hợp nào thì thương vong của Trung Quốc trong cuộc chiến tranh ngắn như vậy là quá cao, điều đó cho thấy một trong những đặc tính cố hữu trong chiến thuật và chiến dịch của QGPND là: sẵn sàng thí quân cho chiến thắng. Lãnh đạo Trung Quốc xem xét thương vong là một tiêu chí tương đối không quan trọng khi đánh giá thành công trong quân sự miễn sao họ tin rằng tình hình chiến lược tổng thể nằm trong tầm kiểm soát của họ.
Theo quan điểm của Trung Quốc, cuộc chiến 1979 với Việt Nam là một biện pháp quân sự có tính toán nhằm trả đũa chính sách thù nghịch với Trung Quốc và sự bành trướng của Việt Nam tại Đông Nam Á cũng như tham vọng toàn cầu của Liên Xô. Mặc dù chiến dịch này bộc lộ nhiều điểm yếu của QGPND trong học thuyết quân sự hiện đại và chiến thuật, từ khởi đầu đến kết thúc, nhưng Trung Quốc đã nhanh chóng nắm giữ thế chủ động và nhịp độ của cuộc xung đột. Bắc Kinh đã gây bất ngờ cho Hà Nội không chỉ vì quy mô của chiến dịch, mà còn ở việc rút lui nhanh chóng và không bị sa lầy ở Việt Nam. Trung Quốc cũng đã thành công trong việc tiên liệu đúng phản ứng của Liên Xô qua việc bất lực và thiếu thiện chí đối với Việt Nam. Sự trông cậy vào Liên Xô trong hiệp ước hữu nghị về an ninh rõ ràng là một bài học chua xót cho Việt Nam. Điều quan trọng hơn cả cuộc chiến Việt-Trung 1979 là khởi đầu cho một chính sách của Bắc Kinh làm “chảy máu” Việt Nam trong nỗ lực ngăn chặn sự bành trướng của Hà Nội ra Đông Nam Á. Việc Việt Nam rút quân khỏi Campuchia sau cuộc tấn công của Trung Quốc là điều lãnh đạo của Trung Quốc mong mỏi nhưng họ không tiên liệu được rằng cuộc triệt thoái đã không diễn ra ngay lập tức mặc cho Trung Quốc tấn công Việt Nam ở phía bắc. Sau này Trung Quốc vẫn thi hành một lựa chọn chiến lược là duy trì áp lực quân sự lên Việt Nam kể cả sự đe dọa liên tục bằng lời nói về một cuộc tấn công thứ hai, và đôi khi tăng cường pháo binh bắn phá và những trận đánh lớn ở biên giới trong hầu hết thập kỷ 1980. Một nghiên cứu đầu thập niên 1990 đã kết luận: “Cuộc chiến tranh đã đạt được thành công nhất định khi nó được xem như một chiến thuật trong chiến lược chiến tranh tiêu hao kéo dài của Trung Quốc”.
Tương tự như thế, cuộc chiến tranh Việt-Trung năm 1979 đã không để lại hậu quả đáng kể cho Trung Quốc trên trường quốc tế mặc dù việc sử dụng vũ lực quân sự chống lại Việt Nam cũng đã dấy lên những nghi ngờ của Indonesia và Malaysia, những nước luôn cảnh giác với ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực. Sự chiếm đóng của Việt Nam ở Campuchia đã đe dọa Thái Lan, khiến làn sóng chống đối Việt Nam của các nước ASEAN tiếp tục gia tăng. Về mối quan hệ Trung-Mỹ, cuộc xâm lược trừng phạt Việt Nam của Trung Quốc thể hiện thành công phần nào khi khi Washington vừa công khai lên án cả cuộc xâm lược của Việt Nam vào Campuchia và cả cuộc xâm lược của Trung Quốc vào Việt Nam lại vừa chia sẻ mối quan tâm của Trung Quốc trong việc ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô tại Đông Nam Á. Ý chí sẵn sàng sử dụng vũ lực của Bắc Kinh, bất chấp gánh chịu thương vong, đã biến Trung Quốc thành “một bức tường ngăn chặn có giá trị” chủ nghĩa bành trướng Xô-Việt; Washington vào thời điểm đó đã tiếp tục tìm kiếm một mối quan hệ chặt chẽ với Trung Quốc để cân bằng cán cân với Liên Xô.
Giới lãnh đạo Việt Nam dường như không bao giờ hiểu hết các động thái chiến lược và mục tiêu chiến tranh của Trung Quốc, nhưng lại khăng khăng quan điểm cho rằng cuộc xâm lược năm 1979 đã trở thành màn mở đầu của một kế hoạch xâm lược dài hạn của Bắc Kinh vào chủ quyền và nền độc lập của Việt Nam. Sau khi Trung Quốc tuyên bố rút quân ngày 5 tháng 3, Hà Nội kêu gọi tổng động viên toàn quốc cho chiến tranh, thúc đẩy việc xây dựng các vị trí phòng thủ trong và xung quanh Hà Nội. Mặc dù đến cuối tháng 5, quân đội Trung Quốc đã trở lại trạng thái bình thường, Việt Nam vẫn tiếp tục đề phòng, duy trì số lượng lớn của quân đội dọc theo biên giới phía Bắc đối diện với Trung Quốc vào thời điểm mà nền kinh tế của Việt Nam đang “ở trong một tình trạng tồi tệ hơn lúc nào hết kể từ sau năm 1975”. Kết quả là, Hà Nội phải dồn hết nỗ lực cho hai cuộc chiến tranh cùng một lúc, một ở Campuchia và một ở biên giới phía Bắc, dẫn đến một chi phí rất lớn của xã hội và kinh tế quốc gia, thu hút mọi nỗ lực của Hà Nội cần có cho việc hiện đại hóa nền kinh tế, và, quan trọng hơn, làm giảm tham vọng về địa chính trị của họ. Tuy nhiên, giới lãnh đạo Việt Nam không hề nhận ra tính chất nghiêm trọng của tình hình, tiếp tục phụ thuộc vào Liên bang Xô viết cho đến khi nó sụp đổ vào năm 1991. Nếu có bất kỳ bài học mà người Việt Nam cần rút ra từ cuộc chiến 1979 với Trung Quốc, thì đó là Việt Nam, như một vị tướng Việt Nam sau này đã nhận xét, “phải học cách sống chung với anh hàng xóm to lớn”.
Nhắc đến vấn đề tại sao Trung Quốc phải nóng lòng khi sử dụng một lực lượng đã được chuẩn bị sẵn để chống lại Việt Nam vào năm 1979, các phân tích ở đây cũng phù hợp với khẳng định của các nghiên cứu khác là mối lo ngại về tính toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền đã đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với Bắc Kinh, đủ để thúc đẩy QGPND không chỉ trong trách nhiệm bảo vệ mà còn phải tấn công nếu cần. Tranh chấp lãnh thổ và căng thẳng biên giới có vẻ như là yếu tố kích thích để thúc đẩy Bắc Kinh xem xét đến việc sử dụng vũ lực chống lại láng giềng phía nam của họ. Hơn thế nữa, cùng với sự cuồng phát của chủ nghĩa dân tộc đầy cảm tính đã hướng tới việc củng cố thêm tinh thần Đại Hán, theo đó cần phải có một sự trừng phạt nào đó với một đồng minh cũ đã dám phản bội và quay lưng lại với Trung Quốc. Tâm lý này cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc mang lại một sự đồng thuận rộng rãi giữa các nhà lãnh đạo chính trị và quân sự của Trung Quốc để hỗ trợ Đặng, kẻ đóng vai trò trung tâm trong việc đưa ra các quyết định triển khai quân sự chống lại Việt Nam. Về các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, điều luôn luôn làm nảy sinh những phản ứng thái quá của người Trung Quốc, quan điểm quân sự dường như đã trở thành yếu tố kiên quyết trong các quyết định để khởi đầu cho mọi thù địch hiện nay. Hội nghị cán bộ tháng Chín năm 1978, từ việc cung cấp các khuyến cáo cho ban lãnh đạo trung ương để đối phó với tình hình quan hệ xấu đi giữa Trung Quốc và Việt Nam, đã là điểm khởi đầu cho một hoạt động quân sự lớn. Các phân tích quân sự về phản ứng có của Liên Xô cũng giúp làm sáng tỏ những lo ngại về rủi ro nếu có. Tuy nhiên, quân đội đã phải hy sinh chính họ cho tham vọng của ban lãnh đạo trung ương. Một khi quyết định đã được đưa ra để thực hiện cuộc xâm lăng trừng phạt Việt Nam, các tướng lĩnh đã hăm hở thực hiện nhiệm vụ của mình với sự thích thú triển khai tối đa lực lượng.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 5, 2010 18:52:19 GMT 9
Những bài học được rút tỉa
Bất kể thành công về chiến lược của Trung Quốc như thế nào, một số vấn đề quan trọng vẫn cần được bàn lại. Ví dụ QGPND đã nhận thức thế nào về hiệu năng chiến đấu của họ ở Việt Nam, bài học nào đã rút ra từ chiến dịch, kinh nghiệm này đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của QGPND về tương lai của họ đến mức nào. Là một phần trong truyền thống của QGPND, tất cả các binh sĩ tham gia vào cuộc xung đột đã được lệnh phải viết tóm lược kinh nghiệm chiến đấu của họ. Nhìn lại cuộc chiến, bộ chỉ huy QGPND cũng thấy những mâu thuẫn nội tại. Trong khi tuyên bố rằng Trung Quốc đã giành chiến thắng, họ cũng phải thừa nhận cái giá quá cao mà QGPND đã phải trả. Trong quan điểm của bộ chỉ huy QGPND, ở một chừng mực nào đó cần có đánh giá phần nào khách quan về những yếu kém của QGPND. Tuy nhiên, họ lại e ngại khuynh hướng đánh giá quá cao khả năng và hiệu năng chiến đấu của quân đội Việt Nam. Cùng chiều hướng đó, nên niềm tự hào dân tộc và định kiến văn hóa của họ chắc chắn sẽ ngăn cản họ đưa ra những kết luận thẳng thắn về kinh nghiệm của QGPND trong chiến tranh. Những kinh nghiệm đó có thể được tổng hợp thành sáu chủ đề sau:
Một trong những châm ngôn truyền thống của QGPND là “biết địch biết ta trăm trận trăm thắng”. Cuộc chiến Việt-Trung năm 1979 cho thấy QGPND quan tâm rất ít đến binh pháp và chiến thuật của QĐND Việt Nam trước khi họ tấn công Việt Nam. Kết quả là, quân đội Trung Quốc đánh giá thấp khả năng chiến đấu của các đối thủ của mình. Có thể từ chỗ lo sợ vì đã tung hô quá nhiều danh tiếng của quân đội Việt Nam, nên tài liệu quân đội QGPND đã kết luận rằng lực lượng chính quy của kẻ địch thiếu kiên trì trong tiến công và phòng ngự và có rất ít các chiến dịch hiệp đồng, nhưng lại thừa nhận rằng chiến thuật kiểu du kích, công binh và dân quân tự vệ của Việt Nam đã thành công đáng kinh ngạc trong việc kìm chân quân Trung Quốc giảm thế cân bằng khi họ lo tìm kiếm những trận đánh quyết định với quân chính quy của QĐND Việt Nam trong một cuộc chiến hạn chế. Một sĩ quan Mỹ khi tổng kết kinh nghiệm của người Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam, đã ghi nhận rằng không thể “để xâm nhập, vòng sườn, hoặc bao vây” vị trí cố thủ của quân đội Việt Nam “mà không bị thương vong rất nặng”. Chiến thuật của QGPND, thúc thật nhiều bộ binh tấn công xáp lá cà vào vị trí đối phương bất chấp tử vong cao, đã giải thích tại sao Trung Quốc dám khẳng định rằng quân đội Việt Nam không có khả năng trong phòng thủ bảo vệ vị trí của họ.
Những khó khăn bất ngờ trong tác chiến đã khiến người Trung Quốc rút ra bài học thứ hai từ cuộc xung đột liên quan đến tình báo và lập kế hoạch. Thiếu thốn thông tin từ lâu về một đồng minh truyền thống đã là một thách thức lớn cho việc lập kế hoạch chiến tranh và kế hoạch tác chiến của Trung Quốc. Các đánh giá về địa lý và địa hình của miền Bắc Việt Nam của QGPND thường dựa trên các bản đồ và thông tin địa lý đã lỗi thời, trong khi khả năng trinh sát chiến trường lại bị hạn chế. Một trong những sai lầm lớn của quân đội Trung Quốc là đánh giá sai số lượng lực lượng dân quân rất lớn trong dự đoán về sức mạnh quân sự Việt Nam. Kinh nghiệm của QGPND cho thấy, dân quân Việt thể hiện sức đề kháng không hề nao núng và thực hiện các cuộc tấn công bất ngờ hơn vào các quân xâm lược hơn cả bộ đội chính quy QĐND Việt Nam. Lúc đầu các nhà kế hoạch quân sự của QGPND tin rằng họ đã tập hợp được một lực lượng vũ trang vượt trội với tỷ lệ 8:1 để tấn công quân Việt Nam. Nhưng chỉ tính riêng tại khu vực Cao Bằng đã có 40.000 cho đến 50.000 dân quân khiến tỷ lệ lực lượng Trung Quốc chỉ còn hơn Việt Nam là 2:1. Trong suốt chiến dịch, QGPND không bao giờ cho thấy khả năng đè bẹp đối phương bằng mức vượt trội về quân số. Cuộc chiến tranh này còn cho thấy sự khó khăn như thế nào khi thực hiện các chiến dịch quân sự ở nước ngoài nếu dân chúng địa phương được huy động vào việc kháng cự.
Bài học thứ ba là về khả năng chiến đấu của QGPND vì đây là lần đầu tiên Trung Quốc áp dụng tác chiến phối hợp với nhiều binh chủng gồm xe tăng, đại bác, bộ binh cùng với một lực lượng không quân và hải quân yểm trợ. Lạc hậu trong binh pháp và chiến thuật khiến quân đội Trung Quốc không thể phối hợp một cách bài bản trong tác chiến. Trong khi đó ở Bắc Kinh, sự ràng buộc chính trị và tư duy quân sự lạc hậu đã bác bỏ phương án yểm trợ tác chiến của không quân. Các lực lượng mặt đất cũng cho thấy sự thiếu đồng bộ giữa bộ binh, xe tăng và các đơn vị pháo binh để có thể triển khai việc phối hợp tác chiến sao cho hiệu quả. Một ví dụ rõ ràng là bộ binh đã không bao giờ được huấn luyện kiến thức đầy đủ về phương án tấn công phối hợp với các đơn vị xe tăng. Lính bộ binh, những người bị buộc bằng dây thừng vào tháp pháo xe tăng để khỏi ngã khi hành quân đã bị mắc kẹt khi bị quân địch bắn hạ. Mặt khác, các đơn vị xe tăng thường phải chiến đấu không có bộ binh tháp tùng và thiếu liên lạc trực tiếp giữa hai bên nên đã phải chịu nhiều thiệt hại và tổn thất khôn lường. Kinh nghiệm của cuộc chiến tranh 1979 đã dạy cho QGPND bài học giá trị về kỹ năng phối hợp tác chiến đa binh chủng.
Bài học thứ tư là về hiệu năng chỉ huy và điều khiển mà phần lớn bắt nguồn từ truyền thống và văn hóa của QGPND. Mối quan hệ cá nhân giữa sĩ quan chỉ huy và chiến sĩ, vốn đã được vun trồng trong quá khứ, vẫn tạo nhiều rắc rối trong hàng ngũ QGPND. Khi mà mối quan hệ giữa các cá nhân trở nên quan trọng hơn cả điều lệnh thì chẳng ngạc nhiên khi biết rằng các chỉ huy của Quân Khu Quảng Châu sau này thừa nhận rằng họ cảm thấy khó chịu khi chỉ huy quân sĩ được chuyển từ Quân khu Vũ Hán và Thành Đô đến trong thời gian phục vụ chiến dịch. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc cũng nghe nhiều cấp dưới phàn nàn về phong cách chỉ huy của họ Hứa (Hứa Thế Hữu - ND) vì trước đó ông ta chưa từng chỉ huy họ. QGPND còn gặp khó khăn do nhiều sĩ quan chưa có kinh nghiệm trận mạc. Mặc dù nhiều sĩ quan có cấp bậc cao hơn và có thâm niên chiến đấu đã được cử đến để chỉ huy các đơn vị cấp thấp hơn để giúp đỡ chấp hành mệnh lệnh, nhưng khả năng tác chiến của QGPND vẫn thất bại vì các sĩ quan cấp thấp vẫn còn thiếu khả năng quyết đoán độc lập và phối hợp tác chiến trong những thời điểm quyết định. Tuy nhiên, cuộc chiến 1979 với Việt Nam đã khai sinh ra một thế hệ mới các cán bộ quân đội Trung Quốc có kinh nghiệm chiến trường, và nhiều người trong số họ hiện nay đang phục vụ tại các vị trí cao cấp của QGPND
QGPND thiếu một hệ thống và cơ cấu cung cấp hậu cần hiện đại, để hỗ trợ cho những chiến dịch quân sự đòi hỏi di chuyển nhanh và ở vùng xa xôi. Các số liệu thống kê cho thấy trung bình mỗi ngày tiêu thụ đạn dược và nhiên liệu là 700 tấn cho mỗi loại. Hoạt động hậu cần là một lĩnh vực lớn để QGPND rút ra bài học. Vì không có đầy đủ dự trữ và phương tiện giao thông vận tải, khiến cả Quân khu Quảng Châu và Côn Minh đã phải đặt dưới cùng một hệ thống cung cấp, mà hệ thống đó chẳng bao giờ hoạt động thông suốt và hiệu quả. Một số lượng đáng kể các nguồn cung cấp bị mất hoặc là do quản lý kém hay bị Việt Nam phá hoại. Khi lực lượng của họ tiến sâu hơn vào lãnh thổ Việt Nam, để bảo vệ mình, các sĩ quan hậu cần đã phải rất khó khăn để giữ liên lạc không bị trệch hướng với đại quân. QGPND đã kết luận rằng cần thiết phải tạo ra bộ chỉ huy về giao thông vận tải để đối phó với các vấn đề mà bộ đội của họ đã phải đối mặt trong chiến dịch. Kinh nghiệm này có vẻ vẫn còn giá trị cho Trung Quốc đến tận hôm nay khi cựu phó chỉ huy của Đại học Quốc phòng QGPND Trung Quốc phát biểu tại một hội nghị chuyên đề về “kiểm soát truyền thông” vào năm 2002.
Bài học cuối cùng là làm thế nào để có thể diễn giải một học thuyết cũ về chiến tranh nhân dân vào các cuộc xung đột diễn ra bên ngoài biên giới Trung Quốc. Một trong những nguyên tắc của học thuyết chiến tranh nhân dân của Trung Quốc là việc huy động dân thường để hỗ trợ cho chiến tranh. Những kinh nghiệm chiến tranh 1979 đã chỉ ra rằng hầu như không thể đưa một lực lượng khổng lồ QGPND hoạt động ở nước ngoài mà không có sự ủng hộ chiến tranh của nhân dân trong nước. Bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh đã đánh thức lòng yêu nước của công chúng và lòng tự hào về người lính Trung Quốc. Biểu hiện mạnh mẽ của lòng yêu nước đã giúp QGPND nhận được hỗ trợ trực tiếp cho các hoạt động từ người dân sống tại hai tỉnh biên giới. Tại riêng tỉnh Quảng Tây, hơn 215.000 cư dân địa phương đã được huy động để làm người vận chuyển, nhân viên bảo vệ và khuân vác để hỗ trợ tiền tuyến; và hơn 26.000 dân quân từ khu vực biên giới đã thực sự tham gia vào các hoạt động chiến đấu trực tiếp. QGPND vào thời điểm đó chỉ có một hệ thống cung cấp vá víu đòi hỏi các đơn vị phải tự túc hệ thống cung cấp trên chiến trường theo kiểu “hậu cần bán lẻ”. Chính quyền địa phương đã làm mọi việc dễ dàng cho binh lính bằng cách đơn giản hoá thủ tục, giúp họ nhận được đầy đủ vật chất và thực phẩm tươi trong thời gian ngắn nhất có thể. Kinh nghiệm này đã thuyết phục bộ chỉ huy QGPND rằng huy động chính quyền địa phương và dân chúng để hỗ trợ cho một cuộc chiến tranh vẫn là chìa khóa cho chiến thắng.
Những bài học mà Trung Quốc đã rút tỉa được từ cuộc chiến 1979 với Việt Nam có thể không được liền lạc, thiếu toàn diện và khó mà khách quan vì QGPND không đánh giá sự thành công về chiến dịch quân sự của họ trên cơ sở kết quả tác chiến mà là trên cơ sở các tác động của cuộc xung đột đến tình hình chung. Chịu ảnh hưởng sâu sắc lời dạy của Mao là chiến tranh về cơ bản là một vụ kinh doanh chính trị, miễn là Trung Quốc cho là họ đã thành công trong việc đạt được mục tiêu quân sự và chiến lược đề ra, còn các vấn đề gây ra từ thất bại của chiến thuật chỉ là thứ yếu. Đây cũng là lý do tại sao các bài học đó đã có những khác biệt đáng kể so với các nghiên cứu của phương Tây nơi mà nhiều thông tin tương đối khả tín, mặc dầu đôi khi vẫn thấy xuất hiện đây đó một chút thái quá do lạm dụng các nguồn tin hạn chế để kết luận về một vấn đề cực kỳ phức tạp. Các nghiên cứu của QGPND nhìn nhận rằng cuộc Cách Mạng Văn Hóa (1966-1976) đã tạo bất lợi và hủy hoại những truyền thống tốt đẹp của QGPND, và kết quả là, các lực lượng của Trung Quốc thực hành tác chiến tồi tệ trong chiến tranh. Những bài học rút ra của QGPND đã tập trung nhiều vào cấp độ chiến thuật của chiến tranh với sự nhấn mạnh vào chỉ huy và kiểm soát, phối hợp tác chiến giữa các đơn vị, cơ cấu lực lượng và vũ khí hơn là chiến lược và triết lý mang tính học thuyết. Trong quá trình đánh giá kinh nghiệm chiến tranh 1979, QGPND có vẻ như không tìm cách che đậy hoặc bỏ qua thiếu sót về các hạn chế của họ vào thời điểm đó; tuy nhiên họ đã mắc sai lầm khi không đề cập đến những khiếm khuyết trong tư duy quân sự và binh pháp truyền thống.
Các nghiên cứu của phương Tây đã so sánh những bài học mà QGPND đã rút ra từ cuộc chiến Việt-Trung 1979 với việc đánh giá lại vào năm 1985 của ban lãnh đạo Trung Quốc về bản chất của chiến tranh hiện đại và các mối đe dọa đang rình rập Trung Quốc cộng với những nỗ lực tiếp theo để cải tiến và chuyên nghiệp hóa QGPND trong suốt những năm 1980. Bài học Việt Nam đối với QGPND và những cuộc giao tranh vẫn liên tục xảy ra trên biên giới Trung-Việt trong những năm 1980 đã giúp cho cho ban lãnh đạo Trung Quốc phải thực hiện những cuộc chuyển đổi chiến lược từ việc nhấn mạnh đến sự chuẩn bị cho chiến tranh tổng hợp đến việc chuẩn bị cho chiến tranh cục bộ và chiến tranh hạn chế theo xu hướng của thời gian. Trong quá trình chuyển đổi QGPND thành một lực lượng hiện đại vào những năm 1980, có rất ít những nỗ lực được thực hiện nhằm sửa chữa thiếu sót về tư duy quân sự, đó là thái độ luôn luôn coi nhẹ vai trò của của không quân. Kết quả là, nếu có điều gì còn chưa trung thực trong việc rút kinh nghiệm của QGPND thì đó chính là bài học về ưu thế trên không hoặc yểm trợ không quân. Tài liệu của QGPND vẫn cho rằng việc hạn chế khả năng của lực lượng không quân Trung Quốc là lý do chính khiến không quân Việt Nam không tham gia vào xung đột. Nguyên soái Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying) thậm chí còn nhận xét một cách lố bịch rằng hoạt động giả vờ của không quân Trung Quốc trong cuộc chiến chống lại Việt Nam là một “đòn nghi binh khéo léo trong tác chiến không quân”. Nhận xét đó rõ ràng cho thấy vẫn còn sai lầm trong giới lãnh đạo Trung Quốc khi họ tiếp tục đánh giá chưa cao vai trò quan trọng của không quân trong chiến tranh hiện đại.
Tuy nhiên, tổng kết các kinh nghiệm của QGPND trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam đã cung cấp một cái nhìn hữu ích về việc giới lãnh đạo Trung Quốc trong việc tiếp cận vấn đề chiến tranh và chiến lược như thế nào. Cái nhìn này cũng phù hợp với những phát hiện nằm trong các công trình nghiên cứu gần đây. Trước tiên, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã thảo luận và tính toán thời điểm và như thế nào khi sử dụng sức mạnh quân sự, nhưng đã không ngần ngại quyết định khởi chiến khi họ cho rằng lợi ích quốc gia của Trung Quốc đang bị hăm doạ hoặc lâm nguy. Thứ hai, QGPND thể hiện quyết tâm giành và giữ thế chủ động tác chiến bằng việc triển khai quân số vượt trội (chiến thuật biển người). Thứ ba, ý thức về chiến thắng quân sự của Trung Quốc đặt nhiều hơn vào việc đánh giá kết quả địa chính trị khi đem so với phê phán về hiệu năng tác chiến trên chiến trường. Kể từ sau cuộc chiến 1979 với Việt Nam, QGPND đã tiến hành sửa đổi sâu rộng trong học thuyết quốc phòng, chỉ huy và điều khiển, chiến thuật tác chiến, và cơ cấu lực lượng, trong khi các hoạt động quân sự thế giới cũng đã chuyển đổi đáng kể từ khi cuộc chiến năm 1979. Ngày nay, không ai nghĩ rằng các lực lượng vũ trang của Trung Quốc sẽ lặp lại những gì họ đã làm trong chiến tranh biên giới với Việt Nam. Từ góc độ lịch sử, những nét đặc thù của người Trung Quốc đã bộc lộ trong cuộc chiến 1979 với Việt Nam có thể vẫn còn có giá trị trong các giáo trình của học viện quân sự của Trung Quốc cũng như đối với những người hằng quan tâm đến phương pháp sử dụng sức mạnh quân sự của người Trung Quốc, không chỉ trong quá khứ mà cả với hiện tại và trong tương lai.
Bản dịch của một cộng tác viên, riêng cho tạp chí Thời Đại Mới.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 15:49:25 GMT 9
Tưởng niệm cuộc chiến VN -TQ 30 năm trước
Chiến tranh biên giới Việt - Trung, 1979 (còn gọi là Chiến tranh biên giới phía Bắc, 1979 hay Công cuộc phòng thủ biên giới phía Bắc, 1979) là tên gọi cuộc chiến tranh của Trung QuốcViệt Nam vào năm 1979 (còn có tên gọi khác là Chiến tranh bành trướng Bắc Kinh, 1979). nhằm đánh chiếm 6 tỉnh biên giới của
Nguyên nhân Nhận thấy Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật đổ chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ do Trung Quốc bảo trợ trong cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Campuchia, Trung Quốc quyết định tấn công xâm lược Việt Nam với lý do "dạy cho Việt Nam một bài học" (lời Đặng Tiểu Bình) nhưng mục đích chính là phân chia lực lượng quân đội của Việt Nam để giúp chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ. Đồng thời, Trung Quốc muốn thử nghiệm chiến thuật quân sự phòng thủ chủ động, đưa cuộc phòng thủ biên giới vào sâu lãnh thổ đối phương. Ngoài ra, theo một số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, về mặt chiến lược, Trung Quốc thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn để thăm dò khả năng tương trợ của Liên xô, sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế SEV, và ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978), trong đó có điều khoản về tương trợ quân sự . Nếu thảo ước này được tuân thủ nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, nó sẽ là hiểm họa quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế lưỡng đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô. Kế hoạch của Trung Quốc Kế hoạch của Trung Quốc gồm ba giai đoạn.
•Giai đoạn đầu (từ 17 đến 25 tháng 2): phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam và chiếm Cao Bằng, Lào Cai, cùng hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ dẫn vào Lạng Sơn. •Giai đoạn hai (từ 26 tháng 2 đến 5 tháng 3): tấn công Lạng Sơn và khu vực bao quanh ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở phía tây bắc. •Giai đoạn cuối: bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới với Trung Quốc trước khi rút về vào ngày 16 tháng 3. Tương quan lực lượng tham chiến Để tiến công Việt Nam, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không. Lực lượng được huy động khoảng 600.000 binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối[1] và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía sau. Tướng Hứa Thế Hữu, tư lệnh Đại Quân khu Quảng Châu chỉ huy hướng tiến công vào đông bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao Bằng. Tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân khu Côn Minh đảm nhiệm hướng tây bắc với trọng điểm là Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai). Đây là đợt huy động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ Chiến tranh Triều Tiên. Về phía Việt Nam, do phần lớn các quân đoàn chính quy (3 trong số 4 quân đoàn) đang chiến đấu ở Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (chủ yếu là tân binh) của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, công an vũ trang (biên phòng) và dân quân tự vệ. Lực lượng biên giới có khoảng 70.000 quân, sau được hai sư đoàn từ miền xuôi lên tiếp viện[2]. Quân đoàn 1 vẫn đóng quanh Hà Nội đề phòng Trung Quốc đổi ý tiến sâu vào trung châu.
Diễn biến Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc áp dụng chiến thuật biển người bất kể tổn thất tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam.
Hướng Lạng Sơn có quân đoàn 43, 54, 55. Hướng Cao Bằng có quân đoàn 41, 42, 50. Hướng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14. Hướng Lai Châu có quân đoàn 11. Hướng Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn. Tất cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Không quân và hải quân không được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến.
Trong giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng.
Quân Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (thuộc tỉnh Quảng Tây) và Malypo (thuộc tỉnh Vân Nam) của Trung Quốc nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.
Ngày 19 tháng 2 năm 1979, nhóm cố vấn quân sự cao cấp của Liên Xô tới Hà Nội để gặp các tướng lĩnh chỉ huy của Việt Nam. Moskva yêu cầu Trung Quốc rút quân. Liên Xô cũng viện trợ gấp vũ khí cho Việt Nam qua cảng Hải Phòng, đồng thời dùng máy bay vận tải chuyển một số sư đoàn chính quy Việt Nam từ Campuchia về.
Trong giai đoạn sau, cả hai bên đều tăng cường thêm lực lượng và cuộc chiến tiếp tục, trong đó quyết liệt nhất là hướng Lạng Sơn. Tại đây sư đoàn bộ binh 3 Sao Vàng, một đơn vị thiện chiến của Việt Nam từng đánh Mỹ cùng một số sư đoàn khác đã tổ chức phòng thủ chu đáo. Sau nhiều trận đánh đẫm máu bất kể tổn thất, quân Trung Quốc vào được thị xã Lạng Sơn chiều ngày 4 tháng 3 năm 1979. Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Đồng thời phía Việt Nam cũng điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng.
Cũng trong ngày 5 tháng 3 năm 1979, do áp lực của Liên Xô và sự phản đối của quốc tế, đồng thời cũng đã chiếm được các thị xã lớn của Việt Nam ở biên giới, Bắc Kinh tuyên bố hoàn thành mục tiêu chiến tranh, chiến thắng và bắt đầu rút quân. Mặc dù chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi nhưng đến ngày 18 tháng 3 năm 1979 quân Trung Quốc đã hoàn tất rút khỏi Việt Nam.
Kết quả cuộc chiến Cuộc chiến để lại nhiều tác hại khó lường cho phía Việt Nam. Ngoài các thương vong về con người, tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá huỷ do trận chiến, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách thù địch, vây hãm mà Trung Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế, ngoại giao ... Thương vong Theo tuyên bố của phía Trung Quốc: quân Trung Quốc có 6.900 người chết, 14.800 người bị thương và 240 người bị bắt. Quân Việt Nam có 60.000 người chết và bị thương, 1.600 người bị bắt.
Theo tuyên bố của phía Việt Nam: quân Trung Quốc có 62.500 người chết và bị thương, tổn thất 280 xe tăng, 115 khẩu pháo cối và 270 xe quân sự. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, không có số liệu về tổn thất của các lực lượng vũ trang.
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam: 4/4 thị xã bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.
Về lâu dài, nó mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả xấu đến nền kinh tế. Sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau này.
Có những nhà quan sát phương Tây nhận định như sau:
Về mặt chiến thuật, Trung Quốc thất bại vì tuy Việt Nam chưa kịp đưa các đơn vị chủ lực ở Campuchia về tham chiến mà quân đội Trung Quốc vẫn chịu tổn thất nặng nề và phải rút quân về nước. Về mặt chiến lược, Trung Quốc đã không thất bại hoàn toàn vì đã chứng minh được mối đe dọa lưỡng đầu thọ địch từ phía quân đội Liên Xô và quân đội Việt Nam sẽ không xảy ra. Cũng có một số nhà quan sát cho rằng Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lúc bấy giờ có hai khuynh hướng, một thiên về Đặng Tiểu Bình, người muốn cải tổ quân sự trong toàn bộ chiến lược cải cách Trung Quốc, và một chống đối lại cải tổ. Tài liệu phương Tây cho rằng tai hại chiến lược to lớn nhất cho Việt Nam là cuộc chiến này đưa đến việc phe cải tổ thắng thế: Trung Quốc dồn sức hiện đại hóa các đơn vị chủ lực và đã thành công. Điều này sẽ thấy rõ sau này trong Chiến tranh biên giới Việt Trung, 1984-1988, khi Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Bình thường hóa quan hệ Sau khi Liên Xô tan rã, đến năm 1992 quan hệ giữa hai nước mới được bình thường hóa.
Lãnh thổ Các cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung và vấn đề lãnh thổ luôn có mối liên quan mật thiết với nhau từ trong lịch sử cũng như cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 hoặc sau đó. Các quan điểm cho rằng Việt Nam đã mất lãnh thổ sau cuộc chiến tranh xâm lược bành trướng bá quyền 1979 của Trung Quốc dựa trên Công Ước Về Hoạch Ðịnh Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc ký giữa Pháp và Nhà Thanh của Trung Hoa ký năm 1885 và ký vào ngày 26 tháng 6 năm 1887 vẫn còn hiệu lực và phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Quan điểm mất lãnh thổCó hai quan điểm chính [3][cần dẫn chứng] về vấn đề tranh chấp lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc.
Có quan điểm cho rằng Việt Nam đã mất một số lãnh thổ trong cuộc chiến này[4] như Lê Chí Quang [5] thì Việt Nam đã nhượng cho Trung Quốc 720 cây số vuông, cũng như một bộ phận người Việt ở hải ngoại thì cho rằng chính phủ Việt Nam ... đã nhường đất cho Trung Quốc (cũng là một nước theo chế độ cộng sản) bằng Hiệp định về Biên giới trên Đất liền ngày 30/12/1999 [6][7][8][cần dẫn chứng] và cần đòi lại bằng vũ lực hoặc bằng công pháp quốc tế.[9]
Có quan điểm cho rằng[10] lý do nhường đất hoặc bán nước là do sau khi khối Liên Xô tan rã, tháng 11 năm 1991... lại quan hệ răng môi giữa hai bên đã bị gián đoạn từ năm 1975. Kể từ đó, hai bên đã có những trao đổi thân thiện hơn vì nhu cầu bảo vệ thành trì chủ nghĩa xã hội trong cơn lốc tan rã khối cộng sản. Xuyên qua những quan hệ này, Hà Nội đã coi Bắc Kinh là mẫu mực áp dụng cho những cải tổ kinh tế, xã hội để có thể kéo dài sự tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh này, Trung Quốc một mặt giúp đỡ Cộng Sản Việt Nam duy trì quyền lực qua một số những cố vấn về cải cách kinh tế, mặt khác o ép Hà Nội phải chấp nhận những lằn ranh biên giới mà Trung Quốc đã "quản lý" từ nhiều năm qua. Tháng 2 năm 1999, khi Lê Khả Phiêu sang viếng thăm Bắc Kinh, Giang Trạch Dân đã đưa ra chủ trương "hai bên phải là láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" để khuyến dụ Hà Nội xúc tiến việc ký các hiệp định về biên giới. Thay vào đó, Bắc Kinh sẽ giúp cho ... giữ vững quyền lực và chống chọi với Hoa Kỳ trong những quan hệ mới sau khi thương ước Mỹ - Việt được ký kết. ... nghiễm nhiên đồng ý và ra chỉ thị cho phái đoàn đàm phán biên giới nhượng bộ để xúc tiến việc ký các hiệp ước biên giới. Ðể gia tăng sự tin tưởng cho phía Hà Nội, cuối năm 1999, Giang Trạch Dân đã viếng thăm Việt Nam trong 5 ngày và yêu cầu Lê Khả Phiêu cho xúc tiến ký kết các hiệp ước biên giới. Thay vào đó, phía Bắc Kinh đã hứa giúp cho ... rất nhiều điều như phát triển khoa học kỹ thuật, hợp tác mạnh mẽ trong lãnh vực tài chánh, tiền tệ, giúp huấn luyện chuyên viên nông nghiệp, hiện đại hóa về bưu chính, viễn thông. Nhất là Bắc Kinh hứa sẵn sàng giúp đỡ việc huấn luyện cán bộ tư tưởng lý luận về xã hội chủ nghĩa mới cho cán bộ đảng Cộng sản Việt Nam. Trước sự "bảo đảm" mạnh mẽ của Trung Quốc, Lê Khả Phiêu và lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải đẩy nhanh đà ...." bằng việc xúc tiến ký kết Hiệp định phân định biên giới mất đất.
Mặt khác, phía Việt Nam khẳng định chiều dài dọc biên giới là 1350 cây số trong khi đó thì phía Trung Quốc lại cho rằng chiều dài này chỉ có 1200 cây số, theo tin từ những nhà ngoại giao[2] ở Hà Nội là Việt Nam đã phải nhượng cho Trung Quốc hầu hết những cao điểm chiến lược mà Trung Quốc đã chiếm được trong cuộc chiến năm 1979.
Ải Nam Quan Cho đến năm 1954 Người Pháp còn quản lý Ải Nam Quan.
Hồng Ðức Bản Ðồ, được thiết lập vào năm 1490 đã tả Ải Nam Quan của Đại Việt[11]Tâm Quang-Langlet trong bài "La perception des frontières dans l'Ancien Vietnam à travers quelques cartes vietnamiennes et occidentales" (tạm dịch: Quan niệm biên giới ở Việt Nam thời trước qua vài bàn đồ Việt Nam và Tây Phương) trong quyển "Les frontières du Vietnam, Histoire des frontières de la péninsule indochinoise (Các biên giới của Việt Nam, Lịch sử các biên giới trên bán đảo Ðông Dương), nhà xuất bản L'Harmattan, 1989, cho biết rằng trên bản đồ Hồng Ðức có vẽ hình một cái đồn để tượng trưng cho ải Nam Quan và có ghi chú là Ải Nam Quan nằm ở huyện Văn Uyên và tại đấy có hai đài, đài Chiêu Ðức và đài Ngưỡng Ðức.
Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí (1882) đoạn nói về Ải Nam Quan: "Ải Nam Quan cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là "Ðại Nam Quan", phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan", dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ "Trung ngoại nhất gia", dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc cửa có "Chiêu đức đài", đằng sau đài có "Ðình tham đường" (nhà giữ ngựa) của nước Thanh; phía nam có "Ngưỡng đức đài" của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ."
Năm 1774, Ðốc trấn Lạng-Sơn là Nguyễn Trọng Ðang cho tu sửa, xây lại Ải Nam Quan bằng gạch. Về việc sửa sang đài Ngưỡng Ðức, văn bia của Nguyễn Trọng Ðang ghi khắc có đoạn như sau: "... Ðài [Ngưỡng-Ðức] không biết dựng từ năm nào; hình như mới có từ khoảng niên hiệu Gia-Tĩnh nhà Minh, ngang với niên-hiệu Nguyên-Hòa, đời vua Lê Trang Tông ở nước ta. Ðài không có quán, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ; sửa chữa qua loa, vẫn theo như cũ. Nhà Lê ta trung hưng, đời thứ 14, vua ta kỷ-nguyên thứ 41, là năm Canh tý, ngang với năm thứ 44 niên hiệu Càn-Long nhà Thanh; Ðang tôi làm chức Ðốc-trấn (Lạng-Sơn), trải qua 5 năm là năm Giáp-thìn; sửa chữa lại, xây dựng bằng gạch ngói, đài mới có vẻ hoành tráng...".
Theo "Ðịa-dư Các Tỉnh Bắc-Kỳ" của Ngô Vi-Liễn, Phạm Văn-Thư và Ðỗ Ðình-Nghiêm (Nhà in Lê Văn-Tân xuất-bản, Hà-Nội, 1926): "Cửa Nam-Quan ở ngay biên-giới Trung-quốc và Việt-Nam. Kể từ Hà-Nội lên đến tỉnh-lỵ Lạng-Sơn là 150 km; đến cây-số 152 là chợ Kỳ-Lừa; đến cây-số 158 là Tam-Lung; đến cây-số 162 là Ðồng-Ðăng; đến cây-số 167 là cửa Nam-Quan đi sang Long-Châu bên Tàu. Như vậy từ Ðồng-Ðăng lên cửa Nam-Quan có 5 km; từ Kỳ-Lừa lên Nam-Quan mất 15 km [về phía tây-nam chợ Kỳ-Lừa có động Tam-Thanh, trước động Tam-Thanh có núi Vọng Phu hay tượng nàng Tô-Thị là những danh thắng của tỉnh Lạng-Sơn] và từ tỉnh-lỵ Lạng-Sơn lên Nam-Quan là 17 km."
Theo "Ði thăm Ðất Nước" của Hoàng Ðạo-Thúy (Nhà Xuất-bản Văn-hoá, Hà-Nội, 1976), "Ðồng-Ðăng cách biên-giới Trung-quốc 4 km. Nơi đây có Hữu-Nghị Quan của Trung-quốc" và quyển "Phương Ðình Dư địa chí" của Nguyễn Văn Siêu (bản dịch của Ngô Mạnh-Nghinh, Tự-Do xuất-bản, Saigon, 1960): "Cửa hay ải Nam-Quan, đời Hậu-Lê trở về trước gọi là cửa Pha-Lũy (hay Pha-Dữ), ở về phía bắc châu Văn-Uyên, trấn Lạng-Sơn. Từ châu Bằng-Tường (tỉnh Quảng-Tây) bên Trung-quốc muốn vào nước An-Nam phải qua cửa quan này".
Qua các tài liệu sử Việt Nam trên ải Nam Quan là biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa. Tại cửa ải này bên phiá Trung Hoa có một cửa ải do Nhà Minh xây dựng là Trấn Nam Quan.
Ngày nay có tài liệu cho rằng đường phân giới hai nước cách Ải Nam Quan 200m và Việt Nam đã bị mất Ải Nam Quan vào tat Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau cuộc chiến 1979.
Thác Bản Giốc Lê Công Phụng, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao, người trục tiếp thương lượng và ký kết hiệp ước biên giới trên đất liền cho rằng Việt Nam chỉ có 1/3 thác, nhưng nhờ thương thuyết cho nên Trung Hoa nhượng bộ, thành ra Việt Nam được ½ thác. Ông trưởng ban phân giới Lê Công Phụng cũng cho rằng các tin chung quanh vấn đề nhượng đất nhượng biển chỉ là tin đồn. Riêng vấn đề thác Bản Giốc, trả lời phái viên BBC [12] đặt câu hỏi là người ta cho rằng Việt Nam nhượng ½ thác thi ông Phụng trả lời rằng tin đó cũng chỉ là tin đồn, không xác thực vì hiện nay khu vực thác Bản Giốc chưa cắm mốc.
Ngoài ra, sau cuộc chiến 1979, Chính phủ Việt Nam liên tục tố cáo Trung Quốc bành trướng còn chiếm đóng một số điểm của Việt Nam [cần dẫn chứng] Việc tố cáo này tuỳ thuộc vào tình hình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai Đảng Cộng sản.
Quan điểm không mất lãnh thổ Một quan điểm khác của chính phủ Việt Nam luôn nhắc tới tình hữu nghị[13] truyền thống giữa hai nước và hai Đảng anh em mà giải quyết vấn đề biên giới và lãnh thổ bằng thương lượng ngoại giao, từng bước giải quyết trên tinh thần hữu nghị, anh em[14]. Ngày 19 tháng 6 năm 2000, Quốc Hội Việt Nam đã công bố nghị quyết về "Hiệp Ước Biên Giới Trên Ðất Liền Giữa Việt Nam và Trung Quốc" được thông qua tại kỳ họp thứ 7, quốc hội khóa X họp từ ngày 9 tháng 5 năm đến ngày 9 tháng 6. Theo Từ Công Phụng Trưởng đoàn đàm phán biên giới "Việc có mất đất hay không là phụ thuộc vào việc cắm mốc, chỉ cắm mốc chệch đi vài trăm mét là mất nhiều đất lắm". [15] rằng Việt Nam "chỉ nhượng" 114 cây số cho Trung Hoa và "được nhượng" 113 cây số từ Trung Hoa. Và việc ký kết được một hiệp định phân định biên giới với Trung Quốc vốn là một nước bá quyền, bành trướng thâm căn cố đế là một sự cần thiết và thắng lợi.
Đến nay, năm 2007, quan hệ giữa hai Đảng được nâng lên tầm cao mới sau Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 17, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương thực hiện theo phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần 4 tốt " láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" [16]và các vấn đề lãnh thổ bị mất bởi Trung Quốc đã không được công khai đề cập đến trên báo chí như thập niên 1980.
Việc lập lại và đóng mốc biên giới giữa hai nước: Ngày 30 tháng 12 năm 1999, Chính phủ hai nước ký Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Thực hiện Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc ký ngày 30 tháng 12 năm 1999, Việt Nam và Trung Quốc đã tổ chức Lễ cắm mốc quốc giới đầu tiên trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc vào tháng 12 năm 2001 tại cửa khẩu Móng Cái (Việt Nam) và Đông Hưng (Trung Quốc). Theo đó, hai bên phấn đấu hoàn thành việc cắm trên 1.500 mốc giới trên biên giới đất liền trong vòng ba năm, đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị và ổn định giữa hai nước, góp phần tăng cường giao lưu, hợp tác giữa các địa phưng biên giới hai nước, thúc đẩy quan hệ giữa hai nước phát triển theo khuôn khổ đã được xác định là "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai", đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định và hợp tác trong khu vực." [17]
Kết thúc Vòng XII đàm phán thường niên cấp Chính phủ về biên giới, lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, hai bên đã thống nhất xây dựng lộ trình chung nhằm thúc đẩy và hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền vào cuối năm 2008. Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tham dự vòng đàm phán, diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10/12 tại Hà Nội, do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao-Trưởng ban Ban biên giới Vũ Dũng dẫn đầu và đoàn đại biểu Chính phủ Trung Quốc do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Đại Vĩ dẫn đầu.
Hai bên cũng thỏa thuận tiếp tục ưu tiên phân giới cắm mốc tại các khu vực cửa khẩu, trong quý 1/2006 thực hiện thí điểm tại một số cửa khẩu, thúc đẩy phân giới cắm mốc tại các khu vực sông suối biên giới, hỗ trợ địa phương hai bên thống nhất phương án hợp tác cùng phát triển du lịch tại khu vực Thác Bản Giốc của Việt Nam.[18]
Quan điểm lịch sử Triều đình Việt Nam quan tâm chỉ đạo vấn đề biên giới - lãnh thổ từ khoảng thế kỷ thứ 10 sau khi giành lại quyền độc lập tự chủ với chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 và ngày càng củng cố nền độc lập tự chủ cùng với biên cương của tổ quốc.
Trong các cuộc đàm phán về biên giới năm 1078 do Đào Tòng Nguyên dẫn đầu và cuộc đàm phán năm 1084 do Trạng nguyên khai khoa Lê Văn Thịnh dẫn đầu. Vua Lý Nhân Tông viết thư gửi cho vua nhà Tống đòi đất:
"Mặc dầu những đất ấy nhỏ bé nhưng vẫn khiến lòng tôi đau xót luôn luôn nghĩ đến cả trong giấc mộng." Thế kỷ 15 Vua Lê Thái Tổ đã cho khắc vào vách núi đá ở Hoà Bình:
Biên phòng hảo vị trù phương lược Xã tắc ưng tư kế cửu an Ý nói việc biên phòng cần có phương lược phòng thủ; đất nước phải lo kế lâu dài.
Năm 1473, vua Lê Thánh Tông chỉ thị cho những người đi giải quyết vấn đề biên giới với nhà Minh:
"Chớ để họ lấn dần, nếu các ngươi dám lấy một thước núi, một tấc sông tổ tiên để lại mà đút mồi cho giặc thì tội phải tru di". Luật Hồng Đức công bố năm 1483 có điều khoản 74, 88 về bảo vệ đất đai ở biên giới như sau:
"Những người bán ruộng đất ở biên cương cho người nước ngoài thì bị tội chém"; Quan phường xã biết mà không phát giác cũng bị tội" "Những người đẵn tre, chặt gỗ ở nơi quan ải thì bị xử tội đồ" (đồ là đầy đi làm khổ sai).
Quan điểm của Liên Hiệp quốc Cấm dùng vũ lực: Sau chiến tranh thế gìới thứ hai, Hiến chương Liên Hợp Quốc được thông qua năm 1945 có điều 2, khoản 4 cấm sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ của một Quốc gia.
Nghị quyết 26/25 năm 1970 [19]của Liên Hơp Quốc lại viết:
"Các quốc gia có nghĩa vụ không được dùng đe doạ hoặc dùng vũ lực để xâm phạm các đường biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hoặc như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các Quốc gia". Không công nhận lãnh thổ cướp đoạt bằng vũ lực: "Mọi hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe doạ hoặc bằng sử dụng vũ lực không được thừa nhận là hợp pháp". Lưu trữ và công khai hóa: Các hiệp định giữa các nước thành viên về lãnh thổ, biên giới phải nộp[20] về Liên Hiệp quốc lưu trữ và công khai hóa . tài liệu từ phía TQ ( nguồn TTVNOL ) Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt 1979 Lâm Lễ Trinh Lý do - Quyết định - Hậu quả và những bài học tương lai
Để bao vây Trung quốc và làm suy yếu thế lực của Hoa Kỳ tại Á châu, tháng 6.1969 Leonid Brezhnev đề nghị với các quốc gia, từ Trung Đông đến Nhựt Bổn, hình thành một tổ chức an ninh chung bảo vệ hòa bình và an lạc trong khu vực. Riêng ở Đông dương, chủ đích của Nga là hất ảnh huởng Mỹ và Tàu ra khỏi bán đảo, kiểm soát vịnh Cam Ranh và các hải cảng chiến lược, hỗ trợ các đảng và thể chế mạc xít, đồng thời đặt các nước Đông dương trong vòng lệ thuộc Điện Cẩm Linh bằng cách viện trợ quân sự và kinh tế. Kế hoạch này thành công. Việt Nam là trường hợp điển hình. Sau ngày "giải phóng Sàigòn" Liên Sô tăng số cố vấn tại Lào từ 100 lên 500, giúp 500 triệu mỹ kim cho ngân sách VN tài khóa 1976 và 3 tỷ đô la cho kế hoạch ngũ niên 1976-1980 của Hà nội. Bắc Kinh, trong lúc đó, chỉ viện trợ tượng trưng 200 triệu, báo tin không cấp ngân khoản mới cho 1977 và ngày 27.9.1976, tại diễn đàn Liên Hiệp quốc, Ngoại trưởng Kiều Quán Hoa một mặt tố Nga trám khoảng trống ở Á châu và mặt khác, cảnh cáo các thành viên Đông Á đừng bao giờ "đón cọp vào ngã sau trong khi đuổi chó sói ra cửa trước". Với ước mong được thu nhập vào COMECON, Hội đồng Tài trợ Kinh tế Hỗ tương CS, Hà nội theo sát con đường Sô viết chống Tàu. Khi Đảng Lao động VN nhóm Đại hội lần thứ 4 tại Hà nội, cuối 1976, đưới sự giám sát của lý thuyết gia Mikhail A. Suslov, trưởng phái đoàn Sô viết...................... Cuối 1977, sau khi tham khảo ý kiến Trung quốc, Cam Bốt đoạn giao với VN. Đầu năm 1979, số cố vấn và chuyên viên sô viết tại VN tăng từ 5000 lên 8000. Nhiều diễn biến dồn dập xẩy ra, khiến cho Bắc kinh và Hà nội không tránh được đụng độ trực tiếp:
+ Lý do đụng độ Việt - Hoa. Tổng quát, có bốn lý do chính yếu: 1.- Liên sô xử dụng Vịnh Cam Ranh và ký Hiệp ước thân hữu với VN. Tháng 6.1978, không khí căng thẳng khi Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình báo tin hủy bỏ viện trợ cho VN, phản đối việc trục xuất 110.000 người Việt gốc Hoa và công bố Trung quốc đã giúp cho CSVN hơn 20 tỷ mỹ kim từ 1950 đến 1978. Hà nội liền tố ngược các lãnh tụ Tàu là phản động. Hai quốc gia CS Albania và Lào cũng hùa theo chỉ trích Bắc Kinh. Đồng thời, ... lên tiếng xin bình thường hóa bang giao với Hoa Kỳ. Mười hôm sau, giới truyền thông rầm rộ tung tin Liên sô được phép lập căn cứ quân sự tại Cam Ranh và Đà nẵng. Phần thưởng của sự nhân nhượng này là Mạc Tư Khoa bựt đèn xanh cho Hà nội xúc tiến thực hiện và điều khiển "Liên bang Đông Dương". Ngày 3.11,1978, Nga và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác, trong đó điều 6 đặc biệt ghi rằng đôi bên sẽ áp dụng "các biện pháp thich nghi và hữu hiệu để bảo vệ hòa bình và an ninh" nếu một trong hai nước bị đe dọa hay tấn công. Trong dịp viếng Thái Lan, Đặng Tiểu Bình sỉ vả VN là "Cuba của phương Đông", bắt tay với đế quốc để xây mộng bá chủ và đe dọa Thái Bình Dương và Thế giới. 2.- VN chiếm đóng Cam Bốt. Tại Hội nghị Genève 1954, Chu Ân Lai thuyết phục Phạm Văn Đồng cho rút quân khỏi Cam Bốt và công bố tôn trọng chủ quyền nước này. Năm 1958, Bắc kinh và Nam Vang trao đổi sứ thần và ký Hiệp ước hữu nghị và bất xâm phạm. Tháng 11.1963, sau vụ đảo chính TT Ngô Đình Diệm, Sihanouk yêu cầu các cơ quan Mỹ rời xứ Chùa Tháp và Trung quốc cảnh cào Hoa Kỳ không được xâm nhập đồng minh nhược tiểu này. Tháng 3.1970, tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk. Một tháng sau, các dân tộc Đông dương nhóm thượng đỉnh tại Guangzhou gồm có Bắc Việt, Pathet Lào và Khờ me Đỏ (lúc đó còn liên kết với Sihanouk). Khờ Me Đỏ nhận viện trợ của Bắc kinh và tuy không tin Hà nội, vẫn liên tục cấp nơi ẩn nấp cho các lực lượng Việt cộng mỗi khi chúng bị Quân đội VNCH đẩy lui. Vì lý do lịch sử, địa dư và chiến thuật, Cam Bốt đã từng là chư hầu của VN. Miên luôn luôn lo sợ bị nuốt trửng ngay trong những năm cộng tác thân thiện với Hà nội (1970 - 1975). Sau tháng 4.1975, Khờ Me Đỏ hoàn toàn trông cậy vào sự che chở của Trung quốc. Tháng 9.1975, Chu Ân Lai sắp xếp cho Sihanouk trở về Nam Vang "để đuổi Bắc Việt ra khỏi xứ " nhưng ê kíp Pol Pot, Ieng Sary và Khieu Samphan nhất quyết đốt giai đoạn biến Cam Bốt đầu hôm sớm mai thành một "nước xã hội chủ nghĩa vẹn toàn", bất chấp lời khuyên của Chu. Những biện pháp quá khích được đem ra thi hành gấp làm cho xứ hỗn loạn. Tháng chạp 1976, khi phái đoàn chuyên viên Tàu của Fang Yi sang giúp Miên thì đã quá chậm: quần chúng kiệt sức, thợ thuyền, công chức và trí thức bị tiêu diệt, quân đội tan rã, gần 4000 lính Miên (do Việt cộng huấn luyện năm 1976) bị tẩy trừ. Từ 1975 cho đến 1978, Chính phủ Khờ Me Đỏ đòi bộ đội Việt rời xứ nhưng các đơn vị này chỉ di tản về biên giới và tại đây, hai bên nhiều lần đụng độ đẫm máu. Cuối 1976, Đại hội 4 Đảng Lao Động nhóm để đổi tên thành Đảng CS Việt Nam và chấp thuận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thiết lập Liên bang Đông Dương bằng cách thuyết phục và nếu cần, áp lực quân sự Miên và Lào gia nhập. Tháng 2.1978, Ủy ban Trung ương quyết nghị xóa chế độ Pol Pot qua 4 giai đoạn: tố cáo đường lối khát máu của Khờ Me Đỏ, tấn công Bắc kinh viện trợ Nam Vang, xúi dân Miên nổi loạn và tận dụng lá bài Sô viết. Ngày 7.1.1979, với sự đồng ý và hỗ trợ vũ khí của Mạc Tư Khoa, 100.000 quân Việt tràn ngập Cao Miên và toàn thắng sau 2 tuần lễ. Trung quốc không can thiệp, để tránh lún vào vũng lầy chiến tranh như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình cảnh cáo rằng trong tương lai, Bắc kinh sẽ "lấy những quyết định ngoài ý muốn vì hòa bình". Theo tạp chí Tàu cộng Geng Biao, 1.500 Hoa kiều bị kẹt lại ở Cam Bốt và phần đông đã gia nhập hàng ngũ Khờ Me Đỏ để chống VN. Ngày 8.1. 79, Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng, do bù nhìn Heng Samrin cầm đầu, được Hà nội công nhận. Chính quyền Thái thận trọng đứng ngoài. Lời kêu cứu của Sihanouk với Liên Hiệp Quốc rơi vào sa mạc. Pol Pot rút vào rừng để kháng chiến. Ngày 18.2.1979, Miên và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác có giá trị 25 năm, công khai hóa việc quân đội Việt chiếm đóng Cộng hòa Nhân Dân Cam Bốt và đặt chính thức xứ này dưới chiếc dù quân sự của Hà nội. Trước đó hai năm, ngày 18.7.1977, Lào và VN đã ký một Hiệp ước hữu nghị tương tợ. Liên bang Đông Dương thực hiện xong. Bằng võ lực. 3.- Tranh chấp Việt - Hoa về lãnh thổ. Từ lâu, đề tài cãi vã giữa VN và Trung quốc xoay quanh ba khu vực: a)- Một biên giới chung dài trên 797 cây số, được thực dân Pháp và Trung Hoa ấn định năm 1887 trong một Thỏa ước và bổ túc năm 1895. Cuối thập niên 70, cả Hoa và Việt khiếu nại lẫn nhau về vị trí của 300 cột trụ phân ranh. b)- Vịnh Bắc Việt, còn gọi là Beibu Gulf / Bắc Bộ Gulf hay Gulf of Tonkin. Hai Thỏa ước vừa kể không nói rõ lằn ranh thuộc phần kiểm soát của mỗi nước. Tháng 10.1977, cuộc hội nghị tại Bắc kinh không giải quyết được dứt khoát vấn đề. c)- Gây cấn nhất là chuyện dành hai nhóm quần đảo Hoàng Sa (hay Paracels/Xisha) và Trường Sa (hay Spratlies/Ninsha). Khu vực này hệ trọng cho cả Trung quốc và VN về chiến thuật và dầu khí. Hoàng Sa, Trường Sa, cùng với một số đảo lân cận khác như Pratas Reef và Macclesfield là những trạm thông thương giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Bởi thế Phi Luật Tân, Đài Loan, Nam Dương, Nhựt, Brunei v..v.. cũng đòi chia phần. Mỹ và Nga theo sát vấn đề. Nga nắm thế thượng phong vì kiểm soát được Vladivostok, Cam Ranh và Đà nẵng. Ngày 4.9.1958, Bắc Kinh công bố chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Quân đội VN đã tái chiếm được 6 đảo nhỏ. Từ 1974 cho đến 16.2.1979, theo Renmin Ribao, số ra ngày 14.5.1979 và bản ghi chép "SRV Memorandu " đề ngày 16.3.1979, có tất cả 3535 vụ xô xát Việt -Hoa tại biên giới (trong sổ sách Trung cộng) và 4333 vụ (chiếu tài liệu VN). 4.- Hà nội trục xuất Hoa kiều làm cho tình hình căng thẳng tột độ. Đa số Hoa kiều tại VN di cư từ hai tỉnh Quảng Đông va Phước kiến, sau Trận giặc Nha phiến (1840- 1842). Họ cần cù làm ăn, sống đoàn kết và không tham gia chính trị. Tại Nam Việt, trước 1975, hơn phân nửa tổng số 1.300.000 người Hoa ủng hộ Chính phủ quốc gia. Sau Tết Mậu thân 1968, từ 75 đến 80% không có thiện cảm với CS. Chỉ một số ít hoạt động cho Hà nội. Trước 1975, năm người Việt gốc Hoa được bầu vào Hạ Viện. Tại Chợ lớn, người Hoa tổ chức thành 5 bang: Quảng Đông, Phước kiến, Triều châu, Hẹ và Hakka, mỗi bang được đại diện bởi một bang trưởng chọn theo lối đầu phiếu. Họ có một Phòng Thương mãi, một bệnh viện đặt tên Chung Cheng, một số trường học và báo chí. Tháng 8.1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh buộc Hoa kiều bỏ quốc tịch Tàu và nhập tịch VN nếu muốn tiếp tục hành nghề. Tháng 4.1957, thẻ lý lịch ngoại quốc bị coi như vô giá tri.
Đầu 1977, Việt - Hoa căng thẳng. Chính quyền Hà nội đuổi người Tàu sống tại các tỉnh biên giới về Trung quốc. Tháng 5. 1978, trong vòng 13 hôm, con số này vượt lên đến 57.000, không kể 320.000 người bị đẩy đi vùng kinh tế mới và 50.000 bị tịch thu tài sản. Nhà Nước CHXHCN còn công bố cho phép ra đi vĩnh viển những ai mang chiếu khán Hồng kông, Đài Loan hay Pháp. Ngày 29 tháng 6, VN chính thúc gia nhập COMECON, Bắc kinh liền cúp viện trợ hoàn toàn, hồi hương 880 chuyên viên và đóng cửa Sứ quán. Hà nội ra lệnh cho Tòa Tổng lãnh sự Tàu ngưng hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Ba lãnh sự quán Việt ở Nam Ninh, Côn Minh và Quảng Đông củng phải rút lui. Từ tháng 9. 1978, trong Tạp chí CS và tờ Quân Đội Nhân Dân, nhà cầm quyền Việt Nam bắt đầu kêu gọi dân chúng sẵn sàng chống lại "chủ nghĩa bành trướng của nước lớn và ý đồ bá quyền của bọn Hán phong kiến." Liên hệ Việt - Hoa "môi hở răng lạnh" tan thành mây khói. Câu nói của Hồ "Việt và Hoa vừa là bạn, vừa là anh em" chua cay hơn lúc nào hết.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 16:06:00 GMT 9
Đặng Tiểu Bình chuẩn bị chiến tranh.Chu Ân Lai qua đời đầu năm 1976 và Mao Trạch Đông, chín tháng sau. Nội tình Trung quốc xáo trộn vì ba sự kiện hệ trọng: 1.- chiến dịch sôi nổi chống nhóm Tứ Quái của Jiang Qing, vợ Mao, đầu não xách động Cách Mạng Văn Hóa. 2.- việc thi hành chậm trễ kế hoạch Bốn Hiện Đại Hóa do Chu đề xướng để canh tân kỹ nghệ, canh nông, quốc phòng và khoa học. 3.- sự tranh quyền ráo riết giữa Đặng Tiểu Bình và Tổng bí thơ Hoa Quốc Phong, lãnh tụ của "Phe Bất Cứ Gì" (=bất cứ gì chủ tịch Mao nói và làm đều đúng cả!). Cuối 1978, sau hai lần bị khai trừ, Đặng phục hồi quyền lực, nắm đa số trong Chính trị bộ và Ủy ban trung ương Đảng CS, giữ chức Tổng tư lệnh quân đội, thi hành chính sách của Chu và xét lại đường lối Mao ít. Đặng bắt tay nghiên cứu cách giải quyết khủng hoảng với láng giềng VN. Trung quốc cảm thấy bị đe dọa trong quyền lợi và thách đố bởi một nước đàn em hung hăng, phản bội và tự hào là nước mạnh quân sự thứ ba trên địa cầu. Theo Gs Irving Janis và Leon Mann, Đặng Tiểu Bình hành động thực tế và thận trọng qua 3 giai đoạn. Trước hết, thu thập đầy đủ dữ kiện bên ngoài (chiến lược toàn cầu của nước Tàu, chiến lược Đông dương của VN, sự nhúng tay của Liên sô, vấn đề Cam Bốt, tranh chấp biên giới, Hoa kiều tại VN, yếu tố Hoa Kỳ, dư luận thế giới) và dữ kiện bên trong như: lợi ích và các giá trị của Trung quốc, phản ứng tâm lý quần chúng trong nước, khả năng của quân đội Tàu, ảnh hưởng chiến tranh đối với mức phát triển kinh tế quốc gia..v..v.. Thứ nữa, tham khảo ý kiến và đạt được sự đồng thuận của các cơ cấu trong đảng CS: Chính trị bộ, Ủy ban Trung ương và Quân ủy Hội. Sau hết, hành động để giữ vững quyết định đến cùng. Hà nội ký Hiệp ước Hữu nghị với Liên sô và cưỡng chiếm Nam Vang là hành động khiêu khích thêm, buộc Bắc kinh phải trả đũa. Ngày 15.12.1978, Hoa Kỳ công nhận Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình liền bay qua Hoa Thịnh Đốn hội kiến với Tổng thống Jimmy Carter, báo tin riêng sẽ tấn công VN và trấn an Mỹ rằng nhà cầm quyền nước ông biết tự chế. Ngày 1.1.1979, hai nước bang giao chính thức. Đặng cũng viếng Nhựt và một số quốc gia Đông Á để dò xét phản ứng. Tất cà đều lo ngại về ý đồ tương lai của VN, đồng minh của Mạc Tư Khoa. Trở về Bắc Kinh, Đặng điều chỉnh kế hoạch. Thay vì gởi quân qua Cam bốt giúp Khờ Me Đỏ và để tránh mang tiếng với Thế giới là "mưu đồ bành trướng", Trung quốc quyết đánh thẳng vào VN dưới hình thức "phản công tự vệ", không dùng hải lực không quân, trong một thời gian giới hạn và chỉ nhắm vào vùng biên giới. Đặng muốn dạy cho nhóm lãnh tụ tại Bắc bộ phủ "một bài học quân sự đich đáng". Mục phiêu thật của "sự trừng phạt" là gì? Tiêu hủy vài sư đoàn, căn cứ chiến lược hay chiếm một giải đất biên phòng của đối phương? Đặng không cho biết thâm ý. Dù sao, theo học giả King C. Chen, "chiến tranh trừng phạt, the Punitive War" tượng trưng cho chính sách đối ngoại của Bắc Kinh tại Á châu từ 1949. Hành quân năm 1979 chống VN được chuẩn bị chu đáo như cuộc đụng độ Hoa - Ấn năm 1962 và không hấp tấp như trường hợp Trung cộng tham chiến ở Triều tiên hay vụ Nga sô can thiệp ở Tiệp khắc và Hung Gia lợi. + Bài học quân sự 1979. Năm 1938, Mao giải thích như sau quan điểm của Lê nin về chiến tranh: "Khi chính trị mở rộng đến mức không còn tiến tới được bằng đường lối thông thường thì chiến tranh bùng nổ để san bằng các trở ngại gặp phải". Lê nin từng viết: "Chiến tranh chỉ là chính trị nối tiếp bằng những phương tiện khác". Câu này dựa vào ý kiến của Karl Von Clausewitz: "Chiến tranh không phải là hành vi đơn giản của chính sách mà là một lợi khí chính trị đích thực, một sự tiếp tục của hoạt động chính trị với phương thức khác". Cuộc chiến để sát phạt VN, dù núp dưới danh xưng phản công tự vệ, được khởi xướng đúng theo chủ trương trên đây. Các lãnh tụ Trung quốc đã cân nhắc quyết định của họ hai năm (1977-1979), với hy vọng bình thường hóa bằng võ lực mối bang giao Hoa - Việt. Muốn thành đạt, chiến tranh nhân dân cần hội một số điều kiện: đảng và quân thống nhất, quần chúng hỗ trợ, đất nước hậu tiến, vũ khí quy ước, kỹ thuật lạc hậu, ngoại xâm đe dọa và đấu tranh trường kỳ. Trước tháng 2.1979, Trung quốc có 3,600.000 quân nhân tại ngũ và 175 sư đoàn tại 11 vùng chiến thuật. Võ khí gồm có 10.000 chiến xa, 20.000 giàn phóng hỏa tiễn, 16.000 cà nông và phương tiện chuyên chở rất lạc hậu. Hải quân có 30.000 thủy thủ, 75 tiềm thủy đỉnh. Hạm đội Bắc Hải có 300 chiến hạm, Đông hải: 450 và Nam hải: 300. Lực lượng không quân có 400.000 phi công, 5000 chiến đấu cơ cũ và lỗi thời, loại Mig 15,17,19 và 80 Mig 21. Đặng Tiểu Bình là Tổng Tư lênh hành quân, với 2 phụ tá Xu Xiangqian và Nie Rongzhen, tướng Gen Biao giữ chức Tham mưu trưởng. Về phía VN, tổng quân số lên đến 600.000 phân chia 200.000 tại Cam bốt, 100.000 tại Lào, 100.000 tại Nam Việt, và 200.000 ở Bắc Việt. Xung quanh Hà nội có 5 sư đoàn và 4 lữ đoàn. Dài theo biên giới Trung hoa, VN có 150.000 dân quân tổ chức thành 6 sư đoàn địa phương và một trung đoàn. Không lực Việt có 300 chiến đấu cơ (70 Mig 19, 21 Mig 17, và một số F 5 tịch thu của Mỹ năm 1975). Hải quân Việt có 2 chiếc PETYA Sô viết với hỏa tiến chống tiềm thủy đỉnh, và 60 tàu tuần tiễu. Cuộc "hành quân sát phạt" kéo dài 16 ngày, chia thành 2 giai đoạn: 1)- Từ 17 đến 26.2.1979. Ngày 17 thàng 2, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật "biển người", 100.000 Tàu, được chiến xa hỗ trợ, tràn vào Lạng Sơn, (phía Đồng Đăng), Cao Bằng, Đồng Khê, Mông Cáy, và Lào Cai sau khi pháo kích mãnh liệt. Sự tiến quân, mau lẹ lúc dầu, lần hồi bị địa phương quân Việt chận lại và bao vây. Các đơn vị chính quy VN tập trung về phía Nam Cao Bằng và Lạng Sơn để đánh tiêu hao những sư đoàn đối phương. Số tổn thương của hai bên đều nặng nhưng khó kiểm chứng. Phía Trung quốc chiếm được Lào Cai, Cao Bằng và chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng không có ý định tiến về Hà nội. Đồng thời, Bắc Kinh công bố sẽ rút quân đội "sau khi hoàn tất mục tiêu". Trong thời khoảng đó, Liên Sô đưa 7 chiến hạm tuần tiễu dài theo hải phận VN và ngày 21 tháng 2, gởi tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak vào Nam Hải. Vũ khí Nga được không vận từ Calcutta và một phái đoàn quân sự sô viết bay qua Hà nội. Mạc Tư Khoa yêu cầu Tàu rút binh. 2)- Từ 27.2 đến 5 tháng 3. Chiến cuộc tiếp diễn ở Lào Cai, Cao Bằng và Mông cáy nhưng tập trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách Đèo Hữu Nghị lối 10 dặm và Hà nội 85 dặm. Với hai sư đoàn mới đến từ Đồng Đăng và Lộc Bình, Trung vất vả tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh. Việt chống cự mãnh liệt và còn đột nhập vào ba thị trấn Guangxi, Malipo và Ninping ở bên kia biên giới. Ngày 3 tháng ba , Lạng Sơn thất thủ. Đồng Đăng và Cẩm Dương bị san bằng nhưng các đơn vị Việt tiếp tục đánh tại Lộc Bình và Mông cái. Ngày 5 tháng 3, Chính quyền Bắc Kinh một mặt công bố đã chiếm được các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận, gây thiệt hại nặng cho 4 sư đoàn Việt và mặt khác, cảnh cáo Hà nội không được cản trở sự rút lui của Quân đội Nhân dân Trung quốc. Cùng một ngày, Bắc bộ phủ tổng động viên toàn quốc. Ngày 7 tháng 3, VN xác nhận đồng ý cho đối phương rút quân "để tỏ thiện chí hòa bình". Tại Nga, Thủ tướng Kosygin và Tổng bí thơ Brezhnev cực lực lên án Trung quốc, tiếp tục cho không vận võ khí và canh chừng hải phận VN. Cuba cho biết sẵn sàng gởi quân trợ chiến Hà nội. Tại Liên Hiệp Quốc, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, khối Asean kiến nghị đòi "các lực lượng ngoại quốc rút ra khỏi khu vực" mà không lên án Bắc Kinh. Ngày 16.3.1979, không còn đơn vị Tàu cộng nào ở VN. Theo tinh thần kiến nghị Asean thì VN tại Cam Bốt cũng phãi hồi hương quân đội chiếm đóng. Hội Đồng An ninh LHQ rốt cuộc không có ra quyết nghị nào. Một nhà ngoại giao chua chát phê bình: "Khi tranh chấp xẩy ra giữa các đại cường, Liên Hiệp Quốc biến mất!". +Thẩm lượng "bài học quân sự 1979 1.- Thiệt hại của đôi bên. Dưới đây là bản kê khai thiệt hại căn cứ vào tài liệu mỗi phía, trích từ quyển sách "China''''''''''''''''s War With Việt Nam, 1979" của Gs King G. Chen , trang 114: Trung Quốc Việt Nam Tử thương 26.000 30.000 Bị thương tích 37.000 32.000 Tù chiến tranh 260 1.638 Chiến xa, quân xa 420 185 Bích kích pháo, súng 66 200 Giàn hỏa tiễn 0 6 Hoa lẫn Việt đều tuyên bố thắng trận nhưng không xứ nào hoàn thành mục tiêu chính yếu. Trung quốc không hủy được một sư đoàn Việt nào, không chấm dứt được xung đột tại biên giới, không ép được các đơn vị Việt rút khỏi Cam Bốt và củng không thuyết phục nổi VN thay đổi chính sách đối với Hoa kiều. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã gây ra tại Hà nội sự nghi ngờ về thực tâm của Mạc Tư Khoa can thiệp bằng võ lực để chống Trung cộng ở VN. Mặt khác, khối Asean đã lên tiếng ủng hộ Tàu trong cố gắng chận chủ nghĩa bành trướng của CS Việt tại Đông Á và, dưới khía cạnh này, gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt không ít. Ngày 26.3.1979, Jiefangjun Bao viết trong bài xã luận: "Cuộc chiến 1979 đã làm sáng tỏ những ý kiến sai lệch về vấn đề chiến tranh và một số vấn đề khác". Không thấy báo xác định rõ vấn đề gì. Sáu tháng sau, nhân lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung quốc, Tổng trưởng Quốc Phòng Xu Xiangqian trình bày quan điểm trong tạp chí "Quân Đội": "Như chúng ta biết, trong lịch sử chiến tranh, có nhiều cuộc thất trận không vì nhân lực yếu hay võ khí kém, nhưng bởi tư tưởng quân sự lạc hậu và chỉ huy sai lầm. Một kết luận thực tế là năm 1979, tại VN, các lãnh tụ Trung Hoa vừa dạy đối phương và vừa thu thập một bài học hữu ích: Quân đội Trung Hoa không thể thắng một cuộc chiến tân tiến trước khi được hiện đại hóa về võ khí và chiến lược. Đối với VN, hậu quả của cuộc chiến nặng nề hơn, về nhiều phương diện: 1) Trong vòng một năm, 1979-1980, vì lý do an ninh và cũng vì nhu cầu chiếm đóng Miên và Lào, ngân sách quốc phòng tăng rất mạnh. Lục quân vượt từ 600.000 bộ binh lên một triệu, Hải quân từ 3.000 thủy thủ lên 12.000 và Không quân từ 12.000 phi công lên 15.000. không kể ngân khoản khổng lồ để mua võ khí, tàu chiến và phi cơ. ....................... 3) Về kinh tế, hai kế hoạch ngũ niên 1976- 1980 và 1981- 1985 thất bại thê thảm. Đồng bạc phá giá 100%. Giá sinh hoạt tăng phi mã. Lợi tức đầu người dưới 300 mỹ kim năm 1984. Ngày 30.4.1984, tại phiên họp ở La mã, Chương trình Liên Hiệp quốc về Thực phẫm cắt bỏ 5,3 triệu đô la viện trợ cho VN. 2- Hậu quả quốc tế. A) Thái độ của Khối Asean: Từ 1979, chính sách của Asean có tính cách liên tục. Trong thời gian tháng 2 đến tháng 8, 1979, phần đông các nước thành viên âm thầm tán đồng cuộc hành quân của Bắc Kinh nhưng sau đó kêu gọi chính thức chấm dứt xung đột. Từ tháng 9 đến tháng 6.1982, Asean khuyến cáo VN rút quân khỏi Cam Bốt để quốc gia này tổ chức bầu cử tự do. Việc Trung quốc ngưng xô xát với VN giúp xúc tiến giải pháp. Từ tháng 6.1982 về sau, Asean vận động thành lập một liên minh chính trị do Sihanouk lãnh đạo trong khi vẫn áp lực Hà nội. Kết quả là tháng 7.1982, Hội nghị Ngoại trưởng 3 nước Đông Dương ra thông cáo đề nghị rút một phần quân Việt khỏi Cam Bốt, lập một hành lang an ninh giữa Thái và Miên và tổ chức Hội nghị Đông Á. B) Các quốc gia khác trên thế giới - Khi chiến tranh Hoa-Việt nổ lớn, Tiệp khắc, Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bulgarie, Cuba và Lào chỉ trích mạnh Bắc kinh. Nhựt và Tây Đức cắt viên trợ vì VN chiếm Cam Bốt. Ấn độ công nhận Chính phủ Heng Samrin để phản đối Trung quốc. Nam và Bắc Hàn im lặng, giữ thế trung lập. Mỹ có cảm tình với Đặng Tiểu Bình vì lo ngại Liên sô bành trướng, theo dõi tình hình và khuyên hai đối phương tự chế. +++ Ba yếu tố căn bản đã ảnh hưởng sâu đậm cuôc chiến 1979: Quyền lợi quốc gia và chiến lược - Ý thức hệ CS và Lòng ái quốc. Một số vấn đề đã khích động nhóm người lãnh đạo có trách vụ quyết định. Tuy nhiên không một ai nghĩ rằng nước Tàu thực sự bị đe dọa về mặt an ninh vào thời khoảng đó. Trung quốc và Việt Nam không đi đến chiến tranh toàn diện vì cả hai thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Tinh thần yêu nước và "mặc cảm huynh trưởng tự tôn" thúc đẩy Bắc kinh đòi hỏi đất đai, với mong ước tái lập ảnh hưởng cũ trong vùng. Tình anh em lâu đời giữa hai quốc gia láng giềng ngăn họ kéo dài một cuộc chiến đẫm máu. Bởi thế, sự đọ sức được giữ ở mức trung, may thay! Điểm khác đáng lưu ý là vai trò của lãnh đạo. Đúng thế, lãnh đạo đẻ ra chính sách. Và chính sách vẽ đường cho ngoại giao. Nhân cách Đặng Tiểu Bình chi phối cuộc khủng hoảng 1979 được mệnh danh "chiến tranh của Đặng Tiểu Bình". Đặng mưu trí, nhẫn nại, liều lĩnh và thực tiễn. Đối diện là Lê Duẩn, không có kinh nghiệm sâu sắc về nước Tàu vì ở tù ngoài Côn đảo trong giai đoạn Việt Minh kháng chiến 1940 - 1950 với sự ủng hộ duy nhất và nhiệt tình của Bắc Kinh. Một bài học quân sự thứ hai: Tháng 4.1985, Quân đội VN tảo thanh biên giới Thái - Miên, Son Sann hù dọa Hà nội rằng Trung quốc chuẩn bị một bài học khác. Mùa đông 1984- 1985, VN thành công dẹp phiến loạn Miên. Lại có tin đồn giống như thế. Tại Bắc kinh, Đặng Tiểu Bình, Lý Chấn Nhiệm và Hoàng Hoa không bỏ hẳn ý định này. Giới truyền thông Tây phương, chính giới Hoa Kỳ và Nghị sĩ Henry Jackson cũng tiên đoán bi quan. KẾT LUẬN: Trung Hoa - thành công hay thất bại - mãi mãi sẽ là mối ám ảnh của nước Việt Nam bé nhỏ. Ngược lại, Việt Nam luôn luôn là khúc xương khó nuốt của anh chàng khổng lồ phương Bắc. Đồng sàng nhưng dị mộng. Buộc phải sống chung hòa bình.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 16:10:37 GMT 9
LÂM LỄ TRINH Giữa năm 1978, xảy ra vụ "nạn kiều", hàng ngàn người Hoa đổ về cửa khẩu Hữu Nghị để sang Trung Quốc. Ngày 12-7-1978, phía Trung Quốc đột ngột đóng cửa khẩu, khiến cho số người Hoa ở đây dồn lại đến hơn 4.000, sống trong những điều kiện khó khăn, mất vệ sinh, đau ốm... Ngày 25-8-1978, các cán bộ một số cơ quan, nhân viên y tế, phụ nữ Việt Nam... đang chăm sóc cho những người Hoa đau yếu dưới sự bảo vệ của 25 chiến sĩ đồn Hữu Nghị và đại đội 6 (trung đoàn biên phòng 12), thì lúc 8h30, bọn côn đồ Trung Quốc, vũ trang bằng dao, gậy, gạch đá được sự hỗ trợ của 500 công an Trung Quốc tràn sang tấn công. Các chiến sĩ biên phòng đã kiên quyết đánh trả, quật ngã hàng chục tên xâm lược, bảo vệ người của ta. Trước tình hình căng thẳng, cấp trên điều thêm lực lượng đồn Hữu Nghị, đại đội 4B, đại đội 6 thuộc trung đoàn 12 đến tiếp viện. Bằng gậy, đá tước của địch, các chiến sĩ ta giao chiến với địch trên đồi Pò Tà Hèn và các khu vực xung quanh đồn Hữu Nghị. Tiểu đội trưởng Lê Đình Chinh thuộc đại đội 6 đã đánh gục 4 tên côn đồ, cứu được 1 chị cán bộ và 1 chiến sĩ của ta đang bị địch hành hung. Bị ném đá vào gáy, máu chảy đầm đìa nhưng anh vẫn xông lên đánh địch. Một tên Trung Quốc dùng gậy ngáng, Lê Đình Chinh vừa ngã xuống, nhiều tên đã xô lại chém bằng dao quắm.... Đến 10 giờ, địch phải cụm lại trên mỏm Pò Tà Hèn. LAM SCVA (1/1/2003 1:13:47 AM): Đến 16 giờ, sau khi được tăng cường lực lượng các đại đội của tiểu đoàn 1 (trung đoàn 12), các mũi xung kích của ta đồng loạt xông lên tiến công các chốt địch chiếm đóng trái phép. Cuộc chiến đấu giá lá cà bằng vũ khí thô sơ, tay không và võ thuật diễn ra rất ác liệt. Đến 17h25, toàn bộ bọn Trung Quốc phải tháo chạy về bên kia biên giới. Hơn 4.000 người Hoa cũng ùa theo. Chiến sĩ ta nhanh chóng dàn hàng, dùng dây thép gai, chông, mìn chuẩn bị sẵn rào chặt biên giới, không cho địch đẩy só người Hoa trở lại. Đây là một trận đánh xuất sắc của đồn Hữu Nghị và trung đoàn biên phòng 12, đã đập tan âm mưu gây hấn, lấn chiếm của địch. Liệt sĩ Lê Đình Chinh được truy tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân.
