Post by Can Tho on Apr 19, 2008 4:14:30 GMT 9
Nhật Tiến
Nhật Tiến và thủ bút
Nhật Tiến và thủ bút
Tên: Bùi Nhật Tiến. Bút hiệu: Nhật Tiến. Sinh ngày: 24-08-1936 tại Hà Nội. Viết văn từ năm 1957.
Tác phẩm:
Những người áo trắng, Huyền Trân xuất bản, 1959
Những vì sao lạc, Phượng Giang xuất bản, 1960
Thềm hoang (Giải Văn chương Toàn quốc), Đời Nay xuất bản, 1961
Mây hoàng hôn, Phượng Giang xuất bản, 1962
Người kéo màn, Huyền Trân xuất bản, 1962
Ánh sáng công viên, Phượng Giang xuất bản, 1963
Chuyện bé Phượng, Đông Phương xuất bản, 1964
Vách đá cheo leo, Đông Phương xuất bản, 1965
Chim hót trong lồng, Đông Phương xuất bản, 1966
Giấc ngủ chập chờn, Đông Phương xuất bản, 1967
Giọt lệ đen, Huyền Trân xuất bản, 1968
Quê nhà yêu dấu, Huyền Trân xuất bản, 1970
Lá chúc thư, Huyền Trân xuất bản, 1970
Tay ngọc, Huyền Trân xuất bản, 1971
Đã cộng tác với: Văn Hoá Ngày Nay, Tân Phong, Bách Khoa, Văn Học, Đông Phương…
Chủ biên Cơ sở Xuất bản Huyền Trân
Nhật Tiến và khung trời mơ ước
Nhật Tiến đi vào văn chương bằng tình thương, một tình thương nảy sinh trong tấm lòng đôn hậu. Tuổi trẻ mà Nhật Tiến đem vào văn chương, xuyên qua thân phận mình, không phải tuổi trẻ của giận dữ và phẫn nộ. Biết rằng, dù muốn dù không, cũng phải chấp nhận cuộc đời đã có đấy. Nó là vui, buồn, yêu, ghét. Nó là cánh mây bay lang thang trên vòm trời cao cả kia, hay đống rác thối tha nhung nhúc ruồi bọ này. Vì ý thức được như vậy nên Nhật Tiến không đi tìm cuộc đời qua kẻ khác, mà tìm ngay ở bản thân, trong đáy thẳm tâm linh, ở đấy, tiếng nói chân thành thì thầm cất lên từng âm thanh nấn nuối nó với vô vàn thương mến và chua xót!
Phương pháp hành văn của Nhật Tiến thật dung dị, thoải mái ngay cả những khi cần phải đưa câu chuyện vào mức độ cao nhất của kỹ thuật dựng truyện. Nhật Tiến, nhà văn tình cảm thiên về xã hội. Tất cả những dữ kiện do cuộc sống đẩy tới, tác động vào tâm thức nhà văn đều được Nhật Tiến điều hợp cho cân xứng ở mỗi lời nói, hay mỗi động tác để trở nên có hiệu năng truyền cảm.
Với 10 năm trong nghề, và 14 tác phẩm (tính đến tháng 5-1971), đã chứng minh đầy đủ ý chí và tài năng của một nhà văn đã quyết dấn thân vào nghiệp. Trong số 14 tác phẩm, đã có 3 cuốn: Thềm hoang, Người kéo màn và Tay ngọc tái bản tới 3 lần.
Nhật Tiến rất thận trọng trong vấn đề sáng tác vì luôn luôn tin rằng, danh tiếng của nhà văn không thể và không bao giờ được cấu tạo bằng sự giả trá. Nó cần được chọn lựa và đánh giá đúng mức qua thời gian, qua nhiều chặng thử thách bắt buộc mỗi người cầm bút phải vượt qua.
Nhật Tiến quả tình đã vượt qua nhiều thử thách, mỗi một thử thách dù thành công hay thất bại, đều giúp cho nhà văn những kinh nghiệm. Người ta cho rằng, con đường văn nghiệp của Nhật Tiến là cuộc sống bằng phẳng đồng thời cũng là sự tiếp nối của nền văn học tiền chiến. Có người nghĩ, Nhật Tiến đã dùng văn chương như một hình thức điểm trang cuộc đời, ở đấy, nó không nói lên cái khí phách, cái can đảm mà tuổi trẻ cần có. Cả hai thành kiến trên đều có phần ngộ nhận. Như hầu hết các nhà văn ở lứa tuổi trên dưới 30, Nhật Tiến cũng lớn lên trong chiến tranh, cũng đã được chứng kiến những cơn biến động lịch sử, ở đó, mỗi bài học đều được tuổi trẻ mua bằng máu lệ, mua bằng uất hận, đau thương! Chỉ có khác, cái nhìn, cái biết và cái sống không nằm chung ước lệ ở mỗi tâm tư, nên sự nói ra hay tỏ bày đều được hình thành theo cảm quan riêng biệt.
Tác phẩm đầu tay: Những người áo trắng (1959), với nội dung viết về đời sống của những cô gái mồ côi ở trong khuôn viên cô nhi viện. Tất cả nỗi u uẩn, thầm kín thuộc những linh hồn bơ vơ mà Chúa cũng không đủ quyền năng để ngăn cản hay cứu rỗi cho mỗi số phận! Những dòng nước mắt tủi hờn thấm vào lòng người, tạo nên nhức nhối:
... Bởi vì mỗi đứa chúng tôi có một cuộc sống riêng biệt. Cuộc sống chỉ sống trong những đêm trằn trọc, thao thức, xót xa đầy nước mắt.
Chúng tôi không phủ nhận công lao của các bà phước, của các nhà hảo tâm, của các cơ quan từ thiện. Nhưng tình nhân loại của các người đó mới chỉ an ủi được chúng tôi một phần nào sự đau khổ về vật chất, thiếu cơm, thiếu áo, trong quãng đời côi cút của chúng tôi.
Còn linh hồn chúng tôi, những linh hồn lạc lõng thiếu tình thương của cha mẹ, tình yêu của những con người đến tuổi dậy thì và thiếu cả cái ước vọng vô bờ của tuổi hoa niên, hỏi bàn tay nào xoa dịu được?
Cho nên tâm hồn chúng tôi là những tâm hồn khao khát sự thương yêu, hằn học với thực tại, để chỉ quay về vò xé lòng mình trong những đêm dài mất ngủ…
Đoạn văn trên, trích trong trang đầu cuốn sách, nó là lời nói chân thành của một cô nhi mang tên Quỳnh, nhân vật xưng "tôi" trong tác phẩm, viết thay lời vào truyện.
Người đọc chỉ cần suy luận qua những dòng chữ ai oán ấy, có thể hình dung thấy biết bao nhiêu tủi hờn đang vò xé những tâm hồn lạc loài, vì hoàn cảnh chung, phải chịu đựng lẫn nhau trong nhiều trạng huống khốn khó. Họ là những bé gái mồ côi được nhặt về từ mọi nơi, hoặc do chiến tranh, hoặc vì xã hội. Họ đến đây, ở đây, từ lúc còn măng sữa, rồi lớn lên trong vòng đai của Chúa, do các bà phước đại diện. Ngoài phần giáo lý họ cũng được giáo dục về học vấn như ở ngoài đời nhưng họ vẫn không thuộc hẳn về xã hội, với đầy đủ quyền hành của con người thế gian, để có thể vui buồn theo ý muốn. Ở đây, họ đã hiến dâng linh hồn cho Chúa vì miếng cơm, manh áo, vì hơi thở mà bố mẹ họ bởi không may nào đó, đã không cho họ có được. Do vậy, khi đã đến tuổi trưởng thành với những thắc mắc về thân phận, nhất là tình yêu phát hiện trong lòng tuổi dậy thì với nhớ thương hình bóng người yêu để sưởi ấm tình đời. Bởi thế, có người trốn đi vì không chịu nổi cô đơn, có cả các xác chết nữa, với từng cơn buồn dằng dặc! …
Nhưng rồi thời gian mòn mỏi trôi đi. những cô gái đã qua tuổi mơ mộng. Tình cảm đã khô cong và cuộc đời được hình dung như một chịu đựng ngày này qua ngày khác, gần như vô nghĩa. Lúc đó, chỉ còn tình thương và bổn phận. Rồi cứ thế, lần lượt và lần lượt:
… Trời về cuối đông, mây u ám phủ nặng trĩu cả bầu trời. Gió bên ngoài thổi nghiêng ngả, những cành cây trụi lá. Qua khung cửa kính chỗ tôi ngồi, ngoài kia là khung cảnh tiêu điều của một buổi chiều sắp tắt. Trời sâm sẩm tối, con đường nhựa xanh láng mướt dẫn đến vườn hoa hôm nay ngập nhiều lá vàng. Tôi chắc vườn hoa ngoài ấy bây giờ cũng xơ xác lá và vắng lặng bóng người. Tôi hình dung đến ngày xưa ở đấy.
