|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 3:41:42 GMT 9
Đi quá xa, Trung Quốc thu hút Mỹ vào tranh chấp Biển Đông Tác giả: BARRY WAIN (Wall Street Journal) Có lẽ do đi quá xa trong vấn đề Biển Đông, Bắc Kinh đã thu hút Mỹ vào cuộc tranh chấp chủ quyền ở khu vực này. Với cuộc tập trận bắn đạn thật tại Biển Đông, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã gửi đi một tín hiệu rõ ràng rằng: Đúng như tuyên bố của người phát ngôn Bộ Quốc phòng Trung Quốc Canh Diên Sinh, chủ quyền của Trung Quốc với biển và các đảo tại đây là "không thể tranh cãi". Các tàu chiến từ cả ba hạm đội của Trung Quốc đều tham dự, cùng với máy bay chiến đấu, tên lửa tấn công mục tiêu tầm xa. Cuộc tập trận đã vi phạm tinh thần mà Trung Quốc cam kết với những quốc gia láng giềng tám năm trước đây. Bắc Kinh đã cùng với Hiệp hội các nước Đông Nam Á đã ký Tuyên bố ứng xử của các bên tại Biển Đông DOC trong đó nhấn mạnh không đe dọa hay sử dụng vũ lực ép buộc các nước tuyên bố chủ quyền, cam kết hợp tác xây dựng lòng tin. Tuy nhiên, cuối cùng, người ta đã rõ một điều rằng, thay vào đó, Bắc Kinh đã sử dụng thỏa thuận để lảng tránh vấn đề tranh chấp lãnh thổ, đưa vấn đề ra khỏi chương trình nghị sự khu vực trong khi tăng cường tuyên bố chủ quyền với hầu hết các đảo ở Biển Đông và vùng biển bao quanh. Tức giận vì Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton gần đây tuyên bố Mỹ có "lợi ích quốc gia" ở Biển Đông đồng thời kêu gọi xây dựng tiến trình đa phương giải quyết tranh chấp chủ quyền các đảo, Bắc Kinh đã phô bày sức mạnh của mình. Cùng với những cuộc tập trận quy mô lớn chưa từng thấy, báo chí địa phương đã có hàng loạt bài báo bình luận về tuyên bố chủ quyền quá mức của Trung Quốc. Tàu chiến Trung Quốc tập trận ở Biển Đông. (Ảnh: THX). Những cuộc phô diễn lực lượng của Trung Quốc có ý nghĩ truyền tải thông điệp rằng, Bắc Kinh cho là Washington không có quyền can dự ở Biển Đông, nơi Trung Quốc, Đài Loan và bốn quốc gia Đông Nam Á đều đưa ra tuyên bố chủ quyền. Nhưng, hành động của Trung Quốc dường như đã gây phản ứng tiêu cực trong khu vực. Phần lớn Đông Nam Á, đã ngày càng quan ngại về cách hành xử của Trung Quốc tại Biển Đông, coi động thái của Bắc Kinh gần đây là một ví dụ khác cho sự độc đoán. Trong khi không mong chờ nhiều từ lời đề nghị của bà Clinton trong tổ chức đối thoại đa phương về tuyên bố chủ quyền đầy phức tạp, thì triển vọng của một vai trò an ninh tích cực hơn từ Mỹ đã được đón nhận, hoan nghênh, đặc biệt với những quốc gia Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông. Trung Quốc và ASEAN đã cam kết thuân thủ luật pháp quốc tế, kiềm chế bất kỳ hành động nào có thể "làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp, ảnh hưởng tới hòa bình và ổn định". Dù sao thì, với bản chất của một tài liệu chính trị, tuyên bố trên có nhiều lỗ hổng ví dụ như đã không đề cập phạm vi địa lý rõ ràng, hay một số điều khoản khá mơ hồ. Mục đích chính của tuyên bố (như các quan chức sau đó thừa nhận) là gửi một tín hiệu tới cộng đồng quốc tế rằng, Biển Đông không phải là "điểm nóng" khi Trung Quốc với ASEAN có quan hệ kinh tế ngày một gần gũi hơn. Không còn nghi ngờ gì nữa, các cường quốc chính có lợi ích trong tự do hàng hải ở một vùng biển chiến lược như Biển Đông đã "lặng lẽ" ngồi bên lề, trong khi thương mại và đầu tư Trung Quốc - tăng vọt. Tuy nhiên, trong vùng biển này, lời hứa tự kiềm chế bị phớt lờ. Trung Quốc đưa ra quan điểm cứng rắn hơn, gây hấn hơn về Biển Đông và bắt đầu trình diễn sức mạnh của họ với xung quanh. Căng thẳng gia tăng trong ba năm qua khi Bắc Kinh đe dọa các công ty dầu khí quốc tế đang hoạt động ở Biển Đông. Chiến dịch hiện đại hóa hải quân Trung Quốc được thực hiện ráo riết, nhiều vụ "quấy nhiễu" tàu Mỹ xảy ra, Trung Quốc áp đặt lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương và bắt giữ hàng trăm ngư dân Việt Nam. Trong lúc đó, nhóm làm việc chung Trung Quốc - ASEAN cam kết khảo sát các biện pháp xây dựng lòng tin, để dẫn tới việc thành lập một Bộ quy tắc ứng xử, lại chỉ gặp nhau có ba lần, và Bắc Kinh dường như không hứng thú đi xa hơn. Trung Quốc chỉ trích mạnh mẽ, gần đây là trực tiếp nhằm vào Mỹ về chuyện "quốc tế hóa" tranh chấp Biển Đông. Bắc Kinh phủ nhận gây sức ép hoặc đe dọa tới hòa bình khu vực bắt nguồn từ tuyên bố chủ quyền "quá mức", đồng thời cảnh báo chống lại chiến thuật siêu cường truyền thống được áp dụng để duy trì ưu thế ở một khu vực tranh chấp. Nhưng Bắc Kinh đã nhận thức rõ ràng hơn rằng, khi Ngoại trưởng Mỹ đưa ra vấn đề Biển Đông tại một diễn đàn an ninh khu vực ở Hà Nội ngày 23/7, những nước khác đã cùng "chia sẻ" sự quan ngại. Đó là Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei cũng như Indonesia, EU, Australia và Nhật Bản. Trung Quốc đã phạm phải một sai lầm chiến thuật bằng tuyên bố Biển Đông "là lợi ích cốt lõi" và rung chuông báo động các cường quốc châu Á - Thái Bình Dương khác. Bằng việc đi quá xa, họ đã thu hút Mỹ vào cuộc tranh chấp. Chừng nào không khí căng thẳng hiện tại qua đi, Bắc Kinh sẽ phải suy nghĩ về cách ứng xử lại với ASEAN: Hoặc chừng mực hơn, hoặc đối mặt với nguy cơ đẩy các nước trong khu vực vào một liên minh thân cận hơn với Mỹ. * Thụy Phương (Theo WSJ) *************** Cuộc chơi quyền lực ở Biển Đông Tác giả: Geoff Dyer (Financial Times) Khi sự hoài nghi ngày một gia tăng tại Đông Nam Á về những dụng ý của Trung Quốc ở Biển Đông, sự hiện diện của Mỹ đích thực là một nhà hoà giải tự nhiên. Người ta từng chứng kiến việc Trung Quốc với mạng lưới đường sắt mới được thiết lập ở các vùng nội địa xa xôi hay khắp nơi là công xưởng. Giữa bối cảnh "nhà nhà làm thép, người người làm thép", khái niệm nhận dạng mới về một quốc gia đã được tôi luyện trong một đất nước muốn nắm giữ vị trí hàng đầu trong thế giới. Giờ đây, trong bối cảnh hiện tại, ở nhiều phần châu Á, người ta đang chứng kiến một cuộc đua không chỉ có Trung Quốc mà cả Ấn Độ, Hàn Quốc và Australia đều đầu tư mạnh vào hải quân, xây dựng những hạm đội biển khơi mới để nắm giữ các đại dương. Chính sách ngoại giao khu vực - nơi Mỹ từng chiếm ưu thế thời hậu chiến - ngày một quan ngại về một sự cân bằng quyền lực mỏng manh. Nổi lên trong đó là tuyên bố nóng hổi tại Hà Nội vào cuối tháng trước của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. Tại một cuộc gặp khu vực, bà nói, Mỹ sẵn sàng hành động như một nhà trung gian trong các cuộc đối thoại về tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông giữa Trung Quốc và nhiều nước liên quan. Nhiều đảo ở Biển Đông tuy có thể không giàu tài nguyên nhưng lại ở vị trí gần gũi với các tuyến đường biển quan trọng trong lộ trình hàng hải thế giới, nên đóng vai trò chiến lược lớn. Vì thế, bài phát biểu của Ngoại trưởng Mỹ Clinton được coi là một trong những biểu tượng mạnh mẽ nhất trong cuộc chiến ngoại giao sẽ định dạng châu Á trong vài thập niên tới - cuộc tranh giành giữa Mỹ và Trung Quốc để trở thành tiếng nói chủ chốt. Phát biểu của bà Clinton có hai mục đích. Một là nhấn mạnh rằng, trong ngoại giao châu Á, Mỹ đã trở lại. Thời kỳ cầm quyền của George W. Bush, một số chính phủ châu Á đã cảm thấy Mỹ đã mất đi lợi ích trong khu vực. Hơn thế nữa, bài phát biểu là một thông điệp gửi tới khu vực về một Trung Quốc với sự trỗi dậy khó phủ nhận. Kể từ vụ chìm tàu chiến Cheonan của Hàn Quốc hồi tháng 3, Washington đã "tận dụng" việc Bắc Kinh miễn cưỡng chỉ trích Triều Tiên để thúc đẩy quan hệ với Seoul và tạo ra chỗ trống trong quan hệ Trung - Hàn. Khi sự hoài nghi ngày một gia tăng tại Đông Nam Á về những dụng ý của Trung Quốc ở Biển Đông, sự hiện diện của Mỹ đích thực là một nhà hoà giải tự nhiên. Phác thảo rõ ràng chiến lược này không còn là điều mới mẻ. Nhưng chính quyền của Obama cũng không ngừng "tận dụng" khoảng thời gian đã mất. Trong thập niên qua hay nhiều hơn thế, Trung Quốc đã chiếm mất tấm bản đồ ảnh hưởng của Mỹ tại châu Á. Những cuộc chiến tại Afghanistan và Iraq lại trở thành món quà chiến lược với Bắc Kinh. Trong khi Mỹ mải mê truy lùng al-Qaeda và vũ khí huỷ diệt, Trung Quốc đã giải quyết các tranh chấp biên giới với nước láng giềng từ Nga ở phía bắc đến Việt Nam ở phía nam (mặc dù không gồm Ấn Độ). Một thập niên tăng trưởng hai con số đã giúp Trung Quốc tạo ra thay đổi trong trục kinh tế của châu Á, Bắc Kinh thiết lập đường ống dẫn tới Trung Á, đầu tư vào các dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên ở Myanmar, Indonesia và Philippines, hỗ trợ tài chính cho xây dựng những hải cảng mới tại Ấn Độ Dương. Trung Quốc cũng vui vẻ tiếp cận với Mỹ về các vấn đề kinh tế, gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và tích trữ trái phiếu Mỹ, nhưng Bắc Kinh cũng không ngừng gia tăng sức mạnh quân sự. Hơn cả việc chuẩn bị cho một cuộc chiến với Mỹ, các nhà hoạch định Trung Quốc cuối cùng còn muốn "hất cẳng" Mỹ ra khỏi các vị trí mà nước này chiếm ưu thế tại vùng biển châu Á bằng việc phát triển hàng loạt hệ thống tên lửa mà họ mô tả là những vũ khí "chống tiếp cận". Trong năm ngoái, sự "gây hấn" của Trung Quốc tại châu Á đã làm nảy sinh vấn đề, ít nhất là tại Biển Đông - nơi nhiều quốc gia châu Á coi là "phong vũ biểu" về cách "đối đãi" của Trung Quốc đối với họ. Giữa lúc căng thẳng gia tăng, Trung Quốc lại đưa ra tuyên bố Biển Đông là "lợi ích cốt lõi" của họ giống như Đài Loan và Tây Tạng. Ngay lập tức, các nước châu Á, đặc biệt là những quốc gia tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông đặc biệt thận trọng theo dõi động thái của Trung Quốc và mong muốn Mỹ "tái lập" vị thế. Thậm chí cả Lý Quang Diệu của Singapore - người trong thập niên trước từng nhiều lần ca ngợi Bắc Kinh, năm ngoái đã thúc giục Mỹ duy trì thế "siêu cường" của Thái Bình Dương. Trong bối cảnh hiện tại, quả bóng quyền lực đang ở sân của Trung Quốc hay Mỹ? Nếu Trung Quốc ngăn chặn sự can thiệp của Mỹ trong khu vực thì sẽ phải đối đầu với nguy cơ khiến các nước láng giềng lo ngại mà đứng về phía Mỹ. Các quốc gia châu Á càng phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc lại càng bất an về sức mạnh của nước này. Còn với Mỹ, đất nước đang oằn mình với gánh nặng thâm hụt ngân sách, gánh nặng nợ nần khổng lồ và sự suy giảm rõ ràng vì cuộc khủng hoảng tài chính, cuộc tái tạo cân bằng sức mạnh ở châu Á cũng là một thách thức. * Thuỵ Phương (Theo FT)
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 3:46:02 GMT 9
Sự Hán hóa Biển Đông Nam Á : tình hình dầu sôi lửa bỏng (*)
André Menras (1)
Vùng biển có tên là Biển Trung Hoa mà người TQ gọi là Biển Nam, còn người VN thì gọi là Biển Đông đang trở thành điểm nóng trên hành tinh của chúng ta. Vùng địa trung hải Đông Nam Á này được bao quanh bởi 10 quốc gia với hàng trăm hòn đảo, trong đó có 200 đảo được phân bố thành 2 quần đảo là Paracels và Spratleys (tiếng Việt là Hoàng Sa và Trường Sa).Vùng biển và đảo này có tầm quan trọng cực kì về mặt chiến lược và kinh tế : đây là lộ trình bắt buộc của tất cả các tàu chở dầu và các tàu vận chuyển nguyên vật liệu và các hàng hóa khác đi từ châu Âu, châu Phi, Trung Đông thông qua eo biển Malacca, hướng về TQ, Triều Tiên, Nhật Bản. Vùng biển này vừa là nguồn tài nguyên dồi dào về thủy sản, vừa là kho báu đầy hứa hẹn về trữ lượng dầu và khí đốt thiên nhiên. Hoàng Sa nằm ở phía đông bờ biển miền Trung VN, đang là đối tượng tranh chấp về chủ quyền giữa VN và TQ. Trường Sa, nằm ở vị trí trung tâm, đang bị tranh chấp bởi 7 nước : Việt Nam, Trung Quốc, Đài Loan, Phi-lip-pin, Mã Lai, Bru-nây và In-đô-nê-xi-a. Lịch sử, quyền lợi và sức mạnh Nói về Hoàng Sa, trên phương diện lịch sử cũng như luật quốc tế, không nghi ngờ gì, chủ quyền thuộc về VN. Yêu sách mà TQ đưa ra không thể đứng vững trước một trọng tài xét xử quốc tế. Thế nhưng quần đảo này đã bị TQ nuốt chửng bằng sức mạnh quân sự. Đó là vào 2 thời kì : năm 1956, sau sự thất bại của thực dân Pháp và năm1974, khi Mỹ bắt đầu nhảy vào VN. Đối với quần đảo Trường Sa, tình hình có phức tạp hơn nhưng chủ quyền của VN trên một số lớn các hòn đảo và trên các lãnh hải lân cận cũng đã được xác lập về mặt lịch sử cũng như về pháp lí. Những mâu thuẫn với các nước thành viên ASEAN có thể được giải quyết bằng cách thỏa thuận và vì lợi ích chung. Nhưng người « Anh Cả TQ » lại không muốn như vậy. Sau khi đột nhập vùng biển năm1988, giết hại 74 thủy thủ VN, hải quân TQ đã không ngừng gặm nhắm các hòn đảo nhỏ. Từ gặm nhắm đến nuốt chửng Sau đó, TQ đi từ chính sách gặm nhắm đến nuốt chửng : ngăn cản các công ty dầu khí nước ngoài kí hợp đồng khai thác với các nước trong vùng, trong khu vực kinh tế độc quyền của họ ; bắt bớ và cầm tù trong nhiều tuần các đoàn tàu đánh cá, tịch thu cá đánh bắt được cùng với thuyền chài, đánh đập dã man các ngư dân, trả tự do bằng cách đòi gia đình họ đưa tiền chuộc ; đâm thủng và làm đắm các tàu thuyền, đơn phương ngăn cấm đánh cá – dĩ nhiên là chỉ đối với người VN- từ tháng 5 đến tháng 8 trong khu vực, viện cớ là khu vực sinh thái. Trong suốt tháng 4, TQ đã phát động các cuộc diễn tập hải-không quân với quy mô lớn ở Trường Sa với các thao tác như đổ bộ, thả lính nhảy dù, tập bắn súng. Về cấp độ pháp lý, năm 2009 các nhà lãnh đạo TQ đã đưa ra yêu sách chính thức về chủ quyền « không thể chối cãi » trước Tiểu ban của Liên Hiệp Quốc về quyền trên biển : 80% biển và toàn bộ 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Như để cảnh báo, họ vừa chuyển đến các nhà ngoại giao Mỹ thông điệp : « Biển phía Nam là bộ phận « thiết yếu » của lãnh thổ quốc gia ». Có nghĩa là nơi mà họ sẵn sàng sử dụng các biện pháp quân sự như đối với Tây Tạng hoặc Đài Loan. Đồng thời , TQ cũng từ chối mọi cuộc đàm phán minh bạch và đa phương. Họ đã từ chối thẳng thừng việc áp dụng luật quốc tế của Liên Hiệp Quốc năm 1982 về chủ quyền trên biển. Nói tóm lại, họ tự cho mình đứng ngoài vòng pháp luật, và họ thật sự đã làm như vậy, theo đúng nghĩa đen của từ này. Tình hình VN trước sự đối mặt với TQ Sự thiếu hụt về cán cân thương mại giữa VN và TQ thật là khổng lồ. Hơn 50% các trao đổi thương mại của VN được thực hiện với TQ. Hàng hóa TQ đủ loại tràn ngập thị trường đã bóp nghẹt nền sản xuất và nghề thủ công của VN. Các dự án lớn về khai thác mỏ chủ yếu bị các nhà thầu TQ được Bắc Kinh hỗ trợ hết mình cuỗm mất. Lĩnh vực xây dựng cũng bị Hán hóa mạnh và nhân công không lành nghề của TQ bắt đầu đến. Hàng trăm ngàn hec-ta đất cũng bị đem cho các doanh nghiệp lâm nghiệp TQ thuê trong vòng 50 năm…Đôi khi cả trong những vùng có ý nghĩa chiến lược. Các nhóm vận động hành lang của TQ nằm trong các cơ quan lãnh đạo rất mạnh mẽ và có thế lực. « Sự kiên nhẫn » đầy độ lượng của các nhà lãnh đạo VN Trong tình thế rất nguy hiểm đó đối với nền độc lập của đất nước, các nhà lãnh đạo VN ngày càng lâm vào thế kẹt giữa những sự câu thúc và tham vọng ngày càng quá đáng của anh láng giềng « thân thiết » và phản ứng kháng cự, tự hào, vì sự sống còn của người dân. Từ lâu, họ đã bưng bít thông tin về những cuộc xâm lược của Trung Quốc tại Biển Đông. Thậm chí họ đã đình chỉ các tờ báo, rút lại các bài viết, « bãi nhiệm » các nhà báo. Họ chưa bao giờ phổ biến rộng rãi trên toàn quốc tình hình các ngư dân đồng bào của họ đã bị bắt và bị cầm tù như thế nào ! Họ đối xử theo kiểu TQ với những người yêu nước đang phẫn nộ, đồng hóa họ với « các thế lực phản động phục vụ nước ngoài ». Thậm chí họ còn kính cẩn làm ngơ trước những lá thư cảnh báo của đại tướng Võ Nguyên Giáp, huyền thoại trăm năm của nền độc lập VN, người bạn chiến đấu ngay từ buổi đầu của chủ tịch Hồ Chí Minh… Những dấu hiệu phản ứng « cứng rắn » của VN Nhưng thái độ ấy không thể cứ kéo dài như thế mãi bởi sự nhục nhã đã trở thành quá lớn đối với một dân tộc có truyền thống yêu nước sáng ngời và một tính cách vô cùng mạnh mẽ. Cũng không thể bỏ qua yếu tố kinh tế hiển nhiên: tương lai của đất nước, dải đất có chiều rộng đôi khi chưa đến 100 cây số nhưng lại có bờ biển dài hơn 3000 cây số, sẽ là một tương lai chết nếu như vùng biển bị tịch thu. Không ai có thể chối cãi rằng Đảng Cộng Sản VN có quyền đòi hỏi vinh quang trong quá khứ, nhưng ngày nay họ phải hết sức thận trọng để không phải trả giá cho sự nhục nhã của hiện tại và thảm kịch của tương lai. Do đó, trước sự phô trương sức mạnh quân sự của Bắc Kinh, VN đã thành lập một vùng quân sự mới, vùng số 2, chịu trách nhiệm bảo vệ vùng biển và hải đảo từ miền Trung đến miền Nam đất nước, bảo vệ các dân chài, nhà cửa, dân cư. Họ đang cố gắng trang bị vũ trang hiện đại : tàu khu trục, tàu tuần tra, máy bay thám thính, tên lửa, trực thăng… Việc quân sự hóa cần thiết để sống còn này làm cho nền kinh tế thêm trì trệ và kìm hãm mạnh mẽ sự phát triển của đất nước. Sự căng thẳng dâng cao Trước quyết định kháng cự được thể hiện của VN, các nhà lãnh đạo TQ lồng lên vì tức giận. Trong hàng trăm trang internet chịu sự kìểm soát gắt gao của Bắc Kinh, người ta có thể đọc được bài báo ngày 29/4/2010 có nhan đề : « Trung Quốc phải sử dụng vũ lực quân sự để tấn công bọnViệt Nam lòng lang dạ sói». Tác giả mô tả quan hệ giữa 2 nước giống như quan hệ giữa « người nông dân và con rắn »…Có đoạn còn viết rằng : « cuộc chiến tranh Trung – Việt năm 79 vẫn chưa đủ dạy cho Việt Nam một bài học huỷ diệt thì lần này, chúng ta cần làm triệt để, để Việt Nam có được bài học nhớ đời và cũng là vì lợi ích lâu dài của Trung Quốc ». Cũng trong ngày 29/4, trên trang Web « Hoàn cầu Thời báo » và « Nhân Dân » (cơ quan ngôn luận Dảng Cộng Sản TQ), người ta thấy một bài với đầu đề hùng hồn: “ Giải quyết vấn đề Biển Đông, then chốt là hành động.” Sau khi giới thiệu TQ giống như một nạn nhân vô tội trong một vụ cướp bóc tài nguyên trong khu vực, bởi « một số nước », các tác giả đã nêu lên mối nguy hiểm : « … Nước Mỹ, dưới sự giúp đỡ của các nước đồng minh như Sin-ga - po và Phi-lip-pin đã tăng cường sự hiện diện quân sự thường trực tại Biển Đông ... có kế hoạch trở lại vịnh Cam Ranh ». Họ lạnh lùng đưa ra chiến lược lấn chiếm khắp nơi của TQ. Và kết luận như sau: “Chìa khoá là quyết định dám mở ra đột phá bằng hành động cụ thể…” Về phía Việt Nam, ngày 7/5 vừa qua, Chủ tịch Quốc hội VN Nguyễn Phú Trọng, nhân vật số 4 trong Bộ chính trị của Đảng Cộng Sản VN đã kêu gọi hải quân «... sẵn sàng hiệp đồng chiến đấu với các lực lượng khác nhằm đánh bại mọi cuộc tiến công trên hướng biển ». Cũng trong buổi lễ hôm ấy, Phó Đô đốc Nguyễn Văn Hiến, trong bài diễn văn của mình, đã nhắc lại « sứ mệnh lịch sử » của hải quân VN là « dám đánh, quyết đánh và biết đánh thắng... ». Ngày 1/4/2010, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, trong chuyến viếng thăm đảo Bạch Long Vĩ của VN, cách Hải Phòng 70 hải lý, đã tuyên bố rõ ràng, không còn gì rõ hơn được nữa : « Đối với biên giới, lãnh hải, chúng ta luôn muốn hòa bình hữu nghị giữa hai dân tộc, giữa các dân tộc có biên giới với chúng ta ... Làm việc này trên cơ sở thương lượng, trao đổi, vận động, thuyết phục... Không để bất cứ ai xâm lấn bờ cõi của mình, biển đảo của mình... Chúng ta không tham của ai, nhưng một tấc đất quê hương chúng ta cũng không nhân nhượng .» Cuối ngày 11/5, tại Hà Nội, nhân Hội nghị các Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN (mà TQ không phải là thành viên), bộ trưởng VN, đại tướng Phùng Quang Thanh đã tuyên bố rằng sự hiện đại hóa quân sự là chuyện bình thường, nhằm để bảo vệ đất nước tốt hơn và cũng để « tạo sự răn đe ». Răn đe : lần đầu tiên từ này được tuyên bố công khai bởi một vị lãnh đạo của VN. Nhưng răn đe ai ? Chắc chắn không phải là các nước khác trong ASEAN. Kết luận : Mối đe dọa bùng nổ quân sự trong khu vực là có thật. Đó không phải là việc của các nước « nhỏ » ASEAN, bởi vì không ai trong số họ đe dọa TQ và họ cũng không có lợi gì để làm việc ấy. Dĩ nhiên càng không phải là VN. Tuy nhiên, có những giới hạn đối với các hành động chiếm đoạt đe doạ sự sống còn của các nạn nhân. Chúng ta cũng có thể chờ xem phản ứng của các cường quốc quan tâm tới vấn đề an ninh trong khu vực. Liệu rằng triều đại TQ hiện nay có dám coi thường quyền lợi của các dân tộc và luật pháp quốc tế bằng cách đem 1 tỉ 3 người TQ được điều kiện hoá cùng với bom nguyên tử và các đòn trả đũa về kinh tế ra đe dọa hay không ? Liệu TQ có thể khôi phục được uy quyền dựa trên nòng súng của thực dân cũ rích ngày xưa, với sự thông đồng của các bạn hàng quốc tế và các chính khách đại biểu hay không ? Tuy nhiên, không ai trong số các nhà quan sát lỗi lạc, các chuyên gia và các nhà phân tích của chúng ta có thể nói rằng họ không hay biết điều đó bởi vì TQ không còn giấu mặt nữa ! Chẳng sớm thì muộn, càng không nói, càng lùi bước trong sự ích kỉ, tham lam và hèn nhát thì rồi đây chúng ta sẽ phải gánh chịu những thảm kịch đang xảy ra ở nơi khác mà chúng ta có thể ngăn chặn được. Munich (3) đâu đã xa xôi gì và thế giới thì ngày càng nhỏ lại. Nếu chúng ta không hành động vì dân tộc VN và các dân tộc lân cận thì ít ra hãy hành động vì chính mình. André Menras (*) Nguyên tác bằng tiếng Pháp, đăng trên nhật báo La Marseillaise ngày 17.5.2010, Diễn Đàn đăng lại với sự cho phép của tác giả, tại đây. Bản tiếng Việt đã đăng trên Bauxite Việt Nam, đây là bản do Diễn Đàn biên tập lại. Chú thích: (1) Từng bị giam ở các nhà tù chế độ Sài Gòn cũ vì ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, A.M. là tác giả tài liệu được đăng trong tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 86, tháng 4- 6/2009 : « Lào, Cam-pu-chia và Việt Nam, những quân cờ đô-mi-nô đầu tiên của chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc ? » (2) Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (3) Munich : Thành phố của Đức, nơi mà vào năm 1938, các đại diện của chính phủ Pháp và Anh đã bật đèn xanh cho Hitler tấn công Ba Lan và Tiệp Khắc vì họ muốn tránh chiến tranh xảy ra ở nước họ. Chỉ hai năm sau đó, Hitler đã tuyên chiến với Anh và Pháp !. **************** Trung Quốc xây căn cứ tên lửa mới tại Quảng ĐôngTác giả: Minnie Chan và Greg Torode (Bưu điện Hoa nam buổi sáng) Một căn cứ tên lửa mới đã đi vào hoạt động tại Quảng Đông được một tháng trong bối cảnh căng thẳng ngày một gia tăng xung quanh vấn đề Biển Đông. Căn cứ mới được xây dựng tại Thiều Quan thuộc đơn vị 96166 của Quân đoàn Pháo binh thứ hai (Nhị pháo) quân đội Trung Quốc. Căn cứ đi vào hoạt động vài tuần trước dịp kỷ niệm 83 năm thành lập quân đội Trung Quốc, Nhật báo Thiều Quan đưa tin. Nhị pháo được coi là lực lượng tên lửa chiến lược của quân đội Trung Quốc. Cho dù các thông tin không đề cập trực tiếp tới căn cứ tên lửa cũng như chi tiết về đơn vị 96166 nhưng vẫn tạo ra sự thu hút lớn với các quan sát viên và phân tích quân sự. Họ tin rằng, căn cứ này sẽ được trang bị tên lửa đạn đạo DF-21C hoặc tên lửa hành trình tầm xa CJ-10. Cả hai loại tên lửa này được cho là có khả năng đánh trúng mục tiêu cách xa hơn 2.000km, nghĩa là đặt các đảo ở Biển Đông mà Trung Quốc đang tranh chấp với những nước láng giềng châu Á trong tầm ngắm. Quân đội Trung Quốc cũng thiết lập một căn cứ tương tự ở gần Thanh Viễn, Quảng Đông vào tháng 6 năm ngoái. Cả Thiều Quan và Thanh Viễn đều là các vùng núi của tỉnh Quảng Đông - nghĩa là nơi lý tưởng để ẩn giấu lực lượng tên lửa chiến lược. Các vùng núi của tỉnh Quảng Đông là nơi lý tưởng để ẩn giấu lực lượng tên lửa chiến lược. Ảnh minh hoạ THX. Theo Học viện Project 2049 tại Washington, Bắc Kinh dự kiến sẽ sớm xây dựng một căn cứ tên lửa khác ở Tam Á, Hải Nam. Ngoài ra còn có tin đồn một căn cứ tên lửa khác có thể được triển khai tại Thiều Quan với sự hiện diện của tên lửa đạn đạo chống hạm DF-21D mệnh danh "sát thủ tàu sân bay", tuy nhiên, thông tin chưa từng được xác nhận. Giới phân tích cho rằng, nếu Trung Quốc thành công trong việc triển khai vũ khí đạn đạo chống hạm như DF-21D, thì họ sẽ đạt được thành tựu đáng kể trong công nghệ vũ khí. Trước đây, Mỹ và Liên Xô đã nhất trí không bao giờ theo đuổi các loại vũ khí như trên theo các điều khoản của những thoả thuận hạn chế vũ khí. Loại vũ khí trên có thể gây ra hậu quả thảm khốc nếu được sử dụng bởi các tên lửa đạn đạo thường được dùng để tấn công đa mục tiêu như các thành phố, hơn là nhằm một mục tiêu di động đơn lẻ. Theo báo cáo của Project 2049 đưa ra tuần này, các hoạt động ở Thiều Quan "có thể làm phức tạp vấn đề chiến lược ở châu Á đặc biệt là cuộc tranh chấp tại Biển Đông". Báo cáo cho biết, lực lượng Nhị pháo Trung Quốc lên kế hoạch hoàn tất thiết kế của DF-21D vào cuối năm nay "thiết lập khả năng triển khai lâu dài trùng với việc hoàn tất thiết kế của một tên lửa mới". Alexander Huang Chieh-cheng, Giáo sư Học viện Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế và Chiến lược tại Đại học Tamkang ở Đài Bắc bình luận, việc triển khai mới của quân đội Trung Quốc sẽ khiến các nước láng giềng ở Đông Nam Á thêm quan ngại. "Mọi động thái của quân đội Trung Quốc đều có dụng ý chiến lược đặc biệt", ông nói. "Với rất nhiều khu vực ở Biển Đông nằm trong tầm ngắm của loạt tên lửa DF-21 Trung Quốc, các nước Đông Nam Á sẽ càng cảm thấy sự đe doạ ngày một lớn từ Trung Quốc". Chuyên gia quân sự Nhĩ Lôi Hùng tại Thượng Hải nói rằng, xây dựng hai căn cứ tên lửa có thể là một "ẩn ý" cho thấy, lực lượng tên lửa sẽ đóng vai trò quan trọng trong cái gọi là bảo vệ "lợi ích cốt lõi" mà Bắc Kinh tuyên bố về Biển Đông. Tuy vậy, nhà quan sát quân sự Mã Đinh Thắng ở Hong Kong nhấn mạnh, hiện còn quá sớm để xác định mục tiêu thực của việc thiết lập căn cứ tên lửa ở Quảng Đông. "Động thái này chỉ thể hiện sự thay đổi của lực lượng tên lửa nhằm đáp ứng yêu cầu chiến lược tại các vùng miền khác nhau. Nhưng tôi không nghĩ đó là một thay đổi chiến lược to lớn. Thế giới bên ngoài, đặc biệt là Mỹ, luôn cường điệu về sức mạnh của DF-21C và DF-21D. Trên thực tế, cho tới nay, chúng tôi chưa thể tìm ra một bằng chứng cụ thể chứng tỏ rằng tên lửa có thể nhằm chính xác mục tiêu di động trên biển trong tầm 1.500-2.000km". Thuỵ Phương dịch
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 5:50:01 GMT 9
Đảng Cộng sản Trung Quốc đã giải quyết một số vấn đề lịch sử như thế nào ?
Dương Danh Dy I. Mở đầu Sau hơn 80 năm kể từ ngày thành lập, Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã và đang lãnh đạo nhân dân Trung Quốc giành được những thắng lợi cực kỳ vĩ đại về nhiều mặt : đánh bại cuộc xâm lược của chủ nghĩa quân phiệt Nhật, giải phóng toàn Trung Quốc, lập nên nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH), xây dựng Trung Quốc thành một cường quốc kinh tế và quân sự, có ảnh hưởng và địa vị quốc tế ngày càng lớn… Tuy vậy trong gần 60 năm cầm quyền, nhất là trong thời gian Chủ tịch Mao Trạch Đông còn sống (nói như vậy không có nghĩa là những người lãnh đạo sau Mao không có vấn đề gì), ĐCSTQ đã có một số chủ trương, quyết định sai lầm mang lại nhiều tai hoạ ghê gớm cho nhân dân Trung Quốc. Bài viết này không đi sâu vào những nguyên nhân dẫn tới sai lầm (vì hoàn cảnh mỗi nước rất khác nhau) mà chỉ nêu lên một số vấn đề, hậu quả của chúng, những biện pháp mà ĐCSTQ đã sử dụng để xử lý, giải quyết và những bài học bổ ích có thể rút ra được qua những việc làm của họ. II. Những vấn đề lịch sử chủ yếu Ở đây xin giới thiệu những vấn đề đã giải quyết xong và một số vấn đề còn tồn tại. Những vấn đề đã giải quyết xong (giới thiệu theo thời gian được bình phản, sửa sai) - Ngày 7 tháng 4 năm 1976 Bộ Chính trị Trung ương ĐCSTQ căn cứ vào đề nghị của Mao Trạch Đông đã ra quyết nghị “ về việc tước bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng của Đặng Tiểu Bình, nhưng giữ lại đảng tịch để xem xét sau ”. Sau khi “ lũ bốn người ” bị bắt được gần một năm, ngày 16/7/1977 Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khóa 10, quyết định khôi phục lại mọi chức vụ trong ngoài đảng của Đặng Tiểu Bình. - Ngày 5/4/1978, Trung ương ĐCSTQ phê chuẩn “ Báo cáo thỉnh thị ” ngày 4/4/1978 của Ban Mặt trận và Bộ Công an. Báo cáo cho biết : trong cuộc đấu tranh chống phái hữu tiến hành năm 1957, cả nước đã quy sai rất nhiều người là phần tử phái hữu, đã có mấy đợt sửa sai trước Cách mạng Văn hóa (CMVH) nhưng hiện nay vẫn còn khoảng hơn 100.000 người, phải cởi mũ cho số đông trong những người còn lại và kết thúc công việc này trước năm 1980. - Ngày 19/8/ 1978, Trung ương ĐCSTQ quyết định giải tán tổ chức Hồng Vệ Binh vì đã hoàn thành sứ mạng lịch sử. Đoàn Thanh niên sẽ khôi phục hoạt động. - Từ 10-11 đến 15-12/1978, Hội nghị công tác Trung ương. Tại hội nghị Trần Vân phát biểu : phải giải quyết một loạt vấn đề trọng đại trong CMVH và vấn đề công tội, đúng sai của một loạt người lãnh đạo quan trọng. Ông khẳng định sự kiện Thiên An Môn (tưởng nhớ Thủ tướng Chu Ân Lai mất, năm 1976) là một phong trào quần chúng vĩ đại, khẳng định cống hiến của Bành Đức Hoài (bị xử lý sai năm 1959), phải bình phản (phân tích nhằm phản bác lại mọi quy kết để giải oan) cho Đào Chú (bị xử lý sai hồi đầu CMVH) cho cái gọi là “ tập đoàn phản bội 61 người ” (trong đó có Bành Chân, Bạc Nhất Ba), phải phê bình Khang Sinh, v.v. - Ngày 16/12/1978 Trung ương ĐCSTQ phê chuẩn, đồng ý đề nghị của Ban Tổ chức Trung ương : không tồn tại cái gọi là tập đoàn phản bội 61 người nêu ra trong CMVH, án oan này phải được bình phản. - Ngày 18-22/12 năm 1978, hội nghị Trung ương ĐCSTQ lần thứ 3 khóa 11, ngoài việc quyết định chuyển trọng tâm công tác sang công tác kinh tế đã phê phán phương châm “ hai cáí phàm là ” (do Hoa Quốc Phong đề xuất), xóa bỏ cái gọi là “ phản kích làn gió hữu khuynh ” và “ sự kiện Thiên An Môn ”, sửa quyết định sai lầm với Đào Chú, Bạc Nhất Ba, Dương Thượng Côn, v.v. Hội nghị nhấn mạnh phải nhận thức một cách lịch sử và khoa học đối với công lao của Mao Trạch Đông, giương cao một cách hoàn chỉnh, chính xác hệ thống tư tưởng Mao Trạch Đông ; quyết định không sử dụng mệnh đề “ đấu tranh giai cấp là then chốt ”, phủ định lý luận “ tiếp tục làm cách mạng dưới nền chuyên chính vô sản ”. Bầu bổ sung Trần Vân vào Thường Vụ Bộ Chính trị (BCT), Phó Chủ tịch Đảng và Đặng Dĩnh Siêu, Hồ Diệu Bang, v.v. làm ủy viên BCT. - Ngày 24/12/1978 Lễ truy điệu Bành Đức Hoài, Đào Chú tại Bắc Kinh, xoá bỏ hết những lời lẽ không đúng về hai người, bình phản chiêu tuyết cho họ. - Ngày 25/12/1978. Uông Đông Hưng không được BCT ĐCSTQ cho kiêm chức Chánh Văn phòng Trung ương Đảng nữa. Ngày 29/12/1978 Trung ương ĐCSTQ ra quyết định : phải nhận thức rõ ý nghĩa trọng đại của công tác phúc tra các vụ án oan, án sai, án giả và tầm quan trọng của việc quán triệt chính sách sửa sai. Nêu rõ phương châm “ có sai thì phải sửa, sai toàn bộ phải bình phản toàn bộ, sai bộ phận bình phản bộ phận, không sai không bình phản ” và ranh giới giữa có tội và không có tội (sau quyết định này tổng cộng đã bình phản cho hơn 2,9 triệu người bị mắc vào các vụ án oan, án sai, án giả, động viên được tính tính cực của những người này và thân thích của họ). - Ngày 4-22/1/1979 Hội nghị Ban kỷ luật Trung ương quyết định thẩm tra Khang Sinh và Tạ Phú Trị. - Ngày 10/1/1979 Quyết định bình phản, khôi phục danh dự cho Đàm Chấn Lâm, Ủy viên Trung ương, Phó Thủ tướng Chính Phủ (xem thêm tin ngày 10/1/1980). - Ngày 11/1/1979 Trung ương ĐCSTQ quyết định : các phần tử địa chủ, phú nông qua 20-30 năm lao động cải tạo đã trở thành người lao động, nay cởi mũ thành phần cho họ, họ được đối xử như những xã viên công xã nhân dân, con cháu họ được coi là xuất thân từ gia đình nông dân. - Ngày 17/1/1979, Trung ương ĐCSTQ ra quyết định quán triệt chính sách với sĩ quan và binh lính Quốc Dân đảng khởi nghĩa, đầu hàng, không được phân biệt đối xử với họ và con cháu họ. - Ngày 12/2/1979 bình phản cho vụ án gọi Uỷ ban Thể dục Thể thao Trung ương là “ vương quốc độc lập ” và dùng cớ đó để hãm hại Hạ Long (Nguyên soái, Phó Thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban TDTT) một số người lãnh đạo và vận động viên khác. - Ngày 17/2/1979 bình phản cho Bành Chân (nguyên Uỷ viên BCT, Bí thư Thành Uỷ Bắc Kinh), khôi phục lại đảng tịch và phân công công tác mới. - Ngày 9/3/1979 bình phản cho Ô Lan Phu (người Nội Mông, Uỷ viên dự khuyết BCT khoá 8, Bí thư Đảng Uỷ Khu tự trị Nội Mông), trong CMVH bị vu là “ tập đoàn phản đảng ”, ngoài ra còn khôi phục danh dự, giải phóng cho một loạt cán bộ người Mông Cổ bị án oan, góp phần ổn định tình hình, củng cố đoàn kết dân tộc ở Khu tự trị Nội Mông. - Ô Lan Phu chủ trì Hội nghị Ban mặt trận thống nhất, xoá bỏ vu cáo Ban Mặt trận “ chấp hành chủ nghĩa đầu hàng, chủ nghĩa xét lại ”, kết luận những phê phán Lý Duy Hán trong công tác mặt trận năm 1962-1964 là sai lầm. Bình phản cho toàn Ban và Lý Duy Hán. - Ngày 21/3/1979 bình phản cho Tổng Cục chính trị Quân giải phóng (trong CMVH bị gọi là “ điện Diêm Vương ”). - Ngày 23/8/1979 bình phản cho “ sự kiện Dương, Dư, Phó ” (tức Dương Thành Vũ – Phó Tổng Tham mưu trưỏng, Phó Sùng Bích và Dư Lập Kim – người phụ trách Quân khu thủ đô Bắc Kinh trong thời gian CMVH). - Ngày 8/6/1979 bình phản cho Lục Định Nhất (nguyên Uỷ viên dự khuyết BCT, phụ trách lĩnh vực tư tưỏng văn hoá) và Bộ Văn hoá. Từ 4/8/1979 đến 25/2/1980, với phương châm có sai thì sửa…, Trung ương ĐCSTQ ra quyết định về việc xử lý một số vụ án xảy ra trước CMVH. Đã bình phản cho tiểu thuyết Lưu Chí Đan vì tiểu thuyết này không phải là tiểu thuyết chống Đảng, những ý kiến của Tập Trọng Huân về cuốn tiểu thuyết này là chính xác, không phải là hoạt động chống Đảng, không có cái gọi là “ tập đoàn chống Đảng Tập Trọng Huân ”… do Khang Sinh vu cáo. - Ngày 14/10/1979 một số cán bộ đảng viên, dân chúng người dân tộc thiểu số, trong phong trào chống phái hữu năm 1957 và sau đó bị quy là chủ nghĩa dân tộc địa phương, được cởi mũ. - Ngày 12/11/1979 hơn 700.000 ngàn tiểu thương, tiểu chủ bị đối xử như nhà tư bản trong cải tạo công tư hợp doanh được sửa sai, xác định lại thành phần. - Ngày 31/12/1979 đã phúc tra được 241.000 vụ án oan, án sai, án giả trong 10 năm từ 1967-1976 (chiếm 83 % tổng số) sửa được 131.000 vụ (53 %). Ngoài ra còn phúc tra 507.000 vụ án hình sự, trong đó sửa được 358.000 vụ án sai. Tuy vậy vẫn còn 46.00 vụ án oan, án giả, án sai và hơn 500.000 vụ án hình sự chưa được phúc tra. Chỉ thị của Trung ương ĐCSTQ tỏ quyết tâm không để cho bất kỳ người nào chịu những án sai về chính trị. - Ngày 29/2/1980 bình phản và 13/3/1980 tổ chức lễ truy điệu cho Lưu Thiếu Kỳ, xoá bỏ hết những tội lỗi gán ghép cho ông trong CMVH. - Ngày 20/5/1980 bình phản cho La Thụy Khanh (Đại tướng, Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng). - Ngày 19/6/1980 bình phản cho tất cả những cán bộ Trung ương và địa phương cấp cao, cán bộ từ cấp Quân đoàn trở lên trong bộ đội bị điểm tên phê phán trên báo chí trong CMVH. - Ngày 12/7/1980 bình phản cho An Tử Văn (nguyên Trưởng ban Tổ chức Trung ương) khi ông này vừa mất. - Ngày 30/7/1980 Trung ương ĐCSTQ ra chỉ thị yêu cầu “ ít tuyên truyền cá nhân ”. - Ngày 21/8/1980, trong khi tiếp phóng viên Italia, Đặng Tiểu Bình nói, Mao Trạch Đông có một đoạn thời gian phạm sai lầm, nhưng vẫn là người sáng lập ra ĐCSTQ và nước CHNDTH. - Ngày 26/8/1980 bình phản cho Lý Đức Sinh bị “ lũ bốn người ” vu cáo trong thời gian CMVH. - Ngày 24/9/1980 bình phản cho cái gọi là “ tập đoàn phản cách mạng Hồ Phong ” khôi phục danh dự cho tất cả những người có liên quan. - Ngày 10/10/1980 bình phản cho diễn viên điện ảnh nổi tiếng Triệu Đan. - Ngày 16/10/1980 Trung ương ĐCS TQ ra quyết định coi Khang Sinh và Tạ Phú Trị là những kẻ phẩm chất chính trị vô cùng xấu xa, đã trực tiếp cùng bè lũ Lâm Bưu, Giang Thanh âm mưu cướp đảng đoạt quyền, phạm tội ác rất nghiêm trọng, quyết định hUỷ bỏ diễn văn truy điệu (vì hai người này chết trước lúc CMVH kết thúc) khai trừ ra khỏi đảng, đưa tro xưong của họ ra khỏi Bát Bảo Sơn. - Ngày 19/10/1980 bình phản cho Cù Thu Bạch, xoá bỏ lời buộc tội ông phản bội khi bị bắt trước khi bị giết trước đây. - Ngày 23/10/1980 bình phản cho Dương Thượng Côn (là Chánh văn phòng Trung ương Đảng (sau khi được bình phản, có thời gian là Chủ tịch nước) bị vu cáo là đặt máy nghe trộm, tích cực tham gia hoạt động phản cách mạng, bị mất chức từ năm 1965). - Ngày 6/11/1980 bình phản cho Dương Hiến Trân, nguyên Hiệu trưởng Trường Đảng cao cấp. - Từ ngày 10-11đến ngày 5/12/1980 BCT ĐCSTQ họp, phê bình Hoa Quốc Phong. Hoa Quốc Phong xin từ chức Chủ tịch đảng và Chủ tịch quân Uỷ Trung ương. Hội nghị quyết định từ nay đến khi họp hội nghị Trung ương 6, Hoa Quốc Phong không chủ trì công tác Trung ương nữa, Hồ Diệu Bang thay thế làm Chủ tịch đảng và Đặng Tiểu Bình thay thế làm Chủ tịch Quân Uỷ Trung ương. - Ngày 25/11/1980 toà án đặc biệt Trung ương xét xử vụ án bè lũ Lâm Bưu và “ lũ bốn người ”, tất cả gồm 16 chủ phạm : Lâm Bưu, Giang Thanh, Khang Sinh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn, Trần Bá Đạt, Tạ Phú Trị, Diệp Quần, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khưu Hội Tác, Lâm Lập Quả, Chu Vũ Trì, Giang Đằng Giao. Quyết định những người đã chết không kết án. - Ngày 25/1/1981 Toà án đặc biệt tuyên án xử tử hình Giang Thanh, Trương Xuân Kiều nhưng cho hoãn chấp hành 2 năm ; xử Vương Hồng Văn tù chung thân, Diêu Văn Nguyên 20 năm tù giam, Trần Bá Đạt 18 năm, Hoàng Vĩnh Thắng 18 năm, Ngô Pháp Hiến 17 năm, Lý Tác Bằng 18 năm, Khưu Hội Tác 16 năm, Giang Đằng Giao 18 năm tù giam. - Ngày 9/3/1981 bình phản cho Đặng Tử Khôi. - Ngày 27/6/1981, hội nghị Trung ương lần thứ 6 khoá 11 của ĐCSTQ họp ra “ Nghị quyết về một số vấn đề lịch sử của đảng từ khi xây dựng nước đến nay ”. Nghị quyết sau khi khẳng định những thành tích đã đạt được, đã công khai đánh giá công, tội của Mao Trạch Đông, đánh giá Đại hội 9 và Đại hội 10 của ĐCSTQ, phê phán tội ác của Lâm Bưu và “ lũ bốn người ”, v.v. (sẽ trình bày ở phần dưới). Tại hội nghị này Hoa Quốc Phong chính thức mất chức Chủ tịch Đảng và Chủ tịch quân Uỷ Trung ương, sau đó không lâu cũng mất luôn chức Thủ tướng chính phủ, do Triệu Tử Dương thay thế. - Ngày 9/9/1981 bình phản cho “ Đảng Hồng Kỳ ” bị Khang Sinh vu cáo từ những năm 1942 ở Diên An. - Ngày 28/1/1982 thả toàn bộ tù binh Quốc Dân đảng từ cấp Trung đoàn trở xuống. -Ngày 30/12/1982 Trung ương ĐCSTQ ra quyết định thanh lý “ ba loại người ” vì sau khi CMVH kết thúc vẫn còn một bộ phận thuộc những loại người này vẫn còn lọt lưới, chui vào các cơ quan chính quyền và đảng Uỷ các cấp trong cả nước (đến tháng 10/1983 còn có thông tri nhắc nhở : phải coi vấn đề này là nhiệm vụ quan trọng). “ Ba loại người ” tức là: những kẻ theo tập đoàn Lâm Bưu, Giang Thanh tạo phản mà nổi đình đám ; những người có tư tưởng bè phái nghiêm trọng ; những phần tử đánh, đập phá, ăn cướp nghiêm trọng. Trong hơn 3 năm cố gắng đã xử lý được hơn 400.000 “ 3 loại người ” trong đó có 43.070 người phạm sai lầm nghiêm trọng. Để thấy rõ vấn đề, xin đưa môt vài ví dụ : ngoài Vương Hồng Văn ra còn có Từ Cảnh Hiền, Vương Tú Trân (những cán bộ, nhân viên công tác bình thường) chỉ trong mấy năm “ ngồi tên lửa ” đã trở thành Trung ương Uỷ viên, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban cách mạng thành phố Thượng Hải, Khoái Đại Phú một trong 4 “ tư lệnh hồng vệ binh ” nổi tiếng trong thời kỳ đầu CMVH, Nhiếp Nguyên Tử – người viết bài báo chữ lớn đầu tiên, v.v. (số người này nhiều không kể hết và những người phạm tội nặng, sau khi kết thúc CMVH đều bị xử tù giam). Để thấy hết tội lỗi của “3 loại người” xin nêu một số ví dụ. Theo thống kê chưa đầy đủ chỉ trong tháng 8 năm 1966 tại Bắc Kinh với lý do khám nhà, bọn đập, cướp phá đã lấy đi 103.131 lạng vàng, 345.212 lạng bạc, 55,5 triệu tiền mặt và 613.688 đồ cổ (Trung Quốc tả hoạ, Nhà xuất bản Triều Hoa, Bắc Kinh, tháng 2 năm 1993, tr 419). Chỉ trong 66 ngày từ 13/8/ 1967 đến 17/10/1967 trong 10 khu và 36 công xã với 2.780 hộ ở huyện Đạo, tỉnh Hồ Nam đã có 4.519 người bị chết (bị giết 4.193 người, tự sát 326 người) (Trung Quốc tả hoạ, tr. 444). Thủ đoạn giết người trong thời gian này là bắn, chém, dìm chết, thiêu đốt, ném xuống vực, chôn sống, treo cổ, quật chết (trẻ em). Những thủ đoạn hành hạ người bị đấu tố vô cùng tàn nhẫn (qua sách báo, phim ảnh TQ xuất bản và chiếu ở Việt Nam đã thấy được một phần nên không nói nhiều ở đây, điển hình là cách đối xử với Lưu Thiếu Kỳ, Hạ Long, v.v.). Mặc dù quân đội được coi là đội ngũ đáng tin cậy – bức trường thành trong CMVH – nhưng đã có tới hơn 80.000 quân nhân bị bức hại (trong đó có 8 Nguyên soái, 7 Đại tướng, 18 Thượng tướng), có 1.169 người bị bức hại đến chết. Có hơn 34.000 người làm trong ngành công an, kiểm sát, toà án bị bức hại trong đó bị chết hơn 1.100 người, bị đánh đập trở thành tàn tật hơn 3.600 người. Vân vân. Chú thích quan trọng : Trong những vụ án bị kết tội trong thời gian này, có vụ án Lâm Bưu chưa được một số nhà nghiên cứu khoa học và một số người Trung Quốc đồng tình. Ngay sau khi vụ án xảy ra (13 tháng 9 năm 1971) không lâu trong dư luận Trung Quốc đã có người đòi xét lại vấn đề này. Từ đầu thế kỷ 21 đến nay càng có nhiều bài viết đòi hỏi minh oan cho Lâm Bưu. Tin gần đây nhất cho biết nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Quân Giải phóng Trung Quốc ngày 1/8/2007 tại Bảo tàng quân đội Trung Quốc đã trung bày tượng Lâm Bưu bằng đồng, và nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày chiến thắng “Bình Hình Quan” ngày 24/9/2007 cũng đã dựng tượng Lâm Bưu bằng đồng tại nơi kỷ niệm là Sơn Tây, và nhân dịp 100 năm ngày sinh của Lâm Bưu ngày 12/9/2007 Lâm Lập Hằng con gái và hai mươi thân thích của Lâm Bưu đã tổ chức buổi gặp mặt (có hậu duệ của Trần Vân, Trần Nghị, Hạ Long, Đàm Chính, Đặng Hoa, v.v. tham dự). (Theo epochtimes). Có thể coi vụ án này chưa giải quyết xong. Mặc dù cho đến năm 1981, ĐCSTQ vẫn kết luận Trần Độc Tú (Tổng Bí thư đầu tiên của ĐCSTQ là theo chủ nghĩa đầu hàng hữu khuynh, nhưng đến năm 2002 ông đã được chiêu tuyết bình phản. Trong lời giới thiệu cuốn Lịch sử ĐCSTQ mới xuất bản đăng trên tạp chí Bách niên trào số 10 tháng năm 2002, Thạch Trọng Tuyền, Phó chủ nhiệm Ban Nghiên cứu lịch sử Trung ương ĐCSTQ đã viết : “ Phải khẳng định công lao vĩ đại của Trần Độc Tú từ ngày thành lập đảng cho đến trước thời kỳ phong trào đại cách mạng ”, “ ông là một trong những người lãnh đạo chủ yếu của đảng ta ”, hơn nữa “ luôn luôn là lãnh tụ chủ yếu của đảng ta từ đại hội 1 đến đại hội 5 (tức từ năm 1921 đến năm 1928), uy tín của ông lúc đó trùm lên bất kỳ người nào khác ”. Còn nói sai lầm của Trần Độc Tú chỉ là phạm “ chủ nghĩa cơ hội hữu khuynh ” chứ không phải là “ chủ nghĩa đầu hàng hữu khuynh ”. Việc sửa sai này được thể hiện rõ khi Hội nghị Chính trị hiệp thương Trung Quốc họp kỳ họp thứ nhất khoá 10 (3/3/2003), người ta thấy trong danh sách những người tham dự có hai con gái Mao Trạch Đông là Lý Mẫn và Lý Nạp ; con trai và con gái Đặng Tiểu Bình là Đặng Phác Phương và Đặng Nam và Trần Hồng cháu gọi Trần Độc Tú là ông nội. Qua việc này thấy Trần Độc Tú cuối cùng đã được đường hoàng ngồi vào hàng ngũ những người lãnh đạo ĐCSTQ. Những vấn đề chưa giải quyết Sau khi “ Nghị quyết về một số vấn đề lịch sử…” ra đờì, nhân dân Trung Quốc hy vọng những vấn đề tương tự sẽ không xảy ra nữa, thế nhưng chỉ mấy năm sau, mấy sự kiện lớn đã xảy ra trong xã hội và ĐCSTQ, đó là : 1. Việc xử lý Hồ Diệu Bang. - Ngày 16/1/1987 Hội nghị BCT ĐCSTQ mở rộng họp, tại hội nghị Hồ Diệu Bang đã kiểm thảo trong thời gian làm Tổng Bí thư đã vi phạm nguyên tắc lãnh đạo tập thể của đảng, phạm một số sai lầm nghiêm trọng trong một số vấn đề trọng đại, và xin từ chức Tổng Bí thư. Những người tham dự đã nghiêm túc phê bình Hồ Diệu Bang, đồng ý chấp nhận đề nghị từ chức của Hồ Diệu Bang. Hội nghị cử Triệu Tử Dương làm Tổng Bí thư. Cần lưu ý là trước đó từ trung tuần đến hạ tuần tháng 12/1986 một bộ phận sinh viên tại các trường đại học ở Hợp Phì (An Huy), Vũ Hán, Thượng Hải, Nam Kinh, Hàng Châu, Bắc Kinh đã diễu hành thị uy trên đường phố, hô to khẩu hiệu đòi dân chủ, gây ảnh hưởng nhất định dến trật tự giao thông. Đặng Tiểu Bình phát biểu cho rằng : học sinh diễu hành thị uy không thể gây ra việc lớn, nhưng xét về tính chất thì đây là vấn đề nghiêm trọng, nguyên nhân là do chống tự do hoá tư sản chưa đắc lực. - Ngày 1/1/1987 xảy ra diễu hành thị uy lớn ở Bắc Kinh, tiếp đó ĐCSTQ đã ra quyết định khai trừ một số đảng viên có tên tuổi bị coi là dính líu vào phong trào học sinh như Vương Nhược Vọng, Chủ tịch Hội Nhà văn Thượng Hải, Phương Lệ Chi, Phó Hiệu trưởng Trường đại học Khoa học, Lưu Tân Nhạn, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc. - Ngày 15/4/1989 Hồ Diệu Bang chết vì bệnh. 2. Việc xử lý Triệu Tử Dương. - Ngày 16/4/1989, bắt đầu có người đến đặt vòng hoa tại quảng trường Thiên An Môn viếng Hồ Diệu Bang, ngoài ra còn có biểu ngữ, khẩu hiệu, báo chữ lớn chữ nhỏ công kích người lãnh đạo Trung ương và Chính phủ. - Ngày 17-18/4/1989 diễu hành thị uy của học sinh qui mô lớn. - Ngày 22/4 sau lễ truy điệu Hồ Diệu Bang, “ Hội đoàn kết học sinh ” thành lập, số học sinh tham gia phong trào ngày càng đông. - Ngày 24/4/1989 Lý Bằng chủ trì hội nghị Thường vụ BCT, nhận định đây là cuộc đấu tranh chính trị chống Đảng chống chủ nghĩa xã hội có kế hoạch, có tổ chức, quyết định thành lập Tổ ngăn chặn. Đặng Tiểu Bình tán thành nhận định trên và cách làm. - Ngày 27/4/1989 hơn 100.000 học sinh diễu hành thị uy trên đường phố. - Ngày 9 và 10/5/1989 hơn 100 phóng viên của hơn 38 đơn vị tân văn, truyền thông cùng mấy vạn học sinh lại diễu hành thị uy. - Ngày 13/5/1989 học sinh tổ chức tuyệt thực và ra tuyên ngôn tuyệt thực, trong 7 ngày liền có hơn 3.000 người tham gia tuyệt thực, học sinh chiếm đóng quảng trường Thiên An Môn, được nhiều cơ quan báo chí ủng hộ, số người tham gia biểu tình ngày càng đông, học sinh trong cả nước kéo tới Bắc Kinh tới trên 200.000 người. Bắc Kinh hỗn loạn. Triệu Tử Dương tỏ ra đồng tình với học sinh. - Ngày 16/5/1989 Triệu Tử Dương lợi dụng cơ hội gặp Gorbatchev và báo chí trực tiếp chĩa mũi nhọn vào Đặng Tiểu Bình, tình hình ngày càng xấu. Các thành phố lớn, thậm chí ở một số thành phố nhỏ cũng xuất hiện học sinh diễu hành thị uy, động loạn có xu hướng lan rộng ra cả nước. - Ngày 19/5/1989 Trung ương ĐCSTQ triệu tập hội nghị các cơ quan dân, chính đảng và quân đội tại Bắc Kinh, tuyên bố dùng biện pháp quyết đoán ngăn chặn động loạn. - Ngày 20/5/1989 tuyên bố thiết quân luật một phần ở Bắc Kinh. - Ngày 3/6/1989 bộ đội từ nhiều hướng kéo vào trung tâm thành phố, trên đường đi gặp cản trở của một bộ phận người và chướng ngại vật do quần chúng dựng. - Ngày 4/6/1989 bộ đội hoàn thành việc thanh lý quảng trường Thiên An Môn. Chỉ trong mấy ngày động loạn này đã có hơn 1280 ô tô của quân đội, cảnh sát vũ trang… bị phá huỷ, trên 1.000 ôtô quân sự bị đốt cháy. Có hơn 60 xe bọc thép, một số vũ khí bị phá hỏng. Hơn 6.000 sĩ quan, binh sĩ và công an bị thương, bị chết hơn một chục người. Có trên 3.000 nhân viên phi quân nhân bị thương, khoảng 200 người bị chết. Trên đây là những số liệu chính thức do chính quyền Trung Quốc công bố. Theo Tôn Phượng Minh tác giả cuốn Những câu chuyện của Triệu Tử Dương trong thời gian bị giam lỏng (Nhà xuất bản Khai Phóng, Hồng Kông, 2007) thì có tới mấy chục vạn quân đội đã tham gia cuộc đàn áp này, số học sinh và quần chúng chết và bị thương rất nhiều. Những nguyên nhân xảy ra sự kiện Thiên An Môn nói trên là do nhà đương quyền Trung Quốc đưa ra, để tham khảo sự kiện này cần đọc thêm cuốn sách nói trên của Tôn Phượng Minh (do Dương Danh Dy dịch). - Ngày 23-24/6/1989 Hội nghị Trung ương ĐCSTQ lần thứ 4 khoá 12 họp nghe báo cáo “ về những sai lầm mà đồng chí Triệu Tử Dương đã phạm phải trong cuộc động loạn chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội ” đã quyết định cách chức Tổng Bí Thư, Phó Chủ tịch thứ nhất quân Uỷ Trung ương của Triệu Tử Dương và cử Giang Trạch Dân thay thế. Chú thích quan trọng : Một số dư luận và giới nghiên cứu Trung Quốc vẫn chưa đồng tình với những kết luận và xử lý sai lầm đối với Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương cũng như cách định tính sự kiện Thiên An Môn 4-6-1989. Vào dịp trước khi Đại hội 17 ĐCSTQ họp đã có nhiều người ở trong và ngoài nước lên tiếng đòi bình phản cho hai ngưòi và sự kiện trên.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 5:54:08 GMT 9
III. Cách giải quyết và xử lý
Trên đây đã giới thiệu một số vấn đề lịch sử được ĐCSTQ bình phản trong thời gian qua (và cả một số vấn đề chưa giải quyết). Xin trình bày thêm về một số vụ điển hình :
- Phong trào “chống phái hữu”. Nguồn gốc của phong trào này bắt đầu từ cuộc chỉnh phong : chỉnh đốn chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa bè phái và chủ nghĩa quan liêu nhằm khắc phục hiện tượng Đảng ngày càng thoát ly quần chúng, triển khai tháng 3 năm 1957. Ngày 30 tháng 5 năm 1957, Mao Trạch Đông mời đại biểu các đảng phái dân chủ và nhân sĩ ngoài Đảng dự cuộc toạ đàm, hoan nghênh họ giúp đỡ ĐCSTQ chỉnh phong. Sau đó Ban Mặt trận thống nhất Trung ương ĐCSTQ đã nhiều lần triệu tập hội nghị trưng cầu ý kiến nhân sĩ ngoài Đảng về công tác của đảng. Trước những lời kêu gọi đó, phong trào chỉnh phong được tiến hành vô cùng sôi nổi. Đa số người đã góp nhiều ý kiến và kiến nghị chính xác cho Đảng và Chính phủ, nhưng có một số cực ít người có ý đồ xấu, muốn nhân dịp này công kích và đòi chia sẻ quyền lãnh đạo với ĐCSTQ. Trung tuần tháng 5/1957, Trung ương ĐCSTQ và Mao Trạch Đông đánh giá tình hình và cho rằng tình hình đã thay đổi, ra chỉ thị “ Tổ chức lực lượng phản kích sự tấn công điên cuồng của phái hữu ”. Ngày 1/7/1957 Mao Trạch Đông viết xã luận Nhân dân nhật báo phê phán Chưng Nãi Khí và La Chương Long, đều là nhân sĩ ngoài Đảng, qua đó chỉ ra phái hữu của giai cấp tư sản là phái phản động chống cộng, chống nhân dân, chống chủ nghĩa xã hội, đẩy phong trào chống hữu lên cao trào, mở rộng diện đấu tranh chụp mũ cho rất nhiều nhân sĩ, phần tử trí thức trong ngoài Đảng. Phong trào này cơ bản kết thúc vào mùa hè năm 1958 (khoảng một năm) mặc dù không kéo dài nhưng đã có tới 552.877 người bị quy là phái hữu (trong đó có những sinh viên vừa tốt nghiệp đại học như cựu Thủ tướng Chu Dung Cơ, hoặc những kỹ thuật viên chưa đến 18 tuổi).
Trung ương ĐCSTQ đã nhanh chóng phát hiện được sai lầm. Từ năm 1959 bắt đầu sửa sai một phần, đến năm 1964 đã sửa sai được 5 đợt. Từ tháng 4/1978 tiếp tục sửa sai, tổng cộng đến tháng 5/1980 đã cởi bỏ mũ phái hữu cho 540.000 người và vẫn còn hơn 10.000 người nữa. Tiếp tục điều tra và sửa sai đến cuối năm đã đưa ra kết luận cuối cùng : Trong số 552.000 người bị quy là phái hữu chỉ có 96 người không được bình phản, xác suất chưa tới hai phần vạn (cứ quy 10.000 người chỉ đúng chưa tới hai người).
Những người bị quy sai đều là những đồng chí tốt, cán bộ tốt, trí thức tốt, vì vậy phong trào đã tạo thành tổn thất nghiêm trọng cho đảng và nhà nước Trung Quốc.
- Vụ Hồ Phong. Hồ Phong là nhà lý luận, phê bình văn học nổi tiếng. Từ năm 1933 đã cùng Lỗ Tấn đấu tranh chống “văn hoá vây quét” của bọn Quốc Dân đảng phản động. Năm 1936 cùng Lỗ Tấn, Phùng Tuyết Phong (người cũng bị xử lý trong phong trào chống phái hữu) nêu khẩu hiệu “Văn học đại chúng”. Từ sau 1949 là Uỷ viên thường vụ Hội nghị Chính trị Hiệp thương toàn quốc. Do có lý luận văn nghệ độc đáo và ảnh hưởng cá nhân to lớn nên được mọi người chú ý, được coi là “tư tưởng văn nghệ Hồ Phong” (phải chăng đây chính là lý do khiến ông bị phê phán và đấu tố?). Năm 1954, từ một vấn đề văn nghệ đơn thuần, ông bị nâng lên là “phản cách mạng”. Có hơn 2.000 người (cả trong đảng và ngoài đảng) bị quy kết liên quan tới vụ án, trong đó có 78 người được xếp vào “tập đoàn Hồ Phong”. Ông bị giam 10 năm ở ngục Tần Thành (1955-1965) mới được đưa ra xét xử và bị kết án 14 năm tù giam, và mãi đến tháng 1/1979 mới được thả, tổng cộng sống trong tù 24 năm. Ngày 18/6/1988 ông mới được bình phản toàn diện, nhưng đáng tiếc là ông đã mất ngày 8/6/1985 (Xem thêm bài Vài nét về cái gọi là “Vụ án tập đoàn phản cách mạng Hồ Phong” của Dương Danh Dy, đăng trên tạp chí Xưa & Nay số 125 tháng 10/2002).
- Vụ Đinh Linh. Đinh Linh, nữ văn sĩ, Uỷ viên Ban Thường vụ Quốc hội, Uỷ viên Thường vụ Hội Nhà văn Trung Quốc, tác giả tiểu thuyết Mặt trời chiếu trên sông Tang Càn, được giải thưởng văn học Stalin và đã được dịch ra tiếng Việt, năm 1958 bị quy là “tập đoàn chống Đảng” đưa đi lao động cải tạo ở Bắc Đại Hoang, năm 1970 bị quy là tội phạm quan trọng, bị giam ở nhà ngục Tần Thành, năm 1978 mới được tha, đến ngày 1/8/1984 mới được khôi phục danh dự.