Lương Sĩ Cầm Mảnh đất ấy dường như có tiếng nói riêng. Tôi đã đến đó từ khi cửa ải biên giới đầu quốc lộ số 1 vừa mới rũ cái tên cũ Trấn Nam Quan để khoác cái tên mới Mục Nam Quan. Rồi một cái tên mới nữa : Hữu Nghị Quan, có vẻ rành mạch hơn, hiền lành hơn, chính thức dùng làm tên gọi cho cửa quan được nhiều người nhắc đến. Cũng năm ấy đồn công an nhân dân vũ trang biên phòng đầu tiên ở địa đầu đất nước ta được dựng lên. Từ sau hiệp định Geneva 1954, mỗi lần từ đồn công an vũ trang Hiền Lương đi lên đồn Hữu Nghị Quan, tôi có cảm giác rõ rệt vừa rời khỏi mảnh đất nóng bỏng không khí đấu tranh căng thẳng với Mĩ-ngụy để đến một vùng đất thanh bình, thắm đượm tình đoàn kết quốc tế keo sơn giữa 2 nước Việt Nam và Trung Quốc. Mỗi lần đến đây, tôi đều có cảm giác yên ổn, coi đó là hậu phương vững chắc đầy tin cậy. Nhất là những ngày máy bay Mĩ ném bom miền Bắc, không khí thanh bình của mảnh đất biên giới này thật trái ngược với cảnh tàn phá đang diễn ra ở các tuyến trong. tại đây hoa lê, hoa đào, hoa móng rồng vẫn nở đúng mùa. Dòng người, dòng xe chở hàng qua lại cửa khẩu tấp nập và ban đêm sáng rực ánh đèn neon. Những năm ấy tôi nhìn công việc của các chiến sĩ biên phòng ở Hữu Nghị Quan khác hẳn công việc của các chiến sĩ ở giới tuyến, hoặc ở hải đảo xa xôi. Năm 1966 tôi lên đồn biên phòng Hữu Nghị Quan, gặp 1 tổ chiến sĩ vừa đi làm công tác đối ngoại về. Họ đội mũ kê-pi, đi giày da đen bóng, dừng lại chốc lát bên "cây số 0" nói chuyện với tôi. Sau lưng họ, bức tường đá cũ kĩ và nặng nề, bóng những người đưa tiễn bên kia vẫn chưa khuất. Đồng chí chiến sĩ tiếp chuyện tôi còn trẻ, người dân tộc Tày, nói tiếng Kinh và tiếng Quan Hoả đều sõi. Anh cho biết 2 đồn biên phòng vừa trao đổi với nhau xoay quanh việc bên ta dùng điện bên kia và việc dân 2 bên qua lại trên các đường mòn biên giới. Mọi sự xem chừng dễ dàng thoả thuận với nhau. Phong thái ung dung của anh chiến sĩ trẻ khiến tôi nghĩ rằng ở đây, giá không có những cuộc tiếp xúc xã giao vụn vặt kiểu ấy, có lẽ các chiến sĩ sống buồn tẻ lắm. Tôi liên hệ ngay đến hoàn cảnh chiến đấu và công tác ác liệt, căng thẳng hết ngay sang đêm của các chiến sĩ ở đầu cầu Hiền Lương. Dạo ấy bọn cảnh sát ngụy chưa rút chạy khỏi đồn của chúng ở bờ nam cầu. Máy bay Mĩ ném bom dồn dập khu vực đầu cầu bắc nhưng ngọn quốc kì đỏ thắm vẫn hiên ngang tung bay. Các chiến sĩ ta bám vào công sự quanh trụ cờ đánh trả quyết liệt. Khói bom chưa tan, họ đã phải vội vã xuống một hố bom anò đó còn đọng nước mưa rửa ráy qua loa rồi chui vào hầm kèo, lấy bộ quần áo gấp thẳng nếp ra mặc, đi giày, đeo băng đỏ trên cánh tay, sang đấu lý với địch hoặc ra tiếp xúc với một tổ quốc tế sắp qua cầu. Với ý nghĩ so sánh như trên, tôi cho rằng công tác của các chiến sĩ ở Hữu Nghị Quan quá phẳng lặng. Tối hôm ấy, tôi trao đổi nhận xét của mình với người chiến sĩ trẻ. Nghe xong anh nói ngay : - Đồng chí nhầm rồi, chẳng phải như vậy đâu. Ở đây có những đợt sóng ngầm, người mới đến không thể thấy ngay được. Áng chừng tôi chưa hiểu ý, anh nói thêm : - Họ "hữu nghị" với mình chỉ là bề ngoài thôi. - Còn bên trong ? - Họ muốn người Việt Nam ta thừa nhận "mặt trời" mọc ở phương bắc chứ không phải phương đông. Sau một lúc trò chuyện tôi được biết ở đây đã xảy ra nhiều hiện tượng không bình thường trong quan hệ giữa 2 bên. Những cuộc thù tiếp xã giao là những giờ phút căng thẳng thần kinh. Họ mời anh xem phim "cách mạng văn hoá". Xem hay không đã là một chuyện tế nhị, tỏ thái đọ tán thành hay phản đối sao cho phù hợp với quan hệ hữu nghị giữa 2 bên đòi hỏi phải tự kiềm chế rất cao, bởi hàng ngày tiếp xúc với người Trung Quốc qua lại bên ta, các chiến sĩ đã nghe biết bao câu chuyện khủng khiếp về cách mạng văn hoá bên ấy : những cuộc đấu tố đẫm máu, những vụ hành hình hàng loạt, không khí khủng bố bao trùm làng xóm... Họ trắng trợn ép anh phải thừa nhận đủ thứ "vĩ đại", đòi gắn vào ngực anh đủ thứ huy hiệu đủ cỡ, anh cũng phải tỏ thái độ đúng mực. Có lúc, biết không lung lạc được anh, người ta nói bóng nói gió, vu cáo anh theo chủ nghĩa xét lại... tất nhiên anh phải lên tiếng nghiêm khắc phản kháng. Thì ra phía bên kia đã bộc lộ tư tưởng thù địch ngầm ngầm và hiểm độc. cho đến ngày lính Trung Quốc làm đường, trước khi kéo về nước dở đủ trò phá phách, khiêu khích thì ai cũng thấy rõ bản chất những người tự xưng là bạn chiến đấu của Việt Nam. Các chiến sĩ biên phòng Hữu Nghị Quan từ ngày đầu đã để ý những chuyến xe nhập cảnh chở quân làm đường vượt số lượng thoả thuận, cũng như những chuyến xe xuất cảnh trùm bạt kín mít, bên trong chứa đầy lâm thổ sản lấy bất hợp pháp ở Việt Nam và không làm ngơ trước những quán nước, hiệu chữa xe đạp không lấy tiền do binh lính Trung Quốc mở dọc các trục giao thông trong khu vực biên phòng. Lại còn những đội công tác lẻ gọi là tổ "dân vận" của bộ đội làm đường Trung Quốc, hàng ngày sục vào các bản lẻ trên rẻo cao... Không thể để cho chúng lộng hành, tất cả những chuyện phức tạp ấy ta phải tiến hành đấu tranh mềm dẻo, đúng nguyên tắc và rất kiên quyết. Các chiến sĩ biên phòng nhớ đinh ninh rằng tình đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị giữa 2 dân tộc Việt Nam-Trung Quốc trước sau ta vẫn giữ vẹn toàn, nhưng chân lý cách mạng và chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, tuyệt đối không một kẻ nào được xâm phạm. Một lần, tôi gặp mấy chiến sĩ xuôi đường Đồng Đăng, thỉnh thoảng họ dừng lại vun quét cái gì đó, bỏ vào sọt. Đến gần, tôi nhận ra chiếc sọt chưa đầy huy hiệu có hình người, loại to bằng miệng bát, loại bé bằng đồng xu, trong màu mè thật dễ loá mắt. Lính Trung Quốc chở sang ta hàng thùng huy hiệu, gặp ai họ cũng cho, tới đâu họ cũng phát. ở Việt Nam ta, món tặng phẩm tốt mã ấy thế mà khó tiêu thụ. Họ bèn nghĩ ra một cách, là trên đường trở về Trung Quốc, trước khi qua biên giới là cứ trút bừa hết xuống đường. Có lẽ họ tính ngày hôm sau là phiên chợ Đồng Đăng, thế nào bà con người Tày, người Nùng... đi đường cũng lượm hết. Ít nhất trẻ con cũng tranh nhau của lạ. Thế nhưng xe trước vừa rải "tặng phẩm" xong, xe sau đã lăn bánh lên. Chẳng mấy chốc cát bụi phủ lấp đi khá nhiều. Chiến sĩ ta chỉ còn dọn dẹp những đống còn nguyên bên vệ đường. Một đồng chí hạ sĩ quan tủm tỉm cười nói với tôi : - Dọn dẹp thế này mất công thật nhưng cũng là để bảo vệ chủ quyền quốc gia của ta. vả lại, nếu cứ để vương vãi thế các em nhỏ lượm về chơi đánh đáo, hoặc đem làm vật đổi cào cào, châu chấu với nhau, mình mang tiếng. Tôi nghĩ bụng : "Ai đó muốn làm người Việt Nam tin rằng mặt trời mọc ở phương bắc nhìn thấy cảnh tượng này chắc họ sẽ phải điên đầu trước trí tuệ Việt Nam". Nếu ở Hiền Lương, người chiến sĩ giới tuyến phải đối phó với kẻ thù rõ mặt thì ở đây người chiến sĩ biên phòng phải vạch được tâm địa thù địch nấp đằng sau cái gương mặt bạn bè ấy. Điều lạ là càng đánh Mĩ quyết liệt, ta càng thắng Mĩ giòn giã thì tâm địa thù địch kia càng tăng. Hồi bấy giờ, quả thật tôi không ngờ rằng hơn mười năm sau các chiến sĩ đồn Hữu Nghị Quan phải đối đầu với cuộc xâm lược ồ ạt, tàn bạo như đã xảy ra ngày 17-2-1979. Nhưng cách nhìn và cách đánh giá sự vật của người chiến sĩ biên phòng đã mở mắt cho tôi. Dạo ấy tôi kể chuyện Mĩ ném bom và bắn phá có tính chất hủy diệt ở giới tuyến Vĩnh Linh. Cuối câu chuyện, tôi cố ý nhấn mạnh đến không khí yên tĩnh ở vùng biên giới Việt-Trung, như để so sánh. Lập tức đồng chí đồn trưởng nói : - Theo tôi, việc thằng Mĩ ném bom Vĩnh Linh cực kì ác liệt và việc máy bay Mĩ tránh ném bom xuống vùng đệm cách biên giới Việt-Trung 10km đều gây cho chúng ta những hậu quả tai hại. Anh có thấy không, các tuyến đường do Trung Quốc làm giúp ta đã hoàn thành nhưng những người làm đường chưa muốn về, hẳn họ có một mưu đồ nào đó chưa bố trí xong, vì vậy mới có vẻ mặt sưng sỉa lúc về qua cửa khẩu này. Ngừng một lát, anh chỉ tay lên một mỏm núi đá cao khaỏng 300m ngay bên trái đồn biên phòng nêu lên 1 câu hỏi : "Trên ấy có 1 giàn ra-đa của Trung Quốc đang hoạt động. Giàn ra-đa kia đặt ngay trên đường biên giới 2 nước. cả ngày nó sục sạo bầu trời Việt Nam để làm gì anh có biết không ?" - Nó làm nhiệm vụ cảnh giới. Máy bay Mĩ có thể ném bom xuống đó. Anh lắc đầu : - Ra-đa của Trung Quốc luôn hướng về sân bay Kép của ta, và chính nó làm nhiệm vụ theo dõi hoạt động của không quân Việt Nam. Quả thật tôi nghe anh mà cứ ngỡ ngàng : "Có lẽ nào ?...". tôi đã quên một điều đơn giản là chân lý rất cụ thể. Về quan hệ đối ngoại, người chiến sĩ biên phòng có cách nắm bắt bản chất kẻ thù khá nhạy bén là như vậy. Cái thực tế nóng hổi ở Hữu Nghị Quan và những câu chuyện do chiến sĩ biên phòng kể lại đủ uốn nắn cách nhìn, cách nghĩ của tôi. Có nhiều điều tôi tưởng quên đi, hoặc tự nhủ mình cố quên đi, dần dần bỗng trở lại ám ảnh tâm trí, bắt tôi phải nhớ. Tôi có thói quen mỗi lần lên cây số 0 nhìn sang cửa quan bên kia, đứng lặng hồi lâu, suy tưởng về quá khứ. Nhìn bức tường thành phủ rêu dày và cái cửa quan đồ sộ sẫm màu kia, tôi tự hỏi : "Thời quân Đông Hán xâm lược nước ta đã có cửa quan này chưa ? Mã Viện kéo quân qua cửa ải này hay đi một con đường khác ?". Đứng trên đỉnh đồi Pò Rọ Bó, tiếng Nùng có nghĩa là "đồi giếng nước", dưới chân có giếng nước trong gọi là giếng Phi Khanh. Tục truyền ngày xưa Nguyễn Trãi tiễn biệt cha tại đây, tôi lại tự hỏi không biết lúc nhỏ nước mắt khóc thương cha, Nguyễn trãi đã nghĩ đến một chi Lăng 20 năm sau ? Rồi 2 chiếc lô cốt, một của Pháp xây, một của Tưởng xây trước kia nằm 2 bên đường biên giới sao nay lọt thỏm vào đất Trung Quốc ? Và 2 cột mốc 18, 19 bị Trung Quốc lấn chiếm còn nằm sờ sờ kia ? Bao việc làm của phía Trung Quốc đã làm tôi day dứt. Nghĩ đến tình hữu nghị chung thuỷ của 2 nước tôi lại tự nhủ : "Hãy cố quên đi chuyện cũ thời phong kiến xa xưa, khi cả 2 dân tộc cùng chịu cảnh nô lệ". Nhưng năm tháng qua dần, thực tế ở biên giới ngày càng tỏ rõ phía bên kia đang làm sống lại nguyên xi chuyện cũ, con đường Hữu Nghị Quan chưa hoàn thành đã lộ rõ là con đường hữu ý xâm lược. tôi cảm ơn người chiến sĩ biên phòng Hữu Nghị Quan đã sớm truyền cho tôi bài học về sự phẫn nộ chính đáng, tính kiên trì cách mạng và ý thức cảnh giác. Đối với người chiến sĩ biên phòng Hữu Nghị Quan, quá trình nhận mặt kẻ thù đi liền với quá trình đấu tranh gian khổ và phức tạp chống những hành động lấn chiếm, khiêu khích dẫn đến chiến tranh xâm lược trên quy mô lớn của chúng. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh vừa dựa dẫm vào cuộc chiến đấu chống đế quốc của nhân dân Việt Nam để gây thanh thế và vốn liếng chính trị, vừa dựa dẫm vào chính cuộc xâm lược tàn bạo của Pháp và Mĩ để thu được chiến quả thông qua việc buôn xương bán máu dân tộc khác. Việc chúng thông đồng với Mĩ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của ta là một ví dụ. Sự kiện này xảy ra năm 1974 ngoài biển Đông ăn khớp với những vụ lính Trung Quốc gây rối trên đất liền. Ngày 8-7-1974, lúc 8 giờ 15, tổ tuần tra công an vũ trang đang làm nhiệm vụ trên đoạn đường sắt ngang đồi Cò Mìn thì bị lính Trung Quốc xông đến hành hung. Trung sĩ Bế Hồng Tích bị đánh chết ngất. Bọn Trung Quốc kéo anh về bên kia biên giới rồi vu cáo chiến sĩ biên phòng Việt Nam xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc (?). Đồng bào bản Nà Pàn kéo đến đấu tranh kịch liệt, đối phương đuối lý buộc phải ký biên bản xác nhận việc binh lính của chúng hành hung gây sự. Năm 1955 lấy cớ giúp Việt Nam khôi phục đường xe lửa, bọn bành trướng đã cho đặt điểm nối ray sâu vào đất Việt Nam 326m. Đến năm 1974, nghĩa là ngót 20 năm sau, chúng trắng trợn tuyên bố điểm nối ray ở đâu là đường biên giới chạy qua đó, hòng cướp của ta một dải đất ăn đến tận chân đồn Hữu Nghị Quan. Chiến sĩ biên phòng ta quyết không để cho chúng lấn đất, dù chỉ là một tấc. Chúng giở đủ trò doạ nạt, khiêu khích, thậm chí gây đổ máu.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 16:14:32 GMT 9
Chiến tranh Trung Việt là 1 cuộc chiến tranh có nhiều bí ẩn.Đây là vết thương mà chúng ta muốn che giấu. Quy mô: Với 2 phe tham chiến là CH XHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa.Mặt khác đây cũng là cuộc chiến giữa Liên Xô và Trung Quốc.Việc VN gia nhập SEV đã làm Trung Quốc rơi vào tình cảnh Lưỡng đầu thọ địch.1978 Trung Quốc giật dây bọn Pôn Pôt thực hiện các hành động diệt chủng và xúi dục PonPốt cho quân uy hiếp biên giới phía Tây Nam nước ta.năm1978. VN cho quân đánh bọn PônPốt do Trung Quốc ủng hộ.Do đó Trung Quốc đã tấn công VN với cái cớ : "Dạy cho Việt Nam một bài học" (Lời của Đặng Tiểu Bình). Việc đánh Việt Nam nhằm 2 mục tiêu :Răn đe Việt cộng( Lúc này Lực lượng quân sự của chúng ta rất mạnh ,do chúng ta lấy được khá nhiều vũ khí của quân đội VN CH. Thử nghiệm chiến lược quân sự mới: Phòng ngự có chiều sâu (Phòng ngự ngay từ biên giới đối phương.
Quy mô :Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không. Lực lượng được huy động khoảng 600.000 binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối,và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía sau. Về phía Việt Nam, do phần lớn các quân đoàn chính quy (3 trong số 4 quân đoàn) đang chiến đấu ở Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (chủ yếu là tân binh) của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, công an vũ trang (biên phòng) và dân quân tự vệ. Lực lượng biên giới có khoảng 70.000 quân. Thời gian tiến đánh :Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc áp dụng chiến thuật biển người bất kể tổn thất tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam.Cũng trong ngày 5 tháng 3 năm 1979, do bị tổn thất nặng, không thể tiến quân tiếp tục, cộng với áp lực của Liên Xô và sự phản đối của quốc tế,18 tháng 3 năm 1979 Bắc Kinh tuyên bố hoàn thành mục tiêu chiến tranh rút quân.
Thiệt hại :(không đầy đủ,bí mật quân sự mà) Theo tuyên bố của phía Trung Quốc: quân Trung Quốc có 6.900 người chết, 14.800 người bị thương và 240 người bị bắt. Quân Việt Nam có 60.000 người chết và bị thương, 1.600 người bị bắt. Theo tuyên bố của phía Việt Nam: quân Trung Quốc có 62.500 người chết và bị thương, tổn thất 280 xe tăng, 115 khẩu pháo cối và 270 xe quân sự. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, không có số liệu về tổn thất của các lực lượng vũ trang.
Những con số thống kê 2 bên VN&TQ đều khác nhau , bên nào cũng nói là mình thắng lớn cả. Tuy nhiên chỉ nhìn vào hậu quả thực tế trước mắt thì ta nhân đựoc ngay , sau cuộc chiến 1979 : 1-VN mất Ải nam Quan , 1/2 thác Bản Dốc ở biên giới phía Bắc 2- tàu bè TQ vào sát hải phận Vn đánh bắt cá , thủy sản của ta mà nhà nước không phản đối gì, thậm chí bắn giết ngư dân ta. 3- hàng hoá Tq tràn ngập thị trường VN, kể cả hàng độc hại, phế thải không bán được cho nước khác thi đưa qua Vn đổ rác lấy tiền 4-TQ luôn ra linh, răn đe VN như bọn đầy tớ thí dụ khi thế giới kêu gọi cảnh báo về hàng độc hại TQ, 1 vài tờ báo Vn bắt đầu loan tin thì TQ gọi Đai sứ VN ở Bắc Kinh lên " huấn thị" bắt báo chí VN phải im, chỉ 1 ngày sau tất cả các báo VN im luôn cho đền hôm nay. 5-Tần Cưong ( Ngoại TrưởngTQ) cảnh cáo Vn về việc dân Viẹt Nam biểu tinhphản đối TQ,,,ngày hôm sau CA VN thẳng tay đàn áp người đi biểu tình ngay. 6- truớc Đai hội X, UVBCT TQ Giả Kính Lâm sang Hà Nôi sắp xếp nhân sự lãnh đạo đảng cs VN, hắn đã cho biết trước là cho Nguyễn Tấn Dũng lên TT, và giữ nguyên Mạnh vì ngoan ngoãn và sự việc đã xảy ra đúng như lời hắn nọi Gần 1/3 ủy viên chính trị bộ là người gốc Hoa ảnh hưởng nhất, rất nhiều đại sứ, lãnh đạo người gốc Hoa. 7-Hiên nay tất cả các quyêt định của đảng và nhà nước chỉ hoàn toàn có lợi cho TQ , từ vụ nón bảo hiểm, xe 3 bánh ,tự chế, khai thác quặng bô xit..v v..TQ hốt to,lời lớn năm 2007 cán cân mâu dich VN &TQ, 2008,VN thâm thủng 10 tỷ USD cho TQ, VN phải in thêm tiền tương đương 9 tỷ USD để đền bù vào lỗ hổng này , dẫn đến lạm phát hôm nay, vừa tồi tệ hại hơn và 2009 chắc tê hơn nữa. 8. Người TQ đên Hà Nội thủ đô VNgiết người VN như ngóe, một kỹ sư xây dựng VN bị 2 thanh thiếu niên TQ qua làm ăn lậu đụng xe sau đó dùng sức nâm chân dộng đầu xuống đất bể não chết tức tữi mà công an và dân HN đứng nhin không dám can thiệp, người TQ lừa đảo, hiếp đáp người VN ngay trên đất VN mà công an không dám làm gi cả để chận đứng.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 16:53:38 GMT 9
Chiến tranh biên giới Việt - Trung, 1979
(còn gọi là Chiến tranh biên giới phía Bắc, 1979 hay Công cuộc phòng thủ biên giới phía Bắc, 1979) là tên gọi cuộc chiến tranh của Trung QuốcViệt Nam vào năm 1979 (còn có tên gọi khác là Chiến tranh bành trướng Bắc Kinh, 1979). nhằm đánh chiếm 6 tỉnh biên giới của
Nguyên nhân Nhận thấy Việt Nam đưa quân vào Campuchia lật đổ chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ do Trung Quốc bảo trợ trong cuộc chiến tranh giữa Việt Nam và Campuchia, Trung Quốc quyết định tấn công xâm lược Việt Nam với lý do "dạy cho Việt Nam một bài học" (lời Đặng Tiểu Bình) nhưng mục đích chính là phân chia lực lượng quân đội của Việt Nam để giúp chính quyền diệt chủng Khmer Đỏ. Đồng thời, Trung Quốc muốn thử nghiệm chiến thuật quân sự phòng thủ chủ động, đưa cuộc phòng thủ biên giới vào sâu lãnh thổ đối phương. Ngoài ra, theo một số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, về mặt chiến lược, Trung Quốc thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn để thăm dò khả năng tương trợ của Liên xô, sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế SEV, và ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978), trong đó có điều khoản về tương trợ quân sự . Nếu thảo ước này được tuân thủ nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, nó sẽ là hiểm họa quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế lưỡng đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô. Kế hoạch của Trung Quốc Kế hoạch của Trung Quốc gồm ba giai đoạn.
•Giai đoạn đầu (từ 17 đến 25 tháng 2): phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam và chiếm Cao Bằng, Lào Cai, cùng hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng, cửa ngõ dẫn vào Lạng Sơn. •Giai đoạn hai (từ 26 tháng 2 đến 5 tháng 3): tấn công Lạng Sơn và khu vực bao quanh ở phía đông, Sa Pa và Phong Thổ ở phía tây bắc. •Giai đoạn cuối: bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới với Trung Quốc trước khi rút về vào ngày 16 tháng 3. Tương quan lực lượng tham chiến Để tiến công Việt Nam, Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không. Lực lượng được huy động khoảng 600.000 binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối[1] và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía sau. Tướng Hứa Thế Hữu, tư lệnh Đại Quân khu Quảng Châu chỉ huy hướng tiến công vào đông bắc Việt Nam với trọng điểm là Lạng Sơn và Cao Bằng. Tướng Dương Đắc Chí, tư lệnh Đại Quân khu Côn Minh đảm nhiệm hướng tây bắc với trọng điểm là Hoàng Liên Sơn (nay là Lào Cai). Đây là đợt huy động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ Chiến tranh Triều Tiên. Về phía Việt Nam, do phần lớn các quân đoàn chính quy (3 trong số 4 quân đoàn) đang chiến đấu ở Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (chủ yếu là tân binh) của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, công an vũ trang (biên phòng) và dân quân tự vệ. Lực lượng biên giới có khoảng 70.000 quân, sau được hai sư đoàn từ miền xuôi lên tiếp viện[2]. Quân đoàn 1 vẫn đóng quanh Hà Nội đề phòng Trung Quốc đổi ý tiến sâu vào trung châu.
Diễn biến Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc áp dụng chiến thuật biển người bất kể tổn thất tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam.
Hướng Lạng Sơn có quân đoàn 43, 54, 55. Hướng Cao Bằng có quân đoàn 41, 42, 50. Hướng Hoàng Liên Sơn có quân đoàn 13, 14. Hướng Lai Châu có quân đoàn 11. Hướng Quảng Ninh, Hà Tuyên (nay là Hà Giang) mỗi nơi cũng có từ 1-2 sư đoàn. Tất cả các hướng tấn công đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Không quân và hải quân không được sử dụng trong toàn bộ cuộc chiến.
Trong giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng.
Quân Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (thuộc tỉnh Quảng Tây) và Malypo (thuộc tỉnh Vân Nam) của Trung Quốc nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.
Ngày 19 tháng 2 năm 1979, nhóm cố vấn quân sự cao cấp của Liên Xô tới Hà Nội để gặp các tướng lĩnh chỉ huy của Việt Nam. Moskva yêu cầu Trung Quốc rút quân. Liên Xô cũng viện trợ gấp vũ khí cho Việt Nam qua cảng Hải Phòng, đồng thời dùng máy bay vận tải chuyển một số sư đoàn chính quy Việt Nam từ Campuchia về.
Trong giai đoạn sau, cả hai bên đều tăng cường thêm lực lượng và cuộc chiến tiếp tục, trong đó quyết liệt nhất là hướng Lạng Sơn. Tại đây sư đoàn bộ binh 3 Sao Vàng, một đơn vị thiện chiến của Việt Nam từng đánh Mỹ cùng một số sư đoàn khác đã tổ chức phòng thủ chu đáo. Sau nhiều trận đánh đẫm máu bất kể tổn thất, quân Trung Quốc vào được thị xã Lạng Sơn chiều ngày 4 tháng 3 năm 1979. Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Đồng thời phía Việt Nam cũng điều các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng.
Cũng trong ngày 5 tháng 3 năm 1979, do áp lực của Liên Xô và sự phản đối của quốc tế, đồng thời cũng đã chiếm được các thị xã lớn của Việt Nam ở biên giới, Bắc Kinh tuyên bố hoàn thành mục tiêu chiến tranh, chiến thắng và bắt đầu rút quân. Mặc dù chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi nhưng đến ngày 18 tháng 3 năm 1979 quân Trung Quốc đã hoàn tất rút khỏi Việt Nam.
Kết quả cuộc chiến Cuộc chiến để lại nhiều tác hại khó lường cho phía Việt Nam. Ngoài các thương vong về con người, tổn thất cụ thể về cơ sở vật chất hạ tầng ở 6 tỉnh biên giới bị phá huỷ do trận chiến, Việt Nam còn phải gánh chịu nhiều khó khăn, thiệt hại do thái độ và chính sách thù địch, vây hãm mà Trung Quốc và đồng minh của Trung Quốc gây ra trên các mặt trận quân sự, kinh tế, ngoại giao ... Thương vong Theo tuyên bố của phía Trung Quốc: quân Trung Quốc có 6.900 người chết, 14.800 người bị thương và 240 người bị bắt. Quân Việt Nam có 60.000 người chết và bị thương, 1.600 người bị bắt.
Theo tuyên bố của phía Việt Nam: quân Trung Quốc có 62.500 người chết và bị thương, tổn thất 280 xe tăng, 115 khẩu pháo cối và 270 xe quân sự. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, không có số liệu về tổn thất của các lực lượng vũ trang.
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam: 4/4 thị xã bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống.
Về lâu dài, nó mở đầu cho hơn 10 năm căng thẳng trong quan hệ và xung đột vũ trang dọc biên giới giữa hai quốc gia, buộc Việt Nam phải thường xuyên duy trì một lực lượng quân sự khổng lồ dọc biên giới, gây hậu quả xấu đến nền kinh tế. Sinh hoạt và sản xuất của người dân vùng biên giới bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Ngoài ra, nhiều cột mốc biên giới cũng bị quân Trung Quốc phá hủy, gây khó khăn cho việc hoạch định biên giới sau này.
Có những nhà quan sát phương Tây nhận định như sau:
Về mặt chiến thuật, Trung Quốc thất bại vì tuy Việt Nam chưa kịp đưa các đơn vị chủ lực ở Campuchia về tham chiến mà quân đội Trung Quốc vẫn chịu tổn thất nặng nề và phải rút quân về nước. Về mặt chiến lược, Trung Quốc đã không thất bại hoàn toàn vì đã chứng minh được mối đe dọa lưỡng đầu thọ địch từ phía quân đội Liên Xô và quân đội Việt Nam sẽ không xảy ra. Cũng có một số nhà quan sát cho rằng Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lúc bấy giờ có hai khuynh hướng, một thiên về Đặng Tiểu Bình, người muốn cải tổ quân sự trong toàn bộ chiến lược cải cách Trung Quốc, và một chống đối lại cải tổ. Tài liệu phương Tây cho rằng tai hại chiến lược to lớn nhất cho Việt Nam là cuộc chiến này đưa đến việc phe cải tổ thắng thế: Trung Quốc dồn sức hiện đại hóa các đơn vị chủ lực và đã thành công. Điều này sẽ thấy rõ sau này trong Chiến tranh biên giới Việt Trung, 1984-1988, khi Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn.
Bình thường hóa quan hệ Sau khi Liên Xô tan rã, đến năm 1992 quan hệ giữa hai nước mới được bình thường hóa.
Lãnh thổ Các cuộc chiến tranh biên giới Việt - Trung và vấn đề lãnh thổ luôn có mối liên quan mật thiết với nhau từ trong lịch sử cũng như cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 hoặc sau đó. Các quan điểm cho rằng Việt Nam đã mất lãnh thổ sau cuộc chiến tranh xâm lược bành trướng bá quyền 1979 của Trung Quốc dựa trên Công Ước Về Hoạch Ðịnh Biên Giới Giữa Việt Nam và Trung Quốc ký giữa Pháp và Nhà Thanh của Trung Hoa ký năm 1885 và ký vào ngày 26 tháng 6 năm 1887 vẫn còn hiệu lực và phù hợp với Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Quan điểm mất lãnh thổCó hai quan điểm chính [3][cần dẫn chứng] về vấn đề tranh chấp lãnh thổ Việt Nam - Trung Quốc.