Hình ảnh bé Phượng ngày nào khóc gọi chị Loan và mẹ bên phòng bà Nhân, hình ảnh con Dung bị người ta xin mất con Nguyệt, rồi câu chuyện của Liễu bỏ ra đi tìm một tình yêu lãng mạn, cái chết của Hoà, cái chết của con người phu hồ, những mồ cỏ xanh um ngoài nghĩa địa, mối tình tuyệt vọng của tôi.
Những ngày ấy quá xa rồi, vì bây giờ tôi không còn là một thiếu nữ khao khát yêu đương. Tôi già hơn trước nhiều và lý tưởng tôi là bổn phận…
Quỳnh
Cuốn sách Những người áo trắng được khép bằng hai trang thư, với một nỗi niềm vừa bâng khuâng như kẻ lữ hành đi vào vùng trời tuyệt vọng! Tâm hồn Nhật Tiến chứa nghẹn tình thương, thứ tình thương cao trọng, ở đó, lòng thù hận và nỗi bi thiết hình như được che khuất bởi những ước mơ tràn ngập ánh sáng của sự cứu rỗi thiêng liêng nào đó.
Khởi hành từ đấy, Nhật Tiến đi sâu vào thung lũng của tâm tư để tìm về cho riêng mình một tình thương khác qua tác phẩm Những vì sao lạc. Hình ảnh những đứa trẻ không may chẳng phải chỉ được nói đến, hay chỉ xảy ra trong vòng đai cô nhi viện mà nó còn hiện diện ngay ở giữa xã hội, dưới mái gia đình, trong những hoàn cảnh vô cùng ray rứt. Kỹ thuật dựng truyện của cuốn Những vì sao lạc (1960) đi chung một đường với Những người áo trắng, thay vì trang thư, cuốn sách được mở đầu bằng những trang bút ký của Khánh. Cái phương cách mở đầu này làm hại không ít cho tác phẩm. Đọc nó, người ta coi như đã đọc xong nội dung cuốn sách. Sự bất ngờ sảng khoái do người đọc khám phá ra trong tác phẩm không còn nữa. Sự tiếp nối của những trang sau chỉ là để giải thích hoặc biện minh cho một dữ kiện nào đó, được sắp đặt trước trong tâm thức nhà văn. Văn chương không phải như vậy. Nó không cần biện minh gì ngoài nó.
Nhưng chẳng phải vì thế, cuốn Những vì sao lạc không có giá trị về phương diện truyền cảm. Nhật Tiến đã dùng tài năng riêng để đưa người đọc vào một vùng trời mà sự trong trắng của tuổi thơ chỉ còn là giận hờn, oán trách! Những tội lỗi do tuổi trẻ gây ra đều từ bên ngoài tác động. Hoàn cảnh gia đình và chính người lớn đã dồn chúng vào ngõ cụt. Biết bao nhiêu dòng chữ, nhân danh tình thương để nói lên sự thực, may mắn thay, mọi đau đớn, tan vỡ đến cuối cùng được nhà văn hàn gắn lại mở lối thoát cho những kiếp người…
… Cuộc sống của tôi êm đềm như thế cho đến năm tôi mười hai tuổi. Tôi không muốn nhắc ra đây hình ảnh đổ vỡ của một thời gian hãi hùng khi loạn lạc. Chẳng phải một mình tôi chịu số phận như thế này, mà trong những ngày đen tối đã còn biết bao nhiêu đứa trẻ có cùng một hoàn cảnh như tôi, hoàn cảnh của những đứa con mất mẹ trong khói lửa ngùn ngụt ở khắp phương trời…
(Những vì sao lạc)
Đoạn văn đã nói rõ tất cả, nó là nguyên cớ chính để nhà văn xếp đặt những sự tình xung quanh một vấn đề đã quyết định.
Nội dung hai tác phẩm trên, Nhật Tiến vô tình đi gần với thingyens, văn hào Anh ở thế kỷ XIX. thingyens cũng vì những đứa trẻ không may mắn mà tranh đấu. Ông là nhà văn hiện thực xã hội, chuyên dùng ngòi bút để chống đối những kẻ đạo đức giả và ích kỷ, đốn hèn. Hình ảnh David Copperfield dưới nét mực tuyệt luân của thingyens, không thiếu gì trong xã hội Việt Nam hiện tại, nhân vật Khánh hay Quỳnh đã chứng minh, tuy rằng, sự so sánh chỉ như một thí dụ. Vấn đề làm khổ tâm Nhật Tiến nhất, vẫn là sự hiện hữu của một cuộc sống chẳng mấy tốt đẹp cho mỗi số phận, trong một xã hội còn nhiều cách biệt. Cuộc sống đó, không được thăng hoa liên tục trong sự mong mỏi của mỗi kiếp người. Nó cũng không được hình dung qua những khuôn mặt ra vào nơi trà đình tửu quán của một hạng người may mắn do số mệnh an bài. Cái cuộc sống mà Nhật Tiến cảm thấy gần gũi với mình, nó như hơi thở, như nỗi buồn, do đấy mình có trách nhiệm. Chính vì trách nhiệm và lương tâm nhà văn, nên Nhật Tiến đã tự dấn thân vào một cảnh huống vô cùng bi đát của những kiếp người vì không nhìn rõ ý nghĩa đời sống, nên vẫn sinh hoạt một cách vô tư và an phận, bên cạnh một đời sống khác tốt đẹp hơn hoàn cảnh của họ nhiều.
Đứng trên bình diện kỹ thuật, việc hình thành một tác phẩm, đòi hỏi nhà văn ngoài lòng trắc ẩn, phải có sự nhận định vô tư, sáng suốt về mọi khía cạnh của vấn đề được đặt ra. Cuộc sống với những cảnh ngộ chẳng mấy khích lệ, thường được soi qua tấm lăng kính bi thảm, đôi khi bị chi phối bởi những ước vọng thầm kín sâu xa nào khác, nên có thể vì đó, tác phẩm mất phần hiệu năng đích thực của nó. Nhưng đó không phải trường hợp Nhật Tiến với Thềm hoang.
Trong tác phẩm Thềm hoang (1961), nhà văn đã chiếu rọi vào những kiếp người có mặt giữa vòng đai xóm Cỏ, một xóm lao động nằm ngay trong lòng thành phố, để tìm về cho mình một ý hướng sáng tạo. Mọi sinh hoạt ở đây tuân theo quy luật riêng, nghĩa là mỗi con người đều có quyền hành và trách nhiệm độc lập. Sự liên hệ giữa người thân thuộc như bố mẹ, vợ chồng, con cái nhiều lúc cũng xem như thấy-có-đó, chứ không được nối kết bởi mối dây thân ái, tình ruột thịt cùng chung cảnh ngộ không may:
Ai đưa tôi đến chốn này
Ban đêm thì tối ban ngày thì đen
Ôm đàn gẩy khúc huyên thuyên
Nghêu ngao mấy điệu cho quên tháng ngày…
Bốn câu trên, Nhật Tiến đưa vào trang đầu của cuốn Thềm hoang nhằm mục đích mở cho người đọc hé nhìn thấy, bối cảnh ngột ngạt của một cảnh tượng đang quay cuồng, chen chúc và xô đẩy nhau đi vào bi trường kịch xã hội.
Những khuôn mặt: bác Tốn, tay nghệ sĩ mù kiếm ăn bằng nghề hát dạo. Thằng Ích, mồ côi cha, khôn trước tuổi. Dượng Tám, tên lưu manh sống bám vào vợ con. U Tám, người con gái không may goá bụa nửa chừng xuân, mê lời tán dóc và thân thể cường tráng của gã đàn ông để rồi đau khổ, sau cùng kết liễu đời mình bằng sợi dây oan nghiệt! Ông Phó Ngữ goá vợ, có đứa con gái duy nhất, muốn nó có tấm chồng tử tế mà không xong. Khuôn mặt vợ lão Hói, tên bói bài tây, rượu chè be bét, lúc nào cũng tin có ông Trời, cùng nỗi thê thảm của Năm Trà với khuôn mặt Huệ, cô gái điếm đã hết thời xuân sắc mà vẫn gây sóng gió trong lòng bác Tốn, qua trí tưởng tượng. Ngần ấy thân phận xô đẩy nhau, lôi cuốn nhau, hoà trộn vào nhau để cấu tạo nên một cảnh huống vừa thương phẫn vừa bi thảm.
Trong Thềm hoang, Nhật Tiến đã viết, đã suy nghĩ rất nhiều về hoàn cảnh tâm lý của mỗi nhân vật. Nhật Tiến có một nhận xét rất tinh tế và tinh vi về từng trạng thái đã xô đẩy mỗi thân phận vào vị trí đau đớn của họ. Phương pháp hành văn gọn và mạnh nên gây xúc động thật tình qua sự khóc cười rất hồn nhiên mà cũng vô cùng bi thiết của mỗi vai trò, mỗi trường hợp, trong gần 300 trang sách. Hình ảnh bác Tốn, thằng Ích như được an bài do định mệnh. Hai vóc dáng ấy hiện diện từ trang đầu đến trang cuối, chỉ để nói tới sự liên hệ về quyền lợi của lớp người đã mất tương lai! Hai thân phận như hai chứng tích, in hằn vào tâm tưởng người đọc từng nỗi giày vò chua chát. Sinh ra ở đời, mỗi số phận đều cố tìm cách vượt mình, vượt thoát hiện tại, nhưng ông trời kia, ông trời, cách đây gần một thế kỷ, Nietzsche – triết gia Đức – đã gào to: Thượng Đế chết rồi! … nhưng sự thực, đối với con người phương Đông, mỗi thân phận ít nhiều gì, vẫn còn tin tưởng có ông Trời, ông Phật hay Chúa để bám víu vào, cầu xin và an ủi mỗi lần gặp không may. Bởi vậy, khi Nhật Tiến dựng Thềm hoang với các nhân vật nói trên và những sự tình xảy ra đều ẩn giấu bên trong sự an bài của một vị Trời nào đấy!
Hai bóng người hay hai bóng ma, cứ dật dờ mỗi đêm lang thang trên những lối mòn quen thuộc để bàn cãi vớ vẩn về một hoàn cảnh không thuộc về mình:
… Những lần hai bác cháu dẫn nhau đi qua ánh đèn đỏ gay gắt của các tiệm nhảy trên phố, có tiếng kèn xoáy vào không khí tĩnh mịch ban đêm, tiếng cốc tách va vào nhau lách cách, bác Tốn thường lắc vai nó:
"Nhảy đầm khoái chứ nhỉ?"
Ích đáp có vẻ thành thạo:
"Khoái đứt đuôi đi ấy chứ lị!"
"Dơ bỏ bố đi".
"Dơ mà lại khoái!"
"Khoái nhưng dơ!..."
(Thềm hoang, trang 14)
Lời đối thoại thật nhấm nhẳn, nhưng hồn nhiên trong việc tỏ bày những gì mình cảm thấy chứ không do suy nghĩ.
Từ nhảy đầm hai bác cháu đi sang vấn đề ăn uống. Thằng Ích chỉ thích bánh ga-tô, còn bác Tốn khoái phở, nhưng tuy khoái mà không dám ăn, vì giá một tô phở gần bằng cả buổi đi lang thang hát khô cổ, gảy đàn muốn rụng tay mới có được. Sự hợp tác giữa bác Tốn và thằng Ích được ấn định rõ ràng bằng cách chia đôi số tiền kiếm được mỗi buổi. Thằng Ích có công dẫn đường, bác Tốn có công trình diễn. Số tiền thằng Ích được chia, nó giấu đi một ít để ăn quà và mua đồ tặng con Ngoan – em gái nó – một phần, đưa cho mẹ để thêm vào ngân quỹ gia đình. Còn bác Tốn cố dè xẻn, dành tiền lấy Huệ, cô gái điếm loại rẻ tiền đã hết thời nhan sắc. Nhưng bác Tốn vẫn mê nàng qua lời tả của thằng Ích: Cô Huệ đẹp và thơm lắm, cô đánh môi son, mặc áo hồng, bận quần trắng. Bác Tốn mù nên chỉ "nhìn" người mình yêu qua trí tưởng tượng với ước mơ đắm đuối! Còn Huệ, cô gái giang hồ tuy đã hết thời, lại đau ốm luôn vì ham bán đắt rẻ thể xác mong đủ miếng ăn. Mỗi đêm hành nghề xong, lúc trở về xóm có ai nói xa xôi: "Mệt không cô Huệ ơi!" nàng lại chanh chua giận dữ: "Mệt cái phải gió. Cha tổ bố, ít tiền mà cứ muốn đẹp!" Không khí sống của xóm Cỏ, xóm điển hình cho những khu cặn bã của xã hội với những sinh hoạt cực kỳ sôi nổi. Những trận đòn chí tử của anh chồng say tặng vợ, với tiếng khóc, câu cười cùng lời nói thô tục được Nhật Tiến ghi chép tận tường để trình bày thực trạng. Ngay cả tình thương yêu trong trắng của hai anh em thằng Ích cũng được diễn tả bằng những dòng chữ nhạt nhoà nước mắt:
… Chúng nó (Ích và Ngoan) nghĩ đến ngày mai ngày kia và mãi mãi, buổi sáng phải đi mót củi khô và lá rụng ở mặt đường, buổi trưa nắng gắt, đi quẩy nước ở ngoài giếng, chiều tối, dượng Tám uống rượu lảo đảo trở về, chửi lảm nhảm tới khuya. Mỗi cử động mạnh của dượng, ngay lúc dượng chẳng đánh ai cả, cũng đủ làm cho tim Ích đập nhanh trong lồng ngực. Ích nghĩ dượng Tám thật tráo trở. Dượng vui đấy, mà giở mặt ngay đấy. Nhiều khi Ích có ý muốn mình được cầm một con dao nhọn hoắt mà đâm mạnh vào tim dượng. Máu đỏ phun ra sẽ làm nó rất kinh sợ nhưng cũng hả hê biết mấy…
... Cũng có lúc Ích ước ao mình được dẫn em bỏ trốn nhà ra đi. Điều ấy lại còn khó khăn hơn là sự cầm dao giết dượng Tám. Vì trong thành phố ồn ào này, tuy rộng rãi thật, nhưng nó chẳng biết là mình sẽ đi về đâu…
(Thềm hoang, trang 27)
Sự hình thành của một nếp sống không phải ngẫu nhiên mà có, đích thực nó phải trải qua nhiều giai đoạn. Ở mỗi giai đoạn lại tích luỹ thêm những bằng chứng, xác định rõ từng sự kiện đã xâm nhập vào trong tâm hồn của con người, để tạo nên nếp sống đó.
Nó còn có thể là một không gian địa ngục, được mô tả như hoàn cảnh đương nhiên, vây lút và cuốn tròn mỗi số phận không cho vượt thoát:
... Ở đường cái rẽ vào là ngay đầu xóm Cỏ. Có những mái lá nứt rạn chia ra lối hẹp. Vào những ngày mưa, lòng xóm hoá ra lòng cống, khi nước rút đi thì ngập bùn và rác rưởi. Mùi tanh nồng theo gió thoang thoảng bay đi. Mỗi lần đêm về, lối ngõ tối hun hút như một cái miệng có chiều sâu… Một vài ngọn đèn dầu đỏ đòng đọc lùa ánh sáng qua kẽ vách không soi hết những mô đá khấp khểnh nhô lên giữa những vũng bùn đen quánh. Ở đây về đêm có từng bóng áo trắng thấp thoáng sau mấy cái thùng xe đậu rải rác. Khách tìm hoa chụm đầu vào nhau thì thào. Que diêm bật lên rồi tắt ngúm. Ánh sáng teo lại theo tàn than rồi bóng tối lại tiếp tục bưng lấy tội lỗi một cách hối hả, vội vàng…
(Thềm hoang, trang 29)
Đấy, cái môi trường sinh động của một lớp người được phác hoạ trong tâm trí, để rồi các hoạt cảnh lần lượt trình bày thật linh động theo ý muốn nhà văn, những con người chui rúc nơi đây, không phải hoàn toàn mất hết nhân tính. Nhưng cái nhân tính chỉ được Nhật Tiến ghi nhận bằng những nét mờ nhạt qua nhân vật bà Chín và một vài động tác si mê của bác Tốn với Huệ trong lúc nàng ốm đau. Có nhiều lúc, bác Tốn muốn nói với Huệ một câu, một câu thôi, nhưng vì mặc cảm tự ti nên bác tự nhủ: Xấu hổ bỏ bố đi!... Câu nói phơi bày cái tâm trạng đau xót của một kẻ đã tật nguyền mà lòng còn phơi phới tình xuân. Sở dĩ bác Tốn – nghệ sĩ mù – còn sống được ở cái xóm Cỏ này, chẳng phải chỉ có Huệ, còn thằng Ích và bao nhiêu người cùng cảnh ngộ, cũng nghèo như bác, cũng lam lũ như bác, nên khi vui bác thường cất cao giọng:
"Cô Huệ ơi!
