|
Post by Cửu Long Giang on Jun 11, 2008 4:21:06 GMT 9
Từ ngày lập quốc ðến nay, nýớc Mỹ ðã trải qua rất nhiều cuộc chiến tranh lớn nhỏ. Bỏ qua những cuộc xung ðột mang tính cục bộ ðịa phýõng chống lại ngýời da ðỏ hoặc những vụ can thiệp ra bên ngoài mang tính nhỏ lẻ thì nýớc Mỹ ðã trải qua các cuộc chiến sau. Chiến tranh giành ðộc lập (1775-1783) bắt nguồn từ sự bất bình ðối với chính sách tãng thuế của nýớc Anh ðối với các vùng thuộc ðịa. Ðại biểu các vùng thuộc ðịa Bắc Mỹ ðã họp nhau tại Ðại hội châu lục lần thứ nhất nãm 1774 và quyết ðịnh hình thành Quốc hội châu lục ðể lãnh ðạo chung. Trong kỳ họp thứ hai (1776) Quốc hội châu lục ðã ra Tuyên ngôn ðộc lập, khẳng ðịnh chủ quyền của các bang Bắc Mỹ. Quân ðội cách mạng ðýợc thành lập do George Washington chỉ huy. Cuộc chiến tranh cõ bản ðã giành ðýợc thắng lợi nãm 1881 và ðến nãm 1883 nýớc Anh ðã buộc phải công nhận ðộc lập của các vùng thuộc ðịa. Nhýng nýớc Mỹ khi mới ðộc lập vẫn chỉ là một liên kết lỏng lẻo của các bang ðộc lập. Phải ðến nãm 1889, dýới sức ép của rất nhiều khó khãn từ bên trong và bên ngoài, sau rất nhiều tranh luận, nýớc Mỹ với tý cách một liên bang mạnh nhý ngày nay mới ra ðời. Washington làm tổng thống ðầu tiên trong hai nhiệm kỳ. Cuộc chiến không chính thức (Quasi-War 1798-1800). Nýớc Pháp ðã giúp các vùng thuộc ðịa Bắc Mỹ rất nhiều trong cuộc chiến giành ðộc lập. Nhýng nãm 1793 trong khi Pháp ðang tiến hành chiến tranh với nýớc Anh thì Mỹ ðã ký hiệp ýớc khá thân thiện với nýớc Anh. Ðiều ðó làm ngýời Pháp tức giận. Lợi dụng vị thế còn yếu của nýớc Mỹ trên chiến trýờng và chính trýờng quốc tế, ngýời Pháp ðã bắt giữ nhiều tàu buôn của Mỹ, dẫn ðến một cuộc chiến tranh không tuyên bố giữa hai quốc gia kéo dài trong vài nãm trên biển. Washington khi ðó ðã nghỉ hýu nhýng ðýợc triệu hồi ðể giữ chức Tổng tý lệnh quân ðội, ðề phòng một cuộc xâm lýợc của ngýời Pháp. Ngýời Mỹ giành ðýợc nhiều thắng lợi trên biển Caribê và sau ðó hiệp ýớc ðình chiến ðã ðýợc ký kết. Tình trạng bắt giữ tàu Mỹ chấm dứt. Cuộc chiến 1812 (1812-1815). Ðây là cuộc chiến tranh lớn ðầu tiên nýớc Mỹ tiến hành sau khi giành ðýợc ðộc lập. Mặc dù công nhận ðộc lập của nýớc Mỹ, nýớc Anh ðã không ngừng kích ðộng và tài trợ cho các bộ lạc da ðỏ ở biên giới phía tây nýớc Mỹ nổi dậy ðồng thời thýờng xuyên bắt giữ các tàu Mỹ và buộc các thuỷ thủ Mỹ tham gia quân ðội Anh. Do hải quân Anh quá mạnh, quân ðội Mỹ ðã chọn Ca na ða làm mục tiêu tấn công. Nhýng sau ðó quân Anh ðã tấn công trả và chiếm thủ ðô Washington, ðốt cháy thành phố nãm 1814. Nói chung quân ðội Mỹ khi ðó vẫn chýa phải là ðối thủ của quân ðội Anh nhýng ngýợc lại, ngýời Anh cũng không ðủ lực lýợng ðể tiến hành một cuộc xâm lýợc thực sự. Tình hình tài chính cũng không cho phép ngýời Anh kéo dài cuộc chiến. Ðến nãm 1815, chiến tranh kết thúc nhờ các nỗ lực ngoại giao. Tình trạng trýớc chiến tranh ðýợc khôi phục lại. Cuộc chiến Seminole lần thứ nhất (1817-1818) hay còn gọi là cuộc chiến Florida. Seminole là từ ðể chỉ các bộ lạc da ðỏ sống ở Florida, khu vực miền Nam nýớc Mỹ khi ðó vẫn thuộc về ngýời Tây ban nha. Cuộc chiến thoạt tiên nhằm vào các nô lệ chạy trốn từ nýớc Mỹ ðã ủng hộ ngýời Anh trong cuộc chiến tranh 1812. Sau ðó, viện cớ ngýời ðịnh cý Mỹ bị ngýời bản ðịa giết hại, những cuộc tàn sát nhằm vào ngýời Mỹ bản ðịa vốn trýớc ðây ủng hộ ngýời Anh ðã xảy ra. Ở giai ðoạn cuối của cuộc chiến, chính quyền ðại diện của ngýời Tây ban nha tại Florida cũng bị tấn công. Florida bị ngýời Mỹ xâm chiếm. Tây ban nha phản ðối chính phủ Mỹ nhýng không ðủ lực lýợng ðể chiếm lại Florida. Nhân cõ hội này, chính phủ Mỹ ðã ðề nghị mua lại vùng ðất này. Nãm 1821, Tây ban nha chính thức chuyển giao chủ quyền Florida cho Mỹ. Sau cuộc chiến Seminole lần thứ nhất, còn có hai cuộc chiến Seminole khác. Nhýng các cuộc chiến sau ðó ðã mang tính nội bộ, xảy ra trong lòng nýớc Mỹ. Cuộc chiến Mỹ-Mê hi cô (1846-1848). Sau khi Mê hi cô giành ðýợc ðộc lập khỏi Tây ban nha nãm 1821, khá nhiều ngýời Mỹ ðã ðến Texas ðịnh cý. Dần dần ngýời Mỹ chiếm tỷ lệ áp ðảo tại ðây, bất chấp những nỗ lực ngãn cản di cý của chính quyền Mê hi cô. Nãm 1935, ngýời Mỹ tại Texas nổi dậy tuyên bố tách Texas ra khỏi Mê hi cô và họ chính thức ðạt ðýợc ðiều ðó nãm 1936. Bắt ðầu từ 1816, ngýời Mỹ bắt ðầu mở rộng về phía tây và ðã tiến ðến sát bờ Thái bình dýõng. Vào những nãm 1840, ngýời Mỹ ðã ðịnh cý khá nhiều tại các vùng New Mexico và California khi ðó vẫn thuộc Mê hi cô. Chính phủ Mỹ thýõng lýợng ðể mua lại các vùng ðất này nhýng chính phủ Mê hi cô không ðồng ý. Cuộc chiến tranh Mỹ-Mê hi cô nổ ra và kéo dài trong hai nãm ðã buộc Mê hi cô phải nhýợng lại các vùng ðất nói trên cho ngýời Mỹ. Nýớc Mỹ ðã ðoạt ðýợc hõn một triệu ki lô mét vuông từ Mexico. Texas rộng lớn cũng ðýợc sát nhập vào nýớc Mỹ sau mýời nãm ðộc lập. Nội chiến (1861-1865). Vào giữa thế kỷ 19, nýớc Mỹ bị chia rẽ sâu sắc giữa các bang miền Bắc ủng hộ việc giải phóng nô lệ và các bang miền Nam muốn duy trì chế ðộ nô lệ. Ðây thực chất là sự tranh giành nguồn lao ðộng da màu giữa các bang phát triển công nghiệp và các bang phát triển nông nghiệp. Sự cãng thẳng ðã dẫn ðến bảy bang miền Nam tuyên bố ly khai khỏi liên bang. Nýớc Mỹ ðứng trýớc nguy cõ tan rã. Cuộc nội chiến kéo dài nãm nãm. Quân ðội miền Bắc ðã giành thắng lợi trýớc lực lýợng ly khai. Chế ðộ quân sự sau ðó ðýợc triển khai tại các bang miền Nam nhằm ngãn chặn những ngýời có tý týởng ly khai nắm quyền tại ðây và ðảm bảo chế ðộ nô lệ bị huỷ bỏ. Nãm 1870, các bang miền Nam ðýợc kết nạp trở lại liên bang. Nãm 1877, quân ðội miền Bắc rút khỏi miền Nam, kết thúc thời kỳ quân sự. Chiến tranh Mỹ-Tây ban nha 1898. Nãm 1895, ngýời Cuba nổi dậy chống lại sự cai trị hà khắc của Tây ban nha. Nýớc Mỹ ủng hộ Cuba nhýng vẫn ðứng ngoài cuộc cho ðến nãm 1898, khi một chiến hạm của Mỹ ghé vào cảng Havana bị nổ tung. Ngýời Mỹ cho rằng ðây là hành ðộng gây chiến của Tây ban nha và tuyên bố chiến tranh. Cuộc chiến chỉ kéo dài bốn tháng ðem lại chiến thắng vang dội của hải quân Mỹ trýớc hải quân Tây ban nha. Tây ban nha buộc phải ký hiệp ðịnh ðình chiến nhýờng lại quyền kiểm soát Puerto-Rico, Guam và Philippin cho nýớc Mỹ. Cuộc chiến ðánh dấu thời kỳ mở rộng ảnh hýởng của nýớc Mỹ trên trýờng quốc tế. Sau cuộc chiến tranh này ðến những nãm 1930, nýớc Mỹ tiến hành nhiều can thiệp vào các nýớc Mỹ La tinh trýớc ðây nằm trong phạm vi ảnh hýởng của Tây ban nha, biến khu vực Mỹ La tinh thành sân sau của nýớc Mỹ. Chiến tranh Mỹ-Philippin 1899-1913. Ngay khi ngýời Mỹ ðặt chân ðến Philippin, ngýời Philippin ðã nổi dậy ðòi ðộc lập. Mặc dù thủ lĩnh của du kích Philippin ðã bị bắt nãm 1901 nhýng phong trào du kích còn kéo dài ðến 1913. Chiến tranh thế giới thứ nhất (1917-1918). Các nýớc Châu Âu ðã býớc vào chiến tranh từ nãm 1914 nhýng ðến tận nãm 1917 nýớc Mỹ mới tham gia sau khi nhiều tàu Mỹ bị tàu ngầm của Ðức tấn công. Mỹ ðã giúp các nýớc ðồng minh ðánh bại liên quân Ðức-Áo-Hung. Sau chiến tranh, kinh tế châu Âu bị tàn phá nặng nề trong khi kinh tế Mỹ lại phát triển bùng nổ. Nýớc Mỹ trở thành chủ nợ của các nýớc Châu Âu và trở thành cýờng quốc thế giới. Chiến tranh thế giới thứ hai (1941-1945). Cũng nhý lần trýớc, trong khi châu Âu ðã trở thành chiến trýờng khổng lồ thì nýớc Mỹ vẫn ðứng ngoài. Chỉ sau khi Nhật tấn công Chân trâu cảng, dý luận Mỹ mới ủng hộ chính phủ tham gia chiến tranh. Phe Ðồng minh với Mỹ, Liên xô, Anh làm trụ cột ra ðời. Sau chiến thắng Stalingrad nãm 1943, ýu thế quân sự bắt ðầu nghiêng về phe ðồng minh. Nãm 1945, các nýớc phát xít lần lýợt bị ðánh bại. Sau chiến tranh, Liên Hiệp Quốc ra ðời với nhiệm vụ bảo vệ hoà bình thế giới. Mỹ và Liên xô nổi lên nhý hai siêu cýờng thế giới trong khi thế lực của các nýớc Tây Âu ngày càng giảm sút và phải phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ. Chiến tranh Triều tiên (1950-1953). Triều tiên bị chia làm ðôi sau chiến tranh thế giới thứ hai, một nửa chịu ảnh hýởng của Liên xô và một nửa chịu ảnh hýởng của Mỹ. Nãm 1950, quân ðội Bắc Triều tiên bất ngờ tấn công xuống phía nam nhằm thống nhất ðất nýớc và ðã chiếm ðýợc tới 90% lãnh thổ Nam Triều tiên. Lo ngại về ảnh hýởng của chủ nghĩa Cộng sản và lợi dụng Liên xô ðang tẩy chay Liên hiệp quốc, Mỹ ðã yêu cầu Liên hiệp quốc thông qua nghị quyết lên án cuộc chiến tranh của Bắc Triều tiên và dẫn ðầu liên quân các nýớc can thiệp vào chiến tranh. Sau khi ðẩy lùi quân ðội Bắc Triều tiên khỏi vĩ tuyến 38 (ranh giới hai miền trýớc ðây), liên quân vẫn tiếp tục ðánh lên phía bắc, áp sát dần biên giới Trung quốc. Ðến lýợt Trung quốc lo ngại về an ninh của mình và ðã ðiều gần một triệu quân giúp Bắc Triều tiên. Quân ðội Trung quốc ðã ðẩy lùi ðýợc quân Mỹ và ðồng minh trở lại vĩ tuyến 38. Cuộc chiến tranh sau ðó ðýợc dàn xếp bởi Liên Hiệp Quốc. Chiến tranh Việt nam (1965-1973). Tổng thống Kenedy ðã tãng cýờng can thiệp vào chiến tranh Việt nam ngay sau khi nhậm chức tổng thống nãm 1961. Nhýng ðến nãm 1965, tổng thống Johnson ðã ðẩy mạnh can thiệp, ném bom miền Bắc và một lực lýợng khổng lồ lính Mỹ, gồm 550 000 quân tham chiến ðã ðýợc ðýa vào chiến trýờng miền Nam. Sự can thiệp không thành công nhý ngýời Mỹ mong ðợi. Số lính Mỹ bị chết trên chiến trýờng tãng nhanh từng ngày, phong trào phản chiến lan rộng. Nãm 1973 Mỹ ðã rút toàn bộ quân ðội khỏi miền Nam Việt nam. Nãm 1975, chính phủ thân Mỹ tại miền Nam ðã bị sụp ðổ nhanh chóng. Ðây là một trong những thất bại nặng nề hiếm hoi trong lịch sử quân sự Mỹ và ðã khiến nýớc Mỹ rõi vào thời kỳ trầm cảm trong một thời gian khá dài. Tuy vậy, xét về ðại cục, ngýời Mỹ không hoàn toàn thất bại. Những nỗ lực ðó dù sao cũng duy trì vị thế thủ lĩnh của nýớc Mỹ trong thế giới tý bản và tạo thế cân bằng với phong trào Cộng sản. Chiến tranh Irak 1991. Nãm 1990, Irak xâm lýợc Koweit nhằm chiếm giữ nguồn dầu mỏ rất lớn ở ðây. Liên Hiệp quốc ðã nhanh chóng thông qua nghị quyết lên án Irak. Tháng giêng nãm 1991, liên quân của Liên Hiệp Quốc với Mỹ ðứng ðầu ðã ðổ bộ vào Koweit và nhanh chóng giải phóng quốc gia này khỏi Irak. Cuộc chiến tranh kéo dài khoảng một tháng với ýu thế tuyệt ðối của liên quân. Tuy vậy, cuộc chiến tranh chỉ giới hạn trong phạm vi giải phóng Koweit. Chính quyền Saddam Hussein vẫn tồn tại sau ðó và là nguyên nhân dẫn ðến cuộc chiến Irak lần thứ hai sau này. Cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố (2001-2003). Ngày 11 tháng 9 nãm 2001, lực lýợng khủng bố Al Queda ðã cýớp các máy bay dân dụng và tấn công vào nhiều mục tiêu quan trọng, biểu týợng quyền lực quân sự, chính trị và kinh tế của nýớc Mỹ khiến hàng ngàn ngýời thiệt mạng. Tổng thống Bush ðã phát ðộng cuộc chiến chống khủng bố và ðýợc các quốc gia trên thế giới ủng hộ. Quân ðội Mỹ và NATO ðã tấn công vào Afghanistan, quốc gia ủng hộ Al Queda và là nõi Al Queda ðóng cãn cứ. Chính quyền Taliban sụp ðổ nhanh chóng nhýng ngýời Mỹ ðã không thể diệt ðýợc tận gốc lực lýợng Al Queda ẩn náu ở các vùng rừng núi. Tổng thống Bush sau ðó quyết ðịnh tấn công Irak lần thứ hai vì cho rằng quốc gia này hậu thuẫn khủng bố và sở hữu vũ khí giết ngýời hàng loạt. Quyết ðịnh này không nhận ðýợc sự ủng hộ của Liên Hiệp Quốc và bị nhiều nýớc phản ðối gay gắt. Bất chấp ðiều ðó chính quyền Bush vẫn tiến hành cuộc chiến nãm 2003 và nhanh chóng lật ðổ Saddam Hussein. Tuy vậy, cho ðến nãm 2008 nýớc Mỹ vẫn bị sa lầy vào cuộc chiến tranh du kích tại cả Afghanistan và Irak. Có vẻ nhý các cuộc chiến tranh của nýớc Mỹ ðã xảy ra theo những chu kỳ nhất ðịnh. Chu kỳ 24 nãm. Sau mỗi hai tý nãm, có thể có sai lệch trong phạm vi nào ðó, nýớc Mỹ lại có một cuộc chiến tranh do ngýời Mỹ chủ ðộng tiến hành. Ðó là các nãm: 1774 Chiến tranh giành ðộc lập. Mặc dù chiến tranh thực sự bắt ðầu từ 1775 nhýng tình trạng cãng thẳng ðã bắt ðầu từ 1774 và sự liên kết các vùng thuộc ðịa Bắc Mỹ ðể ðòi ðộc lập ðã bắt ðầu từ nãm này. 1798 Cuộc chiến không tuyên bố với nýớc Pháp. 1822 Cuộc chiến Seminole lần thứ nhất ðã kết thúc nãm 1818 nhýng tình trạng chiếm ðóng quân sự trái phép còn tiếp tục ðến nãm 1821 trýớc khi Florida chính thức thuộc về Mỹ. Tuy vậy vẫn có sai lệch một nãm so với chu kỳ chuẩn. 1846 Chiến tranh Mỹ- Mê hi cô. 1870 Không có cuộc chiến nào xảy ra. Tuy nhiên, các bang miền Nam vẫn ðang ly khai và chế ðộ quân sự ðýợc duy trì tại các bang này có thể coi là ðáp ứng quy luật. 1894 Chiến tranh Mỹ-Tây ban nha sai lệch bốn nãm so với quy luật. 1918 Chiến tranh thế giới lần thứ nhất. 1942 Chiến tranh thế giới lần thứ hai 1966 Chiến tranh Việt nam 1990 Chiến tranh Irak xảy ra ðầu nãm 1991 nhýng các býớc chuẩn bị ðã ðýợc tiến hành từ nãm trýớc ðó. Cũng rất ðáng chú ý là ðồng thời hoặc sau các cuộc chiến tranh này nýớc Mỹ có một sự mở rộng lãnh thổ rất ðáng kể. Sau chiến tranh giành ðộc lập, các vùng thuộc ðịa trở thành các bang ðộc lập và sau ðó Hợp chủng quốc Hoa kỳ ra ðời. Sau chiến tranh không tuyên bố, nýớc Mỹ ðã mua hai triệu ki lô mét vuông từ ngýời Pháp (Louisiana Purchase) nãm 1803. Việc mua bán này hoàn toàn không liên quan ðến chiến tranh. Ðõn giản là hoàng ðế Napôlêông của nýớc Pháp khi ðó rất cần tiền và tiên liệu khả nãng không thể duy trì thuộc ðịa tại Bắc Mỹ nên ðã ðặt vấn ðề bán lãnh thổ này với Mỹ. Vùng ðất ðýợc mua có ý nghĩa rất quan trọng ðối với nýớc Mỹ nên tổng thống Jefferson, ngýời ðã quyết ðịnh mua bất chấp rất nhiều ý kiến phản ðối sau này luôn ðýợc ðánh giá là một trong những tổng thống xuất sắc nhất nýớc Mỹ, sánh ngang với Washington, Lincoln… Sau cuộc chiến Seminole, nýớc Mỹ mua Florida. Sau chiến tranh Mỹ-Mêhicô, nýớc Mỹ mua hõn một triệu ki lô mét vuông từ Mê hi cô và sát nhập Texas Nãm 1867 Mỹ mua Alaska từ nýớc Nga. Rất nhiều ngýời Mỹ cũng ðã phản ðối việc mua vùng ðất bãng giá quanh nãm này. Nhýng sau ðó ít lâu vàng và dầu mỏ ðã ðýợc tìm thấy ở ðây. Sau chiến tranh Mỹ-Tây ban nha, nýớc Mỹ ðýợc bồi thýờng Puerto-Rico, Guam và mua Philippin. Nhý vậy nếu tính trung bình, sự hình thành và mở rộng lãnh thổ Mỹ cũng diễn ra theo chu kỳ hai tý nãm. Trong thế kỷ hai mýõi, quá trình mở rộng lãnh thổ không xảy ra nhýng thay vào ðó là sự mở rộng ảnh hýởng của nýớc Mỹ trên trýờng quốc tế. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nýớc Mỹ trở thành chủ nợ của Châu Âu. Nýớc Mỹ ðã có ảnh hýởng mạnh về kinh tế ðối với thế giới. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Hiệp Quốc ra ðời với hệ thống luật pháp có nền tảng khá giống với luật pháp Mỹ. Nýớc Mỹ ðã ðýợc lợi rất lớn từ sự týõng ðồng này. Thực ra có thể nói nýớc Mỹ ðã áp ðặt thành công luật pháp của mình lên luật pháp quốc tế. Nýớc Mỹ cũng trở thành trung tâm khoa học của thế giới. Trong thời gian chiến tranh Việt nam, hệ thống thuộc ðịa của Tây Âu tan rã, thế giới chia làm hai nửa. Mỹ trở thành trụ cột của một nửa thế giới và lý týởng tự do của nýớc Mỹ có ảnh hýởng mạnh ðến nửa thế giới này. Ðồng thời với chiến tranh Irak, hệ thống xã hội chủ nghĩa tại Ðông Âu và Liên xô tan rã. Thế giới trở nên ðõn cực. NATO bắt ðầu ðông tiến, kết nạp các nýớc trýớc kia nằm trong ảnh hýởng của Liên xô và ðang có ý ðịnh kết nạp cả một số quốc gia thành viên của Liên xô trýớc ðây. Nhý vậy, nối tiếp quá trình phát triển lãnh thổ, quá trình phát triển ảnh hýởng của nýớc Mỹ trên trýờng quốc tế cũng diễn ra theo các chu kỳ hai tý nãm. Chu kỳ 48 nãm. Sau xấp xỉ 48 nãm nýớc Mỹ lại có một cuộc chiến tranh không mong muốn. Nýớc Mỹ býớc vào các cuộc chiến này trong tình trạng týõng ðối thụ ðộng. Chiến tranh 1812. Quân ðội Mỹ khi ðó khá yếu và nýớc Mỹ býớc vào cuộc chiến tranh trong tình trạng bị chia rẽ nghiêm trọng. Một số bang nýớc Mỹ ðã lợi dụng chiến tranh, buôn bán với nýớc Anh ðể trục lợi. Nýớc Mỹ chi phí không nhỏ cho cuộc chiến này nhýng ðã không ðạt ðýợc ðiều mong muốn. Nội chiến 1861. Các bang miền Nam ðã ly khai và nổ súng trýớc khiến các bang miền Bắc phải tham gia chiến tranh. Chiến tranh với du kích Philippin 1901. Mặc dù ngýời Mỹ mua Philippin từ Tây ban nha nhýng ngýời Philippin vốn có lịch sử lâu ðời ðã nổi lên ðấu tranh giành ðộc lập cho mình. Hõn bốn ngàn lính Mỹ ðã bị chết trong cuộc chiến này, nhiều hõn số lính Mỹ chết tại Irak tính ðến nãm 2008. Chiến tranh Triều tiên 1950. Tổn thất của nýớc Mỹ trong cuộc chiến tranh Triều tiên không hề nhỏ so với các cuộc chiến tranh khác trong lịch sử quân sự Mỹ. Mặc dù thông qua Liên Hiệp quốc nhýng tổng thống Truman lại không thông qua quốc hội Mỹ khi tiến hành chiến tranh nên sau ðó ðã bị chỉ trích nặng nề. Sự vội vã này thực ra có thể hiểu ðýợc vì chỉ trong thời gian ngắn quân ðội Nam Triều tiên cùng với quân Mỹ ðang ðóng tại ðây ðã bị dồn vào một khoảng ðất rất chật hẹp tại Pusan.. Chiến tranh chống khủng bố 2001. Nýớc Mỹ hoàn toàn bị ðộng khi bị cuốn vào cuộc chiến này và triển vọng kết thúc cuộc chiến nhý nýớc Mỹ mong muốn cho ðến nay vẫn hết sức mong manh. Hai cuộc chiến ðầu và ba cuộc chiến sau cách nhau khá chính xác 48 nãm. Cuộc chiến thứ hai cách cuộc chiến thứ ba 40 nãm. Chu kỳ tám mýõi nãm. Sau mỗi tám mýõi nãm, nýớc Mỹ lại có một cuộc chiến quan trọng, mang tính sống còn ðối với nýớc Mỹ. Ðó là Chiến tranh giành ðộc lập, Nội chiến và Chiến tranh thế giới thứ hai. Những nhà lãnh ðạo ðã ðýa nýớc Mỹ výợt qua các cuộc chiến tranh này là Washington, Lincoln và Franklin Roosevelt luôn luôn ðýợc công chúng Mỹ bình chọn là những nhà lãnh ðạo xuất sắc nhất của nýớc Mỹ. Nếu ngoại suy theo các chu kỳ nói trên, dýờng nhý nýớc Mỹ sẽ có chiến tranh vào khoảng nãm 2014 và có một cuộc chiến quan trọng vào khoảng nãm 2021? Có thể sẽ có một cuộc chiến bao gồm cả hai quy luật 24 nãm và 80 nãm. Một sự kết hợp có lẽ ðã xảy ra trong nội chiến. Cuộc chiến này thuộc về chu kỳ 80 nãm và 48 nãm nhýng ảnh hýởng của nó ðã tạo ra thời kỳ quân sự kéo dài ðến nãm 1870 ðýợc tính là cuộc chiến thuộc chu kỳ hai tý nãm. Lịch sử nýớc Mỹ cũng thể hiện các chu kỳ khác ðáng chú ý. 美 Tài liệu tham khảo History of the United States – eng.wikipedia.orgMilitary history of the United States – eng.wikipedia.org
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 19, 2008 9:03:33 GMT 9
Tân bảo thủ và chính sách ngoại giao Mỹ hiện nay1
Trần Hữu Dũng2
Từ khi George W. Bush nhậm chức tổng thống (và nhất là sau 11 tháng 9 năm 2001), chính sách ngoại giao của Mỹ đã gây sửng sốt cho hầu như mọi người (dù ủng hộ hay chống Bush). Sự ngạc nhiên này có thể vì hai lẽ chính:
Thứ nhất, vì cuộc bầu cử năm 2000 có nhiều mờ ám, Bush lại không được đa số phiếu của dân Mỹ,[3] nên ai cũng nghĩ là ông sẽ rụt rè, nhút nhát, vậy mà chính phủ Bush lại có những chính sách ngoại giao xác quyết khác thường. Vài sự kiện nổi bật: (1) Quyết định đơn phương bất chấp dư luận quốc tế (rút khỏi thoả ước Kyoto về khí quyển, chống lại Toà Án Hình Sự Quốc Tế, hủy bỏ hiệp ước ABM với Nga); (2) ủng hộ Israel gần như không điều kiện; (3) nhất quyết lật đổ Saddam Hussein, chiếm đóng Iraq. Chẳng những thế, dù bị chỉ trích, nhạo báng là đạo đức giả, là bịp dân, là chà đạp dân quyền (ngay với dân Mỹ), là bất chấp chủ quyền nước khác, Bush vẫn không chùn bước.
Thứ hai, và có lẽ nghịch lí hơn, Bush, hiển nhiên không phải là người trí thức, lại cầm đầu một chính phủ tương đối “trí thức”, nhất là trong lãnh vực ngoại giao và quốc phòng. Đa số không có vẻ quá hám tiền tài hoặc quyền chức. Một số lớn những người (trong lẫn ngoài chính phủ) có dấu ấn sâu đậm trên chính sách ngoại giao của Bush là những người sống tương đối đạm bạc:[4] viết sách, làm báo, dạy học, biện luận, dàn dựng một căn bản học thuyết cho chính sách ấy. Sự gắn kết chính sách và lí thuyết như thế là một điều hiếm có xưa nay, nhất là trong lịch sử nước Mỹ.
Nhiều nhà bình luận, nhà báo, đã cho rằng chính quyền Bush đang nằm trong tay một nhóm gọi là tân bảo thủ (neo-conservatives, gọi tắt là neo-cons). Do đó, nhiều người cho rằng muốn hiểu chính sách của Bush thì phải hiểu thế giới quan tân bảo thủ. Nhóm này chẳng những chia sẻ nhiều tư tưởng giống nhau mà còn có một số liên hệ thân tộc (gia đình Kristol, chẳng hạn, đều nằm trong hàng ngũ lãnh đạo tân bảo thủ), và quan hệ việc làm (chẳng hạn như nhiều người tân bảo thủ chủ chốt đã biết nhau từ khi cùng làm trong ban nghiên cứu của thượng nghị sĩ Henry Jackson[5] những năm 1970, sau đó cùng là quan chức cao cấp trong chính phủ Reagan và Bush cha). Song điều lôi cuốn nhiều chú ý là đa số thành viên của nhóm tân bảo thủ là người gốc Do Thái và triệt để ủng hộ Israel.[6] Rồi gần đây lại thêm một phát giác mới: phần lớn nhóm này đã là môn đệ, hoặc chịu ảnh hưởng của Leo Strauss, một học giả trước đây ít người nghe tiếng.[7] Những đặc điểm này tạo cho nhóm tân bảo thủ một phong cách bí hiểm, huyền thoại (theo nghĩa rộng). Đi xa hơn, có người cho rằng nhóm tân bảo thủ đã hoạt động như một băng đảng (bí mật) nắm mọi quyền hành trong chính phủ Bush, nhất là về chính sách đối với Trung Đông và châu Âu. Bush gần như một bù nhìn!
Bài này nhằm giới thiệu nguồn gốc và ảnh hưởng của nhóm tân bảo thủ trong chính quyền Bush hiện nay, và đưa vài đánh giá về giả thuyết là phe này đã thật sự “đoạt chính quyền”.
1. Tân bảo thủ là gì?
Nguồn gốc của danh hiệu “tân bảo thủ” vẫn còn khá mù mờ. Oái oăm là, có thể người đặt danh từ này chính là Michael Harrington, một tác giả Mỹ nổi tiếng có khuynh hướng xã hội chủ nghĩa,[8] là một người không ưa gì phe này. Dù do ai đặt ra, lúc đầu danh hiệu này là để gọi một số trí thức “phóng khoáng” (liberal), từng theo phe tả (thậm chí nhiều người đã là đảng viên có thẻ của đảng cộng sản). Những người nổi tiếng nhất trong nhóm này là các học giả và nhà báo Norman Podhoretz, Irving Kristol, Allan Bloom (dưới đây sẽ nói thêm). Đa số là Trốt kít vào những năm 1930-40. Tuy nhiên, sau những sự cố ở Liên Xô (Stalin) và Đông Âu (Hungari), họ quay sang chống cộng vào những năm 1950, và vì chiến tranh Việt Nam (cùng những xáo trộn trong xã hội Mỹ vào thời kỳ này) một số nữa trở thành cực hữu vào những năm 1960-70. Gọi họ là “tân bảo thủ” để phân biệt với những người bảo thủ “kiểu cũ” như Barry Goldwater. [9]
Lúc đầu, lập trường tân bảo thủ là cá biệt về (bảo thủ) xã hội và văn hoá hơn là quân sự và ngoại giao. Họ chế nhạo phe tiến bộ của Mỹ, cho là phe này quá ngây thơ, dễ tin, mềm yếu. Như câu nói đáng nhớ của Irving Kristol, tân bảo thủ là những người phóng khoáng “bị thực tế trấn lột” (mugged by reality”). Về chính trị và ngọai giao, họ hô hào một chính sách chống cộng cứng rắn, nhưng không đưa những chi tiết rõ rệt. Lập trường này trở thành rạch ròi hơn, chi tiết hơn, bắt đầu từ thời Reagan. Nhưng trên hết, họ không ưa phe liberal của Mỹ vì phe này không ủng hộ Israel hoàn toàn như họ muốn.
2. Leo Strauss và Albert Wohlstetter
Gần đây, một số báo chí đã phát giác là hầu như mọi người trong phái tân bảo thủ đều là học trò (hoặc học trò của bạn) của Leo Strauss, và ít hơn một chút, nhưng cũng không kém quan trọng, là của nhà nghiên cứu chiến lược quân sự Albert Wohlstetter. Hai người này là ai?
2.1. Leo Strauss
Leo Strauss (1899-1973) là một học giả gốc Do Thái sinh ở Đức, học trò của triết gia Martin Heidegger. Năm 1934, sau khi Quốc xã lên cầm quyền, ông rời Đức đi lưu vong. Sau một thời gian ở Pháp[10] và Anh, Leo Strauss định cư ở Mỹ từ năm 1937, làm giáo sư ở đại học Chicago trong nhiều năm cho đến khi hưu trí. Strauss đã viết gần hai mươi quyển sách, hầu hết là về những nhà hiền triết cổ đại La Hi như Plato, Xenophon, Machiavelli, và triết gia Anh John Locke.
Tư tưởng của Strauss có hai nguồn. Thứ nhất, ông đã sống qua chế độ Cộng hoà Weimar,[11] bị cả Quốc xã lẫn Cộng sản khuynh đảo. Từ kinh nghiệm ấy, Strauss cho rằng bản chất của bạo chế là chủ nghĩa bành trướng (expansionism), và phải chống chủ nghĩa này đến cùng, bằng vũ lực nếu cần. Strauss nhấn mạnh tính mỏng manh, dễ vỡ (fragility) của thể chế dân chủ. Ông cho rằng, muốn trường tồn, một chế độ dân chủ phải đối đầu không nhân nhượng với bạo chế. Như Shadia Drury (1988, 1999) nhận xét, Strauss rất khắc khổ (“Spartan”), cho rằng mọi người đều phải luôn đấu tranh để sinh tồn. Một xã hội thái bình là một xã hội sẽ suy đồi.
Thứ hai, từ bài học của các nhà hiền triết cổ đại, Strauss nghiệm rằng thể chế chính trị có một sự quan hệ căn bản cho nhân loại vì nó nhào nặn con người. Leo Strauss dị ứng với hệ tư tưởng “hậu hiện đại” (post-modernism). Theo Strauss, tính hiện đại là nguyên nhân của sự sụp đổ đạo lí (cơ sở của mọi chế độ), và sự mất mát những “giá trị Âu Châu” căn bản như “lí trí” và “văn minh”. Strauss khẳng định có những giá trị, chân lí tuyệt đối và vĩnh cửu. Tư tưởng này đặc biệt hấp dẫn cho những người bảo thủ chán ngán trào lưu chủ nghĩa “đạo đức tương đối” (moral relativism) của những thập niên 60, 70.
Trong giáo trình của Leo Strauss, triết lí chính trị có một nghĩa khá đặc biệt. Ông suy nghĩ nhiều về liên hệ giữa triết gia và xã hội của triết gia. Nhìn trường hợp Socrates (bị bức tử) Strauss cho rằng triết gia là một đe doạ cho xã hội. Dù suy tư là một sinh hoạt cao quý nhất của con người, đó là một sinh hoạt ngoài khả năng của đa số quần chúng, ông khẳng định. Xã hội đời thường không hiểu nổi chân lí và không dám trực diện sự thực. Sự thực sẽ chỉ gây hỗn loạn trong công chúng. Lí luận như vậy, Strauss cho rằng các bậc hiền triết phải giữ kín chân lí mà họ khám phá, chỉ truyền lại cho vài đệ tử thân tín bằng mật ngữ. Cụ thể hơn, Strauss khuyên đồ đệ chẳng nên viết quá dễ hiểu. Hãy chôn giấu sự thật vào giữa lòng sách (không nên tiết lộ ở những trang đầu, hoặc cuối sách mà người đọc dễ lật tìm!).
Nên nhớ rằng Strauss rất ngưỡng mộ Plato, người có ý nghĩ táo bạo là những vị vua hiền triết (philosopher kings) đôi khi phải phát ngôn những “gian dối cao thượng” (noble lies) để giữ trật tự trong đám đông thiếu hiểu biết (như những người tân bảo thủ sẽ làm sau này). Hơn thế nữa, triết gia không những nên nói dối “cao thượng” với các nhà chính trị, họ còn phải lừa dối công chúng. Strauss cho rằng đối phương luôn luôn cố tình đánh lừa ta, do đó, ta nên giả vờ tin họ, nhưng thầm lặng làm theo ý ta. Nếu cần, phải che giấu sự thật, nói dối công chúng. Những điều này giải thích thái độ của tân bảo thủ (nhất là Wolfowitz) về vấn đề tình báo.
Strauss chịu nhiều ảnh hưởng của Thomas Hobbes (xin nhớ điều này khi đọc Robert Kagan sau đây). Cũng như Hobbes, Strauss cho rằng bản tính con người là hung hăng, nham hiểm. Bản tính này chỉ có thể kiềm chế được bằng một tổ chức chính quyền mạnh mẽ, trên cơ sở dân tộc. Strauss đặt niềm tin vào chiến tranh không ngừng (perpetual war), không phải hoà bình không ngừng. Shadia Drury nhận xét: Quan điểm này tất nhiên đưa đến một chính sách ngoại giao có tính tấn lấn, sừng sỏ (“aggressive, belligerent”)[12]
Tuy Leo Strauss có ảnh hưởng đến nhóm tân bảo thủ, ảnh hưởng đó có lẽ không nặng và xấu như lời cáo buộc của những người vốn không ưa chính quyền Bush. Dù Strauss là một giáo sư có sức lôi cuốn, được học trò mến phục, nhưng ông viết (có thể là cố tình) rất khó hiểu, nên mỗi người hiểu ông một khác. Strauss được hầu hết mọi người công nhận là một học giả uyên bác, một giáo sư tận tâm với môn đệ, không có tham vọng chính trị cá nhân. Song, những người tôn sùng Strauss (như Peter Berkowitz) thì coi ông là thành tâm tận tụy cho tự do và chân lí, còn những tác giả (như Shadia Drury) không ưa Strauss thì cho rắng bản thân ông cũng là “phát xít” không thua gì bọn Quốc xã mà ông thù ghét.
Ảnh hưởng của Strauss mạnh nhất ở điểm ông cho rằng phải theo lời dạy của các nhà hiền triết cổ đại, rằng thành phần trí thức ưu tú có trách nhiệm dìu dắt người lãnh đạo, rằng lắm khi không thể tiết lộ sự thật cho công chúng. Những tư tưởng này của Strauss đã để lại những dấu ấn sâu đậm trên thế giới quan của học trò ông (và cho những người này một tinh thần “bè đảng” với nhau). Hiển nhiên, bịp dân không phải là độc quyền của tân bảo thủ, nhưng lí thuyết của Strauss cho nó một cứ điểm triết học.
Điều mà ai cũng công nhận là Strauss (qua môn đệ) đã đưa vào tư tưởng chính trị Mỹ một cai nhìn u ám và bi quan về xã hội, con người, và lịch sử. Hành trang tư tưởng của tân bảo thủ là cái nhìn ấy, cộng với ý thức về sức mạnh của Mỹ và cơ hội mà Mỹ đang có, và đàng sau đó (phần nào) là nhiệt tình cho Israel. Strauss cũng ý thức hơn về “bạn” và “thù”, có tiếng dội sau này trong câu nói của Bush: “Các bạn hoặc là đi theo hoặc là kẻ thù của chúng tôi”.[13]
Cũng nên nói thêm, chính vì Leo Strauss và môn đệ là những người mới di cư sang Mỹ (như Max Boot, sinh ở Nga) – thậm chí nhiều người hiện không có quốc tịch Mỹ[14] – nên phái tân bảo thủ hay cãi nhau với phe “cựu bảo thủ” về vấn đề di dân. Phe cựu bảo thủ (như Patrick Buchanan) thì cho rằng Mỹ phải thắt chặt luật nhập cư, còn chủ trương của phe tân bảo thủ là “càng đông càng tốt”. Trong những tháng dẫn đến chiến tranh Iraq, tranh cãi kịch liệt nhất có lẽ là giữa nhóm Buchanan-Novak (bán nguyệt san The American Conservative) và nhóm Kristol-Frum-Goldberg (Weekly Standard, National Review). Những người khác như Henry Kissinger thì đã công khai thú nhận là không hiểu nổi phái tân bảo thủ muốn gì. Nói chung, dân đảng Cộng hoà cố cựu (như Brent Scowcroft hay James Baker, ngay chính thingy Cheney) thì nghĩ đến quyền lợi kinh tế nhiều hơn.
2.2. Albert Wohlstetter
Wohlstetter (1914-1977) xuất thân là giáo sư toán và đã dạy ở nhiều đại học như University of Southern California, Chicago, vv. Tuy nhiên ông được biết nhiều nhất như một chiến lược gia quân sự của “lò nghiên cứu” RAND. Trong cuơng vị này, Wohlstetter đã rất thân cận với các giới chức cao cấp của Lầu Năm Góc và nhiều thành viên quốc hội Mỹ, nhất là nghị sĩ Henry Jackson.
Cũng như Strauss, Wohlstetter đã để lại ảnh hưởng qua học trò, và nhất là mạng lưới học trò cũ mà qua đó ông đã giới thiệu họ với nhau. Người đầu tiên (trong nhóm tân bảo thủ) bị Wohlstetter “hớp hồn” là Richard Perle (sẽ nói thêm dưới đây). Năm 1959, khi còn là học sinh trung học, Richard Perle được con gái của Wohlstetter mời về bơi hồ tắm sau nhà. Perle mê Wohlstetter từ dạo ấy.
Sau những năm ở miền nam California, Wohlstetter về làm giáo sư ở đại học Chicago. Chính ông đã dạy và hướng dẫn Paul Wolfowitz viết luận án tiến sĩ. Richard Perle cũng muốn về học với ông ở Chicago nhưng không được trường này chấp nhận vì điểm kém. Tuy vậy, chính Wohlstetter đã giới thiệu Wolfowitz và Perle về làm cho thượng nghị sĩ Henry Jackson, tạo cơ hội cho hai ông này biết nhau từ đó.
Muốn hiểu ảnh hưởng của Wohlstetter, nên nhớ lại là trong thời kỳ chiến tranh lạnh, lối suy nghĩ chung của những nhà chiến thuật Mỹ là (a) Mỹ nên có nhiều tên lửa, bom hạt nhân, và tên lửa tầm càng xa, bom càng nặng ký càng tốt; (b) khả năng trả đũa ồ ạt sẽ làm đối phương không dám tấn công. Khai triển “triết lí” này, chiến lược của Mỹ là dựa trên quan niệm “Mutual Assured Destruction”, cùng tận diệt (gọi tắt là MAD, còn có nghĩa là “Điên”). Cụ thể, cách ngăn ngừa Liên Xô tấn công là phải có những vũ khí hạt nhân đủ mạnh, bố trí khắp châu lục, trên trời, dưới đất, ngoài biển, để vẫn còn đủ trả đũa tiêu diệt Liên Xô, dù có bị Liên Xô tấn công trước.
Wohlstetter bác bỏ lối suy nghĩ “MAD” ấy. Theo ông, thuyết này sai vì hai điểm. Thứ nhất, nó “vô đạo đức” vì ngầm chấp nhận mức thương vong chắc chắn là rất cao của thường dân. Thứ hai, không một lãnh tụ Mỹ nào sẽ có can đảm trả đũa (dù bị tấn công trước) vì trong thâm tâm họ biết quá rõ là hậu quả sẽ là tận thế. Đối thủ của Mỹ biết vậy, và do đó họ sẽ có thể tấn công trước.
Vì Wohlstetter cho rằng đối phương có thể sẽ hạ thủ trước, ông ta chú trọng đến những phương án mà chính người lãnh đạo Mỹ phải dùng đến vũ khí. Cụ thể, Wohlstetter đề nghị Mỹ có chính sách ngăn chận từng bậc (“graduated deterrence”): Chấp nhận rằng Mỹ có thể có những chiến tranh hạn chế (limited wars). Trong những cuộc chiến tranh này, Mỹ có thể dùng cả vũ khí nguyên tử chiến thuật (tactical nuclear arms) cùng với những vũ khí chính xác và khôn ngoan.[15]
Cụ thể hơn, Wohlstetter chủ trương hai điểm (1) quân đội phải lanh nhẹn (nimble) và (2) vũ khí phải chính xác. Nếu được như vậy thì, theo Wohlstetter, mọi hiểm hoạ sẽ được nhanh chóng “trung tính hoá” (neutralized) trước khi chúng hiện thực, hoặc bằng những lời răn đe có sức thuyết phục, hoặc bằng cách tấn công thật sự.
Wohlstetter ủng hộ chiến tranh Việt nam, ủng hộ vũ khí nguyên tử, và chống hiệp ước SALT/ABM. Đối thủ nổi tiếng nhất của Wolhstetter là Hans Morganthau, tương đối là “bồ câu” trong những vấn đề này.
Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt Wohlstetter quay sang những vấn đề khác. Ông không cho là Liên Hợp Quốc có thể ngăn ngừa các quốc gia “côn đồ” (“rogue”), và không tin những hiệp ước giải giới như ABM. Năm 1995, Wohlstetter viết một bài cho Wall Street Journal trong đó ông lí luận là sự lan tràn của những “bạo chúa gieo rắc kinh hoàng” như Saddam Hussein, Slobodan Milosovic chỉ có thể bị diệt trừ bằng một “liên minh” (“coalition” -- để ý chữ này, thay vì “đồng minh” như trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đang được dùng trong chiến tranh Iraq). Liên minh này sẽ sẵn sàng ủng hộ, làm hậu thuẫn cho Mỹ, với những lực luợng chính xác và “biết phân biệt” (discriminating)
Ngoài Perle và Wolfowitz, vài người nữa trở nên thân cận với nhóm tân bảo thủ cũng vì là học trò của Albert Wohlstetter ở Chicago. Trong số đó có Ahmed Chalabi (thủ lãnh Iraqi National Congress[16]), Zalmay Khalilzad (viên chức Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ đặc trách Afghanistan), Andrew Marshall (đặc trách nghiên cứu về các chiến thuật hiện đại trong Bộ Quốc Phòng Mỹ). Donald Rumsfield cũng bị nhiễm ảnh hưởng của Wohlstetter.[17]
3. Paul Wolfowitz
Paul Wolfowitz (sinh năm 1943) phó bộ trưởng quốc phòng, thường được xem là lãnh tụ nhóm tân bảo thủ trong chính phủ Bush. Cha Wolfowitz là gốc Do Thái, di cư sang Mỹ năm 1920, từng làm giáo sư thống kê tại đại học Cornell. Thuở vị thành niên, Wolfowitz theo cha sống một thời gian ở Israel, và có chị gái lấy một người Israel. Paul Wolfowitz lúc đầu chuyên ngành toán, sau đổi sang hoá học, rồi lấy tiến sĩ khoa học chính trị ở đại học Chicago. Trong thời kì chiến tranh Việt Nam, ông được hoãn dịch vì lí do học vấn.
Khi còn học ở Cornell, Wolfowitz thụ giáo với Allan Bloom, một giáo sư triết bạn của Leo Strauss. Ở Chicago, Wolfowitz viết luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của Albert Wohlstetter.[18] Tốt nghiệp, Wolfowitz đi dạy ở Yale, nhưng nhờ móc nối của Wohlstetter, năm 1973 gia nhập ban nghiên cứu của nghị sĩ Henry Jackson, cùng nhóm với Richard Perle. Vào thời Reagan, Wolfowitz là thứ trưởng ngoại giao đặc trách Đông Á (có “công” sắp xếp cho Ferdinand Marcos lưu vong), sau đó làm đại sứ ở Indonesia. Trong chính phủ Bush cha, Wolfowitz đổi sang Lầu Năm Góc (làm thứ trưởng đặc trách chính sách), trực tiếp dưới quyền Cheney. Khi Clinton lên, Wolfowitz trở về đại học, làm trưởng khoa quan hệ quốc tế tại đại học Johns Hopkins.
Vào năm cuối (1992) thời Bush cha, Wolfowitz chỉ huy một nhóm diều hâu trong Lầu Năm Góc soạn thảo một báo cáo có tựa là “Hướng dẫn hoạch định quốc phòng” (“Defense Planning Guidance”, gọi tắt là DPG). Tài liệu này là “bản đồ chính sách” của Mỹ cho thế kỉ 21, trong đó Wolfowitz (được Cheney nhiệt tình ủng hộ) chủ trương ba điểm:
(1) Với sự sụp đổ của Liên Sô, từ đây về sau Mỹ sẽ không để nước nào, dù đồng minh hay đối thủ, thách thức vị thế cường quốc số một của Mỹ. Mỹ phải có sự hiện diện quân sự thường trực khắp nơi để ngăn ngừa mọi quốc gia có ý cạnh tranh với Mỹ bất cứ đâu, ở bất cứ lãnh vực nào (kinh tế hay quân sự).
(2) Chủ thuyết ngăn chận (containment) của Mỹ thời chiến tranh lạnh không còn là hợp thời nữa. Từ nay Mỹ phải nhắm “thiết lập và củng cố một trật tự mới”, bằng cách đánh phủ đầu các nước khác, nếu cần.
(3) Thay vì dựa vào các thể chế quốc tế đa phương (như Liên Hợp Quốc), Mỹ nên lập những liên minh cho “từng trường hợp” (ad hoc) để đối phó với mỗi cuộc khủng hoảng (khi hết khủng hoảng thì cũng hết liên minh).
“Hướng dẫn hoạch định quốc phòng” của nhóm Wolfowitz đã bị hầu hết chính giới và báo chí Mỹ lúc ấy chỉ trích kịch liệt, cho là quá hiếu chiến, ảo mộng đế quốc, do đó vẫn còn được chính thức xếp là “tối mật” cho đến nay. Tuy nhiên nó là cơ sở của “Chiến Lược An Ninh Quốc Gia” (National Security Strategy (NSS)) do Bush con ký ngày 21 tháng 9 năm 2002. Chính Wolfowitz, bốn ngày sau 11/9, đã đề nghị Bush nên tấn công Iraq thay vì Afghanistan.
Vào giữa thập kỉ 90, có thêm một yếu tố mới ảnh hưởng đến hoạt động của nhóm tân bảo thủ: Chính sách của Israel và sự đắc cử của Benjamin Netanyahu (sau khi Yitzhak Rabin, người hùng của hiệp định Oslo, bị ám sát năm 1995). Cụ thể, từ mùa xuân 1997 Wolfowitz và nhóm diều hâu của đảng Cộng Hoà bắt đầu cổ vũ cho một chiến sách cứng rắn hơn đối với Iraq.
Với đề nghị của Douglas Feith (xem dưới đây), năm 2002 Wolfowitz cho thiết lập “Vụ Kế hoạch Đặc biệt” (“Office of Special Plans”) do Abram Shulsky[19] làm thủ trưởng, báo cáo trực tiếp cho Feith.
Abram Shulsky cũng là học trò của Leo Strauss ở Chicago, cùng lúc với Wolfowitz. Nên nhắc lại, đối với Strauss, “nghệ thuật giữ bí mật” là một trong những di sản trí thức đáng nhớ nhất của các nhà hiền triết cổ đại. Ngay từ năm 1999, Shulsky (và Gary Schmitt[20]) viết bài “Leo Strauss and the World of Intelligence (By Which We Do Not Mean Nous)”, (“Leo Strauss và Thế giới Tình báo”).[21] Trong bài này, lấy ý Strauss, Shulsky và Schmitt cho rằng tình báo Mỹ có nhiều nhược điểm (1) Một là, ngành này đã không thực sự thông hiểu “bản tính lật lọng” (duplicitous nature) của những chế độ mà Mỹ đang đối đầu. (2) Hai là, sự bất lực của ngành này khi mà đối thủ cố tình che giấu (deliberate concealment). (3) Ba là, tình báo Mỹ vẫn còn dùng phương pháp “chứng minh” của các ngành khoa học xã hội (dựa vào các phân tích định lượng, xác suất, vv..)
Theo Shulski (học từ Strauss) tình báo phải đi tìm cái “nghĩa kín” (“hidden meaning”), phải nhìn thông tin qua lăng kính của triết lí chính trị để hiểu thực chất của các chế độ khác nhau. Dĩ nhiên, nhóm Shulsky không tin CIA và DIA,[22] mà nghe lời của Ahmed Chalibi và nhóm Iraqi National Congress hơn. Cheney và nhóm diều hâu tân bảo thủ đã dựa vào nhóm của Shulsky hơn là vào CIA. Chính giám đốc CIA (trong điều trần ngày 9 tháng 3, 2004) cũng xác nhận là nhóm này đã báo cáo riêng cho Nhà Trắng sau lưng CIA.
Trong nhóm tân bảo thủ trong chính phủ Bush, Wolfowitz có lẽ là một người khó hiểu nhất. Nhiều người cho rằng Wolfowitz là người tương đối có lí tưởng (dù sai lầm), thật lòng muốn truyền bá cái “dân chủ” của Mỹ đến những quốc gia khác. Không như những người tân bảo thủ khác, Wolfowitz không biện hộ cho chính sách Mỹ trên căn bản lợi ích kinh tế vật chất của Mỹ.
4. Richard Perle
Richard Perle (sinh năm 1941), thạc sĩ chính trị học (Đại học Princeton, 1967), là bạn của Wolfowitz từ khi hai người cùng làm cho nghị sĩ Henry Jackson. Trong phái tân bảo thủ, Perle là người chịu ảnh hưởng của Wohlstetter nhiều nhất. Ngoài ra, ông cũng thân cận với nhà bình luận Irving Kristol, “bố già” phái này.[23] Trong thời Reagan, Perle làm phụ tá bộ trưởng quốc phòng, nổi tiếng là hiếu chiến, cực lực chống mọi hiệp ước kiểm soát vũ khí, do đó thường được gọi là “Ông hoàng U ám” (“Prince of Darkness”). Cũng có người gọi Perle là “Diều hâu của diều hâu” (“The hawks' hawk”).
Ở những thời điểm khác nhau, Perle kêu gọi phải có thêm vũ khí nguyên tử tốt hơn, chế nhạo ý niệm “kiểm soát vũ khí”, đòi xé bỏ hiệp uớc ABM, khẳng định rằng Liên Xô không đủ sức chạy đua vũ khí với Mỹ. Perle hô hào phải chiến thắng ở Việt Nam (đổ bộ miền Bắc nếu cần). Ông ta ủng hộ Israel chiếm Lebanon, lật đổ chính quyền Sandinistas ở Nicaragua, hối thúc Mỹ nhìn nhận Jerusalem là thủ đô của Israel, cam kết bảo vệ Đài Loan, và công khai khinh miệt Liên Hợp Quốc.
Năm 1996 Perle là tác giả chính (cùng với bảy người nữa, trong đó có Wolfowitz, Feith, Wurmser) một báo cáo[24] cho chính trị gia Israel cực hữu Benjamin Netanyahu . Đó là một sách lược hết sức hiếu chiến, khuyên Israel xé bỏ hiệp ước Oslo, “giải phóng” Iraq, thay đổi chế độ ở Syria, Saudi Arabia, Jordan...
Khi Bush con lên cầm quyền, Perle được mời làm nhân vật số 3 ở Lầu Năm Góc song từ chối, có lẽ vì muốn đứng ngoài chính phủ để tiện kinh doanh. (Perle có nhiều dính líu tai tiếng đến hoạt động buôn bán vũ khí của Israel, và sau này cố vấn cho các công ty hưởng lợi nhờ Bộ An Ninh Nội Địa của Mỹ mới thành lập). Cho đến gần đây, ông là chủ tich của Defense Policy Board, một ban tư vấn chính sách quốc phòng có rất nhiều ảnh hưởng ở Lầu Năm Góc. Vì bị tai tiếng lợi dụng móc nối để kinh doanh, Perle phải từ chức chủ tịch Defense Policy Board vào tháng 3/2003, và từ chức hẳn vào tháng 3/2004.
5. Những người tân bảo thủ khác trong chính phủ Bush
5.1. Condoleezza Rice
Condoleezza Rice, cố vấn an ninh quốc gia của Bush thật ra không phải là người phe tân bảo thủ ngay từ đầu. Bà tốt nghiệp ở đại học Denver và con đuờng tiến thân của bà nhờ nhiều vào nhóm cựu bảo thủ như Brent Scowcroft,[25] George Shultz.[26] Tuy nhiên, bà cũng có nhiều quan điểm tân bảo thủ, nhất là về cái tối thượng của quyền lợi nước Mỹ . (Bà thường mở đầu các cuộc phỏng vấn, thuyết trình, với câu hỏi: “Quyền lợi của Mỹ là gì?”) Bà được nhiều người biết qua bài “Protecting the National Interest” (“Bảo vệ Quyền lợi Quốc gia”) đăng trên Foreign Affairs năm 2000. Trong đó, Rice (như các người tân bảo thủ khác) cũng kêu gọi Mỹ lật đổ Saddam Hussein, nhưng là qua các nhóm đối lập Iraq thay vì dùng lính Mỹ. Trong phe diều hâu, Rice là người hay dùng “đạo đức” để biện hộ cho chính sách Mỹ, có lẽ do ảnh hưởng phần nào của gia đình (cha là giáo viên kiêm mục sư, mẹ cũng là giáo viên). Condoleezza Rice rất tương đắc với Richard Perle ở chỗ cả hai đều mạnh mẽ chủ trương Mỹ không cần tham vấn nước nào khác khi ra quyết định. Bà khinh miệt chính sách đa phương của các chính phủ trước, nhất là của Clinton.
Thật sự, phe tân bảo thủ không coi Condoleezza Rice (bỏ đảng Dân Chủ sang đảng Cộng Hòa năm 1983) như là cùng nhóm của họ. Một phần là vì lúc còn làm cho Scowcroft, Rice ủng hộ Gorbachev thay vì Yeltsin, trong khi phe Cheney, Wolfowitz, Libby thì ủng hộ Yeltsin chống lại Gorbachev. Có lẽ vì không tin cẩn Rice, phe diều hâu gài hai người vào làm phụ tá cho bà. Một là Stephen Hadley (đàn em của Cheney và Wolfowitz), chủ tịch một ủy ban cấp thứ trưởng họp nhiều lần mỗi tuần để bàn chuyện ngoại giao và quốc phòng. Người kia là Elliot Abrams, từng là phụ tá của Reagan, bị ra toà vì vụ buôn bán vũ khí với Iran. Abrams cầm đầu phòng Trung Đông sự vụ trong hội đồng an ninh quốc gia của Condoleezza Rice. Ông ta cũng là con rể của Norman Podhoretz (xem dưới đây, đoạn về William Kristol).
5.2. John Bolton
Bolton là phụ tá bộ trưởng tư pháp trong thời Reagan, chuyển sang làm phụ tá bộ trưởng ngoại giao (chuyên trách vấn đề các tổ chức quốc tế) trong thời Bush cha, và hiện là thứ trưởng ngoại giao chuyên trách kiểm soát vũ khí và an ninh quốc tế. Bolton không phải là gốc Do Thái, tuy nhiên ông ta là đàn em của Jesse Helms,[27] gần gũi với phái “Christian right” (đạo Tin lành cực hữu) hơn là những người tân bảo thủ khác. Ông ta từng nói “Nếu toà nhà tổng thư ký Liên Hợp Quốc ở New York bị nổ tung mất 10 tầng thì cũng không có hại chi cả”. [28]
5.3. Douglas Feith
Phụ tá trực tiếp cho Wolfowitz ở Lầu Năm Góc là Douglas Feith, luật sư, đã từng làm phụ tá cho Perle trong thời Reagan,[29] Feith nổi tiếng là một người tính tình rất “khó chịu” và thường là nguyên do xung khắc giữa Bộ Quốc Phòng và Bộ Ngoại Giao Mỹ. Feith là gốc Do Thái diều hâu cực hữu, luôn nghĩ đến quyền lợi của Israel. Trong bài “A Strategy for Israel” (“Một Chiến lược cho Do Thái”) năm 1997, Feith (viết chung với Richard Perle) bảo Israel phải tái chiếm các khu vực hiện do nhà cầm quyền Palestine cai quản, dù phải trả cái “giá bằng máu” đắt. Thay vì “đổi đất lấy hoà binh”, Feith khuyến cáo Netanyahu hợp tác với các quốc gia láng giềng để lật đổ Hussein. Feith hiện phụ trách “Office of Reconstruction and Humanitarian Assistance for Iraq” (“Văn phòng Tái thiết và Viện trợ Nhân đạo cho Iraq”).
5.4. David Wurmser
David Wurmser, phụ tá đặc biệt cho Bolton, là nhân vật hiếu chiến nhất trong bộ ngoại giao. (Nên để ý: Colin Powell bị Bolton và Wurmser là người của Cheney và Wolfowitz bao vây.)
Wurmser không phải là phe “đạo đức” (như Condoleezza Rice), hay lí tưởng dân chủ, song, gần như hơn ai hết, ông ta nhìn chính sách Mỹ qua lăng kính quyền lợi của Israel. Tóm tắt, Wurmser xem Mỹ và Israel như một đối với tất cả các quốc gia khác ở Trung Đông. Năm 1999 Wurmser cho xuất bản quyển “Đồng minh của bạo chúa: Sự Thất bại của Mỹ trong việc Đánh bại Saddam Hussein”[30] (Perle viết lời tựa), phác hoạ hình ảnh Trung Đông sau khi Saddam bị lật đổ, nhất là ảnh hưởng đối với Syria và Iran, sẽ “tốt” đến bực nào. Theo Wurmser, Mỹ và Israel phải đập tan – không chỉ giải giới – những chế độ “cực đoan” ở Trung Đông, cho dân vùng này bài học rằng nếu chống lại Mỹ hoặc Israel thì phải diệt vong. Wurmser kêu gọi Mỹ và Israel phải để ý khai thác ngay cơ hội đến từ khủng hoảng. Ông ta viết: “Khủng hoảng có thể là cơ hội”. “Hỗn loạn là tốt” (“chaos is good”) “đoạn tuyệt” (“clean break”) là những câu Wurmser thường hay nói. Sách lược chiến tranh cho Mỹ và Israel do Wurmser phác hoạ được xuất bản vào tháng giêng năm 2001, chín tháng trước ngày 11/9. Vợ của David Wurmser là Meyrav Wurmser (con gái một lãnh tụ cực hữu Israel) cũng là một tác giả năng động trong nhóm tân bảo thủ, chuyên viết về những kịch bản gián điệp “rùng rợn” (chằng hạn như Saddam Hussein và Al Qaeda đã cộng tác với nhau như thế nào, CIA cố tình “chơi xấu” Bộ Quốc Phòng Mỹ ra sao, v..v..).
5.5. Ahmed Chalabi và Judith Miller
Cũng nên ghi thêm là Paul Wolfowitz và Ahmed Chalabi là bạn thân hồi còn học ở Chicago (gần đây, Chalabi đã bị thất sủng với nhóm tân bảo thủ Mỹ vì có tin cho rằng Chalibi đã hứa với Iran là sẽ bảo vệ quyền lợi Iran, không dùng Iraq để làm bàn đạp chống Iran). Nhóm Wolfowitz (Middle East Media and Research Institute -- MEMRI) còn có Judith Miller, nữ ký giả nổi tiếng của tờ New York Times, chuyên trách về vũ khí sinh hoá. Chính Judith Miller hay viết những bài trên New York Times bảo là “theo nguồn tin thông thạo” Iraq có đầy những vũ khí hũy diệt hàng loạt (WMD), và cũng giúp quảng cáo Chalabi với báo giới.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jul 19, 2008 9:05:06 GMT 9
6. William Kristol
Trong lúc nhánh tân bảo thủ của Paul Wolfowitz nghiêng nhiều về mặt chiến thuật (chủ trương đánh phủ đầu), và nhánh của Richard Perle nhấn mạnh đến quyền quyết định đơn phương của Mỹ, thì nhánh thứ ba, tiêu biểu là William Kristol, cổ vũ cho vai trò đế quốc của Mỹ.
William Kristol (sinh năm 1953) là tiến sĩ chính trị học, có một thời dạy Harvard. Ông là con của nhà bình luận tân bảo thủ tên tuổi Irving Kristol (chủ bút tờ Public Interest) và bà Gertrude Himmelfarb, một trí thức cũng khá nổi danh. Bạn thân của Irving Kristol là Norman Podhoretz, chủ bút nguyệt san Commentary (tự xưng là cơ quan ngôn luận của người Mỹ gốc Do thái). Norman Podhoretz là cha vợ của Elliot Abrams (xem đoạn về Condoleezza Rice phần trên).
Trừ vài năm làm chánh văn phòng cho phó tổng thống Dan Quayle (thời Bush cha), William Kristol hoạt động ngoài chính quyền, ăn nói khôn ngoan, nổi tiếng là trí thức, có biệt danh là “bộ óc của Dan Quayle”. Kristol hiện là tổng biên tập tuần báo Weekly Standard (chủ là ông trùm báo chí cực hữu người Úc Rupert Murdoch). William Kristol là điển hình cho một nhánh quan trọng của phái tân báo thủ, một thứ “hậu phương trí thức”. Họ là những người năng nổ phát tán tư tưởng tân bảo thủ qua các cơ quan ngôn luận, tranh đấu trên mặt trận tư tưởng hơn là trong nội bộ chính quyền như Perle, Wolfowitz.
Weekly Standard được coi là ống loa của nhóm tân bảo thủ, đã cổ vũ “thay đổi chế độ” -- chẳng những ở Iraq, mà còn ở Saudi Arabia, Syria, vv.. -- ngay từ thập kỉ 90. Kristol là bạn thân của Perle, Kagan (xem dưới đây) và giao thiệp rộng rãi trong đảng Cộng Hoà. Tuần báo này hô hào Mỹ dùng sức mạnh quân sự để bảo vệ quyền lợi và “giá trị” của Mỹ khắp mọi nơi, chớ ngần ngại làm đế quốc. Trong cuộc bầu cử năm 2000, nhóm này ủng hộ McCain thay vì Bush (cho là Bush quá yếu), và thường chỉ trích Colin Powell về cái mà họ gọi là tính “nhút nhát” của ông này.[31]
Chính bộ phận này của phe tân bảo thủ đã tạo cho phe này một uy thế đáng sợ. Ngoài Kristol còn có Rich Lowry ở tờ National Review, Paul Gigot phụ trách trang bình luận của tờ Wall Street Journal, Policy Review (của Hoover Institution), National Interest (của Conrad Black, nhà tỷ phú bảo thủ dân Anh); Commentary (tạp chí do Irving Kristol sáng lập). Theo họ thì Mỹ cần phổ biến “dân chủ” và “giá trị” kiểu Mỹ trên thế giới, và nếu cần, sử dụng quân sự vào việc đó.
7. Những người tân bảo thủ khác ngoài chính phủ
7.1. Robert Kagan
Một người nữa cũng thuộc phe “Tân Đế Quốc”, hay viết chung với William Kristol, là ký giả Robert Kagan (sinh năm 1959, thạc sĩ Harvard). Ông này là một viên chức trong chính quyền Reagan từ năm 1984 đến 1988, cộng tác với Carnegie Endowment for International Peace, một “lò nghiên cứu” của Mỹ. Kagan thường viết cho Weekly Standard, Policy Review, Washington Post. [32]
Cùng với William Kristol, Kagan là kiến trúc sư của chủ nghĩa can thiệp tân bảo thủ (neoconservative interventionism). Hai người cùng viết bài “Về một Chính sách Ngoại giao Reagan Kiểu Mới”[33] đăng trên Foreign Affairs năm 1996, bảo rằng Mỹ phải trở thành “bá chủ hoàn cầu” (global hegemony) và rằng chính sách ngoại giao Mỹ phải nhằm khuyến khích cái mà Kagan gọi là “những giá trị nêu ra trong Tuyên Ngôn Độc Lập” của Mỹ. [34] Cụm từ mà Kagan và Kristol dùng là “benevolent hegomony” (bá chủ nhân từ) để gán cho vai trò mà Mỹ phải có trong thế kỉ 21.[35]
Trong một bài quan trọng[36] trên tạp chí Policy Review năm 2002 (và thành sách năm 2003), Kagan có hai nhận xét chính: Một là, thế giới quan của Mỹ và châu Âu bây giờ là rất khác nhau, và hai là, sở dĩ châu Âu ngày nay là “thiên đàng” (chữ trong tựa sách) là nhờ “quyền lực” của Mỹ.
Theo Kagan, sau khi trải qua nhiều thế kỉ xâm lấn, đánh giết nhau, với hai trận Thế Chiến để lại quá nhiều tàn phá thương vong, châu Âu chỉ muốn được hoà bình, yên ổn sinh sống. Ước vọng này được củng cố thêm trong hơn nửa thế kỉ qua, sau khi nước Đức chẳng những hết hiếu chiến mà còn tái thống nhất trong hòa bình, hội nhập vào cộng đồng châu Âu. Tóm lại, châu Âu ngày nay gần như một “thiên đàng”, sống trong một thứ thái bình vĩnh viễn như triết gia Immanuel Kant đã dự tưởng, trong đó pháp chế, ngoại giao, tinh thần nhân nhượng ngự trị. Vì đã thành công giải quyết các vấn đề của họ mà không cần vũ lực, các nước châu Âu ngày nay cho rằng mọi tranh chấp, ở bất cứ đâu, đều có thể giải quyết cách ấy.
Mỹ, theo Kagan, có cái nhìn khác. Đối với Mỹ, thế giới vẫn còn như một khu rừng man rợ đầy dã thú (như trong triết lí Hobbes), chỉ nể sợ quyền lực. Do đó, Mỹ có bổn phận làm người giữ trật tự an ninh cho nhân loại. Kagan nhấn mạnh: châu Âu đã hưởng thái bình thịnh vượng trong hơn nửa thế kỉ qua chính là nhờ Mỹ. Từ việc phòng thủ lục địa này trong thời kỳ chiến tranh lạnh, đến bảo đảm nguồn dầu hoả, đến thống nhất nước Đức, đến mang lại hoà bình ở Balkan, tất cả là nhờ sức mạnh quân sự, kinh tế, và sự lãnh đạo của Mỹ. Hơn nữa, theo Kagan, Mỹ không giống những đế quốc thực dân châu Âu ngày xưa. Mỹ là một bá chủ “nhân từ”, “quảng đại”, chỉ muốn truyền bá những giá trị tiến bộ của nhân loại: “dân chủ”, “tự do”, “kinh tế thị truờng”. Người châu Âu biết rõ như vậy, Kagan khẳng định.
Song, theo ý Kagan, chính vì những dị biệt trong thế giới quan, và nhất là những chênh lệch quá lớn về sức mạnh quân sự, Mỹ và châu Âu không còn cùng một “ngôn ngữ”, không còn nghĩ giống nhau về vai trò của quyền lực trong các vấn đề quốc tế. Nói theo Kagan, hai bên không còn chia sẻ một “văn hoá chiến lược” (“strategic culture”). Câu nổi tiếng nhất của Kagan là “Người Mỹ đến từ sao Hoả, người Âu đến từ sao Kim.”
Vì những lí do trên, theo Kagan, không gì khó hiểu về sự khác nhau hiện nay giữa hai bờ Đại Tây Dương: chính cách của Mỹ là phản ảnh sức mạnh của Mỹ, còn chính sách châu Âu là phản ảnh sự nhược yếu của châu này. Sự “chia tay” này không phải là nhất thời, chỉ xảy ra vì người cầm đầu chính phủ là ai đó, nhưng sẽ mãi mãi. Cụ thể, đối với những người chỉ trích thái độ “cao bồi” của chính quyền Bush, Kagan khẳng định rằng ngay Clinton cũng đã thay đổi chính sách từ đa phương (nhiệm kỳ 1) sang đơn phương (nhiệm kỳ 2).
Kagan không ngạc nhiên về thái độ bài Mỹ ở châu Âu những năm gần đây. Mỹ, với tham vọng bá quyền, sử dụng ngôn ngữ của quyền lực, châu Âu – quá “lí tưởng” – thì dùng ngôn ngữ của hoà bình. Vì ngân sách quốc phòng ít oi, tiếng nói của các nước châu Âu trong các liên minh quân sự của họ với Mỹ ngày càng ít được nghe. Chính sự chênh lệch quân sự giữa châu Âu và Mỹ, theo Kagan, đã làm yếu đi liên hệ giữa hai bờ Đại Tây Dương. Hơn nữa, sự sụp đổ của Liên Xô không những đã làm Tây Âu mất đi một đối thủ chiến lược, nó còn làm giảm đi ảnh hưởng chính trị của Tây Âu khắp thế giới,
Kagan ca tụng ngôi vị độc tôn của Mỹ. Ông mạnh dạn khẳng định Mỹ đã làm nhiều điều tốt hơn xấu, rằng thế giới ngày nay tốt đẹp là nhờ sự khống trị, bá quyền của Mỹ. Kagan cho rằng Mỹ không nên để các thể chế quốc tế ràng buộc, làm giảm hiệu quả những hành động đơn phương của Mỹ.
Theo Kagan, các nước Tây Âu đã không dám trực diện hiểm hoạ của Iraq, mà đối với Mỹ thì quá rõ ràng. Thái độ “hiếu hoà” của châu Âu, theo Kagan, không phải vì châu Âu đạo đức gì hơn Mỹ, nhưng chỉ vì châu Âu quá yếu đuối về quân sự. Tuy nhiên, Kagan không đổ lỗi hoàn toàn cho Tây Âu, ông cũng cho rằng chính quyền Bush quá kiêu căng. Ông ta khuyến cáo chính quyền Bush nên nể trọng hơn ý kiến của các quốc gia khác. Tuy nhiên cuối cùng Kagan vẫn nghĩ rằng Mỹ có thể đơn phương hành động, không cần sự đồng ý của châu Âu.
Cái mới trong ý kiến của Kagan không phải ở chỗ ông cho là có sự dị biệt giữa thái độ của Mỹ và Châu Âu, nhưng ở cách ông giải thích sự dị biệt đó. Có lẽ Kagan là người có trách nhiệm tinh thần lớn nhất cho sự chia rẽ giữa Mỹ và châu Âu hiện nay. Có lẽ điều Kagan nói mà đáng nhớ nhất là ông ta công khai ủng hộ “tiêu chuẩn kép” (“double standard”). Cũng nên nói thêm là Kagan thường chỉ trích Colin Powell và khuyến cáo Mỹ nên mở rộng chiến tranh ngoài Afghanistan.
Theo Kagan thì vai trò giữa Mỹ và Châu Âu đảo ngược sau Thế Chiến I. Ngày nay Âu Châu quá “hiếu hoà”, nhút nhát. Mỹ “hiếu chiến” không phải vì Âu Châu có văn hoá hơn, Mỹ “cao bồi hơn” nhưng tại vì Âu châu yếu hơn, Mỹ mạnh hơn.
7.2. Max Boot
Max Boot là một tác giả còn rất trẻ (sinh năm 1969), từng giữ chức biên tập trang bình luận của tờ Wall Street Journal. Ông viết rất siêng năng, với tác phẩm gây nhiều dư luận là quyển “Những Cuộc Chiến tranh Man rợ vì Hòa bình: Chiến tranh cỡ nhỏ và Sự Phất lên của Quyền lực Mỹ”[37](2002). Trong tác phẩm này, Boot kiểm lại kinh nghiệm đế quốc của Anh và Mỹ trong hơn hai thế kỷ qua và đưa ra một ý kiến táo bạo: Mỹ phải khai sáng cho những nước “kém văn minh”, bằng vũ lực đế quốc nếu cần.
Theo Boot, không thể tránh đựơc những cuộc “chiến tranh nhỏ”. Đó là hậu quả tất nhiên của sức mạnh của Mỹ. Mỹ đã luôn luôn quá mạnh ở khắp nơi trên thế giới, do đó không thể tránh nhập cuộc dù có khi sự can thiệp ấy không thể biện minh trên tiêu chuẩn “chính trị thực tế” (“realpolitik”). Dù muốn dù không. Mỹ phải chuẩn bị cho vai trò ấy. Câu hỏi là Mỹ có làm được việc đó tốt hay không. Hơn nữa, theo Boot, Mỹ không nên đi vào những chiến dịch như vậy với hi vọng sẽ không bị thương vong. Phải chấp nhận thương vong.
Max Boot khẳng định Mỹ đang là nước mạnh nhất hoàn cầu, vậy thì hãy tận dụng quyền lực đó, chớ né tránh rụt rè. Theo Boot, Mỹ không nên chỉ bảo vệ “quyền lợi quốc gia” (Boot đi xa hơn Condoleezza Rice) nhưng phải mạnh dạn hơn, làm nhiệm vụ “cảnh sát đế quốc” (“imperial policing”). Mục đích không phải chỉ là đánh bại địch thủ về mặt quân sự, nhưng còn là phải “xây dựng quốc gia” (“nation building”), nghĩa là phải sẵn sàng chiếm đóng lâu dài các nước khác. Ngây ngất trong ý kiến đó, Boot còn thêm rằng một chính sách như vậy không cần thông qua quốc hội Mỹ, chỉ cần sự quản lí của Nhà Trắng và Lầu Năm Góc, với sự ưng thuận của nước chủ nhà (như kiểu Đại Hàn trước đây). Chính Max Boot, trong một bài báo trên tờ Financial Times vào đầu tháng 7/2003 đã kêu gọi Mỹ thiết lập một Bộ Thuộc Địa.
Không ngạc nhiên gì khi thấy Max Boot và những người “Tân Đế Quốc” (hoặc Tân Thực Dân) như ông múa bút trên diễn đàn của tạp chí tân bảo thủ như Weekly Standard, National Review (tổng biên tập là Rich Lowry), đánh trống khua chiêng đòi đánh chiếm Iraq. Đối với họ, “thay đổi chế độ” ở Iraq chỉ là bước đầu. Dùng Iraq làm bàn đạp, Mỹ sẽ kế tiếp thay thế các cố đạo (“mullah”) ở Iran, Wahhab ở Saudi Arabia, đó là không nói đến bàn đạp đã có sẵn ở Balkans, ở Afghanistan, ở Trung Á.
7.3. Eliot Cohen
Tuy có lẽ không phải do sự phân công tiền định, Eliot Cohen đã giúp nhóm tân bảo thủ chống lại một lời chỉ trích khác: đó là trong đám của họ chưa ai từng đi lính chiến đấu (Bush là thành viên lính cảnh vệ (National Guard) thì không kể). Cohen hiện là giáo sư ở trường Cao Đẳng Hải Quân (Naval War College), nhưng đã từng làm việc với Wolfowitz trong chính quyền Bush cha, và là thành viên của Ban Tư vấn Chính sách Quốc phòng (Defense Policy Board).
“Đóng góp” quan trọng gần đây của Cohen là quyển “Supreme Command” tán tụng tài lãnh đạo của các lãnh tụ dân sự như Lincoln, Churchill, Ben-Gurion, Clemenceau. Nghiên cứu bốn vị này, Cohen cho rằng tuy khác nhau về nhiều mặt, họ giống nhau ở chỗ (1) rất tò mò, (2) nhiều trực giác, (3) đọc rộng, nhất là về lịch sử và tiều sử, (4) trong những khi khủng hoảng, hết sức cố gắng trau giồi kiến thức, thu thập thông tin. Họ không cứng nhắc khi đeo đuổi mục tiêu. Họ thách thức những người thuộc quyền, và có khả năng không nhân nhượng, đáng kể là dám chấp nhận số thương vong thường dân cao.[38]
Cohen kết luận rằng khi các lãnh tụ dân sự giao phó toàn quyền cho tướng lãnh (như Johnson, Clinton) thì có phần chắc là thất bại. Theo Cohen, những lãnh tụ kiệt xuất trong thời kỳ chiến tranh là những người đích thân tham gia hoạch định chiến thuật quân sự. Cohen cho rằng “vấn đề” với các tướng lãnh là họ ngại mạo hiểm (risk averse), bị ám ảnh bởi chiến tranh vừa xảy ra (mà không nghĩ đến cái sắp tới) và đôi khi chỉ lo bảo vệ quyền lợi binh chủng của mình.
Nhờ Cohen, nhóm diều hâu tân bảo thủ (không ai có một ngày mặt quân phục) có cớ bác bỏ những chế nhạo việc họ hoàn toàn thiếu kinh nghiệm chiến tranh.
8. Tân bảo thủ văn hoá
Sẽ là thiếu sót nếu chỉ xem phái tân bảo thủ (và nhất là Leo Strauss) về mặt chính trị hoặc ngoại giao. Theo tạp chí The Economist thì ảnh huởng sâu đậm nhất của Strauss không phải ở chính sách ngoại giao, nhưng về chính sách nội bộ của Mỹ (qua những người như Leon Kass, John Walters, Lynne Cheney). Và cũng như tuần báo này nhận xét: rốt cuộc có một sự oái oăm tuyệt vời: chính quyền Bush thường bị (nhất là Âu châu) khinh miệt là thiếu giáo dục, lại là một chính quyền bị ảnh hưởng nhiều nhất của triết lí cao xa, nhất là triết lí Âu Châu, không khác gi các nước Châu Âu cũ!!!
Trên mặt trận văn hoá, người phổ biến rộng rãi tư tưởng của Leo Strauss là Allan Bloom. Ông này là tác giả quyển “best seller” The Closing of the American Mind,[39] và là thầy của Francis Fukuyama và Paul Wolfowitz ở Chicago. Allan Boom là một người nhiều ấn tượng mà cuộc đời đã được nhà văn Saul Bellow (Nobel văn chương 1976) dựa vào để viết quyển tiểu thuyết Ravelstein (trong đó Wolfowitz cũng được xuất hiện qua một nhân vật phụ) năm 2000.[40]
Cả Strauss và Bloom chỉ trích kịch liệt chủ nghĩa “đạo đức tương đối” (moral relativism), viện dẫn những lời giáo huấn của các học giả cổ đại, và có một quan điểm “elitist”[41] về vai trò của giáo dục. Là học giả trong truyền thống Socrates, hai ông này nhiệt liệt tin vào chức vụ “quân sư”, vai trò mà Kristol đã đóng đối với Dan Quayle.
Về xã hội, tân bảo thủ chống lại chính sách “tích cực nâng đỡ” (“affirmative action”) của nhà nước, theo đó dân da màu, chẳng hạn, phải được ưu tiên thuê khi họ xin việc làm, hoặc nhận vào đại học. Phái tân bảo thủ không cho là xã hội nên đặt định những loại “hạn ngạch” như thế, dù là với thiện chí đền bù những nạn nhân của sự kỳ thị trong quá khứ, hay bị thiệt thòi vì những lí do xã hội khác. Họ chế nhạo phong trào phụ nữ đòi quyền lợi giống như nam giới, cho rằng vai trò của phụ nữ là làm mẹ, làm nội trợ, không phải đi làm kiếm tiền. Họ cũng cho là nhà nước phải nâng đỡ trường đạo như trường công.
Về văn hóa, những người tân bảo thủ không ưa chính sách đa văn hoá (multiculturalism). Họ cho rằng văn minh của Mỹ phải trung thành với truyền thống văn minh tây phưong, nước Mỹ là nước Do Thái – Thiên chúa giáo (Judea-Christian). Họ than phiền về tình trạng suy đồi của văn hoá hiện đại mà họ cho là hậu quả của sự đánh mất những giá trị tây phương cổ truyền. Đây là nền tảng tư tưởng của những người bảo thủ văn hoá như Allan Bloom mà sau này có tiếng vọng ở Francis Fukuyama và Lynne Cheney.[42] Họ chế nhạo phong trào “phải đạo chính trị” (“political correctness”), coi đó là phản Mỹ, đi ngược văn minh Mỹ.
Một tác giả nữa cũng tự nhận đã chịu ảnh hưởng của Leo Strauss là Dinesh D’Souza, một loại “trẻ ngỗ nghịch”,[43] gốc Ấn Độ.[44] Chàng này cho biết điều Leo Strauss gây nhiều ấn tượng với anh ta nhất là chỗ Strauss cho có cái đúng và cái sai, hẳn hoi, tức là không có sự mập mờ của chủ nghĩa tương đối về văn hóa, (“cultural relativism”). D’Souza cho rằng học trò của Strauss hay dùng triết lí về “quyền thiên bẩm” (“natural rights”), tức là căn bản của các nhà hiền triết cổ đại để phân biệt chánh tà, để bảo vệ dân chủ thiên hướng tự do (“liberal democracy”) và giá trị đạo đức chống lại những kẻ thù trong cũng như ngoài nước. Năm 1992, D’Souza viết “Những người theo Strauss có một sự rành rọt trí thức (intellectual rigor) rất hấp dẫn. Họ cổ vũ cho ý niệm “chính khách” (statesman) và có ý kiến rằng các “ông hoàng” (prince) phải được quân sư cố vấn, như trong triết học Machiavelli và Aristotle. Điều này là cần thiết, họ khẳng định, bởi lẽ “lãnh tụ” không phải bao giờ cũng là người khôn lanh nhất trên đời.”
Giới hạn của bài này không cho phép khai triển thêm về liên hệ giữa tân bảo thủ và các đại công ty của Mỹ (Halliburton của Cheney, vv), cũng như đối với chủ nghĩa toàn thống Thiên chúa giáo (“Christian fundamentalism”) (qua Bộ trưởng Tư pháp John Ashcroft và phe của ông). Liên minh này có thể còn tiếp tục trong chính sách Mỹ đối với Syria, Iran, và có thể cả Saudi Arabia, nhưng khó đi xa hơn. Đối với Trung Quốc chẳng hạn, yếu tố Israel sẽ trở nên ít quan trọng, và những áp lực kinh tế và ngoại giao khu vực sẽ mạnh hơn (mặc dù nhóm “Christian fundamentalists” cũng sẽ có ảnh hưởng lớn trong chính sách ngoại giao Mỹ đối với Trung Quốc)
9. Tân bảo thủ tự biện hộ
Để công bằng, thiết nghĩ cũng nên tường thuật cách tự bào chữa của nhóm tân bảo thủ (chống lại cáo buộc cho rằng chính phủ Bush hiện nay bị thao túng bởi một băng đảng trí thức hiếu chiến gốc Do Thái, trong lẫn ngoài chính quyền, chỉ nghĩ đến quyền lợi Israel)
Trả lời chỉ trích “dân Do Thái ở Mỹ chỉ muốn Mỹ xâm lăng Iraq vì lợi ích của Israel”, phe tân bảo thủ nhắc rằng có rất đông người Mỹ gốc Do Thái (ngay trong giới bình luận gia) chống chính sách Mỹ đối với Iraq.[45] Đúng là như vậy, và còn có thể nói thêm là một phần đáng kể dân Israel cũng là yêu chuộng hoà bình, chấp nhận Palestine, cho xâm lăng là sai. Tuy nhiên, người chỉ trích phái tân bảo thủ sẽ vạch rõ là phe này là phản ánh lập trường của thành phần Do Thái diều hâu cực hữu (ở Mỹ cũng như ở Israel), và đó mới chính là điều đáng nói.[46]
Đối với chỉ trích “chính quyền Bush bị phe hiếu chiến tân bảo thủ khuynh đảo”, những người tân bảo thủ trả lời: các cố vấn cao cấp nhất của Bush (như Cheney, Rumsfeld, Powell, Rice) đâu phải Do Thái, đâu phải ngây thơ, đâu phải không biết gì về quân sự, ngoại giao? Không lẽ những người này cũng bị phe tân bảo thủ phỉnh gạt?
Để phản biện lời bào chữa này, có thể nói rằng, đúng thế, những người này không ngây thơ, song chính phe tân bảo thủ cho họ một chỗ dựa lí thuyết và hướng họ vào một lộ trình chính sách mà họ không nghĩ đến (dù không hẳn là ngược lại với con đuờng họ sẽ đi). Lấy trường hợp Bush, ông ta là một người sẵn tính “du côn”, thù vặt, từ nhỏ đến lớn chỉ biết nương tựa thế lực gia đình. Phe tân bảo thủ khích Bush bằng cách nhắc ông ta rằng Saddam Hussein là người định ám sát Bush cha, vô cùng nguy hiểm. Còn với Rumsfield, Cheney thì họ sẽ bảo rằng đánh Iraq là việc phải làm để củng cố thế lực Mỹ, có lợi cho tư bản Mỹ (cụ thể là công ty của các ông ấy).
Đối với chỉ trích “đây là một âm mưu bí mật của bọn diều hâu Do Thái, tân bảo thủ” [47] thì họ phân bua: “Chúng tôi đã viết sách, viết báo hàng chục năm nay công khai biện hộ cho lập trường này, nào có giấu giếm ai?”. Cách phản biện này cũng không hoàn toàn đúng. Thực sự, câu hỏi là: Chính quyền Bush có sòng phẳng với dân chúng về mục tiêu chiến tranh Iraq không? Nếu muốn xâm chiếm Iraq vì dầu hoả, hoặc vì quyền lợi Israel thì cứ công khai cho mọi người biết. Cái giấu giếm phản dân chủ là cứ nói đánh Iraq bởi lẽ (a) Iraq có vũ khí giết người hàng loạt, (b) Hussein thông đồng hay ủng hộ khủng bố (cụ thể là Al Qaeda), (c) muốn giải phóng Iraq đang sống dưới chế độ độc tài khắc nghiệt. Sở dĩ đa số người Mỹ ủng hộ chiến tranh là vì họ tin những sự lừa dối ấy.
Phe tân bảo thủ[48] cũng khẳng định rằng chính sách Mỹ phải là nhằm phục vụ quyền lợi nước Mỹ, phe phái nào ở Mỹ cũng nhất quyết như vậy, không chỉ có nhóm tân bảo thủ. Có thể trả lời là đồng ý, song cách Mỹ bảo vệ quyền lợi đó hiện nay là thiếu khôn ngoan, làm mất lòng tất cả những quốc gia từng là đồng minh thân thiết của Mỹ, và phung phí thiện cảm mà hầu hết mọi người trên thế giới đã dành cho Mỹ sau vụ 11 tháng 9.
Một biến thể của lí luận này là quan điểm cho rằng chính sách đế quốc, thái độ đơn phương hành động của Mỹ không chỉ bắt đầu với Bush nhưng đã có từ Clinton (nhất là nhiệm kỳ 2) hoặc trước hơn nữa. [49] Tương tự, không phải chỉ đến khi Bush lên cầm quyền thì chính phủ Mỹ mới nói dối với công chúng. Điều khác biệt là sự nói dối của Bush và nhóm tân bảo thủ được những người này xem như là một triết lí cần thiết của người lãnh đạo, như Leo Strauss đã dạy!
10. Thay lời kết
Trở lại câu hỏi cơ bản mà bài này đặt ra: Có chăng một nhóm tân bảo thủ với những mưu đồ mờ ám đang thực sự lèo lái chính sách ngoại giao của chính phủ Bush hiện nay? Câu trả lời khách quan cần trước hết vài điều tự cảnh giác.
Một là, khuynh hướng tưởng tượng ra một “âm mưu bí mật” (conspiracy) nào đó đàng sau những sự cố khó giải thích là điều thường có trong những người đa nghi, lắm lúc thái quá. Đối với nhiều người không ủng hộ Bush, sẵn cho là ông ta kém thông minh, hiểu biết, thì sự nghi ngờ có kẻ giựt dây Bush là dễ hiểu. Song, kết luận khách quan khoa học đòi hỏi bằng chứng rõ ràng, xác thực, không chỉ là những tưởng tượng chủ quan. Hai là, như Fukuyama nhận xét (xem bài trên Times of London), những người tân bảo thủ (như Wolfowitz) không phải là nông cạn, hoặc cưỡng từ đoạt lý vì lợi ích cá nhân.
Đánh giá ảnh hưởng phe tân bảo thủ còn nhiều khó khăn khác.
Một là, không phải mọi thành viên phe này đều đồng ý với nhau về mọi điểm. Lấy trường hợp Leo Strauss và Alexandre Kojève. Kojève, có phong thái lạc quan, nhiệt liệt ủng hộ các tổ chức quốc tế (như WTO), là thầy tinh thần của Francis Fukuyama (The End of History phần nào chỉ là phát triển lí thuyết của Kojève). Fukuyama lại chịu thêm ảnh hưởng của Leo Strauss (qua Allan Bloom) về giá trị tuyệt đối của văn minh cổ đại La Hi. Song Strauss và Kojève lại rất khác nhau (một người bi quan, một người lạc quan) và đã công khai bút chiến nhiều lần. Vậy thì nên xem ai là tiêu biểu cho triết lí tân bảo thủ?
Hai là, tư tưởng mỗi người cũng thiếu nhất quán. Lại lấy Leo Strauss làm ví dụ: Có lúc thì ông chỉ trích thời Khai Sáng, có lúc thì ông lại xem đó như một thuở hoàng kim. Gần đây hơn, Kagan và Kristol cũng thay đổi ý kiến từ bài này sang bài khác.
Và ba là, nhiều người trong phe tân bảo thủ ít viết sách hoặc bài đăng báo (Wolfowitz chẳng hạn) nên cũng khó đoán biết lí luận của họ ra sao.
Thế thì tại sao nhóm tân bảo thủ lại có ảnh hưởng đến thế trong chính phủ Bush? Đầu dây mối nhợ có thể chính là thingy Cheney. Cheney là một người có tài ma-nớp chính trị thượng thừa (xem Mann (2004)), và nhìn lại thì tất cả những người tân bảo thủ đều có liên hệ trực tiếp đến ông ta vào lúc này hoặc lúc khác. Chính Cheney đã tự đề cử mình ra ứng cử với Bush, và chính Cheney đã phụ trách việc bàn giao từ chính phủ Clinton sang chính phủ Bush. Được gần như toàn quyền bổ nhiệm thành viên cho chính phủ Bush, Cheney đã bổ nhiệm Wolfowitz và Perle, rồi sau đó là Feith, Wurmser, Libby, Bolton, v.v.
Một vấn đề liên hệ: đó là cuộc bầu cử năm 2000 đã cho nhiều bài học đáng tiếc về thể chế của Mỹ. Cụ thể, nó cho Bush và đảng Cộng hòa thấy rằng dù thua phiếu vẩn có thể “thắng cử” nếu biết gian lận, nếu có nhiều luật sư dám chơi xấu, nếu có các quan tòa (kể cả tối cao pháp viện) thuộc phe mình, và nhất là nếu có các phương tiện truyền thông trong tay.
Phe tân bảo thủ cũng may mắn là họ “phất” đúng vào lúc mà sức mạnh của Mỹ là vô địch (nhất là với thế hệ “vũ khí khôn”) và quân đội Mỹ toàn là tình nguyện, do đó đa số dân Mỹ ít thấy những phiêu lưu quân sự của Mỹ có ảnh hưởng đến cá nhân và gia đình họ như trong những chiến tranh trước. Lẽ dĩ nhiên là những cuộc phiêu lưu này sẽ có ảnh hưởng kinh tế không tốt, song chính quyền Bush nghĩ rằng họ có thể đổ lỗi này cho đảng đối lập.
Một nghịch lí trong thế giới quan tân bảo thủ là nó vừa “lý tưởng” lại vừa bi quan. Họ “lý tưởng” ở chỗ tin rằng viễn ảnh nhân loại có thể tốt hơn, sáng sủa hơn, cụ thể là trong một mô thức tự do dân chủ (Fukuyama). Do đó họ tin rằng Mỹ không nên ủng hộ những quốc gia độc tài. Họ có nhiều điểm chung với những người phe tả từng là bạn của họ: muốn tái tạo thế giới trong tinh thần Khai sáng, Dân chủ.
Thật vậy, nhiều người (như John Gray) chỉ trích phái tân bảo thủ về cái nhìn “cách mạng lạc quan” (revolutionary optimism) ấy, tin rằng dân chủ đều có thể có ở mọi nơi, thậm chí có thể xảy ra rất nhanh (như những người tân bảo thủ có ảo mộng về dân chủ ở Iraq)
Song, mặt khác, trái với “cựu bảo thủ” ở Mỹ, tân bảo thủ lại bi quan về bản tính con người. Đó là thế giới quan của những người tha huơng (diaspora), nạn nhân của những cuộc tàn sát diệt chủng (pogrom, Holocaust). Họ là những người “Spartan”. Hơn nữa, nếu không hẳn là kỳ thị chủng tộc, những người tân bảo thủ cũng có phần khinh rẻ những giống dân khác (nhất là Á Rập), cho rằng các nước này quá lạc hậu (ngay so với các nước kém phát triển khác, như ở châu Á chằng hạn) và Mỹ có thể đem văn minh đến các nước này và đồng thời bảo vệ an ninh cho Israel (xem Daniel Pipes, Martin Kramer và nhất là Bernard Lewis). Sẽ quá đơn giản nếu cho rằng họ chỉ vì quyền lợi Israel, bất chấp quyền lợi của Mỹ. Có thể là trong tiềm thức, đó là cái họ muốn, song đừng quyết đoán rằng đó là ý đồ của họ.
15 tháng 3 năm 2004
Trần Hữu Dũng
THAM KHẢO
Bacevich, Andrew J., 2003, American Empire: The Realities and Consequences of US Diplomacy, Cambridge. MA: Harvard University Press.
Boot, Max, 2001, “The Case for American Empire,” Weekly Standard
Boot, Max, 2002, The Savage Wars of Peace: Small Wars and the Rise of American Power, NY: Basic Books, 2002,
Boot, Max, 2003, “Washington needs a colonial office,” Financial Times, July 2.
Boot, Max, 2003, “Think Again: Neocons”, Foreign Policy, Jan-Feb.
Connelly, M., và Paul Kennedy, 1994, “Must It Be the Rest Against the West?,” Atlantic Monthly, December, pp. 61-84.
Drew, Elizabeth, 2003, “The Neocons in Power,” New York Review of Book, June 12.
Drezner, Donald, 2003, “Et Tu, Kristol?”, The New Republic, May 14
Drury, Shadia, 1988, The Political Ideas of Leo Strauss, NY: Macmillan
Drury, Shadia, 1999, Leo Strauss and the American Right
D'Souza, Dinesh, 2003, “ The Power of Virtue,” Washington Post July 4
Ferguson, Niall, Empire: The Rise and Demise of the British World Order and the Lessons for Global Power, NY: Basic Books
Fukuyama, F, The End of History?
Fukuyama, F., 2002, “Has History Started Again?,” Policy, Winter.
Heer, Jeet, 2003, “The Philosopher,” Boston Globe, March 11
Judis, John, 2003, “What Woodrow Wilson can teach today's imperialists,” The New Republic, May 31
Kagan, Robert, 2003, Of Paradise And Power, America and Europe In the New World Order, NY: Knopf.
Kennedy, Paul, 1988, The Rise and Fall of the Great Powers: Economic Change and Military Conflict, 1500-2000, NY: Random House
Kennedy, Paul, 1993, Preparing for The Twenty-First Century, NY: Random House
Kikutani, M., 2003, “How Books Have Shaped U.S. Policy,” New York Times April 5
Kristol, William, and Robert Kagan, 1996, “Toward a Neo-Reaganite Foreign Policy,” Foreign Affairs
Lal, Deepak, 2002, In Defense of Empires, Washington D.C.: American Enterprise Institute
Lenzner, Steven, và William Kristol, 2003, “What was Leo Strauss up to?”, tr 19-39, Public Interest, Fall
Mandelbaum, Michael, 2002, Peace, Democracy, and Free Markets in the Twenty-First Century, NY: Public Affairs
Mann, James, 2004, Rise of the Vulcans, NY: Viking
Marshall, Joshua M., 2003, “Practice to Deceive,” Washington Monthly, April
Prestowitz, Clyde, 2003, Rogue Nation: American Unilateralism and the Failure of Good Intentions, NY: Basic Books
Schell, Jonathan, 2003, The Unconquerable World: Power, Nonviolence, and the Will of the People, NY: Metropolitan
Urquhart, Brian, 2003, “World Order & Mr. Bush,” New York Review of Book¸ October 3
Swidey, Neil, 2003, “The Analyst,” Boston Globe¸May 18
-------------------------------------------------------------------------------- [1]Phiên bản đầu tiên của bài này đã được đọc tại Hội Thảo Mùa Hè, Munich 24-26 tháng 7, 2003. Tác giả xin cám ơn Vũ Quang Việt và Cao Huy Thuần đã góp nhiều ý kiến hữu ích trong lần hiệu đính này. Mọi lỗi lầm, sơ sót còn lại hoàn toàn là trách nhiệm người viết.
[2] Department of Economics, Wright State University, Dayton, OH 45435, USA.
[3]Có người cho rằng Bush được chức tổng thống chỉ vì hơn chỉ một phiếu ở Tối cao Pháp viện Mỹ.
[4]Trường hợp ngoại lệ là Cheney, Rumsfeld, và chính Bush. Song những người này không là tân bảo thủ thật sự, như sẽ nói dưới đây.
[5]Thương nghị sĩ Henry Jackson, đảng Dân chủ Mỹ, là người cực lực chống lại chính sách hoà giản với Liên Xô. Cha của ông là một thành viên đắc lực của phong trào công đoàn, và ông là phái tả chống cộng từ giai cấp công nhân (working-class left). Ông chủ trương Mỹ phải luôn luôn đi trước trong cuộc chạy đua vũ khí với Liên Xô, ủng hộ chiến tranh Việt Nam, và làm áp lực Liên Xô cho dân Nga gốc Do Thái được di cư.
[6]Sự ủng hộ này tương đối còn “ôn hoà” trước năm 1993, nhưng sau thỏa hiệp Oslo vào năm ấy thì sự ủng hộ này nghiêng hẳn về phe cực hữu Likud -- từ chính phủ Benjamin Netanyahu đến Ariel Sharon ngày nay.
[7]Thật ra, phát giác này không là mới. Năm 1987 (khi Reagan còn làm tổng thồng) tuần báo Newsweek đã có bài “The cult of Leo Strauss”.
[8]Harrington là tác giả quyển The Other America (mô tả sống động tình trạng nghèo khỗ ở vùng Appalachia ở Mỹ) rất có ảnh hưởng đối với chính sách “xoá đói giảm nghèo” của chính quyền Kennedy.
[9] Ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng hòa năm 1964, thua đậm Lyndon Johnson.
[10]Quen thân với Alexandre Kojève lúc này. Kojève là triết gia có ảnh hưởng trực tiếp đến Francis Fukuyama, như sẽ nói sau đây.
[11]“Cộng hoà Weimar” là tên gọi các chính phủ dân chủ ở Đức trong khoảng thời gian giữa khi vua Kaiser Wilhem II thoái vị và Hitler lên cầm quyền năm 1933. Chính phủ Weimar không được nhiều ủng hộ của dân chúng vì họ chấp nhận những điều khoản ngặt nghèo mà Thỏa ước Versailles đã áp đặt lên nước Đúc (những bồi thường nặng nề mà Đức phải trả, gây nên xáo trộn kinh tế và sự mất giá của đồng Đức Mã). Song thời kỳ này cũng đánh dấu tự do chính trị và sáng tạo trong lãnh vực văn hoá. Những điều này chấm dứt khi Hitler lên cầm quyền.
[12]Âm hưởng của chủ thuyết này là rõ rệt nhất ở Victor David Hanson, guru của thingy Cheney, sau này. Song Hanson cũng có ý khinh miệt những người tân bảo thủ tháp ngà như Leo Strauss và đồ đệ.
[13]“You are either with us or against us!”
[14]Như David Frum hoặc Mark Steyn, là dân Canada.
[15]Nên để ý Wohlstetter đề nghị đem máy bay thả bom của Mỹ ra xa chiến trường, che giấu vững chắc, kĩ lưỡng, để có thể trả đũa (chủ thuyết này sẽ được Wolfowitz áp dụng gần đây ở bán đảo Triều Tiên)
[16]Tập họp của nhiều chính khách Iraq lưu vong, thường gọc tắt là INC.
[17]Đặc biệt là vợ ông, Roberta Wolfstetter, cũng là một sử gia quân sự có tiếng, tác giả “Pearl Harbor: Warning and Decision,” một nghiên cứu về sự thất bại của tình báo.
[18]Wolfowitz không học trực tiếp với Strauss, chỉ biết Strauss qua Allan Bloom.
[19]Wolfowitz và Shulsky cùng viết luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của Wohlstetter, và cùng ra trường năm 1972.
[20]Gary Schmitt là giám đốc điều hành của The New American Century, một nhóm chuyên gia ngoại giao nhiều ảnh hưởng, do William Kristol sáng lập.
[21]Trong bài này, hai ông cho rằng nhân cách Leo Strauss có nhiều nét giống George Smiley trong các truyện gián điệp của John le Carré!
[22]Defense Intelligence Agency: Bộ phận tình báo của Bộ Quốc Phòng Mỹ.
[23]Irving Kristol là cha của William Kristol, xem Đoạn 6 dưới đây
[24]“A Clean Break: A New Strategy for Securing the Realm”
[25]Cố vấn An ninh Quốc gia dưới thời Bush cha, thường được xem là phe Kissinger.
[26]Ngoại trưởng thời Bush cha. Sau khi Clinton lên, Shultz trở ra khu vực tư, làm một thành viên hội đồng quản trị của đại công ty Bechtel.
[27]Thượng nghị sĩ cực hữu, bang North Carolina, từ 1972 đến 2002.
[28]Tưởng cũng nên nói thêm là ba người dính líu đến vụ chính quyền Bush làm áp lực CIA (vụ uranium, v..v..) là Stephen Hadley (người của Cheney, phụ tá cho Rice), Scooty Libby (chánh văn phòng của Cheney), và John Bolton.
[29]Feith hiện giữ chức vụ mà Wolfowitz đã giữ trong thời Bush cha
[30]“Tyranny's Ally: America's Failure to Defeat Saddam Hussein”
[31]Vì Kristol ủng hộ McCain chống Bush, ông ta than phiền là không được “welcome” ở Nhà Trắng.
[32] Vợ của Kagan là Victoria Nuland, hiện là đại diện cho thingy Cheney trong Hội đồng An ninh Quốc gia của Mỹ
[33]“Toward Neo-Reaganite Foreign Policy”
[34] Trong một cuộc phỏng vấn (xem bài của Emily Eakins trong New York Times), Kagan nói: “It's very American for us to try to replicate our systems to the best of our ability," và "We didn't go to war against Japan with the intention of building a democracy there, but we couldn't imagine not building a democracy once we went in.”
[35]Gần đây, Fareed Zakaria (người Mỹ gốc Ấn Độ) cũng đã gián tiếp biện hộ cho lập trường này. Zakaria cho rằng dân chủ là không quan trọng bằng một hệ thống luật pháp bảo đảm quyển lợi của con nguời. Như vậy thì, tuy không nói ra, Zakaria cho rằng hệ thống luật pháp này có thể được áp đặt trái nguyện vọng của đa số. Tiếp tục suy diễn lí luận của ông ta: luật pháp là cần hơn dân chủ, thì làm thuộc địa có khi còn tốt hơn độc lập. Lẽ dĩ nhiên Zakaria chối là không (như D’Souza) có ý biện hộ cho chế độ thuộc địa, nhưng trong mắt người đọc, không thể có cái cảm tưởng rằng theo ông ta, loại “thực dân tốt” (như Anh đối với Ấn Độ) có khi đáng có hơn là “dân chủ xấu”. Phản ứng của phe tân bảo thủ (cụ thể là Robert Kagan và Joshua Muravchik) đối với Fareed Zakaria cũng là đáng để ý. Chẳng những không đồng ý với Zakaria, Kagan còn cho rằng Zakaria “phản dân chủ”. Song có lẽ lí do chính khiến Kagan không thích Zakaria là vì Zakaria chỉ trích dân chủ kiểu Mỹ và tán tụng EU. Một điều nữa là, nếu theo luận điệu của Zakaria thì Mỹ không còn lí do gì để gieo” dân chủ” đến các nuớc khác: chế độ “không dân chủ” ở các nuớc khác lắm lúc lại tốt hơn! Tuy nhiên, David Frum lại hoàn toàn tán đồng Zakaria trong National Review (June 1, 2003)
[36] “Paradise and Power” đã được so sánh với Fukuyama (1989), Samuel Huntington (1993), và George Kennan (1947).
[37]“The Savage Wars of Peace: Small Wars and the Rise of American Power”
[38]Cohen cho là Rumsfeld có những đức tính này, song Bush cha không hội đủ (và đã không chiến thắng hoàn toàn chiến tranh thứ nhất ở vùng Vịnh).
[39]“Sự Đóng kín của Đầu óc Mỹ”
[40]Trong Ravelstein, Saul Bellow mô tả cảnh hai nhân vật (phỏng theo) Wolfowitz and Bloom đối thoại về Desert Storm như sau: "And it was essential to fit up-to-the-minute decisions in the gulf war — made by obviously limited pols like Bush and Baker" ... "into a true-as-possible picture of the forces at work — into the political history of this civilization.”
[41] Tạm dịch là “tính ưu tú”, theo đó giáo dục (nhất là giáo dục cao đẳng) không phải dành cho mọi người mà chỉ cho thành phần ưu tú trong xã hội.
[42]Vợ của thingy Cheney và cũng là một trí thức nổi tiếng, làm chủ tịch National Endowment for the Humanities thời Reagan.
[43]“Enfant terrible”, tiếng người Pháp hay dùng.
[44]Một điều thú vị là một số người năng nổ nhất trong vấn đề này lại là những người mới nhập cư, như D’Souza, Zakaria. Quả là “bảo hoàng hơn vua!”
[45]Nổi bật nhóm tạp chí Tikkun của mục sư Michael Warner
[46]Cũng có thể nói thêm là một số thành viên quan trọng của phe tân bảo thủ không là Do Thái (William Bennett, Victor Davis Hanson, John Bolton).
[47]Xem, chẳng hạn, Joshua Micah Marshall (2003)
[48]Đặc biệt là Ramesh Ponnuru (cũng là một người Mỹ gốc Ấn), cộng tác viên của tuần báo National Review.
[49]Xem Andrew Bacevich (2003)
© 2004 Thời Đại Mới tapchithoidai.org
► Trở lại Mục Lục Thời Đại Mới
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 13, 2008 5:43:16 GMT 9
LÀM CÁCH GÌ ĐỂ BẢO VỆ TÍNH MẠNG TỔNG THỐNG MỸ?
Tâm sự của đoàn cận vệ cảm tử đem mạng sống của mình che chở cho nhà lãnh đạo Hoa Kỳ
30 triệu đô la để giữ an ninh cho một ứng cử viên tổng thống
Hà Ngọc
Câu chuyện dưới đây diễn ra ở Mỹ quốc nhưng cũng là một hoàn cảnh chung của một số quốc gia dân chủ tây phương. Nước càng tự do, nhà lãnh đạo càng phải đương đầu với nhiều bất trắc lớn lao không cứ về mặt chính trị mà riêng về bản thân cũng thường xuyên bị đặt trong tình trạng bất ổn. Nhà nguyên thủ luôn phải xê dịch, xuất hiện trước quần chúng, tiếp xúc và nói chuyện. Cứ mỗi lần như vậy, giữa rừng người tập trung hai bên đường hân hoan chào đón thì lại có biết bao âm mưu đen tối rình rập tìm cách sát hại ông. Vào thời khắc ấy, bộ máy an ninh báo động toàn diện, và đối với những nhân viên có trách nhiệm bảo vệ thì khỏi nói, thần kinh của họ bị căng thẳng hơn lúc nào hết.
Năm 2000 vừa qua là mùa tranh cử tổng thống Hoa Kỳ. Vì thế, ngoài việc bảo vệ đương kim tổng thống, cơ quan an ninh Mỹ còn phải là “cặp mắt thần” bàm sát che chở mạng sống của hai ứng cử viên thuộc về hai đảng Dân Chủ – Cộng Hòa trong cuộc chạy đua vào Tòa Bạch Ốc. Và đây cũng là lần đầu tiên người dân Mỹ Quốc và thế giới bên ngoài được nghe biết tường tận về mạng lưới bảo vệ “một tổng thống” gay cấn đến nhường nào qua những lời tiết lộ của Dennis Mc Carthy. Ông là người đóng vai trò chủ chốt trong liền 28 năm, ngày đêm giữ gìn an ninh cho 5 vị tổng thống tiền nhiệm mà mạng sống đứng vào hàng bậc nhất hoàn cầu, luôn như sợi chỉ mành treo chuông. Dennis Mc Carthy cùng với những cộng sự viên thân tín của ông đã tuyên thệ hy sinh đời mình để lo cho sinh mệnh Tổng Thống Mỹ trong bất kỳ trường hợp hiểm nghèo nào xẩy ra. Họ đã khổ công tập dượt, ứng phó trước mọi tình huống, nhất là khi đi bên cạnh tổng thống. Họ luôn luôn là những bình phong vô hình hoặc có lúc lại là những chiếc mộc sẵn sàng hứng đạn thay cho tổng thống. Nhưng vẫn chưa một ai trong bọn họ tìm được sự yên tâm cho dù kỹ thuật đề phòng tinh vi đến đâu, vì súng đạn vốn ... vô tình. Và lằn đạn đi, đâu có báo trước từ một hướng nào. Trong rừng người, ở một mái nhà cao vót, tại một góc đường êm ả ... chỗ nào chẳng là cứ điểm phát xuất tiếng nổ chết người, sát hại tổng thống. Bố trí, bảo vệ tuyệt hảo đến đâu vẫn không thể tự liệu được hết, trước những bất ngờ của hoàn cảnh thực tế. Cho nên, sứ mạng bảo đảm an toàn tuyệt đối mạng sống của nhân vật quyền lực bậc nhất thế giới tây phương là một ám ảnh ray rứt 24 trên 24 tiếng trong ngày đối với hệ thống an ninh Mỹ quốc ngày nay.
Dennis Mc Carthy thổ lộ: Lúc ban mai, khi vừa mở mắt đón những tia sáng bình minh, câu hỏi hãi hùng chứa chất đầu tiên đã hiện đến trong tôi là làm thế nào ngăn chận cho kỳ được một kẻ sát nhân (như lee Harvey Oswald, kẻ bắn cố TT Kenedy). Mối đe dọa ghê gớm kia đeo đuổi chúng tôi đến tận cùng buổi chiều tà nhường chỗ cho màn đêm bao phủ. Tóc xanh của bọn người chúng tôi sớm ngả mầu muối tiêu cũng là điều dễ hiểu. Hoa Kỳ há đã chẳng có một quá khứ lập quốc nặng nề sao, bắt nguồn từ cuộc “chinh phục miền Tây” với những năm tháng dài triền miên chìm đắm trong bạo lực, trong súng nổ máu rơi. Lịch sử này, cảnh tượng này làm gì có ở Âu Châu đâu? Chẳng những thế, vì nhiều nguyên nhân xã hội phức tạp, trên đất Mỹ có khá đông những con bệnh thần kinh (đâu chỉ có những âm mưu của phía địch bên ngoài). Họ trút tất cả trách nhiệm vào ông tổng thống. Không công ăn việc làm, gia đình gãy đổ, rồi ngay đến bệnh tật đau đầu nhức óc ...cũng tại tổng thống hết. Có nhiều trường hợp, họ kéo nhau trước Tòa Bạch Cung đòi gặp tổng thống chỉ vì những lý do không đâu vào đâu. Thật tình, hiện tuợng này ít thấy có ở một quốc gia nào khác ngoài Hoa Kỳ.
Cái khối người hành động vì những động cơ cá nhân này, có chừng 40.000 tản mác trên khắp các tiểu bang. Cơ quan an ninh Liên Bang đều nắm rõ lý lịch và địa chỉ của chúng. Trong số, phân loại, có rất nhiều kẻ “cuồng loạn”, “mê sảng”. Ngoài đường phố qua lại, chúng có vẻ bình thường, cho tới một giây phút bất chợt nào đấy, chúng nhìn thẳng vào... “mục tiêu” và nổ súng. Đến lúc đó thì không ai kịp đề phòng nữa. Giữa đám nguy hiểm này – bọn được nhận diện là “cực kỳ nguy hiểm” tình nghi sát hại tổng thống, có khoảng 200 tên. Cứ mỗi dịp tổng thống rời Tòa Bạch Cung đến thăm một nơi nào thì bộ máy an ninh mất ăn mất ngủ. Nhiều phương pháp đối phó được đem áp dụng, bao vây chúng. Chỉ cần có một hai kẻ di chuyển ra khỏi thành phố chúng cư ngụ là đạo quân an ninh bám sát ngay, thông báo cho nhau sát nút. Nhưng đứng trên tất cả vẫn là thiểu số “công dân” không thuộc vào các thành phần trên. Những phần tử này, ngoại hạng. Họ “hiền hòa” như bao triệu người khác, chưa hề gây sự lưu ý nào cho guồng máy an ninh, như Lee Oswald, thủ phạm giết TT Kenedy hoặc như John Hinckley, kẻ bắn TT Reagan vào năm 1981. Với các chuyên viên thượng thặng bảo vệ tổng thống thì đây là một ám ảnh khủng khiếp nhất- người ta mệnh danh hung thủ không khác nào những “trái bom nổ chậm”.
Để dẫn chứng, nhà chuyên viên từng “sống chết” với TT Reagan, ông Dennis Mc Carthy thuật lại câu chuyện nhiều năm về trước: “Hôm ấy, ngày 30/3/81 vừa kết thúc bài diễn văn trước một cử tọa đông đảo tại sảnh đường Hilton Hoa Thịnh Đốn, TT Reagan cáo biệt ra về Tòa Bạch Ốc. Tôi bước ra trước, đảo mắt nhìn quanh khắp lượt. Hoàn toàn không có gì khả nghi. Chỉ là một quang cảnh khá quen thuộc. Dân chúng tập trung vẫy tay hoan hô, chào mừng tổng thống. Nét vui tươi hiện rõ trên khuôn mặt từng người. Khi tổng thống chỉ còn cách chiếc xe hơi lộng lẫy bọc thép chống đạn độ 5m, bỗng tai tôi nghe như có một tiếng pháo nổ, tiếng nổ từ trái bong bóng của trẻ em thường thả bay lơ lửng thì đúng hơn. Rồi một tiếng thứ hai kế theo liền. Đúng là tiếng súng rồi! Và cùng lúc tôi nhìn thấy nòng súng đưa lên, phản ứng bén nhậy lẹ như tia chớp, tôi lao mình tới phía hung thủ. Mọi sự chỉ diễn ra trong một giây rưỡi đồng hồ nhưng đủ để cho kẻ sát nhân bắn ra 6 viên đạn. Tôi quật ngã y trong khoảnh khắc. Thời gian ấy, TT Reagan còn có thêm cố vấn Bạch Cung James Brady và một nhân viên bảo vệ bị trúng đạn. Quả thật cái điều chúng tôi nơm nớp lo ngại đã đến. Cả đời tôi tập dượt, chuẩn bị ứng phó hàng trăm lần trước những tình huống gay cấn như trên, thường được anh em chúng tôi mệnh danh tắt là “A.O.P” (Attack on the President). Tuy nhiên, tập gì thì tập, khi “tổng thống bị hung thủ ra tay ám hại”, tất cả chúng tôi hoàn toàn hành động theo phản ứng mà phản ứng thích nghi duy nhất là đem thân mình ra đỡ đạn. Chúng tôi triệt để chấp nhận điều này không hề bao giờ thắc mắc.”
Khi được hỏi về nguyên nhân thành lập cơ cấu bảo vệ tổng thống sao lại trao vào tay cơ quan Mật Vụ, và sứ mạng ấy có những siêu bí mật nào, Dennis Mc Carthu giải đáp: “Nếu có điều bí mật như dư luận muốn biết, chẳng qua chỉ bởi từ cái danh xưng của tổ chức ấy mà thôi. Khởi thủy, thật là một sự trớ trêu, vào năm 1865, cố TT Abraham Lincoln cho lệnh thành lập cơ quan Mật Vụ, và chỉ được ít ngày sau, lại chính TT bị ám sát! Đầu tiên, TT Lincoln muốn tạo ra nó để truy lùng và tiêu diệt bọn tứ chiếng giang hồ hoành hành ở miền Tây Hoa Kỳ. Thành tích bất hảo ở chúng là chuyên “làm bạc giả”. Chính phủ Liên Bang cần “cài” người của mình vào trong tổ chức của bọn vô chính phủ này. Nhưng phải đợi đến năm 1902, sau vụ ám sát thứ hai xẩy đến cho TT Mc Kinley, quốc hội mới bỏ phiếu chấp thuận đạo luật cho cơ quan Mật Vụ có sứ mạng bảo vệ trực tiếp TT Hoa Kỳ. Và, sở dĩ chọn như vậy cũng là vì ngẫu nhiên thôi, bởi vì cơ quan này ở kế cận Bạch Cung. Mỗi khi có chuyện cần, điều động nhân viên cũng thuận tiện hơn.
Trong thực tế, không phải vị TT nào cũng “muốn được bảo vệ”. Có vị khó chịu ra mặt. Nhưng luật là luật. Tỉ dụ,với TT Jimmy Carter. Ông không có vấn đề gì gay go đặt ra trong suốt nhiệm kỳ . Ông không có “kẻ thù”. Vì thế, ông bực bội khi thấy đoàn an ninh bao quanh. Có lúc, trong bọn chúng tôi đã phải nhã nhặn thốt ra: “Thưa tổng thống, chính Quốc Hội đã gửi chúng tôi đến đây. Chúng tôi phải làm tròn bổn phận...” Vai trò của sở Mật Vụ chỉ thực sự bước vào giai đoạn chủ yếu sau ngày cố TT Kenedy bị ám sát ở Dallas. Tình thế ngày lại sôi bỏng hơn. Trong hai thập niên gần đây đã càng rõ ràng thêm, qua các vụ sát hại TNS Robert Kenedy, lãnh tụ da đen Martin Lurther King và những tiếng súng mưu sát nhằm cào thống đốc Wallace, TNS Edward Kenedy. Ngày nay các vị tổng thống kế tục nhau đều đã chịu sử dụng xe bọc thép chống khủng bố mỗi lần xê dịch, và mặc áo lót chống đạn. Chúng tôi vẫn nhớ như in cơn nóng giận của cố TT Lyndon Johnson: Ngày 6.6.1968 sau vụ ứng cử viên Đảng DÂN CHỦ Robert Kenedy (đã có tất cả hy vọng được đề cử ra tranh ghế tổng thống) bị bắn gục, thì vào nửa đêm TT Johnson cho triệu giám đốc sở Mật Vụ Liên Bang đến Bạch Cung gay gắt hạ lệnh: “Các ông chỉ có từ giờ đến sáng mai để chuẩn bị. Tôi muốn các ứng cử viên phải được triệt để bảo vệ. Không thể có chuyện đáng tiếc nào xẩy đến nữa.”
Tính ra, đầu năm 1964, bộ phận an ninh tổng thống có 350 nhân viên. Nay con số lên tới 2000 và còn hơn nữa, trên toàn quốc. Ngân sách dùng vào việc là 850 triệu đô la mỗi năm. Trong mùa tranh cử 1988 trở đi, riêng về mục bảo vệ ứng cử viên TT không dưới 30 triệu Mỹ kim.
Thời TT Reagan, hàng ngày, mạng lưới an ninh bảo vệ tùy theo thời khóa biểu hoạt động của TT mà tăng giảm con số nhân viên đặc trách. Bình thường là 20. Cao hơn là 200 người. Khi TT đứng trước đám đông quần chúng, tầm mắt của chúng tôi luôn chú ý đến bọn người “tay đặt trong túi áo, túi quần” Chỉ khi nào họ đưa hai tay ra ánh sáng như mọi người khác, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm. Riêng về chúng tôi thì đôi tay của chúng tôi không bao giờ được vướng mắc vào vật gì cả. Nghiêm lệnh, là không được phụ giúp “Đệ Nhất Phu Nhân” ôm bó hoa hoặc giương cây dù che cho TT. Nếu trời đổ mưa, TT cứ phải chịu đội mưa, chịu ướt mà rời xe bước vào thềm nhà hay ngược lại. Mỗi lần xuất ngoại là cả một vấn đề âu lo đặt ra cho chúng tôi, dù trước đó chúng tôi đã liên hệ mật thiết với cơ quan an ninh của quốc gia đón tiếp, trao đổi kế hoạch. Nhưng có biết bao phức tạp kể không xiết. Xin đưa một hình ảnh cho dễ hiểu: Ngày TT Reagan sang thăm nước Áo, bộ máy bảo vệ tại địa phương có khoảng 2000 đặc vụ. Đoàn chúng tôi đi theo 200 người. Các nhân viên chìm của họ không đeo một sắc hiệu nào. Khi máy bay TT Reagan vừa hạ cánh, cả rừng an ninh ùa ra làm nhiệm vụ của họ. Thật là may, chứ nếu có ai trong bọn họ, vì một lý do nào đấy, đưa tay vào bọc rút súng ra ngoài thì chắc chắn anh em chúng tôi phải hạ sát ngay. Làm sao còn có thời giờ để phân biệt nữa. Theo kinh nghiệm riêng, tôi thấy rằng dễ phối hợp với cơ quan Mật Vụ Nga và Trung Cộng trong việc bảo vệ TT Mỹ khi đặt chân lên vùng đất của họ, vì họ có nhiều biện pháp nghiêm ngặt đối với quần chúng nước họ. Nhưng nói thế thôi, chỉ trừ phi máy bay TT đáp xuống phi trường Hoa Thịnh Đốn, và xe đưa về tận khuôn viên Bạch Cung rồi, lúc đó chúng tôi mới trút được cơn ác mộng.
Trách nhiệm của chúng tôi nặng nề và những ngày sống của chúng tôi luôn căng thẳng. Trường hợp thê thảm xẩy đến cho cố TT Kenedy ngày xưa còn đeo đẳng một số anh em chúng tôi đến mãi ngày nay. Hôm tai họa ào tới, tất cả bọn họ cảm thấy mình đều là kẻ có tội. Mặc dầu, trước đó, họ đã khẩn khoản đề nghị với TT Kenedy dùng mui xe bằng kính chắn đạn. Nhưng TT quyết liệt từ chối: “Tôi không muốn bị ngăn cách với dân chúng”, ông nói thế. Người ta đành xin được đứng sau chỗ ngồi của TT, ông khó chịu, trả lời: “ Tôi không muốn thấy một ai khác hơn trong xe của tôi!” Tất cả ngao ngán đành chịu, cho đến khi những phát súng oan nghiệt dội lên.
Chúng tôi làm hết sức mình để phục vụ mạng sống của vị TT Hoa Kỳ. Nhưng lại có những nguyên tắc “danh dự” đặt ra cho chúng tôi phải tự bảo vệ nhân phẩm của chúng tôi đến cùng. Tỉ dụ, một hôm TT Johnson muốn chúng tôi dắt con chó quý của ông ra vườn chơi. Đáng tiếc, không một ai trong chung tôi có thể làm việc này dầu biết rằng ông phật ý lắm. Thế rồi, với cái ông ngoại trưởng Kissinger kia cũng vậy. Nhiều lần ra vào toà Bạch Cung, vì vô tình hay cố ý chẳng biết, ông ta cứ quên cái cặp hồ sơ trên xe, và như muốn nhờ chúng tôi ‘xách dùm” cho ông. Lần nào cũng vậy, chúng tôi tế nhị từ khước: “Xin lỗi giáo sư Kissinger, ông còn bỏ quên chiếc cặp trên xe đấy.”
Chúng tôi rất gần gũi với vị TT và gia quyến ông. Nhưng vẫn có một khoảng cách, vào những lúc như đã nêu trên. Còn gì thân hơn, ngay vào giờ khắc mở quà Giáng Sinh, chúng tôi đâu có vắng mặt được? Chúng tôi biết rõ cá tính của từng vị. Chúng tôi duy nhất là những người chứng kiến TT Hoa Kỳ mặc “pyjama” kia mà. Vậy còn có gì xa lạ? Nhưng những điều chúng tôi nghe, thấy đều không dễ nhập vào chúng tôi! Chúng tôi trung thành với lời hứa là không bao giờ tiết lộ sự “riêng tư” thuộc về các vị ấy cả. các vị ấy đã tin cậy, tín nhiệm nơi chúng tôi. Chúng tôi không thể “bội ước”, vi phạm.
Về cá tính, tôi có thể nói thêm ít nhiều về TT Johnson. Ông nóng nẩy, thiếu tế nhị, thường quên đi, coi chúng tôi như những “gia nhân”. Vậy thì vào những lúc ấy, tôi cứ phải nhìn thẳng vào đôi mắt ông lạnh lùng mà nghiêm chỉnh, như để nhắc nhở ông phải rút lại lời nói, cách đối xử, nhất là không thể tiếp tục la lối.
Thỉnh thoảng tôi cũng có dịp chứng kiến một đôi nét buồn bã lộ ra nơi vị TT – tôi muốn nhắc đến trường hợp TT Nixon. Dạo ấy, vụ tai tiếng “Watergate” đang ầm lên. TT Nixon bước vào căn phòng bầu dục Tòa Bạch Ốc để ngỏ lời trước công luận , trên đài truyền hình. Lúc kết thúc, TT tiến đến bắt tay chào hỏi các chuyên viên kỹ thuật và ban phụ trách. Ông cũng lại trao đổi với họ đôi lời hài hước vui vẻ. Nhưng khi TT và tôi rời khỏi phòng ấy, bước vào dãy hành lang có nhiều cột đá lúc trời đã sẫm tối, bỗng nhiên ông dừng lại, dáng cách uể oải buồn chán. Không cần biết có tôi ở bên, TT Nixon tựa đầu vào cây cột, ũ rũ, mắt đẫm lệ. Đây là lần đầu, tôi được thấy tận mắt ông đau khổ đến thế. Tôi hết sức muốn lại gần ông, nói với ông rằng tôi cảm thông nỗi buồn của ông vô cùng. Nhưng lý trí lại không cho phép tôi làm thế. Bổn phận của tôi là phải cảnh giác từng giây, bảo vệ sinh mạng của ông. Tuy nhiên tôi vẫn nhòm chừng, chờ ông lấy lại sự bình tĩnh. Và giữa hai chúng tôi, không một ai thốt ra lời nào. Trong tôi, cho đến mãi về sau này, tôi phải nhìn nhận là tôi rất cảm mến TT Nixon.
Sứ mạng của chúng tôi đòi hỏi sự bén nhậy đến tối đa. Khi vị tổng thống cần đến, chỉ trong khoảnh khắc 2 giây đồng hồ là chúng tôi đã có mặt ở bên cạnh rồi. Anh em chúng tôi vẫn thường đùa, thường mệnh danh “khoảng cách” kia là “ một nhịp đập của trái tim”. Không được để chậm hơn.
Tại Tòa Bạch Ốc, những phòng riêng của TT và gia đình đều ở từng lầu trên. Tôn trọng khung cảnh ấm cúng riêng tư, chúng tôi không bước lên lầu, chỉ canh phòng ngay chân cầu thang và các lối đi về phía thang máy. Ngoại trừ, dưới thời TT Johnson, ông luôn có cảm nghĩ sợ sệt là bị chết bất thình lình vào đêm khuya, do đó, đã yêu cầu chúng tôi đứng gác ngay trước cửa phòng ông ngủ. Thông thường, việc canh phòng như thế này chỉ xẩy đến vào lúc TT Hoa Kỳ công du ở ngoại quôc mà thôi. Tôi còn nhớ một trường hợp khá buồn cười mà cũng thật “lên ruột”. Dạo ấy, TT Nixon đi viếng thăm chính thức các nước Âu Châu trong 13 ngày. Đến thủ đô Hung-Gia-Lợi là chặng chót, ông cảm thấy mệt mỏi nhiều. TT nghỉ đêm tại Sứ Quán Mỹ. Lúc đó vào 1 giờ sáng. TT Nixon liên lạc điện đàm với cố vấn Bạch Cung ở Hoa Thịnh Đốn. Bỗng nhiên câu chuyện chấm dứt. Thế nhưng, thật lâu sau phút ấy, điện thoại viên Bạch Cung cảm nhận được điều khác lạ, bất thường, vì tuy đường dây vẫn “bận”, chưa cúp, mà tiếng nói thì hoàn toàn vắng bặt. Nhân viên phụ trách điện thoại bèn vội báo cho cơ quan Mật Vụ. Nhiều giả thuyết được đặt ra như lằn chớp: TT bị ám sát chăng? Hay, bị chứng tim bất thình lình? Tôi có trách nhiệm bảo vệ kề cận TT, bèn “bay” lên lầu ngay. Sau phút quan sát hệ thống truyền hình kiểm soát toàn bộ quanh tòa nhà, không thấy gì khả nghi, tôi mở nhẹ cửa phòng. Đèn ngủ đầu giường vẫn bật sáng. TT Nixon đang an giấc ngon lành nhưng ống giây nói thì ...gác nơi vai ông. Thì ra lý do là vậy! Không muốn phá giấc ngủ ở ông, tôi nhẹ nhàng cúi xuống nhấc ống nói ra, TT Nixon giật mình choàng vậy, hoảng hốt, có lẽ lầm nghĩ là đang đối diện với hung thủ định xiết cổ ông. Chỉ một giây thôi, ông nhận ra tôi, ngỏ lời cám ơn.
Tưởng nên hiểu thêm vị TT Hoa Kỳ nào cũng ý thức được rằng sinh mạng mình như sợi chỉ mành. Vậy thì, giữa đêm khuya khoắt ở ngay vùng cộng sản mà có một bàn tay bí mật đang lần lần xiết vào cuống họng của mình thì sao nhỉ? ...
Mọi chuyện thuật trên đây dầu đã trôi qua nhưng những việc liên quan đến vấn đề bảo vệ vị nguyên thủ Mỹ quốc cùng các ứng cừ viên TT thì lúc nào cũng có chung một đáp số luôn luôn bất ngờ, căng thẳng. Tôi nhớ lại mùa tranh cử 1988 đã đặt cơ quan Mật Vụ trước một trọng trách nặng nề, phức tạp. Có thể nói rằng bộ máy ấy với 2000 nhân viên bị báo đông thường trực. Các ứng cử viênTT như Bush, Dukakisvà Jessie Jackson gặp nhiều sự đe dọa ghê gớm. Một vài âm mưu hạ sát Jackson được khám phá kịp thời, bị tiêu diệt từ trong trứng nước. May mắn hơn cả là đã phá vỡ kế hoạch của một cặp hung thủ “da trắng” quá khích có nhiệm vụ ám sát Jackson vào ngày 4/7/1988, chỉ cách vài hôm trước khi đại hội Đảng Dân Chủ chọn ứng cử viênđại diện chạy đua vào Tòa Bạch Ốc diễn ra.
Người ta thường thắc mắc tại sao những nhân viên an ninh nước Mỹ cứ hay choàng chiếc áo khoác dài màu xám tro muôn thuở kia, cùng với cặp mắt kính màu đen sậm che kín mắt. Chuyên viên mật vụ Dennis Mc Carthy không ngần ngại nói rõ ra một lần: “Chúng tôi không chủ trương dấu mặt. Chúng tôi không muốn rằng những kẻ chủ mưu cứ phải nhận ra chúng tôi tại “hiện trường”. Yếu tố tâm lý ấycó một ảnh hưởng sâu sắc. Khi nghĩ rằng chúng tôi đang nhìn y, hung thủ phải bận tâm đối phó – và dẽ bị để lộ ra những cử chỉ sơ hở. Còn về cặp gọng kính thì để bảo vệ đôi mắt của chúng tôi một khi thủ phạm hắt sơn hay định tạt ác-xít. Ngoài ra, cũng còn để cho hung thủ không thể biết chúng tôi đang nhìn y hay nhìn ai khác- trà trộn trong đám người ngay, kẻ gian sẽ mất đi phần nào sự bình tĩnh cần thiết.
Và, như muốn giãi bầy tâm sự của một người lấy nghề nghiệp làm lẽ sống, Dennis Mc Carthy say sưa nói: ngày đầu tiên tôi bước vào phục vụ ở Bạch Cung là dưới thời TT Johnson. Tôi vượt qua hàng rào cản với khẩu súng lên đạn sẵn nằm chình ình, trong túi áo tôi, tôi cảm nhận được lòng mình phơi phới: Không còn gì “bảnh” hơn thế! Tôi nhìn Tổng Thống không biết mỏi mắt. TT Johnson đang gằn giọng trước một nhà lãnh đạo Phi Châu. Từng lời lại từng lời của Tổng Thống lọt vào tai tôi. Tôi có cảm tưởng mình đang được biết tất cả bí mật của các vị thần của loài người trên thế gian này...
Hà Ngọc
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 25, 2009 6:19:07 GMT 9
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 25, 2009 6:28:33 GMT 9
|
|
|
Nuớc Mỹ
Dec 18, 2009 18:23:25 GMT 9
Post by Can Tho on Dec 18, 2009 18:23:25 GMT 9
Mạng lưới căn cứ quân sự Hoa Kỳ: một tai họa Nguyễn Trường
Với mạng lưới các căn cứ quân sự tốn kém mang tính đế quốc, Hoa Kỳ ngày một tiến gần đến bờ phá sản.
Ngày 27-5-2009, Bộ Ngoại Giao đã khởi sự xây một tòa đại sứ mới ở Islamabad, Pakistan, với kinh phí dự trù 736 triệu USD. Đây là cơ sở ngoại giao lớn thứ hai, nếu không cần thêm chi phí phụ trội, chỉ kém tòa đại sứ ở Baghdad, Iraq.
Bộ Ngoại Giao còn dự tính mua lại khách sạn năm sao Pearl Continental ở Peshawa, gần biên giới Afghanistan, dùng làm trụ sở Lãnh Sự Quán và chỗ ở cho nhân viên. Không may, ngày 9-6-2009, quân cảm tử phe Tabiban đã dùng xe vận tải quân sự chứa đầy chất nổ tấn công, gây 18 tử thương và ít ra 55 bị thương, cũng như trọn một cánh của khách sạn sụp đổ. Từ đó, không có tin tức gì về khả năng xúc tiến việc tậu mãi.
Trong mọi trường hợp, các chi phí nầy đã không được phản ảnh trong ngân sách quân sự vốn đã quá lớn, mặc dù toàn bộ kiến trúc không hề được thiết kế để làm cơ sở ngoại giao - nơi dân bản xứ đến xin chiếu khán và là trụ sở của các viên chức Hoa Kỳ đại diện cho các giới doanh thương và ngoại giao.
Trong thực tế, những cơ sở mệnh danh là sứ quán hoặc lãnh sự quán nầy sẽ là nơi cư trú với thành quách an toàn, tương tự các thành trì đồn trại thời Trung Cổ, nơi các gián điệp, quân đội, nhân viên tình báo, và ngoại giao theo dỏi quần chúng thù nghịch trong những khu vực chiến sự. Người ta có thể tiên đoán một cách chắc chắn đây cũng sẽ là nơi đồn trú của một số thủy quân lục chiến và cả những bải đáp trực thăng để lâm thời di tản nhanh chóng.
Đã hẳn các viên chức ngoại giao, phục vụ trong các vùng thiếu an ninh, cảm thấy an toàn hơn khi làm việc trong những thành trì kiên cố, nhưng đồng thời, cũng như dân bản xứ, đều hiểu rõ họ là một bộ phận trong mạng lưới đế quốc của Hoa Kỳ. Không ai ngạc nhiên khi các lực lượng chống Mỹ xem các cơ sở ngoại giao không khác các đồn bót , dù được bảo vệ nghiêm ngặt, như những mục tiêu dễ tấn công hơn là các cứ điểm quân sự rộng lớn.
HOA KỲ: MỘT ĐẾ QUỐC QUÂN SỰ TỐN KÉM Câu hỏi cần được đặt ra là người Mỹ có thể làm được gì với trên dưới 800 căn cứ quân sự rải rác trong nhiều xứ khắp địa cầu? Trong khi Quốc Hội và chính quyền Obama đang tranh cãi về các chi phí cứu trợ các ngân hàng, chương trình bảo hiểm y tế, giải quyết ô nhiểm, và các chi tiêu quốc nội cần thiết khác, không một ai gợi ý đóng cửa một số căn cứ mang tính đế quốc chẳng ai ưa thích và tốn kém, để tiết kiệm ngân sách đang thâm thủng nặng nề.
Đã thế, các căn cứ nầy ngày một trở nên tốn kém hơn. Chẳng hạn, ngày 23-6 vừa qua, tin tức báo chí cho biết Kyrgyzstan, Cộng Hòa Trung Á Xô Viết trước đây, trong tháng hai năm 2009, loan báo sẽ không cho phép quân đội Hoa Kỳ tiếp tục sử dụng căn cứ không quân Manas Air Base (được mướn làm căn cứ yểm trợ cuộc chiến Afghanistan từ 2001), nhưng rồi đã được thuyết phục tái tục thỏa ước với giá thuê hàng năm tăng gấp ba, từ 17,4 triệu lên 60 triệu, chưa kể hàng triệu tiền tu bổ các tiện nghi phi trường và vặt vảnh khác. Lý do là vì chính quyền Obama, do cam kết mở rộng chiến tranh trong vùng, đang cần căn cứ không quân nầy để tiếp liệu cho cuộc chiến Afghanistan.
Đã hẳn việc nầy đã được chính quyền các xứ bị chiếm đóng, thường không mấy ưa thích Hoa Kỳ, lưu ý. Chẳng hạn, người Ecuador đã yêu cầu người Mỹ rời khỏi căn cứ Manta Air Base vào tháng 11-2009. Thật vậy, Ecuador cũng có niềm kiêu hảnh của họ, đó là chưa nói họ không thích nhìn người Mỹ gây nhiễu loạn ở Honduras, Colombia và Peru. Tuy nhiên, cũng rất có thể, họ muốn lợi dụng cơ hội để kiếm thêm nhiều tiền.
Cũng vậy, người Nhật, trong hơn 57 năm qua, đã phải gánh chịu tài trợ các căn cứ quân sự của Mỹ ngay trên lãnh thổ của mình. Gần đây, họ đã thỏa hiệp với Mỹ di chuyển một số thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ở Okinawa qua Guam, lãnh thổ thuộc Mỹ. Trong quá trình thực hiện, người Nhật phải trả không những chi phí vận chuyển, mà cả chi phí xây cất những cơ sở mới ở Guam cần thiết cho số quân mới đến.
Liệu người Nhật có thể, theo gương Kyrgyzstan, đòi hỏi người Mỹ phải tự trang trải động thái nầy? Hay ít ra liệu họ có thể ngưng tài trợ quân nhân Mỹ, thường hãm hiếp phụ nữ Nhật (trung bình hai nạn nhân mỗi tháng), hay gây đau khổ cho dân Nhật sinh sống chung quanh 38 căn cứ Mỹ ở Okinawa. Đây chắc chắn là điều người Okinawa luôn hy vọng và cầu mong ngay từ khi người Mỹ đến chiếm đóng vào năm 1945.
Mặc dù nghị trình đối nội của T T Obama đầy tham vọng, một vấn đề, chưa được công khai ghi nhận, hiện mang khả năng triệt tiêu mọi nổ lực cải cách của ông: các quan hệ mang tính đế quốc với các nước ngoài - một đế quốc quá tốn kém với các căn cứ quân sự đi kèm. Tuy vậy, người Mỹ vẫn chưa chịu hiểu, sử dụng bừa bải bộ máy quân sự, ngày một bành trướng quá mức, vào các sứ mệnh không thích hợp, không sớm thì muộn, sẽ đem lại ba loại hậu quả tai hại: tham vọng ngoài tầm với, chiến tranh triền miên, và vở nợ - khó tránh một sụp đổ tương tự như Liên Bang Sô Viết trước đây.
Theo kiểm kê chính thức của Ngũ Giác Đài năm 2008 về các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ trên thế giới, mạng lưới đế quốc Hoa Kỳ bao gồm 865 cơ sở quân sự trong hơn 40 quốc gia và lãnh thổ hải ngoại. Người Mỹ đã bố trí trên 190.000 quân trong 46 quốc gia và lãnh thổ.
Tính đến cuối tháng 3-2008, Hoa Kỳ vẫn còn duy trì 99.295 nhân viên quân sự làm việc và sinh sống ở Nhật: 49.364 quân nhân, 45.753 thân nhân, và 4.178 nhân viên dân sự. Khoảng 13.975 trong số nầy tập trung trên đảo Okinawa nhỏ bé, nơi tập trung quân nước ngoài lớn nhất ở Nhật.
Tháng 3 vừa qua, Bob Herbert, báo New York Times, ghi nhận, tệ nạn hãm hiếp và các hình thức tấn công tình dục khác là một sỉ nhục lớn cho quân đội Mỹ. Và cũng chẳng có bằng chứng là vấn đề ghê tởm nầy, dù được che đậy, đang giảm bớt. Herbert còn nói:
"Những dữ kiện mới do Ngũ Giác Đài công bố đã cho thấy tỉ số gia tăng gần 9% trong số tấn công tình dục -2.923, và 25% do các nữ quân nhân phục vụ ở Iraq và Afghanistan báo cáo [trong năm qua]. Thử tưởng tượng sự kiện thật kỳ lạ là khi các nữ quân nhân Mỹ vừa phải trải nghiệm căng thẳng nơi tiền tuyến vừa phải âu lo tự vệ chống lại các nguy cơ hãm hiếp và xâm phạm tình dục đến từ các đồng đội chiến đấu ngay bên cạnh"[1].
Vấn đề càng trầm trọng hơn khi quân Mỹ đồn trú trong các căn cứ hải ngoại bên cạnh các thường dân bản xứ, như những người chiếm đóng nước ngoài luôn dòm ngó họ. Chẳng hạn, bạo động tình dục của lính Mỹ đối với phụ nữ vượt khỏi vòng kiểm soát ở Okinawa, một tỉnh nghèo nhất của Nhật, ngay từ ngày quân đội, thủy quân lục chiến, không quân, đến chiếm đóng thường trực cách đây 64 năm.
Okinawa là nơi đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, nhất là sau vụ hai thủy quân lục chiến và một thủy thủ bắt cóc, hãm hiếp, và sát hại một nữ sinh 12 tuổi.
Vần đề hãm hiếp thường xẩy ra khắp nơi chung quanh các căn cứ quân sự Mỹ trên các châu lục và có lẽ đã góp phần làm gia tăng sự thù ghét người Mỹ ở hải ngoại, bên cạnh chính sách của chính quyền Bush hay sự bóc lột kinh tế và khai thác nguyên liệu trong các xứ nghèo khó.
Quân lực Hoa Kỳ cũng chẳng làm gì để bảo vệ chính các nữ quân nhân của họ hay quyền lợi dân bản xứ vô tội không may sinh sống kế cạnh các quân nhân Mỹ thường thiếu kỷ luật và đạo đức, và phân biệt chủng tộc. Theo Herbert, thành tích truy tố các phạm nhân hãm hiếp không những tồi tệ mà còn tàn nhẫn. Trong những lãnh thổ do quân lực Hoa Kỳ chiếm đóng, bộ tư lệnh cấp cao và Bộ Ngoại Giao luôn tìm cách đạt cho kỳ được loại Thỏa Ước Quy Chế Quân Nhân - SOFAs - theo đó chính quyền bản xứ phải từ bỏ thẩm quyền tài phán đối với quân nhân Mỹ phạm tội. SOFAs cũng tạo mọi dễ dàng cho quân đội di chuyển các quân nhân phạm tội ra khỏi nước chủ nhà trước khi có thể bị chính quyền bản xứ bắt giữ.
Đề tài nầy đã được phản ảnh rõ ràng trong vụ một giáo viên người Úc, thường trú nhân kỳ cựu ở Nhật. Tháng 4-2002, cô bị hiếp bởi một thủy thủ phục vụ trên hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk, tại căn cứ hải quân Yokosuka. Cô đã nhận diện và tố cáo phạm nhân với nhà chức trách Nhật Bản và Hoa Kỳ. Thay vì câu lưu và truy tố phạm nhân, nữ nạn nhân lại bị gây phiền nhiểu và làm nhục bởi cảnh sát. Trong khi đó, Hải quân Hoa Kỳ cho nghi phạm giải ngũ và giúp phạm nhân trốn tránh luật pháp Nhật bằng cách thuyên chuyển đương sự về Mỹ sinh sống cho đến ngày nay.
Trong quá trình đi tìm công lý, nữ giáo viên người Úc đã khám phá: gần năm mươi năm trước đây, vào tháng 10-1953, hai chính phủ Nhật và Mỹ đã ký một phụ ước bí mật - một phần của SOFA - theo đó Nhật thỏa thuận từ bỏ quyền tài phán của mình khi tội phạm "không mang tầm quan trọng quốc gia đối với Nhật"[2]. Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm đến phần phụ ước, vì e ngại, nếu không, nhà cầm quyền Mỹ sẽ phải đối diện với sự khả dĩ trao khoảng 350 binh phạm mỗi năm cho Nhật vì tội phạm tình dục.
Từ đó, Hoa Kỳ đã thương thảo các điều khoản tương tự trong các SOFAs với Canada, Irland, Italy, và Denmark. Như đã được ghi rõ trong sách bỏ túi về luật chi phối các quân nhân ở nước ngoài[3], những điều khoản dự liệu trong SOFA với Nhật đã trở thành chuẩn mực trong các SOFAs trên khắp thế giới.
Ở Nhật, trong số 3.184 nhân viên quân sự xâm phạm tình dục từ 2001 đến 2008, 83% không hề bị truy tố. Ở Iraq, Hoa Kỳ chỉ mới ký một SOFA rất giống với thỏa ước hậu chiến đầu tiên với Nhật: nói rõ hơn, các nhân viên và nhà thầu quân sự bị tố cáo phạm tội ngoài công vụ sẽ do người Mỹ tạm giam trong khi người Iraq tiến hành các thủ tục điều tra. Đã hẳn, đây là cơ hội tốt nhất để di chuyển các nghi phạm ra khỏi nước chủ nhà trước khi có thể bị kết tội.
Trong nội bộ quân đội, nhà báo Dahr Jamail, tác giã cuốn "Bên Ngoài Khu Green Zone: Những Bản Điện Tin của Nhà Báo Độc Lập từ Iraq Bị Chiếm Đóng"[4] đã nói đến "văn hóa tấn công tình dục vô tội vạ" (culture of unpunished sexual assaults) và "số vụ đưa ra tòa án mặt trận thấp đến kinh ngạc", (shockingly low numbers of courts martial) liên quan đến hãm hiếp và các hình thức xâm phạm tình dục trong giới quân sự. Helen Benedict, tác giã cuốn "Người Lính Cô Đơn: Cuộc Chiến Riêng của Nữ Quân Nhân Phục vụ ở Iraq"[5] đã đơn cử các con số trong phúc trình năm 2009 của Pentagon về các vụ xâm phạm tình dục trong quân đội: 90% các vụ hãm hiếp trong quân đội không bao giờ bị truy tố, và, khi bị truy tố, hậu quả đối với can phạm cũng không đáng kể.
Nói một cách công bằng, quân đội Hoa Kỳ đã tạo một sân chơi tình dục toàn cầu cho nhân viên quân sự và bảo vệ phần lớn các can phạm né tránh hậu quả của hành vi phạm pháp. Do đó, năm 2006, một nhóm cựu nữ quân nhân Mỹ đã sáng lập "Mạng Lưới Hành Động của Cựu Nữ Quân Nhân"[6]. Mục tiêu là phổ biến lời kêu gọi không một phụ nữ nào nên gia nhập quân đội (no woman should join the military). Có lẽ giải pháp tốt nhất là hồi hương số binh sĩ thường được rèn luyện theo lối suy nghĩ dân bản xứ luôn thấp kém hơn và không am hiểu môi trường văn hóa địa phương. Nói rõ hơn, Hoa Kỳ nên giải thể mạng lưới căn cứ quân sự mang tính đế quốc.
Cố nhiên, việc giải thể mạng lưới đế quốc đòi hỏi một thời gian lâu dài. Chalmers Johnson liệt kê những bước khởi đầu người Mỹ nên theo đuổi:
1. Các căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên thế giới phải chấm dứt gây ô nhiểm môi trường. Người Mỹ cũng cần ngưng áp đặt các SOFAs miễn trừ trách nhiệm cho chính mình trong công tác trùng tu và bảo vệ môi trường.
2. Từ bỏ chính sách đế quốc, nhờ đó, sẽ chấm dứt gánh nặng duy trì các căn cứ quân sự và các phí tổn cơ hội đi kèm - những việc lẽ ra đã có thể làm với tài nguyên nhân, tài, vật, lực sẵn có.
3. Chủ nghĩa đế quốc thường đưa đến việc sử dụng tra tấn.Trong hai thập kỷ 1960s và 1970s, người Mỹ đã giúp lật đổ các chính quyền dân cử ở Brazil và Chile, kế đến đã hổ trợ các chế độ tra tấn, trước khi trực tiếp tra tấn các tù binh ở Iraq và Afghanistan . Từ bỏ chủ nghĩa đế quốc sẽ thực sự chấm dứt chính sách tra tấn của Mỹ ở hải ngoại.
4. Cần cắt giảm các chi phí do thân nhân, các nhân viên dân sự của bộ quốc phòng, cùng các cơ sở y tế, cư trú, tiêu khiển ...đi theo các căn cứ quân sự khắp nơi trên thế giới.
5. Cần chấm dứt huyền thoại do tập đoàn quân sự kỹ nghệ quảng bá: các căn cứ quân sự đem lại công ăn việc làm, nghiên cứu khoa học, và quốc phòng - huyền thoại đã bị phá vỡ bởi nhiều công trình nghiên cứu kinh tế nghiêm túc.
6. Như một quốc gia dân chủ biết tự trọng, Hoa Kỳ cần chấm dứt vai trò xứ xuất khẩu hàng đầu: vũ khí; quân trang; huấn luyện sĩ quan các quốc gia trong thế giới thứ ba về kỷ thuật tra tấn, đảo chánh, lính đánh thuê cho Hoa kỳ. Chẳng hạn, đóng cữa School of the Americas, ở Fort Benning, Georgia, nơi huấn luyện các sĩ quan Mỹ La Tinh.
7. Bải bỏ chương trình huấn luyện sĩ quan trừ bị (Reserve Officers' Training Corps) và các chương trình nhằm phát huy chủ nghĩa quân sự trong học đường.
8. Vãn hồi kỷ luật và trách nhiệm trong quân lực bằng cách cắt giảm việc sử dụng các nhà thầu dân sự, những công ty quân sự tư nhân, và các viên chức làm việc cho quân đội bên ngoài dây chuyền chỉ huy, quân luật, và tòa án quân sự.
9. Cắt giảm quân đội và cần có các biện pháp săn sóc thương bệnh binh đối phó với những hội chứng bệnh lý hậu chiến.
10. Từ bỏ việc sử dụng lực lượng quân sự một cách không thích đáng như những phương tiện chính yếu nhằm thành đạt các mục tiêu đối ngoại.
Hoa Kỳ hiện nay không mấy khác Anh quốc vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến: tìm mọi cách củng cố một đế quốc chưa bao giờ cần thiết và không đủ sức cáng đáng, sử dụng nhiều phương sách tương tự các phương sách của các đế quốc từng thất bại trước đây, kể cả các cường quốc Phe Trục và Liên Bang Sô Viết. Hoa Kỳ có thể rút bài học kinh nghiệm của Anh quốc năm 1945, tự nguyện từ bỏ chính sách đế quốc, thay vì đợi bị buộc phải bỏ cuộc vì chiến bại, như trường hợp của Nhật và Đức, hay chiến tranh giải phóng ở các xứ thuộc địa làm suy nhược như Pháp và Hòa Lan.
Hoa Kỳ nên theo gương người Anh trước đây. Điều đáng tiếc là hiện nay người Anh đang đi giật lùi, cộng tác với người Mỹ trong cuộc chiến Afghanistan.
CUỘC CHIẾN AFGHANISTAN-PAKISTAN: MỘT TAI HỌA TỰ TẠO KHÁC
Một trong những lầm lỗi chiến lược của Hoa Kỳ ở Afghanistan là đã không học được bài học kinh nghiệm của Anh quốc và Nga Sô, những xứ đã thất bại trong kế hoạch bình định Afghanistan, sử dụng những biện pháp quân sự tương tự với người Mỹ hiện nay. Trong những năm 1849 - 1947, người Anh hàng năm đã gửi quân viễn chinh đến các bộ lạc Pashtun trong khu vực các Lãnh Thổ dọc Biên Giới Tây Bắc (North-West Frontier Territories) - biên giới giữa Afghanistan và Pakistan - mệnh danh là đường ranh Durand Line. Đây là biên giới ấn định bởi Sir Mortimer Durand, Bộ Trưởng Ngoại Giao Anh đặc trách Ấn Độ.
Cả Anh Quốc lẫn Pakistan chưa bao giờ thực sự kiểm soát được khu vực nầy. Như nhà sử học Louis Dupree đã viết trong tác phẩm "Afghanistan" (Oxford University Press, 2002): "Các bộ lạc Pashtun, hầu như bẩm sinh đã là những chuyên gia du kích sau nhiều thế kỷ kháng chiến chống ngoại xâm và chống đối lẫn nhau khi không có người ngoại nhập tìm cách mở rộng Pax Britannica đến vùng quê núi đồi của họ"[7]. Khoảng 41 triệu người Pashtun sống trong một vùng không ranh giới rõ rệt dọc đường ranh Durand Line và không trung thành với chính quyền trung ương của cả Pakistan lẫn Afghanistan.
Vùng nầy ngày nay được biết như Khu Vực Bộ Lạc Dưới Quyền Quản Trị Liên Bang (Federally Administered Tribal Areas - FATA) của Pakistan, trực thuộc Islamabad, và được chia làm 7 tiểu vùng, mỗi vùng đặt dưới quyền cai trị của một viên chức chính trị tương tự thời thuộc địa Anh. Trước đây cũng như bây giờ, khu vực FATA, được biết dưới tên Waziristan và là trú khu của bộ lạc Pastun, là khu vực chống đối dữ dội nhất.
Paul Fitzgerald và Elizabeth Gould, hai tác giả có nhiều kinh nghiệm về Afghanistan, trong cuốn "Lịch Sử Vô Hình: Câu Chuyện Chưa Hề Kể về Afghanistan"[8], đã viết:
"Nếu các quan chức ở Hoa Thịnh Đốn không nhớ lịch sử trong vùng, người Afghanistan luôn nhớ. Người Anh dùng không lực bỏ bom các làng Pashtun sau Đệ Nhất Thế Chiến và đã bị lên án. Khi người Xô Viết dùng phi cơ Mig và trực thăng chiến đấu trang bị hỏa tiển Mi-24 Hind oanh kích vùng nầy trong thập kỷ 1980s, họ bị xem như các tội phạm. Nếu Hoa Kỳ dùng hỏa lực hùng hậu một cách bừa bải và tàn bạo, bất kể công lý và đạo đức thế giới, họ sẽ bị người dân Afghanistan và thế giới Hồi giáo chống đối nhiều hơn"[9].
Hiện nay, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục dùng bạo lực, nhưng viện cớ số thường dân thương vong chỉ là hậu quả ngoài ý muốn (collateral damage), hay do lỗi cá nhân. Sử dụng các phi cơ không người lái, điều khiển bởi máy vi tính từ các căn cứ quân sự trong vùng sa mạc Arizona và Nevada với độ chính xác tối thiểu, người Mỹ đã sát hại hàng trăm, có lẽ hàng nghìn thường dân Pakistan và Afghanistan. Chính quyền Afghanistan và Pakistan đã nhiều lần cảnh cáo người Mỹ là đang làm mếch lòng chính người dân mà họ rêu rao đang giúp đem lại dân chủ.
Tháng 5-2009, khi được cử làm tư lệnh Afghanistan, tướng Stanley McChrystal đã ra lệnh hạn chế các cuộc không tập, kể cả của CIA, ngoại trừ trường hợp cần thiết để bảo vệ quân đội đồng minh. Không may, vì những bất cập trong dây chuyền chỉ huy, ngày 23-6-2009, người Mỹ đã thực hiện một cuộc không kích bằng phi cơ không người lái đúng vào đoàn người tham dự đám tang, sát hại ít nhất 80 người trên lãnh thổ Pakistan. Các cơ quan truyền thông dòng chính và các kênh truyền hình của Mỹ không hề phản ảnh sự cố nầy. Họ chỉ tập trung đưa tin về các quan hệ tình ái của Thống Đốc bang South Carolina và cái chết đột ngột của ca sĩ Michael Jackson.
Các cuộc hành quân của Mỹ ở Afghanistan và Pakistan thường căn cứ trên tin tức tình báo sai lạc trong hai xứ, các định kiến ý thức hệ ủng hộ hay chống đối các phe khác nhau, và sự hiểu biết thiển cận về những gì người Mỹ hy vọng thành đạt. Như Fitzgerald và Gould đã nêu rõ, trái với tin tức tình báo của Mỹ tập trung vào Afghanistan, Pakistan mới là trung tâm của vấn đề. Cả hai đã nói thêm:
"Quân đội Pakistan và Tình Báo Liên Ngành...từ 1973, luôn giữ vai trò then chốt trong việc tài trợ và chỉ huy - ban đầu các lực lượng thánh chiến [chiến binh chống Sô Viết trong thập kỷ 1980s]...và, về sau, Taliban. Chính quân đội Pakistan đang kiểm soát vũ khí nguyên tử, đang cản trở sự phát triển các định chế dân chủ, đang huấn luyện các chiến binh Taliban về chiến thuật tấn công cảm tử, và chỉ huy các lực lượng nầy đánh lại quân Mỹ và NATO đang bảo vệ chính quyền Afghanistan"[10].
Quân đội Pakistan và cánh tình báo gồm nhiều tín đồ Hồi giáo nhiệt thành bảo trợ phe Taliban-Afghanistan, theo đúng nhu cầu nghị trình riêng, mặc dù không nhất thiết nhằm thúc đẩy thánh chiến Hồi giáo. Mục tiêu của họ luôn nhằm: loại ảnh hưởng của Nga hay Ấn Độ khỏi Afghanistan, cung cấp địa bàn huấn luyện và tuyển mộ các du kích quân thánh chiến để hoạt động ở những nơi như Kashmir, chế ngự cánh Hồi giáo Afghanistan quá khích, và huy động tài chánh từ Saudi Arabia, các tiểu vương quốc trong Vịnh Ba Tư, và Hoa Kỳ, để trang trải phí tổn và huấn luyện các chiến binh tự do trong thế giới Hồi giáo. Chính sách liên tục của Pakistan luôn nhằm hổ trợ các chính sách thầm kín của Tình Báo Liên Ngành và ngăn chặn ảnh hưởng của quốc gia thù nghịch và cạnh tranh chính - Ấn Độ.
Đại Tá hưu trí Douglas MacGregor, cố vấn tại Trung Tâm Thông Tin Quốc Phòng ở Hoa Thịnh Đốn, tóm tắt cuộc chiến vô vọng của Hoa Kỳ ở Nam Á, như sau: "Bất cứ điều gì chúng ta làm cũng sẽ không thể thuyết phục được 125 triệu người Hồi giáo ở Pakistan đứng chung chiến tuyến với một Hoa Kỳ liên minh với hai quốc gia rõ ràng chống Hồi giáo: Do Thái và Ấn Độ"[11].
Lần tăng quân của Obama hồi giữa năm 2009 vào Nam Afghanistan và nhất là vào tỉnh Helmand, một cứ điểm trọng yếu của Taliban, khiến nhiều người nhớ lại những lần yêu cầu tăng viện liên tục và lời hứa của tướng William Westmoreland: nếu chấp nhận gia tăng cường độ chiến tranh và số thương vong chút ít, người Mỹ chắc chắn sẽ bẻ gảy ý chí kiên trì của phe "Việt Nam nổi dậy" (Vietnamese insurgents). Đây là một đánh giá hoàn toàn sai lầm bản chất cuộc chiến ở Việt Nam, cũng như ở Afghanistan hiện nay.
Hai mươi năm sau khi hồng quân chiến bại và rút khỏi Afghanistan, vị tướng chỉ huy người Nga sau cùng, Boris Gromov, đã đưa ra lời tiên đoán: Tai họa sẽ tới với hàng chục nghìn quân Obama mới gửi tới Afghanistan, cũng như đã xẩy ra với 15.000 quân Liên Bang Sô Viết thương vong trong cuộc chiến Afghanistan. Người Mỹ cần thú nhận họ đang phí thì giờ, sinh mạng, và tài nguyên ở một vùng họ chưa bao giờ hiểu rõ các động lực chính trị, và tiếp tục phạm phải sai lầm.
|
|
|
Nuớc Mỹ
Dec 18, 2009 18:24:40 GMT 9
Post by Can Tho on Dec 18, 2009 18:24:40 GMT 9
HOA KỲ KHÔNG CÒN ĐỦ KHẢ NĂNG THEO ĐUỔI THAM VỌNG ĐẾ QUỐC Ngay sau khi đắc cử tổng thống, trong dịp công bố một số thành viên trong nội các mới, Barack Obama đã quả quyết "chúng ta phải duy trì một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất hành tinh"[12]. Vài tuần lễ sau, ngày 12-3-2009, trong buổi nói chuyện ở Đại Học Quốc Phòng, Hoa Thịnh Đốn, Obama một lần nữa nhấn mạnh, "Bây giờ xin mọi người đừng hiểu lầm, quốc gia nầy sẽ duy trì vị trí áp đảo quân sự. Chúng ta sẽ có lực lượng quân sự hùng mạnh nhất trong lịch sử thế giới"[13]. Và trong lần nói chuyện đầu niên học với các sinh viên sĩ quan Viện Hàn Lâm Hải Quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Academy) ngày 22-5-2009, Obama lại nhấn mạnh "chúng ta sẽ duy trì vai trò áp đảo quân sự và các bạn là lực lượng chiến đấu tinh nhuệ nhất thế giới"[14].
Điều Obama quên ghi nhận là Hoa Kỳ không còn đủ khả năng duy trì bá quyền toàn cầu, và cố tình tin ngược lại chỉ chuốc lấy tai họa.
Theo các kinh tế gia và các nhà khoa học chính trị trên khắp thế giới, Hoa Kỳ khó thể tiếp tục giữ vai trò bá quyền toàn cầu, một khi, trước mắt mọi người, nước Mỹ chỉ còn là một cường quốc kinh tế què quặt. Một quốc gia trong tình trạng đó khó thể thượng tồn trong lịch sử các đế quốc. Robert Pape thuộc University of Chicago, tác giả tập nghiên cứu quan trọng "Quyết tử để Quyết Thắng: Luận Lý Chiến Lược của Chủ Nghĩa Khủng Bố Cảm Tử"[15], đã viết:
"Nước Mỹ đang trên đường suy sụp vô tiền khoáng hậu. Các vết thương tự tạo, do cuộc chiến Iraq, công trái ngày một gia tăng, ngạch số khuy khiếm trong cân thương mãi [nhập siêu] ngày một trầm trọng, và nhiều suy nhược kinh tế quốc nội khác, đã làm Hoa Kỳ mất hết thực lực trong thế giới tri thức và kỷ thuật phổ biến nhanh chóng ngày nay. Nếu các xu thế hiện nay tiếp diễn, chúng ta sẽ nhìn lại những năm dưới thời Bush như tiếng chuông báo tử của bá quyền Hoa Kỳ"[16].
Hình như đế quốc quân sự Mỹ ẩn chứa một cái gì mâu thuẩn, phi lý, có thể nói mang tính ác mộng. Jay Barr, một luật sư chuyên về phá sản, đã mô tả trạng huống nầy, sử dụng phương pháp tương tự nội suy (insightful analogy):
Dù thanh lý hay tái tổ chức, một con nợ muốn được bảo vệ qua thủ tục phá sản phải cung cấp bảng liệt kê các chi phí, nếu được xét là phải chăng, sẽ được khấu trừ vào lợi tức, trước khi đi đến số tài sản khả dụng có thể dùng vào việc thanh toán cho các chủ nợ. Giờ đây thử tưởng tượng một người nộp đơn xin được bảo vệ theo luật phá sản nhưng lại nại lý do không thể trả được nợ vì số tiền cần thiết để duy trì ít ra cũng đến 737 cơ sở ở hải ngoại hiện không đem lại tí lợi nhuận nào... Cố nhiên anh ta không thể đủ điều kiện để được bảo vệ bởi luật phá sản mà không phải trao phần lớn các tích sản của mình cho các chủ nợ, kể cả các bất động sản quý giá ở hải ngoại nơi các cơ sở của anh đang tọa lạc"[17].
Nói một cách khác, Hoa Kỳ không mấy quan tâm đến hiểm họa phá sản. Thay vào đó, người Mỹ vẫn tiếp tục làm ngơ đà xuống dốc kinh tế và lúc một tiến gần đến hiểm họa vở nợ.
Nick Turse, tác giả cuốn "Tập Đoàn Quân Sự: Bằng Cách Nào Giới Quân Sự Xâm Lấn Vào Đời Sống Hàng Ngày Của Chúng Ta"[18], ước tính, người Mỹ có thể thu được 2,6 tỉ USD nếu bán tích sản ở căn cứ Diego Garcia ở Ấn Độ Dương, và 2,2 tỉ khác với Guantanamo Bay ở Cuba. Đó mới chỉ là hai trong số trên 800 căn cứ quân sự lớn ở hải ngoại. Việc từ chối cắt giảm phần lớn các căn cứ vừa nói phản ảnh óc tưởng tượng quá nghèo nàn của các cấp lãnh đạo.
Tháng 5-2009, Cục Quản Lý và Ngân Sách (Office of Management and Budget) tiên đoán, vào năm 2010, ngân sách của Hoa Kỳ sẽ thiếu hụt ít nhất cũng 1.750 tỉ. Đây là chưa kể dự phóng ngân sách Ngũ Giác Đài khoảng 640 tỉ, và các chi phí trong hai cuộc chiến tốn kém ở Iraq và Afghanistan. Tổng số khuy khiếm sẽ lên đến mức phải mất vài thế hệ mới trả hết các chi phí liên quan các cuộc phiêu lưu của Bush. Con số nầy lên tới 13% GDP của Mỹ hiện nay. Tưởng nên nhắc lại, điều kiện để một quốc gia Âu châu có thể gia nhập Khu Vực Euro là khuy khiếm ngân sách không được quá 3% GDP.
Cho đến nay, T T Obama đã công bố một số cắt xén manh mún, tiết kiệm được 8,8 tỉ, trong số chi tiêu về vài loại vũ khí không mấy cần thiết, kể cả hủy bỏ loại phi cơ chiến đấu F-22. Ngân sách Ngũ Giác Đài năm tới, trong thực tế, còn cao hơn cả ngân sách cuối cùng trong kỷ nguyên Bush. Những cắt xén quan trọng hơn trong chi phí quân sự rõ rệt rất cần thiết trong nay mai nếu chính quyền Obama có ý định duy trì bộ mặt một chính quyền có trách nhiệm về tài chánh.
CẦN GIẢI THỂ MẠNG LƯỚI CĂN CỨ QUÂN SỰ MANG TÍNH ĐẾ QUỐC Điều đáng buồn là rất ít đế quốc trong quá khứ đã tự nguyện từ bỏ chính sách thuộc địa để thay vào đó các chương trình nhằm phát huy các định chế chính trị độc lập, tự trị. Hai ví dụ quan trọng gần đây nhất là đế quốc Anh và Liên Bang Sô Viết. Nếu Hoa Kỳ không học được kinh nghiệm của Anh và Nga Sô, sự suy tàn và sụp đổ của đế quốc Mỹ sẽ là một điều khó tránh.
Hồi đầu tháng 10-2009, chính quyền Obama cho biết khuy khiếm trong ngân sách liên bang trong tài khóa 2009 lên tới 1.400 tỉ mỹ kim, lớn nhất kể từ 1945, tương đối với kích cỡ nền kinh tế.
Con số, mặc dù thấp hơn số dự phóng mấy tháng trước đây, đã làm nổi bật những thách thức trong nổ lực giảm thiểu ngạch số khuy khiếm trong những năm tháng sắp tới, nhất là khi Tòa Bạch Ốc và Quốc Hội đang xem xét những bước mới nhằm kích thích nền kinh tế hiện đang hồi phục chậm chạp. Những trở ngại chính trị trong quá trình tìm giải pháp đang phơi bày trước công luận khi hai đảng đang đổ trách nhiệm cho nhau về ngạch số khuy khiếm gia tăng.
Theo thông cáo chung của Bộ trưởng Ngân Khố, Timothy F. Geithner, và Giám Đốc Cục Quản Lý và Ngân Sách, Peter R. Orszag, ngạch số khuy khiếm 1.400 tỉ USD trong tài khóa 2009, vừa chấm dứt ngày 30-9-2009, đã lên đến 10% GDP, so với 459 tỉ hay 3,2% GDP trong tài khóa 2008.
Các kinh tế gia nói chung thường đồng ý khuy khiếm hàng năm không nên vượt quá 3% GDP, và đó cũng là mục tiêu T T Obama quyết tâm thành đạt vào cuối nhiệm kỳ đầu - năm 2013.
Ở mức 10% GDP, khuy khiếm trong tài khóa 2009 đã lên cao nhất kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến (21,5%), do đó, đã trở thành một vấn đề kinh tế và chính trị lớn hơn bất cứ năm nào từ cuối thập kỷ 1980s.
Các nhà đầu tư tài trợ số nợ nầy, kể cả Trung Quốc và vài xứ khác, rất nóng lòng chờ đợi dấu hiệu chính quyền Mỹ sẽ sớm cân bằng được ngân sách.
Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy người Mỹ cũng ngày một âu lo và quan tâm nhiều hơn đến nghị trình đầy tham vọng của Obama, kể cả tái cơ cấu hệ thống bảo hiểm y tế. Cùng lúc, nhiều người Mỹ cũng đang đòi hỏi chính quyền giúp đỡ thêm , và đang đối diện với tỉ suất thất nghiệp 10.2% (10-2009), cao nhất trong 26 năm qua, và dự báo còn tiếp tục gia tăng cho đến giữa năm 2010.
Orszag còn ám chỉ tình trạng bối rối trong chính sách tài chánh của chính quyền khi nói: "Trong khi chúng ta đang chuyển đổi từ cứu trợ để phục hồi, tổng thống công nhận chúng ta cần phải đưa xứ sở trở lại con đường tài chánh ổn định lâu dài"[19]. Ông cho biết các đề nghị theo hướng nầy sẽ là một phần trong ngân sách năm tới cho tài khóa 2011.
Tài khóa 2009 bắt đầu từ tháng 10-2008 khi T T George W. Bush đang đối diện với hiểm họa sụp đổ của hệ thống tài chánh và đang chuẩn bị luật cứu trợ 787 tỉ USD. Sau khi nhận nhiệm vụ, các viên chức chính quyền Obama đã tính toán lại: con số khuy khiếm thực sự đã lên tới 1.200 tỉ USD thay vì 787 tỉ.
Theo Geithner và Orszag, khuy khiếm trong tài khóa 2009 phần lớn là sản phẩm của các chính sách tài chánh và thuế vụ thừa hưởng từ chính quyền tiền nhiệm và nay trở nên trầm trọng với suy thoái kinh tế tài chánh đang tiếp diễn lúc một sâu xa hơn khi Obama mới bắt đầu nhiệm kỳ.
Con số khuy khiếm 1.400 tỉ do chính quyền Obama đưa ra đã dựa theo số ước tính vào đầu tháng 10-2009 của Sở Ngân Sách Quốc Hội. Con số khuy khiếm thực sự hơi thấp hơn mỗi bên ước tính trong tháng 8-2009, khi Sở Ngân Sách Tòa Bạch Ốc dự phóng 1.800 tỉ khuy khiếm và Sở Ngân Sách Quốc Hội dự phóng 1.600 tỉ.
Trong khi một vài định chế tài chánh đã hồi phục và còn báo cáo những số doanh lợi lớn bất ngờ như JP Morgan và Goldman Sachs, tỉ suất thất nghiệp, số bất động sản bị tịch biên, và nhu cầu tín dụng của giới tiểu thương và doanh nghiệp nhỏ, tiếp tục gia tăng, buộc Tòa Bạch Ốc và Quốc Hội phải tiếp tục tập trung vào nổ lực kích cầu nền kinh tế. Số khuy khiếm, do đó, tiếp tục gia tăng thay vì sụt giảm.
Trong mọi trường hợp, sự thành công mới đây cũng chỉ giới hạn vào một vài định chế tài chánh khổng lồ ở Wall Street. Chỉ vài hôm sau, Citigroup và Bank of America đã báo cáo số thua lỗ từ các món nợ bất động sản và thẻ tín dụng vô giá trị - một dấu hiệu khủng hoảng kéo dài ở Main Street - bên ngoài Wall Street.
Hiện nay, tỉ suất khuy khiếm vẫn là vấn đề chính được chính quyền mọi cấp đang đặc biệt quan tâm. Tổng số quốc trái - số khuy khiếm lũy tích hàng năm của ngân sách - lên gần 12.000 tỉ, và số khuy khiếm dự phóng cho thập kỷ tới (2010s) sẽ còn tăng thêm 9.000 tỉ. Theo các viên chức chính quyền, 2/3 con số nầy là hậu quả các chính sách của chính quyền Bush, như giảm thuế, chiến tranh, và trợ cấp dược phẩm thuộc Medicare..., không được bù đắp bởi các số tiết kiệm do cắt giảm các khoản dự chi khác.
Với đà suy giảm về kinh tế, quân sự, chính trị trong mấy thập kỷ gần đây, giới lãnh đạo Hoa Kỳ không còn lựa chọn nào khác hơn là giảm thiểu tham vọng toàn cầu.
Vả chăng, hệ thống căn cứ quân sự ở hải ngoại không hề cần thiết cho nhu cầu quốc phòng của Mỹ. Trong thực tế, các căn cứ nầy thường là yếu tố quan trọng gây ra nhiều xung đột với các xứ khác. Các cơ sở nầy, dĩ nhiên, rất tốn kém. Theo Anita Dancs, phân tích gia của website Foreign Policy in Focus, Hoa Kỳ chi tiêu khoảng 250 tỉ mỗi năm để duy trì sự hiện diện quân sự trên toàn cầu. Mục tiêu duy nhất là duy trì bá quyền, kiểm soát hoặc áp đảo, trong càng nhiều xứ càng tốt.
Không sớm thì muộn, mạng lưới căn cứ quân sự Hoa kỳ trên thế giới cũng sẽ đưa nước Mỹ đến chỗ phá sản. Dù nhanh hay chậm, Hoa Kỳ vẫn đang rỉ máu. Bám víu lấy chính sách đế quốc và các căn cứ yểm trợ hiện nay cuối cùng cũng sẽ đưa Hoa Kỳ đến chỗ vỡ nợ - không còn là một nước Mỹ như mọi người đang biết.
Nói một cách ngắn gọn, Hoa Kỳ cần giải thể mạng lưới căn cứ quân sự trên khắp thế giới. Và về lâu về dài, phía trước chỉ còn hai con đường: hòa bình hay phá sản.
GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
25-11-2009
--------------------------------------------------------------------------------
[1] New data released by the Pentagon showed an almost 9 percent increase in the number of sexual assaults - 2,923 - and a 25 percent in such assaults reported by women serving in Iraq and Afghanistan [over the past year]. Try to imagine how bizarre it is that women in American uniforms who are enduring all the stresses related to serving in a combat zone have to also worry about defending themselves against rapists wearing the same uniform and lining up in formation right beside them.
[2] ...not of national importance to Japan.
[3] Handbook of the Law of Visiting Forces - 2001.
[4] Beyond the Green Zone: Dispatches from an Unembedded Journalist in Occupied Iraq, Haymarket Books, 2007.
[5] The Lonely Soldier: The Private War of Women Serving in Iraq, Bacon Press, 2009.
[6] Service Women's Action Network.
[7] Pastun tribes, almost genetically expert at guerrilla warfare after resisting centuries of all comers and fighting among themselves when no comers were available, plagued attempts to extend the Pax Britannica into their mountain homeland.
[8] Invisible History: Afghanistan's Untold Story, City Lights, 2009.
[9] If Washington's bureaucrats don't remember the history of the region, the Afghans do. The British used air power to bomb these same Pashtun villages after World War I and were condemned for it. When the Soviets used MIGs and the dreaded Mi-24 Hind helicopter gunships to do it during 1980s, they were called criminals. For America to use its overwhelming firepower in the same reckless and indiscriminate manner defies the world's sense of justice and morality while turning the Afghan people and the Islamic world even further against the United States.
[10] Pakistan's army and its Inter-Services Intelligence branch...from 1973 on, has played the key role in funding and directing first the mujahideen [anti-Soviet fighters during 1980s]...and then the Taliban. It is Pakistan's army that controls its nuclear weapons, constrains the development of democratic institutions, trains Taliban fighters in suicide attacks and orders them to fight American and NATO soldiers protecting the Afghan povernment.
[11] Nothing we do will compel 125 million Muslims in Pakistan to make common cause with a United States in league with the two states that are unambiguously anti-Muslim: Israel and India.
[12] We have to maintain the strongest military on the planet.
[13] Now make no mistake, this nation will maintain our military dominance. We will have the strongest armed forces in the history of the world.
[14] We will maintain America's military dominance and keep you the finest fighting force the world has ever seen.
[15] Dying to win: The Strategic Logic of Suicide Terrorism, Random House, 2005.
[16] America is in unprecedented decline. The self-inflicted wounds of the Iraq war, growing government debt, increasingly negative current-account balances and other internal economic weaknesses have cost the United States real power in today's world of rapidly spreading knowledge and technology. If present trends continue, we will look back on the Bush years as the death knell of American hegemony.
[17] Whether liquidating or reorganizing, a debtor who desires bankrupcy protection must provide a list of expenses, which, if considered reasonable, are offset against income to show that only limited funds are available to repay the bankrupted creditors. Now imagine a person filing for bankrupcy claiming that he could not repay his debts because he had the astronomical expense of maintaining at least 737 facilities overseas that provide exactly zero return on the significant investment required to sustain them... He could not qualify for liquidation without turning over many of his assets for the benefit of creditors, including the valuable foreign real estate on which he places his bases.
[18] The Complex: How the Military Invades our Everyday Lives , Metropolitan Books, 2008.
[19] As we move from rescue to recovery, the president recognizes that we need to put the nation back on a fiscally sustainable path.
|
|
|
Nuớc Mỹ
Mar 18, 2010 11:58:17 GMT 9
Post by NhiHa on Mar 18, 2010 11:58:17 GMT 9
Hy vọng và thất vọng Barack Obama: ứng viên và tổng thống Năm đầu không thể là thời điểm tốt nhất để thẩm định một tổng thống. Sau một năm cầm quyền, Abraham Lincoln vẫn nhấn mạnh chế độ nô lệ khó thể trở thành mục tiêu nội chiến, Franklin D. Roosevelt cũng chưa mấy quan tâm đến nhu cầu bảo hiểm xã hội tiếp theo sau đại khủng hoảng kinh tế, và John F. Kennedy xem phong trào dân quyền chỉ như một rắc rối không đáng âu lo. Nếu ngày nay người Mỹ thán phục các tổng thống vừa nói, đó chính là nhờ thành quả trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của họ.
Tuy vậy, nhìn những gì đã diễn ra trong năm đầu của T T Obama, nhiều người Mỹ cũng khó lòng không cảm thấy thất vọng. Đó chính là vì phần lớn cử tri Mỹ đã có quá nhiều kỳ vọng thiếu thực tế, mặc dù ứng viên Obama đã đánh thức những chờ đợi quá đáng từ người Mỹ đang mong muốn một thay đổi thực sự sau gần 30 năm dưới chính sách Reagan (Reaganism). Những thất vọng nầy cũng không phải do tiêu chí xét đoán quá khắt khe. Thực ra, tiêu chí phán đoán đã được đặt quá thấp. Số đông cử tri Mỹ chỉ muốn so sánh Obama với người tiền nhiệm, George W. Bush, một tổng thống họ tin là tệ nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.
Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên, đối diện với khủng hoảng kinh tế, giới quan sát đã nhiệt tình chào đón sự đắc cử của Obama, so sánh tổng thống mới với FDR. Đây là một sai lầm nghiêm trọng. Obama không phải là một tổng thống tự do kiểu New Deal. Tầm nhìn của ông chỉ phản ảnh nghị trình của phe tự do đã thay đổi dưới tác động của những biến đổi xã hội và chính trị kể từ thập kỷ 1930s.
Obama đã trưởng thành về chính trị vào thời điểm sự suy yếu của phong trào lao động đã bào mòn một trong nhiều cơ sở xã hội của chủ nghĩa tự do, trong khi những cơ sở mới đang trỗi dậy từ những xáo trộn của thập kỷ 1960s và cấu trúc chủng tộc và sắc dân đã thay đổi trong tổng dân số Hoa Kỳ. Trên phương diện cá nhân, Obama là hiện thân của sự trỗi dậy, bên trong đảng Dân Chủ, của giới chuyên môn có học vấn cao, kể cả một tầng lớp thượng tầng trung lưu da đen mới từ các cuộc đấu tranh trong thập kỷ 1960s và các chương trình nâng đỡ các sắc dân thiểu số (affirmative action programs). Obama đã mang nhiều nét tương đồng với cánh Wall Street có tầm nhìn xa, những thành phần đã đóng góp nhiều vào cuộc vận động tranh cử và giữ vai trò nòng cốt trong chính sách kinh tế ông đang theo đuổi.
Obama hình như không mấy quan tâm đến những vấn đề mang tính New Deal vẫn còn thích hợp hiện nay - bất bình đẳng kinh tế, thất nghiệp hàng loạt, quyền lực không hạn chế của tập đoàn các đại công ty, cuộc tranh đấu của công nhân qua các nghiệp đoàn đòi hỏi hưởng thụ các quyền dân chủ kỹ nghệ (industrial democracy). Ngược lại, Obama đã khá quen thuộc với các đề tài, thứ yếu trong thập kỷ 1930s, nhưng đã trở thành thiết yếu của chủ nghĩa tự do sau đệ nhị thế chiến - quyền quyết định kích cỡ gia đình của phụ nữ, các quyền tự do dân sự và pháp trị, môi trường sinh thái, đa nguyên văn hóa, nhất là việc làm trong guồng máy chính quyền.
Obama cũng đại diện một luồng tư tưởng xa lạ với New Deal, nhưng dính liền với Khuynh Hướng Cấp Tiến (Progressivism) vào đầu thế kỷ 20, ước muốn giành chính trị khỏi tay các chính trị gia. Cũng như những thành phần cấp tiến cũ, Obama hình như tin chính quyền có thể vượt qua chính trị đảng phái và làm việc với tinh thần khách quan, nhằm phát huy những gì tốt đẹp chung (mặc dù có bằng chứng rõ ràng phe đối lập không hợp tác). Cũng như trong kỷ nguyên cấp tiến, nhãn quan nầy đi đôi với sự tôn trọng mạnh mẽ giới chuyên môn khoa học (hoàn tòan khác với cách tiếp cận của George W. Bush).
Các đặc điểm trong tư duy Obama liệt kê trên đây cho thấy Obama không giống FDR hay Abraham Lincoln như nhiều người tưởng. Nhưng Obama có nhiều điểm tương đồng với Jimmy Carter. Cũng như Carter, Obama hình như xem toàn cầu hóa kinh tế và địa vị suy giảm của khu vực kỹ nghệ Hoa Kỳ như một diễn tiến không thể tránh, và xem vai trò của chính quyền như tìm cách giảm thiểu tác động tàn phá của cả hai. Giống như Carter, Obama đã tìm hết cách thành đạt một chính quyền đa chủng. Cũng như Carter, Obama không có một chính sách kỹ nghệ hoặc một chương trình tạo công ăn việc làm mạnh mẽ và hình như không mấy quan tâm giải quyết những khó khăn và các mất thăng bằng cơ cấu do sự suy giảm trong khu vực kỹ nghệ biến chế.
Chương trình kinh tế của Obama phản ảnh và tăng cường xu thế chuyển dịch về lâu về dài từ kỹ nghệ biến chế qua khu vực tài chánh trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Và chương trình cứu trợ vô điều kiện các đại ngân hàng, công ty bảo hiểm khổng lồ AIG, đã khơi dậy những bức xúc cần được quan tâm, ngay cả thường khi được diễn tả bằng những ngôn từ mang tính cực đoan và phân biệt chủng tộc. Người ta có cảm tưởng các quy luật của trò chơi đã được ấn định có lợi cho giới nhà giàu, và chính quyền dửng dưng trước những khổ đau của người Mỹ bình thường.
Thật trớ trêu, mặc dù nhiều người da đen đã được bổ nhiệm vào những chức vụ quan trọng ở Hoa Thịnh Đốn, điều kiện sinh sống của hầu hết người Mỹ da đen đã trở nên tồi tệ hơn trong năm đầu nhiệm kỳ tổng thống của Obama. Người da đen đã phải gánh chịu một cách bất cân xứng tác động của tình trạng thất thoát công ăn việc làm trong khu vực kỹ nghệ biến chế và nạn mất nơi ăn chốn ở vì khủng hoảng bong bóng bất động sản. Hình như không có dấu hiệu tổng thống thời hậu phân biệt chủng tộc sẽ trực tiếp làm được gì để giúp giải quyết tình cảnh khó khăn của họ.
Trong phạm vi chính sách đối ngoại, Obama càng gần gũi hơn với Carter, ngay cả đến những quan tâm đối với Afghanistan. Cả Carter lẫn Obama đã tái định hướng chính sách đối ngoại về vấn đề hợp tác quốc tế, tuy vây, vẫn chưa thể thực hiện lý tưởng trong thực tế. Carter đã tiếp tục ủng hộ các lãnh đạo chuyên quyền như Shah ở Iran, đã phát động chương trình tăng cường quân sự dọn đường cho Reagan, và bành trướng chiến tranh lạnh tiếp theo sau sự chiếm đóng Afghanistan của Xô Viết. Về phần Obama, giọng điệu hiếu chiến đáng ngạc nhiên trong các bài diễn văn gần đây về Afghanistan cũng như khi nhận giải thưởng Nobel hòa bình, biểu lộ ông đã đảm nhiệm vai trò tổng thống thời chiến một cách thoải mái, ngay cả chấp nhận ngôn từ của Bush về sự đối đầu toàn cầu giữa "phe ác quỷ" và "phe tự do". Thái độ nầy đã nhen nhúm trở lại tinh thần võ biền của phe tự do thích can thiệp, phe đã hoan hỉ xâm lăng Iraq, về sau ít nhiều đã xin lỗi và ngày nay khen ngợi tinh thần thực tiễn công nhận chiến tranh đôi khi cũng cần thiết của Obama. Đã hẳn, chỉ những "cuộc chiến công bình" (just wars)!
Một bài học rút tỉa từ năm đầu của Obama là nỗi khó khăn thể hiện thay đổi, ngay cả trong thời gian khủng hoảng. Do thiếu tin tưởng ở dân chủ phổ thông, các nhà lập quốc đã cho ra đời một hiến pháp tạo dựng một hệ thống chính quyền được thiết kế nhằm dễ dàng ngăn ngừa thay đổi hơn là thể hiện đổi thay. Ngày nay, quán tính cơ cấu nầy còn tăng gấp bội và phức tạp hơn nhiều bởi uy lực của đồng tiền trong sinh hoạt chính trị và một guồng máy quân sự ngày một giữ địa vị áp đảo. Obama đã không học được bài học của Kennedy từ biến cố Bay of Pigs lúc mới bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống - không dễ dàng chấp nhận lời khuyến cáo của các tướng lãnh - một quyết định đã giúp Kennedy và thế giới suốt cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962.
Tuy nhiên, khủng hoảng cũng đem lại cơ hội. Để nắm bắt, điều kiện tiên quyết là phải vượt lên trên cách ứng xử thông thường, như Lincoln đã nhắc nhủ người Mỹ năm 1862. Lincoln nói "vì trường hợp của chúng ta mới mẻ, chúng ta phải đổi mới tư duy và hành động"[1]. Obama vẫn còn có nhiều thì giờ để làm việc ấy. Chỉ sau năm đầu, Lincoln mới trở thành Anh Hùng Giải Phóng Vĩ Đại, FDR - kiến trúc sư New Deal Thứ Hai, và Kennedy - nhà vô địch dân quyền. Không một tổng thống nào trong ba vị đã tự mình hành động do quyết định riêng. Cả ba đã hành động dưới áp lực phải thay đổi bởi các phong trào xã hội dấn thân - bải bỏ chế độ nô lệ, phong trào lao động, tranh đấu đòi hỏi công bằng chủng tộc.
Trong bối cảnh lich sử méo mó vì phân biệt chủng tộc của Hoa Kỳ, sự đắc cử của Obama sẽ luôn đánh dấu một thay đổi, một bước ngoặt tượng trưng lớn lao. Để chuyển biến nầy vượt cao hơn nữa, giới cấp tiến phải ngừng kiếm cớ hay dựa vào những tình huống giảm khinh - những extenuating circumstances - để đánh giá Obama. Không cần phải quên những dị biệt giữa Obama và phe đối lập Cộng Hòa ngày một tụt hậu, người Mỹ phải bác bỏ những giả định lỗi thời Obama đang bám víu trong chính sách kinh tế và đối ngoại và phải mạnh mẽ đòi hỏi thay đổi thực sự, nói rõ sự thật với giới cầm quyền ngay cả khi quyền hạn nằm trong tay những người do chính họ bầu lên.
T T Obama đã chào đón dự luật cải tổ y tế của Thượng Viện như pháp chế xã hội quan trọng nhất kể từ khi Luật An Sinh Xã Hội được ban hành trong thập kỷ 1930s. Nguyên chủ tịch Đảng Dân Chủ Howard Dean đã tố cáo dự luật như món quà cho các công ty dược phẩm và bảo hiểm.
Larry Summers, cố vấn kinh tế hàng đầu của Obama, mô tả kế hoạch phục hồi kinh tế 780 tỉ như chương trình kích cầu lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Kinh tế gia được giải thưởng Nobel về kinh tế, Joseph Stiglitz, cảnh cáo ngay từ đầu, kế hoạch quá khiêm tốn khó có thể lôi kéo nước Mỹ ra khỏi Đại Suy Thoái.
T T Obama mô tả gói cải cách tài chánh của chính quyền như một "tái duyệt toàn bộ", một sự đổi mới với tầm cỡ chưa từng thấy từ thời Đại Khủng Hoảng Kinh Tế. Nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, Paul Volcker, cảnh cáo: mạng lưới an toàn cho các đại ngân hàng có thể sẽ khuyến khích các định chế tài chánh tham lam liều lĩnh hơn.
Dân biểu Ed Markey, chủ tịch Tiểu Ban Độc Lập Năng Lượng Hạ Viện (House Select Committee on Energy Independence), ca tụng dự luật mức trần khí thải và mậu dịch do Hạ Viện thông qua như dự luật năng lượng và môi trường quan trọng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Các nhà lãnh đạo môi trường chẳng mấy ấn tượng; một số thậm chí còn xem dự luật tệ hại hơn cả luật lệ hiện hành.
Trong thực tế hổn độn hiện nay, tất cả đều có phần đúng. Bill Clinton đã cảnh cáo các bloggers về cải cách y tế tại Hội Nghị Netroots trong tháng 8-2009: phải nên sẵn sàng để chấp nhận một thành công phân bộ. Clinton cũng đã có thể khuyến cáo như thế đối với nghị trình của Tổng Thống Obama. Giới cấp tiến phải quyết định đối phó như thế nào khi sự đề kháng dữ dội của phe đối lập đối với nghị trình thay đổi đã lộ rõ.
Làn sóng hưng phấn một năm trước đây giờ đang tan biến. Hồi đó, tiếp theo sau một chính quyền bảo thủ tai họa và đã đánh mất mọi uy tín, người Mỹ đã bỏ phiếu ủng hộ đổi thay, bầu lên một tân tổng thống thông minh và hùng biện, và một đa số đủ lớn đại diện Dân Chủ trong lưỡng viện Quốc Hội. Một khối cử tri năng động hưng phấn đã tỏ ra sẵn sàng tham chiến, và một liên minh đa số đang trỗi dậy báo hiệu một tiềm năng tái định vị lâu dài.
Ngày nay, các cuộc đấu tranh trong năm đầu nhiệm kỳ tổng thống của Obama đã đưa đến một làn sóng mất tin tưởng và bức xúc ngày một tăng. Thất vọng trước những vận động cải cách - y tế, công ăn việc làm, thay đổi khí hậu - đã lan tràn trong khối hậu thuẫn đầy nhiệt huyết. Chương trình phục hồi kinh tế , đã giúp Wall Street thay vì các gia đình lao động hồi sinh, đang giúp phe hữu bảo thủ thay vì phe cấp tiến. Thay thế cuộc chiến lựa chọn không thể thắng ở Iraq bằng cuộc chiến cần thiết không thể thắng ở Afghanistan, chỉ là phương thức đi đến thất bại. Chính sách ngoại giao của chính quyền Obama - mặc dù lời hứa làm việc với thế giới Hồi Giáo ở Cairo và thương thuyết tài giảm binh bị ở Prague - ngày một được phái Tân Bảo Thủ mô tả như một sự tiếp sức, thay vì thay đổi, chính sách thời Bush. Phe Dân chủ rất âu lo trước viễn ảnh bầu cử giữa kỳ vào mùa thu tới. Mặc dù tài hùng biện và trí thông minh của Obama, nhiều người đang tự hỏi điều gì đang xẩy ra cho nghị trình thay đổi của chính quyền mới.
Trong thực tế, Obama không phải một cứu tinh. Những ai nghĩ thế là luôn tự dối mình. Những thất vọng trong năm đầu không phải là sản phẩm của thất bại mà chỉ là kết quả của cán cân lực lượng Obama đang phải đối mặt ở Hoa Thịnh Đốn và Hoa Kỳ nói chung. Nhiều người cấp tiến đã nghĩ, họ đã giành lại nước Mỹ với cuộc bầu cử 2008; nhưng trong thực tế, mọi việc chỉ mới bắt đầu.
Tuy nhiên, Obama cũng đã tỏ ra can đảm hơn là mọi người chờ đợi, kêu gọi dân Mỹ phải đương đầu với những thử thách lớn lao không còn có thể lẫn tránh. Mặc dù, tham vọng và viễn kiến của Obama thường được kèm theo một sự thận trọng rõ rệt trong quan niệm và chính sách thực thi.
Obama rõ ràng mơ ước trở thành một tổng thống lịch sử , một tổng thống định hình một kỷ nguyên mới như FDR hay Reagan. Tuy nhiên, Obama không bao giờ là một lãnh tụ cấp tiến của một phong trào, như Reagan đã là một lãnh tụ bảo thủ của một kỷ nguyên. Obama đã tự bao vây mình với những cộng sự viên sáng giá và thông minh trong đảng dân chủ, chắt lọc từ thời Clinton. Phần lớn những cố vấn hàng đầu - từ Larry Summers và Timothy Geithner đến Robert Gates - đều đã trực tiếp tham dự vào những quyết định đã đẩy dân Mỹ xuống vực thẳm. Họ không phải là những người chủ trương thay đổi.
Vì vậy, những nghị trình cải cách của chính quyền thường bất cập so với ước vọng của giới cấp tiến, cũng như những mục tiêu Obama theo đuổi và những đổi thay nước Mỹ cần. Obama đã định hình một nền tảng mới cho nền kinh tế, nhưng các đại ngân hàng được cứu nguy mà chẳng được tái cấu trúc, và cũng chẳng có một chính sách kỹ nghệ đi kèm. Các lãnh đạo ngân hàng bị chỉ trích đã tự tưởng thưởng những món tiền kếch sù, nhưng không một nỗ lực buộc họ phải có trách nhiệm, và tăng cường quyền lực của công nhân - những biện pháp thiết yếu cho một nền kinh tế phục vụ một giai cấp trung lưu rộng lớn. Obama đã gạt bỏ thái độ "cao bồi" hiếu chiến đã phá sản của Bush, nhưng quyết định leo thang ở Afghanistan cũng chẳng mấy khác sự điên rồ tuyên chiến với các nhóm khủng bố thay vì tăng cường hệ thống cảnh sát và thượng tôn luật pháp.
Điều đáng ngạc nhiên hơn cả là thái độ dè dặt, thay vì mạnh dạn tấn công trực diện, phe hữu trong cuộc chiến tư tưởng. Reagan đã củng cố kỷ nguyên bảo thủ một phần qua việc đấu tranh với phái tự do đang ngự trị với một chiến dịch chỉ trích không mệt mỏi. Reagan có thể thay đổi hay rút lại chính sách khi cần, nhưng sự tấn công ý thức hệ của ông không bao giờ lay chuyển. Obama có một năng khiếu quý hiếm gói ghém những tương phản với phe hữu, chống lại chủ nghĩa kinh điển về thị trường và các tổ chức khủng bố độc hại, với một tuyên ngôn có sức thuyết phục về giá trị, và với chính quyền như phương tiện cần thiết để đạt mục đích chung.
Nhưng trong suốt năm qua, phe Dân Chủ đã thảo luận nhiều về chính sách - sự lựa chọn công, mức trần và mậu dịch, quy luật giám sát các bất trắc mang tính hệ thống - trong khi phe Cộng Hòa và phe hữu đang trỗi dậy đã đưa ra những luận cứ về giá trị và tư tưởng, về tự do và thị trường tự do, về tự do và vai trò hạn chế của chính quyền. Mặc dù chính quyền Obama đã nhắc nhủ người Mỹ về di sản tai họa các năm cầm quyền của Bush, phe Dân Chủ ít khi lên án những tư tưởng bảo thủ nguồn cội của tai họa. Thay vào đó, Obama giới hạn chỉ trích vào quá trình sinh hoạt chính trị - chính trị đảng phái ...chu kỳ thông tin ngày một dồn dập... tranh cử không ngừng nhằm lấy điểm với cử tri thay vì đối phó với các thử thách chung.
Sự thiếu sót nầy bổ túc chiến lược nội bộ của Quốc Hội - đánh giá cao thỏa hiệp hậu trường hơn là vận động công khai. Tổng thống đưa ra các thành tố của các đề xuất cải cách và để Quốc Hội và các phụ tá của mình thương lượng ở hậu trường. Nhưng phương thức nầy đã tiếp sức cho số đông thành viên đảng đối lập đã được huy động sẵn để chống đối mọi cải cách thực sự.
Nhiều thành phần chống đối đã lộ diện trong những tháng vừa qua- chiến lược tiêu cực của đảng Cộng Hòa, những quy luật của Thượng Viện cho phép một thiểu số bảo thủ của các tiểu bang bé nhỏ gây nhiều trở ngại. Chúng ta nên nhớ đảng Dân Chủ đang chiếm đa số trong lưỡng viện Quốc Hội, do đó, lẽ ra đã có thể được huy động để áp đặt một gói kích cầu lớn hơn và một dự luật cải cách y tế ý nghĩa hơn.
Đã hẳn, thành lũy của phe đối lập là các tập đoàn đại công ty luôn chống lại mọi biện pháp có lợi cho giới lao động trung lưu, và Quốc Hội đã bị các nhà vận động hành lang mua chuộc. Với phán quyết gần đây của Tối Cao Pháp Viện cho phép các đại công ty đóng góp không giới hạn vào chi phí vận động bầu cử, nay là thời đại hoàng kim của các nhà vận động hành lang. Các ngân hàng thương mãi đã có một đội ngũ 417 nhân viên vận động hành lang đã đăng ký. Đội ngũ vận động hành lang của các kỹ nghệ dược phẩm và bảo hiểm chi tiêu khoảng 1,4 triệu mỗi ngày, với 350 nguyên nghị sĩ dân biểu và nhân viên văn phòng Quốc Hội luôn sẵn sàng tìm cách làm suy yếu mọi cải cách y tế. Một số đông các nhà lập pháp lưỡng đảng đã bị thối rữa bởi chính trị dựa trên tiền bạc.
Kết quả là ngay cả khi các cải cách lịch sử như y tế đang được đa số người Mỹ hoan nghênh, các thỏa hiệp đã biến thái dự án cải cách đến độ các người ủng hộ mất hết tin tưởng và tinh thần phấn đấu. Phe Dân Chủ đang đối diện cuộc bầu cử giữa kỳ 2010 với 10% thất nghiệp, các lãnh đạo ngân hàng được cứu nguy tự tưởng thưởng hàng triệu mỹ kim, số thương vong ngày một cao ở Afghanistan, phe hữu được động viên, và các nhà hoạt động cấp tiến nản lòng. Nếu phe Cộng Hòa ghi được vài chiến thắng quan trọng, mọi chuyện sẽ trở nên khó khăn hơn, chính quyền Obama sẽ thận trọng e dè hơn nữa. Rõ ràng, nếu người Mỹ không muốn mất cơ hội tốt nhất để đem lại những cải cách cấp tiến trong hơn 30 năm qua, tình trạng nầy sẽ phải thay đổi.
TƯ DUY VÀ NGHỊ TRÌNH
T T Obama đã cảnh cáo thay đổi sẽ không đến một cách dễ dàng. Ngay từ đầu, chính quyền đã dồn khả năng và tài nguyên vào việc tổ chức một cơ sở hậu thuẫn thống nhất các nhà hoạt động. Đối với Obama, tổ chức có nghĩa sẽ sử dụng danh sách đông đảo các nhà hoạt động và ủng hộ viên được chiêu mộ trong quá trình vận động bầu cử tổng thống 2008. Những người ủng hộ tài chánh được huy động để thành lập những thực thể mới - Dự Án Mục Tiêu Chung, Thống Nhất '09, v. v... nhằm phối hợp các thông điệp, và các hoạt động tại các địa phương. Tài nguyên được dành cho các liên minh giúp thúc đẩy vận động cải cách y tế , thay đổi khí hậu, và cải cách di trú. Đã đến lúc giới cấp tiến phải đoàn kết để tích cực hổ trợ cấp lãnh đạo và giúp vận động cải cách.
Mạng lưới các nhà hoạt động cấp tiến và tổ chức quần chúng trong khắp nước đã đáp lời kêu gọi. Nhiều liên minh rộng lớn đã thành hình, giúp đem lại cho các nhà hoạt động khả năng phối hợp tốt hơn trong quá trình vận động hành lang các nhà lập pháp. Những đơn vị cử tri mới - cộng đồng tôn giáo, thanh niên, các tiểu thương - được tuyển chọn. Tài nguyên được cung cấp cho các khu vực, các tiểu bang, để lôi cuốn các cử tri độc lập và giành phiếu.
Các nỗ lực vừa kể đã đẩy mạnh các cải cách then chốt của tổng thống. Khi cải cách y tế bị đe dọa chìm xuồng, giới cấp tiến - do tổ chức Health Care For America Now, các nghiệp đoàn, MoveOn - đã động viên cử tri đè bẹp phe đối kháng trong các town hall meetings. Yếm thế thường là thái độ của những ai chán ngấy chính trị. Bloggersphere tả phái gần đây đầy dẫy những lời ta thán, thất vọng - tố cáo tính xảo trá của các chính trị gia, chính quyền thối nát, và Obama quá mãi mê thỏa hiệp - đe dọa bỏ cuộc và tìm cuộc sống ẩn dật. Đó đã hẳn là thái độ sai lầm. Người Mỹ đang tranh luận gay gắt về tương lai. Liệu người Mỹ có thể nào huy động được ý chí và đa số cần thiết để đáp ứng các thử thách quyết định đang phải đối phó? Hay người Mỹ sẽ tiếp tục buông xuôi tuột dốc, nhường sân khấu cho tay chân tập đoàn các đại công ty thủ lợi nhờ đường lối sai lầm của phe bảo thủ?
Muốn giữ phần thắng trong cuộc tranh luận, giới trí thức cấp tiến tả phái cần có tư duy mới và phương cách tổ chức độc lập. Họ phải thoát ra ngoài Hoa Thịnh Đốn để vận động và tổ chức các phong trào phản đối, đòi hỏi công bằng xã hội, và nói lên nguyện vọng của những người mất việc làm, mất nhà cửa. Họ phải giúp đem lại một hướng đi mới, đồng thời tố cáo những idols ngụy tạo, những nhóm đặc quyền đặc lợi đang tìm đủ cách cản trở đổi thay.
Giới cấp tiến phải trực diện tranh luận với phe hữu đang trỗi dậy. Một bài học cay đắng cần được phổ biến rộng rãi: tai ương hổn độn hiện nay bắt nguồn không phải từ quán tính xã hội, do thiếu hành động, hay chia rẽ đảng phái, mà từ sự phá sản của các chính sách bảo thủ và tư tưởng bảo thủ. Chỉ còn cách tập hợp, đoàn kết để đòi hỏi một chính quyền dân chủ, đầy đủ tinh thần trách nhiệm, tách khỏi nanh vuốt của những nhóm đặc quyền đặc lợi, người Mỹ mới có thể xây dựng một nước Mỹ công bằng và đầy sức sống.
Một nỗ lực mới tập trung vào việc tái xây dựng những phong trào phản đối của Main Street có thể giúp tăng cường giới cấp tiến. Những cuộc tranh luận toàn quốc về những cải cách căn bản sẽ đem lại đối tượng cụ thể cho nỗ lực tổ chức. Trong năm 2010, giả thiết luật cải tổ y tế được chấp thuận, nghị trình lập pháp sẽ chuyển qua tạo công ăn việc làm, quy luật giám sát, và trách nhiệm của các định chế tài chánh, sẽ trở thành hai đối tượng nòng cốt để xây dựng một nền kinh tế mới. Trên bình diện chính trị, cuộc bầu cử giữa kỳ vào mùa thu sắp tới sẽ tùy thuộc các ứng viên đảng nào có thể thuyết phục được cử tri đang hoài nghi là họ sẽ đứng về phía dân lao động và tìm cách giảm thiểu các quá đáng của Wall Street.
Giới cấp tiến đã phác họa một nghị trình thiết yếu trong cuộc tranh luận toàn quốc. Về việc làm, vấn đề căn bản là liệu có đủ kiên trì đối phó với khủng hoảng nhân dụng sâu rộng hiện nay, và có tập trung đủ để tác động đến các địa hạt bị tàn phá nhiều nhất. Phe Cộng Hòa và các thành viên Dân Chủ Blue Dogs đã rõ ràng chống đối bất cứ chương trình mới nào. Chính quyền, đang âu lo về ngân sách khiếm hụt, nhưng tin tưởng kinh tế đang trên đường hồi phục, có khuynh hướng lo trẻ trung hóa, thay vì các cuộc giải phẩu chỉnh hình cần thiết.
Tầm quan trọng của việc làm khó thể cao hơn. Nếu phe Dân Chủ không thành công, kinh tế sẽ khó hồi phục, và bầu cử giữa kỳ 2010 sẽ bóp chết mọi cơ may cải cách. Ít ra, phe Dân Chủ cũng phải chứng tỏ với người Mỹ là họ đang tranh đấu để tạo công ăn việc làm. Các nỗ lực tổ chức độc lập nói lên tiếng nói của giới thất nghiệp, đã được các nghiệp đoàn lao động và các tổ chức dân sự bắt đầu, là rất thiết yếu.
Song song với cuộc tranh luận về công ăn việc làm, các tranh luận về cải cách tài chánh cũng cần đem lại môi trường cho nỗ lực tổ chức của giới cấp tiến. Tòa Bạch Ốc đã có kế hoạch tuyên chiến với các tổ chức vận động hành lang của giới đại ngân hàng, với dự án thành lập Cơ Quan Bảo Vệ Giới Tiêu Thụ Tài Chánh nhằm giám sát các ngân hàng và bảo vệ giới tiêu thụ chống lại các lạm dụng và lừa đảo tài chánh. Ở Hạ Viện, các dân biểu Cộng Hòa đã bỏ phiếu ủng hộ các ngân hàng chống lại cải cách. Ngược lại, phe cấp tiến cần mạnh mẽ thúc đẩy các cải cách sâu rộng, tấn công vào trung tâm lạm dụng tài chánh thái quá trong nhiều năm qua - kiểm toán Cục Dự Trử Liên Bang, phá vở các liên minh và tổ hợp các đại công ty, thiết lập thuế đánh vào các lợi nhuận thiếu chính đáng, tiền thưởng quá đáng, và đầu cơ, loại trừ các thủ thuật tài chánh xảo trá, hạn chế lãi suất bóc lột.
Các nỗ lực tổ chức cấp tiến có thể dựa vào sức hậu thuẫn của cao trào giận dữ của quần chúng. Phơi bày và quảng bá các chi tiết lường gạt và thối nát mang tính hệ thống. Các cuộc biểu tình với óc sáng tạo có thể gây bối rối cho giới vận động hành lang ngân hàng và các nhà lập pháp bị mua chuộc. Chỉ khi nào quần chúng cử tri hiểu được tai họa ô nhiễm của đồng tiền các đại ngân hàng, lúc đó các cải cách cắt giảm quyền lực của giới đại ngân hàng mới có hy vọng thành công. Chính đây là địa hạt các nhà hoạt động ủng hộ Obama có thể tìm được đất dụng võ.
Các nhà phê bình tiên đoán: những đề tài khác trong nghị trình của Obama - thay đổi khí hậu, cải cách di trú, tự do lựa chọn của người làm - sẽ khó lòng được đem ra tranh luận trước ngày bầu cử 2010. Giới cấp tiến sẽ phải thúc đẩy mạnh mẽ để các cải cách trong những địa hạt nầy - những vấn đề sinh tử đối với cấu trúc kinh tế mới cũng như giúp củng cố địa vị đa số của giới cấp tiến đang lên - không bị đẩy ra ngoài lề.
Vì vụ khủng bố bất thành chuyến bay vào dịp Giáng Sinh, chính quyền đã bắt đầu năm mới trong tư thế tự vệ về đề tài khủng bố. Ủng hộ lưỡng đảng dành cho một ngân sách quân sự lớn hơn, và leo thang chiến tranh ở Afghanistan, Yemen và nhiều nơi khác, vì vậy, có lẽ sẽ gia tăng. Obama sẽ có thái độ hiếu chiến hơn đối với khủng bố. Phe chống đối leo thang chiến tranh ở Afghanistan, vẫn còn được đa số phe Dân Chủ trong Hạ Viện ủng hộ, sẽ phải hoạt động tích cực hơn, nhằm giáo dục người Mỹ về cái giá phải trả và phải đưa ra những chiến lược thay thế khôn ngoan hơn để đối phó với đe dọa khủng bố.
Viễn ảnh của phe Dân Chủ trong cuộc bầu cử sắp tới không mấy sáng sủa. Trong những cuộc bầu cử giữa kỳ thường thu hút được ít cử tri, sự hăng say của các cử tri cơ sở sẽ giữ vai trò vô cùng quan trọng. Phe hữu rõ ràng đã được động viên. Phe cấp tiến sẽ phải đánh tan tâm trạng phổ biến là phe tả sẽ không thể cưởng nỗi sự hăng say của phe hữu.
Cuộc bầu cử sẽ trở thành một cuộc trưng cầu dân ý về hướng đi tương lai của Hoa Kỳ. Liệu người Mỹ sẽ trừng phạt những người chủ trương cải tổ hay những kẻ cản đường? Điểm trọng tâm phải nắm chắc là phe Cộng Hòa phải chịu trách nhiệm về chiến lược cản đường vô trách nhiệm. Ở đây, việc phe Cộng Hòa chống đối luật tạo việc làm và luật giám sát các xảo thuật đầy nguy hiểm của các đại ngân hàng là hình ảnh của phe bảo thủ cần được phe cấp tiến quảng bá rộng rãi.
Nhưng đây không thể là một nỗ lực thuần túy đảng phái. Các nhà lập pháp phe Dân Chủ, như nhóm Dân Chủ Blue Dogs, luôn chống đối và làm suy yếu các cải cách quan trọng, cũng cần được thách thức và phải trả giá.
|
|
|
Nuớc Mỹ
Mar 18, 2010 11:58:59 GMT 9
Post by NhiHa on Mar 18, 2010 11:58:59 GMT 9
TỔNG THỐNG BARACK OBAMA VÀ THỰC TẾ CHÍNH TRỊ
Như Frederick Douglas đã nói, "quyền lực không nhượng bộ bất cứ gì nếu không có đòi hỏi. Chưa bao giờ và sẽ không bao giờ"[2]. nỗ lực vượt qua vực thẳm do các chính sách sai lầm của phe bảo thủ không thể thành công trong một sớm một chiều. Obama đã kêu gọi người dân phải trực diện đối đầu với mọi thử thách. Mỗi bước cải cách sẽ gặp sự chống đối của các nhóm quyền lợi hùng mạnh. Những chính sách tai họa như làm nhiệm vụ cảnh sát toàn cầu, từ lâu, đã được sự ủng hộ lưỡng đảng. Tuy nhiên, chưa bao giờ, kể từ thập kỷ 1960s, người Mỹ có được cơ may như hiện nay. Với tinh thần tranh đấu kiên trì, người Mỹ có thể nói lên những yêu cầu thiết yếu cho mọi thay đổi. Đây không phải lúc cho những ai ngây thơ hay yếm thế. Đây là thời buổi đòi hỏi phải tranh đấu hăng say và kiên trì.
Kỷ niệm năm đầu làm tổng thống, Obama đã phải đối diện với sự tố cáo phản bội của một số không nhỏ những người cánh tả. Đã hẳn, chúng ta phải công nhận có nhiều lý do để thất vọng - thiếu lãnh đạo trong cuộc tranh luận về cải tổ y tế, quyết định để nguyên bộ máy tra tấn của Bush, dẫm chân tại chỗ trong kế hoạch chấm dứt cuộc chiến Iraq, trì hoản lời hứa tái thương thảo NAFTA và áp đặt biện pháp tạm ngưng tịch biên nhà ở.
Đã hẳn, một vài lý do nêu trên có thể biện minh, nhưng không thể được tha thứ. Trong thực tế, Obama đã thừa hưởng một nước Mỹ trên đà phá sản toàn diện. Tuy nhiên, không có lý do để đòi được hưởng lợi điểm nghi ngờ (benefit of the doubt) đối với các lời hứa khi tranh cử. Obama là tổng thống. Ông đã có tất cả những lợi điểm ông cần. Với một trong mỗi tám người phải sống bằng thực phẩm cứu trợ, một trong mỗi sáu người da đen thất nghiệp, và hàng nghìn người tiếp tục bỏ mình ở Iraq và Afghanistan, đối với nhiều cử tri ủng hộ Obama, thay đổi không chỉ là một khẩu hiệu tranh cử; đổi thay là một điều khẩn thiết .
Năm 2009 đã đem lại một bài học nhức nhối trong sự phân biệt giữa bầu cử, chính trị, và quyền lực. Bầu cử để thay đổi nhân sự. Chính trị để thay đổi nghị trình. Quyền lực là các phương tiện giúp đưa các nghị trình vào hành động. Bầu Obama vào tòa Bạch Ốc chỉ là điểm khởi đầu một diễn tiến, không phải là điểm đến. Trong toàn cảnh cuộc vận động bầu cử, cán cân lực lượng trong chính trị Hoa Kỳ và những đòi hỏi của cử tri bỏ phiếu cho ông, các bức xúc nói trên không có gì là lạ. Tuy nhiên, bước nhảy vọt từ mất tin tưởng đến tố cáo phản bội đã bắt nguồn từ một xung đột tâm lý và cảm tính hơn là phê bình chính trị hay can thiệp chiến lược.
Nói chung, bức xúc đến từ hai nhóm với lập trường trái ngược - những người đặt quá nhiều lòng tin vào những gì Obama có thể làm và những người thờ ơ, yếm thế.
Với nhóm thứ nhất, đây là nỗi chua xót của một người tình bị khinh rẻ. Tôi yêu anh, tôi tin anh, và anh đã đáp lại tôi như thế . Cảm nghĩ nầy chỉ là một dự phóng. Obama chưa bao giờ chủ trương một nghị trình cực đoan. Quả thật, ông đã đem lại nhiều hy vọng và cảm hứng. Nhưng Obama chưa bao giờ nói, trong vòng một năm, những nhóm đặc quyền với nhiều dây mơ rể mán trong sinh hoạt chính trị ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn, những nhóm vận động hành lang, các đại công ty, các nhà bình luận thuộc thông tấn Fox, mass media, và phe quân phiệt, sẽ đầu hàng trước một nụ cười cởi mở hay một lời nói văn hoa của chính Obama. Quyết định leo thang chiến tranh ở Afghanistan, chẳng hạn, đã hẳn là sai quấy. Nhưng đây không thể gọi là một bội phản, vì Obama không hề hứa hẹn ngược lại. Sự thật đây là một cam kết khi vận động bầu cử ông đã giữ trong khi phần lớn người Mỹ chỉ mong ông quên đi.
Với nhóm thứ hai, một nụ cười mai mỉa và tự mãn của các nhà phê bình không thể tự kìm hảm: "Tôi đã bảo thế". Không có lấy một chiến lược tuyển cử hay chính trị mạch lạc giúp mọi người đi từ khởi điểm đến nơi cần tới, họ đã giữ thái độ yếm thế ngay từ đầu. Không tin ở tiềm năng có thể vận động số đông thanh niên nam nữ, da đen, Latino, và công nhân các nghiệp đoàn, đã say sưa tham dự vào quá trình vận động tuyển cử, họ nghĩ nỗ lực vận động và hăng say chỉ là ảo vọng tức thời. Họ chỉ chờ lúc để có thể nói lên: "Tôi đã biết ngay từ đầu". Theo lời Friedrich Engels, "thật là một thái độ ngây thơ trẻ con khi trình bày sự thiếu kiên nhẫn của chính mình như một luận cứ mang tính thuyết phục về lý thuyết"[3].
Trong khi cả hai nhóm đã hành động theo những động lực khác nhau, họ luôn có hai điểm tương đồng.
Thứ nhất, họ chia sẻ một giả thiết của cánh hữu: lịch sử luôn do những vĩ nhân hơn là do các tương tác phức tạp giữa quần chúng, thời gian, không gian và quyền lực. Sự dỗi hờn của họ đều dồn vào một người và chỉ một người - không phải một hệ thống, một định chế, hay một tập hợp nhiều mầu sắc các lực lượng khác nhau, mà chỉ Obama. Nếu Obama cố gắng nhiều hơn, ông ta đã có thể thành công. Lời buộc tội, phản ảnh sự tận tụy của chính họ với một người, và lòng khâm phục đối với một chức vị, không phù hợp với sinh hoạt dân chủ và không thích ứng với chính trị tả phái.
Thứ hai, vĩ nhân của họ hiện hữu như một cá thể trừu tượng, trong chân không, thiếu vắng các lực tương tác, các hữu hạn và các thực thể vật lý. Bất cứ phong trào nào ủng hộ hay chống đối vĩ nhân, và bất cứ biến cố nào có thể khiến vĩ nhân mất tập trung, đối với họ, đều không có tác dụng. Họ thu gọn chính trị từ một sinh họat trong thế giới thực tại xuống còn một hành động duy ý chí, xây dựng một thế giới mới từ chân không. Một thế giới đòi hỏi 60 phiếu ở Thượng Viện, và những tương nhượng thương thỏa đến từ thực tại đó, không có ý nghĩa đối với họ.
Những thất vọng với năm đầu của Obama không hề khó tiên đoán. Người ta có thể thấy rõ không những trong chính trị của chính Obama, mà cả trong bối cảnh các xu thế chính trị của các lực lượng và các định chế vây quanh ông. Obama có thể đã trỗi dậy như một ứng viên cấp tiến có nhiều cơ may nhất trong các cuộc bầu cử, và cấp tiến nhất trong tòa Bạch Ốc, kể từ Lyndon Johnson. Nhưng điều đó không đồng nghĩa với tính thực sự cấp tiến của chính ông.
Thất vọng là điều chắc chắn đối với những ai đứng về phía tả tự do của Hoa Kỳ. Lạc quan là một thử thách thực sự. Một số người Mỹ đã tìm thấy hy vọng từ sự hăng say, tính năng động, và bản chất đa dạng trong cơ sở hậu thuẫn Obama - những yếu tố có thể trỗi dậy như một phong trào. Điều đó chưa trở thành hiện thực. Nhưng nó đã bén rể trong niềm tin không phải Obama sẽ hướng dẫn họ đi về phía tả, mà trong niềm tin họ có thể huy động một phong trào có đủ số đông để thúc đẩy Obama đi về phía tả và ông sẽ phải đáp ứng áp lực của họ. Một lần nữa như Frederick Douglas đã từng phát biểu, "Nếu không có đấu tranh, sẽ không có tiến bộ. Quyền lực không nhượng bộ bất cứ gì mà không có yêu cầu. Điều đó chưa bao giờ và sẽ không bao giờ xẩy ra"[4].
DỰ PHÓNG NGÂN SÁCH VÀ TÁC ĐỘNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ TRONG THẬP KỶ TỚI
Trong khi phân tích ngân sách liên bang đầy ắp thống kê, người ta có thể nhận diện hai con số đặc biệt gây ấn tượng, vì tiềm năng làm thay đổi chính trị và uy lực của Hoa Kỳ.
Trước tiên, đó là số khiếm hụt dự phóng cho năm tới, gần 11% GDP của Mỹ. Ngạch số khiếm hụt tự nó không mang tính vô tiền khoáng hậu: Trong Cuộc Nội Chiến, Đệ Nhất và Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa kỳ đã từng trải nghiệm những ngạch số khuy khiếm tăng vọt, nhưng thường với ý thức các số khiếm hụt sẽ giảm thiểu và trở lại mức có thể gánh chịu ngay sau khi hòa bình được tái lập và chiến tranh chấm dứt.
Nhưng con số thứ hai, vùi sâu trong các dự báo ngân sách, mới chính là con số đáng quan tâm: Ngay trong dự báo lạc quan của chính Tổng Thống Barack Obama, ngạch số khuy khiếm của Hoa Kỳ cũng sẽ không thể trở lại mức chờ đợi trong 10 năm tới. Trong thực tế, kể từ 2019 và 2020 - khi Obama đã rời sân khấu chính trị, ngay cả khi phục vụ đủ hai nhiệm kỳ - khiếm hụt ngân sách sẽ gia tăng trở lại một cách nhanh chóng, lên trên 5% GDP. Ngân sách của Obama đưa ra hình ảnh một quốc gia tương tự chủ các căn hộ Mỹ đang không thể ngoi đầu lên khỏi mực nước.
Đối với Obama và các tổng thống kế nhiệm, hậu quả của các dự báo nói trên rất rõ ràng: Trừ phi một tăng trưởng thần kỳ, hay một thỏa hiệp chính trị mầu nhiệm nào đó tạo ra những đổi thay không được tiên đoán trong thập kỷ tới, hầu như Obama và các vị kế nhiệm khó thể đưa ra bất cứ sáng kiến đối nội mới mẻ nào. Hoa Kỳ rất có thể sẽ phải trải nghiệm một thập kỷ suy thoái tương tự như Nhật Bản trong thập kỷ vừa qua. Trong khi nợ nần tăng nhanh hơn lợi tức, uy lực của Mỹ trên thế giới sẽ bị xói mòn.
Hay như kinh tế trưởng và cố vấn của Obama, Lawrence H. Summers, đã nhiều lần hỏi trước khi tham gia chính quyền cách đây một năm, " Xứ vay nợ nhiều nhất thế giới sẽ duy trì địa vị cường quốc lớn nhất thế giới được bao lâu?"[5].
Các lãnh đạo TQ, quốc gia tài trợ các chi tiêu của chính quyền Mỹ, trong dịp thăm viếng Hoa Thịnh Đốn vào mùa hè năm ngoái để tìm hiểu về ngân sách của T T Obama, đã thẳng thắn cho biết: họ nghĩ câu trả lời trong trường kỳ cho câu hỏi của Summers là quá hiển nhiên. Người Âu châu cũng đã đồng ý đây là mối âu lo lớn trong thập kỷ tới.
Chính Obama, vào đầu tháng 12-2009, cũng đã ám chỉ quan tâm của chính ông khi loan báo kế hoạch tăng viện 30.000 quân vào cuộc chiến Afghanistan, đồng thời cảnh cáo, Hoa Kỳ không thể ở lại Afghanistan lâu dài.
Obama nói với các sinh viên sĩ quan ở West Point: "Sự phú cường của chúng ta là nền tảng quyền lực của chúng ta. Sự phú cường giúp trang trải các chi phí quân sự của chúng ta, bảo đảm hoạt động ngoại giao của chúng ta, vận dụng tiềm năng của dân tộc chúng ta, và cho phép đầu tư vào kỹ nghệ mới"[6].
T T Obama giải thích tiếp, ngay cả cuộc chiến cần thiết - như ông thường gọi cuộc chiến Afghanistan - cũng không thể tiếp diễn dài lâu. Ông nói: "Chính vì vậy, cam kết của quân đội chúng ta ở Afghanistan không thể vô thời hạn, bởi lẽ quốc gia tôi muốn xây dựng nhất là chính quốc gia của chúng ta"[7].
Điều đáng khen trong ngân sách của Tổng Thống là đã nói lên sự thật, hay ít ra đã không bọc đường một cách thái quá tầm vóc tiềm tàng của vấn đề. Cho đến gần phút cuối của hai nhiệm kỳ, T T George W. Bush luôn quả quyết: ông sẽ rời nhiệm sở để lại một ngân sách thăng bằng. Ông chẳng bao giờ tiến đến gần. Trong thực tế, ngạch số khuy khiếm đã tăng vọt vào những năm cuối của Bush ở Tòa Bạch Ốc.
Obama đã công bố các con số cho 10 năm sắp tới, một phần hình như để chứng minh tình trạng bế tắc chính trị ở Hoa Thịnh Đốn trong những năm qua không thể kéo dài - trong khi phe Cộng Hòa luôn từ chối thảo luận tăng thuế, và phe Dân Chủ cũng chẳng chịu thương thảo cắt giảm một số chương trình. Obama chủ trương phải tăng chi để giải quyết thất nghiệp, trước khi có thể tìm giải pháp giảm thiểu khiếm hụt ngân sách.
Lawrence H. Summers, trong cuộc phỏng vấn chiều 01-2-2010, đã nói, "ngân sách công nhận nhu cầu khẩn thiết tạo thêm việc làm và tăng trưởng trong đoản kỳ, và cần có những biện pháp quan trọng nhằm tăng lòng tin trong trung hạn"[8]. Summers đã nhắc đến khả năng đóng băng các chi tiêu quốc nội không liên hệ đến an ninh quốc gia, các nỗ lực cắt giảm các chi phí về dịch vụ y tế, và quyết định không tái tục các biện pháp giảm thuế cho các đại công ty và gia đình có lợi tức trên 250.000 USD mỗi năm.
Tuy nhiên, Summers đã nói thêm: "Qua ủy ban ngân sách và tài chánh, Tổng Thống đã tìm cách dành quyền tối đa để lâm thời áp đặt các biện pháp điều chỉnh cần thiết trước khi có bất cứ khủng hoảng nào xẩy ra"[9].
Đã hẳn, từ tư tưởng đến hành động, quá trình chưa bao giờ dễ dàng trong chính trị Hoa Thịnh Đốn. Phe Cộng Hòa luôn giữ im lặng về tình trạng nợ nần dưới thời George W. Bush. Phe Dân Chủ đã mô tả tăng công trái như "một điều xấu nhưng cần thiết" (necessary evil) trong thời gian khủng hoảng, như trong năm đầu của Obama. Vấn đề là phải nghĩ đến giải pháp lâu dài. Hay như Isabel V. Sawhill, thuộc Brookings Institution, đã nói với hãng thông tấn MSNBC hôm 01-02-2010, "vấn đề ở đây không phải là lương thiện, mà là ý chí chính trị"[10].
© GS Nguyễn Trường Irvine, CA 92606, U.S.A.
20-02-2010
[1] As our case is new, so we must think anew and act anew.
[2] Power concedes nothing without a demand. It never did and never will.
[3] Friedrich Engels: What childish innocence it is to present one's own impatience as a theoretically convincing argument!
[4] If there is no struggle there is no pragress. Power concedes nothing without a demand. It never did and it never will.
[5] Lawrence H. Summers: How long can the world's biggest borrower remain the world's biggest power?
[6] Obama: "Our prosperity provides a foundation for our power. It pays for our military. It underwrites our diplomacy. It taps the potential of our people, and allows investment in new industry".
[7] Obama: "That is why our troop committment in Afghanistan cannot be open-ended, because the nation that I'm most interested in building is our own".
[8] Lawrence H. Summers: "The budget recognizes the imperatives of job creation and growth in the shor run, and takes significant measures to increase confidence in the medium term".
[9] Lawrence H Summers: "Through the budget and fiscal commission, the president has sought to provide maximum room for making further adjustments as necessary before any kind of crisis arrives".
[10] Isabel V. Sawhill: "The problem here is not honesty, but political will".
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 15, 2010 7:29:09 GMT 9
Chính quyền Obama và chủ thuyết Monroe
Nguyễn Trường 4/03/2010
Thực hiện lời hứa với cử tri, tháng 9 năm 2009, Tổng Thống Ecuador, Rafael Correa, đã từ chối gia hạn thỏa ước cho phép Hoa kỳ sử dụng căn cứ không quân bên ngoài thành phố Manta bên bờ Thái Bình Dương. Trong suốt thập kỷ vừa qua, căn cứ Manta đã hoạt động như tiền đồn chính của Hoa Kỳ ở Nam Mỹ. Quyết định chấm dứt thỏa ước là một nỗ lực nghiêm chỉnh thực thi hiến pháp mới của Ecuador - cổ súy tài giảm binh bị toàn cầu và chống lại mọi áp đặt các căn cứ quân sự ở hải ngoại của bất cứ cường quốc nào. Đây cũng là một chiến thắng quan trọng của phong trào phi-quân-sự-hóa toàn cầu, một phong trào ra đời do ảnh hưởng của Mạng Lưới Quốc Tế Bãi Bỏ Các Căn Cứ Quân Sự Hải Ngoại (Internatioal Network for the Abolition of Foreign Military Bases) của một số đại cường kể từ khi phong trào chống đối đã buộc Hải Quân Hoa Kỳ phải rút khỏi Vieques, Puerto Rico, năm 2003. Correa đã đùa giỡn: "chúng tôi sẽ gia hạn thỏa ước nếu Hoa Kỳ đồng ý cho chúng tôi thiết lập một căn cứ ở Miami"[1].
Như để đáp lại, vào cuối tháng 10-2009, Hoa Kỳ và Colombia đã ký một thỏa ước cho phép Ngũ Giác Đài sử dụng bảy căn cứ quân sự cùng với một số không hạn định các cơ sở và địa điểm không ghi rõ, bên cạnh sự hiện diện quan trọng sẵn có ở Colombia, Trung Mỹ và vùng Caribbean.
Trước sự chỉ trích của Nam Mỹ về các hoạt động quân sự ở Colombia, Tòa Bạch Ốc nhấn mạnh Hoa kỳ chỉ chính thức hóa hợp tác quân sự hiện hữu giữa hai xứ trong Kế hoạch Colombia (Plan Colombia) và sẽ không gia tăng khả năng tấn công của Southcom, Bộ Tư Lệnh Khu Vực Nam của Hoa Kỳ. Cùng lúc, Ngũ Giác Đài đã ghi rõ, trong dự thảo ngân sách 2009, Bộ Quốc Phòng cần ngân khoản để canh tân các căn cứ với khả năng hoạt động bao trùm toàn bộ Nam Mỹ (full spectrum operations throughout South America) để đối phó với các chính quyền chống Mỹ và bành trướng khả năng viễn chinh (expeditionary warfare capability). Về sau, diễn giải mang ý đồ mặc nhiên vừa nói, đã được xóa khỏi ngân sách chính thức, có thể chỉ là trường hợp lớn tiếng đe dọa để biện minh các khoản chi trong thời buổi khủng hoảng tài chánh. Tuy nhiên, quyết định của chính quyền Obama xúc tiến các căn cứ quân sự ở Colombia đã tăng tính đe dọa trong chính sách của Hoa Kỳ ở Tây Bán Cầu.
Trong những năm gần đây, Hoa Thịnh Đốn đã trải nghiệm khuynh hướng suy giảm ảnh hưởng nhanh chóng ở Nam Mỹ trước sự trỗi dậy của Brazil, bước ngoặt tả khuynh trong vùng, ảnh hưởng gia tăng của Trung Quốc, và quyết định dùng số thu nhập từ dầu khí để theo đuổi đường lối ngoại giao đa cực của Venezuela. Các cao trào xã hội rộng khắp đã thách thức nỗ lực của các công ty Hoa Kỳ và Gia Nả Đại đang tìm cách tăng cường các kỹ nghệ khoáng sản như hầm mỏ, nhiên liệu sinh học, dầu khí, và khai thác gỗ quý. Ở Peru, trong năm 2009, các cuộc biểu tình chống đối của thổ dân đã buộc nhà cầm quyền phải hủy bỏ các luật cho phép các công ty ngoại quốc khai thác gỗ, khoáng sản, dầu khí trong nhiều vùng Amazon rộng lớn. Và các biến động tương tự ở khắp nơi đã giúp châu Mỹ La Tinh tiếp tục duy trì vai trò tiên phong trong phong trào dân chủ toàn cầu chống đối các đại công ty và chủ nghĩa quân sự.
Các thử thách đối với quyền lực của Hoa Kỳ đã khiến Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại (Council on Foreign Relations) tuyên bố Chủ Thuyết Monroe đã lỗi thời. Nhưng chủ thuyết nầy, cơ sở lý thuyết biện minh mọi can thiệp từ Patagonia đến Rio Grande trong gần hai thế kỷ vừa qua, không cáo chung mà chỉ suy yếu dần, với chính quyền Obama đã làm các đồng minh tiềm năng trong vùng thất vọng qua việc tiếp tục cổ súy một hỗn hợp mong manh chính sách quân sự và lý thuyết tự do thương mãi chính thống trong hành lang từ Mexico đến Colombia.
Nền tảng của Chủ Thuyết Monroe là Kế hoạch Colombia. Bước vào năm thứ 11, một kế hoạch, dự định sẽ hoàn tất sau năm năm với gói viện trợ quân sự nhiều tỉ USD của Hoa Thịnh Đốn, đã thất bại trong nỗ lực chận đứng dòng chảy nha phiến bất hợp pháp vào Hoa Kỳ. Ngày một nhiều coca từ vùng Andes đã được tinh chế thành cocaine vào năm 2008 hơn là năm 1998; và ngày nay, giá bán lẻ các loại ma túy, sau khi điều chỉnh theo tỉ lệ lạm phát, còn thấp hơn một thập kỷ trước đây rất nhiều.
Nhưng Kế hoạch Colombia, trong thực tế không chỉ nhằm đối phó với nạn buôn bán ma túy, mà chính là một phiên bản Châu Mỹ La Tinh của GCOIN, hay Kế Hoạch Chống Nổi Loạn Toàn Cầu - Global Counterinsurgency, một từ mới đang được các chiến lược gia sử dụng nhằm tránh sự liên tưởng mang tính tôn giáo và ý thức hệ đến Cuộc Chiến Chống Khủng Bố Toàn Cầu tai họa của George W. Bush, và tập trung vào một chương trình khiêm tốn hơn nhằm mở rộng sự kiểm soát của chính quyền địa phương trong những khu vực hay "không gian vô luật pháp hay bất trị" (lawless or ungoverned spaces), theo ngôn từ GCOIN.
Từ 2006, với việc chiếm đóng Iraq ngày một gặp khó khăn, Kế hoạch Colombia đã trở thành chiến lược chống nổi dậy, được các chiến lược gia ca tụng như sự áp dụng thành công chiến lược tảo thanh, củng cố, và kiến thiết (clear, hold and build sequence) - một chiến lược Tướng David Petraeus ưa thích. Những bài học của Kế hoạch Colombia đã được đưa vào chương trình giảng dạy trong nhiều trường cao đẳng quân sự, và Bộ Tham Mưu Liên Quân chính thức xem như mô hình thích ứng với chiến trường Afghanistan. Quân đội Colombia, được Hoa Thịnh Đốn hậu thuẩn, không những đã làm suy yếu Lực Lượng Vũ Trang Cách Mạng (Revoluionary Armed Forces - FARC), phong trào nổi dậy mạnh mẻ và dai dẳng ở châu Mỹ La Tinh, mà theo Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại còn bảo đảm sự hiện diện của nhà nước trong nhiều khu vực trước đây do các lực lượng vũ trang bất hợp pháp kiểm soát, giúp tái lập chính quyền dân cử, xây dựng và tái xây dựng các hạ tầng cơ sở công cộng, và tăng cường pháp trị. Nói một cách khác, Kế hoạch Colombia đem lại không chỉ một lộ trình đến thành công mà chính sự thành công. Colombia, như vậy, phải là mô hình lý tưởng cho Iraq.
Thông thường trong quá trình chống nổi loạn, giai đoạn "tảo thanh" (clear) thường đi kèm với chiến dịch khủng bố và ám sát che đậy như Chiến Dịch Phượng Hoàng ở Nam Việt Nam hay Chiến Dịch Mano Blanca ở El Salvador. George W. Bush đắc cử tổng thống vào thời điểm toàn bộ Kế hoạch Colombia đã đi vào hoạt động, và theo Scott Wilson, phóng viên báo Washington Post, đã yểm trợ các hoạt động của các lực lượng bán quân sự cánh hữu, được tổ chức một cách lỏng lẻo như Lực Lượng Tự Vệ Thống Nhất (United Self-Defense Forces) hay AUC theo tiếng Tây Ban Nha. Luận cứ lúc đó luôn là các lực lượng bán quân sự - chịu trách nhiệm trong hầu hết các vụ thủ tiêu chính trị ở Colombia - cung cấp lực lượng bổ túc quân đội còn thiếu.
Tiếp theo là giai đoạn "củng cố" (hold): các lực lượng bán quân sự giành chiếm đất hàng loạt. Lường gạt và bạo lực - "bán nếu không quả phụ của quý vị sẽ bán" - thường đi trước chiến dịch giành đất đai, đồng hành với chiến dịch rải thuốc đại tràng gây ô nhiễm đất canh tác, đã biến hàng triệu dân quê thành người tỵ nạn. Các phần tử bán quân sự và các đồng minh buôn bán ma túy, hiện nay, kiểm soát lối 10 triệu acres, khoảng phân nửa diện tích mầu mỡ của Colombia.
Sau khi đã bình định phần lớn nông thôn là giai đoạn "xây dựng" (building) guồng máy cầm quyền. Trên phương diện kỷ thuật, Hoa Kỳ xem AUC như một tổ chức khủng bố, một trong ba nhóm thành viên khủng-bố-buôn-ma-túy(narcoterrorist triptych) - AUC-FARC-NARCOS (nhân viên bài trừ ma túy) - những nhóm đối tượng của Southcom. Tuy nhiên, Kế hoạch Colombia không nhằm thanh toán các tay chơi bán quân sự - ngoại trừ các thành phần ngoan cố và không cần thiết - trái lại, chỉ nhằm tạo một địa bàn qua đó, với chính sách chiến tranh triền miên, các nhóm nầy có thể trở thành giới cầm quyền. Dưới lớp hỏa mù đại xá của chính quyền (government-brokered amnesty), một việc làm đã bị các nhóm nhân quyền quốc tế lên án như định chế hóa tình trạng ngoài vòng luật pháp (institutionalizing impunity), các nhóm bán quân sự đã nắm quyền kiểm soát hàng trăm chính quyền địa phương, tạo lập một tình trạng nhà xã hội học Comlombia, Leon Valencia, mệnh danh là các thực thể độc tài địa phương chính hiệu (true local dictatorships), củng cố quyền nắm giữ tài sản và các dây liên kết với giới buôn bán ma túy, địa chủ, và các chính trị gia. Mạng lưới tình báo Colombian ngày một lớn mạnh thâm nhập bởi các tổ chức khủng bố, buôn bán ma túy, tư pháp, và quốc hội, nơi hơn 40 dân biểu đang bị điều tra có liên hệ với AUC.
Nói một cách khác, Kế hoạch Colombia đã tài trợ các hoạt động đối nghịch với những gì đang diễn tiến trong các xứ láng giềng Ecuador, Bolivia và Venezuela, nơi các phong trào cấp tiến đang nỗ lực tái xây dựng xã hội của họ với chính sách đoàn kết, hợp tác, và hội nhập. Thay vì thể chế dân chủ tham dự tả phái (participatory democracy), Tổng Thống Colombia, Alvaro Uribe, chủ trương an ninh dân chủ (democratic security), một tập hợp xã hội ở đó những ai chịu chấp nhận trật tự mới được hứa hẹn những khu phố an toàn, đôi khi giàu có, các đại lộ an ninh, trong khi các tổ chức dân sự đối lập luôn bị khủng bố và ám sát. Colombia đang ở trong một chế độ đàn áp, tàn bạo, thối nát, tệ hại nhất châu Mỹ La Tinh. Từ ngày Uribe chấp chính, hơn 500 thành viên các nghiệp đoàn đã bị thủ tiêu. Trong những năm gần đây, 195 giáo viên đã bị ám sát, và không một thủ phạm bị bắt. Quân đội bị tố cáo đã giết hại hơn 2000 thường dân, rồi khoác lên tử thi đồng phục của chiến binh du kích để tuyên truyền đã có nhiều tiến bộ trong cuộc chiến chống FARC.
Hình như các chiến binh hữu phái không chịu sống cuộc đời thầm lặng do Paz Uribista bảo đảm. Nuevo Arco Iris, một think tank có trụ sở ở Bogota, đã tường trình: nhiều cuộc nội chiến cỡ nhỏ đã diễn ra giữa các "hậu duệ AUC" tranh giành quyền kiểm soát các chiến lợi phẩm địa phương. Tuy vậy, Kế hoạch Colombia vẫn được Hoa Kỳ hoan nghênh. Trên đường trở về sau hội nghị GCOIN ở Bogota mới đây, nguyên tư lệnh Southcom đã viết trong blog: "Colombia là một địa điểm du lịch phải đến (must see), tiến bộ rất nhiều trong chiến dịch kiểm soát phong trào du kích rộng lớn, chỉ cách Miami hai giờ bay - và chúng ta có thể học hỏi nhiều điều từ sự thành công của họ"[2].
Tiếp theo sau quyết định leo thang chiến tranh ở Afghanistan, sự ủng hộ thỏa ước các căn cứ quân sự ở Colombia của Obama có nghĩa: chấp thuận một phương cách thẩm định co dản các đe dọa dễ dàng chuyển đổi cuộc chiến dài lâu chống Hồi Giáo cực đoan thành một cuộc chiến rộng lớn với chiến thắng sau cùng, theo lời Andrew Bacevich, sẽ là một thế giới không có tội ác.
Ngay sau khi Baghdad sụp đổ, Hoa Thịnh Đốn đã tìm cách động viên Châu Mỹ La Tinh trong cuộc chiến. Tháng 10-2003, Hoa Kỳ thúc đẩy Tổ Chức Các Quốc Gia Mỹ Châu phải xem tham nhũng, di dân bất hợp pháp, rửa tiền, các tai họa thiên nhiên và nhân tạo, AIDS, ô nhiễm môi sinh, nghèo đói, và tin tặc, khủng bố, buôn bán ma túy, như những đe dọa an ninh. Năm 2004, chiến lược gia Trường Cao Đẳng Chiến Tranh Quân Đội đề nghị mở rộng Kế hoạch Colombia đến tất cả các quốc gia châu Mỹ La Tinh, điều Donald Rumsfeld đã tìm cách thực hiện tại cuộc họp mặt các bộ trưởng quốc phòng trong khu vực tai Ecuador vào cuối năm. Rumsfeld đã thất bại. Các quốc gia như Brazil và Chile đã từ chối đặt quân đội của mình dưới quyền chỉ huy của Hoa Kỳ như trong suốt thời chiến tranh lạnh.
Thất bại, Hoa Kỳ đã thu hẹp cuộc chiến bằng cách tạo lập một hành lang an ninh chạy dài từ Colombia xuyên qua Trung Mỹ đến Mexico. Với một hỗn hợp các thỏa ước và dự án, như Hàn Lâm Viện Thực Thi Luật Pháp Quốc Tế (International Law Enforcement Academy) và Sáng Kiến Merida (Merida Initiative), Obama tiếp tục các chính sách của các vị tiền nhiệm, chi tiêu hàng triệu USD để hội nhập quân đội, tình báo, và ngay cả các hệ thống tư pháp, bằng các pháp chế tương tự luật Patriot Act. Điều nầy được xem như nỗ lực nới rộng phạm vi hoạt động của Kế hoạch Colombia, nhằm tạo lập một hạ tầng cơ sở chống nổi dậy siêu quốc gia thống nhất. Luận cứ thường được nghe: vì các tổ chức khủng bố và tội phạm ở châu Mỹ La Tinh thường "liên kết" với nhau, như đã được mô tả trong số tạp chí gần đây của Ngũ Giác Đài Joint Force Quarterly, "chống lại mối đe dọa cũng đòi hỏi sự 'liên kết' về phía chúng ta"[3].
Cùng lúc, nhiều chương trình hành động như Dự Án Hội Nhập và Phát triển Trung Mỹ (Meso-american Integration and Development Project) sử dụng tài trợ của Ngân Hàng Thế Giới và Ngân Hàng Phát Triển Liên Mỹ (Inter-American Development Bank) để phối hợp mạng lưới các đại lộ, truyền tin, và năng lượng, của Mexico, Trung Mỹ và Colombia, và thống nhất các thỏa ước tự do thương mãi Bắc và Trung Mỹ, và lâm thời cả Thỏa Ước Tự Do Mậu Dịch Colombia, thành một khối thuần nhất. Thomas Shannon, đại diện Bush ở châu Mỹ La Tinh, và đại sứ của Obama ở Brazil, gọi các sáng kiến nầy là "áo giáp NAFTA"(armoring NAFTA).
Trộn lẫn (fusion) là từ thích hợp với tình trạng hội nhập nói trên bởi lẽ hòa nhập kinh tế tân tự do (neoliberal economics) với ngoại giao chống nổi dậy (counterinsurgent diplomacy) là điều cực kỳ nguy hiểm. Một hậu quả của Kế hoạch Colombia là đa dạng hóa bạo động và tham nhũng đặc trưng cho mạng lưới mua bán cocaine, với các liên minh Trung Mỹ, Mể Tây Cơ, và các phe nhóm quân sự, kiểm soát xuất khẩu ma túy qua Hoa Kỳ. Chu kỳ bạo động nầy còn được tăng cường bởi sự phổ biến nhanh chóng các nghiệp vụ khai quật khoáng sản, thủy điện, nhiên liệu sinh học, và dầu khí, tác hại đến các hệ thống môi sinh và gây ô nhiễm đất đai, nguồn nước, cũng như mở cửa thị trường các quốc gia liên hệ cho kỹ nghệ nông lâm hủy hoại các nền kinh tế địa phương. Dân địa phương bị di dời sẽ là suối nguồn tội phạm, hoặc đưa đến những phiến loạn chống đối mà cuộc chiến mở rộng phải đối phó.
Khắp châu Mỹ La Tinh, một thế hệ mới các nhà hoạt động cộng đồng tiếp tục đẩy mạnh phong trào dân chủ toàn cầu trong khi ở Hoa Kỳ phong trào đã bị chận đứng ngay từ trước biến cố 11-9. Các nhà hoạt động cộng đồng đã giữ vai trò lãnh đạo trong các tổ chức môi trường, thổ dân, tôn giáo, và nhân quyền ở Hoa Kỳ, giúp khai triển một nghị trình công bằng xã hội hợp lý và bền vững.Tuy nhiên, trong phạm vi hành lang Mexico-Colombia, họ phải đối diện với chủ trương bán quân sự sinh học (bio-paramilitarism), hậu thân của liên minh khủng bố-chủ đồn điền-chống Cộng (anticommunist death-squad/planter alliance), được hổ trợ bởi các kỹ nghệ nông doanh và hầm mỏ (extractive and agricultural industries) đang tăng cường hoạt động. Ở Colombia, các cộng đồng Phi châu-Colombian và thổ dân - chống đối các lực lượng bán quân sự chiếm đất trồng palm Phi châu để sản xuất ethanol - bị các lực lượng bán quân sự và quân đội tước đoạt ruộng đất và trục xuất[4]. Từ Panama đến Mexico, người dân thôn quê bất khuất đã trở thành mục tiêu đàn áp. Trong vùng Cabanas ở Salvador, chẳng hạn, bốn lãnh tụ (riêng trong tháng 12-2009, ba lãnh tụ) đã bị biệt kích (death squads) hạ sát vì chống đối Công ty Pacific Rim Mining Company, có trụ sở ở Vancouver, khai quật mỏ vàng trong cộng đồng của họ.
Và ở Honduras, từ sau cuộc đảo chánh quân sự lật đổ Manuel Zelaya tháng 6-2009, các tổ chức nhân quyền cho biết các chủ đồn điền palm đã tuyển dụng 40 thành viên AUC của Colombia làm nhân viên an ninh. Cuộc đảo chánh đã xẩy ra một phần cũng vì Zelaya đã liên minh với các giáo sĩ thần học giải phóng và các nhà hoạt động môi trường chống lại nạn phá rừng của các kỹ nghệ nhiên liệu sinh học và khai quật khoáng sản. Một tháng trước ngày bị lật đổ, Zelaya - sau cuộc điều tra lên án Goldcorp, một công ty cũng có trụ sở ở Vancouver, đã gây ô nhiễm thung lũng Siria Valley ở Honduras - đã đề xuất một pháp chế lẽ ra đã đòi hỏi các thỏa ước nhượng quyền khai quật khoáng sản mới phải được các cộng đồng chấp thuận trước, cũng như cấm khai thác các mỏ lộ thiên và sử dụng cyanide và mercury (thủy ngân). Pháp chế nầy đã dẫy chết với cuộc đảo chính. Zelaya cũng đã tìm cách phá vỡ quan hệ lệ thuộc theo đó dầu thô trong vùng chỉ được xuất khẩu đến các nhà máy lọc dầu của Mỹ để mua lại xăng dầu và diesel với giá độc quyền; gia nhập Petrocaribe - một liên minh cung cấp dầu Venezuela với giá rẽ cho các xứ thành viên - và ký các hợp đồng thuận lợi hơn với Conoco Phillips. Hành động nầy đã khiến hai đại công ty Exxon và Chevron, đang khống chế thị trường nhiên liệu trong vùng, phẩn nộ. Sau cuộc bầu cử tổng thống mờ ám do phe quân đội đảo chánh tổ chức ngày 29-11-2009, giới truyền thông Tây phương đã tảng lờ trước tình trạng ngày một tệ hại ở Honduras mặc dù nhịp đàn áp rõ ràng đã tăng tốc. Kể từ ngày Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ công nhận kết quả bầu cử, khoảng 10 lãnh tụ đối lập đã bị sát hại - phân nửa trong vòng 5 tháng trước đó.
Lẽ ra tình hình đã không thể như thế. Châu Mỹ La Tinh chưa bao giờ là một nguy cơ quân sự nghiêm trọng đối với Mỹ. Không xứ nào tìm cách thủ đắc vũ khí hạt nhân hay gây trở ngại cho việc tiếp cận các tài nguyên then chốt của Mỹ. Venezuela vẫn tiếp tục bán dầu cho Mỹ. Obama đang được mến chuộng khắp châu Mỹ La Tinh, và hầu hết các quốc gia trong vùng, kể cả các chính quyền tả khuynh, lẽ ra đã có thể nhiệt tình chào đón chính sách ngoại giao phi quân sự, giảm thiểu cường độ cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, dành ưu tiên cho các chương trình xóa đói giảm nghèo và bất bình đẳng - đúng theo chính sách đa phương mới Obama đã hứa hẹn suốt quá trình vận động bầu cử của chính ông.
Có lẽ một phần cũng vì châu Mỹ La Tinh không bao giờ là một đe dọa thực sự, chính quyền mới ở Mỹ thiếu động lực để đối đầu với các nhóm đặc quyền của tập đoàn các đại công ty luôn chống đối mọi nỗ lực canh tân quan hệ ở Tây Bán Cầu. Như một nhà ngoại giao cao cấp Argentina đã tỏ rõ nỗi thất vọng: "Obama đã quyết định châu Mỹ La Tinh không xứng đáng phải bận tâm. Ông đã dâng hiến Nam Mỹ La Tinh cho cánh hữu"[5].
Tòa Bạch Ốc lẽ ra đã có thể cùng làm việc với Tổ Chức Các Quốc Gia Mỹ Châu để tái lập dân chủ ở Honduras. Thay vào đó, sau nhiều tháng đưa ra nhiều tín hiệu trái ngược bất nhất, Obama đã đầu hàng phe Cộng Hòa ở Thượng Viện và đã hậu thuẩn chế độ tàn nhẫn ở Honduras. Hoa Thịnh Đốn lẽ ra đã có thể nỗ lực xúc tiến một chính sách kinh tế mới ở Tây Bán Cầu nhằm thành đạt một thế thăng bằng giữa nguyện vọng công bằng và phát triển của dân địa phương và lợi nhuận của tập đoàn các đại công ty. Thay vào đó, Đảng Dân Chủ vẫn luôn duy trì vai trò một đảng của Wall Street, và ngay sau khi vào Bạch Ốc, Obama đã quên bẳng lời hứa tái thương thảo NAFTA[6]. Với hậu thuẩn của Hoa Thịnh Đốn, Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) tiếp tục thúc đẩy các xứ Mỹ La Tinh mở cửa hay tự do hóa kinh tế. Tháng 12-2009, Artura Valenzuela, phụ tá bộ trưởng ngoại giao đặc trách Tây Bán Cầu của Obama, đã gây scandal ở Argentina khi thúc dục chính quyền xứ nầy trở lại môi trường đầu tư năm 1996 - một việc làm tương tự như Buenos Aires kêu gọi Hoa Kỳ tái phát động bong bóng Greenspan mới đây.
Chính quyền Obama lẽ ra đã có thể tái duyệt Kế hoạch Colombia và thỏa ước các căn cứ quân sự của Ngũ Giác Đài. Nhưng điều nầy sẽ có nghĩa người Mỹ phải tái tư duy cuộc chiến lưỡng đảng chống ma túy đã kéo dài nhiều thập kỷ, tốn kém nhiều tỉ đô la và tiếp tục gia tăng, trong khi Obama đang ngày một lún sâu trong vũng lầy Iraq và Afghanistan.
Không thể và cũng không muốn nhượng bộ trong các vấn đề quan trọng đối với châu Mỹ La Tinh - chẳng hạn, bình thường hóa quan hệ với Cuba hay cải cách di trú - Tòa Bạch Ốc chấp thuận một thế đứng ngày một mang tính đối kháng. Hillary Clinton, trong chuyến công du Brazil, tiếp theo sau cuộc viếng thăm của Tổng Thống Iran, Mahmoud Ahmadinejad, đã cảnh cáo châu Mỹ La Tinh phải "suy nghĩ kỹ" (think twice) về hậu quả của cử chỉ giao hảo với Iran. Bolivia tố cáo lời bình luận của Hillary như một đe dọa; Brazil đã hủy bỏ cuộc gặp mặt đã lên lịch giữa bộ trưởng ngoại giao Brazil với Valenzuela; và ngay cả Argentina, không mấy gần gũi Iran, cũng lấy làm khó chịu. Như nhà ngoại giao Argentina đã nói với Greg Grandin:"Chính quyền Obama có lẽ sẽ không bao giờ nói với các xứ Âu châu như thế"[7].
Tin tức nội bộ đã tiết lộ: các viên chức cấp cao trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã căm phẩn Luiz Inacio Lula da Silva, khi Tổng Thống Brazil, trong những tháng gần đây, đã tỏ ra chống đối đường lối hiếu chiến hiện nay của Hoa Thịnh Đốn không kém Hugo Chavez, Tổng Thống Venezuela, nhất là nỗ lực của Tòa Bạch Ốc và ngoại trưởng Hillary Clinton đem lại tính chính đáng cho cuộc đảo chánh ở Honduras.
Sau khi thành công trong việc chận đứng chiến dịch gây bất ổn chống lại Tổng Thống Evo Morales ở Bolivia trong năm 2008, theo Marco Aurelio Garcia, cố vấn chính sách đối ngoại của Lula, Brazil rất lo ngại chính sách Honduras của Obama đang du nhập lý thuyết đảo chánh phòng ngừa vào châu Mỹ La Tinh, như một nỗ lực mở rộng chủ thuyết chiến tranh phòng ngừa của George W. Bush.
Trong một vùng đã từng chứng kiến một cuộc chiến lớn giữa các quốc gia láng giềng kéo dài hơn 70 năm, Brazil lo ngại thỏa ước các căn cứ quân sự ở Colombia sẽ gây thêm căng thẳng giữa Colombia và Venezuela. Mặc dù các cơ quan truyền thông Hoa Kỳ đang chú tâm khai thác lời cảnh cáo của T T Chavez:"các ngọn gió chiến tranh" (winds of war) đang thổi qua châu lục , bộ trưởng ngoại giao Brazil, Celso Amorim, đã quy lỗi gây khủng hoảng cho Hoa Thịnh Đốn. Amorim nói: "Chavez đã bước lui sau lời tuyên bố. Bàn luận chiến tranh - một từ chẳng bao giờ nên thốt ra - là một việc. Các vấn đề khách quan và thực tế về các căn cứ quân sự là một việc khác... Nếu Iran hay Nga sẽ thiết lập một căn cứ quân sự ở Venezuela, điều đó cũng sẽ làm cho chúng tôi lo ngại"[8].
Có nhiều dấu hiệu cho thấy Tòa Bạch Ốc đang hy vọng một loạt các cuộc bầu cử tổng thống sắp tới ở Nam Mỹ sẽ tái lập các chính quyền mềm mỏng dễ uốn nắn hơn. Chẳng hạn, trong chuyến viếng thăm Buenos Aires gần đây, Valenzuela đã gặp các chính trị gia cực hữu nhưng tránh gặp các lãnh tụ đối lập ôn hòa; và chính quyền Cristina Fernandez, tổng thống trung tả, đã lên tiếng chỉ trích. Trong tháng 1-2010, một tỉ phú hữu khuynh, Sebastian Pinera, đắc cử tổng thống Chile. Và nếu Đảng Công Nhân của Lula thất cử trong cuộc bầu cử vào tháng 10-2010 sắp tới, như nhiều cuộc thăm dò công luận cho thấy đó là một điều khả dĩ, phe tả trong vùng Andes sẽ ngày một cô lập, bị kẹt giữa hành lang Colombia-Mexico ở phía Bắc và các chính quyền sẵn sàng đi theo quyền lợi Hoa Thịnh Đốn về phía Nam.
Chiến lược ngăn bờ thế kỷ 21 đối với chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21! Fidel Castro, thường là một người lạc quan, gần đây đã lên tiếng âu lo: trước khi Obama rời Nhà Trắng , "sẽ có từ 6 đến 8 chính phủ hữu khuynh ở châu Mỹ La Tinh"[9].
Cho đến lúc đó, Hoa Kỳ chỉ còn lại cái đuôi của Chủ Thuyết Monroe và một tư thế ngày một hăm he, hù dọa đối với khu vực sân sau của chính mình.
© GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
8-3-2010
[1] We'll renew the lease if the US lets us set up a base in Miami.
[2] Colombia is a "must see" tourist spot, having come a long, long way in controlling a deep-seated insurgency just over two hours flight from Miami - and we could learn a great deal from their success.
[3] Since there is "fusion" among Latin American terrorists and criminals, "countering the threat will require fusion on our part".
[4] Xem The Dark Side of Plan Colombia, 15-6-2009, Teo Ballve'.
[5] Obama has decided that Latin America isn't worth it. He gave it to the right.
[6] Xin xem thêm bài "Thập Kỷ 2000s: Vài Vấn Đề Thời Sự" của cùng tác giã.
[7] The Obama administration would never talk to European countries like that.
[8] Chavez had backed away from that statement. To talk about war - a word which should never be uttered - is one thing. Another is the practical and objective issues of the Colombian bases... If Iran or Russia were to establish a base in Venezuela, that would also worry us.
[9] There will be six to eight rightist governments in Latin America.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 15, 2010 7:42:51 GMT 9
Adam Smith và chủ nghĩa tư bản Phan Huy Đường 02/03/2010 * Tiểu sử Adam Smith Adam Smith đã lập ra nền tảng của môn kinh tế chính tri học (économie politique, theo ngôn ngữ của ông), hay, với người đời nay ghét hai từ chính trị, chỉ mê khoa học thôi, của những khoa học kinh tế (sciences économiques) hoặc kinh tế học. Một số khái niệm của ông và quan điểm của ông về vai trò của thị trường vẫn còn là nguyên lý trong những lý thuyết kinh tế tân tự do (néolibéral), tân cổ điển (néoclassique) đã và đang thống trị tư duy kinh tế của nhân loại. Tuy vậy, dường như không ai thèm dạy tận gốc, chi ly và đầy đủ, học thuyết kinh tế của ông. Hồi tôi còn xách cặp tới trường, yêu quê hương kinh tế qua từng trang lý thuyết nhỏ, tôi có được nghe thầy nhắc tới tên Adam Smith trong vài… câu ! Hôm nay, xét cho cùng, không khó hiểu. Đào sâu tư tưởng của ông, tìm hiểu nó, so đo nó với nghiệm sinh và kiến thức mà loài người đã có được trong lĩnh vực này từ thời ông tới nay, một cách tỉnh táo và phê phán, có lắm vấn đề không vui tí nào. Nói chung, các thầy cấu và dùng lại hai ý, như nguyên lý không cần phải bàn : a/ giá trị – lao động (valeur–travail) b/ Ngoài vài trường hợp đặc biệt, như vấn đề an ninh quốc gia chẳng hạn, Nhà nước không nên can thiệp vào sự vận động tự nhiên của thị trường, cứ để cho nó tự điều tiết, đó là đường lối kinh tế chính trị đúng đắn và hiệu quả nhất. Trong sự vận động tự nhiên ấy, mỗi cá nhân chỉ đeo đuổi mục đích ích kỷ của mình thôi, không ai quan tâm tới lợi ích chung của xã hội. Thế mà sự cạnh tranh giữa họ sẽ khiến toàn bộ xã hội đạt khả năng sản xuất và làm giàu tối ưu, cứ như thể thị trường có một bàn tay vô hình hướng dẫn mọi người đều đi tới mục đích ấy. Báo Le Monde và nxb Flammarion tái bản quyển La richesse des nations[1], Sự giàu có của các quốc gia, bán với giá 4,90 € ở quầy báo ! Ôi, một tác phẩm quý đến thế này mà trị giá có bấy nhiêu thôi ! Trí tuệ là tài sản chung của nhân loại, không là một ý tưởng hão khi luật Pháp cấm tư hữu hoá nó… Nhân dịp này, ta thử ghi nhớ vài đóng góp quý báu của Adam Smith trong lĩnh vực tư duy kinh tế. Ghi nhớ thôi, không phê phán vì đã có người phê phán chi li mạch lạc từ lâu rồi[2] và, trong lĩnh vực vừa thiết thân vừa rắc rối bậc nhất này của kiếp người, không thể có "mì ăn liền" được, phải vắt óc toát mồ hôi hột thì may ra mới học được đôi điều đáng học. 1/ Sự giàu có của các quốc gia là gì ? Adam Smith là người đầu tiên khẳng định một cách dứt khoát, toàn diện, rõ ràng và mạch lạc quan điểm này : sự giàu có của các quốc gia không do "rừng vàng biển bạc" mà có ; nó không là gì hết ngoài toàn bộ những sản phẩm do lao động của con người tạo ra. Nếu ta xem nó trong khoảnh khắc 1 năm thì nó gồm : a/ tư bản[3] sẵn có, nghĩa là những sản phẩm mà lao động của xã hội đã sản xuất ra trước đó mà chưa tiêu thụ. b/ những sản phẩm mà lao động của quốc gia (hay xã hội) ấy đã sản xuất được trong năm. Ở thời ông, quan điểm này quả là cách mạng. Nó vừa kế thừa vừa phủ định mô hình kính tế của Quesnay[4] vì Quesnay cho rằng chỉ có lao động nông nghiệp mới tạo ra của cải cho quốc gia. 2/ Khối lượng sản phẩm được tạo ra tuỳ thuộc : a/ số người lao động được vận dụng để sản xuất trong năm Số người này lại tuỳ thuộc lượng tư bản sẵn có trong xã hội : nó cho phép mua ít hay nhiều phương tiện sản xuất và trả lương cho ít hay nhiều thợ (ouvriers) để lao động sản xuất. b/ năng suất của lao động Năng suất của lao động tuỳ thuộc mức độ phát triển của sự phân công lao động (division du travail). Chính nó và sự phân công lao động khiến thị trường phát triển. Thị trường phát triển lại thúc đẩy sự phân công lao động và năng suất lao động phát triển. 3/ Thước đo của giá trị trao đổi của sản phẩm Thời gian lao động cần thiết để sản xuất sản phẩm là thước đo giá trị trao đổi của sản phẩm[5]. Phải hiểu đó là thời gian trung bình để sản xuất một loại sản phẩm trong một xã hội nào đó ở một thời điểm nào đó. Giá cả của sản phẩm chỉ là hình thái tiền tệ của giá trị trao đổi ấy. Khi giá cả khớp với giá trị trao đổi, Adam Smith gọi nó là giá tự nhiên[6] của sản phẩm (prix naturel). Còn những giá mà ta thấy trưng ở cửa hàng, thường khác nhau, Adam Smith gọi chúng là giá thị trường, prix de marché. Giá thị trường dao động chung quanh giá tự nhiên tuỳ tình trạng cung cầu ở từng nơi. Et tutti quanti. Xuyên qua cạnh tranh, sự dao động ấy khiến cho giá thị trường tự nó hướng tới giá tự nhiên của sản phẩm. Sự điều tiết tự nhiên của thị trường ở đó. 4/ Nội dung cơ bản của quan hệ kinh tế tư bản Trong chương Des salaires du travail[7] (Bàn về những [hình thái] lương của lao động), Adam Smith trình bày hết sức rõ ràng quan điểm của ông về nền kinh tế thời ông. Đọc kỹ nó, ta hiểu liền vì sao Marx trọng tư tưởng của ông và coi ông với Ricardo là hai người đặt nền móng cho môn kinh tế chính trị học với tính cách một môn khoa học. Tôi xin cố dịch một mẩu, một cách chính xác nhất mà tôi có khả năng[8] : Phần thưởng tự nhiên của lao động, hay lương của lao động, chính là sản phẩm do lao động tạo ra. Trong trạng thái nguyên thuỷ ấy, có từ trước khi có sự chiếm hữu đất đai và sự tích luỹ tư bản, toàn bộ sản phẩm của lao động thuộc về người thợ (ouvrier, nghĩa thực là : người lao động). Người ấy không phải chia chác với chủ sở hữu (propriétaire) hay chủ (maître)[9]. Nếu trạng thái ấy đã tiếp tục tồn tại tới ngày nay thì lương của lao động đã tăng cùng với sự tăng trưởng của năng suất lao động do sự phân công lao động tạo ra. Mọi sản phẩm đã từ từ trở thành càng ngày càng rẻ.[10] […] Nhưng trạng thái nguyên thuỷ trong đó người thợ hưởng toàn bộ sản phẩm do lao động của nó tạo ra, đã không tồn tại vượt qua thời đại sự chiếm hữu đất đai và sự tích luỹ tư bản đi vào xã hội. Thế thì trạng thái ấy không còn nữa từ lâu, khi năng suất lao động đã đạt một mức hoàn hảo cao, và ta không nên mất thời giờ tìm hiểu xem hậu quả trên phần thưởng hay lương lao động sẽ thế nào trong trạng thái ấy. Ngay khi đất đai trở thành tư hữu[11], chủ đất liền đòi hỏi cho mình hầu hết những sản phẩm mà người lao động có thể nuôi trồng và gặt hái được ở đó. "Địa tô" (tiền thuê đất) của nó là phần phải trừ đi đầu tiên mà lao động ứng dụng vào đất phải chịu đựng.[12] Rất ít khi con người cày đất có sẵn những gì cần thiết để sống cho tới ngày gặt hái. Thông thường, một ông chủ trại (fermier), người dùng nó, trên vốn tư bản của mình, cho nó vay những đồ tiêu dùng [để tồn tại và lao động cho tới ngày gặt hái], và ông chủ ấy chẳng có lý do gì để làm việc ấy nếu việc ấy không cho phép ông thu một phần sản phẩm do lao động của nó tạo ra, hay nếu vốn tư bản mà ông ấy đã ứng ra không được hoàn lại với một món lời. Món lời ấy là phần cắt xén thứ hai trên sản phẩm của lao động vận dụng vào đất đai.[13] Sản phẩm của hầu hết mọi lao động khác đều bị ăn xén như thế để trả tiền lời. Sản phẩm của hầu hết lao động nào khác đều bị cắt xén như thế để thanh toan món lời cho tư bản. Trong mọi ngành nghề, trong mọi xí nghiệp (fabriques), đa số thợ cần có một ông chủ sẵn sàng ứng cho họ phương tiện vật chất để lao động, cũng như lương và nhu yếu phẩm của họ để sống, cho tới khi sản phẩm của họ hoàn thiện. Người chủ ấy lấy một phần sản phẩm của lao động của họ hay giá trị mà lao động ấy đã thêm vào vật thể mà nó tác động vào [để biến vật thể ấy thành hàng hoá có thể trao đổi được] và chính cái phần ấy làm ra lời của họ. Tóm lại, thế này : A/ Thế nhìn của chủ đất và của chủ tư bản : Tôi là chủ đất, là chủ tư bản. Anh muốn lao động sản xuất để sống "ngày càng khá hơn" thì anh phải nộp tô nộp lời cho tôi ngày càng nhiều hơn. Khi bản thân anh "chủ tư bản" không có vốn, chỉ có tài kinh doanh thôi (tư bản chức năng), anh ấy có thể vay vốn tư bản của người khác (tư bản sở hữu) để kinh doanh và phải chia chác một phần tiền lời (nếu có !) với anh tư bản sở hữu. Phần đó gọi là intérêt (lãi có được do cho vay vốn). Lãi ấy chẳng bao giờ do sự hy sinh không hưởng thụ liền tài sản của mình của chủ vốn hay sự dũng cảm chấp nhận rủi ro, mà đột nhiên hiện thực ở đời, làm gì có chuyện hão đến thế ! nó chỉ có thể do lao động của người khác mà có thực. Đó là chuyện ngày xưa. Ngày nay còn có chuyện siêu hơn nữa. Những nghìn tỷ $ mà các Nhà nước tư bản đổ ra để cứu vãn "hệ thống tài chính" của"quốc gia" và "quốc tế", đương nhiên phải đi vào túi của aichứ ! Đó là những món nợ mà bàn dân các nước ấy phải trả bằng lao động tương lai của mình và con em mình. Kinh tế hậu hiện đại đó ! Không chỉ là học thuyết suông đâu… B/ Thế nhìn của anh lao động : Dù sao thì không có đất hay vốn tư bản của người khác thì mình cũng bất lực và đói nhăn răng. C/ Kết luận của Adam Smith : những điều ấy tự nhiên, cứ để thị trường giải quyết một cách tự nhiên. Sẽ lợi cho mọi người. Trước Adam Smith, chưa ai đã mô tả một cách cụ thể, hữu lý, tính chất bóc lột sức lao động của hình thái kinh-tế xã-hội tư bản như thế này. Adam Smith, trong quyển sách này, không bao giờ dùng khái niệm bóc lột. Có lẽ, đối với ông, khái niệm ấy không có tính chất khoa học, vì đối với ông, đó là một sự kiện tự nhiên, không dính dáng gì hết với thế giới giá trị, tâm linh của con người ? Ông thấy rất rõ rằng quan hệ giữa chủ đất và chủ tư bản với người lao động sản xuất ra sản phẩm, của cải hay sự giàu có của các quốc gia, là một quan hệ cưỡng bức để đoạt về mình một phần sản phẩm do lao động của người khác tạo ra. Ông cũng thấy rất rõ rằng một chức năng của Nhà nước là bảo vệ quan hệ bóc lột ấy. Ông không coi đó là bóc lột, coi đó là tự nhiên. Tự nhiên là tự nhiên, tự nó tồn tại và vận hành, chẳng thể nào khác được, là sự thật, là đối tượng của tư duy khoa học, theo ông và không ít người khác từ xưa tới nay. Đời nó vậy mà ! Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi, đời nay, các kinh tế gia thời thượng chỉ biết cấu vài ý tưởng của ông để lạm dụng cho mình vì chính mình thua kém ông cả một cái đầu, dù được đội mũ "Nobel" kinh tế, nhưng không có mấy ai nhắc lại, dạy lại toàn bộ học thuyết kinh tế của ông. 5/ chống mọi hình thái độc quyền kinh doanh (monopole) Đã tin vào bàn tay vô hình của Thị trường, tính ưu việt của tự do cạnh tranh, Adam Smith chống mọi hình thái độc quyền kinh doanh (monopole). Ông chung thuỷ và nhất quán trong tư duy của mình đến mức : ông chủ trương bãi bỏ độc quyền kinh doanh của các đế quốc, kể cả đế quốc Anh, trong quan hệ kinh tế của chúng với thuộc địa của chúng. Cứ như OMC ngày nay ! Ông không ý thức được rằng kết quả tự nhiên của cạnh tranh tự do sẽ dẫn tới sự phủ định chính nó : độc quyền. Suy luận hình thức giới hạn ở đó. Ngày nay, trong thị trường toàn cầu hoá này, trong những lĩnh vực cơ bản nhất của kinh tế, mơ màng tới tự do cạnh tranh kiểu Adam Smith là chuyện hão ! Chỉ cần đếm xem, trong lĩnh vực năng lượng dầu hoả và khí đốt, trên đời nay và trong từng quốc gia, còn mấy người cạnh tranh với nhau thì biết. 6/ chống sự can thiệp của Nhà nước vào sự vận động tự nhiên của thị trường Đây có lẽ là di sản, tuy đã cũ kĩ kinh hoàng, cũ kĩ hơn cả học thuyết kinh tế của Marx mà, có tác động nhiều nhất của Adam Smith với tư duy kinh tế và đời sống chính trị ngày nay. Và thân phận làm người của chúng ta trong nền kinh tế thị trường tư bản toàn cầu hoá này. Ông cho rằng : a/ Sự vận động tự nhiên của kinh tế thị trường sẽ tự nó hướng dẫn hành động của con người đi tới mức tối ưu của nó cho xã hội. Đây là niềm tin "khoa học" của thế kỷ Khai Sáng ! b/ Vì sao ? Ta không thể hiểu được[14]. Ta chỉ có thể tin tưởng vào bàn tay vô hình của nó thôi. Bàn tay ấy sẽ dẫn ta đi tới đâu, ta chỉ biết được sau khi đã trả giá, sau khi đã làm người không tự do, hay đã làm người tự do phi lý trí, phi nhân tình[15] ! Thế thì ta có quyền đặt câu hỏi này : mặc dù ông nhân tình, điều ta quý trọng, lý trí của ông trong vấn đề này, đáng tin không ? Riêng tôi : không ! Mấy tháng qua ta đã và, trong những tháng năm tới, ta sẽ trả giá không ít cho niềm tin này. Trong tác phẩm của ông, còn vô vàn vấn đề để suy ngẫm, không như một lĩnh vực "khoa học", mà như một thức thách làm người có lý trí. Và, với tôi, có… tình người ! Dại thế ! Hè hè… Đối với một người đành lang thang chữ nghĩa như tôi, đọc lại quyển sách này tôi lại được hưởng hai điều thú vị. A/ Adam Smith cho thấy rõ tư duy của con người lệ thuộc chữ nghĩa mà người đời đã nhồi vào óc nó đến mức nào ! Dù có thể tôi đã nói quá dài, tôi đã thấy rằng phải xem xét, trong mọi chi tiết của nó, niềm tin của dân chúng cho rằng sự giàu có ở lượng tiền hay vàng bạc mà ta có. Trong ngôn ngữ thông thường, như tôi đã từng nhận xét, có tiền thường có nghĩa là giàu có, và sự nhập nhằng trong cách phát biểu ấy đã khiến ý tưởng bình dân này trở thành thân thuộc với chúng ta đến mức ngay cả những người tin chắc rằng quan điểm ấy sai, bất cứ lúc nào cũng có thể quên nguyên lý của chính họ và bị luồng suy luận của họ lôi kéo tới mức họ chấp nhận thành kiến ấy như một ý tưởng họ đã thu nhập và công nhận là sự thật chắc chắn, không thể phủ nhận. Một vài tác giả Anh hay nhất đã từng viết về thương mại, đã xuất phát từ nguyên lý đó, nghĩa là sự giàu có của các quốc gia không chỉ ở lượng vàng và bạc mà nó có, mà là ở đất đai, nhà cửa và đủ thứ sản phẩm tiêu dùng được mà nó có. Tuy vậy, sau đó, dường như họ đã quên béng đất đai, nhà cửa và sản phẩm tiêu dùng được, và nội dung những lập luận của họ khiến ta nghĩ rằng sự giàu có ở lượng vàng và bạc mà quốc gia ấy có và họ coi chuyện nhân khối lượng những kim loại quý ấy là mục tiêu cơ bản của công nghiệp và thương nghiệp quốc gia.[16] Trong lĩnh vực kinh tế học, có lẽ Adam Smith là người đầu tiên nêu ý tưởng sâu sắc này. Sau đó, có Karl Marx, sâu sắc hơn nhiều vì chàng còn là một… triết gia ! Chẳng khoa học tí nào cả… Nếu ta vận dụng ý tưởng của ông để xem xét "ngôn ngữ khoa học" của chính ông, như khái niệm tự nhiên chẳng hạn, ta sẽ hiểu được đôi điều đáng hiểu về ngôn ngữ khoa học trong học thuyết của ông và trong ngành kinh tế học ngày nay. B/ Sau khi phê phán khắt khe sai lầm của François Quesnay, ông đánh giá cống hiến của Quesnay cho môn kinh tế chính trị học như thế này. Mặc dù những khuyết điểm của nó, có lẽ mô hình này, trong tất cả những gì người đời đã đăng về kinh tế chính trị học, là mô hình gần sự thật nhất và, dưới góc độ đó, nó đáng cho mọi người muốn tìm hiểu một cách nghiêm túc một môn khoa học quan trọng như thế này, quan tâm. Khi ông cho rằng lao động khai thác đất đai là lao động có tính chất sản xuất duy nhất, những ý tưởng của ông về hiện thực có thể quá chật hẹp và giới hạn. Tuy vậy, khi ông cho rằng sự giàu có của những quốc gia không ở lượng của cải không tiêu thụ được như vàng và bạc mà ở những sản phẩm tiêu thụ được mà lao động của xã hội có thể tái sản xuất mỗi năm, và vạch cho thấy rằng tự do tuyệt đối là phương tiện duy nhất cho phép nó đạt thành quả lớn nhất, lý thuyết của ông, về mọi mặt, đúng đắn ngang tầm vĩ đại và tinh thần rộng lượng của nó.[17] Sau này, Marx đã đánh giá Quesnay như sau : Quesnay là người đầu tiên tạo ra thế nhìn vĩ mô, tổng hợp, ở mức Nhà nước, của hoạt động kinh tế. Về mặt lý thuyết kinh tế, kế thừa và vượt Quesnay, ngoài Marx, chỉ có John Maynard Keynes thôi. Đọc khúc văn trên, tôi chạnh lòng nhớ cuộc tranh luận giữa Sartre và Camus khi hai người, tôi đều yêu[18], đoạn tuyệt với nhau. Ôi, nhân tài thế giới đánh giá nhau như thế ! Càng quý trọng nhau, càng khắt khe, càng quyết liệt đòi hỏi tới cùng, chẳng rào trước đón sau, xã giao tí nào. Và ngược lại ! Ngông cuồng, tôi kiến nghị với các đại học kinh tế lập một chứng chỉ : tư duy kinh tế của Adam Smith. Tất nhiên lại chuyện hão ! Chỉ là kẻ ngoại đạo mà dám lếu láo đến thế thì… hết xảy ! 2009-10-24 [1] La richesse des nations, Le Monde – Flammarion, Paris 2009. Trong bài này, khi trích văn bản này, tôi ghi gon : La richesse des nations. [2] Karl Marx. Contribution à la critique de l'économie politique và Le Capital. [3] capitaux. Ở Adam Smith, capital cơ bản có nghĩa là vốn tuy cũng có nghĩa là tư bản như khái niệm tư bản của Marx. [4] François Quesnay, 1694-1774, người lập ra học phái kinh tế đầu tiên tại Châu Âu, (physiocrates, trọng nông), tạo ra thế nhìn vĩ mô ở mức một quốc gia với Tableau économique (Bảng hay "mô hình" kinh tế). [5] "Le travail est donc la mesure réelle de la valeur échangeable de toute marchandise." Lao động là thước đo đích thực của giá trị trao đổi của mọi hàng hoá. La richesse des Nations, tr. 36. [6] Mỗi lần đưa ra một khái niệm khó giải thích, và đây là khái niệm khó giải thích nhất trong môn kinh tế học, ngay cả hôm nay, Smith giải quyết vấn đề nhẹ nhàng bằng một tính từ : tự nhiên ! Đó là tín ngưỡng của thế kỷ Khai Sáng : mọi sự đều tự nhiên, tự nhiên là khoa học và khoa học là tiến bộ. Tự nhiên có nghĩa là không có gì để bàn cả ! Ngày nay người đời cũng làm thế trong một đống lĩnh vực khác nhau của tư duy… Nếu không là Tự nhiên thì cũng là kinh tế Thị trường lại Toàn cầu hoá nữa ! Có gì mà phải phân vân ? Phải tin, tin và tin… Hè hè… [7] La richesse des Nations. Tr. 53. [8] Trong đoạn văn dịch này, những từ được gạch ở dưới, do tôi, PHĐ. [9] Propriétaire = chủ của một cái gì : đất, nhà, v.v. Maître = ông chủ : như chủ nô hay chủ vốn chẳng hạn, nghĩa rất rộng và mơ hồ. [10] Đây là một câu hỏi cơ bản cho môn "khoa học" kinh tế cửa đời nay đó. Năng suất lao động tăng vùn vụt mấy chục năm liền, nhưng giá cả của nhu yếu phẩm ở các nước phát triển như Pháp càng ngày càng không với tới được đối với bàn dân lao động sàng sàng ! Đầy người lao động không còn khả năng ăn trưa một cách bình thường như trước kia với đồng lương của mình ngay trong các nhà ăn xí nghiệp (cantines), phải mang đồ ăn vào sở hay mua đồ ăn rẻ tiền của fastfood. [11] Đến đây ta mới hiểu Adam Smith muốn nói gì trong khúc văn trên khi ông dùng khái niệm chiếm hữu (appropriation) ! Với ông, trong vấn đề kinh tế này, nó nghĩa là tư hữu (propriété privée, trong nghĩa thông thường ngày nay). Thời ấy, không nhất thiết phải hiểu như vậy ! Chỉ cần thêm một tính từ : tư hữu tư sản hay tư bản (propriété privée bourgeoise ou capitaliste), thì có một khái niệm tạm gọi là chính xác vì trong lịch sử của Châu Âu đã từng có nhiều hình thái tư hữu khác! [12] Nói toạc móng heo thì thế này : anh đã cày cấy trên đất của tôi thì anh phải nộp tô tức cho tôi. Tôi đếch làm gì cả, đếch sản xuất sản phẩm nào cả mà vẫn có lợi tức đề huề, hợp pháp. Chính Adam Smith đã phũ phàng vạch điều ấy trong tác phẩm này. [13] Nói toạc móng heo : anh chỉ có sức lao động thôi ; với năng lực ấy, anh chẳng làm được gì cả, chết đói ngay ; tôi ứng cho anh tiền mua phương tiện sản xuất và nhu yếu phẩm để anh có thể lao động sản xuất, ăn uống và thậm chí hú hí vớ vợ để đẻ ra những người thợ tương lai, cho tới ngày anh tạo ra sản phẩm. Với điều kiện này : trong sản phẩm anh làm ra, anh hoàn lại cho tôi một số lượng mà giá trị = vốn tôi đã cho anh mượn + tí ti lời. [14] ý của tôi, vì tác phẩm của Adam Smith nhằm chứng minh điều ấy là tự nhiên và hiểu được một khi ta chấp nhận tính tự nhiên của nó. [15] Tư duy kinh tế của Marx chống lại luận điểm này : kinh tế là quan hệ giữa người với người, do con người tạo ra, ta có thể làm chủ định mệnh của ta trong lĩnh vực này vì ta có thể hiểu được nó : nó là sản phẩm của chính ta mà. [16] J'ai cru nécessaire, au risque même d'être trop long, d'examiner dans tous ses détails cette idée populaire, que la richesse consiste dans l'argent ou dans l'abondance des métaux précieux. Dans le langage vulgaire, comme je l'ai observé, argent veut souvent dire richesse, et cette ambiguïté d'expression nous a rendu cette idée populaire tellement familière, que ceux même qui sont convaincus de sa fausseté sont à tout moment sur le point d'oublier leur principe et, entraînés dans leurs raisonnements, à prendre ce préjugé pour une idée reçue et reconnue comme une vérité certaine et incontestable. Quelques-uns des meilleurs auteurs anglais qui ont écrit sur le commerce partent d'abord de ce principe, que la richesse d'un pays ne consiste pas uniquement dans son or et son argent, mais qu'elle consiste dans ses terres, ses maisons et ses biens consommables de toutes sortes. Néanmoins, dans la suite de leurs discussions, il semble que les terres, les maisons et les biens consommables leur sortent de la mémoire, et la nature de leurs arguments paraît souvent supposer qu'ils font consister la richesse dans l'or et dans l'argent, et qu'ils regardent la multiplication de ces métaux comme l'objet capital de l'industrie et du commerce national. La richesse des Nations, p. 141-142 [17] Avec toutes ses imperfections, néanmoins, ce système est peut-être, de tout ce qu'on a encore publié sur l'économie politique, ce qui se rapproche le plus de la vérité, et sous ce rapport il mérite bien l'attention de tout homme qui désire faire un examen sérieux des principes d'une science aussi importante. Si, en représentant le travail employé à la terre comme le seul travail productif, les idées qu'il veut donner des choses sont peut-être trop étroites et trop bornées, cependant, en représentant la richesse des nations comme ne consistant pas dans ces richesses non consommables d'or et d'argent, mais dans les biens consommables reproduits annuellement par le travail de la société, et en montrant la plus parfaite liberté comme l'unique moyen de rendre cette reproduction annuelle la plus grande possible, sa doctrine paraît être, à tous égards, aussi juste qu'elle est grande et généreuse. La richesse des nations, p. 196-197 [18] yêu dễ quá mà, có mất tiền mua đâu !
|
|
|
Post by Can Tho on May 25, 2010 7:44:39 GMT 9
Quan hệ Mỹ-Nhật: Một liên minh bất bình thườngNguyễn Trường 24/05/2010 Với một xứ có hiến pháp hòa bình, Nhật Bản đang có quá nhiều vũ khí. Thực vậy, Nhật, quốc gia các hải đảo Á châu, đã được xem như hàng không mẫu hạm và căn cứ hải quân khổng lồ của lực lượng quân sự Mỹ. Hoa Kỳ có lẽ đã không thể theo đuổi hai cuộc chiến Việt Nam và Triều Tiên mà không có trên dưới 90 căn cứ quân sự rải rác quanh các hải đảo của đồng minh Thái Bình Dương quan trọng nầy. Ngay cả hiện nay, Nhật vẫn giữ vai trò một phiên bản những gì còn sót lại từ chính sách ngăn đê trong thời chiến tranh lạnh khi nói đến Trung Quốc (TQ) hay Bắc Hàn. Từ Yokota và căn cứ không quân Kadena, Hoa Kỳ có thể gửi quân đội và oanh tạc cơ đến khắp Á châu, trong khi căn cứ Yokosuka gần Tokyo là căn cứ hải quân Hoa Kỳ lớn nhất ở hải ngoại. Nhiều người những tưởng với bấy nhiêu căn cứ ở Nhật, Hoa Kỳ sẽ chẳng mấy bận tâm khi phải đóng cửa một trong những căn cứ nầy. Họ đã lầm to. Tranh chấp hiện nay về căn cứ không quân của Thủy Quân Lục Chiến ở Futenma trên đảo Okinawa - một quận đảo lối 1.000 dặm phía Nam Tokyo, với khoảng 36 căn cứ và 75% lực lượng Hoa Kỳ ở Nhật - đang ngày một nghiêm trọng hơn. Trong thực tế, Hoa Thịnh Đốn hình như sẵn sàng cá cược uy danh và quan hệ với chính quyền mới ở Nhật trên số phận của chính căn cứ nầy. Cuộc tranh luận đã phơi bày nỗi âu lo của Hoa Kỳ trong kỷ nguyên Obama. Thoạt nhìn, Futenma chỉ là một căn cứ lỗi thời.Theo thỏa ước giữa chính quyền Bush và chính phủ Nhật trước đây, Hoa Kỳ đã có kế hoạch di chuyển hầu hết thủy quân lục chiến nay còn ở Futenma qua đảo Guam. Tuy nhiên, mặc dù dân chúng Okinawa và Tokyo chống đối, chính quyền Obama vẫn khăng khăng đòi hỏi người Nhật phải thi hành thỏa ước thiết lập một căn cứ mới thay thế phần lớn căn cứ Futenma trong một khu vực ít cư dân hơn của Okinawa. Sự tranh chấp hiện nay giữa Tokyo và Hoa Thịnh Đốn không chỉ là một "cơn cuồng phong trên Thái Bình Dương" (Pacific Squall), như tạp chí Newsweek đã mô tả. Sau sáu thập kỷ luôn vâng dạ trước mọi đòi hỏi của Mỹ, cuối cùng Nhật bản hình như sắp trả lời "không" trước một yêu cầu quan trọng đối với Hoa Thịnh Đốn, và mối quan hệ Dwight D. Eisenhower có lần đã gọi một "liên minh bất diệt" (indestructible alliance) đang phơi bày những rạn nứt ngày một rõ nét. Tệ hơn nữa, trong nhãn quan của Ngũ Giác Đài, sự đề kháng của Nhật rất có thể mang tính truyền nhiễm - một lý do quan trọng vì sao Hoa Kỳ đã cá cược cả một liên minh chỉ vì việc đóng cửa một căn cứ lỗi thời và xây dựng một căn cứ khác không mấy có giá trị chiến lược. Trong thời chiến tranh lạnh, Ngũ Giác Đài e ngại nhiều quốc gia có thể rơi rụng như những dominoes trước đà tiến không ngừng của chủ nghĩa Cộng Sản. Ngày nay, Ngũ Giác Đài lại lo âu một thứ hậu quả domino khác. Ở Âu châu, các quốc gia thành viên NATO đang từ chối ủng hộ vô điều kiện cuộc chiến của người Mỹ ở Afghanistan. Ở Phi châu, không một quốc gia nào sẵn sàng cho phép Bộ Tư Lệnh Phi Châu mới của Ngũ Giác Đài đặt tổng hành dinh. Ở Châu Mỹ La Tinh, Ecuador nhỏ bé đã từ chối gia hạn thỏa ước cho phép Hoa Kỳ sử dụng căn cứ không quân ở Manta. Tất cả những sự kiện đó đã hẳn là những triệu chứng uy tín toàn cầu của quân lực Hoa Kỳ đang suy giảm. Nhưng sự đề kháng hiện nay ở Nhật là dấu hiệu chắc chắn nhất: số căn cứ quân sự ở hải ngoại mang tính đế quốc của Mỹ đã lên đỉnh cao và sẽ tụt dần trong một tương lai không xa. KHÔNG CÒN MÃI YES, SIR! Cho đến một ngày gần đây, Nhật luôn là một nhà nước độc đảng. Điều đó không hề làm Hoa Kỳ phiền lòng. Đảng cầm quyền lâu dài, Liberal Democratic Party - LDP, đã duy trì một quan hệ lưỡng đảng nồng ấm nhất với các nhà làm chính sách Hoa Thịnh Đốn và Câu Lạc Bộ Hoa Cúc (Chrysanthemum Club) của các bình luận gia thân Nhật. Một tiết lộ gần đây - năm 1969, nhượng bộ trước đòi hỏi của T T Richard Nixon, Nhật đã bí mật tiếp đón các tàu chiến trang bị vũ khí hạt nhân của Mỹ, mặc dù trái với nguyên tắc phi nguyên tử của Tokyo - đã vén màn cho thấy một chấm nhỏ trong thái độ đàn em của nhà cầm quyền Nhật. Kể từ ngày chiến tranh lạnh bắt đầu , các chính phủ kế tiếp ở Nhật đã luôn chiều theo mọi ước muốn của Hoa Thịnh Đốn. Khi chính quyền Nhật hạn chế xuất khẩu quân sự gây trở ngại cho liên minh, Tokyo vẫn luôn dành biệt lệ cho Hoa Kỳ. Khi nhu cầu hợp tác trong vấn đề phòng vệ tên lửa, mâu thuẩn với chính sách ngăn cấm quân sự hóa không gian, Tokyo lại khua đũa thần và sự cấm đoán tan biến. Mặc dù hiến pháp Nhật từ chối "sự đe dọa hay sử dụng vũ lực như phương tiện giải quyết các tranh chấp quốc tế", để bù lại, Hoa Thịnh Đốn đã thúc đẩy Tokyo giúp trang trải các chi phí của cuộc phiêu lưu quân sự của Mỹ trong cuộc chiến vùng Vịnh lần đầu chống lại Saddam Hussein năm 1990-91. Và Tokyo đã ngoan ngoản vâng theo. Tiếp đó, từ tháng 11-2001 cho đến gần đây, Hoa Thịnh Đốn đã "thuyết phục" người Nhật tiếp tế nhiên liệu trong vùng Ấn Độ Dương cho các tàu chiến và phi cơ chiến đấu Mỹ ở Afghanistan. Năm 2007, Ngũ Giác Đài ngay cả gây áp lực đòi hỏi Tokyo tăng ngân sách quốc phòng để giúp trang trải nhiều hơn nữa các chi phí của liên minh. Đã hẳn, đảng LDP đã chiều theo các đòi hỏi nói trên chỉ vì chúng đan xen hài hòa với các kế hoạch riêng của đảng muốn uốn nắn luồn lách hiến pháp hòa bình của Nhật và tăng cường quân lực. Trong thực tế, suốt hai thập kỷ vừa qua, Nhật đã tậu mãi nhiều khí giới tối tân, kể cả phản lực cơ chiến đấu, khả năng tiếp liệu xăng dầu trên không trung, và tàu chiến có chức năng hàng không mẫu hạm. Nhật cũng đã tu chính Luật các Lực Lượng Tự Vệ 1954 (1954 Self-Defense Forces Law) trên 50 lần để ấn định những gì quân lực Nhật có thể và không thể làm, và đem lại khả năng hành động với sức mạnh tấn công. Mặc dù được trang bị một hiến pháp hòa bình, ngày nay Nhật có một quân lực hàng đầu thế giới. Sau cuộc bầu cử tháng 8-2009, Đảng Dân Chủ Nhật Bản (Democratic Party of Japan - DPJ) lên thay thế LDP sau hơn một nửa thế kỷ cầm quyền, với một sứ mệnh lớn lao: thay đổi. Trong bối cảnh kinh tế quốc gia đang tiếp tục xuống dốc, DPJ phải tập trung giải quyết nhiều vấn đề đối nội và cắt giảm chi tiêu. Vì vậy, không ai ngạc nhiên, khi tìm cách cắt xén ngân sách, DPJ đã rà soát lại liên minh với Hoa Kỳ. Khác với hầu hết các quốc gia chấp nhận sự hiện diện của các căn cứ quân sự Mỹ, Nhật Bản còn phải gánh chịu hầu hết các chi phí duy trì các căn cứ nầy: khoảng trên 4 tỉ USD mỗi năm tiền hỗ trợ hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong trạng huống đó, chính phủ mới của Thủ Tướng Yukio Hatoyama đã đưa ra một đề nghị thực sự khiêm tốn: đặt liên minh Mỹ-Nhật, dùng ngôn từ trong hiện tình, trên một căn bản bình đẳng hơn (on a more equal footing). Hatoyama đã khởi đầu cách tiếp cận mới mang tính tượng trưng bằng cách chấm dứt sứ mạng tiếp liệu xăng dầu trên Ấn Độ Dương (mặc dù Tokyo đã tìm cách tiết giảm tác động của quyết định nầy với ngân khoản 5 tỉ USD trong 5 năm viện trợ phát triển dành cho chính phủ Afghanistan). Quan trọng hơn nữa, chính quyền Hatoyama cũng đã cho biết ý định giảm bớt ngân sách hỗ trợ duy trì các căn cứ. Đường lối thắt lưng buộc bụng Hatoyama đề nghị đã được đưa ra trong thời điểm bất thuận lợi đối với chính quyền Obama, hiện đang gặp nhiều khó khăn trong việc tài trợ hai cuộc chiến tốn kém và mạng lưới quân sự toàn cầu trên 700 căn cứ. Gánh nặng "các chiến dịch không tiên liệu ở hải ngoại" (overseas contingency operations) đang ngày một gia tăng, và ngày một ít quốc gia sẵn lòng chung vai gánh vác. ĐỘNG VẬT QUÍ HIẾM VÀ DÂN CHỦ Nguyên do căng thẳng trước mắt trong quan hệ Mỹ-Nhật là chính phủ mới đã tỏ ý muốn tái thương thảo thỏa ước 2006: đóng cữa Futenma, di chuyển 8000 thủy quân lục chiến qua Guam, và xây dựng một căn cứ mới ở Nago, một vùng thưa thớt dân cư thuộc Okinawa. Đây là thỏa ước mang tính bắt nạt, ép buộc một chính quyền đang gặp khó khăn tài chánh phải trả một chi phí quá cao: năm 2006, Tokyo đã hứa sẽ bỏ ra 6 tỉ USD chỉ để giúp di chuyển thủy quân lục chiến qua Guam. Cái giá chính trị đối với chính phủ mới - nếu phải thực thi thỏa ước khùng điên do đảng LDP tiền nhiệm ký kết- có lẽ còn cao hơn. Xét cho cùng, DPJ đã được hậu thuẩn lớn lao của cử tri Okinawa, đang bất mãn với thỏa ước 2006 và muốn thấy sự chiếm đóng đảo Okinawa của người Mỹ chấm dứt.Trong nhiều thập kỷ vừa qua, với các căn cứ kế cận của Mỹ trong nhiều khu đông dân, người Okinawans đã phải chịu đựng nhiều loại ô nhiễm - không khí, nước uống, ồn ào, các tai nạn như trực thăng rơi ở Đại Học Quốc Tế Okinawa năm 2004, và các tội phạm từ chạy xe quá tốc độ đến 3 thủy quân lục chiến hãm hiếp một em bé 12 tuổi năm 2005... Theo kết quả cuộc thăm dò công luận tháng 6-2009, 68% dân Okinawa chống lại quyết định dời căn cứ Futenma đến một địa điểm khác bên trong Okinawa, và chỉ 18% đồng ý. Trong khi đó, Đảng Dân Chủ Xã Hội (Social Democratic Party - SDP) - đảng thiểu số trong liên minh cầm quyền hiện nay - đã đe dọa sẽ rút khỏi liên minh nếu Hatoyama không giữ lời cam kết, trong quá trình vận động tuyển cử, sẽ không xây dựng một căn cứ mới ở Okinawa. ĐỘNG VẬT QUÍ HIẾM VÀ NGUY CƠ DIỆT CHỦNG Ngoài ra, còn vấn đề động vật quí hiếm dugong (bò biển), tương tự với loài manatee, một đông vật sống ở biển, lai chủng giữa walrus và dolphin và là đầu mối của huyền thoại mermaid. Chỉ còn khoảng 50 dugong đang bị đe dọa diệt chủng, sống trong vùng biển gần Nago, nơi được chọn xây căn cứ thay thế mới. Nhiều luật sư Nhật và các nhà bảo vệ môi trường và đa dạng sinh thái Mỹ đã yêu cầu tòa án liên bang ngăn chặn việc xây căn cứ mới ở Nago, để bảo vệ dugong. Trong thực tế, ngay cả khi Ngũ Giác Đài muốn kháng án lên Tối Cao Pháp Viện, các luật sư và giới bảo vệ môi sinh quyết định sẽ theo đuổi vụ kiện đến cùng. Với thủ tục pháp lý kéo dài, căn cứ mới có thể không bao giờ tiến xa hơn bàn vẽ họa đồ căn cứ. Vì các lý do môi sinh, chính trị, và kinh tế, việc dẹp bỏ thỏa ước 2006 không phải là vấn đề khó khăn rắc rối đối với Tokyo. Tuy nhiên, trước quyết tâm thi hành thỏa ước 2006 xây dựng một căn cứ mới không mấy giá trị chiến lược của Hoa Thịnh Đốn, thách thức đối với DPJ là đã phải tìm một địa điểm khác hơn là Nago. Chính quyền Nhật đã thăm dò khả năng nhập chung căn cứ Futenma vào Kadena, một căn cứ khác của Mỹ trên đảo Okinawa. Nhưng kế hoạch nầy hoặc một địa điểm khả dĩ khác ở Nhật đã gặp phải sự chống đối mạnh mẻ của dân chúng địa phương. Đề nghị mở rộng các căn cứ ở Guam cũng đã bị thống đốc đảo Guam từ chối. Giải pháp cho nội vụ giờ đây đã khá rõ ràng: đóng cửa căn cứ Futenma mà không đòi hỏi xây căn cứ mới nào khác. Nhưng cho đến nay, Hoa Kỳ vẫn còn từ chối một giải pháp dễ dàng cho Nhật. Trong thực tế, Hoa Thịnh Đốn đang làm mọi việc có thể để dồn chính phủ mới ở Nhật vào góc tường. TĂNG ÁP LỰC Sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Okinawa là do quyết tâm ngăn đê đối với cường quốc quân sự duy nhất có thể đe dọa địa vị bá chủ của Hoa Kỳ cũng như tàn tích còn sót lại từ thời chiến tranh lạnh. Trong thập kỷ 1990s, giải pháp cho một Trung Quốc đang lên của chính quyền Clinton là hội nhập, nhưng với rào dậu (integrate, but hedge). Với Clinton, rào dậu chỉ tập trung quanh liên minh Mỹ-Nhật và một lực lượng quân sự Nhật được tăng cường để đủ sức răn đe phòng ngừa. Điều chính quyền Clinton và những Tổng Thống kế nhiệm đã không tiên liệu là Trung Quốc đã có thể vô hiệu hóa chiến lược rào dậu một cách hiệu quả và hòa bình qua khả năng lãnh đạo thận trọng và một chính sách mậu dịch kiên cường. Một số các quốc gia Đông Nam Á, kể cả Phi Luật Tân và Indonesia, đã sớm nhượng bộ và phục tùng hình thức ngoại giao hầu bao (checkbook diplomacy) của Trung Quốc. Kế đó, trong thập kỷ vừa qua, Nam Hàn, cũng như Nhật hiện nay, cũng bắt đầu nói đến khả năng thiết lập một quan hệ bình đẳng hơn với Hoa Kỳ trong một nổ lực tránh né sự khả dĩ bị lôi kéo vào bất cứ hình thức cọ xát quân sự nào giữa Hoa Thịnh Đốn và Bắc Kinh trong tương lai. Ngày nay, không còn những khuôn mặt bảo thủ nòng cốt trong chính quyền, Nhật Bản rõ ràng đang bị quyến rũ bởi sức hấp dẫn của Trung Quốc. Năm 2007, Trung Quốc đã qua mặt Hoa Kỳ trong vai trò đối tác thương mãi hàng đầu của Nhật. Khi lên nắm quyền thủ tướng, Hatoyama đã khôn khéo đưa ra đề nghị thành lập một Cộng Đồng Đông Á tương lai theo dạng thức Liên Hiệp Âu Châu. Trong viễn kiến của Hatoyama, mô hình nầy có thể là đòn bẩy giúp nâng cao địa vị của Nhật giữa một Trung Quốc đang lên và một Hoa Kỳ đang đi xuống. Tháng 12- 2009, trong khi Hoa Thịnh Đốn và Tokyo đang tranh chấp gay gắt về vấn đề căn cứ Okinawa, lãnh tụ đảng DPJ, Ichiro Ozawa, đã gửi một tín hiệu đến Hoa Thịnh Đốn cũng như Bắc Kinh khi đích thân hướng dẫn môt phái đoàn 143 đoàn viên các nhà lập pháp đảng ông qua thăm Trung Quốc trong 4 ngày. Không có gì đáng ngạc nhiên, chính sách đầy ấn tượng và choáng ngợp của TQ đã tác động như chuông báo động ở Hoa Thịnh Đốn, nơi Trung Quốc luôn là tâm điểm quan ngại hàng đầu của nhóm hoạch định chiến lược bên trong Ngũ Giác Đài. Trong bối cảnh đó, căn cứ Futenma hay căn cứ thay thế tọa lạc rất đúng chỗ, trong trường hợp Hoa Thịnh Đốn cần quyết định gửi các đơn vị phản ứng nhanh đến eo biển Đài Loan, Nam Hải, hay bán đảo Triều Tiên. Các nhà hoạch định chiến lược Hoa Thịnh Đốn thường nhắc đến "khoảng cách độc tài" (tyranny of distance), đến khó khăn gửi quân đến hiện trường (boots on the ground) từ Guam hay Hawaii trong trường hợp khẩn cấp ở Đông Á. Tuy nhiên, giá trị chiến lược tối đa của căn cứ Futenma thực sự cũng chẳng đáng quan tâm. Để đối phó với tình trạng khẩn cấp trên bán đảo Triều Tiên, Nam Hàn chắc chắn có nhiều khả năng hơn. Và Hoa Lục thực ra cũng ở trong tầm hoạt động của hỏa lực hùng hậu hàng không (Kadena), hàng hải (Yokosuka) của Hoa Kỳ. Vài nghìn thủy quân lục chiến sẽ chẳng mấy quan trọng. Tuy nhiên, trong môi trường chính trị đòi hỏi Ngũ Giác Đài phải quyết định lựa chọn khó khăn giữa việc tài trợ các cuộc chiến "chống trổi dậy" (counterinsurgency wars) và các hệ thống vũ khí thời chiến tranh lạnh, các lực lượng vận động hành lang "đe dọa Trung Quốc" ("China threat" lobby) không muốn bất cứ nhượng bộ nào dù nhỏ nhoi. Thất bại trong đòi hỏi di dời căn cứ Futenma ngay bên trong hải đảo Okinawa rất có thể chỉ là bước trượt chân đầu trên triền dốc trơn trợt có khả năng gây tốn kém hàng tỉ USD trong các loại vũ khí Chiến Tranh Lạnh vẫn đang nằm trong dây chuyền sản xuất. Thật khó lòng để biện minh việc mua sắm các đồ chơi cao cấp mà chẳng có sân chơi. Vì lý do đó, chính quyền Obama đã gây áp lực nặng nề buộc Tokyo phải thực thi thỏa ước 2006. Tháng 10-2009, Obama còn gửi cả bộ trưởng quốc phòng Robert Gates tới thủ đô Nhật trước ngày chính thức công du Á châu. Tương tự như người cha nóng lòng cảnh cáo đứa con bướng bỉnh, Gates đã lên giọng thuyết giảng người Nhật phải tuân thủ thỏa ước - gây bất bình cả trong chính quyền mới lẫn công chúng Nhật. Như có thể dự đoán, giới bình luận gia đã đồng lòng ủng hộ lập trường lưỡng đảng của nhóm đồng thuận Hoa Thịnh Đốn (Washington Consensus): chính quyền mới của Nhật cần phải làm quen với vai trò đàn em như các vị tiền nhiệm và phải chấm dứt thái độ bướng bỉnh đối nghịch. Biên tập viên Tred Hiatt báo Washington Post viết: Chính quyền Obama rất bất xúc với lối "ứng xử tay mơ của Hatoyama trong vấn đề nầy" . Victor Cha, nguyên giám đốc Á Châu Sự Vụ trong Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, nói thêm: "Hậu quả của sự thiếu vắng một chiến lược rõ ràng hay kế hoạch hành động của Hatoyama là lỗ trống chính trị lớn lao nhất trong hơn 50 năm qua" . Cả hai nhà bình luận đều không công nhận sự "thiếu vắng" hay "hành động tay mơ" duy nhất của Tokyo chỉ là đã dám chống lại Hoa Thịnh Đốn. Tạp chí The Economist đã nhấn mạnh một cách trắng trợn hơn: "Sự tranh chấp có thể đã gây tổn hại cho an ninh ở Đông Á trong dịp kỷ niệm 50 năm của một liên minh đã phục vụ khu vực nầy khá thành công. Dù khá khó khăn cho chính quyền mới ở Nhật, chính phủ Hatoyama cần phải chấp nhận phần lớn, dù không phải tất cả, các nhượng bộ" . Thực ra, chính quyền Hatoyama không hề cực đoan hay chống Mỹ. Họ cũng không chuẩn bị đòi hỏi tất cả, hay ngay cả phần lớn các căn cứ quân sự, phải đóng cữa. Họ cũng không chuẩn bị ngay cả đóng bất cứ căn cứ nào trong khoảng trên 36 căn cứ ở Okinawa. Đòi hỏi khiêm tốn nhất của họ chỉ hạn chế vào căn cứ Futenma, nơi họ đang bị kẹt giữa công luận Nhật và áp lực của Ngũ Giác Đài. Những quan chức chủ trương - Hoa Thịnh Đốn nên thương thảo với Tokyo về các mục tiêu phải thành đạt một cách nhẹ nhàng gián tiếp - đã lên tiếng khuyến cáo nên kiên nhẫn. Joseph Nye, kiến trúc sư chính sách Á châu của Hoa Kỳ thời Clinton, viết: "Nếu người Mỹ làm mất thể diện hay uy tín của chính quyền mới ở Nhật, và gây bức xúc hay oán hận trong công chúng Nhật, một chiến thắng về Futenma lúc đó chỉ có thể là một chiến thắng quá đắt giá" . Họ thúc dục Hoa Kỳ nên đợi đến mùa hè - khi DPJ tìm cách giành thêm vài ghế đại biểu trong cuộc bầu cử Quốc Hội sắp tới hầu loại bớt vài đối tác trong liên minh - nếu lúc đó Hoa Kỳ thấy hành động như vậy là cần thiết. Tuy nhiên, ngay cả khi đảng SDP không còn hiện diện trong chính quyền để nêu vấn đề căn cứ Okinawa, DPJ vẫn phải đối mặt với tinh thần dân chủ của quần chúng. Người dân Okinawa triệt để chống đối một căn cứ mới. Cư dân ở Nago, nơi căn cứ có thể được xây như đã dự định, mới bầu lên một thị trưởng với nghị trình không chấp nhận căn cứ quân sự. Đã hẳn không một ai có thể quan niệm đảng cầm quyền mới đem lại dân chủ cho Tokyo lại bóp chết dân chủ ở Okinawa. TÁC ĐỘNG DÂY CHUYỀN VÀ NHU CẦU CHIẾN LƯỢC MỚI Bất cứ quân lực Hoa Kỳ đặt chân đến đâu ở hải ngoại, nơi đó nhiều phong trào sẽ mọc lên chống đối các hậu quả quân sự, xã hội, môi sinh của các căn cứ quân sự. Cho đến nay, các phong trào loại nầy đã ghi nhận được vài thành công, như việc đóng cữa căn cứ Hải Quân Hoa Kỳ ở Vieques, Puerto Rico, năm 2003. Ở Thái Bình Dương, phong trào cũng đã để lại dấu ấn. Tiếp theo sau núi lửa bùng phát ở Mt. Pinatubo, các nhà hoạt động dân chủ ở Phi Luật Tân đã thành công đóng cữa căn cứ không quân Clark Air Force Base và căn cứ hải quân Subic Bay Naval Station trong hai năm 1991-1992. Về sau, các nhà hoạt động Nam Hàn đã thành công đóng cữa căn cứ khổng lồ Yongsan ở trung tâm thành phố Seoul. Đã hẳn, trên đây chỉ là những thắng lợi phân bộ. Sau đó không lâu, Hoa Thịnh Đốn đã thương thảo thành công Thỏa Ước Các Lực Lượng Viếng Thăm (Visiting Forces Agreement) với Phi Luật Tân, theo đó quân lực Hoa Kỳ có thể tái giàn trải quân đội và trang bị ở Phi, và thay thế căn cứ Yongsan ở Hàn Quốc với căn cứ mới ở Pyeongtaek gần Seoul. Nhưng những thắng lợi không-ở-sân-sau-của-tôi (not-in-my-back-yard - NIMBY) cũng vẫn còn có đủ ý nghĩa vì đã buộc Ngũ Giác Đài phải chấp nhận một học thuyết quân sự đặt nặng tính di động của các vị trí. Quân đội Mỹ ngày nay dựa trên tính mềm dẻo của chiến lược (strategic flexibility) và phản ứng nhanh (rapid response), cả hai nhằm đối phó với những đe dọa bất thần và sự khả dĩ thay lòng đổi dạ của đồng minh. Thực vậy, chính quyền Hatoyama có thể phải tập nói "không" với Hoa Thịnh Đốn về vấn đề các căn cứ ở Okinawa. Rõ ràng đang lưu ý đến sự khả dĩ nầy, Richard Armitage, nguyên thứ trưởng ngoại giao và nguyên đại sứ ở Nhật, đã gợi ý: Hoa Kỳ tốt hơn hết nên chuẩn bị "kế hoạch B (plan B)". Dù sao, thắng lợi của phong trào chống căn cứ quân sự cũng chỉ mang tính phân bộ. Lực lượng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục đồn trú ở Nhật, và đặc biệt ở Okinawa, và Tokyo chắc phải tiếp tục trả mọi chi phí duy trì các căn cứ. Tuy nhiên, lên tinh thần nhờ các thắng lợi phân bộ nầy, các phong trào NIMBY có khuynh hướng lan tràn ở Nhật và trong khu vực, đặc biệt ở các căn cứ Okinawa, lục địa Nhật, và nhiều nơi khác trong Thái Bình Dương, kể cả Guam. Thực vậy, phong trào phản đối đã xuất hiện ở Guam chống lại dự kiến bành trướng Căn Cứ Không Quân Andersen và Căn Cứ Hải Quân Guam để đáp ứng nhu cầu các thủy quân lục chiến sắp chuyển đến từ Okinawa. Và điều nầy đã làm các nhà hoạch định Ngũ Giác Đài âu lo. Trong Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đã sử dụng chiến lược nhảy từ đảo nầy qua đảo khác để tiến ngày một gần hơn đến lục địa Nhật. Okinawa là hòn đảo cuối cùng và trận chiến quan trọng cuối cùng của chiến dịch, và thương vong trong trận chiến ở đó nhiều hơn số thương vong của bom hạt nhân sau đó ở Hiroshima và Nagasaki gộp lại: 12.000 quân Mỹ, hơn 100.000 quân Nhật , và có lẽ 100.000 thường dân Okinawa. Kinh nghiệm lịch sử nầy đã tăng cường ý chí hòa bình của người Okinawa. Xung đột hiện nay về Okinawa một lần nữa đang diễn ra giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản, và một lần nữa, dân Okinawa vẫn là nạn nhân. Nhưng lần nầy có nhiều hy vọng người dân Okinawa sẽ thắng. Một thắng lợi đóng cữa Futenma và ngăn chặn một căn cứ mới có thể là bước đầu trong quá trình ngược dòng nhảy vọt từ đảo nầy qua đảo khác. Cuối cùng, một ngày nào đó, phong trào NIMBY rất có thể sẽ thành công đẩy quân lực Mỹ ra khỏi Nhật Bản và Okinawa. Tuy nhiên, quá trình khó lòng hoàn toàn êm dịu và cũng khó thể sớm xẩy ra. Nhưng dù sớm dù muộn, như Armitage đã khuyến cáo, người Mỹ tốt nhất cũng cần chuẩn bị trước một kế hoạch B. Khi bàn đến vấn đề rạn nứt trong lâu đài đế quốc Mỹ, như được đo lường qua khả năng các quốc gia trả lời "không" với Hoa Thịnh Đốn hay chỉ không nhìn cùng hướng khi các quan chức Hoa Kỳ đưa ra một đòi hỏi, Âu châu gần đây đã chiếm hầu hết các tin hàng đầu trên báo chí. Các xứ nầy trước đây cũng là những nước luôn hồ hởi hùa theo người Mỹ. "Gates: NATO, in crisis...", "Pull Your Weight, Europe", "Gates: Europe's demilitarization has gone too far", "Dutch Retreat" ...Tất cả những hàng tít đó chỉ quy về một nước - Hà Lan. Trước áp lực quần chúng ngày một gia tăng đối với chiến tranh ở Nam Á, Hà Lan quyết định sẽ rút quân khỏi Afghanistan, và nhiều thành viên NATO khác cũng đã tỏ thái độ úp mở trước lời thỉnh cầu của Mỹ cũng như rất dè dặt trong việc gửi quân tăng viện đến Afghanistan. Sự thực, Âu châu còn lâu mới sẵn sàng nói "không" dứt khoát với Hoa Thịnh Đốn trong nhiều vấn đề. Ở Á châu, từ một nửa thế kỷ nay chưa một khách hàng nòng cốt nào của Mỹ đã trả lời "không". Tuy nhiên, đôi khi chỉ cần một vết rạn nhỏ trên bề mặt cũng có thể đem lại nhiều đổi thay quan trọng. Trong trường hợp nầy, "một tiềm năng nói 'không' khiêm tốn nhất" của chính phủ mới ở Nhật về các căn cứ quân sự của Mỹ hình như đã gần như gây hoảng hốt ở Hoa Thịnh Đốn. Dù sao, ở Âu châu cũng như Á châu, chưa ai bao giờ đã cảm nhận các địa chấn chính trị. Tuy nhiên, bên dưới bề mặt lắng dịu, các địa tầng chính trị toàn cầu đang cọ xát nhau, và ai có thể nói lúc nào, trong quá trình chuyển dịch quyền lực chậm chạp trên hành tinh, một trong các địa tầng sẽ trượt, và đột nhiên cán cân quyền lực toàn cầu sẽ đổi khác. Trong một cọ xát về một căn cứ không mấy quan trọng ở Okinawa, thế giới cũng rất có thể sẽ cảm nhận những rung chuyển dọc theo đường rạn nứt Á châu trong kiến trúc quyền lực toàn cầu của Mỹ. GS Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 14-4-2010
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 16, 2010 4:58:31 GMT 9
Hệ thống tài chánh Hoa Kỳ và cơ chế giám sát Nguyễn Trường SỰ CẦN THIẾT MỘT CƠ CHẾ GIÁM SÁT Tài hóa công và thị trường tự do, theo định nghĩa, đã luôn mang tính tương khắc. Luật lệ về ô nhiễm và vai trò cảnh sát là những ví dụ cổ điển. Trong cuộc khủng hoảng tài chánh hai năm qua, tài hóa công tối cần nhưng thiếu vắng là quy luật giám sát nghiêm chỉnh. Với một hệ thống giám sát yếu ớt, Wall Street đã vay mượn liều lĩnh và đầy bất trắc. Những món nợ nầy đã cho phép các doanh nghiệp đầu tư mạo hiểm, lẽ ra đã không thể thực hiện, để mưu cầu doanh lợi. Khi giá trị các vụ đầu tư bắt đầu suy giảm, các xí nghiệp chỉ có một biên độ sai lầm bé nhỏ. Các xí nghiệp lâm vào tình trạng giống những kẻ mua nhà chỉ trả một số tiền mặt lúc đầu (down payment) quá ít ỏi, và chẳng bao lâu, đã không thể ngoi đầu lên khỏi mặt nước. Các ngân hàng đầu tư, vì vậy, rất xứng đáng để bị chìm xuồng. Nhưng sự sụp đổ của những ngân hàng lớn thường gây ra những tai họa khủng khiếp. Tín dụng và thanh khoản sẽ cạn kiệt; và kinh tế có thể lâm vào vòng lẩn quẩn bong bóng tích sản đổ vỡ, và công ăn việc làm thất thoát. Đó là những gì đã xẩy ra trong năm 2008. Nhằm phục hồi các nguồn tín dụng, chính quyền liên bang đã phải bỏ ra hàng trăm tỉ tiền thuế để ứng cứu. Một câu chuyện khùng điên: chính quyền đã làm ngơ để các ngân hàng tạo mọi cơ hội làm giàu và ứng cứu khi họ gặp tai họa. Chẳng khác gì các công ty dầu đã thủ lợi cùng lúc gây ô nhiễm, Wall Street đã thủ lợi khi vận động gỡ bỏ giám sát, phương hại cho quyền lợi chung của xã hội. Nếu có một vấn đề trong các chính sách đối nội rời rạc của chính quyền Obama, đó là chính quyền lẽ ra đã phải đầu tư nhiều hơn vào các tài hóa công: gia tăng chi tiêu cho trường ốc, xa lộ, nghiên cứu khoa học, và cố gắng đóng một vai trò tích cực trong chính sách năng lượng và dịch vụ y tế. Theo bộ trưởng ngân khố Timothy F. Geithner, "tất cả đều là những bộ phận trong mạng lưới những gì cần thiết cho sự vận hành của nền kinh tế, và chúng ta đã chưa làm đủ tốt trong những năm gần đây"[1]. Geithner nói tiếp, một phần quan trọng trong mạng lưới vừa nói là tái giám sát tài chánh. Để giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng trong tương lai, kế hoạch của Obama cần phải thực hiên ba biện pháp căn bản. Trước hết, các viên chức giám sát cần được dành nhiều quyền để rà soát kiểm tra mọi việc, từ tín dụng bất động sản đến mọi loại chứng khoán phức tạp. Điều nầy có nghĩa phải ngăn ngừa những bom-mìn-tài-chánh-nổ-chậm trong tương lai, như tín dụng và những trái khoán đầy bất trắc trong quá khứ. Biện pháp thứ hai tối quan trọng: các xí nghiệp tài chánh cần bị buộc phải giảm số tín dụng tung ra thị trường, hạn chế tỉ suất cho vay-vốn dự trữ, và gánh nặng nợ nần. Điều nầy tương đương với biện pháp đòi hỏi các người mua nhà phải trả ngay từ đầu một bách phân cao hơn: số thu nhập khả dụng sẽ giúp đem lại cho xí nghiệp tài chánh một biên độ an toàn lớn hơn mỗi khi các khoản đầu tư gặp rắc rối. Cuối cùng, nếu biên độ không đầy đủ, chính quyền phải được quyền tiếp quản xí nghiệp tài chánh sắp phá sản tương tự như hiện đã có thể hành động đối với các ngân hàng chính thống. Cơ quan giám sát lúc đó có thể duy trì hoạt động của xí nghiệp trong một thời gian cần thiết để ngăn ngừa hoảng loạn và sẽ từ từ thanh toán mọi tích sản của xí nghiệp. Trong thực tế, ngay chính giải pháp nầy cũng chưa chắc đã hiệu quả. Không ai có thể đoan chắc bong bóng hay khủng hoảng tương lai sẽ đến từ đâu, vì vậy, làm cách nào để ngăn ngừa. Người ta có thể đưa ra nhiều luận cứ cho nhiều hình thức giám sát, và cũng đã không thiếu các cuộc thảo luận vào chi tiết các biện pháp tái giám sát khác nhau. Làm sao quy định các loại chứng khoán? Liệu cơ quan bảo vệ giới tiêu thụ cần có một quy chế độc lập hay chỉ là một bộ phận của Cục Dự Trữ Liên Bang? Cơ quan nào chịu trách nhiệm tiếp quản một xí nghiệp sắp phá sản? Trong bối cảnh đó, kế hoạch tái giám sát của chính quyền Obama có nhiều điều để khuyến cáo. Kế hoạch sẽ phải lấp những lỗ hổng trong mạng lưới giám sát. Quốc Hội phải tạm quên chính trị đảng phái và biểu quyết một luật quan trọng vào mùa hè sắp tới. Trong trường hợp nầy, lý do quan trọng nhất để âu lo về kế hoạch sẽ không phải bất cứ một trong số các chi tiết Quốc Hội đang bận tâm trong những tháng gần đây, mà là một điều căn bản hơn nhiều. Dù guồng máy giám sát ra sao đi nữa, cơ chế giám sát vẫn phải do các viên chức giám sát điều hành. Cơ quan hữu trách sẽ ấn định các điều kiện vốn, quyết định khi nào đóng cửa một xí nghiệp sắp vỡ nợ, và quy định một thế quân bình giữa nhu cầu bảo vệ giới tiêu thụ mà vẫn để họ có đủ tự do lựa chọn. Pháp chế sẽ không xen vào các chi tiết như thế, và Tổng Thống Obama cũng như chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, Ben Bernanke, cũng chẳng mấy rõ ràng về những chi tiết nầy. Họ cũng chưa đưa ra một triết lý chỉ đạo nào ngoài lời hứa các thanh tra giám sát sẽ làm việc tốt hơn trong tương lai. Trong mọi trường hợp, đây là đề tài liên quan đến bản tính con người nhiều hơn là chính trị. Khủng hoảng tài chánh trong tương lai sẽ có lịch sử gần đây để chiêm nghiệm. Giá trị các tích sản sẽ gia tăng, và các loại chứng khoán hay dụng cụ tài chánh mới nào cũng sẽ có vẻ an toàn. Theo Paul A. Volcker, nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, "khi mọi chuyện diễn tiến tốt đẹp thật khó lòng áp đặt một sự giám sát chặt chẽ vì mọi người đều chống đối"[2]. Đã hẳn, cả Bernanke lẫn Geithner, cũng như nhiều thanh tra khác, đã chẳng lưu tâm đến nhiều dấu hiệu nguy cơ dang rình rập trong thập kỷ vừa qua. Một phương cách đối phó với sự chểnh mảng hay sai lầm của các viên chức giám sát là nghiêm chỉnh thi hành các quy luật rõ ràng và đầy đủ, có mục đích giới hạn khả năng của mọi người dễ dàng để bị thuyết phục bởi tư duy "bong bóng sắp tới sẽ khác" - tỉ số tư bản dự trữ đòi hỏi lúc khởi đầu, chẳng hạn, các ngân hàng không thể thay đổi. Cho đến nay, Tòa Bạch Ốc, Cục Dự Trữ Liên Bang, và Quốc Hội hầu như hoàn toàn tránh né các quy luật như thế. Vì vậy, tưởng cần phải đặt câu hỏi: kế hoạch tái giám sát hiện nay liệu có đủ các biện pháp hỗ trợ cần thiết hay không? Trong trường hợp Wall Street đi trước Hoa Thịnh Đốn một bước, hay các viên chức giám sát tương lai sơ hở trong những đòi hỏi số tư bản dự trữ sơ khởi, hay khi chính quyền không kịp thời tiếp quản "các Lehman Brothers tương lai" trước khi quá muộn, liệu guồng máy tái giám sát có thể nào hoàn thành trách nhiệm giám sát. NGUYÊN NHÂN KHỦNG HOẢNG HIỆN NAY Kể từ Kinh Tế Đại Khủng Hoảng 1929-33, Hoa Kỳ đã được hưởng một giai đoạn sóng yên bể lặng trong sinh hoạt ngân hàng. Trước Đại Khủng Hoảng, khủng hoảng tài chánh thường là một phần của đời sống: theo chu kỳ trên dưới 10 năm. Khi người dân quá âu lo về tính lành mạnh của hệ thống ngân hàng, họ thường đua nhau rút tiền. Trong lúc đó, vì đã cho các gia đình và xí nghiệp kinh doanh khác vay, ngân hàng không còn đủ thanh khoản để đáp ứng. Trước tình trạng khủng hoảng vào đầu thập kỷ 1930s, chính quyền Roosevelt và Quốc Hội đã đưa ra hai biện pháp cải cách trong luật Glass-Steagall Act. Một mặt, Federal Deposit Insurance Corporation - FDIC (Công Ty Bảo Hiểm Ký Thác Liên Bang) được thiết lập, để cung cấp dịch vụ bảo hiểm đối với các khoản ký thác ở ngân hàng và bảo đảm khả năng rút tiền của giới gửi tiền dù ngân hàng vỡ nợ. Mặt khác, các ngân hàng bị buộc phải giới hạn hoạt động trong phạm vi cho vay truyền thống, không được phép dùng tiền ký thác của khách hàng để đầu cơ cổ phiếu và bảo hiểm các loại chứng khoán (underwrite securities). Hai loại biện pháp phối hợp tăng cường hai phương diện của sinh hoạt ngân hàng - quan hệ với giới tiết kiệm (trái chủ) và giới đi vay (con nợ) - để giảm thiểu nguy cơ phá sản của các ngân hàng. Thời kỳ sóng yên bể lặng ra đời. Trong thập kỷ 1980s, sóng gió lại nổi lên. Các ngân hàng bắt đầu đối diện với tình trạng cạnh tranh mới, ve vãn và thu hút hai giới ký thác và vay nợ . Các gia đình có thể gửi tiền vào các quỹ hỗ tương (mutual funds) như Fidelity và Vanguard, những tổ chức trung gian thường hứa hẹn những lợi nhuận cao hơn các chương mục tiết kiệm và đôi khi ít rủi ro bất trắc. Trong khi đó, các công ty xí nghiệp trước kia chỉ có thể vay hay lệ thuộc vào các khoản cho vay của ngân hàng để tài trợ các nghiệp vụ kinh doanh, giờ đây còn có thể vay mượn dễ dàng trên các thị trường trái phiếu (bond markets). Những đổi thay nầy rõ ràng đã mang lại nhiều điều lợi. Như Daniel K. Tarullo, một thống đốc trong Cục Dự Trữ Liên Bang do T T Obama tiến cử, đã nói: "Các quy định New Deal đã bảo trợ một hệ thống ngân hàng, trong phần lớn 40 năm qua, khá ổn định và hữu lợi, mặc dù không có gì đặc biệt sáng tạo trong việc đáp ứng các nhu cầu của các khách hàng ký thác và vay nợ"[3]. Trong hệ thống mới cạnh tranh gay gắt hơn, tiền lãi vay mượn đã giảm sụt nhiều. Thẻ tín dụng (credit cards), thẻ tá phương (debit cards), A.T.M.'s, và các nghiệp vụ ngân hàng trực tuyến (online banking), đã đem lại nhiều tiện lợi cho giới tiêu thụ. Lợi nhuận tương đối cao trên thị trường chứng khoán đã hấp dẫn một số đông đảo quần chúng hơn trước. Các xí nghiệp với tư bản chờ cơ hội đầu tư (venture-capital firms) đã chuyển nhiều ý tưởng thành doanh nghiệp. Nhưng hệ thống mới có một nhược điểm cực kỳ nguy hiểm. Các tổ chức cạnh tranh mới của ngân hàng rất ít được giám sát. Họ không trực tiếp bị ràng buộc bởi các "giới hạn Roosevelt". Geithner nói, "chúng tôi có toàn bộ một hệ thống bên ngoài ngân hàng không hề chịu những hạn chế đáng kể về tư bản dự trữ và hiệu năng đòn bẩy"[4]. Các ngân hàng đầu tư như Lehman Brothers đã có thể kiếm nhiều lợi nhuận lớn lao, một phần qua thế mạnh đòn bẩy lớn hơn các ngân hàng chính thống. Dùng một hình ảnh ví von: chẳng khác nào họ chỉ cần bỏ ra 3% giá mua một bất động sản trong khi các ngân hàng phải trả trước một bách phân ít ra 20%. Chỉ cần giá nhà gia tăng 3%, Lehman đã có thể tăng gấp đôi số đầu tư của mình. Cũng tương tự như vậy, A.I.G. đã sáng tạo các derivatives - loại chứng khoán với tỉ lệ đòn bẩy rất cao - hầu như hoàn toàn thoát khỏi mọi giám sát của chính quyền. Để cạnh tranh, các ngân hàng chính thống bắt đầu vận động cởi bỏ mọi giám sát (deregulation), ngõ hầu có thể nhảy vào các quỹ đầu tư hổ tương (mutual funds) và giúp các công ty bán cổ phiếu và trái phiếu. Năm 1999, chính quyền Clinton và Quốc Hội với đa số Cộng Hòa đã hủy bỏ hầu hết các điều khoản hạn chế của Luật Glass-Steagall, chính thức cho phép các ngân hàng chính thống mở rộng phạm vi hoạt động bao gồm các hình thức đầu tư đầy rủi ro bất trắc. Tuy vậy, các tổ chức cạnh tranh mới của ngân hàng - ngân hàng đầu tư, các hảng bảo hiểm, các quỹ đầu cơ, và nhiều xí nghiệp khác gọi chung như các "ngân hàng nhại phi chính thống" (shadow banks) - vẫn tiếp tục được tự do (ít được giám sát) và phát triển nhanh chóng. Dựa vào lực đòn bẩy, các ngân hàng phi chính thống đã có thể kiếm nhiều lợi nhuận khổng lồ vì luôn đi trước các nhà đầu tư đúng nghĩa một bước, hoặc chỉ cần nắm bắt và lợi dụng thị trường đang nóng bỏng (bull market). Theo Volcker, "lợi nhuận của các xí nghiệp nầy đã vượt xa bất cứ phần đóng góp nào của họ vào nền kinh tế"[5]. Trong thực tế, các giao dịch ngân hàng phi chính thống chiếm khoảng một nửa doanh số của hệ thống tài chánh Hoa Kỳ. Những giao dịch nầy cũng đã giúp tái tạo loại điều kiện tiên quyết (preconditions) đưa đến khủng hoảng hiện hữu trước thập kỷ 1930s. Các xí nghiệp dựa vào lực đòn bẩy cao rất dễ bị thương tổn bởi tình trạng mất tin tưởng. Lần nầy, nạn mất lòng tin hay hoảng sợ không đến từ cá nhân các khách hàng ký thác - vẫn được FDIC bảo vệ - mà từ các xí nghiệp tài chánh khác. Trung tâm của hệ thống tài chánh hiện nay là repo market trong đó các xí nghiệp hàng ngày cho nhau vay mượn những số tiền kếch xù. Nếu các đối tác bất thần cảm thấy âu lo khi một xí nghiệp thứ hai vay tiền của họ đang gặp khó khăn, họ lập tức đòi thêm thế chấp. Một khi một xí nghiệp cho vay bắt đầu đòi thêm thế chấp bảo đảm, các xí nghiệp khác sẽ lo ngại hơn và cũng hành động tương tự. Điều nầy cũng không mấy khác làn sóng các người ký thác đổ xô đến các ngân hàng rút tiền, chỉ khác ở chỗ giờ đây qua điện thoại và máy vi tính thay vì chen chúc trước cửa ngân hàng. Tháng 9-2008, JP Morgan Chase và Citigroup đã hành động như vậy đối với Lehman, và đã thực sự đẩy Lehman đến chỗ phá sản. Sự sụp đổ của Lehman lập tức khởi động tình trạng hoảng sợ trên khắp thế giới. Sự cởi bỏ giám sát trong mấy thập kỷ vừa qua đã bị lên án là thủ phạm gây ra cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay. Và sự cởi bỏ giám sát một phần nào cũng xứng đáng bị chỉ trích. Nếu Citigroup và Bank of America tuân thủ các quy luật New Deal trong quá trình hoạt động, các định chế nầy có lẽ đã có thể tránh khỏi tai họa suýt phải vỡ nợ. Nhưng tưởng cũng nên dành chút thì giờ để nghĩ xem xí nghiệp nào gặp nhiều khó khăn nhất. Đó chính là các ngân hàng phi chính thống: những ngân hàng đầu tư độc lập như Lehman, Bear Stearns và Merrill Lynch; và các xí nghiệp khác như A.I.G., thực ra không phải ngân hàng. Những ngân hàng đầu tư và các xí nghiệp nầy không hoàn toàn bị chi phối bởi luật lệ New Deal, và không mấy bị ảnh hưởng bởi các biện pháp cởi bỏ giám sát. Gốc rễ của khủng hoảng, như vậy, không phải từ luật lệ đã thay đổi. Thị trường tài chánh đã biến đổi, và Hoa Thịnh Đốn đã không bắt kịp. Vì vậy, tái lập một giai đoạn ổn định có lẽ không thể chỉ tìm cách phục hồi các luật lệ cũ, mà hầu như chắc chắn phải cần những luật lệ mới, hoặc toàn bộ hay được cải tiến tinh tế hơn. BẢO VỆ GIỚI TIÊU THỤ Năm 1988, Quốc Hội đã sáng lập ra Schumer box (hộp Schumer). Lấy tên của Charles Schumer, Nghị sĩ bang New York, lúc đó còn là dân biểu Hạ Viện, hộp Schumer đã trở thành một phần bắt buộc trong đơn xin thẻ tín dụng (credit card), liệt kê lãi suất, niên phí, và các con số căn bản khác. Hộp Schumer nhằm nhiều mục đích. Một trong những mục đích là người nào không muốn trả cước phí hàng năm có thể gạt bỏ bất cứ loại thẻ tín dụng nào đòi hỏi niên phí. Tuy nhiên, với thời gian, các ngân hàng đã tìm ra phương cách lấy cước phí mới không bị chi phối bởi hộp Schumer. Các ngân hàng đã sáng tạo nhiều xảo thuật mới thêm vào thẻ tín dụng và đã thu được hàng triệu cước phí phụ như tiền phạt (penalties) khi người dùng thẻ vượt quá giới hạn tối đa trong thẻ tá phương (overdraft fees in debit cards). Một lần nữa, Wall Street đã đi trước Hoa Thịnh Đốn một bước. Thật là điên rồ khi tưởng chúng ta có thể nghĩ ra một gói hỗn hợp vừa phải các quy luật và điều lệ để ngăn ngừa những lạm dụng như vậy. Nếu các viên chức có trách nhiệm giám sát luôn bị ràng buộc bởi các quy luật minh thị và khu vực tư luôn duy trì được tính mềm dẻo du di, các quan chức giám sát không bao giờ có thể bắt kịp. Chính vì lẽ đó, một ít quyền chuyên quyết vẫn luôn là một bộ phận thiết yếu của cơ chế tái giám sát. Trong bối cảnh đó, chính quyền Obama đã đề nghị thành lập một cơ quan mới - Ủy Hội Sản Phẩm Tài Chánh An Toàn (Financial Product Safety Commission - FPSC) - cho phép các viên chức giám sát được quyền quyết đoán nhiều hơn họ đã từng có trong quá khứ. Họ không chỉ đơn thuần thi hành luật lệ. Họ có thể có đủ khả năng kiểm tra hiện trạng thị trường trong thời gian đích thực. Nếu các ngân hàng che giấu cước phí các thẻ tá phương, hay thuyết phục hàng triệu người vay nợ có thế chấp bất động sản vượt quá khả năng trả nợ - những lề lối đã đem lại những lợi nhuận khổng lồ trong thập kỷ vừa qua - Ủy Hội có thể cảnh cáo hoặc cấm chỉ thủ thuật liên hệ. Quyền hạn của Ủy Hội cũng tương tự như của Ủy Hội Tiêu Thụ Phẩm An Toàn (Consumer Product Safety Commission), cơ quan kiểm tra tính an toàn trong đồ chơi trẻ con và nhiều tiêu thụ phẩm khác. Ngày nay, chưa có một cơ quan tài chánh tương đương để bảo vệ quyền lợi giới tiêu thụ. Cơ chế bảo vệ giới tiêu thụ đã trở thành phần tranh cãi nhiều nhất trong cuộc thảo luận về tái giám sát, tương tự như "biện pháp chọn lựa công" (public option) trong cuộc tranh luận về bảo hiểm y tế. Richard C. Shelby, nghị sĩ Cộng Hòa trong Tiểu Ban Ngân Hàng, đã nói rõ lập trường chống đối một cơ quan độc lập như thế. Một phần, sự chống đối của phe Cộng Hòa phản ảnh lập trường của giới ngân hàng. Nhưng thái độ chống đối cũng phản ảnh sự âu lo: các quan chức giám sát sẽ bóp chết mọi sáng kiến canh tân, hay, ngược lại, sẽ thúc đẩy các ngân hàng, nhân danh giới tiêu thụ, lấy những quyết định liều lĩnh và thiếu khôn ngoan. Đó là điều đã xẩy ra cho Fannie Mae và Freddie Mac, hai tổ chức tín dụng công, đã giúp tăng cường làn sóng cho vay với lãi suất cực thấp subprime lending - nguyên nhân đưa tới bong bóng bất động sản. Trong những tuần lễ gần đây, các nghị sĩ đang thảo luận khả năng cho ra đời một hình thức nào đó của cơ chế nầy - có lẽ nằm bên trong Cục Dự Trữ Liên Bang - có thể được phe Cộng Hòa ủng hộ. Tuy nhiên, Cục Dự Trữ Liên Bang nhiều lần trong lịch sử đã tỏ ra không mấy hữu hiệu trong việc bảo vệ quyền lợi giới tiêu thụ. Vì lý do đó, nghị sĩ Christopher J. Dodd, chủ tịch Ủy Ban Ngân Hàng Thượng Viện, đã đưa ra đề nghị: dành cho cơ quan sẽ thiết lập một ngân sách riêng và vị giám đốc sẽ do Tổng Thống bổ nhiệm. Tuy nhiên, điều quan trọng không phải chức năng giám sát đặt trụ sở ở đâu, mà chính là phương cách tiếp cận vai trò giám sát. Về phương diện nầy, cơ quan giữ chức năng giám sát có thể là một bộ phận phản ảnh tính quyết đoán chính trị trong kế hoạch của Obama, và cũng phản ảnh khuynh hướng ưa chuộng các chính sách cơ sở trên nghiên cứu thực dụng của chính Tổng Thống và các cố vấn thân cận. Thực dụng (pragmatic) là từ được Tổng Thống ưa thích. Theo quan niệm của các quan chức Bạch Ốc và Bộ Ngân Khố, cơ quan mới nầy sẽ là một phó sản của ngành kinh tế ứng xử (behavioral economics), một ngành phối hợp tâm lý và kinh tế học nhằm nghiên cứu cách ứng xử thực tế của quần chúng trong đời thường, thay vì họ nói họ sẽ ứng xử như thế nào hoặc các mô hình lý thuyết tiên đoán họ sẽ ứng xử ra sao. Cơ quan cũng có thể tổ chức các cuộc thử nghiệm giúp các nhà khoa học xã hội nghiên cứu cách đáp ứng của giới tiêu thụ đối với các lựa chọn do các xí nghiệp tài chánh đưa ra. Michael S. Barr, phụ tá đặc trách các định chế tài chánh của bộ trưởng Geithner, nguyên giáo sư Đại Học Michigan, chuyên nghiên cứu các vấn đề tài chánh của giới tiêu thụ. Sendhil Mullainathan, giáo sư Harvard, đối tác nghiên cứu của Barr, năm rồi đã làm việc tại bộ Ngân Khố và Cục Quản Lý và Ngân Sách , chuyên trách thiết kế các cơ quan bảo vệ giới tiêu thụ. Theo Mullainathan, trong nhiều địa hạt của đời sống, động lực kiếm lời luôn có tác dụng gián tiếp hỗ trợ an sinh của giới tiêu thụ. Người tiêu thụ hiểu rõ giày hay điện thoại di động nào tốt và các công ty cạnh tranh nhau cả về giá cả lẫn chất lượng. Trong nhiều địa hạt khác, người tiêu thụ không thể phân biệt hàng tốt với hàng xấu. Vấn đề quá phức tạp, chẳng hạn, lãi suất hay lãi kép (compound interests/returns). Trên phương diện lý thuyết, các công ty có thể tìm cách giúp khách hàng làm quen với những đề tài nầy. Nhưng đây là những vấn đề khó khăn. Việc dễ làm hơn là lợi dụng bản năng sẵn có của người tiêu thụ. Do đó, các công ty bán những sản phẩm kỹ thuật cao không muốn cạnh tranh nhau về giá cả và chất lượng. Họ cạnh tranh nhau qua các xảo thuật quảng cáo hay những mánh-khóe-khuyến-mãi-quá-hấp-dẫn-để-có-thể-có-thật (slick advertising or too-good-to-be-true offers), chẳng hạn, quảng cáo lãi suất khởi đầu thấp. Mullainathan nói, "nhiều người nghĩ, các công ty đang tìm cách phá hoại cái gì tốt cho tôi. Nhưng hãy nghĩ đến anh chàng chịu trách nhiệm về đơn vị phân phối thẻ tín dụng. Anh ta chỉ biết làm nhiệm vụ. Anh ta chỉ phải làm theo khúc tuyến cầu"[6]. Và đường biểu diễn sức cầu lại chỉ cơ sở trên các yếu tố thực sự chi phối số cầu của người tiêu thụ đời thường, chứ không phải trên các yếu tố nhiều người mong muốn sẽ có thể ảnh hưởng đến số cầu. Nhiều người thực sự sẵn sàng ký vào hợp đồng tín dụng bất động sản với số tiền trả hàng tháng khởi đầu thấp, ngay cả khi trong thực tế họ không hy vọng có đủ khả năng trả tiền nhà hàng tháng sau nầy. Giải pháp hữu hiệu duy nhất cho vấn đề là quy định và giám sát. Các viên chức giám sát bảo đảm tính an toàn của phi cơ, bởi lẽ giới tiêu thụ - hành khách hàng không - không thể kiểm tra các động cơ. Các hãng hàng không chỉ cạnh tranh nhau về những gì kháck hàng có thể thẩm định, như giá vé, chỗ ngồi thoải mái, đường bay thuận lợi, và các loại giải trí truyền hình trong thời gian bay... Theo Mullainathan, mục đích của cơ quan giám sát là "chạy theo dòng thác cạnh tranh gay gắt và điều chỉnh dòng thác theo chiều hướng có lợi cho người tiêu thụ"[7]. Mới đây, Michael S. Barr cho biết một mẩu hóa đơn tiền nợ thẻ tín dụng được thiết kế theo dạng thức có thêm "hộp Schuman" có thể cập nhật qua thời gian. Ngay cả khi hộp nầy không có hiệu lực pháp lý hay bắt buộc, các ngân hàng có thể được khuyến khích sử dụng. Các nhóm tư nhân có thể nhận diện các ngân hàng với cước phí che giấu. Barr cũng đưa ra ý niệm thay thế các giấy tờ rắc rối người mua nhà phải ký nhận khi giao dịch đã hoàn tất, bằng một tài liệu đơn giản tiết lộ điều kiện vay mượn đã thỏa hiệp. Đây là tài liệu ghi rõ những thông tin căn bản nhất, và khác với hồ sơ quá nhiều giấy tờ phức tạp trước đây người mua phải ký, nhiều người mua nhà, giờ đây, có thể đọc và hiểu. Tự nó, cơ quan bảo vệ người tiêu thụ khó thể ngăn ngừa mọi khủng hoảng tài chánh trong tương lai. Các cuộc khủng hoảng tài chánh hiện nay có khuynh hướng có nhiều gốc rễ nằm sâu bên trong Wall Street, với những loại chứng khoán phức tạp người tiêu thụ không bao giờ thấy hoặc hiểu nổi. Trong một dự luật trước Thượng Viện, hội đồng các ủy viên giám sát, do Bộ Trưởng Ngân Khố chủ tọa, sẽ làm việc với Cục Dự Trữ Liên Bang, có trách nhiệm kiểm tra các bất trắc rủi ro trong hệ thống tài chánh khi đang khai triển. Điều thiết yếu là ủy hội có thể giám sát và kiểm tra các ngân hàng chính thống lẫn các ngân hàng nhại phi chính thống.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 16, 2010 4:59:39 GMT 9
TIẾT GIẢM TÁC ĐỘNG CỦA KHỦNG HOẢNG (Tiep theo)
Hiệu năng guồng máy giám sát phần lớn tùy thuộc ở sự khôn ngoan của các quan chức điều hành - những con người cũng dễ bị lôi cuốn theo làn sóng lạc quan của bong bóng. Và các viên chức chính quyền - đặc biệt là Geithner, kiến trúc sư chính của kế hoạch tái giám sát - rất nhạy cảm đối với ý kiến đòi hỏi quá nhiều quyền chuyên quyết cá nhân. Giải pháp của họ tùy thuộc ở những điều kiện tư bản dữ trữ đòi hỏi để ngăn ngừa tai nạn sụp đổ tài chánh tương lai. Họ gọi những đòi hỏi nầy như những lớp đệm trên phi đạo (runway) các sân bay. Chừng nào một xí nghiệp có đủ các tích sản có giá trị vững chắc - và có thể cải hoán thành giá trị bằng tiền mặt - xí nghiệp sẽ có thể vượt qua những bất trắc do đầu tư thất bại và giám sát thiếu hiệu quả.
Geithner nói với báo The New York Times, "chúng tôi không biết cuộc khủng hoảng sắp tới sẽ đến từ đâu. Chúng tôi sẽ không thể tiên đoán. Chúng tôi sẽ không thể chặn trước các bong bóng trong tương lai. Vì vậy, chúng tôi muốn xây dựng một lớp đệm lớn hơn rất nhiều trong hệ thống để khống chế tính nhân-vô-thập-toàn cơ bản của con người. Tôi không muốn một hệ thống lệ thuộc vào sự sáng suốt hay can đảm. Ba điều quan trọng nhất cần làm là tư bản, tư bản, và tư bản"[8].
Nhiều người chia sẻ cách nhìn rộng rãi nầy. Shelby đã nói đến tầm quan trọng của tư bản dự trữ. Sheila Bair, chủ tịch FDIC, cũng đồng ý, và đôi khi đã va chạm với các cố vấn kinh tế của Obama.
Cách tốt nhất để hiểu tầm quan trọng của tư bản dự trữ là nhìn lại số phận của những xí nghiệp đi vào cuộc khủng hoảng với những lớp đệm tương đối dày. Theo phúc trình gần đây của McKinsey & Company, năm 2007, các ngân hàng thương mãi đã có một tỉ lệ đòn bẩy trung bình 12 /1. Điều nầy có nghĩa: các ngân hàng phải có 1USD tích sản cho 12 USD nợ. Tỉ lệ nầy đủ an toàn cho nhiều ngân hàng để có thể sống sót tương đối an lành sau mỗi khủng hoảng. Ở Canada, các xí nghiệp tài chánh có một tỉ lệ trung bình 18/1, và Canada đã thoát khỏi khủng hoảng tương đối an lành hơn bất cứ quốc gia phát triễn nào khác.
Ngược lại, năm ngân hàng đầu tư lớn của Mỹ - Bear Stearns, Goldman Sachs, Lehman Brothers, Merrill Lynch và Morgan Stanley - có tỉ suất trung bình gần hoặc trên 30/1. Trong số năm ngân hàng đầu tư nầy, Lehman sập tiệm, Bear và Merrill phải sáp nhập vào các công ty khác với một giá bán tích sản rẻ mạt, và Goldman và Morgan Stanley khó thể sống còn nếu không có cứu trợ của chính quyền.
Cuộc khủng hoảng đã khiến Wall Street trở nên bảo thủ hơn. Nhưng tình trạng nầy sẽ không kéo dài. Để tự xoay xở, các xí nghiệp tài chánh sẽ lại vay nợ nhiều và đầu cơ liều lĩnh. Họ có nhiều lý do để hành động như vậy. Một công trình nghiên cứu của Wall Street Journal đã đi đến kết luận: nếu áp đặt một số chuẩn mực đòn bẩy khắt khe hơn trong 5 năm trước cuộc khủng hoảng, lợi nhuận của các xí nghiệp lớn đã có thể phải chịu sụt giảm gần 25%.
Mô hình để thiết kế các quy luật tư bản dự trữ tương lai là những trắc nghiệm sức đề kháng - stress tests - Cục Dự Trữ Liên Bang đã thực hiện trong năm rồi, để thẩm định sức chịu đựng hay đề kháng của từng ngân hàng. Geithner thuyết phục Obama thực hiện những trắc nghiệm như một phần cốt lỏi của chiến lược cứu nguy tài chánh. Kết quả đã đưa đến một điểm ngoặt trong quá trình khủng hoảng. Các ngân hàng ở Hoa Kỳ giờ đây lành mạnh hơn trong nhiều xứ, và kinh tế Mỹ đang tăng trưởng nhanh hơn. Ấn tượng hơn nữa là, theo thống kê của IMF, chương trình cứu trợ đã có những dấu hiệu ít tốn kém hơn nhiều so với các phí tổn thu dọn sạch sẽ trung bình sau khủng hoảng tài chánh.
Nhìn xa hơn, Geithner xem các trắc nghiệm sức đề kháng như một phương cách chứng tỏ những gì Cục Dự Trữ Liên Bang có thể thành đạt khi được trao quyền phối trí và giám sát mọi bộ phận của hệ thống tài chánh, kể cả các ngân hàng nhại phi chính thống. Hơn nữa, các trắc nghiệm có thể là bằng chứng Cục Dự Trữ Liên Bang giờ đây tin tưởng vào hiệu năng giám sát sau nhiều thập kỷ luôn coi nhẹ. Trong khuôn khổ quy hoạch mới, Cục Dự Trữ Liên Bang - một kho tàng các chuyên gia ngân hàng và các kinh tế gia phi chính trị được huấn luyện kỹ càng - sẽ được trao một vai trò quan trọng hơn trong tương lai.
Tuy nhiên, chúng ta có đủ lý do để tự vấn: liệu những tấm đệm tư bản dự trữ, ít ra dưới hính thức hiện nay, sẽ đủ để giúp vượt qua các giới hạn nhân-vô-thập-toàn nhân sự. Chính quyền và Quốc Hội đã cố tình mập mờ về các tỉ lệ tư bản dự trữ. Họ chưa hề đưa ra những con số hay giải thích nhiều chi tiết: chẳng hạn, các tỉ lệ sẽ thay đổi tùy theo kích cỡ xí nghiệp như thế nào hay họ sẽ đối phó ra sao với các tích sản nằm ngoài đối chiếu biểu. Cách tiếp cận của chính quyền và Quốc Hội có điểm lợi là các chi tiết kỹ thuật sẽ tránh khỏi quá trình mặc cả và tương nhượng ở Quốc Hội, tương tự như việc ấn định lãi suất là một quá trình dành cho Cục Dự Trữ Liên Bang , thay vì Quốc Hội. Sự mập mờ cũng đem lại cho các nhà giám sát Hoa Kỳ nhiều tự do hơn trong việc phối hợp với các quan chức giám sát nước ngoài. Vả chăng, tránh được sự xoi mói của công chúng, các đòi hỏi tư bản dự trữ sẽ trở thành một đề tài cuối cùng sẽ tùy thuộc vào quyền chuyên quyết của cơ quan giám sát. Các xí nghiệp Wall Street sẽ có cơ may thuyết phục Cục Dự Trữ Liên Bang là họ có thể không cần đến nhiều vốn liếng như người ta nghĩ. Đã hẳn, các xí nghiệp sẽ phải đưa ra vài mô hình toán học tinh vi phức tạp hậu thuẩn cho lập trường của mình.
Tuy nhiên, các trắc nghiệm sức đề kháng cũng thường chỉ được tổ chức khi các ngân hàng yếu ớt về các phương diện tài chánh và chính trị. Khi mọi chuyện đều tốt đẹp như trong thập kỷ vừa qua, các viên chức Cục Dự Trữ Liên Bang - không riêng gì Alan Greenspan - đã chểnh mảng, hờ hửng trong việc sử dụng quyền hạn của mình. Họ sẵn sàng tin các lý lẽ biện minh cho bong bóng do Wall Street đưa ra. Điều đó rất dễ tái diễn. Trường hợp điển hình là chính Geithner.
Mặc dù Geithner bị chỉ trích quá gần gũi với Wall Street, ông ta chưa bao giờ làm việc ở đó. Ông suốt đời là công chức. Khi chính quyền Clinton sắp mãn nhiệm kỳ, người đỡ đầu của Geithner, Robert Rubin, cho Geithner biết ông có thể có một việc làm béo bở ở Wall Street. Tuy vậy, Geithner đã nhận một chức vụ khiêm tốn hơn với IMF. Trong tư cách chủ tịch Dự Trữ Liên Bang New York, Geithner đã đưa ra nhiều báo động hơn bất cứ viên chức giám sát nào khác. Ông thúc đẩy nhân viên dưới quyền và các lãnh đạo ngân hàng phải nghĩ đến các ngân hàng đang có bao nhiêu vốn liếng và cần có bao nhiêu. Ông cảnh cáo những thời kỳ bình ổn thường đưa đến các cuộc khủng hoảng bất ngờ, không được tiên đoán, và một khi lòng tin bắt đầu lung lay, nó có thể sẽ biến mất nhanh chóng. Trên phương diện trí thức, ông hiểu rõ mọi việc có thể trở nên khó khăn như thế nào.
Tuy nhiên, điều ông đã để tuột khỏi tầm tay, chính là mọi việc đã chệch hướng trong một số định chế do ông giám sát. Tháng 5-2007, trong bài nói chuện ở hội nghị Dự Trữ Liên Bang ở Georgia, Geithner phát biểu "Canh tân tài chánh đã cải thiện khả năng đo lường và quản lý các rủi ro bất trắc". Ông nói tiếp: "các xí nghiệp lớn thường mạnh mẽ về tư bản tương đối với bất trắc"[9]. Bernanke, chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, đã từng nhiều lần có những tuyên bố, giờ đây nhìn lại, người ta thấy còn tệ hại hơn nhiều. Ông chẳng những đã tuyên bố các bong bóng rất khó nhân diện. Ông còn tích cực chối bỏ cả bong bóng bất động sản.
Như vậy, có thể nào quan điểm của Bernanke và Geithner sẽ đúng đắn hơn trong tương lai? Cũng có thể. Nhưng đây là điều rất khó tin. Cả hai đã dành sự nghiệp của mình nghiên cứu và giải quyết các khủng hoảng tài chánh. Ngay cả một vài đồng nghiệp bất đồng quan điểm với hai ông cũng đồng ý cả hai đều rất thông minh. Với tư chất và khả năng như thế, lẽ ra hai ông đã phải là những người có đủ uy tín cần thiết cho vai trò những viên chức giám sát sáng suốt và kiên quyết, nhưng họ đã không hành động như thế.
Giải pháp thay thế như vậy là gì? Canada đã đem lại một bài học rõ ràng. Họ trông cậy vào các quy luật trực tiếp và minh bạch hơn Hoa Kỳ. Canada buộc tín dụng bất động sản với ít hơn 20% trả trước phải được bảo hiểm, và loại tín dụng nầy rất ít phổ thông ở Canada. Canada cũng ấn định tỉ lệ đòn bẩy chuẩn không được vượt quá 20/1. Julie thingyson, lãnh đạo ngành giám sát Canada, đã từng tuyên bố: "Chúng tôi trở nên thực sự cứng rắn khi các ngân hàng tiến gần đến tỉ lệ trần nầy"[10].
Những quy luật trực tiếp và minh thị cũng có nhiều vấn đề riêng. Nhưng những quy luật nầy cũng gửi đi những tín hiệu có thể tồn tại lâu dài qua nhiều chu kỳ kinh tế. Ở Canada, quy luật tư bản dự trữ mang tính bảo thủ được phổ biến rộng rãi không những đã kiềm hảm các ngân hàng Canada, mà còn có giá trị như một lời nhắc nhủ bất biến đối với các viên chức giám sát và giúp các viên chức nầy tránh rơi vào vòng ảnh hưởng của tư duy bong bóng.
Năm ngày trước khi Geithner đọc diễn văn ở Georgia, thingyson đã có bài nói chuyện ở Ontario. Bà nhắc nhở cử tọa về nhân vật chính Samantha, trong show truyền hình "Bewitched" (Phù Thủy) trong thập kỷ 1960s, có quyền lực phi thường và có thể biến tai lợn thành những ví xách tay bằng lụa. Bà nói, "ngày nay thị trường hình như đang sản xuất những chứng khoán ba-A (triple-A) từ những chứng khoán không có giá trị ba-A"[11]. Tai lợn trong câu chuyện bà kể chính là tín dụng bất động sản subprime, do Wall Street gói ghém lại để tái phân phối, thành các trái khoán ba-A an toàn được rao bán như những ví xách tay bằng lụa. THUẾ ĐÁNH TRÊN CÁC NGHIỆP VỤ TÀI CHÁNH
Quy luật minh bạch gẩy gọn được lưu ý nhiều nhất trong năm qua là Quy Luật Volcker. Lấy tên của nguyên chủ tịch Cục Dự Trữ Liên Bang và cố vấn của T T Obama, quy luật sẽ cấm các ngân hàng chính thống tham gia vào các giao dịch chứng khoán - mua bán các cổ phần hay các loại chứng khoán để kiếm lợi nhuận, thay vì như một dịch vụ cho khách hàng.Thoạt trông, quy luật có vẻ như một cố gắng tái lập luật Glass-Steagall. Khi T T Obama thêm biện pháp cấm đoán nầy vào kế hoạch giám sát trong tháng 1-2010, Obama hình như đã chấp nhận một thay đổi quan trọng.
Nhưng nếu lắng nghe tác giả các quy luật nầy - như Volcker hay Austan Goolsbee, một chuyên gia kinh tế Tòa Bạch Ốc - chúng ta sẽ hiểu được biện pháp nầy thường bị hiểu lầm. Mục đích của biện pháp chật hẹp hơn: các ngân hàng chính thống được quyền vay tiền với lãi suất thấp của chính phủ để khuyến khích cho vay lại dễ dàng, cũng như để chận đứng tình trạng hoang mang của người dân trong khủng hoảng. Khi các ngân hàng dùng tiền vay nhẹ lãi để đầu tư, các ngân hàng nầy, trong thực tế, đã được chính quyền trợ cấp trong các giao dịch chứng khoán. Trợ cấp nầy đã giúp Goldman Sachs và các xí nghiệp khác gặt hái nhiều lợi nhuận lớn trong năm vừa qua. Goolsbee nói: "Thật sự không thích đáng một chút nào khi các ngân hàng nhận tiền trợ cấp của dân chịu thuế và dùng vào các việc đầu tư mang tính đầu cơ không dính dáng gì đến khách hàng của mình"[12].
Tuy nhiên, tiền trợ cấp tự nó không gây ra khủng hoảng. Có hay không có trợ cấp, một xí nghiệp vẫn có thể gây ra sụp đổ cho hệ thống tài chánh. Lehman gần như đã làm như vậy, và Lehman không phải là một ngân hàng chính thống.
Chừng nào Quốc Hội có thể định nghĩa một cách thỏa đáng và đầy đủ các giao dịch quyền sở hữu - điều nầy đòi hỏi phải mất chút ít công phu, nhưng không đến nổi khó khăn như Wall Street đã gợi ý - một hình thức nào đó của quy luật hình như là một phần phải chăng của cơ chế tái giám sát. Nhưng nó không phải là một cải cách sẽ giữ vai trò ngăn chặn đáng tin cậy thất bại của nhân viên giám sát.
Đề nghị bạo dạn nhất theo hướng nầy là chia vụn các ngân hàng. Một số người ngoại đạo, như Simon Johnson, nguyên kinh tế trưởng IMF, đưa ra luận cứ các ngân hàng khổng lồ ngày nay đủ hùng mạnh để đề kháng mọi nỗ lực thiết kế một cơ chế giám sát chặt chẽ. Chỉ riêng kích cỡ của một ngân hàng cũng có thể gây khó khăn cho chính quyền tiếp quản và thanh toán một ngân hàng sắp vỡ nợ một cách gọn gàng trong trật tự. Một giải pháp trung dung có lẽ là dành cho các viên chức giám sát quyền chia một ngân hàng lớn đang gặp khó khăn ra làm nhiêu ngân hàng nhỏ trước thời điểm biện pháp cuối cùng - tiếp quản và giải thể - trở nên cần thiết.
Nhược điểm của cách tiếp cận nầy là kích cỡ không phải là bất trắc rủi ro. Lehman và AIG không phải là các xí nghiệp lớn nhất của Mỹ. Khu vực tài chánh được giám sát chặt chẽ của Canada mang tính tập trung cao hơn khu vực tài chánh được giám sát lơi lỏng của Hoa Kỳ. Canada có đến 4 trong số 50 ngân hàng lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ, với một nền kinh tế 10 lần lớn hơn kinh tế Canada, chỉ chiếm có 5 trong số 50 ngân hàng hàng đầu trên thế giới.
Điều đáng e ngại hơn kích cỡ của bất cứ một ngân hàng riêng lẻ nào là kích cỡ của toàn khu vực. Ở Hoa Kỳ, khu vực ngân hàng đã chiếm 30% lợi nhuận toàn bộ các công ty trong thập kỷ trước đại suy thoái, từ 16% trong hai thập kỷ 1970s và 1980s. Đã hẳn, một phần tăng trưởng đã phản ảnh những canh tân, như A.T.M., giúp cải thiện đời sống đại chúng. Tuy nhiên, phần lớn có lẽ không phải như thế, và chỉ phản ảnh khả năng Wall Street kiếm những doanh lợi khổng lồ trong giai đoạn thuận lợi và được cứu trợ trong giai đoạn gặp khó khăn. Đó là điều các kinh tế gia gọi: "tư nhân hóa" lợi nhuận và "xã hội hóa" bất trắc. Wall Street đã thủ lợi khi gây thiệt hại cho xã hội.
Chiến lược được chấp nhận rộng rãi để đối phó với các hoạt động gây tổn hại cho xã hội là đánh thuế trên các hoạt động liên hệ. Thuế sẽ làm nản lòng các hoạt động loại nầy. Thuế cũng đem lại thu nhập có thể giúp trang trải các chi phí gây ra. Kinh tế gia gọi các sắc thuế loại nầy - thuế rượu, thuế thuốc lá, thuế ô nhiễm - là loại thuế phụ ngoại vi (externality taxes).
Chương trình tái giám sát do Bộ Ngân Khố phổ biến hồi đầu năm không bao gồm sắc thuế đánh trên ngân hàng. Tuy nhiên, Obama sau đó đã đề nghị một sắc thuế cho phép chính quyền thâu lại các khoản thất thoát trong số 700 tỉ quỹ cứu trợ - Chương Trình Cứu Trợ Tích Sản Lâm Nguy (Troubled Asset Relief Program - TARP). Sắc thuế đã được thông qua năm 2008. Kế hoạch tái giám sát lý tưởng có lẽ phải thiết lập một sắc thuế thường trực theo hướng nầy. Một sắc thuế như vậy sẽ xác nhận các ngân hàng giữ một chức năng nòng cốt trong nền kinh tế thị trường, nhưng các ngân hàng cũng có thói quen kinh doanh thiếu khôn ngoan và đầy bất trắc. Dù các nhà giám sát cố gắng đến đâu và khôn lanh đến mấy , họ thường khó thể khống chế các bất trắc loại nầy.
Người chịu thuế rút cuộc cũng phải gánh trách nhiệm hoàn trái, dù chỉ để ngăn ngừa khủng hoảng tài chánh trở thành đại khủng hoảng. Một sắc thuế đánh vào ngân hàng sẽ buộc các ngân hàng phải gánh chịu một phần phí tổn.
Thuế TARP của Obama chỉ mang tính tạm thời, và sẽ mãn hạn vào năm 2020. Nhưng Quốc Hội có khuynh hướng gia hạn các luật thuế loại nầy, loại thuế thường bắt đầu với một thời hạn nhất định. Và chính quyền Obama hình như khá thoải mái với ý tưởng để sắc thuế trở thành thường trực. Geithner nói "các cuộc khủng hoảng tài chánh gây ra một số tai hại khổng lồ cho cơ sở thuế thu nhập trong một thời gian. Vì vậy, chúng ta có đủ luận cứ chính đáng cần thiết lập một sắc thuế đánh trên khu vực tài chánh, tương tự như thuế ô nhiễm"[13].
Nếu tổng hợp tất cả các phần chính trong kế hoạch, chúng ta có thể thấy kế hoạch Obama cũng nhằm thành đạt cùng các thành công của cơ chế giám sát thời Roosevelt, mặc dù với một hệ thống ngân hàng hoàn toàn khác. Cơ quan bảo đảm an toàn cho giới tiêu thụ là câu trả lời ngày nay cho Ủy Hội Giao Dịch Chứng Khoán (Securities and Exchange Commission -SEC), được thiết lập năm 1934 để bảo vệ giới đầu tư. Nới rộng mạng lưới quy luật giám sát để bao gồm cả những hoạt động của các ngân hàng nhại phi chính thống là một nỗ lực giảm thiểu các bất trắc, giống như luật Glass-Steagall trước đây. Tỉ lệ vốn dự trữ cao hơn nhằm giảm bớt nạn mất lòng tin của giới ký thác tiền ở ngân hàng. Việc trao quyền cho chính phủ tiếp quản các ngân hàng đầu tư sắp vỡ nợ cũng chỉ là một sự nới rộng luật New Deal cho phép chính quyền tiếp quản các ngân hàng chính thống.
Tuy nhiên, vẫn có một khác biệt quan trọng giữa hai cách tiếp cận của Roosevelt và Obama. Roosevelt dựa trên những ý tưởng rộng lớn mà Tòa Bạch Ốc hiện nay đã tránh né phần lớn. Roosevelt đã bảo đảm tiền ký thác ngân hàng, phân biệt các hoạt động của ngân hàng thương mãi với hoạt động của ngân hàng đầu tư, và cấm chỉ mọi thông tin thiếu trung thực về chứng khoán. Obama muốn buộc các ngân hàng vào những chuẩn mực tư bản và thanh khoản chưa được định nghĩa rõ ràng, tương ứng với kích cỡ và cách kết nối với các xí nghiệp khác.
Đây là một bước quyết định, cũng như nhiều quy luật mới khác trong kế hoạch. Nhưng dĩ nhiên người ta sẽ dễ dàng có lòng tin ở kế hoạch nếu chính quyền và Quốc Hội tiến thêm vài bước nhằm giảm thiểu phần chuyên quyết và tăng cường phần minh thị. Trong một bài nói chuyện gần đây, Kevin M. Warsh, một thống đốc Cục Dự Trữ Liên Bang, đã phát biểu: "Các chế độ cơ sở trên quy luật thường khó tránh mang tính sống sượng và thiếu hoàn hảo"[14]. Nhưng Warsh đã gợi ý, các chế độ nầy có thể tốt hơn một hệ thống trong đó các ngân hàng chấp nhận cách quản lý vi tiểu (micro-management) từng chi tiết với giả thiết họ sẽ có thể lựa chọn các vi-quản-lý (micro-managers) của chính họ.
Để tránh điều nầy, thuế đánh trên ngân hàng có thể biến đổi từ một màn trình diễn phụ để trở thành trung tâm cuộc thảo luận về giám sát. Các viên chức giám sát có thể quyết định những lệ luật cứng rắn và phổ biến rộng rãi về tư bản. Những con số minh thị riêng biệt không cần được ghi rõ trong pháp chế, nhưng Cục Dự Trữ Liên Bang - cơ quan có quyền ban hành các quy luật - không cần phải đợi một đồng thuận toàn cầu khó lòng thành đạt. Ít ra, các quy luật phải đủ minh thị và rõ ràng để mọi người hiểu rõ. Như cuộc khủng hoảng đã phơi bày, các mô hình toán học tinh vi có thể đem lại một giải đáp quá dễ dàng mà các người chấp hành ưa thích.
Dù thiếu hoàn hảo, các quy luật đơn giản có điều lợi là gửi đi những tín hiệu có thể thượng tồn lâu dài qua nhiều chu kỳ kinh tế. Đây là bài học từ các cải cách của Roosevelt và của một giai đoạn yên bình trong sinh hoạt ngân hàng sau đó. KẾT LUẬN
Lý do rõ ràng cần tái giám sát tài chánh là ngăn ngừa khủng hoảng trong tương lai hay ít ra giảm thiểu tác động của khủng hoảng. Tuy nhiên, cải cách cũng còn có nhiều điều lợi tiềm năng khác. Hãy nhìn xem những gì đã xẩy ra cho kinh tế Hoa Kỳ trong ba thập kỷ vừa qua. Các xí nghiệp tài chánh với tỉ lệ đòn bẩy cao đã trở thành một bộ phận áp đảo trong nền kinh tế. Lợi nhuận đã cho phép các xí nghiệp nầy tuyển chọn nhiều nhân viên nòng cốt của Hoa Kỳ - các nhà toán học, các khoa học gia, các sinh viên đại học tốt nghiệp hàng đầu, và các cựu nhân viên cao cấp trong chính quyền... Tuy nhiên, hầu hết các lợi nhuận vừa nói đã tỏ ra phù du. Chẳng hạn, một số các nhân viên sáng giá nhất đã vùi đầu vào việc thiết kế các phương tiện làm tiền ngày một phức tạp từ không khí, số thu nhập lại cho phép tiếp tục thu hút nhiều tài năng hơn.
Một cách tiếp cận nghiêm chỉnh cơ chế giám sát có thể có một tác động lớn trên tình trạng nầy, dù chỉ gián tiếp. Qua sự giảm thiểu số lợi nhuận của các xí nghiệp tài chánh, chính quyền có thể giới hạn khu vực tài chánh ở một kích cỡ phải chăng thích hợp. Tái giám sát có thể chấm dứt một số trợ cấp Wall Street đang thụ hưởng hiện nay. Những cước phí che đậy của khu vực tài chánh, như lãi suất tiệm tăng qua thời gian và nhiều xảo thuật lừa đảo khác, có thể được kiểm soát. Những điều kiện đòi hỏi về tỉ lệ tư bản dự trữ và thuế đánh vào khu vực ngân hàng có thể buộc các xí nghiệp tài chánh phải trải nghiệm những thời kỳ thịnh vượng cũng như suy thoái. Trên hết, tái giám sát có thể xác định hệ thống tài chánh mới có thể mang lại vừa lợi lộc và cả bất trắc.
Phải luôn ghi nhớ thời kỳ sung mãn dài lâu của Wall Street đã không được san sẻ đáng kể bởi phần lớn nền kinh tế Hoa Kỳ. Công xá của công nhân gia tăng quá chậm trong ba thập kỷ vừa qua. Tăng trưởng kinh tế trong thập kỷ vừa qua nói chung đã chậm hơn trong bất cứ thập kỷ nào sau Đệ Nhị Thế Chiến. Vả chăng, một mục đích quan trọng của tái giám sát phải nhằm nới lỏng quyền kiểm soát của Wall Street đối với các nguồn tài nguyên, tài chánh và nhân sự, của Hoa Kỳ, với hy vọng các tài nguyên nầy sẽ được tái phân bổ vào các phương cách sử dụng mang tính sản xuất tốt hơn.
GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A. 09-4-2010
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 16, 2010 5:00:48 GMT 9
Nguy cơ Đại Khủng Hoảng Nguyễn Trường
LỐI SỐNG TÂY PHƯƠNG: CHI TIÊU TRƯỚC TRẢ NỢ SAU
Sức lôi cuốn của "lối sống hoang phí trên khả năng" cũng mạnh mẽ không kém rượu và "nicotine". Khi kinh tế đang lên, giới tiêu thụ trong các xứ Tây phương thường vay nợ để chạy theo lối sống vật chất (đua đòi và tiêu xài hoang phí), các công ty để bành trướng hoạt động, giới đầu tư để kiếm nhiều lợi nhuận. Chừng nào kinh tế còn thịnh vượng, lời nhận xét của Micawber còn nổi tiếng, mặc dù có vẽ nghịch lý: "khi số chi tiêu hàng năm vượt quá lợi tức, kết quả là hạnh phúc, không phải là khổ đau"[1].
Đã từ lâu, nợ trong thế giới giàu đã gia tăng nhanh hơn lợi tức. Không phải chỉ khiếm hụt ngân sách của nhà nước đã gia tăng. Ở Hoa Kỳ, nợ trong khu vực tư cũng đã tăng mạnh, từ khoảng 50% GDP năm 1950 lên gần 300% gần đây.
Nguồn gốc của thói quen vay mượn cũng đã bắt đầu từ xa xưa, phản ảnh những đổi thay trong xã hội và nhân sinh quan. Trong thế kỷ 19, các con nợ phá sản phải vào tù. Thế hệ trải nghiệm Đại Khủng Hoảng 1929-33 học được bài học sống đạm bạc và tiết kiệm. Nhưng sự phổ biến các thẻ tín dụng trong thập kỷ 1960s đã đưa đến một xã hội "mua ngay bây giờ sau nầy sẽ trả"[2]. Vỡ nợ đã trở thành một cách sống lựa chọn. Người cho vay tham lam và thiếu thận trọng bị lên án và gánh chịu trách nhiệm nhiều hơn là người vay bất cẩn và sống hoang phí.
Khi người tiêu thụ sử dụng nguyên tắc đòn bẫy, các công ty cũng hùa theo. Giá trị trung bình các loại trái phiếu đã sụt giảm từ A năm 1981 xuống BBB- hiện nay, chỉ một nấc trên mức vô giá trị. Các xí nghiệp giữ tiền mặt trong đối chiếu biểu bị khinh thường như thiếu sáng kiến kinh doanh, trong khi luật phá sản, như Chapter 11 ở Mỹ, không cho phép các trái chủ tịch biên các công ty không trả được nợ. Chế độ khoan dung nầy đã khuyến khích các doanh nhân cũng như quá nhiều công ty dở sống dở chết. Không có ngành kỹ nghệ nào ghiền tác dụng đòn bẫy hơn kỹ nghệ tài chánh. Các ngân hàng có đối chiếu biểu với vốn sở hữu ngày một thấp, các công ty tích sản tư hữu (private equity firms) và hedge funds, cho vay và vay nợ liều lĩnh, đã sản xuất ra nhiều tỉ phú. Con đường làm giàu khá đơn giản: mua các tích sản với tiền vay mượn, rồi cứ ngồi đợi giá gia tăng.
Tất cả những xảo thuật đó đã được nhà cầm quyền khuyến khích. Mỗi khi khủng hoảng và nợ nần đe dọa kinh tế, các ngân hàng trung ương sẵn sàng cắt giảm lãi suất. Viễn tượng được cứu nguy đã giúp giảm thiểu bất trắc và làm yên lòng giới vay nợ. Bong bóng xuất hiện, trước hết dưới hình thức tích sản tư hữu, rồi đến nhà ở và bất động sản. Tình trạng leo thang tín dụng, theo đó mỗi chu kỳ kết thúc với số nợ cao hơn và lãi suất thấp hơn, ngày một dồn dập. Trò chơi cuối đã diễn ra trong các năm 2007-08 khi giới đầu tư hiểu ra phần lớn số nợ khó thể thu hồi. Khi tín dụng co rút và thắt chặt gây khan hiếm thanh khoản, ngân hàng trung ương đã phải cắt lãi suất ngắn hạn xuống 1% hay thấp hơn. GIỜ TÍNH Sổ ĐÃ ĐIỂM
Các xứ trong thế giới giàu nay đối diện với hai loại vấn đề. Vấn đề cấp thiết nhất là làm sao trả nợ. Nhiều người đã cắt giảm các khoản chi tiêu dùng thẻ tín dụng, và nhiều xí nghiệp đã thấy số tín dụng dành cho mình bị cắt xén, bắt đầu hoảng sợ khi nhìn chung thấy gánh nặng của thế giới giàu đã không mấy suy giảm. Phần lớn số nợ chỉ di chuyển từ khu vực tư qua khu vực công, khi chính quyền can thiệp để hỗ trợ các ngân hàng và ngăn ngừa kinh tế rơi vào khủng hoảng. Và trong tương lai, vấn đề là sẽ phải gầy vốn nhiều hơn, bởi lẽ chính quyền đã cam kết hoặc hứa hẹn quá nhiều về tiền hưu và bảo hiểm y tế cho thế hệ baby-boom sắp hưu trí.
Tất cả số nợ nầy sẽ phải liên tục tái tài trợ và tái tục. Khủng hoảng lòng tin rất dễ xẩy ra vì đà tăng trưởng quá chậm của thế giới giàu ; do đó, khả năng trả lãi của các con nợ cũng phải giảm theo. Tệ hơn nữa, phần lớn nợ tư nhân đều dựa trên tích sản thế chấp; trong khi giá trị các trái khoản luôn cố định , giá trị các tích sản lại có thể sụt giảm. Điều nầy đưa đến vòng lẩn quẩn: khi con nợ bị buộc phải bán tích sản, giá tích sản càng bị đẩy xuống thấp hơn.
Vay thêm nợ không còn là giải pháp có thể lựa chọn. Viễn ảnh thêm tồi tệ đối với cả con nợ lẫn chủ nợ. Hầu hết chính quyền các nước đều đối diện với lối đi dây nguy hiểm: ổn định thị trường và duy trì tỉ suất phát triển. Chính phủ mới ở Anh quốc đã nhận chức vào đầu tháng 6-2010 với một ngân sách kiệm ước khẩn cấp: cắt giảm chi tiêu công từ 47% GDP trong tài khóa 2009-10 xuống dưới 41%, và nợ công từ 11% GDP xuống 2%. Nhưng sống với ít nợ, chính quyền mới cũng sẽ phải đối đầu với một loại thử thách dài hạn khác: duy trì một tỉ suất phát triển có thể chấp nhận được. CON ĐƯỜNG CHUỘC TỘI
Một thế giới giàu với ít nợ sẽ rất khác. Các ngân hàng đang phải đối diện với nhu cầu cần có một tỉ lệ tư bản dự trữ cao hơn và đối chiếu biểu an toàn hơn. Giới tiêu thụ Tây phương, đối diện với thuế cao và tiện ích cắt giảm, sẽ không còn tự do chi tiêu, vì họ sẽ phải tiết kiệm nhiều hơn khi đang đối diện với tuổi sống hưu trí dài lâu. Một lần nữa, nhà là nơi để ở, không còn là phương tiện để đầu cơ. Một vài mô hình kinh doanh, nhất là tích sản tư hữu, khó lòng phát triển. Đời sống sẽ khó khăn hơn đối với giới doanh nhân: hơn phân nữa các xí nghiệp mới đều lệ thuộc vào tín dụng hay vay mượn để tài trợ đầu tư.
Đối với các nhà làm chính sách, thứ tự ưu tiên thật rõ ràng.
Trước hết, họ phải chú tâm vào mục tiêu tăng trưởng. Hoa Kỳ, với dân số tương đối trẻ và gia tăng, mục tiêu nầy tương đối dễ theo đuổi. Lục địa Âu châu, ngược lại, có nguy cơ gặp phải nhiều khó khăn, không mấy khác Nhật Bản trước đây đã phải mất hai thập kỷ vật lộn với mục tiêu tăng trưởng trong khi đối diện với gánh nặng nợ nần và một dân số già cỗi. Thế hệ trẻ Âu châu, nhiều khả năng và thông minh, có thể tìm tới những xứ ít gánh nặng tài chánh; và nếu kinh tế trì trệ, những thành phần không muốn ra nước ngoài rất có thể phải quyết định hoặc chịu vỡ nợ, hoặc cắt giảm các dịch vụ an sinh cho người già. Đối diện với các nguy cơ vừa nói, Âu châu cần chấp nhận các cải cách mang tính cơ cấu, cần thiết để tăng tính mềm dẻo và tăng trưởng kinh tế càng nhanh càng tốt.
Thứ đến, các nhà làm chính sách cần phải đương đầu với trách nhiệm lâu dài: tái quân bình kinh tế thế giới.
Trong các xứ Tây phương, các thành phần lao động trong lứa tuổi 50 có lý do cần phải tiết kiệm để chuẩn bị hưu trí, thay vì vay thêm nợ tín dụng để chi tiêu. Nhưng nếu nhiều người tiết kiệm, nhiều người khác lại phải vay mượn. Trong hiện tình, thế giới đang phát triển không muốn có quá nhiều khuy khiếm trong chương mục vãng lai; ngay cả thuyết phục TQ bớt tiết kiệm cũng đã là một việc vô cùng khó khăn.
Tuy nhiên, quyền lợi lâu dài của mọi người đòi hỏi phải thay đổi lối sống - và thế hệ trẻ trên thế giới cũng cần giữ vai trò vay mượn. Giúp các xứ giàu thoát khỏi bệnh ghiền vay mượn sẽ gây ra bệnh trầm cảm. Kiệm ước, khắc khổ không bao giờ quyến rũ cử tri, họ luôn có khuynh hướng đổ lỗi cho các chính trị gia và người ngoại quốc. Nhận xét của Micawber có thể đã cần được sửa đổi: khi lợi tức hàng năm lên cao hơn chi tiêu hàng năm, kết quả có thể sẽ khổ đau. NGUY CƠ ĐẠI KHỦNG HOẢNG
Suy thoái thường thấy; khủng hoảng hiếm khi xảy ra. Theo Paul Krugman, trong lịch sử kinh tế chỉ có hai thời kỳ được nhiều kinh tế gia mô tả như khủng hoảng: những năm giảm phát và bất ổn tiếp theo sau Hoảng Loạn (Panic) năm 1873 và những năm thất nghiệp hàng loạt tiếp theo sau khủng hoảng tài chánh 1929-31.
Trong cuộc khủng hoảng dài lâu vào thế kỷ 19 cũng như cuộc đại khủng hoảng trong thế kỷ 20, kinh tế không phải luôn suy sụp. Thực vậy, cả hai đã diễn tiến liên tục qua nhiều năm tháng khi suy sụp khi tăng trưởng. Nhưng tăng trưởng dương đã không đủ mạnh để hoàn toàn ra khỏi suy thoái ban đầu nên rồi lại phải rơi vào suy thoái.
Hiện nay, e rằng chúng ta đang ở trong những chặng đầu của cuộc khủng hoảng thứ ba và hy vọng là cuộc khủng hoảng duy nhất trong thế kỷ 21. Cuộc khủng hoảng đang diễn tiến có nhiều nét tương đồng với cuộc khủng hoảng dài lâu trong thế kỷ 19 hơn là với cuộc đại khủng hoảng nghiêm trọng hơn nhiều trong thế kỷ 20. Tuy nhiên, cái giá phải trả đối với kinh tế thế giới và, nhất là đối với hàng triệu người phải mất việc, vẫn vô cùng lớn lao đau đớn.
Lý do chính yếu đưa đến cuộc khủng hoảng thứ ba hiện nay là sự thất bại trong chính sách. Khắp nơi trên thế giới, nhất là tại hội nghị thượng đỉnh G20 cuối tháng 6 vừa qua ở Toronto, Canada, cấp lãnh đạo các nước - đang bị ám ảnh bởi viễn ảnh lạm phát, trong khi giảm phát mới là đe dọa thực sự - luôn thuyết giảng sự cần thiết phải thắt lưng buộc bụng, quên rằng vấn đề thực sự chính là suy giảm trong tổng chi tiêu hay giảm chi.
Trong hai năm 2008 và 2009, nhiều dấu hiệu cho thấy cấp lãnh đạo các quốc gia trên thế giới hình như đã học được bài học lịch sử. Khác với các thế hệ tiền nhiệm thường nâng lãi suất khi đối diện với khủng hoảng tài chánh, các cấp lãnh đạo hiện nay của Cục Dự Trữ Liên Bang Hoa Kỳ và Ngân Hàng Trung Ương Châu Âu đã cắt giảm lãi suất và có nhiều biện pháp hỗ trợ các thị trường tín dụng. Khác với nhà cầm quyền trong quá khứ luôn tìm cách thăng bằng ngân sách khi kinh tế suy thoái, các chính quyền ngày nay đã chấp nhận gia tăng khuy khiếm ngân sách để tài trợ phát triển (deficit financing). Các chính sách thích ứng vừa kể đã giúp kinh tế thế giới tránh được sụp đổ hoàn toàn: cuộc suy thoái do khủng hoảng tài chánh gây ra lẽ ra đã phải chấm dứt vào mùa hè vừa qua.
Tuy nhiên, các sử gia tương lai sẽ cho chúng ta biết cuộc khủng hoảng thứ ba chưa chấm dứt, cũng như một vài dấu hiệu kinh tế đang đi lên bắt đầu từ năm 1933 đã không có nghĩa cuộc Đại Khủng Hoảng đã chấm dứt. Xét cho cùng, thất nghiệp - nhất là thất nghiệp dài hạn - vẫn ở mức đã được xem như tai họa trước đây không lâu, vẫn chưa có dấu hiệu sụt giảm đáng kể. Và cả Hoa Kỳ lẫn Âu châu đang trên đường rơi vào giảm phát kiểu Nhật.
Trước viễn ảnh đen tối đó, nhiều người đã có thể chờ đợi các nhà làm chính sách phải hiểu rõ họ chưa làm đủ để đem lại hồi phục. Ngược lại, trong nhiều tháng vừa qua, nhiều dấu hiệu tín dụng đã bị thắt chặt, và lý thuyết cổ điển - ngân sách phải luôn cân bằng - đã trỗi dậy một cách đáng ngại.
Về mặt lý thuyết, sự hồi sinh của chủ thuyết xa xưa đã biểu thị rõ nét ở Âu châu, nơi các cấp lãnh đạo hình như đang lặp lại các diễn văn của Herbert Hoover, kể cả chủ trương tăng thuế và giảm chi, vì tin các biện pháp nầy thực ra có thể giúp kinh tế bành trướng, qua tác động tâm lý làm tăng lòng tin của giới doanh thương.
Trong thực tế, Hoa Kỳ cũng chẳng mấy khá hơn. Cục Dự Trữ Liên Bang hình như đã ý thức được hiểm họa giảm phát - nhưng chẳng có hành động gì để ngăn ngừa. Chính quyền Obama hiểu rõ những tai hại của chính sách kiệm ước quá sớm sủa. Thêm vào đó, phe Cộng Hòa và một số dân biểu nghị sĩ Dân Chủ có khuynh hướng bảo thủ trong Quốc Hội không cho phép viện trợ thêm cho chính quyền các tiểu bang; vì vậy, chính sách thắt lưng buộc bụng đang thắng thế, dưới hình thức cắt xén một số chương trình hay giảm chi ở cấp tiểu bang và địa phương.
Tại sao có sự thay đổi chính sách theo chiều hướng vừa nói? Các phần tử bảo thủ thiển cận thường đơn cử những khó khăn đang đối diện Hy Lạp và một số quốc gia Âu châu để biện minh cho hành động của mình. Quả thực, giới đầu tư vào trái khoán (bond investors) đã chỉ trích chính quyền đã để ngân sách khuy khiếm dai dẳng. Nhưng không có bằng chứng các biện pháp kiệm ước ngắn hạn trước một nền kinh tế đang suy thoái có thể trấn an giới đầu tư. Ngược lại: Hy Lạp đã chịu thắt lưng buộc bụng, chỉ để thấy khó khăn gia tăng và ngày một tràn lan; Ireland đã cắt xén công chi khá nhiều, nhưng thị trường đã phản ứng xem Ireland như một xứ còn tệ hại hơn cả Spain, một nước vẫn đề kháng các biện pháp kiệm ước bảo thủ cổ điển.
Cuối cùng, hình như thị trường tài chánh hiểu rõ những gì các nhà làm chính sách không chịu hiểu: đã hẳn, trong trường kỳ quân bình ngân sách và trách nhiệm tài chánh là quan trọng, giảm chi - khi kinh tế đang suy thoái nặng nề, chỉ làm vấn đề thêm trầm trọng và dọn đường cho giảm phát - trong thực tế, tự nó sẽ đưa đến thất bại.
Đây không phải chỉ đối với Hy Lạp, hay với bất cứ sự trao đổi thực tiển nào giữa khuy khiếm ngân sách và công ăn việc làm. Thực vậy, đây chỉ là sự đắc thắng của phái chính thống và bảo thủ, không dính dáng gì đến phân tích duy lý: nguyên tắc của phe nầy là áp đặt kiệm ước và đau khổ lên người khác là cách họ chứng tỏ khả năng lãnh đạo trong thời buổi khó khăn.
Nhưng ai sẽ phải trả giá cho sự chiến thắng của phái chính thống? Câu trả lời đã khá rõ ràng: hàng chục triệu công nhân thất nghiệp, đa số sẽ không có công ăn việc làm trong nhiều năm, và một số khác sẽ không bao giờ có cơ hội làm việc trở lại.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 16, 2010 5:01:29 GMT 9
CỤC DỰ TRỮ LIÊN BANG HOA KỲ: ĐIỀU CẦN LÀM
Năm 2002, khi nhận trách nhiệm Chủ Tịch Cục Dự Trữ Liên Bang, giáo sư Ben Benanke, đã nói chuyện về đề tài: "Giảm Phát: 'Điều' Phải Cầm Chắc Sẽ Không Xảy Ra Ở Đây"[3]. Cũng như nhiều kinh tế gia khác, Benanke rất lấy làm bực tức trước nạn giảm phát dai dẳng, như vô phương cứu chữa ở Nhật, "kèm theo nhiều năm tăng trưởng chậm chạp, thất nghiệp gia tăng, và nhiều khó khăn tài chánh khó giải quyết"[4]. Tình trạng nầy lẽ ra không thể để xẩy ra trong một quốc gia tiền tiến với nhiều nhà làm chính sách uyên thâm và đầy kinh nghiệm.
Vậy liệu giảm phát có sẽ xẩy ra cho Hoa Kỳ?
Không phải lo xa, Bernanke trả lời: Cục Dự Trữ Liên Bang có đủ dụng cụ cần thiết giúp nước Mỹ tránh né "hội chứng Nhật", và sẽ sử dụng các dụng cụ nầy, khi cần.
Ngày nay, Bernanke là chủ tịch Cục Dự Trữ - và bài nói chuyện năm 2002 còn vang vọng như những "danh ngôn" cuối cùng của chính ông. Trong thực tế, Hoa kỳ chưa hẳn đã rơi vào giảm phát. Tuy nhiên, lạm phát thấp hơn mức Cục Dự Trữ ước muốn, 1,7 đến 2%, rất nhiều, và có khuynh hướng giảm liên tục. Trong một chừng mức nào đó, chúng ta có thể dự đoán giảm phát sẽ xẩy ra bất cứ lúc nào trong năm 2011. Trong giao thời, tỉ suất tăng trưởng quá chậm, thất nghiệp quá cao, và nhiều vấn đề rất khó giải quyết. Và phản ứng của Cục Dự Trữ ra sao? Cục Dự Trữ đang thong dong thảo luận, xem xét đến lúc nào mới cần làm một cái gì đó để đối phó.
Thực ra, Cục Dự Trữ không phải là cơ quan duy nhất chểnh mảng. Từ lâu, nhiều người đã ngạc nhiên và tức giận khi thấy, trong khi khủng hoảng đang diễn tiến, giới chính trị vẫn không động tĩnh gì. Hai năm trước đây, bất cứ ai tiên đoán tình hình suy thoái hiện giờ (không những thất nghiệp đã ở mức cao tai họa mà hầu hết các dự báo đều kết luận sẽ kéo dài nhiều năm), đều bị gạt bỏ như một người báo động điên cuồng. Ngày nay khi ác mộng đã thành sự thật, ít ra đối với hàng triệu người Mỹ, Hoa Thịnh Đốn hình như vẫn tuyệt đối chẳng bận tâm. Dù cho nhiều hy vọng đã tiêu tan, nhiều xí nghiệp tiểu thương bị vỡ nợ, đời sống của nhiều người từ lâu đã vất vưỡng, giới chính trị vẫn bình thản và chỉ âu lo hậu quả tai hại của khiếm hụt ngân sách.
Người ta có thể còn nuôi hy vọng Cục Dự Trữ sẽ nghĩ khác. Một mặt, không giống chính quyền Obama, Cục Dự Trữ còn nhiều tự do hành động, không cần đến 60 phiếu trong Thượng Viện, các giới hạn ngoại vi trong chính sách của Cục Dự Trữ không do quan điểm của các nghị sĩ từ Nebraska và Maine áp đặt. Ngoài ra, Cục Dự Trữ, trên bình diện trí thức, cũng được quan niệm luôn sẵn sàng đối phó với khủng hoảng. Bernanke trong nhiều năm đã đủ thời gian suy nghĩ phương cách tránh né khủng hoảng kinh tế kiểu Nhật, và các bộ óc nghiên cứu của Cục Dự Trữ trong nhiều năm cũng luôn ám ảnh bởi cùng một vấn đề.
Nhưng giờ đây, kinh tế rõ ràng đang trên đường rơi vào giảm phát, và Cục Dự Trữ vẫn đứng yên bất động.
Liệu Cục Dự Trữ phải làm gì? Chính sách tiền tệ quy ước - theo đó Cục Dự Trữ có thể giảm lãi suất ngắn hạn bằng cách mua vào các công khố phiếu ngắn hạn (hay nợ ngắn hạn của chính phủ Hoa Kỳ) - đã đi đến giới hạn cuối cùng: lãi suất ngắn hạn đã xuống thấp gần số không, và không còn có thể thấp hơn nữa. Giới đầu tư không bao giờ mua trái phiếu với lãi suất âm vì họ luôn có thể giữ tiền mặt.
Nhưng thông điệp 2002 của Bernanke còn nói đến nhiều biện pháp khác Cục Dự Trữ có thể sử dụng. Cục có thể mua công khố phiếu dài hạn, cũng như trái phiếu của khu vực tư. Cục còn có thể gieo hy vọng bằng cách loan báo sẽ giữ lãi suất ngắn hạn ở mức thấp nhất trong một thời gian dài. Cục cũng có thể nâng cao mức trần lạm phát dài hạn, giúp thuyết phục khu vực tư vay mượn vẫn có lợi và giữ tiền mặt là một sai lầm.
Không ai biết chắc hành động nào trong số vừa kể sẽ hữu hiệu. Tuy nhiên, điều quan trọng là có nhiều điều Cục có thể và cần làm, nhưng không làm. Tại sao không?
Nói cho cùng, các quan chức Cục Dự Trữ, cũng như hầu hết các nhà quan sát, đều không mấy lạc quan đối với triển vọng của nền kinh tế. Tuy nhiên, có lẽ họ đã không đủ bi quan: các vị chủ tịch Cục Dự Trữ - những người chịu trách nhiệm dự phóng tương lai kinh tế mỗi lần họp của ủy ban ấn định lãi suất - đã không dự phóng đủ đúng đắn nguy cơ rơi vào giảm phát. Tuy nhiên, ngay cả dự phóng của họ cũng đã cho thấy thất nghiệp cao và lạm phát thấp hơn mức trần, ít ra cho đến cuối năm 2012.
Như vậy, tại sao không tìm cách làm một cái gì đó để đối phó? Người ta có thấy một cố gắng mang tính giải thích trong bài nói chuyện gần đây của Kevin Warsh, thành viên Hội Đồng Các Thống Đốc, theo đó ông cho biết: "điều" năm 2002 Bernanke nhắc đến có thể phương hại đến "uy tín định chế" của Cục Dự Trữ (the Fed's institutional credibility). Tuy nhiên, làm cách nào củng cố uy tín của Cục Dự Trữ khi Cục đã không hề đối phó với thất nghiệp cao, trong khi Cục luôn không đạt được các mục tiêu lạm phát của chính mình? Uy tín của Ngân Hàng Trung Ương Nhật còn được bao nhiêu sau hơn 15 năm giảm phát?
Dù tình hình hiện nay ra sao, Cục cũng cần gấp rút tái tư duy các thứ tự ưu tiên của mình. "Điều" (giảm phát) năm 2002 Bernanke cảnh cáo phải chận đứng không còn là một giả thiết khả dĩ, mà hiện có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Và Cục Dự Trữ phải làm tất cả những gì có thể để chận đứng.
© GS NguyễnTrường
Irvine, California, USA
14-7-2010
[1] When annual expenditure exceeded income, the result was happiness, not misery.
[2] Buy now, pay later.
[3] Deflation: Making Sure It Does't Happen Here.
[4] ..associated with years of painfully slow growth, rising joblessness, and apparently intractable financial problems.
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 19, 2010 3:29:12 GMT 9
Ai đến Châu Mỹ đầu tiên vào thế kỷ thứ 15 ?Hồ Văn Hiền Hạm đội vua nhà Minh , cuộc xây dựng kinh đô Bắc kinh và chiến thắng của Lê LợiTừ trước tới nay, theo sử tây phương, chúng ta vẫn được cho biết Christopher Columbus là người khám phá ra Châu Mỹ, đặt chân lên đảo Bahamas ngày 12 tháng năm 1492. Đương nhiên, ai cũng biết người Da Đỏ đã đến trước lục địa này cả hơn chục ngàn năm nay , có lẽ qua ngả eo biển Bering và Alaska.. Từ Châu Âu, hiện có những bằng chứng lịch sử cho thấy người Viking xuất phát từ Bắc Âu từng qua phía Bắc Châu Mỹ trước cả thời Christopher Columbus. Gần đây xuất hiện một số tài liệu cho thấy có thể người Trung Hoa cũng đã có mặt trên Châu Mỹ trước Columbus. Thuyết này được tình bày trong cuốn sách tựa đề "1421 THE YEAR CHINA DISCOVERED AMERICA (Transworld Publishers, 2002) của một học giả người Anh tên Gavin Menzies. Ông sinh ra và lớn lên ở Trung hoa, từng phục vụ trong Hải Quân Hoàng Gia của Anh Quốc . Ông không phải là một sử gia chuyên nghiệp, nhưng công trình sử học này rất có giá trị, ngoài kiến thức chuyên môn về hàng hải của mình ,để khảo cứu cho cuốn sách của mình, ông đã từng đi đến 120 nước, 900 thư viện và bảo tàng viện và hầu hết mọi hải cảng của thời Trung cổ. Menzies để tâm nghiên cứu vấn đề này khoảng đầu thập niên 1990 khi ông tìm thấy trên một bản đồ của Ý trên đó có ghi tên hai đảo khá lớn có thể là Puerto Rico và Guadeloupe nằm trong biển Caribbean, mà bản đồ này lại được vẽ từ năm 1424, đến 24-25 năm trước khi Columbus ra đời. Đô đốc Zheng He 鄭 和 Những khảo cứu sau đó giúp cho tác giả kết luận là bản đồ đó dựa trên những khám phá rút tỉa từ những cuộc thám hiểm của những hạm đội Trung Hoa dưới quyền điều khiển của Zheng He (鄭 和 Trịnh Hòa), một hoạn quan theo đạo Hồi (muslim) thời nhà Minh, hồi đầu thế kỷ thứ 15. Theo Siu-Leung Lee, người đã từng dịch trực tiếp từ sử nhà Minh, tư lịnh hạm đội Zheng He (1371-1435) chỉ huy đóng được 1622 chiếc tàu và đi ít nhất là bảy chuyến trong khoảng thời gian từ 1405 đến 1430, đến tận Somalia và có thể đến luôn châu Âu (Pháp, Hòa lan và Portugal hiện nay). Mỗi chuyến đi gồm 27.800 người và dùng trên 300 chiếc tàu, 62 chiếc là tàu lớn,dài 475 bộ, rộng 193 bộ , mỗi chiếc chuyên chở trên 1000 người, 6 lần lớn hơn chiếc tàu Santa Maria của Columbus (75x25 feet) Sử nhà Minh ghi là lộ trình đi qua các xứ như Java, Sumatra, Vietnam,Xiêm (Thái lan), Campuchia, Philippines, Bangladesh, Ấn độ, Yemen, Arabia, Somalia, Mogadishu. Những con hươu cao cổ và những con sư tử đem về Trung Hoa là bằng chứng hiển nhiên là ông ta đến tận Châu Phi.(Người Trung Hoa hồi đó tưởng con hươu cao cổ là con kỳ lân, lại càng tăng thanh thế của vua ). Lịch sử chính thức nhà Minh cũng nhắc đến "Franca" là nước Pháp và Portugal hiện nay. Nếu thật sự Zheng He có đến nước Pháp thời đó, thì chỉ bằng cách duy nhất là đi vòng đường biển xuống mũi phía cực nam của châu Phi (Mũi Hảo Vọng/Cape of Good Hope) vì hồi đó chưa có kinh đào Suez để đi tắt vào Địa Trung Hải. Tàu của Trung hoa thời trung cổ Theo Menzies, cuộc thám hiểm lớn nhất và quan trọng nhất mà cũng là chuyến đi cuối cùng khởi hành vào năm 1421 và trở về nước vào mùa hè và mùa thu năm 1423. Những khảo cứu của Menzies khiến ông ta tin tưởng rằng những chiếc tàu của hạm đội Trung Hoa đã đến tận châu Mỹ và Châu Úc (Australia) và lập nên những cộng đồng di dân ở Nam Mỹ cũng như đem đến đấy những giống thảo mộc cũng như những bịnh (sán đủa, sán móc) đặc biệt của vùng Đông Nam Á Châu. Ông Menzies tin rằng một số DNA (phân tử di truyền) của người Tàu được tìm thấy trong máu những thổ dân châu Mỹ, một số di tích lịch sử như ngôi tháp hình tròn ở Newport (Rhodes Island), những cái neo bằng đá hình tròn ngoài bờ biển California là dấu vết của những cuộc thám hiểm của người Trung hoa trong các chuyến đi vĩ đại này. Để đi xuyên qua Ấn độ dương, Zheng He phải dùng la bàn từ tính đã được phát minh tại Trung quốc trong thời nhà Song Ông còn đi đến kết luận là người Trung hoa đã đến thám hiểm luôn Antarctica (vùng đất ở nam cực).Tuy nhiên, giới khoa học chuyên về khảo cỗ vẫn còn nghi hoặc về những kết luận của ông, một số khoa học gia hoàn toàn bác bỏ các kết luận của ông cho rằng các hạm đội của Zheng He đã khám phá ra châu Mỹ trước cả Columbus. Chuyến đi đầu tiên khởi hành năm 1405 và Zheng He chết trên tàu mình trong chuyến đi thứ thứ bảy (theo báo Time vào năm 1433). Đến lúc những chiếc tàu cuối cùng trở về nước, chánh sách của triều đình nhà Minh đảo ngược lại, những quan niệm bảo thủ của Khổng giáo được thịnh hành, những người hoạn quan bị các nho sĩ khinh thường và óc phiêu lưu, cởi mở, hướng về phương tây của họ không còn được khả năng thi thố nữa. Xã hội Trung hoa trở nên khép kín, thương mãi trên những con kinh nội địa được phát triển thay vì thương mãi trên những đại dương xa xôi. Chính quyền Trung hoa không còn muốn tiếp xúc với thế giới bên ngoài nữa, những bản đồ cũng như tài liệu vết tích của những cuộc thám hiểm trước đây cố tình bị ra lịnh huỷ. Những bằng chứng trực tiếp về sự hiện diện của những nhà thám hiểm và ngoại giao Trung hoa đầu tiên trên châu Mỹ hầu như thất lạc hoàn toàn. Như vậy, nếu họ có khả năng vẽ những bản đồ của toàn thế giới hồi đó, những nhà hàng hải Trung hoa thời đó đã có khả năng đi vòng quanh quả địa cầu (circumnavigated the globe), định phương hướng trên biển qua vị trí các ngôi sao (astro-navigation), khắc phục được việc tính toán chính xác các kinh tuyến và vĩ tuyến (longitudes and latitudes). Chuyện thám hiểm thế giới của người Tàu đầu thế kỷ thứ 15 có những điểm khá thú vị dính líu đến Việt nam chúng ta. Người Việt nam chúng ta hầu như ai cũng phải học về chuyện Lê Lợi khởi nghĩa ở Lam sơn và mười năm kháng chiến chống đô hộ của nhà Minh (1418-1427) sau khi Trương Phụ của nhà Minh hoàn tất cuộc xâm chiếm nước ta năm 1414. Ở Trung hoa, lúc này là triều đại của vua Minh Thành tổ , gọi là Zhu Di ( (朱 棣 Chu Đệ) trong Anh ngữ, hiệu là Yong Le ( 永 樂 Vĩnh Lạc, chúng ta sẽ dùng tên Zhu Di cho tiện) (1403-1424). Trước đó, năm 1368, Minh Thái Tổ (Zhu Yuanzhang) diệt nhà Nguyên (Mông Cổ)năm 1368 , đóng đô ở Nanjing , lúc đó Zhu Di mới tám tuổi. Sau đó Zhu Di tham gia tiêu diệt những tàn dư của nhà Nguyên ở Vân Nam và Côn Minh. Một trong những biện pháp trừ hậu hoạ của nhà Minh thời đó là giết hết những người nhà Nguyên thất trận và thiến tất cả những người con trai phe nhà Nguyên chưa đến tuổi dậy thì. Theo Menzies, những người con trai gốc Mông cổ bị thiến này, sau lớn lên nhờ tướng mạo cao lớn , khôi ngô cũng như biệt tài sẽ trở thành một số hoạn quan được tin cậy và đóng vai trò trọng yếu trong cung cấm nhà Minh. Mặc dù Zhu Di có chiến công lớn, khi người anh trưởng mất vua cha vì nghi kỵ Zhu Di không phải con thật của mình, không cho Zhu Di lên ngôi mà lập người cháu của Zhu Di là Zhu Yunwen lên kế vị mình. Zhu Yunwen quyết tâm trừ khử Zhu Di. Sau này , Zhu Di nhờ sự phò tá của một số cận vệ thuộc thành phần bị hoạn trứơc đây (eunuch), đứng đầu là Zheng He, tập trung lực lượng ở Bắc Kinh và sau đó đuổi Zhu Yunwen ra khỏi Nam Kinh và lên ngôi hiệu là Yong Le (Vĩnh Lạc). Zheng He sẽ là nhân vật then chốt trong câu chuyện thám hiểm châu Mỹ sau này. Năm 1404, bắt đầu cuộc dời đô nhà Minh từ Nam Kinh về Bắc kinh. Theo sách của Menzies, đây là công trình phức tap nhất và vĩ đại nhất của suốt triều đại nhà Minh. Hàng trăm ngàn lao động được đem lên phía bắc để xây dựng thủ đô mớI, 335 sư đoàn bộ binh được tái phố trí để canh gác những người này. Lúc lúa mì địa phương không đủ để nuôi dưỡng lực lượng nhân công vĩ đại này, Zhu Di ra lệnh sửa sang con kinh vĩ đại (the Grand Canal) dài 1800 km, được xây dựng từ năm 486 trước tây lịch và hiện nay vẫn là con kinh dài nhất thế giới. Có lẽ trong 6 triệu người tham gia xây con kinh này, 3 triệu người đã bỏ mạng. Con kinh được trùng tu là một trục Nam Bắc tiếp tế thực phẩm bằng hàng vạn tàu xà lan (barges) nuôi sống lực lượng lao đông xây thành Bắc kinh. Tem Zheng He Tượng Zheng He Một công trình vĩ đại khác là sự thành lập một hạm đội khổng lồ mà chúng ta đã nhắc đến ở trên. Zhu Di ra lịnh đóng 1681 chiếc thuyền, trong đó có những chiếc khổng lồ có chín cột buồm (nine masted treasure ship) chuyên chở những lượng hàng hóa khổng lồ . Ngoài ra còn có trên 6000 tàu đủ loại khác như tàu chiến bảo vệ , tàu tuần tiễu, tàu chở nước,… Hạm đội của nhà vua có nhiệm vụ giăng buồm đi thám hiểm các đại dương trên thế giới và vẽ bản đồ các nơi đó, làm cho các vua chúa ngoại quốc phải nể sợ và bắt buộc toàn thế giới phải chấp nhận hệ thống triều cống của Trung quốc (bringing the entire world into China "tribute system"). Ngày 2 tháng 2 năm 1421, hạm đội vĩ đại này đem về Bắc kinh những vua chúa cũng như sứ thần từ các nước Á châu, Á rập , châu Phi và Ấn độ dương về chầu vua nhà Minh trong ngày khai trương cung cấm của thành Bắc kinh. Sau khi được đón tiếp long trọng và chứng kiến tận mắt sự xa hoa, vĩ đại của thủ đô Trung quốc, các phái đoàn ngoại giao được hạm đội khổng lồ đưa về quê quán ngày 3 tháng 3 năm 1421. Đứng đầu là Đô đốc Zheng He, người hoạn quan trung thành của vua nhà Minh đã ngang nhiên trở nên nhà hàng hải tài ba. Phái đoàn mấy chục ngàn người này còn có đủ cả thông dịch viên cho hàng chục thứ tiếng, bác sĩ, các bác học thuộc đủ các tôn giáo Hồi giáo, Ấn độ giáo, Phật giáo, các nhà toán học , thiên văn học, luyện kim học (metallurgists), kỹ sư, kiến trúc sư. Ngoài ra , còn có cả các nàng hầu non (concubine) tuyển mộ từ các nhà điếm đi theo phục vụ các vi quốc khách trên đường hồi hương, và họ có thể giữ luôn các nàng hầu nếu muốn. Cung cấm Băc kinh Sau khi đem các nhà ngoại giao về nguyên quán , những phương tiện trên tàu được biến thành những phòng khảo cứu cho các nhà khoa họctrong công cuộc thám hiểm thế giới. Như vậy, trong những thập kỷ đầu của thế kỷ thứ 15, nhà Minh ở Trung hoa huy động một lực lượng nhân công và nguyên liệu khổng lồ để xây dựng kinh đô Bắc kinh, phát triển con kinh đào trục lộ nam bắc (Grand Canal), trùng tu hàng trăm dặm của Vạn lý trường thành và xây dựng đại hạm đội (armada) gây uy thế cho Trung hoa trên trường ngoại giao quốc tế, một hiện tượng làm chúng ta nghĩ đến tình hình của Trung hoa hiện nay đang xây dựng ào ạt và tiêu thụ một phần rất lớn của nguyên liệu xi măng, sắt thép, gỗ, xăng dầu thế giới, có tham vọng trở thành một siêu cường quốc trong công cuộc xây dựng hạ tầng kinh tế, cũng như gây thanh thế bằng cách tổ chức thế vận hội Bắc kinh sắp tới đây. Tác dụng của các nỗ lực khai thác tài nguyên và nhân lực hồi đó ảnh hưởng tới chính sách ở Việt nam như thế nào? Theo Trần Trọng Kim trong Việt nam Sử lược (VNSL) thì, sau khi Trương Phụ hoàn tất công cuộc chiếm Việt nam năm 1414 và trở về Tàu, "Hoàng Phúc ở lại khai thác tối đa các nguồn tài nguyên, cố tình xóa bỏ văn hoá và văn chương bản xứ và sửa sang các việc trong nước để khiến người An Nam đồng hóa với người Tàu (trang 211) ("Phàm những chỗ nào có mỏ vàng mỏ bạc thì đặt quan ra để đốc dân quân đi khai mỏ. Những chỗ rừng núi thì bắt dân đi tìm ngà voi, sừng tê, ở chỗ gần bể, thì bắt dân phải đi mò ngọc trai. Còn những thổ sản như hồ tiêu, hương liệu cũng bắt cống nộp"). Sau khi thắng quân Minh, trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi đã nêu : "Bại nhân nghĩa, nát cả càn khôn, nặng khoa liễm, vét không sơn trạch. Nào lên rừng đào mỏ, nào xuống biển mò châu, nào hố bẩy hươu đen, nào lưới dò chim sả. Tàn hại cả côn trùng thảo mộc; nheo nhóc thay quan quả điên liên. Kẻ há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán.." Hoàng đế Zhu Di 朱 棣 Theo Gavin Menzies, sự khai thác rừng gỗ lim ở Việt nam (the felling of the vast hardwood forests in Vietnam, trang 79) đã gây ra những cuộc nổi loạn ở Việt nam, trước của Hồ Quí Ly và sau đó của Lê Lợi. Menzies cho rằng ngườii Trung hoa thất bại và mất Việt nam là vì những phung phí khoảng đầu thế kỷ thứ 15 đã làm Trung hoa yếu đi một cách trầm trọng và những thất bại sau đó đã làm nhụt ý chí của Zhu Di. [Zhu (朱) Di (棣)] Ông lý luận rằng đáng lẽ nếu vua Trung hoa Zhu Di còn đang ở trong thời cực thịnh của mình thì đã giải quyết được các cuộc nổi dậy một cách hữu hiệu và tàn nhẫn (ruthless efficiency). Mặc dù Lê Lợi chỉ thực sự dành độc lập từ năm 1428, trên thực tế từ tháng 7 năm 1421 (là năm Zhu Di khánh thành thủ đô Bắc Kinh), nhà Minh đã từ bỏ quyền cai trị Việt nam.( “Zhu Di had effectively abandoned Vietnam by July 1421”, trang 80).Tháng 5 năm 1421, sét đánh và gây hỏa hoạn thiêu hủy ngai vàng và cung điện mới xây của Bắc kinh. Người thiếp yêu nhất của vua chết vì ưu phiền. 174000 người chết vì bịnh dịch ở Phúc kiến, nhân dân ta than oán. Chính vua Zhu Di cũng bị tai biến não (strokes) nhiều lần cùng những phương thuốc chứa thạch tín (arsenic) và thủy ngân làm nhà vua suy nhược. Những việc xui xẻo này làm Zhu Di đi đến quyềt định chấm dứt các cuộc du hành tốn kém ra nước ngoài và không gởi những hạm đội kho tàng (treasure fleet) đi thám hiểm các đại dương nữa. Năm 1424, con của Zhu Di lên ngôi, ngưng hẳn các hoạt động hàng hải tốn kém , đóng cửa các nhà máy đóng tàu , áp dụng chính sách kinh tế tiết kiệm để phục hồi nền kinh tế đã bị kiệt quệ do những chi tiêu phóng túng dưới thời cha mình , nhưng cũng chấm dứt một thời vàng son của hàng hải Trung quốc. Cuối cùng, cũng nên nhắc đến một thái giám tài hoa khác thời nhà Minh có liên quan đến Việt nam và Bắc Kinh. Theo tiến sĩ sử học Quỳnh Cư (http://vietsciences.free.fr), thì năm 1437 vua Minh ra lịnh cho bộ công xây dựng lại thành Bắc kinh vì quá nhỏ hẹp. Một người Việt nam tên Nguyễn An , quê Hà đông có biệt tài kiến trúc từng xây dựng cung vua Trần và được Trương Phụ chọn dâng cho vua Minh. Nguyễn An được phong chức thái giám và làm tổng đốc công (tổng công trình sư) xây dựng lại thành Bắc kinh. Sách Kinh Thành Ký Thắng của Dương Sĩ Kỳ nói về chuyện xây dựng thành Bắc Kinh có kể về tài hoa và công trình của Nguyễn An. Ngoài ra Nguyễn An còn đóng góp trong những công trình trị thủy, chống lụt của sông Hoàng Hà. Great Falls , ngày 26 tháng 2 năm 2005. Trích từ nguồn www.advite.com/zhenghe.htm
|
|
|
Nuớc Mỹ
Sept 21, 2010 3:33:04 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 21, 2010 3:33:04 GMT 9
Barack Obama và thế kỷ của Hoa Kỳ
Vietsciences-Nguyễn Trường 11/07/2010 Tạm quên đi triết lý chính trị, một số lãnh đạo các nước thường có cùng một nhược điểm. Họ luôn lãng quên những tai hại chính họ đã gây ra cho quốc gia của mình. George W. Bush và Tony Blair là những trường hợp điển hình trong những năm gần đây. Trong địa hạt đối ngoại, chúng ta hiện đang chứng kiến một hiện tượng tương tự trong chính quyền Obama. Phương thức lãnh đạo của Obama diễn tiến như sau. Với một lãnh tụ nước ngoài cần uốn nắn, Obama thường bắt đầu với đe dọa các hậu quả nghiêm trọng nếu không thần phục Hoa Thịnh Đốn. Khi gặp phải sự cự tuyệt hay phản kháng, Obama nhanh chóng lùi bước và xuống giọng vỗ về. Trong gần nửa đầu nhiệm kỳ, thành tích của Obama cũng khá đủ để giúp thẩm định phương cách lãnh đạo của chính ông. TổngThống Hoa Kỳ đã nhiều lần không thành công trong việc lượng định một cách khách quan sức mạnh và ý chí của người đối tác. Dưới mắt người nước ngoài, khuynh hướng lùi bước trước dấu hiệu đề kháng đầu tiên chứng tỏ Obama không đủ bản lĩnh và tự tin, những yếu tố thiết yếu phân biệt một chính khách tài ba với các chính trị gia thông thường. Qua việc theo đuổi một chính sách đối ngoại thiếu phương hướng vững chắc, qua phương cách ứng xử thiếu nhất quán đối với lãnh đạo các nước, Obama vô tình đã cung cấp bằng chứng khẳng định lòng tin của họ về uy quyền ngày một suy sụp của Hoa Kỳ, và về tính bất khả kháng của khuynh hướng tuột dốc của "siêu cường duy nhất". Các vị lãnh đạo đề kháng và bất khuất trước áp lực của Obama gồm không những các nguyên thủ quốc gia như Trung Quốc, một siêu cường, và Brazil, một đại cường đang lên, mà cả Israel, một cường quốc cấp khu vực lệ thuộc sâu xa vào hậu thuẫn của Hoa Thịnh Đốn, và Afghanistan, một quốc gia khách hàng - chưa kể phe quân nhân ở Honduras, một xứ bé nhỏ, hoàn toàn trông cậy vào chính quyền Obama để tồn tại... LẬP TRƯỜNG BẤT NHẤT Ở HONDURAS[1] Qua việc lật đổ chính quyền dân sự của TT Manuel Zelaya trong tháng 6 năm 2009, các tướng lãnh Honduras đã thực hiện một cuộc đảo chánh quân sự đầu tiên ở Tây Bán Cầu trong kỷ nguyên hậu chiến tranh lạnh. Lý do là TT Zelaya đã quyết định trưng cầu dân ý, không mang tính bắt buộc, để thăm dò khả năng triệu tập Quốc Hội Lập Hiến, lâm thời sửa đổi hiến pháp vào tháng 11 cùng năm. Manuel Zelaya Tố cáo cuộc đảo chánh như một tiền lệ nguy hiểm ở Tây bán cầu và cần phải lật ngược, T T Obama lúc đầu nhấn mạnh: " Chúng tôi không muốn lùi về một quá khứ đen tối. Chúng tôi luôn đứng về phía dân chủ."[2] Những lời lẽ đó lẽ ra đã phải được kèm theo hành động cứng rắn, như triệu hồi vị đại sứ ở Tegucigalpa (như Bolivia, Brazil, Cuba, Ecuador, Nicaragua, và Venezuela đã làm), và lập tức ngưng viện trợ cho Honduras. Thay vào đó, ngoại trưởng Hillary Clinton lại tuyên bố chính quyền Mỹ "hiện nay" (for now) không chính thức xem việc lật đổ TT Manuel Zelaya như một cuộc đảo chính quân sự, mặc dù Liên Hiệp Quốc, Tổ Chức Các Quốc Gia Châu Mỹ (Organization of American States - OAS), và Liên Hiệp Âu Châu, đã hành động như thế. Bước giật lùi nầy đã thực sự động viên các tướng lãnh Honduras cũng như phe Cộng Hòa ủng hộ họ trong Quốc Hội Hoa Kỳ. Không để mất thì giờ, các phe nầy tức khắc hành động nhằm củng cố cuộc đảo chính trong khi một công ty vận động hành lang hàng đầu ở Hoa Thịnh Đốn - do Tổng Thống bù nhìn Roberto Micheletti của phe quân sự mướn - đã tích cực làm việc trong hậu trường. Những động thái nói trên tỏ ra đã đủ sức làm suy yếu "quyết tâm đứng về phía dân chủ" của vị tổng thống đặc trưng qua những bài diễn văn cao thượng và đầy ấn tượng, nhưng lại thiếu ý chí mạnh mẽ trong đường lối ngoại giao. Về phần mình, Ngoại trưởng Hillary Clinton lúc đó đã khởi sự nói đến việc giải hòa vị tổng thống bị truất phế và chính quyền lâm thời Micheletti - xem tổng thống dân cử và phe đảo chính phi pháp đều chính đáng ngang nhau. Sau khi hiểu rõ "đương đầu với Hoa Thịnh Đốn" đang có lợi, các tướng tá Honduras giữ nguyên lập trường cứng rắn. Và chỉ khi Hillary Clinton nhấn mạnh Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ sẽ không công nhận cuộc bầu cử tổng thống vào tháng 11-2009 vì nghi ngờ tính tự do, công bằng, và minh bạch, một tháng trước ngày bầu cử các tướng lãnh mới chịu thỏa hiệp: Họ sẵn sàng cho phép Zelaya trở lại cương vị tổng thống cho đến hết nhiệm kỳ. Đó chính là lúc Nghị Sĩ Cộng Hòa hữu khuynh Jim DeMint, một nghị sĩ hậu thuẫn cuồng nhiệt của các tướng lãnh Honduras, nhảy vào cuộc chiến. Ông cho biết sẽ chỉ dành sự ủng hộ của đảng Cộng Hòa cho các ứng viên của Tòa Bạch Ốc vào những vị trí quan trọng ở Châu Mỹ La Tinh nếu Hillary Clinton đồng ý công nhận kết quả cuộc bầu cử, bất kể điều gì sẽ xẩy đến cho Zelaya. Hillary Clinton "nhượng bộ" Kết quả, Obama đã trở thành một trong hai vị lãnh đạo, bên cạnh tổng thống Panama, trong số 34 thành viên của OAS, ủng hộ cuộc bầu cử tổng thống Honduras tháng 11-2009. Một cuộc đổi chác thường tình trong chính trị nội bộ ở Quốc hội Mỹ, dưới mắt cộng đồng thế giới, hình như đã được nhìn như một bước thối lui mất mặt của Obama trước thái độ thách thức của các tướng lãnh Honduras. Một sự kiện bi hài hơn nhiều khi Obama đối mặt với Benjamin Netanyahu, thủ tướng Israel. OBAMA VÀ BẪY SẬP NETANYAHU Ngày mới nhận chức, Obama long trọng loan báo sẽ lập tức giải quyết cuộc tranh chấp dài lâu giữa Israel và Palestine. Khi duyệt lại lộ trình hòa bình 2003 đã được LHQ, Hoa Kỳ, Nga, và Liên Hiệp Âu Châu ủng hộ, Tòa Bạch Ốc khám phá ra lời hứa ngừng mọi hoạt động xây cất các khu định cư của chính Israel. Trong buổi họp đầu tiên với Netanyahu vào giữa tháng 5-2009, Obama yêu cầu Israel ngưng bành trướng các khu định cư Do Thái trong vùng West Bank (Bờ Tây) và khu Đông Jerusalem bị chiếm đóng, hiện đã có gần 500.000 người Do Thái định cư. Obama đưa ra luận cứ những khu định cư nầy là trở ngại chính cho việc thiết lập một nhà nước Palestine độc lập. Netanyahu từ chối, lấy cớ vì mối đe dọa hiện hữu của chương trình nguyên tử của Iran đối với Israel. Obama đã tự để lọt vào bẫy. Trong cuộc họp báo chung, Obama liên kết các cuộc hòa đàm giữa Israel và Palestine với mối đe dọa nguyên tử của Iran, và sau đó, trước sự hoan hỉ của Netanyahu, dành cho Tehran thời hạn đến cuối năm 2009 để đáp lại sáng kiến hòa bình của Hoa Kỳ. Bằng cách nầy, viên thủ tướng xảo quyệt đã gài tổng thống Hoa Kỳ vào thế chấp thuận liên kết hai vấn đề riêng biệt, không liên hệ với nhau, và để đổi lại, đã chẳng phải nhượng bộ bất cứ gì. Gần đây, Netanyahu phân biệt việc bành trướng đang tiếp diễn các khu định cư hiện hữu với việc xây cất những khu mới, và không thỏa hiệp gì đối với các khu định cư hiện hữu. Natanyahu cũng phân biệt rõ ràng giữa Bờ Tây và Đông Jerusalem, và xem Đông Jerusalem như một phần bất khả phân và vĩnh viễn của thủ đô Israel, và vì vậy, không bị hạn chế như các khu định cư Do Thái. Phản ảnh phong cách của chính quyền Obama, Hillary Clinton đưa ra lời phản kháng mạnh mẽ: "Không có ngoại lệ nào đối với sự đóng băng các khu đinh cư Do Thái".[3]Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những lời nói trống rỗng chẳng đem lại thay đổi gì trong thực tế. Khi Netanyahu công khai bác bỏ đòi hỏi của Obama ngưng mọi dự án định cư mới ở Bờ Tây, Obama đã nâng cao điều kiện để gây thêm sức ép: gợi ý thái độ không nhân nhượng của Israel đã phương hại đến an ninh của Hoa Kỳ. Ngày 15-10-2009, sau nhiều lần trao đổi ở hậu trường giữa hai chính phủ, Nayantahu tuyên bố ông ta đã chấm dứt mọi thương thảo về vấn đề các khu định cư mới với Hoa Thịnh Đốn. Trong một cuộc gặp mặt với Hillary Clinton sau đó, Natanyahu lại cho biết sẽ cắt giảm công tác xây cất trong vài dự án định cư. Động thái nầy đã được ngoại trưởng Clinton nhiệt liệt tán thưởng như một "cử chỉ thiện chí vô tiền khoáng hậu", và cùng lúc Hillary Clinton kêu gọi nối lại các cuộc hòa đàm vô điều kiện giữa Israel và Palestine. Các viên chức trong chính quyền Palestine kinh ngạc trước sự thay đổi chính sách của Mỹ. Ghassan Khatib, phát ngôn nhân của chính phủ Palestine, phản ứng: "Tôi tin Hoa Kỳ đang chấp thuận việc tiếp tục bành trướng các khu định cư. Các cuộc thương thảo là nhằm chấm dứt sự chiếm đóng; và bành trướng định cư lại nhằm củng cố sự chiếm đóng."[4] Tháng 12-2009, Natanyahu đồng ý tạm ngưng các dự án định cư, nhưng cũng chỉ sau khi chính quyền Israel đã cho phép xây thêm 3.000 căn hộ chung cư trong vùng Bờ Tây bị chiếm đóng. Giữ vững lập trường nguyên thủy, người Palestine đã từ chối tái tục hòa đàm chừng nào phía Israel chưa chịu hoàn toàn ngưng các dự án định cư. Ngày 9-3-2010, khi Phó Tổng Thống Joe Biden vừa đặt chân đến Jerusalem, một chặng đường trong cuộc vận động của Hoa Thịnh Đốn nhằm kích hoạt tiến trình hòa bình, nhà cầm quyền Israel loan báo chấp thuận xây thêm 1.600 căn hộ mới ở Đông Jerusalem. Hành động xấc láo nầy, nhằm nhấn mạnh thái độ thách thức của Israel đối với Hoa Thịnh Đốn, đã khiến Biden và Obama vô cùng căm tức. Với Hạ Viện vừa thông qua dự luật cải tổ y tế ngày 24-3-2010, Obama đang phấn khởi xúc tiến nghị trình đối nội khi ông gặp Netanyahu trong ngày 25-3. Obama đưa ra ba điều kiện để giải quyết khủng hoảng: gia hạn ngưng bành trướng định cư người Do Thái quá tháng 9-2010; chấm dứt việc tiếp tục các dự án định cư người Do Thái ở Đông Jerusalem; và rút các lực lượng Do Thái trở về các vị trí trước Second Intifada (Lần Thứ Hai Nổi Dậy) tháng 9-2000. Sau đó, Obama bỏ đi, để Netanyahu một mình ở lại Bạch Ốc tham vấn các cố vấn, và hứa chỉ gặp lại Natanyahu nếu "có tiến triển gì mới". Tuy nhiên, một lần nữa, cũng như với các tướng lãnh Honduras, những lời lẽ cứng rắn của Obama cũng vẫn chỉ: Nói để Có Nói. Mục tiêu của động thái nầy cũng chỉ để người Palestine nối lại thương thảo với Israel, những cuộc thương thảo họ đã từng cắt ngang khi Israel tấn công Gaza Strip tháng 12-2008. Netanyahu chỉ sẵn sàng nói chuyện chừng nào người Palestine không đặt điều kiện tiên quyết. Cuối cùng, Netanyahu đã đạt những gì mình muốn. Ông ta không đáp ứng những điều kiện tiên quyết của người Palestine cũng như của chính quyền Obama. Nói một cách ngắn gọn, chính Obama đã phải chiều theo ý muốn của Netanyahu, hay như người Mỹ thường nói: Cái đuôi đã vẫy con chó (the tail wagged the dog). Các quan chức Palestine hẩm hiu đã hiểu rõ tình thế. Cuối cùng, họ cũng đã phải đồng ý gián tiếp nói chuyện với chính quyền Netanyahu qua trung gian đặc phái viên Trung Đông của Hoa Thịnh Đốn, George Mitchell. Khởi đầu ngày 9-5-2010, trong bốn tháng tiếp theo, Mitchell sẽ cố gắng thu hẹp hố cách biệt lớn lao trong các điều kiện thành lập một nước Palestine - khi cả hai phía, Israel và Palestine, giờ đây đều hiểu rõ Obama không đủ can đảm hoặc không muốn gây sức ép cần thiết đối với Israel. HOA KỲ-TRUNG QUỐC: XUNG ĐỘT HAY HÒA DỊU Các vấn đề của Obama đối với Trung Quốc (TQ) bắt đầu từ tháng 11-2009, khi, trong chuyến công du đầu tiên, TQ, trái với sự mong đợi, đã không dành cho Obama một sự tiếp đón long trọng và nồng hậu. Quan hệ Hoa Thịnh Đốn-Bắc Kinh càng lạnh nhạt hơn khi chính quyền Obama bật đèn xanh cho việc bán một số vũ khí tân tiến cho Taiwan, gồm các tên lửa chống tên lửa, trị giá 6,4 tỉ USD, và Obama tiếp Đức Dalai Lama , lãnh tụ tinh thần Tây Tạng, tại Tòa Bạch Ốc. TQ xem Taiwan như một tỉnh, và Tây Tạng như một phần lãnh thổ không thể tách rời của TQ. Các quan chức cao cấp Hoa Kỳ mô tả những động thái vừa nói như một phần trong nỗ lực chung của Obama, nhằm đẩy lùi ảnh hưởng ngày một gia tăng nhanh chóng của TQ trên toàn thế giới. Bên cạnh những hành động vừa kể, Hoa Kỳ còn không ngừng gây sức ép, công khai cũng như riêng tư, đối với Bắc Kinh - đòi hỏi TQ phải tái định hối suất đồng nhân dân tệ. Chính quyền Obama cũng luôn chú tâm đến điều luật buộc Bộ Ngân Khố phải báo cáo mỗi năm hai lần bất cứ xứ nào nhào nặn hối suất đơn vị tiền tệ của mình đối với đồng USD để cạnh tranh bất chính trong mậu dịch quốc tế. Lần báo cáo ngày 15-4-2010 vừa qua - bước đầu cho việc khả dĩ áp đặt các biện pháp chế tài - đã được các quan chức Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm. Vào giữa tháng 4-2010, Obama đã triệu tập hội nghị thượng đỉnh quốc tế về an ninh nguyên tử ở Hoa Thịnh Đốn. Obama mong muốn càng nhiều nguyên thủ quốc gia tham dự càng tốt. Ít ra, Tổng Thống Mỹ muốn có sự hiện diện của lãnh đạo bốn cường quốc nguyên tử với quyền phủ quyết trong Hội Đồng Bảo An LHQ - Anh, Nga, Pháp, và TQ. Hội Nghị đã đem lại cho Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào một cơ hội và nước cờ hùng mạnh vào đúng lúc Tòa Bạch Ốc đang chuẩn bị khả năng tố cáo TQ như quốc gia luôn nhào nặn hối suất đồng nhân dân tệ để thủ lợi trong mậu dịch quốc tế. Họ Hồ đe dọa tẩy chay hội nghị. Obama lại phải nhượng bộ - trì hoãn ngày công bố báo cáo của Bộ Ngân Khố. Đổi lại, Hồ Cẩm Đào đã nhận lời tham dự và gặp Obama tại Tòa Bạch Ốc. Quan hệ căng thẳng giữa Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn không hề làm cấp lãnh đạo thực tiễn và táo bạo TQ ngạc nhiên. Thái độ của họ đã được phản ảnh trong bài bình luận trên nhật báo chính thức, tờ China Daily, ngay sau ngày Obama tuyên thệ nhận chức: "Các lãnh đạo Hoa Kỳ không bao giờ e ngại nói rõ tham vọng của nước Mỹ. Đối với họ, đó là sứ mệnh thiêng liêng dù các quốc gia khác có nghĩ ra sao cũng mặc. Việc bảo vệ quyền lợi Hoa Kỳ của Obama nhất thiết sẽ va chạm với quyền lợi của các quốc gia khác"[5]. Họ luôn tin tưởng và hành động như vậy. Chủ nghĩa thực tiễn đó hoàn toàn tương phản với thái độ và lập trường của các quan chức Tòa Bạch Ốc - những người đang tin tưởng một cách ngây thơ: vài bài diễn văn hùng biện và hoa mỹ, được tổng thống mới soạn thảo kỹ lưỡng và đọc ở thủ đô các nước ngoài, sẽ có thể phục hồi uy tín của Hoa Kỳ đã bị tơi tả sau tám năm dưới các chính sách hoang tưởng của George W. Bush. Obama và các cố vấn thân cận hình như đã không mấy quan tâm đến kết quả một cuộc thăm dò công luận của Pew Research Center. Kết quả cuộc thăm dò cho thấy, tiếp theo sau chiến dịch ngoại giao rầm rộ của TT Obama, trong khi hình ảnh của Hoa Kỳ quả thật đã được phục hồi khá nhiều ở Âu châu, Mexico, và Brazil, mức cải thiện lại rất nhỏ nhoi ở Ấn Độ và TQ, không đáng kể ở Trung Đông Á Rập, và chẳng mấy được quan tâm ở Nga, Pakistan, và Turkey. Trong không khí phấn khởi ở Tòa Bạch Ốc, đội ngũ Obama đã không ý thức đầy đủ các lựa chọn khả thi của các cường quốc trên thế giới, để đối đầu với sức ép của người Mỹ. Chẳng hạn, họ đã không thể tiên liệu khả năng và hiệu lực các đe dọa chế tài của Bắc Kinh đối với các đại công ty Hoa Kỳ đang cung cấp vũ khí cho Taiwan, cũng như sức đề kháng của TQ đối với áp lực tái định giá đồng nhân dân tệ. Vài quan sát viên đã quy kết cách ứng xử của Bắc Kinh là bắt nguồn từ tinh thần quốc gia mạnh mẽ của người dân và tâm lý của cấp lãnh đạo TQ đang e ngại: một sự nhượng bộ trước sức ép của người nước ngoài sẽ không được người dân tán thưởng. Dù sao, lý do thực sự bên sau sức đề kháng của TQ là thực tế kinh tế hơn là tâm lý quần chúng. Tiếp theo sau Đại Suy Thoái 2008-09, qua hình ảnh sụp đổ của ngân hàng đầu tư Lehman Brothers, cấp lãnh đạo TQ đã ghi nhận những đổi thay mang tính địa chấn trong cán cân kinh tế thế giới đã làm suy giảm uy quyền của "siêu cường duy nhất", ít ra cũng "duy nhất cho đến những ngày gần đây". Trong khi kinh tế Hoa Kỳ và Âu Châu suy sụp, Bắc Kinh đã nhanh chóng đưa ra các chính sách kích cầu nội địa và đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở. Các chính sách nầy đã đem lại một tỉ suất tăng trưởng ấn tượng: 9% GDP năm 2009 và dự kiến 12% cho năm 2010. Nhịp tăng trưởng choáng ngợp của TQ đã khiến các nhà phân tích Goldman Sachs đưa ra dự báo: Kinh tế TQ sẽ trở thành nền kinh tế số 1 trên toàn cầu vào năm 2027 thay vì 2050. Lần đầu tiên kể từ sau đệ nhị thế chiến, không phải Hoa Kỳ mà chính TQ đã lôi kéo phần còn lại của thế giới ra khỏi tăng trưởng âm của Đại Suy Thoái. Hoa Kỳ bắt dầu hồi phục èo ọp như một quốc gia con nợ hàng đầu với tổng số nợ tích lũy lên gần 14.000 tỉ USD, và TQ như nước chủ nợ cũng hàng đầu với tổng số ngoại tệ dự trữ 2.400 tỉ. Các công ty giàu tiền mặt của TQ ngày nay đang tạo mãi các công ty và tài nguyên thiên nhiên tương lai từ Úc đến Peru, từ Canada đến Afghanistan - nơi, trong năm rồi, công ty TQ Congjiang Copper Group đã mua độc quyền khai thác một trong số mỏ có dự trữ quặng đồng lớn nhất hành tinh, với giá 3,4 tỉ USD, một tỉ trên giá cao nhất của một công ty luyện kim Tây phương dự thầu. KARZAI - MỘT ĐE DỌA HAY KARZAI - MỘT LÃNH ĐẠO THIẾT YẾU Ngay từ ngày nhận chức tổng thống, Obama đã không hề che dấu thái độ coi thường đối tác của ông ở Afghanistan, Hamid Karzai. Để tránh mạng lưới tham nhũng của chính quyền trung ương Afghanistan, các quan chức cao cấp Hoa Kỳ đã luôn làm việc trực tiếp với các thống đốc Afghanistan cấp quận và cấp tỉnh. Trong cuộc bầu cử Tổng Thống 2009, ngay từ đầu, họ đã tỏ rõ lập trường ủng hộ Abdullah Abdullah - đối thủ của Karzai. Khi Karzai dùng nhiều thủ thuật để gian lận phiếu bầu một cách đại trà hầu nắm chắc khả năng tái cử và làm ngơ trước các khuyến cáo thanh lọc guồng máy hành chánh, Obama quyết định dùng "gậy" thay vì "cà rốt" để răn đe chế độ khách hàng. Trong một cử chỉ bi hùng, vào tuần lễ cuối tháng 3-2009, Obama, sau 26 giờ bay từ Hoa Thịnh Đốn đến Kabul, đã đến đọc một "bài giảng kéo dài 26 phút" về tình trạng thối nát và bất lực của chính quyền Karzai. Người lãnh đạo Afghanistan đã không có sự lựa chọn nào khác hơn là lắng nghe trong lầm lì yên lặng. Tuy nhiên, sau khi đọc một mẩu tin trên báo, theo đó một sĩ quan cao cấp Mỹ giấu tên cho biết người em cùng cha (khác mẹ) Ahmed Wali Karzai, một tay "mua quan bán chức" ở Kandahar, một tỉnh ở miền Nam, xứng đáng được liệt kê vào danh sách các đầu nậu buôn bán ma túy cần bỏ tù hay giết bỏ, Karzai mất hết kiên nhẫn. Vị Tổng Thống Afghanistan, đang điên giận, đã trả miếng, tố cáo người Mỹ đã cố tình leo thang và mở rộng cuộc chiến ở Afghanistan, để có lý do ở lại và thống trị vùng Tây Nam Á. Karzai còn nói thêm: Nếu Hoa Thịnh Đốn tiếp tục gây sức ép, ông rất có thể sẽ liên minh với Taliban. Trong thực tế, ông đã từng là một tay gây quỹ quan trọng cho Taliban sau khi phe Taliban chiếm được Kabul vào tháng 9-1996. Obama đã phản ứng như ông đã từng phản ứng trong quá khứ khi phải đối mặt với một thách thức quan trọng. Obama đã dịu giọng. Từ một tổng thống tay nắm "gậy", ông đã đổi dạng thành người đang dâng "cà rốt" khi Karzai viếng thăm Hoa Thịnh Đốn vào đầu tháng 5-2010, một cuộc viếng thăm vào đầu tháng 3, các quan chức Hoa Thịnh Đốn đã đe dọa trì hoãn vô thời hạn. Cao điểm o bế Karzai là bữa tiệc tối do Phó Tổng Thống Joe Biden khoản đãi ở tư dinh. Ít nhất, Karzai cũng đã phải buồn cười. Trong tháng hai, Biden, giữa buổi tiệc tối tại dinh Tổng Thống Afghanistan, đã bỏ ngang ra về sau khi Karzai phủ nhận chính phủ của ông là chính phủ tham nhũng, hay nếu tham nhũng, thì chính ông mới là người có lỗi. Mặc dù được tiếp đón ân cần với thảm đỏ, trong cuộc họp báo chung với Obama, Karzai cũng đã tỏ ra vô cùng chân thành và can đảm khi mô tả Iran như một "nước anh em, một nước bạn của chúng tôi". Cùng một cảm nghĩ, sau đó, cũng đã được một lãnh đạo khác ở Brazil phát biểu. BARACK OBAMA VÀ LUIZ INACIO LULA DA SILVA Kể từ khi lên làm tổng thống Brazil năm 2003, Luiz Inacio Lula da Silva, khi cần, đã không ngần ngại thách thức các chính sách của Mỹ. T T da Silva đã đối đầu với Hoa Thịnh Đốn trong mậu dịch quốc tế (Doha round), thay đổi khí hậu, và các chế tài liên tục chống lại Cuba. Tháng 12-2008, da Silva đã chủ tọa cuộc họp 31 quốc gia Châu Mỹ La Tinh và vùng Caribbean (không có Hoa Kỳ) ở khu du lịch Sauipe, Brazil. Tháng 1-2009, thay vì đi dự Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới ở Davos, Switzerland, da Silva lại tham dự Diễn Đàn Xã Hội Thế Giới Thứ Tám (the Eighth World Social Forum) ở Belem, cửa khẩu của Amazon River. T T da Silva chỉ trích phương cách Obama đã làm suy yếu nền dân chủ ở Honduras. Và mặc dù chính quyền Obama rất phật lòng và chống đối, da Silva, trong nổ lực ngoại giao cao cấp quốc tế đầu tiên, đã mời tổng thống Iran, Mahmoud Ahmadinejad, đến thăm Brazil vào tháng 11-2009, để thảo luận chương trình nguyên tử. Sáu tháng sau đó, da Silva đã viếng thăm Tehran để đáp lễ - một cuộc công du mang tính lịch sử và gây không ít phiền lòng cho Hoa Thịnh Đốn. Hành động chung với Thủ Tướng Recep Tayyip Erdogan của Turkey, da Silva đã giúp vực dậy một thỏa ước nguyên tử có sẵn từ tháng 10-2009, và môi giới một thỏa ước bất ngờ với Ahmadinejad. Iran đồng ý chuyển 1.200 kgs uranium được làm giàu thấp đến Turkey; để đổi lại, Nga và Pháp sẽ cung cấp 120 kgs uranium làm giàu lên mức 20% để sử dụng trong lò phản ứng nghiên cứu y khoa ở Tehran. Bị bất ngờ và phật lòng vì sự thành công của Brazil và Turkey trước sự phản đối của Hoa Kỳ, chính quyền Obama quay trở lại với lập trường của Tòa Bạch Ốc thời Bush và đòi hỏi Iran phải ngưng chương trình làm giàu nhiên liệu hạt nhân. Sau đó, chính quyền Obama lại vận động thúc đẩy LHQ thông qua một gói chế tài mới đối với Iran, tựa hồ như người Brazil và Turkey trước đó chưa hề đạt được điều gì cụ thể. Trong mọi trường hợp, thái độ phủ nhận sự thật của Mỹ, chí ít, cũng mang tính thiển cận. Cách nhìn phiến diện và hời hợt của Tòa Bạch Ốc hiện nay đã gạt ra ngoài nhiều sự kiện toàn cầu quan trọng. Ảnh hưởng của các trung cường (cường quốc cở trung) trên sân khấu chính trị thế giới ngày một gia tăng. Lãnh đạo của nhóm nầy đã đúng khi nghĩ: họ có thể làm ngơ hoặc tránh né các yêu sách của chính quyền Obama. Nhìn từ khía cạnh tích cực, họ luôn có thể chung sức góp phần giải quyết nhiều vấn đề quốc tế và đưa ra nhiều sáng kiến ngoại giao với nhiều cơ may thành công. Ngày nay, từ Afghanistan đến Honduras, từ Brazil đến TQ, các lãnh đạo toàn cầu, lớn và nhỏ, ngày một chia sẻ cảm giác: chính quyền Obama thường lớn tiếng nhưng cắn chẳng đau, và mặc dù Hoa Kỳ vẫn còn là một siêu cường, nhưng không còn là siêu cường duy nhất. Đà suy giảm quyền lực trong "Thế Kỷ Hoa Kỳ đã bị rút ngắn" (truncated American Century) hiện rất khó lòng có thể đảo ngược. THAY LỜI KẾT LUẬN Khi mới nhận chức vào đầu năm 2009, Obama đã thông báo cho các cố vấn đối ngoại: trong cương vị Tổng Thống, ông sẽ phải đối diện với hai loại vấn đề. Loại thứ nhất gồm những vấn đề thừa kế từ T T Bush, như Iraq, Afghanistan, và hình ảnh của Hoa Kỳ trên thế giới. Loại thứ hai là nghị trình của chính ông cho tương lai. Đã hẳn, cũng như bất cứ tổng thống nào khác, để thành công, ngoài yếu tố may mắn, Obama cũng cần phải biết vận dụng hữu hiệu mọi khả năng và kinh nghiệm của chính mình và toàn đội ngũ dưới quyền. Sau hơn 17 tháng làm tổng thống, với chương trình cải tổ y tế đã được định chế hóa, và hội nghị thượng đỉnh nguyên tử 47 nước đã hoàn tất, Obama đang có cơ hội tập trung vào việc thực thi viễn kiến ngoại giao và tự khẳng định mình trên chính trường quốc tế. Trong thực tế, trước đây, Obama cũng đã có dịp xác quyết nghị trình riêng của chính mình. Chẳng hạn, Obama đã bác bỏ đề nghị của Nga liên quan đến các hạn chế trong chương trình lá chắn tên lửa, cùng lúc đã thành công trong việc thương thảo thỏa ước kiểm soát vũ khí với Nga - mặc dù khiêm tốn, nhưng cũng đã dọn đường cho những quan hệ khả dĩ tốt hơn trong tương lai. Nói một cách khác, Obama đã chứng tỏ phần nào bản lĩnh của một tổng thống, trái với hình ảnh một tổng thống yếu mềm dưới mắt người nước ngoài hiện nay. Trong mọi trường hợp, thái độ chờ đợi lãnh đạo các nước ngoài sẽ thỏa hiệp dễ dàng với nghị trình của Obama - vì Obama, khác với Bush, là một tổng thống được quần chúng ủng hộ - là ngây thơ, nếu không phải là ảo tưởng. Mỗi quốc gia đều có quyền lợi riêng của mình. Đối với phần đông các tổng thống mới, chính sách đối ngoại thường là kết tinh của một chuổi dài học tập và trải nghiệm; quá trình có thể kéo dài nhiều tháng, đôi khi nhiều năm, trước khi quen thuộc với vai trò lãnh đạo thế giới. Đã hẳn, qua thời gian, T T Obama , cũng như các vị tiền nhiệm, sẽ ngày một tự tin hơn trong vai trò lèo lái các quan hệ quốc tế. Trong thời gian qua, Obama cũng đã trải nghiệm nhiều bài học đắt giá về giới hạn của kỹ năng thuyết phục của chính mình. Nếu có một chủ thuyết Obama đang hình thành, đây có lẽ là một chủ thuyết mang tính thực tiễn nhiều hơn là người tiền nhiệm, tập trung trên các quan hệ với các đại cường, và với các đề tài như nhân quyền và dân chủ được xếp vào hàng thứ yếu. Obama đã tạo được khá nhiều thiện chí trên khắp thế giới sau nhiều năm căng thẳng dưới thời George W. Bush. Tuy nhiên, Obama hình như chưa vun quén được những quan hệ hữu nghị thân tình với nhiều lãnh đạo thế giới. Các nhà phân tích chính trị thường có thói quen phân biệt giữa lý tưởng và thực tiển. Nếu cần phải xếp loại, Obama có lẽ thuộc loại thực tiển nhiều hơn. Obama hiểu rõ quan hệ cá nhân rất quan trọng, nhưng ông cũng hiểu cần phải luôn tỉnh táo, lạnh lùng khi nói đến quyền lợi quốc gia. Đối với một tổng thống xuất thân từ cánh tả tự do của đảng Dân Chủ, quả thật là một điều đáng lưu ý khi Obama đã theo đuổi một chiến lược đại cường, rất gần với chiến lược của Kissinger. Obama không mấy tình cảm. Các đề tài nhân quyền không mấy quan trọng trong chính sách đối ngoại của ông. Hầu như Obama cũng chẳng mấy quan tâm đến các vấn đề phát huy dân chủ trên thế giới. Thỏa ước với Nga, hội nghị thượng đỉnh về nguyên tử, và nhiều sáng kiến khác, tuy không mang tính chuyển hóa, hy vọng vẫn là những bước tiến đầu tiên trong quá trình khẳng định vai trò lãnh đạo thế giới của siêu cường số 1 (dù không còn là siêu cường duy nhất) đối với Barack Obama. GS Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 03-7-2010 CHÚ THÍCH: Bài viết phần lớn đã dựa vào tư liệu của Dilip Hiro, tác giả 32 tác phẩm, và sách cuối cùng nhan đề After Empire: The Birth of A multipolar World. [1] Xin xem thêm bài "Thập Kỷ 2000s: Vài Vấn Đề Thời Sự", 9-7-2009, vietsciences.free.fr, của cùng tác giả. [2] We do not want to go back to a dark past. We always want to stand with democracy. [3] No exceptions to Israeli settlement freeze. [4] Ghassan Khatib: " I believe that the U.S. condones continued settlement expansion. Negotiations are about ending the occupation and settlement expansion is about entrenching the occupation". [5] U.S leaders have never been shy about talking about their country's ambition. For them, it is divinely granted destiny no matter what other nations think. Obama's defense of U.S. interests will inevitably clash with those of other nations.
|
|
|
Nuớc Mỹ
Sept 23, 2010 10:34:33 GMT 9
Post by Can Tho on Sept 23, 2010 10:34:33 GMT 9
Obama và hệ thống chính trị bảo thủ Hoa Kỳ Vietsciences- Nguyễn Trường Đối với một số cử tri cấp tiến, bên cạnh những thành quả mang nhiều ý nghĩa, gần nửa nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Obama vẫn là một thất vọng. Thực vậy, họ đã phải chứng kiến nhiều sự kiện thực tế và thỏa hiệp đau lòng.NGHỊ TRÌNH VÀ THỰC TẾ CHÍNH TRỊ Chẳng hạn, để được Quốc Hội thông qua luật bảo hiểm y tế, Obama đã phải từ bỏ lập trường giữ nguyên "án lệ Roe vs Wade như một ưu tiên của tổng thống"[1], một lời hứa với "cử tri thiết tha với quyền lựa chọn của phụ nữ" [2]. Lời hứa nầy đã cùng chung số phận với lời cam kết "bất cứ kế hoạch nào tôi ký cũng phải bao gồm một cơ chế bảo hiểm...có dự liệu một lựa chọn công"[3]. Các nghiệp đoàn lao động đã là những tổ chức ủng hộ nhiệt thành nhất của Obama, cũng như giữ vai trò then chốt trong bất cứ xu thế phục hưng cấp tiến nào, và nhiều cử tri khác, đã rất hứng khởi với lời hứa sẽ "tranh đấu cho Luật Tự Do Lựa Chọn Của Công Nhân". Tuy nhiên, dự luật nầy cũng đã bị hy sinh. Các cử tri quan tâm đến môi sinh đã hăng say ủng hộ và vận động cho ứng viên Obama ở New Hampshire khi Obama hứa hẹn sẽ ấn định mức trần khí thải carbon 80% thấp hơn vào năm 2050 - mức các khoa học gia xét cần thiết để ngăn chận hiện tượng biến đổi khí hậu. Nhưng mục tiêu nầy nay cũng đã thành mây khói. Ngay trước ngày bầu cử, Obama cũng hứa hẹn sẽ quan tâm đến pháp chế bảo vệ thị trường tự do, công bình, và lương thiện, nhằm vãn hồi tính minh bạch và trách nhiệm trong việc quản lý các công ty. Cho đến nay, Obama cũng rõ ràng đã không giữ được lời hứa khi đang vận động bầu cử. Trong thực tế, nếu xét toàn bộ những pháp chế, kể cả các sắc lệnh hành pháp, có liên hệ đến các hứa hẹn của ứng cử viên Barack Obama , người ta dễ dàng đồng cảm với lời diễu cợt của danh hài buổi tối Jimmy Fallon: "Cuối cùng Obama hình như đã thể hiện được những lời hứa vận động tuyển cử của John McCain"[4]. Không cử tri nào biết được những gì trong thâm tâm của tổng thống. Có thể Obama đã đánh lừa các cử tri cấp tiến trong thời gian vận động tuyển cử, những cử tri đã nhẹ dạ tin Obama là người tự do cánh tả khi trong thực tế ông ta gần gũi với hình ảnh một đại diện trá hình của các đại công ty bảo thủ. Trong lúc đó, các chính trị gia Hoa Thịnh Đốn lại đưa ra một hình ảnh hoàn toàn trái ngược. Theo Gerald Seib, bình luận gia báo Wall Street Journal, vấn đề của tổng thống là ông và các đồng minh trong đảng Dân chủ "đã chơi trội trên khả năng tay bài của mình trong năm rưỡi vừa qua, đưa chính sách qua phía cực tả, gây ra một phản ứng đối nghịch đồng hạng về phía hữu"[5]. Clive Crook, báo The Atlantic Monthy, cũng đồng tình: lỗi lầm lớn nhất của Obama là đã "không tách khỏi cánh tả" và "biến họ thành kẻ thù". Và Newt Ginrich, được các chính trị gia cực hữu ở Hoa Thịnh Đốn xem như lương tâm của đảng Cộng Hòa, đã gọi Obama "vị tổng thống cực đoan nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, và có thể nguy hiểm nhất "[6], đồng thời khuyến khích người cùng phe chống đối "bộ máy thế quyền và xã hội chủ nghĩa của Obama"[7]. Bình luận gia bảo thủ báo New York Times, Ross Douthat, lại nhận xét: "Obama là một chính khách tự do luôn sẵn sàng thỏa hiệp và chộp lấy nửa ổ bánh mì. Ông ta ưa chuộng chính sách của một blogger cấp tiến, nhưng có phương thức lãnh đạo của một nhà hoạt động chính trị sắc sảo và đầy kinh nghiệm trong Beltway"[8]. Trong thời gian vận động tuyển cử, Obama đã can đảm khen ngợi Ronald Reagan là đã đưa ra những ý tưởng táo bạo làm thay đổi quỹ đạo chính trị Hoa Kỳ. Nhưng trong vai trò tổng thống, Obama đã lựa chọn tập trung vào những đề mục đang thương thảo, dựa trên triết lý "khi không có được toàn bộ con lợn, bạn phải tạm nhận một ham sandwich". Tuy nhiên, ai có thể hiểu được những ước mơ trong trí tưởng tượng chính trị của Obama là điều không mấy quan trọng. Các lỗi lầm chiến lược của đội ngũ Obama cũng không mang tính quyết định. Sự kiện quan trọng nhất đối với giới cấp tiến đơn giản là: toàn bộ hệ thống đã được cấu trúc và sắp xếp sẵn, đối nghịch với chính trị cấp tiến. Đã hẳn, bất cứ tổng thống nào cũng luôn được Quốc Hội dễ dàng thông qua các biện pháp giảm thuế cho giới nhà giàu và các đại công ty hùng mạnh, có thể khởi động các cuộc chiến họ muốn, và nghe lén điện thoại của bất cứ ai không cần lệnh của tòa. Họ có thể ra lệnh tra tấn các nghi can khủng bố, nói dối về những việc đã làm, và cho các cơ quan tình báo thủ tiêu bằng chứng. Nhưng điều họ không thể làm, ngay cả khi nắm trong tay đa số lớn lao trong hai viện Quốc Hội, là thuyết phục Quốc Hội chấp thuận các pháp chế cấp tiến mang tính chuyển hóa, như Obama đã hứa hẹn trong quá trình vận động tuyển cử 2008. Hệ thống chính trị Hoa Kỳ chẳng có gì ấn tượng ngoài cấu trúc phức tạp, và đó cũng là lý do khó thể vận hành hữu hiệu. Một số lý do bắt nguồn từ định chế hiến pháp, không thể thay đổi, ngoại trừ viễn ảnh tu chính cực kỳ cồng kềnh và khó khăn. Một số khác là hệ lụy của một văn hóa mục rữa và thiếu động lực để thay đổi. Rất nhiều lý do chỉ là kết quả của cơ cấu ý thức hệ và thương mãi đặc thù của guồng máy truyền thông, không những quyết định khuôn khổ diễn đàn chính trị, mà cả các đề tài khả dĩ quan tâm. Một số lý do khác hoàn toàn tùy thuộc chính trị nhất thời hoặc thuần túy thiếu may mắn. Nếu người Mỹ thực sự muốn thay đổi, thay vì ta thán, họ cần phải tự khám phá những điểm nghẽn có thể khai thông, và điểm nghẽn nào không thể. Bởi lẽ nếu các chính trị gia Mỹ không thể giữ lời cam kết hoặc hứa hẹn khi còn là ứng cử viên, lúc đó sự quyết tâm theo đuổi dân chủ có thể nói tương tự như một quá trình dân chủ đứng từ xa chỉ để phê bình và nhạo báng. DI SẢN CỦA BUSH Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên dễ quên lãng, nhất là trong sinh hoạt chính trị. Rất hiếm khi chúng ta dừng lại để tự nhắc , như một bài biên tập báo New York Times đã diễn tả: "Obama đảm nhận chức vụ dưới một gánh nặng khác thường những vấn đề do nhiều bất cập và ý thức hệ mù quáng của Tổng Thống George W. Bush gây ra"[9]. Một Tòa Bạch Ốc hết sức vô trách nhiệm, bất lực, và ám ảnh bởi ý thức hệ đã để lại nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị trên vai người kế nhiệm, những cuộc khủng hoảng che lấp cả nhiều vấn đề không kém quan trọng khác, hầu như đã không hề được lưu tâm. Chẳng hạn, Sở Quản Lý Khoáng Sản - nơi sự hỗn độn, nhũng lạm, và bất lực, trộn lẫn với quỷ quyệt - đã cho phép BP coi thường mọi quy luật an toàn và gây tai nạn tràn dầu tai họa. Cùng với các sự kiện tương tự trong toàn cấu trúc giám sát của chính quyền, chúng ta dễ dàng có được một ý niệm về khối lượng các vấn đề nan giải Bush và Cheney đã để lại cho chính quyền kế nhiệm. CƠ CẤU THƯỢNG VIỆN VÀ QUYỀN LỰC CỦA PHE THIỂU SỐ Đối diện với vô vàn thử thách chỉ để tái lập một sự thăng bằng phải chăng nào đó trong chính sách, chẳng hạn ngân sách khuy khiếm hay nợ nần dài hạn, hoặc giám sát hệ thống tài chánh, Obama hiện còn phải đương đầu với vấn đề bí hiểm của một hệ thống, được thiết kế như hiện nay, trao cho đảng thiểu số quyền được miễn trừ mọi trách nhiệm quản trị duy lý và phải chăng. Trong khi đảng Dân chủ, ngay cả khi là đảng thiểu số, vẫn tham gia vào việc hoạch định các biện pháp cải thiện quản lý, điều nầy hiếm khi đúng với đảng Cộng Hòa, trên nguyên tắc, luôn nghi ngờ chính quyền, và trong thực tế, luôn chống đối các chương trình xây dựng hạ tầng cơ sở và tài hóa công, và gần đây đã trở nên cực đoan đến độ phần lớn những ta thán về Obama - từ theo chủ nghĩa xã hội, hay quốc xã, hay kẻ nói dối, cho đến ra chào đời ở Kenya - những thái độ hoặc luận điệu hoàn toàn trái ngược với mọi hình thái cơ bản của tục thức. Hiện nay, đảng Cộng Hòa đang có vô khối phương tiện để ngăn chặn mọi pháp chế, và lắm khi chỉ vì những quyền lợi phe nhóm nhỏ nhen. SỨC MẠNH CỦA KIM TIỀN Đã hẳn khi tìm cách xác minh tại sao ý kiến và nguyện vọng của người dân thường không được tôn trọng trong hệ thống chính trị Hoa Kỳ, lý do phải nghĩ đến trước tiên là thế lực của kim tiền. Trung Tâm Chính Trị Đáp Ứng, Center for Responsive Politics, không thuộc đảng phái nào, ước tính kinh phí vận động hành lang đã lên đến khoảng 3,47 tỉ trong năm 2009, so với 3,3 tỉ trong năm 2008. Mặc dù các cố gắng của Obama nhằm cải tổ sinh hoạt chính trị ở Hoa Thịnh Đốn, trước sức mạnh tài chánh đặc biệt hùng hậu của các nhóm quyền lợi, người ta chỉ phí thì giờ khi tìm hiểu kết quả các cuộc tranh luận về chính sách trước Quốc Hội mà không lưu ý đến sự kiện ai-đã-mua-cái-gì-từ-ai. Hơn thế nữa, các vấn đề do kim tiền gây ra trong hệ thống chính trị Hoa Kỳ chắc chắn ngày một trầm trọng hơn với phán quyết gần đây của Tối Cao Pháp Viện hủy bỏ mọi hạn chế ngạch số chi tiêu của các công ty dành cho các ứng cử viên vào các chức vụ chính trị, dưới chiêu bài "tự do ngôn luận", kéo dài gần cả thế kỷ nay. Phán quyết nầy đã đem lại cơ hội mới cho tất cả các công ty, nhất là những công ty hành động qua trung gian Phòng Thương Mãi, nhằm che giấu hành tung của chính mình. VĂN HÓA TÀI CHÁNH Hai kinh tế gia Simon Johnson và James Kwak nhận xét: trong thập kỷ 1990s, khi cả hai đảng đều hưởng lợi từ những số tiền đầu tư vào Quốc Hội của các ngân hàng đầu tư và đồng minh, "ý thức hệ của Wall Street - các cải cách không bị trói buộc và các thị trường tài chánh không được giám sát sẽ có lợi cho Mỹ và thế giới - đã trở thành lập trường đồng thuận ở Hoa Thịnh Đốn của các dân biểu, nghị sĩ lưỡng đảng"[10]. Vì vậy, những luận điệu của giới vận động hành lang luôn được xem như chân lý hiển nhiên. Và việc làm do giới nầy đem lại cho các nhân viên Quốc Hội "việc nhiều lương ít" trở nên khó cưỡng lại. GÓC CẠNH Ý THỨC HỆ Chính Thomas Paine là người đầu tiên đưa ra ý kiến:"Chính quyền tốt nhất là chính quyền cai trị ít nhất"[11]. Ý tưởng nầy đã được đa số người Mỹ vồ vập, bất kể giá trị của bất cứ chương trình nào của chính phủ, khiến các chương trình nầy rất dễ bị chống đối hơn là được ủng hộ, nói gì đến vấn đề thuế khóa. TRUYỀN THÔNG BẢO THỦ Giới thông tin báo chí Hoa Kỳ luôn phản ảnh trung thành tình trạng một hệ thống truyền thông thiếu lương thiện, mang tính hiếu chiến và phe phái. Do kết quả của hơn 40 năm dưới sự tấn công liên tục của các nhà tài trợ cánh hữu cùng với sự mai một của rất nhiều định chế báo chí một thời kiêu hãnh, phần lớn các địa vị then chốt nhiều quyền hạn còn lại trong hệ thống truyền thông đều lọt vào tay những người không sống chết với nghề báo mà chỉ trung thành với các khẩu hiệu và các chiêu bài bảo thủ. Mặc dù gần đây cũng có nhiều đầu tư và tiến bộ, không có gì bên cánh tả có thể sánh với quyền lực của talk-radio, Fox News và mạng lưới các cơ quan tham mưu hay think tanks cùng chung ý thức hệ và dồi dào ngân quỹ. Sự thẩm thấu của tư tưởng bảo thủ kiểu Fox vào phần còn lại của hệ thống truyền thông chỉ là một trong những trở ngại phe cấp tiến phải vượt qua. Ngoài ra, còn phải nói đến tình trạng yếu kém trong phóng sự, quá tập trung vào khía cạnh nhân cách, trình độ tinh thần thấp kém, chuyên chú vào một mẩu chuyện, ám ảnh với người nổi tiếng, và thiếu lưu tâm đến hầu như bất cứ một đề tài hay chính sách công ít nhiều phức tạp. Tất cả những biến chuyển đặc trưng đó tượng trưng cho những trở lực cơ cấu quan trọng đối với bất cứ một tổng thống cấp tiến nào tìm cách thực thi sứ mệnh dân chủ của mình, ngay cả đối với một tổng thống đến Hoa Thịnh Đốn với một đa số áp đảo trong Quốc Hội. Hiễn nhiên, nếu nước Mỹ muốn thoát khỏi tình trạng tê liệt trong sinh hoạt dân chủ, chỉ bầu vào Quốc Hội những ứng viên xứng đáng hơn vẫn chưa đủ. Người Mỹ còn cần một hệ thống định chế với quy luật tốt hơn, công bình hơn; giảm thiểu thế lực của đồng tiền; đề cao các chính trị gia và giới truyền thông lương thiện trong vai trò mô tả những gì đang thực sự diễn tiến. Vì chính quyền Obama rõ ràng ưa thích cách làm việc từ trên xuống, những thành phần cấp tiến chịu trách nhiệm tổ chức các phong trào quần chúng cần phải nghiêm chỉnh triển khai các định chế của mình một cách độc lập. Vì vậy, họ sẽ phải gạt qua một bên những dị biệt truyền thống ngăn cách họ trong quá khứ, nhất là những dị biệt giữa phe tự do và phe cấp tiến - phe tự cho mình luôn đứng về phía tả của phe tự do. Giới cấp tiến, kể cả những nhóm như Media Matters và FAIR, đã bắt đầu gây áp lực trên giới truyền thông dòng chính, phản đối xu hướng chấp nhận và áp đặt những định chế cố tình xuyên tạc, lừa dối, và thường sai trái, lên độc giả và khán giả, qua guồng máy tuyên truyền hữu phái - Wall Street và hệ thống ngân hàng - giàu phương tiện và lúc một tự tôn. Được áp dụng đứng đắn, một áp lực như thế là phương tiện hữu hiệu buộc các nhà báo phải tái tư duy một số thiên kiến, nhất là trong bối cảnh kinh tế khó khăn hiện nay. Thực vậy, đối với mỗi vấn đề, phe cấp tiến cần tổ chức tốt hơn, khôn ngoan hơn, ở mọi cấp, sẵn sàng làm việc với những thành phần trong các nhóm trung hữu và trung tả để thực hiện các cải cách ban đầu [chưa phải chung cuộc] trong quá trình chuyển hóa xã hội. Như lịch sử luôn chứng tỏ, đó là cách duy nhất để đem lại thay đổi trong hệ thống Hoa Kỳ. Qua thời gian, các cải cách như An Sinh Xã Hội, Bảo Hiểm Ý Tế, Quyền Bầu Cử... tập hợp lại, có thể tương đương với một hình thức cách mạng, thành công mà không đổ máu, không đạp đổ trật tự, hủy hoại tài sản hay các định chế thiết yếu. Một giả thiết hay lý giải duy lý, về khuynh hướng sẵn sàng thỏa hiệp của chính quyền Obama đối với những hứa hẹn trong quá trình vận động tuyển cử 2008, có thể là, trong địa vị tổng thống, hiện thời Obama đang đợi thời cơ. Obama chấp nhận những thỏa hiệp tốt nhất hiện có. Tuy nhiên, dân Mỹ có quyền chờ đợi, một khi tái đắc cử vào năm 2012, tổng thống phải vun quén, trên nền móng đã tạo dựng được trong nhiệm kỳ đầu, các thay đổi căn bản khả thi trong hệ thống hiện hữu. Điều nầy rất giống với chiến lược của FDR trong nhiệm kỳ hai và là điều rất có ý nghĩa khi chúng ta xét bản chất của đảng đối lập Obama đang đối diện hiện nay và khả năng phe nầy sẽ tự đánh mất uy tín, nếu đảng Dân Chủ giành được quyền kiểm soát một hoặc cả hai viện vào kỳ bầu cử giữa kỳ 2010. Tuy nhiên, để thành công, 2013 sẽ phải đạt được nhiều đổi thay cấp tiến hơn 2009, và điều nầy đòi hỏi đội ngũ cấp tiến của Obama phải làm việc hết mình. THÀNH TÍCH TRONG BỐI CẢNH ĐỐI NGHỊCH Nếu tả phái không ít nhiều bất mãn với Barack Obama, tả phái không còn là tả phái. Trước tình trạng bất lực và mục rữa - thừa kế từ kỷ nguyên Bush với kỷ luật phe phái chặt chẻ của đảng Cộng Hòa và Tối Cao Pháp Viện Roberts, và ảnh hưởng của các nhóm vận động hành lang - người ta phải ngạc nhiên tổng thống Obama cũng đã thực hiện được nhiều điều có ý nghĩa. Trước bấy nhiêu trở ngại cơ cấu và ý thức hệ, các sử gia cấp tiến rất có thể phải khâm phục Obama và phe Dân chủ trước các thành công như luật bảo hiểm y tế, gói kích cầu lớn lao, và luật giám sát tài chánh khá chặt chẽ... Tuy vậy, khi nghị sĩ Richard Durbin thú nhận các chủ nhân ông trong hệ thống ngân hàng quả thật đã sở hữu ngành lập pháp hùng mạnh nhất thế giới, ông ta đã phản ảnh đúng đắn trình độ khủng hoảng nghiêm trọng cuả hệ thống chính trị Hoa Kỳ hiện nay. Mười tám tháng trước đây, nhiều người nghĩ nhiệm kỳ tổng thống của Obama có thể sánh với những thành tựu trong nhiệm kỳ đầu của Franklin D. Roosevelt và Lyndon B. Johnson trong những ngày hoàng đạo của Đại Xã Hội [Great Society]. Ngày nay, trước bối cảnh chính trị vừa nói, người ta chỉ có quyền hy vọng Obama có thể trung hòa hóa thế tấn công của đảng Cộng Hòa, đủ để tái đắc cử thêm bốn năm. Phương thức đối phó với thực tế cay nghiệt nầy không phải ta thán Obama đã không xứng đáng với ước vọng thiết tha nhất của cử tri. Trong những ngày hăng say của năm 2008, nhiều người ủng hộ Barack Obama đã không hiểu được rằng những lời vận động hùng biện của Obama khó thể thay thế được phong trào quần chúng. Cả hai tổng thống FDR và LBJ đã đáp ứng kịp thời sự trỗi dậy mạnh mẽ của phái tả: lao động kỹ nghệ đối với Roosevelt, tự do và dân quyền của dân da đen đối với Johnson. Các phong trào nầy đã âm ỉ trong nhiều thập kỷ trước khi trỗi dậy như một lực lượng có thể đem lại thành công hay thất bại của một tổng thống. Kể từ ngày phong trào phụ nữ bùng dậy trong thập kỷ 1970s, người Mỹ đã trải nghiệm vài cuộc vận động của quần chúng: những cuộc vận động thành công như chống phân biệt chủng tộc; vận động thất bại như cuộc thánh chiến chống lại bất công kinh tế toàn cầu; và vài cuộc vận động đang dang dở như biến đổi khí hậu, hôn nhân đồng tính. Tuy nhiên, người Mỹ chưa chứng kiến một cuộc vận động quần chúng, chưa nói gì đến một phong trào, có thể góp phần giải quyết vấn đề đối nội trung tâm của thời đại: hố cách biệt giàu nghèo ngày một sâu rộng về lợi tức, giáo dục, và y tế, giữa tầng lớp thượng lưu và đại đa số dân lao động Mỹ. Đề tài đã được phân tích rất nhiều trong các tạp chí định kỳ và các websites tả phái. Nhưng muốn chuyển đổi thành một nghị trình không thể tránh né, tổ chức một phong trào huy động được hàng triệu người quan tâm tham gia là một điều kiện không thể thiếu. Với phong trào nghiệp đoàn trong khu vực tư hầu như tắt lịm, người ta chưa thấy tổ chức nào có đủ uy tín và khả năng tổ chức để đảm nhiệm. Tuy nhiên, trong khi phe tả chưa thể huy động ngay một phong trào cần thiết, họ vẫn có thể làm sống lại truyền thống nói lên một cách khẩn cấp, khả tín, và đạo đức, nhu cầu cần có các chính sách phục vụ đa số dân Mỹ. Nhiều nhà quan sát nhận thức được sự ám ảnh với ý thức hệ của phe George W. Bush. Bối cảnh chính trị và xã hội thuận lợi cho phe Cộng Hòa cực hữu, ít ra cho đến tai họa Katrina, là ý thức hệ nầy đã giữ vai trò áp đảo trong nhiều thập kỷ. Đối với đa số dân Mỹ trong thời gian đó, ý niệm giảm thuế và gở bỏ mọi biện pháp giám sát là chuyện đương nhiên phải làm. Trong những bức xúc của chính quyền Obama, những ý niệm đó một lần nữa đang giữ vai trò áp đảo. Trong tháng 7-2010, Don Blankenship, ở West Virginia, đã nói với cử tọa tại Câu Lạc Bộ Báo Chí Quốc Gia: "theo ý tôi các công ty kinh doanh là những tổ chức đã xây dựng nên nước Mỹ, và chúng ta cần để cho các doanh nghiệp phát triển, nói một cách khác, phải để các doanh nghiệp hoàn toàn tự do"[12]. Ý niệm đáng kinh tởm đó, và thế giới quan đứng đằng sau, cần được phổ biến càng sâu rộng càng tốt. Phe cấp tiến và đồng minh trong tòa Bạch Ốc có một lợi điểm so với nhóm nầy: không giống như thời hoàng kim của chủ nghĩa Reaganism, phe hữu ở Hoa Kỳ hiện không thể đưa ra một giải pháp đứng đắn nào cho các vấn đề khó khăn đối diện người Mỹ và thế giới. Ngược lại, đảng Cộng Hòa và phong trào bảo thủ đang chạy theo sự lãnh đạo của Glenn Beck và Sarah Palin, những người đang sống trong ảo tưởng. Phe tả cần những thành viên - xuất thân từ các thành phố có nhiều công xưởng lâu đời và các khu ngoại ô trước đây và hiện đang phát triển nhanh như Manhattan và Berkeley - có thể liên tục phổ biến sự kiện đó theo những phương thức sáng tạo. Trước những trở lực lớn lao, Obama và đảng Dân chủ đã thành đạt được nhiều cải cách quan trọng: họ đã tách các chương trình tín dụng cấp đại học khỏi nanh vuốt các ngân hàng, cải thiện quỹ tín dụng cho các sinh viên thuộc các gia đình nghèo và trung lưu; các khung pháp chế giám sát các định chế tài chánh xảo quyệt ở Wall Street; sử dụng các quy lệ hành pháp để cải thiện quyền công nhân và thúc đẩy các biện pháp cải thiện môi sinh; nhất là cải cách y tế sâu rộng mang tính tái phân phối về hai phương diện kinh tế và xã hội kể từ thời New Deal. Luật Y Tế Affordable Care cuối cùng đã được Quốc Hội biểu quyết và Tổng Thống Obama ban hành năm 2010 là một phản ứng trước sự chênh lệch ngày một gia tăng trong những thập kỷ gần đây. Cánh hữu đang có lý do để âu lo trước cải cách y tế: đặt nền móng cho một quốc gia trên đường ngày một dân chủ, công bình hơn, qua những biện pháp quy định và tái phân lợi tức, để trợ giúp những thành phần kém may mắn hơn trong xã hội. Cuộc bầu cử giữa kỳ sắp tới rất quan trọng. Nếu phe Cộng Hòa cánh hữu thắng, những cải cách mang tính chuyển hóa đối với hàng triệu người Mỹ sẽ bị đảo ngược. Điều giới cấp tiến cần tránh là hờn dỗi, tiếc nuối những gì không thành đạt được trong hai năm 2009-2010, và đánh giá thấp các thắng lợi như cải cách y tế mang tính dân chủ và tái phân lợi tức lớn lao, một thành tích cần được bảo vệ, củng cố và triển khai. Nếu thành công, chỉ cải cách nầy cũng đã giúp xã hội ngày một đạo đức và công bằng hơn. Tác động chính trị sẽ đến khi các cử tri trẻ tuổi kém may mắn hiểu được những gì đã gặt hái được và bỏ phiếu bảo vệ và tăng cường các thành quả gần đây. Đó là phương cách các thay đổi cấp tiến đã diễn ra với chương trình An Sinh Xã Hội, một chương trình cần nhiều thời gian để thực thi, liên tục cải tiến, và trở thành nền móng dân chủ trong xã hội Mỹ , với lá phiếu bảo vệ của các công dân lão thành kém may mắn. Kể từ thập kỷ 1960s, giới cấp tiến ở Hoa Kỳ luôn lưu tâm đến các chính sách đối ngoại, chủng tộc, giới tính, các đề tài văn hóa và môi sinh, và không mấy quan tâm đến các vấn đề xã hội và tái phân lợi tức. Chính vì vậy, người ta có lẽ hiểu được đối với nhiều người cấp tiến thuộc giới trung lưu cao cấp , tập trung trong vùng duyên hải phía Đông và phía Tây, hai năm vừa qua xem như đã thất bại. Obama đã không thể thuyết phục Quốc Hội thông qua các chính sách giới cấp tiến thiết tha. Tòa Bạch Ốc đã phải lựa chọn, trong thời gian ngắn ngủi cuả nhiệm kỳ đầu, tập trung vào những gì có nhiều cơ may thành công. Và chính quyền Obama đã thành công với cải cách y tế và một số biện pháp có tầm quan trọng về kinh tế - tóm lại, những gì đem lại một thay đổi dài lâu đối với hàng triệu người dân bình thường. Thất bại chính của Obama là kinh tế. Nhiệm kỳ tổng thống của Obama bị đảo lộn bởi cuộc khủng hoảng tài chánh - một trong những tai họa thừa hưởng từ những năm tai họa của Bush. Rất có thể khó tránh được việc đa số người Mỹ đã lẫn lộn gói cứu trợ lưỡng đảng và do Bush khởi động, dành cho Wall Street, với Luật Tái Đầu Tư và Phục Hồi Hoa Kỳ - American Recovery and Reinvestment Act. Và quả là một tai họa cho Obama đã phải bắt đầu nhiệm kỳ tổng thống khi nền kinh tế đang sụp đổ thay vì như FDR lên cầm quyền năm 1933 sau khi khủng hoảng kinh tế đã xuống đáy vực và bắt đầu đi lên. Điều Obama lẽ ra đã có thể làm là phải bạo dạn giải thích cho người Mỹ những gì chính quyền cần làm để đem lại đủ công ăn việc làm cho dân Mỹ trong thập kỷ nầy. Obama đã không làm được việc đó, và nay có thể đã quá muộn. Obama và đảng Dân chủ đang đối diện với hai cuộc bầu cử cực kỳ gay go trong năm 2010 và 2012. Họ xứng đáng được giới cấp tiến ủng hộ. Người Mỹ cần phấn chấn hơn, động viên các cử tri, trợ giúp những công dân bị thương tổn trong suy thoái, và phải tích cực phát động một phong trào quần chúng để yểm trợ. Nếu tránh được tai họa trong cuộc bầu cử giữa kỳ, phe tả một lần nữa sẽ có cơ may tiếp tục nghị trình thay đổi và cải cách xã hội mong đợi. GS Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 18-9-2010 [1] ...pledge to prochoice voters to "make preserving women's rights under Roe v. Wade a priority as president. [2] prochoice voters. [3] ...any plan I sign must include an insurance exchange...including a public option. [4] ...finally deliver on the campaign promises made by John McCain. [5] ...he [Obama] and his allies in the Democratic Party "just overplayed their hand in the last year and a half, moving policy too far left, sparking an equal and opposite reaction in the rightward direction. [6] ...the most radical president in American history, and potentially the most dangerous... [7] ...He urges his minions to resist the president's "secular, socialist machine". [8] Obama is a liberal who's always willing to cut a deal and grab for half of the loaf. He has the policy preferences of a progressive blogger, but the governing style of a seasoned Beltway wheeler-dealer. [9] Obama took office under an extraordinary burden of problems created by President George W. Bush's ineptness and blind ideology. [10] The ideology of Wall Street - that unfettered innovation and unregulated financial markets were good for America and the world - became the consensus position in Washington on both sides of the political aisle. [11] The government is best which governs least. [12] Corporate business is what built America, in my opinion, and we need to let it thrive by, in a sense, leaving it alone.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 7:06:26 GMT 9
Chiến Lược An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ & Thế Giới Thời Hậu Chiến Tranh Lạnh Vietsciences- Nguyễn Trường Trong cuốn Bá Quyền hay Thượng Tồn, Sự Tìm Kiếm Vai Trò Khống Chế Toàn Cầu của Hoa Kỳ[1], Noam Chomsky, giáo sư ngữ học và triết lý Viện Đại Học Kỹ Thuật Massachusset (MIT), đã viết:"Lịch sử đầy dẫy những trường hợp các nhà lãnh đạo luôn sẵn sàng đe dọa hoặc dùng bạo lực khi đối diện với bất trắc đại họa. Nhưng ngày nay, cái giá phải trả thật quá cao. Sự lựa chọn giữa bá quyền và thượng tồn hiếm khi hay chưa hề được đặt ra rõ ràng như thế"[2]. Theo những tài liệu do Văn Khố An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ(National Security Archive) giải mật, liên quan đến Kế Hoạch Hành Động Hội Nhập Thống Nhất (Single Integrated Operational Plan-SIOP), ngày nay chúng ta được biết, cách đây hơn 40 năm, bộ tư lệnh quân sự tối cao Hoa Kỳ đã soạn thảo và đã được cấp lãnh đạo dân sự chấp thuận kế hoạch tấn công chặn đầu (first strike), nhằm phóng trên 3.200 đầu đạn nguyên tử đến 1.060 mục tiêu trong các xứ thuộc khối cộng sản. Theo con số chính thức, nếu được thực hiện, ít ra 130 thành phố có thể đã bị tiêu hủy, 285 triệu tử vong, 40 triệu người bị thương - và vài chuyên gia quân sự còn lo ngại những hậu quả thương vong lớn lao do phóng xạ ngay trên đất Mỹ. Trong một thế giới đầy những bí ẩn đế quốc, một cuộc tấn công như vậy có nghĩa: không phải vì lẽ sống còn mà vì tham vọng bá chủ. Trong thực tế, cho đến nay chúng ta luôn chung sống với một SIOP như vậy. Sức tàn phá của SIOP hiện nay kinh hoàng như thế nào vẫn còn là một bí mật tuyệt đối. Condoleezza Rice I. CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA HOA KỲ: Trong cuốn Bá Quyền hay Thượng Tồn, Chomsky trở lại đề tài thống trị và số phận con người, điểm lại những phương cách theo đó chính quyền Bush đã nâng vũ lực lên hàng nguyên tắc bên trên mọi thứ, do đó, đã khiến khủng bố lan tràn, bạo lực gia tăng, và gây nguy cơ cho sự trường tồn của nhân loại. Colin Powell Như Colin Powell đã giải thích Chiến Lược An Ninh Quốc Gia (National Security Strategy - NSS) của Hoa Kỳ trước một cử tọa đối nghịch tại Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới (World Economic Forum), Hoa Thịnh Đốn "có toàn quyền sử dụng vũ lực để tự vệ"[3]đối với các quốc gia sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) và hợp tác với khủng bố - những lý do chính thức để xâm lăng Iraq. Cho đến nay, như mọi người đều biết, các lý do đưa ra là hoàn toàn ngụy tạo. Tuy nhiên, rất ít ai lưu tâm đến hậu quả quan trọng nhất của nó: NSS đã được sửa đổi để hạ thấp tiêu chí tấn công gây chiến. Bằng cớ liên hệ với khủng bố không còn cần thiết nữa. Bush và phe nhóm còn tuyên bố quyền sử dụng vũ lực đối với một xứ dù không sở hữu WMD hay ngay cả không có chương trình khai triển loại vũ khí nầy. Chỉ cần xứ đó có "ý định và khả năng"(intent and ability) chế tạo là đủ. Đã hẳn, gần như bất cứ xứ nào cũng có khả năng nầy, và "ý định" thì ai muốn nói sao cũng được (in the eyes of the beholder). Tóm lại, theo NSS được sửa đổi, bất cứ xứ nào cũng có thể bị Hoa Kỳ tấn công. Colin Powell còn đi xa hơn trong việc tái thẩm định. Powell nói: "T T Bush đã đúng khi tấn công Iraq vì Saddam chẳng những có "ý định và khả năng", mà trong thực tế, đã sử dụng những vũ khí ghê tởm đó trong cuộc chiến Iran-Iraq và ngay cả với thần dân của chính ông", dĩ nhiên Powell đã cố tình không nhắc đến - "với sự đồng tình và liên tục hỗ trợ của chính Powell và các cộng sự". Condoleezza Rice cũng cùng chung lập luận. Trong khi lúng túng tìm cách biện minh, lý do xâm chiếm rõ ràng nhất mà chính quyền Bush luôn tìm cách che giấu: thiết lập những căn cứ quân sự an toàn trong một xứ chư hầu ngay trung tâm tài nguyên dầu khí lớn hàng đầu thế giới - loại tài nguyên đã được xem như nguồn quyền lực chiến lược lớn lao ngay từ Đệ Nhị Thế chiến, và ngày một quan trọng hơn trong tương lai. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi tin tức tiết lộ ra bên ngoài cho biết chính quyền Bush đã có chương trình tấn công Iraq trước cả biến cố 11-9, và đã xếp cuộc chiến chống khủng bố xuống hàng thứ yếu. Trong các cuộc thảo luận nội bộ, sự lẫn tránh không còn cần thiết. Ngay trước ngày dọn vào Tòa Bạch Ốc, Bush đã đồng ý: "nhu cầu một sự hiện diện quân sự hùng hậu ở Vùng Vịnh được dành ưu tiên cao hơn là vấn đề chế độ Saddam Hussein"[4]. Với những đổi thay trong chính sách từ ngày nhóm quan chức lãnh đạo hiện nay lần đầu tiên tham gia chính quyền vào năm 1981, một nguyên tắc hướng đạo luôn được giữ nguyên - dân Iraq không được quyền làm chủ Iraq Chiến Lược An Ninh Quốc Gia (NSS) 2002, và việc áp dụng chiến lược nầy vào Iraq được nhiều quan chức xem như một bước ngoặc trong quan hệ quốc tế. "Chiến lược mới mang tính cách mạng"(The new approach is revolutionary), Henry Kissinger viết, chấp thuận chủ thuyết mới với một vài dè dặt chiến thuật và một điều kiện căn bản: đây không thể là "một nguyên tắc phổ quát áp dụng cho mọi quốc gia"(...a universal principle available to every nation). Quyền xâm lăng chỉ dành riêng cho Hoa Kỳ và có lẽ một vài "đồng minh" do Hoa Kỳ lựa chọn. Hoa Kỳ phải loại bỏ yếu tố sơ đẳng nhất của chân lý đạo đức căn bản (moral truisms): nguyên tắc phổ quát - một lập trường thường được che giấu dưới những thuật ngữ "dụng ý tốt"(virtuous intent) và "vỏ pháp lý méo mó"(tortured legalisms). Arthur Schlesinger cũng đồng ý là chiến lược mới và cách thể hiện chiến lược nầy mang tính cách mạng, nhưng từ một góc độ hoàn toàn khác. Khi những quả bom đầu tiên rơi xuống Baghdad, Schlesinger nhớ lại lời nói của T T F.D.Roosevelt sau khi Trân Châu Cảng bị người Nhật tấn công: "một ngày sẽ sống mãi trong ô nhục"(a day which will live in infamy). Ngày nay, chính người Mỹ là người đang sống trong ô nhục , vì như Schlesinger viết, chính phủ Hoa Kỳ đang làm theo chính sách của đế quốc Nhật. Ông nói thêm, George Bush đã cải biến một làn sóng thông cảm toàn cầu ( a global wave of sympathy) dành cho Hoa Kỳ thành một làn sóng uất hận toàn cầu đối với thái độ kiêu căng và chính sách dựa trên vũ lực của Mỹ (a global wave of hatred of American arrogance and militarism) Năm năm sau, sự căm hờn người Mỹ và các chính sách của Mỹ đã ngày một gia tăng thay vì giảm bớt. Ngay ở Anh quốc, sự ủng hộ cuộc chiến cũng ngày một giảm bớt đi nhiều. bin LadenNhư nhiều người đã tiên liệu, cuộc chiến đã làm gia tăng hiểm họa khủng bố. Theo Fawaz Gerges, chuyên gia về Trung Đông, "thật là một điều khó tin khi cuộc chiến đã làm sống lại sức lôi cuốn của phong trào thánh chiến Hồi giáo toàn cầu, một phong trào đã thực sự yếu thế sau biến cố 11-9"[5]. Số thành viên trong mạng lưới Al Qaeda đã gia tăng; Iraq lần đầu tiên đã trở thành "nơi trú ẩn an toàn của khủng bố"(a terrorist haven). Các cuộc tấn công cảm tử - Iraq đã trải nghiệm lần đầu vào thế kỷ 13 - nay tái diễn ngày một nhiều hơn từ giữa năm 2003. Cuộc chiến cũng đã đưa đến tình trạng WMD ngày một lan tràn. Gần một năm sau 11-9, cảnh sát trang bị vũ khí tự động đã phải tuần tiểu ga xe lửa Grand Central Station ở New York, một phản ứng sau vụ xe lửa ở Madrid, Tây Ban Nha, bị nổ bom ngày 11-3-2004, gây một số thương vong trên 200 người trong một vụ khủng bố tồi tệ nhất Âu châu. Vài ngày sau, cử tri Tây Ban Nha đã bỏ phiếu thay đổi chính quyền đương nhiệm vì đã tham gia cuộc chiến trước sự chống đối của đại đa số dân chúng. Nhân dân Tây Ban Nha cũng bị buộc tội đã không đủ cương quyết trong cuộc chiến chống khủng bố khi bỏ phiếu quyết định rút quân khỏi Iraq mặc dù chưa có sự chấp thuận của LHQ, một lập trường tương đương với sự kiện 70% dân Hoa Kỳ đã kêu gọi LHQ phải đảm nhiệm vai trò lãnh đạo ở Iraq. Bush quả quyết với nhân dân Mỹ, "thế giới ngày nay đã an ninh hơn, vì ở Iraq , liên quân đã kết liễu một chế độ đã dung dưởng khủng bố và chế tạo WMD"[6]. Các cố vấn của Tổng Thống đều hiểu rõ lời nói đó hoàn toàn dối trá, nhưng họ cũng tin sự dối trá của Tổng Thống có thể trở thành "chân lý"(Truth) nếu cứ được kiên trì lặp đi lặp lại. Các chuyên gia đồng ý với nhau về những phương thức giảm thiểu nạn khủng bố cũng như những điều khiến nạn khủng bố ngày một trầm trọng hơn. Sự đồng tình nầy đã được Jason Burke diễn đạt một cách mạch lạc trong một công trình nghiên cứu về hiện tượng Al Qaeda - một cuộc điều tra tỉ mỉ và rỏ ràng về một tổ chức lỏng lẻo của các tín đồ Hồi giáo cực đoan. Đối với những tín đồ nầy, bin Laden chỉ là một biểu tượng - một biểu tượng hết sức nguy hiểm nếu bị giết, có thể trở thành một vị tử vì đạo, , do đó lôi cuốn được nhiều người khác gia nhập phong trào. Khi còn dưới trướng của Reagan, vai trò của số lãnh đạo hiện nay trong việc ra đời của mạng lưới Hồi giáo quá khích là một điều đã được nhiều người biết rõ. Điều ít người biết đến là việc họ đã để Pakistan dần dà trở thành một xứ Hồi giáo cực đoan và khai triển các vũ khí nguyên tử.do đó lôi cuốn được nhiều người khác gia nhập phong trào. Khi còn dưới trướng của Reagan, vai trò của số lãnh đạo hiện nay trong việc ra đời của mạng lưới Hồi giáo quá khích là một điều đã được nhiều người biết rõ. Điều ít người biết đến là việc họ đã để Pakistan dần dà trở thành một xứ Hồi giáo cực đoan và khai triển các vũ khí nguyên tử. Như Burke đã ghi lại, việc T T Clinton bỏ bom Sudan và Afghanistan năm 1998 đã giúp tạo ra bin Laden-biểu tượng, đưa đến sự liên kết chặt chẻ giữa ông ta và phong trào Taliban, làm gia tăng hậu thuẩn, tuyển mộ, và tài trợ cho Al Qaeda, một tổ chức cho đến thời điểm đó gần như chẳng ai biết. Một sự đóng góp kế tiếp cho sự lớn mạnh của Al Qaeda và danh tiếng của bin Laden là viêc George W. Bush oanh tạc Afghanistan sau biến cố 11-9 mà chẳng có một duyên cớ khả tín, như đã được kín đáo thú nhận sau đó. Cuộc xâm lăng Iraq cũng đã đưa đến những hậu quả tương tự. Đưa ra những bằng chứng cụ thể, Burke kết luận: "Mỗi lần dùng bạo lực là một dịp bin Laden có thêm một thắng lợi nhỏ"[7]. Ông ta đang thắng dù sống hay chết. Nhiều nhà phân tích, kể cả những người cầm đầu ngành tình báo Do Thái, cũng đồng tình như thế. Nhiều chuyên gia đã đồng ý một cách đại cương về phương thức thích hợp để đối phó với khủng bố . Phương thức gồm hai mủi nhọn: (1) Nhằm trực tiếp các đối tượng khủng bố; (2) nhằm các tiềm lực cung cấp hỗ trợ . Phương thức đối phó với khủng bố thích hợp nhất là các biện pháp cảnh sát, như nhiều nơi trên thế giới đã từng trải nghiệm. Điều quan trọng hơn là cơ sở quần chúng mà các tổ chức khủng bố - những người tự xem như đội tiền phong - đang tìm cách vận dụng, kể cả những ai ghét bỏ và kinh sợ họ nhưng vẫn tin họ đang chiến đấu vì chính nghĩa. Bằng bạo lực, chúng ta có thể vô tình tiếp tay cho các tổ chức nầy động viên các tiềm lực hỗ trợ vừa nói. Hoặc chúng ta có thể giúp giải quyết những bức xúc, bất bình, nhiều khi rất chính đáng, của quần chúng - thường là căn nguyên của thái độ đối kháng của khối Hồi giáo hiện nay. Điều đó có thể giúp làm giảm bớt nguy cơ khủng bố rất nhiều. Bạo lực có thể đưa đến thành công, nhưng thường với một giá rất đắt, như người Mỹ đã từng trải nghiệm qua lịch sử lập quốc khi xâm chiếm lãnh thổ và tàn sát dân da đỏ bản địa (Indians). Như một vòng lẩn quẩn, bạo lực thường đưa đến bạo lực. Khủng bố gia tăng cũng chỉ là một biểu hiện. Nhiều phản ứng khác còn nguy hại hơn nhiều. Tháng 2-2004, Liên Bang Nga đã tổ chức nhiều cuộc tập trận lớn nhất trong vòng hai thập kỷ, trình diễn nhiều WMD hiện đại. Các tướng lãnh Nga và Bộ trưởng Quốc Phòng Sergei Ivanov loan báo, nước Nga sẽ đáp ứng những kế hoạch của Hoa Thịnh Đốn nhằm dùng vũ khí nguyên tử làm phương tiện giải quyết các mục đích quân sự, kể cả việc khai triển các vũ khí nguyên tử mới có sức công phá thấp, một khuynh hướng cực kỳ nguy hiểm phương hại đến tình trạng ổn định khu vực và toàn cầu, ...hạ thấp tiêu chí sử dụng các vũ khí tối nguy hiểm nầy. Theo Bruce Blair, một nhà phân tích chiến lược, Nga hiểu rất rõ loại bom công phá các hầm trú ẩn "bunker busters" được thiết kế nhằm các hầm trú ẩn của các tư lệnh nguyên tử cao cấp có nhiệm vụ kiểm soát các kho vũ khí nguyên tử. Ivanov và các tướng lãnh Nga cho biết, để đáp lại sự leo thang của Mỹ, họ đang triển khai "loại hỏa tiễn hiện đại nhất thế giới", hầu như bất khả hủy diệt - một việc, theo nguyên Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ, Phil Coyle, "rất đáng lo ngại đối với Ngũ Giác Đài"[8]. Các nhà phân tích Hoa Kỳ lo ngại Nga cũng có thể triển khai các hỏa tiễn siêu âm có khả năng tái nhập vào khí quyển từ thượng tầng không gian và mở các cuộc tấn công bất thần. Đó chính là một phần trong kế hoạch hiện nay của Hoa Kỳ, nhằm giảm bớt sự lệ thuộc vào các căn cứ ở hải ngoại hoặc vào việc thương thảo sử dụng không phận của các xứ đồng minh. Các nhà phân tích Mỹ ước tính chi tiêu quốc phòng của Nga đã gia tăng gấp ba trong nhiệm kỳ của hai Tổng Thống Bush-Putin, một phản ứng dễ hiểu đối với chính sách hiếu chiến của chính quyền Bush. Putin và Ivanov đã viện dẫn lý do chủ thuyết chiến tranh phòng ngừa hay đánh phủ đầu của Bush (Bush doctrine of preemptive strike), một chủ thuyết mới, mang tính cách mạng trong Chiến Lược An Ninh Quốc Gia của Hoa Kỳ. Putin và Ivanov còn thêm một chi tiết then chốt: lực lượng quân sự có thể được sử dụng nếu có kế hoạch giới hạn quyền tiếp cận các khu vực thiết yếu cho sự trường tồn của Liên Bang Nga. Đây chính là một quyết định theo đúng chủ thuyết Clinton - Hoa Kỳ có quyền đơn phương sử dụng vũ lực để bảo đảm quyền tự do tiếp cận không hạn chế các thị trường then chốt, các nguồn cung cấp năng lượng và các tài nguyên chiến lược. Theo Fiona Hill ở Brookings Institution, thế giới ngày nay càng thiếu an ninh khi Nga đã quyết định theo cách ứng xử của Hoa Kỳ. Nhiều nước khác chắc cũng thế. Trong quá khứ, hệ thống trả đủa tự động của Nga, có lần chỉ còn vài phút trước khi khởi động tấn công nguyên tử, đã được chận đứng nhờ sự can thiệp kịp thời của người hữu trách. Ngày nay những hệ thống nầy không còn khả tín. Những hệ thống của Mỹ đáng tin cậy hơn, nhưng cũng cực kỳ bất bênh nguy hiểm. Những hệ thống nầy cũng chỉ cho người hữu trách ba phút để quyết định sau khi máy vi tính báo động sắp bị tấn công, một điều thường xẩy ra. Theo Bruce Blair, Ngủ Giác Đai đã khám phá nhiều khiếm khuyết, nhược điểm, trong các hệ thống an ninh vi tính - có thể bị các phần tử phá hoại (terrorist hackers) xâm nhập, kiểm soát, và mô phổng một cuộc tấn công - một bất trắc có thể xẩy ra bất cứ lúc nào. Tình hình càng bất trắc hơn với những lời răn đe, hăm dọa dùng vũ lực. Người ta được biết, tai họa không hề được giảm bớt khi gần đây nhiều vị Tổng Thống Hoa Kỳ thường nhận được những thông tin sai lạc về hậu quả của chiến tranh nguyên tử. Mức độ tàn phá đã được đánh giá quá thấp "vì thiếu vắng hệ thống giám sát các viên chức có trách nhiệm đánh giá và phân tích chiếntranh-nguyêntử-hạnchế-khảthắng" name="_ftnref9" title href="#_ftn9">[9], đưa đến những tầm nhìn thiển cận mang tính tai họa, trầm trọng hơn cả sự nhào nặn tin tức tình báo về Iraq trước đây. , đưa đến những tầm nhìn thiển cận mang tính tai họa, trầm trọng hơn cả sự nhào nặn tin tức tình báo về Iraq trước đây. Chính quyền Bush đã bắt đầu lên kế hoạch khai triển hệ thống hỏa tiễn phòng vệ (missile defense system) từ mùa hè 2004, một hành động hoàn toàn mang tính chính trị, sử dụng một kỷ thuật quá tốn kém và chưa được thử nghiệm đầy đủ. Điều nguy hiểm là hệ thống có vẻ khả dĩ vận hành ; và trong lô gic của chiến tranh nguyên tử, điều quan trọng là nhận thức (perception). Các nhà hoạch định Mỹ lẫn những mục tiêu khả dĩ, đều xem hệ thống hỏa tiễn phòng vệ như những khí giới nguyên tử mang tính tấn công ngăn chặn , nhằm đem lại sự tự do tấn công, kể cả tấn công nguyên tử. Họ hiểu rõ phương thức Hoa Kỳ đối phó với việc người Nga triển khai một hệ thống ABM hạn chế vào năm 1968: hướng các vũ khí nguyên tử vào hệ thống ABM Nga với mục đích khống chế ngay tức khắc (instantly overwhelmed). Các nhà phân tích cảnh cáo kế hoạch hiện nay của Hoa Kỳ cũng sẽ đưa đến những phản ứng tương tự từ Trung Quốc. Lịch sử và lô gic của chiến lược ngăn đe (deterrence) nhắc nhở chúng ta là các hệ thống hỏa tiễn phòng vệ là lực mạnh mẽ thúc đẩy việc hoạch định tấn công nguyên tử. Sáng kiến của Bush một lần nữa nâng cao sự đe dọa, bất trắc, bất ổn và bất an cho nhân dân Mỹ và nhân loại. Phản ứng của Trung Quốc sẽ có ảnh huởng như những đợt sóng dồn dập lan dần qua Ấn Độ, Pakistan và nhiều nước lân cận. Ở Tây Á, Hoa Thịnh Đốn đang gây thêm bất ổn với hiểm họa nguyên tử và WMD của Do Thái. Hoa Kỳ đã cung cấp cho Do Thái hơn 100 pháo đài phản lực hiện đại nhất cùng với lời loan báo các phản lực cơ nầy có tầm hoạt động bay đến Iran và trở về, cũng như các phi cơ loại hiện đại nhất trước đây Do Thái đã từng sử dụng để phá hủy một lò phản ứng nguyên tử của Iraq năm 1981. Báo chí Do thái cũng tung tin Hoa Kỳ đã cung cấp cho không lực Do Thái một "loại vũ khí đặc biệt"(special weaponry). Đã hẳn cơ quan tình báo và nhà cầm quyền Iran đã theo dõi sít sao và đã dự liệu những tình huống xấu nhất: những vũ khí nguyên tử. Việc tiết lộ thông tin và chuyển giao các loại phản lực cơ hình như nhằm khích động giới lãnh đạo Tehran, với hy vọng Iran có thể phản ứng thiếu tỉnh táo, đem lại cho Hoa Thịnh Đốn cái cớ để tấn công. Ngay sau khi loan báo Chiến Lược An Ninh Quốc Gia mới vào tháng 9-2002, Hoa Kỳ đã hành động nhằm chấm dứt mọi thương nghị một hiệp định vũ khí sinh hóa khả thi và chận đứng mọi nổ lực quốc tế nhằm ngăn cấm chiến tranh sinh học và quân sự hóa ngoại tầng không gian. Một năm sau, tại Đại Hội Đồng LHQ, Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất đã bỏ phiếu chống việc thực thi Hiệp Định Cấm Thử Nghiệm Toàn Diện (Comprehensive Test Ban Treaty), và cùng với đồng minh mới Ấn Độ chống lại mọi nổ lực loại bỏ vũ khí nguyên tử. Hoa Kỳ cũng là quốc gia duy nhất bỏ phiếu chống lại "sự tuân thủ các chuẩn mực môi sinh"(observance of environmental norms) trong những thỏa ước giải trừ và kiểm soát vũ khí (disarmament and arms control agreements); và cùng với Do Thái và Micronesia chống lại các nổ lực ngăn ngừa sự lan tràn vũ khí nguyên tử ở Trung Đông - một cái cớ để xâm chiếm Iraq. Cũng cần nhắc lại quyết nghị ngăn ngừa quân sự hóa không gian đã được chấp thuận, với 174 phiếu thuận và bốn phiếu trắng (abstentions): Hoa Kỳ, Do Thái, Micronesia, và Quần Đảo Marshall. Như đã biết, một phiếu trắng hay phủ quyết của Hoa Kỳ có nghĩa tương đương với phiếu phủ quyết kép (double veto): nghị quyết không những bị chận đứng mà mọi dấu vết đều bị xóa khỏi phúc trình và lịch sử. Các nhà hoạch định của chính quyền Bush hiểu rất rõ là việc sử dụng vũ lực sẽ làm gia tăng khủng bố; thái độ và các hành động quân sự gây hấn sẽ gây nhiều phản ứng và làm gia tăng bất trắc tai họa. Họ không ước muốn những hậu quả như thế, nhưng xếp những hiểm tai nầy thấp hơn các nghị trình đối nội và đối ngoại mà họ chẳng cần tìm cách che giấu. II. CHỦ NGHĨA DÙNG VŨ LỰC VÀ SỰ SUY SỤP CỦA CHÍNH QUYỀN HIẾN ĐỊNH: Trong cuốn Nemesis, Chalmers Johnson bắt đầu duyệt lại lịch sử thăng trầm của một số đế quốc tiêu biểu trong thế kỷ 20, song song với trạng huống hiện nay của Hoa Kỳ. Tác giả đã viện dẫn trường hợp Anh, Xô Viết, Đức Quốc Xã, Nhật, và Ottomans. Theo Johnson, cũng như các nước trên và La Mã trước Công nguyên, người Mỹ "đang tới gần bờ vực thẳm và sắp rơi xuống vực"[10]. Ông cũng trích dẫn nổi âu lo của sử gia Kevin Baker : Hoa kỳ đang kề cận một cách nguy hiểm thời điểm Quốc Hội - giống như Thượng Viện La Mã vào năm 27 BC - sẽ sử dụng quyền hạn của mình lần chót trước khi trao trọn quyền cho một nhà độc tài. Dựa trên những diễn biến trong sáu năm vừa qua, người ta có thể tin nước Mỹ hiện đang nằm trong tay một nhà độc tài dân sự. Chính quyền Bush-Cheney đã đưa nước Mỹ vào tình cảnh khốn đốn hiện nay. Nhưng cuộc khủng hoảng không phải chỉ mới bắt đầu với Bush-Cheney. Nó đã khởi sự ngay từ khi Benjamin Franklin cảnh cáo: người Mỹ hiện có một nước Cộng Hòa nếu họ có thể giữ được nó. Cuộc khủng hoảng đã tăng dần nhưng chỉ gia tốc sau Đệ Nhị Thế Chiến khi chỉ có Hoa Kỳ là quốc gia hùng mạnh áp đảo duy nhất còn đứng vững và quyết tâm duy trì hiện trạng, để rồi phải đương đầu với những hối tiếc hiện nay - một Tổng Thống chế mang tính đế quốc; một cơ chế kiểm soát và quân bình và một cơ chế phân quyền bị xói mòn; và một nền văn hóa quân sự áp đảo không ai dám thách thức. Các nhà lập quốc (Founders) tìm cách ngăn ngừa một thể chế thực dân chuyên chế như dưới thời đại đế George III. Họ đã nghĩ ra một hệ thống chính quyền cộng hòa hiến định với định chế liên bang san sẻ quyền lực với các tiểu bang; phân quyền giữa ba ngành lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Hoa Thịnh Đốn khả dĩ kiểm soát và quân bình lẫn nhau, với quyền lực quan trọng nhất nằm trong tay Quốc Hội và tách khỏi tầm tay các Tổng Thống - quyền tuyên chiến. James Madison, Cha Đẻ của Hiến Pháp, đã nói rõ lý do: "Trong tất cả các kẻ thù của tự do, có lẽ chiến tranh là điều đáng sợ nhất, bởi lẽ nó hàm chứa và phát triển mầm móng của mọi thứ khác...(Trao) những thứ quyền đó (cho Tổng Thống) là điều không những làm rách nát cấu trúc của Hiến Pháp, mà ngay cả nền móng của mọi chính quyền được tổ chức và kiểm soát chặt chẻ"[11]. Lần cuối Quốc Hội sử dụng quyền duy nhất của mình là ngày 8-12-1941 sau khi người Nhật tấn công Trân Châu Cảng, và ngày 11-12-1941 sau khi Đức và Ý tuyên chiến với Hoa Kỳ. Hơn hai thế kỷ sau, ngày nay, lời cảnh cáo của Benjamin Franklin lại ám ảnh dân Mỹ hơn bao giờ hết, bởi lẽ cấu trúc hiến pháp của các nhà lập quốc đã gần như tan rã. Tổng Thống có nhiều quyền hạn hơn cả đế vương. Cùng với quân lực, Tổng Thống còn có cả một đội quân riêng dưới hình thức một tổ chức CIA bí mật, kiểm soát tất cả 15 tổ chức tình báo ngoại-hiến-pháp (extraconstitutional intelligence organizations). Tất cả, kể cả quân lực, đều không chịu trách nhiệm trước bất cứ ai, ngay cả với Quốc Hội, vì tất cả đều hoạt động trong vòng bí mật, với những ngân sách không được tiết lộ (một phần ngân sách của Ngủ Giác Đai cũng thế). Luật pháp quốc gia cũng chỉ là những văn bản ngoại vi (an artifact), không đủ hiệu lực khống chế hay chi phối.
|
|
|
Post by NhiHa on Nov 7, 2010 7:11:01 GMT 9
Chalmers Johnson đã duyệt lại những chiến dịch chống Iraq từ cuộc chiến vùng Vịnh 1991. Chiến tranh Iraq 1991, các biện pháp cấm vận giết người suốt 12 năm tiếp đó, và cuộc chiến từ 2003, tất cả đều vi phạm luật quốc tế và là những việc làm rõ rệt mang tính tội phạm chiến tranh và tội ác chống lại nhân loại. Nhưng quốc gia nào đủ vai vế để buộc tội siêu cường duy nhất của thế giới. Tổn thất gây ra cho nhân dân và xứ sở Iraq trong vòng 16 năm qua thật sự kinh hoàng. Chiến dịch của Mỹ đã hủy diệt một quốc gia từng phồn thịnh với một di sản vô giá, để lại đằng sau một vùng đất hoang tàn, những trại lính siêu thực vô luật pháp, thiếu vắng hoặc rất ít dịch vụ thiết yếu như điện, nước sạch, các cơ sở vệ sinh, y tế, năng lượng, và hầu hết mọi thứ cần thiết cho an sinh công cộng và trường tồn.
Johnson trích dẫn các chuyên viên về nạn hôi của tại Viện Bảo Tàng Quốc Gia Baghdad, nạn đốt phá Thư Viện và Văn Khố Quốc Gia, Thư Viện Korans thuộc Bộ Tôn Giáo, như những đại họa lớn lao nhất trong vòng 500 năm qua, nếu không nói được kể từ năm 1258 khi quân Mông Cổ chiếm đóng Baghdad. Donald Rumsfeld và Ngũ Giác Đai đã chú tâm bảo vệ Bộ Dầu Khí, nhưng không quan tâm gì đến những báu vật vô giá bị trộm cướp và đốt phá. Cả một "vũ trụ cổ vật" bị tiêu hủy, một điều không những người Iraq mà cả thế giới văn minh không bao giờ tha thứ.
Nói chung, cuộc chiến vùng Vịnh và các biện pháp cấm vận của Hoa Kỳ đã gây ra hơn 1.5 triệu tử vong tính đến tháng 3-2003, hơn 3.5 triệu người di tản lánh nạn bên trong cũng như bên ngoài Iraq. Thêm vào đó, theo kết quả nghiên cứu đã được công bố của tổ chức Lancet, cuộc xâm lăng Anh-Mỹ từ tháng 3-2003 đã làm hơn 655.000 tử vong tính đến giữa năm 2006, và còn cho biết con số thực sự có thể lên đến 900.000 bởi lẽ cán bộ đã không thể đến điều tra trong những vùng quá hổn loạn hay phỏng vấn hàng nghìn gia đinh đã bị tiêu diệt, hoàn toàn không còn dấu vết.
Cho đến nay, sự tàn phá do liên quân Anh-Mỹ gây ra cho nhân dân và xứ sở Iraq kể từ năm 1991 đã là một trong số tội phạm lớn lao nhất trong lịch sử nhân loại do chiến sự, chế tài, và chiếm đóng . Hậu quả còn tiếp tục gia tăng gấp bội, và chẳng có cách nào biết được con số thương, tử vong sẽ là bao nhiêu khi cuộc chiến chấm dứt. Một ngày nào đó cuộc chiến cũng sẽ chấm dứt vì lẽ người Iraq sẽ không ngừng chiến đấu cho đến khi giành lại được tự do cho chính mình. Trong khi chờ đợi, những thương vong, tàn phá của cuộc chiến không hề được các cơ quan truyền thông Hoa Kỳ phản ảnh; báo chí phương Tây cũng chẳng mấy quan tâm. Cho đến nay, chiến sự vẫn tiếp tục vì chính quyền Mỹ luôn theo đuổi mộng đế quốc, quân đội Mỹ chỉ chịu trách nhiệm trước các cấp chỉ huy trực tiếp tại mặt trận hoặc Ngũ Giác Đai, và khoảng 100.000 nhà thầu dân sự chỉ chịu trách nhiệm với chính họ.
Khía cạnh đen tối nhất của cuộc phiêu lưu là mạng lưới nhà tù quân sự Mỹ trên khắp thế giới, dưới quyền kiểm soát trực tiếp của Bộ Truởng Quốc Phòng và Ngũ Giác Đài. Tại đây, sự tra tấn, cả tinh thần lẫn thể chất, đã và đang diễn ra mặc dầu chẳng mang lại một thông tin hữu ích nào. Trong thực tế, theo nhận định của Chalmers Johnson, đó chỉ là một phương tiện kiểm soát xã hội, trả thù, và là một chính sách hạ thấp phẩm giá những phần tử chính quyền Mỹ xem như thấp kém hơn con người bình thường vì họ là người Arập da-không-đủ-trắng hay người Afghanistan Hồi giáo[17] . Đó cũng là hành động phản ảnh sự khinh mạn siêu cường, coi thường cộng đồng quốc tế, thách thức tất cả mọi người. Luật lệ quốc tế căn cứ trên các Thỏa Ước Geneva và Thỏa Ước LHQ chống Tra Tấn và Đối Xử Tàn Nhẫn, Vô Nhân Đạo, hay Nhục Mạ, chẳng còn ý nghĩa gì đối với chúa tể của vũ trụ. Hoa Kỳ là một quốc gia thành viên của các Thỏa Ước vừa kể. Nhưng điều đó chẳng ăn nhằm gì đối với các luật sư khôn lanh, ranh mảnh , và các vị Bộ Trưởng Tư Pháp ngoài vòng pháp luật khi họ soạn thảo hay sửa đổi các quy luật tác chiến (rewrite the rules of engagement).
III. PAX AMERICANA TRONG THỜI HẬU CHIẾN TRANH LẠNH:
Chalmers Johnson đã phân tích hai nguyên do lịch sử đã đưa đến sự sụp đổ của Đế Quốc La Mã: chủ nghia đế quốc và chính sách dùng vũ lực (Imperialism and militarism). Tác giã ghi nhận, sau khi thảm bại trong tay kiện tướng thành Carthage, Hannibal, năm 216 BC, ngưới La Mã thề sẽ không bao giờ để một cường quốc Địa Trung Hải nào trổi dậy khả dĩ thách thức sự trường tồn của mình và quyết tâm dùng chiến tranh phòng ngừa chống lại bất cứ một quốc gia đối nghịch nào toan tính như thế.
Đó cũng là ý niệm của Paul Wolfowitz trong cương vị Phụ Tá Bộ Truởng Quốc Phòng trong chính quyền George H.W. Bush năm 1992, một ý niệm Wolfowitz đã đem ra thực thi trong cương vị Thứ Truởng Quốc Phòng năm 2001 và đã trở thành một phần của Chiến Lược An Ninh Quốc Gia 2002. Đó cũng là một viễn kiến hoang tuởng xa xưa của người La Mã, mệnh danh Pax Romana, và sau Đệ Nhị Thế Chiến đã trở thành Pax Americana, với ảo tuởng giữ địa vị bá chủ không cho phép bất cứ quốc gia nào cạnh tranh, và sẵn sàng dùng chiến tranh phòng ngừa để thành đạt mục tiêu mong muốn.
Johnson giải thích, sau khi Julius Caesar bị ám sát ngay giữa Thượng Viện La Mã năm 44 BC, người cháu nuôi Octavian lên thay thế. Sau khi được Thượng Viện La Mã trao toàn quyền và phong làm quốc vương, Octavian, với tước hiệu Augustus Caesar, đã biến Thượng Viện thành một câu lạc bộ quý tộc hữu danh vô thực, và thể chế Cộng Hòa La Mã cáo chung.
Trường hợp Đức Quốc Xã cũng tương tự. Ngày 30-01-1933, cơ quan lập pháp Đức Reichstag đã bầu Adolph Hitler làm Quốc Truởng - Reichschancellor. Ngày 23-3-1933, Quốc Hội thông qua Đạo Luật Cứu Chửa Tình Trạng Khốn Cùng của Nhân Dân (Enabling Act or Law to Remedy the Distress of the People). Từ đó, thể chế độc tài Quốc Xã ra đời và Cộng Hòa Weimar cáo chung. Hitler nắm trong tay quyền hành tuyệt đối, làm luật, sửa đổi hiến pháp. Quốc Hội trở thành bất lực, hửu danh vô thực. Một năm sau, Hitler trở thành một lãnh tụ độc tài trong suốt 12 năm sau đó.
Cũng như Đức Quốc Xã, La Mã đã không thích ứng được với những hậu quả bất ngờ của chủ nghia đế quốc, hình thức Chính quyền Cộng Hòa đã phải nhường chỗ cho thể chế độc tài. Dưới quyền trị vì của quốc vương, hiến pháp mất hết hiệu lực, người dân đánh mất nhân quyền cũng như quyền dân sự. Những thắng lợi quân sự đã đem lại giàu có cho giới lãnh đạo ngày một kiêu căng, dẫn đến tình trạng Chalmers Johnson mô tả: "trường hợp điển hình đầu tiên của điều mà ngày nay chúng ta gọi là dàn trải quá mỏng của đế quốc"[18]. Quân đội biến thành những lính nhà nghề ngày một lớn mạnh, trở thành một quốc gia trong một quốc gia, giống như Ngũ Giác Đài hiện nay. Tình trạng nầy đã đưa đến một văn hóa dựa trên vũ lực, dần dà trở thành một văn hóa mục rữa về đạo đức, đưa đến suy tàn và sụp đổ của đế quốc.
Cộng Hòa Hiệp Chủng Quốc chưa sụp đổ. Tuy nhiên, một Tổng Thống Chế mang tính đế quốc ngày nay đang đè nặng lên đất nước với một Ngũ Giác Đài áp đảo và một văn hóa thẩm thấu vũ lực đang làm suy yếu các định chế lập pháp, tư pháp, và các quyền dân sự. Kinh nghiệm Đế quốc La Mã trước đây chứng tỏ những nguyên tắc phân quyền, với mục đích kiểm soát và quân bình giữa ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp, không thích ứng với chủ nghia đế quốc với một quân lực hùng mạnh đồng hành. Hoa Kỳ có thể đã vượt qua ranh giới Rubicon sau ngày 18-9-2001 với sự thông qua Nghị Quyết Cho Phép Sử Dụng Quân Lực[19] của Lưỡng Viện Quốc Hội, cho phép "sử dụng quân lực Hiệp Chủng Quốc chống lại những ai chịu trách nhiệm trong các cuộc tấn công gần đây chống lại Hiệp Chủng Quốc, và cho phép Tổng Thống quyền hiến định để hành động nhằm làm nản lòng và ngăn chặn các hành động khủng bố quốc tế chống lại Hiệp Chủng Quốc..."[20].
Với luật mới nầy, George Bush được Quốc Hội dành trọn quyền, không mấy khác một nhà độc tài, nhân danh an ninh quốc gia, không quan tâm đến hiến pháp và luật quốc tế, có thể khai chiến để bảo vệ quốc gia, và tìm cách thông qua luật lệ mang tính đàn áp, đe dọa quyền tự do của mọi công dân và nhiều người khác. Kế đến, vào tháng 10-2002, Quốc Hội lại biểu quyết dành cho Tổng Thống toàn quyền quyết định tiến chiếm Iraq để phòng ngừa (chiến tranh lựa chọn) khi nào ông tin thích hợp, nói một cách khác, quyền tự do khai chiến với Iraq hay bất cứ xứ nào khác xét như một mối đe dọa, sử dụng vũ khí nguyên tử nếu Tổng Thống thấy cần.
Đây không chỉ đơn thuần một thứ quyền vô giới hạn, mà còn là một quà tặng hổ trợ điên rồ của ngành lập pháp và tư pháp hữu phái. Việc làm nầy đã đưa Hoa Kỳ vào con đường tự quyết định số phận theo gót đế quốc La Mã trước Công Nguyên nếu không được kịp thời chận đứng hay đảo ngược. Đó cũng là cái giá phải trả không tránh khỏi của sự kiêu ngạo đế quốc, khiến các cấp lãnh đạo tự cho mình là bất khả tổn thương cho đến khi quá muộn.
Dựa vào kinh nghiệm của Vương quốc Anh, Chalmers Johnson nghĩ, Hoa Kỳ có thể còn cơ may lựa chọn. Người Anh đã biết hy sinh mộng đế quốc để kịp giữ lại thể chế dân chủ vì hiểu được rằng họ không thể đồng thời có được cả hai. Trước đó, họ đã tự nguyện đảm nhận "Gánh Nặng của Người Da Trắng"(White Man's Burden) trong tinh thần "Tốt"(Goodness) - điều mà ngày nay chúng ta gọi là"truyền bá dân chủ"(spreading democracy), với niềm tin người Anglo-Saxons xứng đáng để cai trị các xứ khác, đặc biệt là dân da mầu mà họ nghi là thấp kém hơn. Johnson giải thích một "chủ nghĩa đế quốc thành công đòi hỏi một xứ Cộng Hòa phải tự chuyển biến thành một xứ chuyên chế"[21]. Theo Johnson, La Mã và Anh quốc giúp cho người Mỹ nhận chân được vị trí của mình và những gì họ phải đối diện. La Mã chọn đế quốc , để rồi đánh mất thể chế Cộng Hòa và tất cả. Người Anh, ngược lại, đã lựa chọn dân chủ và từ bỏ đế quốc, mặc dù chính quyền Tony Blair sau biến cố 11-9, đã hành động bất cẩn, đáng trách, như một con chốt trong nước cờ phiêu lưu đế quốc của Hoa Thịnh Đốn. Hiện nay, vào một thời điểm muộn màng của cuộc phiêu lưu, người Mỹ phải lựa chọn một trong hai hướng đi: hoặc giữ chặt "chiếc bánh dân chủ" hoặc "ăn bánh" và hứng chịu hậu quả. Ngưới Mỹ không thể cùng lúc có cả hai.
Geoge W. Bush không phải là vị Tổng Thống đầu tiên lạm dụng quyền hạn của mình . Trước đây, nhiều Tổng Thống lừng danh cũng đã từng hành động như thế. Abraham Lincoln đã ngưng áp dụng quyền bảo vệ người dân trước pháp luật (habeas rights) trong cuộc nội chiến. Trong mặt trận đối nội, suốt chiều dài Đệ Nhị Thế Chiến, T T Franklin Delano Roosevelt đã đối xử với người Mỹ gốc Nhật, những công dân lương thiện đáng kính, như một hạng người thấp hèn, một thứ công dân bất xứng, không đáng được hưởng công lý, chỉ vì một tội duy nhất - tổ tiên và mầu da của họ . Trong thực tế, họ đã bị nhốt vào các trại tập trung trong suốt thời gian của cuộc chiến mà họ không hề dính dáng hay mong muốn, mặc dù những công dân Mỹ gốc Nhật ở trong quân đội đã chiến đấu chống lại Đức Quốc Xã một cách kiên cường xuất sắc.
Sự khác biệt giữa thời đó và ngày nay là sự hiện diện của guồng máy kiểm soát và quân bình lẫn nhau và cơ chế phân quyền, một cơ chế đã giúp kiềm chế các vị Tổng Thống tránh nạn lạm quyền. Sự thể đã hoàn toàn đổi khác khi năm vị thẩm phán Tối Cao Pháp Viện tự kiêu quyết định hủy bỏ kết quả bầu cử phổ thông, cho phép George Bush dành lấy ghế Tổng Thống khỏi tay Al Gore, ứng viên thắng phiếu, kể cả ở Bang Florida. Từ đó, tình hình tiếp tục xuống dốc giống hệt trường hợp La Mã ngày xưa khi thể chế cộng hòa đã nhường chỗ cho chủ nghia đế quốc mang tính áp bức. Tự do, dân chủ như những quyền bình thường của người Mỹ trước đây giờ đã trở thành một "chủng loại lâm nguy"(an endangered species) cần kíp một phương cách cứu cấp .
Trong tình huống hiện nay, Bush và Cheney đang ngự trị một nhà nước ngoài vòng pháp luật, hợp tác với một liên minh luỡng đảng mục rữa. Quốc Hội không khác gì một câu lạc bộ dành riêng cho giới truởng giả, cho phép chính quyền quản lý việc nước theo "lý thuyết hành pháp đơn điệu của một Tổng Thống Chế"(the unitary executive theory of the presidency).
Trong cuốn Nemesis, Johnson "đã cố gắng đưa ra những bằng chứng lịch sử, chính trị, kinh tế, và triết lý nêu rõ lối ứng xử hiện nay sẽ đưa nước Mỹ về đâu"[22]: tác giả tin con đường hiện nay sẽ đưa đến suy diệt, dưới hình thức vở nợ và độc tài chuyên chế, quân sự hoặc dân sự.
Theo tác giả, đã đến lúc người Mỹ phải lựa chọn: hoặc tiếp tục hướng đi hiện nay để cuối cùng phải đánh mất thể chế dân chủ, hoặc theo gương Anh quốc giữ thể chế dân chủ và hy sinh mộng đế quốc.
IV. CHIẾN LƯỢC AN NINH QUỐC GIA VÀ CUỘC CHIẾN CHỐNG KHỦNG BỐ:
Xét cho cùng, Cuộc Chiến Chống Khủng Bố là trọng tâm của mọi điều George Bush và nhóm cận thần hy vọng cho một chính quyền quan niệm như một khối "hành pháp nhất trí"(unitary executive) không vướng bận bởi cơ chế kiểm soát và quân bình hổ tương với hai ngành lập pháp và tư pháp.
Chỉ năm ngày sau biến cố 11-9, trong một cuộc họp báo trên sân cỏ phía Nam Tòa Bạch Ốc, George Bush, vị Tổng Thống với một sứ mạng mới, một mục tiêu và cứu cánh mới, tuyên cáo với nhân dân Mỹ "mặc dầu ngày mai họ phải trở lại với việc làm" , họ phải hiểu ngay bây giờ họ đang đối mặt với một "thứ ác quỷ mới" . Ông nói tiếp: "Và chúng ta hiểu. Và nhân dân Mỹ bắt đầu hiểu. Cuộc thánh chiến nầy, cuộc chiến chống khủng bố nầy, sẽ phải mất nhiều thời gian"[23].
Trước đó hai ngày, tại Thánh Đường Quốc Gia ở Hoa Thịnh Đốn, T T Bush đã loan báo cuộc chiến sắp tới, khi ông nói với nhân dân Mỹ "trách nhiệm lịch sử của chúng ta đã rất rõ ràng: đáp lại những cuộc tấn công nầy và cứu thế giới khỏi bọn ác quỷ"[24]. Nếu không có "Cuộc Chiến Chống Khủng Bố" do Tổng Thống tự tuyên cáo, dĩ nhiên, Bush đã không thể viện cớ "chiến tranh", "không khí chiến tranh", hoặc "Tổng Thống thời chiến", để dồn ép Quốc Hội phải ủng hộ cuộc chiến tự chọn sau đó ở Iraq. Không có "chiến tranh" và "thời chiến", đâu có dễ thuyết phục dân Mỹ và dễ gì áp đặt "luật thời chiến"(war rules) từ trại tù ở Guantanamo (Cuba), đến căn cứ không quân Bagram Air Base (Afghanistan), đến Abu Ghraib (Iraq). Không có "chiến tranh" và "thời chiến", các viên chức và tư lệnh Hoa Kỳ đâu có thể xếp tù nhân của quân đội Mỹ ở Iraq vào loại "những người bị câu lưu vì lý do an ninh" (security detainees), một quyết đoán phi đạo đức và phổ thông trong cuộc chiến chống khủng bố; hay mô tả tù binh dưới danh hiệu "chiến binh bất hợp pháp" (illegal combatants), để từ chối không áp dụng quy chế tù binh theo Thỏa Ước Geneva, cũng như để giam giữ vô thời hạn, cô lập, bí mật, không được luật pháp che chở.
Mọi hy vọng về quyền lực tương lai của các quan chức trong chính quyền Bush đều gắn liền với Cuộc Chiến Chống Khủng Bố mở màn cho chiến tranh nhiều nơi khác.
Thử nhìn lại bản đồ của những nơi mà Nhóm Tân Bảo Thủ và phe ủng hộ chính quyền Bush, trong giai đoạn vàng son, thường gọi là "vòng cung bất ổn"(the arc of instability) - một vùng trải dài từ biên giới Trung Quốc và các Cộng Hòa nguyên thành viên của Liên Bang Xô Viết trước đây, xuyên qua Trung Đông, Bắc Phi, xuống tận vùng Sừng Phi Châu (Horn of Africa) - cũng là tâm điểm dầu khí của hành tinh. Cả một vùng bao la từ Afghanistan đến Somalia ngày nay đang hay có thể chìm ngập trong khói lửa.
Chính quyền Bush và các đồng minh trong khối NATO đang bị cầm chân trong cuộc chiến Afghanistan ngày một lan rộng và khốc liệt hơn. Quân đội Mỹ, được trang bị đầy đủ, sẵn sàng xung đột với Iran, đang lún ngày một sâu hơn trong vũng lầy chiếntranh-nộichiến-chiếmđóng-Iraq cũng như đương đầu với công luận ngày một gay gắt hơn, cả ở Hoa Kỳ lẫn Iraq, đòi hỏi quân Mỹ phải rút khỏi Iraq.
Mùa hè năm 2006, chính quyền Mỹ, khi trang bị và hổ trợ Do Thái trong cuộc tấn công vào Lebanon nhằm loại bỏ phe Hizbollah nhưng bất thành, cũng đã tung CIA vào giúp chính quyền Lebanon đang ngày một suy yếu đối phó với lực lượng Hizbollah ngày một táo bạo hơn. Bush cũng đề cao dân chủ ở Palestine cho đến khi người Palestine bầu phe Hamas vào chính quyền, từ đó tìm cách phá hoại và vô hiệu hóa kết quả bầu cử. Người Mỹ cũng đứng đang sau cuộc xâm lăng nước Hồi giáo Somalia của Ethiopia, một quốc gia với đa số theo công giáo. Chính quyền Bush cũng ra sức lôi kéo các xứ Hồi giáo dòng Sunni - Saudi Arabia, Egypt, Jordan, và những quốc gia bé nhỏ vùng Vịnh - vào một liên minh thực tế chống lại ảnh hưởng của Iran, Syria thuộc dòng Shiite....
Bush không còn phí thì giờ nhắc nhủ dân Mỹ về giáo lý hiếu hòa của Hồi giáo. Thay vào đó, ông thường nói đến ý thức hệ Hồigiáo-phátxít (Islamo-fascism), đến những phần tử "Hồi giáo cực đoan"(Islamic extremists) quyết xây dựng một Quốc Gia Hồi Giáo Caliphate, một "đế quốc Hồi giáo cực đoan"(a radical Islamic empire) từ Afghanistan đến Gibralta, vòng cung bất ổn - một bản đồ thánh chiến.
Tóm lại, hình như không một động thái nào của chính quyền Bush ở vùng Trung Đông nới rộng, từ Afghanistan đến Somalia, mà không mang lại bất ổn, loạn lạc, đổ máu, và làm suy giảm, lung lay quyền lực của chính Hoa Kỳ trong vùng. Điều đáng buồn nhất là người ta chẳng cần hiểu nhiều về Afghanistan, Pakistan, Iran hay Iraq, cũng có thể biết được mỗi một "thành công" trong chốc lát của phe Bush cũng đều mang sẵn mầm thất bại tiếp theo.
Trái với tường trình cuả tướng tư lệnh quân Mỹ ở Iraq, David Petreaus, vào đầu tháng 4-2008, một Iraq - "ít bạo loạn hơn", tiếp theo sau sự "thành công" của đợt tăng quân "surge" giữa năm 2007 - thực ra chỉ là tập hợp một số "thànhphố-quốcgia"(city states) riêng rẽ, hổn loạn, bạo động - một thùng thuốc nổ , với những nhóm dân quân (militias) lan tràn, những khu vực đối nghịch, những phe nhóm giáo phái ganh tị, hận thù, chống đối lẫn nhau, tất cả đều được vỏ trang đến tận răng (armed to the teeth). Tệ hại hơn nữa, dưới quyền lãnh đạo của Tướng David Petraeus và đại sứ Ryan Crocker, người Mỹ đã trở thành nguyên ủy của nạn vũ khí lan tràn và bạo loạn. Họ đã trang bị, tài trợ gần 100.000 dân quân Sunnis với quyết tâm một ngày nào đó sẽ đập nát "người Iran"(hay chính quyền Maliki). Họ cũng hổ trợ dân quân Shiite (còn có tên "quân đội Iraq").
Trong những cuộc tấn công vào đầu tháng 4-2008 ở Basra và Baghdad, người Mỹ còn chọn đứng về phía Maliki nhằm quậy lên cuộc nội chiến ngay bên trong nội bộ khối Shiite. Nhưng không may, theo phóng sự "Liệu Lính Iraq Có Thể Chiến Đấu?[25] của hai ký giã Stephen Farrell và James Glanz trên báo The New York Times, ít nhất cũng hơn 1.000 binh si và cảnh sát phe chính phủ - hay hơn 4% lực lượng gửi tới Basra - đã rời bỏ hàng ngũ (đào ngũ) trong khi chiến trận đang tiếp diễn, trong đó có đến hàng tá sĩ quan và ít nhất là hai tư lệnh chiến trường cao cấp.
Sau nhiều năm được các cố vấn Mỹ huấn luyện gấp rút với một phí tổn khổng lồ 22 tỉ mỹ kim, các phát ngôn nhân quân đội Mỹ một lần nữa phải lúng túng tìm cách biện minh cho một tai họa chiến lược khác, chỉ được thoát hiểm nhờ ở kết quả thương thảo giữa Muqtada al-Sadr và các cố vấn của Thủ Tướng Nouri al-Maliki, qua trung gian của tướng Iran Qassem Suleimani, một vị tướng có tên trong danh sách khủng bố cần theo dỏi của Bộ Ngân Khố Mỹ. Ngưới Mỹ gượng gạo giải thích:"Theo chỗ chúng tôi hiểu, phần lớn số đào ngũ là từ những nhóm binh si mới được huấn luyện căn bản xong và có lẽ đã được đẩy ra chiến trường quá sớm"[26].
Như Nir Rosen gần đây đã tóm tắt tình hình trong tạp chí The Nation Magazine, Baghdad ngày nay là "tập hợp một số bộ lạc dưới quyền các sứ quân và dân quân", điển hình cho toàn bộ xứ Iraq. Rosen viết tiếp "chính quyền Bush và giới quân sự không còn nhắc đến Iraq như một đề án xây dựng quốc gia lớn lao, và các cơ quan truyền thông Mỹ cũng răm rắp đi theo"[27].
Trong khi đó, theo Pepe Escobar của tờ Asia Times, ở phía Bắc Iraq ít ai lưu ý, cuộc nội chiến - giữa hai sắc dân Iraq gốc ARập và Kurdish tranh giành thành phố Kirkuk, có thể cả Mosul, giàu dầu hỏa - đang sôi sục và rất có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Quân đội Mỹ không hề được ai mời mọc vào chiếm đóng Iraq. Chính quyền Mỹ đã đơn phương xâm lăng Iraq với những lý do ngụy tạo trước sự chống đối của toàn thế giới. Trong hơn năm năm qua, sự can thiệp của người Mỹ đã làm tan nát cấu trúc xã hội Iraq. Sự thật lịch sử đó không ai có thể chối cãi dù chính quyền Mỹ luôn ngoan cố bám víu lấy huyền thoại quân đội Hoa Kỳ bao giờ cũng vẫn là lực lượng chiến đấu cho hòa bình và ổn định trong một thế giới hổn loạn. Vì quyền lợi của chính mình, Hoa Kỳ cần phải can đảm chấp nhận sự thật phủ phàng đó càng sớm càng tốt. Cuộc chiến càng kéo dài, hình ảnh đạo đức của Hoa Kỳ trên toàn cầu càng tơi tả. Rút khỏi Iraq, người Mỹ mới sớm có thể bắt đầu quá trình phục hồi khỏi thảm họa đạo đức, chưa nói gì đến hiểm họa phá sản tài chánh đang đe dọa hiện nay.
V. THAY LỜI KẾT LUẬN:
Một chính sách đối ngoại tưởng như mang tính thụ động trong thập kỷ dẫn tới Đệ Nhất thế chiến ngày nay đã lộ nguyên hình trong một chuổi can thiệp đầy bạo lực: tiến chiếm vùng kênh đào Panama từ Colombia, hải quân oanh tạc vào bờ biển Mexico, thủy quân lục chiến được gửi tới hầu hết các xứ Trung Mỹ, quân đội chiếm đóng Haiti và Cộng Hòa Dominicain. Như vị tướng nhiều huy chương Smedley Butler, người đã tham gia vào nhiều chiến dịch vừa kể, sau nầy đã viết: "Tôi đã hành động như một người làm việc vặt cho Wall Street"[28].
Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Kỳ đã trở thành siêu cường lãnh đạo thế giới - một đế quốc. Kiên quyết duy trì và bành trướng độc quyền vũ khí nguyên tử, nước Mỹ đã chiếm một số đảo xa xôi nhỏ bé trên Thái Bình Dương, trục xuất tất cả thổ dân, và biến các đảo nầy thành những nơi thử nghiệm nguyên tử. Cùng với các cuộc thử nghiệm về sau trong các vùng sa mạc thuộc hai bang Utah và Nevada, tổng số đã vượt quá con số 1.000 vụ thử nghiệm .
Trong cuộc chiến Triều Tiên, theo tuần san của I.F.Stone, trái với lời biện minh chính thức, Hoa Kỳ đã can thiệp, không phải vì Bắc Hàn xâm lăng Nam Hàn, mà vì Hiệp Chủng Quốc đang cần một căn cứ vững chắc trên lục địa Á châu, nhất là Trung Quốc lúc đó đã lọt vào tay lãnh tụ cộng sản Mao Trạch Đông.
Nhiều năm sau, khi sự can thiệp thầm lặng của Hoa Kỳ vào Việt Nam đã chuyển biến thành một cuộc xâm lăng bạo tàn và ồ ạt, bộ mặt đế quốc của Mỹ đã lộ rõ nguyên hình. Theo tài liệu Ngũ Giác Đài do Daniel Ellsberg phổ biến, các thông tư và biên bản ghi nhớ tối mật của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia cho thấy, khi giải thích quyền lợi của Hoa Kỳ ở Đông Nam Á, các thành viên của Hội Đồng đã trắng trợn nói thẳng: động lực của người Mỹ là tìm kiếm "kẻm, cao su, dầu khí" (tin, rubber,oil).
Không có một phong trào phản chiến nào trong lịch sử nước Mỹ - từ việc hàng loạt binh sĩ đào ngũ trong cuộc chiến Mexican (Mexican War), các thanh niên trong tuổi quân dịch nổi loạn trong cuộc Nội Chiến (Civil War), những nhóm chống chính sách đế quốc vào đầu thế kỷ 20, phong trào chống đối Đệ Nhất Thế Chiến - đạt đến tầm cở của làn sóng chống chiến tranh Việt Nam. Ít ra, một phần của sự chống đối nầy cũng phát xuất từ ý thức : cuộc chiến tàn bạo ở xứ sở nhỏ bé nầy là một phân bộ trong kế hoạch đế quốc lớn lao của Hoa Kỳ.
Những vụ can thiệp tiếp theo sau sự thất bại của Hoa Kỳ ở Việt Nam hình như phản ảnh một như cầu bức thiết của một siêu cường đang ngự trị - ngay cả sau sự sụp đổ của địch thủ hùng mạnh, Liên Bang Xô Viết - để thiết lập quyền bá chủ rộng khắp (full spectrum dominance). Trong bối cảnh đó, thế giới đã chứng kiến cuộc xâm lăng Greneda năm 1982, oanh tạc và tấn công Panama năm 1989, chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991.
Can thiệp vào Vùng Vịnh, George Bush Sr không mấy quan tâm đến việc Saddam Hussein xâm lăng Kuwait; điều ông quan tâm chính là lợi dụng cơ hội để thiết lập một tiền đồn vững chắc ngay trong lòng Trung Đông giàu năng lượng, một mục tiêu ám ảnh Franklin Roosevelt từ năm 1945 khi ông thành công trong nổ lực thành đạt thỏa ước "đổi dầu lấy sự bảo vệ" (oil for protection agreement) với quốc vương Abdul Aziz Ibn Saud của Saudi Arabia, cũng như CIA đã lật đổ chính quyền dân cử Mohammad Mossadegh ở Iran năm 1953.
Các cuộc tấn công tàn bạo 11-9 - như Hội Đồng Chính Thức 9-11[29], đã xác nhận - bắt nguồn từ lòng căm hận sự bành trướng thế lực của Hoa Kỳ ở Trung Đông và nhiều nơi khác trên thế giới. Ngay từ trước biến cố nầy, theo Chalmers Johnson trong tác phẩm "Những Nổi Buồn của Đế Quốc" (The Sorrows of Empire), Bộ Quốc Phòng Mỹ đã công nhận đang duy trì hơn 700 căn cứ quân sự bên ngoài nước Mỹ.
Từ ngày đó, với sự phát động "cuộc chiến chống khủng bố", nhiều căn cứ mới đã được thiết lập hoặc bành trướng: ở Kurgyzstan, Afghanistan, vùng sa mạc Qatar, Vịnh Oman, vùng Sừng Phi châu, và bất cứ ở xứ nào chính quyền dễ bị mua chuộc hoặc cuởng ép.
Động lực bên sau chính sách quân sự vừa nói - như đã được Henry Luce, một triệu phú sở hữu chủ các tạp chí Time, Life, và Fortune, mô tả ngay từ năm 1941, như là biểu hiện sự đón chào bình minh của "Thế Kỷ của Hoa Kỳ". Luce nói: thời cơ đã đến "để Hoa Kỳ hành xử đầy đủ ảnh huởng của mình trên thế giới, thành đạt những mục tiêu và bằng các phương tiện chúng ta thấy thích hợp"[30].
Chúng ta không thể chờ đợi một lời tuyên cáo ý đồ đế quốc nào trắng trợn và rõ rệt hơn. Đó cũng là điều, trong mấy năm gần đây, nhóm trí thức cố vấn chính quyền Bush đã nhiều lần lặp lại, nhưng nhấn mạnh đây là "thứ ảnh huởng nhân hậu"(benign influence), những mục tiêu cao thượng (noble purposes), và đây là một chủ nghĩa đế quốc chính đáng và sáng suốt. Hay như chính George Bush đã nói trong diễn văn mở đầu nhiệm kỳ hai: "Phổ biến tự do ra khắp thế giới...là tiếng gọi của thời đại chúng ta"[31].
Như nhà sử học lừng danh Howard Zinn nhận định, Đế Quốc Hoa Kỳ luôn là một đề án lưỡng đảng - Dân Chủ và Cộng Hòa luôn thay phiên mở rộng đế quốc, ca tụng và cổ súy cho nó . T T Woodrow Wilson đã nói với các sĩ quan tốt nghiệp Hải Học Viện (Naval Academy), năm 1914 (năm ông cho oanh tạc Mexico), Hoa Kỳ "sử dụng hải quân và bộ binh của mình ...như những khí cụ truyền bá văn minh, không phải như khí cụ gây hấn"[32]. Và T T Bill Clinton, năm 1992, cũng đã nói với các sĩ quan tốt nghiệp West Point:"Các giá trị các bạn học được ở đây...sẽ có thể truyền bá khắp đất nước và ra khắp thế giới"[33].
Đối với nhân dân Hoa Kỳ , và nhân dân toàn thế giới, những lời xác quyết trên đây không sớm thì muộn sẽ được chứng minh hoàn toàn sai lầm. Những chiêu bài đó, thoạt nghe có vẻ thuyết phục, chẳng bao lâu sẽ bị phơi bày qua những cảnh tượng hải hùng không còn có thể che đậy: những xác người loang lỗ máu; những lính Mỹ thân thể bị xé nát, mất tay mất chân ; hàng triệu gia đinh mất nhà cửa, công ăn việc làm - ở Trung Đông, ở Đồng Bằng Mississipi, và ở nhiều nơi trên thế giới...
Theo Howard Zinn, những chiêu bài biện minh cho chính sách đế quốc đã thẩm thấu vào văn hóa Mỹ, đã tấn công đầu óc và sự hiểu biết của nhân dân Mỹ - chiến tranh là cần thiết để bảo đảm an ninh cho Mỹ, bành trướng thế lực là thiết yếu cho việc truyền bá văn minh..., đã bắt đầu mất dần hiệu lực. Phải chăng đã đến một thời điểm lịch sử, người Mỹ đã sẵn sàng chấp nhận một lối sống mới hài hòa cùng thế giới - bành trướng không phải thế lực quân sự mà tình đồng loại, tình người.
© GS Nguyễn Trường
Irvine, CA, USA
20-4-2008
Tài Liệu Tham Khảo:
1. Ira Chernus, Professor of Religious Studies at the University of Colorado, Monsters To Destroy: The Neoconservative War on Terror and Sin.
2. Noam Chomsky, Hegemony or Survival, America's Quest for Global Dominance, The American Empire Project, Metropolitan Books.
3. Patrick Corkburn, Muqtada: Muqtada al-Sadr, the Shia revival, and the Struggle for Iraq, Scribner, 2008.
4. Mark Danner, Professor at Bard College and Graduate School of Journalism, University of California, Berkeley, Torture and Truth: America, Abu Ghraib and the War on Terror, 2004; and The Secret Way to War: The Downing Street Memo and the Iraq War's Buried History, 2007, MarkDanner.com.
5. Chalmers Johnson, Professor Emeritus of the UC, San Diego and UC, Berkeley, Blowback Trilogy: Blowback (2000), The Sorrows of Empire (2004), Nemesis: The Last Days of the American Republic (2007) .
6. Howard Zinn, A People's History of the United States - 1492-Present, Harper Collins Publishers, New York,2005.
7. Magazines: The Economist, The Nation.
[1] Hegemony or Survival, America's Quest for Global Dominance, Noam Chomsky.
[2]There is ample historical precedent for the willingness of leaders to threaten or resort to violence in the face of significant risk of catastrophe. But the stakes are far higher today. The choice between hegemony and survival has rarely, if ever, been so starkly posed.
[3] ...sovereign right to use force to defend ourselves.
[4] The need for a substantial American force presence in the Gulf transcends the issue of the regime of Saddam Hussein.
[5] ...simply unbelievable how the war has revived the appeal of a global jihadi Islam that was in real decline after 9-11.
[6] The world is safer today because, in Iraq, our coalition ended a regime that cultivated ties to terror while it built weapons of mass destruction.
[7] Every use of force is another small victory for bin Laden.
[8] ...would be very alarming to the Pentagon.
[9] ...lack of systematic oversight of the "insulated bureaucracies" that provide analyses of "limited and winnable nuclear war".
[10] ..are approaching the edge of a huge waterfall and are about to plunge over it.
[11] Of all the enemies to liberty, war is, perhaps, the most to be dreaded, because it comprises and develops the germ of every other.... (Delegating) such powers (to the president) would have struck, not only at the fabric of the Constitution, but at the foundation of all well organized and well checked governments.
[12] We will never again know peace, nor in all probability survive very long as a nation, unless we abolish the CIA, restore intelligence collecting to the State Department, and remove all but purely military functions from the Pentagon.
[13] ...may have been damaged beyond repair [and] it will take a generation or more [at best] to overcome the image of "America as Torturer".
[14] ...of the people, by the people, for the people...
[15] full-spectrum dominance.
[16] might makes right.
[17] ...it's used for social control, vengeance and a policy of degrading people regarded as sub-human because they happen to be less-than-white Arab or Afghan Muslims.
[18] The first case of what today we call imperial overstretch.
[19] Authorization for Use of Military Force - AUMF.
[20] ...the use of United States Armed Forces against those responsible for the recent attacks launched against the United States [and] giving the President ...authority under the Constitution to take action to deter and prevent acts of international terrorism against the United States....
[21] ...successful imperialism requires that a domestic republic change into a tyranny.
[22]Johnson "tried to present historical, political, economic, and philosophical evidence of where our current behavior is likely to lead".
[23] ...go back to work tomorrow... . ...a new kind of evil. And we understand. And the American people are beginning to understand. This crusade, this war on terrorism is going to take a while.
[24] Our responsibility to history is already clear: to answer these attacks and rid the world of evil.
[25] Can Iraq's Soldiers Fight?
[26] the bulk of these [deserters] were from fairly fresh troops who had gotten out of just basic training and were probably pushed into the fight too soon.
[27] ...a set of fiefdoms run by warlords and militiamen. ...The Bush administration and the US military have stopped talking of Iraq as a grand project of nation-building, and the U.S. media have dutifully done the same.
[28] I was an errand boy for Wall Street.
[29] The official 9-11 Commission.
[30] ...to exert upon the world the full impact of our influence, for such purposes as we see fit, and by such means as we see fit.
[31] Spreading liberty around the world ...is a calling of our time.
[32] The U.S. used "her navy and her army...as the instruments of civilization, not as the instruments of aggression.
[33] The values you learned here...will be able to spread throughout the country and throughout the world.
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 1, 2010 12:14:18 GMT 9
Hoa Kỳ còn đáng tin cậy hay chăng? 29/11/2010 Hoài Mỹ/Viễn Đông
Wikileaks gây lúng túng cho Mỹ với 250.000 tài liệu mật[/b] WASHINGTON – Trước hết, trang thông tin điện tử Wikileaks chiều Chủ Nhật vừa rồi, đã dành cho một số nhật báo lớn - New York Times (Mỹ), The Guardian (Anh), Der Spiegel (Đức) và Le Monde (Pháp) - quyền ưu tiên tiếp cận 251.287 hồ sơ mật của Hoa Kỳ. Tiếp đến, hầu hết báo chí trên khắp thế giới, kể từ thứ Hai hôm qua, đã khởi sự lần lượt đăng tải tổng số tài liệu vừa nói, mà các cơ quan truyền thông này đã nhận được từ Wikileaks. Tất cả tài liệu này được thâu vào một dĩa CD 1,6 GB (gibabyte) với danh hiệu “Lady Gaga”. Hôm thứ Hai, trong cuộc họp báo, ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã công kích hành động tiết lộ tài liệu bí mật này là “một cuộc tấn công không chỉ riêng đối với Hoa Kỳ – nó còn là một cuộc tấn công đối với cộng đồng quốc tế” và “xé toạc” sự liên kết, quan hệ có trách nhiệm giữa các quốc gia. * Hoa Kỳ do thám những nhà lãnh đạo Liên Hiệp Quốc Trong khối lượng khổng lồ tin tức ấy, sự kiện được nhận định là “nhậy cảm” hơn cả là việc Washington (Hoa Thịnh Đốn) vẫn tiến hành một chiến dịch tình báo bí mật, nhắm thẳng vào giới lãnh đạo Liên Hiệp Quốc (LHQ), như tổng thư ký Ban Ki-moon và các đại diện của Trung Cộng, Nga, Pháp và Anh trong hội đồng Bảo An. Theo tài liệu tiết lộ của Wikileaks, việc ra lệnh của nữ tổng trưởng bộ Ngoại Giao Hillary Clinton từ tháng 7 năm 2009 nhằm thu thập tin tức được xét là đã xóa bỏ các ranh giới giữa ngoại giao và gián điệp. Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã nhận được chỉ thị tập trung mọi chi tiết cá nhân về ông Ban Ki-moon và các yếu nhân LHQ khác. Họ cũng được giao phận sự “điều nghiên” các hệ thống và phương pháp liên lạc mà các cơ sở LHQ sử dụng, kể cả những mật mã (password) và các phím mã hóa riêng tư. Washington còn muốn có cả số thẻ tín dụng, địa chỉ điện thư (e-mail), số điện thoại và số điện báo (fax) của các viên chức chỉ huy ở LHQ. Công tác nói trên không chỉ được chuyển đến các nhà ngoại giao Hoa Kỳ ở LHQ, mà còn tới các nhà ngoại giao làm việc tại 33 tòa đại sứ và lãnh sự, kể cả ở các thủ đô London (Anh), Paris (Pháp) và Moscow (Nga). Theo các tài liệu mà nhật báo The Guardian đã đăng tải, nhiều hồ sơ ấy đã được đóng dấu chữ “Embassy Oslo”. 763 tài liệu là kết quả của việc trao đổi thư từ đến hoặc từ tòa đại sứ (Hoa Kỳ) ở Oslo, thủ đô Na Uy. Tài liệu sau cùng đề ngày 26-02-2010. * Tù nhân Guantanamo Mục tiết lộ quan trọng thứ hai liên quan đến tù nhân ở trung tâm Guantanamo của Hoa Kỳ trên lãnh thổ Cuba. Theo tài liệu tiết lộ trên nhật báo New York Times, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã mặc cả với các quốc gia khác, để các nước này chịu nhận tù nhân từ căn cứ vốn gây nhiều tranh cãi ấy. Trong số đó, Slovenia được yêu cầu “tiếp quản” một tù nhân, nếu các đại diện của nước này muốn được một buổi gặp gỡ trực tiếp với tổng thống Hoa Kỳ Barack Obama. Đảo quốc Kiribati ở Thái Bình Dương được “tặng” nhiều triệu Mỹ kim, để nhận một nhóm tù nhân Guantanamo. Trong khi đó Bỉ cũng nhận được “message” về một phương cách rất ít tốn công tốn của, để củng cố vị thế của mình ở Âu Châu, trong trường hợp nước này đồng ý đón nhận một vài tù nhân từ Guantanamo. * Một danh sách dài tài liệu mật khác Và dưới đây là một số những tiết lộ điển hình khác mà nhật báo New York Times, The Guardian và nhiều phương tiện truyền thông khác đã được truy cập chiều Chủ Nhật vừa qua: + Iran đã được Bắc Hàn “cung cấp” những hỏa tiễn hiện đại, khả dĩ bắn tới thủ đô của các nước Tây Âu hay Moscow; 19 chiếc trong số hỏa tiễn này vốn là kiểu mẫu của Nga mà Bắc Hàn đã nhận được xưa kia. Những hỏa tiễn ấy còn mạnh hơn rất nhiều so với loại mà Washington trước đây đã phanh phui là Teheran đã có trong lãnh vực vũ khí của họ. + Những tài liệu mật này đã vạch rõ những người Ả Rập vẫn là nguồn tài trợ quan trọng nhất cho tổ chức khủng bố al-Qaida. + Ngay từ đầu năm 2007, Hoa Kỳ đã tìm mọi cách triệt hạ chất uranium khỏi lò nguyên tử ở Pakistan. Hoa Kỳ lo âu là chất thải - vốn có thể được dùng để chế tạo vũ khí nguyên tử - sẽ đi “lạc đường”. Tuy nhiên những người cầm quyền ở Islamabad đã từ chối người Mỹ tiếp cận với những thứ kim loại nặng. Họ sợ Hoa Kỳ sẽ “lấy” của họ năng lực nguyên tử ấy. + Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ và Nam Hàn đã tranh luận về cơ hội của một nước Đại Hàn thống nhất trong trường hợp những khó khăn kinh tế của Bắc Hàn và việc chuyển hoán chính trị từ Kim Jong-Il sang cậu con út Kim Jong-un, khiến chế độ cộng sản này suy sụp. Chính quyền Nam Hàn có thể đã liên lạc với Trung Cộng, để bảo đảm những hiệp ước thương mại trong tương lai, nếu Bắc Hàn sụp đổ. Một sự hợp tác kinh tế có thể góp phần vào việc làm giảm bớt nỗi lo âu của Bắc Kinh, vốn liên quan tới việc thống nhất Bắc-Nam Hàn. + Khi phó tổng thống Ahmed Zia Massout của Afghanistan công du các Tiểu vương quốc Ả Rập Emirate năm ngoái, chính quyền địa phương đã phanh phui việc ông này đang sở hữu 52 triệu Mỹ kim tiền mặt. Theo tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Kabul, không rõ ông ta đã có số tiền kếch sù ấy từ đâu và sẽ được dùng vào đâu. + Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ ở Roma vào năm 2009, đã báo cáo với Washington về những mối liên lạc vốn rất chặt chẽ giữa thủ tướng Nga Vladimir Putin và thủ tướng Ý Silvio Berlusconi, và nổi bật nhất là “những món quà vô cùng hậu hĩnh”, “những hợp đồng năng lượng sinh lợi” và một nhân vật trung gian “khả nghi”. Tài liệu viết: “Berlusconi xem ra là một phát ngôn viên của Putin ở Âu Châu”. + Saudi-Arabia đã nhiều lần áp lực với Washington, để Hoa Kỳ tấn công đại qui mô Iran và hủy diệt chương trình nguyên tử của nước ấy. Cũng vậy, nhiều đồng minh Ả Rập khác của Hoa Kỳ cho rằng, người Mỹ nên sử dụng các phương tiện quân sự, vì họ lo sợ Iran đang phát triển vũ khí nguyên tử. Theo tài liệu do Wikileaks tiết lộ, trong một buổi gặp gỡ với tướng David Petraeus, vua Abdullah của Saudi-Arabia đã nói là người Mỹ phải “chặt đầu con rắn ấy”. Saudi-Arabia cũng đã minh định xác là nếu Iran có vũ khí nguyên tử, ắt các nước khác trong vùng cũng làm như vậy, trong số đó kể cả Saudi-Arabia. Theo tài liệu tối mật ấy, về phần Do Thái, nước này cũng biểu lộ là họ tình nguyện “đơn phương độc mã” tấn công Iran, hầu ngăn chặn mối đe dọa nguyên tử. Tướng Amos Yaddlin, chỉ huy trưởng ngành tình báo quân sự đã phát biểu là Do Thái không đứng ở một vị trí mà xem thường Iran, để rồi bị bất ngờ như thể Hoa Kỳ đã bị vào ngày 11-09-2001. + Bộ Chính Trị của đảng cộng sản Trung Hoa, đã đứng sau kế hoạch phá hoại chương trình Google ở Trung Cộng. Theo tài liệu tiết lộ, một “liên lạc viên” Trung Hoa đã cho tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Bắc Kinh biết như vậy, vào giữa tháng 1 năm nay. Việc tấn công Google vốn là một phần trong cuộc phá hoại các dữ kiện được thực hiện phối hợp bởi các chuyên viên an ninh và các tay tấn công vi tính nhà nghề, vốn được chính quyền Trung Cộng tuyển dụng. Họ lấy trộm các dữ kiện để đột nhập, hoặc từ năm 2002 đánh phá các máy “computer” ở Hoa Kỳ, các đồng minh Tây phương, đức Dalai Lama và các công ty Hoa Kỳ . + Hoa Kỳ đã không thành công trong việc ngăn chặn Syria cung cấp vũ khí cho tổ chức Hizbollah. Nhánh Lebanon này của mạng lưới khủng bố toàn cầu, đã nhận được một số lượng khổng lồ vũ khí từ sau cuộc chiến với Do Thái năm 2006. Tổng thống Bashar al-Assad của Syria, hứa với một yếu nhân Hoa Kỳ là ông ta sẽ ngưng lại việc hỗ trợ Hizbollah; nhưng chỉ sau một tuần lễ, Washington nhận được báo cáo là nhóm khủng bố này vẫn tiếp tục nhận được nhiều vũ khí từ Syria. * Những đặc tính cá nhân thô tục của các nhà lãnh đạo Trên trang nhất của nhật báo Đức Der Spiegel số phát hành hôm qua, hình ảnh của các nhà lãnh đạo nổi tiếng đã được phác họa với những đặc tính cá nhân thô tục, vốn được mô tả trong các tài liệu mật của cơ quan ngoại giao Hoa Kỳ do Wikileaks tiết lộ. - Tổng thống Mahmoud Ahmadinejad “được” mô tả là Hitler, tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy là một “tên chuyên phỉnh phờ”, tổng thống Afghanistan Hamid Karzai là một “kẻ hoang tưởng”. - Bà thủ tướng Đức Angela Merkel “được” mô tả là ít sáng tạo và không dám liều lĩnh. Trong khi đó ngoại trưởng Guido Westerwell là người không chắc chắn và thích khoe khoang, đồng thời dè dặt với Hoa Kỳ. Nhật báo Der Spiegel nhận xét tiếp theo, là các tài liệu ấy cho biết Hoa Kỳ có một “kẻ nằm vùng” trong nội bộ của chính phủ Đức. Việc khám phá đời sống chính trị Đức một cách chi tiết, khiến Der Spiegel có thể kết luận: “Hoa Kỳ được báo cáo tỉ mỉ và minh bạch những bí mật trong chính trường Đức, còn hơn chính các chính khách Đức biết về mình”. - Trong một tờ trình của tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Moscow năm 2008, người Mỹ đã gọi tổng thống Nga Dmitry Medvedev là Robin và thủ tướng Vladimir Putin là Batman. Việc này cho thấy tòa đại sứ Hoa Kỳ đã nhận thức ra sao về sự tương xứng quyền lực ở Moscow. - Lãnh tụ Bắc Hàn Kim Chánh Nhật được mô tả trong tài liệu (của bộ ngoại giao Hoa Kỳ) là một gã già yếu không có lập trường, trong khi thủ tướng Ý Silvio Berlusconi là một nhà lãnh đạo tân thời Âu Châu không sáng kiến, ưa khoe khoang và không hiệu quả. Theo nhật báo The Guardian, ông Berlusconi còn “được” đánh giá là một nhà lãnh đạo yếu ớt như thể “ lúc nào ông ta cũng không được nghỉ ngơi đầy đủ”. - Tổng thống Robert Mugabe của Zimbabwe được gọi là “lão già điên”, đơn giản và dễ dãi, trong khi đồng vị Libya của ông ta, Muammar Gaddafi là “quá ư lạ kỳ”. - Thủ tướng Do Thái Benjamin Netanyahu đạt được điểm cao qua việc mô tả là lịch thiệp và quyến rũ, nhưng lại là một người chẳng bao giờ tuân thủ lời hứa. * Phản ứng Nói tổng quát, những tài liệu mật này đã khám phá ra việc Hoa Kỳ cư xử ra sao với cả bạn lẫn thù, cũng như họ đe dọa và đàm phán thế nào với các nhà lãnh đạo của các quốc gia khác nhau. Tất cả những gì ẩn sau các mật mã mà các nhà ngoại giao vẫn tin là được bảo đảm và sẽ chẳng bao giờ bị công khai hóa, nay thực tế đã chứng minh ngược lại. Những tài liệu này đều do các “ngài” đại sứ hay các thuộc hạ ở tòa đại sứ, lãnh sự và các cơ sở ngoại giao... ghi chép cho chính quyền ở Washington. Việc phổ biến trên 250.000 hồ sơ mật vẫn diễn ra, cho dù Hoa Kỳ đã cảnh cáo mạnh mẽ và đả kích mãnh liệt. Nội dung của khối lượng tài liệu mật này đã dấy lên những luồng sóng gây phản ứng cực mạnh trong nền ngoại giao Hoa Kỳ. Hoa Kỳ đã kết án gay gắt việc Wikileaks phổ biến khối tài liệu mật này. Tòa Bạch Ốc gọi hành động này là vô trách nhiệm và nguy hiểm. Chính quyền Mỹ cho rằng việc tiết lộ những hồ sơ này có thể gây nên tình trạng nguy hiểm và làm thiệt hại mối dây quan hệ giữa Hoa Kỳ và đồng minh. Dân biểu liên bang Peter King của đảng Cộng Hòa hôm 29-11, đã gửi một văn thư cho chính phủ Obama, để đề nghị đưa mạng vi tính Wikileaks vào danh sách những tổ chức khủng bố. Ông King đầu năm mới này sẽ là tân chủ tịch Ủy Ban An Ninh Quốc Gia ở Hạ Viện. Theo Website Cnet, ông Peter King đã viết cho bà ngoại trưởng Hillary Clinton: “Wikileaks xem ra đã hội đủ tiêu chuẩn của một tổ chức khủng bố”. Trong một văn thư khác gửi cho tổng trưởng bộ Tư Pháp Eric Holder, dân biểu Peter King đã yêu cầu truy tố Julian Assange, sáng lập viên Wilileaks ra tòa, vì đã công khai hóa những tài liệu mật quốc gia. Đặc biệt lần này, nhà lãnh đạo Iran, tổng thống Mahmoud Ahmedinejad lại phản ứng nhanh nhẹn. Ông cho rằng những tài liệu của Wikileaks không phải “được tiết lộ”, nhưng đương sự quả quyết các hồ sơ này được tung ra như một phần của chiến dịch chính trị của Hoa Kỳ. Theo thông tấn xã Reuters, tổng thống Ahmedinejad bình luận: “Các thành phần của chính phủ Hoa Kỳ đã sản xuất những tài liệu ấy. Chúng tôi không tin những tài liệu này bị tiết lộ. Chúng tôi tin là việc này đã được hoạch định và phát hành vào những thời điểm ấn định, và theo đúng một mục tiêu chính trị”. Đối với tài liệu phanh phui tin tức Saudi-Arabia đã yêu cầu Hoa Kỳ tấn công cơ xưởng nguyên tử tại Iran, tổng thống Mahmoud Ahmedinejad xác định là ông hiện không mang một hận thù nào vì lý do này, nhưng: “Các quốc gia trong vùng này đều là bạn với nhau. Trò phá hoại ấy sẽ chẳng có ảnh hưởng tí nào đối với mối quan hệ giữa các nước chúng tôi”. Một nhà phân tích Do Thái cho rằng, việc tiết lộ tài liệu của Wikileaks có thể thuận lợi đối với Do Thái. Bà Giora Eiland, cựu cố vấn an ninh của các cựu thủ tướng Ariel Sharon và Ehud Barak, phát biểu trên hệ thống phát thanh Do Thái: “Nếu có điều nào liên quan đến Iran mà tôi nghĩ có thể giúp ích Do Thái, ấy là nước Ả Rập Saudi-Arabia đã quan tâm đến Iran nhiều hơn là đến cuộc xung đột Do Thái-Palestine”. Còn những phản ứng khác diễn ra hoặc dưới hình thức của những lời kết án hay tìm cách dìm xuồng vấn đề. Chẳng hạn: - Trung Cộng đã truyền lệnh cho tất cả phương tiện truyền thông địa phương không nhắc gì đến vụ tiết lộ của Wikileaks. - Chính quyền Pháp tuyên bố tiếp tục ủng hộ Hoa Kỳ trọn vẹn. - Thủ tướng David Cameron của Anh xác nhận trong một bản tuyên cáo rằng việc tiết lộ ấy đã làm thiệt hại an ninh của đất nước. - Riêng thủ tướng Ý Silvio Berlusconi hẳn “đau đớn” bởi những “ghi chú” trong tài liệu mật ấy. - Chính quyền Úc Đại Lợi, quê quán của Julian Assagne, người sáng lập Wikileaks, cũng đã ban hành một bản tuyên cáo để kết án việc tiết lộ các tài liệu mật. Họ còn quả quyết sẽ hỗ trợ Hoa Kỳ trong việc điều tra. Được biết, Julian Assange (39 tuổi) đã không trình diện tòa án ở Thụy Điển như đã có lệnh tòa ngày 17-11 vừa qua. Đương sự bị truy tố không phải vì nguyên nhân đã phổ biến trước sau cả hàng triệu tài liệu tối mật, nhưng bởi bị tố cáo về tội hiếp dâm và quấy nhiễu tình dục trong những ngày đương sự du lịch hồi tháng 12-2009 ở đất nước này. Ngày 19-11, Biện Lý Cuộc Thụy Điển đã phổ biến lệnh truy nã nghi can Julian Assange trên khắp thế giới. – (HM)
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 28, 2011 3:38:41 GMT 9
Trên đà phá sản Vietsciences- Nguyễn Trường (dịch) Chalmers Johnson (tác giả) 04/01/2009 Tai Sao Khủng Hoảng Quốc Trái Hiện Là Nguy Cơ Lớn Nhất Đối Với Hoa Kỳ ? Các nhà phiêu lưu quân sự trong chính quyền George W. Bush có nhiều điểm tương đồng với những người cầm đầu công ty Enron trước đây. Họ tự nhận là những người "thông minh tài giỏi bậc nhất trong giới lãnh đạo" (the smartest guys in the room), tiêu đề bộ phim được giải thưởng do Alex Gibney đạo diễn về những sai lầm đưa Enron đến phá sản. Phái Tân Bảo Thủ trong tòa Bạch Ốc và Ngủ Giác Đài đã vượt quá tài trí của chính mình. Họ đã thất bại ngay cả trong việc giải quyết vấn đề tài trợ các cuộc chiến mang tính đế quốc và mưu đồ thống trị toàn cầu. Bước qua năm 2008, Hoa kỳ chợt nhận ra mình đang lâm vào cảnh ngộ bất thường vì không đủ khả năng theo đuổi mức sinh hoạt quá tốn kém hay guồng máy quân sự quá lớn lao, phung phí. Chính quyền cũng không còn tìm cách tiết giảm các chi phí khổng lồ nhằm duy trì những đạo quân hiện hữu, thay thế số quân trang, quân dụng bị hủy hoại hoặc hư hao sau nhiều năm chinh chiến, hoặc chuẩn bị cho cuộc chiến thượng từng không gian chống lại những kẻ thù chưa xuất hiện. Thay vào đó, chính quyền Bush chuyển việc thanh toán những phí tổn nầy lại cho các thế hệ tương lai - hoặc tảng lờ phủ định. Thái độ vô trách nhiệm về thuế vụ đó đã được ngụy trang qua các thủ thuật tài chánh ( như buộc các xứ nghèo hơn cho chúng ta vay những khoản tiền lớn vô tiền khoáng hậu ) ; nhưng tình trạng nầy không thể tiếp diễn. Cuộc khủng hoảng công trái phải được phân tích từ ba góc cạnh khác nhau : (1) Trong tài khóa 2008, chúng ta đã dự chi cho các mục "quốc phòng" những ngân khoản điên rồ không dính dáng gì đến an ninh quốc gia Hoa kỳ. Đồng thời, gánh nặng thuế khóa dành cho những tầng lớp giàu có lại ở mức quá thấp. (2) Chúng ta vẫn luôn tin tưởng có thể bù đắp vào đà xói mòn ngày một tăng tốc trong cơ sở kỹ nghệ chế biến và số công ăn việc làm thất thoát ra các nước ngoài, bằng các chi phí quốc phòng khổng lồ -- thường được gọi "chính sách Keynesianism về quân sự" (military Keynesianism), như chúng tôi đã phân tích trong cuốn "Nemesis" : The Last Days of the American Republic" (Nữ Thần Báo Oán : Những Ngày Cuối của Cộng Hòa Mỹ). Qua cụm từ military Keynesianism, chúng tôi muốn nói đến niềm tin sai lầm là những chính sách công --tập trung vào các cuộc chiến liên tục, vào những chi tiêu về vũ khí, quân trang, quân dụng, vào những đạo quân lớn lao -- có thể giúp duy trì một nền kinh tế tư bản mãi mãi thịnh vượng. Thực tế luôn trái ngược. (3) Khi dồn hết tài nguyên luôn mang tính hữu hạn vào các chính sách quân sự, chúng ta đã bỏ quên đầu tư vào hạ tầng cơ sở xã hội và các chi tiêu cần thiết cho sự lành mạnh của xứ sở. Đó chính là điều các kinh tế gia gọi là "phí tổn cơ hội" (opportunity costs) -- hay những gì không làm được vì chúng ta đã dành tiền chi tiêu vào những thứ khác. Hệ thống giáo dục công lập của chúng ta đã xuống cấp một cách đáng lo ngại. Chúng ta đã không cung cấp dịch vụ bảo hiểm y tế cho mọi công dân và đã lơ là trong trách nhiệm một nước gây ô nhiểm số một trên thế giới. Nhưng quan trọng hơn hết là chúng ta đã đánh mất khả năng cạnh tranh trong địa hạt sản xuất hàng tiêu dùng dân sự -- một phương cách sử dụng tài nguyên khan hiếm vô cùng hữu hiệu so với sản xuất vũ khí. Sau đây chúng tôi xin lần lượt thảo luận vấn đề theo từng góc cạnh vừa nói. I : CHÍNH SÁCH THUẾ HIỆN HÀNH --MỘT TAI HỌA : Người ta khó thể nói quá (virtually impossible to overstate) về sự lãng phí trong chi tiêu quân sự của chính phủ. Ngân sách của bộ Quốc Phòng trong tài khóa 2008 lớn hơn tổng số ngân sách quân sự của tất cả các quốc gia trên toàn thế giới. Riêng ngân sách phụ trội nhằm tài trợ hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq, nằm ngoài ngân sách quốc phòng chính thức, tự nó cũng đã lớn hơn tổng số ngân sách quân sự của Liên Bang Nga và Trung Quốc gộp lại. Lần đầu tiên trong lịch sử, chi tiêu liên hệ đến quốc phòng trong tài khóa 2008 đã vượt quá mức một nghìn tỉ USD. Hoa Kỳ đã trở thành quốc gia bán vũ khí lớn nhất cho toàn thế giới. Không tính các chí phí liên quan đến hai cuộc chiến đang tiếp diễn của TT Bush, chi tiêu quốc phòng đã tăng gấp đôi kể từ giữa thập kỷ 1990s. Ngân sách quốc phòng trong tài khóa 2008 đã lên mức cao nhất kể từ đệ nhị thế chiến. Trước khi đi sâu vào chi tiết và phân tích con số khổng lồ nầy, một điều quan trọng cần được nhấn mạnh. Các con số về chi tiêu quốc phòng rõ ràng là không đáng tin cậy. Các con số chính thức công bố bởi hai cơ quan -- Sở Truy Cứu Quốc Hội (Congressional Reference Service) và Sở Ngân Sách Quốc Hội (Congressional Budget Office) -- không ăn khớp với nhau. Robert Higgs, chuyên viên nghiên cứu kinh tế chính trị cao cấp, khuyên : "Một nguyên tắc chung được chấp nhận là lấy tổng số ngân sách căn bản của Ngũ Giác Đài (thường được quảng bá rộng rãi) và nhân đôi lên ".(A well-founded rule of thumb is to take the Pentagon's [always well publicized] basic budget total and double it). Chỉ cần lướt qua những bài viết về bộ quốc phòng trong báo hàng ngày, người ta cũng thấy nhiều sai biệt trong thống kê về các các chi phí của bộ sở quan. Khoảng 30-40% ngân sách quốc phòng là kinh phí "đen" (black), nghĩa là liên quan đến những "chi phí được dấu kín thuộc những dự án mật" (hidden expenditures for classified projects). Chẳng có cách nào để biết những đề mục đó gồm những gì và ngân khoản liên hệ có xác tính hay không. Có nhiều lý do để giải thích những thủ thuật che đậy nầy -- kể cả sở thích bí mật của Tổng Thống, bộ trưởng quốc phòng, và tập đoàn quân sự-kỹ nghệ (the military-industrial complex) ; nhưng lý do chính là các dân biểu, nghị sĩ -- những người hưởng lợi qua những công ăn việc làm bắt nguồn từ những chi tiêu quốc phòng, những dự án kếch sù hữu ích cho cử tri trong địa hạt của mình (pork-barrel projects)-- vì quyền lợi chính trị riêng, đều ủng hộ bộ quốc phòng. Năm 1996, trong một cố gắng điều chỉnh các chuẩn mực kế toán trong ngành hành pháp theo mẩu mực khu vực kinh tế dân sự, quốc hội đã biểu quyết chấp thuận Đạo luật Cải tiến Quản lý Tài chánh Liên bang (Federal Financial Management Improvement Act). Luật mới đòi hỏi tất cả các cơ sở liên bang phải mướn các kiểm toán viên bên ngoài kiểm tra sổ sách kế toán và công bố kết quả rộng rãi trong công chúng. Nhưng cả Bộ Quốc phòng lẫn Bộ An Ninh Quốc Nội chưa bao giờ chấp hành. Quốc hội có phàn nàn, nhưng cũng chẳng hề có biện pháp chế tài. Kết quả là tất cả các con số do bộ quốc phòng công bố đều không đáng tin cậy. Khi thảo luận ngân sách tài khóa 2008, như đã được công bố cho báo chí ngày 7-02-2007, chúng tôi đã theo sự hướng dẫn của hai nhà phân tích kinh nghiệm và đáng tin cậy : William D. Hartung làm việc cho chương trình "Sáng Kiến Vũ Khí và An Ninh thuộc Quỹ New America Foundation (New America Foundation's Arms and Security Initiative) và Fred Kaplan, phóng viên quốc phòng của tổ chức Slate.org. Họ đồng ý là Bộ Quốc Phòng đã trình Quốc Hội một ngân khoản 481,4 tỉ USD cho lương bổng, điều hành (không kể Iraq và Afghanistan) và trang bị. Họ cũng đồng ý với con số 141,7 tỉ USD ngân sách phụ trội (supplemental budget) cho cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu -- là hai cuộc chiến đang tiếp diễn mà dân Mỹ những tưởng đã dự liệu sẵn trong ngân sách căn bản của Bộ Quốc Phòng. Bộ Quốc Phòng cũng dự chi một ngân khoản khác 93,4 tỉ USD để trang trải những chi phí chiến tranh chưa hề được nhắc đến cho thời gian còn lại của năm 2007, và sáng tạo hơn nữa, một khoản phụ cấp (additional allowance - một từ mới được dùng trong các tài liệu ngân sách quốc phòng) 50 tỉ USD sẽ được tính vào tài khóa 2009. Tóm lại, Bộ Quốc Phòng đã dự chi một tổng số 766,5 tỉ USD cho tài khóa 2008. Nhưng vẫn chưa hết. Nhằm ngụy trang tầm vóc thực sự của chính sách đế quốc quân sự Hoa Kỳ, chính quyền từ lâu đã che dấu những chi phí quân sự lớn lao trong nhiều bộ ngoài Bộ Quốc Phòng. Chẳng hạn, 23,4 tỉ USD cho Bộ Năng Lượng, để khai triển và bảo quản các đầu đạn nguyên tử ; và 25,3 tỉ USD trong ngân sách Bộ Ngoại Giao cho viện trợ quân sự (phần lớn dành cho Do Thái, Saudi Arabia, Bahrain, Kuwait, Oman, Qatar, United Arab Republic, Egypt, và Pakistan). Một ngân khoản 1,03 tỉ USD khác ngoài ngân sách chính thức của Bộ Quốc Phòng để trả tiền thưởng đầu quân và tái đăng cho quân lực Hoa Kỳ hiện giàn trải quá mỏng, so với con số nhỏ nhoi 174 triệu USD trong năm 2003, năm cuộc chiến Iraq bắt đầu. Bộ Cựu Chiến Binh hiện được dành ít nhất cũng 75,7 tỉ USD ; 50% con số nầy dành để trang trải chi phí săn sóc y tế dài hạn cho quân nhân bị trọng thương trong số ít ra là 28.870 thương binh ở chiến trường Iraq, và 1708 thương binh ở Afghanistan. Ngân khoản nầy được công nhận là không thích đáng hay quá khiêm tốn. Một ngân khoản 46,4 tỉ USD được dành cho Bộ An Ninh Quốc Nội (Department of Homeland Security). Đó là chưa kể con số 1,9 tỉ USD dành cho Bộ Tư Pháp để trang trải các chi phí liên quan đến các hoạt động bán quân sự của FBI ; 38,5 tỉ USD dành cho Quỹ Hưu Bổng Quân Sự thuộc Bộ Ngân Khố ; 7,6 tỉ USD cho các hoạt động mang tính quân sự của NASA ; và trên 200 tỉ USD để trả tiền lãi nợ quốc phòng. Tính chung, một cách bảo thủ, Hoa Kỳ phải chi cho bộ máy quân sự ít nhất cũng trên 1.100 tỉ USD trong tài khóa 2008. II : KEYNESIANISM QUÂN SỰ -- MILITARY KEYNESIANISM : Các chi tiêu trên đây là ghê tởm trên bình diện đạo đức và quá sức gánh chịu lâu dài trên bình diện thuế vụ. Nhiều thành viên phái Tân bảo thủ và nhiều người Mỹ yêu nước thiếu hiểu biết tin rằng mặc dù ngân sách quốc phòng thật sự lớn lao, nhưng chúng ta vẫn đủ sức gồng gánh vì Hoa Kỳ là quốc gia giàu nhất hành tinh. Chẳng may niềm tin đó không còn đúng nữa. Liên Hiệp Âu Châu (EU), theo tài liệu "World Factbook" của Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA), mới là cộng đồng chính trị giàu nhất thế giới. Năm 2006, GDP (hàng hóa và dịch vụ sản xuất quốc nội) của EU được ước tính cao hơn GDP của Hoa Kỳ. Cũng vào năm 2006, GDP của Trung Quốc cũng chỉ kém thua Hoa Kỳ chút đỉnh, và Nhật Bản là xứ giàu thứ tư trên thế giới. Một sự so sánh khác, nhiều ý nghĩa hơn -- so sánh cân thương mãi hữu hình (current accounts) giữa các quốc gia -- cho thấy tình trạng của Hoa Kỳ tồi tệ hơn nhiều. Cân thương mãi đo lường số thặng dư hoặc khuy khiếm thuần trong mậu dịch quốc tế (net trade surplus or deficit) của một xứ, cộng thêm số tiền lãi, tiền royalties, cổ tức, tăng giá của tích sản tư bản (capital gains), ngoại viện, và các lợi tức khác. Chẳng hạn, để sản xuất một thứ hàng gì, nước Nhật cần phải nhập khẩu các vật tư (raw materials) cần thiết. Ngay cả sau khi trang trải mọi chi phí, Nhật Bản vẫn còn có một số thặng dư mậu dịch với Hoa Kỳ lên tới 88 tỉ USD/năm và ghi nhận một cân thương mãi thặng dư (xuất siêu) lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc. Ngược lại, Hoa Kỳ đang đứng thứ 163, còn tệ hơn cả Úc và Vương Quốc Anh là những xứ có cân thương mãi khuy khiếm hay nhập siêu lớn. Năm 2006, con số nhập siêu của Hoa Kỳ lên đến 811,5 tỉ USD ; và Tây Ban Nha (Spain) là nước nhập siêu lớn thứ hai với 106,4 tỉ USD. Về lâu về dài, Hoa Kỳ khó thể gồng gánh một cân thương mãi khuy khiếm lớn lao như vậy. Không những chúng ta đang ngụp lặn trong hàng ngoại, kể cả dầu khí nhập khẩu, mà chúng ta không đủ khả năng trang trải, chúng ta còn phải tài trợ những món hàng nhập khẩu nầy bằng những con số vay mượn khổng lồ. Ngày 07- 11 - 2007, Bộ Ngân Khố công bố số nợ của quốc gia (national debt -- quốc trái) lần đầu tiên đã vượt mức 9.000 tỉ USD. Lời loan báo nầy đã được đưa ra năm tuần lễ sau ngày Quốc Hội biểu quyết nâng trần quốc trái lên mức 9.815 tỉ. Kể từ năm 1789, năm Hiến Pháp Hiệp Chủng Quốc ra đời, cho đến năm 1981, số nợ do chính quyền liên bang tích lũy vẫn chưa vượt ngưỡng 1.000 tỉ USD. Khi George W. Bush lên làm Tổng Thống vào tháng 01-2001, con số đó còn ở khoảng 5.700 tỉ USD. Từ đó, số quốc trái đã gia tăng khoảng 45%. Số nợ khủng khiếp nầy một phần lớn có thể giải thích bởi số chi phí quốc phòng của Hoa Kỳ so với phần còn lại của thế giới. Sau đây là 10 nước chi tiêu về quốc phòng nhiều nhất và ngân sách quốc phòng liên hệ (năm) : 1. Hoa Kỳ (ngân sách quốc phòng tài khóa 08), 623 tỉ USD 2. Trung Quốc (2004), 65 tỉ 3. Liên Bang Nga, 50 tỉ 4. Pháp (2005),45 tỉ 5.Anh Quốc, 42,8 tỉ 6. Nhật (2007), 41,75 tỉ 7. Đức (2003), 35,1 tỉ 8. Ý (2003), 28,2 tỉ 9. Nam Hàn (2003), 21,1 tỉ 10. Ấn Độ (2005 ước tính), 19 tỉ Toàn thế giới (2004 u.t.), 1.100 tỉ Thế giới ngoài Hoa Kỳ, 500 tỉ Số chi phí quân sự quá đáng của Hoa Kỳ không chỉ diễn ra trong vòng một ít năm ngắn ngủi hoặc chỉ vì chính sách đặc thù của chính quyền Bush. Tình trạng nầy đã tiếp diễn từ rất lâu -- hậu quả của một hệ ý thức nông nổi đã bám trụ trong hệ thống chính trị dân chủ của chúng ta, một hệ thống nó đang bắt đầu hủy hoại. Hệ ý thức nầy chúng tôi gọi là "chính sách Keynesianism về quân sự" (military Keynesianism) -- chúng tôi muốn ám chỉ ý chí duy trì một nền kinh tế chiến tranh thường trực và xem hậu quả hay "đầu ra" quân sự (military output) như một sản phẩm kinh tế bình thường, mặc dù nó chẳng đóng góp gì vào sản xuất hoặc tiêu thụ. Hệ ý thức nầy ra đời từ những năm đầu của chiến tranh lạnh. Trong những năm cuối thập kỷ 1940s, Hoa Kỳ bị ám ảnh bởi những âu lo về kinh tế. Cuộc Đại Khủng Hoảng Kinh Tế vào thập kỷ 1930s chỉ được khống chế nhờ ở sự bùng phát sản xuất cho đệ nhị thế chiến. Với hòa bình và giải ngũ của quân đội, mọi người âu lo khủng hoảng sẽ trở lại. Trong suốt năm 1949, hoảng sợ trước sự thử nghiệm bom nguyên tử thành công của Liên Bang Xô Viết, viễn tượng chiến thắng của phe cộng sản trong cuộc nội chiến ở Trung Quốc, kinh tế quốc nội thoái trào, và bức màn sắt đang phủ xuống các quốc gia vệ tinh Đông Âu của Liên Bang Xô Viết, Hoa Kỳ cố soạn thảo một chiến lược căn bản cho thời kỳ chiến tranh lạnh đang hình thành. Kết quả là sự ra đời của Phúc trình Hội Đồng An Ninh Quốc Gia 68 (National Security Council Report 68 -- NSC-68) mang tính hiếu chiến, được soạn thảo dưới sự giám sát của Paul Nitze, chỉ huy Nhóm Hoạch định Chính Sách Bộ Ngoại Giao (Policy Planning Staff). Phúc trình đề ngày 14-4-1950, và được TT Harry S. Truman ký duyệt ngày 30-9-1950, đã ghi rõ các chính sách kinh tế công căn bản mà Hoa Kỳ luôn theo đuổi cho đến ngày nay. Trong phần kết luận, NSC-68 xác quyết : "Một trong những bài học có ý nghĩa nhất qua kinh nghiệm đệ nhị thế chiến của chúng ta là nền kinh tế Hoa Kỳ, một khi hoạt động gần mức hiệu quả nhất, có thể cung cấp nhiều tài nguyên khổng lồ cho các mục tiêu khác hơn là tiêu thụ dân sự trong khi cùng lúc đem lại một mực sống cao" (One of the most significant lessons of our World War II experience was that the American economy, when it operates at a level approaching full efficiency, can provide enormous resources for purposes other than civilian consumption while simultaneously providing a high standard of living). Trong bối cảnh đó, các chiến lược gia Hoa Kỳ bắt đầu xây dựng một ngành kỹ nghệ vũ khí rộng lớn, vừa để đối phó với sức mạnh quân sự của Liên Bang Xô Viết ( mà họ luôn đánh giá quá cao), và cũng để duy trì mức toàn dụng và ngăn ngừa sự khả di trở lại của nạn khủng hoảng kinh tế. Rút cuộc, dưới sự lãnh đạo của Ngũ Giác Đai, hàng loạt kỹ nghệ mới đã được xây dựng để sản xuất phi cơ cở lớn, các tàu ngầm nguyên tử, các đầu đạn nguyên tử, hỏa tiển liên lục địa, và các vệ tinh giám sát và truyền thông. Trước các diễn biến vừa nói, TT Eisenhower, trong bài diễn văn chia tay cuối nhiệm kỳ Tổng Thống đọc ngày 6-02-1961, đã lên tiếng cảnh báo : "Sự kết hợp giữa guồng máy quân sự khổng lồ và ngành kỹ nghệ vũ khí rộng lớn là một sự kiện mới mẻ trong kinh nghiệm Hoa Kỳ"(The conjunction of an immense military establishment and a large arms industry is new in the American experience)--đó chính là tập đoàn quân sự-kỹ nghệ. Tính đến năm 1990, giá trị của toàn bộ vũ khí, trang bị, và công xưởng thuộc Bộ Quốc Phòng chiếm tới 83% giá trị của tất cả các nhà máy và trang bị của toàn thể ngành kỹ nghệ chế biến của Hoa Kỳ. Từ năm 1947 đến năm 1990, tất cả các ngân sách quân sự của Hoa Kỳ gộp lại đã lên tới 8.700 tỉ USD. Mặc dù Liên Bang Xô Viết đã tan rã từ lâu, sự lệ thuộc của Hoa Kỳ vào chính sách Keynesianism về quân sự vẫn tiếp tục leo thang, chính là vì các quyền lợi thủ đắc chồng chéo (vested interests) đã lâu ngày bám trụ chung quanh guồng máy quân sự (military establishment). Về lâu về dài, việc cùng lúc theo đuổi cả súng đạn lẫn bơ mì là một tập hợp đầy bất ổn. Kỹ nghệ quân sự sẽ giành hết tài nguyên quốc gia, đẩy dần nền kinh tế dân sự đến bờ băng hoại. Trong thực tế, theo đuổi chính sách Keynesianism về quân sự là một hình thức tự sát kinh tế dần mòn. Ngày 01-5-2007, Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Sách và Kinh Tế ở Washington, D.C., (Center for Economic and Policy Research of Washington, D.C.), cho công bố kết quả một nghiên cứu soạn thảo bởi công ty chẩn đoán toàn cầu Global Insight về ảnh hưởng trong trường kỳ của chi phí quân sự gia tăng. Dưới sự hướng dẫn của kinh tế gia Dean Baker, công trình nghiên cứu đã cho thấy sau ảnh hưởng kích cầu ban đầu, vào khoảng năm thứ sáu, tác dụng của chi tiêu quân sự gia tăng sẽ trở nên tiêu cực. Không cần phải nói, kinh tế Hoa Kỳ đã phải đối đầu với chi phí quốc phòng gia tăng hơn sáu mươi năm qua. Baker đã khám phá, sau 10 năm chi tiêu quốc phòng ngày một gia tăng, thị trường lao động đã thất thoát 464.000 việc làm so với cùng trạng huống khi chi tiêu quốc phòng ở mức thấp. Baker kết luận: "Người ta thường tin, chiến tranh và gia tăng chi tiêu quân sự có ảnh hưởng tốt đối với kinh tế. Trong thực tế, hầu hết các mô hình kinh tế chứng tỏ chi tiêu quân sự thường chuyển hướng tài nguyên khỏi những phương cách sử dụng mang tính sản xuất, như tiêu thụ và đầu tư, và chung cuộc làm chậm tiến độ tăng trưởng kinh tế và suy giảm mức nhân dụng". (It is often believed that wars and military spending increases are good for the economy. In fact, most economic models show that military spending diverts resources from productive uses, such as consumption and investment, and ultimately slows economic growth and reduces employment). III. KINH TẾ HOA KỲ - NGUY CƠ PHÁ SẢN : Nhiều người tin tưởng Hoa Kỳ có đủ khả năng đồng thời duy trì một lực lượng quân sự hùng hậu và một mực sống cao, và cần cả hai để bảo đảm tình trạng toàn dụng. Thực tế đã không được như vậy. Ngay từ thập kỷ 1960s, người ta đã thấy rõ chuyển hướng những xí nghiệp lớn của quốc gia qua Bộ Quốc Phòng và sản xuất những tài hóa không có giá trị đầu tư và tiêu thụ đã bắt đầu bóp ngạt các hoạt động kinh tế dân sự. Sử gia Thomas E. Woods, Jr., nhận xét, trong suốt hai thập kỷ 1950s và 1960s, có khoảng từ 1/3 đến 2/3 các tài năng nghiên cứu của Hoa Kỳ đã chuyển qua khu vực quân sự. Đã hẵn, rất khó biết được sự chuyển dịch tài nguyên và chất xám qua phục vụ các ngành quân sự đã đem lại những khám phá, canh tân nào, nhưng trong thực tế, trong thập kỷ 1960s, người ta ghi nhận Nhật Bản đã qua mặt chúng ta trong việc thiết kế và chất lượng của hàng loạt sản phẩm tiêu dùng, kể cả xe hơi và các hàng điện tử gia dụng. Vũ khí nguyên tử cũng là một ví dụ điển hình của những trường hợp bất thường như thế. Từ 1940 đến 1996, Hoa Kỳ đã chi ra trên 5.800 tỉ USD cho các chương trình khai triển, thí nghiệm, và sản xuất bom nguyên tử. Đến năm 1967, thời điểm kho tàng vũ khí nguyên tử đã lên đỉnh điểm, Hoa Kỳ đã tích lũy khoảng 32.500 bom hydrogen và nguyên tử, cũng may là chưa bao giờ sử dụng quả nào. Điều nầy đã chứng minh rõ nguyên tắc Keynesian là chính quyền có thể tạo ra công ăn việc làm cho nhân công. Vũ khí nguyên tử không phải chỉ là vũ khí bí mật mà đồng thời cũng là vũ khí kinh tế bí mật của Hoa Kỳ. Tính đến năm 2006, chúng ta còn giữ lại 9.960 trong số nầy. Ngày nay, vũ khí hạt nhân chẳng còn hữu ích cho bất cứ ai ngoại trừ những kẻ điên rồ, trong khi đó hàng nghìn tỉ mỹ kim sản xuất ra chúng, lẽ ra, đã có thể được dùng để giải quyết nhiều vấn đề xã hội và y tế, chất lượng giáo dục và đại học cho đại chúng, đó là chưa nói đến tạo việc làm cần kỹ năng cao bên trong nền kinh tế Mỹ. Seymour Melman (1917-2004), giáo sư Đại Học Columbia, chuyên nghiên cứu về kỹ năng và kinh tế kỹ nghệ, là người tiên phong phân tích những mất mát vì chính sách Keynesianism về quân sự. Trong tác phẩm Chủ Nghia Tư Bản Ngũ Giác Đai : Kinh Tế Chính Trị về Chiến Tranh (Pentagon Capitalism : The Political Economy of War), xuất bản năm 1970, ông đã phân tích tiền nghiệm những hậu quả bất ngờ do khuynh hướng đề cao thái quá vai trò của quân lực và vũ khí của Hoa Kỳ từ ngày đầu của chiến tranh lạnh. Melman viết (tr. 2-3) : "Từ 1946 đến 1969, các chính phủ liên tiếp của Hoa Kỳ đã chi hơn 1.000 tỉ mỹ kim về quân sự, hơn nửa con số nầy dưới thời hai Tổng Thống Kennedy và Johnson -- thời kỳ trong đó sự điều hành nhà nước [với Ngũ Giác Đài giữ vai trò áp đảo] đã được thiết kế như một định chế chính thức. Con số choáng ngợp nầy (thử tưởng tượng một tỉ thứ gì đó) vẫn chưa phản ảnh toàn bộ phí tổn của guồng máy quân sự đối với quốc gia nói chung. Phí tổn thực sự phải gồm cả những gì đã bị hy sinh, những suy thoái về nhiều mặt của đời sống vì không còn khả năng cải thiện tình trạng cơ cực dài lâu của người dân". Trong một cố gắng diễn giải tính chính xác và thời sự trong phân tích của Melman đối với hiện tình kinh tế Hoa Kỳ, Thomas Woods đã viết : "Theo Bộ Quốc Phòng, trong bốn thập kỷ từ 1947 đến 1987, Bộ đã chi 7.620 tỉ mỹ kim (tính theo giá trị đồng mỹ kim năm 1982) số tài nguyên tư bản. Trong năm 1985, Bộ Thương Mãi ước tính giá trị toàn bộ các nhà máy, trang bị, và cơ sở hạ tầng của cả nước là khoảng trên 7.290 tỉ mỹ kim. Nói một cách khác, con số chi tiêu trên đây đã có thể giúp tăng gấp đôi toàn bộ khối tư bản của Hoa Kỳ hoặc hiện đại hóa và thay thế toàn bộ khối tư bản hiện hữu". Việc không canh tân hoặc thay thế khối tư bản tích sản là một trong những nguyên nhân vì sao khi bước vào thế kỷ 21, cơ sở kỹ nghệ chế biến của chúng ta đã tan biến. Máy dụng cụ (machine tools) -- ngành kỹ nghệ Melman tường tận nhất-- là một triệu chứng cực kỳ quan trọng. Tháng 8-1968, một cuộc kiểm kê kéo dài 5 năm (tr.186) tiết lộ : "64% các máy dụng cụ trong ngành luyện kim của Hoa Kỳ đã hơn 10 năm tuổi. Tuổi tác các trang thiết bị kỹ nghệ (máy khoan, máy tiện, v.v...) cho thấy máy dụng cụ của Hoa Kỳ là già cổi nhất trong các xứ kỹ nghệ tiền tiến và đánh dấu quá trình thoái hóa liên tục kể từ sau đệ nhị thế chiến. Sự thoái hóa trong cơ sở hệ thống kỹ nghệ chứng tỏ hậu quả hao mòn, suy yếu của việc chuyển dịch tư bản và chất xám qua phục vụ khu vực quân sự của Hoa Kỳ". Từ năm 1968 cho đến nay, chúng ta chưa thấy một nổ lực nào nhằm đảo ngược xu hướng trên đây. Tình trạng nầy đã được phản ảnh trong việc nhập khẩu ồ ạt các sản phẩm trang bị, từ máy móc dùng trong y tế như máy tăng tốc proton (proton accelerators) dùng trong xạ trị (radiological therapy) --phần lớn từ Bỉ, Đức, và Nhật --, cho đến xe du lịch, xe vận tải. Kỷ nguyên siêu cường duy nhất quá ngắn ngủi đã đến hồi kết thúc. Như giáo sư Benjamin Friedman đã viết : "Đã nhiều lần, Hoa Kỳ luôn là quốc gia lãnh đạo và trái chủ, một quốc gia hàng đầu về ảnh hưởng chính trị, ngoại giao, và văn hóa. Đó là điều đương nhiên khi chúng ta thay thế vai trò Anh quốc, đồng thời...vai trò một quốc gia lãnh đạo trái chủ của toàn thế giới. Ngày nay, chúng ta không còn là quốc gia lãnh đạo và trái chủ của thế giới.Trong thực tế, chúng ta đang là quốc gia con nợ lớn nhất thế giới, và chúng ta đang tiếp tục nắm giữ ảnh hưởng chỉ dựa trên căn bản sức mạnh quân sự ". Vài tổn hại đã gánh chịu có thể không bao giờ cứu chữa được. Tuy nhiên, vẫn còn vài việc quốc gia nầy cần phải cấp tốc thực hiện. Chúng ta cần phải đảo ngược các biện pháp giảm thuế cho người giàu trong hai năm 2001 và 2003 của Bush, phải khởi sự thanh toán hệ thống đế quốc với hơn 800 căn cứ quân sự trên toàn cầu, phải cắt giảm khỏi ngân sách quốc phòng tất cả các dự án không liên quan gì đến an ninh quốc gia của Hoa Kỳ, và phải chấm dứt việc dùng ngân sách quốc phòng như một chương trình tạo việc làm theo kiểu Keynesianism. Nếu chúng ta làm được những điều đó, chúng ta sẽ có cơ may thoát nạn. Ngược lại, chúng ta có lẽ phải đối đầu với nguy cơ một quốc gia phá sản và một cuộc khủng hoảng dài lâu. © GS Nguyễn Trường Irvine, CA, USA
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 4:20:56 GMT 9
Cánh Tả Hoa Kỳ và Trung Quốc Vietsciences-Nguyễn Trường Sau nhiều lần thăm viếng Trung Quốc (TQ) kể từ năm 2002, Andy Stern - nguyên chủ tịch SEIU[1], hồi tưởng những cuộc thảo luận với cấp lãnh đạo ACFTU[2] về các vấn đề tổ chức và thương lượng tập thể. Chuyển hóa kinh tế ở TQ là một thách thức lớn đối với Hoa Kỳ, nhất là công nhân Mỹ. Stern nói: "Chúng ta phải công nhận TQ là xứ cạnh tranh kinh tế đầu tiên thực sự đe dọa địa vị siêu cường toàn cầu duy nhất của Hoa Kỳ"[3]. Andy Stern SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ HỆ QUẢ Ít ai có thể chối cãi sự trỗi dậy của TQ mang ý nghĩa thay đổi thế giới. Tuy nhiên, trong nội bộ phe tả ở Mỹ, người ta ghi nhận nhiều dị biệt sâu sắc mang tính nguyên tắc về hai vấn đề: phản ứng thích hợp trước sự trỗi dậy của TQ như một siêu cường và sự trỗi dậy báo hiệu nhiều viễn tượng tốt đẹp hay chỉ là triệu chứng chẳng lành. Ngay cả những chuyến viếng thăm TQ của Stern trong thập kỷ vừa qua cũng đã bị cấp lãnh đạo lao động chỉ trích nặng nề. Chẳng hạn, giới hoạt động nhân quyền và toàn cầu hóa lên án ACFTU là khí cụ đàn áp công nhân lao động của Đảng Cộng Sản cầm quyền ở TQ. Sophie Richardson , giám đốc Human Rights Watch phân bộ Á châu, đặt câu hỏi: "Andy Stern hình như nghĩ, ông ta có thể tìm thấy những thành phần cấp tiến trong nội bộ ACFTU. Và SEIU cũng đồng ý?"[4]. Jeffrey Fiedler, một nhà hoạt động lâu năm về TQ, một quan chức IUOE[5], và một thành viên ESRC[6], còn gay gắt hơn: "Andy Stern đã bất chấp mọi nguyên tắc và đã khởi sự thương nghị với ACFTU. Người cầm đầu ACFTU là thành viên của Bộ Chính Trị dơ bẩn! Hắn là một tên đạo tặc"[7]. Đã hẳn, nhiều người trong giới lao động đã bị chế nhiễu khi tin các công xưởng sản xuất hàng xuất khẩu ở TQ, thường do các công ty đa quốc gia Mỹ sở hữu và quản trị, đang giành mất việc làm trong khu vực kỹ nghệ chế biến. Họ xem TQ, như tay chơi lớn nhất trong cơn sốt quốc tế khởi động bởi các đại công ty đa quốc gia, lợi dụng lao động rẻ tiền và pháp chế lỏng lẻo trong phần lớn thế giới đang phát triển trong quá trình sản xuất và cung cấp hàng nhập khẩu tràn ngâp các cữa hàng trong các khu thương mãi Hoa Kỳ. Theo Robert Borosage, đồng giám đốc Chiến Dịch Vận Động Cho Tương Lai Hoa Kỳ[8], " những mất thăng bằng toàn cầu nói chung - với Đức, Nhật, TQ, Hàn quốc, và nhiều xứ khác, chuyên chú vào mô hình xuất khẩu và gắn bó với mô hình nầy, không mấy quan tâm chuyển dịch đến một thị trường quân bình hơn - có tác động gây mất ổn định trong kinh tế toàn cầu, nhất là kinh tế Mỹ, và không thể bền lâu. Vì vậy, Hoa Kỳ phải đối đầu với một loạt các xô xát và thử thách, không chỉ với người TQ"[9]. Hệ quả sự trỗi dậy của TQ còn sâu rộng hơn nhiều. TQ đã nhanh chóng trở thành một nền kinh tế khổng lồ, đi từ những nhà máy lắp ráp thô sơ và các xưởng may hực nóng đến các sản phẩm cao cấp và nhiều cách tiếp cận sáng tạo các kỹ thuật xanh, kể cả các tuốc-bin chạy bằng gió, các pa-nô năng lượng mặt trời, và các xe hơi chạy bằng điện. Mặc dù chỉ là một mô hình kinh tế tư bản "mang tính Viễn Tây", không bị trói buộc, nhưng đối với các nền kinh tế đang phát triển, sự kết hợp chặt chẽ giữa guồng máy kiểm soát chính trị từ trung ương và tăng trưởng kỹ nghệ do nhà nước chỉ đạo, tượng trưng một thách thức rõ rệt đối với mô hình tăng trưởng áp đảo kiểu Mỹ trong thời hậu chiến. Và mô hình TQ đã được xem như mô hình quyến rũ đối với nhiều giới. Carolyn Bartholomew, phó chủ tịch ESRC và nguyên trợ tá của Nancy Pelosi, chủ tịch Hạ Viện, đã lên tiếng: "Tôi quan ngại, ở nhiều nơi trên thế giới, hình thức tư bản độc tài của TQ đang bám trụ. Hãy nhìn phương cách dấn thân của TQ ở Phi châu"[10]. Orville Schell, giám đốc Trung Tâm Quan Hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc thuộc Hội Á Châu[11], cũng ghi nhận: "Chẳng khác gì các địa tầng chính trị toàn cầu đang chuyển dịch dưới chân mọi người. Chúng ta bất thần đối mặt một mô hình tư bản độc tài khác rất thành công , và thậm chí đang trở thành một thách thức về kinh tế, chính trị, và ngay cả đối với lòng tin ở hệ thống quản trị dân chủ của chúng ta là hệ thống tốt nhất có thể đem lại một đời sống tốt đẹp"[12]. Một hệ quả không thể tránh là sớm muộn gì TQ, một cường quốc kinh tế ngày một lớn mạnh, cũng trỗi dậy như một cường quốc chính trị và quân sự với ảnh hưởng từ Đông Á đến Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Trung Đông, Phi Châu và xa hơn nữa. CÁNH TẢ HOA KỲ THIẾU NHẤT QUÁN Trong nội bộ, phe cấp tiến hình như không đồng thuận về phản ứng đối với sự trỗi dậy của TQ. Theo John Feffer, đồng giám đốc Chính Sách Đối Ngoại Trọng Tâm thuộc Viện Nghiên Cứu Chính Sách IPS tả phái[13] "điều nầy đã chia rẽ cộng đồng cấp tiến"[14]. Với ý thức chính sách TQ của Hoa Kỳ chịu sự chi phối chặt chẽ của các đại công ty đa quốc gia, các ngân hàng đầu tư vào TQ, và tập đoàn quân sự-kỹ nghệ luôn xem TQ là đối thủ và địch thủ tiềm năng, giới cấp tiến hiểu rõ họ khó thể ảnh hưởng đến quá trình định hình chính sách quốc gia. Tuy vậy, họ vẫn tham gia thảo luận các lựa chọn khả dĩ: đối đầu hay thỏa hiệp với một TQ đang lên? Áp đặt thuế quan và các biện pháp chế tài hay mở cữa đón nhận các xí nghiệp quốc doanh ngày một bành trướng - đầu tư chứng khoán vào các công ty Mỹ và đầu tư trực tiếp qua việc xây dựng những công xưởng ở Hoa Kỳ? Cộng tác hay tránh xa ACFTU và các định chế khác của TQ? Ngoài ra còn có các vấn đề nhân quyền, kể cả quyền công nhân, quyền tự do tôn giáo, và quyền các dân tộc thiểu số như người Tây Tạng và người Hồi giáo Uighur ở miền Tây TQ? Liệu nạn thiếu nhân công lao động, đã đưa đến làn sóng đình công và phản kháng gần đây, sẽ khiến TQ dành nhiều tự do hơn cho công nhân như quyền tổ chức, quyền tranh đấu đòi tăng lương và nâng cao mực sống? Sau nhiều lần phỏng vấn một số các nhà phân tích chính sách cấp tiến, các kinh tế gia, các nhà hoạt động môi trường, nhân quyền, lao động, các viên chức chính quyền, và các chuyên gia TQ trong giới đại học, Robert Dreyfuss cho biết, hầu hết đều đồng ý: muốn cạnh tranh với TQ, Hoa Kỳ phải chấp nhận một số chính sách kỹ nghệ rõ ràng, đầu tư vào hạ tầng cơ sở, tạo công ăn việc làm, giáo dục và huấn nghệ, kỹ nghệ chế biến công nghệ cao, nghiên cứu và phát triển, đặc biệt là trong kỹ thuật xanh. Theo Schell, ưu tiên hàng đầu là củng cố nội bộ. Nhưng ngay cả về điểm nầy, các nhà hoạt động cánh tả cũng ghi nhận nhiều ý kiến bất đồng, bởi lẽ: thật khó lòng đề xướng một chính sách kỹ nghệ của Hoa Kỳ - đánh thuế giới nhà giàu, trợ cấp các kỹ nghệ cốt lỏi, chi tiêu nhiều hơn vào cơ sở hạ tầng và huấn nghệ - mà không cùng lúc đề cập vấn đề ý thức hệ tân bảo thủ áp đảo về toàn cầu hóa và mậu dịch tự do, và điều đó gồm cả vấn đề TQ. Thực vậy, người ta không thể nói đến một chính sách kỹ nghệ quốc nội mà không đề cập đến chế độ mậu dịch. Đối với nhiều người trong phong trào lao động Mỹ, không ai nghi ngờ TQ là một đe dọa trầm trọng, ít ra, đối với công ăn việc làm và sự phồn vinh của người Mỹ. Tại trụ sở AFL-CIO, Viện Chính Sách Kinh Tế -EPI [15] và Liên Minh Kỹ Nghệ Chế Biến Hoa Kỳ- AAM[16], một dự án được nghiệp đoàn United Steelworkers ủng hộ, trong phúc trình về TQ, đã ghi nhận: Đó là một cường quốc hù dọa, trọng thương, cạnh tranh bất chính với các nước khác bằng cách nhào nặn giá trị đơn vị tiền tệ, đàn áp giới lao động, chà đạp các chuẩn mực môi sinh, và bóc lột thế hệ nhân công du cư để sản xuất hàng xuất khẩu rẽ tiền...Phúc trình còn cho biết: TQ lợi dụng sự hăm hở của các công ty đa quốc gia đang nôn nóng xây dựng những cơ xưởng ít bị giám sát trong những khu kỹ nghệ ven biễn Nam TQ, đồng thời bắt chẹt các công ty nầy san sẻ bí quyết thương mãi và kỷ thuật như cái giá phải trả để được phép kinh doanh. Đó là một sự lên án bao quát, và giải pháp đề nghị là một hổn hợp các thuế quan mang tính trừng phạt - lối 25% cho nhiều loại sản phẩm nhập khẩu từ TQ - cùng với các chế tài và biện pháp buộc TQ phải tái định giá đồng nhân dân tệ lên 40% hay cao hơn. Nhóm nầy không tin sẽ có đụng độ hay chiến tranh thương mãi với TQ, và trong thực tế, họ nhấn mạnh nếu Hoa Kỳ đợi càng lâu trước khi trực tiếp đương đầu với TQ, vấn đề sẽ ngày một khó khăn thêm. Kuttner nói: "Tôi có thể nói với người TQ, 'chúng tôi sẽ không cho phép tự do tiếp cận hàng TQ, chừng nào quý vị còn lấy trộm kỷ thuật, đòi hỏi các công ty Mỹ chỉ có thể sản xuất hàng hóa ở TQ để xuất khẩu và không để bán trên thị trường TQ, đòi hỏi các thỏa ước chuyển giao công nghệ mang tính cưởng ép, và nhào nặn giá trị đơn vị tiền tệ của quý vị'. Lúc đó mỡ đã ở trên lữa, và người TQ sẽ phải quyết định họ sẽ làm được gì trong tình trạng đó. Điều nầy rất có thể đưa đến xung đột. Nếu chúng ta có phản ứng cứng rắn đối với chủ nghĩa trọng thương của TQ, điều đó có thể trở nên rất tồi tệ, khả ố trong ngắn hạn"[17]. Robert Scott, kinh tế gia của EPI - tác giã một nghiên cứu xuất bản trong tháng 3-2010 - đã kết luận, trong khoảng 2001- 2008, gần 2,5 triệu việc làm của Mỹ đã thất thoát qua TQ, kể cả hơn 600.000 chỉ riêng trong ngành vi tính và điện tử. Giống như nhiều người trong quỹ đạo AFL-CIO, Scott đứng trên lập trường quốc gia để bảo vệ các biện pháp tái lập quân bình cân thương mãi Hoa Kỳ-Trung Quốc hiện đang khuy khiếm. Trong cuộc phỏng vấn tại trụ sở, Scott tuyên bố, "Chính quyền Hoa Kỳ có trách nhiệm đối với công nhân Mỹ, phải khai triển các chính sách trong quyền lợi quốc gia của chúng ta"[18]. Khi có người nêu rõ trong ba thập kỷ vừa qua TQ đã giải phóng hàng trăm triệu người khỏi nghèo đói, và thái độ của Scott có thể bị một số người xem như bài ngoại. Scott gật đầu đồng ý: "Đúng. Tôi xem công việc của tôi là phải quan tâm đến mực sống của công nhân Mỹ"[19]. Và ông nhấn mạnh chỉ động thái đe dọa đóng cữa thị trường Hoa Kỳ đối với hàng nhập khẩu từ TQ mới mong đủ sức thuyết phục Bắc Kinh phải lưu ý. Người ta có thể dễ dàng kết luận sự thành công cuả TQ trong chương trình xóa đói giảm nghèo cho trên dưới 400 triệu người là sự kiện quan trọng nhất trên thế giới trong 1/4 thế kỷ vừa qua. Đã hẳn, phần lớn tăng trưởng của TQ từ cuối thập kỷ 1970s đã được trả giá với ô nhiễm môi trường và điều kiện lao động tồi tệ của nhân công. Nhưng những người chủ trương cần có lập trường cứng rắn đối với TQ chối bỏ hiện tượng cải thiện lớn lao trong mực sống ở TQ hay nghi ngờ sự hiện hữu của hiện tượng nầy. Họ lập luận TQ đã thành đạt tăng trưởng kỷ lục đáng kinh ngạc, trung bình khoảng 10% /năm kể từ 1979, qua sự bóc lột giai cấp công nhân, với rất ít hay không có lợi ích vật chất dành cho người dân bình thường. Scott Paul - giám đốc sáng lập Liên Minh AAM, nhà vận động hành lang cho giới lao động và nguyên trợ tá cho David Bonio, nguyên dân biểu Michigan - lập luận: công nhân TQ thường không được thù đáp tương xứng và lao động trong một môi trường thiếu an toàn. Qua áp lực buộc TQ tái định giá đồng nhân dân tệ, theo Paul và phe nhóm, Hoa Kỳ có thể buộc TQ phải tăng lương và cải thiện mức tiêu thụ và đời sống của giới lao động. Scott Paul nói tiếp:"Điều nầy sẽ cho phép người TQ hưởng thụ thành quả tăng trưởng"[20]. Thea Lee, phụ tá giám đốc chính sách công AFL-CIO, cũng không sẵn sàng công nhận sự tăng trưởng ở TQ mang lại lợi ích lớn lao cho người dân. Lee, một phụ nữ gốc Hoa, rất am tường chính sách TQ của Hoa Kỳ, một chính sách, theo bà, quá thỏa hiệp và chịu ảnh hưởng các công ty Mỹ đang có quyền lợi làm ăn ở TQ. Lee nói: "Tôi không gọi tình trạng nầy là một thành công đối với dân lao động. Đây là một ô nhục. Hệ thống điều hành tương tự một Miền Tây Man Rợ, và chẳng ai quan tâm. Các bạn chứng kiến các tai họa: tàn phá môi trường dài hạn, lao động vị thành niên, lao động cưởng bách, lạm dụng sức khỏe công nhân"[21]. Đối với ACFTU, với gần 200 triệu đoàn viên, giống như Fiedler, Lee nói: "Chúng tôi không công nhận ACFTU như một công đoàn thực sự. Tôi xem họ như chính quyền. Họ là giới quản trị"[22]. Ngay cả các viên chức và các nhà hoạt động bên trong phong trào lao động và đồng minh của họ cũng kêu gọi đối đầu với những gì họ xem như những xảo thuật mậu dịch cướp đoạt của TQ, đôi khi họ dùng cả ngôn từ thời chiến tranh lạnh. Chẳng hạn, Paul của AAM cũng bày tỏ sự quan ngại sâu xa trước các nổ lực tăng cường quân lực của TQ. Paul đặt câu hỏi: "Thặng dư mậu dịch đang được TQ sử dụng để tăng cường quân lực. Họ muốn tăng cường hải quân trong vùng Thái Bình Dương, phát triển vũ khí hạt nhân tiền tiến, các vũ khí hủy diệt vệ tinh. Những việc đó nói lên điều gì về hòa bình? Mục tiêu họ theo đuổi là sự hiện diện trong vùng duyên hải Thái Bình Dương và thách thức bá quyền của Hoa Kỳ trên Thái Bình Dương. Điều đó mang nhiều ẩn ý lớn lao"[23]. Và trên danh sách những bước cần thiết để chứng tỏ với TQ Hoa Kỳ đang xử sự rất nghiêm chỉnh, Fiedler liệt kê: giảm tốc độ hay ngưng các quan hệ quân sự Hoa Kỳ-TQ và hạn chế tối đa số du học sinh TQ đến Mỹ. Fiedler còn dùng cả từ "phát xít" khi nói về TQ, và còn nói thêm: "Tôi còn muốn tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan"[24]. Đã hẳn, cũng có một số người có quan điểm trái ngược. Thực vậy, vài người lập luận, tìm cách thu hút việc làm từ TQ trở về Mỹ là việc làm thiếu thực tế, và trong mọi trường hợp, Hoa Kỳ cũng phải dành không gian cho Bắc Kinh trỗi dậy như một đại cường. Đối với những nhà phân tích nầy, những luận điệu tăng cường phản ứng quân sự của Mỹ đối với TQ là điều thật sự rất đáng lo ngại. Chẳng hạn, James Galbraith, kinh tế gia "dị giáo hay phi chính thống" và giáo sư Đại Học Texas, nhân vật thuộc phe tự do nhưng không được giới lao động và đồng minh ưa thích, thường chỉ trích nghiêm khắc những ai nghĩ có thể khuyến dụ và thu hút việc làm từ TQ qua một phối hợp các chiến thuật gây sức ép. Những nhân vật như Galbraith thường bị gạt bỏ một cách thô lỗ và động lực của họ bị nghi ngờ. Galbraith đại diện cho một quan điểm hoàn toàn trái ngược với các tổ chức AFL-CIO/EPI/AAM, và quan điểm của ông được chia sẻ bởi những nhân vật như Joseph Stiglitz ở Đại Học Columbia, Alice Amsden ở MIT, và nhiều người khác. Galbraith gạt bỏ luận cứ tăng trưởng kinh tế ở TQ đã không đem lại lợi ích vật chất lớn lao cho hàng trăm triệu người trong một thời gian ngắn. Rõ ràng là một thế hệ quần chúng đông đảo đã thoát khỏi nghèo đói - với một cuộc sống mới, họ hiểu rất rõ, tốt hơn trước rất nhiều. Ông lập luận, một số lớn những sản phẩm biến chế ở TQ đã được sản xuất để đáp ứng nhu cầu thị trường quốc nội, công xá và điều kiện làm việc được cải thiện, nhất là trong khu vực xuất khẩu, và ép buộc TQ tái định giá trị đơn vị tiền tệ ở một mức cao sẽ chẳng ảnh hưởng gì đến việc tạo công ăn việc làm ở Mỹ. Một luận cứ chính yếu trong giới viên chức lao động và đồng minh của họ là không những giữ hối suất đơn vị tiền tệ ở mức thấp, TQ đồng thời cũng kìm hảm mức tiêu thụ quốc nội quá khe khắt. Và, họ lập luận, tỉ suất tiết kiệm ở TQ cao nhất thế giới, trên 40% hàng năm - so với Hoa Kỳ luôn lên xuống trong khoảng từ số không đến 5% mỗi năm - chỉ đạt được bằng cách dìm nén mức sống của 1,3 tỉ dân. Vì vậy, theo họ, khi buộc TQ tái định tỉ suất hối đoái đơn vị tiền tệ ở một mức cao và lèo lái tài hóa trở lại thị trường nội địa, họ chỉ làm những gì tốt nhất cho TQ - và đồng thời giúp tạo thêm nhu cầu của người Hoa đối với hàng hóa Mỹ. Galbraith diễu cợt ý tưởng người Mỹ biết những gì tốt cho TQ hơn là người TQ. Ông nói: "Ý niệm TQ có thể gia tăng tiêu thụ quốc nội một cách nào đó có lợi cho công nhân Mỹ về phương diện vật chất là điều không hợp lý. Trước hết, tiêu thụ ở TQ đã gia tăng nhanh chóng trong nhiều thập kỷ. Thứ hai, nâng cao mức tiêu thụ hơn nữa có ý nghĩa gì? Phải chăng có thêm nhiều xe hơi và ít đường sá để lái xe đi lại? Từ quan điểm phát triển, điều nầy không có ý nghĩa gì hết. Tại sao người TQ nên giảm tốc độ xây cất hạ tầng cơ sở tương đối với việc tăng sức mua tiêu thụ phẩm? Tại sao họ nên xây ít nhà máy phát điện hơn và mua thêm máy móc để gây nạn thiếu điện?"[25]. Giống như Galbraith, một vài người - nghi ngờ lập trường chống TQ không lay chuyển của giới lao động - không e ngại lên án những người to tiếng chỉ trích TQ là bài ngoại, phân biệt chủng tộc, là gieo rắc ý niệm Họa Da Vàng - Yellow Peril-style alarmism, một đồng vọng của chiến dịch gây hoang mang về một đe dọa tưởng tượng đối với sự thịnh vượng và công ăn việc làm ở Hoa Kỳ của người Nhật hai thập kỷ trước đây. Các nhà phân tích cấp tiến, chỉ trích chính sách chống TQ của AFL-CIO, thường đưa ra hai luận cứ: TQ xứng đáng được tán thưởng về thành tích và uy tín đã giúp hàng trăm triệu người tiếp cận một đời sống thành thị phồn vinh, và Hoa Kỳ đã thực sự sai lầm khi xúc phạm TQ với mục đích đánh lạc hướng công luận về lịch sử lãnh đạo kinh tế sai lầm của chính mình trong nhiều thập kỷ. Feffer của IPS nói: "Chúng ta đang bàn về một xứ có tiềm năng liên tục giải phóng một số dân khổng lồ khỏi nghèo đói. Tôi không nghĩ quốc gia liên hệ có thể làm được việc nầy bằng cách cạnh tranh 'công bằng' theo đúng quy luật của chính sách quốc tế"[26]. So với công nhân ở TQ, chưa nói gì đến thợ thuyền trong các nhà máy sắt thép ở Nigeria hay nhân công may mặc ở Ba Tây, công nhân Hoa Kỳ tương đối khá giả hơn nhiều. Theo Doug Henwood, biên tập viên nhà xuất bản Left Business Observer, " luận bàn về Họa Da Vàng đã có từ lâu ở Hoa Kỳ, và khá nhiều luận bàn dễ dàng hòa nhập vào loại nầy . Vâng, họ rất cạnh tranh, nhưng ...lịch sử 'Họa Da Vàng' làm cho đề tài đầy vẻ tai họa và độc địa. Chỉ trích TQ luôn dễ dàng hơn là nhìn xem những gì sai trái với Hoa Kỳ. Đây là một thứ quốc gia chủ nghĩa quá gần gũi với bài ngoại, đã thêm dầu vào lữa, và các thành phần mị dân cánh tả cũng như cánh hữu đều dễ đồng tình trong tâm thức không ưa thích TQ"[27]. Khuynh hướng nầy càng đáng tiếc hơn vì đã tăng cường luận điệu hiếu chiến từ cánh hữu. Trong nhiều năm gần đây, Ngũ Giác Đài luôn phổ biến những cảnh báo ngày một nghiêm trọng hơn về sự trỗi dậy của TQ như một thách thức chiến lược đối với Hoa Kỳ, và kể từ khi chiến tranh lạnh chấm dứt, phái tân bảo thủ và cánh ủng hộ giới quân sự hữu phái đã dùng 'bóng ma TQ để hù dọa ' khả dĩ lấp lỗ hổng "hội chứng thiếu kẻ thù"(enemy deprivation syndrome), như Charles Freeman, một quan chức ngoại giao cao cấp nói được tiếng Quang Thoại, trước đây thích gọi. Selig Harrison, một nhà báo và giám đốc Chương Trình Á Châu thuộc Trung Tâm Chính Sách Quốc Tế - CIP [28], đã gợi ý: giới cấp tiến cần làm quen với ý niệm quyền lợi quốc gia chính đáng của TQ trong khu vực. Harrison nói: "Ý tưởng chúng ta nên chấp nhận quyền lợi của TQ trong vùng Đông Á, theo tôi nghĩ, phải được phe tự do sẵn sàng đón nhận. Thực tế TQ sắp có một hải quân có tầm với dài, sẽ là một siêu cường, giống như Ấn Độ, và Hoa Kỳ phải tự điều chỉnh"[29]. Nhưng nước Mỹ đã không tự điều chỉnh tốt và kịp thời. Thật khó lòng tưởng tượng một chính trị gia Mỹ bênh vực lập trường: Hoa Thịnh Đốn nên rút khỏi hiện tình dàn trải quá mỏng ở Á châu và Thái Bình Dương hoặc nhường chỗ cho một sự hiện diện rộng lớn của TQ. Mới đây, trong mùa hè vừa qua, chính quyền Obama đã đặt viên gạch đầu tiên xây Bức Trường Thành Ngăn Bờ chung quanh TQ, qua động thái hàn gắn quan hệ với lực lượng đặc biệt tàn bạo của Indonesia, và tham gia vào hàng ngũ chống đối TQ trong vụ tranh giành có tiềm năng nguy hiểm khi TQ đòi quyền sở hữu một chuổi các hải đảo trong khu vực Biển Đông. Michael Klare - tác giả cuốn Các Cường Quốc Đang Lên , Hành Tinh Co Rút - Rising Powers, Shrinking Planet - nói: "Thật là một tai họa khi giới cấp tiến cung cấp cỏ khô cho mồi lữa tập đoàn quân-sự-kỹ-nghệ qua việc bêu xấu hay chụp mũ TQ. Nhiều nhóm lợi ích hùng mạnh ở Hoa Thịnh Đốn muốn xô đẩy chúng ta vào con đường xung đột"[30]. Vấn đề Đài Loan là một điểm nóng đặc biệt, và nếu quan hệ giữa Bắc Kinh và Hoa Thịnh Đốn tuột dốc, một đại họa giữa hai cường quốc nguyên tử rất dễ xẩy ra vì hải đảo nầy. Theo Harrison, sự chấm dứt hậu thuẩn quân sự cho Đài Loan phải là khởi điểm cho mọi nổ lực cải thiện quan hệ Hoa Kỳ-TQ, kể cả quan hệ kinh tế. Harrison nói: "Chúng ta sẽ không bao giờ có thể buộc TQ ứng xử phải chăng trên bình diện kinh tế, về các vấn đề then chốt như tỉ suất hối đoái và lập trường tương lai về việc nắm giữ các trái phiếu ngân khố của chúng ta, nếu chúng ta tiếp tục gây rối về vấn đề Đài Loan"[31]. Lập trường của chúng ta đối với TQ một phần tùy thuộc vào thái độ: liệu chúng ta có đủ niềm tin TQ có thể chuyển biến từ một hệ thống độc tài qua một hệ thống tự do, dân chủ hơn, và nếu vậy, phải chờ đợi bao lâu? Thánh kinh của những kẻ tin TQ sẽ không thay đổi là tác phẩm 2007 của James Mann, "The China Fantasy" (Trung Quốc Hoang tưởng). Nguyên phóng viên báo Los Angeles Times và hiện công tác ở Johns Hopkins School for Advanced International Studies, Mann lập luận: TQ rất có thể không tan rã hay dân chủ hóa. Thay vào đó, rất có thể sau nhiều thập kỷ, TQ sẽ cực giàu và không dân chủ, và những ai tin ở khả năng dân chủ hóa của TQ là hết sức sai lầm. Mann nói, TQ "vẫn còn là một chế độ Leninist, do Đảng Cộng Sản lãnh đạo theo những vòng tròn cấp bậc từ dưới lên, với một Ủy Ban Trung Ương Đảng, một Bộ Chính Trị, và một Ủy Ban Thường Trực của Bộ Chính Trị". Đã hẳn trong những thập kỷ sắp tới, hệ thống chính trị TQ có thể có nhiều lựa chọn đường hướng thay đổi.Tuy nhiên, nếu có thay đổi, động lực thúc đẩy chắc sẽ đến từ tầng lớp lao động, và gần đây có nhiều dấu hiệu giới công nhân đã bắt đầu chứng tỏ thực lực của chính mình. Trong những năm vừa qua, họ đã phô trương một chuổi các hành động ngày một tăng tốc, đình công và phản kháng, với cao điểm khi báo chí đưa tin các xưởng lắp ráp Honda đã phải đóng cửa trong tháng 5-2010. Và trái với nhiều người quen nhìn TQ theo nhãn quan trắng đen rõ rệt - một tầng lớp lao động bị một chế độ thuần nhất và một công đoàn tay chân, ACFTU, áp bức - những động thái gần đây của giới lao động đã phơi bày một hình ảnh với nhiều sắc thái tế nhị khác xa. Ít nhất, làn sóng đình công gần đây là dấu hiệu tất cả các tay chơi - công nhân, chính quyền cấp tỉnh và địa phương, ACFTU, chế độ ở Bắc Kinh - đang công diễn một vũ điệu phức tạp. Đáng ngạc nhiên nhất là trong nhiều nơi ở TQ, công nhân, chính quyền trung ương và nhà cầm quyền cấp tỉnh, khá sáng suốt, đã đoàn kết nhất trí trong nổ lực tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc. Theo Geoffrey Crothall, người phát ngôn của China Labour Bulletin (CLB), một nhóm các nhà hoạt động lao động ở Hong Kong, "hơn 20 tỉnh đã thể hiện tăng lương tối thiểu khoảng 20%. Sau khi đình công xẩy ra , nhiều chính quyền địa phương đã can thiệp và tìm cách giúp giới quản trị và công nhân thương thảo"[32]. Crothall nói, rõ ràng chính quyền trung ương muốn tăng lương và góp phần vào ổn định xã hội. Và cũng có nhiều yếu tố khác giúp nâng cao lương bổng: chẳng hạn, TQ đang cần một lực lượng lao động với chất lượng và kỷ năng cao khi đang chuyển qua giai đoạn biến chế các sản phẩm cao cấp, trong lúc sớm có dấu hiệu khan hiếm nhân công lao động vì tăng trưởng dân số chậm , chính sách một con và sự kiện nhiều triệu dân đã rời nông thôn ra thành thị tìm việc làm trong các xưởng máy. ACFTU từ lâu được xem như tổ chức bảo vệ Đảng và một công đoàn với đặc trưng TQ, hiện đang bị áp lực phải thay đổi từ dưới lên bởi các công nhân đình công và từ trên xuống bởi chính quyền trung ương ở Bắc Kinh. Crothall, tổ chức của ông đã được Han Dongfang sáng lập, là người thành lập nghiệp đoàn độc lập đầu tiên của TQ trong thời gian biến động ở Quảng Trường Thiên An Môn năm 1989. Ông nhắc lại tình hình sôi động ở Quảng Đông, nơi tọa lạc của hầu hết các cơ sở biến chế quan trọng nhất của TQ. Ông nói, "ACFTU hiện đang tiến hóa và không phải một khối nhất trí. Đó là một định chế của chính quyền. Tuy nhiên, ở Quảng Đông, công đoàn khá cấp tiến và thực tiển. Và cũng ở Quảng Đông, theo CLB, chính quyền tỉnh đang thử nghiệm nhiều quy luật mới có thể dành cho công nhân quyền thương nghị tập thể". Chính vì vậy, những nổ lực của Andy Stern ở TQ, mặc dù thường mang tính chỉ trích, hình như rất được trân quý. Stern nói: "Tôi không nhất trí với lời kêu gọi của Glenn Beck, 'Công nhân toàn thế giới hãy đoàn kết lại!'. Đây không chỉ là một chiêu bài"[33]. Stern còn thêm, đây là điều thực sự quan trọng khi công nhân Hoa Kỳ và công nhân TQ xem nhau như đồng minh, và Stern lập luận, những nổ lực của những người như ông có thể giúp ACFTU chuyển hướng mang tính đại diện nhiều hơn của hàng trăm triệu đoàn viên. Stern cũng nói: "Hiện có một tiến hóa lớn lao đang tiếp diễn. Và đối với tôi, vấn đề là: Cuối cùng công đoàn sẽ đi đến đâu, không phải đã khởi hành từ đâu"[34]. Giống như Crothall, Stern nhấn mạnh không phải chỉ công nhân mới muốn ACFTU thay đổi phương thức hoạt động, "chính quyền cũng đang thúc đẩy các công đoàn phải chuyển hóa"[35]. Katie Quan - một lãnh tụ nghiệp đoàn trước đây và hiện là phó chủ tịch Trung Tâm Lao Động, Đại Học California, Berkeley[36] - hậu thuẩn cho nổ lực của Stern nhằm đối thoại với ACFTU. Bà nói: "Chính sách tẩy chay TQ của AFL-CIO, và không muốn dính dáng gì đến TQ, đã chỉ khiến giai cấp lao động tụt hậu"[37]. Katie Quan đề nghị một cách tiếp cận ba mặt đối với TQ và ACFTU: đối thoại giữa nghiệp đoàn và nghiệp đoàn, trao đổi giữa công nhân và công nhân, và thảo luận giữa các học giả. Trong những năm gần đây, theo bà, TQ đã có nhiều thay đổi lớn lao trong chính sách lao động, khởi đầu với pháp chế lao động về hợp đồng, ban hành vào tháng 1-2008. Những đổi thay nầy đã giúp công nhân ý thức đầy đủ quyền lợi của mình và trong thực tế đã giúp khởi động các cuộc đình công bột phát. Và nhiều cải cách tương lai đang được xúc tiến, kể cả pháp chế thương lượng hay mặc cả tập thể.
|
|