Có quan điểm cho rằng Việt Nam đã mất một số lãnh thổ trong cuộc chiến này[4] như Lê Chí Quang [5] thì Việt Nam đã nhượng cho Trung Quốc 720 cây số vuông, cũng như một bộ phận người Việt ở hải ngoại thì cho rằng chính phủ Việt Nam theo chế độ cộng sản đã nhường đất cho Trung Quốc (cũng là một nước theo chế độ cộng sản) bằng Hiệp định về Biên giới trên Đất liền ngày 30/12/1999 [6][7][8][cần dẫn chứng] và cần đòi lại bằng vũ lực hoặc bằng công pháp quốc tế.[9]
Có quan điểm cho rằng[10] lý do nhường đất hoặc bán nước là do sau khi khối Liên Xô tan rã, tháng 11 năm 1991, Nguyễn Văn Linh, Ðỗ Mười, Phạm Văn Ðồng đã đi Nam Ninh gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng để nối lại quan hệ răng môi giữa hai bên đã bị gián đoạn từ năm 1975. Kể từ đó, hai bên đã có những trao đổi thân thiện hơn vì nhu cầu bảo vệ thành trì chủ nghĩa xã hội trong cơn lốc tan rã khối cộng sản. Xuyên qua những quan hệ này, Hà Nội đã coi Bắc Kinh là mẫu mực áp dụng cho những cải tổ kinh tế, xã hội để có thể kéo dài sự tồn tại và phát triển. Trong bối cảnh này, Trung Quốc một mặt giúp đỡ Cộng Sản Việt Nam duy trì quyền lực qua một số những cố vấn về cải cách kinh tế, mặt khác o ép Hà Nội phải chấp nhận những lằn ranh biên giới mà Trung Quốc đã "quản lý" từ nhiều năm qua. Tháng 2 năm 1999, khi Lê Khả Phiêu sang viếng thăm Bắc Kinh, Giang Trạch Dân đã đưa ra chủ trương "hai bên phải là láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" để khuyến dụ Hà Nội xúc tiến việc ký các hiệp định về biên giới. Thay vào đó, Bắc Kinh sẽ giúp cho Lê Khả Phiêu giữ vững quyền lực và chống chọi với Hoa Kỳ trong những quan hệ mới sau khi thương ước Mỹ - Việt được ký kết. Lê Khả Phiêu nghiễm nhiên đồng ý và ra chỉ thị cho phái đoàn đàm phán biên giới nhượng bộ để xúc tiến việc ký các hiệp ước biên giới. Ðể gia tăng sự tin tưởng cho phía Hà Nội, cuối năm 1999, Giang Trạch Dân đã viếng thăm Việt Nam trong 5 ngày và yêu cầu Lê Khả Phiêu cho xúc tiến ký kết các hiệp ước biên giới. Thay vào đó, phía Bắc Kinh đã hứa giúp cho Cộng Sản Việt Nam rất nhiều điều như phát triển khoa học kỹ thuật, hợp tác mạnh mẽ trong lãnh vực tài chánh, tiền tệ, giúp huấn luyện chuyên viên nông nghiệp, hiện đại hóa về bưu chính, viễn thông. Nhất là Bắc Kinh hứa sẵn sàng giúp đỡ việc huấn luyện cán bộ tư tưởng lý luận về xã hội chủ nghĩa mới cho cán bộ đảng Cộng sản Việt Nam. Trước sự "bảo đảm" mạnh mẽ của Trung Quốc,... và lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam đã phải đẩy nhanh đà "bán nước" bằng việc xúc tiến ký kết Hiệp định phân định biên giới mất đất.
Mặt khác, phía Việt Nam khẳng định chiều dài dọc biên giới là 1350 cây số trong khi đó thì phía Trung Quốc lại cho rằng chiều dài này chỉ có 1200 cây số, theo tin từ những nhà ngoại giao[2] ở Hà Nội là Việt Nam đã phải nhượng cho Trung Quốc hầu hết những cao điểm chiến lược mà Trung Quốc đã chiếm được trong cuộc chiến năm 1979.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:07:06 GMT 9
Ải Nam Quan Cho đến năm 1954 Người Pháp còn quản lý Ải Nam Quan.
Hồng Ðức Bản Ðồ, được thiết lập vào năm 1490 đã tả Ải Nam Quan của Đại Việt[11]Tâm Quang-Langlet trong bài "La perception des frontières dans l'Ancien Vietnam à travers quelques cartes vietnamiennes et occidentales" (tạm dịch: Quan niệm biên giới ở Việt Nam thời trước qua vài bàn đồ Việt Nam và Tây Phương) trong quyển "Les frontières du Vietnam, Histoire des frontières de la péninsule indochinoise (Các biên giới của Việt Nam, Lịch sử các biên giới trên bán đảo Ðông Dương), nhà xuất bản L'Harmattan, 1989, cho biết rằng trên bản đồ Hồng Ðức có vẽ hình một cái đồn để tượng trưng cho ải Nam Quan và có ghi chú là Ải Nam Quan nằm ở huyện Văn Uyên và tại đấy có hai đài, đài Chiêu Ðức và đài Ngưỡng Ðức.
Theo Ðại Nam Nhất Thống Chí (1882) đoạn nói về Ải Nam Quan: "Ải Nam Quan cách tỉnh thành (Lạng Sơn) 31 dặm về phía bắc, thuộc châu Văn Uyên, phía bắc giáp châu Bằng Tường tỉnh Quảng Tây nước Thanh, tức là chỗ mà người Thanh gọi Trấn Nam Quan. Cửa nầy dựng từ năm Gia Tĩnh nhà Minh, đến năm Ung Chính thứ 3 (1725) nhà Thanh, án sát tỉnh Quảng Tây là Cam Nhữ Lai tu bổ lại có tên nữa là "Ðại Nam Quan", phía đông là một dải núi đất, phía tây là một dải núi đá, đều dựa theo chân núi xây gạch làm tường, gồm 119 trượng, cửa quan đặt ở quãng giữa có biển đề "Trấn Nam Quan", dựng từ năm Ung Chính thứ 6 (1728) triều Thanh, có một cửa, có khóa, chỉ khi nào có công việc của sứ bộ mới mở. Bên trên cửa có trùng đài, biển đề 4 chữ "Trung ngoại nhất gia", dựng từ năm Tân Sửu [1781] đời Càn Long nhà Thanh. Phía bắc cửa có "Chiêu đức đài", đằng sau đài có "Ðình tham đường" (nhà giữ ngựa) của nước Thanh; phía nam có "Ngưỡng đức đài" của nước ta, bên tả bên hữu, có hai dãy hành lang, mỗi khi sứ bộ đến cửa quan thì dùng chỗ nầy làm nơi tạm nghỉ."
Năm 1774, Ðốc trấn Lạng-Sơn là Nguyễn Trọng Ðang cho tu sửa, xây lại Ải Nam Quan bằng gạch. Về việc sửa sang đài Ngưỡng Ðức, văn bia của Nguyễn Trọng Ðang ghi khắc có đoạn như sau: "... Ðài [Ngưỡng-Ðức] không biết dựng từ năm nào; hình như mới có từ khoảng niên hiệu Gia-Tĩnh nhà Minh, ngang với niên-hiệu Nguyên-Hòa, đời vua Lê Trang Tông ở nước ta. Ðài không có quán, hai bên tả hữu lợp bằng cỏ; sửa chữa qua loa, vẫn theo như cũ. Nhà Lê ta trung hưng, đời thứ 14, vua ta kỷ-nguyên thứ 41, là năm Canh tý, ngang với năm thứ 44 niên hiệu Càn-Long nhà Thanh; Ðang tôi làm chức Ðốc-trấn (Lạng-Sơn), trải qua 5 năm là năm Giáp-thìn; sửa chữa lại, xây dựng bằng gạch ngói, đài mới có vẻ hoành tráng...".
Theo "Ðịa-dư Các Tỉnh Bắc-Kỳ" của Ngô Vi-Liễn, Phạm Văn-Thư và Ðỗ Ðình-Nghiêm (Nhà in Lê Văn-Tân xuất-bản, Hà-Nội, 1926): "Cửa Nam-Quan ở ngay biên-giới Trung-quốc và Việt-Nam. Kể từ Hà-Nội lên đến tỉnh-lỵ Lạng-Sơn là 150 km; đến cây-số 152 là chợ Kỳ-Lừa; đến cây-số 158 là Tam-Lung; đến cây-số 162 là Ðồng-Ðăng; đến cây-số 167 là cửa Nam-Quan đi sang Long-Châu bên Tàu. Như vậy từ Ðồng-Ðăng lên cửa Nam-Quan có 5 km; từ Kỳ-Lừa lên Nam-Quan mất 15 km [về phía tây-nam chợ Kỳ-Lừa có động Tam-Thanh, trước động Tam-Thanh có núi Vọng Phu hay tượng nàng Tô-Thị là những danh thắng của tỉnh Lạng-Sơn] và từ tỉnh-lỵ Lạng-Sơn lên Nam-Quan là 17 km."
Theo "Ði thăm Ðất Nước" của Hoàng Ðạo-Thúy (Nhà Xuất-bản Văn-hoá, Hà-Nội, 1976), "Ðồng-Ðăng cách biên-giới Trung-quốc 4 km. Nơi đây có Hữu-Nghị Quan của Trung-quốc" và quyển "Phương Ðình Dư địa chí" của Nguyễn Văn Siêu (bản dịch của Ngô Mạnh-Nghinh, Tự-Do xuất-bản, Saigon, 1960): "Cửa hay ải Nam-Quan, đời Hậu-Lê trở về trước gọi là cửa Pha-Lũy (hay Pha-Dữ), ở về phía bắc châu Văn-Uyên, trấn Lạng-Sơn. Từ châu Bằng-Tường (tỉnh Quảng-Tây) bên Trung-quốc muốn vào nước An-Nam phải qua cửa quan này".
Qua các tài liệu sử Việt Nam trên ải Nam Quan là biên giới giữa Việt Nam và Trung Hoa. Tại cửa ải này bên phiá Trung Hoa có một cửa ải do Nhà Minh xây dựng là Trấn Nam Quan.
Ngày nay có tài liệu cho rằng đường phân giới hai nước cách Ải Nam Quan 200m và Việt Nam đã bị mất Ải Nam Quan vào tat Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau cuộc chiến 1979.
Thác Bản Giốc Lê Công Phụng, Thứ Trưởng Bộ Ngoại Giao, người trục tiếp thương lượng và ký kết hiệp ước biên giới trên đất liền cho rằng Việt Nam chỉ có 1/3 thác, nhưng nhờ thương thuyết cho nên Trung Hoa nhượng bộ, thành ra Việt Nam được ½ thác. Ông trưởng ban phân giới Lê Công Phụng cũng cho rằng các tin chung quanh vấn đề nhượng đất nhượng biển chỉ là tin đồn. Riêng vấn đề thác Bản Giốc, trả lời phái viên BBC [12] đặt câu hỏi là người ta cho rằng Việt Nam nhượng ½ thác thi ông Phụng trả lời rằng tin đó cũng chỉ là tin đồn, không xác thực vì hiện nay khu vực thác Bản Giốc chưa cắm mốc.
Ngoài ra, sau cuộc chiến 1979, Chính phủ Việt Nam liên tục tố cáo Trung Quốc bành trướng còn chiếm đóng một số điểm của Việt Nam [cần dẫn chứng] Việc tố cáo này tuỳ thuộc vào tình hình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước và hai Đảng Cộng sản.
Quan điểm không mất lãnh thổ Một quan điểm khác của chính phủ Việt Nam luôn nhắc tới tình hữu nghị[13] truyền thống giữa hai nước và hai Đảng anh em mà giải quyết vấn đề biên giới và lãnh thổ bằng thương lượng ngoại giao, từng bước giải quyết trên tinh thần hữu nghị, anh em[14]. Ngày 19 tháng 6 năm 2000, Quốc Hội Việt Nam đã công bố nghị quyết về "Hiệp Ước Biên Giới Trên Ðất Liền Giữa Việt Nam và Trung Quốc" được thông qua tại kỳ họp thứ 7, quốc hội khóa X họp từ ngày 9 tháng 5 năm đến ngày 9 tháng 6. Theo Từ Công Phụng Trưởng đoàn đàm phán biên giới "Việc có mất đất hay không là phụ thuộc vào việc cắm mốc, chỉ cắm mốc chệch đi vài trăm mét là mất nhiều đất lắm". [15] rằng Việt Nam "chỉ nhượng" 114 cây số cho Trung Hoa và "được nhượng" 113 cây số từ Trung Hoa. Và việc ký kết được một hiệp định phân định biên giới với Trung Quốc vốn là một nước bá quyền, bành trướng thâm căn cố đế là một sự cần thiết và thắng lợi.
Đến nay, năm 2007, quan hệ giữa hai Đảng được nâng lên tầm cao mới sau Đại hội Đảng cộng sản Trung Quốc lần thứ 17, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương thực hiện theo phương châm "láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai" và tinh thần 4 tốt " láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt" [16]và các vấn đề lãnh thổ bị mất bởi Trung Quốc đã không được công khai đề cập đến trên báo chí như thập niên 1980.
Việc lập lại và đóng mốc biên giới giữa hai nước: Ngày 30 tháng 12 năm 1999, Chính phủ hai nước ký Hiệp ước biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Thực hiện Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và Trung Quốc ký ngày 30 tháng 12 năm 1999, Việt Nam và Trung Quốc đã tổ chức Lễ cắm mốc quốc giới đầu tiên trên biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc vào tháng 12 năm 2001 tại cửa khẩu Móng Cái (Việt Nam) và Đông Hưng (Trung Quốc). Theo đó, hai bên phấn đấu hoàn thành việc cắm trên 1.500 mốc giới trên biên giới đất liền trong vòng ba năm, đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị và ổn định giữa hai nước, góp phần tăng cường giao lưu, hợp tác giữa các địa phưng biên giới hai nước, thúc đẩy quan hệ giữa hai nước phát triển theo khuôn khổ đã được xác định là "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai", đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định và hợp tác trong khu vực." [17]
Kết thúc Vòng XII đàm phán thường niên cấp Chính phủ về biên giới, lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc, hai bên đã thống nhất xây dựng lộ trình chung nhằm thúc đẩy và hoàn thành toàn bộ công tác phân giới cắm mốc trên biên giới đất liền vào cuối năm 2008. Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tham dự vòng đàm phán, diễn ra từ ngày 8 đến ngày 10/12 tại Hà Nội, do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao-Trưởng ban Ban biên giới Vũ Dũng dẫn đầu và đoàn đại biểu Chính phủ Trung Quốc do Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Vũ Đại Vĩ dẫn đầu.
Hai bên cũng thỏa thuận tiếp tục ưu tiên phân giới cắm mốc tại các khu vực cửa khẩu, trong quý 1/2006 thực hiện thí điểm tại một số cửa khẩu, thúc đẩy phân giới cắm mốc tại các khu vực sông suối biên giới, hỗ trợ địa phương hai bên thống nhất phương án hợp tác cùng phát triển du lịch tại khu vực Thác Bản Giốc của Việt Nam.[18]
Quan điểm lịch sử Triều đình Việt Nam quan tâm chỉ đạo vấn đề biên giới - lãnh thổ từ khoảng thế kỷ thứ 10 sau khi giành lại quyền độc lập tự chủ với chiến thắng Bạch Đằng lần thứ nhất năm 938 và ngày càng củng cố nền độc lập tự chủ cùng với biên cương của tổ quốc.
Trong các cuộc đàm phán về biên giới năm 1078 do Đào Tòng Nguyên dẫn đầu và cuộc đàm phán năm 1084 do Trạng nguyên khai khoa Lê Văn Thịnh dẫn đầu. Vua Lý Nhân Tông viết thư gửi cho vua nhà Tống đòi đất:
"Mặc dầu những đất ấy nhỏ bé nhưng vẫn khiến lòng tôi đau xót luôn luôn nghĩ đến cả trong giấc mộng." Thế kỷ 15 Vua Lê Thái Tổ đã cho khắc vào vách núi đá ở Hoà Bình:
Biên phòng hảo vị trù phương lược Xã tắc ưng tư kế cửu an Ý nói việc biên phòng cần có phương lược phòng thủ; đất nước phải lo kế lâu dài.
Năm 1473, vua Lê Thánh Tông chỉ thị cho những người đi giải quyết vấn đề biên giới với nhà Minh:
"Chớ để họ lấn dần, nếu các ngươi dám lấy một thước núi, một tấc sông tổ tiên để lại mà đút mồi cho giặc thì tội phải tru di". Luật Hồng Đức công bố năm 1483 có điều khoản 74, 88 về bảo vệ đất đai ở biên giới như sau:
"Những người bán ruộng đất ở biên cương cho người nước ngoài thì bị tội chém"; Quan phường xã biết mà không phát giác cũng bị tội" "Những người đẵn tre, chặt gỗ ở nơi quan ải thì bị xử tội đồ" (đồ là đầy đi làm khổ sai).
Quan điểm của Liên Hiệp quốc Cấm dùng vũ lực: Sau chiến tranh thế gìới thứ hai, Hiến chương Liên Hợp Quốc được thông qua năm 1945 có điều 2, khoản 4 cấm sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ của một Quốc gia.
Nghị quyết 26/25 năm 1970 [19]của Liên Hơp Quốc lại viết:
"Các quốc gia có nghĩa vụ không được dùng đe doạ hoặc dùng vũ lực để xâm phạm các đường biên giới quốc tế hiện có của một quốc gia khác hoặc như biện pháp giải quyết các tranh chấp quốc tế kể cả các tranh chấp về lãnh thổ và các vấn đề liên quan đến các biên giới của các Quốc gia". Không công nhận lãnh thổ cướp đoạt bằng vũ lực: "Mọi hành động thụ đắc lãnh thổ bằng đe doạ hoặc bằng sử dụng vũ lực không được thừa nhận là hợp pháp". Lưu trữ và công khai hóa: Các hiệp định giữa các nước thành viên về lãnh thổ, biên giới phải nộp[20] về Liên Hiệp quốc lưu trữ và công khai hóa . tài liệu từ phía TQ ( nguồn TTVNOL ) Tài liệu giải mật về cuộc chiến Hoa Việt 1979 Lâm Lễ Trinh Lý do - Quyết định - Hậu quả và những bài học tương lai
Để bao vây Trung quốc và làm suy yếu thế lực của Hoa Kỳ tại Á châu, tháng 6.1969 Leonid Brezhnev đề nghị với các quốc gia, từ Trung Đông đến Nhựt Bổn, hình thành một tổ chức an ninh chung bảo vệ hòa bình và an lạc trong khu vực. Riêng ở Đông dương, chủ đích của Nga là hất ảnh huởng Mỹ và Tàu ra khỏi bán đảo, kiểm soát vịnh Cam Ranh và các hải cảng chiến lược, hỗ trợ các đảng và thể chế mạc xít, đồng thời đặt các nước Đông dương trong vòng lệ thuộc Điện Cẩm Linh bằng cách viện trợ quân sự và kinh tế. Kế hoạch này thành công. Việt Nam là trường hợp điển hình. Sau ngày "giải phóng Sàigòn" Liên Sô tăng số cố vấn tại Lào từ 100 lên 500, giúp 500 triệu mỹ kim cho ngân sách VN tài khóa 1976 và 3 tỷ đô la cho kế hoạch ngũ niên 1976-1980 của Hà nội. Bắc Kinh, trong lúc đó, chỉ viện trợ tượng trưng 200 triệu, báo tin không cấp ngân khoản mới cho 1977 và ngày 27.9.1976, tại diễn đàn Liên Hiệp quốc, Ngoại trưởng Kiều Quán Hoa một mặt tố Nga trám khoảng trống ở Á châu và mặt khác, cảnh cáo các thành viên Đông Á đừng bao giờ "đón cọp vào ngã sau trong khi đuổi chó sói ra cửa trước". Với ước mong được thu nhập vào COMECON, Hội đồng Tài trợ Kinh tế Hỗ tương CS, Hà nội theo sát con đường Sô viết chống Tàu. Khi Đảng Lao động VN nhóm Đại hội lần thứ 4 tại Hà nội, cuối 1976, đưới sự giám sát của lý thuyết gia Mikhail A. Suslov, trưởng phái đoàn Sô viết...................... Cuối 1977, sau khi tham khảo ý kiến Trung quốc, Cam Bốt đoạn giao với VN. Đầu năm 1979, số cố vấn và chuyên viên sô viết tại VN tăng từ 5000 lên 8000. Nhiều diễn biến dồn dập xẩy ra, khiến cho Bắc kinh và Hà nội không tránh được đụng độ trực tiếp:
+ Lý do đụng độ Việt - Hoa. Tổng quát, có bốn lý do chính yếu: 1.- Liên sô xử dụng Vịnh Cam Ranh và ký Hiệp ước thân hữu với VN. Tháng 6.1978, không khí căng thẳng khi Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình báo tin hủy bỏ viện trợ cho VN, phản đối việc trục xuất 110.000 người Việt gốc Hoa và công bố Trung quốc đã giúp cho CSVN hơn 20 tỷ mỹ kim từ 1950 đến 1978. Hà nội liền tố ngược các lãnh tụ Tàu là phản động. Hai quốc gia CS Albania và Lào cũng hùa theo chỉ trích Bắc Kinh. Đồng thời, Phạm Văn Đồng lên tiếng xin bình thường hóa bang giao với Hoa Kỳ. Mười hôm sau, giới truyền thông rầm rộ tung tin Liên sô được phép lập căn cứ quân sự tại Cam Ranh và Đà nẵng. Phần thưởng của sự nhân nhượng này là Mạc Tư Khoa bựt đèn xanh cho Hà nội xúc tiến thực hiện và điều khiển "Liên bang Đông Dương". Ngày 3.11,1978, Nga và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác, trong đó điều 6 đặc biệt ghi rằng đôi bên sẽ áp dụng "các biện pháp thich nghi và hữu hiệu để bảo vệ hòa bình và an ninh" nếu một trong hai nước bị đe dọa hay tấn công. Trong dịp viếng Thái Lan, Đặng Tiểu Bình sỉ vả VN là "Cuba của phương Đông", bắt tay với đế quốc để xây mộng bá chủ và đe dọa Thái Bình Dương và Thế giới. 2.- VN chiếm đóng Cam Bốt. Tại Hội nghị Genève 1954, Chu Ân Lai thuyết phục Phạm Văn Đồng cho rút quân khỏi Cam Bốt và công bố tôn trọng chủ quyền nước này. Năm 1958, Bắc kinh và Nam Vang trao đổi sứ thần và ký Hiệp ước hữu nghị và bất xâm phạm. Tháng 11.1963, sau vụ đảo chính TT Ngô Đình Diệm, Sihanouk yêu cầu các cơ quan Mỹ rời xứ Chùa Tháp và Trung quốc cảnh cào Hoa Kỳ không được xâm nhập đồng minh nhược tiểu này. Tháng 3.1970, tướng Lon Nol lật đổ Sihanouk. Một tháng sau, các dân tộc Đông dương nhóm thượng đỉnh tại Guangzhou gồm có Bắc Việt, Pathet Lào và Khờ me Đỏ (lúc đó còn liên kết với Sihanouk). Khờ Me Đỏ nhận viện trợ của Bắc kinh và tuy không tin Hà nội, vẫn liên tục cấp nơi ẩn nấp cho các lực lượng Việt cộng mỗi khi chúng bị Quân đội VNCH đẩy lui. Vì lý do lịch sử, địa dư và chiến thuật, Cam Bốt đã từng là chư hầu của VN. Miên luôn luôn lo sợ bị nuốt trửng ngay trong những năm cộng tác thân thiện với Hà nội (1970 - 1975). Sau tháng 4.1975, Khờ Me Đỏ hoàn toàn trông cậy vào sự che chở của Trung quốc. Tháng 9.1975, Chu Ân Lai sắp xếp cho Sihanouk trở về Nam Vang "để đuổi Bắc Việt ra khỏi xứ " nhưng ê kíp Pol Pot, Ieng Sary và Khieu Samphan nhất quyết đốt giai đoạn biến Cam Bốt đầu hôm sớm mai thành một "nước xã hội chủ nghĩa vẹn toàn", bất chấp lời khuyên của Chu. Những biện pháp quá khích được đem ra thi hành gấp làm cho xứ hỗn loạn. Tháng chạp 1976, khi phái đoàn chuyên viên Tàu của Fang Yi sang giúp Miên thì đã quá chậm: quần chúng kiệt sức, thợ thuyền, công chức và trí thức bị tiêu diệt, quân đội tan rã, gần 4000 lính Miên (do Việt cộng huấn luyện năm 1976) bị tẩy trừ. Từ 1975 cho đến 1978, Chính phủ Khờ Me Đỏ đòi bộ đội Việt rời xứ nhưng các đơn vị này chỉ di tản về biên giới và tại đây, hai bên nhiều lần đụng độ đẫm máu. Cuối 1976, Đại hội 4 Đảng Lao Động nhóm để đổi tên thành Đảng CS Việt Nam và chấp thuận đề án của Lê Duẩn xúc tiến việc thiết lập Liên bang Đông Dương bằng cách thuyết phục và nếu cần, áp lực quân sự Miên và Lào gia nhập. Tháng 2.1978, Ủy ban Trung ương quyết nghị xóa chế độ Pol Pot qua 4 giai đoạn: tố cáo đường lối khát máu của Khờ Me Đỏ, tấn công Bắc kinh viện trợ Nam Vang, xúi dân Miên nổi loạn và tận dụng lá bài Sô viết. Ngày 7.1.1979, với sự đồng ý và hỗ trợ vũ khí của Mạc Tư Khoa, 100.000 quân Việt tràn ngập Cao Miên và toàn thắng sau 2 tuần lễ. Trung quốc không can thiệp, để tránh lún vào vũng lầy chiến tranh như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, Đặng Tiểu Bình cảnh cáo rằng trong tương lai, Bắc kinh sẽ "lấy những quyết định ngoài ý muốn vì hòa bình". Theo tạp chí Tàu cộng Geng Biao, 1.500 Hoa kiều bị kẹt lại ở Cam Bốt và phần đông đã gia nhập hàng ngũ Khờ Me Đỏ để chống VN. Ngày 8.1. 79, Hội đồng Nhân Dân Cách Mạng, do bù nhìn Heng Samrin cầm đầu, được Hà nội công nhận. Chính quyền Thái thận trọng đứng ngoài. Lời kêu cứu của Sihanouk với Liên Hiệp Quốc rơi vào sa mạc. Pol Pot rút vào rừng để kháng chiến. Ngày 18.2.1979, Miên và Việt ký Hiệp ước Thân hữu và Hợp tác có giá trị 25 năm, công khai hóa việc quân đội Việt chiếm đóng Cộng hòa Nhân Dân Cam Bốt và đặt chính thức xứ này dưới chiếc dù quân sự của Hà nội. Trước đó hai năm, ngày 18.7.1977, Lào và VN đã ký một Hiệp ước hữu nghị tương tợ. Liên bang Đông Dương thực hiện xong. Bằng võ lực. 3.- Tranh chấp Việt - Hoa về lãnh thổ. Từ lâu, đề tài cãi vã giữa VN và Trung quốc xoay quanh ba khu vực: a)- Một biên giới chung dài trên 797 cây số, được thực dân Pháp và Trung Hoa ấn định năm 1887 trong một Thỏa ước và bổ túc năm 1895. Cuối thập niên 70, cả Hoa và Việt khiếu nại lẫn nhau về vị trí của 300 cột trụ phân ranh. b)- Vịnh Bắc Việt, còn gọi là Beibu Gulf / Bắc Bộ Gulf hay Gulf of Tonkin. Hai Thỏa ước vừa kể không nói rõ lằn ranh thuộc phần kiểm soát của mỗi nước. Tháng 10.1977, cuộc hội nghị tại Bắc kinh không giải quyết được dứt khoát vấn đề. c)- Gây cấn nhất là chuyện dành hai nhóm quần đảo Hoàng Sa (hay Paracels/Xisha) và Trường Sa (hay Spratlies/Ninsha). Khu vực này hệ trọng cho cả Trung quốc và VN về chiến thuật và dầu khí. Hoàng Sa, Trường Sa, cùng với một số đảo lân cận khác như Pratas Reef và Macclesfield là những trạm thông thương giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương. Bởi thế Phi Luật Tân, Đài Loan, Nam Dương, Nhựt, Brunei v..v.. cũng đòi chia phần. Mỹ và Nga theo sát vấn đề. Nga nắm thế thượng phong vì kiểm soát được Vladivostok, Cam Ranh và Đà nẵng. Ngày 4.9.1958, Bắc Kinh công bố chủ quyền trên Trường Sa và Hoàng Sa. Quân đội VN đã tái chiếm được 6 đảo nhỏ. Từ 1974 cho đến 16.2.1979, theo Renmin Ribao, số ra ngày 14.5.1979 và bản ghi chép "SRV Memorandu " đề ngày 16.3.1979, có tất cả 3535 vụ xô xát Việt -Hoa tại biên giới (trong sổ sách Trung cộng) và 4333 vụ (chiếu tài liệu VN). 4.- Hà nội trục xuất Hoa kiều làm cho tình hình căng thẳng tột độ. Đa số Hoa kiều tại VN di cư từ hai tỉnh Quảng Đông va Phước kiến, sau Trận giặc Nha phiến (1840- 1842). Họ cần cù làm ăn, sống đoàn kết và không tham gia chính trị. Tại Nam Việt, trước 1975, hơn phân nửa tổng số 1.300.000 người Hoa ủng hộ Chính phủ quốc gia. Sau Tết Mậu thân 1968, từ 75 đến 80% không có thiện cảm với CS. Chỉ một số ít hoạt động cho Hà nội. Trước 1975, năm người Việt gốc Hoa được bầu vào Hạ Viện. Tại Chợ lớn, người Hoa tổ chức thành 5 bang: Quảng Đông, Phước kiến, Triều châu, Hẹ và Hakka, mỗi bang được đại diện bởi một bang trưởng chọn theo lối đầu phiếu. Họ có một Phòng Thương mãi, một bệnh viện đặt tên Chung Cheng, một số trường học và báo chí. Tháng 8.1956, Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh buộc Hoa kiều bỏ quốc tịch Tàu và nhập tịch VN nếu muốn tiếp tục hành nghề. Tháng 4.1957, thẻ lý lịch ngoại quốc bị coi như vô giá tri.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:09:03 GMT 9
Đầu 1977, Việt - Hoa căng thẳng. Chính quyền Hà nội đuổi người Tàu sống tại các tỉnh biên giới về Trung quốc. Tháng 5. 1978, trong vòng 13 hôm, con số này vượt lên đến 57.000, không kể 320.000 người bị đẩy đi vùng kinh tế mới và 50.000 bị tịch thu tài sản. Nhà Nước CHXHCN còn công bố cho phép ra đi vĩnh viển những ai mang chiếu khán Hồng kông, Đài Loan hay Pháp. Ngày 29 tháng 6, VN chính thúc gia nhập COMECON, Bắc kinh liền cúp viện trợ hoàn toàn, hồi hương 880 chuyên viên và đóng cửa Sứ quán. Hà nội ra lệnh cho Tòa Tổng lãnh sự Tàu ngưng hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh. Ba lãnh sự quán Việt ở Nam Ninh, Côn Minh và Quảng Đông củng phải rút lui. Từ tháng 9. 1978, trong Tạp chí CS và tờ Quân Đội Nhân Dân, nhà cầm quyền Việt Nam bắt đầu kêu gọi dân chúng sẵn sàng chống lại "chủ nghĩa bành trướng của nước lớn và ý đồ bá quyền của bọn Hán phong kiến." Liên hệ Việt - Hoa "môi hở răng lạnh" tan thành mây khói. Câu nói của Hồ "Việt và Hoa vừa là bạn, vừa là anh em" chua cay hơn lúc nào hết. +Đặng Tiểu Bình chuẩn bị chiến tranh. Chu Ân Lai qua đời đầu năm 1976 và Mao Trạch Đông, chín tháng sau. Nội tình Trung quốc xáo trộn vì ba sự kiện hệ trọng: 1.- chiến dịch sôi nổi chống nhóm Tứ Quái của Jiang Qing, vợ Mao, đầu não xách động Cách Mạng Văn Hóa. 2.- việc thi hành chậm trễ kế hoạch Bốn Hiện Đại Hóa do Chu đề xướng để canh tân kỹ nghệ, canh nông, quốc phòng và khoa học. 3.- sự tranh quyền ráo riết giữa Đặng Tiểu Bình và Tổng bí thơ Hoa Quốc Phong, lãnh tụ của "Phe Bất Cứ Gì" (=bất cứ gì chủ tịch Mao nói và làm đều đúng cả!). Cuối 1978, sau hai lần bị khai trừ, Đặng phục hồi quyền lực, nắm đa số trong Chính trị bộ và Ủy ban trung ương Đảng CS, giữ chức Tổng tư lệnh quân đội, thi hành chính sách của Chu và xét lại đường lối Mao ít. Đặng bắt tay nghiên cứu cách giải quyết khủng hoảng với láng giềng VN. Trung quốc cảm thấy bị đe dọa trong quyền lợi và thách đố bởi một nước đàn em hung hăng, phản bội và tự hào là nước mạnh quân sự thứ ba trên địa cầu. Theo Gs Irving Janis và Leon Mann, Đặng Tiểu Bình hành động thực tế và thận trọng qua 3 giai đoạn. Trước hết, thu thập đầy đủ dữ kiện bên ngoài (chiến lược toàn cầu của nước Tàu, chiến lược Đông dương của VN, sự nhúng tay của Liên sô, vấn đề Cam Bốt, tranh chấp biên giới, Hoa kiều tại VN, yếu tố Hoa Kỳ, dư luận thế giới) và dữ kiện bên trong như: lợi ích và các giá trị của Trung quốc, phản ứng tâm lý quần chúng trong nước, khả năng của quân đội Tàu, ảnh hưởng chiến tranh đối với mức phát triển kinh tế quốc gia..v..v.. Thứ nữa, tham khảo ý kiến và đạt được sự đồng thuận của các cơ cấu trong đảng CS: Chính trị bộ, Ủy ban Trung ương và Quân ủy Hội. Sau hết, hành động để giữ vững quyết định đến cùng. Hà nội ký Hiệp ước Hữu nghị với Liên sô và cưỡng chiếm Nam Vang là hành động khiêu khích thêm, buộc Bắc kinh phải trả đũa. Ngày 15.12.1978, Hoa Kỳ công nhận Trung Hoa. Đặng Tiểu Bình liền bay qua Hoa Thịnh Đốn hội kiến với Tổng thống Jimmy Carter, báo tin riêng sẽ tấn công VN và trấn an Mỹ rằng nhà cầm quyền nước ông biết tự chế. Ngày 1.1.1979, hai nước bang giao chính thức. Đặng cũng viếng Nhựt và một số quốc gia Đông Á để dò xét phản ứng. Tất cà đều lo ngại về ý đồ tương lai của VN, đồng minh của Mạc Tư Khoa. Trở về Bắc Kinh, Đặng điều chỉnh kế hoạch. Thay vì gởi quân qua Cam bốt giúp Khờ Me Đỏ và để tránh mang tiếng với Thế giới là "mưu đồ bành trướng", Trung quốc quyết đánh thẳng vào VN dưới hình thức "phản công tự vệ", không dùng hải lực không quân, trong một thời gian giới hạn và chỉ nhắm vào vùng biên giới. Đặng muốn dạy cho nhóm lãnh tụ tại Bắc bộ phủ "một bài học quân sự đich đáng". Mục phiêu thật của "sự trừng phạt" là gì? Tiêu hủy vài sư đoàn, căn cứ chiến lược hay chiếm một giải đất biên phòng của đối phương? Đặng không cho biết thâm ý. Dù sao, theo học giả King C. Chen, "chiến tranh trừng phạt, the Punitive War" tượng trưng cho chính sách đối ngoại của Bắc Kinh tại Á châu từ 1949. Hành quân năm 1979 chống VN được chuẩn bị chu đáo như cuộc đụng độ Hoa - Ấn năm 1962 và không hấp tấp như trường hợp Trung cộng tham chiến ở Triều tiên hay vụ Nga sô can thiệp ở Tiệp khắc và Hung Gia lợi. + Bài học quân sự 1979. Năm 1938, Mao giải thích như sau quan điểm của Lê nin về chiến tranh: "Khi chính trị mở rộng đến mức không còn tiến tới được bằng đường lối thông thường thì chiến tranh bùng nổ để san bằng các trở ngại gặp phải". Lê nin từng viết: "Chiến tranh chỉ là chính trị nối tiếp bằng những phương tiện khác". Câu này dựa vào ý kiến của Karl Von Clausewitz: "Chiến tranh không phải là hành vi đơn giản của chính sách mà là một lợi khí chính trị đích thực, một sự tiếp tục của hoạt động chính trị với phương thức khác". Cuộc chiến để sát phạt VN, dù núp dưới danh xưng phản công tự vệ, được khởi xướng đúng theo chủ trương trên đây. Các lãnh tụ Trung quốc đã cân nhắc quyết định của họ hai năm (1977-1979), với hy vọng bình thường hóa bằng võ lực mối bang giao Hoa - Việt. Muốn thành đạt, chiến tranh nhân dân cần hội một số điều kiện: đảng và quân thống nhất, quần chúng hỗ trợ, đất nước hậu tiến, vũ khí quy ước, kỹ thuật lạc hậu, ngoại xâm đe dọa và đấu tranh trường kỳ. Trước tháng 2.1979, Trung quốc có 3,600.000 quân nhân tại ngũ và 175 sư đoàn tại 11 vùng chiến thuật. Võ khí gồm có 10.000 chiến xa, 20.000 giàn phóng hỏa tiễn, 16.000 cà nông và phương tiện chuyên chở rất lạc hậu. Hải quân có 30.000 thủy thủ, 75 tiềm thủy đỉnh. Hạm đội Bắc Hải có 300 chiến hạm, Đông hải: 450 và Nam hải: 300. Lực lượng không quân có 400.000 phi công, 5000 chiến đấu cơ cũ và lỗi thời, loại Mig 15,17,19 và 80 Mig 21. Đặng Tiểu Bình là Tổng Tư lênh hành quân, với 2 phụ tá Xu Xiangqian và Nie Rongzhen, tướng Gen Biao giữ chức Tham mưu trưởng. Về phía VN, tổng quân số lên đến 600.000 phân chia 200.000 tại Cam bốt, 100.000 tại Lào, 100.000 tại Nam Việt, và 200.000 ở Bắc Việt. Xung quanh Hà nội có 5 sư đoàn và 4 lữ đoàn. Dài theo biên giới Trung hoa, VN có 150.000 dân quân tổ chức thành 6 sư đoàn địa phương và một trung đoàn. Không lực Việt có 300 chiến đấu cơ (70 Mig 19, 21 Mig 17, và một số F 5 tịch thu của Mỹ năm 1975). Hải quân Việt có 2 chiếc PETYA Sô viết với hỏa tiến chống tiềm thủy đỉnh, và 60 tàu tuần tiễu. Cuộc "hành quân sát phạt" kéo dài 16 ngày, chia thành 2 giai đoạn: 1)- Từ 17 đến 26.2.1979. Ngày 17 thàng 2, lúc 5 giờ sáng, theo chiến thuật "biển người", 100.000 Tàu, được chiến xa hỗ trợ, tràn vào Lạng Sơn, (phía Đồng Đăng), Cao Bằng, Đồng Khê, Mông Cáy, và Lào Cai sau khi pháo kích mãnh liệt. Sự tiến quân, mau lẹ lúc dầu, lần hồi bị địa phương quân Việt chận lại và bao vây. Các đơn vị chính quy VN tập trung về phía Nam Cao Bằng và Lạng Sơn để đánh tiêu hao những sư đoàn đối phương. Số tổn thương của hai bên đều nặng nhưng khó kiểm chứng. Phía Trung quốc chiếm được Lào Cai, Cao Bằng và chuẩn bị tấn công Lạng Sơn nhưng không có ý định tiến về Hà nội. Đồng thời, Bắc Kinh công bố sẽ rút quân đội "sau khi hoàn tất mục tiêu". Trong thời khoảng đó, Liên Sô đưa 7 chiến hạm tuần tiễu dài theo hải phận VN và ngày 21 tháng 2, gởi tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak vào Nam Hải. Vũ khí Nga được không vận từ Calcutta và một phái đoàn quân sự sô viết bay qua Hà nội. Mạc Tư Khoa yêu cầu Tàu rút binh. 2)- Từ 27.2 đến 5 tháng 3. Chiến cuộc tiếp diễn ở Lào Cai, Cao Bằng và Mông cáy nhưng tập trung mạnh nhất vào Lạng Sơn, cách Đèo Hữu Nghị lối 10 dặm và Hà nội 85 dặm. Với hai sư đoàn mới đến từ Đồng Đăng và Lộc Bình, Trung vất vả tấn công các ngọn đồi quanh tỉnh. Việt chống cự mãnh liệt và còn đột nhập vào ba thị trấn Guangxi, Malipo và Ninping ở bên kia biên giới. Ngày 3 tháng ba , Lạng Sơn thất thủ. Đồng Đăng và Cẩm Dương bị san bằng nhưng các đơn vị Việt tiếp tục đánh tại Lộc Bình và Mông cái. Ngày 5 tháng 3, Chính quyền Bắc Kinh một mặt công bố đã chiếm được các tỉnh lỵ Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai và 17 quận, gây thiệt hại nặng cho 4 sư đoàn Việt và mặt khác, cảnh cáo Hà nội không được cản trở sự rút lui của Quân đội Nhân dân Trung quốc. Cùng một ngày, Bắc bộ phủ tổng động viên toàn quốc. Ngày 7 tháng 3, VN xác nhận đồng ý cho đối phương rút quân "để tỏ thiện chí hòa bình". Tại Nga, Thủ tướng Kosygin và Tổng bí thơ Brezhnev cực lực lên án Trung quốc, tiếp tục cho không vận võ khí và canh chừng hải phận VN. Cuba cho biết sẵn sàng gởi quân trợ chiến Hà nội. Tại Liên Hiệp Quốc, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ, khối Asean kiến nghị đòi "các lực lượng ngoại quốc rút ra khỏi khu vực" mà không lên án Bắc Kinh. Ngày 16.3.1979, không còn đơn vị Tàu cộng nào ở VN. Theo tinh thần kiến nghị Asean thì VN tại Cam Bốt cũng phãi hồi hương quân đội chiếm đóng. Hội Đồng An ninh LHQ rốt cuộc không có ra quyết nghị nào. Một nhà ngoại giao chua chát phê bình: "Khi tranh chấp xẩy ra giữa các đại cường, Liên Hiệp Quốc biến mất!". +Thẩm lượng "bài học quân sự 1979 1.- Thiệt hại của đôi bên. Dưới đây là bản kê khai thiệt hại căn cứ vào tài liệu mỗi phía, trích từ quyển sách "China''''''''''''''''s War With Việt Nam, 1979" của Gs King G. Chen , trang 114: Trung Quốc Việt Nam Tử thương 26.000 30.000 Bị thương tích 37.000 32.000 Tù chiến tranh 260 1.638 Chiến xa, quân xa 420 185 Bích kích pháo, súng 66 200 Giàn hỏa tiễn 0 6
Hoa lẫn Việt đều tuyên bố thắng trận nhưng không xứ nào hoàn thành mục tiêu chính yếu. Trung quốc không hủy được một sư đoàn Việt nào, không chấm dứt được xung đột tại biên giới, không ép được các đơn vị Việt rút khỏi Cam Bốt và củng không thuyết phục nổi VN thay đổi chính sách đối với Hoa kiều. Tuy nhiên, Bắc Kinh đã gây ra tại Hà nội sự nghi ngờ về thực tâm của Mạc Tư Khoa can thiệp bằng võ lực để chống Trung cộng ở VN. Mặt khác, khối Asean đã lên tiếng ủng hộ Tàu trong cố gắng chận chủ nghĩa bành trướng của CS Việt tại Đông Á và, dưới khía cạnh này, gây thiệt hại cho nền kinh tế Việt không ít. Ngày 26.3.1979, Jiefangjun Bao viết trong bài xã luận: "Cuộc chiến 1979 đã làm sáng tỏ những ý kiến sai lệch về vấn đề chiến tranh và một số vấn đề khác". Không thấy báo xác định rõ vấn đề gì. Sáu tháng sau, nhân lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Cộng hòa Nhân Dân Trung quốc, Tổng trưởng Quốc Phòng Xu Xiangqian trình bày quan điểm trong tạp chí "Quân Đội": "Như chúng ta biết, trong lịch sử chiến tranh, có nhiều cuộc thất trận không vì nhân lực yếu hay võ khí kém, nhưng bởi tư tưởng quân sự lạc hậu và chỉ huy sai lầm. Một kết luận thực tế là năm 1979, tại VN, các lãnh tụ Trung Hoa vừa dạy đối phương và vừa thu thập một bài học hữu ích: Quân đội Trung Hoa không thể thắng một cuộc chiến tân tiến trước khi được hiện đại hóa về võ khí và chiến lược.
Đối với VN, hậu quả của cuộc chiến nặng nề hơn, về nhiều phương diện: 1) Trong vòng một năm, 1979-1980, vì lý do an ninh và cũng vì nhu cầu chiếm đóng Miên và Lào, ngân sách quốc phòng tăng rất mạnh. Lục quân vượt từ 600.000 bộ binh lên một triệu, Hải quân từ 3.000 thủy thủ lên 12.000 và Không quân từ 12.000 phi công lên 15.000. không kể ngân khoản khổng lồ để mua võ khí, tàu chiến và phi cơ. ....................... 3) Về kinh tế, hai kế hoạch ngũ niên 1976- 1980 và 1981- 1985 thất bại thê thảm. Đồng bạc phá giá 100%. Giá sinh hoạt tăng phi mã. Lợi tức đầu người dưới 300 mỹ kim năm 1984. Ngày 30.4.1984, tại phiên họp ở La mã, Chương trình Liên Hiệp quốc về Thực phẫm cắt bỏ 5,3 triệu đô la viện trợ cho VN.
2- Hậu quả quốc tế. A) Thái độ của Khối Asean: Từ 1979, chính sách của Asean có tính cách liên tục. Trong thời gian tháng 2 đến tháng 8, 1979, phần đông các nước thành viên âm thầm tán đồng cuộc hành quân của Bắc Kinh nhưng sau đó kêu gọi chính thức chấm dứt xung đột. Từ tháng 9 đến tháng 6.1982, Asean khuyến cáo VN rút quân khỏi Cam Bốt để quốc gia này tổ chức bầu cử tự do. Việc Trung quốc ngưng xô xát với VN giúp xúc tiến giải pháp. Từ tháng 6.1982 về sau, Asean vận động thành lập một liên minh chính trị do Sihanouk lãnh đạo trong khi vẫn áp lực Hà nội. Kết quả là tháng 7.1982, Hội nghị Ngoại trưởng 3 nước Đông Dương ra thông cáo đề nghị rút một phần quân Việt khỏi Cam Bốt, lập một hành lang an ninh giữa Thái và Miên và tổ chức Hội nghị Đông Á. B) Các quốc gia khác trên thế giới - Khi chiến tranh Hoa-Việt nổ lớn, Tiệp khắc, Hung Gia Lợi, Lỗ Ma Ni, Bulgarie, Cuba và Lào chỉ trích mạnh Bắc kinh. Nhựt và Tây Đức cắt viên trợ vì VN chiếm Cam Bốt. Ấn độ công nhận Chính phủ Heng Samrin để phản đối Trung quốc. Nam và Bắc Hàn im lặng, giữ thế trung lập. Mỹ có cảm tình với Đặng Tiểu Bình vì lo ngại Liên sô bành trướng, theo dõi tình hình và khuyên hai đối phương tự chế. +++ Ba yếu tố căn bản đã ảnh hưởng sâu đậm cuôc chiến 1979: Quyền lợi quốc gia và chiến lược - Ý thức hệ CS và Lòng ái quốc. Một số vấn đề đã khích động nhóm người lãnh đạo có trách vụ quyết định. Tuy nhiên không một ai nghĩ rằng nước Tàu thực sự bị đe dọa về mặt an ninh vào thời khoảng đó. Trung quốc và Việt Nam không đi đến chiến tranh toàn diện vì cả hai thuộc phe xã hội chủ nghĩa. Tinh thần yêu nước và "mặc cảm huynh trưởng tự tôn" thúc đẩy Bắc kinh đòi hỏi đất đai, với mong ước tái lập ảnh hưởng cũ trong vùng. Tình anh em lâu đời giữa hai quốc gia láng giềng ngăn họ kéo dài một cuộc chiến đẫm máu. Bởi thế, sự đọ sức được giữ ở mức trung, may thay! Điểm khác đáng lưu ý là vai trò của lãnh đạo. Đúng thế, lãnh đạo đẻ ra chính sách. Và chính sách vẽ đường cho ngoại giao. Nhân cách Đặng Tiểu Bình chi phối cuộc khủng hoảng 1979 được mệnh danh "chiến tranh của Đặng Tiểu Bình". Đặng mưu trí, nhẫn nại, liều lĩnh và thực tiễn. Đối diện là Lê Duẩn, không có kinh nghiệm sâu sắc về nước Tàu vì ở tù ngoài Côn đảo trong giai đoạn Việt Minh kháng chiến 1940 - 1950 với sự ủng hộ duy nhất và nhiệt tình của Bắc Kinh. Một bài học quân sự thứ hai: Tháng 4.1985, Quân đội VN tảo thanh biên giới Thái - Miên, Son Sann hù dọa Hà nội rằng Trung quốc chuẩn bị một bài học khác. Mùa đông 1984- 1985, VN thành công dẹp phiến loạn Miên. Lại có tin đồn giống như thế. Tại Bắc kinh, Đặng Tiểu Bình, Lý Chấn Nhiệm và Hoàng Hoa không bỏ hẳn ý định này. Giới truyền thông Tây phương, chính giới Hoa Kỳ và Nghị sĩ Henry Jackson cũng tiên đoán bi quan. KẾT LUẬN: Trung Hoa - thành công hay thất bại - mãi mãi sẽ là mối ám ảnh của nước Việt Nam bé nhỏ. Ngược lại, Việt Nam luôn luôn là khúc xương khó nuốt của anh chàng khổng lồ phương Bắc. Đồng sàng nhưng dị mộng. Buộc phải sống chung hòa bình. LÂM LỄ TRINH Giữa năm 1978, xảy ra vụ "nạn kiều", hàng ngàn người Hoa đổ về cửa khẩu Hữu Nghị để sang Trung Quốc. Ngày 12-7-1978, phía Trung Quốc đột ngột đóng cửa khẩu, khiến cho số người Hoa ở đây dồn lại đến hơn 4.000, sống trong những điều kiện khó khăn, mất vệ sinh, đau ốm... Ngày 25-8-1978, các cán bộ một số cơ quan, nhân viên y tế, phụ nữ Việt Nam... đang chăm sóc cho những người Hoa đau yếu dưới sự bảo vệ của 25 chiến sĩ đồn Hữu Nghị và đại đội 6 (trung đoàn biên phòng 12), thì lúc 8h30, bọn côn đồ Trung Quốc, vũ trang bằng dao, gậy, gạch đá được sự hỗ trợ của 500 công an Trung Quốc tràn sang tấn công. Các chiến sĩ biên phòng đã kiên quyết đánh trả, quật ngã hàng chục tên xâm lược, bảo vệ người của ta. Trước tình hình căng thẳng, cấp trên điều thêm lực lượng đồn Hữu Nghị, đại đội 4B, đại đội 6 thuộc trung đoàn 12 đến tiếp viện. Bằng gậy, đá tước của địch, các chiến sĩ ta giao chiến với địch trên đồi Pò Tà Hèn và các khu vực xung quanh đồn Hữu Nghị. Tiểu đội trưởng Lê Đình Chinh thuộc đại đội 6 đã đánh gục 4 tên côn đồ, cứu được 1 chị cán bộ và 1 chiến sĩ của ta đang bị địch hành hung. Bị ném đá vào gáy, máu chảy đầm đìa nhưng anh vẫn xông lên đánh địch. Một tên Trung Quốc dùng gậy ngáng, Lê Đình Chinh vừa ngã xuống, nhiều tên đã xô lại chém bằng dao quắm.... Đến 10 giờ, địch phải cụm lại trên mỏm Pò Tà Hèn. LAM SCVA (1/1/2003 1:13:47 AM): Đến 16 giờ, sau khi được tăng cường lực lượng các đại đội của tiểu đoàn 1 (trung đoàn 12), các mũi xung kích của ta đồng loạt xông lên tiến công các chốt địch chiếm đóng trái phép. Cuộc chiến đấu giá lá cà bằng vũ khí thô sơ, tay không và võ thuật diễn ra rất ác liệt. Đến 17h25, toàn bộ bọn Trung Quốc phải tháo chạy về bên kia biên giới. Hơn 4.000 người Hoa cũng ùa theo. Chiến sĩ ta nhanh chóng dàn hàng, dùng dây thép gai, chông, mìn chuẩn bị sẵn rào chặt biên giới, không cho địch đẩy só người Hoa trở lại. Đây là một trận đánh xuất sắc của đồn Hữu Nghị và trung đoàn biên phòng 12, đã đập tan âm mưu gây hấn, lấn chiếm của địch. Liệt sĩ Lê Đình Chinh được truy tặng danh hiệu Anh hùng các lực lượng vũ trang nhân dân.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:10:13 GMT 9
Lương Sĩ Cầm Mảnh đất ấy dường như có tiếng nói riêng. Tôi đã đến đó từ khi cửa ải biên giới đầu quốc lộ số 1 vừa mới rũ cái tên cũ Trấn Nam Quan để khoác cái tên mới Mục Nam Quan. Rồi một cái tên mới nữa : Hữu Nghị Quan, có vẻ rành mạch hơn, hiền lành hơn, chính thức dùng làm tên gọi cho cửa quan được nhiều người nhắc đến. Cũng năm ấy đồn công an nhân dân vũ trang biên phòng đầu tiên ở địa đầu đất nước ta được dựng lên. Từ sau hiệp định Geneva 1954, mỗi lần từ đồn công an vũ trang Hiền Lương đi lên đồn Hữu Nghị Quan, tôi có cảm giác rõ rệt vừa rời khỏi mảnh đất nóng bỏng không khí đấu tranh căng thẳng với Mĩ-ngụy để đến một vùng đất thanh bình, thắm đượm tình đoàn kết quốc tế keo sơn giữa 2 nước Việt Nam và Trung Quốc. Mỗi lần đến đây, tôi đều có cảm giác yên ổn, coi đó là hậu phương vững chắc đầy tin cậy. Nhất là những ngày máy bay Mĩ ném bom miền Bắc, không khí thanh bình của mảnh đất biên giới này thật trái ngược với cảnh tàn phá đang diễn ra ở các tuyến trong. tại đây hoa lê, hoa đào, hoa móng rồng vẫn nở đúng mùa. Dòng người, dòng xe chở hàng qua lại cửa khẩu tấp nập và ban đêm sáng rực ánh đèn neon. Những năm ấy tôi nhìn công việc của các chiến sĩ biên phòng ở Hữu Nghị Quan khác hẳn công việc của các chiến sĩ ở giới tuyến, hoặc ở hải đảo xa xôi. Năm 1966 tôi lên đồn biên phòng Hữu Nghị Quan, gặp 1 tổ chiến sĩ vừa đi làm công tác đối ngoại về. Họ đội mũ kê-pi, đi giày da đen bóng, dừng lại chốc lát bên "cây số 0" nói chuyện với tôi. Sau lưng họ, bức tường đá cũ kĩ và nặng nề, bóng những người đưa tiễn bên kia vẫn chưa khuất. Đồng chí chiến sĩ tiếp chuyện tôi còn trẻ, người dân tộc Tày, nói tiếng Kinh và tiếng Quan Hoả đều sõi. Anh cho biết 2 đồn biên phòng vừa trao đổi với nhau xoay quanh việc bên ta dùng điện bên kia và việc dân 2 bên qua lại trên các đường mòn biên giới. Mọi sự xem chừng dễ dàng thoả thuận với nhau. Phong thái ung dung của anh chiến sĩ trẻ khiến tôi nghĩ rằng ở đây, giá không có những cuộc tiếp xúc xã giao vụn vặt kiểu ấy, có lẽ các chiến sĩ sống buồn tẻ lắm. Tôi liên hệ ngay đến hoàn cảnh chiến đấu và công tác ác liệt, căng thẳng hết ngay sang đêm của các chiến sĩ ở đầu cầu Hiền Lương. Dạo ấy bọn cảnh sát ngụy chưa rút chạy khỏi đồn của chúng ở bờ nam cầu. Máy bay Mĩ ném bom dồn dập khu vực đầu cầu bắc nhưng ngọn quốc kì đỏ thắm vẫn hiên ngang tung bay. Các chiến sĩ ta bám vào công sự quanh trụ cờ đánh trả quyết liệt. Khói bom chưa tan, họ đã phải vội vã xuống một hố bom anò đó còn đọng nước mưa rửa ráy qua loa rồi chui vào hầm kèo, lấy bộ quần áo gấp thẳng nếp ra mặc, đi giày, đeo băng đỏ trên cánh tay, sang đấu lý với địch hoặc ra tiếp xúc với một tổ quốc tế sắp qua cầu. Với ý nghĩ so sánh như trên, tôi cho rằng công tác của các chiến sĩ ở Hữu Nghị Quan quá phẳng lặng. Tối hôm ấy, tôi trao đổi nhận xét của mình với người chiến sĩ trẻ. Nghe xong anh nói ngay : - Đồng chí nhầm rồi, chẳng phải như vậy đâu. Ở đây có những đợt sóng ngầm, người mới đến không thể thấy ngay được. Áng chừng tôi chưa hiểu ý, anh nói thêm : - Họ "hữu nghị" với mình chỉ là bề ngoài thôi. - Còn bên trong ? - Họ muốn người Việt Nam ta thừa nhận "mặt trời" mọc ở phương bắc chứ không phải phương đông. Sau một lúc trò chuyện tôi được biết ở đây đã xảy ra nhiều hiện tượng không bình thường trong quan hệ giữa 2 bên. Những cuộc thù tiếp xã giao là những giờ phút căng thẳng thần kinh. Họ mời anh xem phim "cách mạng văn hoá". Xem hay không đã là một chuyện tế nhị, tỏ thái đọ tán thành hay phản đối sao cho phù hợp với quan hệ hữu nghị giữa 2 bên đòi hỏi phải tự kiềm chế rất cao, bởi hàng ngày tiếp xúc với người Trung Quốc qua lại bên ta, các chiến sĩ đã nghe biết bao câu chuyện khủng khiếp về cách mạng văn hoá bên ấy : những cuộc đấu tố đẫm máu, những vụ hành hình hàng loạt, không khí khủng bố bao trùm làng xóm... Họ trắng trợn ép anh phải thừa nhận đủ thứ "vĩ đại", đòi gắn vào ngực anh đủ thứ huy hiệu đủ cỡ, anh cũng phải tỏ thái độ đúng mực. Có lúc, biết không lung lạc được anh, người ta nói bóng nói gió, vu cáo anh theo chủ nghĩa xét lại... tất nhiên anh phải lên tiếng nghiêm khắc phản kháng. Thì ra phía bên kia đã bộc lộ tư tưởng thù địch ngầm ngầm và hiểm độc. cho đến ngày lính Trung Quốc làm đường, trước khi kéo về nước dở đủ trò phá phách, khiêu khích thì ai cũng thấy rõ bản chất những người tự xưng là bạn chiến đấu của Việt Nam. Các chiến sĩ biên phòng Hữu Nghị Quan từ ngày đầu đã để ý những chuyến xe nhập cảnh chở quân làm đường vượt số lượng thoả thuận, cũng như những chuyến xe xuất cảnh trùm bạt kín mít, bên trong chứa đầy lâm thổ sản lấy bất hợp pháp ở Việt Nam và không làm ngơ trước những quán nước, hiệu chữa xe đạp không lấy tiền do binh lính Trung Quốc mở dọc các trục giao thông trong khu vực biên phòng. Lại còn những đội công tác lẻ gọi là tổ "dân vận" của bộ đội làm đường Trung Quốc, hàng ngày sục vào các bản lẻ trên rẻo cao... Không thể để cho chúng lộng hành, tất cả những chuyện phức tạp ấy ta phải tiến hành đấu tranh mềm dẻo, đúng nguyên tắc và rất kiên quyết. Các chiến sĩ biên phòng nhớ đinh ninh rằng tình đoàn kết quốc tế, tình hữu nghị giữa 2 dân tộc Việt Nam-Trung Quốc trước sau ta vẫn giữ vẹn toàn, nhưng chân lý cách mạng và chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, tuyệt đối không một kẻ nào được xâm phạm. Một lần, tôi gặp mấy chiến sĩ xuôi đường Đồng Đăng, thỉnh thoảng họ dừng lại vun quét cái gì đó, bỏ vào sọt. Đến gần, tôi nhận ra chiếc sọt chưa đầy huy hiệu có hình người, loại to bằng miệng bát, loại bé bằng đồng xu, trong màu mè thật dễ loá mắt. Lính Trung Quốc chở sang ta hàng thùng huy hiệu, gặp ai họ cũng cho, tới đâu họ cũng phát. ở Việt Nam ta, món tặng phẩm tốt mã ấy thế mà khó tiêu thụ. Họ bèn nghĩ ra một cách, là trên đường trở về Trung Quốc, trước khi qua biên giới là cứ trút bừa hết xuống đường. Có lẽ họ tính ngày hôm sau là phiên chợ Đồng Đăng, thế nào bà con người Tày, người Nùng... đi đường cũng lượm hết. Ít nhất trẻ con cũng tranh nhau của lạ. Thế nhưng xe trước vừa rải "tặng phẩm" xong, xe sau đã lăn bánh lên. Chẳng mấy chốc cát bụi phủ lấp đi khá nhiều. Chiến sĩ ta chỉ còn dọn dẹp những đống còn nguyên bên vệ đường. Một đồng chí hạ sĩ quan tủm tỉm cười nói với tôi : - Dọn dẹp thế này mất công thật nhưng cũng là để bảo vệ chủ quyền quốc gia của ta. vả lại, nếu cứ để vương vãi thế các em nhỏ lượm về chơi đánh đáo, hoặc đem làm vật đổi cào cào, châu chấu với nhau, mình mang tiếng. Tôi nghĩ bụng : "Ai đó muốn làm người Việt Nam tin rằng mặt trời mọc ở phương bắc nhìn thấy cảnh tượng này chắc họ sẽ phải điên đầu trước trí tuệ Việt Nam". Nếu ở Hiền Lương, người chiến sĩ giới tuyến phải đối phó với kẻ thù rõ mặt thì ở đây người chiến sĩ biên phòng phải vạch được tâm địa thù địch nấp đằng sau cái gương mặt bạn bè ấy. Điều lạ là càng đánh Mĩ quyết liệt, ta càng thắng Mĩ giòn giã thì tâm địa thù địch kia càng tăng. Hồi bấy giờ, quả thật tôi không ngờ rằng hơn mười năm sau các chiến sĩ đồn Hữu Nghị Quan phải đối đầu với cuộc xâm lược ồ ạt, tàn bạo như đã xảy ra ngày 17-2-1979. Nhưng cách nhìn và cách đánh giá sự vật của người chiến sĩ biên phòng đã mở mắt cho tôi. Dạo ấy tôi kể chuyện Mĩ ném bom và bắn phá có tính chất hủy diệt ở giới tuyến Vĩnh Linh. Cuối câu chuyện, tôi cố ý nhấn mạnh đến không khí yên tĩnh ở vùng biên giới Việt-Trung, như để so sánh. Lập tức đồng chí đồn trưởng nói : - Theo tôi, việc thằng Mĩ ném bom Vĩnh Linh cực kì ác liệt và việc máy bay Mĩ tránh ném bom xuống vùng đệm cách biên giới Việt-Trung 10km đều gây cho chúng ta những hậu quả tai hại. Anh có thấy không, các tuyến đường do Trung Quốc làm giúp ta đã hoàn thành nhưng những người làm đường chưa muốn về, hẳn họ có một mưu đồ nào đó chưa bố trí xong, vì vậy mới có vẻ mặt sưng sỉa lúc về qua cửa khẩu này. Ngừng một lát, anh chỉ tay lên một mỏm núi đá cao khaỏng 300m ngay bên trái đồn biên phòng nêu lên 1 câu hỏi : "Trên ấy có 1 giàn ra-đa của Trung Quốc đang hoạt động. Giàn ra-đa kia đặt ngay trên đường biên giới 2 nước. cả ngày nó sục sạo bầu trời Việt Nam để làm gì anh có biết không ?" - Nó làm nhiệm vụ cảnh giới. Máy bay Mĩ có thể ném bom xuống đó. Anh lắc đầu : - Ra-đa của Trung Quốc luôn hướng về sân bay Kép của ta, và chính nó làm nhiệm vụ theo dõi hoạt động của không quân Việt Nam. Quả thật tôi nghe anh mà cứ ngỡ ngàng : "Có lẽ nào ?...". tôi đã quên một điều đơn giản là chân lý rất cụ thể. Về quan hệ đối ngoại, người chiến sĩ biên phòng có cách nắm bắt bản chất kẻ thù khá nhạy bén là như vậy. Cái thực tế nóng hổi ở Hữu Nghị Quan và những câu chuyện do chiến sĩ biên phòng kể lại đủ uốn nắn cách nhìn, cách nghĩ của tôi. Có nhiều điều tôi tưởng quên đi, hoặc tự nhủ mình cố quên đi, dần dần bỗng trở lại ám ảnh tâm trí, bắt tôi phải nhớ. Tôi có thói quen mỗi lần lên cây số 0 nhìn sang cửa quan bên kia, đứng lặng hồi lâu, suy tưởng về quá khứ. Nhìn bức tường thành phủ rêu dày và cái cửa quan đồ sộ sẫm màu kia, tôi tự hỏi : "Thời quân Đông Hán xâm lược nước ta đã có cửa quan này chưa ? Mã Viện kéo quân qua cửa ải này hay đi một con đường khác ?". Đứng trên đỉnh đồi Pò Rọ Bó, tiếng Nùng có nghĩa là "đồi giếng nước", dưới chân có giếng nước trong gọi là giếng Phi Khanh. Tục truyền ngày xưa Nguyễn Trãi tiễn biệt cha tại đây, tôi lại tự hỏi không biết lúc nhỏ nước mắt khóc thương cha, Nguyễn trãi đã nghĩ đến một chi Lăng 20 năm sau ? Rồi 2 chiếc lô cốt, một của Pháp xây, một của Tưởng xây trước kia nằm 2 bên đường biên giới sao nay lọt thỏm vào đất Trung Quốc ? Và 2 cột mốc 18, 19 bị Trung Quốc lấn chiếm còn nằm sờ sờ kia ? Bao việc làm của phía Trung Quốc đã làm tôi day dứt. Nghĩ đến tình hữu nghị chung thuỷ của 2 nước tôi lại tự nhủ : "Hãy cố quên đi chuyện cũ thời phong kiến xa xưa, khi cả 2 dân tộc cùng chịu cảnh nô lệ". Nhưng năm tháng qua dần, thực tế ở biên giới ngày càng tỏ rõ phía bên kia đang làm sống lại nguyên xi chuyện cũ, con đường Hữu Nghị Quan chưa hoàn thành đã lộ rõ là con đường hữu ý xâm lược. tôi cảm ơn người chiến sĩ biên phòng Hữu Nghị Quan đã sớm truyền cho tôi bài học về sự phẫn nộ chính đáng, tính kiên trì cách mạng và ý thức cảnh giác. Đối với người chiến sĩ biên phòng Hữu Nghị Quan, quá trình nhận mặt kẻ thù đi liền với quá trình đấu tranh gian khổ và phức tạp chống những hành động lấn chiếm, khiêu khích dẫn đến chiến tranh xâm lược trên quy mô lớn của chúng. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng chủ nghĩa bành trướng Bắc Kinh vừa dựa dẫm vào cuộc chiến đấu chống đế quốc của nhân dân Việt Nam để gây thanh thế và vốn liếng chính trị, vừa dựa dẫm vào chính cuộc xâm lược tàn bạo của Pháp và Mĩ để thu được chiến quả thông qua việc buôn xương bán máu dân tộc khác. Việc chúng thông đồng với Mĩ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của ta là một ví dụ. Sự kiện này xảy ra năm 1974 ngoài biển Đông ăn khớp với những vụ lính Trung Quốc gây rối trên đất liền. Ngày 8-7-1974, lúc 8 giờ 15, tổ tuần tra công an vũ trang đang làm nhiệm vụ trên đoạn đường sắt ngang đồi Cò Mìn thì bị lính Trung Quốc xông đến hành hung. Trung sĩ Bế Hồng Tích bị đánh chết ngất. Bọn Trung Quốc kéo anh về bên kia biên giới rồi vu cáo chiến sĩ biên phòng Việt Nam xâm phạm lãnh thổ Trung Quốc (?). Đồng bào bản Nà Pàn kéo đến đấu tranh kịch liệt, đối phương đuối lý buộc phải ký biên bản xác nhận việc binh lính của chúng hành hung gây sự. Năm 1955 lấy cớ giúp Việt Nam khôi phục đường xe lửa, bọn bành trướng đã cho đặt điểm nối ray sâu vào đất Việt Nam 326m. Đến năm 1974, nghĩa là ngót 20 năm sau, chúng trắng trợn tuyên bố điểm nối ray ở đâu là đường biên giới chạy qua đó, hòng cướp của ta một dải đất ăn đến tận chân đồn Hữu Nghị Quan. Chiến sĩ biên phòng ta quyết không để cho chúng lấn đất, dù chỉ là một tấc. Chúng giở đủ trò doạ nạt, khiêu khích, thậm chí gây đổ máu.
Chiến tranh Trung Việt là 1 cuộc chiến tranh có nhiều bí ẩn.Đây là vết thương mà chúng ta muốn che giấu. Quy mô: Với 2 phe tham chiến là CH XHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa.Mặt khác đây cũng là cuộc chiến giữa Liên Xô và Trung Quốc.Việc VN gia nhập SEV đã làm Trung Quốc rơi vào tình cảnh Lưỡng đầu thọ địch.1978 Trung Quốc giật dây bọn Pôn Pôt thực hiện các hành động diệt chủng và xúi dục PonPốt cho quân uy hiếp biên giới phía Tây Nam nước ta.năm1978. VN cho quân đánh bọn PônPốt do Trung Quốc ủng hộ.Do đó Trung Quốc đã tấn công VN với cái cớ : "Dạy cho Việt Nam một bài học" (Lời của Đặng Tiểu Bình). Việc đánh Việt Nam nhằm 2 mục tiêu :Răn đe Việt cộng( Lúc này Lực lượng quân sự của chúng ta rất mạnh ,do chúng ta lấy được khá nhiều vũ khí của quân đội VN CH. Thử nghiệm chiến lược quân sự mới: Phòng ngự có chiều sâu (Phòng ngự ngay từ biên giới đối phương.
Quy mô :Trung Quốc sử dụng 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32 sư đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng không. Lực lượng được huy động khoảng 600.000 binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối,và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía sau. Về phía Việt Nam, do phần lớn các quân đoàn chính quy (3 trong số 4 quân đoàn) đang chiến đấu ở Campuchia nên phòng thủ ở biên giới với Trung Quốc chỉ có một số sư đoàn chủ lực quân khu (chủ yếu là tân binh) của Quân khu I và II cùng các đơn vị bộ đội địa phương tỉnh, huyện, công an vũ trang (biên phòng) và dân quân tự vệ. Lực lượng biên giới có khoảng 70.000 quân. Thời gian tiến đánh :Sáng ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân đội Trung Quốc áp dụng chiến thuật biển người bất kể tổn thất tiến công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam.Cũng trong ngày 5 tháng 3 năm 1979, do bị tổn thất nặng, không thể tiến quân tiếp tục, cộng với áp lực của Liên Xô và sự phản đối của quốc tế,18 tháng 3 năm 1979 Bắc Kinh tuyên bố hoàn thành mục tiêu chiến tranh rút quân.
Thiệt hại :(không đầy đủ,bí mật quân sự mà) Theo tuyên bố của phía Trung Quốc: quân Trung Quốc có 6.900 người chết, 14.800 người bị thương và 240 người bị bắt. Quân Việt Nam có 60.000 người chết và bị thương, 1.600 người bị bắt. Theo tuyên bố của phía Việt Nam: quân Trung Quốc có 62.500 người chết và bị thương, tổn thất 280 xe tăng, 115 khẩu pháo cối và 270 xe quân sự. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, không có số liệu về tổn thất của các lực lượng vũ trang.
Những con số thống kê 2 bên VN&TQ đều khác nhau , bên nào cũng nói là mình thắng lớn cả. Tuy nhiên chỉ nhìn vào hậu quả thực tế trước mắt thì ta nhân đựoc ngay , sau cuộc chiến 1979 : 1-VN mất Ải nam Quan , 1/2 thác Bản Dốc ở biên giới phía Bắc 2- tàu bè TQ vào sát hải phận Vn đánh bắt cá , thủy sản của ta mà nhà nước không phản đối gì, thậm chí bắn giết ngư dân ta. 3- hàng hoá Tq tràn ngập thị trường VN, kể cả hàng độc hại, phế thải không bán được cho nước khác thi đưa qua Vn đổ rác lấy tiền 4-TQ luôn ra linh, răn đe VN như bọn đầy tớ thí dụ khi thế giới kêu gọi cảnh báo về hàng độc hại TQ, 1 vài tờ báo Vn bắt đầu loan tin thì TQ gọi Đai sứ VN ở Bắc Kinh lên " huấn thị" bắt báo chí VN phải im, chỉ 1 ngày sau tất cả các báo VN im luôn cho đền hôm nay. 5-Tần Cưong ( Ngoại TrưởngTQ) cảnh cáo Vn về việc dân Viẹt Nam biểu tinhphản đối TQ,,,ngày hôm sau CA VN thẳng tay đàn áp người đi biểu tình ngay. 6- truớc Đai hội X, UVBCT TQ Giả Kính Lâm sang Hà Nôi sắp xếp nhân sự lãnh đạo đảng cs VN, hắn đã cho biết trước là cho Nguyễn Tấn Dũng lên TT, và giữ nguyên Mạnh vì ngoan ngoãn và sự việc đã xảy ra đúng như lời hắn nọi Gần 1/3 ủy viên chính trị bộ là người gốc Hoa ảnh hưởng nhất, rất nhiều đại sứ, lãnh đạo người gốc Hoa. 7-Hiên nay tất cả các quyêt định của đảng và nhà nước chỉ hoàn toàn có lợi cho TQ , từ vụ nón bảo hiểm, xe 3 bánh ,tự chế, khai thác quặng bô xit..v v..TQ hốt to,lời lớn năm 2007 cán cân mâu dich VN &TQ, 2008,VN thâm thủng 10 tỷ USD cho TQ, VN phải in thêm tiền tương đương 9 tỷ USD để đền bù vào lỗ hổng này , dẫn đến lạm phát hôm nay, vừa tồi tệ hại hơn và 2009 chắc tê hơn nữa. 8. Người TQ đên Hà Nội thủ đô VNgiết người VN như ngóe, một kỹ sư xây dựng VN bị 2 thanh thiếu niên TQ qua làm ăn lậu đụng xe sau đó dùng sức nâm chân dộng đầu xuống đất bể não chết tức tữi mà công an và dân HN đứng nhin không dám can thiệp, người TQ lừa đảo, hiếp đáp người VN ngay trên đất VN mà công an không dám làm gi cả để chận đứng.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 17:47:19 GMT 9
Hồi ký bí mật của Triệu Tử Dương và di sản của Thiên An Môn Bảo Thạch Bài đăng ngày 16/05/2009 ( nguồn RFI) Trong bản Hồi ký vừa được xuất bản tại Hoa Kỳ, cố Tổng bí thư Triệu Tử Dương xác nhận chế độ nghị viện Tây phương là giải pháp duy nhất thích hợp với Trung Quốc. Ngày 19.05.1989, ông Triệu Tử Dương đến thăm sinh viên biểu tình đòi dân chủ tại quảng trường Thiên An Môn (Ảnh : AFP) Không chỉ là văn kiện lịch sử vô cùng quan trọng và tiếng kêu vọng về từ cõi chết đòi công lý cho phong trào Thiên An Môn, hồi ký của Triệu Tử Dương còn chuyển tải đến thế hệ trẻ Trung Quốc bài học về dân chủ. Đây mới chính là ý nghĩa thực sự của di sản Thiên An Môn mà lãnh đạo Bắc Kinh đã muốn dập tắt 20 năm qua. Tính sổ với Lý Bằng và Đặng Tiểu Bình « Tôi không muốn là vị tổng bí thư đã ra lệnh cho quân đội đàn áp sinh viên …». Hồi ký bí mật của Triệu Tử Dương đã tường thuật lại các mưu đồ của ông Lý Bằng để sử dụng bạo lực trấn áp sinh viên, thay vì tìm một giải pháp hòa bình. Vào ngày 26 tháng 4 năm 1989, tức là khỏang một chục ngày trước khi quân đội huy động xe tăng và chiến xa bắn vào hàng ngàn thanh niên ở trung tâm Bắc Kinh, Lý Bằng lúc đó ở cương vị Thủ tướng đã lợi dụng cơ hội Tổng bí thư Triệu Tử Dương công du Bắc Triều Tiên để đăng tải một bài xã luận trên tờ Nhân dân Nhật báo lên án phong trào biểu tình Thiên An Môn là « chống đảng» và «chống chủ nghĩa xã hội». Theo Triệu Tử Dương, lời kết tội này đã châm ngòi lửa căm giận chính quyền nơi sinh viên và đặt chính quyền vào thế đối địch với phong trào Thiên An Môn. Ông Triệu Tử Dương cho biết, trước thủ đọan này, nếu như Lý Bằng không đổ dầu vào lửa thì tình hình sẽ bớt căng thẳng và có khả năng sinh viên và thanh niên biểu tình sẽ được thuyết phục, chấm dứt việc chiếm giữ Thiên An Môn. Hồi ký của Triệu Tử Dương mở đầu bằng những nỗ lực của vị Tổng bí thư, vào lúc đó, tháng tư, tháng năm, cho đến tháng sáu, để tìm cách ngăn chặn vụ đàn áp đẫm máu và cho thấy đường lối mềm dẻo của ông sẽ bị các đối thủ trong đảng, các phần tử cứng rắn giáo điều vin vào đó để lọai trừ ông. Đặng Tiểu Bình là người bị Triệu Tử Dương vạch mặt chỉ tên là tác giả của vụ đàn áp Thiên An Môn. Cho dù không còn là lãnh đạo số một của đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ năm 1987, nhưng Đặng Tiểu Bình vẫn giữ chức vụ chủ chốt trong guồng máy đảng với cương vị Chủ tịch Ủy ban Quân ủy Trung ương. Triệu Tử Dưong viết : « Đặng Tiểu Bình lúc nào cũng thiên về các biện pháp cứng rắn khi ứng xử với các cuộc biểu tình của sinh viên, vì ông tin chắc là biểu tình làm tổn hại sự ổn định. Ông lúc nào cũng nhấn mạnh đến chuyên chính (…). Mỗi khi ông nhắc đến ổn định là ông nhấn mạnh đến chuyên chính» . Tiết lộ khác của Hồi ký Triệu Tử Dương liên quan đến quyết định kêu gọi quân đội can thiệp chống ngừơi biểu tình. Triệu Tử Dương xác nhận không hề có việc bỏ phiếu về quyết định này trong Ủy Ban Thừơng vụ Bộ chính trị. Do đó về việc này, Hồi ký cho thấy chẳng những vụ đàn áp Thiên An Môn đã vi phạm quy định trong đảng, mà hơn nữa, nếu đưa ra bỏ phiếu, chưa chắc là đề nghị đàn áp bằng quân đội sẽ được năm thành viên Ủy ban Thường vụ Bộ chính trị thông qua. Di sản Thiên An Môn : Cải tổ kinh tế phải đi đôi với cải tổ chính trị Hồi ký của Triệu Tử Dương không chỉ tính sổ với các nhân vật bảo thủ, bản di chúc này kể lại hành trình gian khổ của một đảng viên đảng Cộng sản để đi đến sự tỉnh ngộ : Dân chủ nghị viện theo kiểu phương Tây mới là chế độ phù hợp nhất đối với Trug Quốc. Ở đây phải nhắc lại là Triệu Tử Dương đã được Đặng Tiểu Bình cất nhắc lên cương vị Tổng bí thư nhờ vào chủ trương và năng lực cải tổ guồng máy kinh tế Trung Quốc của ông Triệu Tử Dương. Trong hồi ký, Triệu Tử Dương xác nhận cho đến 1985 ông không màng đến cải tổ chính trị. Nhưng kể từ năm 1986, ông bắt đầu nhìn nhận sự cần thiết của công việc này. Đi từ sự quan sát thấy cần phải cải tổ phương cách lãnh đạo của đảng để xây dựng một chế độ pháp trị, Triệu Tử Dương dần dà thổ lộ, ông thấy tất cả các chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ mang tính dân chủ ở bề ngòai, còn thực chất ở trong là « chỉ một nhóm nắm quyền lực, thậm chí chỉ một người ». Đến đây Triệu Tử Dương thú nhận : Dân chủ nghị viện theo kiểu phương Tây, cho dù không hòan hảo, là chế độ duy nhất thích hợp với Trung Quốc. Chắc hẳn là hồi ký này sẽ còn bí mật đựơc truyền tay đến người dân trong nước, bởi vì nó lý giải vì sao 20 năm qua, Bắc Kinh lo sợ những điều bất trắc xảy ra nêu có cải tổ chính trị, vì sao 20 năm qua, di sản Thiên An Môn vẫn bị dìm vào quên lãng. Theo nhà báo Hồng Kông, Verna Yu, bài học Thiên An Môn ở đây là : « Kết hợp kinh tế thị trừơng với quyền lực chính trị không đối trọng là một giải pháp chết người. Của cải của cả xã hội bị một thiểu số ưu tú của tầng lớp có quyền và có thân thế thâu tóm, trong khi thường dân bị đưa vào chỗ phải trả giá đắt cho sự phát triển kinh tế ». Nhà báo Verna Yu đưa ra bằng chứng. Theo Ngân hàng Thế giới và số liệu của chính quyền Trung Quốc, ở tại đất nước này chưa đầy 1% dân số lại chiếm đến 60% của cải toàn quốc. ******************************** Tắt đèn nổ súngThiên An Môn -1989 Những gì xảy ra ở quảng trường Thiên An Môn cách đây 25 năm, vào những ngày này, đã bị xóa bỏ trong lịch sử, và Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đang tìm mọi cách tiêu diệt mọi ký ức về sự kiện này trong lòng người dân. Ngày 15 tháng 4 năm 1989, Hồ Diệu Bang qua đời. Sinh viên Bắc Kinh biểu tình tại quảng trường Thiên An Môn để bày tỏ lòng thương tiếc một Tổng bí thư tận tụy với cải cách nhưng bị cánh bảo thủ buộc phải từ chức. Đây là một cuộc đấu tay đôi giữa sinh viên với những nhân vật bảo thủ trong Đảng. Tượng thần Tự do dựng lên đối diện với chân dung Mao tại quảng trường. Qua tháng Năm, biểu tình đã thu hút mọi mọi tầng lớp nhân dân, và lan rộng trên 80 thành phố toàn lãnh thổ Trung Quốc. Chỉ một tháng mà tầm vóc của nó đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia. Ngày 20 tháng 5, Đảng Cộng sản Trung Quốc, bắt đầu chuyển quân đội vào Bắc Kinh, bao vây Thiên An Môn. Nhưng những người dân đã ra cản đường bảo vệ cuộc biểu tình, và giải thích cho quân nhân hiểu lý do của cuộc biểu tình chỉ là chống độc tài, tham nhũng, khuyên họ đừng có nghe lời tuyên truyền của chính ủy, đừng nổ súng vào sinh viên, nên trở về doanh trại. Không một tấc sắt trong tay, một biển người tuyệt thực, cùng với một biển lều và xe đạp trên quảng trường Thiên An Môn đã thách đố sự thống trị của đảng Cộng sản Trung Quốc, thách thức sự tồn vong của chế độ. Hầu hết báo chí phương Tây đều cùng một nhật định rằng ngày cáo chung của chính quyền Trung Quốc đã đến rất gần. Cơn hấp hối đang được tính bằng ngày. Nhưng sau đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã dùng thủ đoạn khác. Lính cơ động đã được chuyển từ những quân khu xa vào Bắc Kinh bằng xe bus ngụy trang, và tàu điện ngầm dân sự vào ban đêm để tránh tai mắt và sự ngăn cản của nhân dân. Rồi vũ khí được bí mật tuồn vào trong “Đại Lễ đường Nhân dân” (Nhà Quốc Hội). Nơi đây là điểm tập kết để triển khai cuộc thảm sát. Những người lính thề trung thành với Đặng Tiểu Bình, không hay biết gì về cuộc biểu tình, và được bảo rằng ngoài kia là những quân phiến loạn. Đúng 10:30 phút đêm ngày 3 tháng 6, chính quyền Trung Quốc cho: “Tắt đèn nổ súng”. Xe bọc thép, quân đội võ trang với lưỡi lê tuốt trần tiến vào quảng trường từ mọi hướng. Tiếp theo là xe ủi để hốt xác sinh viên đã chết hoặc còn đang hấp hối đi phi tang. Sau cùng, là đoàn xe chữa lửa xả nước rửa sạch máu trên sân. Công việc hoàn tất trước bình minh. Cuộc biểu tình đã bị dìm trong biển máu và không mang lại một cải cách chính trị nào. Nhưng hình ảnh sinh viên tay không chống lại xe bọc thép trên đại lộ Trường An đã trở thành bất tử. Điều đau đớn nhất là quân đội nhân dân lại quay nòng súng vào chính nhân dân. Các nhà viết sử thế giới mô tả những người biểu tình và kết thúc của nó là một sự kiện quan trọng nhất trong lịch sử đương đại của Trung Quốc. Năm 1989, lần đầu tiên Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa rung chuyển bởi những sinh viên tay không. Sức mạnh của nhân dân đã vùng lên đương đầu với bàn tay sắt của chính quyền. Trung Quốc hậu 1989, vội vàng tăng tốc cải tổ kinh tế, trong khi đóng sập cánh cửa chính trị. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chọn hình thức bạo lực, giết con em mình, đồng bào mình, một cách tàn nhẫn, không xót thương, để duy trì quyền lực. Hay nói một cách khác, chính quyền sinh ra từ họng súng. Nỗi sợ biểu tình bạo loạn thường trực bùng phát trong xã hội là nỗi quan tâm hàng đầu của những người lãnh đạo đất nước hậu Thiên An Môn. Cũng từ đêm này, cách đây 25 năm, thế giới bàng hoàng nhận ra Trung Quốc là mối hiểm họa cho nhân loại. June 3, 2014 Trần Hồng Tâm
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 18:44:53 GMT 9
Một số bài viết được lưu trong tài liệu mật của Trung Quốc... Vài dẫn chứng để ông Đào Duy Quát phải nhận lấy trách nhiệm sau này, nếu bọn sói Trung Nam Hải vồ lấy cái tin do đầu óc bất thường (hay là do tính toán?) của ông mà có: Một số bài viết trên báo Nhân dân Việt Nam trước đây được lưu trong tài liệu mật của Trung Quốc để làm bằng chứng rằng Việt Nam công nhận quần đảo “Tây Sa” và quần đảo “Nam Sa” là lãnh thổ Trung Quốc Dưới đây là Ba Dê trích dịch nguyên văn từ Tư liệu tuyển chọn về quan hệ Trung – Việt hiện đại, tài liệu lưu hành nội bộ của Trung Quốc. 1. “Báo Nhân dân” Việt Nam khi đưa tin tuyên bố của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã chú thích rõ quần đảo “Nam Sa” thuộc lãnh thổ Trung Quốc: “Ngày 29 tháng 5 năm 1956, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Nam Sa(quần đảo này thuộc nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, đại thể ở vào giữa Việt Nam và Philippine, gần…) [...] Tuyên bố nhấn mạnh: “đảo Thái Bình và đảo Nam Uy cũng như một số đảo nhỏ gần các đảo này gọi chung là quần đảo Nam Sa, xưa nay là một phần lãnh thổ của Trung Quốc…” [...] (Báo Nhân dân Việt Nam ngày 31 tháng 5 năm 1956) 2. Ai xâm phạm lãnh hải Trung Quốc, người đó là kẻ xâm lược “Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vừa phát biểu tuyên bố về việc qui định độ rộng của lãnh hải Trung Quốc là mười hai hải lý (bằng khoảng hơn hai mươi hai km), thích dụng với toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc bao gồm đại lục Trung Quốc và các đảo ven biển cũng như Đài Loan. [...] nhân dân Việt Nam hoàn toàn tán thành tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về lãnh hải Trung Quốc, tích cực ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Trung Quốc, yêu cầu đế quốc Mỹ không đựoc xâm phạm lãnh hải Trung Quốc[...]” (Báo Nhân dân Việt Nam ngày 7 tháng 9 năm 1958) 3. Trong một tuyên bố chính phủ Việt Nam chỉ ra quần đảo Tây Sa thuộc về Trung Quốc Báo Nhân dân Việt Nam ngày 10 tháng 5 năm 1965 đăng tuyên bố của Chính phủ Việt Nam ngày 9 tháng 5 năm 1965 khiển trách chính phủ Mỹ coi Việt Nam và vùng biển lân cận là “vùng chiến đấu” của lực lượng vũ trang Mỹ, đoạn đầu của bản tuyên bố này đã chỉ ra rằng quần đảo Tây Sa là thuộc Trung Quốc, nguyên văn như sau: “Ngày 24 tháng 4 năm 1965, Tổng thống Mỹ Johnson qui định toàn bộ Việt Nam, vùng lân cận ước một trăm dặm kéo dài từ bờ biển Việt Nam cũng như một phần vùng biển của quần đảo Tây Sa nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là “vùng chiến đấu” của lực lượng vũ trang Mỹ”. Nguồn: Tư liệu tuyển chọn về quan hệ Trung – Việt hiện đại, bản “phát hành nội bộ”, Nhà xuất bản Thời sự Trung Quốc, tháng 4 năm 1984. Phát hiện mới liên quan chủ quyền Hoàng Sa Châu bản có bút tích của vua Bảo Đại Nhà nghiên cứu Phan Thuận An ở Huế vừa phát hiện trong tủ sách gia đình một châu bản từ thời vua Bảo Đại liên quan tới chủ quyền tại Hoàng Sa. Vợ ông Phan Thuận An là người dòng dõi hoàng tộc. Hiện gia đình sống tại 31 Nguyễn Chí Thanh, thành phố Huế. Châu bản đề ngày 15 tháng 12 năm Bảo Đại thứ mười ba, tức là ngày 03/02/1939 Dương lịch, do Tổng lý Đại thần Phạm Quỳnh ký tên, "tâu lên Hoàng đế" đề nghị ban chuẩn huân chương cho một người Pháp. Ông An cho đài BBC biết người Pháp được đề nghị ban thưởng là ông Louis Fontan, cai quản lính Khố xanh trên đảo Hoàng Sa, vừa chết vì bệnh sốt ác tính hai ngày trước ngày ra châu bản. Ông cũng nói châu bản này được vua Bảo Đại phê chuẩn lập tức, và bút tích của Ngài bằng mực đỏ với chữ "Chuẩn y - BD (Bảo Đại)" vẫn còn rõ ràng trên giấy. Trước khi Tổng lý Ngự tiền Văn phòng Phạm Quỳnh thảo châu bản, ông đã nhận được thư của Khâm sứ Trung Kỳ Graffeuil viết bằng tiếng Pháp, đề nghị tâu xin Hoàng đế Bảo Đại truy tặng huân chương cho ông Fontan. Thư của khâm sứ Graffeuil ghi rõ ông Fontan là Chánh cai đội hạng nhất của đội lính Khố xanh, chết tại nhà thương Huế vì bệnh typhus (thương hàn) mà ông mắc phải trong thời gian công tác tại đảo Hoàng Sa. Theo ông Phan Thuận An, châu bản này chứng tỏ rằng trong thời gian trước Đại chiến thế giới lần hai, Việt Nam đã giữ chủ quyền trên đảo Hoàng Sa. Trước đây vài tháng, ông An cũng công bố một châu bản khác xin ban thưởng cho lính khố xanh người Việt từng đóng tại Hoàng Sa thời Bảo Đại. Các nỗ lực tìm kiếm bằng chứng công nhận chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đang được tăng cường trong thời gian gần đây. Hồi tháng Tư, Việt Nam bổ nhiệm chủ tịch Ủy ban Nhân dân huyện đảo Hoàng Sa, hành động khiến Trung Quốc phản đối. Trung Quốc đã chiếm hoàn toàn quần đảo này từ sau trận hải chiến ngày 19/01/1974 với hải quân Việt Nam Cộng hòa. Báo Tuổi Trẻ, hiện đang chạy loạt bài về trận hải chiến Hoàng Sa, đã phải tạm dừng mấy ngày không rõ vì lý do gì. Dư luận trong nước ngày càng tỏ ra quan tâm tới vấn đề chủ quyền biển đảo sau các động thái mạnh bạo của Trung Quốc tại Biển Đông.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 18:48:29 GMT 9
Hoàng Sa – tường trình 35 năm sau: 30 phút và 35 năm
.Cả ngày 17 và 18-1-1974, biển Đông dậy sóng. Phía Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào lãnh hải phía tây quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Đến nửa đêm 18-1, hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đã ra đến nơi chi viện, cùng khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4, tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16, tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5 đã có mặt ở đó chuẩn bị tình huống đối phó. Đêm ấy, bầu trời Hoàng Sa tối đen như mực, một đêm cực kỳ căng thẳng. Ông Lữ Công Bảy, người đã có mặt trong cuộc hải chiến Hoàng Sa 35 năm trước trong vai trò là thượng sĩ giám lộ trên chiến hạm HQ-4, tiếp tục thuật lại câu chuyện “Hoàng Sa – tường trình 35 năm sau” (Tuổi Trẻ ngày 8 và 9-9-2009).
Ngày N+3
Lúc 6g sáng 19-1-1974, khu trục hạm Trần Khánh Dư HQ-4 đã tiến sát đảo Quang Hòa và trung đội biệt hải được lệnh đổ bộ khẩn cấp lên đảo. Không một tàu chiến nào của Trung Quốc phát hiện được HQ-4 và tuần dương hạm Trần Bình Trọng HQ-5.
Sơ đồ các hướng tấn công trận hải chiến Hoàng Sa ngày 19-1-1974 Khi gần đến đảo, bằng ống nhòm và mắt thường từ đài chỉ huy, chúng tôi đã phát hiện doanh trại mới toanh và cột cờ có cờ Trung Quốc (trước đó hơn một tháng, HQ-4 trong một chuyến khảo sát quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam đã không phát hiện gì ngoài chai lọ trôi tấp lên bãi cát). Chúng tôi hiểu rằng quân Trung Quốc đã bí mật chiếm đảo. Hai mươi phút sau, lực lượng biệt hải đổ bộ lên đảo (mặt đông nam). Lực lượng đổ bộ cắm cờ Việt Nam lên bờ cát và hốc đá, rồi khẩn cấp tiến vào bên trong đảo.
Trong khi đó, lực lượng người nhái vẫn còn ngoài xa chưa vào được vì HQ-5 không thể vào sát bờ, gió mùa đông bắc thổi khá mạnh, các xuồng cao su bị sóng gió giật dữ dội không vào bờ được. HQ-5 phải thả tàu cứu hộ xuống để kéo các xuồng cao su vào. Từ đài chỉ huy, bộ phận quan sát chúng tôi đã phát hiện một tàu Trung Quốc đang đổ bộ một đội quân đông đảo lên phía bắc đảo, hàng trăm quân Trung Quốc ồ ạt vào đảo rất nhanh vì xuôi gió.
Thế rồi báo cáo bất lợi dồn dập gửi về đài chỉ huy tàu HQ-4. Một số đông quân Trung Quốc nấp sau các tảng đá chĩa thẳng mũi súng vào đội hình biệt hải. Trên mặt biển lúc ấy, chúng tôi thấy tuần dương hạm Lý Thường Kiệt HQ-16 và hộ tống hạm Nhật Tảo HQ-10 đang tiến về rìa tây nam đảo, theo sau là bốn tàu chiến Trung Quốc đang tiến vào đội hình của ta. Tình hình bắt đầu căng thẳng, báo hiệu một trận đụng độ sinh tử không thể nào tránh khỏi. Trong khi đó ở phía bắc đảo, những chiếc tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc tiếp tục cho đổ người ồ ạt lên đảo của ta.
Và họ nổ súng trước. Vào lúc 8g30, một loạt đạn đại liên và cối 82 bắn vào đội hình người nhái Việt Nam làm hai binh sĩ tử thương và hai bị thương. Nhưng chỉ huy phía Việt Nam không thể ra lệnh cho các tàu nổ súng vì lực lượng người nhái đang ở vị trí cực kỳ nguy hiểm.
Lệnh nổ súng
Lúc đó, sát bên tàu HQ-4 của chúng tôi đã xuất hiện hai tàu chiến Kronstadt của Trung Quốc mang số hiệu 274 và 271 sơn màu xám đen, trang bị đại bác 100 li và nhiều đại bác 37 li. Các họng súng đại bác Trung Quốc đều đang chĩa thẳng vào tàu HQ-4.
Ngay sau khi Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm toàn bộ các đảo phía tây quần đảo Hoàng Sa do VN quản lý, ngày 19-1-1974 và 14-2-1974 chính quyền Sài Gòn đã ra tuyên cáo về việc Trung Quốc “xâm lăng trắng trợn bằng quân sự” và tái khẳng định về chủ quyền của VN đối với Hoàng Sa.
Ngày 20-1-1974, ngoại trưởng chính quyền Sài Gòn cũng đã gọi điện và gửi thư cho chủ tịch Hội đồng Bảo an và tổng thư ký Liên Hiệp Quốc đề nghị những biện pháp cần thiết trước tình hình khẩn cấp về việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng sa.
Trong khi đó, ngày 26-1-1974, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN cũng đã ra tuyên bố phản đối hành động xâm chiếm Hoàng Sa của Trung Quốc và công bố lập trường “về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ” của VN.
Sau ngày miền Nam giải phóng, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam VN đã nhiều lần tuyên bố khẳng định Hoàng Sa là của VN. Và ngày 5-6-1976, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Cộng hòa miền Nam VN đã lên tiếng bác bỏ những thông tin xuyên tạc về Hoàng Sa – Trường Sa và khẳng định hai quần đảo này là thuộc chủ quyền VN, từ trước đến nay đều do người VN quản lý.
B.T.
Các tín hiệu bằng đèn hiệu được liên tục chuyển đến HQ-4. Chúng tôi nhận những tín hiệu từ tàu Trung Quốc và trình cho hạm trưởng HQ-4 Vũ Hữu San. Nghe xong một nội dung cực kỳ khiêu khích từ tàu Trung Quốc, hạm trưởng San tức thì đỏ mặt, quát tháo ầm ĩ. Quay sang chúng tôi, ông ra lệnh không nhận tín hiệu từ tàu Trung Quốc nữa.
Vào thời điểm hết sức căng thẳng này, khi trận chiến sắp nổ ra, việc thông tin liên lạc giữa lực lượng bảo vệ Hoàng Sa và Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải thường xuyên bị đứt. Tần số liên lạc bị phá rối, trên hệ thống bộ đàm chỉ nghe toàn tiếng Hoa. Đại tá Hà Văn Ngạc, lúc đó đang ở trên chiến hạm HQ-5, được giao toàn quyền hành động (lệnh khai hỏa đã được truyền đi từ Bộ tư lệnh hải quân vùng 1 duyên hải trước đó. Nhưng một hồi lâu sau, quyết định nổ súng mới được thực hiện sau cuộc điện đàm giữa đại tá Ngạc và tư lệnh hải quân vùng 1 Hồ Văn Kỳ Thoại – B.T.).
Đại tá Ngạc ra lệnh: Tất cả đại bác đều phải hướng lên đảo. Khi nhận lệnh bắn thì tất cả khai hỏa lên đảo, dọn đường lập đầu cầu để biệt hải và người nhái đổ bộ tái chiếm đảo. Đó là lệnh từ soái hạm chỉ huy HQ-5. Nhưng hạm trưởng Vũ Hữu San đã bực bội trước lệnh này. Trước khi chuẩn bị nổ súng, đại tá Hà Văn Ngạc có hỏi ý kiến từng hạm trưởng.
Đến khi hỏi ý kiến HQ-4, hạm trưởng Vũ Hữu San gằn từng tiếng trong bộ đàm: “Trình đại bàng, tôi là quân nhân, tôi chấp hành quân lệnh nhưng hiện nay nước cờ đã bị lộ, không còn yếu tố bất ngờ, muốn đổ bộ lên chiếm đảo trước mắt phải tiêu diệt lực lượng trên biển trước khi tính đến việc đổ quân, hiện nay số tàu địch gấp đôi tàu ta, quân địch đã đổ bộ từ sáng đến giờ đầy trên đảo, ta chỉ có hai trung đội thì làm sao thành công được?”. Rồi hạm trưởng San nói tiếp: “Tôi là quân nhân, tôi chấp nhận hi sinh vì Tổ quốc, nhưng…”.
Ông cúp máy và ra lệnh: “Tất cả khẩu súng nhắm thẳng vào tàu địch!”.
Quyết liệt
Đúng 10g20, bốn chiến hạm HQ-4, HQ-5, HQ-10, HQ-16 đồng loạt khai hỏa. Như đã chuẩn bị trước, hạm trưởng Vũ Hữu San ra lệnh “bắn”. Chiến hạm di chuyển với tốc độ cực nhanh, khói đen bốc lên ngùn ngụt, thân tàu rung lên bần bật vì trúng đạn, vì tiếng dội của các khẩu đại bác vừa khai hỏa.
Chiến hạm HQ-4 chạy uốn lượn như con rắn, hết sang phải lại sang trái nên đã tránh được loạt đạn đại bác của đối phương. Thế rồi các cột nước bùng lên, đạn rít xung quanh tàu vèo vèo. Một mảnh đạn phạt lủng đài chỉ huy, văng ra trúng chân trung úy Roa đang cố gắng theo dõi tàu Trung Quốc qua màn hình rađa. Thượng sĩ nhất giám lộ Ry trúng mảnh đạn nơi cánh tay trái. Hạ sĩ giám lộ Phấn, xạ thủ đại liên 30 trên nóc đài chỉ huy, bị thương nơi ngực, máu thấm đỏ cả áo. Tiếng la ơi ới của các anh em bị thương vọng lên đài chỉ huy.
Tuy nhiên, chiến hạm HQ-4 vẫn vững vàng trong cuộc hải chiến. Đài quan sát trên nóc báo cáo có tàu Trung Quốc đang đuổi theo. Tôi nhìn ra phía sau vừa thấy hai tàu chiến Trung Quốc. Liền lúc đó từ mạn phải HQ-5 cắt đuôi HQ-4 rồi phóng thẳng vào hai tàu đối phương. Những khối cầu lửa từ mũi HQ-5 bắn ra (đại bác 127 li) bay thẳng vào tàu Trung Quốc. Một chiếc trúng đạn bốc cháy, một chiếc quay ngang và sau đó lãnh đủ hàng loạt đạn từ HQ-4.
Nhưng ngay lúc đó, thông tin từ HQ-5 cho biết ụ tháp đại bác 127 li của tàu này đã bị trúng đạn, ba quân nhân tử thương, hai bị thương nặng. HQ-4 vòng lại yểm trợ HQ-5. Không thấy tàu HQ-16 và HQ-10 đâu cả. Liên lạc mãi với hai tàu này vẫn không được.
Thật ra lúc ấy tàu HQ-10 đã bị thương nặng. Tàu này nhỏ, cũ kỹ, các khẩu đại bác xoay trở bằng tay nên bị trúng liền hai quả 100 li từ tàu Trung Quốc. Trong bộ đàm tôi đã nghe tiếng bạn tôi, trung sĩ nhất giám lộ Vương Thương, báo cáo: HQ-10 đã bị trúng đạn, hạm trưởng Ngụy Văn Thà tử thương, hạm phó Thành Trí trọng thương ngay bụng. Hầu hết sĩ quan, hạ sĩ quan và thủy thủ trên đài chỉ huy đều bị tử thương và bị thương rất nặng.
HQ-4 và HQ-5 quay đầu về hướng nam. Sau đó một giờ không còn thấy HQ-5 ở đâu. HQ-5 do máy yếu và một máy bị sự cố chưa kịp khắc phục nên “rớt” lại đâu đó. Trên biển HQ-4 trở nên lẻ loi một mình. Đó cũng là lúc hải quân Trung Quốc tung xuống một lực lượng rất mạnh từ đảo Phú Lâm gần đó và từ căn cứ ở đảo Hải Nam. Trước tình hình đó, để bảo toàn lực lượng, hạm trưởng Vũ Hữu San đã vẽ một đường trực chỉ về Đà Nẵng.
Lúc này tôi mới rời được đài chỉ huy. Trên đường xuống nơi nghỉ ngơi, tôi đã chứng kiến một cảnh tượng kinh khủng sau chiến trận. Hành lang dưới tàu tanh đến ngộp thở: mùi máu, mùi cồn, bông băng… Hơn 130 binh sĩ bám chặt vị trí chiến đấu giờ đều mệt lả, nằm đâu ngủ đó. Họ chỉ cầm hơi bằng mì gói, nước ngọt và lương khô. Các binh sĩ biệt hải kiệt sức nằm rải rác trên hành lang phòng ăn.
Nỗi đau còn lại
Khoảng 16g30, tôi đang trong giấc ngủ sâu vì đã mấy hôm không chợp mắt thì còi tập họp vang lên. Tất cả thủy thủ đoàn tập họp đầy đủ nghe thông báo: “Tất cả chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, tàu được lệnh quay lại Hoàng Sa. Nếu cần sẽ ủi thẳng lên bờ đảo Hoàng Sa, chiến đấu đến cùng để giữ đảo”. Nhìn sau lái tàu, tôi biết tàu đang quay lại và hướng thẳng về Hoàng Sa. Tất cả đều bất động, không ai nói với ai một lời nào trước giờ phút cảm tử này.
Tôi vào phòng hải đồ phía sau đài chỉ huy mệt lả và thiếp đi, đến khi thức dậy trời tối hẳn, trung sĩ nhất giám lộ Khiết cho biết tàu đang quay đầu về Đà Nẵng. Anh nói hạm trưởng San báo cáo thẳng với tư lệnh hải quân là HQ-4 không còn khả năng chiến đấu, lương thực cạn, cơ số đạn không còn đủ để tác chiến, các khẩu đại bác đều có trục trặc… Lệnh từ đất liền: các tàu quay về, hủy bỏ lệnh tấn công tái chiếm Hoàng Sa.
5g30 sáng 20-1 HQ-4 về đến cảng Tiên Sa, 9g tàu HQ-5 tiến vào vịnh Đà Nẵng. Lúc 12g30, tàu HQ-16 bị thương nặng, từ từ tiến vào vịnh với sự trợ giúp của hai tàu lai dắt biển.
Theo các nhân chứng trên tàu Nhật Tảo HQ-10 còn sống sót, khi hộ tống hạm này sắp chìm, 28 thủy thủ đã được lệnh đào thoát bằng các phao bè. Họ đã trôi giạt trong sóng gió 78 giờ liền, và sáu người đã chết trên biển vì kiệt sức hoặc bị thương quá nặng, trong đó có hạm phó Nguyễn Thành Trí. Mãi đến chiều 22-1 họ mới được tàu dầu của Hãng Shell là Kopionella mang quốc kỳ Hà Lan cứu vớt. Lúc lên tàu, thêm một thủy thủ nữa qua đời vì kiệt sức.
B.T.
Tối hôm đó, 20-1-1974, cũng là đêm 30 tết âm lịch, anh em chúng tôi được dự buổi liên hoan tất niên cuối năm theo truyền thống. Giữa mâm cao cỗ đầy nhưng ai nấy đều buồn bã, không thiết gì đến ăn uống. Mọi người vẫn hết sức lo lắng cho số phận đồng đội đang trôi giạt trên sóng biển giữa ngày tết thế này, lo lắng cho số phận anh em mắc kẹt lại các đảo. Ai cũng hồi tưởng trận hải chiến hôm qua và đau đớn trước một điều: dù đã cố gắng hết sức vẫn không giữ được mảnh đất thiêng liêng mà tổ tiên để lại.
Trận hải chiến Hoàng Sa chỉ kéo dài hơn 30 phút, nhưng nỗi đau ấy vẫn làm quặn thắt trái tim chúng tôi dù 35 năm đã trôi qua.
Lữ Công Bảy
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 11, 2010 6:15:12 GMT 9
Trung quốc, Hoa kỳ và kinh tế thế giới
Nguyễn Trường QUAN HỆ KINH TẾ ĐAN XEN Một trong những nguyên nhân đưa đến tình trạng căng thẳng trong các quan hệ quốc tế gần đây, đặc biệt giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc (TQ) là hối suất đồng nhân dân tệ (renminbi - RMB). Được duy trì ở một mức thấp và cố định đối với đồng USD, hối suất đồng RMB đã gây trở ngại không ít cho quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu. Lãnh đạo một số quốc gia trên thế giới đã lên tiếng chỉ trích TQ nhào nặn hối suất đồng RMB. Từ năm 2003, TQ luôn bán đồng RMB và mua các ngoại tệ, đặc biệt là đồng USD, với mục đích hạ thấp giá trị đồng RMB nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu. Vào thời điểm đó, TQ đã gặt hái được 10 tỉ USD thặng dư mỗi tháng, và cân thương mãi hữu hình đã tích lũy một số thặng dư 46 tỉ. Ngày nay, số thặng dư hàng tháng đã lên đến 30 tỉ và tổng số ngoại tệ dự trữ cũng đã trên dưới 2,400 tỉ USD. Theo Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), chương mục vãng lai của TQ sẽ thặng dư trên 450 tỉ riêng trong năm 2010 - gấp 10 lần con số năm 2003. Đây là chính sách hối suất bất cân xứng nhất một siêu cường đã và đang theo đuổi. Đã hẳn, chính sách kinh tế vừa nói của TQ đã gây tai hại nghiêm trọng cho phần còn lại của thế giới. Hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới hiện đang kẹt trong tình trạng thiếu thanh khoản và suy thoái trầm trọng, nhưng không thể hồi phục qua biện pháp cắt giảm lãi suất vì lãi suất hiện cũng đã xuống gần số không. Qua việc theo đuổi một chính sách ngoại thương nhằm thành đạt một ngạch số thặng dư không mấy chính đáng, TQ, trong thực tế, đã áp đặt một phương cách chống kích cầu lên phần còn lại của thế giới, một lỗ hổng lãnh đạo các đại cường khó thể bù đắp. Trước thực trạng nầy, cấp lãnh đạo nhiều nước đang chờ phản ứng của Mỹ. Theo luật, Bộ Ngân Khố Hoa Kỳ phải phúc trình hai lần mỗi năm nêu danh tính những nước "đã nhào nặn hối suất đơn vị tiền tệ của mình đối với đồng USD với mục đích ngăn trở các điều chỉnh hữu hiệu trong cân chi phí hay giành lợi thế để cạnh tranh bất chính trong mậu dịch quốc tế"[1]. Chủ đích của đạo luật rất rõ ràng: phúc trình là một văn kiện xác định tình hình thực tế, không phải chỉ là một xác định chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế, Bộ Ngân Khố vừa không muốn có hành động cụ thể đối với đồng RMB cũng như không muốn làm những gì luật pháp đòi hỏi: giải thích trước Quốc Hội lý do tại sao không hành đông. Thay vào đó, Bộ Ngân Khố, trong 6, 7 năm qua, đã giữ thái độ làm ngơ như chẳng thấy gì. Lý do không nói ra: Bộ Ngân Khố muốn tránh phản ứng của TQ, nói một cách khác, không dám khiêu khích, e ngại TQ có thể sẽ tung ra thị trường phần lớn khối lượng tích sản USD dự trữ. Câu hỏi cần được đặt ra: Điều gì sẽ xẩy đến nếu TQ tung ra bán phần lớn tích sản USD của họ? Lãi suất sẽ tăng vọt? Chắc là không. Lãi suất ngắn hạn của Mỹ sẽ không thay đổi vì Cục Dự Trữ đang duy trì lãi suât ngắn hạn ở mức gần số không, và sẽ không nâng cao cho đến lúc nào tỉ lệ thất nghiệp sụt giảm. Lãi suất dài hạn có thể tăng lên đôi chút, nhưng phần lớn còn tùy thuộc ở sự chờ đợi của thị trường về lãi suất ngắn hạn trong tương lai. Và Cục dự trữ luôn có thể bù đắp bất cứ tác động nào trên lãi suất bằng cách mua vào các trái phiếu dài hạn. Đã hẳn, nếu TQ bán ra các tích sản USD, đồng Mỹ kim sẽ mất giá đối với các ngoại tệ mạnh khác, như đồng euro chẳng hạn. Nhưng điều nầy sẽ có lợi cho Hoa Kỳ, bởi lẽ hàng Mỹ sẽ hạ giá và tăng tính cạnh tranh, nhờ đó, sẽ giúp giảm thiểu khuy khiếm trong cân thương mãi. Mặt khác, điều nầy sẽ bất lợi cho TQ, vì TQ sẽ thua thiệt khi số mỹ kim dự trữ kếch sù mất giá. Vì vậy, Hoa Kỳ không có lý do phải sợ TQ. Một câu hỏi khác cần được trả lời: Hoa Kỳ nên làm gì ? Nhiều nhà phân tích nghĩ, Hoa Kỳ nên thương thảo với TQ thay vì đối đầu. Nhưng điều đó Hoa Kỳ đã từng làm trong nhiều năm và chẳng đi đến đâu, trong khi số thặng dư trong cân thương mãi TQ ngày một tăng vọt. Vào đầu tháng 3-2010, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đã tuyên bố một cách sống sượng: đồng RMB không hề bị định giá thấp, trong khi Viện Kinh Tế Quốc Tế Peterson ước tính đồng RMB đã được định giá thấp khoảng từ 20 đến 40%. Và họ Ôn đã tố cáo các quốc gia khác đang làm những gì TQ thực sự đang làm: tìm cách làm suy yếu đơn vị tiền tệ của chính mình "chỉ để tăng xuất khẩu". Dù sao, nếu thương thảo dịu ngọt không thành công, liệu Hoa Kỳ có thể làm gì khác? Năm 1971, Hoa Kỳ đã phải đối diện một sự kiện tương tự, nhưng ít nghiêm trọng hơn, liên quan đến việc đánh giá thấp đơn vị tiền tệ của một số quốc gia, và đã áp đặt một thuế quan phụ thu tạm thời 10% lên hàng nhập khẩu trong vài tháng, cho đến khi Đức, Nhật, và một số các quốc gia khác, chịu nâng giá đơn vị tiền tệ của mình đối với đồng USD. Cho đến nay, người ta thấy khó lòng thuyết phục TQ thay đổi chính sách trừ phi phải đối diện với một đe dọa tương tự - nhưng lần nầy thuế suất phụ thu có lẽ phải cao hơn nhiều, 25% chẳng hạn. LẬP TRƯỜNG CỦA TRUNG QUỐC VÀ HOA KỲ Chiều ngày 19-6-2010, TQ loan báo sẽ cho phép hối suất đồng RMB tự do lên xuống, một động thái nhằm giảm thiểu sự chỉ trích các chính sách kinh tế TQ ở trên thế giới và tháo ngòi một trong những nguyên nhân gây căng thẳng lớn lao nhất giữa Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn. Bản tuyên bố của ngân hàng trung ương TQ là dấu hiệu rõ ràng Bắc Kinh sẽ cho phép đơn vị tiền tệ của mình dần dà tăng giá đối với đồng USD. Lãnh đạo thế giới sẽ họp mặt một tuần sau đó để thảo luận các vấn đề kinh tế, và chính sách tiền tệ của TQ sẽ có thể là nguyên nhân đưa đến xung đột. Hoa Kỳ cùng với một số quốc gia thúc đẩy TQ chấp nhận thả nổi đồng RMB. Nhiều dân biểu nghị sĩ trong Quốc Hội Mỹ tin: chính sách hối suất của TQ đã đem lại cho Bắc Kinh lợi thế không chính đáng trong mậu dịch quốc tế, và hiện đang có một phong trào ngày một lớn mạnh đòi hỏi phải hành động trả đũa nếu TQ không chịu điều chỉnh. Tuy nhiên, T T Obama và bộ trưởng ngân khố, Timothy F. Geithner, đã nhanh nhẩu khen ngợi hành động của TQ. Obama tuyên bố: "Quyết định tăng tính uyển chuyển của hối suất là một bước xây dựng có thể giúp bảo đảm tiến trình phục hồi và đóng góp vào một nền kinh tế toàn cầu quân bình hơn"[2]. Ủy Hội Âu Châu cũng đồng tình ủng hộ động thái vừa nói. Dù sao, người ta cũng phải đợi xem: liệu động thái đó sẽ giúp tái lập quân bình mậu dịch quốc tế đến mức nào. Ngân Hàng Nhân Dân TQ, thận trọng trong chừng mức đồng RMB có thể dao động, đã minh thị cảnh báo: "hiện không có cơ sở cho một sự tăng giá quan trọng trong hối suất đồng RMB"[3]. Các quan chức TQ nói rõ, đồng RMB sẽ thay đổi tương đối với một giỏ ngoại tệ không được liệt kê, chứ không chỉ với đồng USD.Theo nhiều chuyên gia, tùy theo hệ thống được thiết kế như thế nào, TQ có thể tránh các điều chỉnh chóng vánh. Bộ trưởng Ngân Khố Geithner cũng ám chỉ như vậy khi nói: "Đây là một bước tiến quan trọng, nhưng sự thử thách sẽ ở biên độ và nhịp độ cho phép đơn vị tiền tệ lên giá"[4]. Dấu hiệu đầu tiên - đồng RMB lên giá bao nhiêu - sẽ diễn ra vào sáng thứ hai kế tiếp, khi chính quyền TQ ấn định biên độ điều chỉnh hối suất lần đầu của đồng RMB trong phiên giao dịch trên thị trường ngoại hối Thượng Hải. Từ giữa năm 2008, TQ luôn giữ giá trị đồng RMB ở mức thấp, gắn liền với giá trị đồng USD, và không cho dao động. Vì vậy, giá trị đồng RMB lẽ ra đã phải cao hơn nhiều nếu được thả nổi, và hàng hóa của TQ cũng đã đắt hơn đối với giới tiêu thụ nước ngoài, và rất có thể đã làm chậm tỉ suất tăng trưởng của nền kinh tế cơ sở trên xuất khẩu của TQ. Trong tuyên bố ngày 19-6 vừa qua, ngân hàng trung ương nói rõ kinh tế TQ đã được tăng cường sau cuộc khủng hoảng và hiện nên xúc tiến cải cách chính sách tiền tệ. Điều nên lưu ý là bản công bố lần nầy đã đồng thời bằng tiếng Hoa và Anh ngữ, một điều hiếm khi xảy ra, và theo một viên chức Mỹ, các quan chức TQ đã thông báo trước cho các chính phủ nước ngoài là họ sắp đưa ra lập trường mới trong chính sách tiền tệ. Mặc dù TQ cho biết hành động nầy cơ sở trên quyền lợi kinh tế của chính TQ, trong thực tế, TQ đang bị sức ép từ Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu châu, Brazil và Ấn Độ. Riêng T T Obama, trong suốt một năm qua, cũng đã nhiều lần nêu vấn đề với Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào, lần mới nhất vào đầu tháng 6-2010; và bộ trưởng Ngân Khố Geithner cũng đã qua TQ thương thảo trong tháng 5-2010. TQ đã tiến hành chính sách mới một cách rất dè dặt, âu lo người dân TQ có thể xem đây là động thái nhượng bộ trước sức ép của nước ngoài, không phù hợp với quyền lợi quốc gia. Riêng đối với T T Obama, hối suất đơn vị tiền tệ TQ từ lâu đã là một vấn đề khó xử lý. Obama cũng rất cần Bắc Kinh giúp chế ngự các chương trình nguyên tử của Iran và Bắc Hàn, hành động như một trong những đầu tàu trong kinh tế thế giới, cũng như kiềm chế trong nổ lực độc quyền tiếp cận các tài nguyên và nguyên liệu trên khắp thế giới cần thiết cho tốc độ và tầm vóc tăng trưởng của TQ. Tuy nhiên, thế đòn bẫy của Obama không đáng kể; và rút cuộc, hình như chỉ có sự đe dọa qua các biện pháp bảo hộ mậu dịch trong dự luật đã đệ trình trước Quốc Hội, bất lợi đối với hàng xuất khẩu của TQ, mới mong có thể thuyết phục được Bắc Kinh thả nổi đồng RMB. Biện pháp đe dọa lần nầy được nhiều dân biểu, nghị sĩ trong Quốc Hội hậu thuẫn. Các nhà lập pháp tin, TQ đang duy trì đơn vị tiền tệ của họ ở một mức thấp giả tạo, phương hại cho kinh tế Hoa Kỳ. Max Baucus, nghị sĩ Dân chủ bang Montana và chủ tịch Ủy Ban Tài Chánh Thượng Viện, đã phát biểu: "Sự loan báo ngày hôm nay [19-6] là một bước đầu đáng hoan nghênh, giúp các doanh nghiệp Mỹ tăng tính cạnh tranh và tạo thêm công ăn việc làm cho dân Mỹ"[5]. Trong khi đó, Charles E. Schumer, nghị sĩ Dân chủ bang New York, lại cảnh cáo: trừ phi TQ nói rõ thêm chi tiết của kế hoạch, "chúng tôi sẽ không có lựa chọn nào khác hơn là xúc tiến dự luật của chúng tôi"[6]. Nếu đồng RMB tăng giá đáng kể, hàng hóa từ Hoa Kỳ và nhiều xứ khác cuối cùng cũng có thể bắt đầu thay thế hàng xuất khẩu của TQ. Điều nầy có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong nhiều nước đối tác của TQ, cùng lúc kiềm hãm tốc độ tăng trưởng của TQ cho đến nay đã bành trướng nhanh đến độ lạm phát giờ đây đã lúc một gia tăng. Công xá ngày một tăng cao sau những bất ổn lao động gần đây, cùng với một đồng RMB mạnh, cũng có thể biến TQ thành một thị trường tiêu thụ hấp dẫn hơn đối với các công ty trên thế giới. Điều nầy sẽ có thể có lợi cho Âu châu nhiều hơn là Mỹ. Xuất khẩu từ Mỹ đến TQ lâu nay rất yếu ớt và chỉ tập trung vào một vài loại hàng hóa như phi cơ, các máy turbines, và đậu nành, trong khi các công ty Âu châu đã rất thành công với các tiêu thụ phẩm xuất khẩu cao cấp. Đối với TQ, một đồng RMB mạnh sẽ gia tăng mãi lực của giới tiêu thụ, và giá năng lượng và các sản phẩm nhập khẩu có thể rẻ và ít tốn kém hơn. Đối diện với các bất ổn lao động ngày một lan tràn, nhất là trong kỹ nghệ xe hơi, nhà cầm quyền TQ đã bắt đầu các nổ lực nhằm cải thiện đời sống của công nhân viên trong các ngành công kỹ nghệ. Nhiều kinh tế gia bên trong và bên ngoài TQ đã lập luận: sự lên giá của đồng RMB trước hết là nằm trong quyền lợi của TQ. TQ đã chi tiêu gần 10% GDP để mua trái phiếu ngân khố, chứng khoán, và các loại trái khoán có bảo đảm của nước ngoài trong khi in và bán ra đồng RMB, trong nỗ lực nhằm ngăn ngừa đồng RMB lên giá đối với đồng USD. Đồng RMB, đồng thời với đồng USD, đã tăng giá khoảng 15%, đối với đồng euro trong hơn hai tháng qua. Điều đó đã khiến các viên chức TQ âu lo về tính cạnh tranh của hàng xuất khẩu qua Âu châu, thị trường lớn nhất cho hàng xuất khẩu TQ. Cui Tiankai, thứ trưởng ngoại giao, ngày thứ sáu 18-6-2010, cho biết: giá trị đồng RMB không phải là đề tài thảo luận toàn cầu, phát biểu mới nhất trong chuổi nhiều lần phát biểu bởi các quan chức TQ, phản ảnh sự nhạy cảm mang tính "quốc gia chủ nghĩa" đối với chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, những người quen thuộc với quá trình làm chính sách ở TQ, trong hai tháng qua, luôn cho biết: giới lãnh đạo TQ, ngay từ đầu tháng 4-2010, đã nhất trí thay đổi chiều hướng chính sách tiền tệ. Nhưng trận động đất tàn phá miền Tây TQ vào giữa tháng 4-2010 cùng với những âu lo về tác động của suy thoái kinh tế Âu châu, đã đưa đến việc trì hoãn các hành động thể hiện quyết định vừa nói. THAY ĐỔI HỐI SUẤT ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ Trong những năm tháng gần đây, các nhà làm chính sách trong thế giới giàu đã gây sức ép buộc TQ từ bỏ việc gắn chặt hối suất đồng nhân dân tệ với đồng USD. Ngày 19-6-2010, một tuần trước ngày nguyên thủ các quốc gia quy tụ về Toronto, Canada, tham dự hội nghị thượng đỉnh G20, TQ cuối cùng cũng đã nhượng bộ. Ngân Hàng Trung Ương TQ cho biết sẽ cho phép đồng nhân dân tệ tự do lên xuống đối với một gói các ngoại tệ mạnh, mặc dù loại bỏ khả năng tái định giá dứt khoát một lần. Sự loan báo đã được bộ trưởng ngân khố Hoa Kỳ Tim Geithner đón nhận một cách dè dặt. Tuy nhiên, trong chỗ riêng tư, ông đã tỏ ra nhẹ nhõm vì đã tránh được khả năng va chạm về đồng nhân dân tệ. Động thái nầy cũng đã đến rất đúng lúc, giúp giảm thiểu nổi e ngại: TQ có thể không còn mặn nồng với việc tìm cách giúp tái lập quân bình kinh tế thế giới. Ngạch số thặng dư lớn lao trong cân thương mãi hữu hình của TQ đã sụt giảm tương đương khoảng 1/3 GDP trong năm 2009, và có thể sẽ sụt giảm nhiều hơn. Nhưng số xuất khẩu gia tăng trong tháng 5-2010 đã gây lo ngại: TQ có thể một lần nữa trông cậy vào các thị trường hải ngoại để duy trì tăng trưởng một khi thế giới giàu ra khỏi đại suy thoái. Qua việc thả nổi đồng RMB, TQ có thể xoa dịu phe chỉ trích trong Quốc Hội Mỹ, nay không còn nhiều lý do để tin TQ đã trợ giúp giới xuất khẩu qua duy trì đơn vị tiền tệ ở một hối suất thấp. Đồng thời nó cũng giúp TQ có thêm dụng cụ để làm nguội bớt nền kinh tế đang nóng và kiềm chế lạm phát. Một RMB mạnh hơn sẽ làm giảm giá hàng nhập khẩu. Một điều lợi khác là việc từ bỏ buộc chặt hối suất đồng RMB vào đồng USD cũng giúp giải phóng chính sách lãi suất của TQ. Sự thay đổi chiều hướng được hoan hỉ đón nhận nhưng sẽ khó lòng đem lại hiệu quả nhanh chóng. Một vấn đề khác là chính sách hối đoái của TQ sẽ được một số quan chức ở Hoa Thịnh Đốn xét đoán tùy theo tầm cỡ lên giá của đồng nhân dân tệ đối với đồng USD, không với các đơn vị tiền tệ khác. Nếu đồng euro mất giá hơn nữa, sự lên giá của đồng RMB đối với đồng USD sẽ chậm hơn, và điều nầy sẽ khiến Quốc Hội Hoa Kỳ thêm phần chống đối khi ngày bầu cử giữa kỳ vào tháng 11 đến gần hơn. Đã hẳn, phần lớn cũng còn tùy thuộc tốc độ lên giá của đồng nhân dân tệ. Một số nhà quan sát mong đợi sự lên giá của đồng RMB sẽ cùng tốc độ với lần tách rời khỏi đồng USD năm 2005 và tiếp diễn trong 3 năm. Sự mong đợi nầy có lẽ quá lạc quan. Sự lo ngại của TQ đối với viễn ảnh kinh tế của thế giới giàu có thể có nghĩa sự lên giá của đồng nhân dân tệ lần nầy sẽ phải chậm hơn. TQ muốn chận đứng dòng chảy "tư bản nóng" vào TQ (để đầu cơ) khiến các loại chứng khoán và giá bất động sản và nhà ở bất thần tăng vọt. Bên cạnh các biện pháp bảo vệ qua các biện pháp kiểm soát tư bản, TQ chắc sẽ dè dặt trong ý tưởng cho phép đồng RMB lên giá với một nhịp ổn định và nhanh chóng. Do đó, sự tăng giá 0,4% đối với đồng USD trong ngày đầu ngay sau khi loan báo đã sụt giảm một phần trong ngày kế tiếp. Trong mọi trường hợp, điều chỉnh những mất quân bình trong mậu dịch không phải chỉ là vấn đề điều chỉnh hối suất đơn vị tiền tệ đơn thuần. Trên nguyên tắc, một đồng RMB mạnh hơn sẽ khiến lợi nhuận từ hàng xuất khẩu thấp hơn, và giới tiêu thụ quốc nội sẽ có nhiều mãi lực hơn. Tuy nhiên, số nhân công mất việc từ các kỹ nghệ xuất khẩu của TQ sẽ phải đi tìm việc mới ở các ngành khác. Và nhiều xáo trộn và cọ xát sẽ làm quá trình nầy thêm phần khó khăn. Cho đến khi các trở ngại được san bằng, một sự lên giá nhanh chóng của đồng RMB có thể đưa đến một sự gia tăng trong số nhân công bị mất việc, chứ không phải một sự bùng nổ tăng chi ở TQ. Những cải cách cần thiết để giải quyết tận gốc các nguyên nhân của số tiết kiệm thái quá ở TQ, vì vậy, phải là một phần thiết yếu trong giải pháp dài lâu đối với các mất quân bình toàn cầu. Điều nầy có nghĩa nới lỏng tín dụng nhiều hơn để làm dễ dàng cho các xí nghiệp nhỏ trong các ngành dịch vụ cần nhiều nhân công dễ cạnh tranh với các xí nghiệp được nhà nước nuông chiều và yểm trợ; cũng có nghĩa cần quản lý các công ty tốt hơn nhằm giúp giải tỏa số thanh khoản, tồn trữ hay bất động hóa bởi các xí nghiệp quốc doanh, vào nền kinh tế; cũng còn cần một mạng lưới an sinh xã hội rộng lớn hơn để thuyết phục các hộ gia đình họ không còn cần phải bảo hiểm phòng ngừa mọi tai ương. Một đơn vị tiền tệ mạnh là một trợ lực cho các thay đổi. Tuy vậy, nó không thể đủ để chuyển hóa nền kinh tế TQ. TIẾN TRÌNH ĐIỀU CHỈNH ĐỒNG NHÂN DÂN TỆ VÀ GIỚI HẠN Hàng hóa từ TQ, dù với giá rẻ, vẫn có thể làm vẩn đục quan hệ với Hoa Kỳ. Chẳng hạn, vào đầu tháng 6-2010, các viên chức Hoa Kỳ đã tịch thu một số mật ong nhập khẩu từ TQ với lý do vi phạm các chuẩn mực an toàn thực phẩm. Mật ong TQ chứa thuốc trụ sinh dùng để ngừa "foulbrood", loại bệnh thường tấn công các nhộng ong mật. Charles Schumer, nghị sĩ Dân Chủ bang New york, đã lên án những công ty xuất khẩu mật ong TQ như "những người rửa mật ong" (honey launderers). Tuy nhiên, mật ong không phải là vấn đề rắc rối duy nhất chia rẽ hai quốc gia. Schumer và nhiều dân biểu nghị sĩ trong Quốc Hội còn chỉ trích chính sách tiền tệ của TQ. Họ luôn thúc đẩy T T Barack Obama phải có lập trường cứng rắn đối với TQ. Ngày 16-6-2010, Schumer đã gửi thư cho lãnh đạo nhóm G20, nhấn mạnh "hối suất thị trường, do cung cầu ấn định, là thiết yếu đối với sinh hoạt kinh tế toàn cầu"[7]. Nhiều người e ngại một bầu không khí căng thẳng khi các nhà lãnh đạo quy tụ về Toronto, Canada, trong hai ngày 26-27 tháng sáu. Nhưng như đã đề cập ở các phần trên, vào ngày 19-6-2010, TQ đã công bố biện pháp định giá đồng RMB uyển chuyển hơn. Động thái nầy có khả năng giảm thiểu sự chỉ trích quốc tế, nhất là Hoa Kỳ. Ngân Hàng Nhân Dân Trung Ương TQ (People's Bank of China - PBOC) sẽ ấn định mức tương đồng giữa đồng nhân dân tệ và đồng USD mỗi buổi sáng. PBOC loan báo sẽ gia tăng tính mềm dẻo của hối suất đồng nhân dân tệ, đã được ấn định bằng 6,83 USD kể từ tháng 7-2008. Từ nay, để ấn định hối suất, PBOC sẽ quan tâm đến tỉ trọng mậu dịch trong một giỏ các ngoại tệ, cũng như luật cung cầu của thị trường. Trên thị trường ngoại tệ non trẻ của TQ, Ngân Hàng Trung Ương sẽ ấn định mức tương đồng giữa đồng RMB và đồng USD. Trong hai năm qua, ngân hàng trung ương đã cho phép đơn vị tiền tệ lên xuống không đáng kể đối với mức tương đồng 6,83 USD. Nay PBOC hình như sẵn sàng cho phép hối suất tăng tới 0,5% mỗi ngày. Vào ngày thứ hai tiếp theo sau ngày công bố chính sách mới, PBOC đã để đơn vị tiền tệ tăng giá trên 0,4%, đưa đến phản ứng khá sôi nổi trên thị trường. Với nhịp nầy, giá trị đồng nhân dân tệ sẽ tăng gấp đôi sau 174 ngày. Buổi sáng hôm sau, PBOC lại ấn định hối suất mới phản ảnh tình hình cung cầu vào cuối ngày hôm trước. Tuy nhiên, sau ngày thứ ba, PBOC quyết định cung cầu trên thị trường cần được thúc đẩy chút ít. Các ngân hàng lớn của nhà nước đã mua rất nhiều USD, có lẽ theo sự thúc đẩy của Ngân Hàng Trung Ương, do đó, PBOC đã có thể ấn định hối suất vào sáng thứ tư ở mức thấp - 6,81 USD. Lần cuối cùng sau ba năm, hối suất đồng nhân dân tệ chỉ gia tăng 21% so với đồng USD. Nhưng rất có thể, lần nầy giá trị đơn vị tiền tệ của TQ không tăng ngay cả lên mức đó. TQ không muốn đơn vị tiền tệ của mình tăng giá nhiều hơn đối với đơn vị tiền tệ mạnh của các nước khác (đôi khi còn sụt giảm đối với đồng USD). Theo Ngân Hàng Trung Ương, hiện nay TQ có một danh sách dài các đối tác thương mãi. Đối với giỏ các ngoại tệ căn bản, hối suất đồng nhân dân tệ trong năm nay đã tăng nhiều: 17% riêng đối với đồng euro. Vào một ngày bất kỳ nào đó, đồng nhân dân tệ rất có thể sẽ sụt hay tăng giá đối với đồng USD. Ngân Hàng Trung Ương luôn quan tâm tránh "tiền nóng" (hot money) có thể len lỏi qua mạng lưới kiểm soát tư bản của nhà nước, để đầu cơ thủ lợi từ một ngoại tệ mạnh hơn. Theo Mark Williams thuộc Capital Economics, một tổ chức nghiên cứu, TQ đã thành công. Thị trường tiền tệ tương lai chờ đợi đồng nhân dân tệ chỉ tăng giá khoảng 2,2% trong 12 tháng tới, một bách phân nhỏ nhoi, nhất là trước các khó khăn rắc rối chuyển tiền ra vào TQ. Ngay cả khi không có sự can thiệp của Ngân Hàng Trung Ương, theo Zhao Qingming, nguyên kinh tế gia PBOC, và David Li, một cố vấn ngân hàng trung ương, áp lực tăng giá đồng nhân dân tệ có thể cũng chẳng bao nhiêu lần nầy.Trong một cuộc phỏng vấn dành cho HSBC, họ cho biết ngạch số thặng dư trong mậu dịch sẽ giảm sụt quan trọng. Sáu tháng trước đó, William Cline và John Williamson, thuộc Viện Kinh Tế Quốc Tế ở Hoa Thịnh Đốn, đã tính: đồng nhân dân tệ có lẽ sẽ phải tăng giá khoảng 40% so với đồng USD để tái lập thăng bằng - được họ định nghĩa như ngạch số thặng dư 3% trong cân thương mãi hữu hình ở mức toàn dụng. Ngày nay, họ tính lại, chỉ cần gia tăng 24% đối với đồng USD và 14% đối với toàn gói tiền tệ của các đối tác thương mãi lựa chọn dựa trên tỉ trọng mậu dịch. Tuy nhiên, mặc dù thặng dư thương mãi của TQ không còn lớn lao như trước đại suy thoái, chuẩn mực mất quân bình được Mỹ chấp nhận cũng đã sụt giảm. Trong tháng 3, 2010, sau khi đưa ra dự luật đánh thuế quan đối với các quốc gia luôn can thiệp vào thị trường hối đoái, Schumer đã bắn tiếng: "sự nhào nặn đơn vị tiền tệ của TQ, ngay trong thời kinh tế bình ổn, đã không thể chấp nhận. Trong thời buổi 10% thất nghiệp, chúng tôi sẽ không thể đơn thuần chịu đựng"[8]. Paul Krugman, người đã được giải thưởng Nobel, đưa ra luận cứ, khi kinh tế thế giới đang suy thoái vì số cầu sụt giảm, các xứ thường xuyên chi tiêu ít hơn lợi tức (xuất siêu) phải chịu một phần trách nhiệm đã gây ra tình trạng thất nghiệp. Trong thư gửi các vị lãnh đạo nhóm G20, T T Obama đã chỉ trích những xứ dựa nhiều vào xuất khẩu trong khi đã kiếm được nhiều thặng dư từ mậu dịch quốc tế. TQ không phải là quốc gia duy nhất thủ lợi . Cân thương mãi hữu h́ình của Đức cũng thặng dư - 135 tỉ USD năm 2009, tuy chưa bằng phân nửa của TQ; nhưng kích cỡ của nước Đức cũng bé nhỏ hơn nhiều và kim ngạch thặng dư của TQ cũng giảm sụt nhanh hơn. Theo dự phóng của The Economist Intelligence Unit, một công ty chị em với tạp chí The Economist, kim ngạch thặng dư của Đức sẽ chỉ sụt giảm 20 tỉ trong năm 2010 (so với TQ: 68 tỉ). Những số sụt giảm nầy cũng sẽ là phần gia tăng số cầu hàng hóa và dịch vụ đối với phần còn lại của thế giới. Cũng như TQ, trong hai năm qua, Đức cũng có hối suất buộc chặt với đồng euro. Không ai lên án Ngân Hàng Trung Ương Âu Châu (ECB) nhào nặn giá trị đồng euro. Tuy nhiên, sự mất giá của đồng euro cũng có nghĩa các xứ thành viên trong khu vực euro sẽ phải trông cậy vào số cầu của các nước bên ngoài khu vực để phục hồi kinh tế. Goldman Sachs dự phóng cân thương mãi hữu hình của khu vực euro sẽ thặng dư năm nầy, và năm sau số thặng dư sẽ còn gia tăng nhiều hơn. Có lẽ Schumer cũng nên đòi hỏi cấm nhập khẩu Frankfurter sausages. VÀI NHẬN XÉT TỔNG QUAN TQ có thể đã mong đợi một phản ứng thuận lợi hơn từ các cấp lãnh đạo thế giới. Quyết định ngưng chính sách buộc chặt hối suất đồng RMB vào đồng USD cuối cùng cũng chỉ đem lại cho TQ yên bình trong chốc lát với đối tác lớn nhất. Không để mất thì giờ, Charles Schumer, nghị sĩ Dân chủ bang New York, sau đó, vẫn không ngừng xúc tiến dự luật nhằm thuyết phục TQ nhanh chóng chấp nhận một mức điều chỉnh cao hơn. Schumer thực ra đã thúc đẩy Quốc Hội phải hành động đối phó với chính sách thương mãi của TQ ngay từ năm 2004. Với tỉ suất thất nghiệp vẫn xấp xỉ 10% và rất ít thay đổi trong hối suất giữa RMB-USD từ 2008, chiến lược của Schumer đã thu hút được sức hậu thuẫn ngày một gia tăng. Ông còn đệ trình một biện pháp mới với sự bảo trợ lưỡng đảng trong tháng 3-2010. Nếu được thông qua, dự luật sẽ buộc Bộ Ngân Khố phải phúc trình về tình hình nhào nặn hối suất của TQ (một việc Tim Geithner đã trì hoản trong tháng 4-2010). Tùy kết quả phúc trình, hàng TQ có thể phải gánh chịu thuế quan nhập khẩu. Chính sách hối suất mới của TQ đã không làm chùn tay vị nghị sĩ, vì theo ông, sẽ không làm hài lòng các đồng nghiệp của ông. Rất có thể ông sẽ sớm đệ trình Quốc Hội một tu chính án cho dự luật với nhiều hỗ trợ, và nhiều người nghĩ, cơ may được chấp thuận cũng khá cao. Viễn ảnh nầy hình như đang khiến Tòa Bạch Ốc lo ngại. Barack Obama đã từng nhấn mạnh: rồi ra đồng RMB cũng sẽ được tái định giá cao hơn. Nhưng trong hội nghị thượng đỉnh của nhóm G20, Obama đã giải thích: ông không chờ đợi một sự tăng giá nhanh chóng của đồng RMB. Thay vào đó, chính quyền Obama có thể phải lưu tâm trong vài tháng sắp tới. Tòa Bạch Ốc đang gây sức ép để Schumer chịu dành cho TQ có đủ thì giờ điều chỉnh. Một sự va chạm về mậu dịch và tiền tệ có thể gây rắc rối nghiêm trọng cho chính quyền Mỹ: Obama đang cần sự trợ giúp của TQ trong các vấn đề Iran và Bắc Hàn. Và với tiến tŕnh hồi phục toàn cầu c̣òn quá mong manh, thế giới không muốn có thêm một gánh nặng: đối đầu với một tranh chấp thương mãi nghiêm trọng. Các nhà phê bình cho rằng, với kinh tế Hoa Kỳ đang ở trong tình trạng suy thoái trầm trọng, hối suất thấp một cách giả tạo của đồng RMB có nghĩa nước Mỹ đang nhập khẩu thất nghiệp. Họ lập luận, hối suất mềm dẻo hay uyển chuyển chỉ là "đại ngôn". Kể từ khi TQ công bố chính sách mới, đồng RMB chỉ lên giá 0,7% đối với đồng USD, và thị trường chỉ chờ đợi đồng RMB tăng giá khoảng từ 2 đến 3% cho toàn năm 2011. Tuy nhiên, tỉ suất nầy cũng chỉ chậm hơn chút đỉnh so với tỉ suất lên giá lúc bắt đầu giai đoạn 2005-2008, và tổng cộng 20% cho toàn giai đoạn. Theo nhận định của các nhà phân tích, một sự tái định giá vào cỡ nầy sẽ có thể đưa đồng RMB lên gần mức giá tương đồng với đồng USD. Tuy vậy, với mức thâm thủng trong cân thương mãi của Hoa Kỳ lên tầm cỡ tiền suy thoái, các nhà lập pháp Hoa Kỳ rất nôn nóng muốn thấy kết quả nhanh chóng hơn. Sự chờ đợi của họ có thể thiếu thực tế. TQ cũng đang đối diện với nhiều khó khăn nội bộ liên quan đến đồng RMB, một sự đối đầu hay va chạm giữa các nhà ngoại giao và các nhà vận động hành lang cho giới xuất khẩu thế lực hùng mạnh. Vì vậy, Bắc kinh có thể có rất ít lựa chọn ngoài biện pháp tái định giá lần hồi. Một sự tái định giá nhanh chóng có thể gây thương tổn cho kỹ nghệ chế biến, phương hại nhiều hơn cho kinh tế toàn cầu. Cấp lãnh đạo của cả Hoa Kỳ lẫn TQ đang âu lo tác động của cuộc khủng hoảng trầm trọng trong kinh tế Âu châu đối với kinh tế Mỹ Và TQ. T T Obama một lần nữa rất có thể sẽ thành công thuyết phục Quốc Hội dành cho TQ nhiều thời gian hơn. Nhưng cử tri Hoa Kỳ đang hết sức bức xúc và các nhà lập pháp cũng rất âu lo. Chút ít yên bình TQ giành được với chính sách mới có thể sớm bị xói mòn. Trong mọi trường hợp, TQ, và Hoa Kỳ, đang trải nghiệm những giờ phút nhức nhối trong việc thương thảo chính sách tiền tệ của TQ. Sau những kinh nghiệm không mấy dễ chịu của cả hai phe, thế giới bên ngoài, nhất là phần thế giới luôn là nạn nhân của những chính sách tàn bạo của chính hai siêu cường 1 và 2, tưởng cũng có quyền chờ đợi cả hai siêu cường sẽ có lập trường "mềm dẻo hay uyển chuyển" hơn mỗi khi thương thảo về các vấn đề sinh tử đối với họ - vấn đề chủ quyền quốc gia, vấn đề toàn vẹn lãnh thổ, vấn đề bồi thường chiến tranh, hay nhỏ nhoi hơn, vấn đề bồi thường cho các nạn nhân chất độc da cam ở Việt Nam, là những trường hợp điển hình. GS Nguyễn Trường Irvine, California, USA 18-7-2010. [1] ...manipulate the rate of exchange between their currency and the Unitd States dollar for purposes of preventing effective balance of payments adjustments or gaining unfair competitive advantage in international trade. [2] China's decision to increase the flexibility of its exchange rate is a constructive step that can help safeguard the recovery and contribute to a more balanced global economy. [3] The basis for large-scale appreciation for the RMB exchange rate does not exist. [4] This is an important step, but the test will be how far and how fast they let the currency appreciate. [5] Today's announcement is a welcome first step to help keep American businesses competitive and create more American jobs. [6] ...We will have no choice but to move forward with our legislation. [7] Market-determined exchange rates are essential to global economic vitality. [8] China's currency manipulation would be unacceptable even in good economic times. At a time of 10% unemployment, we simply will not stand for it.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 3:26:32 GMT 9
Cao thủ tình báo: Ðòn thăm dò mạo hiểm
Bùi Tín viết riêng cho VOA Thứ Hai, 09 tháng 8 2010 Báo South China Post – Bưu điện Hoa Nam - số ra ngày 29-7-2010 có đăng một bài viết tiếng Anh của phóng viên thường trú tại Hà Nội Greg Torode, đầu đề là «A flash of steel and the velvet glove from Vietnam » (Ánh thép và quả đấm bọc nhung của Việt Nam). Bài này là một cuộc phỏng vấn của G.Torode với Trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ trưởng Quốc phòng Việt Nam, được giới thiệu là «con của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, từng cầm đầu cơ quan Tình báo đầy quyền lực của Đảng ủy quân sự trung ương do Tổng bí thư đảng trực tiếp lãnh đạo». Nội dung cuộc phỏng vấn đề cập mối quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc, Hoa Kỳ, các nước ASEAN và các nước khác, và tình hình căng thẳng ở biển Đông… Các câu trả lời phỏng vấn không có gì đặc biệt, được coi như đúng bài bản. Nghĩa là một mặt tỏ rõ thiện chí, đôi khi còn lên gân quá mức - «Chúng tôi đang thắt chặt quan hệ với nước láng giềng lớn về mọi mặt, kể cả về quân sự - như huấn luyện sỹ quan trẻ, trao đổi các đoàn đại biểu quân sự và cố vấn, tiến hành tuần tra chung trong Vịnh Bắc bộ, nơi mà các tranh chấp về lãnh thổ đã được giải quyết». Mặt khác, người trả lời phỏng vấn khẳng định «chúng tôi không bao giờ muốn dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực để kiếm lợi thế; chúng tôi đã nói rõ với cả cộng đồng thế giới là chúng tôi không bao giờ chấp nhận bất kỳ giải pháp nào đạt được do dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực. Chúng tôi có đầy đủ khả năng để đối phó». Nội dung cuộc phỏng vấn nhìn kỹ ra, không có gì quan trọng. Điều quan trọng, điều có thể nói là ly kỳ, không bình thường, cần chú ý là ở chung quanh cuộc phỏng vấn này. Nguyễn Chí Vịnh trả lời phỏng vấn của báo South China Post trên cương vị gì? Sao lại không phải là Bộ trưởng Phùng Quang Thanh? Ai giao cho ông Vịnh quyền trả lời báo chí ngoại quốc, vốn là vấn đề xưa nay được quản lý rất chặt. Năm 2006, trong cuộc họp Ban Chấp hành trung ương cuối cùng của khóa IX, Tổng bí thư Nông Đức Mạnh giới thiệu 2 nhân vật vào Ban Chấp hành trung ương đảng khóa X nhưng bị từ chối, là Nông Quốc Tuấn – con trai ông Mạnh - và Nguyễn Chí Vịnh. Đây là điều cực hiếm trong đảng CS, vốn luôn coi Tổng bí thư là lãnh tụ tuyệt đối. Sau đó, do 3 sức ép từ thiên triều phương Bắc, từ 2 Thái thượng hoàng Mười + Anh, và từ ông tổng Mạnh, 2 ông Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng buộc phải ký lệnh bổ nhiệm Nguyễn Chí Vịnh làm Thứ trưởng Quốc phòng. Thật ra ý đồ của thiên triều còn đi xa hơn nhiều nữa. Đã có những lời tâng bốc, thăm dò từ tay chân của Vịnh ở Tổng cục II, rằng Vịnh sẽ làm Bộ trưởng Quốc phòng, sắp phóc lên đại tướng, rồi sẽ lên tổng bí thư kiêm chủ tịch nước vào Đại hội XII, ghê thật! Nhưng thật ra họ chủ quan, hấp tấp, vì thời thế đã đổi. Có thể nói họ chơi trò liều, cứ như húc đầu vào đá. Nguyễn Chí Vịnh không phải ủy viên trung ương đảng, do đó không có chân trong Đảng ủy quân sự trung ương. Trong khi đó gần 10 vị đại tướng, thượng tướng, trung tướng là uỷ viên trung ương đảng. Vịnh khó mà trèo qua cổ họ. Thêm nữa, Vịnh muốn đọ sức với Đại tướng Phùng Quang Thanh đang tại chức, với Nguyễn Tấn Dũng, với Trương Tấn Sang, với Tô Huy Rứa, với Hồ Đức Việt, với Phạm Quang Nghị … đâu có dễ. Ngoài ra, chỗ dựa chính của Vịnh là Nông Đức Mạnh thì ông này đã 70 tuổi, sắp về hưu. Đã thế, những người đỡ đầu hệ trọng khác của Vịnh là cặp Mười và Anh, đã 94 và 91 tuổi, 2 thái thượng hoàng ở thời xuống cấp, quyền uy cũng ở thời kỳ cạn. Nhưng cái thế của Vịnh chông chênh là ở công luận xã hội, đặc biệt là dư luận trong đảng, khi rất nhiều công thần gần đây gửi kiến nghị công khai chỉ mặt vạch tên tội nặng của Vịnh, - mất dạy, trộm cắp từ khi còn là học viên Trường kỹ thuật Quân sự Vĩnh Yên để bị đuổi học, « không xứng đáng là một sỹ quan sơ cấp, sao lại được đưa lên đến cấp tướng, làm xấu cả giới tướng lãnh VN», rằng Vịnh đã dùng vụ T4 để bôi xấu từ các ông Kiệt, Khải, Phiêu, các tướng Giáp, Trà, Nam Khánh, đến hàng loạt nhân vật khác như Trần Bạch Đằng, Trần Văn Giàu, Võ Thị Thắng…vu cáo họ là tay sai của CIA Mỹ. Những tiếng nói còn nhiều uy tín trong đảng như Nguyễn Trọng Vĩnh, Đồng Sỹ Nguyên… còn đòi Bộ chính trị phải đưa «vụ án siêu nghiêm trọng Tổng cục II và Nguyễn Chí Vịnh ra trình bày minh bạch trước Đại hội XI». Trong quân đội, một số tướng lĩnh đang nói đến một Tòa án binh đặc biệt để xét tội trạng của Nguyễn Chí Vịnh. Nhưng cái thế lung lay, chông chênh của Vịnh hiện nay chủ yếu là ở chỗ bọn trùm bành trướng Bắc Kinh đã lộ rõ bộ mặt tham lam, thâm hiểm, độc ác đối với nước ta. Gậm nhấm biên giới, nuốt cả quần đảo Hoàng Sa, nhận vơ cả vùng biển Đông là ao nhà của chúng, tàn sát ngư dân ta trên vùng biển ta, đưa hàng vạn người vào Tây nguyên cắm chốt, thuê đất rừng biên giới để trồng toàn bạch đàn và keo nhằm phá đất rừng tận gốc, không cây gì khác sống nổi … Đây là nguy cơ sống còn của Tổ quốc mà toàn dân, đặc biệt là giới trí thức, đòi lãnh đạo phải trình bày công khai rành mạch vào dịp Đại hội XI sắp tới, không được lấp liếm, né tránh, quanh co được nữa. Cái thế bấp bênh của Nguyễn Chí Vịnh. Vịnh trở nên nguy kịch hơn khi cái thế của Trung Quốc - kẻ đỡ đầu chính yếu của Vịnh, tại vùng biển Đông đang bị thử thách nghiêm trọng. Cái rất mới của tình hình vùng này là Hoa Kỳ mạnh mẽ trở lại, với lời tuyên bố rõ ràng của bà Ngoại trưởng Clinton, rằng đây là vùng giao thông quốc tế gắn bó với quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ. Hơn nữa hầu hết mười nước Đông Nam Á bác bỏ chủ trương thương lượng song phương của Bắc kinh, khẳng định chủ trương sẽ tập thể thương lượng, tập thể đa phương quyết định mọi chuyện liên quan đến vùng này. Bắc Kinh nổi trận lôi đình vì manh tâm bẻ gãy từng chiếc đũa của họ bị bác bỏ, cả bó đũa cứng cỏi của Đông Nam Á, sức mấy mà Trung Quốc bẻ nổi, dù họ nghiến răng, vặn sái cả vai! Và dưới đây là điều lý thú nhất. Tại sao cuộc phỏng vấn thứ trưởng Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh được đăng trên trang nhất báo South China Post với chiếc ảnh chân dung lớn, lại không được báo nào trong nước dịch ra và đăng lại. Điều này chưa hề xảy ra. Trước kia bao giờ cuộc phỏng vấn như thế cũng được xem kỹ lại, dịch ra thành tin chính thức của Bộ Quốc phòng, đưa trang trọng cùng ngày trên báo Nhân dân, báo Quân đội Nhân dân và các báo khác. Một điều đáng chú ý là trong cuộc trả lời phỏng vấn trên đây, Nguyễn Chí Vịnh báo tin «chúng tôi đã mời các bộ trưởng quốc phòng của 10 nước Asean cùng với 8 bộ trưởng quốc phòng các nước khác đến Việt Nam họp vào tháng 10 tới. Trong số khách mời ấy có Trung Quốc, Nhật Bản, Nam Triều Tiên và cũng có Hoa Kỳ, Nga và Úc». Ngày 8-8-2010 có tin tại Sài Gòn, Nguyễn Chí Vịnh đã họp với 70 đại diện các nước Asean bàn về việc chuẩn bị cuộc họp nói trên vào tháng 10 tới tại Hà Nội. Tin này cho đến nay chỉ được truyền trên các báo ở nước ngoài. Báo trong nước, nhất là báo Nhân dân, báo Quân đội Nhân dân vẫn im thin thít. Có thể lãnh đạo đảng đang bối rối, ngại và sợ công luận, đành im vậy! Làng báo quốc tế đều cho rằng South China Post là tờ báo thân Cộng sản Bắc Kinh, thậm chí còn là công cụ của Cục tình báo Hoa Nam. Cục tình báo Hoa Nam là cơ quan tình báo lâu năm, dày dạn, là con bạch tuộc tình báo có vòi tỏa xuống khắp Đông Nam Á, nơi có đông người Trung Quốc trú ngụ. Trung tá Vũ Minh Trí từng công tác trong Tổng cục II cho biết Nguyễn Chí Vịnh kết nghĩa thân thiết với Cục tình báo Hoa Nam, Vịnh và gia đình thường được mời sang nghỉ ngơi, du hý tại các cơ sở sang trọng của Cục Tình báo Hoa Nam ở vùng Quảng Châu, thủ phủ tỉnh Quảng Đông. Ông Trí đã bị khai trừ khỏi đảng, bị lột lon trung tá chỉ vì đã tố cáo những tội bè phái, gia đình trị, tham nhũng và phục vụ bọn bành trướng của Nguyễn Chí Vịnh. Có thể coi trên đây là những đòn tình báo, của những tay tình báo cao thủ, những cú thăm dò, nắn gân công luận khi các cuộc chuẩn bị cho Đại hội XI đang diễn ra khẩn trương. Nếu công luận vẫn ngủ yên, nếu trong đảng không có phản ứng gì ghê gớm thì đường ta ta cứ đi, phe phái thân Trung Quốc lên cao giọng chút it về tình hình vùng biển Đông nhằm mỵ dân, che đậy mưu thâm. Họ sẽ cài người của họ vào các vị trí then chốt, và Nguyễn Chí Vịnh sẽ là một ngôi sao đang lên, có thể lên đến đỉnh chót vót ít lâu sau. Nhưng nếu như tình hình không chiều theo kẻ bành trướng và lũ lỹ tay sai đủ loại, nếu như thế cùng tất biến, đông đảo bà con ta giật mình tỉnh ngộ trước tai họa ngoại xâm kết chặt với tai họa nội xâm cực kỳ nguy hiểm, thì tình hình sẽ diễn ra khác hẳn, và đòn thăm dò của cao thủ tình báo sẽ vô hiệu. Đất nước đang đứng trước một thời điểm cực kỳ nghiêm trọng. Những người yêu nước thật lòng, thương dân thật lòng đang tìm hiểu thật sâu tình hình, dấn thân cho đại nghĩa dân tộc, bầy tỏ bằng mọi cách thái độ công dân lương thiện của mình. Những kẻ sỹ thời đại mới và tuổi trẻ am hiểu tình hình đang cùng nhau trao đổi bàn luận, để nhận ra rằng có phải lối thoát duy nhất là đảng hãy trả lại cho toàn dân quyền tự do, dân chủ đầy đủ, quyền làm người trọn vẹn, các quyền lập hội, tự do ứng cử bầu cử ghi trong hiến pháp, nghĩa là thực hiện chế độ đa đảng trong trật tự, luật pháp. Nghĩ cho kỹ, không có một lối thoát nào tốt đẹp hơn, cần thiết hơn, chính xác hơn . Bui Tin
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 3:31:44 GMT 9
Trung Quốc 'chĩa mũi nhọn vào Việt Nam và Hoa Kỳ'Thưa quý vị, trước các diễn biến dồn dập gần đây liên quan tới khu vực biển Đông, VOA Việt Ngữ đã có cuộc phỏng vấn nhà nghiên cứu quan hệ Việt - Trung, ông Dương Danh Dy, Nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc. Thứ Ba, 10 tháng 8 2010 Các cuộc thao diễn quân sự của Trung Quốc là thông điệp báo cho Hoa Kỳ biết rằng Bắc Kinh bất bình trước sự kiện Hoa Kỳ can dự vào các vụ tranh chấp chủ quyền Hình: ASSOCIATED PRESS VOA: Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố ‘quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ trong việc giải quyết tranh chấp ở biển Đông. Ông đánh giá như thế nào về động thái này? Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Theo tôi, đó là chuyện tất nhiên thôi. Sự trở lại của Mỹ ở Đông Nam Á và những tuyên bố của bà Hillary Clinton về vai trò của Mỹ ở đây thì đó là một sự cổ vũ cho các nước ở khu vực rằng dù Trung Quốc có đe doạ như thế này, như thế kia, nhưng chúng ta vẫn có một người bạn Mỹ đứng ở bên cạnh. Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ gần đây nhân 15 năm bình thường hoá quan hệ rất sôi nổi, ví dụ như Hàng không mẫu hạm George Washington neo đậu ở vùng biển Đà Nẵng, mời cán bộ, nhân dân Việt Nam lên thăm, hay hai bên thoả thuận về hợp tác hạt nhân. Dù tôi chưa rõ nội dung cụ thể nhưng theo tôi nghĩ đó là các tiến bộ. Tôi cho rằng chỉ có lòng tin mới nói được như thế. VOA: Theo dõi tình hình báo chí Trung Quốc gần đây, ông thấy phản ứng của họ trước các diễn tiến mới đó như thế nào? Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Có thể nói là Trung Quốc phản ứng khá mạnh, và mũi nhọn chủ yếu họ chĩa vào Việt Nam và Mỹ. Nói cụ thể, họ lên án Việt Nam đủ mọi chuyện, nào là muốn lợi dụng cương vị chủ tịch ASEAN (Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á) để lôi kéo và quốc tế hoá vấn đề biển Đông; lôi kéo Mỹ trở lại Việt Nam, hay Mỹ nhân dịp này quay trở lại Đông Nam Á để bao vây Trung Quốc. Những từ họ dùng cho Việt Nam, theo tôi, từ khi bình thường hoá quan hệ tới nay, chưa bao giờ họ dùng từ xấu về Việt Nam như vậy. VOA: Tức là phản ứng của họ rất mạnh mẽ, đúng không ạ? Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Mạnh mẽ và dữ dội. Họ cũng nói khá rõ rằng sẽ dùng vũ lực để giải quyết vấn đề biển Đông. Họ ngụ ý khá nhiều và cho rằng việc giải quyết vấn đề biển Đông bằng vũ lực là điều khó tránh khỏi, mặc dù hiện nay họ vẫn nói là phải dùng hai tay, tức là một tay hoà bình, một tay vũ lực, nhưng mà tay nào cũng phải cứng cả. Họ nói ám chỉ nhưng đối với Việt Nam họ nói khá rõ. Một số mạng chính thức như Hoàn Cầu, họ nói rõ là Việt Nam đấy. VOA: Ông là người nghiên cứu mối quan hệ Việt – Trung thời gian qua, thì theo đánh giá của ông, những động thái vừa qua sẽ còn diễn tiến như thế nào? Nhà nghiên cứu Dương Danh Dy: Theo tôi, muốn nhìn biển Đông thì còn phải nhìn tình hình Trung Quốc hiện nay, mà các nhà nghiên cứu quốc tế có lúc quên đi mất. Nội bộ Trung Quốc, theo tôi, có nhiều vấn đề như bây giờ, như vấn đề biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường rồi tình trạng nông dân, tình trạng phân bố giàu nghèo, rồi trượt đất hay lụt lội. Theo tôi hiểu và theo kinh nghiệm của tôi, mỗi khi trong nước có vấn đề thì Trung Quốc thường tìm cách cho nó xì ra bên ngoài để mà làm làm xẹp bớt cái phản ứng, phẫn nộ ở trong nước. Ngoài ra, nhân tiện tôi cũng nói luôn một vấn đề khác người ta ít để ý, là do trên đất liền cạn kiệt về tài nguyên, môi trường bị tàn phá cho nên việc khai thác biển Đông, dầu lửa, khoáng sản, hải sản, đang là cái cứu cánh cho Trung Quốc. Cho nên rõ ràng, giờ biển Đông là lợi ích sống còn của Trung Quốc, mà đã là lợi ích sống còn và cộng thêm cái bá quyền nữa, thì tôi xin nói thật là khó có thể lay chuyển được họ. *************** Không ai được mặc cả lợi ích của Việt Nam ở Biển Đông Tác giả: Phương Loan (ghi) Đa phương hay quốc tế, VN không có mục đích gì khác là giúp quốc tế hiểu đúng và rõ hơn vấn đề tại Biển Đông. Việc đa phương hay quốc tế không có nghĩa VN quay mặt lại với Trung Quốc, mà VN luôn nỗ lực đảm bảo và phát triển mối quan hệ song phương Việt - Trung. - TS Lê Văn Cương, nguyên Viện trưởng Viện khoa học Chiến lược Bộ Công an phân tích. Biển Đông nổi sóng dư luận TS Lê Văn Cương: Ngày 23/7, tại Diễn đàn ARF, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã gửi thông điệp đến cộng đồng 27 quốc gia thành viên bao gồm 10 nước ASEAN và 17 đối tác đối thoại. Theo đó, có 3 thông điệp lần đầu tiên Mỹ chính thức tuyên bố rõ ràng với thế giới. Một là, Mỹ coi cuộc tranh chấp chủ quyền của các quốc gia trên Biển Đông liên quan đến lợi ích quốc gia của Mỹ. Hai là, Mỹ tuyên bố rõ tranh chấp theo quan điểm của Hoa Kỳ là cần và có thể giải quyết bằng thương lượng hòa bình, song phương và đa phương. Các bên cần ngồi lại với nhau, trên cơ sở luật pháp quốc tế hiện có để tìm giải pháp và bất kì giải pháp nào đưa ra cũng phải tính đến lợi ích của các bên liên quan. Không có bên nào được độc chiếm lợi ích ở Biển Đông. Mỹ cũng phải đối các bên sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp trên Biển Đông. Ba là, Mỹ yêu cầu phải đảm bảo lưu thông hàng hải, cả dân sự và quân sự trên vùng biển quốc tế tại khu vực Biển Đông. Bất kì tranh chấp nào cũng không được ngăn cản quyền tự do hàng hải của các quốc gia. Câu hỏi đặt ra là, ba thông điệp của Mỹ có đúng và hợp lý? Phải khẳng định, yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng phương pháp hòa bình hoàn toàn phù hợp với Hiến chương LHQ, với cam kết xây dựng một khu vực hòa bình theo tinh thần Hiến chương ASEAN, đúng với Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông, và với xu thế hòa bình, ổn định trên thế giới này. Vì thế, không ngẫu nhiên khi các nước hưởng ứng thông điệp này. Yêu cầu về đảm bảo lưu thông hàng hải trên biển của Mỹ cũng hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật quốc tế, cụ thể là UNCLOS đã quy định cụ thể vấn đề này. Đó là luật chung của thế giới, không có cớ nào để không áp dụng ở Biển Đông. Như vậy, về mặt khoa học, tuyên bố của Mỹ phù hợp với pháp lý quốc tế, xu thế quốc tế, và nguyện vọng chính đáng của đa số các nước có liên quan. Vì thế, tuyên bố của Ngoại trưởng Mỹ đã tạo nên chấn động lớn. Các nước nói hay không nói thì trong thâm tâm đều ủng hộ. Nước phản đối gay gắt với phát biểu đó của Mỹ là Trung Quốc. Ba ngày sau tuyên bố, ngày 26/7, tờ Nhân dân Nhật báo của Trung Quốc có bài xã luận: "Mỹ hi vọng kìm chế một Trung Quốc với các khả năng quân sự ngày càng gia tăng". Qua bài viết, Trung Quốc gửi thông điệp mạnh mẽ, cho rằng, tuyên bố của bà Clinton là một tuyên ngôn tấn công trực diện nhằm bao vây Trung Quốc. Tờ Global Times - Thời báo Hoàn cầu thì viết, Trung Quốc không bao giờ từ bỏ quyền bảo vệ "lợi ích cốt lõi" của mình ở Biển Đông, kể cả sử dụng phương tiện quân sự. Rõ ràng, mâu thuẫn về phương pháp, cách nhìn đã xuất hiện trong việc giải quyết vấn đề biển Đông. Và ta cũng không nên lảng tránh một sự thật, rằng dư luận thế giới ủng hộ quan điểm của Mỹ hơn. Vấn đề Biển Đông gây xôn xao, thậm chí nóng lên sau ARF là hiểu được, không có gì bất ngờ. Tuy nhiên, không vì thế mà sẽ dẫn đến xung đột nóng trên Biển Đông. Ai phát động việc sử dụng quân sự trên Biển Đông, người đó tự rước thảm họa vào mình. Thực ra, Biển Đông làm nổi sóng dư luận là chính. Đó là sự cọ xát về quan điểm, mâu thuẫn về lợi ích, giữa các nước tranh chấp trực tiếp, và cả những nước trong và ngoài khu vực và có mối quan tâm. Ngay cả Trung Quốc và Mỹ có vẻ căng thẳng trong tuyên bố là thế, nhưng không vì thế mà hai nước sẽ làm đổ vỡ quan hệ. Đó chủ yếu là sự nắn gân, hù dọa lẫn nhau giữa các nước lớn mà thôi. Cán cân lợi ích không cho phép việc đổ vỡ quan hệ xảy ra. Vấn đề quốc tế, không phải công việc nội bộ của Trung Quốc Hơn một tuần qua, nhiều bài viết của các học giả Trung Quốc xuất hiện, nhằm nhắc nhở, khuyến cáo, vỗ về và cảnh báo các nước ASEAN: không quốc tế hóa vấn đề Biển Đông, và nhắc các nước cẩn thận, kéo Mỹ vào là lợi bất cập hại. Trung Quốc cho rằng nên xử lý ở cấp độ song phương, gói gọn vấn đề trong quan hệ Trung Quốc - ASEAN, ngăn sự tham gia của bên thứ 3 (ám chỉ Mỹ). Những phát biểu trên là dễ hiểu, dựa trên lập trường của Trung Quốc, rằng Biển Đông là lợi ích cốt lõi của Trung Quốc, ngang hàng với các vấn đề Đài Loan, Tây Tạng, Tân Cương. Thực tế, trên thế giới, không ai chấp nhận quan điểm này của Trung Quốc. Tây Tạng, Tân Cương là những vấn đề nội bộ của Trung Quốc. Việt Nam hoàn toàn ủng hộ việc Trung Quốc toàn quyền xử lý. Việt Nam cũng ủng hộ chính sách một Trung Quốc, nói và hành xử đúng như vậy với Đài Loan. Thế nhưng, Biển Đông không phải là vấn đề nội bộ của Trung Quốc, mà là vấn đề khu vực và quốc tế. Trung Quốc không có căn cứ nào để nói Biển Đông là vấn đề của riêng mình. Xếp Biển Đông ngang hàng với các vấn đề Tây Tạng, Tân Cương cũng vô căn cứ như chính tuyên bố về đường ranh giới 9 đoạn cắt khúc chữ U của Trung Quốc trên Biển Đông vậy. Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982 đâu chỉ dành cho khu vực Biển Đông mà được áp dụng với mọi quốc gia trên thế giới. Các nước đều tuân thủ và hưởng lợi từ luật pháp quốc tế này. 28 năm qua, tất cả các tranh chấp quốc tế về biển đều dựa trên UNCLOS để xử lý, không cớ gì Biển Đông lại là ngoại lệ. Theo UNCLOS, mỗi quốc gia được sở hữu vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở. Điều đó là hiển nhiên và không phải bàn cãi. Đó là mảnh đất đã được quốc tế cấp sổ đỏ, không một cá nhân, một quốc gia nào có thể xâm phạm. Không ai xâm phạm quyền của Trung Quốc và Trung Quốc cũng không có quyền xâm phạm quyền của Việt Nam và các nước khác. Xếp Biển Đông vào vấn đề mang tính "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc đã va chạm mạnh với khu vực, với Mỹ và các cường quốc khác. Điều này đi ngược lại tuyên ngôn "trỗi dậy hòa bình" mà chính Trung Quốc đã cố quảng bá nhiều năm qua. Nó cũng trái với điều các lãnh đạo Trung Quốc tuyên bố, về 5 nguyên tắc chung sống hòa bình, trái với Hiến chương LHQ, với DOC. Tuân thủ DOC, Biển Đông sẽ không nổi sóng Dù tình hình Biển Đông có vẻ phức tạp, và là vấn đề phức tạp nhất, nóng bỏng nhất trong các tranh chấp biển trên thế giới, nhưng không phải không có lối thoát. Nếu các bên đều kiềm chế, tôn trọng DOC, chắc chắn Biển Đông không bao giờ nổi sóng. Một khi Biển Đông nổi sóng, không ai là người có lợi. Nước nào cố tình gây sự, tham bát bỏ mâm, dùng quân sự độc chiếm Biển Đông, họ sẽ tự hại mình. Không giống như UNCLOS, Tuyên bố về Ứng xử trên Biển Đông DOC không có tính ràng buộc pháp lý cao, thế nhưng, nó lại là tuyên ngôn chính trị chính thống của 11 quốc gia đã kí kết. Đó là tuyên ngôn của 11 nước với nhau và với thế giới. Dù tình hình phức tạp, không nước nào có quyền và có gan để từ bỏ DOC, bởi rút ra khỏi DOC có nghĩa là nước đó sẽ tự cô lập mình, chịu thiệt cả về chính trị, an ninh và quốc phòng. Một khi đi quay mặt với tuyên bố chính trị của mình, thế giới có ai tin được nước đó, nhất là với một nước đang trỗi dậy. Việc tập trận trên Biển Đông, phát biểu này khác dù cứng rắn cũng chỉ là cách Trung Quốc gửi thông điệp tới Mỹ rằng không phải việc của Mỹ tại Biển Đông, và răn đe ASEAN. Thế nhưng, từ thông điệp đến hành động quân sự, Trung Quốc sẽ còn phải cân nhắc nhiều. Nếu có hành động quân sự trên Biển Đông, Trung Quốc sẽ tự tay xé DOC. Tuyên bố "trỗi dậy hòa bình" sẽ không còn giá trị. Không ai có quyền mặc cả về lợi ích quốc gia Về phần Việt Nam, trong tình hình có vẻ phức tạp hiện nay, cần hết sức tỉnh táo và sáng suốt. Một mặt, Việt Nam cần tiếp tục củng cố quan hệ với Trung Quốc, nước lớn, láng giềng. Phát triển một quan hệ tốt với Trung Quốc có lợi cho Việt Nam, khu vực và cả thế giới. Đó cũng là điều mà Chính phủ Việt Nam theo đuổi hiện nay. Tuy nhiên, tiếp tục phát triển quan hệ Việt - Trung không đồng nghĩa với việc Việt Nam từ bỏ lợi ích quốc gia của mình tại Biển Đông hay trong bất kì vấn đề gì khác. Việt Nam không bao giờ vì 16 chữ hay 4 tốt mà từ bỏ lợi ích dân tộc mình. Không ai có quyền mặc cả với bất kì người nào, nước nào về chủ quyền với "mảnh đất đã được quốc tế cấp sổ đỏ" cho Việt Nam ở Biển Đông. Việt Nam cần tạo nhận thức thống nhất, không mơ hồ trong vấn đề này. Việt Nam coi trọng Trung Quốc, coi trọng mối quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai với Trung Quốc nhưng nó không có nghĩa Việt Nam từ bỏ chủ quyền quốc gia. Cũng phải nói cho rõ, Việt Nam không kéo Mỹ hay bất kì nước nào khác vào giải quyết vấn đề Biển Đông. Việt Nam chỉ ủng hộ những quan điểm phù hợp với luật pháp quốc tế và xu thế thời đại. Việc một số báo chí Trung Quốc nói Việt Nam lôi kéo Mỹ chỉ là sự vu cáo vô lý. Việt Nam không chủ trương phe cánh, hay dựa vào ai để giữ Biển Đông, mà dựa trên luật pháp quốc tế. Chúng ta cũng không thể đặt vấn đề Biển Đông theo hướng ASEAN một bên và bên kia là Trung Quốc, tạo sự căng thẳng không cần thiết. Việt Nam tôn trọng và quyết tâm giải quyết vấn đề Biển Đông bằng con đường hòa bình, cả song phương, đa phương, linh hoạt theo từng vấn đề, thời điểm, trên cơ sở luật pháp quốc tế và 5 nguyên tắc chung sống hòa bình. Việt Nam chủ trương giải quyết song phương, tận dụng đa phương và quốc tế. Dù đa phương hay quốc tế, Việt Nam không có mục đích gì khác là giúp quốc tế hiểu đúng và rõ hơn vấn đề tại Biển Đông. Việc đa phương hay quốc tế không có nghĩa Việt Nam quay mặt lại với Trung Quốc, mà luôn nỗ lực đảm bảo và phát triển mối quan hệ song phương Việt - Trung. Đó là chính sách trước sau như một của Việt Nam, không bao giờ lôi kéo một nước thứ ba chống lại Trung Quốc. Và việc bảo vệ lợi ích dân tộc, không gian sinh tồn của dân tộc này ở Biển Đông cũng là chính sách trước sau như một, Việt Nam quyết làm bằng được. Củng cố quan hệ song phương với Trung Quốc, đặt thẳng vấn đề Biển Đông để xử lý, Việt Nam cũng có quyền và cần chủ động giải quyết vấn đề Biển Đông song phương với các nước có liên quan. Trao đổi với các nước ASEAN, với Mỹ hay nước nào quan tâm, chia sẻ quan điểm giải quyết vấn đề hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế... là quyền và lợi ích của Việt Nam. Đó là các kênh tiếp cận khác nhau, là các bước đi nhỏ để trên cơ sở tôn trọng và nhân nhượng lẫn nhau, tiến tới tạo nên bước đi lớn, tìm giải pháp đảm bảo lợi ích công bằng ở Biển Đông. Việt Nam cần làm điều này một cách minh bạch, công khai và dựa trên luật pháp quốc tế. Đồng thời, cần làm cho người dân hiểu và hiểu đúng về vấn đề trên Biển Đông và quan hệ với các nước, từ đó tạo sự đồng thuận và quyết tâm, tạo sức mạnh bảo vệ chủ quyền dân tộc. Không kích động chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, thế nhưng, Việt Nam cần nói cho dân biết, cần nói đúng, nói thẳng và nói rõ cho dân, không mơ hồ. Những thông tin đưa ra phải trung thực, tôn trọng lịch sử, không xuyên tạc, bóp méo lịch sử, không để tình cảm yêu ghét can thiệp vào những thông tin mang tính khoa học để bảo vệ chủ quyền quốc gia. Trong công cuộc đó, báo chí phải góp sức nhiều hơn nữa.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 3:39:28 GMT 9
Dùng biện pháp quân sự, Trung Quốc sẽ tự cô lập mìnhTác giả: Minh Anh - Phương Loan Trung Quốc sẽ phải đấu dịu sau đó, nếu không thì khó có thể ai chơi với Trung Quốc được. Bối cảnh hiện nay tạo cho Việt Nam một thời cơ hiếm có để giành được sự ủng hộ của thế giới bên ngoài và hậu thuẫn của nhân dân trong nước - Giáo sư Ngô Vĩnh Long nhận định. LTS: Tuần Việt Nam trò chuyện với Giáo sư Ngô Vĩnh Long về một chủ đề nóng bỏng hiện nay: an ninh Biển Đông sau một loạt những động thái căng thẳng giữa Mỹ và Trung Quốc cùng những lựa chọn ứng xử cho Việt Nam. Giáo sư Ngô Vĩnh Long là học giả người Việt nổi tiếng tại Mỹ, hiện đang giảng dạy lịch sử tại ĐH Maine. Ông vừa trở về từ Hội thảo Hè tại Philadelphia, bàn về tranh chấp Biển Đông và an ninh con người. Phía sau những động thái khiêu khích của Trung Quốc - Được biết, tại hội thảo Hè tại Philadelphia năm nay, các nhà nghiên cứu đặt vấn đề về vai trò của Trung Quốc, Mỹ và các nước trong khu vực. Quan điểm của các học giả liên quan đến vai trò của các nước lớn trong vấn đề an ninh khu vực như thế nào? Hội thảo Hè vừa rồi được tổ chức là vì nhiều học giả người Việt đang ở nước ngoài nhận thấy là Trung Quốc càng ngày càng đe dọa an ninh của các nước trong khu vực Đông Nam Á cũng như Bắc Á, chứ không chỉ đối với riêng vấn đề tranh chấp Biển Đông. Trung Quốc cố tình khiêu khích Mỹ để uy hiếp các nước khác trong khu vực. Năm 2008, Trung Quốc đòi chia đôi Thái Bình Dương với Mỹ, và để Trung Quốc kiểm soát toàn bộ Tây Thái Bình Dương đến phía tây quần đảo Hawaii. Sau khi Mỹ từ chối thì tàu hải quân Trung Quốc đã gây sự với tàu Mỹ 2 lần vào năm 2009. Sau đó, vì Mỹ và các nước lớn khác không có thái độ cương quyết đối với những hành động khiêu khích và những yêu sách vô lý vừa đề cập ở trên, Trung Quốc đã liên tục uy hiếp Việt Nam và một số nước khác trong khu vực Biển Đông như cấm đánh cá, bắt thuyền đánh cá và ngư dân... Đặc biệt, tháng 4/2010, Trung Quốc đã đưa các chiến thuyền hiện đại nhất thuộc cả 3 hạm đội hải quân của họ (hạm đội Nam Hải, Đông Hải và Bắc Hải) xuống vùng Trường Sa tập trận gần 3 tuần. Và mới đây, hải quân Trung Quốc lại tiến hành cuộc tập trận bắn đạn thật trên Biển Đông. Trung Quốc cũng đã tuyên bố với riêng với hai viên chức cao cấp Mỹ vào cuối tháng 3/2010 rằng Biển Đông là khu vực "lợi ích cốt lõi" của Trung Quốc. Tức là cũng ngang tầm với Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương; và vì thế Trung Quốc sẽ không bao giờ nhân nhượng hay thỏa hiệp ở đây, tuy Trung Quốc vẫn thường nói là sẽ thương lượng song phương với từng nước ở Đông Nam Á. Trước sự đe dọa và đòi hỏi phi lý của Trung Quốc, trong những tháng qua, Hoa Kỳ đã có bước chuyển chính sách đối phó với Trung Quốc. Có thể nói, đây là một thắng lợi lớn về ngoại giao của ASEAN. Rõ ràng, trước thái độ khiêu khích như thế hầu như trên toàn bộ Tây Thái Bình Dương, nếu Mỹ và các nước lớn khác không cùng nhau tỏ thái độ cương quyết với Trung Quốc thì nước này trên thực tế đã uy hiếp được các nước nhỏ trong vùng cũng như sẽ càng ngày càng gây thêm mất an ninh cho khu vực. - Phía sau những động thái khiêu khích mà ông đề cập ở trên là gì? Phải thấy rằng, đối tượng chính của Trung Quốc ở Tây Thái Bình Dương nói chung, Biển Đông nói riêng, là Hoa Kỳ. Trung Quốc đã cố tình thách thức, nếu không nói là gây hấn, để mong Mỹ, trong lúc phải đương đầu với 2 cuộc chiến tranh ở Iraq và Afghanistan, phải có thái độ nhũn nhặn với Trung Quốc, nếu không nói là có thể nhượng bộ những đòi hỏi của Trung Quốc không những trong khu vực Tây Thái Bình Dương hay Biển Đông mà còn trong các lĩnh vực kinh tế - tài chính nữa. Nếu làm được việc này, không những Trung Quốc hù dọa được các nước khác trong khu vực mà cũng còn lấy điểm với dân chúng họ bằng cách dấy lên lòng tự hào dân tộc. Riêng tại khu vực Biển Đông, đối tượng chính của Trung Quốc là Việt Nam vì Việt Nam là nước "núi liền núi, sông liền sông" với Trung Quốc, có lãnh thổ và lãnh hải dài nhất trong vùng và có tranh chấp nhiều nhất với Trung Quốc. Nếu Bắc Kinh có thể làm áp lực Chính phủ Hà Nội tỏ thái độ nhân nhượng trên biển cũng như trên đất liền thì Trung Quốc có thể ít nhất là trung lập hóa được các nước khác vì họ không có lợi ích nhiều như Việt Nam trong việc tranh chấp với Trung Quốc. Không ai dại gì đưa đầu ra nếu nước bị mất mát nhiều nhất không dám đấu tranh cho quyền lợi của chính mình. Do đó, Trung Quốc đã rất khôn khéo trong việc hù dọa và chỉ chủ yếu đánh bắt ngư dân Việt Nam. Bước chuyển chính sách của Hoa Kỳ - Nhưng có vẻ ý đồ trên đã không thành công khi tại Diễn đàn ARF do Việt Nam chủ trì tại Hà Nội vừa qua, người ta chứng kiến Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã ra tuyên bố mạnh mẽ và dứt khoát về tranh chấp Biển Đông. Ông đánh giá như thế nào về các động thái mới này? Trước sự thách đố cố tình của Trung Quốc đối với Mỹ để hù dọa các nước khác trong khu vực, Mỹ đã nhiều lần tuyên bố công khai là họ muốn Trung Quốc trở thành một cường quốc có trách nhiệm. Nhưng việc Trung Quốc tuyên bố Biển Đông là khu vực "lợi ích cốt lõi" và việc sử dụng những chiến thuyền từ cả ba hạm đội để diễn tập tại khu vực gần quần đảo Trường Sa là những giọt nước tràn ly. Mỹ không thể nhân nhượng mãi vì như thế sẽ làm cho Mỹ mất uy tín không những ở Châu Á Thái Bình Dương mà còn nhiều nơi khác nữa. Trung Quốc được thể sẽ tiếp tục nói là Mỹ chỉ là "con hổ giấy." Do đó, ngày 5/6/2010, tại diễn đàn Đối thoại Shangri-La họp ở Singapore, trước sự hiện diện của nhiều nhân vật từ gần 30 quốc gia, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Gates đã chỉ trích Trung Quốc trực diện (tuy không nói tên) là Mỹ "phản đối mọi hành động hù dọa đối với các công ty Mỹ hoặc bất cứ nước nào đang hoạt động kinh tế chính đáng" ở khu vực Biển Đông. Ông Gates nhắc lại vài lần là cần phải có các đối thoại và cố gắng đa phương để giải quyết các tranh chấp trong khu vực Biển Đông một cách hòa bình và trong khuôn khổ luật quốc tế. Tại cuộc họp cấp ngoại trưởng cuối tháng 7 tại Hà Nội, bà Hillary Clinton đã khẳng định Mỹ có "quyền lợi quốc gia" trong việc tự do lưu thông hàng hải và hàng không và hứa sẽ giúp điều phối các thương lượng giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ luật pháp quốc tế. Trước đó bà đã phát biểu tại cuộc họp các ngoại trưởng nói trên là vấn đề tranh chấp trong khu vực biển chiến lược này là một "ưu tiên ngoại giao hàng đầu" ("leading diplomatic priority). Nhưng giờ đây, nó đã trở thành một vấn đề "an ninh mấu chốt cho khu vực" ("pivotal to regional security). Trước sự đe dọa và đòi hỏi phi lý của Trung Quốc, trong những tháng qua, Hoa Kỳ đã có bước chuyển chính sách đối phó với Trung Quốc. Có thể nói, đây là một thắng lợi lớn về ngoại giao của ASEAN. "Trung Quốc chỉ có thể quậy Biển Đông nổi sóng thời gian ngắn" - Tuy nhiên, người ta có cảm giác, chính sự can dự lớn hơn của các nước lớn với vấn đề Biển Đông dường như lại đang đẩy tình hình thêm căng thẳng, khi Trung Quốc tiến hành tập trận ở Biển Đông, và báo chí nước này đồng loạt lên tiếng chỉ trích Mỹ và các nước nhỏ trong khu vực đã lôi kéo sự can dự của Mỹ. Bình luận của ông? Việc Trung Quốc gây thêm căng thẳng qua những tuyên bố hiếu chiến và qua các tập trận gần đây trong một vùng mà Trung Quốc chưa bao giờ có ảnh hưởng gì trong lịch sử lại càng chứng minh cho thế giới biết là nước này ngang ngược và bất chấp sự thật cũng như an ninh chung. Do đó, tôi nghĩ Trung Quốc càng hùng hổ thì sẽ càng cho các nước khác trong khu vực và trên thế giới thấy rõ thêm ý đồ bành trướng của Trung Quốc cũng như việc đe dọa an ninh đối với khu vực và thế giới. - Theo ông, khả năng Trung Quốc sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề Biển Đông như nhận định của một số chuyên gia quân sự Bắc Kinh có thể xảy ra hay không? Nếu Trung Quốc là một nước lớn có trách nhiệm thì tôi thiết tưởng Trung Quốc sẽ không muốn sử dụng vũ lực để giải quyết vấn đề Biển Đông vì việc dùng vũ lực không những không giải quyết được gì cả mà sẽ gây phản ứng của nhiều nước khác trong khu vực cũng như trên các nơi khác trên thế giới. Trong trường hợp này, Trung Quốc có thể sẽ bị cô lập một lần nữa. Việc Mỹ giúp Trung Quốc mở cửa đến với thế giới đã giúp cho Trung Quốc lớn mạnh như ngày nay. Nhưng đằng khác, với nhiều vũ khí tối tân và hùng hậu như hiện nay nhưng với tinh thần thiếu trách nhiệm thì Trung Quốc cũng có thể như một đứa trẻ đang lớn lên: càng có nhiều đồ chơi thì càng chơi ẩu tả. Trong trường hợp nầy thì người lớn phải có trách nhiệm với đứa trẻ ấy. - Những động thái mới này ảnh hưởng như thế nào đến tình hình ở Biển Đông? Cùng lắm thì Trung Quốc cũng chỉ có thể quậy Biển Đông nổi sóng lên một thời gian ngắn thôi. Nhưng Trung Quốc sẽ phải đấu dịu sau đó, nếu không thì khó có thể ai chơi với Trung Quốc được. Thêm vào đó là an ninh trên khu vực Biển Đông là có lợi cho Trung Quốc về xa về dài. ASEAN không cần đoàn kết 100% mới được thế giới ủng hộ - Năm ngoái, Trung Quốc đã thành công trong việc ngăn cản không đưa vấn để Biển Đông ra bàn thảo tại Hội nghị cấp cao ASEAN. Năm nay thì ngược với mọi nỗ lực của họ, ASEAN đã thể hiện một quan điểm chung. Liệu đã có thể hi vọng vào một ASEAN, vốn đã bị chia 5 xẻ 7 đoàn kết hơn trong việc đối phó với các thách thức an ninh khu vực? Trước hết, trong bối cảnh hiện nay các nước trong khu vực đang trên đà thắng thế và Trung Quốc, nếu tiếp tục với những động thái mang tính nạt nộ hiện nay, thì sẽ càng ngày càng yếm thế. ASEAN hiện nay đang thể hiện một quan điểm chung về an ninh trên Biển Đông và trong khu vực và quan điểm chung này đã được hầu hết các nước lớn khác (ngoài Trung Quốc) ủng hộ. ASEAN không cần đoàn kết 100% mới được sự ủng hộ của các nước lớn và của thế giới. Chỉ cần một số nước lớn trong ASEAN vận động sự ủng hộ của thế giới là đủ. Thời cơ hiếm có cho Việt Nam - Với những biến chuyển chính sách của các nước lớn và ASEAN thời gian qua, theo ông, đâu là lựa chọn ứng xử khôn ngoan cho Việt Nam? Là nước có lãnh thổ và lãnh hải dài nhất trong khu vực Biển Đông, tôi thiết nghĩ Việt Nam, dù là Chủ tịch ASEAN hay không, thì cũng có tiếng nói rất có trọng lượng nếu Việt Nam ứng xử đàng hoàng và cao thượng. Không thể phủ nhận là Việt Nam đã có những cố gắng rất lớn, như công khai hóa vấn đề. Thứ nữa, Việt Nam đang xúc tiến mua thêm nhiều vũ khí, tàu ngầm, tàu chiến... Giới lãnh đạo Việt Nam cũng lên tiếng mạnh mẽ tuyên bố sẽ bảo vệ từng tấc đất, tấc biển của Tổ quốc... họ đã tỏ thái độ can đảm đặt vấn đề như vậy. (GS Nguyễn Mạnh Hùng, ĐH George Mason (Hoa Kỳ) Nếu Việt Nam không nối kết việc tranh chấp chủ quyền 2 quần đảo Trường Sa - Hoàng Sa với an ninh chung, trên biển cũng như trên đất liền, thì các nước khác có thể áp dụng chính sách "bánh còng", để mặc cho Việt Nam đương đầu với Trung Quốc tranh chấp hai quần đảo nằm trong vòng lỗ của bánh còng trong khi họ cùng nhau bảo vệ an ninh hàng hải và hàng không trên các tuyến giao thông bên ngoài hai quần đảo đó. Trong trường hợp này thì Việt Nam sẽ bị cô độc và thiệt thòi rất lớn. - Nhưng một loạt các hội thảo quốc tế về vấn đề Biển Đông, cũng như những diễn tiến mới vừa qua tại Hà Nội cho thấy chính phủ Việt Nam đang đi đúng hướng đấy chứ? Đúng vậy. Đây là hướng đi cần được tiếp tục ủng hộ và khuyến khích. Việt Nam nên tiếp tục nghiên cứu về Hoàng Sa và Trường Sa cho thật sâu, thật kĩ để chứng minh cho thế giới thấy là mình có cơ sở như thế nào, ở chỗ nào, hầu vận động được sự ủng hộ của thế giới. Nhưng vấn đề quan trọng là gắn liền việc tranh chấp với việc đấu tranh cho an ninh của toàn khu vực, không phải chỉ là an ninh con người. Và để giành được hậu thuẫn của thế giới bên ngoài, Việt Nam cũng nên củng cố hậu thuẫn của nhân dân trong nước như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn nhiều lần. Bối cảnh hiện nay tạo cho Việt Nam một thời cơ hiếm có để làm tốt hai việc này và, qua đó, để đưa đất nước và dân tộc tiến đến một tương lai sáng lạng
|
|