- Vụ “thôn ba nhà”. Tháng 10/1962, Đặng Thác (Tổng biên tập Nhân dân nhật báo, Bí thư thành Uỷ Bắc Kinh), Ngô Hàm (nhà lịch sử, Phó thị trưởng thành phố Bắc Kinh), Liêu Mạt Sa (nhà thơ) mở mục “Bút ký thôn ba nhà” trên báo Bắc Kinh buổi chiều chuyên đăng các bài tạp văn, tùy bút khôi hài, đả kích các thói hư tật xấu của mọi người – có thể ngầm hiểu là cả người lãnh đạo cao nhất, rất có ảnh hưởng. Ngày 10/5/1966 bị phê phán là “ một cuộc tiến công lớn vào chủ nghĩa xã hội có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức được dày công sắp đặt ” là “ ngọn cỏ độc chống Đảng, chống chủ nghĩa xã hội ”… Đặng Thác bị truy bức đến mức phải tự sát, Ngô Hàm bị bức hại đến chết năm 1969, Liêu Mạt Sa bị bắt giam. Tháng 7/1979 “vụ án” này được bình phản, ba người được khôi phục hoàn toàn danh dự.
- Cái gọi là “Cách mạng văn hoá” kéo dài hơn 10 năm, thực chất là một cuộc nội chiến, động loạn lớn, trên 20 triệu người bị đả kích bức hại, chưa rõ số người chết là bao nhiêu (có số liệu nói là trên 20 triệu người bị chết). Từ Chủ tịch nước, Uỷ viên Bộ chính trị, Phó Thủ tướng, Nguyên soái, Đại tướng, nhà thơ, nhà văn nổi tiếng (như Lão Xá) cho đến nhiều cán bộ và người dân bình thường đã bị các vụ án oan, án giả, án sai cũng như sự bức hại của “ba loại người” đến mức ngậm oan mà chết hoặc phải tự kết liễu đời mình. Tổn thất về kinh tế lên tới hơn 500 tỷ nhân dân tệ, nền kinh tế Trung Quốc đứng bên bờ vục thẳm của sự sụp đổ. Vết thương do nó tạo ra khiến một số người lãnh đạo Trung Quốc sau khi CMVH vừa kết thúc đã tỏ ý lo lắng rằng phải mấy thế hệ mới giải quyết được (trên thực tế đã có cái gọi là “Văn học vết thương” tồn tại trên mười năm sau CMVH).
Để xử lý, giải quyết những vụ án lịch sử nhiều không kể xiết ấy, trong nội bộ lãnh đạo ĐCSTQ đã có sự đấu tranh quyết liệt. Tiêu biểu cho những người kiên trì giữ nguyên hiện trạng là Hoa Quốc Phong. Ngày 7 tháng 2 năm 1977, xã luận của hai tờ báo, một tạp chí (tức Nhân dân nhật báo, Giải phóng quân báo và tạp chí Hồng kỳ) đã đăng bài xã luận, trích lời nói của Hoa Quốc Phong (lúc đó là Chủ tịch đảng, Chủ tịch quân Uỷ Trung ương, Thủ tướng Chính phủ) rằng : “ phàm là chỉ thị do Mao Chủ tịch đã đưa ra, chúng ta đều kiên quyết ủng hộ ; phàm là chỉ thị của Mao Chủ tịch, chúng ta đều trước sau như một tuân theo ”. Câu nói đó được coi là một trong những phương châm chỉ đạo trong thời kỳ mới. Sau này, ngày 10/3/1977 trong hội nghị Trung ương, Hoa Quốc Phong còn nói thêm : “ phàm là những quyết sách của Mao Chủ tịch đều phải ủng hộ ; phàm là những lời nói, hành động tổn hại đến hình tượng của Mao Chủ tịch đều phải ngăn chặn ”. Sau khi được phục hồi công tác, Đặng Tiểu Bình và một số người lãnh đạo khác đã kiên quyết ngăn chặn chủ trương trên. Tại hội nghị Trung ương lần thứ 6 khoá 11 họp tháng 6 năm 1981, “ hai cái phàm là ” là một trong những nguyên nhân khiến Hoa Quốc Phong bị phê phán và mất các chức vụ quan trọng đã đề cập trên, vì phương châm này đã ngăn chặn, làm chậm trễ việc giải quyết các vụ án oan, án giả, án sai trước CMVH cũng như việc xử lý “3 loại người” trong CMVH.
Phương châm sửa sai. Những đánh giá về Mao Trạch Đông
Ngay sau khi Chủ tịch Mao Trạch Đông qua đời và “lũ bốn người” bị bắt không lâu, một số cán bộ lão thành cách mạng Trung Quốc đang còn giữ được cương vị lãnh đạo lúc đó đã kịp thời đưa ra chủ trương, nguyên tắc rất kiên quyết, rất được lòng người : “ Có sai phải sửa, sai toàn bộ phải bình phản toàn bộ, sai bộ phận phải bình phản bộ phận, không sai không bình phản ” và “ thành tựu là chủ yếu, nhưng không cho phép xem nhẹ sai lầm ” để căn cứ vào đó mà đánh giá đúng, sai, công, tội của các tổ chức và cá nhân, bất kỳ là ai ; do đó đã bình phản và khôi phục, đưa được một số người lãnh đạo cũ bị đánh đổ ra công tác, tăng cưòng thêm lực lượng (như trường hợp Đặng Tiểu Bình). Trần Vân là một trong những nhà lãnh đạo đi hàng đầu trong công tác sửa sai. Ông có câu nói bất hủ : “ Thế hệ chúng ta phải có trách nhiệm giải quyết xong những vấn đề lịch sử để lại, không được đùn đấy cho thế hệ sau ” (Trần Vân văn tuyển).
Khó khăn nhất trong việc giải quyết những vấn đề lịch sử để lại là đánh giá công tội, đúng sai của Mao Trạch Đông, qua các thời kỳ, kể từ ngày thành lập nước CHNDTH, vì ông là người vừa được coi là “cứu tinh” của dân tộc Trung Hoa, từng được đề cao như một ông thánh, một người thầy vĩ đại, một lãnh tụ thiên tài của nhân dân Trung Quốc, nhưng trên thực tế cũng là người gây ra nhiều tai hoạ, nhiều đau thương nhất cho dân chúng và đất nước Trung Quốc. ĐCSTQ đã giải quyết vấn đề gay cấn này như thế nào ? “ Nghị quyết về một số vấn đề lịch sử..” viết :
Đánh giá những sai lầm của Mao Trạch Đông trước CMVH
- “ Năm 1957, Đảng triển khai phong trào chỉnh phong, phát động quần chúng đề xuất phê bình, kiến nghị với Đảng là một bước đi bình thường, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhưng một số cực ít phần tử phái hữu đã thừa cơ cổ xúy cho cái gọi là “trăm hoa đua nở trăm nhà đua tiếng”, phát động tiến công một cách bừa bãi vào Đảng và chủ nghĩa xã hội mới ra đời, ý đồ thay thê sự lãnh đạo của Đảng, tiến hành phản kích kiên quyết cuộc tấn công đó là hoàn toàn chính xác và cần thiết. Thế nhưng cuộc đấu tranh chống phái hữu do đồng chí Mao Trạch Đông phát động đã bị mở rộng một cách vô cùng nghiêm trọng, đã quy sai một loạt trí thức, nhân sĩ yêu nước và cán bộ trong Đảng là “phần tử phái hữu” tạo ra hậu quả bất hạnh…”.
“ Năm 1958, hội nghị lần thứ hai Đại hội 8 thông qua đường lối chung xây dựng chủ nghĩa xã hội… Thế nhưng do chưa đủ kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhận thức không đầy đủ quy luật phát triển kinh tế và do đồng chí Mao Trạch Đông, do không ít đồng chí lãnh đạo Trung ương và địa phương, trước những thắng lợi đã nảy sinh tâm tình kiêu ngạo, tự mãn, muốn thành công gấp, khuếch đại tác dụng của ý chí chủ quan, nỗ lực chủ quan, không trải qua nghiêm túc điều tra, nghiên cứu, làm thử đã khinh suất phát động phong trào “nhảy vọt lớn” và phong trào công xã nhân dân khiến cho sai lầm tả khuynh lấy chỉ tiêu cao, chỉ huy mù quáng, làn gió ba hoa và “làn gió cộng sản” làm tiêu chí chủ yếu đã lan tràn nghiêm trọng… Tại thời kỳ sau của hội nghị Lư Sơn (7/1959) đồng chí Mao Trạch Đông đã phát động một cách sai lầm đợt phê phán đồng chí Bành Đức Hoài tiến tới triển khai một cách sai lầm cuộc đấu tranh “chống phái hữu”. Nghị quyết phê phán cái gọi là “tập đoàn chống đảng Bành Đức Hoài, Hoàng Khắc Thành, Trương Văn Thiên, Chu Tiểu Châu” là hoàn toàn sai lầm. Cuộc đấu tranh này về chính trị đã làm cho sinh hoạt dân chủ trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở bị tổn hại nghiêm trọng ; về kinh tế làm gián đoạn tiến trình uốn nắn sai lầm tả khuynh, cộng thêm ba năm bị thiên tai nghiêm trọng đã làm rất nhiều người bị chết vì đói và vì bệnh [có tư liệu nói là 20 triệu người]”.
“ Mọi thành tựu trong thời gian này đều do sự lãnh đạo tập thể của Trung ương Đảng, đứng đầu là đồng chí Mao Trạch Đông. Những sai lầm cũng vậy, trách nhiệm là ở tập thể, đồng chí Mao Trạch Đông chịu trách nhiệm chủ yếu nhưng không thể quy hết mọi sai lầm vào đồng chí Mao Trạch Đông. Trong thời gian này sai lầm của đồng chí Mao Trạch Đông về lý luận và thực tiễn đấu tranh giai cấp trong xã hội chủ nghĩa đã phát triển ngày càng nghiêm trọng, tác phong độc đoán chuyên quyền cá nhân của đồng chí đã từng bước làm tổn hại chế độ tập trung dân chủ của đảng, hiện tượng sùng bái cá nhân phát triển từng bước, Trung ương Đảng không uốn nắn kịp thời những sai lầm đó. Bọn dã tâm Lâm Bưu, Giang Thanh, Khang Sinh đã dụng tâm lợi dụng và giúp cho những khuyết điểm ấy phát triển lên. Những điều đó đã dẫn tới CMVH ”.
Đánh giá sai lầm của Mao Trạch Đông đối với Cách mạng văn hoá
- “Nghị quyết…” cho rằng những luận điểm để Mao Trạch Đông phát động CMVH như : “ một loạt lớn nhân vật đại biểu của giai cấp tư sản, phần tử xét lại phản cách mạng đã chui vào đảng vào chính quyền vào quân đội và vào các giới lãnh đạo văn hoá; quyền lãnh đạo của đa số tương đối lớn đơn vị đã không còn trong tay những người macxit và nhân dân quần chúng. Phái đương quyền đi con đường tư bản ở Trung ương đã hình thành một Bộ tư lệnh tư sản, nó có dường lối chính trị và đường lối tổ chức của chủ nghĩa xét lại… Các loại đấu tranh trước đây không thể giải quyết vấn đề, chỉ có thực hiện đại CMVH vô sản, phát động quần chúng một cách công khai, toàn diện, từ trên xuống dưới, vạch trần những mặt đen tối nói trên mới có thể cướp lại quyền lực đã bị phái đương quyền cướp đoạt. Thực chất đây là một cuộc cách mạng chính trị, giai cấp này lật đổ giai cấp khác, sau này còn phải tiến hành nhiều lần ” là “ không phù hợp với chủ nghĩa Mác-Lênin cũng vừa không phù hợp với thực tế Trung Quốc. Những luận điểm này trong đánh giá tình hình giai cấp nước ta lúc đó cũng như tình trạng chính trị của Đảng và nhà nước là hoàn toàn sai lầm.” Cụ thể là :
- Đã tiến hành đấu tranh sai lầm với cái gọi là “ tập đoàn phản Đảng Bành Chân, La Thuỵ Khanh, Lục Định Nhất, Dương Thượng Côn ” và cái gọi là “ Bộ tư lệnh Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình ”.
- Tiến hành cải tổ sai lầm đối với cơ cấu Trung ương Đảng, thành lập cái gọi là “ Tổ Văn cách Trung ương ” để cho Tổ này nắm bộ phận quyền lực rất lớn của Trung ương.
- Sự lãnh đạo sai lầm tả khuynh của đồng chí Mao Trạch Đông trên thực tế đã thay thế sự lãnh đạo tập thể của Đảng, sùng bái cá nhân đồng chí Mao Trạch đông đã được cổ xúy đến trình độ cuồng nhiệt. Bọn Lâm Bưu, Giang Thanh, Khang Sinh… đã lợi dụng, thừa cơ kích động “đả đảo tất cả, nội chiến toàn diện”.
- Một số đồng chí như Đàm Chấn Lâm, Trần Nghị, Diệp Kiếm Anh… khi phê bình cách làm sai lầm của CMVH đã bị vu cáo là “dòng nước ngược” bị chèn ép, đả kích.
- Sự kiện Lâm Bưu bỏ chạy ngày 13/9/1971 về khách quan đã tuyên bố sự thất bại về lý luận và thực tiễn của CMVH vô sản.
- Trong sự kiện Thiên An Môn (tháng 4/1976), Bộ Chính trị và đồng chí Mao Trạch Đông đã đưa ra phán đoán sai lầm về tính chất của sự kiện, hơn nữa còn sai lầm tước bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng của đồng chí Đặng Tiểu Bình.
Nghị quyết nhấn mạnh : “ Đồng chí Mao Trạch Đông có trách nhiệm chủ yếu về những sai lầm nghiêm trọng, tả khynh, kéo dài có tính toàn cục của CMVH ”, “ đồng chí luôn luôn kiên trì sai lầm của CMVH ”, “ đồng chí dần dần kiêu ngạo lên, dần dần thoát ly thực tế và thoát ly quần chúng, chủ nghĩa chủ quan và tác phong chuyên quyền độc đoán ngày càng nghiêm trọng, ngày càng bao trùm lên Trung ương, khiến nguyên tắc lãnh đạo tập thể và chế độ tập trung dân chủ trong sinh hoạt chính trị của đảng không ngừng bị suy yếu rồi đến bị phá hoại ”.
Mặc dù đánh giá sai lầm của Mao Trạch Đông là rất nghiêm trọng, nhưng ĐCSTQ đã không phủ định ông, mà cho rằng “ thế nhưng sai lầm của đồng chí Mao Trạch Đông rốt cuộc vẫn là sai lầm của một nhà cách mạng vô sản vĩ đại phạm phải ”, “ trong lúc phạm sai lầm nghiêm trọng đồng chí vẫn nhiều lần yêu cầu toàn đảng nghiêm túc học tập các tác phẩm của Mác-Lênin, vẫn trước sau cho rằng lý luận và thực tiễn của mình là chủ nghĩa Mác ”, “ đồng chí cũng ngăn chặn và uốn nắn một số sai lầm cụ thể, bảo vệ một số cán bộ lãnh đạo của Đảng và nhân sĩ nổi tiếng ngoài Đảng, làm cho một số cán bộ phụ trách lại dược trở lại cương vị lãnh đạo quan trọng ”, “ đồng chí đã lãnh đạo cuộc đấu tranh đập tan tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu, ngăn chặn dã tâm cướp quyền của “ lũ bốn người ”, đất nước vẫn duy trì được thống nhất và phát huy ảnh hưởng quan trọng trên thế giới.” “ Vì những cái đó, đặc biệt là vì những cống hiến vĩ đại của đồng chí đối với sự nghiệp cách mạng lâu dài, nên nhân dân Trung Quốc mãi mãi coi đồng chí Mao Trạch Đông là lãnh tụ và người thầy vĩ đại, kính yêu của mình ”.
Ngoài việc đánh giá sai lầm của Mao Trạch Đông qua các thời kỳ, “Nghị quyết…” đã đánh giá hai Đại hội 9 (tháng 4/1969) và Đại hội 10 (tháng 8/1973) của ĐCSTQ như sau :
“ Đại hội 9 đã hợp pháp hoá sai lầm lý luận và thực tiễn của CMVH. Tăng cường địa vị cho bọn Lâm Bưu, Giang Thanh, Khang Sinh trong Trung ương Đảng. Phương châm chỉ đạo về tư tưởng, về chính trị, về tổ chức của Đại hội 9 đều sai lầm ”.
“ Đại hội 10 của Đảng vẫn tiếp tục sai lầm tả khuynh của Đại hội 9, hơn nữa còn đưa Vương Hồng Văn lên làm Phó Chủ tịch Đảng ; bọn Giang thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn kết thành “lũ bốn người” trong BCT, thế lực tập đoàn phản cách mạng Giang Thanh được tăng cường ”.
(Những đánh giá này có thể coi là sự phủ định hoàn toàn hai Đại hội đảng toàn quốc, một sự kiện có một không hai trong lịch sử ĐCSTQ)
Một số nhận định
Những sai lầm của ĐCSTQ và người lãnh đạo chủ yếu – Mao Trạch Đông – trong thời gian từ năm 1949 đến năm 1976 rất nghiêm trọng, làm tổn hại đến sinh mệnh và tài sản của hàng trăm triệu nhân dân Trung Quốc (có tư liệu nước ngoài nói : “ nhảy vọt lớn ” và “ đại CMVH ” đã làm chết khoảng 40 triệu người và hàng trăm triệu người bị lâm vào cảnh tù đày, đấu tố ; cuốn Mao Trạch Đông ngàn năm công tội của Tân Tử Lăng, Nhà xuất bản Thư tác phường, 2007 (tái bản 2008) thống kê con số bị chết trong cả hai cuộc “đại” ấy là 55 triệu 550 nghìn người). Một câu hỏi được đặt ra : vì sao nhân dân, đảng viên ĐCSTQ lại cam chịu, không đứng lên chống lại ?
Câu trả lời là : ngoài sự trấn áp dữ dội bằng quân sự sẽ có ngay nếu động loạn xảy ra, những người lãnh đạo Trung Quốc thường phát hiện được sai lầm khá sớm, sau đó họ lặng lẽ sửa sai một phần (xem phần nói về chống phái hữu, hay phần nói Mao Trạch Đông bảo vệ được một số lãnh đạo quan trọng trong CMVH) nên đã làm dịu được lòng người.
Câu hỏi trên không có ý nói tinh thần đấu tranh của nhân dân Trung Quốc không kiên cường mà muốn nhấn mạnh tai hoạ giáng xuống đầu mỗi người dân Trung Quốc rất lớn nhưng vì đại cục, vì tin tưởng vào Đảng, vào lãnh tụ nên những người cộng sản và đại đa số nhân dân Trung Quốc đành cam chịu, nhưng phần lớn vẫn kiên trì đấu tranh (dù là lâu dài) với phương châm và biện pháp rất kiên quyết nhưng cũng rất linh hoạt như: có sai phải sửa, việc dễ làm trước, việc khó làm sau, giải quyết từng phần tiến tới giải quyết toàn bộ, đời trước chưa xong thì đợi đến đời sau nhưng cuối cùng thì chân lý phải thắng.
Tuy nhiên cần phải nhấn mạnh rằng, chỉ sau khi Chủ tịch Mao Trạch Đông qua đời, “ lũ bốn người ” bị bắt thì công việc sửa sai mới có thể tiến hành một cách toàn diện và tương đối triệt để (ngoại trừ vụ Lâm Bưu trước đó và vụ Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương sau này giải quyết còn dở dang).
Vì lợi ích của đất nước, Trung Quốc vẫn duy trì thần tượng Mao Trạch Đông một cách giới hạn và ngày một giảm dần, nhưng việc tiến hành mổ xẻ, phê phán nghiêm khắc những việc làm sai lầm của ông và những tổn thất do ông gây ra cho nhân dân, đất nước (“ tội của Mao Chủ tịch một đoàn xe lửa chở cũng không hết ” – Báo chữ lớn trong CMVH – Dương Danh Dy ghi) đã khiến nhiều cán bộ đảng viên và người dân bị tai nạn, dịu bớt nỗi đau. Đặc biệt là việc bình phản cho những án oan án sai án giả (có thể nói là “tiếng oan dậy đất”) cho tất cả những người vô tội, dù đông tới hàng chục triệu người (suy ra từ 2,9 triệu người bị liên quan trực tiếp) đã khiến nhiều người mừng rơi nước mắt, quên hết oán giận.
Đặc biệt đã xử lý nghiêm khắc bọn đầu sỏ và những phần tử thuộc “3 loại người” không nhẹ tay với bất kỳ ai, ví dụ như:
- Giang Thanh, dù là vợ Chủ tịch Mao Trạch Đông vẫn bị kết án tử hình (hoãn thi hành hai năm).
- Mao Viễn Tân, dù là cháu gọi Chủ tịch Mao Trạch Đông bằng bác ruột, con liệt sĩ cách mạng cũng bị xử 17 năm tù giam, tước đoạt quyền lợi chính trị 4 năm.
- Khang Sinh một kẻ dã tâm, trước khi chết là Phó Chủ tịch ĐCSTQ nên được hưởng mọi tiêu chuẩn đãi ngộ của chức vụ này, nay bị tước bỏ diễn văn truy điệu (vì ca ngợi công lao của hắn), khai trừ khỏi Đảng và đưa tro xương ra khỏi Bát Bảo Sơn. Tạ Phú Trị, UVBCT, Phó Thủ tuớng, Bộ trưởng Bộ Công an cũng bị xử lý như vậy.
- Hơn 400.000 phần tử thuộc “3 loại người” bị xử lý, trong đó có 43.074 người phạm sai lầm nghiêm trọng (như Mao Viễn Tân, Khoái Đại Phú, Nhiếp Nguyên Tử… đều bị khai trừ Đảng và bị tù gần hai mươi năm).
V.v.
Cách giải quyêt và xử lý kiên quyết với những kẻ phạm tội đó đã làm cho bao nhiêu nạn nhân và gia đình những người bị hại trong CMVH mát lòng hả dạ, vợi đi những đau thương.
Chính những sửa sai nói chung là chính xác, thỏa tình đạt lý, được quán triệt đến từng người dân, đã khiến cho bao nhiêu oan ức tủi hờn, đau thương mà họ và gia đình họ phải chịu dựng trong thời gian dài (có một số người là rất dài, hết cả đời người hoặc có người không còn sống để thấy ngày bình phản) được giải tỏa, bao nhiêu oán hận được quên đi, tuyệt đại đa số người dân Trung Quốc hăm hở, phấn chấn bước vào cuộc cải cách, mở cửa vĩ đại do ĐCSTQ phát động năm 1978 nhằm “chấn hưng Trung Quốc”. Họ dường như đã nhanh chóng quên được quá khứ đầy nước mắt để chung lòng chung sức phấn đấu vì mục tiêu chung nhờ đó Trung Quốc đã đạt được những thành tựu to lớn mà ai cũng thấy.
IV. Mấy đề nghị nhỏ
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam (ĐCSVN) đã dẫn dắt nhân dân Việt Nam đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Tuy vậy Đảng ta cũng mắc phải một số thiếu sót, sai lầm.
Theo thiển ý cá nhân, trong tiến trình giải quyết những thiếu sót, sai lầm đó, Đảng ta đã rất thành công trong việc sửa sai Cải cách ruộng đất hồi miền Bắc mới được giải phóng. Do Đảng ta đã thẳng thắn, công khai thừa nhận sai lầm của mình nên những người bị quy sai thành phần thành địa chủ, phú nông, bị xử lý oan trong cải cách ruộng đất và gia đình họ đã rơi nước mắt khi được giải phóng, họ cám ơn Đảng và càng tin tưởng vào Đảng hơn. Tiếc rằng sau đó những sự việc tương tự không diễn ra nữa.
- Vụ “Nhân văn Giai phẩm”, xử lý quá nặng, nhưng không dám sửa đến nơi đến chốn, mà chỉ làm một cách nửa vời, như gần đây tặng giải thưởng nhà nước cho tác phẩm của bốn nhân vật chủ yếu của “Nhân Văn, Giai phẩm” hồi đó. Tại sao không dám nhận sai và sửa sai triệt để và nêu tên những người đã xử lý sai ?
- Vụ cái gọi là “nhóm chống đảng trong và ngoài quân đội”. Xin hỏi họ mắc tội gì ? Sao không dám công khai ? Nếu họ không có tội, thì ai là người dựng nên chuyện và xử lý ? Người viết bài này từng có quan hệ khá thân thiết với một vài đồng chí trong nhóm này (có người còn sống, có người đã mất) được biết những lý do để xử lý các đồng chí ấy là không thể chấp nhận được, và người đứng ra làm việc đó ai cũng biết cả. Tại sao Đảng ta đến tận bây giờ vẫn im lặng, không dám nhận sai và sửa sai triệt để ?
- Nhiều vụ công dân bị lặng lẽ bắt đi cải tạo, giam giữ mà không hề có lệnh của cơ quan có trách nhiệm (không biết là bao nhiêu người), bản thân họ và thân thuộc bị phân biệt đối xử và phải sống trong kỳ thị một thời gian dài. Đảng ta có ý định sửa sai cho những người dân vô tội này không ?
- Đã đến lúc phải nghiêm túc, công khai đặt vấn đề và tiến hành đánh giá công tội, đúng sai cho một số nhân vật lịch sử mà trước đây do một số người trong Đảng ta nhận định chưa chính xác, nên đã tạo ra những ngộ nhận về họ như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, v.v. Ngay cả một số người trong Chính quyền Sài Gòn trước đây như Trần Văn Hữu, v.v. hoặc sự hy sinh của các sỹ quan và binh lính Sài Gòn trong cuộc chiến đấu tại quần đảo Hoàng Sa năm 1974 cũng nên được xem xét tới.
Tôi trộm nghĩ, so với những sai lầm và tai hoạ mà ĐCSTQ và Chủ tịch Mao Trạch Đông gây cho các đảng viên ĐCSTQ và nhân dân Trung Quốc thì những sai lầm của Đảng ta không thấm vào đâu. Những vết thương tự gây ra trên mình ĐCSTQ và nhân dân Trung Quốc sưng tấy, đầm đìa máu mủ, tưởng rằng không thể chữa được hoặc phải một thời gian rất dài mới có thể chữa lành. Thế nhưng do dám dũng cảm nhìn thẳng vào sai lầm, thấy được trách nhiệm của mình và cao hơn cả là vì mục tiêu đoàn kết toàn dân, phấn đấu đưa Trung Quốc tiến lên thành một cường quốc, những người lãnh đạo Trung Quốc đã cương quyết tiến hành sửa sai dù phải qua nhiều khó khăn, sức cản, tốn kém rất nhiều công sức và tiền của. Đến nay xem ra họ đã thành công (ngoại trừ mấy tồn tại nêu trên).
Cuối cùng người viết bài này xin mạnh dạn đề nghị : Đảng ta cũng cần phải dũng cảm đánh giá một cách khoa học một số nhân vật trong đảng đã thành lịch sử. Sau khi đọc tập sách viết về một số người lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta, tôi có cảm tưởng là đồng chí nào cũng mình đầy công lao, ưu điểm, sáng suốt không hề có một tí khuyết điểm nào. Nếu các đồng chí ấy đều tài đức như vậy thì vì sao đất nước chúng ta phải lâm vào cuộc đối đầu căng thẳng với người láng giềng phương Bắc trong gần hai chục năm (trong đó có cuộc chiến tranh biên giới mà đến bây giờ vì “ đại cục ” chúng ta không dám công khai nói tới nửa câu ?). Vì sao nhân dân ta phải sống cực khổ, đất nước ta bị bao vây cấm vận mười mấy năm ròng sau ngày thống nhất đất nước, tụt hậu một bước dài so với các nước trong khu vực ? Vì sao Đảng ta chỉ tổng kết 20 năm cải cách đổi mới mà không tổng kết mười năm trước đó ? V.v.
Vô cảm trước những đau thương, chịu đựng của đồng chí, đồng bào, gác vấn đề lại làm như không biết, hoặc chỉ sửa sai nhỏ giọt, hoặc sợ sệt, nhát gan không dám nhìn thẳng vào sự thật…, đều không phải là thái độ của những người macxit chân chính. Hiện nay những người trong cuộc vẫn còn nhiều, đánh giá lại một số sự kiện và nhân vật lịch sử vào lúc này sẽ dễ hơn nhiều nếu như Đảng ta để lại vấn đề đó cho thế hệ sau.
Người viết bài này đã nghiên cứu, chăm chú theo dõi việc ĐCSTQ giải quyết một số vấn đề lịch sử trong đảng họ từ năm 1979 đến nay (2007). Những đề nghị nhỏ nói trên không phải là suy nghĩ nhất thời mà là sự nghiền ngẫm suy nghĩ từ nhiều năm, là tâm huyết của một người nghiên cứu và trên hết là lời nói từ đáy lòng của một đảng viên có trách nhiệm với sự nghiệp của dân tộc. Vì vậy có điều gì chưa thoả đáng, mong được thông cảm và lượng thứ.
(Bắt đầu viết năm 2002, đã đăng một phần trên tạp chí Xưa & Nay năm 2002, hoàn thành ngày 16 tháng 12 năm 2007, có bổ sung thêm một số sự kiện mới nảy sinh năm 2008) Dương Danh Dy
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 5:56:06 GMT 9
Báo Le Monde phỏng vấn sử gia Lucien BIANCO
"Tính chất của cách mạng này là dân tộc chủ nghĩa, trước khi là cộng sản" Lucien BIANCO, nhà sử học, chuyên gia về giới nông dân Trung Quốc, giáo sư EHESS (Ecole des Hautes Etudes en Sciences Sociales, Paris) trả lời phỏng vấn của Bruno Philip (Le Monde, 1.10.2009)Với tư cách một chuyên gia về lịch sử nông dân Trung Quốc, ông có cho rằng chiến lược của Mao Trạch-đông (lấy giới nông dân làm chỗ dựa) là nhân tố chủ yếu của thắng lợi cộng sản ? Chiến lược nông dân của Mao rất thích đáng và hiệu quả, song nguyên nhân chủ yếu của thắng lợi này là cuộc Thế chiến lần thứ hai : cuộc đại chiến này là một tác nhân quan trọng hơn cả vai trò của Thế chiến lần thứ nhất đối với cách mạng bôn-sê-vích ở Nga. Thế chiến lần thứ hai đã làm cho chính quyền Tưởng Giới-thạch vốn đã yếu kém trở thành vô cùng suy nhược, đồng thời nó đã giúp cộng sản Trung Quốc tăng cường lực lượng một cách đáng kể. Trong cuộc nội chiến, bộ đội Hồng quân và Đảng cộng sản Trung Quốc có những chủ bài nào là chính ? Ưu thế về mặt chỉ huy và tinh thần chiến đấu, được hỗ trợ bởi cuộc cải cách thổ địa mang lại ruộng đất cho những nông dân gia nhập hồng quân. Nhưng quan trọng hơn thế là cuộc khủng hoảng của chính quyền (quốc gia) khiến cho nó ngày càng mất đi khả năng đề kháng trước cuộc tiến công của cộng sản. Lạm phát (tương tự như lạm phát dưới chế độ Weimar ở Đức trong thập niên 1920) khiến cho công chức và những người ăn lương làm thuê lâm vào tình thế kiệt quệ, lạm phát lại tăng cường nạn tham nhũng và mở rộng hố ngăn cách giữa chính quyền và dư luận. Nhìn bề ngoài, cách mạng 1949 là một cuộc chinh phục thắng lợi, nhưng đúng hơn, phải nói đó là cả một chế độ đã sụp đổ trong dối trá, phá sản và tham nhũng thối nát. Chiều hôm trước ngày binh sĩ của Mao "giải phóng" các thành phố, tình hình tư tưởng của người dân thành phố ra sao ? Hồng quân tiến vào Nam Kinh, Thượng Hải không được vỗ tay hoan nghênh : dân chúng im lặng và dè dặt, như thông tín viên của nhật báo Le Monde hồi đó là Robert Guillain đã cho thấy. Tuy nhiên, họ đã quy thuận khá nhanh chóng : không hẳn là họ trông mong một cuộc sống tốt đẹp hơn mà chỉ hi vọng vào một cuộc sống không xấu như trước, đối với họ những gì họ vừa phải trải qua là tình huống xấu xa tồi tệ nhất. Họ đã nhầm to, nhất là các phần tử trí thức. Lúc đầu, trí thức Trung Quốc có thiện cảm đối với chính quyền mới nhiều hơn là trí thức Nga đối với chế độ bôn-sê-vích. Họ hi vọng là cộng sản sẽ chấm dứt sự suy tàn liên tục của Trung Quốc. Đó cũng chính là điều Mao hứa hẹn : "Nhân dân Trung Quốc đã đứng dậy... Người Trung Quốc sẽ không bào giờ còn cam chịu làm nô lệ". Cuộc cách mạng cộng sản trước hết là một cuộc cách mạng dân tộc chủ nghĩa. Trước khi các cuộc cải cách 1979 bắt đầu, trong thời kì 1949-79, mặc dầu đã xảy ra những đại hoạ kinh tế của thời Mao, có giai đoạn nào có thể gọi là tích cực đối với Trung Quốc (giảm bớt nghèo đói, xoá nạn mù chữ, nữ quyền...) hay không ? Về mặt chống nghèo, có thể nói là số không : năm 1977, tức là một năm sau khi Mao từ trần, thu nhập của nông dân (tức là của 80 % dân số Trung Quốc) chỉ bằng hay thấp hơn thu nhập năm... 1933 ! Mao hô hào chủ nghĩa bình quân nhưng không hề thực hiện. Những lựa chọn chiến lược và sự ngoan cố của Mao đã duy trì dân chúng trong tình trạng nghèo nàn. Khi mở rộng cho toàn bộ dân chúng những quyền tự do mà trước đó giới trí thức và tầng lớp tư sản đô thị nhỏ bé đã được hưởng, đạo luật hôn nhân 1950 đã cải thiện đôi chút thân phận phụ nữ : trước đó phụ nữ bị cưỡng hôn và thường bị chồng hành hạ, đánh đập, nay họ có quyền đòi li dị. Nhưng việc áp dụng đạo luật này vấp phải sự kháng cự của nếp suy nghĩ cũ, nhất là ở nông thôn, và đảng cộng sản có những vấn đề ưu tiên khác, nên thường du di. Đảng hô nào nam nữ bình quyền, nhưng cũng như các khẩu hiệu mao ít khác, tuyên bố nổi tiếng "phụ nữ là một nửa bầu trời" vẫn chỉ là một khẩu hiệu suông. Cũng như ở Liên Xô, phụ nữ được "giải phóng" là để tham gia lao động, kể cả những lao động nặng nhọc, và hiếm khi nào được trả lương ngang với nam giới. Ngược lại, ngay từ thời Mao, việc xoá nạn mù chữ và trẻ em đi học đã đạt nhiều tiến bộ ở Trung Quốc. Năm 1949, Trung Quốc có 80 % người mù chữ, ngày nay chỉ còn 8 %, nạn mù chữ về cơ bản đã bị xoá bỏ ngay dưới thời Mao. Về giáo dục, Trung Quốc cũng vượt xa ý đồ của họ : năm 1949, chỉ có 25 % trẻ em ở tuổi đi học được học ở các trường tiểu học, năm 1976 (Mao mất), hơn 95%. Có thể tổng kết như thế nào về giai đoạn 30 năm vừa qua là thời kì mà Trung Quốc giàu mạnh lên và trở thành một cường quốc trên mặt quốc tế ? Có người cho rằng tính chất cực quyền của chế độ độc đảng là một trong những điều kiện tạo ra sự thành công này, ông có nghĩ như vậy không ? Về mặt phát triển đất nước và mức sống của người dân, thành tựu của Trung Quốc phải nói là xuất sắc. Chế độ độc đảng đã phát huy vai trò của mình về mặt dân số hơn là dân sinh : chính sách hạn chế sinh đẻ của Trung Quốc vừa hiệu quả vừa có tính cách cưỡng bức. Khoảng 1975, tôi quá chán ngán vì điều kiện nghiên cứu ở Trung Quốc [nên bỏ về], trên đường về tôi đã ngừng lại ở Ấn Độ. Tại đây, đâu đâu cũng thấy những tấm áp-phích to tướng tố cáo cuộc "diệt chủng" của bà Indira Gandhi. Bà thủ tướng cũng muốn kế hoạch hoá việc sinh đẻ, nhưng với những biện pháp ít cưỡng chế hơn Trung Quốc. Sự phản đối ấy, nhà cầm quyền Trung Quốc không gặp phải, cho dù nông dân Trung Quốc tìm mọi cách để lách luật. Trong lĩnh vực kinh tế, sự thành công của Trung Quốc là do chính quyền đã phải từ bỏ những ý đồ tư tưởng của họ nhiều hơn là do chế độ cực quyền. Họ đã quẳng đi những ảo mộng mao-ít và tìm cách khắc phục sự lạc hậu của Trung Quốc -- chính sự lạc hậu này là nguyên nhân thực sự tạo ra cách mạng Trung Quốc. Quan niệm thực tiễn này đã khai phóng năng lực của người sản xuất. Tôi không tin rằng nền dân chủ sẽ được thiết lập ở Trung Quốc trong cuộc đời còn lại của tôi [ông Bianco sinh năm 1930]. Điều ấy, chế độ Trung Quốc chỉ chịu một phần trách nhiệm, vì rất khó thích nghi nền dân chủ tại một đất nước chưa bao giờ biết dân chủ là gì, mà dân số lại hơn 1,3 tỉ người, đa số là nông dân nghèo và ít học. bản dịch của Nguyễn Ngọc Giao
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 5:59:11 GMT 9
Công lao hơn đời, tội ác tày trời
Lý Nhuệ (**)
Cải cách và mở cửa trong hơn hai mươi năm qua, giống như múa ương ca, không thể tiến thẳng một mạch, xét cho cùng là do sự quấy rối không ngừng của “ tả ”, bao giờ cũng có người nói thế này thế nọ, thậm chí còn gây sự, giương ngọn cờ Mao Trạch Đông để công kích đường lối và chính sách đúng đắn. Cuốn sách Mao Trạch Đông – Ngàn năm công tội của Tân Tử Lăng (***), căn cứ vào di ngôn của Đặng Tiểu Bình, đưa việc đánh giá Mao đi vào chiều sâu, là đột phá quan trọng trong lĩnh vực hình thái ý thức từ ngày cải cách mở cửa đến nay, đập tan triệt để hai cái khẩn cô chú dọa người được gọi là “ phản đối con đường xét lại ” và “ ngăn ngừa chủ nghĩa tư bản phục hồi ” do Mao Trạch Đông để lại, làm cho phái cải cách giành được quyền ăn nói, tranh được địa vị chính thống lịch sử. Từ nay trở đi, có thể quang minh chính đại, có lẽ phải không sợ, thúc đẩy sự nghiệp cải cách mở cửa, không bao giờ phải dùng ngọn đèn “ tả ” để rẽ phải (hữu) nữa. Bút pháp khúc chiết của tác giả kiêm thêm bình luận, nhất là những trình bày lý luận của phần Mở đầu và Lời kết thúc có sức thuyết phục lớn, đã để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc. Lời kết thúc cuốn sách này chỉ rõ : “ Nhảy vọt lớn và Đại cách mạng văn hóa vô sản là sự phát triển ác tính của chủ nghĩa xã hội bạo lực Mao Trạch Đông. Ba năm nhảy vọt lớn, cả nước có 37, 55 triệu người bị chết đói. Tổn thất khoảng 320 tỷ NDT. Mười năm cách mạng văn hóa, theo cách nói của Diệp Kiếm Anh tại lễ bế mạc hội nghị công tác TW ĐCSTQ tháng 12 năm 1978 là đã chỉnh 100 triệu người, làm chết 20 triệu người, lãng phí 800 tỷ NDT, nếu cộng thêm tổn thất thu nhập quốc dân là 500 tỷ NDT do Lý Tiên Niệm nói (tại hội nghị kế hoạch toàn quốc ngày 20 tháng 12 năm 1977) thì lãng phí và giảm thu tất cả là 1300 tỷ NDT. Từ lúc Trung Quốc thành lập tới lúc Mao Trạch Đông chết, không có nội chiến, không có thiên tai lớn, số người chết không bình thường lên tới trên 57, 55 triệu người, tổn thất kinh tế là 1400 tỷ NDT. Trong gần 30 năm ấy tổng mức đầu tư cho xây dựng cơ bản nhà nước là 650 tỷ NDT. Hai lần phá đi làm lại lớn đó đã gấp hơn hai lần tổng mức đầu tư xây dựng cơ bản của nước ta trong 30 năm đầu. Có nghĩa là nói, những đồng tiền vốn quý báu vốn có thể dùng để xây dựng đất nước cải thiện đời sống nhân dân đã có tới trên 2/3 bị Mao Trạch Đông phá đi làm lại mất sạch ”. Đó là bản kê tổng thành tích lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh xây dựng đất nước của Mao Trạch Đông. Lấy “bản kê tổng thành tích” này làm căn cứ, kết luận của tác giả là : sai lầm của Mao lớn hơn công lao, phải là tội bảy công ba, nhà cách mạng vĩ đại, nhà xây dựng thất bại. (Mao Trạch Đông lúc cuối đời đã tự nhận rằng mình công bảy tội ba). Đầu năm 1979 khi trở lại cương vị công tác, tôi đã từng nói : Mao Trạch Đông, công lao hơn đời, tội ác tày trời. Cái trước chỉ (thời gian) cách mạng, cái sau chỉ (thời gian) cầm quyền. Bạn đọc, đọc chương 18 Địa ngục chủ nghĩa cộng sản (thượng), chương 19 Địa ngục chủ nghĩa cộng sản (hạ) của cuốn sách này sẽ hiểu được câu nói “ tội ác tày trời ” không phải là giả dối. Mao Trạch Đông lãnh đạo cách mạng dân chủ mới năm 1949 giành được thắng lợi. Thế nhưng cái công lao hơn đời đó so với những tai hoạ do ông cầm quyền tạo ra cho đất nước và nhân dân chỉ có thể là thứ yếu, là thứ hai thôi. Năm 1980, TW ĐCSTQ triệu tập tại Bắc Kinh hội nghị thảo luận Quyết nghị lịch sử lần thứ hai, tôi được tham gia hội nghị này. Đối với vấn đề đúng, sai, công, tội của Mao Trạch Đông trong hơn 4.000 cán bộ cao cấp có khá nhiều người có ý kiến. Với tư cách là người lãnh đạo già của đảng, để hướng dẫn toàn đảng, nhân dân toàn quốc bước ra khỏi sai lầm mê muội sùng bái cá nhân, nhưng lại tránh được sự chia rẽ trong đảng, Đặng Tiểu Bình trong bài nói của mình đã khẳng định công lao của Mao Trạch Đông là thứ nhất, phải tiếp tục giương cao ngọn cờ Mao Trạch Đông, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở nhận thức đó, tháng 6 năm 1981, hội nghị TW lần thứ 6 khóa 11 đã đưa ra “Quyết nghị về một số vấn đề lịch sử của đảng từ khi xây dựng nước đến nay”. Quyết nghị này, nhằm đoàn kết toàn đảng, bước đầu uốn nắn sai lầm của Mao Trạch Đông từ sau khi xây dựng nước, xoay chuyển đường lối sai lầm lịch sử trước đây, khiến Trung Quốc đi vào con đường đúng đắn cải cách mở cửa, đã có tác dụng có tính lịch sử. Trong bài viết của mình tôi đã từng nói, “ Quyết nghị ” này bắt đầu tổng kết những sai lầm cuối đời của Mao Trạch Đông. “ Quyết nghị ” được thông qua dưới sự chủ trì của Đặng Tiểu Bình, chỉ chú trọng uốn nắn những sai lầm của cách mạng văn hóa, đã không phủ định về căn bản đường lối xã hội chủ nghĩa không tưởng của Mao Trạch Đông. Trong cuốn sách, tác giả ghi, 12 năm sau, tại hội nghị Thượng Hải, Đặng Tiểu Bình đã thẳng thắn nói : “ Trong việc đánh giá địa vị lịch sử cũng như công lao, sai lầm của Mao Trạch Đông, hội nghị TW lần thứ 6 khóa 11 đã bị sự hạn chế của tình hình trong đảng và trong xã hội đương thời, một bộ phận lịch sử đã không chân thực. Không ít đồng chí đã tiếp nhận nghị quyết một cách trái với lòng mình. Lịch sử là do chúng ta đi qua, không thể điên đảo, không thể thay đổi. Trong việc đánh giá công lao, sai lầm của cuộc đời Mao Trạch Đông luôn luôn có tranh luận. Tôi đã nói với Bành lão (Bành Chân), (Đàm) Chấn Lâm, (Lục) Định Nhất : ý kiến của các vị là đúng, thế nhưng cần phải suy tính tới cục diện bên dưới, có thể để đến đầu thế kỷ sau, để cho thế hệ sau đưa ra đánh giá toàn diện ! Công lao, sai lầm của Mao Trạch Đông bày ra đấy, dọn đi không được, thay đổi không xong. Có người lo lắng đánh giá toàn diện Mao Trạch Đông sẽ dẫn tới thành tích lịch sử của ĐCSTQ bị phủ định, sẽ làm tổn hại địa vị lãnh đạo của ĐCSTQ. Tôi thấy không cần phải lo lắng. Tôi kiến nghị, có thể đợi sau khi thế hệ chúng ta ra đi sẽ có đánh giá toàn diện cuộc đời Mao Trạch Đông. Đến lúc đó môi trường chính trị sẽ càng có lợi, ý kiến cố chấp sẽ ít đi một chút. Đảng viên cộng sản là những người duy vật, uốn nắn những quyết nghị sai lầm, sơ suất, trái với lòng mình, không hoàn chỉnh, là sự thể hiện lòng tự tin, có sức mạnh của đảng cộng sản, phải tin tưởng đại đa số đảng viên, tin tưởng nhân dân sẽ hiểu được, sẽ ủng hộ ” (Bài nói của Đặng Tiểu Bình tại hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng ngày 15 tháng 1 năm 1993 tại Khách sạn Tây Giao Thượng Hải). Đặng Tiểu Bình không cho rằng quyết nghị của hội nghị TW 6 khóa 11 là đánh giá cuối cùng về Mao Trạch Đông, để việc đánh giá lại Mao Trạch Đông cho thế hệ sau giải quyết. Mặc dù trong cuốn Mao Trạch Đông – Ngàn năm công tội tác giả đã tôn trọng di ngôn của Đặng Tiểu Bình nhưng có khả năng một số trình bày có liên quan trong cuốn sách vẫn có thể gây ra chấn động trên chính đàn Trung Quốc, có người sẽ có cảm giác kinh động. Sự ra đời của cuốn sách này khiến chúng ta lại có dịp nhìn thấy những năm tháng hoang đường, hỗn loạn và đẫm máu, là sự tự có ý nghĩa cực lớn đối với việc ngăn chặn trào lưu tư tưởng cực tả lưu luyến thời đại Mao Trạch Đông, kiên trì không dao động cải cách mở cửa. Cuốn sách này về lý luận có những cống hiến có tính xây dựng. Trong Lời kết thúc đã có sự chỉnh lý, hướng dẫn về những phát triển chủ nghĩa Mác tiến cùng thời đại sau khi Tuyên ngôn cộng sản phát biểu. Tác giả cho rằng thời thanh niên, Mác, Enghen là những người cộng sản ‘lý luận chủ nghĩa xã hội không tưởng cộng thêm thủ đoạn cách mạng bạo lực’, còn vào cuối đời thì là người chủ nghĩa xã hội dân chủ. Sau khi giải tán Đồng minh những người cộng sản, họ không xây dựng đảng cộng sản, mà dưới sự chỉ đạo của họ đã xây dựng đảng xã hội dân chủ. “Chủ nghĩa cộng sản” là khẩu hiệu bị họ vứt bỏ lúc cuối đời. Trong tranh luận của Lênin với Quốc tế thứ hai, Quốc tế thứ hai là chính xác. Trên vấn đề cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính giai cấp vô sản, những phê bình của Kautsky, Luxembourg, Plekhanov đối với Lênin là nhằm đúng điểm quan trọng. Những chính đảng thuộc Quốc tế thứ hai, trăm năm qua đã kiên trì mặt chính xác của học thuyết Mác, không thực hiện quyết liệt triệt để nhất đối với giai cấp tư sản, thông qua đấu tranh trong Quốc hội, phong trào công nhân đi con đường chủ nghĩa cải lương, từ đó thúc đẩy các quốc gia tư bản phương Tây không ngừng thay đổi, về mặt xoá bỏ ba chênh lệch lớn đã giành được những thành tựu vĩ đại mà mọi người đều thấy. Chủ nghĩa xã hội dân chủ châu Âu là chủ nghĩa Mác chính thống. Tuyên ngôn cộng sản đã hướng dẫn sai những sứ đồ vĩ đại là Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông. Những sứ đồ vĩ đại này đã phát huy những không tưởng và bạo lực trong “Tuyên ngôn” lên tới cực đoan, hướng dẫn sai Quốc tế thứ ba và các đảng, nhân dân các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Sự tan rã và thất bại của phe xã hội chủ nghĩa trong những năm 90 của thế kỷ trước là do con đường “cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản” về căn bản là sai lầm. Một cuộc cách mạng lấy tiêu diệt chế độ tư hữu làm kết cục, một loại chế độ lấy bài xích sức sản xuất tiên tiến làm đặc trưng, bất kỳ là dùng danh nghĩa đường hoàng nào đều là không có tiền đồ. Giai cấp tư sản và chế độ tư hữu đại biểu cho sức sản xuất tiên tiến cho dù gặp phải sự hiểu sai lớn nhất, cho dù bị ma quỷ hóa như thế nào, cuối cùng vẫn được sự đồng thuận của loài người. Loài người đã bất chấp những lời kêu gọi bình đẳng, chính nghĩa, sau khi thoát ly xã hội cộng sản nguyên thuỷ, trên con đường khoa học, dân chủ và pháp chế đã từng bước, từng bước đi tới văn minh. Nhà tư bản và phần tử trí thức đại biểu cho sức sản xuất tiên tiến và văn hoá tiên tiến là không thể tiêu diệt được, có tiêu diệt rồi thì cũng phải mời trở lại. Đó là bài học căn bản nhất mà thất bại của phong trào cộng sản quốc tế thế kỷ 20 để lại cho hậu thế. Chủ nghĩa dân chủ mới thuộc hệ thống tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ, có thể nói đó là tinh hoa của tư tưởng Mao Trạch Đông. Kiên trì tư tưởng Mao Trạch Đông phải coi trọng chủ nghĩa dân chủ mới. Mao Trạch Đông tuyển tập do Đặng Tiểu Bình viết tên sách năm 1991 chỉ gồm 4 tập, không bao gồm những tác phẩm và bài nói sau tập 5, là có ý. Tác giả cho rằng : “ Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là sản phẩm của sự cùng kết hợp tư tưởng chủ nghĩa xã hội dân chủ của Mác, Enghen với thực tiễn cụ thể của cải cách mở cửa Trung Quốc, nó sẽ xây dựng Trung Quốc thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa giàu có văn minh, công bằng và hài hoà như các nước châu Âu ngày nay. Đảng cộng sản Trung Quốc chuyển biến sang chủ nghĩa xã hội dân chủ là phục tùng những di giáo cuối đời của Mác, Enghen, kế thừa truyền thống cách mạng dân chủ mới, triệt để thoát ly mô hình Liên Xô, trở lại với chủ nghĩa Mác tiến cùng thời đại. Đó là sự định vị lịch sử của chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.” (‘Lời kết thúc’). Cái “ định vị ” đó đã lấp bằng con đường chuyển đổi quỹ đạo về hình thái ý rhức cho đảng và nhà nước : chủ nghĩa Mác, tư tưởng Mao Trạch Đông, “ ba ngọn cờ hồng ” của chủ nghĩa xã hội đều không mất mà lại thoát khỏi sự ràng buộc của hình thái ý thức “ tả ”, vứt bỏ được những lý luận sai lầm, giáo điều cực tả – từ Mác, Enghen, Lênin, Stalin đến Mao Trạch Đông, đã hướng dẫn sai Trung Quốc ba mươi năm, mang lại cho đất nước sự nghèo nàn, động loạn và chuyên chế và cho đến nay vẫn còn ngăn cản và phủ định cải cách mở cửa. Tác giả kiến nghị : “ Trong cải cách hình thái ý thức, phải lấy quan điểm phát triển khoa học lấy con người làm gốc của Hồ Cẩm Đào làm tổng cương, lấy chủ nghĩa xã hôi dân chủ của Mác, Enghen lúc cuối đời, chủ nghĩa dân chủ mới của Mao Trạch Đông cũng như lý luận Đặng Tiểu Bình và tư tưởng quan trọng ‘ba đại diện’ làm cơ sở, hấp thu kinh nghiệm trị quốc của đảng dân chủ xã hội chấp chính dân chủ, chấp chính liêm khiết và rút ngắn ba chênh lệch lớn (chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, chênh lệch giữa công nhân và nông dân, chênh lệch giữa lao động trí óc và lao động chân tay), xây dựng hình thái ý thức hài hoà với trào lưu dân chủ thế giới, hình thành một bộ lý luận chấp chính hoàn chỉnh thích nghi với tình hình đất nước. Hệ thống lý luận này nên đặt tên là lý luận chủ nghĩa xã hội dân chủ, ghi vào điều lệ đảng và Hiến pháp ; từ nay trở đi, sẽ không bao giờ ghi họ tên bất kỳ người nào làm tư tưởng chỉ đạo đảng và quốc gia, nhằm loại bỏ tác phong còn lại và ảnh hưởng của sùng bái cá nhân, thiết lập quyền ăn nói của phái cải cách. Đảng cộng sản Trung Quốc đổi tên làm đảng xã hội Trung Quốc, tham gia quốc tế đảng xã hội, nhằm kế thừa trào lưu lịch sử đảng dân chủ xã hội mà Mác, Enghen đã xây dựng, xác lập địa vị chính thống lịch sử của phái cải cách, làm cho người trong nước nghe nhìn đều thấy mới mẻ đổi mới, làm cho thế giới nghe nhìn đều thấy mới mẻ. Đi được bước này, sẽ phát sinh ảnh hưởng trọng đại trong việc thống nhất Trung Hoa, trong việc cải tiến quan hệ giữa Trung Quốc với EU, Mỹ, Nga và mọi quốc gia dân chủ, sáng tạo môi trường quốc tế tốt nhất để Trung Hoa bay cao ” (“Lời kết thúc”). Những kiến nghị này của Tân Tử Lăng thuộc vào đại chiến lược của sự phát triển đảng và nhà nước. Về vấn đề loại bỏ những tác phong còn lại và ảnh hưởng của sùng bái cá nhân, thiết lập quyền ăn nói của phái cải cách, đặc biệt đáng coi trọng. Về vấn đề đổi tên đảng có khả năng dẫn tới kinh ngạc. Nhưng đó mới thực sự là tiến cùng thời đại. Tôn Trung Sơn lãnh đạo cách mạng dân chủ lật đổ chế độ hoàng đế, lúc bắt đầu gọi là Đồng minh, sau khi thiết lập Dân quốc để thích ứng với đòi hỏi nội các trách nhiệm, đã cùng với mấy đảng nhỏ liên hiệp cải tổ thành Quốc dân đảng, Viên Thế Khải cướp nước xưng đế, Tôn Trung Sơn phát động cuộc cách mạng lần thứ hai, đổi tên là Đảng cách mạng Trung Hoa, trong chiến tranh Hộ pháp (****) để nhấn mạnh sự chính thống lại đổi tên là Quốc dân đảng. Theo hồi ức của Johnson. Stewart, người đã từng là thành viên của Tổ quan sát quân Mỹ tại Diên An thì tháng 8 năm 1944, khi nói chuyện với ông ta, Mao Trạch Đông đã nói : “ Để hợp tác với Mỹ, những người cộng sản đã suy tính tới vấn đề liệu có cần đổi tên mình hay không ” (1). Vào lúc cuối đời khi nói chuyện với các cán bộ cao cấp, Đặng Tiểu Bình cũng đã nói, khi cần thiết sẽ đổi tên đảng. Đảng xã hội dân chủ là do Mác, Enghen xây dựng. Khi phát biểu Tuyên ngôn cộng sản chưa có đảng cộng sản, văn kiện này vốn gọi là Tuyên ngôn chủ nghĩa cộng sản (2). Chỉ vào năm 1918 khi Lênin làm chuyện chia rẽ với Quốc tế thứ hai thì tên gọi đảng cộng sản mới được vang lên. Cho dù toàn bộ lý luận tiêu diệt chế độ tư hữu là sai (tỉ mỉ xem phần thứ nhất của Lời kết thúc, ở đây không triển khai trình bày), hiện nay trong nền kinh tế nước ta đã xuất hiện chế độ tư hữu, trong Hiến pháp đã có điều khoản bảo vệ tài sản tư hữu, với tư cách là đảng cầm quyền mà vẫn gọi là đảng cộng sản sẽ không thích hợp, còn chuẩn bị định “cộng” tài sản của ai ? Tôi thường nói, chủ nghĩa Mác là cái gì ? Khảo sát từ lịch sử và thực tiễn thấy, những cái gì của chủ nghĩa Mác là chính xác, những cái gì là sai lầm, trước đây chúng ta đã chấp hành chủ nghĩa Mác như thế nào, chủ nghĩa Mác nên phát triển ra sao, chúng ta đã làm rõ chưa ? Lâu nay, chủ nghĩa Mác giả ra sức thực hiện đạo của mình, còn chủ nghĩa Mác thật lại bị che lấp bởi lớp tro bụi “ chủ nghĩa xét lại ”. Điều này chủ yếu là do chủ nghĩa chuyên chế văn hoá được sùng bái, nó bắt nguồn từ chủ nghĩa chuyên chế chính trị. Chuyên chế một đảng dẫn tới hình thái ý thức được xác định là cái tuân theo duy nhất, mà cái “ tuân theo duy nhất ” này lại là phần sai lầm trong chủ nghĩa Lênin, chủ nghĩa Stalin, và lý luận Mao Trạch Đông xa rời chủ nghĩa Mác. Không ít người trong giới lý luận đang nhận thức lại chủ nghĩa Mác, một lần nữa từ trong cuốn sách của Tân Tử Lăng, tôi lại tìm thấy tri âm. Thì ra chủ nghĩa xã hội nghèo mà trước cải cách chúng ta đã làm, đã chấp hành những cái sai lầm trong chủ nghĩa Mác bị Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông phát triển, là những lý luận và chủ trương bị Enghen lúc cuối đời thừa nhận “ chỉ là một ảo tưởng ” (3) và còn coi những cái chính xác của nó là “ chủ nghĩa xét lại ” để phê phán trong mấy chục năm. Mặc dù sự trả lời của tác giả có chút đơn giản, nhưng đã nắm chắc được cái căn bản của vấn đề, cung cấp cho người ta những manh mối để đi sâu nghiên cứu và suy ngẫm hơn nữa Trên vấn đề thế nào là chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội như thế nào, một thời gian dài chúng ta đã “ Nhất biên đảo ” (ngả về một bên), đi con đường kiểu Liên Xô, thực hiện chủ nghĩa xã hội bạo lực, tiêu diệt chế độ tư hữu, tiêu diệt giai cấp tư sản, càng làm càng nghèo, đã thất bại ; sau cải cách mở cửa, trên thực tế là đi con đường kiểu Thụy Điển, thực hiện chủ nghĩa xã hội dân chủ, bảo vệ chế độ tư hữu, đoàn kết giai cấp tư sản, thu được thành công to lớn. Cho dù cải cách thể chế chính trị không cùng tiến lên đồng bộ với cải cách kinh tế, dẫn tới những vấn đề nghiêm trọng như hủ bại cùng phát sinh một lúc v.v. Nhưng tì vết không che nổi ánh ngọc, dòng chính là tốt, chỉ cần kiên trì đi con đường chủ nghĩa xã hội dân chủ là không khó giải quyết. Thành công này được thể hiện ở năng suất lao động sáng tạo trong năm 2003 cao gấp 33 lần năm 1978. Theo tính toán của Cục thống kê nhà nước, năng suất lao động trong cả năm 1978 chỉ tương đương với năng suất lao động trong 11 ngày của năm 2003. Quy cho cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất để chế độ mới chiến thắng chế độ cũ, đường lối chính xác chiến thắng đường lối sai lầm, chủ nghĩa xã hội dân chủ chiến thắng chủ nghĩa xã hội bạo lực. Rút kinh nghiệm những sai lầm đã mắc phải trước đây và con đường nên đi từ nay về sau, trong các bài viết mấy năm gần đây, tôi thường bàn đến 3 vấn đề có liên quan cần làm rõ sự phát triển, tiến bộ văn minh của lịch sử nhân loại rốt cuộc là dựa vào cái gì ? Nên nhận thức như thế nào về “ sự lãnh đạo lý luận ” như chủ nghĩa Mác v.v. đã được ghi vào Hiến pháp ? Tác dụng và quan hệ nhà nước mà đảng cộng sản đã có trong lịch sử, đảng nên cầm quyền như thế nào ? Nội dung cuốn sách này đều có liên quan hoặc giải đáp đến nội dung của ba mặt này. Trong trao đổi bàn bạc, Tân Tử Lăng đã kể một chuyện cười chính trị : một người Trung Quốc tới thăm thành phố Trier, nước Đức – quê hương của Mác, hỏi người gác cửa : “ Nước Đức các anh có Mác làm sao không tôn thờ Mác ? ” Người gác cổng nói : “ Mác là nhà đại học vấn, ông để lại hai bản kinh điển, một bản là chủ nghĩa Mác nghèo, một bản là chủ nghĩa Mác giàu. Nghe các người già nói, thế kỷ trước có một người tên là Lênin rất lợi hại, cướp lấy bản chủ nghĩa Mác nghèo mang đi, hơn nữa còn để lại lời, không cho phép chúng tôi tin theo chủ nghĩa Mác. Chúng tôi chỉ còn lại bản chủ nghĩa Mác giàu và cũng chẳng tranh lấy chính thống làm gì, thế mà cuộc sống ngày càng tốt, sống rất vui ”. Câu chuyện này rất đáng để chúng ta suy ngẫm sâu sắc. Chúng ta nên tôn thờ chủ nghĩa Mác giàu có thể thúc đẩy sức sản xuất tiên tiến và phát triển văn hóa tiên tiến – chủ nghĩa xã hội dân chủ, và triệt để chia tay với chủ nghĩa Mác nghèo – lý luận và phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội của Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông. Tháng 4 năm 2006 Lý Nhuệ bản dịch của Dương Danh Dy nguồn : bauxitevietnam Chú thích của dịch giả (dấu *) và tác giả (từ 1 đến 3) (*) Mao Trạch Đông – Ngàn năm công tội (千秋功罪-毛泽东 : Thiên thu công tội – Mao Trạch Đông) , tác giả Tân Tử Lăng (新子棱), gồm hai tập 700 trang. Nhà xuất bản Thư tác bảng (书作 榜), Hồng Công, năm 2007. (**) Lý Nhuệ, đảng viên lão thành Đảng cộng sản Trung Quốc đã từng là Phó Trưởng Ban Tổ chức TW ĐCSTQ, và có một thời gian làm thư ký cho Mao Trạch Đông. (***) Tân Tử Lăng, nguyên Đại tá, cấp Sư doàn trưởng quân Giải phóng Trung Quốc, người chuyên nghiên cứu về Mao Trạch Đông (****) Chiến tranh Hộ pháp: là cuộc chiến tranh do Tôn Trung Sơn phát động nhằm bảo vệ “Ước pháp lâm thời Dân quốc Trung Hoa” và phản đối sự thống trị độc tài chuyên chế của Quân phiệt Bắc Dương, từ năm 1917 đến năm 1922, trước sau đã tiến hành hai lần. (1) John.Stewart. Cơ hội bị đánh mất tại Trung Quốc. Công ty xuất bản Văn hóa quốc tế. Năm 1989, tr. 260. (2) Truyện Enghen. Nhà sách Tam liên tân trí sinh hoạt độc thư. Năm 1975, tr. 137. (3) Toàn tập Mác – Enghen, Quyển thứ 22. Nhà xuất bản Nhân dân. Năm 1965, tr. 595.
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 6:01:39 GMT 9
Đảng cộng sản Trung Quốc bước sang tuổi 87 Thái Sùng Quốc Cập nhật : 06/07/2007 23:02
Trung Quốc quá độ từ "giai đoạn cộng sản nguyên thuỷ" lên "chế độ nô lệ" ?
Cái vỏ rỗng của ĐCS Trung Quốc
Thái Sùng Quốc 蔡崇国 1-7 là ngày kỉ niệm thành lập Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921). Hiếm thấy một ngày kỉ niệm ảm đạm như vậy ở Trung Quốc. Từ cuối tháng 5 đến nay, mạng điện tử lan tràn những bài viết tố cáo những vụ bê bối về điều kiện lao động, nhất là vụ những công nhân nô lệ tại một nhà máy gạch. Báo chí và đài truyền hình nhà nước cũng phải nói tới vụ việc này. Tại nhà máy gạch tỉnh Sơn Tây, có 32 em bé bị cưỡng bức lao động. Vài ngày sau, 400 người cha có con cái mất tích đã lên tiếng kêu cứu. Các báo và trạm internet cho biết : tại nhà máy gạch này, những em bé từ 8 đến 13 tuổi biến thành những nô lệ, ngày ngày bị hành hạ, làm việc không lương, nhiều tháng liền không được tắm rửa. nole Trẻ em ở lò gạch tỉnh Sơn Tây (ảnh China Daily) Vụ bê bối này được phanh phui trong khi ở Trung Quốc có 150 triệu người sử dụng mạng internet và 50 triệu người có "blog" cá nhân. Internet đã mở ra một diễn đàn bàn cãi và bình luận chưa từng có từ năm 1989 đến nay. Cảm xúc của người này trước số phận của những trẻ em Sơn Tây đã khơi dậy cảm khái của nhiều người khác. Thêm vào đó là sự phẫn nộ trước vai trò của đảng bộ và chính quyền địa phương trong các vụ việc này. Chủ của nhà máy gạch là bí thư xã uỷ và uỷ viên hội đồng nhân dân địa phương. Từ đó, dư luận liên hệ tới tiền lệ những vụ nổ hầm mỏ, buôn trẻ em, lao động cưỡng bức... mà báo chí đã rải rác nói tới trong những năm qua, ngày nay tích luỹ lại và gây ra chấn động tâm lí lớn trong công chúng. Trước sự phẫn nộ chung, bộ máy kiểm duyệt bị tê liệt, trong hai tuần lễ không biết phải làm sao. Họ đành để cho "mạng nhân" tự do phát biểu, nói lên sự phẫn uất và đưa ra những bình luận, phân tích. Các cuộc thảo luận cho thấy rõ rằng nạn lao động cưỡng bức đã trở thành định chế khá phổ biến ở các nơi, báo chí đã nêu ra từ lâu, song chính quyền hầu như không hề phản ứng. Người ta được đọc những lời chỉ trích, thậm chí mạ lị, quyết liệt mà kiểm duyệt không dám đục bỏ : "Tất thảy chúng ta đều là nô lệ của Trung Nam Hải", "Chúng hành xử như những chủ nhân nô lệ", nghĩa là những từ ngữ nghiêm khắc ngàn lần hơn những người "li khai" trước đây. Người ta bắt đầu tin vào những điều trước đây chẳng mấy ai tin : chẳng hạn những lời phê bình ở các nước phương Tây về quyền con người hay về thảm kịch Thiên An Môn năm 1989. Người ta bỗng nhận thức rằng những tình cảnh cực kỳ tàn ác có thể diễn ra và kéo dài ở Trung Quốc. Và người ta bắt đầu đặt vấn đề về vai trò lịch sử của đảng đã nắm trọn quyền bính từ hơn một nửa thế kỉ và đã rêu rao là đã đưa nhân dân ra khỏi cảnh bóc lột và giải thoát nông dân khỏi kiếp ngựa trâu. Cuộc thảo luận cũng nêu ra vấn đề cung cách vận hành của ĐCS ở cấp cơ sở, không chỉ là bảo vệ quyền lợi của chủ nhân thẳng tay bóc lột công nhân mà còn trực tiếp tham gia bóc lột. Những người viết "blog" đã mỉa mai sử dụng các khái niệm mác xít : "Chúng ta đã đạt tới giai đoạn cộng sản nguyên thuỷ và theo đúng quy luật duy vật lịch sử, chúng ta đang quá độ lên thời kì tương lai là chế độ nô lệ". Thế là trong vòng vỏn vẹn một tháng, đã biến thành mây khói bao nhiêu lao công khổ tứ của các nhà lãnh đạo nhằm làm cho "đảng đi sát nhân dân" để xây dựng một "xã hội hài hoà". Cụm từ "xã hội hài hoà" đã được biến nghĩa thành đàn áp, kiểm duyệt. Người ta không nói "anh ta bị bắt" mà nói : "anh ta đã được hài hoà", không nói "bài viết của tôi bị kiểm duyệt" mà nói "bài viết của tôi đã được hài hoà"... Uy tín và quyền uy của ĐCS đã bị lung lay sâu sắc. Vai trò lịch sử, thậm chí bản thân ĐCS bị đặt thành vấn đề vào đúng dịp kỉ niệm 86 năm ngày thành lập. Tình hình rối rắm còn đặt ra ngay trong tổ chức của ĐCSTQ. Tháng 10-2006, một nhà nghiên cứu trẻ của Học viện chính trị thanh niên (Bắc Kinh), Trần Sinh Lạc (陳生洛), đã nộp một công trình nghiên cứu điền dã về tổ chức đảng tại các xí nghiệp quốc doanh vốn là một trong những thành trì của ĐCS. Kết luận điều tra : tổ chức cơ sở hầu như không còn nữa ; trong số 70 triệu đảng viên, dường như có tới 40 triệu không còn sinh hoạt đảng hay "trôi xuôi". Phải nói là từ mươi năm nay, với quá trình tư hữu hoá và giải thể các nhà máy, nhiều đảng viên cũng mất việc ; một số khác, đảng viên nông dân, đã rời bỏ nông thôn và tổ chức để trở thành những "người cộng sản lưu dân". Ra thành phố, vào làm việc trong các xí nghiệp ngoại quốc, chủ là người đến từ Hồng Kông hay Đài Loan, không mấy quan tâm tới sự có mặt của đảng viên cộng sản trong doanh nghiệp của họ. Có người thậm chí nói rằng ĐCS đã "rút vào vòng bí mật" ! Thật vậy, 60 % các doanh nghiệp là tư doanh hoặc của tư bản ngoại quốc. Rất nhiều nghiệp chủ không có thẻ đảng, nhưng họ nắm quyền quyết định ; chi bộ đảng chỉ có một việc là ủng hộ những quyết định chọn lựa của người chủ. Có thể nói họ mới là người lãnh đạo đảng, chứ không phải ngược lại : họ có quyền sa thải bất cứ nhân viên nào, đảng viên hay không. Trong tình hình không mấy vinh quang như vậy, nhiều người cộng sản không dám nhận mình là đảng viên. Họ sợ bị chế giễu, không những thế lộ diện là cộng sản nhiều khi lại khó kiếm việc. Vả lại, đi làm ở xí nghiệp 12, thậm chí 14 giờ một ngày, và nhiều khi ngay tại xí nghiệp cũng không có phòng ốc cho sinh hoạt đảng. Theo hệ tư tưởng chính thống, đảng vẫn là "đội tiên phong" của giai cấp công nhân và của nông dân, lãnh đạo đất nước đi lên xã hội cộng sản. Nhưng ngày nay, khi nền kinh tế vẫn rồ máy tăng tốc để hướng tới các thị trường bên ngoài, chẳng còn ai tin vào huyền thoại đó nữa. Cuộc khủng hoảng tư tưởng này không thể không hàm chứa những vấn đề nghiêm trọng, trước tiên là động cơ vào đảng. Vào đảng bây giờ để làm gì ? Những động cơ vinh quang xưa kia đã mai một, từ cuối thập niên 1970 tư tưởng cũng tiêu tùng. Bây giờ người ta vào đảng vì lợi ích cá nhân, để thăng quan tiến chức, vì chủ nghĩa cơ hội. Do đó, nguồn đảng viên chủ yếu là các giới làm ăn. Do nạn tham nhũng, những người tài đức lánh xa đảng. Tuy nhiên, ĐCS còn được duy trì trong một số giới như quân đội, công an, cơ quan chính quyền. Còn ở nông thôn và tại các nhà máy, có thể nói đảng chỉ còn cái vỏ. Tổ chức cơ sở rệu rã, uy tín tiêu tùng, đảng viên bị dân chúng khinh khi, một chính đảng như vậy không thể nào thu nạp được những phần tử ưu tú và sinh lực của nhân dân. Muốn lãnh đạo một đất nước đang trở thành cường quốc (trong một bối cảnh) ngày càng phức tạp, tất nhiên nó phải tự đặt câu hỏi về tiền đồ của nó, cũng như về tương lai thế giới. Ở tuổi 86, Đảng cộng sản Trung Quốc lâm vào một cuộc khủng hoảng đầy hội chứng phức tạp, trước mắt không thấy lối thoát. Thái Sùng Quốc (Cai Chongguo), nhà li khai Trung Hoa, hiện sống ở Pháp, tác giả cuốn Chine, l'envers de la puissance (Editions Mango). Bản tiếng Pháp đăng trên nhật báo Le Monde (ngày 3.7.2007). Bản tiếng Việt của Diễn Đàn. Về sự kiện lò gạch Sơn Tây, có thể đọc bản tin Reuters, báo Le Monde ngày 11.6.07, băng hình Children Slaves, Shanxi, China
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 6:04:00 GMT 9
Biển Đông và chiến lược diều hâu của Trung Quốc
Dự Trần Từng bước thiết lập chủ quyền trên thực tế dù không có cơ sở pháp lýTham vọng của Trung Quốc trên biển Đông từ lâu đã là một lá bài ngửa. Từ năm 1947, họ đã xuất bản bản đồ địa giới và hải giới Trung Quốc trên Biển Đông với 11 "đường viền gạch nối). Từ 1953 trở lại đây thì 2 đường viền gạch nối trên Vịnh Bắc Bộ đã bị xóa đi, để lại bản đồ chính thức của Trung Quốc với 9 đường gạch nối (hình chữ U hay hình lưỡi bò). Mục đích của Quỹ là phổ biến ý thức và nâng cao kiến thức và khuyến khích, hỗ trợ nghiên cứu về tranh chấp Hoàng Sa, Trường Sa, mặt biển và thềm lục địa, chuẩn bị các chứng cứ lịch sử và pháp lý cho việc giải quyết tranh chấp sau này. Bằng con đường truyền thông và ngoại giao, vận động sự quan tâm và ủng hộ của dư luận quốc tế cho một giải pháp công bằng và hoà bình cho các tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông Theo Zou Keyuan thuộc ĐHQG Singapore thì các đường viền này không nhất thiết phản ánh quan điểm ban đầu của Trung Quốc về lãnh hải của nước này. Tuy nhiên, với việc Trung Quốc phản ứng quyết liệt trước các động thái khai thác dầu khí của Việt Nam ở vùng Tư Chính – Vũng Mây và bồn trũng Nam Côn Sơn thì có vẻ như tới giờ họ đã nghiễm nhiên coi toàn bộ diện tích mặt biển gói bằng 9 đường viền gạch đứt là lãnh hải của họ. Trung Quốc mạnh hơn hẳn Việt Nam và các nước ASEAN khác cùng tranh chấp như Phillipine hay Malaysia. Đây là một sự thực rõ như ban ngày. Sự chênh lệch về sức mạnh kinh tế và quân sự, kèm theo các phản ứng rất chừng mực và đơn lẻ, từ các đối thủ ASEAN đã khiến Trung Quốc tùy ý vận dụng chiến lược diều hâu trên Biển Đông. Từ khoảng 20 năm đổ lại đây, họ đã sử dụng một công thức tổng hợp bao gồm (1) tấn công quân sự quy mô nhỏ (Việt Nam, 1988, Philippine, 1996, 1997), (2) đơn phương thăm dò và khai thác tài nguyên trên vùng tranh chấp, (3) đe dọa bằng vũ lực (đối với ngư dân) hoặc sức ép kinh tế (với các tập đoàn dầu khí quốc tế) nhằm ngăn chặn các đối thủ tiến hành khai thác tài nguyên trong vùng tranh chấp, (4) chia rẽ các đối thủ bằng kinh tế và ngoại giao, và (5) tuyên truyền về chủ quyền và thái độ cứng rắn của họ đối với vấn đề Biển Đông trên toàn thế giới. Công thức này có mục tiêu hướng vào việc thiết lập chủ quyền trên thực tế (de facto) trên vùng biển này. Đứng về phía Trung Quốc thì chiến lược này là tối ưu vì một mặt nó không biến Trung Quốc thành một gã đồ tể hiếu chiến, nhưng lại giúp họ từng bước lấy được Biển Đông trong khi tuyên bố chủ quyền của họ không hề có cơ sở pháp lý (de jure). Đáng tiếc cho ASEAN là chiến lược này đang đạt được các thành quả ngoài sức mong đợi cho Trung Quốc. Chiến lược diều hâu trên Biển Đông Trung Hoa Cần nhớ rằng chiến lược diều hâu không chỉ được Trung Quốc sử dụng trên Biển Đông. Họ cũng đã từng sử dụng công thức này trong cuộc tranh chấp ở Biển Đông Trung Quốc (East China Sea) với Nhật Bản. Tuy nhiên, kết quả của nó lại không giống như thành tựu mà nó đưa lại trong cuộc tranh chấp trên Biển Đông. Trong cuộc tranh chấp với Nhật, Trung Quốc cũng đơn phương tiến hành thăm dò/khai thác trên vùng biển tranh chấp bất chấp sự phản đối quyết liệt của Nhật. Họ cũng thường xuyên đưa tàu chiến và tàu ngầm tới vùng biển này để dằn mặt hải quân Nhật Bản. Căng thẳng diễn ra đỉnh điểm vào cuối 2003 và đầu 2004, tới mức chiến tranh tưởng như đã cận kề. Từ tháng 8, 2003, chính phủ Trung Quốc đã ký xong các thỏa thuận khai thác với các công ty dầu khí Trung Quốc và nước ngoài như Royal Dutch/Shell và Unocal với trị giá lên tới nhiều tỉ Mỹ kim. Nhật lên tiếng phản đối vì cho rằng hoạt động khai thác này lấy cớ rằng rằng nó sẽ hút cạn nguồn dầu khí nằm sâu trong lòng biển thuộc về hải phận của Nhật. Trung Quốc bỏ ngoài tai phản ứng này của đối phương. biendong Trước động thái của Trung Quốc, Nhật đã quyết định trả đũa. Họ đã đưa tàu thăm dò tới vùng biển tranh chấp từ tháng 7, 2004 để chuẩn bị đơn phương thăm dò và khai thác. Đương nhiên Trung Quốc đã quyết liệt phản đối và coi hoạt động này là vi phạm chủ quyền. Tuy nhiên, các phản ứn chỉ dừng lại ở mức ngoại giao và kinh tế. Khi cả hai bên đã bộc lộ thái độ sẵn sàng ăn miếng trả miếng, thì lối thoát duy nhất chỉ có thể là hợp tác khai thác – trừ khi họ sẵn sàng cho chiến tranh. Sau nhiều vòng đàm phán, tới tháng 6, 2008, Nhật và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận khai thác chung. Các khu vực khai thác chung được thỏa thuận đều nằm trên vùng giáp ranh giữa hải giới của hai nước, nhưng theo quan điểm của Nhật chứ không phải theo quan điểm của Trung Quốc (bản đồ 1). Rõ ràng là trong thỏa thuận này, đường ranh giới do Trung Quốc vẽ không có chút giá trị nào. Nhật Bản có thể phải nhượng bộ ít nhiều đứng từ lập trường của họ (thí dụ về quy tắc ăn chia trong hợp tác khai thác) nhưng lập trường của họ về ranh giới trên biển Đông Trung Quốc đã được giữ vững. Chiến lược diều hâu ở Biển Đông Trong thỏa thuận hợp tác với Nhật, hai bên đã cùng viện dẫn Công ước Quốc tế về Luật biển. Lập trường của họ khác nhau ở chỗ giải thích luật này như thế nào. Trong khi Nhật bản cho rằng phải sử dụng đường trung tuyến làm ranh giới thì Trung Quốc cho rằng phải sử dụng giới hạn thềm lục địa của nước này làm ranh giới. Cả hai cách giải thích này đều đã có tiền lệ, và vì thế tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc không phải không có cơ sở. Trái lại, tuyên bố của họ về chủ quyền trên Biển Đông, với bản đồ chủ quyền gồm 9 điểm gạch nối lại hoàn toàn tùy tiện và không có cơ sở pháp lý. Hình lưỡi bò này xuất hiện trước cả Công ước Geneva về thềm lục địa (1958) và Công ước Quốc tế về luật biển (1982). Từ khi 2 công ước này ra đời, Trung Quốc vẫn không sửa lại bản đồ xác định chủ quyền của họ. Thiếu cơ sở pháp lý như vậy nhưng nước này đã rất thành công trong chiến lược tiến chiếm Biển Đông. Họ đã thành công trong mục tiêu chia rẽ các nước ASEAN có cùng tranh chấp. Họ cũng thành công trong việc dằn mặt ngư dân các nước láng giềng cũng như các tập đoàn dầu khí quốc tế muốn làm ăn với Việt Nam. Trung Quốc đã tổ chức thăm dò ở các vùng biển sát thềm lục địa (và nằm trong vùng đặc quyền) của Việt Nam. Vài nét về tác giả và bài viết Tác giả bài viết là Tiến sĩ kinh tế học Dự Trần, chuyên nghiên cứu về tương tác chiến lược trong kinh doanh và chính trị. Ông tốt nghiệp từ Đại học tổng hợp Texas-Austin và hiện đang làm chuyên gia tư vấn kinh tế tại ERS Group Inc - một tập đoàn chuyên tư vấn cho Chính phủ Mỹ và các đại công ty trong nhóm Fortune 500 trong các vấn đề liên quan tới cạnh tranh, lao động, tài chính, đầu tư và năng lượng. Ông cũng là cố vấn cho Quỹ nghiên cứu Biển Đông. Quỹ này được thành lập năm 2007. Bài này đã được công bố trên mạng Viet Nam Net ngày 6.12.2008 rồi bị bóc đi ngày hôm sau. Diễn Đàn cảm ơn tác giả Dự Trần đã cho phép chúng tôi công bố bài viết này. Gần đây nhất, sau nhiều năm tổ chức thăm dò, vào ngày 24 tháng 11 vừa qua, Trung Quốc đã công bố dự án khai thác dầu khí ở vùng nước sâu trên Biển Đông với trị giá lên tới 29 tỉ Mỹ kim. Tuyên bố này nhanh chóng trở thành tin trang nhất trên khắp thế giới[4]. Phần lớn các hãng tin quốc tế, khi đưa tin về dự án này đã không đả động gì tới thực tế là vùng biển này đang bị tranh chấp, và thực tế là Trung Quốc không hề có chủ quyền về mặt pháp lý ở đây. Lý do thành công của diều hâu Có ba lý do quan trọng để chiến lược diều hâu của Trung Quốc thành công ở Biển Đông: Một là các nước ASEAN như Việt Nam và Phillipine đã rất yếu trong việc đưa vấn đề tranh chấp này tới công luận quốc tế trong khi cỗ máy tuyên truyền khổng lồ của Trung Quốc đã làm tốt việc kết nối Biển Nam Trung Quốc với chủ quyền của Trung Quốc. Vì thế, về mặt công luận quốc tế, Việt Nam và các nước ASEAN cùng tranh chấp ở Biển Đông không được ủng hộ - mặc dù lập trường của họ chính nghĩa hơn về mặt pháp lý. Thứ hai là các nước này đều phản ứng rất yếu ớt trước sự lấn át của Trung Quốc. Điều này có cơ sở thực tế là nếu đứng riêng biệt từng nước thì họ đều ở vào thế yếu xét cả về tiềm lực kinh tế và quân sự. Do ở thế yếu, họ không thể đưa ra những đe dọa khả tín nào ngay cả khi họ muốn. Thứ ba là mặc dù ở vào tình thế lép vế nếu đứng riêng lẻ, các nước ASEAN lại không hợp tác với nhau trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc. Thí dụ như Phillipine đã dễ dàng bị mua đứt để đồng ý ký thỏa thuận hợp tác song phương với Trung Quốc trong khi bỏ mặc Việt Nam sang một bên. Điều này phản ánh ba thực tế đáng buồn: (1) sức ảnh hưởng của Trung Quốc ăn quá sâu vào ASEAN, (2) thiếu sự tin tưởng lẫn nhau giữa các nước ASEAN về vấn đề Biển Đông, (3) các chính phủ ASEAN trong từng thời điểm cụ thể đã tỏ ra thiếu viễn kiến. Bài học về cuộc tranh chấp của Trung Quốc với Nhật và thỏa ước hợp tác khai thác giữa hai nước này cho thấy Trung Quốc không phải không chịu nhượng bộ. Diều hâu chỉ có thể nhượng bộ diều hâu chứ không thể nhượng bộ bồ câu. Với các nước ASEAN có tranh chấp trên Biển Đông, trừ phi họ cùng đứng lại với nhau, sẽ không phải là đối thủ đáng để Trung Quốc nhượng bộ. Quỹ nghiên cứu Biển Đông, trong nỗ lực đem lại sự tin tưởng lẫn nhau và khả năng hợp tác giữa các nước ASEAN trên vấn đề Biển Đông, đã đề xướng các nước này gác qua một bên các tranh chấp về đảo/bãi đá trên ở Trường Sa để tập trung vào việc phân định một cách công bằng chủ quyền trên vùng biển này theo Công ước Quốc tế về luật biển. Có thể nói không ngoa rằng đây là một trong những cửa thoát hẹp, nếu không muốn nói là cửa thoát duy nhất, cho các nước nhỏ yếu trong ASEAN trong cuộc đối đầu với chiến lược diều hâu của Trung Quốc trên Biển Đông. Dự Trần
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 6:05:19 GMT 9
Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc lần nữa
TAM DƯƠNG tóm lược Sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, Trung Quốc bị một số nước phương Tây chủ yếu cấm vận về nhiều mặt như hạn chế tiếp xúc chính trị, buôn bán, đầu tư… Sau một thời gian, hầu hết mọi cấm vận đã được xoá bỏ, nhưng đến nay một số lĩnh vực như kỹ thuật cao, hàng quân sự… vẫn còn là khu cấm. Không biết vì lý do gì mà một người Trung Quốc giấu tên (chỉ ghi bút danh là Thần Bản Bố Y xyj) nhưng tỏ ra khá quen thuộc với nhiều nhân vật có trách nhiệm trong những ngành sản xuất, quản lý có liên quan của Trung Quốc đã đề cập tới vấn đề nói trên. Dưới đây là phần tóm lược : Giả sử vì các vấn đề như : Đài Loan, Triều Tiên, Ấn Độ, Nam Hải (Biển Đông) Đảo Điếu Ngư (Senkaku), Tô Nhan tiều (Suyan Islet), Mông Cổ, Tây Tạng v.v.. mà quan hệ với phương Tây xấu đi, hãy thử tưởng tượng xem tình hình sẽ ra sao khi phương Tây lại một lần nữa cấm vận Trung Quốc (Sau khi Mã Anh Cửu nhận chức, Quốc Dân đảng ở Đài Loan tuyên bố sẽ không đòi Đài Loan độc lập. Cơ hội tốt nhất của đại lục chỉ là 4 năm, vì khoá tới chưa biết Quốc Dân đảng có thắng cử hay không và do đó chưa biết tình hình Đài Loan sẽ ra sao, cho nên nêu giả thiết về vấn đề Đài Loan là cần thiết). Có 16 tình trạng sau : 1. Sau 3 năm, mọi máy bay hàng không dân dụng Trung Quốc sẽ phải ngừng bay vì không còn phụ tùng thay thế, cả nước chỉ còn một loại máy bay kiểu “Yun-7” (Vận-7) sản xuất trong nước có thể bay thương mại nhưng động cơ máy bay phải nhập khẩu. 2. Sau 3 năm, mọi tuyến đường sắt tốc độ cao Trung Quốc đều phải ngừng chạy, vì toàn bộ bánh xe lửa chạy tốc độ cao và phần mềm hệ thống khống chế điện đều phải nhập khẩu, Trung Quốc chưa thể sản xuất trong nước (Hà Hoa Vũ, tổng công trình sư Bộ Đường sắt Trung Quốc, Tạ Duy Đạt, giáo sư trường Đại học Đồng Tế v.v.) 3. Toàn bộ ngành sản xuất ôtô du lịch Trung Quốc đều phải ngừng sản xuất, bỏi vì Trung Quốc chưa thể sản xuất được các chi tiết của động cơ ôtô như hệ thống khống chế điện, hệ thống điện khống chế phun dầu, vòng găng (séc măng piston), hệ thống thay đổi tốc độ tự động, và hộp số, ngay cả thép tấm, bu lông dùng cho loại ôtô cao cấp cũng vậy. 4. Toàn bộ ngành sản xuất TV màu Trung Quốc sụp đổ. Mặc dù hiện nay Trung Quốc mỗi năm sản xuất được 86,6 triệu chiếc TV màu các loại, nhưng hệ thống mạch vi điện tử trong mỗi chiếc TV vẫn hoàn toàn phải dựa vào nhập khẩu [Thứ trưởng Bộ Công nghiệp tin tức Loại Cần Kiệm] 5. Toàn bộ ngành sản xuất điện thoại di động sụp đổ. Toàn bộ hệ thống mạch vi điện tử dùng trong điện thoại di động đều phải dựa vào nhập khẩu, năm 2006 riêng thị phần của mấy công ty điện thoại lớn như IT, CDMA, Motorola... chiếm tới 90% thị phần. 6. Toàn bộ ngành sản xuất màn hình lỏng sụp đổ vì 98% màn hình lỏng dựa vào nhập khẩu. 7. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc, chắc là Trung Quốc sẽ không xây dựng những toà nhà cao tầng nữa, bởi vì sẽ không có thang máy đủ leo lên độ cao lớn. Ngành thang máy Trung Quốc bị thương nhân nước ngoài khống chế, kỹ thuật và nghiên cứu phát triển hoàn toàn bị thương nhân nước ngoài khống chế, người Trung Quốc chỉ nhận trách nhiệm “ lắp ráp ”. Năm 2006, chỉ 13 doanh nghiệp nước ngoài đã nắm tới 80% thị phần thang máy. 8. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc, ngành công nghiệp đóng tầu Trung Quốc sẽ sụp đổ toàn diện vì có tới 60% những thứ trên một con tàu là phải nhập khẩu, chỉ có đóng vỏ và lắp toàn bộ là ở Trung Quốc thôi. 9. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc lần nữa, Trung Quốc sẽ không sản xuất nổi một chiếc máy giặt, một chiếc tủ lạnh bởi vì hệ thống mạng điện dùng cho hai loại máy này Trung Quốc hoàn toàn chưa thể sản xuất được. 10. Giả sử phương Tây lại cấm vận Trung Quốc lần nữa, ngành sản xuất đồ chơi Trung Quốc sẽ hoàn toàn sụp đổ, bởi vì các hệ thống vi mạch dùng cho đồ chơi, Trung Quốc cũng chưa sản xuất được. 11. Giả sứ phưong Tây lại cấm vận Trung Quốc, ngành máy móc công trình Trung Quốc cũng sẽ sụp đổ toàn diện. Theo thống kê cúa Hội máy móc công trình tỉnh Hồ Nam, thì tiền nhập khẩu phụ tùng cho các loại máy công trình của tỉnh này chiếm 40% giá thành, năm 2006 xuất khẩu được 500 triệu USD thì tiền nhập khấu phụ tùng chi tiết máy mất 300 triệu USD. 12. Ngành sản xuất điện chạy bằng sức gió Trung Quốc sẽ sụp đổ toàn diện vì toàn bộ kỹ thuật then chốt của ngành này đều do nước ngoài nắm và những chi tiết máy then chốt phần lớn vẫn phải nhập khẩu. 13. Qua lần động đất ở Tứ Xuyên, thấy xuất hiện nhiều máy bay trực thăng với nhiều kiểu dáng, nhưng hầu nhu toàn bộ là hàng nhập của Nga, Mỹ, Pháp.., trong nước có loại “Zhi-8” (Trực-8) nhưng chỉ là chế tạo phỏng theo kiểu “Siêu ong vàng” của Pháp, còn loại “Zhi-9” (Trực-9) thì vẫn phải nhập khẩu kỹ thuật của Pháp. 14. Các máy công cụ khống chế bằng số và dao cắt gọt. Từ năm 2002, Trung Quốc trở thành nước dùng nhiều máy công cụ các loại lớn nhất thế giới và nước nhập khẩu các loại máy này lớn nhất thế giới. Năm 2005, Trung Quốc nhập khẩu các loại máy công cụ cao cấp hết 5,2 tỷ USD, năm 2006 tăng lên 6,4 tỷ USD. Những máy công cụ sản xuất trong nước và các loại dao cắt gọt phần lớn vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu (80%) [Hiệu trưởng trường Đại học Khoa học kỹ thuật Trung Hoa Viện sĩ Viện Công trình Trung Quốc Lý Bồi Căn]. 15. Các thiết bị then chốt dùng cho điện hạt nhân, thiết bị chế tạo các mạch vi điện tử, thiết bị y tế dùng hạt nhân, thiết bị kỹ thuật cốt lõi của ngành hoá dầu v.v.. Trung Quốc còn hoàn toàn chưa chế tạo được. Có một số người nói rằng khả năng phỏng chế (bắt chước chế tạo) của Trung Quốc rất mạnh, nhưng những cái kỹ thuật cao thì không thể phỏng chế được, ví dụ như màn tinh thể lỏng, mạch vi điện tử, động cơ máy bay… không thể phỏng chế nổi công nghệ, cách xử lý vật liệu, phương pháp gia công v.v.. 16. Giả sử phương Tây lại cấm vận, toàn bộ ngành sản xuất môtô Trung Quốc sẽ sụp đổ bởi vì những phụ tùng then chốt vẫn phải nhập khẩu. Tác giả bài viết nói thêm : “Thưa các vị, tôi biết những điều tôi viết đã làm tổn thương sâu sắc tới lòng tự tôn yếu đuối của các vị, trước tiên xin đừng vội phản đối, tôi nói là sự thực. Sự thực là các máy tính điện tử mà các vị đang sử dụng hiện nay có tới 99,99999% sử dụng mạch vi điện tử nước ngoài….” Tam Dương (tóm lược) Theo bài : 振聋发聩!假如西方 再次封 锁中国 Tác giả : 臣本布衣 xyj 中华网论坛 2-12-2008
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 6:07:58 GMT 9
Một số dân mạng Trung Quốc chuẩn bị kỷ niệm 30 năm ngày quân đội Trung Quốc gây ra cuộc chiến tranh biên giới Việt Nam (*,**)
Tam Dương 1. Mạng “Hoàn Cầu”- một mạng chính thức của Trung Quốc, ngày 30/1/2009 vừa đăng thông báo: “Hỡi các chiến hữu tham gia đánh trả tự vệ Việt Nam”, đề nghị mọi người nói cho người khác, cũng đề nghị các bạn bè trên mạng có sự ủng hộ và đọc blog, then chốt là " đề nghị mọi người nói cho các chiến hữu đã tham gia cuộc chiến đánh trả tự vệ Việt Nam bên cạnh mình (bất kể là quân nhân tham chiến với Việt Nam năm nào) biết, vào 9 giờ sáng ngày 17 tháng 2 năm 2009 tại khu vườn mộ liệt sĩ Trạm Sơn Thanh Đảo (Sơn Đông) sẽ cử hành lễ truy điệu kỷ niệm liệt sĩ, gắn kỷ niệm chương chiến tranh Việt Nam, mỗi người tự chuẩn bị hoa trắng gài trên ngực. Điện thoại liên hệ: 13375573577 11 giờ trưa các chiến hữu dự lễ liên hoan chúc mừng 30 năm ngày đánh trả tự vệ Việt Nam thắng lợi. Địa điểm: Nhà ăn Viện điều dưỡng Toàn Tổng (đường số bốn, góc Thái Bình) Thời gian gặp nhau: 11 giờ 30 ngày 17 tháng 2 năm 2009 Hoạt động này được Nhà ăn Viện điều dưỡng Toàn Tổng ủng hộ hết mình. Mong các phóng viên truyền hình, báo chí v.v.. theo sát toàn bộ tiến trình và đưa tin. Tha thiết đề nghị những người quản lý các mạng quan tâm ưu ái bố trí trước ngày 17 tháng 2." 2. Mạng “Thiết huyết luận đàn”- một mạng chính thức khác của Trung Quốc (chính xác là của Quân đội TQ), ngày 30/1/2009, đăng tin một cá nhân tự đứng ra “mời những ai đã tham gia đánh trả tự vệ Việt Nam tham dự.” Lời mời viết: “Do bản thân đã tham gia cuộc chiến đánh trả tự vệ Việt Nam, gần đây dự tính thu thập thêm một số tài liệu nguyên thủy, để viết một cuốn tiểu thuyết về cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam, tình tiết của câu chuyện phải chân thực (bản thân cực ghét một số tác phẩm xuyên tạc sự thật, và cũng chính vì thế mà dự định viết một cuốn). Đề nghị các chiến hữu đã có tấm lòng, sau khi blog này được đăng hãy viết câu chuyện của mình ra, tôi sẽ hết lòng hết sức lựa chọn một số có tính đại biểu nhất đưa vào trong tiểu thuyết. Ngày 17 tháng 2 năm 2009 là tròn 30 năm ngày đánh trả tự vệ Việt Nam, bản thân hy vọng trước ngày hôm đó có thể viết được bản thảo ban đầu, hy vọng mọi người hết lòng giúp đỡ". Mạng này còn đăng một loạt bài sau: – Nguyên nhân chân thực khiến quân đội ta lên mạng với số lượng lớn về cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam. – Mặt mũi bọn phản bội, đê hèn trong cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam. – Người bình thường tức chân anh hùng: một số ảnh hiếm thấy trong cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam. – Thư của liệt sĩ trong cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam gửi con trai. – Bộ đội trinh sát Trung Quốc trong cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam. – Hồi ức của cựu chiến binh trung đoàn 448: bí mật về việc trung đoàn 448 trong cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam bị phục kích, bị bắt làm tù binh v.v.. Xin giới thiệu để dân mạng Việt Nam biết tình hình bước đầu. Tam Dương (gt) * Theo người giới thiệu bài này được biết thì chí ít từ sáu, bảy tháng trước (tức từ tháng 6,7 năm 2008), rải rác trên một số mạng Trung Quốc đã có những lời kêu gọi chuẩn bị cho “sự kiện” này rồi. ** Sau khi bài này được xuất bản (hôm qua, 10.2), chúng tôi được một bạn đọc cho biết mạng Hoàn Cầu đã xoá "thông báo" nói trên và "trang Thiết huyết luân đàn cũng đã xoá", không biết xoá lúc nào. Tuy nhiên, ít ra là tin sau không đủ chính xác (không biết bài nào cụ thể trong mấy bài, tin nêu trên đã bị/được xoá). Cụ thể là sáng ngày hôm nay (11.2), người ta còn đọc thấy trên mạng này, ở địa chỉ bbs.tiexue.net/post_3354105_1.html một bài với nội dung kỉ niệm "30 năm ngày..." như nói trong bài này. Trang Viet-Studies cũng vừa chép lại cái "post_3354105_1.html" này của Thiết huyết luân đàn, xin xem www.viet-studies.info/kinhte/ThietHuyetLuan_TQ.pdf. Vậy là người Trung Quốc vẫn chuẩn bị kỉ niệm 30 năm cuộc chiến này theo quan điểm Đại Hán của họ, còn người Việt, có phải một bên cứ tự do nói, bên kia phải im lặng là cách tốt nhất để không thúc đẩy sự thù nghịch giữa hai nước? Về phần mình, Diễn Đàn rất đồng tình với quan điểm của nhà ngoại giao kỳ cựu Nguyễn Trung trong bài cũng đăng trên mặt báo này (xem dưới đây): "Thêm bớt hay viết lại lịch sử chỉ nuôi dưỡng hiềm khích, khoét sâu thêm quá khứ. Trí nhớ có thể phai mờ, lịch sử thì không. Còn muốn khép lại quá khứ và hướng về tương lai, nhất thiết phải sòng phẳng với lịch sử, tất cả để vượt qua mọi bất đồng và để tăng cường sự tin cậy lẫn nhau – nền tảng cho mối quan hệ láng giềng giữa hai nước". Chính vì thế mà thông tin về những động thái từ phía TQ vẫn cần được loan báo cho người đọc Việt Nam. Nội dung liên quan * 17-2-1979, 30 năm sau Tài liệu Trung Quốc Trong cuộc chiến tranh biên giới tháng 2 năm 1979 : Quân đội Trung Quốc đã thương vong bao nhiêu ? TAM DƯƠNG Tháng 2 năm 1979 quân đội Trung Quốc bất ngờ tấn công vào 6 tỉnh biên giới phía Bắc nước ta. Chúng đã bị các đơn vị quân đội, dân quân du kích và đồng bào ta anh dũng đánh trả, và bị thiệt hại nặng nề. Gần đây phía Trung Quốc đã nửa kín nửa hở công bố một vài con số cụ thể. Dưới đây là một số tư liệu lấy từ hai bài viết của người Trung Quốc giấu tên nhưng lại được đăng tải trên các mạng chính thức của Trung Quốc về sự thiệt hại này. “ Trước tiên cần làm rõ số thương vong của quân ta là bao nhiêu ? Truyền thông Việt Nam nói đã tiêu diệt hơn 3 vạn quân ta, con số này rõ ràng là phóng đại.Tổng số quân đội tham chiến của chúng ta là 20 vạn người, trong tình hình tiêu diệt gần 1/6 quân ta mà lại để mất Việt Bắc, cho thấy rõ sự khiếp sợ, yếu kém của quân đội Việt Nam. Con số 3 vạn người rõ ràng là nói quá. Báo “Quân giải phóng” của quân đội ta nói, chúng ta thương vong 4000 người, con số này cũng rõ ràng là đã bị bóp nhỏ. Con số thương vong cụ thể của quân đội ta luôn luôn là một câu đố không giải được trong tôi. Nhưng gần đây trong một dịp may được gặp nhà văn già Lý Tồn Bảo (*) câu đố trên mới được giải. “Lý Tồn Bảo là phóng viên chiến tranh, năm 1979 đã từng theo bộ đội ta sang đánh Việt Nam. Để viết cuốn Vòng hoa dưới chân núi ông đã được Phó Chủ tịch quân ủy TƯ lúc đó là Diệp Kiếm Anh cho phép tiếp xúc với nhiều tài liệu tuyệt mật, vì vậy những điều ông kể là khách quan chân thực. “Theo Lý Tồn Bảo số thương vong chân thực của quân đội ta trong cuộc đánh trả tự vệ Việt Nam phải là 27000 người, trong đó số sĩ quan và binh lính bị chết là hơn 6000 người, số bị thương là hơn 21.000 người. Điều đáng lưu ý là trong số hơn 6000 người chết đó có tới hơn 500 người chết vì vũ khí quá kém của chúng ta lúc đó. “Trong tiến trình chiến đấu, tỷ lệ tử vong mấy ngày đầu khá cao, cá biệt có đại đội bị hy sinh tới 90% quân số. Nhìn chung thương vong ở tuyến phía đông (do Hứa Thế Hữu chỉ huy đánh vào 3 tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Quảng Ninh-ND) lớn hơn tuyến phía tây (do Dương Đắc Chí chỉ huy đánh vào mấy tỉnh còn lại-ND), xe tăng và thiết giáp bị bắt sống, bắn hỏng khá nhiều, cũng ở mặt trận này đã có 1 đại đội bị bắt làm tù binh, có đại đội khi về nước chỉ còn mươi người, có tiểu đội không còn tới một, hai người. “Một trong mục đích của cuộc chiến tranh này là “vây Ngụy cứu Triệu”, tức là đánh ở đây nhằm kéo quân đội Việt Nam đang ở tại Cămpuchia về để tiêu diệt, nhưng Việt Nam không mắc mưu.” Một nguồn tin khác nói là lấy tư liệu từ bản “Tổng kết công tác đánh trả tự vệ Việt Nam” do Cục Hậu cần quân khu Côn Minh biên soạn cho biết : “Từ ngày 17 tháng 2 đến ngày 16 tháng 3 quân ta tổng cộng hy sinh 6954 người, bị thương hơn 14.800 người, chỉ riêng hai ngày 17, và 18 đã thương vong 4000 người, khiến bộ phận hậu cần trở tay không kịp nhiều người bị thương vì không được cứu chữa kịp thời nên đã chết.” Xin lưu ý :: -trên đây là số thương vong do người Trung Quốc nói, -chưa kể số thương vong trong các trận đánh từ sau đó đến khi hai nước bình thường quan hệ. Tam Dương tóm lược giới thiệu (*) tác giả cuốn Vòng hoa dưới chân núi có thể coi là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Trung Quốc về cuộc chiến này và đã được dịch giả Dương Danh Dy chuyển ngữ sang tiếng Việt. NGUỒN : * mạng Hán hồn 汉魂 : www.hanhuncn.com/* mạng luzhou : www.luzhou.cc/blog/blog.asp?abc=xiangxi&id=22&blog_id=61
|
|
|
Post by Huu Le on Aug 13, 2010 6:08:52 GMT 9
Thử nhìn lại 30 năm chống tham nhũng của Trung Quốc
Dương Danh Dy Đến tháng 12 năm nay (2008) công cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc vừa tròn 30 năm. Mặt trận chống tham nhũng tuy cất bước chậm hơn một chút so với những lĩnh vực khác nhưng không hề bị xem nhẹ, ngược lại càng ngày càng được các cấp đảng, chính quyền, các thế hệ lãnh đạo và toàn thể dân chúng Trung Quốc quan tâm chú ý. Nhận thức về tầm quan trọng của công cuộc chống hủ bại ngày được nâng cao, nhiều chủ trương, chính sách và đạo luật chống hủ bại của đảng và của chính quyền đã được ban hành (và chắc chắn sẽ còn tiếp tục được ban hành), nhiều biện pháp giáo dục phòng chống hủ bại đã được thực thi, nhiều vụ án xử lý những người vi phạm từ cấp cao nhất tới những nhân viên bình thường với những khung hình phạt nặng nhất như xử tử hình, tù chung thân... đã được thi hành… Thế nhưng, xem ra hiệu quả chống tham nhũng vẫn chưa đạt được mong muốn. Dưới đây xin nhìn lại mấy vấn đề sau : Nhận thức về tầm quan trọng của công cuộc chống tham nhũng Qua những cuộc suy vong của hàng chục triều đại phong kiến, những người lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc từ Mao Trạch Đông đến Đặng Tiểu Bình cũng như các thế hệ lãnh đạo sau này, đều thấy hủ bại chính là nguyên nhân dẫn tới sụp đổ chính quyền thống trị, nhất là sau khi Liên Xô tan rã, họ càng thấy nguy cơ của tham nhũng không trừ một ai dù là “chủ nghĩa xã hội ưu việt” có sự lãnh đạo của “Đảng cộng sản” ! Vì vậy càng về sau, tầm quan trọng của việc chống tham nhũng càng được nâng cao, càng được coi trọng. Thế hệ lãnh đạo thứ hai mà hạt nhân là Đặng Tiểu Bình Ngay từ những ngày đầu của cải cách mở cửa, (đầu những năm 80) Đặng Tiểu Bình đã nhận định : “ Cải cách mở cửa mới được một, hai năm, nhưng nhiều cán bộ đã tha hoá. Số người bị cuốn vào các tội phạm kinh tế không phải ít mà ngược lại rất nhiều. Cơn gió này ngày càng mạnh, nếu Đảng ta không chặn đứng được thì rất có thể nảy sinh vấn đề khiến bộ mặt đảng, nhà nước có thể bị biến dạng ” (Văn tuyển Đặng Tiểu Bình, tiếng Trung, 1994, tập 2, tr 402-403, bên dưới sẽ viết tắt là VTĐTB, tr…) Tháng 1 năm 1986, ông chỉ rõ : “ trong lĩnh vực xây dựng kinh tế chúng ta đã gặt hái được nhiều thành quả đáng phấn khởi.., nhưng nếu tệ tham nhũng ngày càng phát triển thì sự thành công về kinh tế liệu còn ý nghĩa gì..”(VTĐTB, tập 3 tr-154). Sau sự kiện Thiên An Môn, ông nói : “ một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là sự lây lan của tệ tham nhũng, khiến một bộ phận quần chúng mất lòng tin ở đảng và chính phủ ”(VTĐTB, tập 3 tr.300), “ muốn chỉnh đốn đảng, thực hiện thành công mục tiêu chiến lược mà không trừng trị tham nhũng đặc biệt là hiện tượng tham nhũng trong hàng ngũ cấp cao của đảng thì khó có thể tránh khỏi nguy cơ thất bại ” (VTĐTB,nt- tr-313). Tiếp đó Đặng Tiểu Bình đã đề ra phương châm “ chiến lược hai tay ” tức : “ một tay xây dựng kinh tế, một tay trừng trị tham nhũng ”(VTĐTB, tập 3 tr 297) Thế hệ lãnh đạo thứ ba mà hạt nhân là Giang Trạch Dân Thế hệ lãnh đạo thứ ba của Đảng CSTQ đã coi : công tác xây dựng đảng trong sạch và chống tham nhũng là việc lớn liên quan đến sự sống còn của đảng. Ngày 21-8-1993, khi phát biểu tại hội nghị lần thứ hai Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Trung ương, Giang Trạch Dân nói : “…chúng ta không thể đánh giá thấp tính nguy hại và trầm trọng của hiện tượng tham nhũng... nếu coi nhẹ và để chúng lây lan, chúng sẽ chôn vùi đảng và chính quyền, chôn vùi sự nghiệp hiện đại hóa xhcn của chúng ta ”. Ngày 28-2 1984, cũng tại hội nghị lần thứ ba của Uỷ ban kiểm tra kỷ luật Trung ương, Giang Trạch Dân chỉ rõ : “ hiện tượng tham nhũng đã lan rộng vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là đã gặm nhấm sâu vào hàng ngũ cán bộ các cơ quan đảng, chính quyền…, tình hình cho thấy, nếu không tiếp tục chống tham nhũng chúng ta sẽ phải đối mặt với nguy cơ mất đảng, mất nước.” Thế hệ lãnh đạo thứ tư mà hạt nhân là Hồ Cẩm Đào Báo cáo chính trị của Đại hội 16 (tháng 11-2002) nêu rõ : “ Kiên quyết và phòng ngừa chống tham nhũng là một nhiệm vụ chính trị quan trọng của toàn đảng. Không kiên quyết trừng trị tham nhũng thì mối liên hệ máu thịt giữa đảng và quần chúng sẽ bị tổn thương nghiêm trọng có nguy cơ đánh mất vai trò cầm quyền của đảng, đảng có thể đi đến chỗ tự huỷ diệt…” Báo cáo chính trị của Đại Hội 17 (10-2007) nhận định : “ phải nhận thức đầy đủ tính lâu dài, tính phức tạp, tính gian khó của đấu tranh chống tham nhũng, đặt việc đấu tranh chống tham nhũng, xây dựng liêm chính lên vị trí nổi bật hơn..” …………….. Những phương châm, chủ trương… biện pháp xử lý tham nhũng Ngay từ những năm đầu của cải cách mở cửa, Đặng Tiểu Bình đã kịp thời đề xuất và đặc biệt nhấn mạnh phải từng bước hoàn thiện cơ chế giám sát, đưa cuộc đấu tranh chống tham nhũng và xây dựng liêm khiết vào quỹ đạo pháp chế, và nêu rõ chống tham nhũng phải được xử lý thông qua hai biện pháp giáo dục và pháp luật, không thể đạt được hiệu quả bằng lời kêu gọi hoặc dựa vào vài câu nói của một số người… Sau khi trở thành hạt nhân của thế hệ lãnh đạo thứ ba, năm 1993, Giang Trạch Dân đã đưa ra sáu nguyên tắc, ba việc quan trọng cần làm trong đấu tranh chống tham nhũng, năm 1994 lại nêu chín ý kiến về công tác chống tham nhũng (xin phép không nêu cụ thể). Năm 1995, Giang Trạch Dân nhấn mạnh : cần nỗ lực làm tốt cả 3 công tác : trừng trị, tấn công tội phạm, tăng cường xây dựng pháp chế và tăng cường xây dựng tư tưởng chính trị…. Thế hệ lãnh đạo thứ tư với hạt nhân là Hồ Cẩm Đào đã nhấn mạnh : “ kiên trì phương châm trị tận gốc tận ngọn và xử lý tổng hợp, tăng cường hơn nữa mức độ trị tận gốc…Kiên trì hoàn thiện thể chế lãnh đạo và cơ chế công tác chống tham nhũng…Cần phải xét xử triệt để và trừng phạt không khoan nhượng với bất kỳ phần tử tham nhũng nào.” (Báo cáo chính trị ĐH 16). “ Kiên quyết điều tra xét xử những vụ án vi phạm kỷ luật, vi phạm pháp luật, đối với bất kỳ phần tử hủ bại nào cũng cần phải nghiêm trị theo pháp luật, quyết không dung thứ vô nguyên tắc.” (Báo cáo chính trị ĐH 17) Từ năm 2003 đến nay, nhiều quy định, pháp luật đã được ra đời với mục tiêu đến năm 2010 xây dựng xong hệ thống pháp quy, chế độ đảng phong liêm chính và chống tham nhũng đặc sắc Trung Quốc, lấy hiến pháp và điều lệ đảng làm căn cứ, do Trung ương đảng, Quốc hội, Quốc vụ viện, Uỷ ban kỷ luật kiểm tra Trung ương, Bộ giám sát chế định hoặc chấp thuận (nếu là của cấp dưới), gồm 3 quy phạm lớn và 10 vấn đề (như quy phạm về những pháp luật, pháp quy quốc gia xây dựng liêm chính và chống tham nhũng và những pháp luật, pháp quy khác về xây dựng liêm chính và chống tham nhũng; chế độ pháp quy về mặt quy phạm đảng viên, cán bộ lãnh đạo liêm khiết tự răn mình và các hành vi khác v.v.). Đầu năm 2005, Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc công bố “ Cương yếu xây dựng thực thi hệ thống kiện toàn giáo dục, chế độ giám sát, cùng coi trọng trừng trị và đề phòng tham nhũng ” yêu cầu đến năm 2010 xây dựng xong khung cơ bản của hệ thống trừng trị và đề phòng tham nhũng. Cùng năm đó Trung Quốc gia nhập “ Công ước chống tham nhũng của Liên Hiệp Quốc ”. Tháng 5 năm 2007, Uỷ ban Kỉ luật Trung ương công bố “ Một số qui định của Uỷ ban Kỉ luật Trung ương về việc nghiêm cấm lợi dụng những tiện lợi trong công tác để mưu cầu lợi ích không chính đáng ” gồm 10 điều. Tháng 9 năm 2007 Trung Quốc thành lập Cục đề phòng tham nhũng quốc gia và chế định “ luật chống tham nhũng ”. Tháng 4 năm 2008 Trung Quốc ra “ Quy định về việc Uỷ ban kỉ luật giúp tổ chức đảng uỷ điều hoà công tác chống tham nhũng ” (bản thi hành thử). Qua một số điều đã nêu (dù còn rất không đầy đủ) có thể rút ra mấy nhận xét bước đầu sau : - Trọng điểm chống tham nhũng đã chuyển biến thành : cùng coi trọng cả “ chống ” và “ phòng ” (từ chỗ chỉ nói chống tham nhũng chuyển sang nói chống và phòng ngừa tham nhũng.) - Xác định phạm vi chống tham nhũng từ “đấu tranh chính trị” sang “nhiệm vụ chính trị” (hàm nghĩa rộng hơn, cụ thể hơn). - Chống tham nhũng và phòng ngừa tham nhũng phải đứng vững trên “ chế độ chống tham nhũng ” (tích cực phát triển dân chủ trong đảng, tăng cường giám sát trong đảng, cải cách và hoàn thiện thể chế kỷ luật, kiểm tra của đảng) - Đã có luật chống tham nhũng và Cục phòng chống tham nhũng, tức là có căn cứ luật pháp và tổ chức chuyên quản việc này. Những biện pháp xử lý tham nhũng : Một điều có thể khẳng định là Trung Quốc xử lý các phần tử tham nhũng khá nghiêm khắc. Mặc dù không nắm được hết tình hình nhưng nói chung người ta đều biết chuyện Trần Hy Đồng, Uỷ viên Bộ Chính tri Trung ương đảng Cộng sản Trung Quốc bị cầm tù, Thành Khắc Kiệt, Phó Chủ tịch quốc hội Trung Quốc bị xử tử v.v.. Theo thống kê chưa đầy đủ của Trung Quốc, chỉ từ năm 1995 đến năm 2007 đã có 70 quan chức trong ngoài đảng, từ cấp tỉnh, bộ trở lên bị kết án vì tội tham nhũng (toàn Trung Quốc có trên 2.000 cán bộ thuộc diện này trong đó có hơn 1.000 đang tại chức, từ năm 2000-2003 trung bình mỗi năm có 16-17 vị bị ngã ngựa -- chiếm giữa 1% và 2% -- nguồn Tân văn chu san, ngày 26/8/2003) trong đó ngoài hai nhân vật nói trên còn có Trần Lương Vũ, Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư thành uỷ Thượng Hải, nhiều bộ, thứ trưởng, bí thư tỉnh uỷ, tỉnh trưởng, phó bí thư tỉnh uỷ, phó tỉnh trưởng (hoặc chức vụ tương đương như cấp tướng trong quân đội) v.v.. trong đó mười mấy người bị xử tử hình (vì có người được xử hoãn thi hành án một thời gian nên chưa rõ là bao nhiêu người đã chết, nhưng chí ít theo thống kê của cá nhân cũng tới không dưới 5 người trong đó có 2 người chết vì tự tử trước khi bị tuyên án) hàng mấy chục người bị xử tù chung thân. Ngoài cán bộ cao cấp, những kẻ dính vào tham nhũng dù ở cấp bậc nào cũng bị nghiêm trị, dù chúng đã khôn ngoan chạy trốn (kể cả ra nước ngoài). Nguồn tin chính thức cho biết chỉ từ tháng 1-7 năm 2004 đã có 109 cán bộ cấp vụ, sở và 1.767 cấp huyện, phòng bị sa lưới vì tham ô, và cũng trong thời gian này đã lập án đối với 22.913 phần tử tham nhũng (riêng thành phố Bắc Kinh trong 6 năm (1998-2003) đã phát hiện 341 vụ án tham nhũng từ 1 triệu NDT trở lên trong đó có 138 tội phạm là cán bộ cấp vụ, sở. Năm 2003 tổng cổng đã truy bắt được 569 tội phạm tham nhũng bỏ trốn. Một số diễn biến, mức độ… của tình trạng tham nhũng. Không thể kể hết những ví dụ cụ thể. Từ một số vụ án điển hình xin đưa ra một số nhận định bước đầu như sau : - Tham nhũng đã trở thành hiện tượng càng ngày càng phổ biến trong xã hội, từ cấp thấp đến cấp cao (một phó trấn trưởng -- cấp chính quyền cơ sở, tại tỉnh An Huy đã tham ô 8,57 triệu NDT) ở trong đảng và ngoài đảng, trong bất kỳ lĩnh vực nào. Ngay những việc được coi là không hoặc ít dính líu tới tiền bạc như phong danh hiệu nghệ sĩ, phong học hàm v.v.. cũng đầy rẫy tham ô. - Mức độ tham ô hối lộ càng ngày càng lớn. Nếu những năm đầu của cải cách mở cửa, tham nhũng mười ngàn, vài chục ngàn NDT đã là lớn thì đến nay mức tham nhũng đã phổ biến lên tới hàng triệu, hàng chục triệu NDT (tháng 10 năm 2008, Lưu Chí Hoa, Phó thị trưởng thành phố Bắc kinh vừa bị kết án tử hình cho hoãn thi hành trong hai năm vì tham ô 6,7 triệu NDT, trước đó Chu Lương Lộ quận trưởng quận Hải Định, Bắc Kinh tham ô 16 triệu NDT, Án Đại Bân trưởng phòng giao thông huyện Vu Sơn, Trùng Khánh tham ô 22 triệu NDT… và gần đây nhất báo chí đã nêu, vụ án hối lộ lớn nhất Trung Quốc là chỉ riêng một lần đưa và nhận hối lộ đã lên tới 80 triệu NDT (hơn 12 triệu USD). - Đã hình thành “ Tập đoàn được lợi ” ở trình độ khác nhau (một số phần tử tham nhũng đã cơ bản hoàn thành “tích luỹ nguyên thuỷ” đang hình thành “tập đoàn được lợi” ở trình độ khác nhau). - Thủ đoạn tham nhũng càng xảo quyệt, che giấu càng giỏi hơn. Như “ cho mượn ” quyền lực, “ chuyển nhượng quyền lực ”, ngầm cho phép vợ con, bạn bè.. dùng danh nghĩa của mình đi khắp nơi kiếm món bở, thông qua các hình thức mở công ty, đầu tư ra nước ngoài, trở về nước đầu tư v.v. biến thu nhập bất hợp pháp thành thu nhập hợp pháp v.v.. - “ Tính kháng thuốc ” của phần tử tham nhũng càng nâng cao. Chúng thường hoá trang thành hình tượng “ cán bộ liêm khiết ” để lừa gạt người (như Lưu Chí Hoa đã tạo cho mình được một vỏ bọc “thanh liêm” thường đi ôtô cũ, không có lái xe riêng). Bọn tham ô lớn thường chuẩn bị sẵn cơ sở ở nước ngoài để khi cần có nơi ẩn náu. - Từ tham nhũng cá nhân phát triển thành “ tập đoàn ” tham nhũng. Chúng kéo bè kết cánh, thậm chí móc nói với cả bọn Mafia. - Trình độ ăn chơi xa hoa trụy lạc đã tới mức “ghê tởm” : 95 % “quan tham” có “bồ nhí”, thậm chí có tên có tới 5,6 người (kết luận của một bí thư thành uỷ sau khi nghiên cứu 50 vụ án tham nhũng) có người có căn hộ trị giá trên 1 triệu NDT nhưng không hề ở một ngày, hoặc có biệt thự trị giá tới 13, 5 triệu NDT, một nữ giám đốc để vừa lòng người tình đã bỏ ra 500.000 NDT để “chỉnh dung” cho đôi mông thành đôi mông đẹp nhất thành phố, bỏ ra mấy ngàn USD để được tham dự một bữa ăn với chính khách nước ngoài là chuyện vặt, sử dụng những ôtô trị giá tới hàng triệu, hàng mấy triệu USD… Một nguồn tin chính thức trong giới truyền thông Trung Quốc ước tính mỗi năm chi phí cho các khoản quan chức ra nước ngoài, ôtô công, chiêu đãi ăn uống đã ngốn hết 30 % thu nhập tài chính quốc gia trong đó riêng khoản tiền chi cho việc ra nước ngoài đã tới 400 tỷ NDT (Hua xia kuai di ngày 29/8/2007). Những nơi ăn chơi giải trí cao cấp ở những thành phố lớn như Thượng Hải, Thiên Tân, Nam Kinh, Hàng Châu, Quảng Châu, Tô Châu... chi trả bằng công khoản chiếm 70-80 % (Tạp chí Động Hướng số tháng 11 năm 2007). Do các quan tham và gia đình, ăn chơi xa hoa, tiêu xài xả láng nên Trung Quốc đã trở thành nước tiêu dùng xa xỉ phẩm lớn thứ ba trên thế giới. Năm 2007, tổng mức hàng tiêu dùng xa xỉ đạt 8 tỷ USD, trong đó có tới một nửa dùng để “ đưa lễ ”. - Tình trạng chạy trốn ra nước ngoài mang theo khoản tiền kếch xù (hoặc đã chuyển đi từ trước) trở nên nghiêm trọng. Tính tới năm 2006 đã có từ 16.000 đến 18.000 tham quan (gồm cán bộ đảng chính quyền, cán bộ công an, tư pháp, cán bộ đơn vị sự nghiệp quốc gia, nhân viên quản lý cấp cao doanh nghiệp quốc hữu, cán bộ cơ quan hợp tác Trung Quốc với nước ngoài…) trốn ra nước ngoài mang theo số tiền hơn 800 tỷ NDT trong đó những kẻ có hơn 10 triệu NDT chiếm 92 %, có trên 100 triệu NDT là hơn 430 người, có hơn 1 tỷ NDT là 27 người. Số kinh phí mà nhà nước bỏ ra để truy bắt năm 2008 là 105 triệu NDT năm 2007 là 220 triệu NDT... (nguồn mạng Sohu.com ngày 9/7/2008) v.v… Phải thừa nhận, Đảng cộng sản và nhà nước Trung Quốc bằng những lời nói và việc làm cụ thể đã tỏ rõ quyết tâm phòng, chống tệ nạn tham nhũng. Họ từng có những người lãnh đạo và đông đảo đảng viên, cán bộ sống gương mẫu, liêm khiết. Các chủ trương, biện pháp… chống tham nhũng rất được lòng dân. Nhiều người còn nhớ câu nói tràn đầy khí phách của cựu thủ tướng Chu Dung Cơ (lúc đương chức) khi ông tỏ rõ quyết tâm chống tham nhũng : “ Hãy chuẩn bị cho tôi một trăm cỗ quan tài, trong đó dành cho tôi một ” (Nghe nói khi còn đương chức mộ tổ ông đã bị kẻ xấu định nổ mìn phá hoại và từ khi nghỉ hưu, những nhà lãnh đạo khác chỉ chịu sự bảo vệ bình thường thì ông vẫn phái chịu sự bảo vệ đặc biệt của Trung ương – nguồn : “ Cuộc sống của mấy vị lãnh đạo Trung Quốc sau khi nghỉ hưu ”) Tuy nhiên, tình hình dường như không có tiến triển tốt. Để kết luận bài viết nhỏ về một vấn đề lớn này, xin trích mấy lời của Ngô Quan Chính nguyên Uỷ viên thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Uỷ ban Kỷ luật Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc khóa 16 khi kết thúc nhiệm kỳ về một việc mà ai cũng tưởng là dễ làm: “ Việc kê khai tài sản, thu nhập của cán bộ bị các thế lực chống cự, phản đối chống lại khá ngoan cố. Các năm 2003, 2005 định làm trong ban lãnh đạo cấp tỉnh tại Thượng Hải, Thiên Tân, Quảng Đông, Giang Tây nhưng cuối cùng phải ngừng lại với lý do khó có thể thi hành được (thực chất là cán bộ đảng chính quyền chống cự dữ dội, dùng cách lãn công tiêu cực, làm cho cục diện chính trị bê bết để đối phó v.v.) Trong kê khai nội bộ ở Thượng Hải, cán bộ trung cao cấp thành phố và cấp Sở có tới 90% người có tài sản từ 10 triệu NDT trở lên…. Nếu nhân dân cho công tác của tôi 60 điểm (Trung Quốc dùng thang điểm100) tôi sẽ vô cùng cảm động. Đối mặt với những vấn đề hủ bại nghiêm trọng, tình hình tiêu cực, thói xấu lâu ngày khó sửa, tôi tự cho mình chỉ đạt 59 điểm, không đạt tiêu chuẩn…” (Tạp chí Động Hướng tháng 11 năm 2007) Tôi nghĩ đó là câu nói thật của một người nắm, hiểu được vấn đề ! Tình hình chống tham nhũng của Trung Quốc theo hiểu biết của tôi đại để là như vậy. Trông người lại ngẫm đến ta. Buồn vui lẫn lộn ! Hà nội ngày 21 tháng 10 năm 2008 DƯƠNG DANH DY
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 18, 2010 3:58:00 GMT 9
Giới trí thức mới của Trung Quốc China's new intelligentsia Mark Leonard - Phạm Toàn dịch
Lời tựa của Prospect Magazine: Mặc dù sự trỗi dậy của Trung Quốc đang thu hút mối quan tâm của cả thế giới, chưa có ai để ý đến những tư tưởng của đất nước này và tìm hiểu xem chúng do ai đề xướng. Ấy thế mà Trung Quốc lại có một tầng lớp trí thức hoạt bát đến bất ngờ mà những tư tưởng của họ có thể trở thành một thách thức đáng gờm đối với bá quyền tự do Tây phương. Despitethe global interest in the rise of China, no one is paying much attention to its ideas and who produces them. Yet China has a surprisingly lively intellectual class whose ideas may prove a serious challenge to western liberal hegemony Tôi sẽ chẳng bao giờ quên cái lần đầu tôi đến thăm Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc ở Bắc Kinh vào năm 2003. Đón tiếp tôi là Vương Lạc Lâm (Wang Luolin), phó viện trưởng và cháu nội của người đã dịch bộ Tư bản của Marx sang tiếng Hoa, và Hoàng Bình (Huang Ping), một cựu Hồng Vệ binh. Ngồi trong những chiếc ghế tay ngai to quá khổ, chúng tôi nhấp những chén trà nghi lễ rồi tự giới thiệu nhau. Vương Lạc Lâm gật đầu lịch thiệp, mỉm cười rồi nói với tôi rằng viện của ông có 50 trung tâm nghiên cứu, bao gồm 260 bộ môn với 4000 nhà nghiên cứu trong biên chế. Nghe ông nói, tôi cảm thấy như mình bị co vào trong những đường khâu của chiếc ghế to rộng: toàn bộ cộng đồng chuyên viên tư vấn chính sách của Anh quốc mới được tính bằng con số trăm, còn của cả châu Âu là dưới con số ngàn; ngay cả ở cái thiên đường Hoa Kỳ của ngành tư vấn chính sách nó cũng không nhiều hơn con số 10.000. Thế mà ở đây, tại Trung Quốc, chỉ một cơ quan thôi đã có đến 4000 nhà nghiên cứu, và một mình Bắc Kinh đã có tới cả tá cơ quan như thế. Cứ cho rằng trình độ nhiều nhà nghiên cứu ở đây chưa đáp ứng công việc, nhưng những con số thô lược kia cũng đủ gây ấn tượng. I will never forget my first visit, in 2003, to the Chinese Academy of Social Sciences (CASS) in Beijing. I was welcomed by Wang Luolin, the academy's vice-president, whose grandfather had translated Marx's Das Kapital into Chinese, and Huang Ping, a former Red Guard. Sitting in oversized armchairs, we sipped ceremonial tea and introduced ourselves. Wang Luolin nodded politely and smiled, then told me that his academy had 50 research centres covering 260 disciplines with 4,000 full-time researchers.
As he said this, I could feel myself shrink into the seams of my vast chair: Britain's entire think tank community is numbered in the hundreds, Europe's in the low thousands; even the think-tank heaven of the US cannot have more than 10,000. But here in China, a single institution—and there are another dozen or so think tanks in Beijing alone—had 4,000 researchers. Admittedly, the people at CASS think that many of the researchers are not up to scratch, but the raw figures were enough.Lúc bắt đầu chuyến đi, tôi những mong nhanh chóng có được một sự khai tâm về Trung Quốc, tìm hiểu những điều thiết yếu rồi trở về. Tôi đã hình dung rằng đời sống trí thức ở Trung Quốc chỉ bao gồm mấy ông tuyên huấn cứng rắn ở hậu cung Đảng Cộng sản hoặc ở mấy trường đại học hàng đầu của nước này. Nhưng thay vì vậy, tôi đã bắt gặp cả một thế giới ngầm các trí thức, các chuyên viên tư vấn chính sách và các nhà hoạt động xã hội – tất cả đều tham gia vào cuộc bàn cãi gay cấn về tương lai đất nước. Tôi sớm nhận ra rằng tôi sẽ phải đến Bắc Kinh và Thượng Hải nhiều hơn vài lần để nhìn thấu quy mô và tham vọng của các cuộc tranh luận nội bộ ở Trung Quốc. Ngay trong chuyến đi đầu tiên ấy, tâm trí tôi đã được bồi bổ: tôi đã xác định là cần dành thêm vài ba năm đời mình để hiểu biết những trang sử sống động đang mở ra trước mắt tôi. Trong thời gian ba năm, tôi đã trò chuyện với hàng chục nhà tư tưởng Trung Hoa, đồng thời dõi theo sự sinh thành và phát triển những quan điểm của họ nhịp cùng những đổi thay ngoạn mục trên đất nước họ. Trong số họ một số từng là đảng viên cộng sản, số khác thì ở ngoài Đảng và từng khốn khổ vì những mối quan hệ rắc rối với giới cầm quyền. Song ở mức độ nào đó họ thảy đều là những người trong cuộc. Họ đã chọn sống và làm việc tại Trung Hoa lục địa, và như vậy có nghĩa là họ thường xuyên phải đương đầu với những đòi hỏi đồng bóng của một nhà nước độc đảng. At the beginning of that trip, I had hoped to get a quick introduction to China, learn the basics and go home. I had imagined that China's intellectual life consisted of a few unbending ideologues in the back rooms of the Communist party or the country's top universities. Instead, I stumbled on a hidden world of intellectuals, think-tankers and activists, all engaged in intense debate about the future of their country. I soon realised that it would take more than a few visits to Beijing and Shanghai to grasp the scale and ambition of China's internal debates. Even on that first trip my mind was made up—I wanted to devote the next few years of my life to understanding the living history that was unfolding before me. Over a three-year period, I have spoken with dozens of Chinese thinkers, watching their views develop in line with the breathtaking changes in their country. Some were party members; others were outside the party and suffering from a more awkward relationship with the authorities. Yet to some degree, they are all insiders. They have chosen to live and work in mainland China, and thus to cope with the often capricious demands of the one-party state. Chúng ta đã quen với ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Trung Quốc đối với nền kinh tế thế giới – nhưng liệu điều đó có làm thay đổi cách chúng ta nghĩ về chính trị và quyền lực? Câu chuyện về sự giác tỉnh trí thức của nước Trung Hoa chưa từng được ghi chép một cách hệ thống. Chúng ta theo dõi sát sao từng ngõ ngách của đời sống trí tuệ nước Mỹ, nhưng liệu có bao nhiêu người trong chúng ta có thể nêu tên một nhà văn hoặc một nhà tư tưởng Trung Hoa? Bên trong Trung Quốc – không chỉ trên các diễn đàn của Đảng, mà cả trong các trường đại học, trong những cơ quan tư vấn chính sách bán độc lập, trên báo chí và trên Internet – những cuộc cãi vã đang diễn ra ác liệt xoay quanh việc điều hành đất nước: các nhà kinh tế “cánh tả mới” tranh biện với những đồng nghiệp “cánh hữu mới” về sự bất bình đẳng xã hội; các nhà lý thuyết chính trị thì tranh luận về tầm quan trọng tương đối của bầu cử và nguyên tắc pháp quyền; còn trong địa hạt chính sách đối ngoại, các nhà tân bảo thủ của Trung Quốc tranh biện về chiến lược tổng quát với các nhà quốc tế chủ nghĩa chủ trương khai phóng. Các tư tưởng gia Trung Quốc đang tìm cách dung hòa những mục tiêu tranh chấp nhau, trong khi thăm dò xem làm sao để chúng có thể hưởng lợi từ các thị trường toàn cầu mà lại vẫn bảo vệ được Trung Quốc khỏi sự hủy diệt sức sáng tạo mà chúng có thể gây ra cho hệ thống chính trị và kinh tế của Trung Quốc. Một số người khác lại đang nỗ lực thách thức cái thế giới phẳng của sự toàn cầu hóa Hoa Kỳ bằng phiên bản Trung Hoa của một “thế giới được rào giậu”. We are used to China's growing influence on the world economy—but could it also reshape our ideas about politics and power? This story of China's intellectual awakening is less well documented. We closely follow the twists and turns in America's intellectual life, but how many of us can name a contemporary Chinese writer or thinker? Inside China—in party forums, but also in universities, in semi-independent think tanks, in journals and on the internet—debate rages about the direction of the country: "new left" economists argue with the "new right" about inequality; political theorists argue about the relative importance of elections and the rule of law; and in the foreign policy realm, China's neocons argue with liberal internationalists about grand strategy. Chinese thinkers are trying to reconcile competing goals, exploring how they can enjoy the benefits of global markets while protecting China from the creative destruction they could unleash in its political and economic system. Some others are trying to challenge the flat world of US globalisation with a "walled world"
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 18, 2010 4:04:09 GMT 9
Thật là nghịch lý khi quyền lực của người trí thức Trung Quốc lại được khuếch trương bởi hệ thống chính trị hà khắc của nước này, nơi không có các đảng đối lập, không có công đoàn độc lập, không có những bất đồng công khai giữa các nhà chính trị, còn bộ máy truyền thông thì tồn tại chỉ để củng cố việc kiểm soát xã hội chứ không để xúc tiến trách nhiệm giải trình chính trị. Trong một thế giới như thế, sự tranh luận trí thức có thể trở thành một thứ đại lý của chính trị – nhất là khi nó mang nhiều tính cá nhân, gây hấn và cảm tính hơn bất cứ cái gì mà một nền chính trị hình thức có thể bày đặt ra. (Tuy nhiên,) trong khi quả thật là không hề có thảo luận tự do về việc chấm dứt sự cai trị của Đảng Cộng sản, về nền độc lập cho Tây Tạng hoặc về những biến cố tại Quảng trường Thiên An Môn , trên những tờ báo lớn và tạp chí khoa học lại diễn ra những tranh luận tương đối cởi mở về mô hình kinh tế của Trung Quốc, về cách xóa bỏ nạn tham nhũng hoặc về chính sách đối ngoại trong những đề tài như Nhật Bản hay Bắc Triều Tiên. Và mặc dù Internet bị cảnh giới ngặt nghèo, song nơi đây sự tranh luận lại được tuỳ nghi hơn so với trên báo giấy (dẫu rằng vừa mới đây, một trong những blogger có tư tưởng tự do nhất tên là Hồ Giai [Hu Jia] đã bị bắt giữ). Rồi đằng sau những cánh cửa đóng kín, các học giả và các tư tưởng gia vẫn trò chuyện thoải mái ngay cả về những chủ đề nhạy cảm nhất, tỷ như cải cách chính trị. Người Trung Quốc thích tranh biện những chuyện như liệu có phải chính trí thức đang tác động tới những nhà làm chính sách, hay chỉ là những nhóm hoạch định chính sách đang sử dụng các trí thức như những con vật cưng trong vai trò những cái loa không chính thức để tung ra các quan điểm của mình. Bất luận thế nào, những cuộc tranh cãi này đã trở thành một phần của tiến trình chính trị, và được sử dụng để đưa các tư tưởng ra xem xét và mở rộng sự lựa chọn cho các nhà hoạch định chính sách Trung Hoa. Để thí dụ, trí thức thường được đều đặn vời đến để trích yếu cho Bộ Chính trị trong những “phiên họp nghiên cứu”; trí thức là người soạn thảo các báo cáo làm nguồn cho các kế hoạch 5 năm của Đảng; và trí thức là nhà tư vấn cho các bạch thư của chính phủ.
Paradoxically, the power of the Chinese intellectual is amplified by China's repressive political system, where there are no opposition parties, no independent trade unions, no public disagreements between politicians and a media that exists to underpin social control rather than promote political accountability. Intellectual debate in this world can become a surrogate for politics—if only because it is more personal, aggressive and emotive than anything that formal politics can muster. While it is true there is no free discussion about ending the Communist party's rule, independence for Tibet or the events of Tiananmen Square, there is a relatively open debate in leading newspapers and academic journals about China's economic model, how to clean up corruption or deal with foreign policy issues like Japan or North Korea. Although the internet is heavily policed, debate is freer here than in the printed word (although one of the most free-thinking bloggers, Hu Jia, was recently arrested). And behind closed doors, academics and thinkers will often talk freely about even the most sensitive topics, such as political reform. The Chinese like to argue about whether it is the intellectuals that influence decision-makers, or whether groups of decision-makers use pet intellectuals as informal mouthpieces to advance their own views. Either way, these debates have become part of the political process, and are used to put ideas in play and expand the options available to Chinese decision-makers. Intellectuals are, for example, regularly asked to brief the politburo in "study sessions"; they prepare reports that feed into the party's five-year plans; and they advise on the government's white papers.
Như vậy, phải chăng giới trí thức Trung Hoa đang ngày càng trở nên cởi mở hơn và Tây phương hơn? Nhiều khái niệm được họ sử dụng khi tranh biện – dĩ nhiên, bao gồm bản thân chủ nghĩa cộng sản – đều là hàng nhập từ phương Tây. Và một phong cách ngôn luận kiểu Tây phương và độc lập hơn về tư duy dường như đang xuất hiện như một kết quả của việc một triệu sinh viên Trung Quốc từng du học tại nước ngoài – đa phần tại phương Tây – kể từ năm 1978; chỉ non nửa số này quay về nước, nhưng con số trở về đang tăng lên. Thế nhưng, ta chớ nên quên rằng cách đào tạo một “trí thức” ở Trung Hoa vẫn còn rất khác so với ở phương Tây. Nền giáo dục ở nước này vẫn còn chú trọng vào những đóng góp thực tiễn cho đời sống của quốc dân, và mặc dù giáo dục đại học đã được mở mang mạnh mẽ (khoảng 20 phần trăm số người tuổi từ 18 đến 30 hiện nay đã được chiêu nạp vào đại học), nhưng phương pháp truyền thụ vẫn nặng về học thuộc lòng. Ngoài ra, tất cả các sinh viên đều sẽ được giám sát chặt chẽ nhằm loại trừ bất đồng chính kiến, cùng với các khoá “giáo dục chính trị” vẫn mang tính bắt buộc.
So is the Chinese intelligentsia becoming increasingly open and western? Many of the concepts it argues over—including, of course, communism itself—are western imports. And a more independent-minded, western style of discourse may be emerging as a result of the 1m students who have studied outside China—many in the west—since 1978; fewer than half have returned, but that number is rising. However, one should not forget that the formation of an "intellectual" in China remains very different from in the west. Education is still focused on practical contributions to national life, and despite a big expansion of higher education (around 20 per cent of 18-30 year olds now enrol at university), teaching methods rely heavily on rote learning. Moreover, all of these people will be closely monitored for political dissent, with "political education" classes still compulsory.
Trương Duy Nghênh (Zhang Weiying) không thể sống thiếu xì-gà Cuba. Khi tôi đến gặp ông tại nơi ông làm việc ở Đại học Bắc Kinh, tôi nhìn thấy nửa tá hộp xì-gà hiệu Cohiba chất cao trên bàn. Những hộp xì-gà này – đáng giá vài lần thu nhập hàng năm của một nông dân Trung Quốc – là những mảnh vụn của nền tự do Tây phương (dẫu rằng chúng là sản phẩm của một quốc gia cộng sản) và là những biểu tượng của thuyết lực bản mà Trương hy vọng chúng sẽ dần dần làm lu mờ và thay thế những tàn tích cuối cùng của chủ nghĩa Mao. Giống như những người chủ trương tự do kinh tế – hoặc những thành phần “cánh hữu mới” như cách gọi của các đối thủ của họ – khác, Trương cho rằng Trung Quốc sẽ không [là nước] tự do chừng nào khu vực công chưa bị dỡ bỏ và nhà nước chưa teo lại thành một cơ quan được thiết định chủ yếu để bảo vệ các quyền sở hữu.
Zhang Weiying has a thing about Cuban cigars. When I went to see him in his office in Beijing University, I saw half a dozen boxes of Cohiba piled high on his desk. The cigar boxes—worth several times a Chinese peasant's annual income—are fragments of western freedom (albeit products of a communist nation), symbols of the dynamism he hopes will gradually eclipse and replace the last vestiges of Maoism. Like other economic liberals—or members of the "new right" as their opponents call them—he thinks China will not be free until the public sector is dismantled and the state has shrivelled into a residual body designed mainly to protect property rights.
Cánh hữu mới từng là tâm điểm của những cải cách kinh tế ở Trung Quốc trong những năm 1980 và 1990. Trương Duy Nghênh có hẳn một mẩu phúng dụ mà ông ưa kể để minh hoạ cho những cải cách này. Câu chuyện của ông kể về một cái làng sống nhờ vào những con ngựa kéo chở lặt vặt. Thế rồi, các già làng chợt nhận thấy làng bên cạnh sống tốt hơn nhờ vào đàn ngựa vằn. Thế là sau nhiều năm an sinh với những ưu điểm của ngựa thường, họ quyết định chuyển sang dùng ngựa vằn. Trở ngại duy nhất là làm thay đổi nhận thức của dân làng đã có hàng thập kỷ tôn sùng loài ngựa thường. Các già làng bèn triển khai một mưu kế. Đêm đêm, khi dân làng đã yên giấc, các cụ lấy sơn vẽ những vằn đen lên những con bạch mã. Khi dân làng tỉnh dậy, các cụ tiên chỉ vỗ về họ rằng những con ngựa có vằn kia không phải là ngựa vằn thực, mà chỉ là những con ngựa vẫn nuôi nay có thêm những nét vằn vô thưởng vô phạt. Đợi một thời gian dài nữa, các tiên chỉ của làng bắt đầu thay thế những con ngựa thường được sơn vằn bằng ngựa vằn thứ thiệt. Những con vật dị thường này đã đổi thay số phận của cả làng, làm tăng năng suất và đem lại sự giàu có cho mọi nhà. Chỉ nhiều năm sau – rất lâu sau khi toàn bộ số ngựa thường đã được thay bằng ngựa vằn và cả làng đã được hưởng lợi sau nhiều năm thịnh vượng – các già làng mới triệu tập dân làng lại và tuyên bố làng của họ là làng ngựa vằn, và ngựa vằn thì tốt còn ngựa thường thì tồi tệ.
The new right was at the heart of China's economic reforms in the 1980s and 1990s. Zhang Weiying has a favourite allegory to explain these reforms. He tells a story about a village that relied on horses to conduct its chores. Over time, the village elders realised that the neighbouring village, which relied on zebras, was doing better. So after years of hailing the virtues of the horse, they decided to embrace the zebra. The only obstacle was converting the villagers who had been brainwashed over decades into worshipping the horse. The elders developed an ingenious plan. Every night, while the villagers slept, they painted black stripes on the white horses. When the villagers awoke the leaders reassured them that the animals were not really zebras, just the same old horses adorned with a few harmless stripes. After a long interval the village leaders began to replace the painted horses with real zebras. These prodigious animals transformed the village's fortunes, increasing productivity and creating wealth all around. Only many years later—long after all the horses had been replaced with zebras and the village had benefited from many years of prosperity—did the elders summon the citizenry to proclaim that their community was a village of zebras, and that zebras were good and horses bad.
Chuyện do Trương Duy Nghênh kể là một cách để hiểu lý thuyết của ông về “chính sách hai giá”, được thực thi lần đầu vào năm 1984. Ông lập luận rằng “chính sách hai giá” sẽ cho phép chính phủ chuyển từ một nền kinh tế do các quan chức đặt giá sang nền kinh tế do thị trường đặt giá mà không cần công khai từ bỏ sự cam kết về chủ nghĩa xã hội hoặc rơi vào thế đối lập với những người được hưởng lợi trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Theo cách này, một số hàng hóa và dịch vụ tiếp tục được bán theo giá nhà nước kiểm soát trong khi một số khác thì được bán theo giá thị trường. Dần dà tỷ lệ hàng hóa bán theo giá thị trường tăng một cách vững chắc, và tới đầu những năm 1990 thì gần như hầu hết hàng hóa đều bán theo giá thị trường. Cách xử lý “hai giá” như là hiện thân của sự kết hợp chủ nghĩa thực dụng với thuyết tiệm tiến đã cho phép các nhà cải cách của Trung Quốc đi vòng qua các vật chướng ngại thay vì đương đầu với chúng.
Zhang Weiying's story is one way of understanding his theory of "dual-track pricing," first put forward in 1984. He argued that "dual-track pricing" would allow the government to move from an economy where prices were set by officials to one where they were set by the market, without having to publicly abandon its commitment to socialism or run into the opposition of all those with a vested interest in central planning. Under this approach, some goods and services continued to be sold at state-controlled prices while others were sold at market prices. Over time, the proportion of goods sold at market prices was steadily increased until by the early 1990s, almost all products were sold at market prices. The "dual-track" approach embodies the combination of pragmatism and incrementalism that has allowed China's reformers to work around obstacles rather than confront them.
Cái “làng ngựa vằn” nổi tiếng nhất là Thâm Quyến. Vào cuối những năm 1970, Thâm Quyến là một làng chài chẳng mấy ai để ý, với vài nghìn dân sống trong nghèo túng. Nhưng ba chục năm sau, nó đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa tư bản Trung Hoa mà Trương Duy Nghênh và các đồng sự của ông từng gây dựng. Do vị trí cận kề Hồng Kông của nó, vào năm 1979 Thâm Quyến đã được ông Đặng Tiểu Bình chọn làm “đặc khu kinh tế” đầu tiên với những ưu đãi như được miễn thuế, được cởi trói khỏi những quy định đương thời và được phép đi tiên phong thực thi các tư tưởng thị trường mới mẻ. Những kiến trúc sư của cải cách ở Thâm Quyến đã mong ước xây dựng những nhà máy công nghệ cao có khả năng sản xuất hàng loạt hàng hóa có giá trị gia tăng để bán sang phương Tây. Những đặc khu thí điểm như thế được cấp tiền lấy từ những ngân khoản dự trữ khổng lồ của đất nước và thu nhập từ xuất khẩu. Các vùng ven biển đã thu hút một số lượng lớn người lao động đến từ nông thôn, điều đã chi phối các mức lương ở thành thị. Toàn bộ hệ thống đã được laissez-faire (= bỏ mặc không can thiệp), cho phép của cải được rò rỉ từ người giàu sang người nghèo một cách có hệ thống thay vì được tái phân phối một cách có chủ ý. Đặng Tiểu Bình tuyên bố thẳng thừng rằng “một số người phải giàu trước người khác”, với lập luận rằng các vùng khác nhau cần phải “nấu ăn trong các nhà bếp biệt lập” thay vì “góp gạo thổi cơm chung”. Kết quả là, các nhà cải cách ở những tỉnh miền Đông Trung Quốc đã được phép tự do bứt khỏi các vùng nghèo khó trong nội địa và phất lên.
The most famous village of zebras was Shenzhen. At the end of the 1970s, Shenzhen was an unremarkable fishing village, providing a meagre living for its few thousand inhabitants. But over the next three decades, it became an emblem of the Chinese capitalism that Zhang Weiying and his colleagues were building. Because of its proximity to Hong Kong, Deng Xiaoping chose Shenzhen in 1979 as the first "special economic zone," offering its leaders tax breaks, freedom from regulation and a licence to pioneer new market ideas. The architects of reform in Shenzhen wanted to build high-tech plants that could mass-produce value-added goods for sale in the west. Such experimental zones were financed by drawing on the country's huge savings and the revenues from exports. The coastal regions sucked in a vast number of workers from the countryside, which held down urban wages. And the whole system was laissez-faire—allowing wealth to trickle down from the rich to the poor organically rather than consciously redistributing it. Deng Xiaoping pointedly declared that "some must get rich first," arguing that the different regions should "eat in separate kitchens" rather than putting their resources into a "common pot." As a result, the reformers of the eastern provinces were allowed to cut free from the impoverished inland areas and steam ahead.
Nhưng cuộc sống ngày nay đang trở nên gay go hơn đối với những nhà kinh tế chủ trương hệ thống này như Trương Duy Nghênh. Sau 30 năm thủ lợi nhờ được tư vấn bởi những tư tưởng nhập khẩu từ phương Tây, giờ đây nước Trung Hoa lại không mặn mà nữa với cánh hữu mới. Những cuộc thăm dò dư luận cho thấy họ đang là nhóm thiểu số nhất ở Trung Quốc. Sự bất an của công chúng đối với cái giá phải trả cho cải cách đang gia tăng, với những cuộc phản kháng của những công nhân mất việc, những lo lắng về sự biển thủ bất hợp pháp và những khoản tiền lương bị quỵt. Và các tư tưởng thị trường lại bị thách thức bởi một “cánh tả mới”, những người đang hậu thuẫn cho một hình thái hiền hòa hơn của chủ nghĩa tư bản. Một cuộc đấu tranh tư tưởng đang đối lập nhà nước với thị trường, đối lập các vùng duyên hải với các tỉnh nội địa, đối lập các đô thị với các thôn quê, đối lập kẻ giàu với người nghèo.
But life today is getting tougher for the economists behind this system, like Zhang Weiying. After 30 years of having the best of the argument with ideas imported from the west, China has turned against the new right. Opinion polls show that they are the least popular group in China. Public disquiet is growing over the costs of reform, with protests by laid-off workers and concern over illegal demolitions and unpaid wages. And the ideas of the market are being challenged by a new left, which advocates a gentler form of capitalism. A battle of ideas pits the state against market; coasts against inland provinces; towns against countryside; rich against poor.
Uông Huy (Wang Hui) là một trong những thủ lĩnh của cánh tả mới, một tụ tập lỏng lẻo của số trí thức đang ngày càng thu hút được sự quan tâm của công luận và đang gây thanh thế cho cuộc thảo luận về chính trị thông qua các bài báo của họ đăng trên những tạp chí như tờ Dushu (Độc thư = “Đọc sách”). Uông Huy vốn là sinh viên ngành văn học chứ không phải ngành chính trị học, nhưng anh đã chuyển sang chính trị thông qua vai trò của anh trong những cuộc biểu tình của sinh viên năm 1989 tập kết ở Quảng trường Thiên An Môn. Giống như hầu hết trí thức trẻ thời đó, Uông từng là một tín đồ cuồng nhiệt đối với tiềm năng của thị trường. Nhưng sau vụ thảm sát Thiên An Môn, anh đã bỏ lên miền núi lẩn trốn hai năm, nhờ đó hiểu biết về nông dân và công nhân. Trải nghiệm của anh ở nơi đó đã khiến anh hoài nghi công lý của các thị trường tự do vô luật lệ, và khiến anh tin rằng nhà nước phải đóng một vai trò ngăn chặn tình trạng bất bình đẳng. Các tư tưởng của Uông Huy còn được phát triển thêm trong thời gian anh lưu vong qua Hoa Kỳ những năm 1990, nhưng cũng giống như nhiều nhà tư tưởng cánh tả mới khác anh đã quay về Hoa lục – trong trường hợp của Uông, anh về làm giảng viên tại Đại học Thanh Hoa danh tiếng. Năm ngoái tôi đã gặp Uông tại quán “Thinker's Café” ở Bắc Kinh, một nơi kín đáo sáng sủa và thoáng đãng với những chiếc sofa êm dịu và cà phê espresso pha tại chỗ. Nom anh hệt như một trí thức công sở nguyên mẫu: tóc hớt ngắn, áo khoác màu nâu và áo len chui cổ màu đen. Nhưng Uông Huy không sống trong tháp ngà. Anh viết những phóng sự phơi bầy những chuyện tham nhũng ở địa phương và giúp đỡ người lao động tự tổ chức để chống lại những vụ tư nhân hoá bất hợp pháp. Sự chiêu mộ các thành viên của nhóm Uông Huy là “mới” bởi lẽ, không giống như lớp người “tả khuynh” cũ, nhóm của anh ủng hộ những cải cách hướng thị trường. Nó là “tả” bởi lẽ, khác với “cánh hữu mới”, nó ưu tư về sự bất bình đẳng: “Nước Trung Hoa bị kẹt giữa hai thái cực – một bên là chủ nghĩa xã hội lầm lạc và bên kia là chủ nghĩa tư bản thân hữu, và nó lãnh đủ bởi những phần tử cặn bã của cả hai phía... Tôi ủng hộ việc đưa đất nước tiến theo những cải cách hướng thị trường, thế nhưng sự phát triển của Trung Quốc cần phải cân bằng hơn nữa. Chúng ta không được dành mọi ưu tiên cho tăng trưởng GDP đến mức bất chấp các quyền của người lao động và không đếm xỉa đến môi trường.”
Wang Hui is one of the leaders of the new left, a loose grouping of intellectuals who are increasingly capturing the public mood and setting the tone for political debate through their articles in journals such as Dushu. Wang Hui was a student of literature rather than politics, but he was politicised through his role in the student demonstrations of 1989 that congregated on Tiananmen Square. Like most young intellectuals at the time, he was a strong believer in the potential of the market. But after the Tiananmen massacre, Wang Hui took off to the mountains and spent two years in hiding, getting to know peasants and workers. His experiences there made him doubt the justice of unregulated free markets, and convinced him that the state must play a role in preventing inequality. Wang Hui's ideas were developed further during his exile in the US in the 1990s, but like many other new left thinkers he has returned to mainland China—in his case to teach at the prestigious Qinghua University. I met him last year in "Thinker's Café" in Beijing, a bright and airy retreat with comfy sofas and fresh espressos. He looks like an archetypal public intellectual: cropped hair, a brown jacket and black polo-neck sweater. But Wang Hui does not live in an ivory tower. He writes reports exposing local corruption and helps workers organise themselves against illegal privatisations. His grouping is "new" because, unlike the "old left," it supports market reforms. It is left because, unlike the "new right," it worries about inequality: "China is caught between the two extremes of misguided socialism and crony capitalism, and suffering from the worst elements of both… I am in favour of orienting the country toward market reforms, but China's development must be more balanced. We must not give total priority to GDP growth to the exclusion of workers' rights and the environment."
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 18, 2010 4:19:18 GMT 9
Triết lý của cánh tả mới là sản phẩm của sự sung túc tương đối của Trung Quốc. Giờ đây khi thị trường đang dẫn dắt sự tăng trưởng kinh tế, họ đòi điều cần phải làm đối với sự giàu có. Liệu có nên để của cải tiếp tục tích tụ vào tay một giới tinh hoa, hay là Trung Quốc cần cổ vũ cho một hình mẫu phát triển đem lại lợi ích cho mọi công dân? Họ muốn phát triển một biến thể Trung Quốc của chủ nghĩa dân chủ xã hội (the social democracy – N.D.). Uông Huy nói: “Chúng tôi không thể trông mong vào một nhà nước theo hình mẫu Đức hoặc Bắc Âu. Chúng tôi có một đất nước lớn đến nỗi nhà nước cũng phải lớn để cung ứng một phúc lợi như thế. Vậy nên chúng ta cần một sự canh tân về thể chế.” Vương Thiệu Quang (Wang Shaoguang, một nhà kinh tế học chính trị) thì đang nói về sự chăm sóc y tế giá rẻ. Thôi Chi Nguyên (Cui Zhiyuan, một nhà lý thuyết chính trị) thì đang nỏi về việc cải cách các quyền sở hữu để trao cho người lao động một tiếng nói ở tất cả các công ty họ đang làm việc. Hồ An Cương (Hu Angang, một nhà kinh tế học) thì quan tâm đến sự phát triển xanh. The new left's philosophy is a product of China's relative affluence. Now that the market is driving economic growth, they ask what should be done with the wealth. Should it continue accumulating in the hands of an elite, or can China foster a model of development that benefits all citizens? They want to develop a Chinese variant of social democracy. As Wang Hui says: "We cannot count on a state on the German or Nordic model. We have such a large country that the state would have to be vast to provide that kind of welfare. That is why we need institutional innovation. Wang Shaoguang is talking about low-price healthcare. Cui Zhiyuan is talking about reforming property rights to give workers a say over the companies where they work. Hu Angang [an economist] is talking about green development." Cán cân quyền lực ở Bắc Kinh đang chuyển sang phía tả một cách êm ái. Hồi cuối năm 2005, Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo công bố “kế hoạch 5 năm lần thứ 11” và bản đồ án của hai ông cho một “xã hội hài hòa”. Lần đầu tiên kể từ khi kỷ nguyên cải cách được khởi xướng năm 1978, tăng trưởng kinh tế không còn được mô tả như là mục tiêu bao trùm đối với nhà nước Trung Quốc. Thay vì vậy, hai ông đã nói đến việc khai thuỷ một nhà nước phúc lợi với những hứa hẹn sẽ tăng 20 phần trăm mỗi năm các quỹ hưu trí, trợ cấp thất nghiệp, bảo hiểm y tế và nghỉ sinh con. Đối với nông thôn Trung Quốc, hai ông này đã hứa sẽ chấm dứt các khoản thuế tuỳ tiện, cải thiện y tế và giáo dục. Các ông cũng trịnh trọng giao hẹn sẽ tiết giảm 20 phần trăm mức tiêu dùng năng lượng. The balance of power in Beijing is subtly shifting towards the left. At the end of 2005, Hu Jintao and Wen Jiabao published the "11th five-year plan," their blueprint for a "harmonious society." For the first time since the reform era began in 1978, economic growth was not described as the overriding goal for the Chinese state. They talked instead about introducing a welfare state with promises of a 20 per cent year-on-year increase in the funds available for pensions, unemployment benefit, health insurance and maternity leave. For rural China, they promised an end to arbitrary taxes and improved health and education. They also pledged to reduce energy consumption by 20 per cent. Kế hoạch 5 năm lần thứ 11 là một cái khuôn dưỡng cho một hình mẫu Trung Hoa mới. Nhìn từ lập trường tân hữu, đó là một cuộc thực nghiệm thường xuyên – một tiến trình cải cách từ tốn thay vì một liệu pháp sốc. Và nó chấp nhận việc thị trường sẽ dẫn dắt sự tăng trưởng kinh tế. Nhưng theo quan điểm tân tả thì mô hình kia đang kéo theo một mối quan ngại về sự bất bình đẳng và môi trường, cùng với sự truy cầu những định chế mới khả dĩ kết hợp được nhuần nhuyễn giữa hợp tác và cạnh tranh. The 11th five-year plan is a template for a new Chinese model. From the new right, it keeps the idea of permanent experimentation—a gradualist reform process rather than shock therapy. And it accepts that the market will drive economic growth. From the new left, it draws a concern about inequality and the environment and a quest for new institutions that can marry co-operation with competition. Tháng Hai năm 2007, Hồ Cẩm Đào hãnh diện loan báo việc thành lập một đặc khu kinh tế mới, được hoàn tất nhờ sự phối hợp thông thường giữa các khoản tiền trợ cấp xuất khẩu, ưu đãi thuế và những hạng mục đầu tư cho đường bộ, đường sắt và đường biển. Chỉ có điều cái đặc khu kinh tế này lại nằm ở giữa lòng châu Phi, trong vành đai mỏ đồng của Zambia. Trung Quốc đang cấy ghép mô hình phát triển của họ vào lục địa Phi châu bằng việc kiến thiết một loạt “ổ trục” công nghiệp liên kết với phần còn lại của thế giới bằng đường sắt, đường bộ và đường biển. Zambia sẽ là sân nhà của “ổ trục kim loại” của Trung Quốc, cung cấp cho nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đồng, cobalt, kim cương, thiếc và uranium. Đặc khu thứ hai sẽ là ở Mauritius (tức Mô-ri-ta-ni-a – N.D.), cung ứng cho Trung Quốc một “ổ trục doanh thương”, cho phép 40 doanh nghiệp Trung Quốc được hưởng quyền ưu đãi thâm nhập một thị trường chung gồm 20 nước thành viên ở Đông phần và Nam phần châu Phi, trải dài từ Libya tới Zimbabwe, cùng lúc với quyền thâm nhập các thị trường Ấn Độ dương và Nam Á. Đặc khu kinh tế thứ ba – một “ổ trục vận tải biển” – có lẽ sẽ nằm tại thủ đô Dar es Salaam của Tanzania. Các nước Nigeria, Liberia và quần đảo Cape Verde (Cáp Ve – N.D.) đang cạnh tranh nhau để trở thành hai “ổ trục” mới khác. Theo cùng một cách mà Đông Âu đã thay đổi bằng cuộc ganh đua gia nhập Liên Âu (EU), chúng ta cũng có thể chứng kiến một châu Phi biến đổi nhờ ganh đua nhau thu hút đầu tư của Trung Quốc. In February 2007, Hu Jintao proudly announced the creation of a new special economic zone complete with the usual combination of export subsidies, tax breaks and investments in roads, railways and shipping. However, this special economic zone was in the heart of Africa—in the copper-mining belt of Zambia. China is transplanting its growth model into the African continent by building a series of industrial hubs linked by rail, road and shipping lanes to the rest of the world. Zambia will be home to China's "metals hub," providing the People's Republic with copper, cobalt, diamonds, tin and uranium. The second zone will be in Mauritius, providing China with a "trading hub" that will give 40 Chinese businesses preferential access to the 20-member state common market of east and southern Africa stretching from Libya to Zimbabwe, as well as access to the Indian ocean and south Asian markets. The third zone—a "shipping hub"—will probably be in the Tanzanian capital, Dar es Salaam. Nigeria, Liberia and the Cape Verde islands are competing for two other slots. In the same way that eastern Europe was changed by a competition to join the EU, we could see Africa transformed by the competition to attract Chinese investment.Với việc xây dựng những đặc khu này, Bắc Kinh đang xắn tay áo lao vào một cuộc chơi tốn kém, xây dựng dọc ngang lục địa Phi châu một lưới đường bộ và đường xe lửa mới – những khoản đầu tư vượt xa những gì mà các thế lực thực dân cũ từng làm. Chưa kể đến chuyện sự hiện diện của Trung Quốc đang làm thay đổi các lề luật trong phát triển kinh tế. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB) vốn quen đem Chúa Trời ra dọa các quan chức chính quyền địa phương và những nhà lãnh đạo được tuyển cử (ở châu Phi này – N.D.), nhưng giờ đây họ đang phải vật lộn để hòng được ngay cả những quốc gia nghèo nhất châu Phi lắng nghe. IMF từng bỏ ra nhiều năm thương lượng một hiệp định về chống tham nhũng với chính phủ Angola, thế rồi chỉ vài giờ trước thời điểm lễ ký được ước hẹn (vào tháng Ba năm 2004), giới cầm quyền Luanda đã tuyên bố rằng họ chẳng quan tâm đến tiền bạc (của IMF) nữa: họ vừa được Trung Quốc bảo đảm cho vay ưu đãi 2 tỷ đô-la. Câu chuyện này được lặp đi lặp lại khắp lục địa châu Phi, từ Cộng hoà Chad tới Nigeria, từ Sudan tới Algeria, từ Ethiopia và Uganda tới Zimbabwe. As it creates these zones, Beijing is embarking on a building spree, criss-crossing the African continent with new roads and railways—investing far more than the old colonial powers ever did. Moreover, China's presence is changing the rules of economic development. The IMF and the World Bank used to drive the fear of God into government officials and elected leaders, but today they struggle to be listened to even by the poorest countries of Africa. The IMF spent years negotiating a transparency agreement with the Angolan government only to be told hours before the deal was due to be signed, in March 2004, that the authorities in Luanda were no longer interested in the money: they had secured a $2bn soft loan from China. This tale has been repeated across the continent—from Chad to Nigeria, Sudan to Algeria, Ethiopia and Uganda to Zimbabwe.Nhưng sự truyền bá mô hình Trung Quốc còn lan xa hơn cả những khu vực đã được các nhà đầu tư Trung Quốc để mắt đến. Các tổ nghiên cứu đến từ các quốc gia thu nhập trung bình và nghèo từ Iran tới Ai Cập, từ Angola tới Zambia, từ Kazakhstan tới Nga, từ Ấn Độ tới Việt Nam và từ Brazil tới Venezuela đã từng lê bước khắp các đô thị và đồng quê Trung Quốc để tìm kiếm những bài học từ kinh nghiệm của Bắc Kinh. Những trí thức như Trương Duy Nghênh và Hồ An Cương đã từng được yêu cầu huấn luyện các tổ nghiên cứu đó. Vô số quốc gia đang sao chép “mô thức phát triển Bắc Kinh” – phát triển dưới sự chỉ đạo của nhà nước, sử dụng tiền công và đầu tư nước ngoài để xây dựng các ngành công nghiệp đòi hỏi vốn lớn. Những phiên bản copy của các đặc khu kinh tế đang mọc lên khắp thế giới như nấm sau mưa – WB ước tính đang có tới hơn 3000 dự án được triển khai tại 120 quốc gia. Toàn cầu hóa từng được cho là sự khải hoàn trên toàn thế giới của kinh tế thị trường, nhưng Trung Quốc lại đang chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước là một trong những kẻ thủ lợi kếch xù nhất. But the spread of the Chinese model goes far beyond the regions that have been targeted by Chinese investors. Research teams from middle-income and poor countries from Iran to Egypt, Angola to Zambia, Kazakhstan to Russia, India to Vietnam and Brazil to Venezuela have been crawling around the Chinese cities and countryside in search of lessons from Beijing's experience. Intellectuals such as Zhang Weiying and Hu Angang have been asked to provide training for them. Scores of countries are copying Beijing's state-driven development using public money and foreign investment to build capital-intensive industries. A rash of copycat special economic zones have been set up all over the world—the World Bank estimates that over 3,000 projects are taking place in 120 countries. Globalisation was supposed to mean the worldwide triumph of the market economy, but China is showing that state capitalism is one of its biggest beneficiaries. Khi các ý tưởng thị trường tự do được truyền bá khắp hoàn cầu thì tư tưởng về nền dân chủ khai phóng (liberal democracy) cũng bám gót theo. Nhưng đối với giới cầm quyền ở Bắc Kinh, chẳng có gì là bất khả chuyển xung quanh câu chuyện về nền dân chủ khai phóng đó. Một trong những nét gây ngạc nhiên hơn cả trong đời sống trí thức Trung Hoa là cái cách mà các trí thức “dân chủ” – những người vào những thập kỷ 1980 và 1990 từng yêu sách về bầu cử dân chủ – đã làm thay đổi địa vị của bản thân họ trong công cuộc cải cách chính trị. Về chuyện cải tổ chính trị thì Du Khả Bình (Yu Keping) cũng giống như Trương Duy Nghênh. Ông ta là ngôi sao đang lên và một cố vấn không chính thức cho Chủ tịch Hồ Cẩm Đào. Ông đứng đầu một viện vừa là trường đại học, vừa là cơ quan tham mưu chính sách, lại vừa là nhà tư vấn về quản lý trong cải cách hành chính. Khi nói về tương lai chính trị của đất nước, ông thường đưa ra một so sánh trực tiếp [câu chuyện đó] với những gì xảy ra trong địa hạt kinh tế. Lần cuối cùng khi tôi gặp ông ở Bắc Kinh, ông nói với tôi rằng một cải cách chính trị “sau một đêm” sẽ gây tai họa cho Trung Quốc tựa như một “liệu pháp sốc” về kinh tế vậy. Thay vì vậy, ông đã xúc tiến một ý tưởng về dân chủ nhích dần từng bước một theo cách của nó xuất phát từ những thử nghiệm thành công ở cấp cơ sở. Ông kỳ vọng rằng bằng việc xúc tiến dân chủ trước tiên trong nội bộ Đảng Cộng sản, dân chủ sau đó sẽ lan ra phần còn lại của xã hội. Hệt như việc các vùng duyên hải từng được phép “làm giàu trước”, ông Du Khả Bình cho rằng các đảng viên cộng sản cũng nên “thực hành dân chủ trước”, thông qua những cuộc bầu bán trong nội bộ Đảng. As free market ideas have spread across the world, liberal democracy has often travelled in its wake. But for the authorities in Beijing there is nothing inexorable about liberal democracy. One of the most surprising features of Chinese intellectual life is the way that "democracy" intellectuals who demanded elections in the 1980s and 1990s have changed their positions on political reform.
Yu Keping is like the Zhang Weiying of political reform. He is a rising star and an informal adviser to President Hu Jintao. He runs an institute that is part university, part think tank, part management consultancy for government reform. When he talks about the country's political future, he often draws a direct analogy with the economic realm. When I last met him in Beijing, he told me that overnight political reform would be as damaging to China as economic "shock therapy." Instead, he has promoted the idea of democracy gradually working its way up from successful grassroots experiments. He hopes that by promoting democracy first within the Communist party, it will then spread to the rest of society. Just as the coastal regions were allowed to "get rich first," Yu Keping thinks that party members should "get democracy first" by having internal party elections. Ở những nơi nào mà các vùng duyên hải được hưởng lợi từ các thế mạnh kinh tế tự nhiên như sự cận kề với Hồng Kông, sự sử dụng tiếng Quảng Đông và mạng lưới đường giao thông, Du Khả Bình cũng nhìn thấy những lợi thế đối với các đảng viên cộng sản – tỷ như trình độ văn hóa cao và khả năng ăn nói lưu loát –, những nhân tố đang khiến họ trở thành đội tiên phong tự nhiên của dân chủ. Còn hơn thế, Du có thể chỉ ra những thí dụ đang hiển hiện. Theo gợi ý của ông, vào năm 2006 tôi đã đến một huyện có tên gọi Pinchang trong tỉnh Tứ Xuyên, nơi các đảng viên cộng sản được phép bầu ra những người đứng đầu các cơ quan ở cấp thị trấn. Về lâu về dài, dân chủ có thể được mở rộng lên các cấp bậc cao hơn của đảng, kể cả những cuộc bầu cử có cạnh tranh vào những vị trí cao cấp nhất. Kết cục lô-gích được kéo theo từ những ý tưởng của Du về nền dân chủ nội đảng này có thể sẽ là sự phân ly Đảng Cộng sản thành nhiều nhóm chống chọi nhau về ý thức hệ để tranh giành sự ủng hộ. Có thể hình dung được rằng các phe nhóm tân hữu hoặc tân tả một ngày nào đó thậm chí sẽ trở thành những chính đảng chính thức bên trong Đảng Cộng sản. Nếu coi Đảng cộng sản là một quốc gia, thì 70 triệu đảng viên của nó sẽ là một nước còn lớn hơn Anh quốc. Song cũng khó mà hình dung nổi một huyện Pinchang xa lắc và nghèo rớt lại trở thành một hình mẫu cho những đô thành hoa lệ như Thượng Hải, Bắc Kinh hay Thâm Quyến. Cho tới nay, chưa có huyện nào trong số 2860 huyện của Trung Quốc đi theo sau Pinchang hết. Where the coastal regions benefited from natural economic advantages such as proximity to Hong Kong, the Cantonese language and transport links, Yu Keping sees advantages for party members—such as their high levels of education and articulacy—which make them into a natural democratic vanguard. What is more, he can point to examples of this happening. At his suggestion, in 2006 I visited a county in Sichuan province called Pinchang that has allowed party members to vote for the bosses of township parties. In the long run, democracy could be extended to the upper echelons of the party, including competitive elections for the most senior posts. The logical conclusion of his ideas on inner party democracy would be for the Communist party to split into different factions that competed on ideological slates for support. It is possible to imagine informal new left and new right groupings one day even becoming formal parties within the party. If the Communist party were a country, its 70m members would make it bigger than Britain. And yet it is hard to imagine the remote, impoverished county of Pinchang becoming a model for the gleaming metropolises of Shanghai, Beijing or Shenzhen. So far, none of the other 2,860 counties of China has followed its lead. Nhiều trí thức ở Trung Quốc đang bắt đầu cật vấn về tính hữu ích của các cuộc bầu cử. Phan Vĩ (Pan Wei), một minh tinh đang lên khác ở Đại học Bắc Kinh, ngay lần đầu gặp tôi đã chỉ trích tôi là quá chú tâm tới những thử nghiệm dân chủ ở cơ sở. Ông nói: “Thử nghiệm dân chủ ở Tứ Xuyên sẽ chẳng đi tới đâu hết. Giới lãnh đạo địa phương có mục tiêu chính trị cá nhân của họ: họ chỉ mong tên tuổi họ được mọi người biết đến. Nhưng cuộc thử nghiệm đó đã bất thành. Trên thực tế, Tứ Xuyên là nơi có số cuộc biểu tình phản kháng của quần chúng nhiều hơn cả. Ít có nơi nào khác muốn bắt chước Tứ Xuyên.” Many intellectuals in China are starting to question the utility of elections. Pan Wei, a rising star at Beijing University, castigated me at our first meeting for paying too much attention to the experiments in grassroots democracy. "The Sichuan experiment will go nowhere," he said. "The local leaders have their personal political goal: they want to make their names known. But the experiment has not succeeded. In fact, Sichuan is the place with the highest number of mass protests. Very few other places want to emulate it." Các tư tưởng gia Trung Hoa lập luận rằng tất cả các nền dân chủ phát triển đều đang đối mặt với khủng hoảng chính trị: số người tham gia bầu cử đang rớt đài, niềm tin vào các lãnh tụ chính trị đang suy giảm, các đảng phái đang mất dần đảng viên và chủ nghĩa dân túy đang trỗi dậy. Các nhà tư tưởng này nghiên cứu những phương pháp mà giới lãnh đạo phương Tây đang thực thi để leo lên đứng đầu các chính đảng và việc họ khai phá những kỹ thuật mới để tiếp cận quần chúng như trưng cầu dân ý, thăm dò dư luận hoặc các “bồi thẩm đoàn công dân”. Phương Tây vẫn coi bầu cử đa đảng là thành tố trung tâm của tiến trình chính trị, nhưng cũng đang bổ sung thêm nhiều kiểu thức thảo luận mới. Trung Quốc, theo các tư tưởng gia chính trị mới, sẽ tiến hành mọi việc theo một cách khác hẳn: trong khi bầu cử [chỉ] được sử dụng bên lề, những cuộc tham khảo ý kiến công khai, những cuộc họp và khảo cứu ở cấp chuyên viên sẽ trở thành yếu tố trung tâm của sự hoạch định chính sách. Ý tưởng này đã được mô tả rất súc tích bởi Phòng Ninh (Fang Ning), một nhà khoa học chính trị ở Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc. Phòng so sánh nền dân chủ ở phương Tây với một nhà hàng có những thực đơn cố định mà ở đó, thực khách có thể chọn lọc được bản sắc riêng của mỗi ông đầu bếp, nhưng khách chẳng có tiếng nói nào trong việc ông đầu bếp kia lựa chọn các món ăn sẽ nấu cho họ. Nền dân chủ Trung Hoa, trái lại, bao giờ cũng chỉ có một đầu bếp thôi – đó là Đảng Cộng sản –, nhưng các món ăn chính sách mà thực khách được phục vụ thì lại được chọn “à la carte” (= “theo ý muốn”). Chinese thinkers argue that all developed democracies are facing a political crisis: turnout in elections is falling, faith in political leaders has declined, parties are losing members and populism is on the rise. They study the ways that western leaders are going over the heads of political parties and pioneering new techniques to reach the people such as referendums, opinion surveys or "citizens' juries." The west still has multi-party elections as a central part of the political process, but has supplemented them with new types of deliberation. China, according to the new political thinkers, will do things the other way around: using elections in the margins but making public consultations, expert meetings and surveys a central part of decision-making. This idea was described pithily by Fang Ning, a political scientist at the Chinese Academy of Social Sciences. He compared democracy in the west to a fixed-menu restaurant where customers can select the identity of their chef, but have no say in what dishes he chooses to cook for them. Chinese democracy, on the other hand, always involves the same chef—the Communist party—but the policy dishes which are served up can be chosen "à la carte." Trùng Khánh là một thị khu trực thuộc trung ương có 30 triệu dân mà ít người ở phương Tây biết tới. Nó náu mình trên một vùng núi, ở nơi hợp lưu của các con sông Dương Tử và Gia Lăng, và đang nỗ lực để trở thành một phòng thí nghiệm sống các ý tưởng của những trí thức như Phan Vĩ và Phòng Ninh. Chính quyền thành phố đã buộc cho mọi quyết định quan trọng phải được lấy trên cơ sở tham khảo ý kiến công khai – trực tiếp với cá nhân, thông qua ti-vi và Internet. Điều khiến cho giới chức ở đây hãnh diện hơn cả là những quyết định về giá vé tàu cao tốc, đã được hạ từ 15 nguyên xuống chỉ còn 2 nguyên (tương đương khoảng 4000 đồng Việt Nam – N.D.). Thử nghiệm này đang được nhân rộng tại các thành phố khác trên toàn Trung Quốc. Nhưng một thử nghiệm còn thú vị hơn nữa đang được tiến hành tại thị trấn Zeguo thuộc thành phố Wenling – thử nghiệm này sử dụng một kỹ thuật mới gọi là “đầu phiếu có thảo luận” để lấy những quyết định lớn về chi tiêu. Đây là đứa con tinh thần của một nhà khoa học chính trị đến từ Đại học Stanford tên là James Fishkin, một giải pháp quay về với một mô hình dân chủ thời Athena (xem “The thinking voter”, Prospect Magazine, issue 98, May 2004). Kỹ thuật này yêu cầu chọn ngẫu nhiên một nhóm cư dân “mẫu” và mời họ tham gia vào một quá trình tư vấn cùng với các chuyên gia, sau đó yêu cầu họ bỏ phiếu cho vấn đề cần giải quyết. Thị trấn Zeguo đã sử dụng kỹ thuật này để quyết định cách chi 40 triệu nguyên (khoảng 80 tỷ đồng Việt Nam – N.D.) từ công quỹ. Cho tới nay, thử nghiệm này mới chỉ được thực hiện một lần duy nhất, nhưng cả Fishkin và nhà khoa học chính trị Trung Quốc Hà Bảo Cương (He Baogang) đều tin rằng “đầu phiếu có thảo luận” có thể là một khuôn mẫu cho cải tổ chính trị. Chongqing is a municipality of 30m that few people in the west have heard of. It nestles in the hills at the confluence of the Yangtze and Jialin Jiang rivers and it is trying to become a living laboratory for the ideas of intellectuals like Pan Wei and Fang Ning. The city's government has made all significant rulings subject to public hearings—in person, on television and on the internet. The authorities are proudest of the hearings on ticket prices for the light railway, which saw fares reduced from 15 to just 2 yuan (about 14p). This experiment is being emulated in other cities around China. But an even more interesting experiment was carried out in the small township of Zeguo in Wenling City—it used a novel technique of "deliberative polling" to decide on major spending decisions. The brainchild of a Stanford political scientist called James Fishkin, it harks back to an Athenian ideal of democracy (see "The thinking voter," Prospect May 2004). It involves randomly selecting a sample of the population and involving them in a consultation process with experts, before asking them to vote on issues. Zeguo used this technique to decide how to spend its 40m yuan (£2.87m) public works budget. So far the experiment has been a one-off but Fishkin and the Chinese political scientist He Baogang believe that "deliberative democracy" could be a template for political reform. Giới chức ý hẳn đang sẵn sàng thử nghiệm tất cả các dạng canh tân chính trị. Ở Zeguo, người ta thậm chí còn đưa ra một hình thức chính quyền thông qua “nhóm tiêu điểm”. Nhưng tiêu chuẩn chính yếu dẫn dắt cải tổ chính trị dường như vẫn là không được đe dọa nền độc tôn quyền lực của Đảng Cộng sản. Liệu có còn một hình thái thích ứng nào của chủ nghĩa toàn trị có thể giúp nó biến hoá thành một nhà nước chính danh và ổn định hơn thế nữa hay không? The authorities certainly seem willing to experiment with all kinds of political innovations. In Zeguo, they have even introduced a form of government by focus group. But the main criterion guiding political reform seems to be that it must not threaten the Communist party's monopoly on power. Can a more responsive form of authoritarianism evolve into a legitimate and stable form of government? Về lâu dài, nhà nước độc đảng của Trung Quốc có thể sụp đổ lắm. Tuy nhiên, trong trung hạn, chế độ này có vẻ như đang phát triển những kỹ xảo ngày càng tinh vi để kéo dài sự sống sót của nó và ngăn chặn trước sự bất mãn. Trung Quốc đã làm thay đổi hẳn ngôn ngữ tranh biện về toàn cầu hóa bằng cách chứng minh rằng các chế độ toàn trị có thể đem đến tăng trưởng kinh tế. Trong tương lai, mô hình của nước này về một “nền chuyên chế có thảo luận” có thể cho thấy những nhà nước độc đảng cũng có khả năng có được một mức độ nào đó của tính chính đáng và được đông đảo quần chúng chấp nhận. Và nếu như những cuộc thử nghiệm lấy tư vấn công chúng của Trung Quốc mà thành công, các chế độ độc tài trên khắp thế giới sẽ lấy lại được can đảm từ cái mô hình cho phép các nhà nước độc đảng tiếp tục sống sót trong kỷ nguyên của toàn cầu hóa và phổ cập truyền thông. In the long term, China's one-party state may well collapse. However, in the medium term, the regime seems to be developing increasingly sophisticated techniques to prolong its survival and pre-empt discontent. China has already changed the terms of the debate about globalisation by proving that authoritarian regimes can deliver economic growth. In the future, its model of deliberative dictatorship could prove that one-party states can deliver a degree of popular legitimacy as well. And if China's experiments with public consultation work, dictatorships around the world will take heart from a model that allows one-party states to survive in an era of globalisation and mass communications. Các học giả về Trung Quốc ở phương Tây đang tranh luận xem liệu có phải nước này đang xúc tiến tích cực một nền chuyên chế, hay đó chỉ là cách nó theo đuổi quyền lợi quốc gia một cách chuyên chú. Bất luận là thế nào, Trung Quốc đã nổi lên như một nhà vô địch toàn cầu lớn nhất của chủ nghĩa toàn trị. Tổ chức Quan sát Nhân quyền (Human Rights Watch) than phiền rằng “chương trình viện trợ nước ngoài đang gia tăng của Trung Quốc đã tạo ra những lựa chọn mới cho những tên độc tài trước đó chỉ sống nhờ vào những người luôn luôn đòi hỏi những tiến bộ về nhân quyền.” China scholars in the west argue over whether the country is actively promoting autocracy, or whether it is just single-mindedly pursuing its national interest. Either way, China has emerged as the biggest global champion of authoritarianism. The pressure group Human Rights Watch complains that "China's growing foreign aid programme creates new options for dictators who were previously dependent on those who insisted on human rights progress."Song le, sự đột phá của Trung Quốc vào nền chính trị quốc tế rồi sẽ không chỉ dừng lại ở việc nước này hậu thuẫn cho bọn độc tài châu Phi. Nó còn đang tìm cách định nghĩa lại khái niệm quyền lực trên vũ đài thế giới. Quả thật, [ở Trung Quốc] việc đo lường cái “quyền lực quốc gia tổng hợp” (comprehensive national power, CNP) đã trở thành một niềm đam mê toàn quốc. Mỗi một trong số các cơ quan tham vấn chính sách đối ngoại lớn [của Trung Quốc] đều đã từng bày ra những tiêu chí của mình để lượng hóa từng quyền lực của quốc gia – kinh tế, chính trị, quân sự và văn hóa. Và trong cái kỷ nguyên của toàn cầu hóa và của những chuẩn mực phổ quát này, điều nổi bật nhất ở các chiến lược gia Trung Quốc là sự tập trung vô liêm sỉ của họ vào quyền lực “quốc gia”. Ý tưởng đoạt lại chủ quyền từ các thế lực kinh tế toàn cầu, từ các công ty và ngay cả từ các cá nhân đang là tâm điểm của thế giới quan Trung Quốc. China's foray into international politics should not, however, be reduced to its support for African dictators. It is trying to redefine the meaning of power on the world stage. Indeed, measuring "CNP"—comprehensive national power—has become a national hobby-horse. Each of the major foreign policy think tanks has devised its own index to give a numerical value to every nation's power—economic, political, military and cultural. And in this era of globalisation and universal norms, the most striking thing about Chinese strategists is their unashamed focus on "national" power. The idea of recapturing sovereignty from global economic forces, companies and even individuals is central to the Chinese worldview.
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 18, 2010 4:27:52 GMT 9
Dương Nghị (Yang Yi) là một quân nhân, một chuẩn đô đốc hải quân và thủ trưởng của một viện nghiên cứu chính sách quân sự hàng đầu ở Trung Quốc. Là một nhân vật cứng rắn trong việc kiến tạo chính sách đối ngoại của Trung Quốc, tư tưởng của Dương về quyền lực còn vượt xa cả những đánh giá về các hệ thống vũ khí mới nhất. Ông lập luận rằng Hoa Kỳ đã tạo ra một “thế bao vây chiến lược” xung quanh Trung Quốc bằng cách giả bộ “cao đạo” trong các quan hệ quốc tế. Cứ mỗi lần Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nỗ lực tự khẳng định mình trong ngôn ngữ ngoại giao, tìm kiếm hiện đại hóa sức mạnh quân sự hoặc mở rộng quan hệ với các quốc gia khác thì Hoa Kỳ đều coi đó là một mối đe dọa. Và thế là, Dương than phiền, các nước còn lại trên thế giới bao giờ cũng theo đuôi siêu cường này: “Hoa Kỳ có tiếng nói cuối cùng trong việc tạo ra hoặc xét lại các luật chơi quốc tế. Họ thống lĩnh các ngôn từ quốc tế... Hoa Kỳ thường nói ‘Các vị được làm việc này, không được làm việc kia’.”
Yang Yi is a military man, a rear admiral in the navy and the head of China's leading military think tank. He is one of the tough guys of the Chinese foreign policy establishment, but his ideas on power go far beyond assessments of the latest weapons systems. He argues that the US has created a "strategic siege" around China by assuming the "moral height" in international relations. Every time the People's Republic tries to assert itself in diplomatic terms, to modernise its military or to open relationships with other countries, the US presents it as a threat. And the rest of the world, Yang Yi complains, all too often takes its lead from the hyperpower: "The US has the final say on the making and revising of the international rules of the game. They have dominated international discourse… the US says, 'Only we can do this; you can't do this.'"
Một trong những dụng ngữ thời thượng trong giới làm chính sách đối ngoại Trung Quốc là “quyền lực mềm” (âm Quan Thoại ruan quanli “nhuyễn quyền lực”, tiếng Anh ‘soft power’ – N.D.). Tư tưởng này được nhà khoa học chính trị người Mỹ Joseph Nye phát minh vào năm 1990, nhưng nó lại được xúc tiến ở Bắc Kinh một cách sốt sắng hơn nhiều so với ở Washington D.C. Vào tháng Tư năm 2006, một hội nghị đã được tổ chức ở Bắc Kinh để khởi động “giấc mơ Trung Quốc” – sự đáp trả của Trung Quốc đối với “giấc mơ Mỹ”. Đây là một toan tính gắn kết Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với ba khái niệm đầy quyền uy: phát triển kinh tế, chủ quyền chính trị và luật quốc tế. Trong khi các nhà ngoại giao Mỹ nói về thay đổi chế độ, các đồng nhiệm Trung Quốc của họ nói về tôn trọng chủ quyền và sự đa dạng của các nền văn minh. Trong khi chính sách ngoại giao Hoa Kỳ sử dụng các chế tài và phép cô lập để bảo trì các mục tiêu chính trị của mình, người Trung Quốc lại chìa ra viện trợ và doanh thương không kèm theo bất cứ ràng buộc nào. Trong khi Hoa Kỳ áp đặt những ưu tiên của họ đối với các đồng minh bất đắc dĩ, Trung Quốc ít nhất cũng tỏ vẻ miễn cưỡng lắng nghe các quốc gia khác.
One of the buzzwords in Chinese foreign policy circles is ruan quanli—the Chinese term for "soft power." This idea was invented by the American political scientist Joseph Nye in 1990, but it is being promoted with far more zeal in Beijing than in Washington DC. In April 2006, a conference was organised in Beijing to launch the "China dream"—China's answer to the American dream. It was an attempt to associate the People's Republic with three powerful ideas: economic development, political sovereignty and international law. Whereas American diplomats talk about regime change, their Chinese counterparts talk about respect for sovereignty and the diversity of civilisations. Whereas US foreign policy uses sanctions and isolation to back up its political objectives, the Chinese offer aid and trade with no strings. Whereas America imposes its preferences on reluctant allies, China makes a virtue of at least appearing to listen to other countries.
Thế nhưng, trong khi tất cả các nhà tư tưởng Trung Hoa muốn tăng cường quyền lực quốc gia, họ lại bất đồng về các mục tiêu dài hạn của đất nước họ. Một mặt, những người quốc tế chủ nghĩa chủ trương khai phóng như Trịnh Tất Kiên (Zheng Bijian) thích nói đến sự “trỗi dậy hòa bình” của Trung Quốc và cách thức nước này quay trở lại với thế giới, thích ứng với các chuẩn mực toàn cầu và học cách đóng góp tích cực vào trật tự thế giới. Trong những năm gần đây, Bắc Kinh đã từng tham gia các cuộc hội đàm sáu bên để giải quyết vấn đề hạt nhân ở Bắc Triều Tiên; đã làm việc với Liên Âu, Nga và Hoa Kỳ về Iran; đã giữ lập trường hoà giải về thay đổi khí hậu tại một hội nghị quốc tế ở Montreal năm 2005; và đã gửi 4000 lính gìn giữ hòa bình tham gia vào các sứ mệnh của Liên hợp quốc. Ngay cả trong những vấn đề mà Trung Quốc còn bất đồng với phương Tây – tỷ như “can thiệp nhân đạo” – thì lập trường của Trung Quốc cũng đã trở nên uyển chuyển hơn. Khi phương Tây can thiệp vào Kosovo, Trung Quốc đã phản đối trên cơ sở coi đó là sự vi phạm “nguyên tắc không can thiệp”. Về Iraq, Trung Quốc đã bỏ phiếu trắng. Còn về Darfur, vào năm 2006 Trung Quốc cuối cùng cũng đã bỏ phiếu cho một uỷ trị của Liên hợp quốc về đội quân gìn giữ hoà bình – mặc dù Bắc Kinh vẫn đang bị lên án vì những quan hệ khăng khít của họ với chính quyền Sudan.
But while all Chinese thinkers want to strengthen national power, they disagree on their country's long-term goals. On the one hand, liberal internationalists like Zheng Bijian like to talk about China's "peaceful rise" and how it has rejoined the world; adapting to global norms and learning to make a positive contribution to global order. In recent years, Beijing has been working through the six-party talks to solve the North Korean nuclear problem; working with the EU, Russia and the US on Iran; adopting a conciliatory position on climate change at an international conference in Montreal in 2005; and sending 4,000 peacekeepers to take part in UN missions. Even on issues where China is at odds with the west—such as humanitarian intervention—the Chinese position is becoming more nuanced. When the west intervened over Kosovo, China opposed it on the grounds that it contravened the "principle of non-intervention." On Iraq, it abstained. And on Darfur, in 2006 it finally voted for a UN mandate for peacekeepers—although Beijing is still under fire for its close ties to the Sudanese government.
Mặt khác, những tay “tân bảo thủ” Trung Quốc – có lẽ nên gọi họ là “tân cộng sản” – như Dương Nghị và người đồng sự Diêm Học Thông (Yan Xuetong) của ông ta thì tranh biện một cách cởi mở rằng họ đang vận dụng tư duy hiện đại để giúp Trung Quốc thực hiện những giấc mơ xa xưa. Mục tiêu lâu dài của họ là nhìn thấy Trung Quốc quay trở lại địa vị đại cường quốc. Giống như nhiều học giả Trung Hoa, Diêm Học Thông từng nghiền ngẫm những tư tưởng cổ đại. Ông cho biết: “Gần đây, tôi đã đọc lại tất cả các trước tác của các học giả Trung Quốc cổ đại và khám phá ra rằng các tiên sinh này thật là thông tuệ – tư tưởng của họ thích đáng hơn nhiều so với những lý thuyết về quan hệ quốc tế hiện đại nhất”. Điều làm cho Diêm thích thú nhất là cách thức mà các tác gia Trung Quốc cổ đại phân biệt hai loại trật tự: “vương” (nghĩa đen là “vua”) và “bá” (“chúa đất lớn”). Hệ thống “vương” xoay quanh một siêu cường quyền thế làm trung tâm, nhưng địa vị đứng đầu của siêu cường này dựa trên một sự cai trị hiền từ, chứ không phải sự o ép hoặc bành trướng lãnh thổ. Còn hệ thống “bá”, trái lại, là một hệ thống đầu lãnh cổ điển, trong đó quốc gia nào mạnh hơn cả thì áp đặt trật tự lên các nước xung quanh. Rồi Diêm giải thích làm thế nào mà thời cổ người Trung Quốc đã vận hành cả hai hệ thống: “Trong phần châu Á thuộc Trung Hoa, chúng tôi có một hệ thống “vương”. Bên ngoài phạm vi này, khi phải ứng xử với các “man di”, chúng tôi có một hệ thống “bá”. Điều đó cũng y hệt như Hoa Kỳ ngày nay: trong câu lạc bộ phương Tây nó hành xử theo lối “vương”, không sử dụng vũ lực hoặc khai thác các tiêu chuẩn kép; nhưng ở tầm toàn cầu, Hoa Kỳ là “bá” – sử dụng sức mạnh quân sự và khai thác các tiêu chuẩn kép.” Theo Diêm Học Thông, Trung Quốc sẽ có hai lựa chọn một khi nó trở nên mạnh hơn. “Nó có thể trở thành một bộ phận của hệ thống “vương” phương Tây; nhưng điều này sẽ đồng nghĩa với việc nó thay đổi hệ thống chính trị để trở thành một nước dân chủ. Lựa chọn kia là Trung Quốc tự xây dựng lấy hệ thống của riêng mình.”
On the other hand, China's "neocons"—or perhaps they should be called "neo-comms"—like Yang Yi and his colleague Yan Xuetong openly argue that they are using modern thinking to help China realise ancient dreams. Their long-term goal is to see China return to great-power status. Like many Chinese scholars, Yan Xuetong has been studying ancient thought. "Recently I read all these books by ancient Chinese scholars and discovered that these guys are smart—their ideas are much more relevant than most modern international relations theory," he said. The thing that interested him the most was the distinction that ancient Chinese scholars made between two kinds of order: the "Wang" (which literally means "king") and the "Ba" ("overlord"). The "Wang" system was centred on a dominant superpower, but its primacy was based on benign government rather than coercion or territorial expansion. The "Ba" system, on the other hand, was a classic hegemonic system, where the most powerful nation imposed order on its periphery. Yan explains how in ancient times the Chinese operated both systems: "Within Chinese Asia we had a 'Wang' system. Outside, when dealing with 'barbarians,' we had a hegemonic system. That is just like the US today, which adopts a 'Wang' system inside the western club, where it doesn't use military force or employ double standards. On a global scale, however, the US is hegemonic, using military power and employing double standards." According to Yan Xuetong, China will have two options as it becomes more powerful. "It could become part of the western 'Wang' system. But this will mean changing its political system to become a democracy. The other option is for China to build its own system."
Mâu thuẫn giữa các nhà quốc tế khai phóng và các “tân cộng sản” là một biến thể hiện đại của sự phân chia thời Mao giữa hai chính sách đối ngoại tư sản và cách mạng. Trong vòng ít năm tới, Trung Quốc hiển nhiên sẽ thành tư sản. Với đôi chút dè dặt, Trung Quốc đã quyết định tham gia vào nền kinh tế toàn cầu và các định chế quốc tế. Mục đích của Trung Quốc là củng cố những định chế này để kiềm chế Hoa Kỳ và bảo đảm một môi trường hòa bình cho sự phát triển của Trung Quốc. Nhưng trong trường hạn, một số người Trung Quốc vẫn nuôi mộng xây dựng một trật tự thế giới theo hình ảnh của Trung Hoa. Tư tưởng là tránh đối đầu trong khi làm thay đổi thực tiễn về căn bản. Hệt như cách họ đang làm trong chính sách đối nội, người Trung Quốc hy vọng gây dựng nên những túi tiền trong một thực tại luôn đổi thay – như ở châu Phi – nơi các giá trị và chuẩn mực Trung Hoa chứ không phải phương Tây đang ngày càng quyết định tiến trình các sự kiện.
The tension between the liberal internationalists and the neo-comms is a modern variant of the Mao-era split between bourgeois and revolutionary foreign policy. For the next few years, China will be decidedly bourgeois. It has decided—with some reservations—to join the global economy and its institutions. Its goal is to strengthen them in order to pin down the US and secure a peaceful environment for China's development. But in the long term, some Chinese hope to build a global order in China's image. The idea is to avoid confrontation while changing the facts on the ground. Just as they are doing in domestic policy, they hope to build pockets of an alternative reality—as in Africa—where it is Chinese values and norms that increasingly determine the course of events rather than western ones.
Những tác phẩm Tây phương như Liên Âu và NATO – được xác định như một sự “góp gạo thổi cơm chung” thì hơn là những định chế để bảo vệ chủ quyền – có lẽ rồi sẽ có ngày tìm được những kẻ bằng vai phải lứa là khối Cộng đồng Đông Á đang thai nghén và Tổ chức Hợp tác Thượng Hải. Thông qua những tổ chức này, Trung Quốc đang tái cam kết với các lân bang về dụng ý hòa bình của mình và đang tạo ra một cộng đồng lợi ích mới mà ở đó, Hoa Kỳ bị loại ra ngoài. Một cựu quan chức Hoa Kỳ, bà Susan Shirk, đã so sánh nền ngoại giao đa biên của Trung Quốc với nền ngoại giao Hoa Kỳ sau Đệ nhị Thế chiến: “Bằng cách ràng buộc chính mình vào luật lệ và các chế độ quốc tế, Hoa Kỳ đã thiết lập thành công một trật tự bá quyền.”
The western creations of the EU and Nato—defined by the pooling rather than the protecting of sovereignty—may one day find their matches in the embryonic East Asian Community and the Shanghai Co-operation Organisation. Through these organisations, China is reassuring its neighbours of its peaceful intent and creating a new community of interest that excludes the US. The former US official Susan Shirk draws a parallel between China's multilateral diplomacy and her own country's after the second world war: "By binding itself to international rules and regimes, the US successfully established a hegemonic order."
Liên hợp quốc cũng đang trở thành một bộ khuếch đại của thế giới quan Trung Quốc. Không giống như Nga luôn xử sự một cách ngang ngạnh, thích thú với năng lực tự thân công nhiên làm thất bại các kế hoạch của Hoa Kỳ và Liên Âu, Trung Quốc có xu hướng chọn lựa một tư thế hòa giải. Trong thời đoạn chạy đà trước cuộc chiến tranh Iraq, mặc dù chống lại hành động quân sự, Trung Quốc đã để cho Pháp, Đức và Nga đứng đầu phe chống đối. Năm 2005 khi diễn ra cuộc tranh cãi về việc mở rộng Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Trung Quốc đã khuyến khích các quốc gia châu Phi đòi chỗ ngồi của họ, một động thái đã thực sự làm tiêu tan nỗ lực của Nhật Bản muốn kiếm chiếc ghế uỷ viên thường trực. Tương tự, Bắc Kinh đã sẵn sàng để cho Tổ chức Các nước Hồi giáo đầu trò trong việc làm suy yếu Uỷ hội Nhân quyền mới của Liên hợp quốc. Đường lối ngoại giao này đã tỏ ra hiệu quả trong việc góp phần làm suy giảm mạnh ảnh hưởng của Hoa Kỳ: vào năm 1995 Hoa Kỳ từng giành được 50,6 phần trăm phiếu bầu tại Đại Hội đồng; sang năm 2006, con số này tụt xuống chỉ còn 23,6 phần trăm. Về nhân quyền, kết quả thậm chí còn bi đát hơn: tỷ lệ giành điểm của Trung Quốc tăng vọt từ 43 lên 82 phần trăm, trong lúc Hoa Kỳ tụt dốc từ 57 xuống còn 22 phần trăm. James Traub, phóng viên thường trú tại Liên hợp quốc của tờ New York Times, nói: “Hiển nhiên là cho tới nay Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc chỉ có thể vận hành như thể Hoa Kỳ lãnh dạo nó. [Nhưng] châm ngôn này sẽ sớm được áp dụng cho Trung Quốc.”
The UN is also becoming an amplifier of the Chinese worldview. Unlike Russia, which comports itself with a swagger—enjoying its ability to overtly frustrate US and EU plans—China tends to opt for a conciliatory posture. In the run-up to the Iraq war, although China opposed military action, it allowed France, Germany and Russia to lead the opposition to it. In 2005 when there was a debate about enlarging the UN security council, China encouraged African countries to demand their own seat, which effectively killed off Japan's bid for a permanent seat. Equally, Beijing has been willing to allow the Organisation of Islamic States to take the lead in weakening the new UN human rights council. This diplomacy has been effective—contributing to a big fall in US influence: in 1995 the US won 50.6 per cent of the votes in the UN general assembly; by 2006, the figure had fallen to just 23.6 per cent. On human rights, the results are even more dramatic: China's win-rate has rocketed from 43 per cent to 82 per cent, while the US's has tumbled from 57 per cent to 22 per cent. "It's a truism that the security council can function only insofar as the US lets it," says James Traub, UN correspondent of the the New York Times. “The adage may soon be applied to China as well.”
Tranh cãi giữa các trí thức Trung Quốc sẽ tiếp tục hừng hực bên trong các viện tham mưu chính sách, trên báo chí và trong các trường đại học; và nếu về những chủ đề nhạy cảm hơn – trên Internet. Các tư tưởng gia Trung Quốc sẽ còn tiếp tục hành vi của những con quạ khoang trí thức, xào xáo những ý tưởng Tây phương để chúng thích ứng với các mục tiêu của họ, cũng như chôm chỉa có chọn lọc những trí niệm lấy từ chính lịch sử đất nước họ. Một khi dấu ấn toàn cầu của Trung Quốc lớn lên, có thể chúng ta rồi sẽ thấy mình trở nên quen thuộc với các tư tưởng của Trương Duy Nghênh và Uông Huy, của Du Khả Bình và Phan Vĩ, của Diêm Học Thông và Trịnh Tất Kiên như chúng ta đã từng quen với các ý niệm của các học giả Hoa Kỳ trong những thập niên trước đây – từ các nhà kinh tế học thời Reagan những năm 1980 tới những chiến lược gia tân bảo thủ của “kỷ nguyên 11 tháng Chín”.
The debate between Chinese intellectuals will continue to swirl within think tanks, journals and universities and—on more sensitive topics—on the internet. Chinese thinkers will continue to act as intellectual magpies, adapting western ideas to suit their purposes and plundering selectively from China’s own history. As China’s global footprint grows, we may find that we become as familiar with the ideas of Zhang Weiying and Wang Hui, Yu Keping and Pan Wei, Yan Xuetong and Zheng Bijan as we were with those of American thinkers in previous decades; from Reaganite economists in the 1980s to the neoconservative strategists of the 9/11 era.
Trung Quốc không phải là một xã hội cởi mở trí thức. Nhưng sự xuất hiện của tranh luận chính trị tự do hơn, đám đông du sinh trở về sau khi thụ giáo dưới “trời Tây” và những sự kiện quốc tế trọng đại như Thế vận hội đang làm cho nó thoáng đãng hơn. Và nếu như những cuộc thử nghiệm đang được giới lãnh đạo Trung Quốc liên tục tiến hành về những phương pháp mới để điều hành xã hội mà thành công, thì đó sẽ là điều gì đó thật lớn lao, thật kinh khủng và thật thực dụng. Họ đã dùng các đặc khu kinh tế để thử thách triết lý thị trường. Giờ đây họ lại đang kiểm nghiệm cả nghìn ý tưởng khác – từ “dân chủ có thảo luận” tới những liên minh khu vực. Từ cái phòng thí nghiệm xã hội này, một thế giới quan mới đang trồi lên, một thế giới quan có lẽ đã kết tinh vừa đúng lúc vào trong cái mô hình Trung Hoa khả dĩ được chấp nhận – một lối đi khác, phi-Tây-phương cho phần còn lại của thế giới dẫm bước theo.
China is not an intellectually open society. But the emergence of freer political debate, the throng of returning students from the west and huge international events like the Olympics are making it more so. And it is so big, so pragmatic and so desperate to succeed that its leaders are constantly experimenting with new ways of doing things. They used special economic zones to test out a market philosophy. Now they are testing a thousand other ideas—from deliberative democracy to regional alliances. From this laboratory of social experiments, a new world-view is emerging that may in time crystallise into a recognisable Chinese model—an alternative, non-western path for the rest of the world to follow.
Mark Leonard - ( Phạm Toàn dich )
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 18, 2010 4:34:28 GMT 9
G-2 và thế giới lưỡng cực Nguyễn Trường Một hệ lụy của khủng hoảng 2008: Câu lạc bộ G-2 chập chững ra đời Sự trỗi dậy của TQ suốt trong ba thập kỷ vừa qua quả thực rất ấn tượng. Tuy nhiên, những thành phần quốc gia cực đoan ở TQ vẫn chưa mấy vui lòng khi chưa thấy rõ xu thế tuột dốc của Tây phương. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang gặp khó khăn ngay từ các xứ cội nguồn. Âu châu và Nhật Bản đang chìm sâu trong suy thoái và không còn được xem như những đối thủ đáng ngại. Siêu cường Hoa Kỳ đã vượt qua đỉnh điểm. Mặc dù bề ngoài các lãnh đạo TQ còn tránh né tỏ ra đắc thắng, Bắc Kinh cũng đã có vài khẳng định uy thế ngày một quan trọng hơn trong sinh hoạt toàn cầu. Thủ tướng Ôn Gia Bảo không còn thấy cần thiết phải bám víu chiêu bài: TQ chỉ là một tay chơi khiêm tốn trong chính trị thế giới, luôn tập trung vào mục tiêu phát triển kinh tế của chính mình. Họ Ôn bắt đầu nói rõ, TQ là một đại cường và tỏ bày âu lo 1.000 tỉ USD đầu tư của TQ đang lâm nguy vì lối tiêu pha hoang phí của người Mỹ. Ông cũng bác bỏ những nhận xét thiếu thận trọng của Timothy F. Geithner, tân bộ trưởng Ngân Khố Hoa Kỳ, về việc TQ đang nhào nặn hối suất đồng nhân dân tệ như những lời tuyên bố lố bịch. Ngoại trưởng Hillary Clinton, tỏ ra biết điều hơn, đã được Bắc Kinh tiếp đón đúng nghi thức ngoại giao, nhưng cũng chỉ như một đối tác đồng vai vế. Tháng 3-2009, một cuộc đối đầu hàng hải cỡ nhỏ rõ ràng đã được giàn dựng với một tàu do thám Hoa Kỳ ở Nam Hải. Dù sao, người Mỹ còn được quan tâm. Người Âu chẳng còn được lưu ý: một cuộc gặp gở thượng đỉnh với Liên Hiệp Âu châu (EU) bị hủy bỏ và nước Pháp còn bị cho vào sổ đen vì Nicolas Sarkozy đã dám tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma khi đang giữ chức Chủ Tịch EU. Ngoài ra, một ý tưởng lớn khác cũng đã được phổ biến trên toàn cầu: từ nay địa chính trị chỉ là một sinh hoạt lưỡng cực, với Hoa Kỳ và TQ là hai tay chơi chính. Nghị trình hội nghị ngày 2-4-2009 ở Luân Đôn không phải là sự gặp mặt của nhóm G-20, mà là cuộc họp thượng đỉnh G-2 giữa T T Barack Obama và Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào. Điều nầy đã gây lo ngại chẳng những cho người Âu, vừa thoát khỏi chính trị đơn cực của George W. Bush lại phải đối đầu với thế lưỡng cực của hai siêu cường Thái Bình Dương, mà cả cho Nhật Bản, nước luôn e ngại những đối thủ ở lục địa Á châu. Đó cũng là điều hình như đã tác động đến Hoa Thịnh Đốn, nơi lưỡng viện Quốc Hội đang bị ám ảnh bởi các đối tác láng giềng đang có khuynh hướng bảo vệ mậu dịch. Giới Hạn và Tiềm năng Trước khi sự âu lo lan tràn, tưởng cần phải ghi nhận bên cạnh cái thế mạnh, sự khẳng định uy thế mới của TQ đồng thời cũng phản ảnh khía cạnh tiêu cực của chính TQ. Như chính Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đã thú nhận, TQ vẫn còn là một xứ nghèo nàn, đang đối diện một năm khó khăn sóng gió nhất của thế kỷ mới. Một ước tính gần đây về số công ăn việc làm bị thất thoát - lối 20 triệu - cũng đủ nói lên tầm cỡ của vấn đề. Ngân Hàng Thế Giới (WB) đã dự phóng tỉ suất phát triển của TQ xuống còn 6,5% trong năm 2009. Đây vẫn là một tỉ suất khá cao so với các xứ khác, nhưng đối với người Hoa đã quen với tỉ suất trên 10%, tỉ suất năm 2009 chẳng mấy khác một thoái trào. Đã có hàng chục nghìn cuộc xuống đường phản đối hàng năm: nông dân có ruộng đất bị giải tỏa vì nhu cầu phát triển; công nhân mất việc làm; những nạn nhân của tình trạng ô nhiễm môi sinh. Ngay cả trong trường hợp TQ, như một phép lạ, thành đạt được tỉ suất phát triển chính thức 8% năm 2009, các xáo trộn xã hội - biểu tình, khiếu kiện...- chắc chắn ngày một tệ hại hơn. Thay vì đầy tự tin, TQ sẽ trải nghiệm một cuộc tranh luận gay gắt về hệ thống kinh tế, cũng như mô hình một đại cường nên theo đuổi. Đã hẳn đây là cuộc tranh luận chính quyền chẳng mấy ưa thích. Trong năm nay, nhà cầm quyền đã giản lược phiên họp thường lệ hàng năm của Quốc Hội Nhân Dân (National People's Congress - NPC) xuống cấp thảo luận kín và các diễn đàn internet. Cánh hữu đòi hỏi tự do cởi mở nhiều hơn luôn bị nghi ngờ tránh né. Nhưng cấp lãnh đạo TQ cũng phải đối diện với những chỉ trích từ các phần tử bất đồng chính kiến cánh quốc gia tả phái, xem nạn suy thoái như một cơ may để chận đứng các cải cách theo hướng thị trường trong quốc nội và để TQ khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Một TQ giận dữ có thể trở thành bài ngoại, nhưng không phải tất cả các mục tiêu lý tưởng các phần tử quốc gia tả khuynh theo đuổi đều nguy hiểm: chẳng hạn việc đòi hỏi chính quyền cung cấp các dịch vụ công cộng và một mạng lưới an sinh xã hội thiết yếu. Nói một cách khác, TQ đang ở trong một vị thế chênh vênh hơn là người Tây phương thường nghĩ. Thế giới chưa phải đang ở trong trạng thái lưỡng cực, và có thể sẽ không bao giờ như thế. Liên Hiệp Âu Châu, mặc dù chưa hoàn hảo và nhất trí, vẫn là đơn vị kinh tế lớn nhất thế giới. Về dân số, Ấn Độ có thể sẽ qua mặt TQ. Tuy nhiên, điều đó không làm mờ nhạt một sự thật là uy thế tương đối của TQ rõ rệt ngày một gia tăng - và Tây phương cũng như TQ cần phải thích ứng với thách thức ngày một nổi cộm đó. Đối với T T Barack Obama, thực tế vừa nói đòi hỏi phải thực thi một chiến lược quân bình khó khăn. Trong trường kỳ, nếu Obama không thành công trong việc lôi cuốn TQ, Ấn Độ, và Ba Tây, vào hệ thống tự do đa quốc gia trước khi mãn nhiệm kỳ, các sử gia có thể phán xét ông đã thất bại. Trong đoản kỳ, Obama cần buộc TQ phải thực thi các hứa hẹn và lên án khi họ thất hứa. Theo vài nhà quan sát Tây phương, khi viếng thăm TQ, ngoại trưởng Hillary Clinton lẽ ra đã phải cứng rắn với TQ về Tây Tạng và nhân quyền. Câu lạc bộ G-20 là cơ hội đem lại cho TQ một vai trò trách nhiệm trong quá trình hình thành những quyết định toàn cầu lớn lao hơn nhiều so với các câu lạc bộ G-7 và G-8. Và đó cũng là cơ hội để TQ chứng tỏ khả năng hành xử ảnh hưởng mới của mình một cách trách nhiệm. Thành Tích Một Đại Cường Thành tích của TQ như một công dân quốc tế hàng đầu quả thật khá nghèo nàn. Trong bảng liệt kê những vấn đề nổi cộm từ Iran cho đến Sudan, TQ đã sử dụng thế mạnh địa chính trị, địa vị một thành viên thường trực Hội Đồng Bảo An LHQ, của mình, để cản trở mọi tiến bộ, núp sau chiêu bài không muốn can thiệp vào nội tình các xứ thành viên khác. Tuy nhiên, đối với những vấn đề đòi hỏi phải hành động tức khắc, như kinh tế toàn cầu, cơ hội hành động hình như tương đối đã được mở rộng. Trong suốt một phần tư thế kỷ vừa qua, TQ là nước được hưởng lợi nhiều nhất từ toàn cầu hóa. Hàng trăm triệu người Hoa đã thoát khỏi tình trạng đói nghèo và đã lọt vào tầng lớp trung lưu. Trong quá trình đó, TQ luôn giữ thái độ bất hợp tác. TQ đã cản trở mọi vòng đám phán mậu dịch. Cuộc họp thượng đỉnh của nhóm G-20 hồi đầu tháng 4-2009 đã đem lại cho TQ một cơ hội để thay đổi thái độ. Tại hội nghị, TQ đã được yêu cầu giúp thêm tài nguyên cho IMF để Quỹ nầy có đủ phương tiện cứu trợ các xứ đang phát triển bị ảnh hưởng nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chánh 2008, nhất là các xứ Đông Âu. Một số lãnh đạo ở Bắc Kinh, ngược lại, chỉ muốn phớt lờ IMF, bởi lẽ IMF có thể giúp các xứ nguyên Cộng Sản nhưng nay lại có lập trường chống đối TQ. Vượt lên trên những thái độ chống đối nhỏ nhen để đóng góp phần mình, tự nó, chỉ là một bước nhỏ. Nhưng đó sẽ là một dấu hiệu TQ đã trưởng thành trong vai trò một đại cường. Cờ Đã Đến Tay Trong một cuộc hội thảo tại diễn đàn Maoflag ở Bắc Kinh, ngồi trước bức ảnh lớn của Chủ Tịch Mao Trạch Đông lúc còn trẻ, Zhang Hongliang hiểu rõ cần phải nói những gì trước một cử tọa có tinh thần quốc gia và khinh thường những phần tử hữu khuynh. Họ đang chen chúc và thích nghe nghe thuyết giảng về mối đe dọa của đế quốc Mỹ và cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay với hệ lụy đối vói các xứ Tây phương và TQ. Họ Zhang thao thao bất tuyệt - từ ca tụng Mao; miệt thị Mỹ (thiếu bề dày lịch sử, thiếu văn hóa...); cảnh báo hiểm họa da trắng; cuộc khủng hoảng kinh tế hiện nay hoàn toàn do lỗi Tây phương, và khi cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng, Tây phương lại chỉ trích TQ; nay đã đến lúc TQ phải chế tạo một hàng không mẫu hạm; đến Chiến tranh với Mỹ là một việc chỉ gây hại, một việc làm "lose-lose", nhưng TQ cũng không nên quá e sợ. Phe tả ở TQ ngày một hiếu động khi nhịp tăng trưởng kinh tế toàn cầu trì trệ. Họ Zhang thuộc nhóm cực tả ngoại vi luôn say sưa với lý tưởng bình đẳng kiểu Mao, với quyền sở hữu của Nhà Nước, với lòng tin Hoa Kỳ là kẻ thù. Cuộc hội thảo của Zhang đã được tổ chức bởi phe quốc gia, đầy nhiệt huyết, với những chiêu bài Cộng Sản, với niềm tin TQ là nạn nhân và luôn sẵn sàng để rửa hận. Thành phần tham dự những diễn đàn nầy thường hăng say với lễ mừng sinh nhật của Mao Chủ Tịch trong khắp TQ trong khi chính quyền TQ lại chẳng thích những lễ lược tự phát kiểu nầy. Rất ít ai muốn gợi ý một sự trở lại chính quyền của phe Maoists cực đoan. Tuy nhiên, tinh thần quốc gia của họ lôi cuốn được quần chúng. Nhìn ra thế giới bên ngoài, với phương Tây đang chìm đắm trong biến động tài chánh, và các lãnh đạo Tây phương đang thèm khát sự trợ giúp của một TQ đầy ngập thanh khoản, TQ thấy mình đang đứng trước nhiều cơ hội mang tính chiến lược. Ngay cả trước khi khủng hoảng tài chánh bắt đầu trong năm 2008, chủ nghĩa quốc gia ở TQ đã sôi sục. Người ta thấy rõ hiện tượng nầy trong phản ứng của người dân TQ trước các biến động ở Tây Tạng, trước sự hỗ trợ của Tây Phương đối với đức Đạt Lai Lạt Ma, và trước sự thành công của TQ trong thế vận hội Bắc Kinh tháng 8-2008. Giờ đây, một Tây Phương tơi tả đã trở thành mục tiêu trời cho để TQ có thể biểu lộ thái độ khinh miệt câm nín từ lâu. Ngay cả chính quyền TQ, vốn rất cẩn trọng, cũng bắt đầu tỏ dấu hiệu sẵn sàng sử dụng uy lực của mình trên trường quốc tế. Trong phần lớn hai thập kỷ vừa qua - ngoại trừ vài lần cọ xát với Đài Loan năm 1995-96 và với Hoa Kỳ năm 2001, TQ luôn theo đuổi một chính sách thận trọng trong sinh hoạt quốc tế. Đường lối của TQ có thể tóm tắt trong bốn câu ngắn gọn điều hướng tư duy các nhà làm chính sách. Chính cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình là tác giả của đường lối nầy: TQ nên giữ một hình ảnh khiêm tốn, từ chối vai trò lãnh đạo, kiên nhẫn tập trung vào nỗ lực phát triển, và che giấu khả năng của mình. Ngày nay, với khủng hoảng kinh tế toàn cầu và Tây Phương rõ ràng suy yếu, giới lãnh đạo thấy cần xét lại. Tuy vậy, lãnh đạo TQ vẫn luôn tìm cách trấn an thế giới bên ngoài. Nhân chuyến công du vào cuối tháng giêng và đầu tháng 2-2009, trong một cuộc nói chuyện tại Đại Học Cambridge (khi một sinh viên phản đối gốc Đức ném một chiếc giày về phía ông), Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đã nhấn mạnh: sự phát triển của TQ không là một đe dọa đối với bất cứ ai. TQ là một đại cường yêu chuộng hòa bình và luôn có thái độ hợp tác.[1] Vài nhà ngoại giao nhạy cảm nước ngoài đã tỏ ra ngạc nhiên trước cụm từ "đại cường" (great power); nhưng đó chính là cụm từ Ôn Gia Bảo đã từng dùng ngay cả trước khi có cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay. Tuy vậy, để tránh làm phật lòng người nước ngoài, bản dịch tiếng Anh được thông tấn xã Xinhua phân phối sau đó, đã thay vào từ "xứ" (country). Tuy nhiên, về vấn đề Tây Tạng, TQ luôn giữ vững lập trường. Sau khi nhượng bộ chút ít trước áp lực công luận Tây phương trong năm 2008 khi phải chấp thuận ba vòng đàm thoại với các đại diện của đức Đạt Lai Lạt Ma, TQ đã trở lại lập trường cũ. Thực vậy, sau những xáo trộn trong tháng 3-2008, nhà cầm quyền TQ đã phát động một cuộc bố ráp quy mô nhằm ngăn ngừa những làn sóng phản đối của người Tây Tạng nhân ngày kỷ niệm thứ 50 cuộc nổi dậy, một biến cố đã đưa đến sự kiện lưu vong của đức Đạt Lai Lạt Ma ở Ấn Độ. Trong dịp nầy, không một nhà báo ngoại quốc nào đước phép đến Tây Tạng. Tháng 2-2009, TQ tiếp đón nồng hậu ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton. Lần nầy, TQ đã có đủ lý do để tự hào: một quan chức quan trọng của Hoa Kỳ rõ ràng đã phải đến TQ cầu viện. Hillary Clinton - có lần đã khoe, trong một chuyến thăm Bắc Kinh năm 1995, bà đã đặt nặng vấn đề nhân quyền - giờ đây đã phải nói rõ: thành tích nhân quyền không mấy tốt cũa TQ không thể gây trở ngại cho việc hợp tác giải quyết khủng hoảng tài chánh và hiện tượng hâm nóng toàn cầu. Zhang Hongliang tại cuộc hội thảo Maoflag chắc hẵn đã lấy làm khoái chí trước giọng điệu mềm dẻo mới của Hillary. Hai tuần sau ngày Ngoại Trưởng Clinton rời Bắc Kinh, hải thuyền TQ đã quấy nhiễu một tàu biển không vũ trang của Mỹ, chiếc Impeccable, trong vùng biển Nam Hải. Tàu Impeccable, lúc đó, đang ở một vị trí chỉ cách xa bờ biển TQ khoảng 120 cây số và có lẽ đang dò tìm tàu ngầm TQ. Mặc dù TQ đã nhiều lần phản đối, hải quân Mỹ vẫn thường hoạt động trong hải phận quốc tế ngoài khơi TQ để theo dỏi các hoạt động quân sự. Lần nầy, tàu TQ đã phản ứng mạnh mẽ hơn: bao vây tàu Impeccable, và tìm cách chận đường rút lui. Sau đó, người Mỹ đã gửi tới một tuần dương hạm có trang bị hỏa tiễn để bảo vệ chiếc Impeccable. TQ rõ ràng muốn tránh đi quá xa trong nội vụ, có lẽ e ngại có thể gây ra một khủng hoảng lớn trong quan hệ Mỹ-Hoa như đã xẩy ra năm 2001 khi một chiến đấu cơ phản lực TQ đâm vào một phi cơ do thám Mỹ và buộc phi cơ nầy phải đáp xuống một căn cứ không quân TQ. Phi hành đoàn Mỹ bị giữ 11 ngày. Lần nầy, TQ chỉ gửi một tàu tuần ngư (không thể đối đầu với một tuần dương hạm có trang bị hỏa tiễn) đến trong vùng. Tuy nhiên, theo Shi Yinhong, thuộc Đại Học Renmin, biến cố nầy là dấu hiệu của một thái độ cứng rắn của TQ đối với phương Tây. Mặc dù TQ có thể muốn tránh chạm trán với Hoa Kỳ, nhưng Âu châu là một chuyện khác. Quyết định đột ngột hủy bỏ phiên họp thượng đỉnh với EU dự trù vào tháng 12-2008, cho thấy, ngay giữa cuộc khủng hoảng toàn cầu, TQ vẫn sẵn sàng phản ứng mạnh đối với các lãnh đạo của đối tác thương mãi lớn nhất của mình. Lý do: T T Pháp Nicolas Sarkozy đã dám tiếp đức Đạt Lai Lạt Ma khi đang giữ chức chủ tịch EU. EU và TQ đã đồng ý lên lịch cuộc họp thượng đỉnh trở lại vào cuối năm nay, nhưng T T Sarkozy vẫn chưa được tha thứ. Ôn Gia Bảo đã tránh mặt Tổng Thống Pháp trong chuyến công du Âu châu mới đây. Họ Ôn cho biết: trên phi cơ tôi đã nhìn lại bản đồ Âu châu. Chuyến công du của tôi sẽ diễn ra chung quanh nước Pháp.[2] Điều đó chưa có nghĩa lời khuyên của cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình đã bị rủ bỏ. TQ đã phản ứng lạnh nhạt đối với đề nghị hai đại cường, TQ và Mỹ hay Nhóm G-2, nên cùng nhau tìm một giải pháp chung cho các vấn đề kinh tế thế giới. Fred Bersgsten, thuộc Viện Kinh Tế Thế Giới, đã đưa ra ý tưởng nầy trong bài viết trên tạp chí Foreign Affairs số tháng 7-2008. Ông lập luận: TQ vẫn tiếp tục hành động như một nước nhỏ với ít tác động trên hệ thống toàn cầu nói chung, và vì vậy, rất ít trách nhiệm với hệ thống.[3] Theo Bergsten, ngay từ trước cuộc khủng hoảng hiện nay, TQ đã thách thức ngày một mạnh mẽ và rõ ràng hơn các quy luật và định chế quốc tế: cản trở các bước tiến trong vòng đàm phán Doha về thương mãi toàn cầu, giúp đỡ các nước ngoài không đếm xỉa đến nhân quyền hay môi trường, và từ chối chấp nhận một chính sách hối đoái mềm dẻo. Bergsten đề nghị: tốt nhất TQ và Hoa Kỳ nên làm việc với nhau như Nhóm G-2, nhằm cung cấp một sự lãnh đạo chung cho hệ thống kinh tế toàn cầu. Robert Zoellick, chủ tịch World Bank, và kinh tế trưởng Justin Yifu Lin, trong bài viết đăng trên báo Washington Post ngày 6-3-2009, đã ủng hộ ý tưởng G-2. Mặc dù không nhắc lại lời công kích của Bergsten về thái độ bướng bỉnh của TQ, cả hai đồng ý: "không có một G-2 mạnh mẽ, Nhóm G-20 sẽ chẳng làm được gì"[4]. Tuy nhiên, vài quan chức TQ cho đó là một bẫy sập. Theo Liaowang, một tạp chí do Xinhua xuất bản, các học giả TQ tin ý tưởng G-2 "sẽ có hại thay vì hữu ích"[5]. Hoa Kỳ chẳng bao giờ chịu nhường quyền kiểm soát trật tự thế giới, và trong mọi trường hợp, TQ cũng không bao giờ muốn tìm cách hành xử bá quyền. Đã hẳn TQ luôn vun quén uy thế toàn cầu ngày một gia tăng của mình. Như một nhà ngoại giao Tây phương nhận xét, cuộc gặp mặt giữa Tổng Thống Barack Obama và Chủ Tịch TQ Hồ Cẩm Đào bên lề hội nghị thượng đỉnh Luân Đôn ngày 2-4-2009 sẽ quan trọng hơn chính hội nghị thượng đỉnh G-20 nhiều. TQ đã làm lu mờ Hội Nghị Thượng Đỉnh Nhóm G-20 vừa qua khi, ngay trước ngày 2-4-2009, đã cho công bố gói kích cầu 4.000 tỉ đồng yuan (US$565 tỉ). Theo tin đồn, TQ còn sẵn sàng để công bố tiếp một gói kích cầu tương tự. Điều nầy sẽ làm vừa lòng mọi người. Tuy nhiên, TQ vẫn chưa tìm cách truất ngôi của Hoa Kỳ. Trong hiện tình, TQ chỉ tập trung vận động giành một tiếng nói ngày một nặng ký hơn cho chính mình và các nước đang phát triển trong IMF, nơi đã hẳn Hoa Kỳ luôn giữ quyền phủ quyết. Nhưng TQ cũng chưa muốn đòi quyền phủ quyết cho riêng mình. Tại cuộc họp báo ngày 13-3-2009, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo tránh không nói rõ ngạch số TQ đồng ý cấp thêm cho IMF để nâng cao khả năng đối phó với khủng hoảng tài chánh. Số tiền hổ trợ, theo nhận xét của các nhà ngoại giao, sẽ tùy thuộc ở trọng lượng TQ giành được cho tiếng nói của mình trong IMF. Một bài viết trên nhật báo chính thức China Daily ngày 17-3-2009 đã đăng lời của kinh tế gia thẩm quyền Yu Yongding: TQ không nên hổ trợ nhiều cho IMF - nhất là vì một vài xứ trên danh sách cần được cứu trợ từ Âu châu đang có thái độ thù nghịch đối với TQ. Đầu Tư Có Điều Kiện Vào Hoa Kỳ Một số bình luận gia và học giả TQ gần đây thường trao đổi những viễn kiến mang tính cực đoan là liệu TQ có nên phát huy ảnh hưởng chiến lược của mình nhân cuộc khủng hoảng hiện nay. Một bài viết gần đây trên nhật báo Economic Reference, do một viện nghiên cứu chiến lược của chính quyền xuất bản, phản ảnh những nhận thức của TQ trong địa hạt nầy: cuộc khủng hoảng đang làm suy yếu uy thế kinh tế, chính trị, quân sự và ngoại giao của các xứ phát triển. Sự kiện nầy đang tạo ra một cơ hội lịch sử giúp TQ củng cố địa vị của mình. TQ nên xuất khẩu tư bản đầu tư vào các quốc gia vùng Đông Nam Á, giúp củng cố kinh tế các xứ nầy. Như vậy, TQ có thể giúp ngăn ngừa các xáo động chính trị và giành được ảnh hưởng chiến lược trong vùng. Cũng theo gợi ý của bài viết, TQ nên đầu tư vào các doanh nghiệp Mỹ nhằm học hỏi tri thức kỹ thuật tân tiến (sophisticated know-how). Nếu chính quyền Mỹ chống đối, "chính quyền TQ tuyệt đối có thể sử dụng số mỹ kim tiết kiệm của mình như một đòn bẫy thương nghị buộc người Mỹ phải chấp thuận sự tậu mãi của TQ".[6] Nhiều nhà ngoại giao cho biết, nhiều viên chức TQ cấp thấp cũng đã đe dọa: TQ rất có thể tung các trái phiếu ngân khố Hoa Kỳ ra bán nếu Hoa Thịnh Đốn chọc giận TQ về Tây Tạng; một cuộc tiếp kiến Obama dành cho đức Đat Lai Lạt Ma, chẳng hạn, cũng có thể gây ra phản ứng tương tự. Ít ai tin TQ có thể thực sự áp dụng một chiến thuật tự tác hại như vậy, nhưng chỉ việc tung ra những quan điểm như thế cũng cho thấy một vài quan chức đang bộc lộ một sự tự tin mang tính đe dọa. Sự kiện TQ quyết định, ngày 18-3-2009, sử dụng luật chống độc quyền để chặn đứng dự án thủ đắc công ty sản xuất nước ngọt Huiyuan của TQ với giá 2,4 tỉ USD của hãng Coca-Cola, cũng được vài nhà quan sát Hoa Kỳ xem như bằng chứng của thái độ vừa nói. Sự tự tin nầy cũng lộ rõ trong một chuyến công du châu Mỹ La Tinh của Phó Chủ Tịch Xi Jinping trong tháng 2-2009. Tại một cuộc gặp mặt Hoa Kiều hải ngoại ở Mexico, PCT Xi Jinping, người được nhiều người xem sẽ thay thế Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào trong tương lai, đã kết án những người nước ngoài ăn no rửng mỡ không biết làm gì hơn là chỉ trích TQ.[7] Họ Xi nói, nước ông không xuất khẩu cách mạng hay nghèo đói hay xen vào chuyện nội bộ các nước ngoài, như vậy, còn gì khác để nói nữa? Các bạn bè của ông, ngoại giao hơn, nghĩ đây là những lời lẽ hơi quá đáng; mặc dù các websites, nặng tính quốc gia chủ nghĩa, cực kỳ vui thích, các phương tiện truyền thông quốc nội đều không được phép đăng tải. Các nhà lãnh đạo TQ luôn làm mọi cách để tránh gieo ấn tượng là TQ không nhất quyết theo đuổi chủ nghĩa tư bản thị trường (mặc dù với sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà Nước). Nhưng kinh tế TQ đang trải qua nhiều xáo trộn. Chính quyền ước lượng khoảng 20 triệu nhân công du cư bị mất việc khi các kỹ nghệ dùng nhiều lao động chế tạo các sản phẩm rẻ tiền để xuất khẩu đã phải đóng cửa. Nhân viên văn phòng cũng bắt đầu bị ảnh hưởng. Một số đang bị sa thải và nhiều người khác bị cắt giảm tiền lương và tiền thưởng. Các lãnh đạo TQ vẫn tuyên bố mức tăng trưởng chính thức có thể đạt 8% năm 2009, tụt từ 9% năm 2008; WB, với dự báo ở tỉ suất 6,5%, vẫn ghi nhận TQ là nước tương đối sáng sủa trong một nền kinh tế toàn cầu ảm đạm.[8] Tuy vậy, thời đại hoàng kim đã thực sự chấm dứt. Vẫn Còn Là Đồ Đệ Của Adam Smith Trong suốt cuộc khủng hoảng, giới lãnh đạo TQ luôn cảnh báo nguy cơ của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch - hiểu rõ thương mãi với phương Tây vẫn giữ vai trò sinh tử. Đáng buồn cho phe tả trên các websites, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo luôn ca tụng Adam Smith trong các diễn văn và các cuộc họp báo. Đến Luân Đôn, ông còn tiết lộ với tờ Financial Times, ông luôn mang theo trong hành lý cuốn The Theory of Moral Sentiments của Smith. Theo giải thích của Ôn Gia Bảo, một thông điệp quan trọng của cuốn sách là kết quả của phát triển kinh tế không được chia sẻ cho mọi người, đó là điểm thiếu lành mạnh về phương diện đạo đức, cũng như một đe dọa cho ổn định xã hội. Cách nhìn nầy được sự đồng tình mạnh mẽ của nhiều người Hoa, luôn bất bình và chua xót bởi tình trạng phân phối quá bất đồng đều thành quả của quá trình phát triển nhanh chóng của TQ. Giới lãnh đạo TQ có thể được nhân dân trong nước nhiệt liệt tán thưởng khi can đảm đối đầu với các đối tác nước ngoài. Tuy nhiên họ hiểu rất rõ họ rất dễ bị chỉ trích đã không làm đủ để giúp đỡ các nạn nhân của suy thoái kinh tế. Khi nhấn mạnh khía cạnh triết lý nầy của Adam Smith, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo muốn được người dân hiểu là ông luôn lo nghĩ đến số phận của họ và chăm lo cho họ. Tuy nhiên họ Ôn cũng không muốn bị quấy rối bởi cùng một cuộc tranh luận đang đè nặng lên chính quyền các xứ Tây phương về phương cách đối phó với cuộc khủng hoảng. Cuộc họp thường niên của Quốc Hội TQ trong tháng ba chỉ được triệu tập trong 9 ngày thay vì hai tuần như thường lệ. Mặc dù ngay cả các hãng thông tấn chính thức muốn có nhiều chi tiết về các kế hoạch chi tiêu, nghị trình do chính quyền quyết định lại cho thấy quá ít chi tiết một cách đáng ngạc nhiên. Chủ tịch Quốc Hội, Wu Bangguo, lợi dụng cơ hội để dài dòng chỉ trích hình thức dân chủ Tây phương. Họ Wu nói với các đại biểu: Lãnh Đạo Đảng chỉ có thể tăng cường và không vì lý do gì giảm bớt. Sở dĩ Wu Bangguo bị khích động như vậy, có lẽ bên trong TQ đã có nhiều tiếng nói có trọng lượng đưa ra luận điệu trái ngược. Nhưng rất ít chi tiết mới về các biện pháp kích cầu được tiết lộ trước Quốc Hội. Chính quyền chỉ cho biết, một chương trình chi tiêu khổng lồ riêng cho cải cách y tế (850 tỉ yuan trong 3 năm) sẽ được hoàn tất sau phiên họp QH. Để xoa dịu âu lo của quần chúng, chính quyền cũng tiết lộ chi tiêu cho các dự án an sinh sẽ tăng từ 1% lên 4% gói kích cầu. Chi tiêu về hạ tầng cơ sở sẽ giảm bớt từ 45% xuống còn 38%. Chi tiêu cho các đề án môi trường cũng bị cắt giảm từ 9% xuống còn 5%. Ngân khoản dành cho các chương trình xanh cũng rõ rệt sụt giảm. Dù sao, cánh tả vẫn có lý do để hoan hỹ. Các xí nghiệp quốc doanh là nhóm ưu đãi, được dành một phần kếch sù trong gói kích cầu. Nhưng các kinh tế gia hữu khuynh ở TQ lo lắng tập đoàn các ngân hàng và xí nghiệp quốc doanh sẽ chia nhau chiến lợi phẩm, gạt ra ngoài các xí nghiệp tư nhân cỡ nhỏ và cỡ trung. Họ cũng âu lo các cải cách có thể khựng lại. Viện Cải Cách và Phát Triển TQ, một viện nghiên cứu chiến lược hữu khuynh quan trọng vừa mới xuất bản một phúc trình 171 trang, nhan đề"The International Financial Crisis Challenges Reforms in China"(Khủng Hoảng Tài Chánh Thế Giới Đang Thách Thức Những Cải Cách ở TQ). Phúc trình mô tả khủng hoảng kinh tế như vấn đề lớn nhất TQ đã phải đối diện trong lịch sử 30 năm đổi mới và cải cách ( thực ra, TQ cũng đã đối diện một vài khủng hoảng lớn khác: Khủng hoảng Thiên An Môn 1989, Khủng Hoảng Tài Chánh Á Châu 1997-98, và khủng hoảng tái cấu trúc các doanh nghiệp Nhà Nước sở hữu khiến hàng triệu người thất nghiệp). Bản phúc trình kết luận, nếu không tiếp tục các biện pháp cải cách theo hướng thị trường, biện pháp kích cầu không những sẽ không thành đạt được mục tiêu mà sẽ còn tích lũy hoặc kéo dài các khó khăn dài hạn. Bản phúc trình còn liệt kê các thay đổi cần được thực hiện: các biện pháp kiểm soát giá điện nước và các độc quyền nhà nước đối với các kỹ nghệ như viễn thông,đường sắt, và hàng không. Phúc trình cũng đòi hỏi các cải cách tài chánh cấp tốc như khuyến khích phát triển các định chế tài chánh tư, buông lỏng lãi suất và thả nổi đồng nhân dân tệ. Ngay sau khi phiên họp Quốc Hội thường niên vừa bế mạc ngày 13-3-2009, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo tuyên bố, để đối phó với khủng hoảng, TQ nên đẩy mạnh cải cách, nên để cơ chế thị trường phân bổ các tài nguyên, và nên khuyến khích phát triển khu vực tư. Ông c̣n nói tiếp, chính quyền cũng cần phải tiếp tục các biện pháp cải cách chính trị để bảo đảm các quyền tư do của công dân. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng kinh tế đã khiến các quan chức nhà nước bớt hứng khởi thực hiện các đổi thay vừa kể. Nhiều người giờ đây lại tin, vai trò lớn lao của chính quyền trong nền kinh tế và hệ thống độc đảng của TQ không là một trở lực mà là một yếu tố mang tính tích cực, một động lực. Rất có thể khi cuộc khủng hoảng trở nên trầm trọng, chính quyền sẽ thận trọng hơn trong chính sách đối nội. Nhưng nếu chính sách bảo vệ mậu dịch gia tăng ở các xứ phương Tây, những thành phần có tinh thần quốc gia ở TQ sẽ có khuynh hướng đòi hỏi chính quyền phải theo đuổi những chính sách đối ngoại cứng rắn hơn. Trong cuốn Unhappy China, xuất bản ở TQ tháng 3-2009, các tác giả muốn khai thác sự bất bình rộng lớn trong quần chúng đối với phương Tây. Một trong những bài viết lập luận, cuộc khủng hoảng tài chánh rất có thể sẽ khiến các xứ Tây phương ganh tức gây chiến với TQ để làm suy yếu xứ sở họ. Rất ít người TQ quá bi quan như thế. Một trong số tác giả cho biết chính quyền rất âu lo loại sách nầy có thể nhen nhúm sự nghi ngờ ở phương Tây về hiểm họa TQ. Nhà xuất bản đã loại bỏ phần nói về việc Ấn Độ đã sáp nhập vùng Sikkim năm 1975 vì e ngại làm phật lòng Ấn. TQ muốn trở thành đại cường số một, nhưng muốn thành đạt địa vị đó mà không phải gây ra những kẻ thù quan trọng. Trong mọi trường hợp, khủng hoảng 2008 đã đem lại những điều kiện thuận lợi cho sự chập chững ra đời của ý tưởng G-2. Nước Mỹ, trên đà xuống dốc và dưới sự lãnh đạo của T T Barack Obama, hình như đã thấm thía giới hạn của chủ nghĩa đế quốc và siêu cường duy nhất trong thế kỷ 21, và từ đó, đã khởi sự kiềm hãm phần nào tham vọng toàn cầu của chính mình. TQ, trên đà đi lên và dưới quyền lãnh đạo của Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào, liệu có học được gì quý giá từ kinh nghiệm lịch sử của các đế quốc đi trước cũng như từ bài học dạy cho người Việt Nam năm 1979 của chính mình, để chọn một mẫu siêu cường xứng đáng được theo đuổi. Xin hãy cùng chờ xem! GS Nguyễn Trường Irvine, CA, USA 30-4-2009 CHÚ THÍCH: Tư liệu dùng trong bài được lấy từ Tạp Chí The Economist. [1] China's development was no threat to anyone. It would be a peaceful and cooperative great power. [2] I look at a map of Europe on the plane. My trip goes around France. [3] China was continuing to act like a small country with little impact on the global system at large and therefore little responsibility for it. [4] Without a strong G-2, the GH-20 will disappoint. [5] The idea "would do harm rather than good". [6] ...the Chinese government absolutely can use its American dollar savings as a bargaining chip to force the American government to agree to China's acquisitions. [7] ..."well-fed foreigners with nothing better to do" of "pointing fingers" at China. [8] ...a bright spot in an otherwise gloomy global economy.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 7:59:39 GMT 9
Quan hệ Trung - Việt qua Nhật ký của Lý Bằng Dương Danh Dy sưu tầm và giới thiệu Năm 1989Ngày 26 tháng 8, thứ bẩy Hôm nay Việt Nam tuyên bố đã "rút hết quân đội" khỏi Cămpuchia. Việc này tạo điều kiện thuận lợi giải quyết vấn đề Cămpuchia, cũng vì bình thường hóa quan hệ Trung Việt quét sạch cản trở. Hội nghị Thành Đô - bước ngoặt của quan hệ Trung Việt Năm 1990Ngày 6 tháng 6, thứ tư, trời nắng Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh hội kiến đại sứ Trương Đức Duy tại Bộ Quốc phòng Việt Nam. Nguyễn hy vọng thực hiện bình thường hóa hai nước, hai đảng, đồng thời hy vọng thăm Trung Quốc sớm. Ngày 26 tháng 8, chủ nhật, trời tối sầm và đổ mưa Về việc mấy người lãnh đạo chủ yếu phía Việt Nam như Nguyễn Văn Linh v.v... tới Trung Quốc thăm nội bộ, tôi đã nói với đồng chí Giang Trạch Dân, đồng chí biểu thị hoàn toàn tán thành. Ngày 27 tháng 8, thứ hai, trời mưa Về việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi sẽ hội kiến Nguyễn Văn Linh, tôi đã báo cáo đồng chí Đặng Tiểu Bình. Xét thấy Á vận hội sắp cử hành tại Bắc Kinh, mà lần gặp gỡ này liên quan đến bình thường hóa quan hệ hai nước, một công việc trọng đại, để tiện bảo mật, dự định thu xếp địa điểm hội đàm tại Thành Đô. Ngày 30 tháng 8, thứ năm, trời nắng Việc đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đi Thành Đô hội đàm nội bộ với Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Đỗ Mười Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam đã gửi giấy mời Việt Nam. Bây giờ đợi xem Việt Nam trả lời như thế nào. Ngày 2 tháng 9, chủ nhật, trời nắng 3 giờ rưỡi chiều, tôi ngồi chuyên cơ cất cánh từ sân bay Tây Giao, khoảng 6 giờ đến sân bay Thành Đô. Tôi ngồi ôtô đi một đoạn đường khoảng 20 phút thì đến Nhà khách Kim Ngưu, Bí thư tỉnh ủy Dương Nhữ Đại đã đợi ở đó. Đồng chí Giang Trạch Dân ngồi một chuyên cơ khác tới Thành Đô muộn hơn tôi nửa tiếng. Từ 8 giờ rưỡi tối đến 11 giờ, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân trao đổi ý kiến về phương châm hội đàm với phía Việt Nam ngày mai. Ngày 3 tháng 9, thứ hai, trời nắng Buổi sáng, tại chỗ ở của đồng chí Giang Trạch Dân tôi và đồng chí tiếp tục nghiên cứu phương châm hội đàm với phía Việt Nam vào buổi chiều. Khoảng 2 giờ chiều, Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Đỗ Mười, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và Phạm Văn Đồng, cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đến Nhà khách Kim Ngưu, Thành Đô. Đồng chí Giang Trạch Dân và tôi đón tiếp họ tại phòng khách số 1 tầng trệt. Nguyễn Văn Linh mặc bộ complet mầu cà phê, có chút phong độ học giả. Đỗ Mười trông còn tráng kiện, đầu tóc trắng xóa, mặc bộ complet mầu lam. Hai người đều đã bảy mươi ba, mươi bốn tuổi, còn Phạm Văn Đồng hai mắt có bệnh, thị lực rất kém, mặc một bộ quần áo kiểu cán bộ, giống như một lão cán bộ Trung Quốc. Buổi chiều, bắt đầu hội đàm, Nguyễn Văn Linh có một bài nói dài. Mặc dù biểu thị nguyện vọng nhanh chóng giải quyết vấn đề Cămpuchia, và nói, thành lập Ủy ban Tối cao Cămpuchia là việc khẩn cấp trước mắt, không nên loại bỏ bất kỳ phía nào, nhưng lại biểu thị không muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Cămpuchia. Xem ra trên vấn đề Cămpuchia, Nguyễn Văn Linh chỉ muốn làm một động tác biểu thị thái độ nguyên tắc, mà đặt trọng điểm vào mặt bình thường hóa quan hệ Trung - Việt. Hội đàm kéo dài đến 8 giờ tối, 8 giờ rưỡi mới bắt đầu tiệc tối. Tại bàn tiệc, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân lại lần lượt làm công tác Đỗ Mười và Nguyễn Văn Linh. Ngày 4 tháng 9, thứ tư, trời âm u Buổi sáng chúng tôi cùng các đồng chí lãnh đạo Việt Nam tiếp tục họp. Đến đây, những vấn đề mà hội nghị đã đề xuất có thể nói là đã tương đối đạt được đồng thuận tương đối trọn vẹn đầy đủ, quyết định khởi thảo một kỷ yếu hội nghị. 2 giờ rưỡi chiều, hai bên Trung - Việt cử hành lễ lý kết tại phòng số 1 nhà khách Kim Ngưu, hai bên lần lượt do Tổng Bí thư và Thủ tướng ký. Đó là bước ngoặt có tính lịch sử trong quan hệ Trung - Việt. Đồng chí Giang Trạch Dân tặng các đồng chí Việt Nam hai câu thơ ngay tại chỗ: "Độ tận kiếp ba huynh đệ tại/ tương phùng nhất tiếu mân ân cừu"(tạm dịch nghĩa: qua hết sóng dữ, anh em vẫn còn; gặp nhau cười một cái là rửa sạch ân oán). Hai câu thơ này là của Lỗ Tấn. Các đồng chí Việt Nam tỏ ra rất phấn khởi trước việc đó. 4 giờ chiều, chuyên cơ bay về Bắc Kinh, khoảng 6 giờ 10 đến nơi. Đại hội 7 Đảng Cộng sản Việt Nam họp Năm 1991Ngày 29 tháng 6, thứ bẩy Đại hội 7 Đảng Cộng sản Việt Nam bế mạc, Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư, Nguyến Văn Linh, Phạm Văn Đồng là cố vấn. Quan điểm cơ bản chung của đại hội 7 Đảng Cộng sản Việt Nam là kiên trì chủ nghĩa xã hội, làm cải cách kinh tế, chủ trương Việt - Xô, Việt - Trung hữu hảo. Tinh thần của hội nghị này có lợi cho việc cải thiện quan hệ Trung - Việt. Ngày 30 tháng 7, thứ ba, trời nắng Buổi chiều, tôi hội kiến Lê Đức Anh và Hồng Hà, đại biểu đặc biệt của Trung ương Đảng Việt Nam. Họ yêu cầu cử hành gặp gỡ cấp cao Trung - Việt. Tôi nói, để cho nhân dân hai nước có sự chuẩn bị, các nước ASEAN khác không sản sinh nghi ngờ, Trung - Việt nên tiến hành gặp gỡ cấp Thứ trưởng và Bộ trưởng ngoại giao trước, còn về gặp gỡ cấp cao, phía Trung Quốc cho rằng về nguyên tắc không có vấn đề. Ngày mai Tổng Bí thư Giang Trạch Dân sẽ chính thức trả lời họ. Về việc bình thường hóa quan hệ kinh tế Trung - Việt, có thể dưới nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi do các đơn vị cửa khẩu đối diện nhau hiệp thương giải quyết, Trung Quốc đều giữ thái độ tích cực đối với mậu dịch, liên lạc bưu điện, thông đường xá, kết toán ngân hàng, khôi phục giao thông bộ. Quan hệ Trung Việt thực hiện bình thường hóa Ngày 5 tháng 11, thứ ba, trời nắng 5 giờ chiều, đồng chí Giang Trạch Dân và tôi, cử hành lễ đón Đỗ Mười, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đến thăm Trung Quốc tại quảng trường Đông Môn ngoại, Đại lễ đường Nhân dân. Tiếp đó chúng tôi cử hành hội đàm. Trên vấn đề Đài Loan thái độ Đỗ Mười rõ ràng. Đồng chí Giang Trạch Dân nói, sau khi hai nước trải qua một đoạn quanh co, hôm nay người lãnh đạo hai nước Trung - Việt có thể cùng ngồi với nhau cử hành gặp gỡ cao cấp, là có ý nghĩa trọng đại. Đây là một cuộc gặp gỡ kết thúc quá khứ mở ra tương lai, nó tiêu chí quan hệ hai nước bình thường hóa, tất sẽ sản sinh ảnh hưởng sâu xa tới việc phát triển quan hệ hai nước. Đỗ Mười nói, bình thường hóa quan hệ hai nước Trung Việt phù hợp với nguyện vọng và lợi ích căn bản của nhân dân hai nước, cũng có lợi cho hòa bình và ổn định của khu vực này và thế giới. Tiếp đó cử hành tiệc chiêu đãi. Ngày 6 tháng 11, thứ tư, trời nắng Chiều, tôi và Võ Văn Kiệt, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng hội đàm, không khí rất tốt. Trước hết tôi chỉ ra, Tổng Bí thư Giang Trạch Dân và Tổng Bí thư Đỗ Mười sáng nay đã tiến hành hội đàm rất tốt, đã trao đổi đầy đủ ý kiến. Trên vấn đề Đài Loan, Võ Văn Kiệt biểu thị rất khá. Trong hội đàm tôi đều nhắc tới các vấn đề như nợ, biên giới, nạn dân v.v... Hai bên đồng ý sau này sẽ bàn nữa. Đối với các tài khoản mới do Việt Nam đề xuất, tôi hứa sẽ khảo sát các hạng mục của Việt Nam trước. Về vấn dề Cămpuchia, tôi chỉ ra, hiệp nghị giải quyết toàn diện vấn đề chính trị Cămpuchia đã ký ở Paris rồi, việc chấp hành hiệp nghị đòi hỏi các bên tiếp tục cố gắng. Ngày 7 tháng 11, thứ năm, trời nắng Buổi chiều, hiệp định mậu dịch Trung - Việt và hiệp định tạm thời về việc xử lý công việc biên giới hai nước đã được ký tại Nhà khách quốc gia Điếu Ngư Đài. Người lãnh đạo đảng, chính quyền hai nước tham dự lễ ký, sau đó, tôi và đồng chí Giang Trạch Dân từ biệt Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt. Họ sẽ đi thăm các nơi như Quảng Châu, Thâm Quyến v.v... Nguồn: Bản tiếng Trung đăng trên mạng Nhân dân Trung Quốc ngày 5 tháng 1 năm 2008. Bản tiếng Việt của tạp chí Xưa & Nay số 311 tháng 7.2008, tr. 60-62.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 8:00:54 GMT 9
Rất có khả năng Trung Quốc bị Mỹ buộc phải trở thành một nước Nga thứ hai Lý Nguyên dịch Công luận Việt Nam đang đặc biệt quan tâm đến những biến chuyển và động thái chính trị quân sự tại Trung Quốc. Một lần nữa, chúng tôi giới thiệu bản trích dịch một bài viết từ phía Trung Quốc. Mong độc giả quan tâm đọc những quan điểm trong bài này trong tinh thần thận trọng tham khảo. talawas Ngọn lửa chiến tranh của Mỹ đã cháy đến trước cửa nhà Trung Quốc rồi! Mượn cớ chống khủng bố, Mỹ đã chiếm Irag và Afghanistan, hiện nay nanh vuốt đã vươn tới Pakistan. Có tin nói Mỹ còn chuẩn bị tấn công Triều Tiên. Từ đầu đến đuôi Trung Quốc xuất hiện mầm mống căng thẳng, đây là một thách thức nguy hiếm nhất đối với tình hình xung quanh Trung Quốc kể từ chiến tranh Triều Tiên đến nay. Quân Mỹ đã nhiều lần truy kích qua biên giới Pakistan. Và theo tin của giới truyền thông Mỹ ngày 16 tháng 9 năm nay thì phía quân đội Pakistan đã nhận được mệnh lệnh, nếu quân Mỹ còn vượt qua biên giới Afghanistan vào nước họ thì họ sẽ nổ súng vào quân Mỹ. Tình hình có khả năng xấu đi đột ngột. Hai ứng cử viên Tổng thống khoá tới của Mỹ đều tuyên bố phải diệt Bin Laden. Người Mỹ cho rằng Bin Laden đang ở Pakistan. Liệu Mỹ, Pakistan có thể đánh nhau? Musharraf luôn luôn được Mỹ tín nhiệm sâu sắc, nhưng vì sao vào giờ phút then chốt Mỹ đã vứt bỏ ông ta? Musharraf vẫn còn uy tín cao trong quân đội, hơn nữa còn kiên trì không ra nước ngoài. Vì sao bao nhiêu kẻ muốn diệt ông ta, khi làm Tổng thống đã nhiều lần bị bọn khủng bố tập kích, mấy lần nguy hiểm đến tính mệnh, còn bây giờ việc bảo vệ không được như xưa nhưng vì sao ông ta vẫn tin vào sự an toàn của mình? Vào lúc Pakistan và Mỹ căng thẳng, Musharraf đóng vai trò gì? Có người nói Pakistan có vũ khí hạt nhân nên không sợ Mỹ tấn công. Vấn đề là vũ khí hạt nhân trong nước Pakistan thực sự khống chế trong tay ai? Vũ khí sau khi bắn đi rồi có bị đánh chặn không? Không ai cười Bush là ngu ngốc, ông ta đã mạnh dạn xây dựng vương quốc thế giới của ông ta. Nga bị bức ở ngay trước cửa nhà mình, không còn cách gì khác mới buộc phải cắn lại một miếng. Hoàn cảnh mà Trung Quốc đang đối mặt không tốt hơn Nga bao nhiêu. Vấn đề là liệu Trung Quốc có thể cắn một miếng, không ra tay sẽ không thấy Mỹ dừng lại. Nhưng trước khi anh chống lại, Mỹ sẽ thu được lợi ích lớn nhất. Đầu và đuôi không ứng cứu được nhau là điều các nhà cầm quân kị nhất. Pakistan và Triều Tiên có vấn đề thì giấc mộng trỗi dậy lớn của Trung Quốc sẽ tuyên bố kết thúc. Giả sử không xảy ra vấn đề, tốc độ vùng dậy cũng bị giảm đi cực lớn. Trung Quốc không thể không mang đại quân đối phó với cuộc khủng hoảng Pakistan và Triều Tiên. Ai nói là chính phủ Mỹ khoá tới không có nhà đại chiến lược? Cục diện vô cùng bất lợi đối với Trung Quốc. So với Nga, chúng ta có gánh nặng trỗi dậy hoà bình. Bây giờ là lúc chế định lại chiến lược. Sinh vào thời loạn, ai có thể chỉ lo thân mình? Dã tâm của con sói Mỹ. Hãy thử so sánh tình hình tốt nhất và xấu nhất tại hai bên Pakistan và Triều Tiên. Tại Pakistan, Mỹ ở thế phải xông vào diệt gọn Bin Laden, hiện nay là lúc cung đã giương không thể không bắn. Biện pháp giải quyết là tìm được chỗ ở của Bin Laden, nếu như hắn ở tại Pakistan thật và còn sống. Còn nếu như người Mỹ ngây thơ hồn nhiên rút quân, không nghi ngờ gì, đó là một kết cục rất vui. Có khả năng kinh tế Mỹ bị sụp đổ lớn bây giờ, biện pháp nào là tốt nhất để làm dịu sức ép lên chính phủ? Chiến tranh! Đánh ai đây? Đất nước che giấu Bin Laden sẽ ra sao? Không phải là vấn đề muốn đánh hay không đánh, mà là tình thế buộc người lãnh đạo Mỹ phải đưa ra quyết định như vậy. Tất nhiên bạn có thể cho rằng khủng hoảng kinh tế căn bản là một bố trí chiến lược, buộc phía phản đối đồng ý phát động chiến tranh với ý đồ tiêu diệt Bin Laden. Sự phá sản của nhà băng Lehman Brothers chẳng phải là kịch bản của kinh tế “11-9” ư? Nếu chúng ta giả thiết “11-9” là do Mỹ tự sáng tác, tự diễn, thế thì chúng ta không thể không nói kịch bản lại bị dùng lại một lần nữa, xem ra tổ biên kịch của họ chỉ có một người. Chúng ta đã đoán trúng cái đầu nhưng hy vọng chúng ta không đoán đúng kết cục. Trước sức ép của Mỹ, Pakistan phải tấn công các bộ lạc để tìm Bin Laden, các bộ lạc chống lại, Pakistan bước vào giai đoạn nội chiến, dù có vũ khí hạt nhân nhưng không thể cho nổ vào người mình… Nếu như Pakistan không tiếp giáp với Tân Cương! Mà Tân Cương từng đã bị phần tử khủng bố tập kích và (Trung Quốc) đã giúp Pakistan tiêu diệt phần tử khủng bố. Thế nhưng như vậy chúng ta lại để lại một kẻ thù khắc cốt ghi xương nữa, Tân Cương sẽ không an ninh. Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Ấn Độ, Nga… mấy nước láng giềng có chút giống như vậy, chúng ta đều đã đánh. Vào lúc tuyên bố trỗi dậy hoà bình, vào lúc người ta không tin, thực ra chúng ta không có lý do để trách móc ai. Chúng ta không thể ghi thêm Pakistan vào danh sách đó. Làm thế nào? Ngồi nhìn Mỹ mở rộng thế lực tại Pakistan, để mặc ngọn dao chĩa vào mặt thằng em nhỏ của chúng ta? Giúp đỡ thế lực thân Trung Quốc tại Pakistan cìmg liên hiệp diễn tập quân sự hình thức lớn với Nga, dường như là sự lựa chọn phải làm. Dưới sự đua tranh của sức mạnh các bên, nội loạn ở Pakistan có thể duy trì trong một thời gian tương đối dài. Vào lúc thế lực thay mặt Mỹ không thể phát huy tác dụng, nước Mỹ không thể không tự mình ra tay, thì làm thế nào? Trung Quốc sẽ xuất quân à? Mong là không cần phải có bước đi này. Vấn đề hạt nhân ở Triều Tiên có thể bùng nổ bất cứ lúc nào, Triều Tiên sau khi trải qua oanh tạc của Mỹ, liệu có hùng mạnh như họ tuyên bố không? Nếu Mỹ gặp khó khăn ở cả hai mặt trận, Trung Quốc sẽ có sự lựa chọn nào? Nga sẽ có sự lựa chọn nào? Vì thắng trong cuộc chiến tranh Triều Tiên, chúng ta mới được đông đảo xã hội quốc tế công nhận vai trò nước lớn, nước lớn đều do đánh mà ra. Xã hội quốc tế đang ở vào thời đại lớn biến đổi sâu xa, bá quyền Mỹ đang bành trướng chưa từng có. Trung Quốc đã vượt Mỹ chẳng qua chỉ là chuyện trẻ con (đồng thoại) do Mỹ tuyên truyền mà thôi. Không thấy rõ hiện thực mà cho rằng chỉ sau một số năm, Trung Quốc có thể vượt Mỹ, là rất đáng cười. Chúng ta hiện nay mới đang đón cuộc thi tốt nghiệp tiểu học, chưa thể giải quyết tốt vấn đề Pakistan và Triều Tiên. Trung Quốc trỗi dậy sẽ là chuyện của thế kỷ sau hoặc là chuyện không bao giờ xảy ra. Có thể Mỹ sẽ thống nhất toàn cầu và như vậy cũng chẳng có gì là không tốt. Những dân tộc bên ngoài (ngoại tộc) đã thống trị người Hán đều bị người Hán đồng hoá. Theo qui luật lịch sử mà nói, đồng hoá ngưòi Mỹ cũng chẳng khó khăn gì. Một số năm sau sẽ là Trung Quốc thống nhất thế giới. Đó là chuyện cười mà thôi. Hãy qua các cuộc thử thách kinh tế và quân sự rồi hãy nói nhé.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 8:04:28 GMT 9
Trung Quốc: Chế độ độc tài Lời toà soạn Le Nouvel Observateur: Đối với Jean-Luc Domenach, nhà Trung Quốc học, giám đốc nghiên cứu tại Ceri-Sciences-Po, tác giả của cuốn Trung Quốc khiến tôi lo lắng, vừa trở về sau 5 năm sống ở Trung Quốc, chế độ đã thôi cực quyền. Còn theo Marie Holzman, nhà Trung Quốc học, tác giả và là người dịch các tác phẩm về Trung Quốc đương đại, chỉ có xã hội dân sự thay đổi. Chính quyền vẫn luôn mang tính đàn áp. Le Nouvel Observateur (N.O.): Theo ông, bà, liệu Chính phủ Trung Quốc có phản ứng đối với cuộc khủng hoảng Tây Tạng ít thô bạo hơn trong quá khứ hay không? Marie Holzman: Nếu căn cứ theo diễn văn của chính phủ, người ta sẽ thấy rõ rằng họ đang thụt lùi khi sử dụng ngôn ngữ của thời Cách mạng Văn hóa: Dalai Lama lại một lần nữa bị gọi là "sư đầu chó", v.v… Rõ ràng, không có một tiến bộ nào, cho dù người ta không thể loại trừ việc một nhà lãnh đạo Trung Quốc quyết định bất chấp tất cả để gặp ông. Jean-Luc Domenach: Trong một chế độ độc tài, mọi việc đều có thể xảy ra. Kết thúc một cuộc thanh toán lẫn nhau nào đó, thái độ của chính phủ có thể thay đổi. Nhưng ngày càng ít có khả năng, theo cách nhìn của làn sóng dân tộc chủ nghĩa không thể ngờ được đang ồ ạt tràn vào Trung Quốc, một làn sóng làm người ta nhớ đến những bạo hành xảy ra ở Alsace-Lorraine mà chúng ta đã biết đến ở Pháp. Đã thế chính quyền suy yếu đi đặc biệt vì tăng trưởng kinh tế suy giảm. Nếu họ buộc phải từ bỏ một điều gì đó, thì sẽ không phải là Tây Tạng và tôi nghĩ rằng Tây Tạng sẽ "gánh đủ". N.O.: Như vậy, ông, bà không lạc quan về một chính sách linh hoạt đối với các dân tộc thiểu số… J.-L. Domenach: Trong trường hợp những người Uyghur/Duy Ngô Nhĩ (người Hồi giáo nói tiếng Thổ), lại đang sôi sục ở Tân Cương, người Trung Quốc phải tự nhủ rằng họ có thể "nghiền nát" những người này không do dự. Vì, mặc dù mạnh mẽ và có tổ chức hơn những người Tây Tạng, nhưng họ ít được bên ngoài ủng hộ. M. Holzman: Trung Quốc hoàn toàn không nhượng bộ đối với người Uyghur. Rebiya Kader đã phải ngồi tù 5 năm trong đó hai năm hoàn toàn trong bóng tối vì bà này đã gửi tin tức cho chồng ở Mỹ. Và năm 2006, sau khi được thả tự đo, bà đã được bầu làm chủ tịch Đại hội Thế giới người Uyghur, hai trong số các con trai của bà còn ở Tân Cương đã bị bắt và bị tra tấn. Không có phương pháp nào kinh khủng hơn để trừng phạt một phụ nữ như vậy. J.-L. Domenach: Theo tôi, tình hình này chỉ có thể trầm trọng thêm trong thời hạn ngắn, bởi tính hợp pháp của chính phủ, cho tới nay vẫn dựa vào khả năng tạo ra tăng trưởng kinh tế, đang trượt dần sang khả năng bảo vệ những tham vọng dân tộc chủ nghĩa. Về dài hạn, có thể có những hậu quả tích cực trong đó, người ta thấy một số tư tưởng dân tộc chủ nghĩa tiến tới những hình thức thể chế mềm dẻo hơn M. Holzman: Trong lúc này, thí dụ của người Mông Cổ đem lại một ý tưởng về điều người Tây Tạng đang chờ đợi. Hiện nay, người Mông Cổ chỉ chiếm 1/10 dân số ở Nội Mông. Kinh nghiệm về sự mất đi bản sắc và lãnh thổ này cực kỳ mạnh mẽ. N.O.: Vậy chúng ta hãy đi đến vấn đề tổng quát hơn về nhân quyền ở Trung Quốc, vấn đề mà ông bà không nhất trí. Đối với ông, Jean-Luc Domenach, tình hình không tốt nhưng nó đã tốt hơn trước… J.-L. Domenach: Vâng. Ngoại trừ 3 tháng qua, tôi sẽ trở lại vấn đề này sau. Về tổng thể, không thể phủ nhận rằng chế độ trước đây là chuyên quyền, nay đã trở thành chế độ độc quyền. Chế độ này dựa trên một bộ máy và một hệ tư tưởng nhằm thay đổi hiện thực và con người, dù phải hủy diệt chúng. Hiện nay, chế độ đó được lãnh đạo bởi một tầng lớp xã hội, xuất thân từ Đảng Cộng sản, quan tâm đến việc thực hiện, dù phải bán đi những gì khai thác không có lợi nữa. Kết quả là: trên mặt trận các quyền xã hội (quyền của người lao động, quyền của phụ nữ, v.v…), chính quyền tích cực đàn áp những liên quan đến các quyền chính trị (tự do ngôn luận, tự do tự vệ trước một đảng duy nhất, v.v…), họ phòng vệ một cách chính đáng và chỉ tấn công khi họ bị phản bác. Như vậy, theo tôi, có một sự cải thiện ổn định - mặc dù còn hạn chế - về các quyền chính trị cổ điển. Nhưng cần lưu ý, đó không phải là chế độ độc tài yếu ớt giống như chủ nghĩa Franco vào lúc kết thúc. Chúng ta đang ở trong một chế độ độc tài mạnh mẽ, trở nên hung dữ mỗi khi nó cảm thấy bị đe dọa. N.O.: Tuy nhiên, trong tác phẩm đầu tiên của mình [1] , ông nói đến "sự mềm đi". J.-L. Domenach: Sự mềm đi này ngừng lại ngay khi có một mối đe dọa, nhưng nó vẫn tồn tại. Chẳng hạn, các tù chính trị ít hơn. Tôi ước lượng khoảng 200.000 người sau năm 1989 so với 15.000 hay 20.000 hiện nay. Những vụ xử tử hình vẫn còn quá nhiều nhưng xu hướng rõ ràng đang giảm đi. Tóm lại, sự kiểm soát báo chí là hoàn toàn ở những khâu nào cần thiết (các đầu đề, báo hình, khắp nơi đều như nhau) và mờ nhạt hơn nhiều với các bài báo ở các trang bên trong và nhất là trên Internet. Người ta thấy cảnh sát trên Net ra sức cấm các trang web mà ngay lập tức chúng xuất hiện trở lại được một tên khác… M. Holzman: Đối với tôi cách nhìn nhận về số lượng này không có ý nghĩa. Chúng ta hãy lấy làm thí dụ, láojiào (劳教/lao giáo – Lao động giáo dưỡng chỉ sự giam giữ không xét xử), được xem như đã cải cách theo yêu cầu của Cao ủy về Nhân quyền. Vậy mà, Thế vận hội Olympic tới gần, người ta thấy gì? Rằng láojiào đã được phổ biến rộng rãi, từ những tội phạm nhỏ tuổi cho đến những người nghiện ma túy, những kẻ ăn mày, v.v… để cho đường phố của Bắc Kinh được sạch bong vào thời điểm diễn ra Thế vận hội. Đồng thời, có các cuộc hội thảo, thảo luận xung quanh chủ đề này cũng như xung quanh hình phạt tử hình. Các chuyên gia nước ngoài hài lòng, họ có cảm giác rằng mọi việc đang thay đổi. Nhưng, thực ra, chẳng có gì thay đổi cả. Hãy xem hình phạt tử hình. Người ta tiếp nhận một tiến bộ lớn rằng quyết định cuối cùng thuộc về Tòa án Tối cao chứ không phải thuộc về các tòa án địa phương để tránh những thanh toán lẫn nhau ở địa phương. Nhưng mùa hè năm ngoái, người phụ trách cơ quan an toàn thực phẩm, bị tố cáo trong vụ tai tiếng về các loại thuốc men bị pha trộn, đã bị bắt giữ, xét xử, kết án và hành hình trong vòng 11 ngày? Một trong số các trường hợp khác cho thấy rằng tòa án ở Trung Quốc luôn phục tùng chính quyền. J.-L. Domenach: Tất cả điều đó là sự thật, nhưng có một yếu tố khiến tôi lạc quan: giống như ở Pháp vào thế kỷ 18, hiện nay một giai cấp tư sản xuất hiện và các tổ chức chuyên nghiệp được thành lập như tổ chức các thẩm phán, luật sư, kỹ sư và bác sĩ. Không phải lúc nào họ cũng hành động vì lợi ích chung, nhung họ được thúc đẩy bởi một thứ nhiệt tình nghề nghiệp khiến họ chống lại cảnh sát chẳng hạn. M. Holzman: Tôi đồng ý với việc là xã hội Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều. Nó hoàn toàn có khả năng hoạt động như bất cứ xã hội chín muồi nào. Ngược lại, cách xử sự của chế độ dường như đặc biệt lỗi thời. Ngay trước đại hội Đảng vừa diễn ra vào mùa thu, luật sư Li Heping (李和平/Lí Hòa Bình) đã bị cảnh sát đánh đập trong suốt ba giờ đồng hồ, họ nói với ông này rằng: "Hãy nhận là mày sắp rời bỏ Bắc Kinh đi!". Họ không muốn ông này gặp gỡ các nhà báo nước ngoài và làm chứng cho những lạm dụng mà các khách hàng của họ phải chịu. Luật sư Teng Biao (腾彪/Đằng Bưu), người được giải thưởng về nhân quyền từ tay Rama Yade [2] , đã kể lại cảnh sát đã nhận lệnh giải quyết một vụ giết người trước cuối tháng như thế nào. Họ đã bắt hú họa 4 người và tra tấn bắt họ phải nhận tội. Các thẩm phán biết rằng họ vô tội nhưng cả 4 người đã bị hành hình. Những ví dụ kinh khủng như vậy ngày nào cũng có. J.-L. Domenach: Tình trạng phạm tội ở địa phương có lẽ không tồn tại nếu không có chế độ, và chế độ sống nhờ vào điều đó. Nhưng phe hiện đang nắm quyền đang tìm cách thoát khỏi điều đó. Robert Ménard [3] nói đến 50 nhà báo bị tống giam ở Trung Quốc. Một mặt, con số đó là rất ít so với 550.000 nhà báo của nước này. Mặt khác, 3/4 trong số họ là nạn nhân của sự trả thù, của những hành động bất lương hèn hạ ở địa phương mà với chúng chế độ đã quyết chiến đấu để không bị biến mất. N.O.: Điều đó dẫn chúng ta đến vấn đề tham nhũng. Liệu vấn đề này có thể được giải quyết trong chế độ một đảng duy nhất hay không? J.-L. Domenach: Tham nhũng là trụ cột cơ bản của chính quyền và là một phương thức trả lương của tầng lớp lãnh đạo. Bất hạnh thay, trong lịch sử kinh tế thế giới, những kẻ biến chất lại không biến mất vì chúng bị biến chất mà vì chúng thất bại. M. Holzman: Tham nhũng, điều đó rất thực tế: mỗi khi có một vấn đề xảy ra, chính quyền chỉ rõ thị trưởng nào bất lương, cán bộ nào biến chất. Cơn thịnh nộ của nhân dân đổ về những kẻ biến chất, xứng đáng bị xử bắn và mọi người bình tĩnh lại. Chính như vậy mà chế độ tồn tại lâu dài mà không bao giờ được sửa chữa. Chừng nào còn không có quyền tự do báo chí ở nơi có thể bày tỏ những tiếng nói khác nhau, chừng nào còn chưa có một không gian tự do ngôn luận thì sẽ không có đối trọng. Tôi nhắc lại rằng người sáng lập Đảng Dân chủ Trung Quốc, Wang Bingzhang (王炳章/Vương Bỉnh Chương), đang phải chịu phạt tù chung thân? Đó là một thông điệp thiêng liêng đối với những người muốn đánh liều ở đó, điều này đã để giải thích vì sao những phần tử ly khai Trung Quốc không thể tự tổ chức. Điều đó rất nghiêm trọng vì chúng có giải pháp thay thế nào cho chế độ nếu xảy ra sự bùng nổ của Đảng do một sự cố về môi trường hay một sự lạm phát không thể chịu nổi. Hiện nay, thực phẩm đã tăng trung bình 50%... N.O.: Ông bà có nghĩ rằng chính quyền đang lo lắng? J.-L. Domenach: Sự cứng rắn mà người ta đang quan sát thấy từ 3 tháng nay làm cho người ta nghĩ tới điều đó. Lạm phát đóng một vai trò quyết định trong việc phát động phong trào 1989. Những vụ chống đối không ngừng kéo dài vì dân chúng chỉ ủng hộ chính quyền này chừng nào mà họ mang lại tiền. Đảng ý thức được điều đó và tôi tin rằng những tiếng nhạc lạc điệu sắp nối tiếp nhau, trừ phi châu Âu hay các nước phương Tây đưa ra một sáng kiến thống nhất. Về chính trị kinh tế cũng như vấn đề Tây Tạng, Pháp có thể tham khảo ý kiến Angela Merkel [4] trước khi làm bất cứ điều gì. Uy tín của Đức ở Trung Quốc gấp 3,5 lần Pháp và người Trung Quốc sẽ không bao giờ chịu thiếu máy công cụ của Đức. Không có điều này, người ta tới Thế vận hội Olympic, nơi có thể thao trên sân bãi và thể thao trên diễn đàn. M. Holzman: Cần phải ủng hộ phong trào bảo vệ quyền công dân được các luật sư, chiến sĩ đại diện ngày càng đông đảo thay vì thích sự tuyên truyền của Trung Quốc về một sự cải thiện giả dối. Nếu tất cả các nhà lãnh đạo quốc tế yêu cầu giải phóng một người duy nhất trong số họ - ví dụ Chen Guangcheng (陈光诚/Trần Quang Thành), luật sư mù bảo vệ các nữ nông dân bị sẩy thai do bạo lực vào lúc thai 8 - 9 tháng – đó có lẽ là một thông điệp cổ vũ những người Trung Quốc sẵn sàng bảo vệ các quyền của họ. Và đó là cách duy nhất để làm thay đổi chế độ. [1]La Chine m'inquiète (Trung Quốc khiến tôi lo lắng), Perrin, 2008 [2]Chính trị gia Pháp [3]Thuộc tổ chức "Nhà báo không biên giới" [4] Thủ tướng Đức hiện nay Nguồn: Bản tiếng Pháp "Deux sinoloques débattent de la vraie nature du régime" của Le Nouvel Observateur n° 2268, du 24 au 30 avril, 2008. Bản tiếng Việt của Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu tham khảo chủ nhật số: 26-TTX, ngày 29/6/2008, tr. 16-19.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 15, 2011 4:28:00 GMT 9
Khi Trung Quốc du nhập chủ nghĩa tư bảnPhan Huy ĐườngTrong bài Một cuộc tranh luận hão, tôi không bàn tới Trung Quốc vì sợ "lạc đề". Hoặc làm loãng vấn đề được đưa ra tranh luận. Tôi chỉ ghi chú vài lời sau :
Riêng ở các nước "đang nổi", tình hình có khác. Họ mới bước vào giai đoạn các công ty tư bản thổ dân hình thành và lớn mạnh dưới sự che chở và giúp đỡ của nhà nước, với vài ưu thế nằm dưới quyền cai quản của nhà nước : kho lao động rẻ tiền, nguyên vật liệu, e tutti quanti.
