|
Post by NhiHa on Feb 11, 2011 4:22:45 GMT 9
Một phúc trình gần đây của CLB, "Tự Quyết Định: Phong Trào Công Nhân Ở Trung Quốc, 2007-2008"[38], đã kết luận: bất kể lịch sử ACFTU ra sao, không thể có biện pháp thay thế nhằm tìm cách tái định hình liên hiệp nghiệp đoàn. Phúc trình nêu rõ: "Điều thiết yếu là quyền tổ chức chính thức của ACFTU một cách nào đó phải được hội nhập với sức mạnh và hậu thuẩn của công nhân. Cả hai phía sẽ phải tìm cách đến với nhau"[39].
Đã hẳn, chúng ta có lý do để tìm hiểu những đổi thay đó có đến đủ nhanh hay không. Ralph Nader - người đã đem lại cảm hứng cho một thế hệ các nhà hoạt động đòi hỏi công bình toàn cầu và cũng là người nhiều năm vận động chống lại chế độ mậu dịch chi phối bởi các quy luật do các đại ngân hàng và các đại công ty áp đặt - chủ trương đối đầu với TQ và các xứ xuất khẩu có phí lao động thấp, như Ấn Độ, với một thứ quan thuế xã hội được thiết kế nhằm trung hòa hóa tình trạng thiếu quyền mặc cả tập thể, mức lương tối thiểu tương đối phải chăng, và sự thiếu vắng các quy luật đứng đắn. Nader công nhận cuối cùng rồi TQ cũng có thể thay đổi, nhất là phong trào canh tân đã dẫn đến tình trạng công nhân đòi hỏi quyền lợi nhiều hơn và tầng lớp trung lưu tăng thêm áp lực đòi hỏi phát huy dân chủ. Nhưng Nader không sẵn sàng nhẫn nại. Ông nói: "Nếu chúng ta đợi đủ lâu, chừng 35 năm sau, mức lương và điều kiện làm việc và những thứ đó có thể lên bằng nhau. Nhưng trong lúc giao thời, hãy nhìn các cộng đồng rổng ruột ở Hoa Kỳ"[40].
Tuy nhiên, cuối cùng Hoa Kỳ cũng chẳng làm được gì nhiều để thay đổi lộ trình hay quỹ đạo của TQ. Rất ít, nếu có, các biện pháp kinh tế đã được đề nghị, có thể buộc TQ phải thay đổi. Những biện pháp nầy chẳng những thiếu hữu hiệu, mà còn phản tác dụng, gây đổ vỡ lớn hơn cho Hoa Kỳ.
Henwood từ Left Business Observer nói: "Bất cứ biện pháp cứng rắn nào đối với TQ cũng đem lại phản tác dụng tai hại cho chính chúng ta"[41]. Nếu chiến tranh thương mãi xảy ra, TQ có thể, trong nhiều lựa chọn, dùng số mỹ kim dự trữ và các công khố phiếu của Hoa Kỳ như một thứ khí giới và có thể nhập khẩu hàng từ nhiều xứ khác hơn là Hoa Kỳ.
Sophie Richardson của Human Rights Watch nói, Hoa Kỳ phải đặt nặng vấn đề dân chủ hóa và nhân quyền hơn nữa trong nghị trình, ngay cả trong các cuộc họp về các đề tài khác , không phải e ngại làm phật lòng TQ: "Có rất nhiều cách để diễn đạt các đòi hỏi ấy trong các phiên họp giữa hai quốc gia mà không phải quá nặng lời giữa cuộc họp"[42]. Cho đến nay, T T Obama hình như luôn tránh né không nhắc đến vấn đề nhân quyền.
Hoa Kỳ có thể có rất ít lựa chọn , ngoài việc phải làm quen với sự kiện: TQ sẽ tự mình chuyển hóa. Dù vậy, Hoa Kỳ vẫn có thể dùng sự thách thức của TQ để nhanh chóng thay đổi phương thức làm việc trong quốc nội. Orville Schell nói: "Đây không phải chỉ là sự kiện TQ trỗi dậy như một địa chấn, nhưng chính sự sụp đổ tài chánh, kinh tế và văn hóa của chính chúng ta đã là nguyên nhân còn đáng kinh ngạc hơn. Chúng ta cần tìm cách để thích nghi với TQ, và để gây ảnh hưởng với TQ. Và đây không phải một kết luận tất yếu là vấn đề sẽ dễ dàng, hay ngay cả hòa dịu"[43]. QUAN HỆ HOA KỲ-TRUNG QUỐC: HỢP TÁC VÀ THÙ NGHỊCH
Chính quyền Obama, trong quan hệ đối nghịch với TQ về tỉ giá hối đoái, mậu dịch, và an ninh, đã trở nên ngày một cứng rắn hơn trong phương cách tiếp cận với Bắc Kinh. Hoa Thịnh Đốn hiện đang tìm kiếm đồng minh để đối đầu với siêu cường đang lên và đang tự khẳng định, cũng như chẳng mấy sẵn sàng hợp tác với Hoa Kỳ.
Trong một thay đổi từ quá trình ve vản tay đôi kiên trì, Obama đang cố gắng vận động thành lập những liên minh - trong số các đồng minh và đối tác thương mãi xa gần - với lập trường thống nhất đối với TQ về các vấn đề gai gốc như tỉ giá hối đoái và tranh giành quyền sở hữu các hải đảo trong vùng Biển Đông.
Những lợi điểm và giới hạn của cách tiếp cận mới nầy đã phơi bày rõ nét trong phiên họp giữa các nền kinh tế lớn nhất ở Hàn Quốc tuần trước. Hoa Kỳ đã giành được sự ủng hộ về một cam kết giảm thiểu các mất quân bình mậu dịch, một cam kết giúp tăng cường sức ép đối với TQ trong vấn đề tái định giá đồng nhân dân tệ với một tỉ suất cao hơn.
Tuy nhiên, Đức, Ý và Liên Bang Nga chống lại đề nghị của Hoa Kỳ ấn định những giới hạn bằng con số (numerical limits) trên số mất quân bình, một động thái lẽ ra đã có thể cô lập hóa Bắc Kinh nhiều hơn nữa. Điều nầy đã buộc bộ trưởng Ngân Khố, Timothy F. Geithner, trên đường về từ Nam Hàn, đã phải dừng chân ở TQ , trái với dự liệu , để thảo luận với quan chức tài chánh cao cấp Zhang Guobao, về tình hình lúc một căng thẳng liên quan đến vấn đề tỉ giá hối đoái.
Các quan chức chính quyền đã tiết lộ trình độ mất tin tưởng đáng lo ngại giữa TQ và Hoa Kỳ trong hai năm qua, buộc họ phải giảm thiểu hy vọng hợp tác với TQ trong nổ lực đối phó với những thách thức quan trọng như biến đổi khí hậu, cấm phổ biến vũ khí hạt nhân, và một trật tự kinh tế toàn cầu mới.
Một nguyên nhân căng thẳng mới là TQ vừa quyết định ngưng chuyển tải số khoáng sản đất-quí-hiếm xuất khẩu qua Hoa Kỳ: "neodymium" cần thiết trong việc sản xuất hỏa tiễn điều khiển từ xa, các turbines gió, xe hơi chạy bằng xăng và điện, Apple iPhones...; hay "lanthanum" cần cho máy xúc tác catalytic converters làm sạch hệ thống thoát hơi trong xe chạy bằng xăng dầu... Các quan chức Hoa Thịnh Đốn đang âu lo - tự hỏi động lực bên sau động thái nầy mang tính chiến lược hay kinh tế. Tuy nhiên, tin tức mới nhất (29-10-2010) cho biết TQ đã cho phép tái tục việc chuyển tải trước ngày ngoại trưởng Clinton đến Bắc Kinh.
Theo David Shambaugh, giám đốc chương trình Chính Sách TQ tại Đại Học George Washington, "chính quyền Obama bắt đầu nhiệm kỳ với một ý tưởng quan yếu: biến đổi TQ thành một đối tác toàn cầu cùng chung sức đối phó với các thách thức toàn cầu. TQ đã từ chối bước tới và đảm nhận vai trò của mình. Nay họ hiểu, họ đang đối mặt với một xứ ngày một nhỏ nhen, ích kỷ, hung hăng, quốc gia cực đoan và hùng cường"[44].
Để chống lại điều Hoa Thịnh Đốn xem như sự trỗi dậy của chủ nghĩa thủ thắng TQ[45], Hoa Kỳ đang cố gắng vực dậy các đồng minh thời chiến tranh lạnh, như Nhật và Nam Hàn, và tăng cường sự hiện diện của mình ở vài nơi khác ở Á châu. Trong tuần nầy, ngoại trưởng Hillary Rodham Clinton sẽ viếng thăm Việt Nam lần thứ hai trong vòng 4 tháng, để tham dự hội nghị thượng đỉnh Đông Á, rất có thể với các vấn đề TQ giữ vai trò lấn át.
Tháng 11 tới, T T Obama có chương trình thăm viếng Nhật, Indonesia, Ấn và Nam Hàn, và bỏ qua TQ. Hành trình, trên nguyên tắc, không mang ý nghĩa một động thái nhằm làm mất mặt TQ. Trước đây, T T Obama đã một lần công du đến Bắc Kinh, và chuyến viếng thăm Indonesia cũng đã bị trì hoản khá lâu. Nhưng tính tượng trưng của hành trình vẫn lẩn quất trong đầu óc các quan chức Hoa Thịnh Đốn.
Jeffrey A. Bader, cố vấn cao cấp về chính sách TQ tại tòa Bạch Ốc, cho biết, sự kiện TQ khẳng định quyền lực của mình đã trở thành đặc biệt rõ nét tiếp theo sau khủng hoảng kinh tế 2008, một phần vì sự hồi phục chóng vánh của Bắc Kinh đã đưa đến phán xét khá phổ biến: Hoa Kỳ là một siêu cường đang tuột dốc và TQ một siêu cường đang lên.
Nhưng Bader nói tiếp, chính quyền Obama cương quyết trung hòa hóa ấn tượng nầy qua nổ lực tái khẳng định vai trò lãnh đạo của Mỹ.
Các yếu tố chính trị quốc nội cũng đã góp phần vào lập trường cứng rắn của chính quyền Obama. Với kinh tế còn khập khiểng và tỉ lệ thất nghiệp cao ở Mỹ, Bắc kinh đã trở thành mục tiêu trong mọi trạng huống. Trong mùa bầu cử Quốc Hội giữa kỳ, ứng viên, ít ra trong 30 đơn vị bầu cử, đã cảnh báo: TQ là một đe dọa đối với công ăn việc làm của người Mỹ.
Vào một thời điểm Quốc Hội bị tê liệt vì chính trị đảng phái, nỗi ấm ức về việc nhào nặn giá trị đồng nhân dân tệ của TQ đã trở thành một trong số ít đề mục giành được đồng thuận lưỡng đảng. Trình độ đồng thuận đã lên đỉnh điểm trong tháng 9-2010 khi đa số dân biểu Hạ Viện đã bỏ phiếu đe dọa áp đặt thuế quan lên hàng xuất khẩu TQ, nếu Bắc Kinh không cho phép đồng nhân dân tệ tăng giá theo luật cung cầu trên thị trường.
Điều rắc rối là chính trị nội bộ TQ đã đặt Bắc Kinh vào vị thế không thể làm gì khác. Với đảng Cộng Sản đang trong quá trình chuyển tiếp từ Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào qua người kế nhiệm chuẩn bị từ trước, Xi Jinping, cấp lãnh đạo TQ luôn cảnh giác đối với mọi đổi thay có thể phương hại đến tỉ suất tăng trưởng kinh tế.
Ngoài ra, tình trạng chia rẽ giữa các lãnh đạo dân sự TQ và các thành phần lãnh đạo trong Quân Đội Giải Phóng Nhân Dân đang ngày một sâu sắc. Nhiều sĩ quan TQ giữ thái độ công khai thù nghịch đối với Hoa Kỳ, vì họ tin chắc những cuộc tập trận của Hải Quân Mỹ gần đây trong vùng Hoàng Hải là một phần trong chính sách bao vây TQ.
Ngay cả nổ lực của chính quyền Hoa Kỳ hợp tác với TQ trong vấn đề biến đổi khí hậu và cấm phổ biến vũ khí hạt nhân cũng đã bị một số lãnh đạo ở Bắc Kinh nghi ngờ.
Các phụ tá của T T Obama, đa số là cựu quan chức dưới thời T T Clinton, đều hiểu rõ: trong quan hệ kinh tế, người ta luôn thấy có nhiều bước chiến thuật cận kề vực thẳm (brinkmanship), hàm ngụ gay cấn nhiều hơn trong thực tế.
Tuy nhiên, Tòa Bạch Ốc cũng có đủ lý do để quan ngại, và vì vậy, trong tháng 9-2010, đã gửi một phái đoàn cao cấp đến Bắc Kinh, gồm cả Bader, Lawrence H. Summers - nguyên giám đốc Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia, và Thomas E. Donilon, người vừa được cử giữ chức vụ cố vấn an ninh quốc gia.
Summers nói: "Chúng tôi rất ấn tượng với thái độ nghiêm chỉnh họ chia sẻ sự cam kết của chúng tôi về phương cách xử lý các dị biệt và công nhận hai quốc gia chúng tôi sẽ có tác động rất lớn trên kinh tế toàn cầu"[46].
Ngay trước cuộc họp mặt, TQ đã bắt đầu cho phép đồng nhân dân tệ tăng giá với một tỉ suất ít nhiều nhanh hơn, mặc dù tổng giá trị gia tăng, kể từ khi Bắc Kinh loan báo trong tháng 6-2010 họ sẽ buông lỏng các biện pháp kiểm soát hối đoái, vẫn chưa đến 3%. Các kinh tế gia ước tính đồng nhân dân tệ đã được đánh giá thấp khoảng 20%.
Trong lúc đó, căng thẳng mậu dịch giữa hai xứ lại một lần nữa bùng phát. Hoa Thịnh Đốn mới đây đã đồng ý điều tra vụ nghiệp đoàn United Steelworkers lên án TQ vi phạm quy chế Tổ Chức Thương Mãi Quốc Tế - WTO, qua các biện pháp hổ trợ của nhà nước dành cho các kỹ thuật năng lượng sạch. Động thái nầy đã khiến Zhang Guobao, quan chức năng lượng hàng đầu TQ, tố cáo chính quyền Mỹ đang tìm cách kiếm phiếu - một lối nói chua cay gây căm phẫn trong các quan chức Bạch Ốc.
Theo Summers, việc TQ ngưng chuyển tải các khoáng sản đất-quí-hiếm xuất khẩu qua Hoa Kỳ đang đặt ra nhiều vấn đề quan trọng trong cả hai địa hạt kinh tế và chiến lược, đòi hỏi một nghiên cứu cẩn mật trong nội bộ chính quyền Mỹ.
Trước đây, Bắc Kinh cũng đã ngưng chuyển tải loại khoáng sản nầy đến Nhật Bản, sau vụ tranh cãi khi tàu đánh cá TQ đụng vào hai tàu tuần tiểu Nhật gần những hải đảo đang tranh chấp.
Đây là một trong vài động thái khiêu khích gần đây của Bắc Kinh đối với các xứ láng giềng - kể cả một vụ đã khiến chính quyền Obama phải nhập cuộc.
Tháng 7 vừa qua, tại Hà Nội, ngoại trưởng Hillary R. Clinton đã tuyên bố: Hoa Kỳ sẽ giúp làm dễ dàng các cuộc thương thảo giữa Bắc Kinh và các xứ láng giềng về vấn đề tranh chấp hải đảo ở Biển Đông. Các viên chức TQ rất căm giận khi Hoa Kỳ rõ ràng đã thuyết phục được 12 xứ ủng hộ lập trường của mình.
Với chuyến viếng thăm Hoa Thịnh Đốn sắp tới của chủ tịch Hồ Cẩm Đào vào đầu năm 2011, các quan chức Hoa Thịnh Đốn cho biết bà Clinton sẽ có bài phát biểu hòa dịu hơn ở Á châu vào tuần nầy. Và hiện nay, người Mỹ cảm thấy lập trường của họ đối với TQ cũng đã được làm sáng tỏ.
Shambaugh nói, "tín hiệu gửi đến Bắc Kinh cần phải rõ ràng. Hoa Kỳ hiện có nhiều bạn bè gần gũi và thâm giao khác trong khu vực".[47]
Trong mọi trường hợp, tưởng cũng nên nhắc lại ở đây lối cảnh giác của dân gian: trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết oan!
© GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
29-10-2010
[1] SEIU: Service Employees International Union: Liên Hiệp Công Nhân Ngành Dịch Vụ Thế Giới
[2] ACFTU: All-China Federation of Trade Unions: Liên Hiệp Các Nghiệp Đoàn Trung Quốc.
[3] We have to recognize that China is the first real economic competitor that has ever threatened America's standing as the global economic superpower.
[4] Andy Stern seems to think he can find progressive elements within the ACFTU. And the SEIU is OK with that?
[5] IUOE: International Union of Operating Engineers: Liên Hiệp Quốc Tế các Kỹ Sư Đang Hành Nghề
[6] ESRC: Congressionally mandated US-China Economic and Security Review Commission: Ủy Hội Thẩm Định Kinh Tế và An Ninh Hoa-Mỹ do Quốc Hội sáng lập.
[7] Andy Stern threw away all principle and started dealing with the ACFTU. The head of the ACFTU is on the f**king Politburo!. He's a thug.
[8] Campaign for America's Future.
[9] The global imbalances generally - with Germany, Japan, China, Korea and others focused on an export model and relentlessly wedded to it without concern for moving to a more balanced marketplace - have a direct destabilizing effect on the global economy, and on this economy in particular, and can't be sustained. And so the United States has to move into a series of much more fraught confrontations and challenges, not just with the Chinese.
[10] I am concerned that there are other places in the world where China's form of authoritarian capitalism is taking hold. Look at how China is engaging in Africa.
[11] Asia Society's Center on U.S.-China Relations
[12] It's almost as if the continental plates of global politics are shifting beneath our feet. We suddenly have this other model of authoritarian capitalism that is proving remarkably successful, and it is even posing a challenge, not just economically but politically, to our belief that our system of democratic governance is the one that's best able to deliver a good life.
[13] Foreign Policy in Focus, Institute for Policy Studies (IPS).
[14] This drives a wedge right through the progressive community.
[15] Economic Policy Institute - EPI
[16] Alliance for American Manufacturing -AAM
[17] I would say to the Chinese, 'We are not going to allow the free access of Chinese goods, as long as you are pirating technology, requiring American companies to produce in China only for export and not for the Chinese market, extracting technology transfer agreements that are plainly coercive, and manipulating your currency.' Then the fat would be in the fire, and the Chinese would have to decide what they are going to do about it. It might lead to some conflict. If we took a harder line on Chinese mercantilism, it might get kind of ugly in the short term.
[18] The US government has an obligation to US workers to develop policies that are in our national interests.
[19] It does. I view my job as being concerned with the living standards of American workers.
[20] This will allow China to enjoy the fruits of its growth.
[21] I don't call it a success for working people. It's a disgrace. The regulatory system is like the Wild West, and nobody cares. You have long-term environmental damage, you have child labor, you have forced labor, the destruction of workers' health.
[22] We don't recognize the ACFTU as a real union. I consider them to be the government. They're management.
[23] The trade surplus is being used by China to build up a military. They want to build a blue-water navy in the Pacific, to develop sophisticated nuclear weapons, satellite-killing weapons. What does that say about peace? Their stated goal is, they want to have a presence in the Pacific Rim and challenge US supremacy in the Pacific. That has enormous implications.
[24] I would continue to sell arms to Taiwan.
[25] The notion that China could somehow increase its consumption in ways that would materially benefit American workers is not plausible. First, consumption in China has been rising rapidly for dacades. Second, raising it more rapidly means what? Having more cars and fewer roads to drive on? It doen't make any sense from a development standpoint. Why should they want to slow the pace at which they build infrastructure relative to the purchase of consumer goods? Why would they build fewer power plants and have more appliances in order to have brownouts?
[26] We're talking about a country that has the continuing potential to pull a huge number of people out of poverty. I don't think it can do that by competing fairly according to the rules of international policy.
[27] There is this longstanding Yellow Peril discourse in the United States, and a lot of this stuff fits into it comfortably. Yeah, they're competitive, but ... that history of Yellow Peril-ism makes it seem sinister and virulent. It's a lot easier to blame China than it is to look at what's wrong with the United States. There 's a kind of natioalism that is a little too close to xenophobia that fuels this sort of thing, and populists on the left and right can agree on not liking China.
[28] Center for International Policy - CIP
[29] The idea that we should accept China's interests in East Asia, I would think, should be readily understood by liberals. The fact that China is going to have a navy with a long reach, that it's going to be a superpower, just as India is, well, America has to adjust.
[30] It would be disastrous for progressives to provide foffer for the military-industrial complex by demonising China. There are very powerful interests in Washington who want to set us on a path of confrontation.
[31] We'll never get China to behave economically on key issues like the currency peg and their position in the future on holding our securities if we continue to f**k them on Taiwan.
[32] More than twenty provinces have introduced increases in the minimum wage of around 20%. When strikes have braken out, many local governments have interceded and tried to get management and workers to negotiate.
[33] I get in trouble on Glenn Beck saying, 'Workers of the world unite!'. It's not just a slogan.
[34] There's a big evolution going on. And to me, the question is, "Where does the union end up, not where it started".
[35] The government is pushing them to transform, too.
[36] Labor Center, University of California, Berkeley - UC Berkeley.
[37] The policy of the AFL-CIO to boycott China, to have nothing to do with China, has only kept the working class behind.
[38] Going It Alone: The Workers Movement in China, 2007-2008.
[39] It is essential that the formal organizing power of the ACFTU somehow be integrated with the strength and support of the workers. The two sides will have to find a way of coming together.
[40] If we wait long enough, in thirty-five years wages and working conditions and all that may equal out. But look at the hollowed-out communities in the United States in the meantime.
[41] Any attempt to get tough with the Chinese would also bite us in the ass.
[42] There are all sorts of ways of saying it in meetings between the two countries without it being a giant f**k you! in the middle of the meeting.
[43] It isn't just China's rise, which is tectonic, but it's our own financial, political and cultural collapse that is cause for even more consternation. We need to find ways to accommodate China, and to influence it. And it's not a foregone conclusion that it will be easy, or even peaceable.
[44] This administration came in with one dominant idea: make China a global partner in facing global challenges. China failed to step up and play that role. Now, they realize they're dealing with an increasingly narrow-minded, self-interested, truculent, hyper-nationalist and powerful country.
[45] Chinese triumphalism.
[46] We were struck by the seriousness with which they shared our commitment to managing differences and recognizing that our two countries were going to have a very large effect on the global economy.
[47] The signal to Beijing ought to be clear. The U.S. has other closer,deeper friends in the region.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 23, 2011 5:06:11 GMT 9
Một số vấn nạn hiện nay của Hoa Kỳ dưới mắt cựu Tổng thống Clinton Trần Bình Nam dịch Tại Nam Phi, hôm 29/6, ông Wolf Blitzer của đài CNN đã phỏng vấn cựu tổng thống Bill Clinton về một số các vấn đề nhức nhối của Hoa Kỳ và thế giới. Là một cựu tổng thống nắm vững hậu trường của các vấn đề được hỏi và không có chức vụ chính thức trong chính quyền, ông Clinton đã hiến cho thế giới những cái nhìn thẳng thắn, sâu sắc và độc đáo. Riêng vấn đề quan hệ Trung quốc - Hoa Kỳ đã không được bàn đến - có lẽ - vì bà Hillary Clinton đang là Bộ trưởng bộ Ngoại Giao. Sau đây là tóm tắt các ý chính của cựu tổng thống Clinton. Wolf Blitzer: Chúng ta có thể thắng cuộc chiến ở Afghanistan không? Bill Clinton: Chúng ta có thể thắng nếu những người Afghan yêu tự do muốn thắng. Hãy nhìn cuộc chiến Iraq. Nhiều người Mỹ cho rằng sự tăng quân tại Iraq (1) là một thành công lớn. Đúng là một thành công. Nhưng lý do thành công vì vào thời điểm đó nhóm Sunni quyết tâm chống Al Qaeda vì al Qaeda đã giết những lãnh tụ Sunni không đồng ý với các chính sách tôn giáo khắc nghiệt của họ. Từ Thế chiến II dến nay không có cuộc chiến tranh chống nổi dậy nào thành công, trừ cuộc chiến chống nổi dậy tại Malaysia vì nhóm nổi dậy là người thiểu số gốc Trung hoa chứ không phải người bản xứ. Nguyên tắc căn bản là nếu nhóm nổi dậy chỉ có thể sống chết với nơi họ sống và không có chỗ nào khác để đi thì chúng ta không có thể thắng dù chúng ta triển khai bao nhiêu lực lượng. Nếu chúng ta có thể làm cho người Afghan nhận trách nhiệm thì chúng ta có thể thắng. Đổ nhiều phương tiện và tiền bạc vào chỉ khuyến khích tham nhũng. Wolf Blitzer: Cần bao nhiêu thời gian để làm việc ấy? Bill Clinton: Tôi không thể ấn định thời gian. Nhưng tôi không làm như tổng thống Obama là ấn định thời điểm rút quân. Tôi nghĩ cần vài ba năm nữa. Wolf Blitzer: Cần thêm 3 năm, 5 năm? Bill Clinton: Tôi không biết. Wolf Blitzer: Tổng thống Obama có chọn lựa nào khác ngoài việc cách chức tướng McChrystal ? Bill Clinton: Ở cương vị tổng thống ông ấy khó làm khác. Wolf Blitzer: Lâu nay dân chúng Mỹ xem chiến tranh Iraq như đã kết thúc. Nhưng tôi thấy nó không đơn giản như vậy. Iran còn ảnh hưởng nhiều đến tình hình Iraq. Cuộc bầu cử sít sao (ngày 7/3/2010) giữa hai nhóm Shia và Sunni vẫn chưa giải quyết được. Cho đến hôm nay vẫn chưa thành lập được một chính phủ. Về mặt quân sự chúng ta đâu có thể làm được gì? Bill Clinton: Tôi cũng lo lắm. Nhưng nếu nhóm thua hiểu rằng họ thua sít sao cho nên nếu họ chấp nhận nhóm “tạm thắng” cầm quyền họ có nhiều cơ hội lãnh đạo quốc gia một cách yên lành trong bầu không khí dân chủ nếu họ thắng trong vòng tới. Wolf Blitzer: Có cách gì ngăn chận Iran chế tạo bom nguyên tử không? Bill Clinton: Tôi không biết! Đây là vấn đề nhức đầu cho thế giới Tây phương. Người dân Iran thích một chế độ cởi mở. Trong 8 năm tôi cầm quyền dân Iran đi bầu 6 lần. Lần nào những người đắc cử cũng đều thuộc thành phần ôn hoà và đều được từ 2/3 đến 70% phiếu. Nhưng Hiến pháp của thời đại giáo chủ Khomeini còn đó và dành mọi quyền hành cho 30% còn lại thuộc giới tu sĩ. Thành phần này nắm tài chánh, an ninh, chính sách ngoại giao và quyền chấp thuận hay bác bỏ các bộ luật do quốc hội thông qua (2). Nếu biện pháp trừng phạt của Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc không kết quả, người ta có thể đánh phá cơ sở chế tạo vũ khí nguyên tử của Iran. Nhưng thành công hay không là một chuyện khác và cái giá phải trả sẽ không lường trước được. Trước hết chúng ta mất cảm tình của 70% ôn hoà. Nhân dân Iran sẽ trở thành một khối đoàn kết thù nghịch với chúng ta. Tuy nhiên nếu Iran có bom nguyên tử thì chúng ta cần làm cho họ hiểu rằng nếu họ sử dụng để đánh ai thì nước Iran sẽ không còn tồn tại trên trái đất này. Vì vậy điều đáng lo không phải ở chỗ Iran dùng bom nguyên tử đánh ai mà ở chỗ Iran do sơ suất hay tham nhũng có thể làm thất thoát vũ khí hay nhiên liệu nguyên tử vào tay bọn khủng bố và bọn khủng bố dùng đánh chúng ta. Cho nên chính sách ngoại giao của chúng ta đối với một nước Iran có bom nguyên tử sẽ rất cần tế nhị. Phải giữ cảm tình của 70% khối dân ôn hoà. Càng nghĩ càng thấy khó. Wolf Blitzer: Có triển vọng một cuộc cách mạng dân chủ tại Iran không ? Bill Clinton: Muốn có một cuộc cách mạng tại Iran cần một trong hai điều kiện: hoặc quân đội và lực lượng an ninh hành động, hoặc những người trẻ tuổi từng xuống đường đòi dân chủ sau cuộc bầu cử tổng thống gian lận vừa rồi (ngày 12/6/2009) sẵn sàng chết cho dân chủ. Nhưng cả hai thành phần này đều không muốn hành động vì nhân dân Iran có truyền thống yêu nước. Họ nghĩ rằng hành động lật đổ chính phủ là mắc bẫy Tây phương. Wolf Blitzer: Khi ông hết trách nhiệm tổng thống vào cuối năm 2000, ông gần đạt được một giải pháp hoà bình cho Do Thái và Palestine. Và ngay bây giờ chắc ông còn nhiều sáng kiến. Vậy nếu tổng thống Hoa Kỳ, Do Thái và Palestine đều mời ông ra giúp giải quyết bế tắc hiện nay ông có nhận lời không? Bill Clinton: Trong việc này tôi làm gì cũng phiền cho ông tổng thống và cho bà ngoại trưởng Hillary. Nhưng nếu giúp được gì tôi sẽ làm dù tôi sẽ phải trả giá mắc. Trên thực tế không gian hành động của tôi lúc này rất giới hạn. Nhớ lại, khi tôi đề nghị giải pháp hoà bình năm 2000 thủ tướng Ehud Barak thuận, nhưng phía Palestine không tỏ ý gì cả. Họ thương thuyết bằng cách im lặng. Dư luận thế giới cứ tưởng hai bên thương thuyết gay cấn lắm, thật ra chẳng có gì cả. Rồi khi thủ tướng Ariel Sharon đi thăm Temple Mount, Palestine mắc lừa Ariel Sharon và nổi dậy (3). Thế là hỏng hết. Hiện nay các thăm dò dân ý cho thấy 59% dân Do Thái sẵn sàng ủng hộ bất cứ giải pháp hoà bình nào thủ tướng Natanyahu đưa ra. Phía Palestine tổng thống Abbas và thủ tướng Fayad đều có thiện chí nên có điều kiện tốt để đi đến một giải pháp. Khoảng 20 nước A Rập trong vùng (ngoại trừ Iran và Syria) cũng muốn thấy một giải pháp nhưng kẹt là họ không thể lên tiếng công khai ủng hộ và hứa sẽ thiết lập quan hệ tốt với Do Thái về ngoại giao, chính tri, kinh tế và an ninh nếu Do Thái đạt được một giải pháp hoà bình với Palestine vì ngại phản ứng của Iran. Điều khác nữa là trong 10 năm qua, từ ngày tôi rời chức vụ đến nay có hai thay đổi lớn. Thứ nhất có thêm gần một triệu người Do Thái từ Nga trở về. Những người này không nhìn Do Thái trong cái khung lịch sử của nó mà chỉ biết Do Thái hiện là đất sống và phải bảo vệ từng mảnh đất bằng mọi giá không chia sẻ gì cho ai cả. Thứ hai là sự nới rộng các khu định cư của Do Thái trong vùng West Bank. Vào năm 2000, Palestine có thể đổi 3% đất West Bank sát với Do Thái để di chuyển 97% số người Do Thái định cư tại những vùng xa biên giới ra. Bây giờ họ phải mất 6% đất để chuyển 80% người định cư. Cho nên việc thương thuyết đổi đất giữa Palestine và Do Thái bây giờ khó khăn hơn nhiều. Lúc này người Do Thái tưởng rằng họ đang có thế mạnh về kinh tế. Nhưng thực tế nền an ninh của Do Thái đang bị đe doạ. Trước hết thành phần chủng tộc của Do Thái thay đổi. Số người gốc Do Thái càng ngày càng ít. Thứ hai là kỹ thuật hoả tiễn. Các hoả tiễn của Hamas khi được trang bị máy định vị GPS có thể bắn một cách chính xác và với một số hoả tiễn giới hạn có khả năng gây nhiều thương vong. Điều kiện để Do Thái kết thúc một thoả ước hoà bình với Palestine hiện rất thuận lợi vì các nước Ả Rập đang có chiều hướng muốn cải tổ và họ cần hoà bình. Wolf Blitzer: Khó khăn thì có khó khăn, nhưng nếu ông muốn giúp một tay thì tổng thống và bộ trưởng ngoại giao sẽ không từ chối chứ? Bill Clinton: Tổng thống Obama và nhân dân Do Thái có thể muốn tôi giúp, nhưng chính phủ Netanyahu không muốn. Ông ta và tôi là bạn, nhưng quan niệm đối với thế giới khác nhau. Tôi quả thật lo cho an ninh của Do Thái nếu Do Thái cứ giữ thái độ cứng rắn hiện nay, đặc biệt về quy chế của thành phố Jerusalem, nhưng ông Netanyahu nghĩ rằng tôi có khuynh hướng bênh Palestine. Tôi tin rằng một giải pháp Do Thái-Palestine phải bao gồm sự chia đôi thánh địa Jesusalem. Wolf Blitzer: Ông có nghĩ kinh tế Mỹ đang thoái trào lần thứ hai? Bill Clinton: Hãy xem G20 đang họp và bàn những chuyện gì. G20 đang bàn xem cái gì quan trọng nhất: Tăng trưởng thấp và thất nghiệp cao hay các nước tiên tiến mắc nợ quá nhiều. Theo kinh điển kinh tế thì sự co cụm kinh tế là vấn đề quan yếu nhất, vì vậy giải pháp bình thường là thúc đẩy tăng trưởng. Nhưng quốc hội Hoa Kỳ không muốn thấy một “stimulus package” nữa. Giảm thuế là thất sách. Tôi từng chống chính sách giảm thuế của tổng thống Bush. Không có gì phi lý bằng chúng ta đang đánh hai trận giặc tại Iraq và Afghanistan, và phải vay tiền cho chi phí chiến tranh trong khi người giàu có được giảm thuế. Hiện nay nếu áp dụng chính sách thắt lưng buộc bụng thì Hoa Kỳ sẽ đi vào một cuộc suy thoái thứ hai như năm 1937 dưới thời tổng thống Roosevelt. Các ngân hàng của chúng ta có hơn 1.5 trillion mỹ kim (1500 tỉ) nhưng không dám cho vay. Cần tạo điều kiện để ngân hàng có thể cho vay mà không sợ mất vốn như đã xảy ra với vụ subprime mortgage. Thí dụ cho vay có bảo đảm để tu bổ lại nhà cửa chống sự mất nhiệt và giảm sản xuất khí thải nhà kiếng. Chúng ta sẽ tạo công ăn việc làm cho công nhân trong ngành xây cất, hiện thất nghiệp 25%, cao gấp 2.5 lần chỉ số thất nghiệp toàn quốc, và trong vòng 5 năm chúng ta tiết kiệm được từ 20 đến 45% năng lượng và đồng thời giúp giảm độ nóng của khí quyển. Có công ăn việc làm thì có sinh hoạt kinh tế, chính phủ thu được thuế, ngân sách bớt thất thu và chúng ta vượt qua dần cuộc khủng hoảng kinh tế. Wolf Blitzer: Người ta phê bình tổng thống Obama lạnh lùng trước các vấn nạn kinh tế, thiên tai của dân chúng. Và người ta ghi nhận ông (khi làm tổng thống) chia sẻ vấn nạn của dân một cách sâu sắc hơn. Sự thật ở đâu? Bill Clinton: Người ta đã phê bình oan ông tổng thống. Khi tôi làm tổng thống cũng có người phê bình tôi thờ ơ. Tôi nghĩ tổng thống Obama đã làm những gì cần thiết. Còn chuyện tổng thống bị khen chê thì nên nhớ rằng khi dân chúng còn vấn đề để lo thì không ai khen tổng thống. Và bất cứ tổng thống nào cũng không thể làm gì để thay đổi tâm lý đó. Hơn nữa tổng thống Obama và tôi thuộc hai thế hệ khác nhau. Tổng thống Obama có khả năng chia sẻ nỗi đau với người dân một cách dễ dàng, nhưng làm vậy ông có thể bị phê bình là đóng kịch. Nếu CNN muốn tôi có một lời khuyên với những người ra gánh vác việc nước thì đó là: sự ngay thẳng và sống thật với chính mình. Giả dối thế nào cũng bị lộ ra và rồi không ai tin mình nữa. Trở lại việc chia sẻ nỗi đau với người khác, đặc biệt việc ống dầu vỡ trong vịnh Mexico, tôi nghĩ việc bít không cho dầu chảy ra nữa, tiếp theo là chận không cho dầu chảy vào bờ và dọn sách dầu đã tấp vào bờ biển là những việc ưu tiên hơn là lăng xăng bày tỏ ưu tư. Tại đó có 20.000 ngư dân gốc Việt Nam đang thất nghiệp và có thể sẽ sạt nghiệp và còn biết bao nhiêu gia đình người gốc Scotch và Irish không có công ăn việc làm vì kỹ nghệ khai thác dầu ngưng trệ. Tôi nghĩ đến một giải pháp để chấm dứt việc dầu chảy trong vịnh Mexico là dùng Hải quân làm nổ tận gốc ống dầu bể rồi dùng đá hay bất cứ thứ gì nặng lấp giếng dầu lại. Đó là phương pháp duy nhất Hoa Kỳ có thể làm. Nếu không chúng ta phải nhờ phương tiện kỹ thuật của BP và của nước khác như Na Uy. Wolf Blitzer: Ông có nghĩ hai giếng BP đang khoan sẽ nối vào gốc ống dầu bể và chấm dứt hẳn việc chảy dầu vào tháng 8 này không? Bill Clinton: Nhiều lúc tôi cũng tự hỏi như vậy. Nhưng không có lý do gì chúng ta không tin khả năng kỹ thuật của BP. Trần Bình Nam Ngày 23/07/2010 (1) Thường gọi là surge, tăng 20.000 quân để bảo vệ Baghdad và tỉnh Al Anbar trong tháng 1/2007. (2) Ý ông Clinton nói quyền quyết định chế tạo vũ khí nguyên tử ở trong tay nhóm này chứ không ở nơi 70% ôn hoà. (3) Gọi là cuộc nổi dậy thứ hai – second intafada - của người Palestines chống Do Thái tháng 9/2000.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 23, 2011 5:39:26 GMT 9
Hoa Kỳ kết thúc chiến tranh Việt Nam và cái trí của những người lãnh đạo dân tộc Lê Quế Lâm “… Năm 1968, TT Thiệu đã phá vỡ kế hoạch hòa bình của TT Johnson (Đảng DC). Nay TT Thiệu tiến thêm bước nữa, làm hỏng kế hoạch hòa bình của TT Nixon (Đảng CH)…”Ngày 2 và 4 tháng 8/1964, hai khu trục hạm thuộc Đệ Thất Hạm đội mà Hoa Kỳ cho rằng đã bị Bắc Việt khiêu khích và tấn công, TT Johnson yêu cầu Quốc hội ra quyết nghị ủng hộ mọi hành động cần thiết để bảo vệ Quân lực Mỹ và giúp các quốc gia được Liên Phòng Đông Nam Á bảo trợ. Quốc hội đã đáp ứng đòi hỏi của Johnson với sự đồng ý của toàn thể 416 dân biểu và 88 thượng nghị sĩ (chỉ có hai phiếu chống). Dù có quyết nghị của quốc hội, song TT Johnson vẫn kềm chế những hành động quân sự trực tiếp chống Bắc Việt. Ông chủ trương “hạn chế sự tham chiến của Mỹ ở VN” khi tranh cử với ứng cử viên “diều hâu” Barry Goldwater hồi cuối năm 1964. Ngày 7/2/1965, giữa lúc Thủ Tướng Liên Xô Kosygin đang viếng thăm Hà Nội, Cộng quân mở cuộc pháo kích dữ dội vào bãi đáp trực thăng và trại cố vấn Hoa Kỳ ở Pleiku gây thương vong cho 116 lính Mỹ. TT Johnson coi đây là hành động khiêu khích, nên ra lịnh không lực Mỹ trả đũa, mở đầu chiến dịch oanh tạc miền Bắc. Lúc bấy giờ, Nam VN đang ở bờ vực của sự sụp đổ, hậu quả của hơn hai năm xáo trộn chính trị, xung đột tôn giáo vì các cuộc đảo chính, biểu dương lực lượng liên tục của các tướng lãnh. Cộng quân sắp sửa chiếm được chính quyền. Để cứu nguy MN tự do, Hoa Kỳ phải đưa quân vào trực tiếp tham chiến, nhằm cân bằng lực lượng, tiến tới hòa đàm giải quyết cuộc chiến. Đưa quân vào MN và dội bom MB là để áp lực ngồi vào bàn thương thuyết. Tướng John P. Connell, Tham Mưu Trưởng Không lực Hoa Kỳ trong diễn văn đọc tại Câu lạc bộ Kinh tế ở Detroit đã tuyên bố: “Hoa Kỳ có khả năng tiêu diệt BV và buộc BV phải đầu hàng thực sự trong vòng một đêm…Nhưng TT Johnson đã nhấn mạnh quốc sách của chúng ta là giữ cho cuộc chiến tranh này ở mức độ thấp nhứt có thể được vì những lý do nhân đạo cũng như chính trị”. Ông đưa ra hai mục tiêu trong việc oanh tạc BV: “Một là cắt đứt nguồn tiếp tế của CSBV chuyển vào Nam. Hai là làm cho BV nản lòng trong việc xâm lược MN vì phải trả một giá đắt, cuối cùng phải chấp nhận thương thuyết hoà bình” (1) Sau vài tháng dội bom gây áp lực, Hoa Kỳ lại tạm ngưng để chuyển đến Hà Nội những đề nghị hòa bình. BV không đáp ứng, việc oanh kích lại tiếp tục. Thái độ mềm dẻo của TT Johnson khiến Hà Nội vững tin là Mỹ không có quyết tâm đánh sụm đầu não điều khiển chiến tranh. BV chỉ có thắng hoặc cùng lắm là ngồi vào bàn hội nghị, nên cứng rắn không lùi trước áp lực của Mỹ. Ngày 17/7/1966 ông Hồ Chí Minh kêu gọi “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm hay lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân VN quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước đàng hoàng hơn to đẹp hơn”. (2) Việc dội bom Miền Bắc đã không làm nhụt chí chiến đấu mà còn khiến Hà Nội gia tăng các hoạt động xâm nhập, bắt buộc Mỹ phải gởi quân chiến đấu ồ ạt vào Miền Nam. Chỉ trong vòng 6 tháng đầu năm 1966, số đơn vị Cộng quân BV xâm nhập được ghi nhận gia tăng gấp đôi. Quân số Mỹ lúc bấy giờ (7/1966) là 285 ngàn, theo thông cáo của Bộ QP sẽ tăng lên 383 ngàn vào cuối năm 1966 và 425 ngàn vào giữa năm 1967. Từ cuối năm 1966 Hoa Kỳ gia tăng các cuộc không tập liên tiếp và dữ dội nhằm vào các mục tiêu quân sự ở ngay khu ngoại thành Hà Nội. Ông HCM phải chấp nhận đàm phán với Mỹ. B 52 không tập Bắc Việt Ngày 21/1/1967 Ban chấp hành TƯ Đảng Lao Động VN ban hành Nghị quyết 13 mở ra giai đoạn đấu tranh ngoại giao kết hợp với đấu tranh quân sự và chính trị. Ngày 8/2/1967 TT Johnson chính thức gởi đến Chủ tịch HCM lá thư đề nghị: Hoa Kỳ sẽ ngưng ném bom Miền Bắc và ngưng tăng cường quân Mỹ ở Miền Nam, nếu Hà Nội cũng đình chỉ gởi người và vũ khí vào MN. Sau đó Mỹ và BV sẽ tiến hành những cuộc mật đàm để giải quyết vấn đề MNVN. Trong thư trả lời, ông HCM cho biết Hà Nội “không thể thương lượng dưới sự đe dọa của bom đạn Mỹ. Hoa Kỳ phải chấm dứt vĩnh viễn và không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chống lại nước VNDCCH, khi đó hai bên mới có thể đàm phán và thảo luận những vấn đề mà hai bên quan tâm”. (3) Từ đó có nhiều nổ lực quốc tế giúp Hoa Kỳ và BV đến bàn hội nghị, đáng kể nhất là trung gian của Pháp từ tháng 6/1967. Ông Raymond Aubrac (một người CS từng quen biết HCM hồi năm 1946) và Hervert Marcovich - cả hai là khoa học gia Pháp, nhiều lần đi Hà Nội gặp HCM và Phạm Văn Đồng để giúp BV và Hoa Kỳ trao đổi những đề nghị. Phía Hà Nội do đại sứ Mai Văn Bộ phụ trách, còn phía Mỹ là Henry Kissinger. Sau nhiều tháng tham khảo, cuối cùng vào ngày 6/101967, Wallner -đại diện Hoa Kỳ ở Paris, nhờ Marcovich trao cho đại diện Hà Nội ở Paris một dự thảo thông điệp xác nhận: Mỹ chấm dứt mọi hình thức đánh phá nước VNDCCH mà không nói đến điều kiện, Hà Nội có thể nhanh chóng tiến hành thảo luận với Hoa Kỳ. Nếu đại diện Hà Nội đồng ý, Kissinger sẽ sang Paris trao tận tay cho BV thông điệp với nội dung trên. Hà Nội không trả lời. (4) Từ tháng 11/1967 đến tháng Giêng 1968, Lực lượng Vũ trang GPMN (VC) chuẩn bị thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị Đảng Lao động VN (tháng 12/1967): “Chuyển cuộc chiến tranh Cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ giành thắng lợi quyết định”. Đó là cuộc Tổng công kích + Tổng khởi nghĩa toàn miền Nam vào dịp Tết Mậu Thân 1968 mà giới lãnh đạo CSVN kỳ vọng sẽ đánh bại VNCH giành toàn bộ chính quyền; nếu không, những thắng lợi quân sự sẽ làm cơ sở giành ưu thế về chính trị trên bàn đàm phán. Trong hồi ký Đại tướng Westmoreland, Cựu tư lịnh Quân lực Hoa Kỳ ở VN có đề cập đến biến cố Tết Mậu Thân: “Nhìn chung thì địch thật tình không muốn nhắm vào các cơ sở Mỹ mà chỉ đánh vào các cơ sở VN…Sự thể là hầu như các cơ sở Mỹ trên toàn quốc không bị VC tấn công. Và lúc đó, muốn tấn công một cơ sở VN nào, địch cũng phải đi ngang qua cơ sở Mỹ. Điều này tạo cho mọi người mối hoài nghi là Mỹ và VC cấu kết với nhau để (VC) đánh VNCH…Nói chung, cuộc tấn công Tết Mậu Thân là trận chiến giữa người Việt với nhau”. (5) Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Saigon bị tập kích năm 1968 Hai mươi năm sau (1988) Trần Bạch Đằng nguyên Bí thư Thành ủy CS Sàigòn/Gia Định, người đã trực tiếp chi huy các cuộc tấn công hồi Tết Mậu Thân đã dành cho ký giả Úc Clayton John một cuộc phỏng vấn về biến cố này. Đằng nói: "Chúng tôi (MTGPMN) bị dồn vào thế phải tổng công kích, dù chúng tôi đã cố gắng tìm kiếm nhiều giải pháp chính trị khác. Tôi đã thông báo điều này với chính đại sứ Bunker vào năm 1967 khi chiến tranh sẽ là một điều tất yếu”. Đằng cho biết từ 1966 đến 1969, VC đã tiếp xúc mật nhiều lần với Mỹ để trao đổi tù binh. Chính Bunker đã can thiệp để trả tự do cho vợ của ông. (6) Được biết vợ của TBĐ là bà Nguyễn Thị Chơn sau này là phụ tá bà Nguyễn Thị Bình trưởng đoàn MTGPMN tại bàn đàm phán Paris. Mỹ còn can thiệp để trả tự do cho bà Dược sĩ Phạm Thị Yên bị VNCH bắt từ 1960. Bà Yên là vợ ông Trần Bửu Kiếm - trưởng đoàn đầu tiên MTGPMN tại hội nghị bốn bên ở Paris. Tướng Westy đã nhận xét “cuộc tấn công Tết Mậu Thân là trận chiến giữa người Việt với nhau”. Và kết quả cho thấy VC không thắng, VNCH còn mạnh, nên hai bên MN phải nói chuyện để mang lại hòa bình. Vì thế trong cuộc họp bốn bên ở Paris hồi tháng 5/1969, Trưởng đoàn MTGPMN là ông Trần Bửu Kiếm đã đưa ra đề nghị: công việc MN sẽ do nhân dân MN quyết định. Đề nghị này phù họp với chủ trương của Mỹ nhưng ngược lại lập trường của BV là giải quyết công việc MN theo cương lĩnh của MTGPMN. Về việc báo chí Mỹ loan tin trên trang nhất với tựa lớn “Sứ quán Hoa Kỳ tại Sàigòn đã bị CS chiếm”, Tướng Westmoreland cho biết “Vụ tấn công tòa đại sứ HOA Kỳ, cơ sở Mỹ duy nhất tại Sàigòn bị địch chiếu cố rõ ràng mang tính chất tác động tâm lý mà địch muốn nhờ tay báo chí Mỹ thực hiện giùm”. Rạng sáng ngày 31/1/1968 đích thân ông đến thị sát, thi thể 15 đặc công VC, 5 quân nhân Mỹ và 4 cảnh sát Việt còn nằm rãi rác trong khuôn viên toà đại sứ. Không một tên VC lọt vào được bên trong tòa đại sứ, thì một phóng viên lại trích dẫn tin đồn vô căn cứ đề tường thuật ngược lại. Ông mĩa mai “Bộ lời nói của một sĩ quan có trách nhiệm chỉ huy toàn bộ lực lượng Hoa Kỳ tại VN và là người đích thân đến tận nơi quan sát lại không có giá trị bằng tin đồn hay sao? Không lẽ trình độ phản ảnh tin tức của phóng viên lại xuống đến mức thấp như vậy à? Thái độ của các phóng viên rõ ràng đã góp phần vào mặt trận tâm lý mà địch đang bày ra để chiến thắng công luận Mỹ ngay tại Hoa Kỳ”. (7) Dù có loan tin thất thiệt, song báo chí Mỹ đã giúp chính quyền của họ đạt được mục tiêu đưa BV vào bàn hội nghị. Ông HCM đòi Mỹ chấm dứt vô điều kiện việc ném bom MB, khi đó mới có đàm phán. Yêu cầu đó chưa được chính quyền Mỹ đáp ứng, nay nhờ báo chí Mỹ tiếp tay, giúp Hà Nội đến bàn hội nghị trong tư thế là kẻ chiến thắng, chớ không phải bị đe dọa bởi bom đạn của Mỹ. Khi can thiệp vào VN, TT Johnson chỉ áp lực BV ngồi vào bàn đàm phán chớ không hề đặt ra mục tiêu chiến thắng, chấm dứt chiến tranh để rút quân nước. Đó là lý do khiến báo chí Mỹ ngờ vực về mục tiêu tham chiến của Mỹ và bắt đầu lên tiếng phản đối sự can thiệp ở VN. Với sức mạnh, Mỹ có thể chấm dứt chiến tranh một cách mau chóng, đỡ phí phạm tài nguyên quốc gia và xương máu thanh niên. Nhưng Mỹ không làm? Đó là thắc mắc của người dân HOA Kỳ và cũng là thắc mắc của giới lãnh đạo Trung Cộng. Năm 1972, khi TT Nixon đến Bắc Kinh, một trong những lời nói đầu tiên của Mao Trạch Đông là câu hỏi “Tại sao HOA Kỳ không dội bom tan tành Bắc Việt?” Có lẽ do gợi ý này mà từ tháng 5/1972, TT Nixon tái oanh tạc, gài mìn ở BV, và mở cuộc không tập Hà Nội hồi mùa Giáng sinh 1972. Ba tuần sau hiệp định hòa bình ra đời. Trước đó, trong cuộc nói chuyện với giới chức Thái Lan về cuộc chiến VN hồi năm 1968, Bộ trưởng QP Clark Clifford đã đặt câu hỏi: “Các bạn muốn chúng tôi làm gì?” Ngoại trưởng Thái Thanat Khoman trả lời: “Chúng tôi muốn quý ngài dội bom phá hủy các đê điều của vùng đồng bằng BV, như vậy bọn CSVN sẽ không còn khả năng kéo dài cuộc chiến nữa”. Clifford bác bỏ ngay: “Điều đó vô nhân đạo quá”. Ông Khoman đáp lại: “Đó là qui luật chiến tranh. Vậy quý Ngài có muốn chiến thắng cuộc chiến này hay không?” (8) Theo đuổi cuộc chiến mà không giành chiến thắng, nên lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ, cuộc chiến VN đã làm nhân dân Hoa Kỳ bị phân tán và chia rẽ trầm trọng. Hầu như cả nước Mỹ đều tham gia và công khai bày tỏ quan điểm về cuộc chiến này. Qua tài liệu Mật Lầu Năm Góc, báo chí Mỹ bắt đầu vạch ra các đánh giá mà họ cho là sai lầm của các tổng thống Mỹ can dự đến VN. Sau phán quyết của Tối cao Pháp viện, báo chí thừa thắng xông lên, công khai chỉ trích cách thức Nixon giải quyết cuộc chiến VN và tìm mọi sơ hở của TT Nixon để tấn công. Họ truy tố Nixon về vụ Watergate để hạ bệ ông sau khi HĐ Paris 1973 ra đời. Phong trào phản chiến càng trầm trọng từ sau biến cố Tết Mậu Thân. Đó là một chiến thắng quân sự quyết định, bắt buộc BV phải chịu đàm phán theo đúng chủ trương của giới lãnh đạo HOA Kỳ. Nhưng báo chí Mỹ lập luận theo chiều hướng phản chiến, khiến dân chúng Mỹ có ấn tượng không tốt về sự can thiệp của họ vào VN và phải rút lui. Trước khi nhảy vào cuộc chiến, từ 1963 đến 1967, hầu như toàn thể các cơ quan truyền thông đều đồng ý với Quốc hội ủng hộ chính sách can thiệp của chính quyền Kennedy và Johnson, tán thành sự tham chiến của Mỹ ở VN. Đặc phái viên Tạp chí Time ở VN David Halberstam từng viết rằng: “Việt Nam là một phần hợp pháp trong sự cam kết toàn cầu của Mỹ. Có lẽ VN là một trong 5 hay 6 nước hiếm có trên thế giới thực sự đã mang tính chất sinh tử quyết định đối với nước Mỹ. Nếu nước ấy đã quan trọng như vậy thì đáng được nước Mỹ dành cho một sự tham dự sâu rộng hơn nữa” (9) Nhà bình luận truyền hình Walker Cronkite thì cho rằng “Sự tham chiến tại VN là một quyết định can đảm để chứng tỏ rằng sự tiến tới của chủ nghĩa CS cần phải được chận lại và phải làm nản lòng những kẻ muốn dùng du kích chiến như là phương tiện để đạt mục tiêu chính trị”. Cũng chính ông ta một người được xem có ảnh hưởng nhứt đối với khán giả Mỹ vào tháng 3/1968 đã ủng hộ việc đàm phán, khơi mào cho việc rút lui: “Chiến tranh VN đang ở trong tình trạng tuyệt vọng và chỉ có sự thương thuyết mới đưa nước Mỹ ra khỏi sự bế tắc”. Y nói thêm “Càng ngày tôi càng thấy rõ con đường hợp lý duy nhứt để thoát ra được là sự thương thuyết, không phải như là kẻ chiến thắng mà như một con người lương thiện”. (10) Khó khăn trong đàm phán chấm dứt chiến tranh Dù có sức mạnh, được quốc hội và báo chí ủng hộ, song việc đưa BV vào bàn đàm phán là một việc vô cùng khó khăn. Sau đó trong hội nghị hòa bình ở Paris, Hoa Kỳ còn gặp nhiều trở ngại hơn nữa, vì sự chống đối của bạn lẫn thù và các nhóm phản chiến cùng giới báo chí. Điều này hình như giới lãnh đạo VNCH không mấy quan tâm. Cuộc đàm phán bắt đầu ở Paris từ ngày 13/5/1968 giữa Harriman, Cyrus Vance phía Hoa Kỳ và Xuân Thủy, Lê Đức Thọ phía Hà Nội. Bắc Việt đòi Hoa Kỳ ngưng oanh tạc MB vô điều kiện và nói chuyện với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam. Hoa Kỳ đồng ý nhưng Hà Nội phải chấm dứt xâm nhập vào MN, tôn trọng vùng phi quân sự và cho chính quyền Sàigòn tham gia cuộc thương thuyết. CS bác bỏ vì cho rằng Hoa Kỳ thương thuyết có điều kiện. Họ còn lập luận cuộc chiến ở MN diễn ra giữa quân đội Mỹ và MTGPMN. Vậy Hoa Kỳ phải nói chuyện với Mặt trận GPMN. Hoa Kỳ phản bác rằng MTGPMN không có một cơ sở hợp pháp nào, quân đội của họ phần lớn từ MB lén lút đưa vào, mọi chỉ đạo chủ yếu từ Hà Nội. Trái lại chính quyền VNCH không ai có thể phủ nhận được là một thực thể có hiến pháp, có quân đội, có dân, hoạt động công khai có bang giao với quốc tế. Và thực tế là MB đã đưa quân vào MN để gây chiến còn quân đội Hoa Kỳ vào MN là đáp lại lời yêu cầu của chính phủ và người dân MN để chống sự xâm lược của CS miền Bắc. VNCH là một nước độc lập nên BV và Mỹ không có quyền định đoạt vận mạng chính trị của họ. Vì vậy đôi bên phải tìm cách chấm dứt chiến tranh và để nhân dân miền Nam tự quyết định tương lai của họ là điều hợp lý. Hà Nội nói nếu Mỹ muốn chấm dứt chiến tranh thì phải ngưng oanh tạc MB và Mỹ phải nói chuyện với MTGP. Nếu MT chấp nhận thì mới có hội nghị bốn bên được. Trong khi Hoa Kỳ chỉ muốn nói chuyện quân sự với Hà Nội với đề nghị cả hai đều rút quân khỏi MN. Còn công việc chính trị ở MN sẽ do hai bên MN quyết định, không có sự can thiệp từ bên ngoài. Một trở ngại lớn tại nẩy ra vì TT Thiệu không chấp nhận tham dự hòa đàm nếu có sự hiện diện của MTGPMN, ông chỉ muốn nói chuyện trực tiếp với Hà Nội. Sau 6 tháng thương lượng, cuối cùng Mỹ chấp nhận ngưng ném bom toàn diện MB và Hà Nội đồng ý cuộc họp bốn bên. Ngày 31/10/1968, TT Johnson chính thức tuyên bố “Hoa Kỳ đã bước vào giai đoạn đàm phán thực sự”. Ông sẽ cho lịnh ngưng hoàn toàn các chiến dịch dội bom MB và mở rộng cuộc hòa đàm ở Paris. Hôm sau TT Thiệu công khai tuyên bố không gởi phái đoàn VNCH đến bàn đàm phán. Trong hồi ký, ông Bùi Diễm - cựu Đại sứ tại Hoa Kỳ ghi lại những căng thẳng trong quan hệ đồng minh VNCH/Hoa Kỳ trong giai đoạn này. Ngày 30/10/1968, ông đến Bộ Ngoại giao thông báo quyết định của TT Thiệu khước từ bản thông cáo chung Việt Mỹ về việc ngưng ném bom và hòa đàm. Thứ trưởng Ngoại giao Bundy nói năng với ông “một cách cộc lốc, lạnh lùng”. Ông xoay lưng về phía người khách “như thể không muốn đối diện”. Ông Diễm nghe tiếng gằn giọng liên tiếp như “thiếu đứng đắn”, “không thể chấp nhận được”. Ngày 1/11/1968, “ông Thiệu tuyên bố vì những lý do đặc biệt, VN sẽ không gửi phái đoàn sang Paris tham dự đàm phán. Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc chiến, chánh phủ của hai đồng minh đã công khai tuyên bố rằng họ không cùng quan điểm. Thống kê cho thấy Phó TT Humphrey được ủng hộ đông đảo sau khi TT Johnson tuyên bố ngưng dội bom, nhưng lại mất sự ủng hộ sau khi ông Thiệu tuyên bố VN không hưởng ứng cuộc đàm phán. Như số phận oái oăm đã định, những sự xích mích và bất đồng ý kiến giữa hai chánh phủ lại xảy ra công khai vào ngày 1-11, ngày Quốc khánh của VN. Mấy ngày sau, Nixon đã thắng cử với số phiếu hơn không quá 1%. Về sau William Safire, người soạn thảo diễn văn cho ông Nixon trong giai đoạn bầu cử đã viết trong quyển Before The Fall rằng “Nếu không có ông Thiệu thì có lẽ ứng cử viên Nixon khó thắng cử”. Ngày 9/11/1968, TNS Everett Dirksen bất ngờ ghé tòa đại sứ mà không thông báo trước. Ông nói ngay: “Tôi đến đây nhân danh cả hai vị tổng thống, TT Johnson và TT Nixon thông báo cho ông một tin “tối quan trọng”: VN phải gửi ngay phái đoàn đại biểu tới Ba Lê trước khi sự việc đã quá trể”. Dirksen nói thêm: “Tôi cũng cần khẳng định rõ rệt với ông rằng Hoa Kỳ sẽ không bao giờ công nhận sự hiện diện của MTGP như một thành phần hoàn toàn biệt lập. Tôi xin xác nhận một cách tuyệt đối rằng Hoa Kỳ không bao giờ chủ trương ép buộc VNCH phải chấp nhận giải pháp chính phủ liên hiệp”. (11) Kế hoạch hòa bình của TT Nixon TT Nixon đảm nhận trọng trách lãnh đạo Hoa Kỳ trong giai đoạn làn sóng phản đối Mỹ can thiệp vào VN lan rộng khắp nơi. Sau hơn hai thập niên can dự vào công việc thế giới khiến Hoa Kỳ gánh chịu những tổn thất lớn lao; gần 10 vạn binh sĩ chết và hàng trăm ngàn bị thương trong hai trận chiến Triều Tiên và VN. Trong tâm trạng đó, sự tuyên truyền và dư luận thế giới công kích Hoa Kỳ về sự tham chiến đã ảnh hưởng nặng nề đến thái độ vốn đã mỏi mệt của dân chúng Mỹ. Do đó họ muốn Hoa Kỳ rút lui, trở về thế cô lập cố hữu. Tổng Thống Nixon trình bày về tình hình Việt Nam Trong diễn văn nhậm chức (20/1/1969) TT Nixon tuyên bố sẽ chấm dứt chiến tranh VN trong danh dự và trên một căn bản hợp lý để xây dựng một nền hòa bình bền vững cho thế giới. Hòa bình là mục tiêu ưu tiên trong chánh sách của ông. Để đi tiên phong trong mục tiêu hòa bình, tháng 7/1969, tại đảo Guam, Nixon tuyên bố rút 25 ngàn quân khỏi VN và sẽ tuần tự rút thêm theo một lịch trình sắp sẳn. Hoa Kỳ rút quân khỏi VN để chứng minh cho chánh sách đối ngoại mới của Mỹ với chủ trương “chống lại mọi sự áp đặt và can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác”. Những điểm này đã được LX, TC, các nước Trung lập và Phi liên kết coi như chủ trưong của họ, và đã dùng nó để công kích Mỹ. Và nay HOA Kỳ cụ thể hóa chủ trương đó bằng hành động “Phi Mỹ Hóa” (De-Americanized) nghĩa là Mỹ không còn can dự, để các đồng minh tự lo liệu lấy vận mạng của mình. Vận dụng vào VN, học thuyết trên thể hiện dưới danh nghĩa “Việt Nam hóa” (chiến tranh). Hoa Kỳ tự nhận trước đây họ đã giành độc quyền trong việc bảo vệ đồng minh, khiến nhiều nước không được tham dự…Nhưng từ nay Hoa Kỳ san sẻ trách nhiệm đó. Các nước có trách nhiệm vừa hoạch định vừa thực hiện các kế hoạch do chính họ vạch ra. Họ cần biết rõ tính chất của nền an ninh của chính họ, để quyết định đường lối phải tiến hành. Chỉ có cách đó mới khiến họ nghĩ rằng số phận của họ thực sự là của riêng họ. Để các đồng minh an tâm nhận lấy trách nhiệm, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thực hiện những cam kết hoặc đi dàn xếp tìm sự thỏa thuận của các phe liên hệ và không hành động đơn phương. Hoa Kỳ vẫn còn viện trợ kinh tế, quân sự và hợp tác chặt chẽ với nhiều nước, nhưng từ nay các nước phải góp sức nhiều hơn nữa, chớ không ỷ lại vào Hoa Kỳ. Các đồng minh của Mỹ phải chịu trách nhiệm phòng thủ tuyến đầu, phải tự giải quyết lấy các vấn đề an ninh của họ. Nếu hiểm họa xâm lược là do một cường quốc nguyên tử thì hiện tại chỉ có Hoa Kỳ mới có khả năng quân bình và có thể đương đầu nổi. Việc rút quân khỏi Việt Nam còn góp phần làm giảm các cuộc xung đột, do tham vọng tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc. Điển hình ở Nam ViệT Nam, cả Liên Xô lẫn Trung Cộng đều tố cáo HOA Kỳ thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, nên ra sức ủng hộ CSVN nhằm lôi kéo Việt Nam về phía họ. Nay Hoa Kỳ rút lui khỏi VN, chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ không còn nữa, thì nghĩa vụ quốc tế của Liên Xô, Trung Cộng cũng không còn cần thiết. Nhờ đó hiểm họa của cuộc tranh chấp bá quyền giữa các cường quốc sẽ giảm đi để nhường chỗ cho giai đoạn hòa bình họp tác, hai bên cùng có lợi. Nhưng nếu các cường quốc CS không từ bỏ tham vọng bành trướng ảnh hưởng, nơi đây sẽ diễn ra cuộc tranh chấp mới, không phải giữa Thế giới Tự do và Quốc tế CS, mà giữa Liên Xô và Trung Cộng. Vì thế Hoa Kỳ chủ trương biến ĐNÁ thành khu vực hòa bình trung lập mà tất cả các cường quốc đều có cơ hội đồng đều tham gia vào thị trường quan trọng này. Đề cập đến cuộc chiến tại Việt Nam, TT Nixon cho biết ông đã nắm vững nó. Đó là “một cuộc chiến dai dẳng, phá hoại và khó khăn, dù có sức mạnh nhưng cuộc chiến đã làm hao tổn hàng chục ngàn sinh mạng và hàng chục tỉ đô la. Cuộc chiến đã làm lệch lạc nền kinh tế, làm lệch lạc mối bang giao đối với các quốc gia khác và có ảnh hưởng quá lớn đến tinh thần nhân dân”. Ông cho rằng “Ai hiểu tình hình đều biết rằng cuộc chiến tại VN sắp kết thúc vì đó là quyết tâm của Hoa Kỳ”. Nhưng vấn đề cấp thiết ít ai quan tâm đến, là làm thế nào sẽ không có những vụ VN khác nữa và quan trọng hơn sẽ không có sự hủy diệt nhân loại bằng vũ khí nguyên tử. “Nếu chiến tranh VN đi đến chỗ kết thúc mà không có sự thay đổi nói trên thì sự kết thúc không lợi lộc gì”. Nixon cho rằng sứ mạng của ông trước lịch sử và tương lai nhân loại sẽ tùy thuộc vào sự thành công về điểm này bằng hai sáng kiến, đi tìm sự kết hợp với LX và TC để làm thay đổi cục diện thế giới, thực hiện việc chung sống hòa bình, hạn chế cuộc chạy đua vũ trang và làm giảm bớt hiểm họa chiến tranh. Sau ba năm lãnh đạo Hoa Kỳ, không ai còn nghi ngờ thiện chí của TT Nixon đóng góp cho hòa bình. Lúc ông nhậm chức, quân số Hoa Kỳ ở VN là 543 ngàn, đến cuối năm 1971 chỉ còn 156 ngàn và dự trù đến giữa năm 1972 chỉ còn 50 ngàn quân không chiến đấu. Sự rút quân mau chóng và cuộc đàm phán đang diễn ra ở Paris cho thế giới thấy rằng Hoa Kỳ đã có những hành động tích cực mang lại hòa bình cho VN. Giới lãnh đạo ở Hà Nội cũng không lường trước được bước ngoặc quan trọng này. Nghị quyết 19 của BCH/TƯ Đảng Lao động VN tiết lộ “Bộ Chính trị đã sửng sốt” khi Hoa Kỳ quyết định rút quân khỏi MN. Với sự rút quân của HOA Kỳ, Hà Nội không còn chiêu bài nào để có thể biện minh cho cuộc chiến tranh “chống Đế quốc Mỹ xâm lược”. Không những thế, họ còn giải thích như thế nào khi Hoa Kỳ đưa ra đề nghị hòa bình: quân đội ngoại nhập phải rút khỏi MN để nhân dân tự quyết định vận mạng chính trị của họ. Ngoài ra để mở đầu giai đoạn hòa dịu chấm dứt cuộc xung đột với khối CS, Hoa Kỳ đã thương thảo với LX về tài giảm vũ khí nguyên tử. Hoa Kỳ hứa sẽ dành cho LX hưởng qui chế tối huệ quốc trong việc giao thương và đã bán cho LX một số lớn lúa mì với giá rẻ và điều kiện thanh toán dễ dàng. Hoa Kỳ thừa nhận Bắc Kinh là một thực thể chính trị quan trọng cho sự hợp tác hòa bình và an ninh thế giới. Hoa Kỳ không còn phủ quyết việc TC xin gia nhập LHQ. Từ 1971, Cộng hòa Nhân Hoa Trung Hoa trở thành hội viên của tổ chức quốc tế này và là thành viên Hội đồng Bảo An ngang hàng với LX và Hoa Kỳ. TT Nixon gặp gỡ Mao Trạch Đông tháng 2, 1972 tại Bắc Kinh Với thiện chí và những hành động cụ thể làm tiền đề, Nixon đóng vai trò sứ giả hòa bình đi Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để xây dựng mối quan hệ Đông Tây. Trên cơ sở thỏa thuận giữa ba cường quốc, Hoa Kỳ sẽ chấm dứt chiến tranh VN trong danh dự, không có kẻ thắng người bại. Trước khi đi TQ và LX, TT Nixon gởi cho TT Thiệu lá thư nói rằng “Ngài có thể tuyệt đối an tâm rằng tôi sẽ không làm một thỏa hiệp nào tại BK có hại cho các quốc gia khác…Giả sử vấn đề chiến tranh VN có được nêu lên ở BK, tôi xin cam đoan với Ngài rằng tôi sẽ đưa ra lập trường của Hoa Kỳ và VNCH một cách minh bạch và mạnh mẽ là cuộc chiến tại VN phải được kết thúc bằng thương lượng trực tiếp với Hà Nội…Riêng về chuyện viếng thăm của tôi tại Mặc Tư Khoa vào tháng 5/1972 tôi muốn nói rõ là Hoa Kỳ không hề có ý định dàn xếp qua mặt những nước bạn và đồng minh của mình trong bất cứ vấn đề nào liên quan đến an ninh của họ”. (12) Đây là bức thư đầu tiên (đề ngày 31/12/1971) trong 31 lá thư mà TT Nixon trao đổi và tham khảo với TT Thiệu về HĐ Paris 1973 và chấm dứt chiến tranh VN. Tại bàn đàm phán, Hoa Kỳ chấp nhận rút quân, họ chỉ yêu cầu Hà Nội cam kết không đưa thêm quân vào MN. BV đã ký HĐ Paris 1973 thỏa thuận để ba thành phần chính trị ở MN thành lập Hội đồng Quốc gia Hòa giải Dân tộc đứng ra tổ chức cuộc tổng tuyển cử dân chủ tự do. Từ tháng 3/1973, hai bên MN đã gặp nhau tại hội nghị La Celle Saint Cloud ở Pháp. Phái đoàn VNCH khăng khăng đòi Hà Nội phải rút hết quân về Bắc. TT Thiệu chấp nhận cho MTGPMN tham gia vào đời sống chính trị MN bằng cách đề nghị họ tham dự cuộc tổng tuyển cử sau khi quân BV rút khỏi MN, để bầu tổng thống và Hội đồng HGDT. Tổng thống và Hội đồng HGDT sẽ quyết định thể chế mới cho MNVN. Chính phủ CMLTMN bác bỏ đề nghị đó, họ không chịu thảo luận những vấn đề nào không được ghi trong văn bản hiệp định. Họ đòi hai bên chọn người tham gia Hội đồng QGHGDT chớ không bầu, sau đó Hội đồng tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến và Quốc hội này sẽ soạn thảo hiến pháp cho MNVN (13) Sau khi HĐ Paris ra đời, uy tín của TT Nixon trên chính trường quốc tế lên rất cao, trong khi bộ máy chính quyền VNCH kể cả quân đội và cảnh sát vẫn còn nguyên vẹn…Nhưng rất tiếc TT Thiệu không lợi dụng thế mạnh đó để giành thắng lợi về chính trị. Ông không thấy cuộc chiến đã đi vào khúc quanh quan trọng khi TT Nixon đặt con bài BK vào ván cờ tay ba giữa Hoa Kỳ, Liên Xô và Trung Cộng để kết thúc cuộc chiến. Hà Nội sẽ lâm vào một tình thế vô cùng bất lợi vì thủ đoạn của Nixon. BV chỉ còn hai cách lựa chọn: * Một là từ bỏ mưu đồ thôn tính MN, chấp nhận nơi đây là vùng đất trung lập, đứng ngoài ảnh hưởng của HOA Kỳ, LX lẫn TC. Và sau đó nếu BV muốn VN thống nhất thì họ phải lìa bỏ hệ thống XHCN, cùng MN đi vào con đường trung lập phi liên kết. * Hai là, nếu Hà Nội tiếp tục thực hiện con đường của HCM: đưa cả nước tiến lên XHCN, đứng về phe LX, Cộng sản VN sẽ phản bội TC, cắt đứt tình “hữu nghị đời đời bền vững” với TC mà các lãnh tụ của họ từng cổ vũ. Chống lại BK, một nước giương cao ngọn cờ “chống đế quốc bá quyền, bảo vệ nền độc lập dân tộc”, Hà Nội sẽ cho thế giới thấy rằng “cuộc kháng chiến chống Mỹ” không phải vì mục tiêu độc lập của dân tộc VN mà chỉ để xây dựng chế độ độc tài CS và bành trướng ảnh hưởng của LX. Như vậy sự can thiệp của Hoa Kỳ là chánh nghĩa và CSVN kể cả LX sẽ khốn đốn vì phản ứng của BK. TT Thiệu hội kiến TT Nixon tại Honolulu, 1969 Sau khi tái đắc cử, Nixon đã gởi cho TT Thiệu lá thư đề ngày 18/11/1972, nói rằng “Tôi muốn được cộng tác với Ngài và chánh phủ Ngài trong nhiệm kỳ thứ hai của tôi để bảo vệ tự do tại MN trong thời bình…”. Nixon đoan quyết với Thiệu là Hiệp Định Paris sẽ “bảo vệ nền độc lập của Nam VN và cho phép nhân dân VN quyết định lấy tương lai chính trị của mình”. Nixon đưa ra hai con đường mà TT Thiệu có thể lựa chọn: Một là cộng tác với Hoa Kỳ để mang lại thắng lợi chính trị do những điều kiện của hiệp định mang tới. Hai là TT Thiệu tiếp tục con đường riêng của mình, trong trường họp này thì Hoa Kỳ phải trù liệu các hành động khác mà Nixon tin chắc là sẽ thiệt hại cho quyền lợi của VNCH và Mỹ. (14) Một khi Hoa Kỳ đã quyết định rút lui khỏi cuộc chiến VN để thực hiện mục tiêu chiến lược của họ thì TT Thiệu không thể theo đuổi cuộc chiến chống Cộng được nữa. Đáng lẽ TT Thiệu phải ý thức được điều này. Hồi cuối tháng 10/1966, ông tham dự hội nghị thượng định Manila cùng TT Johnson và các nguyên thủ đồng minh như Úc, Tây Tân Lan, Phi Luật Tân, Đại Hàn và Thái Lan về việc giải quyết chiến tranh VN. Sau khi đọc qua bài phát biểu của ông Thiệu, dự định sẽ đọc tại hội nghị “do các phụ tá của ông soạn thảo rất kêu, nói lên quyết tâm bất biến của Sàigòn là tiếp tục chiến đấu”, ông Nguyễn Xuân Phong, một thành viên của phái đoàn VNCH, thưa thẳng “bài diễn văn hoàn toàn lạc đề đối với một hội nghị thượng đỉnh cho ước vọng hòa bình”. Ông Thiệu rất khó chịu khi nghe lời nhận xét như vậy, ông nổi giận ném bản thảo cho ông Phong, bảo ông sửa lại. Ông Phong viết bài diễn văn khác chỉ đọc trong khoảng 10 phút thay vì 30 phút như bài cũ. Sau khi TT Marcos tuyên bố khai mạc, ông Thiệu là người đầu tiên phát biểu. Bài diễn văn của ông mở đầu bằng câu “Chúng tôi muốn có hòa bình”. Câu này đã làm cho toàn thể cử tọa của phiên họp quốc tế lập tức đứng lên vỗ tay tán thưởng ông Thiệu khá lâu. Trong cuộc họp thượng đỉnh này, ông Phong được nghe vị Trưởng phái đoàn Nam Hàn cho biết Tổng Thống Nam Hàn (Park Chung Hee) cảnh giác là nếu như hòa đàm có xảy ra, Sàigòn sẽ thấy Mỹ thương thuyết thẳng với phía bên kia, rồi Sàigòn chẳng nói năng gì được trong khi thương thuyết, rồi cuối cùng chỉ phải chấp nhận và tuân hành (15) . Hoàn cảnh VN như trình bày trên càng nghiệt ngã hơn Đại Hàn hai thập niên trước, vì vậy MNVN muốn sống còn, chỉ có cách là tuân hành hiệp định mà thôi. VNCH sẽ tồn tại như Đại Hàn Dân Quốc. Do đó TT Thiệu chỉ còn con đường “Hoan nghênh bản hiệp định và thi hành những điều khoản của nó theo một đường lối tích cực” như lời khuyến cáo của Nixon, để tạo sự hợp tác mật thiết liên tục” giữa Hoa Kỳ và VNCH ngay sau khi hiệp định được ký kết. Lúc bấy giờ, vì nhu cầu phát triển, cả LX và TC đều chủ trương chấm dứt các cuộc xung đột khu vực để có thể hợp tác giao thương với Hoa Kỳ. TC sẽ thực hiện kế hoạch “Bốn hiện đại hóa” để canh tân TQ. Còn LX hạn chế được cuộc chạy đua vũ trang đã làm cho nền kinh tế của họ suy sụp trầm trọng. Riêng đối với Hoa Kỳ, Nixon có lý do vững mạnh thực hiện lời hứa: “Chúng tôi sẽ đáp ứng bằng toàn thể sức mạnh của Hoa Kỳ nếu như Bắc Việt vi phạm hiệp định” hoặc “Hoa Kỳ sẽ phản ứng mãnh liệt nếu bản hiệp định bị vi phạm”. (16) Kissinger và Lê Đức Thọ ký Hiệp Định Paris năm 1973 Việc tổng tuyển cử bất thành, từ 17/5 đến 13/6/1973, Hoa Kỳ đã cố gắng mời ông Lê Đức Thọ trở lại Paris để cùng Kissinger “tìm cách thi hành hiệp định Paris”. Trong thời gian này Nixon đã gởi nhiều thư khuyến cáo TT Thiệu không nên vi phạm những thỏa hiệp đã ký và phàn nàn thái độ cứng rắn của Phái đoàn VNCH ở hội nghị La Celle Saint Cloud. Để thuyết phục VNCH đến Paris ký bản thông cáo chung Hoa Kỳ/BV trong đó xác định quyết tâm của hai bên sẽ thi hành nghiêm chỉnh hiệp định, Nixon nhắc nhở TT Thiệu: “Tôi xin lập lại rằng ước nguyện duy nhất của chúng tôi là muốn thấy bản hiệp định được thi hành nghiêm chỉnh và thắt chặt tình liên đới với VNCH. Tôi không tin rằng Ngài muốn tôi phải ra trước dân chúng Hoa Kỳ để giải thích sự bế tắc của sự thương thuyết hiện nay ở Paris. Điều chắc chắn sẽ đưa tới sự cắt đứt ngân khoản cho MNVN”.. Trong lá thư cuối cùng gởi TT Thiệu đề ngày 13/6/1973, lời lẽ Nixon đầy vẻ cay đắng “Lá thư của Ngài đề ngày 12/6 là một đòn giáng trả mạnh vào tình bằng hữu, sự tương kính và quyền lợi chung của chúng ta. Căn cứ vào những hy sinh và rủi ro của Hoa Kỳ phải gánh chịu vì Ngài, tôi không thể ngờ Ngài có thể trả lời một cách tiêu cực như vậy. Tôi chẳng cần dấu diếm sự căng thẳng trong mối bang giao giữa chúng ta vì Ngài đã hoàn toàn phủ nhận những cam kết của tôi trong việc ký kết bản Tuyên cáo này. Nếu Ngài lựa chọn đường lối tiêu cực này, tôi sẽ bắt buộc phải chiều ý Quốc hội và công luận Hoa Kỳ chỉ yểm trợ vừa đủ những nhu cầu có tính cách nhân đạo cho nhân dân MN và bỏ qua những quyết định và nhiệm vụ khó khăn để viện trợ kinh tế và quân sự cho VNCH như ta đã thảo luận ở San Clemente. Chẳng cần phải nói dài dòng, nổ lực của chúng tôi trên toàn cỏi Đông Dương sẽ chấm dứt. Tôi coi sự chọn lựa của Ngài như chống đối sự phán đoán và cam kết của chính bản thân tôi. Đây là vấn đề giữa tôi và Ngài. Sự lựa chọn là do Ngài.” (17) .
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 23, 2011 5:40:28 GMT 9
Năm 1968, TT Thiệu đã phá vỡ kế hoạch hòa bình của TT Johnson (Đảng DC). Nay TT Thiệu tiến thêm bước nữa, làm hỏng kế hoạch hòa bình của TT Nixon (Đảng CH). Lần này còn làm sứt mẻ “tình bằng hữu, sự tương kính và quyền lợi chung” của hai nước và hai vị lãnh đạo. Hậu quả là nửa tháng sau đó, Quốc hội thông qua đạo luật hủy bỏ mọi kinh phí được chi cho các hoạt động của Mỹ ở Đông Dương. Sau đó Quốc hội thông qua đạo luật về Quyền chiến tranh “Cấm tổng thống Hoa Kỳ đưa Quân lực Mỹ đi chiến đấu ở nước ngoài hơn 60 ngày, nếu không được Quốc hội cho phép”. Trong lúc đó, Phòng Tùy viên Quân lực Hoa Kỳ ở Sàigòn nhận được công điện của Ngũ Giác Đài cho biết Quốc hội sẽ cắt giảm nhiều viện trợ cho ĐD trong tài khóa 1973-1974. Nhận được tin này, TT Thiệu chỉ thị ông Nguyễn Xuân Phong đến Hoa Thạnh Đốn vận động các lãnh tụ Đảng Dân chủ (khoảng tháng 9/1973). Từ sau 1968, mối giao tiếp giữa đảng Dân chủ Mỹ và Tòa sứ VNCH ở Mỹ hết sức lạnh nhạt. TNS Fulbright, Đại sứ Harriman…luôn từ chối không muốn tiếp xúc với Sứ quán VNCH. Riêng ông Phong từng tham gia hòa đàm Paris từ 1968 nên có liên hệ tốt với Harriman và Cyrus Vance (sau này là Ngoại trưởng Mỹ dưới thời Carter) nên được TT Thiệu cử sang Mỹ. Ông Phong xin phép TT Thiệu, nếu Mỹ hỏi VNCH muốn gì, ông xin được trả lời: chúng tôi muốn Hoa Kỳ viện trợ thêm hai năm nữa với kinh phí 2 tỷ mỹ kim. Với thời gian và viện trợ đó, VNCH sẽ tự xoay sở để sống còn, không còn ỷ lại vào Mỹ nữa. TT Thiệu chấp nhận đề nghị đó, ông Phong lên đường đi Mỹ. Đến Hoa Thạnh Đốn, ông yêu cầu Đại sứ Trần Kim Phượng sắp xếp để ông gặp Harriman. Ông Phượng trả lời thẳng không thể được. Ông Phong liền nhờ Bí thư Tòa Đại sứ điện thoại nói với Harriman có ông NXP ở Paris muốn đến thăm. Nhân viên sứ quán rất ngạc nhiên, Harriman mời ông Phong đến gặp ngay lúc 4 giờ chiều hôm đó. Ông Phong còn tiếp xúc với vị Chủ tịch Ủy ban (có lẽ Ủy ban Chuẩn chi Ngân sách Ngoại viện của Thượng viện). Sau một giờ đàm luận, ông Harriman hỏi “VNCH cần Mỹ giúp bao lâu nữa và bao nhiêu tiền?” Ông trả lời: “Hai tỷ và hai năm. Sau đó chúng tôi sẽ tự lo liệu lấy”. Harriman cười ngất, ông chỉ vào tờ New York Times có ghi lời tuyên bố với báo chí ngày hôm qua của quyền Ngoại trưởng VNCH Nguyễn Phú Đức: “Mỹ cần ở lại VN ít nhứt 10 năm nữa”. Lúc đó ông Đức thay mặt VNCH đến Mỹ tham dự Đại Hội đồng LHQ với tư cách quan sát viên. Ông Phong sượng sùng từ giả Harriman, trở về Tòa Đại sứ điện báo sự việc cho TT Thiệu và trở về Paris ngay. (18) . Ngày 22/4/1975, ông Thiệu từ chức Trong bức thư cuối cùng gởi TT Thiệu, ông coi như TT Thiệu đã dứt tình bằng hữu với ông (và đồng minh với Mỹ). Nhưng không hiểu tại sao, ông Thiệu vẫn tin tưởng vào lời hứa “trả đũa BV” của Nixon? Ông cần Mỹ ở lại VN 10 năm nữa có phải vì ông đã tu chính hiến pháp để lãnh đạo VNCH thêm một (vài) nhiệm kỳ nữa từ tháng 10/1975 hay không? Có lẽ cựu Đại Sứ Bùi Diễm đã giải đáp thắc mắc trên: “Dường như ông Thiệu đã mất hết thăng bằng, có lẽ những năm nắm giữ uy quyền đã khiến ông Thiệu trở nên mê muội. Ông đã cho mình là trung tâm của vũ trụ, đã tin rằng chính ông đã đang mang thiên mệnh. Ông còn tự mình chuốc lấy tai hại khi cô lập hóa những người đầy khả năng, trong khi “đa số nhân viên chính phủ của ông chỉ là những người tham nhũng và bất tài”. Ông đã không hiểu những biến cố xảy ra ở Hoa Kỳ. Ông “tin rằng dù cho chế độ của ông có thiếu khả năng đến đâu đi nữa thì Hoa Kỳ vẫn không thể bỏ rơi ông” Và giờ đây (tháng 9/1974) chính tôi tận mắt mục kích ông cũng không hiểu nổi chính cả những vấn đề đang xảy ra ngay ở VN. Dù đang lúc thập tử nhất sinh mà ông Thiệu vẫn chẳng thể phóng tầm nhìn lên trên những vấn đề uy quyền cá nhân. Quan niệm của ông chỉ là quan niệm của một người làm chính trị, cố theo đuổi và giữ chặt quyền lực”. (19) . Sau TT Nguyễn Văn Thiệu đến giới lãnh đạo CSVN. Tham vọng quyền lực là thảm họa lớn của dân tộc đã kéo dài qua hai thế hệ, và đang có nguy cơ đưa đến mất nước. Lê Quế Lâm © Thông Luận 2010 Chú thích: (1) AFP, 7/12/1965 (2) Hồ Chí Minh, Vì độc lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự Thật, Hà Nội, 1970, tr.282 (3) Lyndon B. Johnson, The Vantage Point: Perspectives of the Presidency, Redwood Press Ltd, London, 1972, pp 592, 595 (4) Nguyễn Đức Thiện, Diễn tiến và hậu quả Hiệp định Paris về Việt Nam, Hoa Kỳ, 2005, tr. 178. (5) Hồi ký Cựu Đại tướng William C. Westmoreland (Nguyên tác A Soldier’s Report) Duy Nguyên dịch sang Việt Ngữ, California, 8/1996. Tr. 473,474 (6) Clayton Jones, Twenty Years Ago: The Tet Offensive – Viet Says: We Were Forced into Tet, The Christian Science Monitor, Vol 80, Feb 1-7, 1988 (7) Hồi ký cựu Đại tướng Westmoreland, Sđd, tr. 470, 473 (8)Vũ Nhuận, Ngày ấy cách đây 11 năm (Dịch báo ngoại quốc) Báo Việt Luận Úc Châu ngày 2/5/1986. (9)David Halberstam, The Making of a Quagmire, Random House, Ny, 1965, P 319 (10) Edward Jay Epstein, Between Facts and Fictions, Vintage Books, NY, 1975, PP 81-82 (11) Bùi Diễm, Gọng Kềm Lịch Sử, Chương 28, tr. 4, 7 (12) Nguyễn Tiến Hưng và J.L. Schecter, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập, C & K Promotion, Los Angeles, 1987, tr. 32 (13 )Nguyễn Khắc Ngữ, Những ngày cuối cùng của VNCH, Nhóm nghiên cứu Sử Địa Việt Nam xuất bản, Gia Nã Đại, 1979, Tr. 155 (14) Nguyễn Tiến Hưng, Sách đã dẫn (Sđd), tr. 210, 211 (15) Nguyen Xuan Phong, Hope And Vanquished Reality, A publication of Center for A Science of Hope, 2001, PP. 192-193 & 195. Đọc thêm Báo Sàigòn Times Úc Châu từ số 648 đến 661: Hy Vọng & Thực Tế Tan Hoang, Bản dịch của Phan Quân. (16) Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, tr.251và 262 (17) Nguyễn Tiến Hưng, Sđd, tr. 341 và 342 (18) The Vietnam Archieve, Oral History Project, Interview with Nguyen Xuan Phong, Conducted by Richard Burks Verrone, Ph.D, November 6, 2002, transcribed by Jennifer McIntyre (19) Bùi Diễm, Sđd, Chương 35, tr. 5
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 11, 2011 8:06:59 GMT 9
Cách mạng xanh và địa kinh tế chính trị Vietsciences- Nguyễn Trường Năm 2009 là một năm tồi tệ đối với Hoa Kỳ: một nước sản xuất và xuất khẩu vũ khí hàng đầu , với khoảng 68,4% thị trường toàn cầu năm 2008, giá trị xuất khẩu đã sụt giảm đến gần 16 tỉ trong năm 2009 vì khủng hoảng kinh tế thế giới. Tưởng cũng nên nhắc lại, vũ khí là một trong số ít sản phẩm của Mỹ có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường toàn cầu hiện nay. Trong mọi trường hợp, một xứ giàu có ở Trung Đông cũng đã góp phần trợ giúp Hoa Kỳ. Thực vậy, Saudi Arabia hiện đang hỗ trợ Hoa Kỳ trên thị trường vũ khí tương tự như Trung Quốc từ lâu đã làm trên thị trường trái phiếu ngân khố. Theo Jim Lobe thuộc Inter Press Service, Saudi Arabia đã đồng ý mua 84 phi cơ F-15 và 175 phi cơ trực thăng, như một phần trong thỏa ước mua bán vũ khí lớn nhất trong lịch sử xuất khẩu của Hoa Kỳ. Ngoài ra, thỏa ước bán vũ khí, sắp được Tòa Bạch Ốc đưa ra Quốc Hội phê chuẩn nay mai, còn kèm theo một thỏa ước phụ, trị giá 30 tỉ USD, để nâng cấp các lực lượng hải quân, và có thể một thỏa ước khác hiện đại hóa các hệ thống tên lửa phòng thủ. Những giao dịch nầy, theo Lobe, cũng đã vượt quá giá trị các thỏa ước chuyển giao vũ khí quy ước ký kết với toàn thể các quốc gia phát triển và đang phát triển khác trên thế giới trong năm 2009, trị giá khoảng 57,5 tỉ USD. Mặc dù đối tượng của số vũ khí nầy, trên lý thuyết, là Iran, quân đội Saudi Arabia, với toàn bộ vũ khí tạo mãi, vẫn chẳng mấy ưa thích chiến tranh, hay có thể chiến đấu hữu hiệu. Tuy nhiên, điều nầy chắc chắn có nghĩa hàng tỉ mỹ kim vũ khí sẽ được dành cho Do Thái, với mục đích bảo đảm thăng bằng lực lượng trong khu vực. Tóm lại, người ta có thể xem những giao dịch vừa kể như một gói cứu trợ của các quốc gia khách hàng góp phần giúp Hoa Kỳ duy trì một số công ăn việc làm trong thời buổi kinh tế khó khăn. Tuy nhiên, nếu muốn biết năng lượng gió, mặt trời, than đá... đang được triển khai trên thế giới theo chiều hướng nào, chúng ta nên quan sát Trung Quốc (TQ). Đó mới là gốc các thông tin về tương lai năng lượng, và tương lai chính trị siêu cường trên địa cầu. Hoa Thịnh Đốn hiện đang quan sát với rất nhiều lo ngại. Hiếm khi một cuộc phỏng vấn đơn thuần đã nói lên khá nhiều về khuynh hướng chuyển dịch quyền lực trên toàn cầu. Ngày 20 tháng 7, Fatih Birol, kinh tế trưởng của Cơ Quan Năng Lượng Thế Giới- IEA[1], đã nói với báo Wall Street Journal: TQ đã qua mặt Hoa Kỳ để trở thành quốc gia tiêu thụ năng lượng số một thế giới. Người ta có thể hiểu sự kiện nầy nhiều cách, như bằng chứng sức mạnh kỹ nghệ liên tục của TQ, suy thoái còn lây lất ở Hoa Kỳ, xe hơi ngày một phổ thông ở TQ, ngay cả như hiệu quả sử dụng năng lượng ở Hoa Kỳ cao hơn ở TQ. Tất cả những nhận xét đó đều có giá trị, nhưng vẫn không phải điều đáng quan tâm. Thực vậy, qua việc trở thành quốc gia tiêu thụ năng lượng hàng đầu, TQ cũng sẽ trở thành tay chơi ngày một áp đảo trên thế giới và sẽ có ảnh hưởng quyết định đến việc định hình tương lai toàn cầu. Vì năng lượng liên hệ chặt chẻ với rất nhiều khía cạnh kinh tế toàn cầu, và vì tính bất ổn định trong số cung tương lai của dầu khí và các nhiên liệu quan trọng khác, những quyết định của TQ liên quan đến số đầu tư vào năng lượng sẽ có những hậu quả sâu rộng. Như một tay chơi hàng đầu trên thị trường năng lượng toàn cầu, TQ sẽ giữ vai trò quyết định không những giá cả các loại nhiên liệu mà cả hệ thống năng lượng lựa chọn cho tương lai. Quan trọng hơn nữa, sự lựa chọn loại năng lượng ưa thích của TQ sẽ mang tính quyết định sự khả dĩ TQ và Hoa Kỳ có thể hay không thể rơi vào một sự tranh giành toàn cầu đối với số dầu khí khả dụng, và thế giới có thể hay không thể thoát khỏi tai họa biến đổi khí hậu. DẦU KHÍ VÀ HOA KỲ Không ai có thể thẩm định được ý nghĩa của địa vị nổi trội gần đây của TQ trong địa hạt năng lượng nếu không hiểu rõ vai trò của năng lượng trong quá trình trổi dậy của Hoa Kỳ như siêu cường duy nhất toàn cầu. Đã hẳn, tài nguyên dồi dào ở vùng Đông Bắc Hiệp Chủng Quốc non trẻ, như trữ lượng nước và than đá, đã giữ vai trò quyết định trong quá trình kỹ nghệ hóa trước đây cũng như sự chiến thắng của miền Bắc trong cuộc nội chiến của Mỹ. Tuy nhiên, chính việc khám phá trữ lượng dầu ở phía Tây Pennsylvania năm 1859 đã giúp Hoa Kỳ trở thành tay chơi quyết định trên trường quốc tế. Khai thác và xuất khẩu dầu đã là đầu tàu kéo theo thịnh vượng của nước Mỹ vào đầu thế kỷ 20 - thời điểm Hoa Kỳ trở thành xứ sản xuất hàng đầu hành tinh cùng lúc lôi kéo theo sự trổi dậy của các đại công ty. Tưởng cũng không nên quên đại công ty xuyên quốc gia đầu tiên trên thế giới - Standard Oil Company của John D. Rockfeller - đã được thành lập để khai thác và xuất khẩu dầu lửa Hoa Kỳ. Pháp chế chống tổ hợp và liên minh đã giải thể Standard Oil năm 1911, nhưng hai hậu duệ lớn nhất, Standard Oil of New York và Standard Oil of New Jersey, về sau đã sáp nhập để trở thành ExxonMobil, doanh nghiệp giàu nhất thế giới trên thị trường chứng khoán. Một công ty con khác, Standard Oil of California, đã trở thành Chevron, nay là công ty giàu thứ ba của Mỹ. Dầu lửa cũng đã giữ vai trò nòng cốt trong quá trình Hoa Kỳ trổi dậy như cường quốc quân sự. Hoa Kỳ đã cung cấp phần lớn số dầu các đồng minh sử dụng trong hai cuộc thế chiến I và II. Trong hàng ngũ các đại cường thời đó, Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất tự túc về dầu. Điều nầy có nghĩa Hoa Kỳ đã có thể gửi đại quân đến Âu châu và Á châu đè bẹp quân Đức và Nhật được trang bị hùng hậu nhưng đói dầu. Ngày nay, ít người hiểu được điều nầy, nhưng theo các vị lãnh đạo đem lại chiến thắng của Mỹ trong Thế Chiến thứ hai, kể cả Tổng Thống Roosevelt, chính sự trù phú về dầu lửa, không phải bom hạt nhân, đã giữ vai trò quyết định. Với nền kinh tế và guồng máy quân sự cơ sở trên dầu lửa, các nhà lãnh đạo Mỹ buộc lòng phải sử dụng những biện pháp ngày một tốn kém và liều lĩnh, để bảo đảm nguồn cung năng lượng đầy đủ cho cả hai. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, với nguồn cung quốc nội ngày một cạn kiệt, các vị tổng thống kế tiếp đã soạn thảo một chiến lược toàn cầu nhằm bảo đảm khả năng tiếp cận dầu lửa ở hải ngoại. Để bắt đầu, Saudi Arabia và một số vương quốc vùng Vịnh Ba Tư đã được lựa chọn như những trạm xăng hải ngoại cho các nhà máy lọc dầu và quân lực Hoa Kỳ. Các công ty dầu của Mỹ, đặc biệt là các công ty hậu duệ của Standard Oil, đã được giúp đỡ và khuyến khích thiết lập sự hiện diện vững chắc trong các xứ nầy. Trong thực tế, phần lớn các chiến lược thời hậu chiến - Chủ Thuyết Truman, Chủ Thuyết Eisenhower, Chủ Thuyết Nixon, và đặc biệt Chủ Thuyết Carter - tất cả đều dính liền và lệ thuộc vào các trạm xăng vừa nói. Ngày nay, dầu lửa cũng giữ vai trò thiết yếu trong các kế hoạch và hành động của Hoa Thịnh Đốn. Chẳng hạn, hai Bộ Ngoại Giao và Quốc Phòng vẫn duy trì một khả năng quân sự phức tạp và tốn kém ở vùng Vịnh Ba Tư để bảo đảm sự an toàn và an ninh của nguồn dầu xuất khẩu từ vùng Vịnh. Tầm với của sự hiện diện quân sự còn nới rộng đến những vùng sản xuất dầu khí quan trọng như vùng Biển Caspian và Tây Phi châu. Nhu cầu duy trì những liên hệ kinh tế, chính trị, và quân sự với các xứ xuất khẩu dầu quan trọng như Kuwait, Nigeria, Saudi Arabia, tiếp tục giữ địa vị ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Trong cùng chiều hướng, trong một thế giới dưới tác động của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu, quyền lợi của Hoa Kỳ đối với vùng Bắc cực - ngày một ấm dần và tan băng - đang được thúc đẩy bởi nhu cầu khai thác các dự trữ dầu khí nhiều tiềm năng. TRUNG QUỐC VÀ NĂNG LƯỢNG Sự kiện TQ nay đã vượt qua Hoa Kỳ như xứ tiêu thụ năng lượng hàng đầu trên thế giới chắc chắn sẽ đưa đến những chính sách toàn cầu hoàn toàn thay đổi của xứ nầy, không mấy khác với những gì đã xẩy ra với Hoa Kỳ trước đây. Đã hẳn, quan hệ TQ-Hoa Kỳ cũng thay đổi theo, chưa nói đến các quan hệ quốc tế. Câu hỏi được đặt ra: với kinh nghiệm riêng của chính mình, Hoa Kỳ có thể chờ đợi những gì từ TQ? Để bắt đầu, những ai theo dõi tình hình kinh tế tài chánh đều hiểu rõ cấp lãnh đạo TQ xem năng lượng như mối quan tâm hàng đầu và đã dành nhiều tài nguyên và hoạch định cho việc bảo đảm những nguồn cung thích ứng trong tương lai. Theo đuổi mục tiêu nầy, TQ đang phải đối diện với hai thách thức căn bản: (1) bảo đảm đầy đủ năng lượng để thỏa mãn nhu cầu ngày một gia tăng; (2) và quyết định loại nhiên liệu có thể tin cậy để thỏa mãn những đòi hỏi nầy. Phương cách TQ đáp ứng những thách thức vừa nói sẽ có nhiều tác động quan trọng đến chính trường toàn cầu. Theo các dự phóng gần đây của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ (DoE), tiêu thụ năng lượng của TQ sẽ gia tăng 133% giữa 2007 và 2035, từ 78 đến 182 triệu tỉ BTU (British thermal units). Nói một cách khác, một cách nào đó TQ phải kiếm thêm 104 triệu tỉ BTU trong 25 năm sắp tới, tương đương với tổng số tiêu thụ của Âu châu và Trung Đông trong năm 2007. Tìm kiếm, tậu mãi, và chuyển tải đến TQ một số lượng dầu lớn lao, khí đốt thiên nhiên, và các nhiên liệu khác, đã hẳn là thách thức kinh tế kỹ nghệ lớn nhất, một thách thức chứa đựng nhiều khả dĩ cọ xát và xung đột thực sự. Mặc dù phần lớn ngân sách dành cho năng lượng là những chi tiêu quốc nội, ngạch số cần thiết để nhập khẩu nhiên liệu (dầu, than, hơi đốt thiên nhiên, và uranium) cùng những trang thiết bị biến chế và tinh lọc năng lượng (nhà máy lọc dầu, nhà máy phát điện, và các lò phản ứng hạt nhân) sẽ ảnh hưởng lớn lao đến thị giá toàn cầu của các tài hóa nầy - một vai trò cho đến nay phần lớn do Hoa Kỳ đảm nhiệm. Tuy nhiên, quan trọng hơn nữa, sẽ là những quyết định của TQ về loại năng lượng chính yếu lựa chọn để sử dụng trong tương lai. Nếu các lãnh đạo TQ theo xu hướng tự nhiên của họ, có lẽ họ sẽ tránh lệ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu, hiểu rõ sự lệ thuộc rất dễ vấp phải những đổ vỡ, gián đoạn trong nguồn tiếp liệu, hoặc trong trường hợp TQ, một phong tỏa hàng hãi khả dĩ của Mỹ (chẳng hạn, trường hợp xung đột kéo dài về Đài Loan). Li Junfeng, một quan chức năng lượng cao cấp TQ, mới đây, đã phát biểu: "số cung năng lượng cần phải đến từ những nơi bạn có thể đặt chân lui tới"[2] - có nghĩa các nguồn cung quốc nội. TQ khá dồi dào về than đá. Theo dự phóng gần đây của Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ, than chiếm khoảng 62% số cung nhiên liệu của TQ vào năm 2035, ít hơn hiện nay đôi chút. Tuy nhiên, một sự lệ thuộc sâu xa vào than đá sẽ làm trầm trọng thêm các vấn đề môi trường, ảnh hưởng tiêu cực đến kinh tế, vì phí tổn y tế sẽ gia tăng. Thêm vào đó, chính vì than đá, TQ hiện là quốc gia gây khí thải carbon dioxide hàng đầu thế giới. Theo Bộ Năng Lượng, phần khí thải carbon-dioxide sẽ tăng vọt từ 19,6% so với 21,1% của Mỹ vào năm 2005, sẽ lên tới 31,4% năm 2035, khi mức khí thải của TQ vượt xa các quốc gia khác. Chừng nào Bắc Kinh còn từ chối hay chưa thể giảm thiểu mức độ lệ thuộc vào than đá, chúng ta cũng phải quên đi bất cứ lập luận hùng biện nào của TQ trong các hội nghị về hiện tượng biến đổi khí hậu. TQ sẽ đơn thuần không thể có những bước tiến thật sự đáng kể trong nỗ lực đối phó với hiện tượng biến đổi khí hậu. Riêng trong trạng huống nầy, TQ cũng sẽ làm thay đổi bộ mặt của hành tinh. Mới đây, cấp lãnh đạo TQ hình như đã trở nên nhạy cảm hơn đối với những bất trắc của sự lệ thuộc quá đáng vào than đá. Hiện nay, TQ đặt nặng vấn đề khai triển các hệ thống năng lượng tái tạo, đặc biệt gió và năng lượng mặt trời. Thực vậy, TQ đã trở thành xứ sản xuất hàng đầu các máy tuốc-bin năng lượng gió và các pa-nô năng lượng mặt trời, và đã bắt đầu xuất khẩu kỷ thuật nầy đến Hoa Kỳ. Trong thực tế, vài kinh tế gia và nghiệp đoàn lao động cho rằng TQ đã trợ cấp xuất khẩu các kỷ thuật năng lượng sạch hay tái tạo, vi phạm quy chế Tổ Chức Thương Mãi Thế Giới. Việc TQ xem nặng năng lượng tái tạo là một tin lành, nếu đưa đến giảm thiểu đáng kể số than đá sử dụng. Đồng thời, nỗ lực cải tiến hoàn hảo các kỷ thuật liên hệ có thể giúp TQ bước lên hàng tiền đạo trong cách mạng kỷ thuật, tương đương với địa vị áp đảo của Hoa Kỳ về kỷ thuật dầu khí đã đẩy Hoa Kỳ lên cường quốc hàng đầu trên thế giới trong thế kỷ 20. Nếu Hoa Kỳ không theo kịp, Hoa Kỳ sẽ lâm vào cảnh một đại cường trên đà tuột dốc ngày một nhanh hơn. AI CÓ ẢNH HƯỞNG QUYẾT ĐỊNH Ở SAUDI ARABIA? Nạn khát năng lượng của TQ có thể đưa đến cọ xát và xung đột với Hoa Kỳ, nhất là trong sự cạnh tranh toàn cầu giành giựt số dầu nhập khẩu ngày một khan hiếm. Trong khi số dầu tiêu thụ trên thế giới không ngừng gia tăng, cũng là lúc TQ đang sử dụng lúc một nhiều dầu. Điều nầy chỉ có thể đưa đến những va chạm kinh tế, chính trị, và đến một lúc nào đó, có thể cả quân sự, trong những vùng sản xuất dầu khí - những khu vực từ lâu Hoa Thịnh Đốn luôn xem thuộc khu vực năng lượng hải ngoại dành riêng cho Hoa Kỳ. Năm 1995, TQ chỉ tiêu thụ khoảng 3,4 triệu thùng (barrels) mỗi ngày - 1/5 số lượng Hoa Kỳ sử dụng (số 1 thế giới), 2/3 số tiêu thụ của Nhật (số 2). Vào thời điểm đó, TQ sản xuất 2,9 triệu thùng mỗi ngày từ các khu dầu quốc nội, nhập khẩu 500,000 thùng mỗi ngày, so với 9,4 triệu thùng nhập khẩu của Mỹ và 5,3 triệu thùng của Nhật. Vào năm 2009, TQ tiêu thụ 8,6 triệu thùng mỗi ngày, đứng thứ hai trên thế giới sau Hoa Kỳ với 18,7 triệu thùng. Sản xuất quốc nội, 3,8 triệu thùng mỗi ngày, đã không tăng cùng nhịp, đó cũng chính là vấn đề Hoa Kỳ đã phải đối đầu trong kỷ nguyên chiến tranh lạnh. TQ đã phải nhập khẩu 4,8 triệu thùng mỗi ngày, vượt xa Nhật (trong thực tế, Nhật đã bớt tùy thuộc vào dầu), và gần 50% của Mỹ. Trong những thập kỷ sắp tới, những con số nầy chắc chắn sẽ ngày một tồi tệ hơn. Theo Bộ Năng Lượng Hoa Kỳ, TQ sẽ qua mặt Hoa Kỳ như quốc gia nhập khẩu dầu hàng đầu thế giới, khoảng 10,6 triệu thùng mỗi ngày, vào năm 2030. Vài chuyên gia nghĩ, điều nầy sẽ xẩy ra sớm hơn. Dù sớm hay muộn, các lãnh đạo TQ cũng đã vướng víu trong tình trạng khó xử như đối tác Hoa Kỳ đã phải đương đầu từ nhiều năm nay: tùy thuộc vào dầu, nhiên liệu chính yếu lựa chọn, chỉ có thể nhập khẩu từ các xứ giàu tài nguyên năng lượng luôn sống trong tình trạng xung đột và khủng hoảng. Hiện nay, TQ nhập khẩu phần lớn số dầu cần thiết từ Saudi Arabia, Iran, Angola, Oman, Sudan, Kuwait, Nga, Kazakhstan, Libya, và Venezuela. Nhằm mục đích bảo đảm nguồn cung cấp khả tín từ các xứ vừa kể, Bắc Kinh đã phải duy trì quan hệ chặt chẽ với cấp lãnh đạo, và trong vài trường hợp, đã cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho các xứ nầy. Đó cũng chính là con đường Hoa Thịnh Đốn đã từng lựa chọn, với một số trong các xứ vừa kể. Các xí nghiệp dầu khí quốc doanh TQ cũng đã thiết lập và vun quén các "đối tác chiến lược" với các xí nghiệp đối tác trong những xứ nầy và đôi khi còn tậu mãi ngay cả quyền khai thác các khu có trữ lượng quan trọng. Đặc biệt hơn nữa là phương thức Bắc Kinh đã tìm cách giảm thiểu ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở Saudi Arabia và các xứ giàu năng lượng trong vùng Vịnh Ba Tư. Năm 2009, TQ lần đầu tiên nhập khẩu dầu Saudi Arabia nhiều hơn cả Hoa Kỳ, một chuyển dịch địa chính trị có ý nghĩa lớn lao, nếu chúng ta lưu ý đến lịch sử quan hệ Hoa Kỳ-Saudi Arabia. Mặc dù không cạnh tranh với Hoa Thịnh Đốn về viện trợ quân sự, Bắc Kinh đã gửi các lãnh đạo cao cấp đến ve vản Riyadh, hứa hậu thuẩn các nguyện vọng của Saudi Arabia mà không nhắc đến nhân quyền hay dân chủ, những yếu tố thường hiện diện trong chính sách ngoại giao Hoa Kỳ. Hầu hết những điều vừa nói có tiếng vang quá quen thuộc. Xét cho cùng, Hoa Kỳ cũng đã có lần ve vản người Saudis như vậy khi Hoa Thịnh Đốn xem vương quốc Á Rập như một trạm xăng và muốn chuyển hóa thành một xứ bảo hộ quân sự không chính thức. Năm 1945, trong khi Đệ Nhị Thế Chiến đang tiếp diễn, Tổng Thống Roosevelt đã đặc biệt viếng thăm để gặp quốc vương Abdul Aziz của Saudi Arabia và thiết lập phương thức đổi-bảo-vệ-lấy-dầu, kéo dài cho đến ngày nay. Điều đáng ngạc nhiên là các lãnh đạo Mỹ không thấy hay không muốn công nhận sự tương đồng; thay vào đó, chỉ nhìn với đôi mắt nghi ngờ TQ đang xâm nhập các xứ trong vòng ảnh hưởng của mình như Saudi Arabia, và nhiều xứ giàu năng lượng trong vùng, mô tả những động thái đó như đối nghịch. Cùng với đà lệ thuộc lúc một gia tăng vào các nhà cung cấp hải ngoại, TQ rất có thể sẽ tăng cường dây liên hệ với các cấp lãnh đạo, gây thêm căng thẳng trong chính trị thế giới. Thực vậy, sự ngần ngại hiện nay của Bắc Kinh, không muốn gây rắc rối cho các quan hệ năng lượng sinh tử với Iran, đã gây khó khăn cho các nỗ lực của Mỹ áp đặt các chế tài kinh tế mới và khắt khe hơn đối với Iran, để buộc xứ nầy phải từ bỏ các hoạt động tinh chế uranium. Trong cùng một chiều hướng, mới đây, TQ đã cho kỹ nghệ dầu Venezuela vay 20 tỉ USD. Động thái nầy đã giúp tăng cường vị thế của Tổng Thống Hugo Chavez vào đúng lúc uy tín Chavez trong quốc nội, và do đó, khả năng chống đối các chính sách của Mỹ, đang suy giảm. Người TQ cũng đang duy trì quan hệ thân hữu với Tổng Thống Omar Hassan Ahmad al-Bashir của Sudan, mặc dù các nỗ lực của Mỹ mô tả al-Bashir như một thành phần cặn bả, ngoài vòng pháp luật, vì bị nghi ngờ dính líu đến các vụ tàn sát ở Dafur. NGOẠI GIAO VŨ-KHÍ-ĐỔI-LẤY-DẦU Hiện nay, nỗ lực của TQ tăng cường quan hệ với các xứ cung cấp dầu khí đã đưa đến các va chạm địa chính trị với Hoa Kỳ. Ngoài ra, còn có một nguy cơ xung đột nghiêm trọng hơn nhiều giữaTrung Quốc và Hoa Kỳ khi thế giới bước vào kỷ nguyên dầu-khó-khai-thác và số trữ lượng dễ khai thác trên thế giới ngày một cạn kiệt nhanh chóng. Theo DoE, số cung dầu toàn cầu năm 2035 sẽ vào khoảng 110,6 triệu thùng mỗi ngày - chỉ vừa đủ để thỏa mãn số cầu vào cùng thời điểm. Tuy nhiên, nhiều nhà địa chất học tin số dầu sản xuất toàn cầu sẽ lên đỉnh điểm khoảng gần 100 triệu thùng mỗi ngày vào năm 2015, và sau đó sẽ bắt đầu tiệm giảm. Vả chăng, số dầu còn lại chỉ tìm thấy ở những khu vực khó tiếp cận hay bất ổn. Nếu đây là những dự phóng chính xác, Hoa Kỳ và TQ - hai quốc gia nhập khẩu hàng đầu trên thế giới - có thể bị buộc chặt trong trò chơi zero-sum giữa hai đại cường cùng lúc tìm hết cách tiếp cận một số cung dầu xuất khẩu tiệm giảm. Điều gì sẽ xẩy ra trong trạng huống đó, đã hẳn, khó lòng tiên đoán, nhất là vì tiềm năng xung đột sẽ không thiếu. Nếu cả hai tiếp tục con đường hiện nay - vũ trang các xứ nhiều dầu lựa chọn trong nỗ lực bảo đảm lợi thế trong trường kỳ - các xứ giàu năng lượng được vũ trang đầy đủ cũng trở thành một quan ngại hay cám dỗ đối với các xứ láng giềng. Với các cố vấn và huấn luyện viên quân sự do Hoa Kỳ và TQ gửi tới ngày một đông, sân khấu đã được chuẩn bị cho các va chạm xô xát trong các cuộc chiến cục bộ và xung đột biên giới. TQ cũng như Hoa Kỳ có thể không muốn dính líu, nhưng lô-gic ngoại giao vũ-khí-lấy-dầu rất dễ gây ra những nguy cơ khó tránh. Nguy cơ Hoa Kỳ và TQ bị vướng mắc trong một cuộc tranh chấp toàn cầu để thủ đắc số cung dầu còn lại trong một tương lai xa gần nào đó rất dễ xẩy ra. Thực vậy, nhiều viên chức ở Hoa Thịnh Đốn tin một cọ xát như vậy gần như không thể tránh. Trong phúc trình hàng năm 2008, Sức Mạnh Quân Sự Của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc[3], DoD đã ghi nhận: "Sự kiện TQ tập trung trong một tương lai gần vào việc chuẩn bị cho những bất trắc có thể xảy ra trong Eo Biển Đài Loan...là một động lực quan trọng thúc đẩy việc canh tân [quân lực]. Tuy nhiên, phân tích các tậu mãi quân sự và tư duy chiến lược của TQ cho thấy Bắc Kinh cũng đang khai triển các khả năng lâm thời sử dụng trong những trạng huống bất ngờ khác, chẳng hạn một xung đột vì tài nguyên..."[4]. Tuy nhiên, xung đột vì tranh giành trữ lượng dầu trên địa cầu không phải là con đường duy nhất vai trò năng lượng mới của TQ có thể khai mào. Người ta có thể tưởng tượng một tương lai trong đó Hoa Kỳ và TQ hợp tác khai triển những nguồn năng lượng thay thế cho dầu, giúp tránh việc phải dồn các tài nguyên tài chánh khổng lồ vào thi đua võ trang. Tổng Thống Obama và Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào, trong tháng 11-2009, hình như đã chợt phát hiện một khả dĩ như thế trong cuộc họp mặt thượng đỉnh ở Bắc Kinh, và đã đồng ý hợp tác trong các chương trình triển khai các nhiên liệu thay thế và các hệ thống giao thông vận tải. Vào thời điểm nầy, người ta chỉ có thể nhận thấy rõ ràng: (1) TQ lệ thuộc ngày một nhiều vào dầu khí nhập khẩu, nguy cơ cọ xát và xung đột với Hoa Kỳ - một quốc gia cũng đang trông cậy vào những nguồn cung cấp dầu nhiều bất trắc - ngày càng gia tăng; (2) TQ lệ thuộc vào than đá càng nhiều, nguy cơ ô nhiểm của địa cầu càng lớn; (3) Nếu đặt vấn đề phát huy năng lượng thay thế lên ưu tiên hàng đầu, rất có thể thế kỷ 21 sẽ trở thành "Thế Kỷ của Trung Quốc". Cho đến nay, thứ tự ưu tiên TQ dành cho các nguồn nhiên liệu khác nhau như thế nào vẫn còn là một ẩn số. Tuy nhiên, với bất cứ lựa chọn nào, các quyết định về năng lượng của TQ cũng sẽ làm thế giới rung chuyển. TRUNG QUỐC XANH Năm 2004, Elizabeth Economy, Giám đốc Nghiên Cứu Á Châu thuộc Hội Đồng Quan Hệ Đối Ngoại[5], đã lên án chính sách môi trường của TQ trong tác phẩm Dòng Sông Đen: Thách Thức Môi Trường Đối Với Tương Lai Trung Quốc[6]. Bà mô tả, một thế kỷ gây ô nhiễm địa cầu - còn trầm trọng hơn với sự bành trướng kinh tế bừa bải của TQ kể từ cuối thập kỷ 1970s - đã đưa đến các tai họa: xói mòn, lũ lụt, sa mạc hóa, khủng hoảng nước sạch và thực phẩm, rừng núi bị tàn phá, không khí, và nguồn nước ô nhiễm. Bà viết: "các lãnh đạo TQ hiểu rõ họ đang đánh đổi sự lành mạnh môi trường để lấy tăng trưởng kinh tế"[7]. Từ đó, nhiều điều đã xẩy ra. Chẳng bao lâu sau ngày tác phẩm của Elizabeth Economy được xuất bản, TQ đã qua mặt Hoa Kỳ như xứ gây khí thải CO2 hàng đầu thế giới. Và sự kiện nầy đã là một báo-động-thà-muộn-còn-hơn-không-bao-giờ đối với cấp lãnh đạo TQ và các nhà hoạt động môi trường trên khắp thế giới: hiện tượng biến đổi khí hậu có thể gây lũ lụt ở các vùng duyên hải và tàn phá các ngành sản xuất thực phẩm. Hàng chục nghìn cuộc xuống đường phản đối tình trạng ô nhiễm và khủng hoảng môi trường đã diễn ra khắp TQ, đe dọa ổn định chính trị. Dần dà cấp lãnh đạo TQ hiểu được họ không có lựa chọn nào khác hơn là phải đổi hướng và đi theo con đường thân thiện bền lâu với hành tinh địa cầu. Ngày nay, Elizabeth Economy cho biết, TQ đã có nhiều bước tiến quan trọng nhằm đối phó với hiện tượng biến đổi khí hậu. Bà nói: "Đây là điều thật sự có ý nghĩa, hiện đã có một thay đổi thực sự trong chính sách 'thay đổi khí hậu'. Khi họ [TQ] đã trở thành nước có mức khí thải cao nhất thế giới vào năm 2007, điều ấy giống như họ đang mang một dấu X mầu đỏ trên trán. Lúc đó họ không còn ai phía trước để dấu mặt"[8]. Cốt lõi của tình trạng nghịch lý về môi trường của TQ là quốc gia khổng lồ nầy phải cùng lúc làm hai việc: tiếp tục kỹ nghệ hóa đồng thời hạn chế mức khí thải. Theo David Yarnold, giám đốc điều hành Quỹ Bảo Vệ Môi Trường, "họ phải nâng hàng trăm triệu dân ra khỏi cảnh đói nghèo và cùng lúc ngưng gây ô nhiểm. Đây là những thách thức lớn lao, và vấn đề là làm sao đối phó với cả hai?"[9]. Như các viên chức TQ thường nói, tính theo đầu người, TQ chỉ gây không đến 1/4 số khí thải mỗi đầu người so với Mỹ. Trước ngày đến dự Hội Nghị Thượng Đỉnh về thay đổi khí hậu ở Copenhagen tháng 12-2009, TQ đã cam kết tự nguyện cắt giảm tỉ suất sử dụng năng lượng tính trên căn bản đơn-vị-GDP vào năm 2020 hết sức lớn lao. Tuy vậy, cùng với tăng trưởng kinh tế, mức khí thải tính theo đầu người của TQ chắc chắn gia tăng, và phần trách nhiệm của TQ trong lượng khí thải toàn cầu sẽ gia tăng. Và mặc dù TQ đặc biệt lưu tâm đến năng lượng mặt trời, gió, thủy điện, hạt nhân, và các kỷ thuật không gây khí thải carbon khác, dầu khí và than đá tiêu thụ vẫn đang gia tăng nhanh chóng. Theo Mark Hertsgaard, nhà báo và tác giã cuốn "Nóng: Sinh Sống Năm Mươi Năm Sắp Đến Trên Địa Cầu[10]. Trong thực tế, than đá vẫn thiết yếu trong hệ thống năng lượng của họ [TQ]. 3/4 điện lực của họ đến từ than đá"[11]. Tuy nhiên, đại diện ở TQ của các Cơ Quan Thiện Nguyện có trụ sở chính tại Mỹ, nhận định: Bắc Kinh cuối cùng đã bắt đầu ý thức các thách thức môi trường một cách nghiêm chỉnh. Ailun Yang, đặc trách biến đổi khí hậu, Hòa Bình Xanh Trung Quốc, Bắc Kinh, ghi nhận: trong vài năm qua, đe dọa ô nhiễm không khí và nước, cũng như các vấn đề an toàn thực phẩm, cuối cùng đã bắt đầu được lưu tâm. Ailun Yang nói: "Tôi nghĩ các quan chức cao cấp trong chính quyền đã bắt đầu có ý niệm nếu phát triển kinh tế mà không lưu tâm đến môi trường, quý vị sẽ sớm thấy các giới hạn của phát triển kinh tế, bởi lẽ mô hình sẽ không thể bền vững. Cách đây khoảng 5 năm, quý vị đã bắt đầu thấy giọng điệu của các quan chức TQ về môi trường đã hoàn toàn đổi khác cũng như đối với phương cách duy trì một thế cân bằng trong phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường"[12]. Tuy nhiên, theo các nhà hoạt động môi trường, thực thi vẫn là một vấn đề lớn, bởi lẽ TQ chưa có một khả năng thực hiện kế hoạch trên bình diện quốc gia, và vài quan chức cấp tỉnh và địa phương không mấy thích thú khi phải hy sinh tăng trưởng kinh tế để giảm thiểu ô nhiễm. Dù vậy, Barbara Finamore, giám đốc Dự Án Năng Lượng Sạch TQ, thuộc Hội Đồng Bảo Vệ Tài Nguyên Thiên Nhiên, đồng ý là mọi việc đang thay đổi - một phần do áp lực mạnh mẽ của quần chúng, từ sự chống đối của người dân nông thôn cho đến ý thức ngày một lên cao của tầng lớp trung lưu ở thành thị đòi hỏi phải thay đổi. Finamore nói: "Tôi nghĩ, quyết tâm bảo đảm ổn định xã hội là lý do bên sau các hành động của TQ hiện nay"[13]. Trong những năm gần đây, TQ đã tích cực theo đuổi các chương trình nghiên cứu, khai triển, và biến chế nhiều kỷ thuật năng lượng tái tạo khác nhau, kể cả các pa-nô năng lượng mặt trời, các tuốc-bin năng lượng gió; đã thúc đẩy sản xuất nhanh chóng loại xe hơi chạy bằng điện; và đóng cữa rất nhiều nhà máy sắt thép hiệu suất thấp và các nhà máy điện chạy bằng than. Bắc Kinh cũng đã thử, mặc dù không mấy thành công, thực thi một loạt các pháp chế và khuôn khổ giám sát, những thử nghiệm gặp sự đề kháng mãnh liệt từ các cấp lãnh đạo cấp tỉnh và địa phương. Yarnold cũng đã đưa ra nhận xét: "Đây là một xứ áp dụng pháp trị rộng lớn trong phương cách chưa bao giờ thấy cách đây 5 năm"[14]. Ông nói tiếp, các lãnh đạo TQ thấy đây là cơ hội lớn lao để trở thành lãnh đạo thế giới trong kỷ thuật năng lượng sạch. "Chính quyền hiểu kỷ thuật năng lượng xanh là Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ Mới. Họ nói, chúng tôi đã bỏ lỡ cuộc cách mạng kỹ nghệ thứ nhất, và chúng tôi sẽ không để bỏ lỡ cuộc cách mạng nầy"[15]. Đã hẳn, đây cũng là một điều trớ trêu. Các nhà phê bình mô hình tăng trưởng kinh tế dùng xuất khẩu làm đầu tàu của TQ đã từng nói: một phần lớn lợi điểm của TQ đã đến từ sự thiếu vắng mang tính lịch sử các pháp chế môi sinh, đã giúp TQ sản xuất các sản phẩm với giá thành thấp. Trừ phi Hoa Kỳ nhanh chóng hành động nhằm triển khai các việc làm với kỹ thuật xanh được chính quyền hậu thuẩn, TQ sớm có thể sản xuất và xuất khẩu đại trà các pa-nô năng lượng mặt trời và các tuốc-bin gió trị giá hàng tỉ mỹ kim qua Hoa Kỳ. Finamore nói: "Chúng ta cần một chính sách quốc gia mạnh mẽ. TQ đã làm như vậy. Hoa Kỳ thì chưa"[16]. GS Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 30-10-2010 -------------------------------------------------------------------------------- [1] International Energy Agency - IAE. [2] Energy supply should be where you can plant your foot on it. [3] The Military Power of the People's Republic of China. [4] China's near-term focus on preparing for contingencies in the Taiwan Strait...is an important driver of its [military] modernization. However, analysis of China's military acquisitions and strategic thinking suggests Beijing is also developing capacities for use in other contingencies, such as a conflict over resources... [5] Asia Studies, Council on Foreign Relations. [6] The River Runs Black: The Environmental Challenge to China's Future. [7] China's leaders were well aware that they were trading environmental health for economic growth. [8] It is significant , it represents a real change in China's climate change policy. When they became the world's biggest emitter in 2007, that was like putting a big red X on their forhead. They had nobody to hide behind at that point. [9] They have to lift hundreds of millions of people out of poverty and stop polluting at the same time. These are huge challenges, and the question is, How do they confront both? [10] Hot: Living Through the Next Fifty Years on Earth. [11] The fact remains that coal is the backbone of their energy system. They get three-fourths of their electricity from coal. [12] I think the top-level government officials have started to get the idea that you only develop the economy while neglecting the environment, you will start to see the limits of economic development , because the model is not sustainable. About five years ago you started to see a wholesale change in rhetoric about the environment from Chinese officials, about how we have to balance economic development with environment protection. [13] I think the desire to ensure social stability is behind a lot of the actions that China is taking. [14] This is a country that is applying the rule of law across the board in a way that it didn't five years ago. [15] The government realizes that green energy technology is the new Industrial Revolution. They say, We missed the first one, and we're not going to miss this one. [16] We need a strong national policy. China has done that. The United Srares has not.
|
|
|
Post by NhiHa on Mar 11, 2011 8:13:08 GMT 9
Trung Đông: Bức tường Bá Linh của Mỹ? Vietsciences-Nguyễn Trường Pax Americana - Pox Americana DÂN CHỦ VÀ SIÊU CƯỜNG Trong khi người dân Ai Cập đang vui mừng trước sự thành công của dân chủ nhân dân chân chính, các nhà quan sát không thể không tự hỏi điều gì đang xẩy đến với nền dân chủ Hoa Kỳ. Hình như dân chủ nơi đây đang ngày một rỗng ruột và héo mòn. Nước Mỹ đang đứng trước nguy cơ dân chủ chỉ còn lớp vỏ bên ngoài. Trong khi nhiều triệu người Mỹ thất nghiệp và mực sống tuột dốc, quyền lực đã hoàn toàn lọt vào tay giới lãnh đạo tài chánh, ngân hàng, và tập đoàn quân sự-kỹ nghệ. Không mấy ai quan tâm đến số phận giới bình dân nghèo khổ. Thiểu số giàu có giàn dựng giai điệu và các chính trị gia, Dân Chủ cũng như Cộng Hòa, luôn nhịp nhàng bước theo tiết tấu. Những gì gặt hái được từ dân chủ Mỹ là các lần cắt giảm thuế suất lố bịch, và những mối lợi bất ngờ, dành cho giới nhà giàu; cùng lúc, các chính trị gia đã bị mua chuộc và được thù đáp hậu hĩ luôn sẵn sàng cắt xén các dịch vụ công và mạng lưới an sinh xã hội, với lý do ngân sách khiếm hụt. Tiểu bang nầy rồi đến tiểu bang khác nối tiếp loan báo không đủ khả năng thanh toán nợ nần. Hàng trăm nghìn công nhân viên nhà nước lũ lượt mất việc. Camden, một thành phố nhiều tội phạm ở tiểu bang New Jersey, đã phải sa thải gần phân nửa số cảnh sát. Dịch vụ y tế (Medicaid), và an sinh xã hội (Social Security), dành cho người nghèo, đang bị tấn công từ mọi phía. Ít ai lưu tâm đến tình cảnh người nghèo đang gặp quá nhiều khó khăn do khủng hoảng kinh tế, và cũng chẳng có khả năng vận động hành lang. Tay chân TT Obama đang cần huy động hàng tỉ USD để tài trợ vận động bầu cử nhiệm kỳ hai. Các chính trị gia không còn tài nguyên và thì giờ để lo cho giới nghèo. Họ còn phải lo o bế chiều chuộng giới giàu có. Trong một bài đăng trên báo The Times vào cuối tháng 1-2011, nghị sĩ John Kerry đã ghi nhận, người Ai Cập "đã nói rõ họ sẽ tranh đấu đến cùng để tăng cường dân chủ và có thêm nhiều cơ hội thăng tiến kinh tế"[1]. Người Mỹ ngược lại đang được yêu cầu phải chịu đựng và hy sinh nhiều hơn.Trong nhiều thập kỷ vừa qua, với đà hăng say tư hữu hóa của các chính quyền kế tiếp ở Mỹ, dân chủ đã được đem rao bán, và chỉ người giàu mới có đủ sức mua. Giới thương lưu và tập đoàn các đại công ty đã tung nhiều khoản tiền khổng lồ vào quỹ vận động tuyển cử, vận động hành lang cao cấp, tài trợ các định chế nghiên cứu, mua chuộc giới truyền thông, và bất cứ thứ gì họ còn có thể nghĩ đến. Họ chiêu đãi các lãnh tụ quyền hành lưỡng đảng: trả phí tổn thuê phi cơ phản lực tư, tiền chơi golf, tiền nghỉ hè, tiền dành mướn các quan chức cao cấp hưu trí cần thiết cho công tác vận động hành lang...Tất cả những khoản đầu tư đó đều đem lại lợi nhuận gấp nhiều lần. Như Jacob Hacker và Paul Pierson đã viết trong tác phẩm "Chính-Trị-Được-Ăn-Cả" -Winner-Take-All Politics: "Từng bước một và từng đợt thảo luận, các quan chức chính quyền đã viết lại quy luật chính trị Hoa Kỳ và kinh tế Mỹ theo những phương cách có lợi cho một thiểu số và phương hại cho tuyệt đại đa số"[2]. Tuồng như cơ chế kiểm soát sinh hoạt chính trị Hoa Kỳ của các đại công ty chưa đủ chặt chẽ, Tối Cao Pháp Viện đã phải tăng cường với các "quyết định Công Dân Nhất Trí" - Citizens United Decisions, những quyết định củng cố quyền lực chính trị vốn đã lấn át của đồng tiền các đại công ty. Người Mỹ bình thường không đủ khả năng tiếp cận hành lang quyền lực. Nhưng bạn có thể đoan chắc các đại diện dân cử luôn lắng nghe khi đồng tiền các đại công ty lên tiếng. Khi trò chơi đã an bài sẵn lợi thế cho bạn, bạn sẽ thắng. Vì vậy, dù ngay trong thời buổi suy thoái kinh tế tồi tệ nhất kể từ sau Đại Khủng Hoảng, các đại công ty vẫn đang ngồi trên núi tiền, thị trường chứng khoán lại lên giá và mọi việc đều thuận lợi cho giới nhà giàu đang cầm quyền. Chẳng hạn, các anh em gia đình Kock, David và Charles, có tài sản ước tính trị giá khoảng 35 tỉ USD. Tuy vậy, họ hình như vẫn cảm thấy xã hội đã không đối xử với họ đủ công bằng. Như Jane Mayer đã nêu rõ trong bài viết đăng trên The New Yorker, "anh em nhà họ Kocks thuộc giới tự do lâu đời, luôn tin ở thuế cá nhân và công ty phải thấp hơn nhiều, các dịch vụ xã hội cho người nghèo phải ở mức tối thiểu, và giám sát kỹ nghệ , nhất là pháp chế môi trường, cần được giảm thiểu nhiều hơn "[3]. Một cái nhìn kỹ thành tích gây ô nhiễm của họ cũng đã có thể khiến bạn phải kinh tởm. Chúng ta đang chứng kiến một định chế dân chủ ngày một đồi trụy, khi những cá nhân như anh em họ Kochs nắm trong tay nhiều thế lực và ảnh hưởng, trong khi hàng triệu dân thường Hoa Kỳ lại hoàn toàn bất lực. Anh em họ Kochs luôn có những gì họ muốn. Cắt giảm thuế cho giới nhà giàu? Không thành vấn đề. Cắt xén dịch vụ dành cho người nghèo, người bệnh, giới trẻ và người tàn tật? Cần ngăn chặn hoặc kiềm chế. Chúng tôi còn có thể làm được gì nữa cho quí vị? Người Ai Cập muốn thiết kế một nền dân chủ sinh động, và đây là con đường khá dài và rất gay go. Người Mỹ đang trong quá trình tự đánh mất dân chủ thật sự. Trong một dịp trao đổi với phóng viên Bob Herbert, báo New York Times, vài tuần trước khi mất trong tháng 1-2010, cố sử gia Howard Zinn đã tỏ ra buồn lòng trước hiện tình chính trị Mỹ. Tuy vậy, sử gia vẫn không nản lòng. Ông nói: " Nếu muốn có thay đổi, thay đổi thực sự, điều đó sẽ phải đến từ dưới lên, từ chính nhân dân"[4]. PAX AMERICANA VÀ POX AMERICANA Cách đây gần 5 năm, tác giả đã có dịp viết: "Hoa Kỳ đang nắm trong tay đủ quyền lực chính trị, kinh tế, quân sự. Thế giới đang ở trong thời khắc hội nhập. Bằng cách nào để hai phía có thể kết hợp hài hòa. Liệu thế giới có đủ cơ may để được hưởng một Pax Americana (hòa bình do Mỹ)? Hay không may, phải gánh chịu một Pox Americana (đại dịch do Mỹ). Cuộc hôn nhân thành công hay đổ vỡ sẽ quyết định di sản của Hoa Kỳ trong lịch sử và số kiếp của thế kỷ 21 mới bắt đầu"[5]. Trong khi theo dõi những biến động bi hài ở Trung Đông, người Mỹ khó lòng ý thức được phần trách nhiệm của chính họ trong những gì đang xẩy ra ở một vùng xa xôi phía bên kia địa cầu. Trong cuộc Chiến Chống Khủng Bố, Hoa Thịnh Đốn trong nhiều năm đã yểm trợ nhiều chính quyền nhũng lạm và vọng ngoại, luôn bị nhân dân căm hận và lên án. Những biến động ở Ai Cập lúc đầu còn được các cơ quan truyền thông dòng chính bình luận với lễ độ và đạo đức giả, nêu lý do có mâu thuẫn giữa quyền lợi và hệ thống giá trị của chính Hoa Kỳ. Do đó, người Mỹ chỉ giảm thiểu hậu thuẫn đến một mức độ nào đó đối với chế độ Mubarak. Chính quyền Obama đã phải đi dây một cách tế nhị khó khăn. Tổng thống và các quan chức thân cận cũng chỉ giữ lập trường ít nhiều trung tính, vừa thận trọng lên tiếng nhẹ nhàng chỉ trích'đồng minh lâu đời', vừa tỏ ra thông cảm với quần chúng xuống đường chống đối, tựa như Hoa Kỳ trong nhiều thập kỷ chưa bao giờ chọn đứng về phía nào. Đối diện với phong trào đòi hỏi dân chủ và tự do của quần chúng Trung Đông, điều đáng lưu ý là sự thiếu vắng"nghị trình dân chủ" ồn ào của kỷ nguyên Bush. Trong một thời gian ngắn đầy tai họa, nghị trình đã được sử dụng như một vũ khí đối với các chế độ Hoa Kỳ xem như thù nghịch và như một nệm ấm lâm thời dành cho các chế độ Hoa Kỳ cần ve vãn trong tương lai. Tuy nhiên, không ai không biết Hoa Thịnh Đốn hiện đang choáng váng và kinh ngạc - một chính quyền rõ ràng thiếu uy lực, đang mất phương hướng và tinh thần, trước viễn tượng mất đi Ai Cập, một đồng minh trụ cột trong chính sách Trung Đông. Hoa Kỳ hiện đang ở trong trạng huống một siêu cường đã trải nghiệm những gì đã diễn ra vào cuối kỷ nguyên chiến tranh lạnh cho siêu cường nhỏ. Thực vậy, năm 1991, khi Liên Bang Xô Viết cáo chung và Hoa Kỳ vẫn là siêu cường lớn còn đứng vững, Hoa Thịnh Đốn đã tưởng lầm đó là một chiến thắng hiếm hoi. Trong những năm kế tiếp, đang tự mãn và huênh hoang cực điểm, các lãnh đạo Hoa Kỳ đã hăng say khai sinh một Pax Americana toàn cầu. Kết quả ngày nay đã mồn một. Hoa Kỳ không khỏi sửng sốt vì chính mình đang chứng kiến một tai họa đang đến cận kề. Chưa đầy 20 năm sau ngày tiểu siêu cường thời chiến tranh lạnh phải rời sân khấu chính trị thế giới, siêu cường đắc thắng còn lại nay cũng đang trên đường lùi vào dĩ vãng. Nói một cách khác, chiến tranh lạnh chưa hề chấm dứt vào năm 1991 như lịch sử quy ước đã ghi nhận. Chiến tranh lạnh chỉ mới chấm dứt trong những ngày đầu của năm 2011 khi những biến động tiếp diễn ở Trung Đông như đang nói lời tiển biệt với siêu cường lớn của hành tinh. SÂN SAU VÀ KHU VỰC ẢNH HƯỞNG Nguyên nhân trực tiếp đưa đến thế chênh vênh của Hoa Thịnh Đốn là nguy cơ địa vị đế quốc sắp sụp đổ, trong một khu vực, kể từ khi TT Jimmy Carter tuyên bố chủ thuyết Carter năm 1980, đã được xem như cơ sở của uy lực toàn cầu, nơi ván bài lớn nhất đang tiếp diễn. Ngày nay, uy lực quần chúng (people power) đang làm lung lay vị trí của Hoa Kỳ ở Trung Đông. Thực vậy, mặc dù sức mạnh quân sự áp đảo đã được Ngũ Giác Đài giàn trải khắp nơi trong khu vực, trong hỗn loạn chính quyền Obama vẫn cảm thấy bất lực. Như cảnh tượng một đế quốc lâm nguy, chúng ta chưa bao giờ chứng kiến một sự kiện tương tự kể từ năm 1989 khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ. Lúc đó, sức mạnh quần chúng cũng đã làm thế giới kinh ngạc. Chấn động của biến cố lan tràn đến các nước chư hầu Đông Âu, những trụ cột của đế quốc Xô Viết trước đây, phần lớn, cũng như Trung Đông ngày nay, đều bình lặng yên ả trong nhiều năm trước đó. Chúng ta đang chứng kiến một thời kỳ đầy sinh lực khác. Những thời kỳ như thế rất hiếm khi xẩy ra, họa hoằng lắm cũng chỉ một lần trong đời người, nói gì đến hai lần trong vòng chưa tới 20 năm. Ngay đối với những ai ở bên ngoài Hoa Thịnh Đốn, những biến động ở Trung Đông hiện nay cũng không kém phần bất ngờ, không kém phần ấn tượng, so với năm 1989. Trong thực tế, hai thời kỳ quần chúng vùng dậy đã liên hệ chặt chẽ với nhau. Trong khi chúng ta đang chứng kiến đoạn kết thực sự của chiến tranh lạnh, rõ ràng 'kẻ chiến thắng' trong cuộc đấu tranh vĩ đại trước năm 1989, cũng như Liên Bang Xô Viết trước đây, đã gieo mầm tự diệt, để rồi bị buộc phải chứng kiến với "sốc và kinh hoàng", khi hồi cuối bùng phát. Khía cạnh đáng thán phục nhất trong sự sụp đổ của Khối Xô Viết là quyết định của vị lãnh đạo xuất sắc Mikhail Gorbachev khi từ chối sử dụng Hồng Quân, như các lãnh tụ Xô Viết trước ông đã từng làm ở Đông Đức năm 1953, Hung Gia Lợi năm 1956, và Prague năm 1968. Sự lựa chọn can đảm của Gorbachev, thà để khối Xô Viết sụp đổ thay vì sử dụng bạo lực để thay đổi thời cuộc, vẫn luôn là một hành động độc nhất vô nhị trong lịch sử. Ngày nay, sau gần hai thập kỷ thao túng với chính sách đế quốc, Hoa Thịnh Đốn đang lâm vào tình cảnh tiến thoái lưỡng nan. Chẳng khác gì chúng ta đang xem lại đoạn phim Gorbachev chiếu chậm - chỉ thiếu bóng dáng một Gorbachev trong vai người cầm lái. Trong một nghĩa nào đó, chúng ta hiện đang chứng kiến câu chuyện hai loại [khu vực] "ngoại quốc". Năm 1990, tiếp theo sau cuộc chiến Afghanistan tai họa, ngay trong lòng biến động của quần chúng, người Nga đã đánh mất khu vực mệnh danh "các xứ láng giềng sân sau" (near abroad) - Liên Bang hay Đế Quốc Xô Viết - vùng lãnh thổ chạy dài từ Đông Âu đến Trung Á. Hoa Kỳ, siêu cường hùng mạnh và giàu có hơn trong hai siêu cường thời Chiến Tranh Lạnh, đang có khu vực mà người Xô Viết chưa bao giờ có - chúng ta tạm gọi một "far abroad", những "nước bạn xa" [không phải sân sau]. Ngày nay, cũng trong lòng một cuộc chiến Afghanistan tai họa khác, trước sự vùng dậy của một dân tộc khác, "một nước bạn xa thiết yếu" trong nhóm những"nước bạn xa"của Mỹ, đang bị lay động đến tận gốc rễ. Ở Trung Đông, hai trụ cột của quyền lực đế quốc, từ lâu do Hoa Kỳ kiểm soát, là Ai Cập và Saudi Arabia - dĩ nhiên bên cạnh còn có Do Thái và Jordan. Trong những kỷ nguyên trước đó, những thành lũy "ổn định" và "ôn hòa" chọn lựa, những từ Hoa Thịnh Đốn thích dùng, là Shah của Iran trong thập kỷ 1960 và 1970, và Saddam Hussein trong thập kỷ 1980. Trong khu vực rộng lớn hơn [chính quyền Bush thích gọi 'Trung Đông Nới Rộng'] , Greater Middle East, hay" vòng cung bất ổn", một trụ cột khác là Pakistan, một xứ giờ đây đang bị bất-ổn-hóa dưới áp lực của cuộc chiến Afghanistan tai họa của Mỹ. Tuy vậy, không một Gorbachev hiện diện, chính quyền Obama đang lúng túng tìm cách xoay xở. Trong tiến trình thương thảo gấp rút bên sau hậu trường nhằm duy trì uy quyền và ảnh hưởng ở Ai Cập, Hoa Kỳ đã không lựa chọn giải pháp can thiệp quân sự. Trong cốt lõi, biện pháp can thiệp quân sự của Hoa Kỳ là một quyết định rõ ràng không thể quan niệm. Không ai chờ đợi người Mỹ gửi quân nhảy dù xuống kênh đào Suez như Pháp và Anh, hai đế quốc trong thời mạt vận, đã thử nghiệm năm 1956. Hoa Thịnh Đốn đang kiệt quệ, sau nhiều năm chiến tranh và khủng hoảng tài chánh, nên điều đó sẽ khó thể xẩy ra. Đối mặt với chiến dịch "sốc và kinh hoàng" của quần chúng đang xuống đường làm cách mạng, chính quyền Obama đã sửng sốt và kinh ngạc. Hoa Thịnh Đốn đã tỏ ra bất lực, choáng váng, không biết phải làm gì, và luôn đi sau các biến động vài bước. Các quan chức tòa Bạch Ốc đang âu lo về chính trị đối nội nay mai khi vấn đề được đặt ra: Ai đã để mất Trung Đông? Trong giao thời, những lời tuyên bố trang trọng, được cân nhắc đắn đo, vẫn với giọng điệu chủ-nhân-ông mang tính đế quốc, tập trung trên những gì các xứ khách hàng ở Trung Đông phải làm. Nhưng cũng chỉ những lời lẽ khuôn sáo rỗng tuếch như trong suốt mấy thập kỷ vừa qua. Vấn đề cần đặt ra: Bằng cách nào các biến động đã xẩy đến? Và câu trả lời, một phần, sẽ là: chỉ vì phương cách Chiến Tranh Lạnh đã chính thức chấm dứt, cũng như thái độ xấc láo, kiêu căng, và đường lối đơn phương cấp lãnh đạo chính trị Hoa Kỳ đã chọn lựa sau đó. CHỦ THUYẾT ĐƠN PHƯƠNG Khi Liên Bang Xô Viết tan rã, Hoa Thịnh Đốn sửng sốt. Sự sụp đổ thật bất ngờ, mặc dù đã có nhiều dấu hiệu báo trước một điều gì đó lạ thường, lớn lao, đáng kinh ngạc, sắp xẩy đến. Chiến Tranh Lạnh đã chấm dứt và Hoa Kỳ chợt xúc động, vui mừng và tự nghĩ: 'Chúng ta đã thắng. Đối thủ hùng mạnh của chúng ta đã biến khỏi địa cầu'. Không phải đợi lâu, từ ngữ "siêu cường duy nhất" xuất hiện, giấc mơ Pax Americana hình thành, và nhiều người Mỹ đã nói đến quyền lực và vinh quang chói sáng hơn cả đế quốc Anh và đế quốc La Mã. Người Mỹ đã kiêu căng tự tin chính mình đã chiến thắng, và cũng như hồi kết của đệ nhị thế chiến, có thể đã đem lại nhiều lợi thế. Thế giới thuộc về Hoa Kỳ. Và hai đợt sóng đơn phương đã đưa Hoa Kỳ đến bờ vực thẳm gần nhất, cũng như bất thần giúp phát động sự bùng nổ của sức mạnh quần chúng ở Trung Đông. Đợt sóng thứ hai bắt đầu với quyết định tai họa hậu 11-9 của George W. Bush, thingy Cheney, Donald Rumsfeld, và phe nhóm: "tát cạn đầm lầy toàn cầu",[6] như nhóm nầy thường nói sau biến cố New York và Hoa Thịnh Đốn. Họ muốn nói đến quyết định truy lùng al-Qaeda và bất cứ ai họ xem như thù địch, với tất cả các phương tiện quân sự khả dụng. Chiến dịch bao gồm quyết định xâm lăng Afghanistan, cảnh báo thế giới và Pakistan "theo chúng tôi hay chống lại chúng tôi"[7], kể cả hăm dọa bỏ bom xứ nầy cho đến khi "Trở Lại Thời Đại Đồ Đá"[8]. Chiến dịch cũng bao gồm quân sự hóa toàn bộ, tư nhân hóa chính sách đối ngoại, và trên hết, tiêu diệt Saddam Hussein và chiếm đóng Iraq. Tất cả những động thái đó đều dính liền với "chủ thuyết đơn phương"(unilateralism), với ý tưởng sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ đã đạt mức: Hoa Thịnh Đốn có thể đơn phương hành động chỉ cần "bất cứ liên minh chia sẻ tổn phí nào" (coalition of the billing) có thể huy động, và vẫn thành đạt được những gì Hoa Kỳ ước muốn. Làn sóng đơn phương thứ hai, nay đã được các kênh truyền thông dòng chính cho lùi vào lich sử, đã giúp chuẩn bị cho những biến động ở Tunisia, Ai Cập, và nhiều nơi khác. Để bắt đầu, từ Pakistan đến Bắc Phi, Cuộc Chiến Chống Khủng Bố của Bush, cùng với hậu thuẫn dành cho những chính quyền thổ phỉ dưới danh nghĩa chống al-Qaeda, đã đẩy toàn khu vực vào thế cực đoan quá khích. Chẳng hạn, sau khi Hoa Thịnh Đốn đã rót hàng tỉ USD tài trợ và trang bị quân đội Ai Cập, kể cả huấn luyện các cấp tướng lãnh và sĩ quan, các quan chức chính quyền Bush đã rất thích thú trao cho chế độ Mubarak vai trò chiến binh chống khủng bố, sử dụng các nhà tù Ai Cập như những trung tâm tra tấn các thành phần nghi can bắt cóc trên đường phố từ nhiều nơi trên thế giới. Qua việc càn quét vùng Trung Đông Nới Rộng từ Bắc Phi đến biên giới TQ trong cuộc chiến chống khủng bố, chính quyền Bush rõ ràng đã đem lại cho toàn khu vực một ý thức nhất trí - với cảm nghĩ số phận một khu vực rời rạc đã bị buộc chặt vào nhau. Ngoài ra, các quan chức chính thống trong chính quyền Bush, vững tin vào sức mạnh quân sự của Hoa Kỳ và cuồng tín trong ảo tưởng những điều giới quân sự có thể thành đạt, đang nắm trong tay một sức mạnh lớn lao: sức mạnh tàn phá. Với khẩu hiệu "sốc và kinh hoàng", sức mạnh đó đã được sử dụng để chọc thủng tim Trung Đông khi xâm chiếm Iraq. Đồng thời, họ cũng đã nối kết toàn khu vực vào máy trợ sinh. Họ chưa bao giờ thành công. Trong chiến tranh, nội chiến cũng như du kích, hàng trăm nghìn dân Iraq thương vong, hàng triệu đã phải bỏ nước tìm đường lánh nạn. Ngày nay, Iraq chỉ còn hấp hối, không đủ khả năng cung cấp điện cho người dân kiên cường hay bơm đủ dầu để trang trải tai họa. Cùng lúc, chính quyền Bush chỉ ngồi nhìn trong khi Do Thái tự tung tự tác, chiếm đất của người Palestine qua các chính sách định cư, xâm chiếm miền Nam Lebanon với hậu thuẫn của Hoa Kỳ trong mùa hè 2006, và tàn phá giải Gaza năm 2009. Nói một cách khác, từ Lebanon đến Pakistan, toàn bộ khu vực Trung Đông Nới Rộng đã trở nên hoàn toàn bất ổn và cực đoan. Hành động của các quan chức trong chính quyền Bush đã không thể nào phiêu lưu và tai họa hơn. Chẳng hạn, họ đã biến Afghanistan thành một quốc gia sản xuất nha phiến quan trọng nhất hoàn cầu, cũng như vực dậy và tiếp sức cho Taliban, một kỳ công không nhỏ đối với một phong trào, từ năm 2001, đã mất hết hậu thuẫn trong quần chúng. Quan trọng hơn hết, cùng với chính quyền Obama sau đó, họ đã mở rộng chiến tranh qua một Pakistan nguyên tử và đông dân. Chúng ta có thể truy nguyên sự trổi dậy của Hezbollah ở Lebanon, một phần đã nhờ những kế hoạch và dự án điên rồ của họ (kết quả có ý nghĩa duy nhất của nghị trình dân chủ của Bush, kể từ các cuộc bầu cử ở Iraq trước sự chống đối của chính quyền Bush, là nhờ ở uy tín của lãnh tụ tôn giáo Ayatollah Ali Sistani). Chính quyền Bush cũng đã có công đem lại cho Iraq một chính quyền Shiite thân Iran, đã giúp phục hồi phong trào Taliban ở Afghanistan, và sự lớn mạnh của một nhánh Taliban trong khu vực các bộ tộc Pakistan dọc biên giới. Cũng phải ghi nhận công lao của họ đã đóng góp vào tình trạng hỗn loạn và ngày một nghèo khó hơn trong toàn khu vực. Tóm lại, khi lên nắm quyền, Bush, với chính sách đơn phương, đã nhanh chóng quân sự hóa toàn bộ nền kinh tế và lèo lái Hoa Kỳ đến bờ vực thẳm. Người ta còn nhớ lời nói đùa đầy kiêu hãnh của phái Tân Bảo Thủ: "Mọi người đều muốn tới Baghdad. Các nam nhi trượng phu còn muốn đến Tehran"[9]. Dù chính quyền Bush luôn lớn tiếng ba hoa, điều cần nhớ là chính sách đơn phương luôn giữ vai trò quyết định. THÁNH CHIẾN KINH TẾ Trước George W. Bush và phái Tân Bảo Thủ, chính quyền đã từng nằm trong tay phe chủ trương toàn cầu hóa. Nhóm nầy, còn được biết dưới tên gọi Tân Tự Do (Neo-liberals), đã tung hoành trong những năm hoàng đạo hậu chiến tranh lạnh. Dưới thời Clinton, phái nầy cũng ước mơ một trật tự thế giới mới và một thứ quyền lực mới của Hoa Kỳ: quyền lực kinh tế. Họ vẫn còn được trọng dụng trong chính quyền Obama. Trong niềm tin Hoa Kỳ là siêu cường kinh tế của mọi thời đại, họ luôn hăng say theo đuổi Pax Americana. Với quyết tâm áp đặt một thế giới đồng bộ qua một trật tự kinh tế theo khuôn mẫu Hoa Kỳ, chiến thuật gây "sốc và kinh hoàng"của họ dựa trên một số định chế như IMF, dồn ép các quốc gia đang phát triển vào một dạng thức nghèo khó cơ hàn có lợi cho giới tài phiệt Mỹ. Cuối cùng, qua các biện pháp chia cắt, nhào nặn tín dụng bất động sản với lãi suất cực thấp - subprime mortgages, họ đã làm thế giới đảo điên. Họ là những chiến binh thánh chiến trong địa hạt tài chánh. Với chiến thuật "sốc và kinh hoàng" riêng, họ đã thành công trong sứ mệnh gieo rắc tang tóc đau thương theo lối riêng của họ. Điều oái oăm là trong quá trình suy thoái kinh tế 2008, cuối cùng họ đã lôi kéo kinh tế toàn cầu, chính họ đã giúp "thống nhất" trước đó, xuống vực thẳm. Tai họa đã đến đúng lúc các chiến binh đơn phương trong đợt sóng thứ hai đang đối diện với ván bài chót của giấc mơ thống trị toàn cầu. Chẳng hạn, Ai Cập, quốc gia đông dân nhất trong các xứ Á Rập, đã được tân-tự-do-hóa và bần-cùng-hóa, ngoại trừ một thiểu số tài phiệt thổ phỉ. Đó là phương thức phá hoại sáng tạo của hai phái Tân Bảo Thủ và Tân Tự Do! Hai đợt sóng chiến binh đơn phương của Hoa Kỳ đã làm hành tinh điêu đứng. Kinh nghiệm đầu của siêu cường duy nhất đã diễn ra ngắn ngủi. Tuy nhiên, trên đống tro tàn sau đại họa giá thực phẩm và nhiên liệu tăng vọt, tình hình đã sôi bỏng vừa đúng lúc que diêm Tunisia được châm ngòi ... Những gì đang diễn tiến trong vùng Trung Đông Nới Rộng cũng chẳng làm ai ngạc nhiên. Hỏa hoạn rất có thể sẽ không dừng ở đó. Đây có thể hay không có thể là thời cơ của Hồi Giáo. Nếu đợt sóng đơn phương thứ hai của Hoa Kỳ đã báo hiệu khởi điểm của hiện tượng sôi động Trung Đông, những điều kiện cần cho sự bùng nổ của các phong trào quần chúng cũng đang hiện hữu trong nhiều nơi khác trên thế giới. NGƯỠNG CỬA ĐỊA NGỤC Ngày nay, không mấy ai nhớ lời mô tả tình hình sau ngày Hoa Kỳ xâm chiếm Iraq của Amr Musa, lãnh tụ Liên Minh A Rập. Trong tháng 9-2004, Amr Musa đã nói: "Các cánh cửa địa ngục đang rộng mở ở Iraq"[10]. Đây không phải là thứ ngôn từ chúng ta thường nghe ở Mỹ, dù đã cảm nhận ra sao về cuộc chiến. Nó đã vang vọng, và có lẽ còn vang vọng như một hình ảnh ẩn dụ từ đỉnh cao, cũng có thể dễ dàng được xem như một mô tả chính xác những gì đã diễn ra không những ở Iraq, mà cả ở Trung Đông Mở Rộng, và trong một chừng mức nào đó, trên toàn thế giới. Giới tài phiệt đơn phương Hoa Kỳ đã hai lần vô tình vượt qua cánh cửa địa ngục, những tưởng đang đi qua cánh cửa thiên đường. Hậu quả ra sao mọi người hiện đang chứng kiến. Nhưng cũng đừng quên, cánh cửa địa ngục nay vẫn còn rộng mở. Chúng ta cần tỉnh táo mở lớn đôi mắt nhìn kỹ ít nhất ở hai nơi, bắt đầu với Saudi Arabia, nơi tình hình một ngày nào đó rất có thể sẽ trở nên sôi động nhiều hơn chúng ta đang tưởng. Thực vậy, những ai kiểm soát thị trường chứng khoán Saudi chắc biết rõ, trong khi tình hình đang biến động khẩn trương ở Ai Cập, chứng khoán Saudi đã sụt giảm mạnh. Với Saudi Arabia, chúng ta khó thể thấu hiểu gốc rễ chính sách của Hoa Kỳ và số phận của hành tinh, khi trữ lượng dầu hỏa vẫn còn nằm dưới mặt cát sa mạc. Và cũng đừng quên quốc gia đáng sợ nhất, Pakistan, nơi giới tài-phiệt-quân-sự-đơn-phương Hoa Kỳ đang phô diễn trong một phim dài chưa đến hồi kết thúc. Vâng, chính quyền Obama rất có thể sẽ len lõi trở lại Trung Đông một lần nữa. Cũng rất có thể các tư lệnh và sĩ quan cao cấp trong quân đội Ai Cập, hơn phân nửa đã đi qua lò đào luyện Hoa Thịnh Đốn, rút kinh nghiệm từ Honduras ở Nam Mỹ, sẽ tìm cách chia rẽ để khống chế một quần chúng đang thiếu vắng lãnh đạo, ít ra thêm một thời gian. Thật khó lòng tiên đoán! Nhưng một điều đã rõ ràng bên trong cánh cửa địa ngục: dù hoa hay cỏ dại còn có thể lớn mạnh trên mảnh đất cày xới vun quén kỹ càng bởi "siêu cường còn đứng vững sau năm 1991", Pax America cũng đã chứng tỏ chỉ là một Pox Americana trong toàn khu vực và trên khắp thế giới. Trong mọi trường hợp, giới quan sát nhạy bén đã bắt đầu nói đến, không phải một thế giới win-win, G-7, G-8, G-20, mà một thế giới Zero-sum Game và G-Zero, G-Everybody, một thế giới đa cực mạnh-được-yếu-thua còn thiếu-vắng-lãnh-đạo. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 18-02-2011 -------------------------------------------------------------------------------- [1] The Egyptian people "have made clear they will settle for nothing less than greater democracy and more economic opportunities. [2] Step by step and debate by debate, America's public officials have rewritten the rules of American politics and the American economy in ways that have benefited the few at the expense of the many. [3] The Kochs are long time libertarians who believe in drastically lower personal and corporate taxes, minimal social services for the needy, and much less oversight of industry - especially environmental regulation. [4] If there is going to be change, real change, it will have to work its way from the bottom up, from the people themselves. [5] Thế Giới Thời Hậu Chiến Tranh Lạnh, Nguyễn Trường, nxb Tri Thức, Hà Nội, 11-2010, tr 35. [6] ...drain the global swamp. [7] ...with-us-or-against-us. [8] ...back to the Stone Age. [9] Everyone wants to go to Baghdad. Real men want to go to Tehran. [10] The gates of hell are open in Iraq.
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 13, 2011 4:24:04 GMT 9
Hoa Kỳ và viễn ảnh của chủ nghĩa Đế quốc
Vietsciences- Nguyễn Trường Địa vị siêu cường toàn cầu của Hoa Kỳ ngày một lung lay. Thế Kỷ của Hoa Kỳ đang kinh qua thời kỳ sóng gió trước khi cáo chung. Nếu Hoa Thịnh Đốn đang mơ ước kéo dài giấc mộng đế quốc thêm vài thập kỷ, ít ra cho đến năm 2050, một thẩm định thực tế các xu thế quốc nội và quốc tế hình như đã đi tới kết luận: Thế Kỷ của Hoa Kỳ may ra chỉ có thể tồn tại đến năm 2025.BÁ QUYỀN TRÊN ĐÀ BỊ XÓI MÒN Lịch sử luôn nhắc nhở: các đế quốc, mặc dù có nhiều quyền lực, cũng chỉ là những định chế mong manh. Nền tảng đế quốc luôn khập khiểng đến độ, khi gặp biến động, các đế quốc thường chóng vánh tan vỡ: chỉ 1 năm đối với Bồ Đào Nha, 2 năm với Liên Bang Xô Viết, 8 năm với Pháp, 11 năm với Ottomans, 17 năm với Anh Quốc, và rất có thể vào khoảng 22 năm với Hoa Kỳ kể từ năm quyết định 2003. Các nhà sử học tương lai có lẽ sẽ giúp xác định năm khởi động xâm chiếm Iraq như khởi điểm của sự suy sụp của Hoa Kỳ. Tuy nhiên, thay vì chinh chiến đánh dấu chung cuộc của các đế quốc trong quá khứ, sự sụp đổ của đế quốc trong thế kỷ 21 có thể diễn tiến tương đối lặng lẽ qua chuổi suy thoái kinh tế và quân sự đan xen. Tuy vậy, một điều khá chắc chắn: khi bá quyền toàn cầu của Hoa Thịnh Đốn sụp đổ, người ta rất có thể phải chứng kiến nhiều biểu hiện nhức nhối, hậu quả của diễn tiến suy sụp uy quyền của người Mỹ trên khắp thế giới. Như nhiều quốc gia Âu châu đã trải nghiệm, tác động của sự suy tàn của một đế quốc thường có khuynh hướng đem lại khủng hoảng tinh thần, chính trị, và kinh tế cho cả một thế hệ , lôi kéo theo xáo trộn và bất an trong cộng đồng các quốc gia. Các dữ kiện kinh tế, giáo dục, quân sự hiện hữu cho thấy đối với quyền lực toàn cầu của Hoa Kỳ, các xu hướng tiêu cực sẽ hội tụ nhanh chóng vào năm 2020 và có thể đạt đến trình độ nghiêm trọng trước năm 2030. Thế Kỷ của Hoa Kỳ, được hân hoan công bố vào đầu Thế Chiến II, sẽ tơi tả và lu mờ, sau 8 thập kỷ, vào năm 2025, và có thể hoàn toàn lùi vào lịch sử năm 2030. Điều đáng ghi nhận: năm 2008, Hội Đồng Tình Báo Quốc Gia Hoa Kỳ lần đầu tiên đã xác nhận bá quyền toàn cầu của Hoa Kỳ đang trên quá trình tuột dốc. Trong một phúc trình định kỳ về tương lai, Xu Hướng Toàn Cầu 2025, Hội Đồng đã phải công nhận "thịnh vượng và sức mạnh kinh tế toàn cầu nay đang chuyển dịch, trên tổng thể, từ phương Tây qua phương Đông " và "lần đầu tiên trong lịch sử cận đại", như yếu tố căn bản của hiện tượng tuột dốc trong "sức mạnh tương đối của Hoa Kỳ - ngay cả trong địa hạt quân sự"[1]. Tuy nhiên, cũng như nhiều quan chức ở Hoa Thịnh Đốn, các nhà phân tích của Hội Đồng đã tiên liệu một hạ cánh an toàn của một đế quốc, và nuôi hy vọng một cách nào đó Hoa Kỳ có thể duy trì lâu dài "khả năng quân sự vô song ... đủ để biểu dương quyền lực quân sự trên toàn cầu"[2] trong nhiều thập kỷ sắp tới. Điều nầy khó thể xẩy ra. Theo dự phóng hiện nay, Hoa Kỳ sẽ tụt xuống vị trí thứ hai sau Trung Quốc (hiện là nền kinh tế lớn thứ hai của thế giới) về GDP vào năm 2026, và sau Ấn Độ vào năm 2050. Trong cùng chiều hướng, khả năng canh tân của TQ cũng đang trên đà tiến lên hàng đầu thế giới về khoa học ứng dụng và công nghệ quân sự trong khoảng 2020 và 2030, căn cứ trên dự phóng: số cung khoa học gia và kỹ sư ưu tú hiện nay của Hoa Kỳ khi hưu trí sẽ không được thay thế đầy đủ bởi một thế hệ trẻ không được đào tạo thích đáng . Vào khoảng 2020, theo kế hoạch hiện nay, Ngũ Giác Đài sẽ phát động ba loại phi hành gia không gian tự động, tượng trưng cho hy vọng cao nhất của Hoa Thịnh Đốn duy trì bá quyền toàn cầu, mặc dù ảnh hưởng kinh tế ngày một suy giảm. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, hệ thống vệ tinh truyền thông toàn cầu của TQ, hổ trợ bởi những máy vi tính siêu đẳng mạnh nhất thế giới, cũng đã đi vào hoạt động, đem lại cho Bắc Kinh một kho trang thiết bị quân sự và hệ thống truyền thông hùng mạnh có thể tiếp cận mọi nơi trên thế giới, thiết yếu cho nhu cầu điều khiển tên lửa và các vũ khí tấn công trên không gian. Với thái độ một đế quốc kiêu căng, tòa Bạch Ốc hình như vẫn tưởng sự tuột dốc của Hoa Kỳ sẽ mang tính tuần tự, nhẹ nhàng, và phân bộ. Trong diễn văn về Tình Trạng Liên Bang trong tháng 1-2011, TT Obama đã long trọng trấn an "Tôi không chấp nhận vị trí thứ hai cho Hoa Kỳ"[3]. Vài ngày sau, Phó TT Biden cũng đã gièm pha nhận xét "chúng ta khó thể tránh né lời tiên đoán của [sử gia Paul] Kennedy là "chúng ta sẽ là một đại cường đã thất bại, bởi lẽ chúng ta đã đánh mất khả năng kiểm soát nền kinh tế và đã giàn trải quá mỏng"[4]. Trong cùng quan điểm, viết trong tạp chí Foreign Affairs số tháng 11-2010, Joseph Nye, một tên tuổi về chính sách đối ngoại tân tự do, đã bác bỏ mọi luận cứ liên quan sự trổi dậy về kinh tế và quân sự của TQ , "những ẩn dụ sai lạc về một sự tuột dốc hữu cơ"[5], và mọi suy yếu đang diễn tiến trong quyền lực toàn cầu của Mỹ. Người Mỹ bình thường, đang chứng kiến nạn thất thoát công ăn việc làm ra nước ngoài, lại có cái nhìn thực tế hơn các lãnh đạo chính trị. Theo kết quả cuộc thăm dò trong tháng 8-2010, 65% dân Mỹ tin: Hoa Kỳ hiện đang trải nghiệm "tình trạng tuột dốc". Trong thực tế, Úc và Thổ Nhĩ Kỳ, đồng minh quân sự lâu đời của Mỹ, hiện đang sử dụng vũ khí do Hoa Kỳ chế tạo trong các cuộc thao diễn quân sự chung với TQ. Các đối tác kinh tế thân cận nhất của Mỹ cũng dần dà lánh xa lập trường của Hoa Thịnh Đốn chống đối chính sách ngoại hối của TQ. Khi TT Obama đang trên đường trở về sau chuyến công du Á châu trong tháng 11-2010, một hàng tít lớn bi quan trên báo The New York Times đã tóm lược tình hình: "Nhãn Quan Kinh Tế Của Obama Bị Bác Bỏ Trên Sân Khấu Thế Giới; TQ, Anh, và Đức Thách Thức Hoa Kỳ; Thương Thảo Mậu Dịch với Seoul Cũng Thất Bại".[6] Từ góc nhìn lịch sử, vấn đề không phải liệu Hoa Kỳ có thể sẽ đánh mất bá quyền toàn cầu của mình, mà là sự tuột dốc dồn dập và nhức nhối của Mỹ. Thay vì đi theo tư duy đầy cảm tính của Hoa Thịnh Đốn, chúng ta thử dùng phương pháp tương lai học của chính Hội Đồng Tình Báo Quốc Gia, đưa ra ba kịch bản thực tiển, xét xem bá quyền toàn cầu của Hoa Kỳ sẽ diễn tiến như thế nào cho đến thập kỷ 2020 . Các kịch bản tương lai bao gồm: tuột dốc kinh tế, khủng hoảng dầu khí, và phiêu lưu quân sự. TUỘT DỐC KINH TẾ Ngày nay, vị trí áp đảo của Hoa Kỳ trong kinh tế toàn cầu đang đối diện ba đe dọa chính: thị phần trong mậu dịch quốc tế ngày một thu hẹp, khả năng canh tân kỹ thuật suy giảm, vị thế đặc quyền của đồng USD trong vai trò một ngoại tệ dự trữ toàn cầu ngày môt lung lay. Kể từ 2008, Hoa Kỳ đã tụt xuống vị trí thứ ba trong ngạch số xuất khẩu, với 11% so với 12% của TQ, và 16% của Liên Hiệp Âu Châu (EU). Hiện không có lý do để tin xu thế nầy có thể đảo ngược. Trong cùng chiều hướng, vai trò lãnh đạo của Hoa Kỳ trong canh tân kỹ thuật ngày một suy yếu. Năm 2008, Hoa Kỳ đứng thứ hai sau Nhật với 232.000 đơn xin patent; nhưng TQ đã thu hẹp khoảng cách nhanh chóng với 195.000 đơn xin, nhờ ở tỉ suất gia tăng nóng bỏng 400% kể từ năm 2000. Một dấu hiệu suy yếu khác: năm 2009, Hoa Kỳ tụt xuống vị trí thấp nhất trong số 40 quốc gia thăm dò bởi tổ chức Information Technology & Innovation Foundation về 'thay đổi' trong 'khả năng cạnh tranh căn cứ trên canh tân toàn cầu'[7] suốt trong thập kỷ trước. Nếu tính thêm chất lượng vào thống kê, trong tháng 10-2010, Bộ Quốc Phòng TQ đã tiết lộ một máy siêu vi tính nhanh nhất thế giới, Tianhe-1A, theo một chuyên gia Hoa Kỳ, mạnh đến nổi có thể 'thổi bay máy vi tính số 1 hiện hữu'[8] của Mỹ. Ngoài ra, chúng ta còn phải nhắc đến một bằng chứng rõ ràng khác: hệ thống giáo dục Hoa Kỳ, lò sản xuất các khoa học gia và các nhà canh tân tương lai, đã không còn theo kịp các xứ cạnh tranh. Sau khi dẫn đầu thế giới trong nhiều thập kỷ về số thanh niên từ 25 đến 34 tuổi với cấp bằng đại học, Hoa Kỳ trong năm 2010 đã tụt xuống vị trí thứ 12. Cũng trong năm 2010, Diễn Đàn Kinh Tế Thế Giới (The World Economic Forum) đã xếp Hoa Kỳ vào thứ hạng 52 trong số 139 quốc gia về chất lượng giáo dục trong các môn toán và khoa học cấp đại học. Gần 50% số sinh viên ban thạc sĩ-tiến sĩ trong các ngành khoa học hiện nay là sinh viên nước ngoài; hầu hết sẽ hồi hương sau khi tốt nghiệp, thay vì ở lại Mỹ như trước đây. Nói một cách khác, vào khoảng năm 2025, Hoa Kỳ có thể phải đối diện với nạn khuy khiếm trầm trọng các khoa học gia tài ba. Các xu hướng vừa nói cũng đã ảnh hưởng tiêu cực đến vai trò đồng USD như ngoại tệ dự trữ của thế giới. Kenneth S. Rogoff, nguyên kinh tế trưởng Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), đã nhận xét, "các quốc gia khác nay không còn tin Hoa Kỳ là quốc gia có chính sách kinh tế xuất sắc nhất"[9].Vào giữa năm 2009, với các ngân hàng trung ương trên thế giới nắm giữ 4.000 tỉ trái phiếu ngân khố Hoa Kỳ, TT Nga Dimitri Medvedev nhấn mạnh: đã đến lúc phải chấm dứt "hệ thống đơn cực được duy trì một cách giả tạo" căn cứ trên "một đơn vị tiền dự trữ trước đây hùng mạnh"[10]. Đồng thời, thống đốc ngân hàng trung ương TQ cũng đã gợi ý: trong một tương lai rất gần có thể sẽ phải chấp nhận một đơn vị tiền dự trữ toàn cầu "không dính dáng với các quốc gia riêng rẽ"[11] (có nghĩa, đồng USD). Như kinh tế gia Michael Hudson lập luận, tất cả những tín hiệu vừa kể đã "thúc đẩy đà phá sản nhanh chóng của trật tự tài chánh-quân sự thế giới của Hoa Kỳ "[12]. KHỦNG HOẢNG DẦU KHÍ Song song với quyền lực kinh tế suy giảm của Hoa Kỳ, quyền kiểm soát số cung dầu khí toàn cầu cũng chịu cùng số phận. Cạnh tranh với nền kinh tế đang khát dầu của Mỹ, TQ đã nhanh chóng trở thành quốc gia tiêu thụ năng lượng số một vào mùa hè 2010, một vị trí do Hoa Kỳ độc chiếm trong hơn một thế kỷ. Chuyên gia năng lượng Michael Klare đã đưa ra nhận xét: sự thay đổi ngôi thứ vừa nói có nghĩa từ nay TQ sẽ giữ vai trò "dẫn đầu trong việc định hình tương lai thế giới"[13]. Vào khoảng năm 2025, Iran và Nga sẽ kiểm soát gần phân nửa số cung hơi đốt thiên nhiên trên thế giới, đem lại cho hai xứ nầy sức mạnh đòn bẩy đối với một Âu châu đang đói năng lượng. Nếu tính thêm trữ lượng dầu lửa, như Hội Đồng Tình Báo Quốc Gia đã dự báo, "trong vòng 15 năm sắp tới, hai quốc gia, Nga và Iran, có thể trổi dậy như hai cường quốc năng lượng then chốt".[14] Mặc dù tiền tiến về kỹ thuật, các nước giàu tài nguyên năng lượng hiện đang bơm dầu từ những vịnh có trữ lượng lớn lao và dễ khai thác với phí tổn thấp. Bài học thực sự rút tỉa từ tai họa tràn dầu Deepwater Horizon ở Vịnh Mễ Tây Cơ: ngoài lý do sơ suất trong chuẩn mực an ninh, còn có một lý do đơn giản khác: theo Michael Klare, để duy trì doanh lợi, BP, một trong những đại công ty năng lượng, có rất ít chọn lựa ngoài việc tìm kiếm "tough oil", hay dầu khó khai thác, hàng dặm dưới mặt đại dương. Vấn đề càng phức tạp khi TQ và Ấn bất thần đã trở thành hai xứ tiêu thụ dầu lớn lao. Ngay cả trong giả thiết xa vời thực tế - số cung dầu lửa bất biến, sức cầu, do đó giá cả, chắc chắn sẽ gia tăng nhanh chóng. Một số các xứ phát triển khác đã mạnh dạn đối đầu với đe dọa qua các chương trình thực nghiệm nhằm khai triển những nguồn năng lượng thay thế. Hoa Kỳ, trái lại, đã dõi theo một hướng đi trái ngược, và suốt trong ba thập kỷ vừa qua, đã tăng gấp đôi sự lệ thuộc vào dầu nhập khẩu. Từ 1973 đến 2007, dầu nhập khẩu đã gia tăng từ 36% lên đến 66% số năng lượng tiêu thụ trong nước. PHIÊU LƯU QUÂN SỰ Khi quyền lực suy giảm, các đế quốc thường rất dễ bị thu hút vào những phiêu lưu quân sự thiếu tỉnh táo. Hiện tượng nầy được các sử gia nhắc đến dưới tên gọi "chính sách quân sự vi tiểu"[15] như một nổ lực mang tính tự trấn an qua chiến lược xâm lăng các lãnh thổ hải ngoại. Họ muốn nói đến những cuộc hành quân, thiếu duy lý ngay đối với một đế quốc, thường gây thêm tổn phí tiêu hao và thất bại tủi hổ, làm tăng tốc quá trình suy sụp. Trong thời mạt vận, các đế quốc, sau nhiều năm tháng mắc phải chứng bệnh tự kiêu, luôn tìm cách bám víu vào chủ nghĩa đế quốc qua các phiêu lưu quân sự, thường kết thúc với thất bại và tan rã. Năm 413 trước công nguyên, một Athens suy yếu đã gửi 200 tàu chiến vào lò sát sinh ở Sicily. Năm 1921, Ðế quốc Tây Ban Nha đã gửi 20.000 binh sĩ để bị tàn sát bởi du kích quân Berber ở Morocco. Năm 1956, Đế quốc Anh đã hủy hoại uy tín qua chiến dịch tấn công kênh đào Suez. Năm 2001 và 2003, Hoa Kỳ xâm chiếm Afghanistan và Iraq. Với sự kiêu căng đặc trưng của chủ nghĩa đế quốc qua nhiều thiên niên kỷ, Hoa Kỳ đã tăng quân ở Afghanistan lên 100.000, mở rộng chiến tranh qua Pakistan, và gia hạn cam kết đến năm 2014 và xa hơn nữa, tự chuốc lấy tai họa trong "nghĩa trang, dành cho các đế quốc, đầy dẫy du kích, và trang bị nguyên tử ". Trong lúc tình hình lúc một căng thẳng, phúc trình của Ngũ Giác Đài đã tiết lộ Bắc Kinh hiện đã có đủ "khả năng tấn công ...các hàng không mẫu hạm [Hoa Kỳ] trong vùng Tây Thái Bình Dương" và ngay cả các "lực lượng nguyên tử trong khắp...lục địa Hoa Kỳ". Qua sự triển khai "khả năng tấn công hạt nhân, không gian, và chiến tranh truyền thông và kiểm soát tự động", TQ hình như đang quyết chí tranh giành thế lực áp đảo trong lãnh vực Ngũ Giác Đài mệnh danh "quang phổ thông tin đủ kích cỡ của chiến tranh không gian hiện đại"[16]. Với sư khai triển đang tiếp diễn các hỏa tiễn tăng thế Long March V, cũng như phóng các vệ tinh trong tháng 1-2010 (2) và tháng 7-2010 (1), Bắc Kinh đã gửi tín hiệu: TQ đang tiến rất nhanh trong chương trình thiết kế một mạng lưới độc lập với 35 vệ tinh trong các địa hạt định vị, truyền thông, và khả năng tình báo vào năm 2020. Nhằm kiềm chế TQ và tăng cường vị thế quân sự toàn cầu của chính mình, Hoa Thịnh Đốn quyết định thiết kế một "mạng lưới kỹ thuật số" gồm các người máy không gian và ngoại không gian tự động - những khả năng chiến tranh truyền thông và kiểm soát tối tân, và giám sát điện tử. Các nhà hoạch định quân sự chờ đợi hệ thống hội nhập hay hợp nhất nầy sẽ có khả năng bao phủ địa cầu trong một mạng lưới truyền thông và giám sát có khả năng che kín tầm quan sát của các đội quân thù nghịch hay ngay cả loại trừ một tên khủng bố riêng lẻ. Vào năm 2020, nếu diễn biến đúng theo kế hoạch, Ngũ Giác Đài sẽ phát động một lá chắn ba lớp các phi cơ không người lái - với tầm với từ stratosphere (thượng tầng không gian) đến exosphere (ngoại biên bầu khí quyển), được trang bị các hỏa tiễn cực nhanh, nối liền với một hệ thống vệ tinh linh động qua sự giám sát của viễn vọng kính. Tháng 4-2010, Ngũ Giác Đài đã làm nên lịch sử: thí nghiệm thành công khả năng nới rộng tầm hoạt động của các phi cơ không người lái vào exosphere qua việc phóng phi thuyền không gian không người lái X-37B lên quỹ đạo thấp 255 dặm trên mặt địa cầu. Phi thuyền X-37B là phi thuyền đầu tiên trong thế hệ phi thuyền không người lái mới, đánh dấu chiến lược vũ trang hóa không gian, tạo lập một chiến trường tương lai chưa từng có. Mùa hè năm 2010, căng thẳng quân sự giữa Mỹ và TQ bắt đầu lên cao trong vùng Tây Thái Bình Dương, trước đây được xem như "hồ nước khổng lồ" riêng của Hoa Kỳ. Một năm trước đó, không ai đã có thể tiên đoán một bối cảnh như vậy. Cũng như trước đây, trong vai trò đồng minh với Luân Đôn, Hoa Thịnh Đốn đã từng thành công giành lấy phần lớn uy quyền toàn cầu của Anh quốc, TQ ngày nay cũng đã sử dụng số thu nhập từ hàng xuất khẩu qua Hoa Kỳ để tài trợ những gì rất có thể trở thành một thách thức quân sự đối với bá quyền Hoa Kỳ trên các tuyến hàng hải ở Á châu và Thái Bình Dương. Với tài nguyên ngày một gia tăng, Bắc Kinh đang đòi hỏi một vòng cung hải phận từ Triều Tiên xuống tận Indonesia từ lâu do hải quân Hoa Kỳ khống chế. Tháng 8-2010, sau khi Hoa Thịnh Đốn tuyên bố "quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ" ở Nam Hải và thao diễn hải quân trong vùng để hậu thuẩn lập trường của mình, tờ báo chính thức Global Times của Bắc Kinh đã giận dữ trả lời: "trận đấu vật giữa Hoa Kỳ-TQ về vấn đề Nam Hải đã nâng thách thức lên mức nghiêm trọng - ai sẽ là kẻ thực sự ngự trị hành tinh trong tương lai"[17]. TRẬT TỰ THẾ GIỚI MỚI Trong mọi trường hợp, nhiều xu thế có ý nghĩa đã phơi bày một sự tuột dốc đáng ngạc nhiên trong bá quyền toàn cầu của Hoa Kỳ. Trong khi các đồng minh trên khắp thế giới đang bắt đầu điều chỉnh chính sách để ghi nhận sự trổi dậy của các cường quốc Á châu, chi phí duy trì trên dưới 800 căn cứ quân sự của Mỹ ở hải ngoại ngày một trĩu nặng cuối cùng cũng sẽ buộc Hoa Thịnh Đốn phải triệt thoái theo từng giai đoạn. Trước nỗ lực thi đua vũ trang không gian và thượng tầng không gian của Hoa Kỳ và TQ, tình trạng căng thẳng giữa hai đại cường rất có thể sẽ đưa đến một xung đột quân sự với hậu quả khó lường. Tình trạng càng phức tạp vì các xu thế kỹ thuật, quân sự, và kinh tế không phải chỉ tác động biệt lập. Như đã từng xẩy ra cho các đế quốc Âu châu sau Đệ Nhị Thế Chiến, các lực vừa nói chắc chắn còn tương tác, đan xen, và có tác động lớn lao hơn nhiều. Phối hợp lại, hậu quả có thể đưa đến những cuộc khủng hoảng người Mỹ chưa bao giờ được chuẩn bị để đối phó, do đó, sẽ đe dọa xoay chuyển nền kinh tế trong một vòng xoáy trôn ốc gây cơ hàn cho một hay nhiều thế hệ . Sự suy giảm quyền lực của Hoa Kỳ sẽ đem lại nhiều cơ hội cho một trật tự thế giới mới. Trong nhiều giả thuyết, sự trổi dậy của một siêu cường toàn cầu mới, mặc dù không mấy chắc chắn, cũng không thể gạt bỏ. Tuy vậy, cả TQ lẫn Liên Bang Nga, với văn hóa tự tôn, văn tự phi La Mã khó hiểu, chiến lược quốc phòng cấp khu vực, và những hệ thống pháp lý lỗi thời, đều chưa đủ điều kiện chủ quan và khách quan cần thiết cho vai trò lãnh đạo toàn cầu. Vì vậy, hiện không một siêu cường duy nhất nào có đủ điều kiện thay thế Hoa Kỳ trong vai trò lãnh đạo. Một cơ chế lãnh đạo toàn cầu đen tối và đáng buồn của thế giới tương lai - một liên minh các đại công ty đa quốc gia, những lực lượng đa phương như NATO, và những nhà tài phiệt quốc tế..., có thể phối hợp thành một định chế duy nhất, bất ổn, siêu quốc gia, không mang tính đế quốc. Đã hẳn một định chế liên minh các đại công ty đa quốc gia và các tập đoàn tài chánh đa phương vẫn có thể giữ vai trò lãnh đạo thế giới. Tuy nhiên, quyền lợi của tuyệt đại đa số nhân dân thế giới sẽ không được đại diện và bị bỏ quên một cách dễ dàng và bất công. Trong quang phổ các dạng thức lãnh đạo thế giới tương lai khả dĩ, một hình thức độc quyền đa phương toàn cầu nào đó cũng có thể xuất hiện trong khoảng 2020 và 2040, với những đại cường đang lên TQ, Nga, Ấn Độ, và Brazil hợp tác với một số đại cường ngày một suy nhược, như Anh, Đức, Nhật, và Hoa Kỳ trong một dạng lãnh đạo toàn cầu, tương tự như một liên minh lỏng lẻo các đế quốc Âu châu đã ngự trị một nửa nhân loại vào những năm 1900. Một khả dĩ khác: sự trổi dậy của các bá chủ cấp khu vực tương tự như hệ thống trật tự thế giới trước ngày các đế quốc cận đại xuất hiện.Trong trật tự thế giới nầy, mỗi đại cường thống lĩnh một khu vực -- Brazil ở Nam Mỹ, Hoa Thịnh Đốn ở Bắc Mỹ, Pretoria ở Nam Phi...Không gian, thượng tầng không gian, đại dương, không còn thuộc bá quyền Hoa Kỳ, có thể thuộc thẩm quyền của Hội Đồng Bảo An LHQ hay một định chế quốc tế đặc biệt nào đó. Tất cả những kịch bản dự phóng tương lai căn cứ trên những xu thế hiện hữu đều dựa trên giả thiết người Mỹ, có thói quen kiêu căng trong nhiều thập kỷ bá quyền, không thể hay sẽ không có biện pháp quản lý hay đảo ngược tiến trình bào mòn bá quyền toàn cầu của mình. Nếu quá trình suy sụp của Hoa Kỳ trong thực tế sẽ diễn tiến trong 22 năm, thập kỷ đầu đã bị phung phí vì các cuôc chiến phiêu lưu, xao lãng nhiều vấn đề dài hạn cấp thiết, và phung phí nhiều nghìn tỉ USD cần thiết cho nhu cầu đầu tư vào hạ tầng cơ sở. Khả năng đánh mất mười lăm năm còn lại cũng rất cao. Quốc Hội và Tổng Thống luôn bị tê liệt. Hệ thống chính trị Hoa Kỳ tràn ngập tiền bạc của các tập đoàn tài chánh và đại công ty luôn sẵn sàng gây trở ngại cho việc thực thi những nghị trình của đảng cầm quyền. Các vấn đề cấp thiết kể cả chiến tranh, an ninh quốc gia, giáo dục, năng lượng, luôn bị xao lãng, khó lòng bảo đảm một hạ cánh an toàn cần thiết để có thể tối đa hóa vai trò và sự thịnh vượng của Hoa Kỳ trong một thế giới đang đổi thay nhanh chóng. Các đế quốc Âu châu đã tàn lụi, và đế quốc Mỹ cũng trên đường suy sụp. Thậm chí người ta ngày một nghi ngờ Hoa Kỳ, theo chân Anh quốc trước đây, có thể còn đủ khả năng áp đặt một trật tự thế giới mới để bảo vệ quyền lợi của chính mình, duy trì thịnh vượng, và mang dấu ấn những giá trị tốt nhất của Mỹ. THAY LỜI KẾT LUẬN Trong nổ lực giảm thiểu những tai hại sau khi Wikileaks phổ biến hơn 250.000 tài liệu mật của Bộ Ngoại Giao, mới đây Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Gates đã đưa ra nhận xét: "Trong thực tế, chính quyền [các nước ngoài] giao dịch với Mỹ vì quyền lợi của họ đòi hỏi, không vì họ ưa thích chúng ta, không vì họ tin tưởng chúng ta, không vì họ tin chúng ta có thể giữ bí mật... Một vài chính quyền giao dịch với chúng ta chỉ vì họ sợ chúng ta, một vài chính quyền khác vì kính trọng chúng ta, phần lớn vì cần chúng ta. Như đã nói trước đây, chúng ta, trong cốt lõi, vẫn còn là một quốc gia không thể thiếu".[18] Đã hẳn tư duy trên đây của Gates rõ ràng khá ôn hòa, và phản ảnh đầu óc địa chính trị thực tiễn của một quan chức Hoa Thịnh Đốn. Đã hẳn, Gates cũng không phải quan chức cao cấp đầu tiên của Mỹ tin tưởng Hoa Kỳ là quốc gia tối cần thiết. Nhiều tay chơi ở Hoa Thịnh Đốn cũng cùng chung ý tưởng. Vấn đề là tin tức gần như hàng tuần đã làm suy yếu dạng thức thực tiển của Gates. Khả năng của Wikileaks, một tổ chức nhỏ bé của vài nhân vật chính trị, đã gây nhức nhối cho siêu cường toàn cầu, nhiều lần đã rọi ánh sáng chói chang vào bóng tối bí mật bao trùm hành động mờ ám của giới lãnh đạo chính trị quân sự, cũng chẳng giúp được gì nhiều cho Gates. Nếu tính thiết yếu của Hoa Kỳ không mấy ai nghi ngờ ở Hoa Thịnh Đốn, nó vẫn là một vấn đề hoàn toàn khác đối với thế giới bên ngoài. Lời bình luận thông minh nhất của Simon Jenkins trong báo The Guardian ở Anh, khi đọc những tin tức do Wikileaks phổ biến gần đây, đã tóm tắt vấn đề: "Phung phí tiền bạc rất choáng ngợp. Tiền viện trợ [của Mỹ] không hề được theo dõi, kiểm toán, hay thẩm định hiệu quả. Người ta có ấn tượng một siêu cường thế giới đang lang thang ngơ ngác trong một thế giới không ai ứng xử như đã cam kết. Iran, Nga, Pakistan, Afghanistan, Yemen, LHQ, tất cả đều luôn ứng xử ngoài kịch bản. Hoa Thịnh Đốn đã phản ứng như một con gấu bị thương, theo bản năng đế quốc, nhưng quyền lực chẳng mang lại chút hiệu quả."[19] Đôi khi, để hiểu rõ hiện tại, chúng ta cũng nên nhìn về quá khứ. Trong trường hợp nầy, nhìn xem những gì đã thực sự xẩy ra cho các đế quốc trong lịch sử cận đại cũng hữu ích không kém như khi nhìn thẳng vào tương lai. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 24-3-2011 [1] ...the transfer of global wealth and economic power now under way, roughly from West to East" and without precedent in modern history," as the primary factor in the decline of the United States' relative strength -- even in the military realm".
[2] ...retain unique military capabilities...to project military power globally...
[3] I do not accept second place for the United States of America.
[4] We are destined to fulfill [historian Paul] Kennedy's prophecy that we are going to be a great nation that has failed because we lost control of our economy and overextended.
[5] misleading metaphors of organic decline.
[6] Obama's Economic View Is Rejected on World Stage, China, Britain and Germany Challenge U.S., Trade Talks With Seoul Fail, Too.
[7] ...global innovation-based competitiveness.
[8] The Tianhe-1A, so poerful, it 'blows away the existing No. 1 machine' in America.
[9] Other countries are no longer willing to buy into the idea that the U.S. knows best on economic policy.
[10] ...it was time to end 'the artificially maintained unipolar system' based on 'one formerly strong reserve currency'.
[11] ...disconnected from individual nations.
[12] ...to hasten the bankruptcy of the U.S. financial-military world order.
[13] China will "set the pace in shaping our global future".
[14] ...in just 15 years two countries, Russia and Iran, could "emerge as energy kingpins".
[15] micro-militarism.
[16] Beijing now holds "the capacities to attack...[U.S.] aircraft carriers in the western Pacific Ocean" and targets "nuclear forces throughout ...the continental United States." By developing "offensive nuclear, space, and cyber warfare capacities", China seems determined to vie for dominance of what the Pentagon calls "the information spectrum in all dimensions of the modern battlespace".
[17] The U.S.-China wrestling match over the South China Sea issue has raised the stakes in deciding who the real future ruler of the planet will be.
[18] The fact is, governments deal with the United States because it's in their interest , not because they like us, not because they trust us, and not because they believe we can keep secrets...Sòm governments deal with us because they fear us, sòm because they respect us,most because they need us. We are still essentially, as has been said before, the indispensable nation.
[19] The money-wastingis staggering. [U.S.] Aid payments are never followed, never audited, never evaluated. The impression is of the world's superpower roaming helpless in a world in which nobody behaves as bidden. Iran, Russia, Pakistan,Afghanistan, Yemen, The United Nations, are all perpetually off script. Washington reacts like a wounded bear, its instincts imperial but its power projection unproductive.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 1, 2011 7:21:14 GMT 9
Hoa Kỳ : đế quốc và chư hầu Vietsciences-Nguyễn Trường 31/05/2011 Do một tình cờ lịch sử ít nhiều mang tính nhân quả, hai đợt biến cố kế tiếp đã phơi bày trần trụi cấu trúc quyền lực toàn cầu của Hoa Thịnh Đốn. Tháng 11-2010, WikiLeaks đã tung ra những mẩu vụn thông tin từ công điện các tòa đại sứ Hoa Kỳ với lời bình thô lổ về giới lãnh đạo từ Argentina đến Zimbabwe, trên trang đầu báo chí thế giới. Vài tuần sau đó, nhiều đợt biểu tình đòi dân chủ và lật đổ các chế độ thân Mỹ, với đầy đủ chi tiết minh chứng từ các công điện liên hệ - được biết dưới nhiều danh hiệu: Mùa Xuân A Rập, Cách Mạng Dân Chủ, hay Biến Động Bắc Phi và Trung Đông. Trong chốc lát, thế giới đã có thể nhận chân nền móng trật tự thế giới của Hoa Kỳ đã dựa trên giới lãnh đạo các quốc gia khách hàng trong cương vị những thượng lưu quí tộc tay sai - trong thực tế, là những đại diện chuyên quyền, tư sản, hay độc tài quân sự. Người ta cũng thấy rõ tổng quan logic trong việc lựa chọn chính sách ngoại giao khó thể giải thích của Hoa Kỳ trong hơn nửa thế kỷ. Người ta có thể tự hỏi, ngay trong lòng chiến tranh lạnh, năm 1965, tại sao CIA lại có thể chấp nhận bất trắc và thị phi trong quyết định lật đổ một lãnh tụ được chấp nhận như Sukarno ở Indonesia, hay năm 1963, công khai cổ vũ ám sát tổng thống Ngô Đình Diệm do chính Hoa Kỳ đã tạo dựng và bảo trợ ở Sài Gòn? Câu trả lời - nay đã khá rõ ràng nhờ WikiLeaks và các biến động gần đây trong thế giới A Rập - là cả hai đều chỉ là những đại diện thuộc quyền được Hoa Thịnh Đốn chọn lựa cho đến khi tỏ ra bất lực, bất phục tùng, và không còn cần thiết hay có thể loại bỏ. Tại sao, nửa thế kỷ sau, Hoa Thịnh Đốn lại có thể phủ nhận chiêu bài dân chủ qua việc hậu thuẩn Tổng Thống Ai Cập Hosni Mubarak chống lại hàng triệu người biểu tình, để rồi khi Mubarak lúng túng giao động, lại gây áp lực tạm thời thay thế, ít ra lúc đầu, với Omar Suleiman, người đứng đầu ngành tình báo của chính Mubarak, người được biết đến với các cơ sở tra tấn (từng cho phép Hoa Thịnh Đốn sử dụng)? Câu trả lời, một lần nữa: vì cả hai đều là tay chân đáng tin cậy đã phục vụ quyền lợi Hoa Kỳ khá dài lâu và đắc lực trong một quốc gia "đồng minh A Rập" then chốt. Trong toàn vùng Trung Đông mở rộng từ Tunisia và Ai Cập đến Bahrain và Yemen, phong trào dân chủ đang đe dọa quét sạch giới lãnh đạo tay chân thiết yếu của đế quốc Hoa Kỳ. Thực vậy, Hoa Thịnh Đốn hiện đang nương tựa trên các đại diện đáng tin cậy ở địa phương làm trung gian thể hiện quyền lực toàn cầu của Mỹ trong vai trò kiểm soát dân bản xứ. Đối với một đế quốc, một khi các lãnh đạo đại diện bắt đầu nao núng, không còn triệt để trung thành, hay theo đuổi nghị trình riêng, cũng chính là lúc đế quốc đang trên đường tàn lụi. Nếu cách mạng nhung lan tràn ở Đông Âu năm 1989 đã là tiếng chuông báo tử của đế quốc Xô Viết, các cuộc cách mạng hoa nhài hiện nay đang tiếp diễn ở Trung Đông có thể là sự khởi đầu của thời kỳ sụp đổ của uy lực toàn cầu của Mỹ. PHE QUÂN SỰ LÊN NẮM QUYỀN Để hiểu rõ vai trò quan trọng của giới lãnh đạo địa phương, tưởng cần phải nhìn lại những ngày đầu của Chiến Tranh Lạnh khi Tòa Bạch Ốc đang cấp thiết tìm mọi cách chận đứng làn sóng thân Cộng và chống Mỹ. Tháng 12 năm 1954, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (NSC), trong nhiều phiên họp tại Tòa Bạch Ốc, đã nổ lực soạn thảo kế hoạch chế ngự các lực lượng quốc gia ngày một hùng mạnh và lan tràn khắp địa cầu. Ở Á châu và Phi châu, các đế quốc Âu châu, đã bảo đảm trật tự toàn cầu trong hơn một thế kỷ trước đó, đang phải nhường chỗ cho sự ra đời của 100 quốc gia mới, phần lớn, theo Hoa Thịnh Đốn, đang bị cộng sản khuynh loát. Châu Mỹ La Tinh cũng đang sôi động với lực lượng đối lập thiên tả, chống đối tình trạng nghèo khó trong đô thị và thiếu đất đai canh tác ở nông thôn. Sau khi tái duyệt các đe dọa người Mỹ đang phải đối diện ở Châu Mỹ La Tinh, Bộ Trưởng Ngân Khố đầy quyền lực, George Humphrey, đã thông báo cho các đồng sự trong NSC là họ cần "tránh nói nhiều về dân chủ", và thay vào đó, "phải hậu thuẩn các chế độ độc tài cánh hữu nếu những chế độ nầy thân Mỹ"[1]. Vào chính lúc đó, Dwight Eisenhower, luôn nhạy bén về chiến lược, lập tức can thiệp để xác định quả thật Humphrey muốn nói: "các nhà lãnh đạo đó cũng chấp nhận được nếu họ là những tên vô lại của chính chúng ta."[2] Đó là thời điểm cần ghi nhớ, vì Tổng Thống Hoa Kỳ đã mô tả hệ thống thuộc địa toàn cầu hết sức rõ ràng: sẵn sàng gạt qua một bên các nguyên tắc dân chủ, Hoa Thịnh Đốn sẽ thực nghiệm trong vòng 50 năm tới chính sách chính trị thực dụng cứng rắn - "a tough realpolitik policy", hậu thuẩn bất cứ lãnh đạo nào đáng tin cậy, nhờ đó, xây dựng một mạng lưới lãnh đạo toàn cầu sẵn sàng đặt quyền lợi của Hoa Thịnh Đốn lên trên quyền lợi của quốc gia khách hàng . Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ luôn hậu thuẩn phe quân sự ở châu Mỹ La Tinh, phe quí tộc chuyên chế ở Trung Đông, và các nhà dân chủ và độc tài ở Á châu. Năm 1958, nhiều cuộc đảo chính quân sự ở Thái Lan và Iraq đột nhiên đưa giới quân sự trong thế giới thứ ba lên vai trò lãnh đạo. Chính vào lúc ấy, chính quyền Eisenhower đã quyết định đưa các viên chức quân sự cao cấp nước ngoài vào Mỹ thụ huấn nhằm làm dễ dàng "việc quản lý các lực-lượng-muốn-thay-đổi " --"the management of the forces of change" -- xuất hiện trong quá trình trổi dậy của các quốc gia đang lên. Vì vậy, Hoa Thịnh Đốn đã rót viện trợ quân sự vào các chương trình vun quén quân lực các đồng minh và đồng minh tiềm năng trên khắp thế giới, trong khi các phái bộ huấn luyện đã được sử dụng nhằm tạo dựng những quan hệ nòng cốt giữa giới quân sự Hoa Kỳ và các cấp sĩ quan trong quân lực nhiều quốc gia trên thế giới hay trong những xứ giới lãnh đạo thượng lưu quí tộc không mấy trung thành, với mục đích giúp nhận diện các lãnh đạo thay thế trong tương lai. Mỗi khi giới lãnh đạo dân sự chứng tỏ không phục tùng, Cơ Quan Tình Báo Trung Ương (CIA) liền bắt tay vào việc tổ chức đảo chánh nhằm thiết lập các lãnh đạo quân sự tin cẩn kế tiếp: thay thế Thủ Tướng Iran Mohammad Mossadeq, người đã tìm cách quốc hữu hóa tài nguyên dầu khí, với tướng Fazlollah Zahedi, rồi với quốc vương Ba Tư - Shah of Iran, năm 1953; Tổng Thống Sukarno với tướng Suharto ở Indonesia trong thập kỷ kế tiếp; và Tổng Thống Ngô đình Diệm với nhóm tướng lãnh Dương văn Minh, Nguyễn Khánh, Nguyễn văn Thiệu, Nguyễn cao Kỳ...ở Nam Việt Nam năm 1963; và cố nhiên Tổng Thống Salvador Allende với tướng Augusto Pinochet ở Chí Lợi năm 1973 - bốn trong số các cuộc đảo chánh như thế vào thời ấy. Trong những năm đầu thế kỷ 21, sự tin tưởng của Hoa Thịnh Đốn ở giới quân sự trong các xứ khách hàng chỉ có thể gia tăng. Chẳng hạn, Hoa Kỳ đã tung 1,3 tỉ USD viện trợ cho giới quân sự Ai Cập mỗi năm, nhưng chỉ đầu tư 250 triệu trong các chương trình phát triển kinh tế. Vì vậy, khi cách mạng dân chủ làm lung lay chế độ ở Cairo tháng giêng vừa qua, như báo The New York Times đã tường trình, số đầu tư trong 30 năm qua đã đem lại hiệu quả, khi các tướng lãnh và quan chức tình báo Mỹ đã thành công trong việc lặng lẻ kêu gọi và thúc dục các lãnh đạo quân sự đối tác yểm trợ quản lý quá trình chuyển tiếp hòa bình. Ở các xứ Trung Đông khác, từ thập kỷ 1950, Hoa Thịnh Đốn, theo gương đế quốc Anh trước đây, luôn vun quén đồng minh trong giới quí tộc A Rập như Shah Ba tư (Iran), các Vua Hồi giáo hay Sultans (Abu Dhabi, Oman), các hoàng thân hay Emirs (Bahrain, Kuwait, Qatar, Dubai), và các Quốc Vương (Saudi Arabia, Jordan, Morocco). Tóm lại, trong vùng Trung Đông luôn bất ổn, từ Morocco đến Iran, Hoa Thịnh Đốn luôn ve vãn các hoàng tộc, các quí tộc, với đồng minh quân sự, với vũ khí Hoa Kỳ, với hổ trợ của CIA đối với an ninh địa phương, một nơi ẩn náu an toàn cho tư bản, những đặc lợi cho giới thượng lưu, kể cả khả năng tiếp cận các định chế giáo dục ở Mỹ hay các trường học thuộc Bộ Quốc Phòng cho con em. Năm 2005, bộ trưởng ngoại giao Condoleezza Rice đã tóm tắt: "Trong vòng 60 năm qua, Hoa Kỳ đã theo đuổi [mục tiêu] ổn định, phương hại cho dân chủ... ở Trung Đông, và chúng ta đã không thành công trong cả hai [ổn định và dân chủ]."[3] LỀ LỐI LÀM VIỆC Đã hẳn Hoa Kỳ không phải là quốc gia bá chủ đầu tiên xây dựng quyền lực toàn cầu trên quan hệ cá nhân mong manh với các lãnh đạo địa phương. Trong hai thế kỷ 18 và 19, Anh quốc đã là bá quyền trên các đại dương (cũng như về sau, Hoa Kỳ đã là bá quyền trên không gian). Nhưng trên mặt đất, cũng như các đế quốc trước đây, Anh Quốc đã phải cần đến các đồng minh tại chỗ trong vai trò trung gian kiểm soát các xã hội phức tạp và hay thay đổi. Nếu không, làm cách nào, vào năm 1900, một quốc gia ốc đảo nhỏ bé với vỏn vẹn 40 triệu dân và một quân đội chỉ có 99.000 quân nhân, nước Anh đã có thể ngự trị một đế quốc toàn cầu hơn 400 triệu người - gần 1/4 nhân loại? Từ 1850 đến 1950, Anh quốc đã kiểm soát các thuộc địa chính thức qua mạng lưới đặc biệt các đồng minh tại chỗ - từ cấp lãnh đạo đảo Fiji và quốc vương Mã Lai (Malay sultans) đến các quốc vương Ấn Độ ( Indian Maharajas) và các hoàng thân Phi châu (African emirs). Đồng thời, qua những thành phần thượng lưu tay chân, Anh quốc đã ngự trị một đế quốc không chính thức còn rộng lớn hơn, gồm các hoàng đế (từ Bắc Kinh đến Istanbul), các quốc vương (từ Bangkok đến Cairo), và các tổng thống (từ Buenos Aires đến Caracas). Vào năm đỉnh điểm 1880, đế quốc không chính thức của Anh ở châu Mỹ La Tinh, Trung Đông, và Trung Quốc, đã có một dân số còn lớn hơn các thuộc địa chính thức ở Ấn Độ và Phi châu. Toàn bộ đế quốc Anh chiếm gần 50% dân số thế giới, được xây dựng trên những quan hệ hợp tác mong manh với giới thượng lưu trung thành tại chỗ. Tuy nhiên, sau bốn thế kỷ bành trướng không ngừng, năm đế quốc hải ngoại quan trọng của Âu châu đột nhiên cáo chung khỏi địa cầu trong vòng một phần tư thế kỷ giải thể chế độ thực dân - decolonization. Trong khoảng 1947 và 1974, các đế quốc Bỉ, Anh, Hà Lan, Pháp, và Bồ Đào Nha đã tàn lụi nhanh chóng khỏi Á châu và Phi châu, nhường chỗ cho 100 quốc gia mới, hơn một nửa là các quốc gia đầy đủ chủ quyền ngày nay. Tìm cách giải thích sự thay đổi đột biến lớn lao nầy, hầu hết các học giả đều đồng ý với sử gia chuyên về đế quốc Anh, Ronald Robinson, người đã đưa ra luận cứ khi các đế quốc thực dân đã mất hết các cộng tác viên địa phương, quyền lực của họ bắt đầu suy sụp. Trong suốt chiều dài chiến tranh lạnh, trùng hợp với kỷ nguyên giải thể chủ nghĩa thực dân, hai siêu cường của thế giới đã sử dụng các cơ quan tình báo để chi phối giới lãnh đạo các quốc gia mới độc lập. KGB của Nga với những cơ quan đại diện, như Stasi ở Đông Đức và Securitate ở Romania, đã áp đặt khuôn rập chính trị trong 14 xứ vệ tinh của Xô Viết ở Đông Âu, và thách thức Hoa Kỳ và đồng minh trong thế giới thứ ba. Cùng lúc, CIA đã luôn giám sát lòng trung thành các tổng thống, các nhà cầm quyền chuyên chế, các lãnh đạo độc tài trong các châu lục, qua các cuộc đảo chánh, hối lộ, thầm kín xâm nhập để kiểm soát, và khi cần, lật đổ những lãnh đạo gây rắc rối. Tuy nhiên, trong kỷ nguyên cực thịnh của chủ nghĩa quốc gia, lòng trung thành của giới thượng lưu địa phương đã trở thành một vấn đề thực sự phức tạp. Khá nhiều lãnh đạo đã bị chi phối bởi nhiều lực trái ngược, nhất là ảnh hưởng của chủ nghĩa quốc gia, vì vậy, cần được giám sát chặt chẽ. Đối diện với những lãnh đạo thượng lưu thiếu trung thành, rắc rối, và khó lòng điều khiển, CIA luôn phải phát động những chiến dịch kín đáo để khép họ vào khuôn khổ, nguyên nhân của nhiều khủng hoảng nghiêm trọng trong chiến tranh lạnh. Trước sự lớn mạnh của hệ thống kiểm soát và giám sát toàn cầu trong kỷ nguyên mới sau Đệ Nhị Thế Chiến, Hoa Thịnh Đốn buộc lòng phải phối hợp không những với các nhà lãnh đạo đại diện hay bù nhìn, mà ngay cả với các quốc gia đồng minh với vị thế yếu kém nhưng vẫn tìm cách tối đa hóa quyền lợi quốc gia cũng như của chính họ. Ngay cả trong thời cực thịnh của quyền lực toàn cầu của Hoa Kỳ trong thập kỷ 1950, khi vị thế áp đảo của Hoa Kỳ tương đối không mấy ai nghi ngờ, Hoa Thịnh Đốn đôi khi cũng đã phải mặc cả gay go, chẳng hạn, với Raymond Magsaysay ở Phi Luật Tân, Lý Thừa Vãn ở Nam Hàn, và Ngô đình Diệm ở Nam Việt Nam. Chẳng hạn, trong thập kỷ 1960, ở Nam Hàn, Tướng Park Chung Hee, trong cương vị tổng thống, đã mặc cả với Hoa Kỳ về việc gửi quân tham chiến ở Việt Nam để đổi lấy hàng tỉ USD giúp khởi động phép lạ tăng trưởng kinh tế. Trong quá trình trao đổi, Hoa Thịnh Đốn cũng đã nhận được sự yểm trợ của 50.000 binh sĩ Nam Hàn, như đội quân đánh giặc thuê, trong cuộc chiến Việt Nam không mấy được thế giới ủng hộ. THẾ GIỚI THỜI HẬU CHIẾN TRANH LẠNH Sau ngày bức tường Bá Linh sụp đổ năm 1989, Mạc Tư Khoa đã nhanh chóng đánh mất các quốc gia vệ tinh từ Estonia đến Azerbaijan - các chư hầu lần lượt xé rào khi thuyền Xô Viết sắp đắm. Đối với Hoa Thịnh Đốn, quốc gia chiến thắng và sớm trở thành siêu cường duy nhất, tiến trình suy sụp cũng bắt đầu, tuy với một tốc độ chậm hơn rất nhiều. Suốt hai thập kỷ kế tiếp, toàn cầu hóa đã khai sinh một hệ thống đa cực với nhiều cường quốc dần dà xuất hiện ở Bắc Kinh, New Delhi, Moscow, Ankara, và Brasilia, ngay trong khi hệ thống quyền lực các đại công ty phi quốc gia hay đa quốc gia đã giúp giảm thiểu sự lệ thuộc của các nền kinh tế đang phát triển vào một đại cường duy nhất, dù đó là một đế quốc. Với khả năng kiểm soát giới thượng lưu quí tộc tiệm giảm, Hoa Thịnh Đốn đang đối mặt một sự cạnh tranh ý thức hệ từ Hồi Giáo chính thống, các chế độ được giám sát của Âu châu, tư bản nhà nước ở TQ, và một đợt sóng đang lên của chủ nghĩa kinh tế quốc gia ở châu Mỹ La Tinh. Trong khi quyền lực và ảnh hưởng ngày một sút giảm, nổ lực kiểm soát giới lãnh đạo thượng lưu của Hoa Thịnh Đốn bắt đầu một chuổi thất bại, thường khá ngoạn mục - kể cả mưu toan lật đổ lãnh tụ "đáng ghét" Hugo Chavez của Venezuela trong cuộc đảo chánh bất thành năm 2002, tách đồng minh Mikheil Saakahsvili của Georgia khỏi quỹ đạo Nga năm 2008, và hất chân kẻ thù Mahmoud Ahmadinejad trong cuộc bầu cử Iran năm 2009. Ở những nơi trước đây chỉ cần một cuộc đảo chánh của CIA, hay một nổ lực mua chuộc bằng tiền mặt kín đáo, cũng đủ để đánh bại một địch thủ, chính quyền Bush đã phải cần đến một cuộc xâm lăng ồ ạt để lật đổ một nhà độc tài rắc rối như Saddam Hussein. Ngay cả trong trường hợp nầy, các kế hoạch thay đổi chế độ sau đó ở Syria và Iran của Hoa Thịnh Đốn cũng bị chận đứng; thay vào đó, cả hai xứ vẫn có thể tiếp tục trợ giúp phong trào nổi dậy và kháng chiến, gây tai họa cho lực lượng quân sự Mỹ ngay bên trong Iraq. Trong một trạng huống tương tự, mặc dù đã rót hàng tỉ mỹ kim chi viện, Hoa Thịnh Đốn hình như vẫn không thể kiểm soát tổng thống Afghanistan, Hamid Karzai, do chính mình dựng lên, khi Karzai đã tóm tắt quan hệ ngang bướng với Hoa Thịnh Đốn qua đặc phái viên Mỹ: "Nếu ngài tìm kiếm một bù nhìn và gọi bù nhìn đó là một đối tác, [xin thưa] không. Nếu ngài tìm kiếm một đối tác, [xin thưa] vâng."[4] Vào cuối năm 2010, WikiLeaks bắt đầu tiết lộ hàng nghìn công điện phơi bày những thông tin, nhìn từ bên trong và không bị kiểm duyệt, về cơ chế kiểm soát ngày một suy yếu đối với hệ thống quyền lực đại diện xây đắp trong 50 năm qua. Sau khi đọc những tài liệu được phổ biến, phóng viên Do Thái, Aluf Benn báo Haaretz, đã xác quyết "sự sụp đổ của đế quốc Mỹ - sự tuột dốc của một siêu cường đã ngự trị thế giới do bá quyền kinh tế, quân sự của chính mình."[5]Haaretz còn nói tiếp, " trong thủ đô các nước trên thế giới, các đại sứ Mỹ không còn được tiếp nhận như 'những cao ủy'...[thay vào đó] như những quan chức mệt mỏi suốt ngày phải chán chường lắng nghe đại diện các nước chủ nhà lặp đi lặp lại những sáo ngữ soạn sẵn, không bao giờ có dịp nhắc họ ai là siêu cường và ai là nhà nước khách hàng."[6] Thực vậy, các tài liệu WikiLeaks đã tiết lộ: Bộ Ngoại Giao đang vất vả quản lý một hệ thống toàn cầu bất trị - gồm những nhà lãnh đạo trong giới thượng lưu ngày một bướng bỉnh đủ mọi cách - với các mưu đồ nhằm thu thập thông tin và tình báo cần thiết, các hành động thân hữu nhằm khuyến dụ phục tùng, những đe dọa nhằm cưởng ép hợp tác, và hàng tỉ mỹ kim phung phí nhằm gây ảnh hưởng. Chẳng hạn, vào đầu năm 2009, theo chỉ thị của Bộ Ngoại giao, tất cả các tòa đại sứ trên thế giới đều phải làm công tác "cảnh sát đế quốc": thu góp các dữ kiện liên quan đến các lãnh đạo sở quan - địa chỉ điện thư, số diện thoại, số fax, dấu tay, diện mạo, DNA, mắt mũi... Giống với thời thực dân, Bộ Ngoại Giao đòi hỏi tòa đại sứ ở Bahrain thu thập những thông tin bẩn thỉu và bất lợi trong xã hội Hồi giáo, liên quan các hoàng thân và các quan chức địa phương: Có thông tin gì xấu về các hoàng tử? Có hoàng tử nào ghiền rượu, hoàng tử nào ghiền nha phiến? ... Với thái độ trịch thượng của các đặc phái viên đế quốc, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ hình như tự dành cho mình quyền thống trị, đã gạt bỏ vai trò người Thổ Nhĩ Kỳ tân-Ottoman ở Trung Đông và vùng Balkan, lợi dụng các nhược điểm của những lãnh đạo tay chân như Muammar Gaddafi với cô ý tá tóc hoe nâu ưa nhục dục, ám ảnh bởi nguy cơ bị đảo chánh quân sự của Tổng Thống Hồi quốc Asif Ali Zardari, hay số tiền biển thũ 52 triệu USD của Phó tổng thống Afghanistan Ahmad Zia Massoud. Tuy nhiên, khi ảnh hưởng suy giảm, Hoa Thịnh Đốn đã phải đối diện với nhiều đồng minh địa phương bất phục tùng hay không còn thích hợp, nhất là trong vùng Trung Đông chiến lược. Chẳng hạn, giữa năm 2009, đại sứ Mỹ ở Tunisia đã phúc trình: Tổng Thống Ben Ali và chế độ của ông đã mất hết hậu thuẩn trong quần chúng, chỉ hoàn toàn dựa vào lực lượng cảnh sát để kiểm soát, tệ nạn tham nhũng ngày một lan tràn, và nguy cơ bất ổn dài hạn của chế độ ngày một gia tăng. Tuy vậy, viên đại sứ vẫn khuyến cáo Hoa Thịnh Đốn tránh chỉ trích công khai, thay vào đó, chỉ nên thành thật nêu những tệ nạn trong những phiên họp cao cấp riêng tư - một chính sách không đem lại một cải cách nào trước khi các cuộc biểu tình chống đối lật đổ chế độ 18 tháng sau đó. Cũng tương tự như thế, vào cuối năm 2008, tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Cairo đã âu lo "tình hình dân chủ và nhân quyền ở Ai Cập đang suy sụp."[7] Tuy nhiên, như tòa đại sứ đã thú nhận, "chúng ta không muốn thấy quyền lợi của Hoa Kỳ trong khu vực bị ảnh hưởng tai hại nếu quan hệ Hoa Kỳ-Ai Cập bị suy yếu."[8] Và khi Mubarak viếng thăm Hoa Thịnh Đốn vài tháng sau đó, Tòa Đại Sứ đã thúc dục Tòa Bạch Ốc nên vãn hồi không khí vốn từ lâu nồng ấm trong quan hệ đối tác Mỹ-Ai Cập. Và vì vậy, tháng 6-2009, tức 18 tháng trước ngày Tổng Thống Ai Cập bị lật đổ, Tổng Thống Obama đã khen ngợi vị tổng thống độc tài nhưng cần thiết Mubarak như "một đồng minh kiên quyết ...một lực lượng ổn định và hữu ích trong khu vực."[9] Trong khi cuộc khủng hoảng ở Quảng Trường Tahrir diễn tiến, lãnh tụ đối lập đáng kính Mohamed ElBaradei đã chua chát phàn nàn: Hoa Thịnh Đốn đã đẩy "toàn thể thế giới A Rập vào tình trạng cực đoan với chính sách ủng hộ đàn áp bất thích ứng."[10] ElBaradei nói: sau 40 năm lệ thuộc Mỹ, "Trung Đông là một tập thể các quốc gia thất bại, không đóng góp được gì về nhân văn và khoa học, bởi lẽ người dân được dạy không suy nghĩ hay hành động , và luôn được dành một hệ thống giáo dục thấp kém."[11] Thiếu vắng một cuộc chiến toàn cầu có khả năng quét sạch một đế quốc, sự tuột dốc của một đại cường thường là một quá trình kéo dài, dứt khoảng, đau đớn. Với hai cuộc chiến của Hoa Kỳ ở Iraq và Afghanistan dần dà khép lại một cách không mấy khác thất bại, vốn liếng quốc gia nay đang quằn quại trong khủng hoảng tài chánh, đơn vị tiền tệ mất hết giá trị tín dụng, và các đồng minh lâu ngày lần hồi vun quén quan hệ kinh tế và ngay cả quân sự với Trung Quốc - một quốc gia cạnh tranh. Ngoài ra, hiện nay tưởng còn phải cộng thêm sự khả dĩ đánh mất các đại diện trung thành trong khắp vùng Trung Đông. Trong hơn 50 năm, Hoa Thịnh Đốn đã được một hệ thống quyền lực toàn cầu, xây dựng trên giới quí tộc tay chân trung tín, phụng sự tận tình. Hệ thống nầy đã có lần giúp mở rộng ảnh hưởng của Hoa Kỳ trên khắp thế giới với một trình độ hữu hiệu đáng ngạc nhiên và tương đối ít tốn kém. Tuy nhiên, hiện nay, các đồng minh trung thành lúc một giống một đế quốc các xứ thất bại hay thiếu trung thành. Đã hẳn một sự thoái hóa hay chấm dứt của những dây liên hệ trên một nửa thế kỷ luôn để lại đằng sau một Hoa Thịnh Đốn tơi tả. Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 18-5-2011 -------------------------------------------------------------------------------- [1] ...they should "stop talking so much about democracy" and instead "support dictatorships of he right if their policies are pro-American. [2] ...Dwight Eisenhower interrupted to observe that Humphrey was, in effect, saying, "They 're OK if they're our s.o.b.'s." [3] Condoleezza Rice: For 60 years, the United States pursued stability at the exoense of democracy...in the Middle East, and we achieved neither. [4] If you're looking for a stooge and calling a stooge a partner, no. If you're looking for a partner, yes. [5] ...the fall of the American empire, the decline of a superpower that ruled the world by the dint of its military and economic supremacy. [6] No longer are American ambassadors...received in world capitals as 'high commissioners...[instead they are] tired bureaucrats [who] spend their days listening wearily to their hosts' talking points, never reminding them who is the superpower and who the client state. [7] Egyptian democracy and human rights efforts ..are being suffocated. [8] ...we would not like to contemplate complications for U.S. regional interests should the U.S.-Egyptian bond be seriously weakened. [9] ...as a stalwart ally...a force for stability and good in the region. [10] Washington was pushing "the whole Arab world into radicalization with this inept policy of supporting repression. [11] Mohamed ElBaradei said" After 40 years of U.S. dominion, the Middle East was a collection of failed states that add nothing to humanity or science because people were taught not to think or to act, and were consintentlygiven an inferior education."
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 1, 2011 7:23:20 GMT 9
Biến Động Bắc Phi-Trung Đông và Hoa Kỳ Vietsciences-Nguyễn Trường 31/05/2011 Như động đất, cách mạng rất khó tiên đoán. Nhưng, như mùa xuân, cách mạng luôn đầy hứa hẹn tươi vui. Khởi điểm của cách mạng luôn là một ngạc nhiên, nhưng bản chất không nên để trở thành bất ngờ. CÁCH MẠNG DÂN CHỦ 2011 Cách mạng là một thời kỳ, một tâm trạng. Cũng như mùa xuân luôn có nhiều hoa và nhiều mưa rào, cách mạng luôn sôi nổi, hy vọng, và liên đới. Một số đặc trưng chỉ thoáng qua. Phụ nữ ở Cairo không đi lại tự do giữa công chúng như họ đã đi lại tự do trong ít tuần lễ quí giá khi các quy lệ cũ tạm thời ngưng lại và mọi điều không còn như trước. Ai Cập xưa cũ đã biến đổi. Ý thức của người Ai Cập về chính họ, và cảm nghĩ của chúng ta về họ, đã vĩnh viễn đổi thay. Không một cách mạng nào đi qua mà không để lại dấu vết. Mùa Xuân Prague 1968 đã bị nghiền nát, nhưng 21 năm sau khi đợt sóng cách mạng thứ hai giải phóng Czechoslovakia, Alexander Dubcek, bí thư cải cách của đảng Cộng Sản, đã đem niềm vui trở lại với người dân: "Chính quyền bảo chúng ta đường phố không phải là nơi để giải quyết mọi chuyện, nhưng tôi nói đường phố đã và đang là chính nơi ấy. Tiếng nói của đường phố phải được lắng nghe".[1] Tiếng nói của đường phố đã là tiếng kèn xung trận trong năm 2011. Các bạn đã nghe, mọi người đều nghe, nhưng nhà cầm quyền, vì họ nghĩ quyền lực của họ là quyền lực quan trọng duy nhất, là những người nghe sau cuối và hoảng sợ. Đa số họ hiện đang lo âu, phóng thích tù nhân chính trị, hạ giá thực phẩm, và cùng lúc tìm cách dẹp các cuộc xuống đường. Ba điều ngạc nhiên ghi nhận được trong ba cuộc cách mạng đang dang dở năm nay ở Tunisia, Ai Cập, và Libya, cùng với biến động ở nhiều nơi khác, đã gây rúng động trong giới lãnh đạo từ Saudi Arabia đến TQ, Algeria, Bahrain và Yemen. Các cường quốc Tây phương lấy làm ngạc nhiên khi thế giới A Rập, thường được mô tả như những xã hội trung cổ, nhiều đẳng cấp tôn ti và thiếu dân chủ, giờ đây lại đầy những trai trẻ nam nữ dùng điện thoại di động, mạng internet, và ngay chính mạng sống của mình trên các đường phố và quảng trường, để cổ súy đổi thay như một phép lạ của dân chủ trực tiếp và uy lực quần chúng. Một ngạc nhiên khác là các chế độ tưởng chừng khó lay chuyển của các lãnh đạo độc tài đã bị vỡ tan thành mảnh vụn. Và cuối cùng, một ngạc nhiên thứ ba: Tại sao bây giờ? Tại sao đám đông lại quyết định tấn công thành Bastille vào ngày 14-7-1789, mà không phải một ngày nào khác? Đã hẳn, nạn đói ở Pháp và giá thực phẩm tăng cao vào năm đó đã là một nguyên do, cũng như nạn đói và nghèo khó là một trong số các nguyên do của các cuộc trổi dậy ở Trung Đông ngày nay, nhưng một phần của câu trả lời vẫn còn là một bí ẩn. Tại sao ngày hôm nay mà không phải tháng trước hay một thập kỷ sau? Hay không bao giờ, thay vì hiện nay? Oscar Wilde có lần đã nhận xét, "Chờ đợi điều không chờ đợi chứng tỏ là một trí thức tân thời "[2]. Chính sự thiếu chắc chắn sâu xa là nền tảng của hy vọng. Người ta thường nói, nhận thức hậu nghiệm luôn sáng suốt 20/20, và bạn có thể kể nhiều chuyện và tất cả đều hợp lý. Một thanh niên có bằng cấp đại học, Mohammed Bouazizi, không kiếm được việc gì khác hơn là đẩy xe trái cây bán rong trên đường phố, uất ức bởi cách xử lý của một nữ cảnh sát, đã tự thiêu ngày 17-12-2010. Hai tuần sau, cái chết của anh đã trở thành que diêm khởi đầu biến động ở Tunisia. Nhưng tại sao cái chết của anh? Hay tại sao cái chết của Khaled Said, một thanh niên Ai Cập tố cáo nạn tham nhũng của cảnh sát, và vì vậy, đã bị đánh chết? Tên anh đã trở thành tên một trang mạng Facebook "Tất cả chúng ta đều là Khaled Said"[3], và cái chết của anh cũng đã là một nguyên nhân biến động sau đó. Nhưng đúng vào lúc nào những sự ngược đãi, nhũng lạm, từ lâu đều được bỏ qua, lại bất thần trở nên không thể tha thứ? Đến lúc nào nổi sợ hãi mới tan biến và trở thành căm hận đưa đến hành động đem lại tươi vui? Xét cho cùng, Tunisia và Ai Cập từ lâu đã không thiếu những thảm trạng không thể tha thứ trước khi Bouazizi tự thiêu và Said bị sát hại. Hòa Thượng Thích Quảng Đức đã tự thiêu tại một ngã tư đường phố Sài Gòn ngày 11-6-1963, để phản đối các hành động đàn áp Phật giáo của chính quyền Nam Việt Nam do Mỹ bảo trợ. Phong thái điềm tỉnh của ngài trong ngọn lửa, cả thế giới đã chứng kiến, rất có thể đã giúp đem lại cuộc đảo chánh quân sự, nhưng không nhất thiết là một sự giải phóng, sáu tháng sau đó. Từ biến cố đó đến những biến cố hiện nay, nhiều người trên thế giới đã tuyệt thực, cầu nguyện, phản đối, vào tù, và chịu chết, để lưu ý nhân loại đến những chế độ tàn nhẫn, với rất ít hiệu quả. SÚNG ĐẠN VÀ CÁNH BƯỚM Nhiệt độ để nước sôi rất rõ ràng, nhưng điểm sôi sục của xã hội lại bí ẩn. Cái chết của Bouazizi là một xúc tác, và tại tang lễ của anh, trên 5.000 người đã hát: "Vĩnh biệt Mohammed, chúng tôi sẽ trả thù cho anh. Chúng tôi khóc anh hôm nay, chúng tôi sẽ làm cho những ai đã gây ra cái chết của anh phải khóc."[4] Tuy nhiên, Mohammed không phải là người Tunisia đầu tiên tố cáo. Một thanh niên trẻ hơn, một nghệ sĩ nhạc Rap tự gọi mình là El General, đã truy cập một bài ca về sự ghê rợn của nghèo khó và bất công trong một xứ, và như tờ The Guardian diễn tả, "trong vòng vài tiếng đồng hồ, bài ca đã thắp sáng một chân trời ảm đạm và ghê hồn như một bom lửa"[5] hay như một bình minh mới. Người nghệ sĩ bị bắt và bị thẩm vấn trong ba ngày liền, và rồi được phóng thích nhờ ở làn sóng phản đối. Trước anh ta, cũng đã có một trường hợp tương tự. Một thanh niên trẻ đã bị đối xử vô nhân đạo. Và bên sau sự trổi dậy ở Ai Cập là sự đoàn kết của nhiều nhà hoạt động xã hội và nhiều cá nhân đầy sức lôi cuốn. Đây là năm quan trọng cho quyền lực của những người thấp cổ bé miệng, và cho lòng can đảm và ý chí của giới trẻ. Một thanh niên hiền lành non trẻ hơn cả Bouazizi đã bị biệt giam trong những điều kiện vô cùng dã man của nhà tù thủy quân lục chiến ở Quantico, Virginia, trong nhiều tháng. Anh đã bị cáo buộc trao hàng trăm nghìn tài liệu mật cho WikiLeaks, tiết lộ một số hoạt động ngoại giao và quân sự ghê tởm của Hoa Kỳ. Bradley Manning, một binh sĩ 22 tuổi đồn trú ở Iraq đã bị giam giữ trong mùa xuân vừa qua. Hành động của anh đã làm thay đổi bối cảnh chính trị toàn cầu và nhen nhúm sự căm thù ở Trung Đông. Như một tiêu đề trên tạp chí Foreign Policy, "Trong một hành động đột nhiên, sự trắng trợn của những công điện do WikiLeaks công bố đã ảnh hưởng đến tình hình dân chủ A Rập hơn cả nhiều thập kỷ hoạt động ngoại giao trong hậu trường"[6]. Một trong số nhiều câu chuyện các công điện tiết lộ là Hoa Kỳ sẽ không tiếp tục hậu thuẩn đến cùng nhà độc tài Tunisia Ben Ali, và nạn tham nhũng của chế độ Tunisia là điều mọi người đều biết. Martin Luther King và Câu Chuyện Montgomery, một chuyện vui năm 1958, về cuộc tranh đấu Dân Quyền ở miền Nam nước Mỹ và sức mạnh của bất bạo động, đã được Hội Đồng Hồi Giáo Hoa Kỳ (American Islamic Council - AIC) chuyển dịch và phổ biến trong thế giới A Rập năm 2008 và được công nhận đã ảnh hưởng đến các biến động 2011. Như vậy, AIC cũng đã giữ một vai trò nhưng không được dân biểu chống Hồi Giáo Peter King điều tra trong những cuộc điều trần về sự kiện "cực đoan của người Hồi Giáo ở Mỹ"[7]. Bên sau Martin Luther King là những bài học chính ông đã học được từ Manhandas Gandhi với phong trào giải phóng Ấn Độ khỏi ách thống trị của thực dân 66 năm trước đây, và như vậy, câu chuyện đang trở về với phương Đông. Lần theo sự rò rĩ gần đây, chúng ta còn thấy một chuổi sự kiện tương tự. WikiLeaks, Facebook, Twitter và nhiều cơ quan truyền thông mới đều có góp phần vào những biến động 2011. Asmaa Mahfouz, một phụ nữ trẻ Ai Cập đã bị giam giữ vì sử dụng mạng Internet để tổ chức cuộc nổi dậy ngày 6-4-2008, để hổ trợ các công nhân đình công. Với lòng can đảm đáng ngạc nhiên, cô đã cho lên mạng Facebook ngày 18-01-2011 một phóng sự video về chính cô. Trong video, cô nhìn thẳng vào ống kính và nói, với một giọng đầy tin tưởng: "Bốn người Ai Cập đã tự thiêu để phản kháng sự nhục nhã và đói khát và mất nhân cách, họ đã phải trải nghiệm, trong 30 năm. Bốn người Ai Cập đã tự thiêu nghĩ rằng chúng ta có thể có một cuộc cách mạng như Tunisia, chúng ta có thể có tự do, công lý, danh dự, và nhân cách. Ngày hôm nay, một trong bốn người đó đã hy sinh, và tôi thấy vài người bình phẩm và nói, 'Mong Thượng Đế tha tội cho anh ta. Anh ta đã phạm tội ác và đã tự giết một cách vô ích'. Hởi các người , nên biết xấu hổ."[8] Mahfouz mô tả cuộc biểu tình trước đó, với rất ít người tham dự: "Tôi cho lên mạng: Tôi, một cô bé, sẽ đến Quảng Trường Tahrir, và tôi sẽ một mình đứng lên. Tôi sẽ dương cao biểu ngữ. Có lẽ nhiều người sẽ chứng tỏ ít nhiều danh dự. Nhưng không có ai ngoại trừ ba người - ba người và ba xe bọc thép của cảnh sát chống biểu tình. Và hàng chục tên đâm thuê chém mướn và quan chức đến để khủng bố chúng tôi."[9] Mahfouz lại kêu gọi tập họp ở Quảng Trường Tahrir ngày 25-01-2011, sau đó đã trở thành Ngày Cách Mạng của Ai Cập. Đây là lần thứ hai và cô đã không đứng một mình. 85.000 người Ai Cập đã cam kết tham dự, và chẳng bao lâu, hàng triệu người cùng đứng lên với cô. Cuộc cách mạng đã mở đầu bởi một cô gái trẻ với không gì khác hơn là một trang Facebook và một niềm tin mãnh liệt. Thế là đủ. Đôi khi, cách mạng chỉ có những khởi đầu khiêm tốn như thế. Ngày 05-10-1789, một cô gái mang theo chiếc trống đến các chợ ở trung tâm Paris. Cuộc tấn công ồ ạt vào nhà tù Bastille đã bắt đầu cuộc cách mạng vài tháng trước đó, nhưng còn nhiều khó khăn trước khi hoàn thành. Cô gái đánh trống đã giúp vận động một đám đông vài nghìn người, phần lớn là phụ nữ, đổ về Điện Versailles và bắt giữ trọn hoàng gia. Và đó là ngày cuối của Đế Chế Bourbon. Phụ nữ thường giữ một vai trò quan trọng trong cách mạng, chỉ vì mọi quy luật đều sụp đổ và mọi người đều có tác động, và bất cứ ai cũng có thể hành động. Như họ đã minh chứng ở Ai Cập: lãnh đạo quần chúng là một cô gái trẻ hăng say trong chiếc khăn choàng đầu màu đen. Tóm tắt một lý thuyết về hỗn loạn - một con bướm vỗ cánh ở Brazil có thể định hình thời tiết ở Texas - ngày nay đã trở thành một cliche' thường được nhắc lại. Nhưng hàng tỉ con bướm trên địa cầu vỗ cánh. Tại sao một cử chỉ nào đó lại quan trọng hơn một cử chỉ khác? Tại sao công bố trên Facebook nầy hay cô gái với cái trống kia? Để trả lời câu hỏi, chúng ta nên nhớ bên sau những nguyên nhân là nhiều nguyên nhân khác. Điểm cốt yếu không phải quan hệ nhân quả luôn khó tiên đoán hay thất thường. Điều cốt yếu là những cô gái với khăn choàng đầu và một gã hát nhạc 'Rap' tiếng A Rập và chính bạn, nếu bạn muốn, đôi khi cũng có uy lực đủ lớn để lật đổ một nhà độc tài, để thay đổi thế giới. NHIỀU CÁ NHÂN VÀ NHIỀU NGƯỜI KHÁC 2011 đã là một năm đáng ghi nhớ với một đức tính đặc trưng xuất hiện và tái xuất hiện trong nhiều nơi khác nhau. Đức tính đặc trưng vừa nói có lẽ đã được phô bày lần đầu với vụ ám hại dân biểu Gabrielle Giffords ở Tucson, Arizona, ngày 8-01-2011, khi thủ phạm đơn độc gặp phải phản ứng nhanh chóng của vài nhân chứng. Một nhân viên tập sự của chính Giffords, Daniel Martinez mới 20 tuổi, sau đó, đã phát biểu: "Có lẽ không phải là ý nghĩ tốt nhất khi chạy tới chỗ súng nổ. Nhưng nhiều người cần được giúp."[10] Martinez đến bên cạnh nữ dân biểu và có lẽ đã kịp thời cấp cứu bà, trong khi Patricia Maisch, 61 tuổi, đã nhanh tay giật lấy băng đạn không cho hung thủ kịp lắp vào súng; Bill Badger, 74 tuổi, đã giúp quật ngã hung thủ, mặc dù đã bị đạn sướt; một cụ già đã chết khi bảo vệ vợ thay vì chính bản thân. Mọi việc bất thần thay đổi và tất cả đã phản ứng tức khắc một cách vị tha và anh dũng, không phải sau nhiều giờ, nhiều ngày, hay nhiều tuần lễ một cuộc cách mạng thường đem lại, mà chỉ trong khoảnh khắc giây lát. Nhiều hành động can đảm và tương trợ liên tục đã đem lại cách mạng. Người ta sẵn sàng liều mình và chết vì lý tưởng, vì người khác, vì nhau. Và khi giết hại họ, nhà cầm quyền hay chế độ có thể đã tự mình diệt trọn tính chính đáng. Bạo lực hình như luôn là hình thức độc tài tệ hại nhất, tước đoạt mọi dân quyền, kể cả quyền sống. Phần còn lại của năm 2011 vẫn dưới áp lực cuộc chiến chống chuyên chế - giết hại nhiều sinh linh và là nguyên nhân gây nghèo khó và mất nhân phẩm từ Bahrain đến Madison, Wisconsin. Vâng, ngay cả Madison. Một số bình luận gia và học giả tự hỏi có thể nào cách mạng dân chủ cũng bùng nổ ở Hoa Kỳ như đã bùng nổ ở một số quốc gia Bắc Phi và Trung Đông? Quảng trường công cộng và tinh thần Argentina hay Ai Cập thường thiếu vắng ở Mỹ, vì những gì thay đổi trong cách mạng phần lớn là tinh thần, cảm xúc, niềm tin - những thứ vô hình, trừu tượng, tế nhị, mong manh như cánh bướm. Nhưng thế giới của chúng ta là do những thứ ấy tạo thành. Những thứ đó rất quan trọng. Các vị thống đốc các tiểu bang ở Mỹ cầm quyền với sự đồng tình của người dân. Một khi mất đi sự đồng tình, họ thường dùng bạo lực, một khí giới có thể trực tiếp chận đứng một số người, nhưng nhằm chận đứng nhiều người, qua sức mạnh của sợ hãi. Và rồi đôi khi một thanh niên trẻ tuổi không còn sợ hãi, đủ để đăng lên mạng một bài ca tấn công nhà độc tài đã cai trị suốt thời trai trẻ của anh. Hay dân chúng ký vào Hiến Chương 77, tài liệu của Cộng Hòa Czech, cột mốc đánh dấu các cuộc cách mạng năm 1989, cũng như tố cáo sự quấy nhiễu ban nhạc Rock bí mật mang tên Người Nhựa của Hoàn Vũ (Plastic People of the Universe). Hay một nhóm trong bọn họ đã thiết lập một nghiệp đoàn lao động ở Gdansk, Ba Lan, năm 1980. Và một vết rạn nứt trong Đế Quốc Xô Viết. Những kẻ không sợ hãi thường bất trị, ít ra bởi sợ hãi, một dụng cụ ưa thích dưới kỷ nguyên George W. Bush. Jonathan Schell, với cái nhìn xuyên suốt thường lệ, đã thấy điều nầy khi viết về cuộc trổi dậy ở Quảng Trường Tahrir: "Sát hại 300 người, có thể như vậy, là biến cố đã quyết định sự sụp đổ của Mubarak. Khi người dân sợ hãi, tàn sát làm họ trốn chạy. Nhưng khi không còn sợ hãi, tàn sát sẽ có hậu quả trái ngược và đem lại cho người dân lòng can đảm. Thay vì sợ sệt, họ cảm nhận tình liên đới. Lúc đó họ đứng tại chỗ - và tiến tới. Không có sự liên đới nào giống sự liên đới với người chết. Và đó là chất keo làm nên cách mạng"[11]. Khi một cuộc cách mạng bùng dậy, người dân bất thần tự cảm thấy mình đã thay đổi - về tinh thần và về dân tộc. Các quy lệ đều ngưng lại, và người dân dốc lòng cùng nhau can dự hay dấn thân trong nhiều phương cách mới, và khai triển một ý thức mới về quyền lực và tiềm năng khả dĩ. Họ ứng xử với bao dung và vị tha; họ cảm thấy họ có thể tự xữ lý; và trong nhiều cách, chính quyền đơn thuần không còn hiện diện. Một vài ngày sau cách mạng Ai Cập, Ben Wedeman, phóng viên kỳ cựu của CNN ở Cairo, được hỏi:" tại sao tình hình lại lắng dịu ở thủ đô Ai Cập?" Wedeman trả lời: "Tình hình lắng dịu vì không còn chính quyền ở đây"[12], nói rõ các lực lượng an ninh đơn thuần đã biến khỏi đường phố. Hình như chính quyền tốt nhất là chính quyền những lúc nầy khi các tổ chức dân sự lo toan mọi việc với tinh thần đầy hy vọng, đoàn kết, và cảm hứng. Ở Ai Cập, bạo động đã xẩy ra khắp nơi khi dân chúng đẩy lùi các tên khủng bố của chính quyền, và cả tuần lễ tin tức không gì khác hơn hình ảnh những người biểu tình, thân thể đầy máu me. Tuy vậy, không quân đội đàn áp, không vũ khí quyết định vận mệnh của xứ sở, không ai bị đẩy khỏi chính quyền. Dân chúng tập trung ở những nơi công cộng như những tổ chức dân sự. Họ đã khám phá: đàn áp hay bóc lột, họ đã chịu đựng lâu nay, không còn có thể tha thứ, và họ có thể làm một cái gì đó, ngay cả chỉ tụ họp bên nhau , đòi hỏi quyền của quần chúng, của dân tộc . Điều đáng ghi nhận, trong những xứ Bắc Phi và Trung Đông, người dân không còn tin tưởng ở chế độ thống trị họ, như người Mỹ gốc Phi châu ở miền Nam Hoa Kỳ 50 năm trước đây. Ngừng tin có nghĩa không còn xem những người cầm quyền cai trị là chính đáng, và vì vậy, không còn nể sợ họ, hay kính trọng họ. Và lúc đó, chính quyền bắt đầu sụp đổ như một phép lạ. Ở Phi Luật Tân, năm 1986, hàng triệu người tập trung theo lời kêu gọi của Radio Veritas của Cơ Đốc Giáo, tiếng nói duy nhất không bị chính quyền kiểm soát hay đóng cữa. Sau đó, quân đội đào ngũ và nhà độc tài Fernando Marcos bị lật đổ sau 21 năm trị vì. Ở Argentina năm 2001, sau suy thoái kinh tế trầm trọng, một thay đổi đột ngột trong tâm thức đã lật đổ chế độ tân tự do của Fernando de la Rua' và nhường chỗ cho kỷ nguyên cách mạng phát xuất từ tuyệt vọng kinh tế, nhưng rồi được canh tân sâu rộng và xuất sắc. Một chuyển dịch trong tâm thức đã khiến công dân ùa ra đường phố Buenos Aires, đột nhiên không còn sợ hãi sau cơn ác mộng dài lâu của một chế độ quân sự và tai họa của nó. Ở Iceland vào đầu năm 2009, tiếp theo sau suy thoái kinh tế toàn cầu, quần chúng, thường hiền hòa trên quốc gia hải đảo nhỏ bé, đã truất phế đảng cầm quyền vì đã đưa xứ sở vào tình trạng phá sản.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 1, 2011 7:24:44 GMT 9
KHÔNG THỂ XẨY RA Ở MỸ?
Ở Hoa Kỳ, sự cảm thông giữa người dân, cấp thống trị và xã hội dân sự, thường thiếu vắng. Đây là một xứ rộng lớn. Thủ đô không hẳn đã là một trung tâm; và đa số hình như sinh sống trong nhiều nơi chốn phân tán.
Cách mạng quá lắm cũng chỉ là một hiện tượng đô thị. Ngoại ô tự nó đã là phản cách mạng. Để có cách mạng, người ta cần hội tụ, cần sống trong một không gian công cộng, trở thành con người công cộng. Nói một cách khác, cách mạng là một hiện tượng địa lý cũng như chính trị. Lịch sử cách mạng là lịch sử của những không gian công cộng: Place de la Concorde trong cách mạng Pháp; Ramblas ở Barcelona trong Spanish Civil War (Cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha); Thiên An Môn ở Bắc Kinh năm 1989 (một cuộc nổi dậy bị nghiền nát); Bức Tường Bá Linh năm 1989; sự trổi dậy chiếm đóng Zocalo ở Mexico City sau những cuộc bầu cử tổng thống gian lận ; không gian ở Buenos Aires đã đem lại cái tên cho phe đối lập công khai trong cuộc chiến Dirty War: La Madras de la Plaza de Mayo, the Mothers of the Plaza of May.
Hoa Kỳ rất xuất sắc trong chiến thuật "tầm thường hóa và thái độ tảng lờ" đối với các cuộc trổi dậy trong quốc nội.
Nhà cầm quyền đã rúng động trước làn sóng phản kháng ở Seattle, chận đứng Hội Nghị Thượng Đỉnh của Tổ CHức Thương Mãi Thế Giới 30-11-1999. Tuy nhiên, phong trào phản kháng thực sự bất bạo động ở Seattle đã nhanh chóng bị hư cấu hoá thành câu chuyện một đám đông bạo động.
Năm 1968, tiểu thuyết gia và phóng viên báo New Yorker, Mavis Gallant, đã viết:
"Sự khác biệt giữa sự nổi loạn ở [Đại Học] Columbia và sự nổi loạn ở Sorbonne chỉ ở chỗ: Đời sống ở Manhattan vẫn tiếp diễn bình thường như trước, trong khi ở Paris mọi thành phần xã hội đều sôi sục trong vòng một vài ngày. Ảo giác tập thể là đời sống có thể thay đổi, khá bất thần và tốt hơn. Điều đó vẫn gây ấn tượng nơi tôi như một ước ao cao thượng..."[13]
Cách mạng cũng là hành động của người dân bị xô đẩy đến bờ vực thẳm. Thay vì chịu rơi xuống vực, họ quây đầu chống lại. Khi Thống Đốc Wisconsin Scott Walker quyết định trấn áp các công nhân viên nhà nước và tước đoạt quyền thương nghị tập thể của họ, ông ta đã khởi đầu một trò chơi nguy hiểm. Để đáp lại, thành viên các công đoàn, công nhân viên nhà nước, và cả người dân Wisconsin, đã tập hợp và liên kết ngày 11-2-2011. Vào ngày 15-2, họ đã chiếm trụ sở Quốc Hội Tiểu Bang trong khi cách mạng ở Ai Cập vẫn còn sôi sục. Họ vẫn còn tập hợp. Vào đầu tháng 3-2011, cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử Wisconsin đã được tổ chức với đoàn máy cày của nông dân dẫn đầu hộ tống. Các lính chữa lửa của Wisconsin cũng trổi dậy tham gia. Rồi nhân viên các thư viện. Và phản ứng lan tràn đã khuyến khích dân chúng các tiểu bang khác trổi dậy chống đối các biện pháp cắt xén các dịch vụ xã hội và quyền lợi cơ bản của giới lao động nghèo.
Các đảng viên Cộng Hòa thích lên án mọi người với tội danh đấu tranh giai cấp khi thảo luận vấn đề bất công kinh tế, và đó là một sự bôi nhọ cần được phản kháng. Nhưng những gì đang xẩy ra ở Wisconsin là cuộc chiến giai cấp, trong đó Walker được giới tỉ phú hậu thuẩn đang phụng sự quyền lợi của các đại công ty và giới tỉ phú, và lần nầy không ai còn sợ sệt bởi tỉnh từ hay tên gọi đấu tranh giai cấp.
Các chuyện đùa, và các biếm họa chính trị của báo chí, cũng như những bài tiểu luận ... bàn về thực tế chống đối chính sách kinh tế rò rĩ từ trên xuống (anti-trickle-down economy) của Hoa Kỳ, nơi tài sản được bơm lên những lâu đài cung điện với nhịp nhanh chóng. Và trong thực tế, người Mỹ không nghèo đói, họ chỉ khùng điên trong phương cách phân phối tài nguyên: chỉ một phần trăm giàu có nhất -1% dân số - đang chiếm hữu trên dưới 24% lợi tức quốc gia.
Đây là điều đáng sợ, là một thử thách: liệu một chính đảng phục vụ các đại công ty hữu hiệu nhất có thể tước đoạt quyền hạn của người dân và xô đẩy họ vào tình cảnh nghèo khó và mất hết quyền hạn. Nếu quần chúng tập họp ở Madison không thành công, cuộc chiến sẽ tiếp tục và tất cả mọi người sẽ thất bại.
Cho đến một lúc nào đó, biện pháp áp bức thường hữu hiệu. Và sau đó, nó sẽ đưa tới tác dụng trái ngược. Đôi khi tức thì, đôi khi sau vài thập kỷ. Walker đã được gán tên lóng Mubarak của vùng Trung Tây.
Phần lớn sự trổi dậy và thịnh nộ ở Trung Đông không phải chỉ vì chuyên chế. Nó còn vì bất công kinh tế, người trẻ không kiếm được việc làm, không thể lập gia đình hay để cha mẹ không ai săn sóc, không thể bắt đầu đời sống...
Đây cũng là câu chuyện của người Mỹ trẻ tuổi, và đây rõ ràng cũng là câu trả lời cho việc phân phối lợi tức sai lầm, không phải vì khan hiếm tuyệt đối. Nó có thể rất bi đát, hay cũng có thể là cơ hội để giới trẻ hiểu được họ đang bị xúc phạm, và đời sống có thể khác hơn. Ngay cả điều nầy rất có thể bất thần thay đổi, và thay đổi để tốt hơn.
Người Mỹ đang chứng kiến một tình trạng bức xúc gay gắt tiếp theo sau đại suy thoái 2008: Căm hận giới lãnh đạo kinh tế tham lam, căm hận cả hệ thống, căm hận trước cảnh khổ đau vô cớ của các nạn nhân bị tịch biên nhà ở và bị mất việc làm. Ở Hoa Kỳ, tình trạng bất bình đẳng kinh tế đã đạt đến mức chưa từng thấy từ sau Đại Khủng Hoảng 1929.
Thời buổi khó khăn đang chờ đợi hầu hết mọi người khắp trên hành tinh, và đây cũng có thể là thời điểm đòi hỏi sự can đảm bạo dạn.
Vì vậy, nên ghi nhớ chờ đợi những điều không chờ đợi, nhưng không chỉ có chờ. Đôi khi bạn phải trở thành chính điều không chờ đợi, như những nam nữ anh hùng của thời đại 2011. Chính những người trẻ tuổi cũng bất ngờ như bất cứ ai. Như chính Asmaa Mahfouz đã nói: "Chừng nào bạn nói không còn hy vọng, lúc đó sẽ không có hy vọng, nhưng nếu bạn xuống đường và chọn một lập trường, lúc đó sẽ có hy vọng."[14]
-------------------------------------------------------------------------------- [1] The government is telling us that the street is not the place for things to be solved, but I say the street was and is the place. The voice of the street must be heard.
[2] To expect the unexpected shows a thorougly modern intellect.
[3] We are all Khaled Said.
[4] Farewell, Mohammed, we will avenge you. We weep for you today, we will make those who caused your death weep.
[5] ...within hours, the song had lit up the bleak and fearful horizon like an incendiary bomb.
[6] In one fell swoop, the candor of the cables released by WikiLeaks did more for Arab democracy than decades of backstage U.S. diplomacy.
[7] ...radicalization of Muslims in America.
[8] Four Egyptians have set themselves on fire to protest humiliation and hunger and poverty and degradation they had to live for 30 years. Four Egyptians have set themselves on fire thinking maybe we can have a revolution like Tunisia, maybe we can have freedom, justice, honor, and human dignity. Today, one of these four has died, and I saw people commenting and saying, 'May God forgive him. He committed a sin and killed himself for nothing.'People, have some shame.
[9] I posted that I, a girl, am going down to Tahrir Square, and I will stand alone. And I'll hold up a banner. Perhaps people will show some honor. No one came except three guys - three guys and three armored cars of riot police. And tens of hired thugs and officers came to terrorize us.
[10] It was probably not the best idea to run toward the gunshots. But people need help.
[11] The murder of the 300 people, it may be, was the event that sealed Mubarak's doom. When people are afraid, murders make them take flight. But when they throw off fear, murders have the opposite effect and make them bold. Instead of fear, they feel solidarity. Then they 'stay' - and advance. And there is no solidarity like solidarity with the dead. That is the stuff of which revolution is made.
[12] Things have calmed down because there is no government here.
[13] The difference between rebellion at Columbia [University] and rebellion at the Sorbonne is that life in Manhattan went on as before, while in Paris every section of society was set on fire, in the space of a few days. The collective hallucination was that life can change, quite suddenly and for the better. It still strikes me as a noble desire.
[14] As long as you say there is no hope, then there will be no hope, but if you go down and take a stance, then there will be hope.
Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 20-4-2011
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 24, 2011 4:48:53 GMT 9
Ai làm chủ thế giới / Thế giới quan của Hoa Kỳ Vietsciences- Nguyễn Trường TỪ THẾ GIỚI A RẬP ĐẾN WISCONSIN Sự trỗi dậy của phong trào dân chủ trong thế giới A Rập - một biểu tượng dấn thân can đảm và ngoạn mục của lực lượng quần chúng - bất ngờ trùng hợp với sự trỗi dậy đáng ngạc nhiên của hàng chục nghìn người ủng hộ giới lao động và dân chủ ở Madison, Wisconsin, và nhiều thành phố khác ở Mỹ. Tuy nhiên nếu quỹ đạo hai phong trào chống đối ở Cairo và Madison gặp nhau, hai phong trào lại theo hai hướng đi trái ngược: Ở Cairo, mục tiêu là giành các nhân quyền sơ đẳng bị chế độ độc tài chối bỏ, ở Madison lại nhằm bảo vệ những quyền lợi đã giành được sau nhiều năm tranh đấu cam go và nay đang bị tấn công nghiêm trọng. Mỗi phong trào là một thế giới vi mô các xu thế xã hội toàn cầu, dõi theo hai hướng khác nhau. Đã hẳn cả hai sẽ mang lại nhiều hậu quả lớn lao: một trong trung tâm kỹ nghệ suy sụp của một xứ giàu có và hùng mạnh nhất trong lịch sử nhân loại; và một trong "vùng chiến lược kỳ diệu và có lẽ là phần thưởng kinh tế phong phú nhất thế giới trong địa hạt đầu tư nước ngoài,"[1] như T T Dwight Eisenhower đã từng gọi, hay, theo ngôn từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ trong thập kỷ 1940, một phần thưởng nước Mỹ nhất định phải chiếm giữ cho chính mình và đồng minh trong Trật Tự Thế Giới Mới đang diễn ra vào thời đó. Cho đến nay, chúng ta vẫn có đủ lý do để tin, các nhà làm chính sách, trong căn bản, vẫn tuân theo phán đoán của A.A. Berle, cố vấn thân cận của T T Franklin Delano Roosevelt: kiểm soát tiềm năng năng lượng vô song ở Trung Đông có nghĩa "kiểm soát được phần lớn thế giới".[2] Điều đó cũng có nghĩa: đánh mất quyền kiểm soát có thể đe dọa dự án thống lĩnh toàn cầu đã ra đời trong Đệ Nhị Thế Chiến, và luôn được duy trì và củng cố trước nhiều đổi thay quan trọng trên thế giới. Ngay từ ngày đầu của Đệ Nhị Thế Chiến năm 1939, Hoa Thịnh Đốn đã tiên liệu chiến tranh sẽ chấm dứt với Hoa Kỳ giữ địa vị cường quốc áp đảo. Suốt trong thời gian cuộc chiến tiếp diễn, các quan chức cao cấp của Bộ Ngoại Giao và các chuyên gia đối ngoại đã sọan thảo các kế hoạch cho thế giới thời hậu chiến. Họ đã hoạch định Khu Vực Rộng Lớn -Grand Area, Hoa Kỳ sẽ thống lĩnh, gồm Tây Bán Cầu, Viễn Đông, và các vùng nguyên thuộc đế quốc Anh, và giàu tài nguyên năng lượng ở Trung Đông. Trong khi Nga bắt đầu đánh bại quân Đức Quốc Xã sau Stalingrad, đối tượng của Grand Area đã được nới rộng đến nhiều nơi trong hai châu lục Âu-Á (Eurasia), ít ra trong vùng kinh tế cốt lõi Tây Âu. Bên trong Grand Area, Hoa Kỳ sẽ duy trì "quyền lực vô điều kiện", với "bá quyền kinh tế và quân sự", trong khi làm mọi cách "hạn chế cách hành xử quyền tối thượng" của các quốc gia khác có thể gây khó khăn cho kế hoạch toàn cầu của Mỹ. Ngay sau đó, các kế hoạch thời chiến đã được thực thi. Người Mỹ luôn tin Âu châu có thể chọn lựa theo đuổi một đường lối độc lập. NATO ra đời một phần nhằm ngăn chận đe dọa đó. Ngay sau khi lý do biểu kiến chính thức mất hết hiệu lực vào năm 1989, NATO đã được mở rộng về phía Đông - vi phạm những cam kết với lãnh tụ Xô Viết Mikhail Gorbachev. Từ đó, NATO đã trở thành lực lượng can thiệp do Mỹ lãnh đạo, với pham vị hoạt động rộng lớn hơn. Và Tổng Thư Ký NATO, Jaap de Hoop Scheffer, đã thông báo trong một hội nghị: "lực lượng quân sự NATO có nhiệm vụ bảo đảm an ninh các tuyến dẫn dầu và hơi đốt cho các xứ Tây Phương," và nói chung, phải bảo vệ các tuyến đường hàng hải cho các tàu dầu và các "hạ tầng cơ sở quan trọng khác" của hệ thống năng lượng[3]. Chủ thuyết Grand Area rõ ràng đã cho phép can thiệp quân sự khi cần. Kết luận đó đã được chính quyền Clinton chính thức diễn dịch khi tuyên bố: Hoa Kỳ có quyền sử dụng quân lực để bảo đảm khả năng "tự do tiếp cận các thị trường then chốt, các nguồn cung năng lượng, và các tài nguyên chiến lược," và phải duy trì những lực lượng quân sự lớn ngay trong địa bàn Âu châu và Á châu "khả dĩ định hình các ý niệm của dân địa phương về chúng ta và định hình các biến cố ảnh hưởng đến đời sống và an ninh của chúng ta"[4]. Cùng những nguyên tắc đã biện minh cho kế hoạch xâm lăng Iraq. Vì mục tiêu chiến lược ở Iraq đã rõ ràng thất bại, người Mỹ không còn có thể che đậy kế hoạch xâm lược bên sau các chiêu bài và mỹ từ. Tháng 11-2007, Tòa Bạch Ốc đã buộc lòng phải công bố Tuyên Ngôn các Nguyên Tắc đòi hỏi lực lượng quân sự Hoa Kỳ phải lưu lại Iraq vô hạn định và dành đặc quyền ở Iraq cho các nhà đầu tư Mỹ. Hai tháng sau, T T Bush đã thông báo với Quốc hội: ông sẽ bác bỏ mọi dự luật có mục tiêu hạn chế sự đồn trú thường trực các lực lượng quân sự Hoa Kỳ ở Iraq hay "quyền kiểm soát của Mỹ đối với các tài nguyên dầu lửa của Iraq" - những mục tiêu Hoa Kỳ ít nhiều đã phải từ bỏ ngay sau đó trước phong trào kháng chiến kiên cường của người Iraq. Ở Tunisia và Ai Cập, các phong trào trỗi đậy của quần chúng đã ghi được nhiều thắng lợi ấn tượng. Tuy nhiên, theo phúc trình của Carnegie Endowment, trong khi danh tánh các lãnh đạo đã thay đổi, các chế độ vẫn còn y nguyên: "Một thay đổi trong giới thượng lưu lãnh đạo và hệ thống cai trị vẫn còn là một mục tiêu xa vời"[5]. Phúc trình đã thảo luận những trở ngại nội bộ đối với dân chủ, nhưng đã làm ngơ trước các rào cản luôn lớn lao và quan trọng từ bên ngoài. Hoa Kỳ và các đồng minh Tây Phương chắc chắn sẽ làm tất cả những gì có thể để ngăn ngừa dân chủ chân chính trong thế giới A Rập. Để hiểu rõ, chúng ta chỉ cần lưu ý đến công luận trong thế giới A Rập, như đã được các cơ quan thăm dò công luận của chính Hoa Kỳ phản ảnh. Mặc dù chỉ được phổ biến hết sức hạn chế, các nhà hoạch định Mỹ chắc chắn đều am tường: đại đa số người A Rập xem Hoa Kỳ và Do Thái như những đe dọa lớn lao họ đang đối diện - 90% người Ai Cập và 75% trong toàn vùng. Một số ít người A Rập, 10%, xem Iran như một đe dọa. Lập trường chống đối chính sách của Hoa Kỳ mạnh đến nỗi đa số người A Rập, và 80% dân Ai Cập, tin: an ninh sẽ được cải thiện nếu Iran có được vũ khí hạt nhân. Một bách phân tương tự trong nhiều lãnh vực khác. Nếu công luận có thể được phản ảnh trong chính sách, Hoa Kỳ và các đồng minh, không những không thể kiểm soát toàn vùng, mà còn có thể bị trục xuất khỏi thế giới A Rập, phương hại đến các nguyên tắc căn bản thống trị toàn cầu của Mỹ. BÀN TAY VÔ HÌNH Yểm trợ dân chủ là sở trường của các nhà ý thức hệ và tuyên truyền. Trong thế giới thực tế, giới thượng lưu thường chẳng yêu thích dân chủ. Bằng chứng rất hiển nhiên: dân chủ chỉ được hậu thuẫn trong chừng mức đóng góp vào các mục tiêu kinh tế xã hội của Mỹ và các đồng minh - một kết luận chỉ những nghiên cứu nghiêm túc hơn bất đắc dĩ phải thú nhận. Thái độ khinh thường dân chủ của giới thượng lưu đã được biểu lộ một cách bi hài trong phản ứng đối với các tiết lộ của WikiLeaks. Những tiết lộ được chú ý nhiều nhất, với những lời bình lạc quan, là các công điện tường trình người A Rập hậu thuẫn lập trường Hoa Kỳ về Iran. Đó chỉ là thái độ của những nhà cầm quyền độc tài trong khu vực. Thái độ của quần chúng không hề được nhắc tới. Nguyên tắc chỉ đạo được diễn tả bởi chuyên viên Trung Đông Marwan Muasher thuộc Carnegie Endowment, nguyên một viên chức cao cấp của chính quyền Jordan: " Chẳng có gì sai, mọi sự đều trong vòng kiểm soát."[6] Tóm lại, nếu giành được hậu thuẫn của các lãnh đạo độc tài, chẳng còn gì khác quan trọng để phải âu lo. Chủ thuyết Muasher là duy lý và đáng kính. Chỉ cần ghi lại một trường hợp rất thích ứng, trong thảo luận nội bộ năm 1958, T T Eisenhower đã tỏ ra quan tâm đến "chiến dịch căm thù" (the campaign of hatred) đối với người Mỹ trong thế giới A Rập, không phải bởi chính quyền, mà bởi chính người dân. Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (NSC) đã giải thích: trong thế giới A Rập, người ta có nhận thức Hoa Kỳ hỗ trợ các chế độ độc tài và ngăn chận dân chủ và phát triển, nhằm bảo đảm quyền kiểm soát các tài nguyên trong vùng. Hơn nữa, NSC kết luận, nhận thức trong căn bản là đúng, và đó là "điều chúng ta nên làm", căn cứ trên chủ thuyết Muasher. Các nghiên cứu của Ngũ Giác Đài sau sự kiện 11-9 cũng đã xác nhận cùng thực tế hiện nay. Kẻ thắng thường ném lịch sử vào sọt rác và nạn nhân luôn đọc lịch sử nghiêm túc. Thái độ đó là thường tình. Có lẽ một vài nhận xét về vấn đề quan trọng nầy có thể hữu ích. Ngày nay không phải là lần đầu Ai Cập và Hoa Kỳ cùng đối diện nhiều vấn đề tương tự, nhưng theo hướng đối nghịch. Điều nầy cũng đúng vào đầu thế kỷ 19. Các sử gia kinh tế đã đưa ra luận cứ: Ai Cập trước đây cũng đã ở trong vị trí khá thuận lợi để phát triển kinh tế nhanh chóng như Hoa Kỳ. Cả hai đều giàu , kể cả bông vải, nhiên liệu của cách mạng kỹ nghệ thời đó - mặc dù khác với Ai Cập, Hoa Kỳ đã phát triển ngành sản xuất bông vải và lực lượng lao động bằng các chính sách chinh phục, tàn sát, và nô lệ, với hậu quả rất hiển nhiên hiện nay trong những vùng dành riêng cho những người còn sống sót và trong các nhà tù đã bành trướng nhanh chóng từ thời Reagan, nơi cư trú của số dân thừa thải còn sót lại sau thời giải-thể-kỹ-nghệ-hóa -- deindustrialization. Một dị biệt căn bản là Hoa Kỳ đã được độc lập, và nhờ đó, đã có thể tự do làm ngơ trước những đòi hỏi của lý thuyết kinh tế Adam Smith đương thời, những huấn lệnh tương tự như những những lời thuyết giảng đối với các xã hội đang phát triển ngày nay. Smith đã khuyến cáo các cựu thuộc địa vừa được giải phóng nên sản xuất các sản phẩm nhất đẳng để xuất khẩu và nhập khẩu những sản phẩm biến chế cao cấp của Anh Quốc, và nhất là đừng tìm cách nắm độc quyền các sản phẩm cốt lõi, đặc biệt là bông vải. Smith cảnh cáo, bất cứ con đường nào khác cũng "làm chậm trễ thay vì tăng tốc sự gia tăng hơn nữa trong giá trị sản xuất hàng năm của mình, và có thể gây trở ngại, thay vì phát huy, đà tiến bộ đến thịnh vượng và cao cả thực sự của các xứ sở tại." [7] Sau ngày độc lập, các thuộc địa đã được tự do ở Bắc Mỹ, thay vì đi theo khuyến cáo của Smith, đã theo chân Anh Quốc, phát triển theo đường lối độc lập, với nhà nước giữ vai trò lãnh đạo, với thuế quan cao để bảo vệ kỹ nghệ non trẻ đối với hàng xuất khẩu của Anh Quốc, trước là vải vóc, về sau là thép và nhiều biến chế phẩm khác, và chấp nhận nhiều phương cách tăng tốc phát triển kỹ nghệ. Cộng Hòa độc lập cũng tìm cách giữ độc quyền bông vải khả dĩ đè bẹp các xứ khác, nhất là kẻ thù Anh quốc, như T T Jackson đã loan báo khi chinh phục Texas và phân nửa Mexico. Đối với Ai Cập, Anh Quốc đã ngăn chặn con đường phát triển tương tự. Lord Palmerston tuyên bố "không ý niệm công bằng nào [đối với Ai Cập] được ngăn đường các quyền lợi lớn lao và cao cả" như bảo tồn quyền bá chủ kinh tế và chính trị của Anh quốc, bày tỏ sự "thù ghét" đối với "tên man rợ dốt nát" Muhammed Ali dám tìm kiếm một đường lối độc lập, và gửi hạm đội và dùng sức mạnh tài chánh của Anh quốc để bóp chết chính sách phát triển kinh tế độc lập của Ai Cập. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, khi đã thay thế Anh quốc trong vai trò bá chủ toàn cầu, Hoa Kỳ cũng chọn cùng lập trường, nói rõ: Hoa Kỳ sẽ không cấp viện cho Ai Cập trừ phi Ai Cập theo đúng các quy luật chuẩn của một tiểu nhược quốc - những quy luật Hoa Kỳ tiếp tục vi phạm, áp đặt thuế quan cao để ngăn chặn bông vải Ai Cập và gây nạn thiếu hụt đồng dollar, phương hại cho kinh tế xứ nầy - dĩ nhiên luôn sử dụng lối giải thích thông thường dựa trên các nguyên tắc thị trường. Chẳng trách Ai Cập đã phát động"chiến dịch căm thù" đối với Hoa Kỳ; và Eisenhower đã phải quan tâm và công nhận: Hoa Kỳ luôn hỗ trợ các lãnh tụ độc tài, ngăn chận dân chủ và phát triển; không khác các đồng minh của Mỹ. Để công bằng với Smith, tưởng cần nói thêm Smith đã công nhận những gì có thể đã xẩy ra nếu Anh quốc theo đuổi các quy luật kinh tế lành mạnh, ngày nay được gọi là tân tự do - neoliberalism. Smith đã cảnh cáo: nếu các kỹ nghệ gia , các thương gia, và các nhà đầu tư Anh quốc quay ra ngoại quốc, họ rất có thể thủ lợi nhưng Anh quốc lại có thể đã phải chịu thiệt. Nhưng ông linh cảm với thiên kiến quốc gia (home bias), và tác động của"bàn tay vô hình" trong kinh tế cổ điển, Anh quốc vẫn có thể tránh tai họa của quy luật kinh tế duy lý. Tác động vừa nói rất khó bỏ quên. Đó chính là câu bất hủ "bàn tay vô hình" trong tác phẩm The Wealth of Nations. Một sáng lập viên hàng đầu trường phái cổ điển khác, David Ricardo, cũng đã rút tỉa những kết luận tương tự, hy vọng thiên kiến quốc gia có thể khiến giới sản xuất biến chế phẩm "bằng lòng với một tỉ suất lợi nhuận thấp trong nước, thay vì tìm kiếm một cách sử dụng tài sản một cách hữu lợi hơn ở các nước ngoài," những tình cảm, ông nói thêm,"tôi cảm thấy buồn vì đã bị suy yếu." Tạm quên đi những tiên đoán của cả hai tác giả, linh tính của các kinh tế gia cổ điển luôn khá lành mạnh. ĐE DỌA CỦA IRAN VÀ TRUNG QUỐC Phong trào dân chủ trong thế giới A Rập đôi khi được so sánh với Đông Âu năm 1989, nhưng trên những nền tảng đáng nghi ngờ. Năm 1989, phong trào dân chủ ở Đông Âu đã được người Nga chấp nhận, và được các cường quốc Tây phương hậu thuẫn, đúng theo chủ thuyết chuẩn: cuộc nổi dậy rõ ràng phù hợp với các mục tiêu kinh tế và chiến lược, và vì vậy, là một thành tựu cao thượng, được tán thưởng và đề cao , không như những phong trào đấu tranh bảo vệ các nhân quyền căn bản cùng thời ở Trung Mỹ, theo lời Tổng Giám Mục El Salvador đã bị ám sát, một trong hàng trăm nghìn nạn nhân của các lực lượng quân sự được Hoa Thịnh Đốn huấn luyện và trang bị. Không có một Gorbachev ở Tây Phương trong suốt những năm ghê rợn thời đó, và ngay cả hôm nay. Vì nhiều lý do riêng, các cường quốc Tây Phương vẫn luôn thù nghịch với dân chủ trong thế giới A Rập. Chủ thuyết Grand Area vẫn tiếp tục được áp dụng để đối phó với các khủng hoảng và xung đột hiện nay. Trong giới làm chính sách và bình luận chính trị Tây Phương, đe dọa từ Iran được xem như nguy cơ lớn nhất đối với trật tự thế giới, và do đó, phải là mục tiêu căn bản của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, với Âu châu lẽo đẽo theo sau một cách ngoan ngoãn. Nói một cách chính xác, đe dọa Iran là gì? Câu trả lời có thẩm quyền của Tây Phương đã đến từ Ngũ Giác Đài và Hệ Thống Tình Báo Hoa Kỳ. Phúc trình về an ninh toàn cầu năm 2010 nói rõ: đe dọa không mang tính quân sự. Cả Ngũ Giác Đài lẫn Cơ Quan Tình Báo Trung Ương đều kết luận, ngân sách quốc phòng của Iran tương đối thấp so với phần còn lại của khu vực. Chủ thuyết quân sự của Iran mang tính "triệt để tự vệ, được thiết kế nhằm giảm tốc độ một cuộc xâm lăng và đem lại một giải pháp ngoại giao cho sự thù nghịch."[8]Iran chỉ có "một khả năng hạn chế về quân sự bên ngoài lãnh thổ quốc gia"[9]. Với khả năng nguyên tử, "chương trình hạt nhân của Iran và ước muốn duy trì khả năng khai triển các vũ khí nguyên tử chỉ là phần cốt lõi của chiến lược răn đe"[10]. Đã hẳn chế độ thần quyền hà khắc là một đe dọa đối với nhân dân Iran, tuy vậy, vẫn kém xa các đe dọa từ phía các đồng minh Hoa Kỳ. Nhưng một đe dọa khác của Iran là khả năng răn đe tiềm tàng hay cách hành xử chủ quyền "thiếu chính đáng" có thể gây khó khăn cho khả năng tự do hành động của Hoa Kỳ trong khu vực. Đó mới là lý do thật sự tại sao Iran đã phải tìm kiếm khả năng răn đe. Chúng ta chỉ cần nhìn lại các căn cứ quân sự và lực lượng nguyên tử trong vùng để hiểu rõ. Thực vậy, cách đây 7 năm, nhà sử học quân sự Do Thái đã viết: "Thế giới đã chứng kiến bằng cách nào Hoa Kỳ đã tấn công Iraq, như sự thật nay đã rõ - chẳng có lý do nào. Nếu Iran đã không tìm cách sản xuất vũ khí hạt nhân, thì có lẽ họ đã là những người điên,"[11] nhất là họ thường xuyên sống dưới sự đe dọa của các cuộc tấn công vi phạm Hiến Chương LHQ. Họ có điên hay không vẫn còn là một vấn đề chưa có giải đáp, nhưng có lẽ là như vậy. Ngũ Giác Đài và Cơ Quan Tình Báo còn nhấn mạnh, đe dọa Iran còn vượt quá răn đe. Iran cũng tìm cách mở rộng khu vực ảnh hưởng trong các xứ láng giềng, và vì vậy, gây "bất ổn định" trong khu vực ( theo từ kỹ thuật trong ngành ngoại giao). Chiến lược xâm lăng và chiếm đóng quân sự của Hoa Kỳ trong các xứ láng giềng của Iran là để đem lại "ổn định". Nỗ lực của Iran nhằm mở rộng ảnh hưởng đến các xứ nầy là yếu tố gây "bất ổn định", và vì vậy, rõ ràng "không chính đáng". Sử dụng ngôn từ như vậy là thường tình. Trong nghĩa nầy, nhà phân tích chính sách đối ngoại nổi tiếng James Chace đã sử dụng đúng từ "ổn đinh" trong nghĩa kỹ thuật của từ nầy khi ông giải thích: để đạt được ổn định ở Chí Lợi, người ta cần phải bất ổn định xứ nầy (bằng cách lật đổ chính quyền dân cử Salvador Allende và thay thế bằng chế độ độc tài của tướng Augusto Pinochet). Cố nhiên, còn nhiều quan ngại khác về Iran cũng cần được thăm dò phân tích. Tuy nhiên, thiết tưởng chừng đó cũng đã đủ để hiểu rõ những nguyên tắc chỉ đạo và vai trò của những nguyên tắc nầy trong ngôn từ và văn hóa đế quốc. Như các nhà hoạch định của Franklin Delano Roosevelt đã nhấn mạnh ngay từ lúc khởi đầu hệ thống trật tự thế giới đương đại, Hoa Kỳ không thể tha thứ bất cứ cách hành xử chủ quyền nào gây trở ngại cho trật tự toàn cầu do mình thiết kế. Hoa Kỳ và Âu châu hiện đang đồng lòng trừng phạt Iran như một đe dọa tình trạng ổn định trong khu vực. Tuy nhiên, tưởng cũng cần nhắc lại tình trạng cô lập của chính họ. Khối phi liên kết đã ủng hộ mạnh mẽ quyền làm giàu uranium của Iran. Trong khu vực, công luận A Rập còn hậu thuẫn mạnh mẽ hơn, ngay cả quyền có vũ khí hạt nhân của Iran. Thổ Nhĩ Kỳ, một đại cường trong khu vực, đã cùng với Brazil, một cường quốc được nhiều quốc gia thán phục trong vùng Nam Mỹ, gần đây nhất, đã bỏ phiếu chống nghị quyết chế tài do Mỹ đề xướng trước Hội Đồng Bảo An LHQ -UNSC. Thái độ bất phục tùng của hai cường quốc đã đưa đến những lời lên án gay gắt, nhưng không phải là lần đầu: năm 2003, Thổ Nhĩ Kỳ đã từng bị lên án khi --tuân theo đa số ý dân - 95% -- từ chối tham gia vào cuộc chiến xâm lăng Iraq; do đó, chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đã chứng tỏ chưa hiểu rõ dân chủ theo kiểu Tây Phương. Sau hành động "ngỗ ngược" trước UNSC năm rồi, Thổ Nhĩ Kỳ đã bị Philip Gordon, quan chức ngoại giao hàng đầu về Âu châu trong chính quyền Obama, cảnh cáo: "Thổ Nhĩ Kỳ phải chứng tỏ sự cam kết của mình như một đối tác với Tây Phương".[12] Một học giả bên cạnh Hội Đồng Đối Ngoại đã hỏi, "Làm cách nào chúng ta có thể giữ người Thổ Nhĩ Kỳ trong lối đi dành riêng cho họ?"[13] -- đúng như một thành viên dân chủ tốt. Nguyên Tổng Thống Brazil "Lula" cũng đã bị cảnh cáo trong một hàng tít lớn trên báo The New York Times: nỗ lực của ông cùng với Thổ Nhĩ Kỳ đem lại một giải pháp cho vấn đề làm giàu uranium bên ngoài khuôn khổ của Hoa Kỳ là một "Chấm đen trong Di Sản của nhà Lãnh Đạo Brazil".[14]Một cách ngắn gọn, làm theo chỉ thị của chúng tôi, bằng không, hãy coi chừng! Một chuyện bên lề khá thú vị, đã bị nhận chìm một cách hiệu quả, là đề xuất Iran-Turkey-Brazil đã được Obama chuẩn y trước, với ước đoán là sẽ thất bại, do đó, trở thành một vũ khí ý thức hệ chống lại Iran. Khi đề xuất thành công, sự chấp thuận đã tức khắc trở thành lời khiển trách. Để thay thế, theo tạp chí Foreign Affairs số mới nhất, Hoa Thịnh Đốn đã hậu thuẫn thành công một nghị quyết khác trước UNSC, èo ọp đến độ TQ đã sẵn sàng ký, và nay đang bị chỉ trích vì đã chấp hành đúng với nghị quyết, nhưng không đúng với chỉ thị đơn phương của Hoa Thịnh Đốn. Trong khi Hoa Thịnh Đốn, dù rất bực bội, có thể tha thứ thái độ thiếu kỷ luật của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng với Trung Quốc, Hoa Kỳ thật khó lòng làm ngơ và rất khó xử. Báo chí cảnh cáo: "các thương gia và các nhà đầu tư TQ hiện đang lấp vào khoảng trống ở Iran khi giới doanh thương từ nhiều xứ khác, nhất là Âu châu, rút khỏi thị trường"[15], và đặc biệt hơn cả, TQ đang bành trướng địa vị vốn sẵn áp đảo của mình trong phạm vi kỹ nghệ năng lượng. Hoa Thịnh Đốn đang phản ứng với ít nhiều tuyệt vọng. Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã cảnh cáo: nếu muốn được chấp nhận trong cộng đồng thế giới -- một từ kỹ thuật ám chỉ Hoa Kỳ và những xứ đồng ý với họ -- TQ không nên "luồn lách và trốn tránh các trách nhiệm quốc tế, rất rõ ràng"[16]: nói rõ ra, phải theo chỉ thị của Mỹ. TQ chắc chẳng mấy ấn tượng. Ngoài ra, đe dọa quân sự ngày một gia tăng của TQ cũng là một quan tâm lớn. Một nghiên cứu gần đây của Ngũ Giác Đài đã cảnh cáo ngân sách quân sự của TQ đang nhích lên gần "1/5 ngân sách Ngũ Giác Đài dành cho hai cuộc chiến Iraq và Afghanistan"[17], đã hẳn chỉ một phân số của ngân sách quân sự của Mỹ. Báo The New York Times còn thêm: Sự kiện bành trướng lực lượng quân sự của TQ có thể "chối bỏ khả năng các tàu chiến Hoa Kỳ hoạt động trong hải phận quốc tế bên ngoài bờ biển TQ."[18] Đó mới chỉ là bên ngoài bờ bể của TQ; có lẽ TQ còn phải đề nghị Hoa Kỳ nên thanh toán các lực lượng quân sự đang chối bỏ khả năng các tàu chiến TQ qua lại trong hải phận quốc tế trong vùng biển Caribbean. Sự thiếu hiểu biết quy luật của thế giới văn minh của TQ còn được minh chứng qua những phản kháng đối với các kế hoạch hàng không mẫu hạm nguyên tử tiền tiến của Hoa Kỳ tham gia các cuộc thao diễn hải quân một vài dặm ngoài bờ bể TQ, có đủ khả năng tấn công Bắc Kinh. Ngược lại, Tây Phương hiểu rõ tất cả các hoạt động và thao diễn thuộc loại nầy đều được hoạch định để bảo vệ ổn định và an ninh của chính Tây Phương. Tờ báo thuộc khuynh hướng tự do New Republic đã tỏ ra quan ngại "TQ đã gửi tàu chiến xuyên qua hải phận quốc tế đến phía ngoài đảo Okinawa của Nhật." Quả thật, đó là một khiêu khích -- không giống như sự kiện, không được ghi nhận, Hoa Thịnh Đốn đã biến hải đảo nầy thành một căn cứ quân sự khổng lồ chẳng quan tâm gì đến làn sóng chống đối kịch liệt của người dân Okinawa. Đây không phải là một khiêu khích, trên căn bản một nguyên tắc chuẩn: Thế giới thuộc về Hoa Kỳ hay "America owns the world". Trong mọi trường hợp, các quốc gia láng giềng cũng có đủ lý do để quan ngại trước sức mạnh kinh tế và quân sự ngày một gia tăng của TQ. Và mặc dù công luận của thế giới A Rập đã hậu thuẫn mạnh mẽ cho chương trình vũ khí hạt nhân của Iran, người Mỹ cũng chẳng nên làm như thế. Các sách báo về chính sách đối ngoại đầy dẫy những đề nghị đối phó với đe dọa. Phương cách rõ ràng nhất, nhưng rất ít khi được thảo luận: vận động thiết lập một khu vực phi nguyên tử (Nuclear-Weapons-Free-Zone -- NWFZ) trong vùng Trung Đông. Vấn đề đã được nêu lên trong hội nghị Cấm Phổ Biến Nguyên Tử (Non-Proliferation-Treaty -- NPT) tại LHQ tháng 5-2010. Ai Cập, trong tư cách chủ tịch 118 quốc gia thuộc Phong Trào Phi Liên Kết, đã kêu gọi thương nghị về một NWFZ, như đã được các quốc gia Tây phương, kể cả Hoa Kỳ, đồng ý , tại hôi nghị tái thẩm NPT (review conference), năm 1995. Đề nghị đã được đại đa số các quốc gia trên thế giới hậu thuẫn mạnh mẽ, đến nỗi Obama đã phải chính thức đồng ý. Tuy nhiên, Hoa Thịnh Đốn đã thông báo cho hội nghị: đây là một ý kiến hay, nhưng không phải bây giờ. Vả chăng, Hoa Kỳ cũng nói rõ Do Thái là một ngoại lệ: không một đề nghị nào có thể kêu gọi đặt chương trình nguyên tử của Do Thái dưới sự bảo trợ của Cơ Quan Năng Lượng Nguyên Tử Quốc Tế (IAEA) hay phổ biến thông tin về "các cơ sở và hoạt động nguyên tử của Do Thái."[19] Bấy nhiêu đó là phương pháp đối phó với sự đe dọa nguyên tử của Iran. TƯ NHÂN HÓA HÀNH TINH Tuy chủ thuyết Grand Area vẫn còn thắng thế, khả năng thực thi, trong thực tế, cũng đã suy giảm. Quyền lực của Hoa Kỳ đã lên đỉnh điểm ngay sau Đệ Nhị Thế Chiến, khi Hoa Kỳ sở hữu khoảng 50% tài sản toàn cầu. Nhưng tình trạng dĩ nhiên phải suy giảm, khi các nền kinh tế kỹ nghệ bị chiến tranh tàn phá đã hồi phục và phong trào giải thể chủ nghĩa thực dân đã vượt qua quá trình hấp hối. Vào đầu thập kỷ 1970, tài sản của Hoa Kỳ đã sụt xuống còn 25% toàn cầu, và thế giới kỹ nghệ đã trở thành tam cực: Bắc Mỹ, Âu châu, và Đông Á (lúc đó dựa trên Nhật). Kinh tế Hoa Kỳ cũng đã trải nghiệm một thay đổi đột ngột trong thập kỷ 1970, đổi qua hướng tài chánh hóa và xuất khẩu sản xuất. Một số yếu tố hội tụ đã tạo nên vòng lẫn quẩn tập trung tài sản quá độ, nhất là trong 1% dân số sang giàu nhất - hầu hết là các CEO, các nhà quản lý các hedge funds, và các người cùng tầng lớp. Khuynh hướng nầy đã đưa đến hiện tượng tập trung quyền lực chính trị, và từ đó, chính sách tăng gia tập trung kinh tế của nhà nước: chính sách tài chánh, luật lệ quản lý các công ty, bãi bỏ giám sát, và nhiều thứ khác. Trong lúc đó, phí tổn vận động tuyển cử tăng vọt, các đảng phái chính trị ngày một lệ thuộc nhiều hơn vào túi tiền của giới đại tư bản, ngày một mang tính tài chánh: Cộng Hòa trước, rồi Dân Chủ tiếp theo sau không xa. Bầu cử đã trở thành trò chơi dối trá vô nghĩa, điều khiển bởi kỹ nghệ PR (Public Relations - Quan Hệ Quần Chúng) hay Marketing. Sau khi đắc cử vào cuối năm 2008, Obama đã được kỹ nghệ PR trao giải thưởng Chiến Dịch Marketing thành công nhất trong năm. Các lãnh đạo kỹ nghệ doanh thương nhởn nhơ vui mừng. Báo chí doanh thương giải thích: họ đã Marketing hay rao bán các ứng viên như các món hàng kể từ thời Ronald Reagan, nhưng 2008 là năm thành công nhất và có thể làm thay đổi phong cách trong phòng hội ban quản trị các công ty. Người ta dự phóng cuộc bầu cử 2012 sẽ tốn khoảng 2 tỉ, phần lớn tài trợ bởi các đại công ty. Chẳng trách Obama luôn lựa chọn các lãnh đạo doanh thương vào các chức vụ hàng đầu. Quần chúng căm giận và khó chịu, nhưng chừng nào nguyên tắc Muasher thắng thế, điều đó cũng chẳng quan trọng gì. Trong khi tài sản và quyền lực tập trung vào một thiểu số, đối với tối đại đa số quần chúng, thực lợi tức hay real income ngưng trệ và người dân vất vã kiếm sống hàng ngày phải lao động nhiều giờ hơn, với nợ nần và lạm phát tích sản luôn tiêu tan với khủng hoảng tài chánh - những tai họa bắt đầu với guồng máy giám sát được gỡ bỏ kể từ thập kỷ 1980. Tất cả những điều đó không còn là vấn đề đối với 1% dân giàu có. Họ thủ lợi qua chính sách bảo kê của chính quyền, mệnh danh "quá lớn để thất bại" -"too big to fail”. Các ngân hàng và các xí nghiệp đầu tư tham lam có thể lao vào những giao dịch liều lĩnh đầy bất trắc, với lợi nhuận kếch sù, và khi hệ thống đổ vỡ, họ có thể trông cậy vào nhà-nước-vú-em để vòi tiền cứu trợ từ người dân chịu thuế, không quên mang theo các sách giáo khoa kinh tế của Friedrich Hayek và Milton Friedman. Đó là diễn tiến bình thường kể từ thời Reagan, khủng hoảng lần sau luôn nghiêm trọng hơn lần trước, dĩ nhiên chỉ đối với công chúng. Hiện nay, số thất nghiệp thực sự, khoảng trên dưới 25 triệu, ngang mức thời Đại Khủng Hoảng, trong lúc Goldman Sachs, một trong các kiến trúc sư chính gây nên đại suy thoái đang tiếp diễn, lúc một giàu hơn. Goldman Sachs vừa thầm lặng phân phối món thù đáp 17,5 tỉ trong năm 2010, với CEO Lloyd Blankfein nhận khoản tiền thưởng 12,6 triệu cùng với lương căn bản tăng gấp ba. Tập trung sự chú ý vào những sự thật trên đây không mấy bổ ích. Vì vậy, guồng máy tuyên truyền phải tìm cách đổ lỗi: trong mấy tháng vừa qua, cho giới công nhân viên nhà nước, mức lương béo bở, hưu trí hậu hĩnh, v.v..: tất cả đều tưởng tượng, mô phỏng theo hình ảnh bà mẹ da đen ngồi xe limousine đi lãnh chi phiếu trợ cấp xã hội của Reagan -- và nhiều mô hình khác chẳng cần phải liệt kê. Người dân được chờ đợi thắt lưng buộc bụng nhiều hơn nữa - có nghĩa, hầu hết mọi người. Giới giáo viên là mục tiêu đặc biệt tốt, một phần trong nỗ lực quyết tâm phá hủy hệ thống giáo dục công lập, từ vỡ lòng cho đến đại học, qua chương trình tư nhân hóa, một lần nữa, có lợi cho giới nhà giàu, nhưng một tai họa đối với quần chúng cũng như kinh tế về lâu về dài. Nhưng đây chỉ là một trong số các vấn đề ngoại vi có thể gạt qua một bên, chừng nào các Nguyên Tắc Thị Trường còn thắng thế. Một mục tiêu tốt khác, dĩ nhiên, là các người nhập cư. Đây là một sự thật trong suốt lịch sử Hoa Kỳ, nhất là trong các thời kỳ khủng hoảng kinh tế, đặc biệt trầm trọng hiện nay bởi ý tưởng Hoa Kỳ đang bị xâm chiếm: dân da trắng sẽ trở thành thiểu số trong nay mai. Chúng ta có thể hiểu sự căm giận của các cá nhân đang phiền muộn, nhưng tính tàn nhẫn của chính sách lại quá phủ phàng. Nhưng dân nhập cư nào được chọn làm mục tiêu? Ở phía Đông tiểu bang Massachusetts, nhiều người Mayan trong các vùng cao nguyên Guatemala, lánh nạn diệt chủng bởi những tên sát nhân sủng ái của Reagan. Một số di dân nhập cư khác người Mexico là nạn nhân của thỏa ước NAFTA thời Clinton, một trong những thỏa ước gây tổn thương cho giới lao động trong cả ba xứ thành viên. Khi Quốc Hội phê chuẩn NAFTA trước sự chống đối của dân Mỹ năm 2004, Clinton đồng thời cũng quân sự hóa biên giới Hoa Kỳ-Mexico, trước đó có thể qua lại tương đối tự do. Ai cũng biết campesinos của Mexico không thể cạnh tranh với khu vực nông doanh Hoa Kỳ được chính quyền trợ cấp, và các doanh thương Mexico không thể cạnh tranh với các công ty đa quốc gia của Mỹ luôn được thụ hưởng" quy chế đối xử quốc gia" hay "national treatment", qua các thỏa ước "mậu dịch tự do" [một nhãn hiệu sai lầm] -- một đặc ân chỉ dành cho các pháp nhân hay corporate persons, loại ra ngoài các thể nhân hay individual persons. Không có gì đáng ngạc nhiên khi các biện pháp nầy đã đưa đến các làn sóng tỵ nạn tuyệt vọng, và các làn sóng chống đối nhập cư cuồng loạn bởi các nạn nhân của chính sách ưu đãi các pháp nhân sở tại (state-corporate policies). Tình trạng tương tự cũng thường gặp ở Âu châu, nơi phân biệt chủng tộc còn lan tràn và trầm trọng hơn cả Hoa Kỳ. Người ta chỉ có thể nhìn với ngạc nhiên khi Ý Đại Lợi than phiền làn sóng tỵ nạn từ Libya, nơi diễn ra nạn diệt chủng đầu tiên sau Đệ Nhất Thế Chiến, trong khu vực Đông Âu nay đã được giải phóng, dưới tay chính quyền phát xít Ý. Hay khi Pháp, ngày nay vẫn còn bảo vệ các chế độ độc tài chuyên chế trong các cựu thuộc địa, đang cố tình làm ngơ trước những tàn bạo đáng ghê tởm của chính mình ở Phi châu, trong lúc Tổng Thống Pháp, Nicolas Sarkosy, nghiêm khắc cảnh cáo "làn sóng nhập cư", và Marine Le Pen phản đối tổng thống đã không làm gì để chận đứng. Đó là chưa kể nước Bỉ, có thể xứng đáng được giải thưởng về điều Adam Smith gọi sự "bất công dã man của người Âu châu"[20]. Sự trỗi dậy của các đảng tân-phát-xít trong khắp Âu châu là một hiện tượng đáng sợ ngay cả khi chúng ta không nhắc lại những gì đã xẩy ra trong lục địa Âu châu trong một quá khứ gần đây. Những ai có đầu óc châm biếm có thể nhớ Benjamin Franklin, một trong những gương mặt lãnh đạo thời Khai Sáng, đã cảnh cáo các thuộc địa mới được giải phóng nên thận trọng trong việc nhận người Đức nhập cư, bởi lẽ da họ quá ngăm đen; người Thụy Điễn cũng vậy. Ngay trong thế kỷ 20, những chuyện hoang đường lố bịch về tính thuần khiết Anglo-Saxon vẫn rất phổ thông ở Hoa Kỳ, kể cả các tổng thống và các gương mặt lãnh đạo khác. Văn hóa phân biệt chủng tộc là điều độc hại tồi tệ; càng bỉ ổi hơn trong thực tế. Có thể quả quyết diệt trừ polio còn dễ hơn tệ nạn phân biệt chủng tộc, một dịch bệnh càng độc hại hơn trong thời kinh tế khủng hoảng. Tưởng cũng cần nhắc đến một vấn đề ngoại vi rất dễ bị xem thường trong hệ thống thị trường. Các bất trắc trong hệ thống tài chính có thể bổ cứu bởi giới chịu thuế, nhưng không ai có thể cứu trợ khi môi trường bị hủy hoại. Và hủy hoại môi trường hiện đang được xem như một việc cần và phải làm trong định chế thị trường. Các lãnh đạo doanh thương đang phát động chiến dịch tuyên truyền nhằm thuyết phục dân chúng: hiện tượng hâm nóng toàn cầu bởi con người chỉ là một trò dối trá lường gạt - mặc dù họ hiểu rất rõ tính nghiêm trọng của tai ương nầy. Nhưng trong đoản kỳ họ phải tối đa hóa thị phần và doanh lợi. Nếu họ không làm, người khác sẽ làm.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 24, 2011 4:49:57 GMT 9
Vòng lẩn quẩn có thể trở nên nguy hiểm. Để hiểu rõ tính trầm trọng của tai họa thay đổi khí hậu, chúng ta chỉ cần nhìn ở Quốc Hội mới của Hoa Kỳ, phần lớn được giới doanh thương hậu thuẫn và tài trợ. Hầu như tất cả đều là những thành phần chối bỏ hiện tượng thay đổi khí hậu. Họ đã bắt đầu cắt xén ngân sách dành cho các biện pháp tiết giảm tai họa môi trường. Tệ hơn nữa, vài người đang thực sự tin tưởng ở việc làm của họ. Chẳng hạn, người đứng đầu tiểu ban môi trường mới đã giải thích: thay đổi khí hậu không là một vấn đề vì Thượng Đế đã hứa với Noah sẽ không có nạn lụt nào khác.
Nếu những việc như thế xẩy ra trong vài xứ nhỏ bé xa xôi, chúng ta có thể mỉm cười. Nhưng không ai có thể mỉm cười khi xẩy ra trong xứ giàu có nhất, hùng mạnh nhất thế giới.
Trong mọi trường hợp, nguyên nhân chính của khủng hoảng kinh tế hiện nay là lòng cuồng tín và giáo điều "bàn tay vô hình của thị trường", hay nói chung, là điều kinh tế gia Joseph Stiglitz, người đã được giải thưởng Nobel 15 năm trước đây, đã gọi là "tôn giáo thị trường hiểu biết hơn ai hết" hay "markets know best". Chính thái độ cuồng tín vừa nói đã là nguyên nhân ngăn ngừa các ngân hàng trung ương và các kinh tế gia ghi nhận bong bóng bất động sản 8,000 tỉ USD không có cơ sở nào trong các học thuyết kinh tế - bong bóng 2008, khi xìu xẹp, đã hủy hoại kinh tế thế giới.
Tất cả những gì trên đây, và nhiều hơn nữa, có thể tiếp diễn chừng nào chủ thuyết Muashar thắng thế. Chừng nào quần chúng còn thụ động, còn thờ ơ, bị lung lạc bởi chủ nghĩa tiêu thụ hay thái độ thù ghét những người dễ bị tổn thương, lúc đó giới giàu có và quyền hành có thể làm bất cứ điều gì họ muốn và những người sống sót sẽ chỉ có thể ngồi chiêm nghiệm hậu quả.
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
05-5-2011
[1] President Dwight Eisenhower: ...the most strategically important area in the world -- a stupendous source of strategic power and probably the richest economic prize in the world in the field of foreign investment.
[2] ...substantial control of the world.
[3] Jaap de Hoop Scheffer: "NATO troops have to guard pipelines that transport oil and gas that is directed for the West," and more generally to protect sea routes used by tankers and other "crucial infrastructure" of the energy system.
[4] The U.S. has the right to use military force to ensure "uninhibited access to key markets, energy supplies, and strategic resources," and must maintain huge military foeces "forward deployed" in Europe and Asia "in order to shape people's opinions about us" and "to shape events that will affect our livelihood and our security."
[5] A change in ruling elites and system of governance is still a distant goal.
[6] There is nothing wrong, everything is under control.
[7] Adam Smith: ...Any other path "would retard instead of accelerating the further increase in the value of their annual produce, and would obstruct instead of promoting the progress of their country towards real wealth and greatness".
[8] Its military doctrine is strictly "defensive, designed to slow an invasion and force a diplomatic solution to hostilities."
[9] Iran has only "a limited capacty to project force beyond its borders."
[10] With regard to the nuclear option, "Iran's nuclear program and its willingness to keep open the possibility of developing nuclear weapons is a central part of its deterrent strategy."
[11] The world has witnessed how the United States attacked Iraq for, as it turned out, no reason at all. Had the Iranians not tried to build nuclear weaponns, they would be crasy.
[12] Turkey must "demonstrate its commitment to partnership with the West."
[13] How do we keep the Turks in their lane?
[14] ...a Spot on Brazilian Leader's Legacy.
[15] China's investors and traders are now filling a vacuum in Iran as businesses from many other nations, especially in Europe, pull out.
[16] ...China must not "skirt and evade international responsibilities, [which] are clear": namely, follow U.S. orders.
[17] China's military budget is approaching "one-fifth of what the Pentagon spent to operate and carry out the wars in Iraq and Afghanistan," a fraction of the U.S. military budget, of course.
[18] The New York Times: China's expansion of military forces might "deny the ability of American warships to operate in international waters off its coast."
[19] The U.S. made clear that Israel must be exempted: no proposal can call for Israel's nuclear program to be placed under the auspices of the International Atomic Energy or for the release of information about Israeli nuclear facilities and activities.
[20] ...the savage injustice of the Europeans.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 24, 2011 5:00:22 GMT 9
Hoa kỳ trong kỷ nguyên mới: Một dự phóng tương laiVietsciences- Nguyễn Trường Từ mấy tuần qua, Obama và các cố vấn thân cận một lần nữa cùng nhau nghiền ngẫm những bài học lịch sử từ chiến tranh Việt Nam khả dĩ quyết định những bước tiếp nối, nghiêm túc, và thực tế, trong cuộc chiến Afghanistan-Pakistan. Tại Ngũ Giác Đài, nhiều cấp lãnh đạo rõ ràng đang bám víu lấy ý tưởng: Hoa Kỳ thất trận ở Việt Nam là vì cuộc chiến không được dân Mỹ ủng hộ, vì các tường trình bi quan của giới truyền thông, và vì các cấp lãnh đạo thiếu can đảm và kiên trì. Trong thực tế, ngay từ đầu, những nỗ lực của người Pháp, được Hoa Kỳ tài trợ, nhằm đánh bại phong trào quốc gia giành độc lập của người Việt trong hai thập kỷ 1940s, 1950s, đã thảm bại. Kế đến, người Mỹ tìm cách thiết lập một chính quyền ủy nhiệm ở miền Nam, với mục đích chận đứng cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất của người Việt yêu nước, cũng thất bại chua cay. Sau cùng, quân đội Mỹ với cuộc chiến toàn diện trong nhiều năm nhằm tiêu diệt các lực lượng kháng chiến còn thảm bại hơn nữa. Những nỗ lực tương tự của người Mỹ ở Cambodia và Ai Lao cũng cùng chung số phận. Đã hẳn, quân lực Hoa Kỳ vô cùng hùng mạnh và đã nhiều lần chứng tỏ khả năng tàn phá và hủy diệt trên khắp thế giới. Từ Triều Tiên, Việt Nam, Cambodia đến Iraq, Afghanistan và Pakistan, trong nhiều thập kỷ, quân lực Hoa Kỳ đã đập nát nhiều đoàn quân, nhiều căn cứ quân sự, nhiều nhà cửa ruộng vườn, nhiều thường dân vô tội, trong nhiều cuộc chiến. Tuy nhiên, chiến thắng vẫn luôn vuột khỏi tầm tay của nhiều tổng thống Hoa Kỳ, bất kể vũ khí, trang bị, bom đạn với kỹ thuật cao đã trải thảm lên người dân nhiều xứ tiền kỹ nghệ, nghèo nàn, trong những vùng chiến sự. DỰ BÁO VÀ THỰC TẾ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI Tháng 11-2008, Hội Đồng Tình Báo Quốc Gia (National Intelligence Council - NIC), một cơ quan ngoại thuộc của CIA, cho xuất bản tập dự phóng tương lai mới nhất làm kim chỉ nam cho chính quyền Obama . Trong phúc trình "Các Xu Hướng Toàn Cầu 2025" (Global Trends 2005), địa vị lãnh đạo của Hoa Kỳ được tiên đoán sẽ dần dà lung lay rồi tan biến bên cạnh ảnh hưởng ngày một gia tăng của Trung Quốc (TQ) và Ấn Độ trong vòng 15 năm tới. Phúc trình đã xem xét nhiều khía cạnh của môi trường chiến lược tương lai. Nhưng điều khám phá đáng ngạc nhiên nhất liên quan đến vị trí bá quyền ngày một bị xói mòn của Hoa Kỳ cũng như sự trổi dậy của các cường quốc cạnh tranh trong trường kỳ. Bản phúc trình quả quyết: "Mặc dù Hoa Kỳ rất có thể vẫn duy trì địa vị tay chơi hùng mạnh duy nhất [vào năm 2025], sức mạnh tương đối - ngay trong địa hạt quân sự - sẽ suy giảm và đòn bẩy quyền lực sẽ bị hạn chế rất nhiều" [1]. Chỉ 11 tháng sau ngày phúc trình ra đời, tình hình đã dồn dập thay đổi. Các dự phóng cho năm 2025 cần được điều chỉnh để bắt kịp thực trạng chuyển dịch nhanh chóng hiện nay. Mặc dù được xuất bản ngay sau khi suy thoái bắt đầu, phúc trình đã được viết trước khi khủng hoảng lên cao điểm và đã nhấn mạnh sự suy giảm quyền lực của Hoa Kỳ sẽ diễn tiến từ từ trong thời gian 15 năm sắp tới. Nhưng khủng hoảng kinh tế và các biến cố đi kèm đã đảo lộn thời biểu vừa nói. Do hậu quả những mất mát kinh tế to lớn của Hoa Kỳ trong năm qua và sự hồi phục kinh tế ngoạn mục của Trung Quốc, nhịp chuyển dịch quyền lực toàn cầu dự báo trong phúc trình đã tăng tốc. Trong thực tế, tình huống dự báo mãi cho đến năm 2025 đã diễn ra ngay trước mắt. Thực vậy, nhiều dự báo trong phúc trình Xu Hướng Toàn Cầu 2025 cho thời gian sắp tới, trong thực tế, đã thực sự xẩy ra. Brazil, Nga, Ấn Độ, và TQ, gọi tắt là BRIC, đã khẳng định vai trò của mình trong sinh hoạt kinh tế toàn cầu ngay trong hiện tại thay vì vào hai thập kỷ sau, như đã được dự báo trong phúc trình. Cùng lúc, vị trí áp đảo toàn cầu do Hoa Kỳ độc quyền nắm giữ trước đây, với sự hỗ trợ của các cường quốc kỹ nghệ Tây phương - Nhóm G-7 - cũng đã bị xói mòn một cách nhanh chóng. Trong quá khứ, hầu hết các cường quốc thường hướng về Hoa Kỳ để định hướng trong nhiều vấn đề quốc tế trọng đại. Ngày nay, các xứ nầy không còn mấy quan tâm đến khuyến cáo của Hoa Thịnh Đốn, thay vào đó, đã tự tạo cho mình một mạng lưới chính sách độc lập riêng. Hoa Kỳ CŨNG đã trở nên thận trọng hơn trong việc gửi quân ra nước ngoài trong khi các cường quốc cạnh tranh tăng cường khả năng của họ và nhiều tổ chức chống Mỹ trong một số quốc gia cũng đã sử dụng các phương tiện tấn công bất cân xứng (asymmetrical means of attack) để vô hiệu hóa lợi thế hỏa lực quy ước của Hoa Kỳ. Một sự thật phủ phàng chưa ai nói ra: sau chưa đầy một năm, thay vì 15 năm trong phúc trình, kỷ nguyên khống chế toàn cầu vô điều kiện của Hoa Kỳ đã chấm dứt. Rất có thể phải mất 1, 2 hay 3 thập kỷ trước khi các sử gia có thể nhìn lại và đoan chắc: vào thời điểm 2009, Hoa Kỳ đã không còn là siêu cường số một của hành tinh và đã bị buộc phải ứng xử như bất cứ cường quốc nào khác trong một thế giới với nhiều đại cường cạnh tranh lẫn nhau. Tuy nhiên, hiện đã có sẵn khá nhiều bằng chứng của thời kỳ quá độ cho bất cứ ai muốn tìm hiểu. VỊ TRÍ MỚI CỦA HOA KỲ: CHỈ LÀ MỘT TRONG NHIỀU CƯỜNG QUỐC Theo Michael Klare, sáu biểu hiện gần đây đã phản ảnh các xu hướng toàn cầu dự báo cho năm 2025. Cả sáu diễn biến đã là tin hàng đầu trong mấy tuần lễ vừa qua, mặc dù đã không được tường trình cùng lúc và cùng chỗ. Bên cạnh nhiều diễn biến tương tự, những biểu hiện nầy đã biểu lộ một mẫu mực: diện mạo một kỷ nguyên mới bắt đầu. 1. Tại hội nghị thượng đỉnh kinh tế toàn cầu ở Pittsburgh ngày 24-25/9/2009, lãnh đạo các cường quốc kỹ nghệ, Nhóm G-7 (hay G-8 nếu kể cả Nga), đã đồng thuận trao trách nhiệm giám sát kinh tế thế giới cho Nhóm G-20 gồm cả TQ, Ấn Độ, Brazil, Turkey, và một số quốc gia đang phát triển khác. Mặc dù còn nhiều nghi vấn về khả năng lãnh đạo toàn cầu của nhóm G-20, động thái vừa nói tự nó đã là tín hiệu: trung tâm quyền lực kinh tế thế giới đang chuyển dịch từ phương Tây qua phương Đông và phương Nam địa cầu. Với chuyển dịch nầy, sự suy giảm mang tính địa chấn trong vai trò kinh tế áp đảo của Hoa Kỳ đã được xác nhận. Như Jeffrey Sachs thuộc Đại Học Columbia đã viết trong báo Financial Times: "Ý nghĩa thực sự của Nhóm G-20 không phải là sự chuyển giao quyền lãnh đạo từ Nhóm G-7/G-8, mà từ G-1 hay Hoa Kỳ. Ngay suốt trong 33 năm trên diễn đàn kinh tế G-7, Hoa Kỳ vẫn luôn là nước có tiếng nói kinh tế quyết định"[2] . Tuy nhiên, sự suy giảm trong quyền lãnh đạo của Hoa Kỳ trong các thập kỷ gần đây đã bị che mờ bởi hai sự kiện: Liên Bang Sô Viết sụp đổ và địa vị lãnh đạo sớm sủa của Hoa Kỳ trong địa hạt tin học. Dù sao, hiện nay không ai còn nghi ngờ tiến trình chuyển dịch quyền lực kinh tế từ Hoa Kỳ qua TQ và các nền kinh tế đầu tàu đang lên khác. 2. Theo tin tức báo chí, lãnh đạo các quốc gia cạnh tranh với Mỹ đã họp bàn một cách thầm lặng (bí mật!) về vai trò suy yếu nhanh chóng của đồng mỹ kim trong thương mãi quốc tế. Cho đến nay, việc sử dụng đồng đô la như ngoại tệ dự trữ quốc tế đã đem lại cho Hoa Kỳ lợi thế kinh tế đáng kể: người Mỹ chỉ cần in thêm tiền để đáp ứng nghĩa vụ quốc tế trong khi các quốc gia khác phải chuyển hoán đơn vị tiền tệ của mình qua mỹ kim, và thường phải gánh chịu một tổn phí đáng kể. Tuy nhiên, hiện giờ, nhiều quốc gia quan trọng trong mậu dịch quốc tế - trong đó phải kể TQ, Nga, Nhật, Brazil, và các xứ giàu dầu khí trong vùng Vịnh Ba Tư - đang cứu xét việc sử dụng đồng Euro, hay một gói nhiều đơn vị tiền tệ khác, như một lợi khí trao đổi mới. Nếu được chấp thuận, một kế hoạch như vậy sẽ tăng tốc đà mất giá của đồng mỹ kim và bào mòn hơn nữa ảnh hưởng của Hoa Kỳ trong sinh hoạt kinh tế quốc tế. Cuộc thương thảo đã diễn ra mùa hè vừa qua trong phiên họp thượng đỉnh của nhóm BRIC. Từ một ý niệm đơn thuần cách đây một năm, khi kinh tế trưởng của Goldman Sachs đưa ra ý tưởng BRIC, tập đoàn BRIC đã thực sự hình thành tháng 6 vừa qua khi lãnh đạo bốn quốc gia - Brazil, Russia, India, và China - tham dự phiên họp khai trương ở Yekaterinberg, Liên Bang Nga. Chính sự kiện Brazil, Russia, India, và China chọn gặp nhau như Bộ Tứ tự nó đã được xem rất có ý nghĩa, vì toàn nhóm đã chiếm 43% dân số thế giới và được dự phóng chiếm 33% GDP toàn cầu vào năm 2030 - tương đương với GDP của Hoa Kỳ và Tây Âu gộp lại. Mặc dù các lãnh đạo của BRIC chưa quyết định thành lập một văn phòng thường trực giống như G-7 trong thời điểm nầy, họ cũng đã đồng ý phối hợp nỗ lực khai triển biện pháp thay thế đồng đô la như ngoại tệ dự trữ và cải tổ Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, nhằm đem lại cho các xứ ngoài Tây phương một tiếng nói nặng ký hơn. 3. Trên mặt trận ngoại giao, Hoa Thịnh Đốn đã không được cả Liên Bang Nga lẫn TQ ủng hộ trong chiến dịch gây sức ép quốc tế buộc Iran ngưng chương trình làm giàu uranium. Một tháng sau khi Obama hủy bỏ kế hoạch bố trí hệ thống lá chắn tên lữa ở Đông Âu, một động thái rõ rệt nhằm tìm kiếm sự hợp tác của Nga trong lập trường cứng rắn đối với Iran, các lãnh đạo Nga Sô đã chứng tỏ họ không có ý định ủng hộ các chế tài mới đối với Tehran. Sau khi tiếp Ngoại Trưởng Hillary Clinton ở Moscow ngày 13-10-2009, Sergey V. Lavrov, bộ trưởng ngoại giao Nga, tuyên bố: "Chúng tôi tin đe dọa, chế tài, và tăng sức ép trong hiện tình sẽ phản tác dụng" [3]. Ngay ngày hôm sau, Thủ Tướng Vladimir Putin cũng đưa ra nhận xét "đe dọa áp dụng các biên pháp chế tài là quá sớm". Trước những bất trắc chính trị trong quyết định hủy bỏ chương trình lá chắn tên lữa của Obama - một động thái bị phe Cộng Hòa ở Hoa Thịnh Đốn lên án - việc Điện Cẩm Linh nhanh chóng bác bỏ lời yêu cầu hợp tác của Mỹ trong vấn đề làm giàu uranium của Iran chỉ có thể giải thích như một dấu hiệu uy tín đã bị xói mòn của người Mỹ. 4. Người ta cũng có thể đưa ra một kết luận tương tự về buổi gặp gỡ cấp cao ở Bắc Kinh ngày 15-10-2009 giữa Thủ Tướng TQ Ôn Gia Bảo và Đệ Nhất Phó Tổng Thống Iran Mohammed Reza Rahimi . Từ Nhân Dân Đại Sảnh, Thủ tướng Ôn đã tuyên bố: "Quan hệ TQ-Iran đã phát triển nhanh chóng khi lãnh đạo hai xứ đã thường xuyên trao đổi, và sự hợp tác về thương mãi và năng lượng đã phát triển sâu rộng"[4] . Việc nầy đã diễn ra vào đúng lúc Hoa Kỳ đang cực lực vận động ngoại giao thuyết phục TQ, Nga, và nhiều xứ khác, cắt giảm các quan hệ thương mãi với Iran như bước đầu dẫn đến các biện pháp chế tài nghiêm khắc hơn, lời tuyên bố của TQ chỉ có thể được xem như một sự từ chối không úp mở đối với Hoa Thịnh Đốn. 5. Từ Hoa Thịnh Đốn, các nỗ lực tìm kiếm hỗ trợ quốc tế trong cuộc chiến do Mỹ lãnh đạo ở Afghanistan cũng đã gặp nhiều phản ứng đáng thất vọng. Trong một hành động được xem như một phiếu ủng hộ dè dặt và không mấy quan trọng, Thủ Tướng Anh Gordon Brown, hôm 14-10, loan báo: Anh quốc sẽ gửi thêm 500 quân - nhưng chỉ khi nào các quốc gia Âu châu khác cũng tăng thêm quân số, một việc ông biết khó thể xẩy ra. Cho đến nay, con số tạm thời và nhỏ nhoi đó là tất cà những gì chính quyền Obama có thể huy động từ các đồng minh Âu châu, sau chiến dịch ngoại giao kiên nhẫn nhằm tăng cường lực lượng NATO ở Afghanistan. Nói một cách khác, ngay cả đồng minh trung thành và dễ bảo nhất ở Âu châu cũng không còn sốt sắng chia sẻ gánh nặng trong cuộc phiêu lưu quân sự tốn kém và tai họa của Hoa Kỳ ở ngoại vi Trung Đông. 6. Cuối cùng, trong một động thái mang tính tượng trưng, Thế Vận Hội Quốc Tế (IOC) đã bỏ qua Chicago (cũng như Madrid và Tokyo), và đã chọn Rio de Janeiro làm nơi tổ chức Thế Vận Hội Mùa Hè 2016 - lần đầu tiên một quốc gia Nam Mỹ được dành danh dự đó. Cho đến khi bỏ phiếu, Chicago được xem như một ứng viên nặng ký, nhất là từ khi T T Obama, nguyên thường trú Chicago, đích thân đến Copenhagen trực tiếp vận động với IOC. Tuy vậy, trong một diễn biến gây sốc trên toàn thế giới, Chicago không những bị loại, mà còn bị loại ngay trong vòng bỏ phiếu đầu tiên.Trong buổi lễ ăn mừng thắng cuộc ở Copenhagen, T T Luiz Inacio Lula da Silva đã nói: "Brazil đã tiến từ một quốc gia hạng hai lên một quốc gia hạng nhất, và hôm nay chúng tôi bắt đầu nhận được sự kính nể chúng tôi xứng đáng. Tôi có thể chết ngay bây giờ và việc đó kể cũng đã đáng giá" [5]. Ít ai phát biểu thẳng thắn như vậy, nhưng trong quá trình lấy quyết định của Thế Vận Hội, Hoa Kỳ trong phút chốc đã bị giáng cấp từ siêu cường duy nhất xuống hàng cũng-chỉ-một-ứng-viên -- một giây phút mang tính tượng trưng hành tinh đang đi vào một kỷ nguyên mới. HOA KỲ: MỘT QUỐC GIA BÌNH THƯỜNG Trên đây chỉ là vài ví dụ chứng tỏ kỷ nguyên siêu cường duy nhất đã chấm dứt, nhiều năm sớm hơn cộng đồng tình báo Hoa Kỳ chờ đợi. Thực vậy, các cường quốc - ngay cả các đồng minh thân cận nhất của Mỹ - hiện đang theo đuổi những chính sách đối ngoại ngày một độc lập hơn, bất kể áp lực từ Hoa Thịnh Đốn. Đã hẳn, những điều trên đây không có nghĩa trong thời gian sắp tới, Hoa Kỳ sẽ không còn giữ vị thế một nền kinh tế lớn nhất thế giới, và, tính theo khả năng hủy diệt đơn thuần, một quân lực hùng mạnh nhất. Tuy nhiên, bối cảnh chiến lược - trong đó các lãnh đạo Mỹ thường quyết định các chính sách quan trọng liên quan đến quyền lợi sinh tử của Hoa Kỳ - đã thay đổi sâu xa kể từ sau ngày khởi đầu suy thoái kinh tế toàn cầu 2008. Quan trọng hơn nữa, T T Obama và các cố vấn thân cận hình như đã bắt đầu, dù rất dè dặt, tái định hình chính sách đối ngoại của Mỹ trong bối cảnh thực tế toàn cầu đã đổi mới. Chẳng hạn, quyết định của chính quyền Obama xét lại chiến lược Afghanistan-Pakistan là tín hiệu hùng hồn mới nhất. Phải đợi đến tháng 3-2009, T T Obama mới quyết định chiến lược chống nổi dậy ở Afghanistan và Pakistan, tăng quân trên bộ, và cam kết nỗ lực tranh thủ lòng dân trong những vùng do Taliban kiểm soát. Trên căn bản đó, Obama đã thay thế tư lệnh chiến trường Afghanistan, tướng David D. McKiernan, với Tướng Stanley A. McChrystal - được xem như vị tướng có chiến lược chống nổi loạn cương quyết hơn. Tuy nhiên, khi McChrystal đệ trình kế hoạch thực thi chiến lược mới với yêu cầu tăng thêm khoảng từ 40.000 đến 80.000 quân, đa số cố vấn thân cận của Tổng Thống đều kinh ngạc. Kế hoạch leo thang cỡ đó không những sẽ đòi hỏi thêm hàng trăm tỉ USD giữa lòng khủng hoảng tài chánh, mà còn tăng thêm áp lực quá sức chịu đựng đối với quân nhân sau nhiều năm và nhiều đợt phục vụ ở chiến trường Iraq. Đã hẵn, gánh nặng tài nguyên có thể nhẹ bớt phần nào nếu các quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ chịu cùng chia sẻ, một điều khó thể tiên liệu trong thực tế chính trị thế giới hiện nay. Lãnh đạo Liên Bang Nga và TQ, dĩ nhiên, không hoàn toàn không hoan hỉ khi cuộc chiến Afghanistan-Pakistan đang làm tiêu hao tài nguyên tài chánh và quân sự vốn đã cạn kiệt của Hoa Kỳ. Trong trạng huống đó, không ai ngạc nhiên khi Phó T T Joe Biden và nhiều quan chức khác lên tiếng kêu gọi thay đổi chính sách của Hoa Kỳ: thay thế "chiến lược chống nổi loạn" (counter-insurgency) bằng "chiến lược chống khủng bố" (counter-terrorism), chỉ tập trung vào mục tiêu Al Qaeda ở Pakistan với phi cơ không người lái và các lực lượng đặc biệt, thay vì tăng quân tác chiến. Hiện còn quá sớm để tiên liệu T T Obama sẽ tái duyệt chiến lược của Hoa Kỳ ở Afghanistan và Pakistan theo chiều hướng nào. Tuy nhiên, sự kiện Obama đã không vội vã chấp thuận kế hoạch tăng quân của tướng McChrystal cũng như đã dành cho Joe Biden đủ thời gian trình bày lập trường và luận cứ của mình, cho ta thấy: Obama có thể đã nhận thức được tính điên rồ trong đề nghị leo thang chiến tranh trong khi uy lực toàn cầu của Hoa Kỳ đang trên đà tuột dốc. Người ta cũng cảm thấy sự cẩn trọng của Obama trong nhiều động thái khác gần đây. Mặc dù Obama tiếp tục nhấn mạnh không thể chấp nhận chương trình nguyên tử của Iran, và biện pháp quân sự để ngăn ngừa vẫn là một lựa chọn khả dĩ, Obama đồng thời cũng đã có những động thái rõ ràng nhằm giảm thiểu tối đa các trạng huống khả dĩ phải chọn lựa biện pháp vũ lực - một biện pháp không hề được các "đồng minh" ủng hộ. Một mặt khác, Obama đã luôn nỗ lực phục hồi sinh hoạt ngoại giao của Hoa Kỳ, tìm cách cải thiện quan hệ với Liên Bang Nga và chấp thuận tiếp cận thương thảo với Burma, Sudan và Syria. Những động thái nầy cũng đã phản ảnh thực tế thế giới đang thay đổi: thái độ bề trên, hù dọa của chính quyền Bush đối với các xứ vừa nói và thế giới bên ngoài trong 8 năm qua chẳng gặt hái được gì đáng kể. Lối ứng xử mới của chính quyền Obama có thể hiểu như đã mặc nhiên nhận thức Hoa Kỳ đang trên đà tuột dốc: từ địa vị siêu cường duy nhất của hành tinh xuống địa vị một xứ bình thường như bất cứ cường quốc nào khác. Đây chỉ là cách ứng xử thường tình của các xứ bình thường: tiếp cận và làm việc với mọi nước thông qua đường lối ngoại giao dù ưa hay không ưa chính quyền các nước đối tác. Chúng ta đang chung sống trong "thế giới 2025". Kỷ nguyên mới không giống thế giới trong quá khứ, khi Hoa Kỳ giữ địa vị siêu cường duy nhất với thái độ ngông cuồng, nhất là từ sau ngày Liên Bang Sô Viết sụp đổ. Thế giới hiện nay, trong thực tế, đã là "thế giới 2025". Đối với nhiều người Mỹ, việc đánh mất địa vị siêu cường duy nhất có thể là một nguồn bất hạnh, đớn đau, ngay cả tuyệt vọng. Nhưng ngược lại, người Mỹ cũng không nên quên những lợi điểm của "một quốc gia bình thường như bất cứ quốc gia nào khác": không ai chờ đợi Canada, hay Pháp, hay Ý gửi thêm 40.000 quân tới Afghanistan để tăng cường 68.000 quân hiện có và 120.000 quân còn kẹt ở Iraq. Cũng chẳng ai chờ đợi các quốc gia vừa kể chi tiêu 925 tỉ mỹ kim tiền thuế của người dân vào những viêc làm ngông cuồng, bất nhân và tai họa đó. [Theo Dự Án Các Ưu Tiên Quốc Gia (National Priorities Project), đó là phí tổn ước tính hiện nay cho cả hai cuộc chiến]. Vấn đề vẫn là: Cho đến bao giờ Hoa Thịnh Đốn mới nhận thức được người Mỹ không còn có thể cáng đáng và đủ khả năng tài trợ vai trò toàn cầu: bố trí quân đội trên khắp hành tinh và theo đuổi các cuộc chiến ở những nơi xa xôi dưới chiêu bài an ninh toàn cầu trong khi nền kinh tế Mỹ đang mất hết khả năng cạnh tranh trên thế giới và đang trên bờ phá sản? Đây là thế lưỡng nan T T Obama và các cố vấn của ông đang phải đối đầu trong thế giới đã đổi khác - "thế giới 2025". Ngoài ra, Ủy Ban Nobel gần đây cũng đã chơi trò cá cược thật đặc biệt. Ủy Ban đã thấy chính đáng khi cấp Giải Nobel Hòa Bình cho T T Barack Obama - vừa dọn vào Tòa Bạch Ốc cách đây 9 tháng như một tổng thống chiến tranh. Ủy Ban đã đem lại cho Obama một cơ hội lưu danh lâu bền với một thành tích đích thực chưa tổng thống Mỹ nào đạt được. Giải thưởng Nobel hòa bình còn đem lại cho Obama cơ hội dừng bước để xét lại lịch sử đế quốc của Mỹ và những gì quân lực Mỹ thực sự có thể thành đạt ở những nơi xa xôi trên thế giới. Đây cũng là cơ hội duy nhất để đối diện một cách chân thật với giới hạn quyền lực quân sự của Mỹ - những giới hạn đã được phơi bày nhiều lần qua các cuộc chiến gần đây. Và đây cũng là cơ may cho Obama tự chuyển đổi từ một tổng thống chiến tranh do thừa kế để trở thành một lãnh đạo xây dựng hòa bình theo cách riêng, và nhờ đó, có thể chứng tỏ một kỷ năng rất ít tổng thống tiền nhiệm có được: Obama đã có thể thành đạt một chiến thắng bền lâu, trong khi tiết kiệm được xương máu, sinh mạng của người Mỹ cũng như người nhiều nước khác. Hơn một trăm năm sau những nỗ lực chống các nhóm Hồi Giáo ly khai như Abu Sayyaf và Moros trên hai hòn đảo bé nhỏ, Basilan và Jolo, ở phía Nam Phi Luật Tân, quân đội Mỹ hiện nay vẫn còn phải bỏ mình trong tay những du kích Hồi giáo. Hơn 50 năm sau, Hoa Kỳ vẫn còn phải đóng quân ở miền Nam bán đảo Triều Tiên do cuộc chiến bất phân thắng bại và một nền hòa bình chưa trọn vẹn. Gần đây hơn nữa, kinh nghiệm của Hoa Kỳ còn gồm cả sự thất bại ở Việt Nam, Ai Lao, và Cambodia; tai họa ở Lebanon và Somalia; cuộc chiến chưa dứt trải dài qua bốn đời tổng thống ở Iraq; và cuộc chiến gần một thập kỷ ở Afghanistan vẫn chưa có dấu hiệu ngã ngũ. Chắc chẳng còn gì có thể chứng tỏ giới hạn quyền lực của Hoa Kỳ một cách rõ ràng hơn. Những thành tích vừa kể quả thật đáng buồn trong khi tổn hại đối với các xứ nạn nhân thật hãi hùng và người Mỹ khó lòng thấu hiểu. Xương máu và đổ nát do chính sách của Hoa Kỳ trên thế giới trong nhiều thập kỷ gần đây hẳn đã quá rõ ràng trong mắt T T Obama, người vừa được giải Nobel hòa bình, ngay cả khi các tổng thống tiền nhiệm luôn từ chối tái thẩm định một cách khách quan quyền lực của Hoa Kỳ và các cuộc chiến đầy tai họa do người Mỹ chủ xướng. Quan trọng hơn hết, trái với lời rao giảng qua guồng máy ngoại giao, quốc phòng của Mỹ, đây là những cuộc chiến không bao giờ vì lý do an ninh quốc gia của Hoa Kỳ, hay vì lý tưởng đem lại tự do dân chủ cho bất cứ quốc gia nào khác, mà chỉ vì tham vọng đế quốc ngông cuồng của các chính quyền Mỹ trong nhiều thập kỷ vừa qua. Hai con đường với hai điểm đến đang mời gọi T T Obama: hòa bình hay thất bại. CHÚ THÍCH: Bài viết dựa trên tài liệu của các tác giả William J. Astore trên wastore@pct.edu; Eric Etheridge trên NYTimes.com; John Feffer, trên Foreign Policy in Focus website; và đặc biệt từ các tác phẩm của các tác giả sau: (1)The Complex: How the Military Invades Our Everyday Lives, Nick Turse, Metropolitan Books, 2009. (2) Rising Powers, Shrinking Planet: The New Geopolitics of Energy, Michael T. Klare, Owl Books, 2009. © GS Nguyễn Trường Irvine, California, USA 12-10-2009 === [1] Although the United States is likely to remain the single most powerful actor [in 2025], [the country's] relative strength - even in the military realm - will decline and US leverage will become more constrained. [2] The G-20 true significance is not in the passing of a baton from the G-7/G-8 but from the G-1, the U.S. Even during the 33 years of the G-7 economic forum, the U.S. called the important economic shots. [3] Threats, sanctions, and threats of pressure in the current situation, we are convinced, would be counterproductive. [4] The Sino-Iran relationship has witnessed rapid development as the two countries' leaders have had frequent exchanges, and cooperation in trade and energy has widened and deepened. [5] Brazil went from a second-class country to a first-class country, and today we began to receive the respect we deserve. I could die now and it already would have been worth it.
|
|
|
Post by NhiHa on Jun 29, 2011 6:33:23 GMT 9
Thị trường nhân dụng và kinh tế Hoa Kỳ
Vietsciences-Nguyễn Trường Thanh toán Osama bin Laden chưa chắc đã có thể giúp Barack Obama tái đắc cử. Cũng như trong quá trình tranh cử của Bill Clinton năm 1992, phương châm vận động của Obama năm 2012 vẫn phải là kinh tế.[1]Ngày nay, thị trường nhân dụng khập khiễng, giá thực phẩm và xăng dầu ngày một lên cao, thị trường bất động sản trong tình trạng suy sụp..., nguy cơ không mấy khác một không tặc nào đó đang lái phi cơ đâm sầm vào nền kinh tế. Chẳng hạn, trong giới trẻ, thành phần cử tri nòng cốt của Obama, hơn bốn triệu thanh niên nam nữ từ 16 đến 24 tuổi đang thất nghiệp. Như câu chuyện ngụ ngôn về thời buổi kinh tế khó khăn, ngày 19-4-2011, hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh McDonald, lần đầu tiên, phát động ngày tuyển dụng nhân viên cho các chi nhánh trên toàn quốc và đã thu nhận 62.000 nhân công mới. Để có một ý niệm trung thực, đó là con số công ăn việc làm một công ty đem lại trong vòng một ngày - nhiều hơn tổng số công ăn việc làm mới trong năm 2009 cho toàn nền kinh tế Hoa Kỳ. Và nếu đó là con số ngoài sức tưởng tượng, thử nhớ lại con số bao nhiêu nhân công đã nộp đơn xin việc tại các chi nhánh McDonald trên toàn quốc trong cùng ngày đã phải ra về tay không và thất vọng: 938.000 người. Với 6,2% tỉ suất ứng viên trúng tuyển, McDonald đã có tỉ suất tuyển chọn khó khăn hơn cả các đại học danh tiếng Hoa Kỳ như Princeton, Stanford, hay Yale... khi tuyển chọn sinh viên. Điều nầy chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi gần 14 triệu người Mỹ đang thất nghiệp và trên dưới một triệu quá nản lòng để tiếp tục tìm kiếm việc làm. Trong trạng huống đó, họ chẳng còn lựa chọn nào khác, mặc dù kỹ nghệ thức ăn nhanh trả mức lương thấp nhất: trung bình 8,89 USD mỗi giờ, so với mức lương trung bình trong toàn khu vực kỹ nghệ Mỹ: 15,95 USD. Tính theo lương hàng năm, trung bình một nhân công trong kỹ nghệ thức ăn nhanh nói chung được trả 20.800 USD, xấp xỉ 50% số lương trung bình 43.400 USD trong toàn quốc. Mức lương McDonald trả còn thấp hơn nữa, ít ra đối với nhân công mới được tuyển dụng. Trong bản tin gửi báo chí vào ngày tuyển dụng toàn quốc, McDonald cho biết đã phải trả cho đợt tuyển dụng mới 518 triệu USD mỗi năm, hay 8.340 USD mỗi nhân công tân tuyển. Vì vậy, từ điển Anh văn Oxford đã định nghĩa việc làm ở McDonald hay "McJob" như "một việc làm lương thấp đòi hỏi ít kỹ năng và ít cơ hội thăng tiến."[2] Thực vậy, nếu chỉ đọc các tiêu đề, người ta những tưởng bức tranh nhân dụng đang được cải thiện. Nền kinh tế đã có thêm 1,3 triệu việc làm trong khu vực tư từ tháng 2-2010 đến tháng 01-2011, và thất nghiệp đã sụt giảm, từ 9,8% xuống 8,8%, từ tháng 11-2010 đến tháng 3-2011. Nhưng thất nghiệp lại tăng lên 9% trong tháng 4-2011, mặc dù sự gia tăng đã ít bi quan hơn với mẫu tin: kinh tế đã có thêm 244.000 việc làm mới trong tháng 4 (chưa kể 62.000 McJobs), vượt quá mức các kinh tế gia chờ đợi. Tuy nhiên, bên dưới những mẫu tin hơi lạc quan đó, người ta nhận thấy những dòng nước ngầm thật sự đen tối. Đã hẳn, hiện đang có một số việc làm mới, nhưng loại nào, với mức lương bao nhiêu? Có thể nào những công việc mới có thể đem lại một mực sống khiêm tốn và đủ để trả các chi phí tối thiểu? Hay người Mỹ đang sống qua thời kỳ phục hồi với McJobs? McWORKERS NGÀY MỘT GIA TĂNG Bằng chứng cho thấy kinh tế đang "hồi phục với McJobs". Theo phân tích gần đây của Dự Án Luật Nhân Dụng Quốc Gia (National Employment Law Project - NELP), tăng trưởng lớn nhất trong khu vực nhân dụng tư trong năm 2010 đã diễn ra trong các khu vực bán lẻ với lương thấp, như dịch vụ hành chánh và ẩm thực. Trong khi 23% số việc làm đã thất thoát trong Đại Suy Thoái 2008 thuộc loại lương thấp (9-13 USD/giờ), 49% việc làm mới trong "phục hồi trì trệ" cũng thuộc các kỹ nghệ loại nầy. Đối với việc làm lương cao (19-31 USD/giờ), tỉ lệ thất thoát vì Đại Suy Thoái chiếm 40% trong khi số việc làm mới nhờ Phục Hồi Trì Trệ chỉ lên tới 14%. Để so sánh, tình hình nhân dụng hiện nay còn tệ hơn nhiều, so với lần suy thoái tiếp theo sau bong bóng công nghệ xìu xẹp năm 2001. Những ngành bị ảnh hưởng nặng nề nhất lần nầy là tài chánh, biến chế, và đặc biệt là xây cất đang bị hủy hoại tiếp theo bong bóng bất động sản xìu xẹp năm 2007 và vẫn chưa thể phục hồi. Trong khi đó, theo NELP, công việc tạm thời trong các ngành quản lý rác thải, hành chánh, y tế, và dĩ nhiên, thức ăn nhanh, đã gia tăng. Thực vậy, trong năm 2010, 25% việc làm mới trong khu vực tư là những việc làm tạm thời, với rất ít phúc lợi và chẳng mấy ổn định. Và cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên, khi phái chủ thường khởi đầu sử dụng lao động tạm thời trong khi chờ đợi gầy dựng lại vị thế vững vàng hơn sau Đại Suy Thoái. Nhưng lần nầy, các công ty đã tuyển dụng một tỉ lệ nhân công tạm thời lớn lao hơn rất nhiều so với các thời kỳ tiếp theo sau các lần suy thoái trước: 26% trong năm 2010 so với 11% sau suy thoái đầu thập kỷ 1990, và chỉ 7% sau năm 2001. Như nhiều kinh tế gia lao động đã nêu rõ, trong ba thập kỷ vừa qua, chúng ta đã và đang chứng kiến hiện tượng phân cực ngày một gia tăng trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Chúng ta cũng đã và đang thấy phần lớn tỉ lệ tăng trưởng lao động tập trung ngày một nhiều ở hai cực đối nghịch của quang-phổ-kỹ-năng-và-công-xá -- nói rõ hơn, trong các loại việc làm cao cấp và loại việc làm tệ hại nhất. Tại một cực tăng trưởng việc làm, tập trung ngày một nhiều các nhân công làm burgers, trả lời điện thoại, săn sóc trẻ con, chùi dọn nhà cữa, và những công việc lương thấp khác. Tại cực bên kia là các kỹ sư, bác sĩ, luật sư, và các ngành nghề sáng tạo cấp cao, tiền lương hậu hỹ. Ở khoảng giữa, các việc làm trung cấp - lương đủ sống, giúp bành trướng giai cấp trung lưu Hoa Kỳ vào giữa thế kỷ 20 - hiện nay, với phục hồi khập khiễng bất cân xứng, ngày một khan hiếm và biến khỏi thị trường, tương tự như những gì đã và đang xảy ra với máy đánh chữ, và điện thoại hữu tuyến. Vì lẽ hình thể của lực lượng lao động ngày một phình lớn ở hai cực đối nghịch và gầy ốm teo tóp ở khoảng giữa, các kinh tế gia đã bắt đầu nói đến "hiệu ứng Barbell", có nghĩa: đối với những người bám vào cuộc sống trung lưu trong thời buổi công ăn việc làm ngày một hiếm hoi, một "đời sống ác mộng"- a nightmare life. Trong thực tế, hình thể phân phối lực lượng lao động hiện nay đang làm suy yếu khả năng thăng tiến xã hội (social mobility) một thời đã đem lại hãnh diện cho Hoa Kỳ. Và ngày nay chỉ còn lại một dốc tuột xuống chân đồi hiện hữu. Hiệu ứng Barbell cũng đã đưa đến các thang bậc bất bình đẳng về lợi tức lớn lao chưa từng thấy kể từ các thập kỷ trước Kinh Tế Đại Khủng Hoảng. Trong khoảng thời gian từ 1979 đến 2007, đối với giới trung lưu, lợi tức trung bình mỗi hộ gia đình sau khi trừ thuế đã nhích lên từ 44.000 USD đến 55.300 USD. Ngược lại, đối với 1% giàu có trên đỉnh, lợi tức trung bình mỗi hộ gia đình đã tăng vọt từ 346.000 USA năm 1979 lên gần 1,3 triệu USD năm 2007. Nói rõ hơn, mức lợi tức các gia đình giàu có đã gia tăng 11 lần nhanh hơn các gia đình trung lưu. Câu hỏi cần được đặt ra: Điều gì đã gây ra tình trạng phân cực trong lợi tức phân phối? Nguyên do rõ ràng nhất là kỹ thuật hay công nghệ. Như David Autor, kinh tế gia Viện MIT, đã ghi nhận, "các công tác tổ chức, bảo quản, truy cập, và vận dụng thông tin" trước kia được thực hiện bằng tay, ngày nay đã được điện toán hóa. Và khi các máy vi tính không thể đảm nhiệm những việc làm của thư ký hành chánh cơ bản, các chủ nhân luôn xuất khẩu loại việc làm nầy ra nước ngoài - những nơi phí tổn lao động rẻ và không có phúc lợi nào khác. Một nguyên do khác là giáo dục. Trong nền kinh tế Barbell ngày nay, chứng chỉ hay văn bằng đại học quan trọng hơn bao giờ hết. Điều nầy có nghĩa bất cứ ai với học vấn cấp trung học ngày một bị dồn xuống cực thấp nhất trên thị trường nhân dụng, với rất ít hy vọng tiến thủ. Tệ hơn nữa, hố cách biệt trong lương bổng giữa một người có học vấn cao và một người với học vấn thấp ngày một sâu thẳm hơn: năm 1979, lương giờ người có bằng đại học cao gấp rưỡi (150%) người chỉ tốt nghiệp trung học ; năm 2009, tỉ lệ lên gần gấp đôi (200%). Với bách phân trong số người, thuộc lứa tuổi từ 25 đến 34, tiếp tục học lên đại học, ngày một sụt giảm ở Hoa Kỳ, không có gì đáng ngạc nhiên khi chênh lệch trong mức công xá ngày một tệ hại hơn. David Autor viết, "các nền kinh tế tiền tiến như Hoa Kỳ luôn lệ thuộc vào các nhân công có học vấn cao để phát huy và thương mãi hóa các sáng kiến - những lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế."[3] Người Mỹ bình thường cũng hiểu rõ hiệu ứng gây méo mó của nền kinh tế Barbell. Trong cuộc thăm dò Gallup gần đây, đa số dân Mỹ đều đồng ý Hoa Kỳ hoặc đang trong tình trạng khủng hoảng (29%) hoặc suy thoái (26%). Tuy nhiên, khi phân loại theo lợi tức, những người có mức lợi tức trên 75.000 USD mỗi năm thường có khuynh hướng tin: không có suy thoái hay khủng hoảng, kinh tế đang tăng trưởng. Điều nầy cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên. Xét cho cùng, chính họ là tầng lớp đã được hưởng lợi từ thị trường chứng khoán và doanh lợi của các đại công ty và Wall Street đang lên cao trở lại. Ngược lại, đối với tầng lớp trung lưu, 55% nhận định nền kinh tế đang gặp nhiều khó khăn. Họ đang mong đợi hồi phục. VAI TRÒ CÁC ĐẠI CÔNG ĐOÀN NGÀY MỘT MỜ NHẠT Tuy vậy, những thay đổi lớn lao trong toàn bộ nền kinh tế, như David Autor và nhiều kinh tế gia khác đã mô tả, vẫn chưa phản ảnh đầy đủ thực trạng kinh tế. Chúng ta cần lưu ý thành tố chính trị quan trọng trong hiện tượng rỗng ruột của lực lượng lao động và ngày một nghèo khó của giới trung lưu: ảnh hưởng ngày một mờ nhạt của lao động có tổ chức. Kể từ thập kỷ 1950, ảnh hưởng của các công đoàn trong cả hai khu vực công và tư đã luôn suy giảm, hàng ngũ đoàn viên ngày một thưa thớt, và ảnh hưởng chính trị ngày một suy yếu khá nhiều. Đã từ lâu, đâu còn những ngày lãnh đạo các công đoàn - như George Meany của AFL-CIO hay Walter Reuther của UAW - luôn được các tổng thống lắng nghe... Thực vậy, Kevin Drum của tạp chí Mother Jones đã ghi nhận: một sự rạn nứt, trong hai thập kỷ 1960 và 1970, giữa các nghiệp đoàn lao động lớn và Đảng Dân Chủ. Năm 1972, AFL-CIO đã lánh xa phe Dân Chủ khi từ chối ủng hộ ứng cử viên tổng thống của Đảng - George McGovern. Cùng lúc, giới đại doanh nhân đã được động viên và kết hợp thành những nhóm vận động lớn lao, như Bàn Tròn Doanh Nghiệp (Business Roundtable), và Phòng Thương Mãi Hoa Kỳ (U.S.Chamber of Commerce), hai guồng máy vận động hành lang hùng mạnh. Trong hai thập kỷ 1980 và 1990, Đảng Dân Chủ đã nghiêng dần về phía hữu và hướng đến một cộng đồng doanh nghiệp ngày một áp đảo - thiết lập Hội Đồng Lãnh Đạo Dân Chủ (Democratic Leadership Council), thiên về Phe Các Đại Công Ty Hoa Kỳ (corporate America). Theo Kevin Drum, "Đây không phải vì giới lao động đã từ bỏ Đảng Dân Chủ. Sự thật trái ngược: Đảng Dân Chủ hầu như đã từ bỏ tầng lớp lao động."[4] Thực vậy, Đảng Cộng Hòa đã có một lịch sử lâu dài chống phá lao động có tổ chức, và không có gì rõ ràng hơn là sự tấn công gần đây của đảng đối với quyền lợi giới lao động. Hỗ trợ bởi làn sóng dâng cao năm 2010, phe Cộng Hòa với đa số mới trong cơ quan lập pháp các tiểu bang, từ Wisconsin đến Tennessee đến New Hampshire, đã là tác giả nhiều pháp chế nhằm đảo ngược thành quả qúa trình thương lượng tập thể của công đoàn trong khu vực công, thành trì cuối cùng tương đối vững mạnh của giới lao động có tổ chức. Những tính toán bên sau cuộc chiến chống công đoàn trong khu vực công khá rõ rệt: đập quỵ gối đại công đoàn là đạp đổ trụ cột căn bản của Đảng Dân Chủ. Trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ, Liên Hiệp Công Nhân Viên các Tiểu Bang, Quận, và Thị Xã (the American Federation of State, County, and Municipal employees - AFSCME) đã chi ra gần 90 triệu USD để tài trợ các chiến dịch vận động qua truyền hình, truyền thanh, điện thoại, điện thư, báo chí, truyền thông, và nhiều hình thức yểm trợ các ứng viên Dân Chủ khác. Pháp chế chống công đoàn, do Đảng Cộng Hòa chiếm đa số trong cơ chế lập pháp bảo trợ, đã gây nhiều tai họa nghiêm trọng cho AFSCME và nhiều công đoàn trong khu vực công, cũng như đã làm suy yếu hàng ngũ đoàn viên và thế lực thương thảo tập thể. Và như đã được chứng tỏ bởi tiểu bang vừa mới tham gia vào cuộc chiến chống phá các công đoàn, không những chỉ phe Cộng Hòa đã và đang nổ lực bào mòn thế lực của giới lao động. Ở Massachusetts, tiểu bang thuộc khuynh hướng tự do, Quốc Hội Tiểu Bang, với phe Dân Chủ chiếm đa số, gần đây cũng đã biểu quyết hạn chế quyền thương nghị tập thể tranh đấu cho quyền lợi y tế của giáo chức, lính cứu hỏa, và công nhân viên nhà nước. Thế lực thương thảo là thiết yếu đối với các công đoàn, bởi lẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến mức công xá và quyền lợi hàng tháng của đoàn viên. Theo dữ liệu của Văn Phòng Thống Kế Lao Động (Bureau of Labor Statistics), lương hàng tuần của đoàn viên cao hơn lương các nhân công không phải đoàn viên, trung bình khoảng 200 USD, hay 28%. Các quyền lợi của đoàn viên còn cao hơn đối với phụ nữ và sắc dân thiểu số: 34% đối với nữ đoàn viên và 51% đối với các đoàn viên gốc La Tinh. Nói một cách khác, vào lúc giới lao động trung lưu đang cần một thế lực đòn bẩy thương thảo mạnh mẽ để có thể duy trì một mức công xá đủ sống trong nền kinh tế Barbell, các công đoàn ở Mỹ lại phải đối diện với một viễn tượng đen tối đang mất dần những quyền lợi thiết thân vừa nói. Những thực trạng phân tích trên đây nêu lên một số câu hỏi: Bằng cách nào người Mỹ có thể cứu vãn giới trung lưu và tái định hình cơ chế phân phối lợi tức trong nền kinh tế Barbell hiện nay? Hay liệu diễn tiến phục hồi méo mó của kinh tế Hoa Kỳ sẽ dọn đường cho một nền kinh tế méo mó hơn nữa (more warped McEconomy), với những người-nghèo-khó-yếu-kém ở một cực, những người giàu-sang-có-tất-cả ở cực đối nghịch, và khoảng giữa với đám người ngày một thưa thớt hiếm hoi? Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.D. 17-6-2011 [1] It's the economy, stupid. [2] McJob as a low-paying job that requires little skill and provides little opportunity for advancement. [3] ...Advanced economies like ours depend on their best educated workers to develop and commercialize the innovative ideas that drive economic growth. [4] It's not that the working class [had] abandoned Democrats. It's just the opposite: The Democratic Party [had] abandoned the working class.
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 12, 2011 9:19:12 GMT 9
Washington và văn hóa chiến tranh
Vietsciences- Nguyễn Trường Cho đến nay, mặc dù Bảo Vệ Thường Dân Libya là sứ mệnh hạn chế do Hội Đồng Bảo An LHQ quyết định và đã được nói đến khá nhiều, chính quyền Obama và các quốc gia đồng minh trong khối NATO rõ ràng đang theo đuổi mục tiêu thay đổi chế độ ở Tripoli, giống hệt chính quyền Bush đã làm trước đây ở Baghdad, Iraq. Thực vậy, chính quyền Bush đã trắng trợn tuyên bố quyết định đối với số phận của Saddam Hussein và Iraq. Chiến dịch không tạc đầu tiên nhằm thanh toán Saddam và các cộng sự viên cao cấp luôn được mô tả như những nỗ lực trực tiếp tấn công vào tổng thống và các lãnh đạo đầu não[1]. Lần nầy, các cuộc tấn công vào dinh tổng thống và những nơi tình nghi Gaddafi thường có mặt luôn được kèm theo những cãi chính: không nhằm ám sát hay lật đổ lãnh tụ Libya. Nhưng thực tế vẫn luôn là thực tế và nỗ lực thay đổi chế độ vẫn luôn là nỗ lực thay đổi chế độ, dù các quan chức chính quyền Obama muốn gọi là gì chăng nữa. Khi quyết định tấn công với phản lực cơ, phi cơ không người lái, và sau đó, trực thăng Apache, các lực lượng xâm lăng rõ ràng đã phát động một dạng " Sốc và Kinh Hoàng" tương tự chiến dịch mở đầu cuộc xâm lăng Iraq. Với hàng loạt không kích ồ ạt, Hoa Kỳ và các đồng minh hy vọng để lại sau một chính quyền không người lãnh đạo hay một chế độ đã đổi thay. Tuy nhiên, cũng như không lực đã từng gây thất vọng trước đây, chiến dịch không tạc ở Libya lần nầy cũng chẳng mấy khác. Tất cả những khó khăn của chính quyền Obama với Quốc Hội và với Nghị Quyết Quyền Hạn Thời Chiến đều bắt nguồn từ niềm tin: với sức mạnh kinh hoàng của Mỹ, cuộc chiến sẽ sớm đạt được kết quả mong muốn. Thực tế đã ngược lại. CHIẾN TRANH CHỐNG TỪ ĐIỂN Thay vì tìm cách thuyết phục Quốc Hội đúng theo hiến pháp và Nghị Quyết Quyền Hạn Thời Chiến 1973[2], Chính quyền Obama đã đưa ra một lối biện minh đáng lưu ý về cuộc chiến Libya. Chiến đấu cơ Hoa Kỳ cất cánh, xâm nhập không phận Libya, nhận diện mục tiêu, dội bom gây thương vong và đổ nát. Đó là chiến tranh! Vài người bảo đây là cuộc chiến tốt, một số khác bảo đây là cuộc chiến xấu xa, nhưng trong mọi tình huống, chắc chắn đó là chiến tranh. Tuy vậy, chính quyền Obama nhấn mạnh không phải chiến tranh. Lý do: theo tài liệu "United States Activities in Libya"(Các Hoạt Động của Hoa Kỳ ở Libya), một phúc trình dài 32 trang công bố tuần rồi, "các hoạt động của Hoa Kỳ không liên quan đến tác chiến dài lâu, hay tích cực chiến đấu chống lại các lực lượng thù nghịch, cũng không có sự hiện diện của bộ binh, không có thương vong Mỹ, hay do đó, không một đe dọa nghiêm trọng hay bất cứ cơ hội leo thang đáng kể nào có thể trở thành xung đột với các yếu tố đặc trưng vừa nói."[3] Nói một cách khác, cán cân lực lượng nghiêng hẳn về phía Mỹ đến độ không một người Mỹ tử vong hay tánh mạng bị đe dọa. Và với chính quyền Obama, hình như chỉ có chiến tranh khi có thương vong từ phía Mỹ. Khi chỉ có người Libya chết, đó chỉ là một cái gì khác, rõ ràng chưa có tên gọi. Theo người Mỹ, khi họ (người Libya) tấn công, đó là chiến tranh. Khi chúng ta (người Mỹ) tấn công, không phải là chiến tranh. Điều nầy không thể xếp loại như những gì khác hơn một lối tư duy kỳ quặc và tùy thuộc ở một sự kiện kỳ quặc: vào thời đại chúng ta, trong thực tế, một vài xứ (hay chỉ có Mỹ), lần đầu tiên trong lịch sử, có thể gây chiến mà không phải sướt da. Sự thật nầy hầu như đã thật sự xẩy ra với chiến dịch oanh tạc Serbia năm 1999, khi chỉ một phi cơ Mỹ bị bắn rơi (và viên phi công đã được kịp thời ứng cứu). Hình ảnh tượng trưng cho chiến cuộc mới là phi cơ không người lái - predator drone - biểu tượng của chính quyền Obama. Người điều hành cuộc chiến có thể làm việc tại một căn cứ không quân an toàn ở Nevada hay ở Langley, Virginia, trong khi phi cơ không người lái bay lượn trên không phận Afghanistan, Pakistan, Yemen, hay Libya, từ trời cao trút tên lửa và đạn bom tàn phá. Chiến tranh loại nầy không đem lại thương vong cho phía gây chiến vì không có quân đội ở gần chiến trường - nếu có thể nói như thế về những gì hiện đang diễn tiến. Chúng ta có thể rút ra vài kết luận kỳ quặc từ lối tư duy kỳ lạ và những sự kiện kỳ lạ. Trước đây, tấn công một xứ là một hành động chiến tranh, không cần biết ai đã khởi đầu hay điều gì sẽ xẩy đến kế tiếp. Ngày nay, chính quyền Obama lại chủ trương: nếu địch thủ không thể đánh trả, là không có chiến tranh. Trong trường hợp nầy, địch thủ của Hoa Kỳ có một động lưc mới vì, nếu không ngang sức, ít ra cũng phải gây cho "chúng ta" một thiệt hại nào đó. Chỉ lúc đó, "họ" mới được luật pháp bảo vệ, mới có quyền nói đến chiến tranh. Nếu không, "họ" hoàn toàn lệ thuộc sự tùy hứng của tổng thống Mỹ. Nghị Quyết Quyền Hạn Thời Chiến chỉ cho phép tổng thống Mỹ khởi động các chiến dịch quân sự khi Hoa Kỳ bị trực tiếp tấn công, khi có "tình trạng khẩn cấp quốc gia", khi Hoa Kỳ, lãnh thổ hay thuộc địa hay quân đội Hoa Kỳ bị tấn công."[4] Tuy nhiên, chính quyền Obama đã biện minh hành động can thiệp vào nội tình Libya trên căn bản không có đe dọa gì đối với lực lượng xâm lăng, nói gì đến lãnh thổ của Hoa Kỳ. Ở đây, người ta nhận thấy có sự song hành với chính quyền Bush, không phải về cuộc chiến Libya (còn đang tranh cãi), mà về vấn đề tra tấn (hoàn toàn đáng trách). T T Bush muốn hành động tra tấn do ông ra lệnh không bị xem như tra tấn. Vì vậy, ông đã sắp xếp để luật sư Bộ Tư Pháp soạn thảo các ý kiến pháp lý loại trừ vài hình thức tra tấn, như trấn nước -waterboarding - khỏi định nghĩa của từ nầy. Hình thức nầy, vì vậy, đã được gọi "các kỹ thuật tra vấn tăng cường."[5] Ngày nay, Obama muốn xem cuộc chiến Libya không phải là một cuộc chiến, và vì vậy, đã tự mình thay đổi định nghĩa một loại chiến tranh nào đó - loại không có thương vong từ phía Mỹ - là không phải chiến tranh, mặc dù không được chính các luật sư của ông hoàn toàn ủng hộ. Do đó, với cuộc chiến Libya, từ "chiến tranh" trong từ điển Anh ngữ đang bị tấn công. Trong chiến dịch tái định nghĩa ngôn từ của Mỹ , một từ đang được tách khỏi ý nghĩa thông thường được chấp nhận của nó. Ý nghĩa các từ ngữ là một trong số ít địa hạt chung các cộng đồng cùng chia sẻ một cách tự nhiên. Một khi ý nghĩa một từ đã được nhất trí, giờ đây, bị thách thức, không ai có thể sử dụng từ đó mà không kích động những tranh luận mang tính giả tạo, như đã từng xẩy ra với từ "tra tấn". Chẳng hạn, các cơ quan thông tin dòng chính, phục tùng các quyết định của George Bush về ý nghĩa một số từ, đã ngưng gọi hình thức "trấn nước" là tra tấn và đã khởi sự thay thế bằng nhiều cụm từ: "kỹ thuật lấy cung hữu hiệu", hay "đối xử tàn nhẫn", hay "thủ thuật ngược đãi"[6], v.v... Đến nay, liệu các cơ quan truyền thông có ngừng gọi cuộc chiến Libya là một cuộc chiến? Hiện chưa có mỹ từ thay thế phổ cập, mặc dù ngay sau khi khởi động tấn công Libya, một viên chức chính quyền Obama đã đề nghị cụm từ "hành động quân sự năng động"[7], và gần đây hơn nữa, trong phúc trình 32 trang, từ được ưa chuộng là "các chiến dịch hành quân hạn chế".[8] Đã hẳn không sớm thì muộn rồi cũng sẽ có một từ thuận tai hay dễ nghe hơn. Bằng cách nào chính quyền Obama đã tự đặt mình vào hoàn cảnh trớ trêu như vậy? Một cuộc phỏng vấn do hai phóng viên báo New York Times, Charlie Savage và Mark Landler, với cố vấn pháp lý Bộ Ngoại Giao, Harold Koh, ít ra cũng rọi chút ánh sáng vào vấn đề. Nhiều quan chức hành pháp và lập pháp đã nghi ngờ tính hợp hiến của Nghị Quyết Quyền Hạn Thời Chiến, với luận cứ: Nghị Quyết đã thách thức các đặc quyền của tổng thống. Một số khác, như Phó Trợ Lý Bộ Trưởng Tư Pháp John Yoo trong chính quyền Bush, đã lập luận: Hiến Pháp dự liệu Quốc Hội giữ quyền tuyên chiến không có nghĩa những gì nhiều độc giả đã nghĩ, và vì vậy, tổng thống có toàn quyền khởi động mọi thứ chiến tranh... Koh từ lâu đã chống đối lối giải thích nầy, và trong một cách nào đó, ngay bây giờ, vẫn duy trì cùng lập trường. Thay mặt chính quyền, Koh vẫn hậu thuẩn quyền tuyên chiến của Quốc Hội và tính hợp hiến của Nghị Quyết Quyền Hạn Thời Chiến. Ông đã tuyên bố với báo Times: "Chúng tôi không nói tổng thống có thể tự mình đưa xứ sở vào chiến tranh. Chúng tôi không nói Quyết Nghị Quyền Hạn Thời Chiến là vi hiến hay cần được xóa bỏ, hay chúng tôi có thể từ chối tham vấn Quốc Hội. Chúng tôi chỉ nói tính hạn chế của sứ mệnh đặc biệt nầy không phải là loại xung đột dự liệu trong Quyết Nghị Quyền Hạn Thời Chiến."[9] Để tránh thách thức luật pháp hiện hữu, họ buộc lòng đã phải tấn công từ điển. Do đó, khi quyết định xúc tiến chiến tranh không có bất cứ hình thức cho phép nào của Quốc Hội, chính quyền Obama đã thách thức hoặc luật pháp hoặc ý nghĩa thông thường của ngôn ngữ. Hoặc luật pháp, hoặc ngôn ngữ sẽ phải chịu lép vế. Chính quyền Obama đã chọn ngôn ngữ. CƠN SỐT CỨU THẾ VÀ THIÊN MỆNH Thỉnh thoảng, chính trị Hoa Kỳ lại lên cơn sốt cứu thế. Mỗi khi cơn sốt đăc biệt lên cao, trong cơn mê sảng, Hoa kỳ đã chứng tỏ nhiều triệu chứng: "ảo tưởng vĩ đại" và "xử sự điên cuồng". Một khi cơn sốt qua đi, và tâm trí dần dần hồi phục, hầu hết người Mỹ đều thích quên đi hoặc chẳng muốn quan tâm. Không ích gì phải vướng víu hay bận lòng với quá khứ. Trong cơn mê sảng năm 1898, người Mỹ đã tự cảm nhận có thiên mệnh giải phóng "dân Cuba bị đè nén."Sau khi lấy lại bình tỉnh, và đã thủ đắc một số bất động sản giữa Puerto Rico và Phi Luật Tân, không ai có thể giải thích việc gì đã xẩy ra và vì sao. Năm 1917, người Mỹ lại thêm một lần lên cơn sốt, điên cuồng tham dự một cuộc chiến để chấm dứt mọi chiến tranh. Nhưng lần nầy cơn đau buồn đã chóng qua mặc dù quá trình trị liệu với hòa ước Versailles khá nhức nhối. Thập kỷ 1960 cũng đã mang lại cơn sốt với quá nhiều thất vọng. Cơn mê sảng không thể cưởng - sẵn sàng trả mọi giá, chấp nhận mọi gánh nặng - đã đẩy người Mỹ vào vũng lầy Việt Nam. Cuộc tháo chạy khỏi Sài Gòn năm 1975 hình như đã chủng ngừa cơ thể chính trị của Mỹ, và trong một thời gian ngắn, đã ngăn ngừa được cơn mê sảng tái diễn. Tuy vậy, hiệu quả lành mạnh của Hội Chứng Việt Nam đã chứng tỏ chóng qua. Vào lúc chiến tranh lạnh cáo chung, người Mỹ lại lên cơn sốt với nhiệt độ kỷ lục. Từ Hoa Thịnh Đốn, cao trào điên loạn lố lăng lại trổi dậy và người Mỹ dốc lòng áp đặt bá quyền toàn cầu và mô hình dân chủ tự do chung cuộc của lịch sử lên nhân loại. Với biến cố 11-9, cơn sốt đơn giản đã vượt mọi giới hạn. Quốc gia cứu thế thật sự giận dữ và quyết định ra tay sắp đặt lại trật tự thế giới. Gần mười năm đã trôi qua kể từ khi Hoa Thịnh Đốn khởi đầu đặc biệt lưu tâm đến vùng Trung Đông nới rộng. Cuộc vận động đã không mấy thành công. Trong thực tế, trong khi theo đuổi thiên mệnh cứu thế, Hoa Kỳ đã ngày một kiệt sức. Ngày nay, cơn sốt hậu 11-9 đã có dấu hiệu suy giảm. Chứng cớ chỉ mang tính phân bộ và tạm thời. Căn bệnh còn lâu mới chấm dứt. Điều kỳ lạ là tình trạng cứ lây lất, nghiêm trọng nhất ngay trong Bạch Ốc Obama, nơi khuynh hướng thể hiện các lý tưởng của Hoa Kỳ qua các chiến dịch dội bom hình như không hề suy giảm. ROBERT GATES - MỘNG VÀ THỰC Tuy nhiên, mặc dù một số viên chức trong chính quyền Obama tiếp tục thôi thúc và sau gần một thập kỷ vẫy vùng tự chuốc lấy tai họa, viễn ảnh hồi phục cuối cùng đã có vẻ ngày một sáng sủa hơn. Sau đây là vài tín hiệu: Ngay trong Vành Đai Hoa Thịnh Đốn, người Mỹ không còn mặc cảm tội lỗi mỗi khi nghi ngờ tình trạng bất lực của chính Hoa Kỳ. Hãy lấy trường hợp của Robert Gates. Vị bộ trưởng quốc phòng vừa hưu trí vì thấm mệt rất có thể là quan chức cao cấp nhất trong thập kỷ vừa qua đã rời nhiệm sở với thanh danh không những nguyên vẹn, mà còn thực sự lên cao. Tuy nhiên, song song với thành tích đã mang lại một lớp sơn mỏng thẩm quyền và trách nhiệm cho Ngũ Giác Đài, di sản của Gates còn có thể tìm thấy trong ý niệm sẵn sàng, tuy muộn màng, công nhận giới hạn của quyền lực Hoa Kỳ. Ý tưởng - người Mỹ nên tránh chiến tranh ngoại trừ trường hợp tuyệt đối cần thiết - không còn có nghĩa một chủ thuyết cô lập phôi thai. Một lần nữa, đây là dấu hiệu khôn ngoan đời thường, với Gates như một lãnh đạo quan tâm. Khiêm tốn đang trở thành một đức tính khả kính. Không ai có thể buộc tội Gates là người chủ trương cô lập hay một viên chức an ninh quốc gia yếu đuối, thiếu tự tin. Ông cũng không phải là người thích tránh né trách nhiệm hay thiếu quyết đoán. Vì vậy, khi Gates nói bất cứ ai đề nghị một cuộc chiến lớn trên bộ ở Trung Đông mở rộng đều "cần đi kiểm tra lại não bộ" - nhại theo lời của Douglas MacArthur, nhiều người đã ghi nhận. Hay gần đây hơn, Gates đã đưa ra nhận xét: "Tôi đang cầm đầu một đội quân kiệt sức. Hãy hoàn tất các cuộc chiến đang tiếp diễn và tiếp tục tập trung vào đó thay vì tính đến các cuộc chiến lựa chọn khác."[10] Ai đó nên khắc câu nầy vào các tường ngoài Cánh Đông Ngũ Giác Đài. Sáu năm về trước, "chiến tranh lựa chọn" luôn náo nhiệt rộn ràng khắp Hoa Thịnh Đốn. Nay không còn ồn ào nữa. Cám ơn, ngài Bộ Trưởng. Hay hãy nói chuyện với đội ngũ các sĩ quan. Nhiều sĩ quan đang thay đổi. Có nhiều dấu hiệu cho thấy ngay chính đội ngũ nầy cũng đang nghĩ lại vai trò của quân lực Hoa Kỳ. Chẳng hạn, Phúc Trình Chiến Lược Quốc Gia (A National Strategic Narrative), do Woodrow Wilson Center for Scholars phổ biến hồi đầu năm, đã được nhiều người tán thưởng. Tác giả của phúc trình là hai sĩ quan chuyên gia, một đại úy hải quân, và một đại tá thủy quân lục chiến. Các bạn sẽ không tìm thấy trong phúc trình chủ nghĩa sô vanh hiếu chiến, khoác lác, độc tôn, và đòi hỏi một ngân sách quân sự ngày một lớn hơn. Nếu có một nét đặc trưng chung thì đó là tính thực tiễn. Thay vì theo đuổi tham vọng bá quyền, các tác giả đều muốn tập trung vào đầu tư quốc nội để tái xây dựng một nền kinh tế có đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Họ hiểu rõ, thế giới rộng lớn và phức tạp, không một quốc gia riêng lẻ nào có thể thống lĩnh lâu dài. Mọi tham vọng lớn lao tự nó sẽ thất bại. Họ viết: Là người Mỹ, chúng tôi không cần tìm kiếm tình bạn của toàn thế giới hay rao giảng các đức tính của xã hội chúng tôi. Chúng tôi cũng chẳng tìm cách bắt nạt, dọa dẫm, tán tỉnh, hay thuyết phục người khác chấp nhận các giá trị đặc thù của chúng tôi hay san sẻ các mục tiêu quốc gia của chúng tôi. Thay vào đó, chúng tôi sẽ để những kẻ khác tự rút kết luận căn cứ trên hành động của chúng tôi...Chúng tôi sẽ theo đuổi quyền lợi quốc gia của chúng tôi và để kẻ khác theo đuổi quyền lợi quốc gia của chính họ..."[11] Theo Andrew Bacevich, giáo sư sử học và quan hệ quốc tế Đại Học Boston, "các bạn có thể gạt ra ngoài tai điều nầy, xem đó chẳng qua là một suy ngẫm đặc ứng của hai sĩ quan đã sống quá lâu và não bộ đã bị thiêu đốt bởi mặt trời Iraq hay Afghanistan. Tôi thì không. Điều thuyết phục tôi nghĩ khác là dòng trao đổi điện thư tích cực những ngẫm nghĩ của chính tôi về việc sử dụng sai lầm hay lạm dụng quyền lực của Hoa Kỳ trao đổi hàng tuần với các sĩ quan đang công tác. Đây không phải một mẫu có tính khoa học, nhưng những đại úy, thiếu tá, trung tá tôi nghe đều nhất trí với hai tác giả. Ruột gan của họ đầy ắp chiến tranh của Mỹ trong thế kỷ 21 và họ thực sự sẵn sàng thảo luận tìm cách tái thẩm định phương cách tiếp cận căn bản các vấn đề an ninh quốc gia."[12] Và cuối cùng một nhận xét về Quốc Hội Hoa Kỳ. Ngay lúc định chế nầy hình như đã đi vào tình trạng thực vật lâu dài, sinh hoạt thông minh, dù chỉ bập bùng, lại tái xuất hiện. Dấu hiệu đã khá rõ ràng khi hai phe Cộng hòa và Dân chủ, mặc dù do nhiều lý do khác nhau, đang nêu nhiều câu hỏi nghiêm chỉnh về khuynh hướng vồ vập nhiều cuộc chiến không hạn kỳ của Mỹ. Vài dân biểu và nghị sĩ tỏ ra quan tâm đến Hiến Pháp và sự lạm quyền của ngành hành pháp. Một số khác âu lo về chi phí chiến tranh. Với Osama bin Laden đã vĩnh viễn biến khỏi chính trường, nhiều nhóm khác lại muốn nhấn mạnh: đã đến lúc phải tái tư duy các ưu tiên chiến lược. Đã hẳn tính toán phe đảng hay tham vọng cá nhân cũng hiện diện song hành với vấn đề nguyên tắc. Xét cho cùng, họ đều là chính trị gia. Trước kết quả các cuộc thăm dò công luận cho thấy đa số dân Mỹ ngày một thù ghét bức xúc với cuộc chiến Afghanistan, ngày nay hành động phản chiến không còn đòi hỏi phải đủ can đảm chính trị. Tuy vậy, tính khả dĩ của ý tưởng tái khẳng định vai trò thẩm định quyền lợi quốc gia trong mọi cuộc chiến của các nhà lập pháp, thay vì chỉ nhắm mắt thông qua ngân sách chiến tranh, nay đã ngày một rõ nét. Dân Mỹ phải cám ơn Chúa. Đã hẳn, vấn đề hòa hay chiến vẫn chưa đến hồi ngã ngũ. Mặc dù đã loan báo kế hoạch rút quân tượng trưng khỏi Afghanistan, lập trường của Tổng Thống Obama hình như vẫn chưa hoàn toàn dứt khoát. Hàng ngũ các lực lượng vận động hành lang và các định chế tư vấn vẫn đông nghẹt những người chủ trương tuyên chiến với Syria hay Iran. Trước những dấu hiệu tự chế đầu tiên, những nhóm nầy luôn có thể trông cậy vào những thành phần như Nghị sĩ John McCain hay ban biên tập báo Wall Street Journal luôn lớn tiếng than phiền thái độ cô-lập, rút-quân, thiếu-hiểu-biết-lịch-sử, chặt-cầu, và quay-lưng với thế-giới. Đối với những nhóm nầy, cơn sốt luôn ở mức 104 độ và ngày một lên cao. Tuy nhiên, những tín hiệu tự chế nói trên có thể là mực thước đo lường tình hình đã đổi thay nhanh chóng khi chính McCain, nổi danh bộc trực, nay cũng đang tỏ ra chòng chành, mất phương hướng. Cứ đà này, sau gần một thập kỷ vẫy vùng điên loạn, hình như thái độ phải chăng, túi khôn đời thường, và tục thức, cuối cùng cũng đã bắt đầu hồi phục. CHIẾN TRANH, LÃNH ĐẠO VÀ THẦN DÂN Như mọi người đều biết, hai cuộc thế chiến I và II trong thế kỷ 20 đã giúp đẩy Hoa Kỳ lên địa vị siêu cường với nhiều tham vọng nung đúc bởi cao trào chống Cộng và chống khủng bố. Ở Hoa Kỳ, phe nào đã quyết định gửi quân xâm lăng các nước ngoài? Cũng như nước Pháp trong thế kỷ 18, một siêu cường Âu châu với một quân lực áp đảo các quốc gia láng giềng, với các vị hoàng đế , các tướng lãnh và cận thần trong Điện Versailles đã giữ vai trò quyết định chiến tranh, nước Mỹ, trong thế kỷ 21, hân hoan với vai trò siêu cường duy nhất với một quân lực hùng mạnh nhất thế giới, tổng thống, các tướng lãnh, và cận thần trong guồng máy an ninh quốc gia Hoa Thịnh Đốn, đã quyết định gửi quân xâm lăng Iraq, Afghanistan, và ngày nay ngay cả Libya. Cũng như nước Pháp trong hai thế kỷ 17 và 18, ở Hoa Kỳ ngày nay, Đẳng Cấp Thứ Nhất gồm giới giáo sĩ hay các định chế tài chánh và ngân hàng ở Wall Street (giữ vai trò giáo sĩ và quý tộc của Pháp), Đẳng Cấp Thứ Hai gồm Tòa Bạch Ốc, Ngũ GIác Đài, Quốc Hội, và giới Vận Động Hành Lang ở K Street, tất cả trong Vành Đai Hoa Thịnh Đốn. Đồng minh rẽ tiền là Đẳng Cấp Thư Ba gồm tất cả thần dân còn lại. Không mấy ai lấy làm ngạc nhiên giới thượng lưu bên trong Vành Đai Hoa Thịnh Đốn đã luôn hành động không mấy khác Vương Triều Louis XIV. Dù thuộc thành phần nào trong Đẳng Cấp Thứ Ba, giới thượng lưu Hoa Thịnh Đốn, nhân danh họ mỗi khi phát động chiến tranh, cũng không hề quan tâm đến những tư duy của họ, chẳng khác Louis XIV và Điện Versailles chẳng hề dành chút quan tâm đến những ước muốn của thần dân. Những cuộc chiến giới hạn triền miên vì quyền lợi của giới cầm quyền, những khiếm hụt ngân sách khổng lồ do chi phí chiến tranh, thái độ từ chối hay tảng lờ trước mọi bực t ức, thương vong, đau khổ, của người dân, tất cả những hiện tượng đó đều rất quen thuộc với các sử gia. Cũng như các Vương Triều Pháp trước đây, giới lãnh đạo các cuộc chiến mới hiện nay ở Hoa Thịnh Đốn tự mình đang đánh mất dần tính chính đáng. Trong khuynh hướng tham lam, làm giàu cho bản thân và phe nhóm, và giàn trải quân lực trên toàn cầu một cách vô trách nhiệm, giới lãnh đạo Hoa Kỳ đã hành động tương tự các vua chúa và triều thần Pháp quốc, cuối cùng đã xô đẩy nước Pháp vào tai họa kinh tế và bạo lực cách mạng. Người ta có quyền tự hỏi phải cần bao nhiêu cuộc chiến, bao nhiêu nghìn tỉ mỹ kim nợ nần vì chiến tranh, bao nhiêu thương vong còn phải gánh chịu trước khi dân Mỹ có thể đòi lại quyền lựa chọn chiến tranh hay hòa bình trước khi phá sản? Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 05-7-2011 [1] decapitation attack. [2] War Powers Resolution of 1973. [3] U.S. operations do not involve sustained fighting or active exchanges of fire with hostile forces, nor do they involve the presence of U.S. ground troops, U.S. casualties or a serious threat thereof, or any significant chance of escalation into a conflict characterized by those factors. [4] ...when there is "a national emergency created by attack upon the Unied States, its territories or possessions, or its armed forces." [5] ..enhanced interrogation techniques. [6] ...enhanced interrogation techniques, harsh treatment, abusive practices.... [7] ...kinetic military action. [8] ...limited military operations. [9] We are not saying the president can take the country into war on his own. We are not saying the War Power Resolution is unconstitutional or should be scrapped or that we can refuse to consult Congress. We are saying the limited nature of this particular mission is not the kind of hostilities envisioned by the War Power Resolution. [10] I've got a military that's exhausted. Let's just finish the wars we're in and keep focused on that instead of signing up other wars of choice. [11] As Americans, we needn't seek the world's friendship or proselytize the virtues of our society. Neither do we seek to bully, intimidate, cajole, or persuade others to accept our unique values or to share our national objectives. Rather, we will let others draw their own conclusions based upon our actions... We will pursue our national interests and let others pursue theirs... [12] Andrew Bacevich: "You might dismiss this as the idiosyncratic musing of two officers who have spent too much time having their brains baked in the Iraqi or Afghan sun. I don't. What convinces me otherwise is the positive email traffic that my own musings about the misuse and abuseof American power elicit weekly from serving officers. It's no scientific sample, but the captains, majors, and lieutenant colonels I hear from broadly agree with the authors. They've had a bellyfuf of twenty-first-century American war and are open to a real debate over how to overhaul the nation's basic approach to national security.
|
|
|
Nuớc Mỹ
Sept 22, 2011 4:31:33 GMT 9
Post by Cửu Long Giang on Sept 22, 2011 4:31:33 GMT 9
Vài sự thật trong nửa thế kỷ quan hệ CUBA-HOA KỲ
Vietsciences- Nguyễn Trường Chế độ độc tài Batista đã bị lực lượng du kích Castro lật đổ tháng 1-1959. Tháng ba cùng năm, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ[1] (NSC) đã nghiên cứu phương cách thay đổi chế độ, và tháng năm, CIA đã bắt đầu vũ trang quân du kích chống Cuba. Suốt mùa đông 1959-60, dưới sự giám sát của CIA, các phi vụ không tạc do các phi công Cuba lưu vong ở Mỹ thực hiện ngày một gia tăng. THỰC TẾ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI VÀ THