Post by Can Tho on Apr 19, 2008 5:04:54 GMT 9
Ng~
Chiến tranh đi qua những truyện ngắn của Y Uyên
“Không có nỗi ngây ngất nào rực rỡ như nỗi ngây ngất chiến tranh, phía sau có lửa, phía trước có máu của mình.”
(Mùa xuân qua đèo - Y Uyên)
Trên tờ tuần báo Nghệ Thuật, số đầu tiên ra ngày 1-10-1965, Mai Thảo đã dựng lên tuyên ngôn của những người cầm bút (trong nhóm) về thái độ của nhà văn trước thực tế của đất nước, bằng một nhan đề rất kêu: “Văn học Nghệ thuật trong chiến tranh hiện tại và hoà bình tương lai” bằng thái độ chọn lựa rạch ròi, bằng trách nhiệm và bổn phận trước quốc gia, dân tộc, lịch sử mà nghe cứ như lời rao giảng ngày tận thế với cơn đại hồng thuỷ và chiếc thuyền của Noé: “Nói đến đời sống, cái chết, chiến tranh và hoà bình, lửa máu và nước mắt, nhân phẩm và danh dự, nói đến hạnh phúc, bất công áp bức, ý thức, thượng đế, thân phận con người, triết thuyết, hành động, thực tế và trí tuệ, cá nhân và toàn thể, nói ở đâu bằng ở Việt Nam không nói, nói ở đâu bằng Việt Nam đau khổ, nói ở đâu bằng Việt Nam treo căng trên từng từng bất hạnh, nói ở đâu bằng Việt Nam có quyền nói đến trước tiên? Văn học nghệ thuật chúng ta phải nói lên bằng được sự thực vĩ đại hiện hình trên Việt Nam quằn quại.
Vai trò của Văn học nghệ thuật hiện nay do đó là phải đi vào thực tế chiến tranh, bởi thực tế ấy là một sự thực…” (Sđd). Một tuyên ngôn như vậy, trên một tờ báo văn nghệ như vậy, trong thời khắc chiến tranh bắt đầu loang nhanh như một vết dầu bẩn trên phần đất này một cách ồ ạt, khốc liệt có vẻ như thừa, như thiếu hơi, đuối sức?
Trước đó, trước khi nhóm Sáng Tạo hụt hơi trì kéo những trường phái siêu thực, hiện sinh vào văn học miền Nam Việt Nam, thì đã có rất nhiều người cầm bút đã chọn lựa một thái độ, một trách nhiệm trước cuộc chiến rồi; tác phẩm của họ ít nhiều đã vẽ lên bộ mặt xấu xa, kinh tởm của chiến tranh rồi!
Và như vậy, các nhà văn, khi viết về chiến tranh Việt Nam, mỗi người chọn một đề tài khác nhau, bối cảnh khác nhau, các nhân vật khác nhau, không ai giống ai; muôn màu muôn vẻ để người đọc có thể nhìn thấy, một cách trọn vẹn, bộ mặt gớm ghiếc của cuộc chiến tranh phi nhân, phi nghĩa này. Một cuộc chiến khởi đi từ những mù quáng, căm thù… đẩy cả dân tộc vào thảm cảnh đau thương nhất trong lịch sử.
Ở Tiền đồn, Thế Uyên nhìn chiến tranh như là một sự phi lý được khắc hoạ một cách kinh hoàng nhất, tởm lợm nhất qua thân xác của người phụ nữ bị kẹp giữa hai lằn ranh của thù hận: ban ngày là sự gần gũi vội vã của người chồng và ban đêm là sự “hì hục cuồng nhiệt” của anh du kích. Tất cả đều diễn ra trên thân xác của người phụ nữ như biểu tượng nhục nhằn của lịch sử, dân tộc. Chị không có sự chọn lựa nào khác giữa vùng xôi đậu này, ở đó Việt cộng và Quốc gia thay phiên nhau “cai trị” những người dân hớt hải chạy, hớt hải về. Nói cho đúng, chị không có quyền lựa chọn. Sự chọn lựa đã được sắp đặt sẵn, để thân xác chị luôn bị dày xéo một cách tàn nhẫn từ hai phía. Người đàn bà tên Ba, nhân vật chính trong Tiền đồn là biểu tượng của sự nhục nhã nhất mà cả dân tộc phải gánh chịu trên vai. Thật kinh khủng!
Với Nhã Ca, bộ mặt chiến tranh cũng trở nên bi thảm không kém đối với những người dân sống “bình yên” trong thành phố. Họ còn trẻ, và là những trí thức đang đứng trước những chọn lựa, những thái độ phải bày tỏ bằng những hành vi cụ thể. Chất bi thảm của thế hệ trẻ là sự lắng nghe, nhìn thấy một cách mơ hồ chiến tranh đang diễn ra đâu đó ngoài rìa thành phố với những cảm giác đầy sợ hãi phập phồng trong Ðêm dậy thì, Ðêm nghe tiếng đại bác. Ðến Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư… thì chiến tranh là sự đụng mặt gần sát, là những cuộc hành quân, bao vây, phục kích, là súng nổ, người chết, dân lành gồng gánh trong nước mắt, hối hả chạy trên bờ ruộng hẹp, lo sợ những viên đạn cắm phập vào tim, nhưng không thể không ngoái nhìn lại căn nhà tranh vách đất chẳng đáng giá là bao (nhưng chứa đựng biết bao tình cảm thiêng liêng) đang bốc cháy ngùn ngụt phía sau. Chiến tranh trong tác phẩm của họ là sự nhìn thấy rõ ràng, rất cụ thể: súng nổ, người chết. Những người tham gia các trận đánh là những người bạn, người lính thân yêu bên cạnh mình, từ từ, lần lượt ngã xuống… Và không chỉ dùng súng đạn để đánh nhau, thậm chí họ còn sử dụng cả lời nói để hạ gục đối phương:
“Staline của Nga chết, cha Tố Hữu của ngoài mầy làm thơ: ‘ông Staline ơi… ông Staline ơi… Thương cha thương một, thương ông thương mười.’ Anh Kennedy, Kennedy là Tổng thống thứ 35 của Mỹ, đẹp trai, con nhà giàu, giỏi, chết, mầy thấy có thằng làm báo miền Nam nào viết bài thơ khóc cái anh Kennedy này chưa? Và sau cùng hết, mầy chỉ làm được một việc này với tao thì tao gọi mầy là thánh tao chịu nghe hết lời của mầy, tao tin mầy là ‘dân chủ xã hội’. Bây giờ tao hô ‘đả đảo đế quốc tư bản Mỹ’, mầy hô: ‘đả đảo đế quốc Trung Hoa đỏ, đả đảo đế quốc Liên Sô’. Ðấy mầy và tao cùng hô một lần, tao đếm 1, 2, 3… thì bắt đầu. Tôi hô: 1, 2, 3… Nghe trong máy có tiếng rè rè của tần số bị phá…” (Phan Nhật Nam, Mùa hè đỏ lửa, trg 136, NXB Sáng Tạo, Sài Gòn 1972).
Ðó là chưa kể nỗi xót xa, đau đớn đến tận cùng khi đồng đội bị thương, khó lòng vượt qua cái chết đang cận kề, đã van nài nhân vật xưng tôi (Trần Hoài Thư) “mày hãy bắn tao đi, mày hãy bắn chết tao đi!” Mà đâu chỉ có một mình Trần Hoài Thư mới chứng kiến cảnh đau lòng, xé nát tim gan anh như vây? Hầu hết các nhà văn quân đội khác tôi đã đọc tác phẩm của họ, ít nhiều đều ghi lại những cảnh hãi hùng đó!
Những người trong cuộc lẫn những người dân vô tội đứng bên ngoài hay trong cuộc chiến tương tàn, đều chung một số phận bi hài như nhau.
(Nhưng với Y Uyên thì khác, nói như Lê Văn Chính (SBT): “Trước ngày nhập ngũ, anh đã viết nhiều truyện thời chiến. Lúc đó anh còn là nhà giáo, nên truyện thường mang nặng tính chất tưởng tượng hoặc dựa theo những kinh nghiệm chiến tranh mà anh được nghe kể lại” (“Núi Tà Dôn” và “Dấu chân Uy”, đăng trong số này). Ðúng, khi đọc một tác phẩm ta có quyền lựa chọn, có quyền bình phẩm theo ý thích của riêng ta. Ðó là quyền của người đọc. Riêng với nhà văn, khi viết ta viết điều ta yêu thích, điều ta cảm, ta gần gũi, ta sống với nó, hít thở với nó, chứng kiến nó diễn ra hàng ngày, thậm chí ôm nó vào lòng lăn lộn với từng giấc ngủ đầy mộng mị hãi hùng.
Y Uyên sống trong thời khắc cuộc chiến nổ ra ác liệt nhất, trên vùng đất kinh hoàng nhất. Ví dẫu rằng: nếu như anh chưa hề là nhà văn, chưa hề cầm bút thì hàng ngày anh không thể không nhìn thấy chiến tranh diễn ra ngay trước mắt anh, diễn ra một cách bình thường, lặng lẽ mà đau đớn đến nát tan cõi lòng. Với người cầm bút thì anh càng không thể đứng ngoài ngắm nhìn như kẻ bàng quang, kẻ ngoài cuộc, thậm chí là kẻ trốn chạy khỏi vòng vây chiến tranh. Tôi vẫn nhớ như in, hồi còn học Văn khoa Sài Gòn, GS Nguyễn Văn Trung luôn tự hào về giảng khoá cho đám sinh viên năm dự bị, với nhan đề “Nhà văn, người là ai, với ai?” Ông đã dựa vào những phát biểu trong bài diễn văn của nhà văn A. Camus đọc tại giảng đường Viện đại học Upsal, Thuỵ Ðiển nhân dịp nhận giải Nobel văn chương năm 1957, xoay quanh cái trục trách nhiệm và thái độ của nhà văn trước cuộc sống để rao giảng cho chúng tôi, những thanh niên mới bước chân vào cổng trường đại học, rằng “khi một nhà văn quyết định cầm bút viết văn tức là tự nhận lấy một chức vụ trong xã hội. Từ nay, người đó (ý nói nhà văn) ra khỏi đám đông, quần chúng vô danh, trở thành một nhân vật, được thiên hạ biết đến và sẽ được khen chê ủng hộ đả đảo tùy theo lối nhìn, thái độ của họ” (“Nhà văn, người là ai, với ai” - Nguyễn Văn Trung). Xin lạm nhắc lại chuyện xưa, để nhìn lại thái độ của Y Uyên và những tác phẩm của anh trước cuộc chiến khủng khiếp này!
Những truyện anh viết về chiến tranh không bao giờ có súng đạn nổ chát chúa, không có cảnh quân hai bên giương súng bắn vào nhau, vây nhau tầng tầng lớp lớp như chọn lựa cách viết của Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư, Thảo Trường… mà lại là những điều, những thứ bị cuộc chiến xô đẩy tới bờ vực của đổ nát tan thương, của tiếng lòng dội xé. Ðó cũng là cách chọn lựa đề tài, nhân vật, bối cảnh của Dương Nghiễm Mậu, của Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ…
Hầu hết những truyện anh viết và “đọc được” đều bắt nguồn từ khi anh dạy học ở Tuy Hoà, một thị xã nhỏ bé của duyên hải miền Trung giữa lúc chiến tranh đổ ập xuống nửa phần đất nước một cách khốc liệt nhất. Cái thị xã tí xíu mà anh và bạn bè anh đang sống, chẳng phải là một khu phi quân sự, một vòng đai an toàn mà là một lò lửa. Ðạn luôn nổ, người chết, nhà cháy, đồng khô, dân quê bồng bế nhau chạy trốn hòn tên mũi đạn, ngày Quốc gia, đêm Cộng sản giành giật nhau… Cuộc chiến rất kỳ cục, phi nhân ấy cứ thế mà diễn ra ngày này sang năm khác để người dân khốn đốn kêu lên “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy?” Cuộc chiến quái gở ấy không phải chỉ có anh và tôi đánh nhau, mà một bên là có sự trợ giúp công khai, một bên là lén lút nhận vũ khí, quân trang quân dụng để “giương cao ngọn cờ chính nghĩa” đã đẩy người dân vô tội xô dạt bên này hay bên nọ (cốt để tránh hòn tên mũi đạn). Không khí truyện của Y Uyên không “nhảy tọt” vào giữa chiến trường, bởi anh chưa hề là một chiến binh thực thụ, mà anh “chạy theo, áp sát vào” những xô dạt không chừng mực trong những lần chạy giặc dài ngắn để nghe, để thấy, để cảm và chia sẻ nỗi đau của họ.
Những nhân vật của anh luôn là những nông dân nghèo, lam lũ, những người bình thường nhất đang sống ở vùng xôi đậu, đêm chạy trốn nơi an toàn, ngày mò về chắt mót từng hột lúa, củ khoai, là những thầy giáo, cô giáo, những đứa trẻ ngơ ngác. Anh yêu mến tất thảy bọn họ chẳng qua vì anh quá gần gũi với họ hàng ngày, hiểu được những trớ trêu của bọn họ.
Tất cả các nhân vật nữ của Y Uyên không có ai như chị Ba trong “Tiền đồn”, như chị Tư trong “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp” bị giày xéo, chà đạp đến tàn nhẫn, như là những biểu tượng tượng trưng cho thân phận của toàn thể mọi người dân ở phần đất bị bom đạn cày xới nát tan, phải ngửa mặt ra hứng lấy mọi tai họa.
Cái chất dịu dàng, thong thả, nhẫn nhục của người phụ nữ, đa phần là dân quê, lánh nạn ra thị xã. Ðó là những người bình thường nhất trong xã hội được Y Uyên phác hoạ là những người trung thực, bị đẩy đưa do hoàn cảnh, chấp nhận sống trong hoàn cảnh bi đát ấy. Những Bích, những Hiền và chị Hiền là một phần của đất nước bị băm vằm bằng nhiều nhát dao oan nghiệt. Họ vì cuộc sống mà phải bỏ làng tản cư lên thị xã, phải nhắm mắt làm người phụ nữ “sạch sẽ” nhất trong thời loạn:
“Một lần nghi Bích không tin mình, giấu tiền không cho mình vay, lúc hai người đang nằm ở giường, anh ta chợt nảy ý tưởng đòi khám Bích. Bích từ chối cầm chừng. Lúc trật hai chiếc xú-chiêng xuống nửa chừng, anh ta sững sờ một lát rồi ôm Bích thật chặt, hôn Bích như một sự đánh liều để cố quên mình đang có một cơ thể bị đòi hỏi hành hạ. Sau đó anh ta nói một câu kỳ quặc nhưng hơi mất bình tĩnh ‘Vú Bích sáng ngời, nóng và trơn thế mà từ lâu nay nào anh có hay’… Một nửa anh bị ám ảnh bởi bộ ngực của Bích, một nửa anh ngại, nếu tiến thêm, Bích sẽ nhoà đi như những người đàn bà anh đã gặp.” (“Bên ngoài khán đài”).
Và dẫu không “dữ dội, bi thảm” như chị Ba, chị Tư của Thế Uyên, Thảo Trường nhưng những “người đàn bà có chồng lên núi mấy năm nay” của Y Uyên lại phải chịu đựng một cách khác, dơ dáy một cách khác, bi thảm một cách khác:
Ai đó?
Giọng Bích cố thoát ra khỏi hai hàm răng. Một cánh tay vòng lấy lưng Bích chắc nịch.
“Qua đây chớ ai.”
Nghe có tiếng nói cất lên, Bích thấy đỡ sợ nhưng xúc động sợ hãi vẫn còn rung da thịt. Bích thấy kẻ ôm lưng mình là một bóng đen cao lớn đã chui vào mùng từ lúc nào. Vòng tay đó thắt chặt lại. Một tờ giấy được nhét vào tay Bích. Bích chắc là một tờ giấy bạc và thấy mình bị kéo xuống khỏi giường. Bích vùng đạp mạnh vào Hiền, cố giật người thoát ra khỏi vòng tay sau lưng. Hiền nhỏm dậy hỏi:
“Chi đó?”
Vòng tay tự nhiên nới rộng, mở ra. Hiền yên lặng đứng dậy, bước ra điềm nhiên:
“Ông xã đó phải không?”
Bích đã hết sợ, ngồi dựa vào góc tường, ngạc nhiên.
“Ai ngủ với em trong đó?”
Giọng người đàn ông hỏi uy quyền.
“Bạn em đó.”
Người đàn ông im lặng một lát rồi Bích thấy Hiền như bị ôm sát.
“Bữa nay có bạn em…”
“Bạn em thì sao?”
Bích thấy Hiền bị nhấc bổng ra khỏi mùng, theo bước chân người đàn ông ra khỏi cửa. Một lát, bên giường chị Hiền có tiếng trở mình. Bích thấy chị rón rén bước sang giường mình. Bích hỏi:
“Chuyện gì đó chị Hai?”
Người chị Hiền ghé ngồi vào mùng, nhỏ giọng:
“Còn chuyện chi nữa.”
“Hiền nó đi với người đàn ông đến đâu?”
“Ra ngoài hiên chớ đâu.”
Bích ngạc nhiên:
“Cha đó vào bằng lối nào kìa?”
Mùi khế úng lại thoảng vào trong mùng. Bích nghe như có một giọng đáp từ xa:
“Nhà này có khác chi nhà ông xã”
(“Bên ngoài khán đài”).
Hình như ông xã của Y Uyên và tay du kích của Thế Uyên làm cho chiến tranh thêm đậm mùi hơn, cái “mùi khế úng” bay vào chỗ tận cùng của thánh thiện và dơ bẩn nhất của cuộc đời này?
Ðó cũng là nỗi lo sợ vu vơ, những hoài nghi vu vơ ngay chính bản thân mình và cho người khác trước cuộc chiến ngày một lan rộng, dữ dội:
Chiêu hỏi:
“Chừng nào anh vô lại Sài Gòn?”
Mường ngạc nhiên:
“Anh không có ý định đó.”
Chiêu giận:
“Anh giấu em.”
(…)
Chiêu quả quyết:
"Có tin những điều anh nói không?"
“Không.”
“Thực may cho anh. Chính anh cũng không hiểu phải nói gì với Chiêu.”
Chiêu bật khóc. “Anh khinh em”. Mường yên lặng thấy mình ngây ngô.”
(“Gió cuối năm”).
Làm sao mà Chiêu không “bật khóc” và Mường không “ngây ngô” khi sự chờ đợi của người thiếu nữ là sự chờ đợi mỏi mòn và anh Mường mới giải ngũ không thể tự định đoạt nổi số phận chính mình, huống hồ đèo bòng “thứ tình yêu mới lớn của Chiêu”? Rồi những chị Bước (“Chiều trong làng”), Kiều (“Miền không vết chân người”) vẫn cứ nhẩn nha giữa những tai hoạ đang vây bủa chung quanh, giữa một vùng cát tị nạn ngui ngút những căn lều tạm bợ, ở đó hai vợ chồng một nông dân, một thợ dệt cứ lo ngay ngáy sao cho chiếc giường không kêu “rắc rắc” như chiếc giường của vợ chồng Hai Bát kê ngay bên cạnh. Ðó, chiến tranh dưới ngòi bút Y Uyên nó mò sát tới chân giường của đôi vợ chồng nghèo. Rõ ràng anh không hề tưởng tượng hay nghe kể lại, mà chính anh đã “tận mắt ngắm nhìn” một cách cẩn thận để chia sẻ! Bởi hàng ngày anh đụng mặt với nó, bởi những nhân vật kia là phụ huynh của những đứa trẻ anh đang dạy dỗ, là những hàng xóm trong khu nhà trọ, ông chủ quán nấu cơm tháng…
Ðến như “Bão khô”, một trong số ít truyện ngắn được đánh giá là hay nhất của Y Uyên, thì không khí chiến tranh càng kinh hoàng, thê thảm hơn. Chiến tranh đang tiếp tục lởn vởn, bay nhảy trên thân thể anh lính lệch vai, trên chiếc khăn tang của người đàn bà, những tờ sấm truyền tụi học trò ngồi trong lều chợ buổi trưa, chép chuyền tay nhau, là chiếc xe đò Vạn Hưng bán đồ uống cho Mỹ, là người lính Mỹ ngủ gà gật bên thềm chợ, mấy người đàn ông ăn bánh tráng, bà chủ quán mặc áo dài đi chân đất, là hai người đàn ông mặc áo xanh của một giáo phái kỳ bí với “những lời sấm bọn học trò truyền nhau chép và họ dường như có một liên lạc vu vơ”… Những nhân vật ấy xoay quanh một ngôi chợ tồi tàn bên kia cầu, hằng ngày anh lên xuống bốn bận đi dạy học. Ðâu có súng nổ, đâu có bom rơi, đâu có cảnh quân hai bên xung phong xáp lá cà? Vậy mà nó, chiến tranh hiện ra một cách tàn nhẫn trên từng lời nói, cử chỉ, ngôn ngữ của bao nhiêu con người ấy. Nó làm cho ta quay quắt một nỗi đau không cùng. Và giả dụ như những kẻ cầm đầu cuộc chiến tương tàn này, đọc “Bão khô” (cùng những tác phẩm khác của những nhà văn khác), họ sẽ nghĩ gì? Sẽ đẩy cuộc chiến tới mức tồi tệ nào nữa?
Với giọng văn rất bình thản, anh đi dần vào thế giới đau thương, tan tác đó bằng những tấm bảng hiệu “Laundry number one” trước hiên quán, hoặc “Refreshment” bên hông xe ba bánh, đến khi người lính lệch vai xuất hiện trên khu chợ, hỏi thăm chiếc xe đò Vạn Hưng phủ kín tấm màn màu đỏ sặc sỡ:
Người lính nhìn thằng bé lê trên mặt đất với cái mẹt trước mặt.
"Mầy có biết mấy người con gái bán trong xe đó không?"
Thằng bé lắc đầu chỉ cho người lính thấy vùng đất bên dưới dốc ngổn ngang những vệt bánh xe.
"Làm sao thấy mà biết. Cửa xe có vải đỏ che kín, đậu dưới đó ai mà dám xuống.”
“Con đĩ.”
Tiếng người lính nguyền rủa giận dữ. Anh ta bỏ đi vào phía chợ”.
(“Bão khô”).
Người đàn bà ấy là ai, đi đâu, làm gì?
“Nỗi sợ hãi thiệt không hình dạng. Ðột ngột như cái rùng mình của một cơn say. Anh không muốn hỏi, muốn nghĩ gì cả. Anh không muốn. Người đàn bà chết thảm đó không thể là vợ anh được. Nó đang giấu mặt trong trong chiếc xe đò Vạn Hưng đó… Anh gục xuống với nỗi sợ hãi chập chờn trước mặt. Cánh tay cổ tròn vạch lên tường ngày gà khởi ấp vẫn hợp với người đàn bà gánh lúa, gánh thóc lúc chồng vắng nhà hơn. Những lời đồn đãi về vợ anh, từ trước tới giờ cuối cùng anh vẫn thấy gần lòng tin nhất. Vợ anh ngồi sau tấm màn đỏ theo lời đồn và chết lúc gánh gạo theo trí tưởng tượng mơ hồ và có lý như nhau.” (Sđd)
Và người đàn bà thứ hai trong truyện này:
Từ dưới bãi cát người đàn bà khăn tang trở lên, hai ống quần ướt và quệt đầy bụi. Người lính hỏi bà chủ quán:
“Chồng chết?”
“Chết mìn hôm trước đó. Một cái xe Lam, một cái xe nhà binh, chết sáu mươi mấy người.”
“Kiếm chi dưới đó?”
“Cánh tay có mang cà rá của chồng. Lúc điên, lúc tỉnh, lúc dại, lúc khôn, biết sao mà tin.”
Người lính lầm bầm chửi tục, trề môi:
“Chồng chết lấy chồng khác, mắc mớ chi mà điên” (sđd).
Và kết thúc truyện:
“Bằng những bước đi dài và nhẹ, chị ta khom người từ từ vào sâu lòng chợ, nơi có một con chó không chạy vào lều, ngồi cúi đầu gậm một khúc xương. Người lính say mửa một hồi lại gục xuống mặt bàn, người như chúi về một phía.
(…) Có một giọng đàn bà lẫn với tiếng gió ở sau tấm liếp như tiếng mẹ thằng bé. Nó nhìn lên mặt lộ. Trên con đường lổn nhổn đá xanh dẫn lên trên đó, người đàn bà có khăn tang nhẩy qua nhẩy lại, rượt theo một con chó ngậm trong mồm một khúc xương” (sđd).
Cái khúc xương mà con chó ngậm trong mồm có phải là cánh tay người chồng chị đàn bà mang khăn tang bị mìn nổ banh xác? Hay đó là khúc xương người phụ nữ có cổ tay tròn ghi ngày gà khởi ấp trên tường (cũng bị mìn nổ) chết đâu đó? Chị ta là nhân vật chỉ xuất hiện trong truyện qua những dòng suy nghĩ của anh lính lệch vai, chồng chị. Rõ ràng anh ta không mong chị chết, nếu đổi cái chết ấy với chuyện chị ngồi trong chiếc xe đò Vạn Hưng vẫn hơn. Nỗi nhục nhằn buộc phải chứng kiến cảnh nhớp nháp của vợ với những người lính ngoại quốc trong chiếc xe đò phủ vải đỏ sặc sỡ vẫn làm người lính yên lòng hơn là vợ anh chết thật sự, chết đâu đó mất xác như cái chết của chồng người đàn bà khăn tang kia!
Trong lối ví von, so sánh Y Uyên đã đẩy tới tận cùng sự tan nát, đớn đau: thà làm đĩ, có nhơ nhuốc thật, nhưng còn sống vẫn hơn là chết bờ chết bụi?!
Rồi chỉ với một khúc xương trong mồm con chó, Y Uyên đã vẽ ra một cảnh thê lương, hãi hùng của chiến tranh đang phủ chụp xuống, không chừa một ai: Nỗi đau chết trận và nỗi đau của mất mát, chịu đựng không cái nào nhẹ hơn, bởi một đằng là tức thì với cảnh banh ruột máu me đầm đìa, một đằng kéo dài âm ỉ đau, âm ỉ khổ nhục… Cả hai vẫn thế.
Chiến tranh đi qua những truyện ngắn của Y Uyên
“Không có nỗi ngây ngất nào rực rỡ như nỗi ngây ngất chiến tranh, phía sau có lửa, phía trước có máu của mình.”
(Mùa xuân qua đèo - Y Uyên)
Trên tờ tuần báo Nghệ Thuật, số đầu tiên ra ngày 1-10-1965, Mai Thảo đã dựng lên tuyên ngôn của những người cầm bút (trong nhóm) về thái độ của nhà văn trước thực tế của đất nước, bằng một nhan đề rất kêu: “Văn học Nghệ thuật trong chiến tranh hiện tại và hoà bình tương lai” bằng thái độ chọn lựa rạch ròi, bằng trách nhiệm và bổn phận trước quốc gia, dân tộc, lịch sử mà nghe cứ như lời rao giảng ngày tận thế với cơn đại hồng thuỷ và chiếc thuyền của Noé: “Nói đến đời sống, cái chết, chiến tranh và hoà bình, lửa máu và nước mắt, nhân phẩm và danh dự, nói đến hạnh phúc, bất công áp bức, ý thức, thượng đế, thân phận con người, triết thuyết, hành động, thực tế và trí tuệ, cá nhân và toàn thể, nói ở đâu bằng ở Việt Nam không nói, nói ở đâu bằng Việt Nam đau khổ, nói ở đâu bằng Việt Nam treo căng trên từng từng bất hạnh, nói ở đâu bằng Việt Nam có quyền nói đến trước tiên? Văn học nghệ thuật chúng ta phải nói lên bằng được sự thực vĩ đại hiện hình trên Việt Nam quằn quại.
Vai trò của Văn học nghệ thuật hiện nay do đó là phải đi vào thực tế chiến tranh, bởi thực tế ấy là một sự thực…” (Sđd). Một tuyên ngôn như vậy, trên một tờ báo văn nghệ như vậy, trong thời khắc chiến tranh bắt đầu loang nhanh như một vết dầu bẩn trên phần đất này một cách ồ ạt, khốc liệt có vẻ như thừa, như thiếu hơi, đuối sức?
Trước đó, trước khi nhóm Sáng Tạo hụt hơi trì kéo những trường phái siêu thực, hiện sinh vào văn học miền Nam Việt Nam, thì đã có rất nhiều người cầm bút đã chọn lựa một thái độ, một trách nhiệm trước cuộc chiến rồi; tác phẩm của họ ít nhiều đã vẽ lên bộ mặt xấu xa, kinh tởm của chiến tranh rồi!
Và như vậy, các nhà văn, khi viết về chiến tranh Việt Nam, mỗi người chọn một đề tài khác nhau, bối cảnh khác nhau, các nhân vật khác nhau, không ai giống ai; muôn màu muôn vẻ để người đọc có thể nhìn thấy, một cách trọn vẹn, bộ mặt gớm ghiếc của cuộc chiến tranh phi nhân, phi nghĩa này. Một cuộc chiến khởi đi từ những mù quáng, căm thù… đẩy cả dân tộc vào thảm cảnh đau thương nhất trong lịch sử.
Ở Tiền đồn, Thế Uyên nhìn chiến tranh như là một sự phi lý được khắc hoạ một cách kinh hoàng nhất, tởm lợm nhất qua thân xác của người phụ nữ bị kẹp giữa hai lằn ranh của thù hận: ban ngày là sự gần gũi vội vã của người chồng và ban đêm là sự “hì hục cuồng nhiệt” của anh du kích. Tất cả đều diễn ra trên thân xác của người phụ nữ như biểu tượng nhục nhằn của lịch sử, dân tộc. Chị không có sự chọn lựa nào khác giữa vùng xôi đậu này, ở đó Việt cộng và Quốc gia thay phiên nhau “cai trị” những người dân hớt hải chạy, hớt hải về. Nói cho đúng, chị không có quyền lựa chọn. Sự chọn lựa đã được sắp đặt sẵn, để thân xác chị luôn bị dày xéo một cách tàn nhẫn từ hai phía. Người đàn bà tên Ba, nhân vật chính trong Tiền đồn là biểu tượng của sự nhục nhã nhất mà cả dân tộc phải gánh chịu trên vai. Thật kinh khủng!
Với Nhã Ca, bộ mặt chiến tranh cũng trở nên bi thảm không kém đối với những người dân sống “bình yên” trong thành phố. Họ còn trẻ, và là những trí thức đang đứng trước những chọn lựa, những thái độ phải bày tỏ bằng những hành vi cụ thể. Chất bi thảm của thế hệ trẻ là sự lắng nghe, nhìn thấy một cách mơ hồ chiến tranh đang diễn ra đâu đó ngoài rìa thành phố với những cảm giác đầy sợ hãi phập phồng trong Ðêm dậy thì, Ðêm nghe tiếng đại bác. Ðến Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư… thì chiến tranh là sự đụng mặt gần sát, là những cuộc hành quân, bao vây, phục kích, là súng nổ, người chết, dân lành gồng gánh trong nước mắt, hối hả chạy trên bờ ruộng hẹp, lo sợ những viên đạn cắm phập vào tim, nhưng không thể không ngoái nhìn lại căn nhà tranh vách đất chẳng đáng giá là bao (nhưng chứa đựng biết bao tình cảm thiêng liêng) đang bốc cháy ngùn ngụt phía sau. Chiến tranh trong tác phẩm của họ là sự nhìn thấy rõ ràng, rất cụ thể: súng nổ, người chết. Những người tham gia các trận đánh là những người bạn, người lính thân yêu bên cạnh mình, từ từ, lần lượt ngã xuống… Và không chỉ dùng súng đạn để đánh nhau, thậm chí họ còn sử dụng cả lời nói để hạ gục đối phương:
“Staline của Nga chết, cha Tố Hữu của ngoài mầy làm thơ: ‘ông Staline ơi… ông Staline ơi… Thương cha thương một, thương ông thương mười.’ Anh Kennedy, Kennedy là Tổng thống thứ 35 của Mỹ, đẹp trai, con nhà giàu, giỏi, chết, mầy thấy có thằng làm báo miền Nam nào viết bài thơ khóc cái anh Kennedy này chưa? Và sau cùng hết, mầy chỉ làm được một việc này với tao thì tao gọi mầy là thánh tao chịu nghe hết lời của mầy, tao tin mầy là ‘dân chủ xã hội’. Bây giờ tao hô ‘đả đảo đế quốc tư bản Mỹ’, mầy hô: ‘đả đảo đế quốc Trung Hoa đỏ, đả đảo đế quốc Liên Sô’. Ðấy mầy và tao cùng hô một lần, tao đếm 1, 2, 3… thì bắt đầu. Tôi hô: 1, 2, 3… Nghe trong máy có tiếng rè rè của tần số bị phá…” (Phan Nhật Nam, Mùa hè đỏ lửa, trg 136, NXB Sáng Tạo, Sài Gòn 1972).
Ðó là chưa kể nỗi xót xa, đau đớn đến tận cùng khi đồng đội bị thương, khó lòng vượt qua cái chết đang cận kề, đã van nài nhân vật xưng tôi (Trần Hoài Thư) “mày hãy bắn tao đi, mày hãy bắn chết tao đi!” Mà đâu chỉ có một mình Trần Hoài Thư mới chứng kiến cảnh đau lòng, xé nát tim gan anh như vây? Hầu hết các nhà văn quân đội khác tôi đã đọc tác phẩm của họ, ít nhiều đều ghi lại những cảnh hãi hùng đó!
Những người trong cuộc lẫn những người dân vô tội đứng bên ngoài hay trong cuộc chiến tương tàn, đều chung một số phận bi hài như nhau.
(Nhưng với Y Uyên thì khác, nói như Lê Văn Chính (SBT): “Trước ngày nhập ngũ, anh đã viết nhiều truyện thời chiến. Lúc đó anh còn là nhà giáo, nên truyện thường mang nặng tính chất tưởng tượng hoặc dựa theo những kinh nghiệm chiến tranh mà anh được nghe kể lại” (“Núi Tà Dôn” và “Dấu chân Uy”, đăng trong số này). Ðúng, khi đọc một tác phẩm ta có quyền lựa chọn, có quyền bình phẩm theo ý thích của riêng ta. Ðó là quyền của người đọc. Riêng với nhà văn, khi viết ta viết điều ta yêu thích, điều ta cảm, ta gần gũi, ta sống với nó, hít thở với nó, chứng kiến nó diễn ra hàng ngày, thậm chí ôm nó vào lòng lăn lộn với từng giấc ngủ đầy mộng mị hãi hùng.
Y Uyên sống trong thời khắc cuộc chiến nổ ra ác liệt nhất, trên vùng đất kinh hoàng nhất. Ví dẫu rằng: nếu như anh chưa hề là nhà văn, chưa hề cầm bút thì hàng ngày anh không thể không nhìn thấy chiến tranh diễn ra ngay trước mắt anh, diễn ra một cách bình thường, lặng lẽ mà đau đớn đến nát tan cõi lòng. Với người cầm bút thì anh càng không thể đứng ngoài ngắm nhìn như kẻ bàng quang, kẻ ngoài cuộc, thậm chí là kẻ trốn chạy khỏi vòng vây chiến tranh. Tôi vẫn nhớ như in, hồi còn học Văn khoa Sài Gòn, GS Nguyễn Văn Trung luôn tự hào về giảng khoá cho đám sinh viên năm dự bị, với nhan đề “Nhà văn, người là ai, với ai?” Ông đã dựa vào những phát biểu trong bài diễn văn của nhà văn A. Camus đọc tại giảng đường Viện đại học Upsal, Thuỵ Ðiển nhân dịp nhận giải Nobel văn chương năm 1957, xoay quanh cái trục trách nhiệm và thái độ của nhà văn trước cuộc sống để rao giảng cho chúng tôi, những thanh niên mới bước chân vào cổng trường đại học, rằng “khi một nhà văn quyết định cầm bút viết văn tức là tự nhận lấy một chức vụ trong xã hội. Từ nay, người đó (ý nói nhà văn) ra khỏi đám đông, quần chúng vô danh, trở thành một nhân vật, được thiên hạ biết đến và sẽ được khen chê ủng hộ đả đảo tùy theo lối nhìn, thái độ của họ” (“Nhà văn, người là ai, với ai” - Nguyễn Văn Trung). Xin lạm nhắc lại chuyện xưa, để nhìn lại thái độ của Y Uyên và những tác phẩm của anh trước cuộc chiến khủng khiếp này!
Những truyện anh viết về chiến tranh không bao giờ có súng đạn nổ chát chúa, không có cảnh quân hai bên giương súng bắn vào nhau, vây nhau tầng tầng lớp lớp như chọn lựa cách viết của Phan Nhật Nam, Trần Hoài Thư, Thảo Trường… mà lại là những điều, những thứ bị cuộc chiến xô đẩy tới bờ vực của đổ nát tan thương, của tiếng lòng dội xé. Ðó cũng là cách chọn lựa đề tài, nhân vật, bối cảnh của Dương Nghiễm Mậu, của Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ…
Hầu hết những truyện anh viết và “đọc được” đều bắt nguồn từ khi anh dạy học ở Tuy Hoà, một thị xã nhỏ bé của duyên hải miền Trung giữa lúc chiến tranh đổ ập xuống nửa phần đất nước một cách khốc liệt nhất. Cái thị xã tí xíu mà anh và bạn bè anh đang sống, chẳng phải là một khu phi quân sự, một vòng đai an toàn mà là một lò lửa. Ðạn luôn nổ, người chết, nhà cháy, đồng khô, dân quê bồng bế nhau chạy trốn hòn tên mũi đạn, ngày Quốc gia, đêm Cộng sản giành giật nhau… Cuộc chiến rất kỳ cục, phi nhân ấy cứ thế mà diễn ra ngày này sang năm khác để người dân khốn đốn kêu lên “chiến tranh mẹ gì mà lâu dữ vậy?” Cuộc chiến quái gở ấy không phải chỉ có anh và tôi đánh nhau, mà một bên là có sự trợ giúp công khai, một bên là lén lút nhận vũ khí, quân trang quân dụng để “giương cao ngọn cờ chính nghĩa” đã đẩy người dân vô tội xô dạt bên này hay bên nọ (cốt để tránh hòn tên mũi đạn). Không khí truyện của Y Uyên không “nhảy tọt” vào giữa chiến trường, bởi anh chưa hề là một chiến binh thực thụ, mà anh “chạy theo, áp sát vào” những xô dạt không chừng mực trong những lần chạy giặc dài ngắn để nghe, để thấy, để cảm và chia sẻ nỗi đau của họ.
Những nhân vật của anh luôn là những nông dân nghèo, lam lũ, những người bình thường nhất đang sống ở vùng xôi đậu, đêm chạy trốn nơi an toàn, ngày mò về chắt mót từng hột lúa, củ khoai, là những thầy giáo, cô giáo, những đứa trẻ ngơ ngác. Anh yêu mến tất thảy bọn họ chẳng qua vì anh quá gần gũi với họ hàng ngày, hiểu được những trớ trêu của bọn họ.