Ngày nay, chẳng thể không quan tâm tới anh Trung Quốc vừa mới leo lên vị thế cường quốc thứ nhì về mặt kinh tế và, không lâu nữa, sẽ trở thành cường quốc loại đầu sỏ về mặt quân sự. Thôi thì lạm bàn vậy. Đầu thế kỷ 20, Trung Quốc "du nhập" chủ nghĩa Cộng Sản và khai sinh ra Tư tưởng Mao Trạch Đông mà không ít người cộng sản Việt Nam đã từng tôn thờ với những hậu quả khủng khiếp ai cũng biết tuy chẳng ai biết "hết" được : Cải cách ruộng đất, Nhân văn giai phẩm, Cải tạo tư sản, Chống xét lại, học tập cải tạo, e tutti quanti. Đầu thập niên 80, Đặng Tiểu Bình nắm chính quyền ở Trung Quốc, "du nhập" chủ nghĩa tư bản vào Trung Quốc, biến nó thành điều có người gọi là "Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc", mở đường cho Trung Quốc tiến tới vị trí hôm nay trên thế giới. Khi chủ nghĩa cộng sản "du nhập" Trung Quốc nó bèn mang màu sắc Trung Quốc ; khi chủ nghĩa tư bản "du nhập" Trung Quốc, cũng vậy1. Vì sao thành công ? trong việc gì ? Vì sao thất bại ? Hôm nay thế nào ? Thật đáng suy ngẫm một tí. Khi Mao "du nhập" học thuyết mácxít, ông đã học được một kiến thức cơ bản đúng : phân tích mâu thuẫn nội tại của chế độ tư bản và hình thái đế quốc của nó, vạch ra đường lối chống lại nó. Điều ấy nhiều người đã làm được ở nhiều nước khác. Không phải ai cũng thành công. Vì muốn chiến thắng đế quốc tư bản, chữ nghĩa thôi không đủ : đánh đế quốc bằng chữ nghĩa, đánh cạn đời cũng chẳng đi tới đâu. Vì, như Marx từng viết : Ðương nhiên, vũ khí phê phán chẳng thể thay thế sự phê phán của vũ khí, chỉ có sức mạnh vật chất mới đánh quỵ được sức mạnh vật chất, nhưng lý thuyết cũng có thể biến thành sức mạnh vật chất khi nó nhập hồn quần chúng. Lý thuyết có khả năng nhập hồn quần chúng khi nó chứng minh được giá trị của nó qua bản thân con người, và nó thực hiện điều đó khi nó đào vấn đề tận gốc.2 Bản thân con người ở đây là bản thân anh nông dân Trung Quốc, sức mạnh vật chất khổng lồ của Trung Quốc thời ấy. Và thời nay ! Công trạng lớn của Mao là khẳng định sách lược quân sự lấy nông thôn vây thành thị. Thành quả khổng lồ. Nhưng xét cho cùng, "không" khó lắm vì đất đai Trung Quốc mênh mông, nông đân đông đúc3. Những quân đội hùng mạnh của đế quốc, kể cả Nhật thời ấy, có thể đánh chiếm các thành thi rất nhanh, không thể hàng ngày kiểm soát nông dân được. Huy động được nông dân theo mình4, rồi nhân lúc Nhật đầu hàng Đồng minh, Mỹ Anh Pháp đang gườm ghè với Liên Xô tại Châu Âu, Mao chiến thắng khá nhanh : 4 năm là xong chuyện. Vĩ đại thật. Nhưng so với anh Việt Nam còm phải đương đầu với cả Tây U và Tưởng Giới Thạch, năm 1945 và sau đó, thì cũng vĩ đại vừa vừa thôi. Còn về xây dựng kinh tế "xã hội chủ nghĩa", toàn chuyện hão. Ngoài vài nguyên tắc chung chung chỉ có thể có giá trị khi phương thức sản xuất tư bản đã phát huy hết mọi khả năng mà nó chứa đựng5, Marx chẳng để lại gì có thể dùng được ngoài một phương pháp tiếp cận và suy luận về thực tế. Khi Đặng Tiểu Bình lái Trung Quốc vào quỹ đạo tư bản, tình hình thế giới thế nào ? Mỹ thống trị kinh tế thế giới, đang trở thành "siêu cường quốc duy nhất". Giai cấp tư bản Mỹ thấy Nhà nước Mỹ buộc chân mình. Reagan lên nắm quyền để tuyên bố : "Nhà nước không là giải pháp cho nhưng vấn đề của chúng ta… Chính Nhà nước là vấn đề".6 Và ráo riết : a/ xoá bỏ những luật lệ cho phép nhà nước Mỹ ít nhiều điều hoà thị trường tư bản tại Mỹ, mặc kệ cho nó tự do phát triển theo lôgíc nội tại của nó. b/ phá những hàng rào quốc gia về mặt kinh tế. Điều này quá dễ hiểu : nếu cả thế giới biến thành một thị trường tự do cạnh tranh, với thế thượng phong vốn có, anh tư bản Mỹ sẽ dễ dàng thống trị thị trường, nuốt gọn mọi đối thủ. Nhưng, ở mức đáng kể, Mỹ chỉ thành công một nửa : thị trường trao đổi sản phẩm. Nửa còn lại, thị trường sức lao động, vẫn nằm dưới quyền quản trị của các quốc gia. Và đó là thị trường cơ bản nhất. Tất cả giá trị thặng dư, lợi nhuận sản sinh ở đó trước khi đi vào thị trường sản phẩm để biến thành tiền, thành tư bản, lợi nhuận. Rồi chia chác với nhau. Trung Quốc đi vào quỹ đạo tư bản trong hoàn cảnh lịch sử ấy. Họ đã khéo lợi dụng ưu thế của họ trong kinh tế thị trường tư bản, một kho sức lao động rẻ tiền khổng lồ : tôi cho phép anh khai thác trong điều kiện của tôi. Những điều kiện ấy rất hấp dẫn với anh tư bản Tây U, có thể khốc liệt dưới con mắt người Tây U nhưng vẫn hấp dẫn với bàn dân Trung Quốc : đói khổ quá rồi mà… Bước đầu trong một số vùng kinh tế đặc biệt, anh Pháp gọi là zones franches, văn hoá ơi là văn hoá7 ! Hiện nay, vẫn vậy, thị trường sức lao động Trung Quốc chưa hoàn toàn tự do, đã đành, nhưng cũng chưa hoàn toàn mở. Thế cũng đã đủ để Trung Quốc trở thành nhà máy của thế giới, l'usine du monde, thu một lượng giá trị thặng dư không đùa tí nào, xây dựng được một chế độ tư bản "độc đáo", nửa quốc doanh, nửa tư doanh, với một "giai cấp trung lưu" đáng kể khoảng 250 triệu người. Mà vẫn còn một kho lao động thuê khổng lồ, khoảng 350 triệu lao công, với giá thị trường vài chục đôla / tháng. Ta nên nhận diện anh Trung Quốc ngày nay như thế nào ? Thử tìm hiểu xem sao, với kiến thức lỗi thời của thế kỷ 19, Marx qua sự hiểu biết giới hạn của tôi. Chẳng có gì đáng xấu hổ. Ngày nay còn biết bao trí giả kinh tế học nhắc tới "bàn tay vô hình" của thị trường của Smith và trăm thứ khác của thời Ricardo ? 0/ Như Marx nói, và tôi cho là đúng, xét cho cùng, lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất sản sinh ra thượng tầng ý thức hệ của một hình thái kinh tế - xã hội - chính trị - văn hoá. Duy vật máy móc hết xảy ? Về mặt ngôn ngữ thông thường thôi : nói bậy ! Tôi ok. Nhưng nội dung thì không bậy… Đơn vị đo lường của xét cho cùng không là năm tháng của đời ta, như nhiều người tưởng tượng. Là thế kỷ. Bao nhiêu thế kỷ ? Như độc giả nọ viết, ai mà biết được ? Nhưng đó không là khái niệm hão. Nó có nội dung rất cụ thể này, quan sát được : khi lực lượng sản xuất không thể phát triển được nữa (trong lực lượng sản xuất có… sức lao động !8), nghĩa là khi "mâu thuẫn nội tại" mà tôi đã trình bày trong bài Một cuộc tranh luận hão nổ tung. Hão chăng ? Trong thế kỷ 20, nó đã hai lần bùng nổ như thế nào, ai cũng biết. Nó đã vượt qua nhiều cơn khủng hoảng, với chu kỳ càng ngày càng rút ngắn, nhưng chỉ để tái diễn ở quy mô lớn hơn, đương nhiên dưới những hình thái mới. Hiện nay, ở quy mô thị trường càng ngày càng toàn cầu hoá. Thị trường toàn cầu đích thực sẽ là quy mô cuối cùng. Trừ khi con người di dân khai thác thêm hành tinh khác. Ngay như thế, ở đó làm gì có thêm sức lao động để kiếm giá trị thặng dư ? Làm gì có thị trường tiêu thụ mới để biến hàng hoá thành tiền, thành tư bản ? Để xem sao. 1/ Trong mọi lĩnh vực của tư duy, đụng một vấn đề quá phức tạp, ta không thể ôm đồn mọi kích thước của nó mà hiểu nổi. Phải tạm thời khoanh từng vùng để tìm hiểu từng khía cạnh với giả thuyết hão "mọi điều kiện khác y hệt" (toute chose étant égale par ailleurs). Với kiến thức kinh tế học cũng vậy. Kinh tế là một kích thước của lịch sử, cơ bản nhất, xét cho cùng. Nhưng với lịch sử cụ thể, tức là hành động của những con người đang sống, thì phương thức sản xuất tư bản chỉ là một nhân tố thôi. Nó không từ trên trời rơi xuống để đột ngột thay đổi cả một xã hội và, nhất là, tư duy của con người trong đó ! Nó hình thành và phát triển trong một xã hội có lịch sử, có văn hoá. Những hình thái vận động cụ thể của nó ở một nơi, một thời điềm còn tuỳ thuộc nhiều yếu tố khác nữa, nói chung là tuỳ thuộc động cơ hành động của con người. Con người ấy cũng là sản phẩm của lịch sử. Nó có thể mê Voltaire, Rousseau, Montesquieu, Hugo, thậm chí… Lamartine ! Hoặc Hitler, Staline, Mao, Pinochet, Pol Pot, e tutti quanti. Nó dám mê luôn cả Đông Châu Liệt Quốc, Tam Quốc Chí, Thuỷ Hử ! Cứ đọc Tân Tử Lăng viết về Mao thì biết. 2/ Trên cơ sở ấy, cần nhận diện anh Trung Quốc ngày nay : a/ về mặt kinh tế, cơ bản là kinh tế tư bản, vận động theo lôgíc của tư bản : phải có lời qua thị trường. Nhưng không nhất thiết phải có lời tối đa, tức khắc, liên tục, bất cứ lúc nào ! Nếu cần, sẵn sàng lỗ vốn trước mắt (dumping, anh tư bản Tây Âu sành quá từ lâu rồi mà…) để chiếm phần thị trường trước, tiêu diệt đối thủ, rồi tha hồ vơ vét sau khi đã chiếm thế thượng phong, thậm chí độc quyền (monopole). Trong việc này anh tư bản Trung Quốc có lợi thế đặc biệt : kho sức lao động rẻ mạt đông đảo nhất thế giới, chẳng ai bao vệ cả, còn đang trong hình thái tự-tại chưa biết vì-mình (en-soi, pour-soi, nhại Hegel). Nhưng nền kinh tế tư bản Trung Quốc có mặt "đặc thù" so với anh tư bản Tây U ngày nay. Nửa quốc doanh kiểu Trung Quốc ! nửa tư doanh. Nửa quốc doanh chiếm thế thượng phong. Ta tạm bỏ qua anh tư doanh, nó chẳng khác anh tư bản Tây U bao nhiêu, cũng đã lan tràn qua Pháp từ lâu rồi (Marionnaud). Anh quốc doanh là sở hữu của ai ? Chẳng của ai cả. Của Nhà nước Trung Quốc hay, nói thế cũng được, của Đảng Cộng Sản Trung Quốc9. Điều quan trọng nhất : nó chưa là tư hữu của một cá nhân hay một nhóm cá nhân chỉ lo làm ăn thủ lời cho riêng mình thôi. Chính khách lãnh đạo nó có thể hưởng thụ hả hê, ăn cắp thủ túi ít nhiều, nhưng không thể tức khắc biến nó thành của riêng được. Tuy lâu dài có lẽ sẽ thế thôi. Do đó, vốn của nó có thể coi như "vô tận", cần bao nhiêu cũng có mà chẳng phải vay và trả lời ai : cứ đánh thuế bất cứ ai, tư bản or not, là có. b/ về mặt chính trị : một chế độ độc tài quan lại kiểu Trung Quốc truyền thống khoác áo chủ nghĩa xã hội, dựa trên một bang hội kín kiểu hiện đại : Đảng cộng sản Trung Quốc. Tính chất quan lại và bang hội đến từ văn hoá cổ truyền của Trung Quốc. Nữ trang xã hội chủ nghĩa do hoàn cảnh lịch sử khoác lên vai những anh có một cách hiểu – rất "đặc biệt" – tư tưởng của Marx ! Tân Tử Lăng gọi là : Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc ! c/ về mặt văn hoá : tư tưởng Khổng Nho (trong trường hợp tốt) hay/và tư tưởng "mèo trắng mèo đen" của Đặng Tiểu Bình, và đầu óc Đại Hán.10 Phải công nhận Đặng Tiểu Bình là người tài khi ông vạch ra đường lối "bật đèn bên trái, bẻ lái qua phải". Ông đã né tránh được sức đàn áp ý thức hệ áp đảo của Mao, "thống nhất" được, trong hành động, văn hoá và tập quán chính trị truyền thống của Trung Quốc, guồng máy quyền lực của Bang hội Cộng Sản Trung Quốc, để lái con thuyền Trung Quốc vào quỹ đạo tư bản, tất nhiên dưới ngọn cờ "xã hội chủ nghĩa mang màu sắc Trung Quốc". Trên cơ sở ấy, không thể đồng nhất công ty tư bản quốc doanh Trung Quốc với công ty tư bản Tây U bình thường. Những người chỉ huy nó có được quyền chỉ huy nhờ quyền lực chính trị, không nhờ tư cách chủ vốn. Đối với họ, công ty quốc doanh chỉ là một trong những công cụ họ dùng để thực hiện mục tiêu của họ. Mục tiêu ấy là gì ? Vì sao họ đã chọn mục tiêu ấy ? Điều đó tuỳ thuộc văn hoá đã khai sinh ra họ, lịch sử cá nhân và cá tính của họ. Chính con người làm nên lịch sử là như thế. Trung Quốc ngày nay là một nước tư bản hình thành trong một hoàn cảnh, một quá trình lịch sử và một nền văn hoá đặc thù. Nó đã biến thành một đế quốc tư bản "mang màu sắc xã hội chủ nghĩa Trung Quốc". Kinh lắm ! Ta, người Việt, phải chờ đợi từ nó hầu hết những gì của một anh tư bản. Thế chưa đủ. Ta phải chờ đợi từ nó tất cả những gì đặc thù của anh Đại Hán. Trong mọi lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính trị và văn hoá. P. H. Đ. 2010-12-26 1 Một lối suy luận hình thức hão hết xảy ! Chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa tư bản là cái quái gì mà tự mình hay do ai "du nhập" được vào nước này nước nọ ? Chỉ có điều này thực thôi : một anh Tàu hay Việt Nam học, đọc hay nghe gì đó về chủ nghĩa này nọ, hiểu theo khả năng văn hoá hay/và hoài bão của mình và thể hiện sự hiểu biết đó ở đời, với sự hưởng ứng của người khác đồng văn hoá với mình. Thế thôi. 2 Sans doute, l'arme de la critique ne peut-elle remplacer la critique des armes, la puissance matérielle ne peut être abattue que par la puissance matérielle, mais la théorie aussi devient une puissance matérielle dès qu'elle s'empare des masses. La théorie est capable de s'emparer des masses dès qu'elle démontre ad hominem [sur l'exemple de l'homme], et elle procède à des exemples ad hominem dès qu'elle devient radicale. Karl Marx. Marx Engels, Études Philosophiques, Éditions Sociales, 1974, p. 27 Vì sao thế ? Vì con người vừa là một vật thể, một sinh thể, một… trí thể ! 3 Khác hẳn Việt Nam ! 4 Quả không dễ đối với những anh trí thức tiểu tư sản lãnh đạo Đảng Cộng Sản Trung Quốc, mặc dù quan hệ của họ với nông thôn vẫn còn đậm. 5 Marx, theo trí nhớ. 6 « l'État n'est pas la solution à nos problèmes... L'État est le problème » (Wikipedia. Mục Reagan) Mâu thuẫn giữa giai cấp tư bản và Nhà nước Mỹ đó, không thể nói rõ ràng hơn ! 7 Ở Pháp, zone franche cũng là một khái niệm lịch sử ám chỉ một số vùng tự do buôn bán (bourgs và foires) đối với quyền lực phong kiến ở Châu Âu xưa (các lãnh chúa). Bạn đi dạo Paris, nên ghé thăm Rue des Francs Bourgeois chơi, thú vị lắm ! 8 Xem Tư duy tự do, oép amvc.free.fr. 9 Ở Pháp loại chủ tư bản hậu hiện đại này gọi là : fonds souverains, vốn tư bản chủ quyền ! Các trí giả PhuLăngXa thật đáng phục : « Khi cạn ý, một từ xuất-hiện thật đúng lúc ». Goethe : Faust. Lời của Méphistophélès. Marx trích dẫn. Le Capital, Editions Sociales, tr. 81, chú thích 1. Thực tế, hiện nay, đó là vốn tư bản của một vài hoàng tộc ở các nước Ả Rập, và của nhà nước Trung Quốc. 10 Cứ vào YouTube xem họ săn người Ouïgour và đập chết trên đường phố như thế nào thì biết.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 15, 2011 4:30:10 GMT 9
Đặng Tiểu Bình và Dân chủ
Nguyễn Trọng Nghĩa
Dù thích hay không, ta cũng phải công nhận rằng hai nhân vật xuất chúng nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc kể từ ngày thành lập (7-1921) đến nay là Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình. Bằng tài ba và ý chí sắt đá, cả hai đều đã thực hiện được giấc mộng lớn của mình: trở thành nhà lãnh tụ tối cao của dân tộc đông nhất thế giới. Và có lẽ, cũng như Mao, Đặng sẽ cầm quyền – đúng hơn phải nói là sẽ còn thống trị nhân dân Trung Quốc – cho đến hơi thở cuối cùng! Hiện nay khi nhắc đến Đặng Tiểu Bình, người ta liền nghĩ ngay đến vụ đàn áp ở Thiên An Môn (4-6-1989) hoặc đến chủ trương tách rời cải cách kinh tế và cải cách chính trị. Thực ra vấn đề không quá đơn giản như thế: vào một vài thời điểm, ông Đặng cũng có nói đến cải cách chính trị và ngay cả đến dân chủ hoá, nhưng đáng tiếc đó chỉ là những thủ đoạn dùng trong cuộc đấu tranh giành quyền lực hoặc chỉ là những ngọn lửa rơm, bùng lên chốc lát rồi tàn lụi ngay!
Sinh năm 1904, Đặng Tiểu Bình nhỏ hơn Mao Trạch Đông (1893-1976) đến 11 tuổi. Ông đã ủng hộ Mao và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Mao từ đầu những năm 30 cho đến khi bị Mao thanh trừng trong những ngày đầu của cuộc đại cách mạng văn hoá (1966). Khác với Mao vừa là nhà hành động vừa là nhà tư tưởng, nuôi cho đến ngày chết, giấc mơ xây dựng với bất cứ giá nào một xã hội lý tưởng, trong đó không còn người bóc lột người, Đặng Tiểu Bình, trái lại, là một nhà chính trị vô cùng thực tế và thực dụng. Triết lý chính trị của ông được phản ánh khá rõ trong câu nói nổi tiếng (theo Nguyễn Minh (1), thực ra là của Lưu Bá Thừa, chiến hữu chí thiết của Đặng): “không cần biết là mèo đen hay xám, miễn là bắt được chuột! ”.
Với một quan điểm như vậy, chắc chắn là Đặng Tiểu Bình (đã giữ chức Tổng bí thư từ năm 1954 và tham gia Uỷ ban thường trực của Bộ Chính trị ĐCSTQ từ năm 1956) không ủng hộ đường lối cách mạng triệt để của Mao, phát xuất từ sự phẫn nộ trước những bất bình đẳng giữa các thành phần xã hội và giữa các địa phương, cũng như trước tình trạng quan liêu hoá của đảng càng ngày càng xa rời quần chúng. Cùng chí hướng với Chu Ân Lai, Đặng chỉ nhằm một mục đích là phát triển và hiện đại hoá Trung Quốc dưới sự lãnh đạo chuyên chính nhưng không giáo điều của Đảng Cộng Sản. Nhưng khác với Chu, vốn nổi tiếng uyển chuyển và tinh tế do gốc gác gia đình quan lại, Đặng rất độc đoán và kiên quyết nên ngay chính Mao cũng phải gờm: theo Nguyễn Minh, trong một cuộc gặp gỡ vào sau khi Đặng được phục chức lần đầu, Mao đã dùng hình ảnh “bàn tay sắt trong chiếc găng nhung, những cây kim trong một cuộn len” để chỉ Đặng và nói thẳng với Đặng: “ Mọi người đều sợ đồng chí” (NM, tr.123). Đúng là Mao có “con mắt tinh đời” vậy!
Tưởng cũng cần nói rõ thêm rằng vào khoảng cuối năm 1973, do bệnh ung thư càng ngày càng nặng, Chu Ân Lai đã đem Đặng Tiểu Bình về làm phụ tá, với ý định tạo điều kiện thuận lợi để Đặng kế vị mình. Nhưng không may cho Đặng là Chu đã chết trước Mao (8-1-1976): chỉ mấy tháng sau đó (7-4-76), Đặng bị Mao thanh trừng lần thứ hai. Sau khi Mao chết (5-9-76), Hoa Quốc Phong, nhờ sự hỗ trợ của Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Ngô Đức, Kỷ Đăng Khuê và nhất là Uông Đông Hưng, lên cầm quyền, tiếp tục thi hành chính sách của Mao nhưng ít quá khích hơn “ tứ nhân bang” (Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn) đã bị bắt giam một tháng sau khi Mao từ trần.
Tháng 7-76, Đặng lại được tham gia cầm quyền. Trước mắt của quần chúng và đông đảo đảng viên, ông là hiện thân của đường lối chống lại cuộc đại cách mạng văn hoá và đồng thời cũng là một nhà lãnh đạo có bản lĩnh, nổi tiếng thực dụng và ít giáo điều. Sau mười năm đầy biến động và đảo lộn, nguyên nhân của biết bao nhiêu tai hoạ và tang tóc, nhân dân Trung Quốc đã trở nên quá mệt mỏi và chán ngấy tình trạng không ổn định, trở lực lớn nhất cho phát triển. Họ khao khát trật tự và một đời sống phú túc hơn. Tâm trạng này, trong một chừng mực nào đó, cũng giống với tâm trạng của nhân dân Việt Nam, vẫn còn chịu sự tác động mãnh liệt của hơn ba mươi năm chiến tranh tàn khốc: ngán sợ mọi sự đảo lộn là một nhân tố chính trị tối quan trọng, không thể quên khi phân tích tình hình Việt Nam cũng như Trung Quốc, những dân tộc “ kinh cung chi điểu”! Nhưng dĩ nhiên cùng với năm tháng trôi qua, nỗi sợ đảo lộn như “chim sợ cành cong” đó cũng sẽ mất đi.
Cho đến hè 78, ngoài mặt Đặng chỉ đóng vai trò quân sư cho Hoa Quốc Phong như Diệp Kiếm Anh, nhưng bên trong ông đã từng bước củng cố thế lực của mình. Và khi thấy là phe cánh mình đã đủ mạnh, Đặng liền khẳng định một lập trường khá tiến bộ nhằm tranh thủ sự ủng hộ của những thành phần cải cách trong đảng cũng như của phong trào dân chủ trong xã hội, vốn không đồng tình với đường lối của Hoa Quốc Phong được phản ánh qua khẩu hiệu: “ ủng hộ vô điều kiện mọi quyết định của Mao Chủ Tịch và tuân theo vô điều kiện mọi chỉ đạo của Người”.
Ngày 28-11-78, Đặng tuyên bố với Sasaki Ryo, người cầm đầu Đảng Xã hội Nhật: “ Việc dân chúng dán đại tự báo là hoàn toàn bình thường. Đó là dấu hiệu cho thấy sự ổn định của tình hình Trung Quốc. Chúng ta không có quyền phủ nhận hay phê bình sự nở rộ của dân chủ và đại tự báo”, ( Nhân Dân nhật báo, 28-11-78). Đúng là ông Đặng đã gãi đúng chỗ ngứa của nhân dân Trung Quốc giữa lúc bức tường dân chủ trở thành trung tâm chính trị của Bắc Kinh; đồng thời ông cũng tranh thủ được cảm tình của dư luận phương Tây và Nhật. Ngày 2-12-76, trong một cuộc nói chuyện với những người viết diễn văn cho ông trong số đó có Nguyễn Minh, Đặng tuyên bố: “Trong mọi trường hợp, chúng ta cần phải thi hành dân chủ (...) Trong rất nhiều năm, chúng ta đã nói đến chủ nghĩa tập trung (centralisme), nhưng lại lãng quên dân chủ. Hiện nay không ai dám nói, mọi người đều ngại ngùng, nên chẳng đề ra được ý kiến nào cả. Cái xấu nhất mà ta nên sợ là quần chúng nín thinh và trở thành thờ ơ”... “ Đừng sợ khi nghe người ta nói, điều khủng khiếp nhất là phải thấy mọi người chán nản. Để phát triển kinh tế, cần phải có tuyển cử dân chủ. Công nhân sẽ có thể kiểm soát những gì xảy ra trong nhà máy. Nông thôn phải được sự kiểm soát của xã hội thường dân. Cần theo đúng pháp luật. Thực tế dân chủ phải được củng cố và bảo đảm bởi một hệ thống pháp luật. Dân luật, hình luật..., đủ mọi thứ luật cần thiết” (NM, tr. 17). (Cái đáng quý ở Đặng Tiểu Bình là ông thường nói toạc móng heo những điều ông nghĩ, không vòng vo Tam Quốc gì cả; lối nói đó tuy đôi lúc có phần thô bạo và thiếu ngoại giao – như khi ông tuyên bố “ trừng phạt” và “cho Việt Nam một bài học” – nhưng được cái hay là rất dễ hiểu).
Nếu đây là những câu nói chân thành thì rõ ràng ông Đặng biết khá rõ nội dung dân chủ là gì: ông đã thấy được là phát triển phải đi đôi với dân chủ và với sự hình thành và củng cố xã hội thường dân và nhà nước pháp quyền. Chẳng những thế, ông còn chủ trương là phải tiếp thu những tinh hoa của nền dân chủ tư sản rồi phát huy thêm lên. Theo Nguyễn Minh, ngày 27-1-79, Đặng Tiểu Bình nói với Hồ Diệu Bang như sau về dân chủ: “Sáu mươi năm sau Cách mạng tháng Mười, dân chủ vẫn còn bị tắt máy”... “Từ lịch sử thế giới cũng như từ sự biến hoá của nhân loại và của các xã hội, cần phải nghiên cứu sự xuất hiện và phát triển của dân chủ. Giai cấp tư sản đã dựa vào dân chủ để chống lại bạo quyền phong kiến”... “Nền dân chủ vô sản phải là giai đoạn tột cùng của dân chủ. Cần phải tiếp thu những gì tốt đẹp của nền dân chủ tư sản và làm cho chúng sáng chói thêm lên. Trong quá khứ, giai cấp vô sản đã thất bại về điểm này. Xtalin đã phạm nhiều sai lầm, chúng ta cũng thế”... “Điều quan trọng nhất là biến đổi cương vị của bọn quan liêu: phải làm sao cho những ông chủ của xã hội này trở thành những người đày tớ của xã hội ”... “ Chúng ta muốn nhân dân làm chủ. Nhưng tất cả vấn đề là phải làm gì để nhân dân cảm thấy mình là chủ nhà nước” (NM, tr. 18, 19).
Theo Nguyễn Minh, chính cuộc chiến tranh “trừng phạt” Việt Nam xảy ra 20 ngày sau đó (từ 17-2-79 đến 16-3-79) đã đảo lộn quá trình dân chủ hoá ở Trung Quốc. Sự thực dường như không phải như vậy: xét cho cùng, trở lực lớn nhất cho việc thiết lập dân chủ vẫn là sự kiện ông Đặng và tất cả những nhà lãnh dạo khác của ĐCSTQ – có lẽ trừ Hồ Diệu Bang? – đều không phải là những nhà dân chủ đích thực, nghĩa là thấm nhuận những giá trị tự do và bình đẳng. Đối với họ, chính quyền vẫn ở đầu ngọn súng, đúng như Mao Trạch Đông đã dạy, trong giai đoạn giành chính quyền cũng như giai đoạn giữ chính quyền. Cũng theo Nguyễn Minh, nếu chiến tranh Trung-Việt một lần nữa đã xảy ra, chính là vì Đặng Tiểu Bình rất say mê quân sự và nhất là rất tự hào về thiên tài quân sự của mình đến độ vào năm 1954, khi Mao đề nghị phong ông làm thống chế, ông đã từ chối: có lẽ ông chỉ kiêng nể có một mình Mao thôi! Khi quyết định “ trừng phạt” Việt Nam, Đặng nhắm ít nhất ba mục đích:
– Làm giảm sức ép quân sự của Việt Nam đối với Khơ me đỏ;
– Chứng tỏ trước dư luận phương Tây, Trung Quốc là địch thủ của Liên Xô về mặt chiến lược;
– Và nhờ thế, chinh phục sự tin cậy của phương Tây (đặc biệt là của Mỹ) hầu mong họ giúp đỡ công cuộc hiện đại hoá Trung Quốc.
Về mặt thuần tuý quân sự, chiến tranh trừng phạt Việt Nam là một thất bại vì chẳng những Trung Quốc không đè bẹp được sự kháng cự của Việt Nam nhằm cứu nguy cho quân đội Pôn Pốt, mà còn làm cho thế giới thấy rõ những yếu kém của TQ trong một cuộc chiến tranh hiện đại.
Nhưng ngược lại về mặt chính trị, Đặng đã thành công: một mặt, ông nghiễm nhiên xuất hiện trước dư luận TQ và thế giới như là nhà lãnh đạo số một của TQ, làm lu mờ hẳn vai trò của Hoa Quốc Phong, và mặt khác, biến TQ thành đồng minh khách quan của Phương Tây lúc đó vẫn xem Liên Xô và “phe xã hội chủ nghĩa” là địch thủ chính. Sau khi chiến tranh xâm lược VN chấm dứt, Đặng tiến hành song song hai chiến dịch: cô lập hoá Hoa Quốc Phong mà ông nghi là muốn khai thác thất bại quân sự của TQ để chống lại ông và đàn áp phong trào dân chủ vì họ đã phản đối chiến tranh xâm lược VN do chính Đặng chủ trương. Bị bắt giam rồi kết án, Nguỵ Kinh Sinh cho đến nay vẫn chưa được trả tự do: điều đó chứng tỏ là ông Đặng sẵn sàng đàn áp thẳng tay những ai dám phạm thượng và dám chống lại ông.
Có thể nói hội nghị toàn thể của Ban CHTƯĐCSTQ từ 23 đến 29-2-80 đã đánh dấu sự toàn thắng của Đặng Tiểu Bình trong cuộc đấu tranh giành quyền bính vào cái tuổi mà người dân Trung Quốc bình thường đã về hưu cả mười mấy năm rồi: 76! Cùng với việc Hồ Diệu Bang và Triệu Tử Dương (thuộc phe Đặng) vào Ban Thường trực của Bộ Chính trị, Uông Đông Hưng, Kỷ Đăng Khuê, Ngô Đức và Trần Tích Liên (thuộc phe Hoa) đã phải từ chức. Mặc dù còn giữ cả ba chức vụ quan trọng (chủ tịch đảng, thủ tướng và chủ tịch Quân uỷ trung ương), Hoa Quốc Phong đã hoàn toàn bị cô lập. Từ mười hai năm nay, dù chính thức không cầm đầu đảng và nhà nước, trong thực tế Đặng Tiểu Bình đã trở thành một “ hoàng đế không ngai”, vượt xa lên trên tất cả các nhà lãnh đạo khác: điều đó cho thấy cái bản lĩnh phi thường của ông vậy!
Nhưng một khi đã củng cố vững vàng được quyền lực của mình rồi, Đặng Tiểu Bình lại đề cập đến vấn đề dân chủ: có lẽ vì nhà chính trị thực tế và thực dụng ở ông thấy rõ hơn ai hết những khuyết tật, những căn bệnh trầm kha của chế độ chính trị hiện hành. Trong bài diễn văn đọc ngày 31-5-80, Đặng đã dành một đoạn để phê bình ảnh hưởng tai hại của chủ nghĩa phong kiến, nhưng đoạn này sau đó bị kiểm duyệt nên không được đưa vào tuyển tập tác phẩm của Đặng Tiểu Bình: “Nhiệm vụ chính của chúng ta trên mặt trận tư tưởng chưa phải là phê bình tư tưởng tư sản mà là trước hết phải thanh toán ảnh hưởng của chủ nghĩa phong kiến”... “Chủ nghĩa phong kiến là một truyền thống bám sâu vào đời sống xã hội và trong quần chúng. Ảnh hưởng của nó rất đáng kể ngay trong lòng Đảng”... “Nhân dân ta, Đảng ta còn chịu nặng taí hoạ phong kiến, thế mà chúng ta chưa bao giờ xem việc loại bỏ nó như là một trong những nhiệm vụ chính của chúng ta. Tại sao hiện nay trong Đảng một số người vẫn còn chiếm đặc quyền, đặc lợi? Chính là do ảnh hưởng của chủ nghĩa phong kiến”... “Nhưng tệ hại hơn hết, chính là hệ thống gia trưởng gây rối loạn nghiêm trọng cho việc điều hành bình thường của Đảng”... “Chừng nào thế hệ chúng ta còn sống, chúng ta phải tuyệt đối bãi bỏ hệ thống bất khả bãi miễn những nhà lãnh đạo, tức là sự kiện một số người làm thủ trưởng suốt đời” (NM, tr. 93-94). Những nhận định trên đây đều vô cùng sáng suốt và xác đáng, chỉ tiếc một điều là ông Đặng đã không tự áp dụng cho chính mình? Trong bài diễn văn “Về việc cải tổ hệ thống lãnh đạo Đảng và nhà nước” đọc ngày 18-8-80 trước Ban Thường trực của Bộ Chính trị, ông Đặng đã đưa ra những nhận xét còn triệt để hơn nữa:
1. Trước hết theo ông, “ Xtalin đã vi phạm nghiêm trọng pháp chế x ã hội chủ nghĩa; có hôm đồng chí Mao Trạch Đông đã tuyên bố một điều như thế không thể xảy ra ở những nước phương Tây như Anh, Pháp hay Mỹ. Nếu đồng chí Mao Trạch Đông ý thức được điều đó, thì ngược lại trong thực tiễn, đồng chí đã không giải quyết những vấn đề đặt ra cho hệ thống lãnh đạo của chúng ta. Điều đó, cộng với nhiều nguyên nhân khác, đã đưa tới thập kỷ đầy tai hoạ của cuộc Cách mạng văn hoá”... “ Những vấn đề nghiêm trọng đã đặt ra trong quá khứ có thể sẽ lại xảy ra, nếu chúng ta không cương quyết loại bỏ những khuyết tật của chế độ hiện hành” (NM, tr. 102)
2. Tiếp theo, ông cho rằng những khuyết tật của chế độ (bệnh quan liêu, sự tập trung thái quá quyền lực, tinh thần gia trưởng, sự bất khả bãi miễn của các nhà lãnh đạo và các đặc quyền đặc lợi) phát xuất từ ba nguyên nhân chính: truyền thống chuyên chế phong kiến lâu đời ở Trung Quốc, truyền thống tập trung quyền lực vào tay các nhà lãnh đạo cộng sản vào thời Đệ tam Quốc tế, hệ thống tập trung cao độ việc kế hoạch hoá và quản lý kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội, được nhập cảng từ Liên Xô vào những năm 50.
3. Ông nêu bật lên rằng mục đích của cải tổ chính trị là dân chủ hoá đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội ở Trung Quốc.
4. Cuối cùng, ông chống lại việc các nhà lãnh đạo cử người kế vị mình vì ông cho đó là một “ phương pháp phong kiến”.
Có thể nói trong bài diễn văn này, tư tưởng cải cách của ông Đặng đã đạt đến tột đỉnh. Nhưng trước sức ép của phe bảo thủ (Trần Vân, Lý Tiên Niệm, Hồ Kiều Mục, Vương Chấn...) lo sợ tình hình Trung quốc sẽ giống như Ba Lan với sự phát triển của công đoàn Đoàn Kết, Đặng Tiểu Bình đã nghiêng hẳn về phe bảo thủ, sau khi thấy phe này đã liên minh được với cánh Triệu Tử Dương vốn muốn tranh quyền kế vị Đặng với Hồ Diệu Bang. Thêm một lần nữa, sự trở cờ này chứng tỏ rằng, mặc dù thấy rõ được sự cần thiết của một cuộc cải cách chính trị toàn diện theo hướng dân chủ hoá sau nhiều năm nghiền ngẫm về thực tiễn cách mạng Trung Quốc và thế giới với tinh thần thực dụng, ông Đặng luôn luôn sẵn sàng lùi bước khi thấy quá trình dân chủ hoá đụng chạm hoặc đe doạ đến quyền lực của ông. Ngày 25-12-80, Đặng Tiểu Bình đọc diễn văn “ Thi hành chính sách điều chỉnh, bảo đảm ổn định và thống nhất”, ủng hộ đường lối của Trần Vân và Triệu Tử Dương. Ông kêu gọi “phải củng cố bộ máy nhà nước của nền chuyên chính dân chủ nhân dân để đánh không chút xót thương, chia rẽ và làm tan rã những lực lượng phá hoại ổn định và thống nhất”. Trong hơn năm năm (81-85), ông Đặng không nói gì đến dân chủ hoá nữa; ông chỉ tập trung vào chính sách mở cửa và hiện đại hoá kinh tế, mặc dù gặp sự bao vây chống đối của phe bảo thủ (đó là điểm tích cực cần khách quan thừa nhận!). Nhưng do sự phát triển rất nhanh của kinh tế Trung Quốc, đặc biệt ở nông thôn, công cuộc cải cách kinh tế ở vào một ngõ cụt mới. Phần lớn giới trí thức và ngay cả một bộ phận những nhà lãnh đạo như Hồ Diệu Bang, Vạn Lý... đều nghĩ rằng, muốn tiếp tục cải cách kinh tế, cần phải thực hiện cải cách chính trị. Và chính ông Đặng cũng sực nhớ đến những luận điểm quan trọng về dân chủ hoá mà bản thân ông đã đề ra vào năm 80. Chỉ trong vòng ba tháng, ông bàn đến vấn đề cải cách chính trị tới bốn lần!
– Ngày 10-6-86, ông tuyên bố: “ Cải cách phải bao gồm cải cách những cơ cấu chính trị, chính là biểu tượng của cải cách”... “Vào năm 80, người ta cũng đã nói đến cải cách những cơ cấu chính trị, nhưng lại không thực hiện điều đó, đã đến lúc phải đưa nó vào nhật thứ” (NM, tr. 178).
– Ngày 28-6-86, ông đề cập đến quan hệ giữa đảng và nhà nước: “Những can thiệp quá thô bạo của Đảng” vào những việc liên quan đến pháp luật “ ngăn cản khái niệm nhà nước pháp quyền tiến tới. Đảng phải lo đến những vấn đề kỷ luật bên trong Đảng, còn những vấn đề thuộc pháp luật thì để cho nhà nước và chính phủ lo. Vấn đề mấu chốt là quan hệ giữa Đảng và nhà nước, đó là vấn đề cơ cấu chính trị”... “Chỉ cải cách các cơ cấu kính tế mà không đụng đến những cơ cấu chính trị chẳng đưa đến đâu cả, vì sẽ gặp những trở lực nhân sự” (NM, tr. 179)
– Ngày 3-9-86, ông tuyên bố với chủ tịch Quang minh đảng (Komeitô) của Nhật: “ Không cải cách cơ cấu chính trị thì không thể nào bảo đảm cho sự thành công của cải cách cơ cấu kinh tế. Trong khi cải cách kinh tế, cứ mỗi bước là ta nhận thấy một cách sâu sắc sự cần thiết của cải cách chính trị. Không cải cách chính trị, sự phát triển của những lực lượng sản xuất sẽ bị cản trở, và bốn hiện đại hoá sẽ thất bại” (NM, tr. 180).
– Ngày 13-9-86, ông xác định rõ nội dung của cải cách chính trị: “Cải cách, trước hết là tách rời Đảng ra khỏi nhà nước và giải quyết vấn đề về cách lãnh đạo cũng như khả năng lãnh đạo của Đảng. Đây là điểm mấu chốt. Điểm thứ hai của cải cách là phân quyền cho các cấp địa phương”... “ Yếu tố thứ ba của cải cách là giản đơn hoá những cơ cấu hành chính, gắn liền với việc phân quyền cho địa phương. Điểm cuối cùng liên quan đến việc tăng cường sự hiệu quả” (NM, tr. 181).
Qua những đoạn trích dẫn trên đây, ta thấy những ý kiến của ông Đặng về cải cách chính trị khá rõ ràng và mạch lạc; điều đáng để ý là ông tránh nói đến vấn đề dân chủ hoá như vào năm 80. Nhưng chỉ nửa tháng sau đó (28-9-86), trong phiên họp bế mạc của hội nghị toàn thể BCHTƯ đảng, Đặng Tiểu Bình đã đọc một bài diễn văn rất cứng rắn chống lại “chủ nghĩa tự do tư sản”: “Chủ nghĩa tự do tự nó là một sự kháng cự lại chính sách và hệ thống của chúng ta. Cái đó mang tên là đối lập hay chủ nghĩa xét lại”... “Chúng ta còn phải nói đến việc chống lại chủ nghĩa tự do trong mười năm hay hai mươi năm nữa” (NM, tr. 187). Theo Vương Chấn, sau đó Đặng Tiểu Bình còn tuyên bố: “Tôi đã nói ở hội nghị VI là phải chống lại chủ nghĩa tự do trong hai mươi năm, điều đó đã không làm vừa lòng một vài người. Vậy thì tốt lắm, bây giờ tôi nói thêm rằng cần phải đấu tranh bốn mươi năm, sáu mươi năm cả thảy, cho đến nửa thế kỷ tới”. Đúng là lối nói của một cụ già cực kỳ độc đoán và dường như đã có phần lẩm cẩm!
Tưởng cũng cần nhấn mạnh thêm rằng trước hội nghị toàn thể nói trên đây ít lâu, Đặng Tiểu Bình đã ủng hộ dự thảo nghị quyết về “những định hướng cơ bản để phát triển một nền văn hoá mới” được viết dưới sự chủ trì của Diệu Bang, chứa đựng nhiều luận điểm rất tiến bộ như: “ Trong lịch sử nhân loại, sự xuất hiện của những ý niệm dân chủ, tự do, bình đẳng và tương thân tương ái (fraternité) là một giải phóng lớn về tinh thần cho nhân loại”, “ không có dân chủ thì không thể hiện đại hoá”, “cần đẩy mạnh một cách cụ thể việc dân chủ hoá đời sống chính trị của nhà nước và của Đảng, dân chủ hoá quản lý kinh tế và đời sống xã hội”... (NM, tr. 184).
Theo Nguyễn Minh, Đặng đã chuẩn bị sẵn sàng để đàn áp phong trào dân chủ của sinh viên. Ngày 30-12-86, ông tuyên bố: “Cần phải dùng đến những phương pháp chuyên chính. Chỉ nói đến thôi chưa đủ, khi cần còn phải áp dụng chúng” (NM, tr. 192).
Ngày 2-1-87, Hồ Diệu Bang từ chức Tổng bí thư.
Ngày 16-1-87, Triệu Tử Dương lên thay, chủ trương kết hợp kinh tế thị trường với chủ nghĩa độc đoán mới (nouvel autoritarisme), tranh quyền với phe bảo thủ (Trần Vân, Lý Bằng, Kiều Mục, Dương Thượng Côn...). Từ đấy, Đặng không nói đến cải cách chính trị nữa, mặc dù đó là một nhu cầu càng ngày càng trở nên cấp bách trước sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường mà hậu quả là sự phân hoá sâu sắc của một xã hội khát khao tự do, dân chủ. Tình hình đó đã đưa đến sự bùng nổ của phong trào sinh viên đấu tranh vì dân chủ và cuộc đàn áp ở Thiên An Môn. Đây có lẽ là hậu quả bi thảm của những tính toán chính trị sai lầm của Triệu Tử Dương (muốn lợi dụng phong trào sinh viên để đấu tranh giành quyền lực với phe Lý Bằng) cũng như sự thiếu tổ chức, lãnh đạo, đường lối của phong trào sinh viên (thực ra cũng rất dễ hiểu) nên đã không biết rút lui đúng lúc. Nhưng xét cho cùng. ông Đặng vẫn là người chịu trách nhiệm chính. Trước hết là vì ông đã không đủ quyết tâm và nghị lực (do đã quá già chăng?) để thực hiện cải cách chính trị. Tiếp theo, là vì chính ông đã trực tiếp ra lệnh đàn áp. Theo Nguyễn Minh (như đã nói trên đây về chiến tranh trừng phạt Việt Nam), mặc dù có khả năng suy nghĩ một cách thuần lý, Đặng Tiểu Bình rất say mê hành động quân sự bạo lực và chuyên chính gia trưởng. Mối đam mê đó đã bám sâu trong ông và trở thành nguồn gốc của nhiều sai lầm nguy hại. Mỗi khi Trung Quốc phải đương đầu với những vấn đề tưởng như không giải quyết được Mao Trạch Đông dùng đến những phong trào chính trị quần chúng; Đặng Tiểu Bình, trái lại, dùng quân đội và bạo lực. Vào cái tuổi đã gần đất xa trời (85!), ông Đặng còn thắng được một trận làm cả thế giới bàng hoàng: loại ra khỏi vòng tranh đấu hàng triệu thanh niên chỉ được vũ trang bằng khát vọng tự do dân chủ. Ông đúng là một Liêm Pha vào cuối thế kỷ XX này vậy!
Tóm lại, Đặng Tiểu Bình không phải là một nhà dân chủ như De Gaulle chẳng hạn. Sau thế chiến thứ hai, mặc dù đã lãnh đạo nhân dân Pháp kháng chiến chống quốc xã Đức cho đến ngày thắng lợi, cứu được danh dự của Pháp trước dư luận thế giới, De Gaulle đã chấp nhận rút lui khỏi chính quyền trong suốt mười mấy năm “đi qua sa mạc”. Trong cuộc đấu tranh khá bạo động của phong trào sinh viên Pháp vào tháng năm 68, De Gaulle cũng đã tránh được đổ máu. Và trong cuộc trưng cầu dân ý 1969, khi bị thiểu số, De Gaulle liền vĩnh viễn từ bỏ chính trường. Thật ra ngay cả so với các nhà lãnh đạo cộng sản ở Đông Âu, ông Đặng cũng khác nhiều lắm: mặc dù còn giữ nguyên bộ máy trấn áp (quân đội và công an), họ đã có đủ sáng suốt và nhất là tình đồng bào để không dùng bạo lực nhằm giải quyết những vấn đề chính trị nội bộ. Trái lại, phải công nhận ông Đặng là một nhà hiện đại hoá có bản lĩnh dù rất độc tài. (Đúng như Theodor Adorno đã nhận xét khi nghiên cứu về chủ nghĩa quốc xã, không thể nào hiểu được nó nếu ta không chú ý đúng mức đến nhân cách độc đoán (personnalité autoritaire), gắn liền với nó. Và ngược lại, ta có thể nghĩ rằng không thể nào dân chủ hoá nếu một dân tộc – nhất là những nhà lãnh đạo – chưa có nhân cách và tác phong dân chủ!) Trong một chừng mực nào đó, ta có thể so sánh Đặng Tiểu Bình với Franco của Tây Ban Nha: cả hai đều chủ trương độc tài và bất động (immobilisme) về chính trị và nhất là có khả năng đứng lên trên để làm trọng tài giữa những phe cánh xâu xé nhau nhằm tranh quyền kế vị. Từ hơn ba năm nay, Đặng không còn giữ một chức vụ chính thức nào cả trong hệ thống đảng cũng như nhà nước, thế mà ông vẫn giữ nguyên được uy quyền như một thái thượng hoàng! Ông sẽ còn sống mấy mươi năm nữa để kéo dài tình trạng mâu thuẫn hiện nay (kết hợp chuyên chính vô sản với kinh tế thị trường)? Và, chẳng may, nếu một ngày nào đó ông qua đời (thực tế cho thấy là một số người trong nhóm “bát tiên” đã không trường sinh bất tử!), tình hình chính trị của Trung Quốc sẽ ra sao? Liệu nhân dân Trung Quốc có được chăng cái may của nhân dân Tây Ban Nha: dân chủ hoá thành công chỉ trong vài năm sau khi Franco chết? Đó vẫn là mấy câu hỏi lớn chưa có lời đáp!
Nguyễn Trọng Nghĩa
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 28, 2011 3:33:08 GMT 9
Quan hệ Trung quốc-Hoa kỳ. Can dự rào dậu, tranh chấp hay thích nghi Vietsciences- Nguyễn Trường Thịnh vượng tùy thuộc ở Trung Quốc (TQ), an ninh tùy thuộc ở Hoa Kỳ. Thế giới, nhất là Á châu, sẽ phản ứng như thế nào trong thế kỷ 21? Đã hẳn, trong suốt thập kỷ đầu của thiên niên kỷ mới, TQ và Hoa Kỳ là hai đại cường luôn cạnh tranh, nhưng không nhất thiết phải đối nghịch. Vào khoảng cuối năm 2003 và đầu năm 2004, cấp lãnh đạo TQ đã dành thì giờ nghiên cứu lịch sử các đại cường. Thử tưởng tượng họ đã ôn lại lịch sử chiến tranh và tàn phá để tìm hiểu quá trình tranh giành bá quyền giữa các đại cường kể từ thế kỷ 15. Và thử tưởng tượng họ đang chuyển qua thực tế đang đối diện: TQ sẽ lên nắm giữ vị trí một siêu cường mà không một ai cần dùng tới vũ khí. Bằng nhiều cách, TQ đã cố gắng trấn an một thế giới đang khắc khoải âu lo, cũng như đã nhiều lần hứa hẹn chỉ mong phát triển trong một thế giới hòa bình. TQ đã tung ra nhiều tiền của để cấp viện và đầu tư, giải quyết các tranh chấp biên giới với các xứ láng giềng, và đã tiếp tay với các lực lượng gìn giữ hòa bình và các tổ chức quốc tế. Ngày 23-11-2010, khi Bắc Hàn pháo kích đảo Yeonpyeong thuộc Nam Hàn, gây tử vong cho hai thủy quân lục chiến và hai thường dân, TQ ít ra cũng đã cố gắng tạo một khung cảnh khả dĩ kiềm chế đồng minh Bắc Hàn. Tuy nhiên, TQ hiếu hòa đôi khi cũng nhường chỗ cho một TQ hiếu chiến. Trong tháng 3-2010, khi Bắc hàn đánh đắm tàu chiến Cheonan của Nam Hàn, gây tử thương cho 46 thủy thủ, TQ đã không hề lên án. Vài tháng sau, TQ lại xung đột với Nhật về vụ một số ngư phủ TQ bị bắt vì xô xát với các tàu tuần tiểu Nhật gần những hải đảo đang tranh chấp. TQ đã bắt giữ một số thương gia Nhật và ngưng xuất khẩu quặng đất quí hiếm thiết yếu cho kỹ nghệ Nhật. Và TQ cũng đã tái khẳng định mạnh mẽ quyền sở hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cũng như chủ quyền đối với toàn bộ Nam Hải. Theo các lãnh đạo TQ, bài học lịch sử cho thấy quan hệ quyết định hòa bình hay chiến tranh trên thế giới thường liên hệ đến hai đại cường. Đôi khi, như giữa Anh quốc và Hoa Kỳ, quan hệ khá thuận thảo; đôi khi, như giữa Anh quốc và Đức, quan hệ thường đầy bất trắc. Cho đến nay, mọi việc đều tạm ổn giữa Hoa Kỳ và TQ. Trong khi TQ chú tâm vào tăng trưởng kinh tế, Hoa Kỳ lại bị cuốn hút vào cuộc chiến chống khủng bố, nhất là vào hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan. Tuy nhiên, hai quốc gia vẫn nghi ngờ lẫn nhau. TQ nhìn Hoa Kỳ như siêu cường trên đà xuống dốc và đang tìm cách ngăn chặn sự trỗi dậy của chính mình. Và Hoa Kỳ lo ngại không hiểu chủ nghĩa dân tộc ở TQ, với sức mạnh quân sự và kinh tế mới được khám phá, sẽ biểu hiện ra sao. GÓC NHÌN BI QUAN Theo các nhà bình luận bi quan, TQ và Hoa Kỳ nhất thiết sẽ là hai quốc gia cạnh tranh. Viễn kiến "xã hội tốt" của hai xứ rất khác nhau. Khi quyền lực gia tăng, TQ sẽ quyết tâm theo đuổi đường lối và cách ứng xử riêng trên thế giới. Ngược lại, Hoa Kỳ sẽ không dễ dàng từ bỏ vị trí bá quyền của mình. Rất có thể phe nầy đã nhận định đúng về tham vọng của TQ. Tuy nhiên, TQ không nhất thiết phải là thù nghịch. Khác với Liên Bang Xô Viết trước đây, TQ không còn tìm cách xuất khẩu ý thức hệ của mình. Không như các cường quốc Âu châu trong thế kỷ 19, TQ cũng chẳng tìm kiếm thuộc địa. Trong thực tế, TQ và Hoa Kỳ vẫn có nhiều điểm tương đồng. Cả hai đều hưởng lợi từ toàn cầu hóa và từ các thị trường tự do để mua nguyên liệu và tiêu thụ các sản phẩm xuất khẩu. Cả hai đều muốn một thế giới ổn định - không phổ biến vũ khí nguyên tử, và các "quốc gia bất trị", như Bắc Hàn và Iran, không có đất dụng võ. Cả hai đều có thể mất mát rất nhiều nếu xẩy ra chiến tranh. Cách hay nhất để biến TQ thành một quốc gia đối nghịch là đối xử với TQ như một xứ đối nghịch. Điều nguy hiểm là những tranh chấp và xung đột sẽ làm vẩn đục quan hệ giữa TQ và Hoa Kỳ, tương tự như quan hệ giữa Đức và Anh quốc đã sụp đổ trong các thập kỷ trước Đệ Nhất Thế Chiến. Điều nầy đang xẩy ra trong chính sách quốc phòng. Cảm thấy bị đe dọa bởi hải quân Hoa Kỳ, TQ đã canh tân các loại tên lửa, tàu ngầm , ra-đa, chiến tranh vi tính, và các vũ khí chống vệ tinh. Hiện nay, Hoa Kỳ đang vững tin. Tái thẩm định tiềm lực quân sự của TQ gần đây, người Mỹ cảm nhận có thể TQ đang là một đe dọa đối với Đài Loan, các căn cứ quân sự và hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ gần hải phận TQ. Chính vì vậy, hải quân Mỹ đã bắt đầu tăng cường lực lượng trong vùng Thái Bình Dương. Luôn mang mặc cảm bị đe dọa, TQ có thể sẽ có phản ứng. Ngay cả khi cả Mỹ lẫn TQ đều không có ẩn ý gây hấn - nếu chỉ muốn bảo đảm an ninh của riêng mình, mỗi bên, tuy vậy, vẫn có thể xem đối phương như một đe dọa lúc một gia tăng. Theo một số nhà phân tích, giải pháp là Hoa Kỳ nên tránh cạnh tranh quân sự. Tuy nhiên, một Hoa Kỳ tỏ ra suy yếu sẽ luôn đưa đến một Đông Á triền miên bất ổn; hệ thống mậu dịch hòa bình thiết yếu cho sự phồn thịnh của Hoa Kỳ có thể bị đe dọa và xáo trộn. Vì vậy, Hoa Kỳ cũng cần phải đủ hùng mạnh để duy trì an ninh hàng hải và bảo vệ Đài Loan trước sự khả dĩ tấn công của TQ. CỘNG SINH VÀ KÌNH ĐỊCH Lịch sử cho thấy các siêu cường có thể cộng sinh hòa bình khi siêu cường đang lên tin tưởng có thể trỗi dậy mà không bị ngăn chặn, và siêu cường đang ngự trị tin trật tự thế giới hiện hữu sẽ không bị đe dọa, ít ra trong căn bản. Vì vậy, tăng cường quân sự cần đi đôi với xây dựng lòng tin . Có nhiều phương cách xây dựng lòng tin ở Á châu. Ngăn ngừa không để tranh chấp và hiểu lầm vượt khỏi khả năng kiềm chế là một phương cách. Do đó, TQ cần cởi mở và minh bạch hơn, nhất là trong chủ thuyết quân sự - tư thế nguyên tử, hàng không mẫu hạm, và chương trình tên lửa. Trong cùng chiều hướng, cả Hoa Kỳ lẫn TQ cần thiết kế những quy luật chung chi phối cách giải quyết những tranh chấp liên quan Bắc Hàn, Đài Loan, thượng tầng không gian, chiến tranh vi tính. Và Á châu nói chung cần những thỏa ước ngăn ngừa các va chạm hàng hải rất dễ đưa đến những xung đột quân sự. Hoa Kỳ và TQ cần cố gắng thành đạt những thỏa ước đa phương. Thay vì tình trạng hổn độn hiện nay với nhiều diễn đàn cạnh tranh, Á châu nên có một diễn đàn an ninh chung, chẳng hạn, Hội Nghị Thượng Đỉnh Đông Á, nơi gặp gở để giải quyết những vấn đề cấp khu vực. Các xứ Á châu cũng có thể hợp tác vun đắp lòng tin về an ninh phi truyền thống, như y tế, bảo vệ môi trường, chống cướp biển, và chống khủng bố, mỗi khi bản chất mối đe dọa mang tính xuyên biên giới nhiều lân bang. Nếu Hoa Kỳ muốn ràng buộc TQ vào một trật tự cơ sở trên quy luật, Hoa Kỳ tự mình cũng phải tuân thủ cùng những quy luật do chính mình áp đặt. Mỗi lần Hoa Kỳ vi phạm quy luật - chẳng hạn bảo vệ mậu dịch - Hoa kỳ cũng làm gia tăng sự nghi ngờ của TQ, phương hại đến chính nền trật tự Hoa Kỳ đang tìm kiếm. TQ và Hoa Kỳ có một điều thuận lợi trong lịch sử những cặp đại cường: họ đã chứng kiến những gì sai trái trong thế kỷ 20. Nay họ có nhiệm vụ phải bảo đảm một thế kỷ 21 đổi khác, hài hòa hơn. QUÁ TRÌNH TRỔI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ PHẢN ỨNG Vào một ngày đẹp trời năm ngoái, trong phòng hội Đại Học Bắc Kinh, một trong những nhà giáo Hoa Kỳ đã hỏi Wang Jisi, hiệu trưởng Trường Nghiên Cứu Quốc Tế: "Ai là kẻ thù của quí vị?" Sau một phút yên lặng, Wang ngập ngừng trả lời: "Phần đông người TQ có lẽ sẽ nói Hoa Kỳ là kẻ thù". Trong thực tế, Hoa Kỳ và TQ đã là hai đối tác khá ăn ý kể từ ngày T T Richard Nixon và cố vấn an ninh Henry Kissinger viếng thăm Bắc Kinh năm 1972. Thoạt đầu, quan hệ đối tác được cơ sở trên lập trường chung - "đối nghịch với Liên Bang Xô Viết", một lập trường TQ và Hoa Kỳ cùng chia sẻ sau vụ xung đột biên giới Trung-Xô năm 1969. Dưới sự lãnh đạo của Mao, TQ thường uy hiếp các lân bang, nhưng lúc đó ưu tiên trong chính sách đối ngoại đã thay đổi vì hợp tác với Hoa Kỳ giờ đây quan trọng hơn. Dưới thời Đặng Tiểu Bình, TQ thậm chí còn dè dặt chấp nhận ngay cả sự kiện Hoa Kỳ tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Sau khi Liên Bang Xô Viết tan rã, TQ vẫn tiếp tục xem chính sách đối ngoại là thứ yếu và dành ưu tiên cho phát triển kinh tế. Ưu tiên mới đòi hỏi cộng tác với Hoa Kỳ, với mục đích tìm kiếm thị trường cho hàng xuất khẩu, đầu tư, và chuyển giao công nghệ. Họ Đặng đã tóm tắt chính sách mới trong khẩu hiệu nổi tiếng: "bình tỉnh quan sát, ứng xử hài hòa, giữ vững lập trường, che giấu khả năng, chờ thời, thực hiện những gì có thể"[1]. Khi thế giới bắt đầu âu lo trước sức mạnh đang lên của TQ, một viên chức cao cấp đã tìm cách trấn an , cam kết trỗi dậy trong hòa bình, heping jueqi. Và ngày nay, chủ tịch Hồ Cẩm Đào ưa sử dụng cụm từ thế giới hài hòa - harmonious world, để gửi đi cùng tín hiệu. Qua thời gian, các lãnh tụ TQ đã nỗ lực lèo lái quan hệ với Hoa Kỳ vượt qua nhiều sóng gió không thể tránh. Nói chung, họ đã khá thành công. Ngày nay, cách ứng xử của TQ - gần đây nhất đối với Nhật, Nam Hàn, và vùng Biển Nam Hải - đã bắt đầu khiến các nhà quan sát phải âu lo. Người ta tự hỏi tại sao cấp lãnh đạo TQ bất thần lại liều lĩnh thay đổi một chính sách đã giúp đem lại trù phú, thịnh vượng? Có thể có hai nguyên nhân. Thứ nhất, chiến lược của TQ đã bắt đầu thay đổi.Vài người TQ lập luận, ngày nay TQ đã hùng mạnh và có đủ thế lực, TQ không còn phải khúm núm trước Hoa Kỳ. Lý do thứ hai, xã hội TQ đã bắt đầu thay đổi. Theo Richard Rigby, Đại Học Quốc Gia Úc ở Canberra, trong một nhà nước độc đảng, độc tài, cấp lãnh đạo cũng cần lắng nghe những ước vọng và âu lo của người dân. THAY ĐỔI CHIẾN LƯỢC - LÀM NHỮNG GÌ CÓ THỂ Hãy bắt đầu với chiến lược thay đổi của TQ. Lãnh đạo TQ rất nhạy bén và ý thức đầy đủ uy lực TQ ngày một gia tăng và đà tuột dốc khó đảo ngược của Hoa Kỳ, một ý thức ngày một rõ nét hơn với cuộc khủng hoảng tài chánh phơi bày những nhược điểm của Hoa Kỳ và Âu châu. Họ cũng hiểu rõ TQ cường thịnh hơn nhiều người đã chờ đợi. Một nhà ngoại giao ở Bắc Kinh nói: "Người TQ hiện đã nhận thức Tây phương đang cần TQ nhiều hơn là TQ cần Tây phương"[2]. Hai cuộc chiến khó khăn của Hoa Kỳ hiện nay càng làm tăng thêm ấn tượng nầy. Theo Raffaello Pantucci, một học giả ngoại quốc đang làm việc tại Hàn Lâm Viện Khoa Học Xã Hội Thượng Hải, các nhà phân tích TQ rất hoan hỹ kết luận: lực lượng NATO sẽ bị đánh bại ở Afghanistan. Một học giả TQ đã nói với David Lampton, Trường Nghiên Cứu Quốc Tế Cao cấp ở Hoa Thịnh Đốn: "Chúng tôi thường che giấu uy lực của mình - phủ nhận uy lực của mình.Tuy nhiên, lần hồi điều nầy lúc một trở nên không thể duy trì, khi sức mạnh của chúng tôi gia tăng"[3]. Trong một thời gian khá dài sau đó, TQ còn nỗ lực hơn để trấn an Hoa Kỳ và các lân bang trong khu vực. Nhưng ngày nay, theo Yuan Peng, đang công tác tại Viện Quan Hệ Quốc Tế Đương Đại của TQ ở Bắc Kinh, "nhiều học giả TQ gợi ý chính quyền nên từ bỏ ảo tưởng một đối tác với Hoa Kỳ và trực diện với thực tế cạnh tranh chiến lược gay gắt không thể tránh"[4]. Ước muốn tự khẳng định chỉ là một cảm nhận tự nhiên. Robert Kagan, một nhà bình luận chính sách ngoại giao Hoa Kỳ, đã viết: "Uy lực khiến các quốc gia thay đổi. Chính uy lực làm gia tăng nhu cầu và ước muốn, gia tăng ý thức quyền lợi, nhu cầu phải được phục tùng cung kính. Quyền lực cũng đem lại nhiều tham vọng hơn, giảm thiểu bao dung đối với các trở lực, khó nhận 'không' như một câu trả lời"[5]. TQ đã kiềm hảm những cám dỗ vừa nói khá thành công. Tuy nhiên, với thời gian, TQ lúc một có thêm nhiều lý do để phô trương quyền lực. Các công ty TQ lùng sục thu góp các nguyên liệu, vật tư cần thiết trên toàn cầu. TQ đang là khách hàng lớn nhất của Saudi Arabia. TQ nhập khẩu khoảng phân nửa số dầu tiêu thụ, khảng 2/3 vào năm 2015 và 4/5 vào năm 2030. Cố nhiên, TQ rất quan tâm những gì đang xẩy ra trong các xứ cung cấp năng lượng. Theo trợ lý ngoại giao Hoa Kỳ Kurt Campbell, điều oái oăm là chiến lược thu tóm tài nguyên thiên nhiên của TQ, cho đến nay, hoàn toàn lệ thuộc hệ thống trật tự do Hoa Kỳ thiết kế - bảo đảm ổn định và tự do lưu thông hàng hải. Nhưng đây cũng là lý do tại sao TQ hiện đang vun đắp lực lượng hải quân để bảo vệ các hàng hóa và nguyên liệu khỏi những biện pháp cấm vận khả dĩ trong tương lai. Điều nầy phản ảnh hiện trạng thiếu tin tưởng ở hệ thống mậu dịch toàn cầu, một phần do mối e ngại Tây phương, trong căn bản, đang có thái độ thù nghịch đối với một TQ thịnh vượng trù phú, đúng như khẩu hiệu: "Tây phương hóa, chia rẻ và làm suy yếu"[6]. Jonathan Paris, chuyên gia an ninh có trụ sở ở Luân Đôn, cho biết giới trẻ TQ đã vỡ mộng khi thấy Tây phương lăng mạ TQ. Theo vài nhóm có thế lực, những lời kêu gọi từ các nước ngoài - TQ nên giữ vai trò một tay chơi trách nhiệm (responsible stakeholder), trong thực tế, chỉ nhằm kiềm hãm TQ, và TQ chỉ nên hợp tác nếu Tây phương chịu nhượng bộ trong các vấn đề Đài Loan và Tây Tạng. Vấn đề là liệu các cấp lãnh đạo TQ có đồng ý: nay chính là thời điểm phải khẳng định quyền lực của mình. Đỉnh cao chính trị TQ trên thế giới hiện đã đến cận kề, đến độ các nhà phân tích không thể dám chắc. Năm 2009, chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã tuyên bố TQ có thể tích cực đóng góp phần khiêm tốn của mình vào các vấn đề thế giới. Trong dịp nghỉ hè hàng năm ở khu nghỉ dưỡng Beidaihe, lãnh đạo TQ được biết đã thảo luận: liệu TQ có nên dần dà lánh xa khẩu hiệu "chờ thời và ẩn dấu" của cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình. Một vài nhật báo uy tín của đảng cầm quyền, đủ để phản ảnh tư duy của các nhà lãnh đạo, đã kết luận: "chưa đến lúc". Tuy nhiên, đối với giới ngoại giao, ngay cả lập trường vừa nói cũng đã đánh dấu một chuyển dịch.Trong thập kỷ 1990, luận cứ là liệu trong trường kỳ, lúc nào TQ mới có thể tương tác được với Mỹ. Giờ đây, vấn đề chỉ còn là lúc nào TQ mới nên gây sức ép. Dù tư duy của cấp lãnh đạo ra sao chăng nữa, họ cũng đang sinh hoạt trong một xã hội đổi thay nhanh chóng. Trong chính sách ngoại giao ngày nay, họ đang bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi các tập đoàn đặc quyền, kể cả các công ty tài nguyên, các định chế tài chánh, các nhà cầm quyền địa phương, các tổ chức nghiên cứu, báo chí, các nhà hoạt động trên mạng. Linda Jakobson và Dean Knox, Viện Nghiên Cứu Hòa Bình Thế Giới Stockholm - SIPRI[7], cho biết, nhiều người trong các nhóm vừa kể cảm nhận mạnh mẽ TQ không nên quá o bế thế giới bên ngoài. Sự quả quyết của các nhóm nầy một phần đã phản ảnh tinh thần ái quốc và tự ái dân tộc đang được chính quyền khuyến khích, nhằm tăng cường tính chính đáng sau vụ đàn áp những người xuống đường trong biến cố Thiên An Môn năm 1989. Trước hết là các buổi lễ chào quốc kỳ hàng tuần với những bài diễn văn nẩy lửa ở các trường học. Tiếp đến, các viện bảo tàng và di tích lịch sử đã được chỉ định như những cơ sở giáo dục cơ sở trên chủ thuyết ái quốc. Năm 1991, Giang Trạch Dân, đang giữ chức vụ Tổng Bí Thư, đã viết: chính sách giáo dục ái quốc "thúc đẩy nhân dân TQ, đặc biệt là giới trẻ, phát huy lòng tự hào, và tự tin về xứ sở, và ngăn ngừa trào lưu tôn thờ Tây phương"[8]. CHỦ NGHĨA DÂN TỘC BÙNG PHÁT Thế hệ đầu tiên trải nghiệm sự bùng phát của chủ nghĩa dân tộc nay cũng đã gần lứa tuổi 30, và tinh thần dân tộc của họ có nhiều dấu hiệu thuần khiết và phổ biến. Lord Patten, người đảm nhiệm đàm phán trao trả Hồng Kông cho TQ, đã cho biết, "đối với vấn đề Tây Tạng và Đài Loan, không những các thành viên chính phủ TQ tỏ ra căm giận mà ngay cả các nhân vật bất đồng chính kiến cũng vậy"[9]. Theo Hugh White, một cựu viên chức an ninh và quốc phòng Úc, "đây là một dân tộc với một ý thức về một quá khứ vĩ đại, một thời tủi nhục gần đây, những thành tựu hiện tại và địa vị bá quyền trong tương lai. Đó là một hổn hợp hùng mạnh"[10]. Các cơ quan truyền thông TQ mang nhiều sắc thái thương mãi cũng đã nhận thức: chủ nghĩa dân tộc rất ăn khách. Theo Susan Shirk, một học giả và nguyên Phó Trợ Lý Ngoại Giao Mỹ, độc giả thường rất thích những câu chuyện ta thán Nhật, Đài Loan, và Mỹ - và các viên chức kiểm duyệt thường hài lòng với những phóng sự loại nầy. SIPRI cũng nhận thấy nhiều tác giả có uy tín và ảnh hưởng trong đia hạt chính sách đối ngoại thường gặp trên báo Global Times, đều theo chủ nghĩa dân tộc cứng rắn. Giới hoạt động trên mạng, những netizens, có khuynh hướng tung tin TQ đang bị hiểu lầm, và nhìn đâu cũng cảm thấy bị châm biếm và khinh thường. Năm 2008, trong thời gian có va chạm giữa Việt Nam và TQ về Biển Đông, một trang mạng đã gợi ý nên cho VN một bài học khác, đính kèm một kế hoạch xâm lăng để hổ trợ. Điều nầy đã giúp tăng cường ý thức TQ là nạn nhân. Một blogger và nhà báo, Fang Kechang, đã đưa ra con tính, từ 1948, dân TQ chính thức đã bị nhục mạ ít ra 140 lần - và sự nhục mạ trong kỷ nguyên cải cách còn nhiều hơn cả dưới thời Mao. Ở TQ, công luận không phải là nguồn áp lực duy nhất đối với cấp lãnh đạo. Những phe phái bên trong giới thượng lưu quyền lực - elite selectorate - cũng có tiếng nói nặng ký. Những phe phái nầy cũng hăng say thúc đẩy chính sách cơ sở trên chủ nghĩa dân tộc. Đối ngoại, thuộc thẩm quyền bộ ngoại giao, thường theo chủ trương ôn hòa. Bộ nầy thường bị nhạo báng như một bộ nhu nhược, bán đứng xứ sở, và cần được quần chúng gửi tặng calcium để "tăng cường xương sống"(to stiffen its spine). Hiện nay vấn đề càng trở nên phức tạp. Các định chế đối nội và các viên chức trung cấp cũng gia nhập , và còn có khuynh hướng dân tộc mạnh hơn cả các viên chức ngoại giao cao cấp. Các nhà nghiên cứu thuộc SIPRI nhận thấy, bộ an ninh quốc nội còn đặc biệt giữ một vai trò lớn hơn trong chính sách đối ngoại. Tại hội nghị thượng đỉnh về thay đổi khí hậu ở Copenhagen, quyền hạn lại nằm trong tay Ủy Hội Phát Triển và Cải Cách Quốc gia, một cơ quan chịu trách nhiệm phát triển kinh tế. TQ đã bị thế giới bên ngoài chỉ trích là đã theo đuổi đường lối cứng rắn, ngược với khuyến cáo của bộ ngoại giao. Ảnh hưởng của Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân - PLA - còn khó lý giải hơn. Một mặt, từ đại hội đảng 1992, không một sĩ quan được chọn vào ủy ban thường vụ đầy quyền lực của Chính Trị Bộ. Vào cuối thời Cách Mạng Văn Hóa, hơn nửa số thành viên Bộ Chính Trị được chọn từ PLA; ngày nay chỉ còn 2 trong số 24. Mặt khác, các tác giả trong các định chế nghiên cứu của PLA ngày một bộc trực và công khai hơn, sử dụng các bài bình luận trên báo chí và xuất hiện trước truyền hình để nói lên quan điểm của PLA. Khác với quân đội nhà nghề Tây phương, PLA luôn lên tiếng về các chính sách đối ngoại. Trong cuốn The Party, Richard McGregor đã nêu rõ Đảng có khoảng 90.000 tổ - một trong 25 binh sĩ là đảng viên. Mặc dù thăng thưởng hiện nay được căn cứ trên năng lực và ý thức hệ, vai trò của PLA đã đem lại cho mình tiếng nói trong chính sách an ninh. Không như Mao và Đặng, lãnh đạo ngày nay không xuất thân từ hàng ngũ quân nhân, do đó, họ rất cần sát cánh hơn với PLA. Không có lý do để tin uy quyền của lãnh đạo đã lu mờ. Nếu họ tin một chính sách nào đó có tầm quan trọng thiết yếu đối với xứ sở hay Đảng, họ sẽ tự lấy quyết định. Nhà cầm quyền vẫn có thể đàn áp một cuộc biểu tình chống đối nào đó nếu thấy cần. Tuy nhiên, chính trị tự nó không bao giờ trắng đen rõ rệt, ngay cả ở TQ. Lập trường của chính quyền bao giờ cũng khi mờ lúc tỏ, khó lòng minh định. Khi giới lãnh đạo chỉ nghe một thông điệp đơn thuần từ báo chí, các bloggers và các cố vấn riêng, họ luôn cảm nhận cần phải lắng nghe. Khi công luận phân tán, họ thường có thể tảng lờ không mấy ái ngại. James Reilly, thuộc Đại Học Sydney, người đã chuyên nghiên cứu chính sách TQ đối với Nhật, cho biết: áp lực quần chúng thường mạnh nhất khi giới thượng lưu chia rẽ. Trong mọi trường hợp, nhà cầm quyền sẽ theo dõi công luận dù chỉ vì phản đối có thể trở thành một hình thức âm thầm chống đối. Các cuộc biểu tình chống Nhật ở Nam Hàn trong thập kỷ 1960 đã đem lại động lực cho phong trào đòi hỏi dân chủ - cũng như các cuộc xuống đường chống đối sinh viên Phi châu đã xẩy ra trước biến động Thiên An Môn năm 1989. Theo Rana Mitter, Đại Học Oxford, chính sách đối ngoại đã có một lịch sử gây bất ổn định trong chính quyền TQ, và người TQ thường quy trách các thất bại ở nước ngoài là nguyên nhân đưa đến các yếu kém quốc nội. Họ thích nói: "lộn xộn trong nước, tai họa ở nước ngoài" - "disorder at home, calamity abroad". Chủ nghĩa dân tộc có thể định khung một vấn đề trước khi cấp lãnh đạo tìm cách đối phó. Chẳng hạn, vào thời điểm có cuộc tranh chấp về các hải đảo Senkaku/Diaoyu , bộ tuyên truyền, cùng với các nhà bình luận báo chí và những tuyên bố của PLA, đã tạo ra một bối cảnh cấp lãnh đạo khó lòng lùi bước mà không tỏ ra nhu nhược. Dynamic nầy chẳng có gì mới mẻ. Nó đã từng làm rối rắm thêm biến cố trên không giữa một chiến đấu cơ TQ và một phi cơ trinh sát Mỹ năm 2001, một sự kiện PLA đã đổ lỗi cho người Mỹ. Nhưng giờ đây, trong quá trình diễn tiến thay đổi cấp lãnh đạo vào năm 2012, chỉ một động thái yếu đuối cũng đủ phương hại đến cả sự nghiệp. Một thỏa hiệp cũng có thể bị xem như cử chỉ đầu hàng. Điều nầy tạo ra nguy cơ cho bất cứ ai có chủ trương ôn hòa hay thỏa hiệp. Nói chuyện với Lampton về Đài Loan, một học giả TQ đã đặt vấn đề như sau: "Giả thiết có hai lựa chọn và họ [cấp lãnh đạo] chọn các biện pháp cứng rắn...và vị lãnh đạo không giải quyết được [vấn đề], vị đó vẫn có đủ biện minh. Nhưng nếu lựa chọn biện pháp quá mềm mỏng và thất bại, lãnh đạo sẽ bị xem như có tội bởi các thế hệ tương lai"[11]. Trong trường kỳ, phạm vi hành động của lãnh đạo tùy thuộc ở tốc độ tăng trưởng kinh tế. Một TQ trù phú là chỉ dấu TQ đủ mạnh để theo đuổi mục tiêu của mình trên thế giới. Một TQ yếu đuối, với tăng trưởng kinh tế khập khiểng và đảng cầm quyền cảm thấy bị sức ép quốc nội, có thể đưa đến rắc rối ở hải ngoại. Trạng huống nầy sẽ giới hạn phạm vi hành động của một TQ ít khẳng định hơn. Giả thiết các lãnh đạo muốn trung thành với những huấn lệnh nguyên thủy 'chờ thời và che giấu" của cố lãnh tụ Đặng Tiểu Bình, họ sẽ có ba điều thuận lợi. Trước hết, tinh thần dân tộc đã giữ một vai trò thiết yếu trong hầu hết các tranh chấp lãnh thổ như Đài Loan và các hải đảo trong biển Nam Hải. Theo Jian Yang, Đại Học Auckland, New Zealand, tinh thần dân tộc, vốn rất ít ảnh hưởng trong địa hạt kỹ thuật như kinh tế, vẫn không kém nếu không muốn nói quan trọng hơn, đối với cấp lãnh đạo TQ. Thứ đến, TQ hiện chưa có một viễn kiến rõ ràng để thay thế trật tự thế giới chi phối bởi Hoa Kỳ từ sau Đệ Nhị Thế Chiến. Vì vậy, TQ không cần và cũng không nên phát động những trận chiến ý thức hệ ở nước ngoài. Sau hết và quan trọng hơn cả, TQ và Hoa Kỳ đang cùng chia sẻ một số mục tiêu. Cả hai đều ước muốn một nền kinh tế thế giới lành mạnh, một Á châu ổn định, hòa bình ở Trung Đông, các tuyến hàng hải an ninh, giới hạn phổ biến vũ khí nguyên tử, một hệ thống mậu dịch mở cửa... Cả hai có đủ lý do để vun quén một quan hệ đủ hòa hoản ngỏ hầu có thể theo đuổi những mục tiêu vừa kể. TỰ KHẲNG ĐỊNH TRÊN TRƯỜNG QUỐC TẾ Kết quả khả dĩ nhất là một TQ khẳng định hơn, theo đuổi và thành đạt nhiều mục tiêu đối ngoại hơn, nhưng vẫn không khuấy động trật tự thế giới hiện hữu trong căn bản. Đối với những vấn đề liên quan đến lãnh thổ và biên giới nhạy cảm, TQ có thể không thỏa hiệp hay nhân nhượng và ngày một bất hợp tác. Trong nhiều địa hạt khác, giới lãnh đạo tương đối dễ thỏa hiệp hơn, dĩ nhiên sẽ luôn đòi hỏi phần lợi như bất cứ một đại cường toàn cầu nào khác. Ở đây câu hỏi cần được đặt ra: khả năng hợp tác hòa bình với một TQ khẳng định như thế nào? Trong mấy thập kỷ qua, TQ đã rất cố gắng trấn an các quốc gia láng giềng là họ không có gì phải âu lo trước sự trỗi dậy của TQ. Vì vậy, sự tái khẳng định của TQ sẽ càng khó khăn hơn, nhất là khi trộn lẫn với các tranh chấp lãnh thổ nhạy cảm. Nói một cách khác, an ninh Á châu sẽ được quyết định không những bởi phương cách vận dụng sức mạnh mới của TQ mà còn bởi phương cách phản ứng của các quốc gia trong khu vực. Đây chính là ý tưởng bên sau Ý Niệm An Ninh Mới - New Security Concept - hòa hoản hơn của TQ. Các xứ khác sẽ thư giản nếu họ cảm thấy được trấn an TQ sẽ không đem lại một đe dọa nào. Rất không may, chiến dịch tấn công bằng sức quyến rũ và thu hút đã không đem lại kết quả mong muốn. Á CHÂU TRƯỚC SỰ TRỔI DẬY CỦA TRUNG QUỐC Trong tác phẩm "The Rivals", tác giả Bill Emmott, nguyên biên tập viên tạp chí The Economist, đã ghi lại lời một viên chức ngoại giao cao cấp Ấn Độ về đề tài Ấn Độ và TQ: "Điều quý vị phải hiểu là cả hai nước chúng tôi đều nghĩ tương lai thuộc về chúng tôi. Cả hai nước chúng tôi không thể đều đúng"[12]. Các kinh tế gia và các nhà kinh doanh xem sự trỗi dậy của TQ như một phước lành - mọi người đều được hưởng lợi từ sự thịnh vượng của người khác. TQ đã trở thành đối tác thương mãi chính của hầu hết các xứ trong khu vực - ngay cả khi phương Tây vẫn là nguồn cầu quan trọng. Khi ngày một giàu có hơn, TQ sẽ trở thành thị trường cho phần còn lại của Á châu, cũng như cả khu vực sẽ trở thành một thị trường rộng lớn hơn cho TQ. Trong thực tế, an ninh không bao giờ giản dị như thế. Như kinh nghiệm của viên chức ngoại giao Ấn Độ cho thấy, khi hai xứ không thực sự tin nhau, an ninh của xứ nầy có thể gây bất an cho xứ kia.Trong một lục địa rối reng như Á châu, các quốc gia thường trông cậy vào Hoa Kỳ để bảo đảm an ninh trước một TQ ngày một hùng mạnh - lấy nước xa để chế ngự lửa gần. Dĩ nhiên, các xứ Á châu luôn muốn có cả bà con xa lẫn láng giềng gần [và tốt]: đề kháng quyền lực nhưng tăng cường giao thương với TQ; dựa vào Mỹ để được an ninh, nhưng phát triển quan hệ kinh tế chính trị với TQ. Điều nầy rất khó thể hiện trong thực tế, và nếu quan hệ Mỹ-Hoa không diễn tiến tốt đẹp trong những thập kỷ tới, Á châu sẽ bị lôi kéo, giằng xé giữa hai cực. Và các nước nhỏ vẫn có thể làm tăng tình trạng căng thẳng giữa hai cường quốc khổng lồ. Điều đó có thể gây bức xúc cho TQ, trong nhiều năm gần đây, đã tận lực trấn an các lân bang qua việc làm đứng đắn, cũng như ve vuốt các xứ nầy với chính sách trỗi dậy mang tính hòa bình. Chẳng hạn, TQ đã nhân nhượng trong nỗ lực giải quyết các tranh chấp biên giới trên bộ. Taylor Fravel, thuộc Viện MIT, đã kết luận: trong quá trình giải quyết 17 trong số 23 vụ tranh chấp lãnh thổ, TQ đã thường đồng ý chấp nhận chưa đến phân nửa phần đất tranh chấp. TQ cũng đã tỏ ra hào phóng trong ngoại giao kinh tế, ký kết một loạt thỏa ước thương mãi tự do xuyên Á.Theo Marc Lanteigne, Đại Học Victoria ở Wellington, New Zealand, "trong vòng một thập kỷ, TQ đã chuyển biến từ một xứ nghi ngờ mậu dịch ưu đải và tự do thành một trong số quốc gia đề xuất nhiệt thành nhất"[13].
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 28, 2011 3:34:05 GMT 9
TQ đã gia nhập các nhóm đa quốc gia (ngay cả trong Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải -Shanghai Co-operation Organization - SCO, TQ đã giúp thành lập một nhóm). TQ hiện đã là thành viên của 50 tổ chức liên chính phủ và trên 1.000 NGO quốc tế. Chỉ kể các tổ chức bắt đầu bằng chữ A, người ta cũng đã có thể tìm thấy đại biểu TQ trong Diễn Đàn Khu Vực ASEAN, ASEAN+3, Hội Nghị Các Bộ Trưởng Quốc Phòng ASEAN và APEC. Chính quyền các quốc gia Á châu hy vọng TQ cũng sẽ chấp nhận các ràng buộc bởi các dây liên hệ cấp khu vực vừa kể. Tuy nhiên, nghĩ thế là đã đặt quá nhiều đức tin vào các diễn đàn đa quốc gia. Chỉ trích các nhà ngoại giao luôn tìm dịp nói về hòa bình có thể là thái độ quá khắt khe, nhưng Á châu thực ra đã có quá nhiều hội nghị cấp vùng. Chỉ trong năm 2007, Trung Tâm Giao Hoán Quốc Tế Nhật - Japan Centre for International Exchange - cũng đã ghi được 277 cuộc họp mặt về an ninh đa phương và liên chính phủ. Nick Bisley, Đại Học La Trobe ở ÚC, người đã nghiên cứu các tổ chức an ninh cấp vùng ở Á châu, đã kết luận, sự dồi dào nầy trong thực tế chỉ là một mặt nạ che giấu mọi ngờ vực, khi mỗi quốc gia Á châu luôn tìm cách lựa chọn diễn đàn mình ưa thích. Các hội nghị có thể rất hời hợt và các lãnh tụ có khuynh hướng tránh né các quyết định mang tính thực tế và ràng buộc. Xuất hiện quá nhiều trước ánh đèn truyền thông sẽ không giúp ích gì nhiều. Gary Schmitt, Viện Doanh Nghiệp Hoa Kỳ - American Enterprise Institute, ở Hoa Thịnh Đốn, đã viết: "Các diễn đàn và thỏa ước khác nhau ở Á châu có vẻ giống như một bảng liệt kê chó và mèo, hơn là một khung hành động mạch lạc và khả tiên liệu về tương lai"[14]. Mặc dù so với nhiều thế kỷ trước đây, TQ nay đã cải thiện quan hệ với 14 xứ lân bang, nhưng vẫn chưa thực sự tin tưởng bất cứ nước nào - và ngược lại. Quan hệ với Nhật chưa bao giờ vượt khỏi ký ức một đế quốc xâm lăng trước đây. Từ 1949, TQ đã va chạm với Nga, lâm chiến với Liên Hiệp Quốc ở Cao Ly, với Ấn Độ, và với Việt Nam. TRANH CHẤP HÀNG HẢI Thêm vào đó, không như trong các tranh chấp biên giới trên đất liền, TQ đã lớn tiếng đòi chủ quyền vùng biển Nam Hải, có lẽ vì tiềm năng hải và khoáng sản lớn lao. Trong khoảng 36 năm qua, TQ đã xung đột về quần đảo Hoàng Sa với Việt Nam (1974); về Trường Sa với Việt Nam (1988) và Philippines (1994); với Nam Hàn về Socotra Rock (2006); và với Nhật về Okinotori Islands (2004) và Senkaku/Diaoyu Islands (2010). Trong bối cảnh các xứ lân bang bị chi phối bởi nhiều cường quốc có quyền lợi xung khắc, chính sách đối ngoại của Bắc Kinh rất khó tránh nhiều mâu thuẩn và nghịch lý. Khi Bắc Hàn đánh chìm tàu Cheonan, TQ đã phải lựa chọn giữa an ninh và quan hệ ngày một chặt chẽ hơn với Nam Hàn. Khi đứng về phía Bắc Hàn, TQ đã gửi một tín hiệu tai hại đến Nam Hàn là họ không muốn hay không thể kiểm soát đồng minh của mình. Quan hệ của TQ với Ấn Độ đang trở nên rất phức tạp bởi những gì đang xẩy ra trong những xứ láng giềng. Chẳng những Ấn Độ nghi ngờ chính sách Pakistan của TQ, Ấn Độ còn cạnh tranh với TQ ở Nepal và Sri Lanka, những xứ Ấn Độ xem như thuộc phạm vi ảnh hưởng của riêng mình. Như vậy, các quốc gia Á châu đang đối phó với sức mạnh ngày một gia tăng của TQ và những lỗi lầm bất cập của các tổ chức đa quốc gia ra sao? Cùng với đà tăng trưởng kinh tế và ngày môt giàu có hơn, các xứ nầy dần dà, tuy không hấp tấp, tậu thêm vũ khí. Trong bạch thư quốc phòng năm rồi, Úc đã tỏ ra lo ngại trước một TQ hùng mạnh và đề xướng canh tân và tăng gấp đôi số tiềm thủy đỉnh, cũng như thiết kế một hệ thống tàu chiến tương lai tân tiến và hữu hiệu hơn. Việt Nam đã đặt mua sáu tiềm thủy đỉnh Kilo-class của Nga. Trước đó, Singapore đã mua hai tiềm thủy đỉnh Archer-class của Thụy Điển, và Malaysia và Ấn Độ đã mua 8 tiềm thủy đỉnh Scorpene-class của Pháp. Nhật cũng đã tăng cường võ trang toàn diện. Mặc dù ngân sách quốc phòng chính thức của Nhật chỉ chiếm 1% GDP và trong vòng một thập kỷ vừa qua đã giảm bớt khoảng 3% tính theo mệnh giá (in nominal terms), khoảng 1% theo thực giá (in real terms), Nhật cũng đã du di tài nguyên qua hải quân, hiện hùng mạnh hơn hải quân TQ. Theo Richard Samuels, MIT, lực lượng tuần duyên của Nhật , được tài trợ bên ngoài ngân sách quốc phòng, hiện có một đội tàu chiến hùng hậu và những quy luật tác chiến lỏng lẻo hơn lực lượng tự vệ. Bên cạnh chính sách tự vũ trang, các quốc gia Á châu ngày một nhích lại gần hơn với Hoa Kỳ. Động thái nầy đã phơi bày một cách khá ấn tượng tại diễn đàn khu vực ASEAN ở Hà Nội trong tháng 7-2010. Trong một nghị trình làm phật lòng TQ, các nước thành viên ASEAN đã thay nhau than phiền TQ đã khẳng định mạnh mẽ chủ quyền trong vùng biển Nam Hải. Những bản tuyên bố đã đạt cao điểm với Hillary Clinton, bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ, nhấn mạnh phương cách Hoa Kỳ sẽ can thiệp để bảo đảm an ninh cho các tuyến giao thông hàng hải trong hải phận quốc tế. Nhiều tiến bộ song phương cũng đã được ghi nhận. Tháng 8-2010, Việt Nam và Hoa Kỳ đã bắt đầu hợp tác quân sự cấp cao, với một cuộc họp ở Hà Nội. Các quan chức Việt Nam đã lên thăm hàng không mẫu hạm USS George Washington đậu ngoài khơi Việt nam. Các tàu hải quân Mỹ đã cập bến Việt Nam và Việt Nam đã thỏa thuận sửa chữa các tàu chỉ huy Sealift của Mỹ. Không ai tin chỉ cách đây 35 năm hai quốc gia đã ở trong tình trạng chiến tranh. HOA KỲ - ĐIỂM TỰA AN NINH Tuy nhiên, liên kết với Hoa Kỳ để tìm kiếm an ninh cũng là một việc khá rắc rối. Đôi khi các quốc gia Á châu cũng phải đối đầu với các trở ngại đối nội. Dưới thời George W. Bush, Ấn Độ và Hoa Kỳ đã xây dựng một quan hệ thân hữu khá chặt chẽ với thỏa ước hợp tác nguyên tử. Tuy nhiên, ngay cả trình độ thân thiện đó cũng đã khơi dậy sự chống đối từ phe tả của Ấn Độ. Một thỏa ước quốc phòng trọn vẹn với Hoa Kỳ để ngăn bờ TQ hình như không được cứu xét hiện nay. Ấn Độ cũng chẳng mấy vui thích vai trò một đàn em và cũng đang hãnh diện với địa vị một quốc gia phi liên kết. Ấn Độ cũng không muốn hoàn toàn gạt bỏ TQ - một nước cạnh tranh, nhưng đồng thời cũng là một đồng minh trong nhiều địa hạt, như thay đổi khí hậu và các vấn đề kinh tế toàn cầu. Vả chăng, như Rahul Roy-Chaudhury thuộc IISS nêu rõ, các chính trị gia Ấn không gần gũi với phe quân đội. Không có một hội đồng an ninh quốc gia hữu hiệu để hậu thuẩn, hải quân phải mất nhiêu thời gian để thuyết phục chính quyền: TQ có thể trở thành một đe dọa. Các ngành quân lực có thể hoạch định những chiến dịch ấn tượng. Tuy nhiên, trong một tác phẩm mới về canh tân quân sự, Stephen Cohen và Sunil Dasgupta lập luận: có nạn ganh tị giữa các binh chủng, tiếp liệu kém, và từ ngày độc lập nghi kỵ vẫn còn lây lất trong việc phối trí quân đội hiện còn phản ảnh dấu ấn của thời thực dân Anh quốc. Riêng phần mình, Nam Hàn , một đồng minh lâu ngày của Mỹ, đã chuyển hướng từ an ninh qua kinh tế và ngược trở lại. Dưới thời Tổng Thống Roh Moo-hyun, Nam Hàn đã tách khỏi Hoa Kỳ, trong nỗ lực chứng tỏ vai trò một cường quốc Á châu độc lập với liên hệ kinh tế ngày một chặt chẽ hơn với TQ. Năm 2007, Roh đã đạt được sự đồng tình của Mỹ là kể từ 2012 Nam Hàn một lần nữa sẽ có bộ chỉ huy quân lực riêng trong trường hợp có chiến tranh. Roh cũng đã trợ giúp Bắc Hàn sau khi Hoa Kỳ cắt viện trợ năng lượng. Tuy nhiên, người kế nhiệm, Lee My-ung-bak, một lần nữa lại liên kết với chính sách an ninh của Mỹ. Lee đã trì hoản việc chuyển giao quyền tư lệnh thời chiến đến năm 2015, và lựa chọn một chính sách cứng rắn hơn đối với Bắc Hàn. Ở Nhật, các cánh phái khác nhau cũng cho thấy tất cả những khuynh hướng vừa nói và hơn thế nữa. Một số trong Đảng Dân Chủ cầm quyền đã tìm cách nhích lại gần hơn với TQ. Một số khác trong Đảng Dân Chủ Tự Do, ngày nay là đảng đối lập sau nhiều thập kỷ cầm quyền, bất bình trước sự hiện diện của 36.000 binh sĩ Mỹ trong các căn cứ rải rác khắp Nhật Bản. Một nhóm khác chủ hòa nhiệt thành đến độ người Mỹ tự hỏi không biết người Nhật trong thực tế có sẵn sàng đáp ứng lời yêu cầu của Mỹ khi cần. Và những nhóm khác còn nghi ngờ khả năng: Nhật luôn có thể trông cậy vào người Mỹ. Đối với nhiều người Nhật, vụ tranh chấp các hải đảo Sankaku/Diaoyu chứng tỏ TQ có thể trở thành một đối thủ gai góc, nhức nhối đến mức độ nào. Sau vụ lính tuần dương Nhật bắt giữ các ngư phủ người Hoa, TQ đã hủy bỏ các hội nghị, cản trở thương mãi, và ngưng xuất khẩu khoáng sản đất quí hiếm đến Nhật. Các viên chức ngoại giao Nhật rất hài lòng khi ngoại trưởng Hillary Clinton lên tiếng ủng hộ Nhật. Samuels ở MIT nghĩ, Hoa kỳ cần phải trấn an Nhật , đồng minh thiết yếu nhất ở Á châu. Nếu Nhật tỏ ra nghi ngờ, Hoa Kỳ sẽ thấy tất cả các liên minh Á châu của mình phải chịu ảnh hưởng tai hại. Nhưng TQ lại có cách tính toán khác. Những nỗ lực vun quén quan hệ với các quốc gia láng giềng chỉ đem lại những kết quả pha trộn. Những quan hệ kinh tế đã tạo được ít nhiều thiện chí, nhưng đa số các quốc gia trong vùng hình như luôn sẵn sàng nghiêng về phía Hoa Kỳ mỗi khi gặp rắc rối. Trước lập trường khẳng định ngày một gia tăng của TQ, điều đó có thể dễ dàng trở thành một nguồn bất mãn, làm trầm trọng thêm sự thiếu tin tưởng hổ tương giữa các siêu cường. Trong mọi trường hợp, Hoa Kỳ và TQ có khuynh hướng cạnh tranh giành giựt lòng trung thành của các quốc gia trong vùng. Điều nầy rõ ràng có thể làm vẩn đục thêm nếu không muốn nói đầu độc mối quan hệ quan trọng bậc nhất hiện nay - quan hệ Mỹ-Hoa. SỰ TRỔI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ NGOẠI GIAO HOA KỲ Trong một bài bình luận gần đây, Hugh White, một viên chức an ninh và quốc phòng Úc trước đây, đã nhắc lại những mẫu chuyện trao đổi với các đối tác Mỹ: "Tôi lần lượt chất vấn họ: 'Quý vị có nghĩ Hoa Kỳ nên ứng xử bình đẳng với TQ nếu quyền lực của TQ tăng lên ngang hàng với Hoa Kỳ?' Câu trả lời luôn là không. Tôi lại hỏi 'Quý vị có chờ đợi TQ sẽ bằng lòng với bất cứ gì ít hơn là bình đẳng?' Câu trả lời cũng luôn là không. Kế đó tôi hỏi tiếp ' Như vậy, bằng cách nào quý vị chờ đợi Hoa Kỳ và TQ hợp tác với nhau?' Tôi cũng luôn nhận được một cái nhún vai thay câu trả lời"[15]. Cái nhún vai nói lên những khó khăn của Hoa Kỳ trong việc thiết kế chính sách đối với TQ. Hoa Kỳ muốn TQ trở thành một thị trường trù phú cho sản phẩm xuất khẩu của mình. Hoa kỳ cũng muốn TQ trở thành một đại cường tích cực, và trách nhiệm trong sinh hoạt thế giới. Tuy nhiên, cùng lúc Hoa kỳ cũng cảm thấy bị đe dọa bởi sức mạnh kinh tế, kỹ nghệ, ngoại giao và quân sự ngày một gia tăng của TQ. Khi Hoa Kỳ không vừa lòng với một lập trường nào đó của TQ, Hoa Kỳ thường lớn tiếng chỉ trích và thổi phồng câu chuyện. Một hổn hợp đối tác và tranh giành là một công thức đưa đến hỗn loạn. Môt phương cách giải quyết những căng thẳng vừa nói là nên đặt an ninh lên hàng đầu. Hoa kỳ có thể theo đuổi mục tiêu ngăn chặn TQ ngay bây giờ trước khi TQ giàu mạnh hơn. Người Mỹ đã thắng trong chiến tranh lạnh bằng cách cô lập hóa kinh tế và dồn quân lực Xô Viết vào thế bế tắc. Tuy nhiên áp dụng cùng phương pháp lần nầy là một ý tưởng sai lầm. Trước hết, cái giá phải trả quá đắt. Thứ đến, người Mỹ có thể bị thương tổn không kém TQ. Kinh tế hai quốc gia đang đan xen và TQ là chủ nợ lớn nhất của Mỹ. Trong chiến tranh, vì cần thiết, các quốc gia thường không mấy ngần ngại khi công trái gia tăng. Nếu một tổng thống Mỹ tìm cách xóa nợ trong thời bình, vì lựa chọn, tổng thống sẽ phải đối đầu với bất đồng nội bộ và sỉ nhục ở hải ngoại. BIỆN PHÁP CHẾ NGỰ VÀ NGUY CƠ Trong mọi trường hợp, chính sách ngăn chặn có thể phản tác dụng, trừ phi để chống lại một TQ rõ ràng thù nghịch. Ngoại trừ trường hợp Hoa Kỳ có thể thuyết phục phần lớn thế giới hợp tác, TQ vẫn có thể tiếp cận hầu hết các thị trường. Một Hoa Kỳ hiếu chiến có thể có nguy cơ đánh mất các đồng minh Á châu chính mình muốn bảo vệ. Joseph Nye, trường Kennedy thuộc Harvard, đã đưa ra luận cứ: cách hay nhất để biến TQ thành một kẻ thù là ứng xử với TQ như một xứ thù nghịch. Một ngày nào đó Hoa Kỳ có thể cảm thấy mình không có lựa chọn nào khác ngoài việc tập trung vào vấn đề an ninh. Đó chính là điều TQ đang lo ngại. Ngược lại, chỉ lo tập trung vào kinh tế và bỏ quên an ninh là điều hoàn toàn sai quấy. Hoa Kỳ có nhiều quyền lợi thiết thân ở Á châu. Hoa Kỳ muốn ngăn ngừa phổ biến nguyên tử ở bán đảo Triều Tiên và Nhật Bản. Hoa Kỳ có đồng minh cần bảo vệ và các đe dọa cần khống chế. Hoa Kỳ cần tiếp cận các tuyến đường hàng hải và các thị trường rộng mở. Hoa Kỳ là siêu cường ưu việt của thế giới. Hoa Kỳ không thể từ bỏ Á châu mà không mất ảnh hưởng ở mọi nơi khác. Vì vậy, trong suốt 15 năm qua, Hoa Kỳ đã quay trở lại chính sách lưỡng diện đối với TQ - two-tract China policy. Barack Obama đã dõi theo diện thứ nhất trong chuyến viếng thăm TQ trong tháng 11-2009. Tổng Thống đã nói trước sinh viên trường Đại Học Fudan ở Thượng Hải: "Hoa Kỳ nhấn mạnh chúng tôi không tìm cách chặn đường đi lên của TQ. Ngược lại, chúng tôi chào đón TQ như một thành viên hùng mạnh, phú cường và thành công của cộng đồng các quốc gia"[16]. Điều nầy có nghĩa, như Obama sau đó đã giải bày với Hồ Cẩm Đào, "kinh tế ngày một tăng trưởng của TQ đi kèm với trách nhiệm ngày một gia tăng".[17] Chính sách 'can dự' -engagement - được hổ trợ bởi diện thứ hai, có thể được mô tả như 'rào giậu' -hedging. Hoa Kỳ phải có khả năng triển khai đủ lực lượng để ngăn chặn TQ. Nếu các tổng thống không đủ sốt sắng để mô tả rõ ràng, đề đốc Robert Willard, Tư Lệnh Thái Bình Dương, đã làm rõ trước Quốc Hội hồi đầu năm 2010: "Cho đến khi...chúng ta thấy rõ ý định của TQ quả thật là ôn hòa, điều thiết yếu là chúng ta phải duy trì các lực lượng trong tư thế sẵn sàng; tiếp tục tăng cường cam kết với các đồng minh và đối tác trong vùng; và đáp ứng mỗi thách thức của TQ một cách chuyên nghiệp, phù hợp với luật quốc tế"[18]. Hoa Kỳ trước đây đã từng đối diện với một số tính toán minh bạch, tuy rất đáng ngại, trong quan hệ thực tế không mầu mè với Liên Bang Xô Viết. Ngược lại, cách ứng xử lưỡng diện với TQ có vẻ ít huyền hoặc, nhưng thập phần phức tạp hơn - hầu như bất khả xử lý. Trên nguyên tắc, chính sách lưỡng diện rất duy lý. Can dự được thiết kế để tưởng thưởng việc làm hay hạnh kiểm tốt, và rào giậu để ngăn ngừa việc làm hay hạnh kiểm xấu. Tuy nhiên, trong thực tế, rào giậu hàm chứa nguy cơ tiềm ẩn phương hại đến can dự. Nói rõ hơn, sự hiện diện cùng lúc của hai "diện" sẽ tác động như một lý do đặc miễn để tránh tìm cách giải quyết nhiều vấn đề quan trọng ở Hoa Kỳ. Đối với vấn đề TQ, phe diều hâu và phe bồ câu đều có thể ủng hộ cùng một chính sách, bởi lẽ cả hai đều có thể tiếp tục tin rút cuộc phần đúng sẽ về mình. Trên phương diện chính trị, điều nầy rất thuận tiện ở Hoa THịnh Đốn nhưng không thể là một chính sách lý tưởng. Chính sách can dự thường được vận hành bởi các chuyên gia về TQ thuộc bộ ngoại giao và chính sách rào giậu sẽ do Ngũ Giác Đài thể hiện. Trên lý thuyết, hai lối đi của chính sách cần được cân nhắc và thể hiện theo chỉ dấu cách ứng xử của TQ mang tính ôn hòa hay đe dọa. Ngay trong giả thiết tốt nhất, bộ ngoại giao và bộ quốc phòng không luôn đồng thuận. Thường khi chính sách lưỡng diện có thể được vận hành như hai chính sách biệt lập. HÃY NGHE TÔI NÓI - READ MY LIPS Điều nầy rất quan trọng bởi lẽ những lời cởi mở đối với TQ của Obama cũng mới chỉ là lời nói, và giới lãnh đạo TQ cũng không phải là những người nhẹ dạ cả tin. Dù thành thật đến bao nhiêu, và lời nói của bất cứ tổng thống nào cũng thế: hứa hẹn ít khi đi đôi với thực thi, tổng thống đến rồi đi. Hoa Kỳ gửi một tín hiệu khi tái phối trí lực lượng hải quân ở Thái Bình Dương và các đề đốc nói với Quốc Hội: "Sự quan tâm của TQ đối với một môi trường ḥòa bình và ổn định khó lòng nhất trí với những khả năng quân sự đang diễn tiến"[19]. Những phán đoán trên khá xác đáng đối với an ninh Hoa Kỳ, nhưng lại cản đường thông điệp Hoa Kỳ chào đón sự trỗi dậy và không có ý định ngăn chặn TQ. Rào giậu cũng không phải yếu tố phức tạp duy nhất đối với chính sách can dự. Trong 15 năm qua, thương mãi đã kéo Hoa Kỳ lại gần với TQ. Thực vậy, toàn cầu hóa đã trở thành một phần quan trọng trong chính sách can dự. Nhưng ngày nay, khi một trong 10 người Mỹ không có việc làm, chính sách kinh tế đã nhuốm mầu bảo vệ mậu dịch. Nếu TQ mất hậu thuẩn chính trị trước các thế lực vận động hành lang của giới đại doanh nghiệp Mỹ, một giới gần đây ngày một chống đối TQ hơn, dĩ nhiên giọng điệu của Hoa Thịnh Đốn cũng sẽ có thể dịch chuyển nhiều. Vì vậy, mậu dịch cũng có thể bắt đầu làm gia tăng nổi âu lo của TQ: Hoa Kỳ cuối cùng cũng sẽ lựa chọn ngăn chặn sự trỗi dậy của TQ. Nghi ngờ thứ hai về chính sách TQ của Hoa Kỳ là có thể nào người Mỹ sẽ tuân thủ những gì chính sách can dự đòi hỏi? Chính sách nầy dựa trên hai ý niệm. Trước hết, TQ có thể trỗi dậy hay phát triển thành một đại cường đã toại nguyện - một đại cường không cảm thấy cần phải lật ngược trật tự thế giới thời hậu chiến do Mỹ thiết kế và duy trì. Thứ hai, nếu TQ ít nhiều tuân thủ các chuẩn mực toàn cầu, liệu Hoa Kỳ sẽ có thể chấp thuận thích nghi với các quyền lợi của TQ? Như vậy, chính sách can dự đòi hỏi TQ và Hoa Kỳ phải tìm được một hổn hợp ổn định giữa sự tham dự của TQ và sự thích nghi điều chỉnh của Hoa Kỳ. Câu hỏi cần được đặt ra: TQ có tuân thủ các chuẩn mực toàn cầu hay không? Trước đây, như Bill Clinton đã từng nói: "về nhân quyền và tự do tôn giáo, TQ vẫn còn ở về phía sai lầm của lịch sử"[20]. Một số nhà phân tích Tây phương thích đưa ra những lời cảnh báo về chiến lược lâu dài vòng vo. Tuy nhiên, trong khuôn mẫu chủng tộc bất di bất dịch đó, chính Hoa Kỳ, không phải TQ, đã xây dựng chính sách của mình trên châm ngôn 'bất chiến tự nhiên thành' của Tôn Tử -Sun Tzu. Giá trị của TQ đã thay đổi hẳn từ thời Mao Trạch Đông, khi khủng bố không may đã thành thông lệ. Như Richard McGregor đã viết trong tác phẩm 'The Party', khủng bố hiện nay rất ít khi được sử dụng.TQ của Hồ Cẩm Đào cơ sở trên khuyến dụ và mua chuộc thay vì đàn áp. Tuy vậy, TQ vẫn còn là một nhà nước độc đảng và khủng bố vẫn còn thiết yếu cho sự trường tồn. Khi Đảng cần được bảo vệ, khủng bố vẫn còn được sử dụng không mảy may ái ngại. Trong cùng chiều hướng, trên trường quốc tế, TQ không còn yểm trợ các phong trào nổi dậy để chống lại các lân bang hay dựa trên những lập trường không khoan nhượng chỉ vì không muốn khoan nhượng. Mặc dù vậy, phương Tây vẫn xem TQ như một đối tác khó tính. Các nhà bình luận Hoa Kỳ, như Gary Schmitt thuộc Viện Doanh Thương Hoa Kỳ (American Enterprise Institute) ở Hoa Thịnh Đốn, luôn lên án "cách tiếp cận siêu thị" - supermarket approach, của TQ: TQ mua những gì phải mua, chọn những gì mình muốn, và tảng lờ những gì không thích. HY VỌNG VÀ CHÍNH SÁCH Người ta hy vọng trong tương lai TQ sẽ ngày một dân chủ hơn và sẽ chu toàn trách nhiệm quốc tế của mình. Tuy nhiên, theo Richard Armitage, thứ trưởng ngoại giao dưới thời George W. Bush, hy vọng không phải là một chính sách. Trong bối cảnh những vấn đề khó khăn của các xứ dân chủ Tây phương và sự thành công kinh tế và tương đối ổn định của TQ, theo Richard Woolcott, đặc sứ của thủ tướng Úc, khả năng chuyển biến thành một quốc gia dân chủ đa đảng của TQ hình như không còn chắc chắn hay không thể tránh. Trong hiện tình, Đảng Cộng Sản có vẻ hoàn toàn nắm chặt quyền kiểm soát. Vì vậy, giả thiết TQ vẫn là một nhà nước cộng sản, độc đảng, độc tài với quyết tâm làm những gì mình muốn, Hoa Kỳ có thể nào chấp nhận tự mình phải điều chỉnh và thích nghi? Một số các nhà tư tưởng Hoa Kỳ, như John Ikenberry ở Đại Học Princeton, đưa ra luận cứ : Hoa Kỳ đã tạo dựng được một hệ thống cơ sở trên luật pháp có khả năng thu hút các thành viên mới. Những định chế như Liên Hiệp Quốc, G20, Thỏa Ước Cấm Phổ Biến Nguyên Tử - NPT, và Tổ Chức Thương Mãi Thế Giới -WTO, ít ra trên lý thuyết, có thể vận hành ngay cả khi không có sự lãnh đạo của Mỹ. Trong viễn kiến nầy, nước Mỹ có thể thu nhận TQ chừng nào TQ tự thích nghi vào trật tự thế giới hiện hữu. Viễn kiến nầy đã có quá nhiều thiếu sót. Đã hẳn, khác với các cường quốc Âu châu trong thế kỷ 19, Hoa Kỳ, trên nhiều phương diện, đã tỏ ra sẵn sàng tuân thủ những quy luật hiện hữu. Đó là lý do vì sao khá nhiều quốc gia đã chịu chấp nhận sống trong vòng ảnh hưởng của Mỹ. Tuy nhiên, cũng như bất cứ siêu cường bá chủ sắp lên nào khác, Hoa Kỳ vẫn ngang nhiên tảng lờ các quy luật do chính mình áp đặt, mỗi khi quyền lợi thiết thân của Hoa Kỳ đòi hỏi. Năm 2005, China National Offshore Oil Company, đã trúng thầu mua lại Unocal của Mỹ, đã bị ngăn chặn chỉ vì người Mỹ phản đối. Khi người Mỹ cần và muốn ký thỏa ước nguyên tử với Ấn Độ, Hoa Kỳ đã không hề do dự dẫm lên NPT. Người Mỹ đã tham chiến ở Balkans trong thập kỷ 1990 và một lần nữa xâm chiếm Iraq năm 2003 chẳng quan tâm đến Hiến Chương LHQ. Nước Mỹ cũng có thể gây chiến với Iran trên cùng một căn bản. Tóm lại, các siêu cường luôn vi phạm quy luật hay luật quốc tế khi cần và chẳng ai hay định chế nào có thể ngăn chặn. Qua thời gian, lôgic đó cũng có ngày TQ sẽ áp dụng. Và Hoa Kỳ phải quyết định nhân nhượng, điều chỉnh, thích nghi, hay phủ nhận quyền bá chủ của TQ. Trong thực tế, thật khó lòng phán đoán tinh thần trách nhiệm của siêu cường TQ. Theo quan điểm của người Hoa, người Mỹ hình như luôn định nghĩa cách ứng xử quốc tế có thể chấp nhận được như phải tuân phục chính sách của Hoa Kỳ. Theo lời Yuan Peng, thuộc Viện Quan Hệ Quốc Tế Đương Đại Trung Quốc ở Bắc Kinh - China Institutes of Contemporary International Relations, "Hoa Kỳ phiền trách không phải vì TQ nói 'Không' với trách nhiệm toàn cầu hay phủ nhận vai trò của mình trong sinh hoạt quốc tế, mà chính là vì TQ từ chối nói 'Vâng' với bất cứ đòi hỏi nào của Mỹ"[21]. Thích nghi, điều chỉnh, là điều dễ dàng khi có nghĩa TQ làm những gì Hoa Kỳ muốn. Nhưng liệu Hoa Kỳ có chịu để TQ làm những gì Hoa Kỳ không muốn? Màn đen bao phủ chính sách can dự của Hoa Kỳ là TQ sẽ không thay đổi đủ để thỏa mãn Hoa Kỳ và Hoa Kỳ sẽ không nhân nhượng đủ để thỏa mãn TQ. Điều đó nghe khá trừu tượng, nhưng bất cứ lúc nào cũng có thể trở thành sự thật một cách phủ phàng, hoặc trên Bán Đảo Triều Tiên hay trong Eo Biển Đài Loan. VẤN NẠN TRIỀU TIÊN Không ai biết Bắc Triều Tiên có thể trường tồn và điều gì sẽ đến sau Kim Jong Il và Kim Jong Un. Nhưng thử tưởng tượng trong chốc lát, khi Kim Jong Il quá vãng, Bắc Triều Tiên rơi vào hỗn loạn, vô chính phủ, hay tấn công như đã từng làm trong tháng 11-2010 gây thương vong cho binh sĩ và thường dân Nam Hàn. Cuộc khủng hoảng tiếp theo sẽ là một thử thách nghiêm trọng đối với khả năng chung sống hòa bình giữa TQ và Hoa Kỳ. Mọi người sẽ âu lo về vũ khí nguyên tử của Bắc Hàn. Hoa Kỳ có thể muốn chiếm hữu, nhưng TQ không thích sự hiện diện của quân đội Mỹ ở biên giới của mình. TQ cũng không muốn Hoa Kỳ hay Nam Hàn khẳng định quyền kiểm soát Bắc Triều Tiên, một đồng minh của TQ và một vùng trái độn. Trong trường kỳ, TQ có thể chờ đợi tái lập ảnh hưởng trên một Triều Tiên thống nhất như bất cứ đại cường áp đảo nào khác trên lục địa Á châu đã làm trong lịch sử. Điều nầy sẽ nêu lên rất nhiều vấn đề. Liệu Hoa Kỳ có thể tin và để mặc TQ tinh chế plutonium và uranium đã được làm giàu? Liệu TQ có thể chấp nhận ý kiến quân đội Nam Hàn tái lập trật tự ở phía Bắc? Liệu TQ có cho phép hai miền Triều Tiên được thống nhất? Nếu điều nầy xẩy ra, liệu Hoa Kỳ chung cuộc sẽ xem xét khả năng triệt thoái quân đội ra khỏi bán đảo Triều Tiên? Điều đáng buồn và đáng lo là những vấn đề trên đây đã rất ít được nghĩ đến. Người ta chỉ biết, TQ cho đến nay vẫn không muốn đem ra thảo luận với Mỹ, bởi lẽ họ không muốn tỏ ra thiếu lòng tin ở đồng minh lâu ngày dù khó tiên liệu ở miền Bắc. Tuy nhiên, nếu nay là thời điểm rất không tiện để bàn về Triều Tiên, điều nầy sẽ thập phần khó khăn hơn trong khủng hoảng. Nếu hai nước Triều Tiên cùng chia sẻ một biên giới trên bộ là điều rất đáng quan ngại, tuyến đường xuyên qua Eo Biển Đài Loan cũng là tuyến đường biển đầy bất trắc. Tái thống nhất với Đài Loan được TQ đặc biệt quan tâm như một trách nhiệm tuyệt đối. Người ta kể lại câu chuyện cách đây ít năm, biên tập viên một nhật báo ở Thượng Hải đã ca tụng một cơ xưởng mới sản xuất các sản phẩm bán dẫn trong thành phố như công xưởng lớn nhất TQ. Vì bỏ quên Đài Loan, ông ta đã phải tự kiểm điểm và chấp nhận bị bớt lương. Tuy nhiên, chẳng những không răn đe, TQ ngày nay còn tưởng thưởng Đài Loan. Hàng trăm chuyến bay nối liền lục địa TQ với Đài Loan mỗi tháng. Thỏa ước mậu dịch tự do với Đài Loan được ký kết mùa hè năm ngoái bao gồm nhiều biện pháp trợ giúp nông dân Đài Loan, những người có khuynh hướng ủng hộ Đảng Dân Chủ Tiến Bộ (Democratic Progressive Party -DPP) chủ trương độc lập với lục địa. Gần đây, TQ còn ám chỉ một ngày nào đó TQ cũng có thể đổi hướng tên lửa ra khỏi Đài Loan. Trong hiện tại, chính sách hình như đang mang lại hiệu quả. DPP đã mất quyền lực. Cũng chẳng mấy quan trọng khi đảng thay thế - Quốc Dân Đảng -Kuomintang, là cựu thù của Đảng Cộng Sản TQ. Dưới quyền lãnh đạo của Ma Ying-jeou, Đài Loan rất thực tế. Nhân dân Đài Loan rõ ràng không muốn chọc giận TQ bằng cách đòi hỏi độc lập, nhưng cũng chẳng muốn trao Đài Loan dân chủ cho TQ, một nhà nước độc đảng, độc tài. Điều nầy không thành vấn đề đối với người Mỹ. Hoa Kỳ vẫn có thể tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, và vẫn có thể giao hảo với một TQ duy nhất chừng nào thống nhất chỉ có thể đến một cách hòa bình. Điều Hoa Kỳ không thể chấp nhận là thống nhất bằng bạo lực. Một cách nghiêm chỉnh, luật Quan Hệ với Đài Loan 1979 không buộc Hoa Kỳ phải bảo vệ Đài Loan. Tuy nhiên, trừ phi Đài Loan khiêu khích TQ một cách lố bịch, Hoa Kỳ có thể sẽ có rất ít lựa chọn ngoại trừ can thiệp. Nếu Hoa Kỳ chỉ đứng nhìn, Hoa Kỳ có thể đánh mất lòng tin của đồng minh trên khắp thế giới. Đài Loan vẫn là một điểm nóng. Nền dân chủ Đài Loan có thể dẫn đến ước muốn độc lập; chủ thuyết dân tộc của TQ có thể đòi hỏi phải tái thống nhất khẩn cấp hơn; và Hoa Kỳ có thể e ngại tỏ ra yếu đuối. Ngay cả giờ đây, khi các bên còn giữ quan hệ bình thường, đảo quốc vẫn là một thử thách đối với sự tự chế của TQ và Hoa Kỳ. Hoa Kỳ cần phải minh bạch tỏ rõ là sẽ không để bị lôi cuốn: Đài Loan không thể tìm kiếm độc lập một cách liều lĩnh dựa trên giả thiết Hoa Kỳ sẽ bảo vệ họ. TQ cũng cần phải hiểu cưởng chế có thể đánh mất uy tín đối với phần còn lại của thế giới. Hoa Kỳ không chờ đợi TQ sẽ từ bỏ các mục tiêu, cũng không chờ đợi TQ luôn thỏa mãn các yêu sách của mình bên trong hệ thống. Các nhà làm chính sách thường chế nhiễu các nhà ngoại giao là luôn theo đuổi các thỏa hiệp tương nhượng và các sự-thật-nửa-vời. Tuy nhiên, sứ mệnh cao cả của ngoại giao là tìm kiếm thuốc giải độc cho mọi tranh chấp đầu độc địa chính trị. Kể từ thế kỷ 19, họ chưa bao giờ có sứ mệnh lớn lao: quản lý quan hệ giữa TQ và Hoa Kỳ. Trong chính quyền Obama, sứ mệnh vừa nói đã được dành một tên gọi: trấn an chiến lược -strategic reassurance. KẾT LUẬN Chờ thời và che giấu uy lực là khôn ngoan, nhất là đối với các nước nhược tiểu đang mong muốn ngày một hùng cường. Đến một lúc nào đó, bạn sẽ muốn lợi dụng cơ hội quyền lực mới đem lại. Thời khắc đó đã đến với TQ hay chưa? Sức mạnh quân sự của TQ trên toàn cầu chưa thể đối đầu với lực lượng Mỹ. Nhưng PLA đang bắt đầu phủ nhận vai trò bá chủ của Hoa Kỳ trong suốt 65 năm qua trong vùng Tây Thái Bình Dương.Thúc đẩy bởi chủ thuyết dân tộc, cuộc thảo luận hiện đang diễn ra bên trong giới lãnh đạo TQ: họ đang cứu xét lúc nào mới đúng thời cơ để vùng dậy. Điều nầy sẽ ảnh hưởng đến giới lãnh đạo TQ, mặc dù các dấu hiệu cho thấy hiện họ đang muốn dành ưu tiên cho tăng trưởng kinh tế và các vấn đề quốc nội . Thế giới bên ngoài nghi ngờ TQ và âu lo không biết TQ sẽ là loại đại cường nào.Các quốc gia Á châu đang phân vân nên hướng về TQ để phát triển hay về Hoa Kỳ để tìm kiếm an ninh. Nếu TQ hăng say khẳng định quyền lực mới của mình, họ rất có thể sẽ gặp phải sự chống đối mãnh liệt. Hoa Kỳ cũng lúc một cảm thấy dễ bị tổn thương. Quân lực Hoa Kỳ đã nhận diện được mối đe dọa trong vùng Thái Bình Dương. Ngoại giao kinh tế đã chuyển mình mang tính hung hăng gây hấn và khó thể tiên đoán. Điều nầy cho thấy chính sách của Hoa Kỳ về TQ ngày càng bối rối giữa thích nghi can dự và rào giậu đắp đê. Chúng ta đang chứng kiến một hổn hợp các lực lượng cực kỳ nguy hiểm. Sau một thập kỷ Hoa Kỳ đã bị chia trí bởi khủng bố và TQ bị thu hút bởi tăng trưởng kinh tế, quan hệ đối ngoại của TQ giờ đây có lẽ sẽ trở nên lúc một khó khăn hơn. Nguy cơ đã thực sự hiển hiện trong vòng mấy tháng cuối năm 2010 qua một loạt tranh chấp, với Nhật về vài hải đảo, về vụ đánh chìm tàu chiến Cheonan, và đòi chủ quyền các quần đảo trong vùng Nam Hải. Đã hẳn những sự kiện riêng rẽ đó không thể là những yếu tố quyết định quan hệ của TQ đối với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, mỗi một sự kiện đang khoác lên một ý nghĩa lớn lao, bởi lẽ nổi lo âu của thế giới bên ngoài, nhất là các quốc gia Á châu: TQ sẽ ngày một có nhiều tham vọng; và vì sự nghi ngờ từ phía TQ: Hoa Kỳ sẽ quyết tâm ngăn chặn sự trỗi dậy của TQ. Mỗi một sự kiện sẽ được xem như một thử thách những gì có thể sẽ xẩy ra. Giải pháp sẽ là tìm cách tối thiểu hóa sự nghi kỵ lẫn nhau giữa TQ và Hoa Kỳ. Điều nầy quả thật khó khăn nhưng không phải vô vọng. TQ không đi tìm thuộc địa mới và cũng không tìm cách xuất khẩu ý thức hệ. TQ còn chia sẻ nhiều mục tiêu với Mỹ: ổn định, ngăn ngừa phổ biến nguyên tử, và trên hết, một nền kinh tế thế giới thịnh vượng. Những mục tiêu nầy chỉ có thể đạt được trong hòa bình. Thù nghịch luôn được nuôi dưỡng bởi thù nghịch; chiến tranh là mẹ đẻ của chiến tranh. Trong địa chính trị, cũng như trong sinh hoạt đời thường, phương thuốc hay nhất là phòng ngừa. Khi quan hệ biến thái thành đối nghịch, lúc đó thật khó lòng lùi bước. Lãnh đạo TQ và Hoa Kỳ luôn nói đến tham vọng đem lại những quan hệ tốt đẹp giữa các siêu cường. Sự trỗi dậy của TQ không phải chỉ nhằm đem lại thịnh vượng cho 1,3 tỉ dân TQ, chắc cũng không phải nhằm đem lại thù nghịch hay xung đột với phần còn lại của thế giới. Trong mọi trường hợp, tương lai sẽ hoàn toàn do chính chúng ta tạo dựng. Hòa bình hay chiến tranh, thế giới hình như luôn vận hành theo chu kỳ nhân quả. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 20-01-2010 [1] Coolly observe, calmly deal with things, hold your position, hide your capacities, bide your time, accomplish things where possible. [2] There is a perception in China that the West needs China more than China needs the West. [3] We used to hide our power - deny our power. But then, this became increasingly impossible as our strength increased. [4] Many Chinese scholars suggest that the government give up the illusion of US partnership and face squarely the profound and inevitable strategic competition. [5] Power changes nations. It expands their wants and desires, increases their sense of entilement, their need for deference and respect. It also makes them more ambitious. It lessens their tolerance to obstacles, their willingness to take no for an answer. [6] Westernizing, dividing and weakening. [7] The Stockholm Internatioal Peace Research Institute - SIPRI. [8] Let the Chinese people, especially the youth, enhance their pride and self-confidence in the nation and prevent the rise of the worship of the West. [9] On Tibet and Taiwan it's not just Chinese ministers who bang tables, but Chinese dissidents, too. [10] This is a people with a sense of their past greatness, recent humiliation, present achievement and future supremacy. It's a potent mix. [11] If we suppose that there are two options and they use tough measures...and the leader fails to resolve , he is justified. But if [he] uses too much honey and he fails, he is regarded as guilty by all future generations.
[12] The thing you have to understand is that both of us think that the future belongs to us. We can't both be right.
[13] In the space of a decade, China has transformed itself from a sceptic of liberalized and preferential trade into one of their strongest proponents.
[14] Asia's various forums and treaties 'looks more like a list of cats and dogs than a coherent and predictable framework for the future".
[15] I put this catechism to them: 'Do you think America should treat China as an equal if its power grows equal to America's?' The answer is always no. Then I ask, 'Do you think China will settle for anything less than being treated as equal?' The answer to that is always no, too. Then I ask, 'So how do you expect the US and China to get along?' I usually get a shrug by way of reply.
[16] The United States insists we do not seek to contain China's rise. On the contrary, we welcome China as a strong and prosperous and successful member of the community of nations.
[17] China's growing economy is joined by growing responsibilities.
[18] Until..it is determined that China's intent is indeed benign, it is critical that we maintain the readiness of our postured forces; continually reinforce our commitment to our allies and partners in the region; and meet each chalenge by the PRC in a professional manner that is consistent with internatioal law.
[19] China's interest in a peaceful and stable environment is difficult to reconcile with its evolving military capabilities.
[20] When it comes to human rights and religious freedom, China remains on the wrong side of history.
[21] America's complaint is "not that China says no to global responsibility or denies its role in world affairs, but rather that it declines to say yes to every US request".
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 28, 2011 3:43:21 GMT 9
Nhận thức đương đại của Trung quốc về âu Châu Vietsciences- Nguyễn Trường ( chuyển ngữ )
(Contemporary Chinese Views of Europe by Karine Lisbonne-de Vergeron)
Lời Mở Đầu
Sau gần hai mươi năm tê liệt, quá trình hội nhập Âu châu đã được tái khởi động với Hiệp Định mới về định chế Liên Hiệp Âu Châu (EU), đạt được vào ngày 19-10-2007 tại Lisbon. Nicolas Sarkozy, Tổng Thống Pháp, mới đây, đã lên tiếng kêu gọi 27 nước thành viên hãy ủng hộ quá trình sáng lập một Ủy Ban Các Thức Giã cao cấp (a high level Committee of Wise Men) để xem xét tương lai của Âu châu và khuyến nghị một viễn kiến minh bạch nhằm phát triển Liên Hiệp cho hai mươi năm sắp tới. Sứ mệnh của Ủy ban là thẩm định khả năng của Liên Hiệp Âu Châu trước những thách đố của toàn cầu hóa và tác động của một Trung Quốc đang trổi dậy.
Trong những năm gần đây, người ta đã thấy vô số những nghiên cứu về vấn đề nầy. Tuy nhiên, phần lớn đều do các tác giả nước ngoài, nhất là Âu châu. Rất ít công trình chú tâm đến những gì người Trung Quốc nghĩ về thế giới bên ngoài nơi đó Trung Quốc đang chiếm một vị trí ngày một ưu thế. Hơn nữa, người ta chưa từng gặp một công trình nghiên cứu mang tính hệ thống để tìm hiểu người Trung Quốc đã nhận thức như thế nào về Liên Hiệp Âu Châu nói riêng và châu Âu nói chung. Đã hẵn đây là một đề tài "tuy hai mà một", không thể nghiên cứu riêng rẽ mà không đánh mất ý nghĩa.
Đã hẵn, một cuộc nghiên cứu phản ảnh quan điểm của giới thức giã Trung Quốc - tự nó đã mang tính phiến diện - nhưng một phần nào vẫn có thể giúp giới lãnh đạo Âu châu điều chỉnh cái mà một bình luận gia Trung hoa gọi là xu thế hướng nội ngày một gia tăng đang ám ảnh người Âu và phương hại đến khả năng Âu châu giữ vai trò lãnh đạo trong sinh hoạt thế giới.
Ngày nay, Trung Quốc hình như đang cực lực hướng ngoại. Nền kinh tế hiện đang phát triển với tốc độ 11.5% mỗi năm. Nhiều người tin vào khoảng năm 2030, và có lẽ còn sớm hơn, kinh tế Trung Quốc sẽ vượt lên vị trí số 1 của thế giới. Trong quá trình phát triển, dĩ nhiên Trung Quốc luôn đặc biệt quan tâm đến vai trò của Liên Hiệp Âu Châu. Kể từ năm 2004, Liên Hiệp Âu Châu đã là đối tác thương mãi hàng đầu, và tầm quan trọng của thị trường Âu châu ngày một gia tăng nhanh chóng đối với Trung Quốc. Tuy nhiên, mặc dù một số bình luận gia đã nói nhiều về một đối tác chiến lược , và một số đối thoại và khung hợp tác đã được thảo luận trong hai thập kỷ qua, người ta phải đợi đến cuộc họp thượng đỉnh Liên Hiệp Âu Châu- Trung Quốc năm 2006 ở Helsinki, các cuộc thảo luận về một Thỏa Ước Đối Tác và Hợp Tác mới (New Partnership and Cooperation Agreement - PCA), mới được khởi động. Điều nầy trái hẵn với hàng loạt thỏa ước "đối tác chiến lược" với Hoa Kỳ. Từ đó, tiến độ cũng chẳng mấy chóng vánh. Những cuộc thảo luận dự liệu diễn ra trong hội nghị thượng đỉnh thứ 10 tại Bắc Kinh ngày 28-11-2007 và tiếp tục trong suốt nhiệm kỳ chủ tịch Liên Hiệp Âu Châu của Pháp vào hậu bán niên 2008 (trong khoảng thời gian phiên họp thượng đỉnh thứ 11 dự liệu được triệu tập).
Công trình nghiên cứu nầy đặc biệt nhằm nêu rõ:
. Người Trung Quốc (TQ) cảm thấy Âu châu thiếu một viễn kiến chiến lược, và nội bộ còn lủng củng, những nhược điểm ảnh hưởng đến uy tín trong sinh hoạt thế giới. Âu châu không hiện diện như một trung tâm quyền lực chính trị, nhất là khi sánh với Hoa Kỳ.
. TQ muốn thấy một tiếng nói Âu châu thống nhất, như một thành tố trong quan niệm của người Hoa về một trật tự thế giới đa cực tương lai .
. TQ có một cách tiếp cận tinh tế đối với Âu châu, bao gồm một sự am hiểu thấu đáo về Liên Hiệp Âu Châu (EU) trong hai khía cạnh định chế và các xứ thành viên chính, cũng như nền văn minh Âu châu nói chung.
. Quan hệ kinh tế và chính trị giữa Âu châu và TQ hiện hạn chế trong khuôn khổ song phương với từng quốc gia thành viên riêng lẻ. Tuy nhiên, EU như một thực thể ngày một quan trọng hơn đối với TQ về thương mãi và về nhiều khía cạnh kinh tế khác. Trong vòng 20 năm sắp tới, xét cho cùng, chỉ có EU như một thực thể mới có thể duy trì một vị thế thương nghị đứng đắn với TQ trong những địa hạt vừa kể.
. Người TQ xem sự ra đời của đồng Euro như một thành tựu rất ấn tượng. Họ tin vị trí của Âu châu trong tương lai sẽ tùy thuộc, trên hết, ở khả năng xây dựng một bản sắc quốc phòng và an ninh chung chặt chẻ hơn và tăng cường khu vực Eurozone - đặc biệt là với sự gia nhập của Vương quốc Anh.
. TQ xem kinh nghiệm Âu châu như một nguồn cảm hứng, tiếp sức cho sự hợp tác kinh tế cấp khu vực ở Á châu, nhất là trong tương quan với Nhật Bản.
. Âu châu vẫn còn rất hấp dẫn về văn hóa và, trong căn bản, không thoái bộ (trái với suy đoán của một số người Ấn và người Mỹ). Mặc dù người TQ cảm nhận Âu châu và Hoa Kỳ cuối cùng rồi cũng thắt chặt với nhau, họ vẫn luôn xem Âu châu và TQ như hai nền văn minh nòng cốt của thế giới, và từ góc cạnh nầy, xem Hoa Kỳ chỉ ở bên lề (marginal). Nhận thức nầy đem lại một căn bản chung đặc thù cho sự hiểu biết và cảm thông giữa người Âu châu và người Hoa. Người TQ nhìn Âu châu trong ý niệm EU là một tập thể căn bản và mong muốn được thấy EU mở rộng hơn nữa. Tuy nhiên, họ vẫn còn chưa nhất trí xem Nga trên căn bản là một cường quốc Âu châu.
KINH TẾ ÂU CHÂU: NHẬN THỨC CỦA NGƯỜI TRUNG QUỐC 1. Liên Hiệp Âu Châu: Quan hệ kinh tế then chốt của Trung Quốc
Người Trung quốc hiện nay rất quan tâm đến quan hệ kinh tế với Âu châu và Liên hiệp Âu châu (EU). Từ 2004, EU luôn là đối tác thương mãi đầu tiên của Trung quốc, chiếm 15% ngạch số ngoại thương năm 2006, với thương mãi song phương gia tăng 25% so với 2005. Nhìn chung, mậu dịch song phương giữa Trung quốc và EU đã gia tăng gấp 6 lần từ 1978, lên đến 255 tỉ Euro vào năm 2006. Ngược lại, Trung quốc hiện là đối tác thương mãi lớn thứ nhì của EU, chỉ sau Hoa Kỳ, và năm 2006 đã là nguồn nhập khẩu lớn nhất của EU, với ngạch số lên đến khoảng 192 tỉ euros, hay 14,4% tổng số nhập khẩu của EU, và gia tăng 21% so với năm 2005. Trong cùng khoảng thời gian, số xuất khẩu của EU qua Trung quốc đã gia tăng 23%, đạt ngạch số 63 tỉ euros (xem Bảng 1 đính hậu).
Sau đây là một số sự kiện đáng lưu ý:
(1) Năm 2005, Trung quốc là nước hưởng ưu đải lớn thứ hai trong chương trình Generalized System of Preferences -GSP (Hệ Thống Ưu Đải Tổng Quát Hóa), lên tới 10,3% tổng số nhập khẩu trong năm.
(2) Từ tháng 1 đến tháng 11 năm 2006, tổng số giao dịch thương mãi giữa EU (25 thành viên) và Trung quốc đã lên đến 231,4 tỉ euros. Trong số nầy, 178 tỉ (77%) từ Eurozone (khu vực Euro,12 thành viên). Điều nầy có nghĩa là thành viên của Eurozone chiếm đến 70% ngạch số khuy khiếm của EU với Trung quốc.
(3) EU là nguồn cung cấp lớn nhất cho Trung quốc các trang bị phẩm kỷ thuật cao và tư bản phẩm nói chung. Trung quốc đã tiếp nhận trên 40% tổng số nhập khẩu các sản phẩm loại nầy từ EU (so với 23% từ Nhật và 19% từ Hoa Kỳ trong năm 2006). Trong năm 2006, Trung quốc đã có đến 2.500 hợp đồng nhập khẩu máy móc trang bị từ EU, với trị giá trên 8,6 tỉ Euro.
(4) Đầu tư trực tiếp (Foreign direct investment - FDI) từ EU vào Trung quốc đã lên đến 3,7 tỉ Euro năm 2006. Trong những năm gần đây, các công ty EU đã gia tăng đầu tư vào Trung quốc, đem tổng số FDI của EU (với 25 thành viên) lên trên 31,4 tỉ Euro vào cuối năm 2005 (từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2007, 2,5 tỉ FDI từ Nhật và 1,8 tỉ từ Hoa Kỳ ).
(5) FDI Trung quốc đến Âu châu, trong khoảng từ tháng 1 đến tháng 9, 2005, lên tới 130 triệu Euro, gia tăng 68% so với cùng kỳ trong năm 2004.
2. Phần lớn thương mãi là với các quốc gia thành viên riêng rẻ
Theo một số người Trung quốc được phỏng vấn, EU là một khối có khả năng đặt chuẩn mực và quy luật có ảnh hưởng toàn cầu, chẳng hạn như WTO. Tuy nhiên, trong mục tiêu kinh tế thực dụng, họ cảm nhận Trung quốc thà làm việc trực tiếp song phương với từng quốc gia Âu châu riêng rẻ hơn là với một Âu châu như một tập thể. Theo lời một doanh nhân Âu châu thường trú ở Trung quốc, Âu châu không có một đội túc cầu và người ta cũng không thấy hiện diện một đội ngủ doanh nhân Âu châu thống nhất khả dĩ lợi dụng tối đa các cơ hội do quá trình phát triển kinh tế ngoạn mục của Trung quốc đem lại. Các công ty Âu châu cạnh tranh gay gắt với nhau, phương hại đến hình ành của tập thể. Trạng huống đó đã cho phép Trung quốc lợi dụng trong chiến lược hạ thấp lợi nhuận với toàn bộ Âu châu. Một ví dụ điển hình là hợp đồng xây tuyến đường hỏa xa cao tốc nối liền với phi cảng Thượng Hải. Một tập đoàn do công ty Siemens dẫn đầu đã trúng thầu, nhưng trong những điều kiện bất lợi hơn nhiều, vì phải cạnh tranh không những với một công ty Nhật mà còn cả với một nhà thầu Pháp.
Trong các xứ thành viên EU, Đức là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung quốc, chiếm 29% tổng số EU trong năm 2006. Mậu dịch đã gia tăng 25% từ 2005 đến 2006 với nhịp gia tăng trung bình 20-28% mỗi năm kể từ 1998. Trung quốc là đối tác số 10 đối với hàng xuất khẩu của Đức. Theo sự đánh giá của các doanh nhân Trung quốc, Đức được xem có nhiều ngành kỹ nghệ rất hiệu quả, với những công ty then chốt hoạt động trong các ngành kỹ nghệ xe hơi, hóa học (BASF và Bayer) và điện tử. Ngược lại, Anh quốc đứng thứ ba trong EU, với một thị phần 11% - sau cả Hòa Lan, xứ có nhập siêu lớn nhất Âu châu. Mậu dịch của Anh với Trung quốc đã gia tăng 25% từ 2005 và Anh là xứ có mức FDI lớn nhất EU ở Trung quốc. Các công ty Anh thành công nhất ở Trung quốc gồm HSBC (với 8% cổ phần trong Bank of Shanghai) và Royal Bank of Scotland (6% cổ phần trong Bank of China) trong khu vực tài chánh, và BG Group trong kỹ nghệ hơi đốt. Pháp đứng hàng thứ tư trong EU (9%) với 1.400 công ty hoạt động ở Trung quốc. Một số thành công lớn như bán 150 máy bay Airbus vào tháng 12-2005, trị giá 8,3 tỉ Euro, thỏa ước sản xuất liên doanh một phi cơ lên thẳng dân sự, loại 175, trị giá 300 triệu Euro, và thỏa thuận cung cấp hai lò phản ứng hạt nhân EPR 1.600 MW do công ty Areva của Pháp vào mùa đông 2007.
Đối với vị giám đốc một công ty Âu châu lớn người Anh ở Thượng Hải, điều rõ ràng là "ba năm trước đây, CEO của công ty có thể dễ dàng gặp những bộ trưởng hàng đầu trong chính quyền Trung quốc", nhưng "giờ đây, với tư thế một quốc gia thành viên (EU), thật khó lòng có đủ uy tín bằng tư thế chung với các chính quyền Âu châu khác". Một nhận xét tương tự:"Tôi đã trở thành người Âu châu khi đặt chân đến đây". Trong những dự án lớn, người Âu nên hợp tác với nhau thay vì cạnh tranh."Nói chung, Âu châu sẽ cần những tập đoàn vô địch nếu muốn đối đầu với thách đố do Trung quốc và cách làm ăn của người Hoa đem lại". Đã hẵn, với một dân số 490 triệu, và tiềm năng mở rộng hơn nữa, EU, như một định chế, một thực thể, đương nhiên có thể là một "đối tác tự nhiên" với Trung quốc hơn là những thành viên riêng rẻ. Như một chuyên viên Trung quốc hàng đầu thổ lộ, mặc dù chúng tôi thủ lợi trước tình trạng phân tán chia rẻ, chúng tôi tiên liệu người Âu ngày một ý thức rõ chỉ khi nào họ đoàn kết hay thống nhất, họ mới có thể giữ được vị trí cạnh tranh hữu hiệu với Trung quốc".
3. Liệu Âu châu có giữ được vị trí của mình?
Hầu hết chuyên viên kinh tế Trung quốc đồng ý, trong đoản kỳ, EU cần tiếp tục giữ vai trò đối tác thương mãi lớn nhất của Trung quốc. Tuy nhiên, một số tiên đoán, năm mươi năm sau, Trung quốc sẽ là cường quốc kinh tế số một của thế giới, kế đến là Ấn độ, rồi mới tới Hoa Kỳ và Nhật bản, mặc dù 'điều nầy có thể đến sớm hơn nhiều'. Điều không ai nghi ngờ là 'không một quốc gia Âu châu riêng lẽ nào sẽ lọt vào bốn nước đầu bảng'. Mặc dù 'Âu châu nói chung vẫn sẽ là một trong những nền kinh tế lớn nhất của thế giới', địa vị tương đối của Âu châu 'hiện nay thật bấp bênh'. 'Rất có thể kinh tế Âu châu sẽ quan trọng hơn Á châu, ngoài Trung quốc và Ấn Độ, và cũng vượt cả Bắc Mỹ'. Dù sao, có lẽ phải đợi khoảng một thập kỷ sau 'mới có thể xét đoán dễ dàng'. Một sử gia Trung quốc đã nêu rõ, 'điều nầy có nghĩa một sự trở lại trạng huống hay mô hình kinh tế vào cuối thế kỷ thứ 18, khi Trung quốc chiếm giữ gần 30% thương mãi toàn cầu, với Ấn Độ đứng thứ hai với 15% - dĩ nhiên vào thời điểm châu Mỹ tiền-Columbus còn cô lập - kéo dài trong suốt phần lớn thời kỳ lịch sử đã được ghi chép'.Trong ba thập kỷ sắp đến, người Trung quốc đặc biệt quan tâm ba yếu tố mang tính quyết định nhận thức kinh tế của họ về Âu châu. Theo thứ tự quan trọng tiệm tăng, đó là diễn biến trong quan hệ thương mãi của họ với Hoa Kỳ, tăng trưởng trong trình độ hội nhập với các nền kinh tế lớn khác ở Á châu, và biến chuyển trong nền kinh tế quốc nội.
4. Âu châu, đồng đô la và khuy khiếm
Các quan sát viên Trung quốc, đã hẵn, rất e ngại trước áp lực ngày một gia tăng từ phía Hoa Kỳ , và cố nhiên, cả từ phía Âu châu, đòi hỏi Trung quốc tái định giá đồng nhân dân tệ (renmimbi), giảm bớt mức thặng dư trong cân thương mãi (hiện gia tăng 85% với thế giới bên ngoài trong 6 tháng đầu năm 2007), và mở cửa kinh tế tiếp nhận đầu tư của nước ngoài nhiều hơn. Một chuyên gia quen thưộc với những chuyển biến gần đây ở Hoa Thịnh Đốn nghĩ, nguy cơ 'chiến tranh thương mãi thực sự hiện hữu'. Mối lo càng gia tăng với viễn tượng một Tổng Thống phe Dân chủ có nhiều cơ may lọt vào Tòa Bạch Ốc vào tháng 1-2009. Bởi lẽ Trung quốc không thể xem quan hệ với Hoa Kỳ là 'thuần túy kinh tế như chúng ta đang mong muốn'. Tuy nhiên, các chuyên gia Trung quốc vẫn tin tưởng 'quyền lợi của đôi bên đòi hỏi phải duy trì ổn định và phát triển, và tránh những bất trắc, nguy cơ của chủ nghĩa bảo vệ mậu dịch'. Đối với người Âu châu, điều đặc biệt quan trọng trong địa hạt nầy, chính là việc người Trung quốc rõ ràng âu lo lập trường của EU sẽ ngày một gần gũi và đồng điệu với Hoa Kỳ trong những cuộc thương thảo trong tương lai hơn là từ trước đến nay. Người Trung quốc nghĩ 'người Âu hiện nay hình như đang tha thiết với tự do mậu dịch hơn là người Mỹ'. Nhưng điều quan trọng là 'Âu châu chắc chắn sẽ đi theo đường lối của Hoa Kỳ' trong vấn đề nầy. 'Chúng tôi không nghĩ là EU sẽ sửa đổi chính sách thương mãi với Trung quốc một cách đáng kể độc lập với Mỹ. Tuy nhiên, nếu Hoa Kỳ quyết định đi theo đường lối bảo vệ nhiều hơn, chúng tôi tin EU cũng hành động tương tự'.
Một vài bình luận gia lấy làm ngạc nhiên về điều nầy. Xét cho cùng, 'trên bình diện thuần túy kinh tế, Âu châu hiện đang có nhiều quyền lợi ở Trung quốc hơn là Hoa Kỳ'. Theo một nghiên cứu gần đây, rào cản của Trung quốc đối với xuất khẩu từ EU đã đánh mất 20 tỉ Euro mỗi năm, hay 30% tổng số. Ngạch số khuy khiếm trong thương mãi hai chiều lớn nhất của EU (lúc đó mới có 25 thành viên) là với Trung quốc. Con số nầy lên đến gần 128 tỉ Euro vào năm 2006, tăng 57% so với 2003. Trong chín tháng đầu năm 2007, ngạch số xuất khẩu của Trung quốc qua EU gia tăng 37% . Với Hoa Kỳ, con số nầy chỉ tới 16% - một phần phản ảnh sự lên giá của đồng Euro đối với tiền Trung quốc trong những quảng thời gian đó, trong khi đồng đô la lại bị mất giá. Đôi khi, các quan sát viên Trung Hoa xem đây như một dấu hiệu của 'sự suy yếu và rời rạc bất nhất' của Âu châu. Mặc dù đôi khi họ phóng đại thái quá trình độ và ý nghĩa của những lủng củng nội bộ EU về mậu dịch và chính sách hối đoái, nhưng chắc chắn nay họ rất mong muốn giao dịch với EU, giống như 'chúng ta đang làm với Hoa Kỳ về các vấn đề tiền tệ và mậu dịch'.
5. Hướng tới một đối thoại chiến lược kinh tế vĩ mô
Vào tháng 6-2007, Nhóm High-Level Group (Nhóm Cấp Cao) về mất quân bình trong cân thương mãi EU-Trung quốc được thiết lập với mục tiêu soạn thảo một phúc trình sơ bộ cho cuộc họp thượng đỉnh Bắc kinh về các phương cách giải quyết tình trạng khuy khiếm ngày một gia tăng trong mậu dịch song phương. Đây là nổ lực bổ túc cho Đối Thoại Kinh Tế Tài Chánh thường niên nhằm tăng cường hiểu biết đôi bên. Cuộc họp thứ ba vào ngày 5-7-2007 đã trao đổi rộng rãi quan điểm về sự tương tác trong các chính sách thuế khóa và tiền tệ của Trung quốc và EU cũng như các cải tổ trong khu vực tài chánh Trung quốc. Đúng như một chuyên viên Âu châu nhận xét, nổ lực nầy 'đúng ra phải đưa đến một cuộc đối thoại song phương về chiến lược kinh tế vĩ mô giữa Âu châu và Trung quốc tương tự như những cuộc đối thoại với Hoa Kỳ vào tháng 12-2006 và Nhật vào tháng 4-2007'. Tuy nhiên, phía EU rõ rệt có một vấn đề: sự thiếu nhất trí giữa Ủy Hội EU đại diện cho tất cả 27 thành viên và 13 xứ trong khu vực Eurozone. Trung quốc không thấy ai thực sự đại diện cho đồng Euro. Phải chăng đó là Ngân Hàng Trung Ương Âu châu (European Central Bank -ECB)? Quan hệ giữa Jean-Claude Trichet, Chủ Tịch ECB, và Joaquín Almunia, Ủy Viên Tiền Tệ và Kinh Tế (Economic and Monetary Affairs Cơmmissioner) hay với Jean-Claude Juncker, Chủ Tịch Nhóm Eurogroup như thế nào? Còn vai trò của Fernando Teixeira dos Santos, Bộ Trưởng Tài Chánh Bồ Đào Nha là gì? Lập trường sẽ ra sao khi chức vụ Chủ Tịch EU do một nước thành viên không ở trong khu vực Eurozone nắm giữ? Sự tương phản với việc đối thoại với Bộ trưởng Ngân khố Mỹ Henry Paulson và với Thống Đốc Ngân hàng Dự trử Liên Bang Ben Bernanke là rất rõ rệt.
6. Vai trò Khu Vực Eurozone
Tuy nhiên, các nhà bình luận tài chánh Trung quốc nhìn nhận sự sáng lập và phát triển của đồng Euro có lẽ là thành công về định chế lớn lao nhất của EU. Họ tin rằng với sự ra đời của đồng Euro, mặc dù quá trình hội nhập chính trị Âu châu vẫn còn gặp nhiều gai gốc, hội nhập kinh tế Âu châu ngày nay không còn có thể đảo ngược. Họ cũng xác nhận đồng Euro là thành tố quan trọng nhất trong thế lực đối ngoại của Âu châu vì đồng Euro đã trở thành 'một ngoại tệ dự trử có thể thay thế đồng mỹ kim', một thứ tiền đem lại 'nhiều lợi ích lớn lao như giảm phí tổn cho các xứ thành viên cũng như cho chúng ta'. Đối với nhiều người Trung quốc, một Eurozone mạnh mẽ hơn sẽ lôi kéo theo một thế giới ổn định hơn.Trong khi Trung quốc tiếp tục nắm giữ một số ngoại tệ dự trử khổng lồ và gia tăng nhanh chóng bằng đô la, một số người chờ đợi một sự thay đổi, mặc dù chỉ trong phương cách'phù hợp với chính sách tỉ suất hối đoái của chúng tôi'. Họ tin chắc là một sự tái định giá đơn vị tiền tệ đáng kể chỉ có thể xẩy ra cùng lúc với một cải cách hệ thống ngân hàng của mình. Họ tin quản lý quá trình điều chỉnh cần thiết đối với đồng Euro'có thể khó khăn hơn là với đồng đô la, bởi lẽ đồng Euro cũng gia tăng giá trị trên toàn cầu'. Họ tiên liệu đồng Euro sẽ trở thành một ngoại tệ dự trử và trong vòng 30 năm tới , thế giới sẽ chỉ có ba đơn vị tiền dự trử: nhân dân tệ, đô la và euro.
Các chuyên gia Trung quốc rất lấy làm ấn tượng về cách xử lý thành công vụ khủng hoảng trên thị trường tín dụng gần đây của Ngân hàng Trung Ương Âu châu (ECB). Họ cũng rất thán phục khi thấy Ủy Hội EU, ECB, và các xứ thành viên riêng rẽ đã đạt đồng thuận về tính minh bạch chờ đợi từ quỷ tài khoản tối thượng mới của Trung quốc - tập đoàn China Investment Corporation (Tập đoàn Đầu Tư Trung Quốc) thiết lập vào cuối tháng 9-2007 với tổng số vốn lên tới 200 tỉ mỹ kim. Cùng lúc, họ vẫn xem 'đồng euro còn quá yếu như một định chế để có thể phát huy đầy đủ tiềm lực trên toàn cầu'. Như lời một chuyên gia Trung quốc, khu vực Eurozone sẽ không thể hoạt động hữu hiệu nếu không sớm giải quyết nhu cầu hội nhập sâu xa hơn nữa chính sách thuế khóa giữa các xứ thành viên. Hơn nữa, bất cứ một sự nới rộng khu vực Eurozone nào, nhất là đến các xứ thành viên mới , trong hiện trạng, quả thật là khá khó khăn. Ngược lại, sự khả dĩ gia nhập khu vực Eurozone của Anh quốc, nếu thật sự xẩy ra, sẽ là một khích lệ lớn lao gia tăng sức mạnh của đồng euro, và là điều Trung quốc rất hoan nghênh.
7. Hội nhập kinh tế Á châu: Quyền lợi của Âu châu và Trung quốc
Trong bối cảnh các cuộc thương nghị thương mãi và tiền tệ đầy cam go với Hoa Kỳ và Âu châu, các nhà nghiên cứu chiến lược Trung quốc muốn nói rõ , đối với họ, mậu dịch trong khu vực Á châu ngày một quan trọng hơn và Trung quốc sẽ là đầu tàu của sự phú cường của phương Đông, cũng như Âu châu có thể sẽ là đầu tàu của sự thịnh vượng Tây phương. Trung quốc và Âu châu đều giữ vị trí trung tâm. Trung quốc nhiều lợi thế hơn Ấn Độ vì có một vị trí địa lý thiết yếu giữa Bắc và Nam Á. Âu châu có lợi thế hơn Bắc Mỹ vì Âu châu là một bộ phận của Âu-Á hay Eurasia. Hơn nữa, Âu châu có sẵn một chương trình hành động nhằm bành trướng mà Hoa kỳ thì không.
Năm 2006, theo thống kê Trung quốc, 66% số nhập khẩu của TQ đến từ Á châu, và châu Á cũng là thị trường thu hút 47% số xuất khẩu của TQ (xem bảng 2 và 3). Mậu dịch với ASEAN+Nhật, Hàn quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Ấn Độ, chiếm 45% tổng số ngoại thương. Theo một nhà ngoại giao hàng đầu Trung quốc, con số nầy sẽ tăng gấp đôi trong vòng 5 năm tới.Yếu tố quyết định là sự tăng trưởng trong các quan hệ kinh tế với Nhật. Năm 2006, Trung quốc đã trở thành đối tác thương mãi hàng đầu của Nhật, vượt qua Hoa Kỳ. Nhật chiếm 17,2% ngoại thương Trung quốc trong khi FDI Nhật chiếm khoảng 10% trong tổng số FDI đầu tư vào Trung quốc trong cùng năm. Kim ngạch xuất khẩu của Nhật qua Trung quốc gia tăng 15,6%, trong khi nhập khẩuTrung quốc từ Nhật gia tăng 9%. Cho đến nay, khỏang 20.000 công ty Nhật đang hoạt động ở Trung quốc. Những khu vực quan trọng nhất là sản xuất xe hơi và điện tử.
Sự tăng trưởng trong mậu dịch song phương Trung quốc-Ấn Độ cũng rất quan trọng: năm 2006 , đạt 22 tỉ đô la (tăng 22% so với 2005, và so với 260 triệu đôla năm 1990). Trong 4 tháng đầu năm 2007, ngạch số thương mãi hai chiều lên đến 11,4 tỉ, gia tăng 57% so với năm trước. Thương nghị một thỏa ước mậu dịch tự do đã là ưu tiên hàng đầu. Lần trao đổi Trung quốc-Ấn Độ thứ 5 vào ngày 25-26 tháng 9 năm 2007 ở Bắc Kinh hình như đã vượt qua giai đoạn nghiên cứu khả thi và dọn đường cho sự hình thành một thỏa ước khởi động từ tháng 4-2005.
Ít ra đối với một số chuyên gia về chính sách thương mãi Trung quốc, trong trường kỳ, lô gic của những diễn biến vừa nói phải đưa đến sự trổi dậy của một xu hướng mới ở Á châu, tương đương với quá trình hội nhập kinh tế mà EU đã giúp hình thành ở Âu châu. Một cộng đồng Á châu đa phương nhằm gặt hái những lợi ích của một nổ lực hợp tác thương mãi được tăng cường, có thể bao gồm sự tạo dựng một đơn vị tiền tệ Á châu dựa trên kinh nghiệm của EU. Xu hướng nầy có thể dẫn đến một liên hiệp tiền tệ Đông Á và cũng có thể rộng lớn hơn. Âu châu đã phải mất gần 20 năm mới thiết lập được đồng Euro khởi đi từ một đơn vị tiền tệ chung cho Âu châu. Để thể hiện một hình thức Euro, Á châu chắc chắn phải mất một thời gian lâu dài hơn. Tuy nhiên, nhiều quan sát viên tỏ ý nghi ngờ về khả năng nầy, tin rằng Nhật chưa sẵn sàng cộng tác với Trung quốc nhằm xây dựng một mô hình kiểu EU với một đơn vị tiền tệ duy nhất. Hơn nữa, với những khác biệt trong nhịp độ phát triển kinh tế trong vùng, chắc chắn còn nhiều trở ngại lớn lao trước khi đạt được đồng thuận.Tháng 1-2007, các xứ ASEAN ký thỏa ước mở cửa đón nhận thương mãi dịch vụ với Trung quốc, năm năm sau ngày đón nhận thương mãi hàng hóa. Khối ASEAN cũng đồng ý thiết lập một khu vực mậu dịch tự do có cả Triung quốc tham dự vào năm 2015. Khu vực mậu dịch tự do Trung quốc-ASEAN sẽ có một tổng dân số khoảng 1,8 tỉ, và sẽ trở thành một khối mậu dịch toàn cầu lớn thứ ba sau EU và Khu Vực Mậu Dịch Tự Do Bắc Mỹ. Những suy diễn và vận động viễn kiến trên đây rõ ràng cho chúng ta thấy rõ tham vọng của Trung quốc ở Á châu nhiều hơn là sự lượng định của Trung quốc về Âu châu và EU. Tuy nhiên, các chiến lược gia Trung quốc chắc chắn đang xem những thành tựu của EU như một nguồn cảm hứng lớn lao đầy ý nghĩa cho sáng kiến hợp tác cấp vùng.
8. Âu châu và sự trổi dậy của Trung quốc như một siêu cường kinh tế
8.1. Tham vọng kỷ thuật của Trung quốc
Theo dự phóng của người Hoa, Trung quốc có tiềm năng phát triển trung bình 7%/năm trong vòng 20 năm tới (11,5%/năm trong 6 tháng đầu năm 2007).Trung quốc quyết chí trở thành một nền kinh tế kỹ thuật cao giống như Hoa Kỳ, khác với Ấn Độ chỉ mạnh về dịch vụ. Tham vọng nầy được thể hiện, đặc biệt nhờ ở sự phát triển của các kỹ nghệ mới về sinh học - loại kỹ nghệ nền tảng của cuộc cách mạng kỹ nghệ sắp tới do Trung quốc dẫn đầu - cũng như Âu châu và Mỹ châu đã dẫn đầu các kỹ nghệ mới về vật lý và hóa học vào đầu thế kỷ 20. Ngày nay, Trung quốc đang dẫn đầu trong ngành sản xuất táo (apples), và trên đường trở thành một trong những xứ sản xuất dâu xanh (blue berries), chè trái cây (jam), và các sản phẩm đông lạnh liên hệ, qui mô nhất. Bí quyết là sự quyết tâm theo đuổi công nghệ di truyền. Gạo biến đổi theo công nghệ di truyền chiếm 10% ngân sách dành cho ngành nghiên cứu công nghệ sinh học, trong khi Trung quốc có đến 3,5 triệu hectares trong tổng số toàn thế giới 102 triệu hectares đất dành trồng giống được sửa đổi theo kỷ thuật di truyền.
Người Trung quốc tin khoa học là cốt lỏi của ý niệm về chính quốc gia mình. Họ tin văn hóa của Trung quốc gần gũi và cởi mở đối với ngành nghiên cứu di truyền, nhất là y khoa, hơn là Tây phương. Họ chỉ trích thái độ chống đối các ngành canh tác dựa trên công nghệ di truyền của Âu châu. Họ e rằng trong tương lai Âu châu có thể thiếu khả năng cải tiến so với Hoa Kỳ, nếu Liên Hiệp Âu châu không mặn mà hơn với các dự án nghiên cứu lớn về sinh học và khoa học không gian. Hầu hết các khoa học gia Trung quốc trong những ngành nầy đều xem EU còn cần phải cạnh tranh nhiều hơn trong ngành giáo dục. Vào năm 2020, Trung quốc sẽ có 4 triệu sinh viên mới, gần gấp đôi con số nầy ở Hoa Kỳ và Âu châu. Hơn nữa, "Âu châu không hề có một Đại học nào tương đương với Massachusetts Institưte of Technology" và cũng không đánh giá đủ cao "tầm quan trọng chiến lược của một nền giáo dục tuyệt hảo". Tuy nhiên, người Trung quốc biểu lộ những điều lo ngại nầy là vì họ xem Âu châu, với tiềm lực nghiên cứu khoa học lớn lao và một văn hóa khoa học phi chính trị và thế tục, như một đối tác trong quá trình phát triển khoa học của Trung quốc, có lẽ còn quan trọng hơn cả Hoa Kỳ. Như lời một chuyên gia TQ: "Trung quốc sẽ xét đoán EU theo khả năng như một trung tâm giàu khả năng khoa học và nguồn cung cấp công nghệ cao chính yếu, cũng như theo trình độ cởi mở trong việc theo đuổi những chương trình nghiên cứu chung với Trung quốc".
8.2. Giai đoạn thương thảo kế tiếp với Âu châu
Một khía cạnh quan trọng khác trong viễn kiến phát triển kinh tế của Trung quốc sẽ là sự chuyển tiếp kỹ nghệ chế biến từ quốc nội ra nước ngoài, theo con đường trước đây người Nhật, ngưới Đại Hàn, và các cường quốc kinh tế đang lên đã trải nghiệm. Bên cạnh Châu Mỹ La Linh, Âu châu, đặc biệt là Trung và Đông Âu, các thành viên của EU là những trường hợp thật sự đáng lưu ý. Trong chiều hướng nầy, sự giao dịch của Trung quốc với Hungary hiện quan trọng nhất, với thương mãi hai chiều lên đến 4,6 tỉ vào năm 2006. Xuất khẩu Trung quốc qua Hungary tăng gấp bốn kể từ 2003, lên đến 3,8 tỉ năm 2006. Hungary cũng là nước chủ nhà của hơn 3.000 xí nghiệp Trung quốc. Chẳng hạn, Lenovo, một trong những doanh nghiệp máy vi tính lớn của Trung quốc, đã sản xuất chiếc máy vi tính để bàn PC thứ một triệu ở Hung vào năm 2007. "Hungary là cửa ngõ vào thị trường EU cho thương mãi, tài chánh, và du lịch Trung quốc.Trong chuyến công du ngày 4-9-2007 đến Trung quốc của bộ trưởng thương mãi Hung, một thỏa ước đã được ký kết theo đó Trung quốc sẽ thiết lập một Trung Tâm Thương Hiệu Trung quốc tại Budapest với một số đầu tư 250 triệu euro, để bán ở Âu châu các loại hàng sản xuất từ Trung quốc . Người Trung quốc cũng không chỉ giới hạn quyền lợi tại Trung Âu như một căn cứ chế biến tiềm năng các loại đồ điện, hay vải vóc. Họ còn tìm thấy ở đây nhiều cơ hội tốt cho các dịch vụ, khởi đầu với dịch vụ xây cất. Chẳng hạn, tháng 9-2007, công ty China International Industry Commerce Co Ltd - CIIC - đã ký một thư cam kết (letter of intent) xây một tòa nhà thương mãi 40 tầng ở Roumania và một thỏa ước đối tác thương mãi tham dự chương trình canh tân các phương tiện vận tải đường bộ.
8.3. Âu châu như một mô hình xã hội
Mặc dù với 'sự lạc quan cơ bản không bờ bến' về triển vọng kinh tế xứ sở, người Trung quốc cũng không choáng ngợp đến nổi không thấy những trở ngại vô cùng khó khăn họ đang đối diện trong quá trình hoàn thành mục tiêu trong những năm sắp tới. Để nuôi sống một dân số 1,3 tỉ , TQ tiên liệu, cho đến năm 2020, sẽ tiêu thụ 2/5 trên 55% số gia tăng tiêu thụ thịt trên thế giới. Với hơn 1.000 xe hơi mới đăng ký mỗi ngày chỉ trong phạm vi thành phố Bắc kinh mở rộng, nhiều đoạn đường chính trong hệ thống xa lộ gần như luôn luôn bị ùn tắc. Với 70% các thành phố bị ô nhiểm, phí tổn để duy trì không khí trong lành và nước sạch, ước tính lên đến gần 100 tỉ mỗi năm (hay 5,8% GDP), và bệnh đường hô hấp và nhiều bệnh khác gia tăng nhanh chóng. Đây là 4 mối lo chính của TQ:
(1) Nhiều công ty quốc nội không đem lại lợi nhuận thích ứng (do đó rất dễ bị thương tổn khi có biến động bất lợi trong các thị trường chính).
(2) Bất bình đẳng trong xã hội ngày một gia tăng; và hố cách biệt giữa những vùng phát triển và những vùng thiếu phát triển trong nước (với 11 vùng cực Tây chỉ dành được 13% GDP, trong khi 10 vùng ven biển lại chiếm đến 58%).
(3) Sự lệ thuộc ngày một tăng vào những tài nguyên năng lượng từ bên ngoài. Trung quốc hiện đã là nước tiêu thụ năng lượng lớn thứ hai trên thế giới, nhưng số cầu vẫn tiếp tục gia tăng, 135% đối với dầu hỏa và 260% với hơi đốt từ nay cho đến năm 2025. (Vào năm 2020, 25% nhu cầu phải được đáp ứng bằng dầu lửa, 10% bằng hơi đốt, và 4% bằng năng lượng nguyên tử).
(4) Sự xuống cấp nhanh chóng của đất canh tác và nguồn nước (90% nguồn cung cấp nước ở đô thị và 62% sông ngòi bị ô nhiễm, trong khi tổng phí tổn cung cấp nước lên khoảng 1% GDP).
Người Trung quốc vững tin, hầu hết những vấn đề trên đều có thể giải quyết nhờ ở sáng tạo kỷ thuật. Về điểm nầy,'chúng ta rõ ràng có nhiều lòng tin hơn Tây phương'. Tuy nhiên, họ cũng thấy cần thực hiện nhiều điều chỉnh xã hội và hành chánh và 'phát triển vừa phải và công bình', một việc làm 'rất khó khăn nhưng thiết yếu'. Trong bối cảnh đó, nhiều lúc họ tỏ ra băn khoăn còn nhiều điều phải học hỏi từ Âu châu, chứ không phải chỉ phương cách xây dựng những nhà máy năng lượng hạt nhân tốt nhất. Như di sản của biện chứng Marxist, một trí thức Thượng Hải nhìn Âu châu như một xã hội trung lưu nhiều hơn là Hơa Kỳ (căn cứ trên tiêu chí lợi tức được phân phối bình đẳng hơn). Lịch sử Âu châu 'được định hình bởi sự nổi trội của tầng lớp trung lưu giống như những gì Trung quốc đang trải nghiệm hiện nay. Chúng tôi đặt nhiều hy vọng ở một sự tăng trưởng theo chiều hướng nầy'. Vài nhà bình luận đã nêu rõ sự gặp gở giữa 'sự khôn ngoan của chiến lược năm quân bình' trong Kế Hoạch Ngũ Niên thứ 11 (2006-10) và 'ý tưởng của Âu châu tìm kiếm một thế quân bình giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội, cũng như giữa nhu cầu của nền kinh tế và xã hội và môi trường'.
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 28, 2011 3:45:32 GMT 9
Nếu những ý tưởng nầy được sớm phát biểu cụ thể, có lẽ là nhờ một số chuyên gia Trung quốc quan tâm học hỏi các cơ chế điều hành thị trường nội bộ của EU và quản trị các quỹ cơ cấu. Như một chuyên gia ở Bắc Kinh đã phát biễu: 'về nhiều phương diện, Trung quốc cũng đa dạng và tản quyền (diverse and decentralized) như Âu châu' và với tầm cở của mình, 'có thể tìm thấy ở Ủy Hội Âu châu một nguồn cảm hứng và kinh nghiệm tiềm năng'. Tháng 10-2006, một Bản Ghi Nhớ (Memorandum of Understanding) đã được ký kết giữa Ủy Hội Âu châu và Ủy Hội Cải Cách và Phát Triển Quốc Gia của Trung quốc (Chinese National Development and Reform Commission), khởi động một cuộc nghiên cứu toàn bộ các vùng ở Trung quốc.Trung quốc và Âu châu cũng đàm luận về những thách thức đặt ra cho một dân số già cỗi. Trung quốc đối diện với một dân số bất lợi không mấy khác với Âu châu. Dân số Trung quốc sẽ lên tới 1,44 tỉ vào nặm 2025, sau đó sẽ bắt đầu sụt giảm, xuống lối 1,39 tỉ vào năm 2050. Tháng 9-2006, Trung quốc và Âu châu tham dự một hội nghị bàn tròn đầu tiên về an sinh xã hội và khởi động Dự Án hợp tác EU-Trung quốc về Cải Cách An Sinh Xã Hội, nhằm nghiên cứu các áp lực ngân sách liên quan đến hệ thống hưu bổng và các hệ thống y tế và giúp phát triển một hệ thống an sinh xã hội khả thi rất thiết yếu cho Trung quốc. Đây là một địa hạt có thể trao đổi rộng rãi và có thể đưa tới một sự tham gia lớn lao hơn của Âu châu trong các khu vực y tế của Trung quốc.
9. Sự đánh giá của Trung quốc về kinh tế Âu châu
Như vậy, người Trung quốc lạc quan hay bi quan về tương lai kinh tế của Âu châu? Câu trả lời là cả hai. Họ sẵn sàng công nhận tiềm lực lớn lao của EU hơn những nhà quan sát Mỹ và Ấn Độ . Họ thán phục cơ sở thương mãi và khoa học đặc trưng của các quốc gia thành viên EU. Trong phạm vi đồng Euro và viễn ảnh tiếp tục quá trình mở rộng EU, họ tin tưởng Âu châu có sẵn những công cụ đặc trưng để sửa chữa sai lầm và nâng cao thịnh vượng, cũng như thích ứng với những nguy cơ tiềm tàng trong kinh tế thế giới như sự lan tràn chủ nghĩa bảo vệ mậu dịch. Nhưng họ nghi ngờ khả năng của EU trong nổ lực thống nhất về chính trị thiết yếu cho sự duy trì và tăng cường những ưu điểm vừa nói. Theo họ, Âu châu còn có nhiều nhược điểm ngày một nghiêm trọng hơn - nhất là trong hệ thống giáo dục, đặc biệt là cấp đại học, và thiếu tham vọng trong địa hạt khoa học và kỷ thuật, những nhược điểm đưa đến tình trạng thiếu quyết đoán, đôi khi dị ứng hoặc chống đối các công nghệ mới quan trọng về thương mãi. Điều đó là nguyên nhân đưa đến tình trạng thiếu tinh thần kinh doanh và sẵn sàng chấp nhận chủ nghĩa bảo vệ mậu dịch. Tóm lại, vị thế kinh tế khách quan chung của EU rõ ràng là hùng mạnh trong căn bản. Các khó khăn của Âu châu phần lớn có thể tìm thấy trong phạm trù chính trị và văn hóa.
NHẬN THỨC CỦA TRUNG QUỐC VỀ CHÍNH TRỊ ÂU CHÂU 1. Đối tác Trung quốc-Âu châu: hướng tới một khung hợp tác mới
Tháng 5-2005, TQ và EU đã cử hành kỹ niệm thứ 30 ngày thiết lập quan hệ ngoại giao. Đây là một dấu mốc rất ít ý nghĩa, bởi lẽ quan hệ song phương đúng nghĩa chỉ thực sự bắt đầu với cuộc họp thượng đỉnh EU-Trung quốc đầu tiên vào năm 1998, một phần lớn do người Âu châu đang có nhu cầu nâng cao uy tín của đồng Euro sắp ra đời. Từ đó, họp thượng đỉnh đã trở thành một sự kiện hàng năm. Năm 2003, thỏa ước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược được ký kết, tiếp theo sau việc Trung quốc chỉ định đại sứ đầu tiên bên cạnh EU vào năm trước. Văn kiện chính sách 2003 của Ủy Hội Âu châu đính kèm thỏa ước nêu rõ kế hoạch hành động đầu tiên nhằm khởi động đối thoại chính trị , bao gồm việc duyệt xét các cơ chế hiện hữu và quản trị cấp vùng và toàn cầu cũng như các vấn đề an ninh. Trước đó, hai bên cũng đã có trao đổi bán chính thức các văn kiện vào năm 1994 và 2002 và nhiều thảo luận kế tiếp liên quan nhiều vấn đề như các cuộc họp cơ cấu với các ngoại trưởng các quốc gia thành viên EU (nhất là Bộ ba EU - EU Troika), với các trưởng phái bộ và các chuyên viên kỷ thuật. Ngoài ra cũng có các cuộc Đối thoại về Nhân quyền năm 1995, và hợp tác khoa học năm 1998. Quan hệ EU-TQ cũng đã được quy định trước đó trong thỏa ước ký năm 1985, chủ yếu về thương mãi nói chung và vài đề mục kinh tế, mặc dù vẫn là khung pháp lý chính hiện nay.Tuy nhiên, kể từ năm 2003, và sau khi hợp tác kinh tế song phương ngày một gia tăng, tiến bộ phần nào đã nhanh chóng hơn.
Đặc biệt đáng chú ý là những tiến triển sau:
. Tuyên bố chung về các vấn đề môi trường đạt được sau phiên họp thượng đỉnh EU-TQ tháng 9-2005, khởi động một đối tác nhằm đối phó với hiện tượng thay đổi khí hậu qua sự hợp tác thiết thực và thành đạt một số kết quả cụ thể. Bản tuyên bố chung nầy được xem như bổ túc cho Thỏa Ước Khung LHQ về Thay Đổi Khí Hậu và Hiệp Nghị Thư Kyoto.
. Thỏa thuận hợp tác của TQ trong chương trình vệ tinh vận tải hàng hải Galileo của EU, ký kết vào tháng 10 -2003, và được khai triển thành đối thoại về khoa học và kỷ thuật không gian vào tháng 7-2006.
. Thỏa ước 8-12-2004: tuyên bố chung về vấn đề kiểm soát và cấm phổ biến vũ khí.
. Thỏa ước 2005, tăng cường trao đổi về giáo dục trong khuôn khổ chương trình Erasmus-Mundus và hội thoại TQ-EU.
. Khởi động thương nghị Thỏa ước Đối Tác và Hợp Tác mới vào ngày 18-01-2007 ở Bắc Kinh, nhằm thay thế Thỏa Ước Thương Mãi và Hợp Tác Kinh Tế EEC-TQ 1985. Hiệp định khung nầy dự liệu bao gồm 22 khu vực và chuyên đề, kể cả năng lượng, môi trường, thương mãi, nhân quyền, và phản ảnh sự tiến bộ trong quan hệ song phương từ kinh tế đến chính trị.
2. Tại sao nhịp tiến triển lại chậm ?
Thành tích khiêm tốn nầy là do TQ thiếu hiểu biết sâu xa về bản chất của EU. Một vài bình luận gia Âu châu nêu rõ sự kiện không có một định nghĩa chính thức cho cụm từ "đối tác chiến lược" trong thỏa ước được đề nghị, như tượng trưng cho sự thiếu hiểu biết nầy. Một nhà quan sát khác lại cho rằng người TQ thường thích nhấn mạnh những điểm tương đồng hơn là những vấn đề gây tranh cải, vì vậy, rất khó thương thuyết đúng vấn đề. Trong thực tế, người TQ thường khá thoải mái với áp lực nhẹ nhàng hiện nay từ phía người Âu về nhân quyền, một đề tài tranh cải cổ điển. Đối thoại EU-TQ về nhân quyền, chẳng hạn, vẫn tiếp tục mặc dù đối thoại với Hoa kỳ đã đình chỉ từ năm 2001-02. TQ cũng chẳng xem sự căng thẳng thương mãi là một vấn đề, mặc dù điều nầy đang thay đổi. Người TQ giải thích những vấn đề nầy chủ yếu là do EU chưa sẵn sàng thay đổi giai đoạn 15 năm áp đặt, khi TQ gia nhập WTO vào năm 2001, trong thời gian nầy TQ được xem như một nền kinh tế phi-thị-trường. Nhưng vài nhà bình luận Âu châu có khuynh hướng xem đây như một vấn đề kỹ thuật liên kết với những lo ngại ngày một gia tăng về quyền sở hữu trí tuệ, hơn là một chướng ngại quan trọng đối với thỏa ước chiến lược.
Nếu người ta muốn nhận chân một đề tài quan trọng trong nhãn quan người TQ, đó chính là vấn đề cấm vận vũ khí do Tây phương áp đặt sau vụ đàn áp phong trào đòi dân chủ ở Bắc Kinh và vài noi khác ở TQ năm 1989. Đối với các quan sát viên TQ, việc EU chưa đáp ứng được điều kiện tháo gở cấm vận chứng tỏ trong tư duy chiến lược, người Âu châu không cảm thấy thoải mái với TQ. Điều đó cũng xác nhận hai cảm nhận căn bản của người TQ. Trước hết, nó phản ảnh những quan hệ chiến lược chặt chẻ giữa EU và Hoa Kỳ. Như một chuyên gia TQ nhận xét: 'Chúng tôi nghĩ sau chiến tranh lạnh, quan hệ nầy đáng lẽ đã phải chuyển biến theo chiều hướng tách bạch rõ ràng hơn giữa chính sách đôi bên, nhưng trong thực tế, điều nầy đã không xẩy ra'. Cảm nhận thứ hai còn quan trọng hơn. Nó chứng tỏ sự vướng mắc, khó khăn trong thương nghị với EU hoặc trực tiếp như một thực thể, qua 'Ủy Hội hay Hội Đồng, hoặc qua các phiên họp thượng đỉnh thường niên, hoặc gián tiếp qua thương nghị với từng thành viên quan trọng riêng lẻ'. TQ đã chờ đợi thái độ chống đối cấm vận của Tổng Thống Pháp Chirac, chẳng hạn, đã có thể đem lại một sự thay đổi chính sách. Vả chăng, người TQ cảm thấy 'nếu họ đã không thành công trong thương nghị với tất cả các quốc gia Âu châu về vấn đề cấm vận vũ khí và không hiểu rõ quá trình quyết định tập thể của Âu châu về vấn đề nầy, thì đó chính là do EU như một thực thể, chứ không phải TQ, đã thiếu ý chí phát huy sự hợp tác và đối thoại chính trị đứng đắn'. Họ cũng lập luận tháo gở cấm vận sẽ giúp thu hẹp ngạch số khuy khiếm thương mãi vì Âu châu có thể bán cho TQ các công nghệ phi-quốc-phòng TQ đang cần, nhưng hiện nay, bị ngăn cản vì những lý do chính trị hơn là lý do an ninh.
3. Trường hợp công nghệ
Nhiều người TQ quả thật rất ca ngợi khả năng kỹ thuật của Âu châu. Họ tin hợp tác trong địa hạt nầy là đáng theo đuổi và ít rắc rối hơn là với người Mỹ.
Môi trường
Địa hạt nổi trội nhất chính là môi trường. Người TQ công nhận vai trò quán quân và lãnh đạo thế giới của Âu châu trong nổ lực đối phó với vấn đề thay đổi khí hậu và ô nhiễm. Năm 2005, Đối Tác Thay Đổi Khí Hậu TQ-EU được khởi động, bao gồm hợp tác trong việc phát triển, dàn trải và chuyển giao công nghệ 'low carbon', như kỹ thuật tiền tiến đốt than không gây ô nhiễm, kiểm soát nắm bắt và tồn trử carbon (advanced near-zero emissions coal burning and carbon capture and storage). Thỏa ước còn dự liệu thăm dò tiềm năng năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, vài bình luận gia TQ thấy cần phân biệt rõ ràng giữa các sáng kiến khoa học và kỹ nghệ vừa nói với sự tranh cãi rộng lớn hơn về vị trí của TQ trong việc đối phó với hiện tượng hâm nóng toàn cầu và ô nhiễm. Họ công nhận đường lối phát triển đất nước trong tương lai phải hiệu quả về năng lượng, và tình trạng ô nhiễm ở TQ chắc chắn sẽ gia tăng và phải được kiểm soát chặt chẻ. Những âu lo về chất lượng không khí trong thời gianThế Vận Hội, tổ chức vào tháng 8-2008, đã thúc đẩy TQ đề xuất, trong tháng 6-2007, chiến lược quốc gia đầu tiên về hiện tượng hâm nóng toàn cầu. Chiến lược dự liệu sẽ cắt giảm 50 triệu tấn lượng khí thải carbon dioxide vào năm 2010. TQ ước lượng sẽ vượt qua Hoa Kỳ về lượng khí thải vào năm 2008. Tuy nhiên, những biện pháp cứu chữa không thể phương hại đến tiến độ phát triển của nền kinh tế TQ. Như Thủ Tướng Ôn Gia Bảo đã tuyên bố trong dịp thủ Tướng Đức Angela Merkel viếng thăm, tháng 8-2007: 'TQ đã chịu một phần trách nhiệm trong hiện tượng thay đổi khí hậu từ 30 năm nay, trong khi các xứ kỹ nghệ khác đã phát triển nhanh trong 200 năm qua'. Một nhà ngoại giao kỳ cựu cũng nhận xét: 'TQ đang ở trong một vị thế tương tự như vị thế của Âu châu trong hai thập kỷ 1960s và 1970s, và sẽ phải tìm giải pháp để đối phó với những vấn đề ô nhiễm. Đây là lãnh vực trong đó EU và TQ có nhiều tiềm năng hợp tác chặt chẻ và rộng lớn, cũng như để đối đầu. Chúng ta phải ra sức xây đắp tiềm năng thứ nhất và tránh tai vạ thứ hai'.
Năng lượng hạt nhân
Một địa hạt, trong đó người TQ rất phấn khởi trước sự tiến bộ trong chương trình hợp tác với Âu châu, là năng lượng hạt nhân(thermonuclear fusion). Quyết định của TQ tham gia vào dự án Lò Phản ứng Nguyên Tử Thực Nghiệm Quốc Tế (International Thermonuclear Experimental Reactor - ITER) năm 2003 (góp một tỉ mỹ kim trong khi EU tài trợ 50% trong tổng số 12,8 tỉ quỷ tài trợ dự án) cho thấy ưu tiên ngày một cao TQ dành cho an ninh năng lượng và tác động của tình trạng lệ thuộc vào nhiên liệu than dầu (fossil fuels) trên môi trường . Tháng 8-2007, TQ là thành viên cuối cùng đã chuẩn y thỏa ước thành lập tổ chức ITER. Vài người Âu châu tỏ ý lo ngại TQ có thể dùng tổ chức nầy để chính thức hóa chương trình hạt nhân riêng của mình.Tuy nhiên, các bình luận gia TQ đã nói rõ, TQ được đón nhận vì thành quả nghiên cứu của chính mình trong địa hạt nầy. Tháng 9-2006, dự án EAST superconducting Tokamak thuộc Viện Vật Lý Plasma, Hàn Lâm Viện Khoa Học ở tỉnh Hefei, đã thí nghiệm thành công 'plasma discharge' lần đầu. Các nhà bình luận cũng nhấn mạnh khía cạnh môi trường của chương trình nghiên cứu hạt nhân chỉ là một phần trong quyết định của TQ hợp tác với Âu châu về môi trường.
Không Gian
Tháng 10-2003, TQ đồng ý gia nhập chương trình hệ thống vệ tinh vận tải Galileo, dự trù sẽ đi vào hoạt động năm 2013. (TQ là nước ngoài EU đầu tiên tham gia, tiếp đó còn có Israel, Ukraine, Ấn Độ, Nam Hàn và Morocco). TQ cam kết 200 triệu euro vào dự án, bằng phần đóng góp của các thành viên EU chính. Điều nầy đã đưa đến một loạt các dự án hợp tác giữa EU và TQ trong chương trình không gian và các địa hạt liên hệ. Một lần nữa, các bình luận gia Âu châu lên tiếng báo động điều nầy có thể giúp TQ phát triển hệ thống vệ tinh vận tải độc lập riêng của họ (hệ thống Beidou, lên đến 30 vệ tinh với quỹ đạo trung bình quanh địa cầu, và như vậy, đủ khả năng cạnh tranh thương mãi với hệ thống EU). Người TQ giải thích những e ngại đó (theo họ là thiếu cơ sở) chỉ phản ảnh những bất đồng quan điểm giữa người Âu châu với nhau về vấn đề tài trợ chương trình Galileo. Họ cũng cho biết TQ đã dành nhiều tài nguyên cho chương trình nghiên cứu không gian, một lãnh vực họ tin Âu châu cũng nên quan tâm đầy đủ hơn. Từ lần phóng vệ tinh có người lái vào năm 2003, TQ đã khai triển một chương trình tham vọng hơn. Chương trình bao gồm nhiều chuyến thám hiểm không-phi-hành-gia lên mặt trăng , để thăm dò đá giàu hàm lượng khí helium-3, một tiềm năng nhiên liệu cần thiết trong các lò phản ứng hạt nhân, và một chuyến gửi phi hành gia đổ bộ lên mặt trăng trong vòng 15 năm sắp tới (ngày 24-10-2007, tàu vũ trụ Chang'e I với quỹ đạo quanh mặt trăng đã được phóng trên hỏa tiển cải tiến Long March 3-A từ giàn phóng vệ tinh Xichang Satellite Launch Center), cũng như các kế hoạch xây dựng một cảng không gian qui mô mới ở phía Nam đảo Hainan. Cảng không gian nầy còn là một hệ thống phòng thủ không gian, như đã chứng tỏ qua vụ thử nghiệm hỏa tiển chống vệ tinh vào tháng 1-2007.
Trường hợp quốc phòng
Mặc dù cấm vận vũ khí, TQ vẫn tranh thủ sự hợp tác của Âu châu trong một số địa hạt liên hệ đến quốc phòng. Đặc biệt quan trọng là vấn đề kiểm soát nạn lan tràn vũ khí. Năm 2004, EU và TQ đã đưa ra một tuyên bố chung. Một đề án tiếp theo vào năm 2006 nhằm huấn luyện các viên chức quan thuế trong việc nhận diện và truy tầm các hàng hóa và vật liệu nhạy cảm cũng như trao đổi kinh nghiệm thực tế trong việc thực thi các biện pháp kiểm soát xuất khẩu và khuyến cáo xem xét các sáng kiến chung EU-Á châu qua sự tham gia của diễn đàn ASEAN. Ngoài ra còn có sự trao đổi khiêm tốn về quân trang, quân dụng ngoài vũ khí (bị cấm vận). Tổng giá trị các giấy phép thuộc loại nầy lên đến 340 triệu euro năm 2004 - quan trọng nhất là 169 triệu với Pháp, 148 triệu với Anh. Ngân sách quân sự chính thức của TQ đã gia tăng từ 15 tỉ năm 2000 đến 46,4 tỉ năm 2007, với một tỷ lệ gia tăng 17,8% từ 2006, mặc dù vài nhà quan sát xem những con số trên đã loại ra ngoài những chi tiêu liên hệ đến quốc phòng như những tạo mãi từ nước ngoài.
Hơn nữa, sự quan tâm ngày một gia tăng của TQ, từ một cường quốc trên bộ đến một cường quốc trên biển, đã đưa đến những trao đổi với hải quân một số quốc gia Âu châu. Như một nhà bình luận giải thích, TQ rất tò mò về các truyền thống hàng hải và kinh nghiệm chiến lược của Âu châu, vì lẽ như một xứ lệ thuộc vào giao thương hàng hải để phát triển, TQ phải đối đầu với sự đe dọa lớn lao nhất cho sự trường tồn từ những khu vực bên ngoài biên giới của mình, và vì vậy, cần có một hải quân hùng mạnh để bảo vệ quyền lợi của chính mình. Hải quân TQ có một trọng tải 790.000 tấn so với 475.000 tấn của Anh, và 308.000 tấn của Pháp. Mùa hè 2007, các tàu chiến TQ đã có một cuộc du hành kéo dài 87 ngày, kể cả thăm viếng Liên Bang Nga, Anh quốc, Pháp, và Tây Ban Nha. Các tàu hải quân TQ đã cùng hải quân hoàng gia Anh tổ chức một cuộc diễn tập đầu tiên với sự tham dự của một hàng không mẩu hạm, và là cuộc tập trận chung đầu tiên ở Đại Tây Dương. Sau đó, hải quân TQ còn có tập trận chung lần đầu tiên ở Địa Trung Hải với hải quân Pháp, lấy tên Hữu Nghị TQ-Pháp 2007. ( Năm 2006, Hải quân TQ cũng đã tham gia những cuộc diễn tập tìm kiếm và cứu nạn chung với hải quân Hoa Kỳ ở ngoài hải phận Hawaii vào tháng 9 và Nam Hải tháng 11).
Vài chuyên gia ngoại giao TQ nói rõ là, trong hiện tình, sự quan tâm của TQ với Âu châu trong địa hạt quân sự sẽ theo mẩu mực với Hoa Kỳ, bởi lẽ trên phương diện chiến lược, họ không có đủ lý do để phân biệt giữa Âu châu và Mỹ. Một ví dụ điển hình là sự hổ trợ rõ rệt của Anh và Pháp đối với sự quan tâm của Hoa Kỳ trước những tham vọng hạt nhân của Bắc Hàn và Iran. Hai quốc gia hạt nhân của Âu châu đều hùa theo giọng điệu của Hoa Kỳ cả trong hai trường hợp: vai trò của Bắc Kinh đối với Bình Nhưỡng, và giọng điệu gay gắt của Hoa Kỳ đối với quan hệ của chính quyền TQ với Tehran . Âu châu rất có thể chuyển biến theo chiều hướng thống nhất và có một lực lượng quân sự hùng hậu hơn, lúc đó TQ mới xét lại quan hệ của mình. Đó là điều đương nhiên. Tuy nhiên, họ tin điều nầy khó thể sớm xẩy ra. Hậu quả của sự khả dĩ nầy có lẽ sẽ giảm bớt gánh nặng an ninh cho Hoa Kỳ, bởi lẽ người TQ không thể tưởng tượng trong một trạng huống nào đó, Âu châu sẽ đi ngược lại người Mỹ. Thực vậy, một chuyên gia Bắc Kinh còn nghĩ rằng TQ không nên loại bỏ một sự khả dĩ theo đó quan hệ an ninh hiện nay giữa Hoa Kỳ và các nước thành viên của NATO một ngày đẹp trời nào đó có thể biến dạng đến trìnhđộ Âu châu có thể giữ vai trò đàn anh.
5. Trường hợp thế lực mềm
Sự quan tâm rõ rệt và ngày một gia tăng cuả TQ đến 'thế lực cứng' đã thuyết phục các nhà quan sát Âu châu là TQ có rất ít thì giờ để nghĩ đến 'thế lực mềm', thứ thế lực chính của Âu châu trong sinh hoạt thế giới. Thực vậy, rất nhiều người chỉ trích thành tích của Âu châu trong vùng Balkan và Trung Đông. Như một bình luận gia đã nói, 'ít ra cho đến nay, EU hoặc hoàn toàn vô hiệu, hoặc phải được người Mỹ tiếp sức, hoặc phục tùng người Mỹ'. Người ta cũng có thể nghĩ như vậy về sự xét đoán của người TQ đối với sự quan tâm của Âu châu về khủng hoảng Dafur. 'Phê bình TQ, một gương mặt mới đến từ phía bên kia của thế giới - về sự thất bại của chính Âu châu trong một vùng kế cận mình, ở đó Âu châu đã giữ một vai trò áp đảo trong nhiều thế kỷ - là một điều sai lầm. Và cũng là một sai lầm khi Âu châu mong đợi Hoa Kỳ quan tâm hay nhảy vào hợp tác xuyên-Phi châu'.
Điều nầy càng khiến Âu châu âu lo hơn , nhất là quyền lợi kinh tế TQ, gia tăng nhanh ở Phi châu nói chung, đặc biệt ở vùng sub-Sahara, đang giúp duy trì các chế độ thối nát toàn trị phương hại cho nhân quyền và dân chủ. Bên cạnh việc TQ đang tài trợ và xây 1.500 cây số ống dẫn dầu đến cảng Marsa-el-Bashair ở Sudan, TQ còn đầu tư đáng kể, hoặc mua hoặc cho vay để dành quyền khai thác, các tài nguyên thiên nhiên ở Gabon, ở Cộng Hòa Dân Chủ Congo và Zambabwe. Một vài chuyên gia TQ sẵn sàng giải thích sự kiện nầy như là 'đạo đức giả của Âu châu'. Nhưng một phản ứng phổ thông khác là nhấn mạnh sự kiện TQ luôn duy trì nguyên tắc không can thiệp vào nội tình các xứ khác, 'ở châu Phi, điều đó không có nghĩa là thờ ơ, nhất là đối với khủng hoảng nhân đạo hoặc các điều kiện chính trị thuận lợi cho khủng bố'.
Cuộc họp thượng đỉnh EU-TQ tháng 9-2006 khuyến cáo thiết lập một đối thoại định kỳ cấp cao về Phi châu. Từ đó, vài chuyên gia đã cho thấy cũng có tiềm năng 'trao đổi về các dự án hỗn hợp, như các chương trình hạ tầng cơ sở quan trọng'. Các nhà quan sát TQ rất muốn nêu rõ 'TQ có kinh nghiệm có lợi cho các quốc gia đang phát triển', và điều quan trọng là phải dành ưu tiên tuyệt đối cho phát triển kinh tế. Những thẩm định gần đây của TQ về Palestine, Iraq, Bắc Hàn, Iran, Sudan và Burma, đều nhấn mạnh sự cần thiết phải giải quyết các vấn đề chung về nghèo đói và thiếu phát triển như là điều kiện tiên quyết cho bất cứ mục tiêu chính trị nào khác. Chẳng hạn, 'đầu tư của TQ ở Phi châu đã có thể đem lại nhiều phát triển kinh tế trong thập kỷ qua hơn tất cả các số viện trợ của Tây phương'. Thực vậy, cơ sở của ý niệm nầy là lòng tin của TQ rằng 'mọi phát triển kinh tế bất cứ ở đâu cũng giúp cho phát triển và tiến bộ của chính TQ', nhất là trong những xứ gần TQ hoặc TQ có nhiều quyền lợi thương mãi. Mặc dù cách tiếp cận nầy 'hoàn toàn loại bỏ phương cách thay đổi chế độ như Hoa KỲ đã áp dụng ở Iraq', đây chính là phương cách 'đã cho phép TQ tham dự nhiều hơn trong các công tác gìn giữ hòa bình'. Khoảng 1.000 quân nhân TQ đã được gửi tới Lebanon. Quan hệ của các quân nhân nầy với các đối tác người Âu đã được mô tả là 'rất hữu ích'. Vài nhà bình luận TQ hình như nghĩ rằng tất cả những điều nầy đã tạo nên sự xuất hiện một thứ chủ thuyết 'thế lực mềm của TQ' và một sự gặp gở trong chủ thuyết chính sách ngoại giao giữa EU và TQ. Theo một nhà phân tích hàng đầu TQ: 'người Âu cũng đặt nặng tầm quan trọng của phát triển kinh tế và thương mãi như một khí cụ cơ bản của ảnh hưởng của họ và cũng chia sẻ cách nhìn của chúng tôi về tầm quan trọng của trao đổi văn hóa và duy trì sự đa dạng văn hóa'. Điểm nầy có thể tạo 'một căn bản cho sự hiểu biết thông cảm sâu xa hơn'.
6. Vai trò của Âu châu ở Tây phương
Những cảm nghĩ vừa nói thường dễ tìm thấy trong nhiều phát biểu của người TQ, 'cũng giống như các đối tác EU, các nhà tư duy chiến lược TQ nghĩ về quan hệ quốc tế tương lai trong khuôn khổ đa cực' - 'một khuôn khổ duy nhất, theo họ, sẽ có thể bảo đảm sự ổn định và tính khả dĩ tiên liệu' cần thiết cho TQ 'trổi dậy trong hòa bình' với tới 'địa vị thích hợp' giữa các cường quốc hay các khu vực trong thế kỷ 21. Tuy nhiên, trong thực tế, Weltanschauung của TQ trong cốt lỏi là luỡng cực. Như một nhà phân tích chính sách đối ngoại TQ nhận xét: 'tay chơi duy nhất thật sự quan trọng đối với TQ là Hoa KỲ. Chúng tôi cũng muốn thấy một Âu châu hùng mạnh hơn trên thế giới'. Âu châu có thể trở thành một trong những cực của một trật tự đa cực nào đó, nhưng 'yếu tố Hoa kỳ đang là một chướng ngại ngoại lai lâu dài làm vướng víu bất cứ một đối tác chiến lược nào giữa EU-TQ'. Những khoảnh khắc Âu châu tách khỏi Hoa kỳ như trường hợp đa số các thành viên EU trong vụ xâm chiếm Iraq luôn được hoan nghênh. Hy vọng nhiều khi được bộc lộ, hoặc ít ra hiểu ngầm, một thái độ tương tự có thể xẩy ra trước một khủng hoảng ,ví dụ, ở Taiwan. Trong mọi trường hợp, 'Âu châu không được xem như có thể là một đối trọng, hoặc một thay thế, của Hoa Kỳ'.
Trạng huống nầy bắt nguồn từ EU thiếu cả hội nhập nội bộ lẫn thế lực đối ngoại. Âu châu hiện diện như 'một ý tưởng hơn là một thế lực'. Với những giới hạn như vậy, quả thật rất khó lòng để xem Âu châu như một lực lượng thống nhất và chặt chẽ trên thế giới. Lý do là TQ hiện vẫn duy trì 27 chính sách riêng rẽ bên sau đối tác chiến lược Âu châu đang theo đuổi với TQ. Điều quan trọng hơn đối với TQ là xây đắp quan hệ song phương với từng quốc gia Âu châu, mỗi xứ có những phương cách làm việc riêng với chính quyền TQ. Theo Kishore Mahbubani, khoa trưởng trường Đại Học Lý Quang Diệu ở Singapore, TQ đã 'nổi dậy như một tay chơi địa chính trị hết sức khôn lanh trên thế giới', trong khi 'EU chỉ là một diễn viên địa chính trị với một cơ cấu khập khiểng què quặt'. Nhiều chuyên gia TQ xem Âu châu 'quá thủ thân, hướng nội và dành quá nhiều năng lực vào việc giải quyết những vấn đề nội bộ' thay vì 'hướng ngoại tham dự vào những sinh hoạt toàn cầu', là 'phương cách tốt nhất để vượt qua những khó khăn vừa nói'. Yếu tố căn bản là 'người Âu châu phải hoàn toàn thức tỉnh trước sự trổi dậy của Á châu nói chung, và TQ nói riêng'. Tuy nhiên, rõ ràng là Âu châu không có lợi lộc căn bản nào để hành động cạnh tranh với Hoa Kỳ vì cả hai đều là thành tố của Tây phương. Như một người TQ đã nói: 'Xét cho cùng, trong nhiều khía cạnh, chúng tôi, người TQ, không phân biệt người Âu và người Mỹ về phương diện văn hóa, cũng như về văn hóa, người Âu cũng không phân biệt người TQ với người Nhật'.
Nhận xét trên có nghĩa, người TQ vững tin, sự sắp hàng của Nhật với Hoa KỲ hiện nay (một việc làm, nói theo từ ngữ thời chiến tranh lạnh, đã biến Nhật thành một bộ phận của 'Tây phương'), khi có thời cơ, sẽ được thay thế bởi 'một tình hữu nghị thắm thiết và hòa bình' với TQ (một biến chuyển một lần nữa giúp Nhật trở về cương vị một phần của 'Đông phương'). Điều nầy cho thấy có thể có một sự song hành trong sự chuyển biến khả dĩ (possible evolution) trong quan hệ Nhật-Mỹ và Hoa-Nhật. Từ năm 1945, và có lẽ sớm hơn thế, Nhật đã vượt qua TQ, cũng như Hoa Kỳ đã vượt qua châu Âu. Tuy nhiên, ngày nay, TQ đã lấy lại 'vị trí lãnh đạo truyền thống về văn hóa, kinh tế và chính trị'. Liệu một điều tương tự có thể đến với Âu châu hay không? Đã hẵn là có thể, khi so sánh giữa mặc cảm tự ti và tự tôn lẫn lộn trong sự xét đoán hổ tương Hoa-Nhật và Âu châu-Hoa Kỳ. Tuy nhiên, nếu điều nầy xẩy ra, sự hồi sinh của Âu châu so với Hoa Kỳ, ít ra trong phạm vi chính trị, có lẽ phải mất một thời gian lâu dài hơn trong quan hệ Hoa-Nhật. 'Trong hiện tình, tất cả những gì TQ có thể hy vọng là tạo một không gian đồng thuận đủ để giúp EU tỉnh táo không hành động trái với quyền lợi của chính mình, nhờ đó, có thể ảnh hưởng tốt đến chính sách của Hoa Kỳ'.
|
|