Tôi theo cô đến tận góc bể chân trời
Sông sâu tôi cũng lội, núi đồi tôi cũng leo
Sang Tây, sang Nhật, sang Lào
Sang Tàu, sang Mỹ tôi theo đến cùng…
Ới! Cô Huệ ơi! …"
Đau đớn thay mối tình bác Tốn mơ tưởng, nó chỉ là mối tình suông, mối tình tuyệt vọng vì tuy nhan sắc Huệ đã xuống, nhưng chắc chắn không đời nào Huệ chịu làm vợ anh mù hát dạo kiếm cơm! …
Nhân vật u thằng Ích, một goá phụ còn xuân sắc với đôi mắt lá răm, da trắng trẻo mịn màng, cũng được nhà văn viết với những nét thật sắc, thật bi thương. U thằng Ích vì còn trẻ nên không giữ nổi tiết hạnh trước tên Tám, có thân thể vững chắc, có đôi cánh tay gân guốc mê mình, để rồi sau khi đã làm chủ được linh hồn và thể xác lại hành hạ mình cho tới chết. Ngày trước u thằng Ích mê dượng Tám vì sức vóc, bây giờ dượng lại dùng sức vóc để tặng vợ những trận đòn ác liệt mỗi khi nổi giận vì không có tiền chơi bời cờ bạc! Tiếng khóc, ôi! tiếng khóc của người đàn bà khốn khổ về đường chồng con, đêm đêm dựa mình vào cột gỗ ngoài hiên, than van cho số kiếp, trong khi gã đàn ông khốn nạn đang ngáy nặng nề với hơi men nồng nặc! … U thằng Ích, hình ảnh người đàn bà Việt Nam cũ, đã lỡ rồi, dù khổ cực đến đâu cũng gắng chịu cho đến ngày không chịu nổi nữa thì chết!
Hình ảnh lão Hói với dáng đi lom khom và cái đầu nhẵn thín, khuôn mặt choắt cheo, mày rậm, mũi đỏ, vai đeo túi vải có đựng cỗ bài tây cáu ghét và chiếc khăn tay dơ bẩn. Đấy chân dung và gia tài của lão Hói – thầy bói bài tây – luôn mồm đọc câu:
Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu
Hoàng Thiên thương mến quả địa cầu
Giáng tạo thay đời không tranh đấu
Thế giới thanh bình khỏi thuế sâu…
Rồi lão giải thích cho bà con lối xóm nghe rằng: Ông ấy sinh ra mình, sinh ra cây cỏ, mọi thứ lu bù. Tây, Tàu, Anh, Mỹ gì cũng thua ông hết trọi! … rồi lão tự khen: Chèn ơi! Hay thiệt à! … Lão Hói là nguồn vui cho cả xóm Cỏ, nhân vật này có mặt trong Thềm hoang với dụng ý làm nhẹ bớt sự bi thảm của tác phẩm.
Vấn đề tình yêu trong cuốn sách không kém sôi động. Vì tình yêu là vấn đề muôn thuở của vạn vật chẳng cứ gì con người, nên ngoài mối tình tuyệt vọng của bác Tốn với Huệ cũng như cuộc tình đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần của u thằng Ích và dượng Tám, còn có cuộc tình không kém nồng nhiệt, vô cùng bình dân giữa con Đào và anh phu xích lô Hai Đào, bất chấp cả bác Phó Ngữ – bố Đào – nổi tiếng khắc nghiệt trong vấn đề dạy dỗ con gái. Ý của Phó Ngữ muốn cho con Đào có tấm chồng đàng hoàng để ông được nở mày nở mặt với xóm giềng, ai ngờ con Đào lại phải lòng tên Hai Hào, người mà ông cho là không xứng đáng làm rể ông. Nhưng Phó Ngữ không chống nổi được quyết định của ông Tơ, bà Nguyệt đã xe duyên hai đứa:
... Gã ôm lấy cô gái vào hai cánh tay. Đào cũng ghì chặt lấy gã. Giọng gã ấp úng:
"Đào ơi! Mình ơi! …"
Cặp môi của gã hôn như mưa trên má Đào. Giây sau, gã nói:
"Nên" đây, tôi chở mình đi chợ".
"Chịu thôi, chúng nó chế chết…"
"Chế cái ‘nỗ’ đít! Mặc bố nó…"
"Chịu thôi. Để đến tối".
"Tối ở đâu?"
"Sau giếng đi".
"Mấy giờ?"
"Chín giờ".
Thế là buổi tối hôm đó, hai bóng người tình tự sau bờ giếng đến khuya, ông Phó Ngữ đi tìm con với vẻ giận dữ:
"Sư bố thằng Hai Hào chim con gái ông… Ông thề ghè vỡ sọ mày ra, biết chưa?"
Rồi từ xó tối có tiếng xô ghế đứng dậy và gã thấy Phó Ngữ bổ ra với cây gậy quen thuộc ở trên tay. Hai Hào vội vàng la lên:
"Ơ… ơ… đâu nào… Tôi chim ở đâu nào…"
Phó Ngữ hét lớn:
"Ông biết rồi, ông biết tỏng ra rồi…"
Nói rồi lão vụt cho Hai Hào một gậy. Gã co chân ù té chạy. Lão già vùng lên đuổi theo. Giọng lão oang oang trong cái im lặng của đêm về xóm Cỏ:
"Bố thằng Hai Hào biết chưa… ông mà túm được thì ông rút lưỡi, biết chưa?"
Chính vì hành động nóng nảy của Phó Ngữ, con Đào sợ không dám về nhà tối hôm ấy. Hai đứa vì cùng chung hoàn cảnh và đương bị tình yêu mê hoặc nên liều:
… Đến quá nửa đêm lúc gã còn đang thao thức về số phận người yêu thì có tiếng cạy cửa và tiếng gọi thì thào:
"Mình ơi!"
Hai Hào bật dậy. Gã nhảy bổ ra tháo cái then cửa. Gã nom thấy Đào đứng ở dưới chân lão Hói, giọng gã xuýt xoa:
"Sao? Mình có "nàm" sao không? Có đau không?"
Đào lắc đầu:
"Tôi không về. Nom thấy ông ấy đuổi mình, tôi đi tuốt ra đường cái rồi vòng lối giếng về đây. Mình có… bị gì không?"
"Không, tôi nhanh chân chạy được".
"Khổ quá… thật là mình khổ vì tôi".
Hai Hào vội vàng bịt lấy miệng người yêu:
"Khỉ "nắm" nữa. Đã yêu nhau rồi mà mình cứ khách khí. Tôi khổ thế chứ, khổ nữa vì mình tôi cũng cam".
Đào cảm động ôm chầm lấy gã. Gã dìu nàng đi vào bóng tối… Có tiếng chuột chạy rinh rích trên rui nhà. Một lát có tiếng Đào dãy lên:
"Đừng mình ơi!… Tôi van mình".
Rồi Đào im bặt, chỉ còn tiếng ghế ngựa đu đi đu lại kêu cót két và tiếng Hai Hào thở mạnh như những lúc gã đạp xe chở nhiều đồ…
Rồi con Đào khóc, Hai Hào dỗ dành:
"Tôi ‘nạy’ mình. Đừng có khóc. Rồi mình ‘nấy’ nhau, cần gì".
"Nhưng bố biết thì bố tôi giết".
"Biết ‘nàm’ sao được. Chốc nữa tôi đưa mình về thật sớm".
"Ngộ tôi chửa thì sao?"
"Chả ‘nàm’ sao. Mình ‘nấy’ nhau rồi, tha hồ mà chửa!..."