Tất cả các nhân vật nữ của Y Uyên không có ai như chị Ba trong “Tiền đồn”, như chị Tư trong “Người đàn bà mang thai trên kinh Đồng Tháp” bị giày xéo, chà đạp đến tàn nhẫn, như là những biểu tượng tượng trưng cho thân phận của toàn thể mọi người dân ở phần đất bị bom đạn cày xới nát tan, phải ngửa mặt ra hứng lấy mọi tai họa.
Cái chất dịu dàng, thong thả, nhẫn nhục của người phụ nữ, đa phần là dân quê, lánh nạn ra thị xã. Ðó là những người bình thường nhất trong xã hội được Y Uyên phác hoạ là những người trung thực, bị đẩy đưa do hoàn cảnh, chấp nhận sống trong hoàn cảnh bi đát ấy. Những Bích, những Hiền và chị Hiền là một phần của đất nước bị băm vằm bằng nhiều nhát dao oan nghiệt. Họ vì cuộc sống mà phải bỏ làng tản cư lên thị xã, phải nhắm mắt làm người phụ nữ “sạch sẽ” nhất trong thời loạn:
“Một lần nghi Bích không tin mình, giấu tiền không cho mình vay, lúc hai người đang nằm ở giường, anh ta chợt nảy ý tưởng đòi khám Bích. Bích từ chối cầm chừng. Lúc trật hai chiếc xú-chiêng xuống nửa chừng, anh ta sững sờ một lát rồi ôm Bích thật chặt, hôn Bích như một sự đánh liều để cố quên mình đang có một cơ thể bị đòi hỏi hành hạ. Sau đó anh ta nói một câu kỳ quặc nhưng hơi mất bình tĩnh ‘Vú Bích sáng ngời, nóng và trơn thế mà từ lâu nay nào anh có hay’… Một nửa anh bị ám ảnh bởi bộ ngực của Bích, một nửa anh ngại, nếu tiến thêm, Bích sẽ nhoà đi như những người đàn bà anh đã gặp.” (“Bên ngoài khán đài”).
Và dẫu không “dữ dội, bi thảm” như chị Ba, chị Tư của Thế Uyên, Thảo Trường nhưng những “người đàn bà có chồng lên núi mấy năm nay” của Y Uyên lại phải chịu đựng một cách khác, dơ dáy một cách khác, bi thảm một cách khác:
Ai đó?
Giọng Bích cố thoát ra khỏi hai hàm răng. Một cánh tay vòng lấy lưng Bích chắc nịch.
“Qua đây chớ ai.”
Nghe có tiếng nói cất lên, Bích thấy đỡ sợ nhưng xúc động sợ hãi vẫn còn rung da thịt. Bích thấy kẻ ôm lưng mình là một bóng đen cao lớn đã chui vào mùng từ lúc nào. Vòng tay đó thắt chặt lại. Một tờ giấy được nhét vào tay Bích. Bích chắc là một tờ giấy bạc và thấy mình bị kéo xuống khỏi giường. Bích vùng đạp mạnh vào Hiền, cố giật người thoát ra khỏi vòng tay sau lưng. Hiền nhỏm dậy hỏi:
“Chi đó?”
Vòng tay tự nhiên nới rộng, mở ra. Hiền yên lặng đứng dậy, bước ra điềm nhiên:
“Ông xã đó phải không?”
Bích đã hết sợ, ngồi dựa vào góc tường, ngạc nhiên.
“Ai ngủ với em trong đó?”
Giọng người đàn ông hỏi uy quyền.
“Bạn em đó.”
Người đàn ông im lặng một lát rồi Bích thấy Hiền như bị ôm sát.
“Bữa nay có bạn em…”
“Bạn em thì sao?”
Bích thấy Hiền bị nhấc bổng ra khỏi mùng, theo bước chân người đàn ông ra khỏi cửa. Một lát, bên giường chị Hiền có tiếng trở mình. Bích thấy chị rón rén bước sang giường mình. Bích hỏi:
“Chuyện gì đó chị Hai?”
Người chị Hiền ghé ngồi vào mùng, nhỏ giọng:
“Còn chuyện chi nữa.”
“Hiền nó đi với người đàn ông đến đâu?”
“Ra ngoài hiên chớ đâu.”
Bích ngạc nhiên:
“Cha đó vào bằng lối nào kìa?”
Mùi khế úng lại thoảng vào trong mùng. Bích nghe như có một giọng đáp từ xa:
“Nhà này có khác chi nhà ông xã”
(“Bên ngoài khán đài”).
Hình như ông xã của Y Uyên và tay du kích của Thế Uyên làm cho chiến tranh thêm đậm mùi hơn, cái “mùi khế úng” bay vào chỗ tận cùng của thánh thiện và dơ bẩn nhất của cuộc đời này?
Ðó cũng là nỗi lo sợ vu vơ, những hoài nghi vu vơ ngay chính bản thân mình và cho người khác trước cuộc chiến ngày một lan rộng, dữ dội:
Chiêu hỏi:
“Chừng nào anh vô lại Sài Gòn?”
Mường ngạc nhiên:
“Anh không có ý định đó.”
Chiêu giận:
“Anh giấu em.”
(…)
Chiêu quả quyết:
"Có tin những điều anh nói không?"
“Không.”
“Thực may cho anh. Chính anh cũng không hiểu phải nói gì với Chiêu.”
Chiêu bật khóc. “Anh khinh em”. Mường yên lặng thấy mình ngây ngô.”
(“Gió cuối năm”).
Làm sao mà Chiêu không “bật khóc” và Mường không “ngây ngô” khi sự chờ đợi của người thiếu nữ là sự chờ đợi mỏi mòn và anh Mường mới giải ngũ không thể tự định đoạt nổi số phận chính mình, huống hồ đèo bòng “thứ tình yêu mới lớn của Chiêu”? Rồi những chị Bước (“Chiều trong làng”), Kiều (“Miền không vết chân người”) vẫn cứ nhẩn nha giữa những tai hoạ đang vây bủa chung quanh, giữa một vùng cát tị nạn ngui ngút những căn lều tạm bợ, ở đó hai vợ chồng một nông dân, một thợ dệt cứ lo ngay ngáy sao cho chiếc giường không kêu “rắc rắc” như chiếc giường của vợ chồng Hai Bát kê ngay bên cạnh. Ðó, chiến tranh dưới ngòi bút Y Uyên nó mò sát tới chân giường của đôi vợ chồng nghèo. Rõ ràng anh không hề tưởng tượng hay nghe kể lại, mà chính anh đã “tận mắt ngắm nhìn” một cách cẩn thận để chia sẻ! Bởi hàng ngày anh đụng mặt với nó, bởi những nhân vật kia là phụ huynh của những đứa trẻ anh đang dạy dỗ, là những hàng xóm trong khu nhà trọ, ông chủ quán nấu cơm tháng…
Ðến như “Bão khô”, một trong số ít truyện ngắn được đánh giá là hay nhất của Y Uyên, thì không khí chiến tranh càng kinh hoàng, thê thảm hơn. Chiến tranh đang tiếp tục lởn vởn, bay nhảy trên thân thể anh lính lệch vai, trên chiếc khăn tang của người đàn bà, những tờ sấm truyền tụi học trò ngồi trong lều chợ buổi trưa, chép chuyền tay nhau, là chiếc xe đò Vạn Hưng bán đồ uống cho Mỹ, là người lính Mỹ ngủ gà gật bên thềm chợ, mấy người đàn ông ăn bánh tráng, bà chủ quán mặc áo dài đi chân đất, là hai người đàn ông mặc áo xanh của một giáo phái kỳ bí với “những lời sấm bọn học trò truyền nhau chép và họ dường như có một liên lạc vu vơ”… Những nhân vật ấy xoay quanh một ngôi chợ tồi tàn bên kia cầu, hằng ngày anh lên xuống bốn bận đi dạy học. Ðâu có súng nổ, đâu có bom rơi, đâu có cảnh quân hai bên xung phong xáp lá cà? Vậy mà nó, chiến tranh hiện ra một cách tàn nhẫn trên từng lời nói, cử chỉ, ngôn ngữ của bao nhiêu con người ấy. Nó làm cho ta quay quắt một nỗi đau không cùng. Và giả dụ như những kẻ cầm đầu cuộc chiến tương tàn này, đọc “Bão khô” (cùng những tác phẩm khác của những nhà văn khác), họ sẽ nghĩ gì? Sẽ đẩy cuộc chiến tới mức tồi tệ nào nữa?
Với giọng văn rất bình thản, anh đi dần vào thế giới đau thương, tan tác đó bằng những tấm bảng hiệu “Laundry number one” trước hiên quán, hoặc “Refreshment” bên hông xe ba bánh, đến khi người lính lệch vai xuất hiện trên khu chợ, hỏi thăm chiếc xe đò Vạn Hưng phủ kín tấm màn màu đỏ sặc sỡ:
Người lính nhìn thằng bé lê trên mặt đất với cái mẹt trước mặt.
"Mầy có biết mấy người con gái bán trong xe đó không?"
Thằng bé lắc đầu chỉ cho người lính thấy vùng đất bên dưới dốc ngổn ngang những vệt bánh xe.
"Làm sao thấy mà biết. Cửa xe có vải đỏ che kín, đậu dưới đó ai mà dám xuống.”
“Con đĩ.”
Tiếng người lính nguyền rủa giận dữ. Anh ta bỏ đi vào phía chợ”.
(“Bão khô”).
Người đàn bà ấy là ai, đi đâu, làm gì?
“Nỗi sợ hãi thiệt không hình dạng. Ðột ngột như cái rùng mình của một cơn say. Anh không muốn hỏi, muốn nghĩ gì cả. Anh không muốn. Người đàn bà chết thảm đó không thể là vợ anh được. Nó đang giấu mặt trong trong chiếc xe đò Vạn Hưng đó… Anh gục xuống với nỗi sợ hãi chập chờn trước mặt. Cánh tay cổ tròn vạch lên tường ngày gà khởi ấp vẫn hợp với người đàn bà gánh lúa, gánh thóc lúc chồng vắng nhà hơn. Những lời đồn đãi về vợ anh, từ trước tới giờ cuối cùng anh vẫn thấy gần lòng tin nhất. Vợ anh ngồi sau tấm màn đỏ theo lời đồn và chết lúc gánh gạo theo trí tưởng tượng mơ hồ và có lý như nhau.” (Sđd)
Và người đàn bà thứ hai trong truyện này:
Từ dưới bãi cát người đàn bà khăn tang trở lên, hai ống quần ướt và quệt đầy bụi. Người lính hỏi bà chủ quán:
“Chồng chết?”
“Chết mìn hôm trước đó. Một cái xe Lam, một cái xe nhà binh, chết sáu mươi mấy người.”
“Kiếm chi dưới đó?”
“Cánh tay có mang cà rá của chồng. Lúc điên, lúc tỉnh, lúc dại, lúc khôn, biết sao mà tin.”
Người lính lầm bầm chửi tục, trề môi:
“Chồng chết lấy chồng khác, mắc mớ chi mà điên” (sđd).
Và kết thúc truyện:
“Bằng những bước đi dài và nhẹ, chị ta khom người từ từ vào sâu lòng chợ, nơi có một con chó không chạy vào lều, ngồi cúi đầu gậm một khúc xương. Người lính say mửa một hồi lại gục xuống mặt bàn, người như chúi về một phía.
(…) Có một giọng đàn bà lẫn với tiếng gió ở sau tấm liếp như tiếng mẹ thằng bé. Nó nhìn lên mặt lộ. Trên con đường lổn nhổn đá xanh dẫn lên trên đó, người đàn bà có khăn tang nhẩy qua nhẩy lại, rượt theo một con chó ngậm trong mồm một khúc xương” (sđd).
Cái khúc xương mà con chó ngậm trong mồm có phải là cánh tay người chồng chị đàn bà mang khăn tang bị mìn nổ banh xác? Hay đó là khúc xương người phụ nữ có cổ tay tròn ghi ngày gà khởi ấp trên tường (cũng bị mìn nổ) chết đâu đó? Chị ta là nhân vật chỉ xuất hiện trong truyện qua những dòng suy nghĩ của anh lính lệch vai, chồng chị. Rõ ràng anh ta không mong chị chết, nếu đổi cái chết ấy với chuyện chị ngồi trong chiếc xe đò Vạn Hưng vẫn hơn. Nỗi nhục nhằn buộc phải chứng kiến cảnh nhớp nháp của vợ với những người lính ngoại quốc trong chiếc xe đò phủ vải đỏ sặc sỡ vẫn làm người lính yên lòng hơn là vợ anh chết thật sự, chết đâu đó mất xác như cái chết của chồng người đàn bà khăn tang kia!
Trong lối ví von, so sánh Y Uyên đã đẩy tới tận cùng sự tan nát, đớn đau: thà làm đĩ, có nhơ nhuốc thật, nhưng còn sống vẫn hơn là chết bờ chết bụi?!
Rồi chỉ với một khúc xương trong mồm con chó, Y Uyên đã vẽ ra một cảnh thê lương, hãi hùng của chiến tranh đang phủ chụp xuống, không chừa một ai: Nỗi đau chết trận và nỗi đau của mất mát, chịu đựng không cái nào nhẹ hơn, bởi một đằng là tức thì với cảnh banh ruột máu me đầm đìa, một đằng kéo dài âm ỉ đau, âm ỉ khổ nhục… Cả hai vẫn thế.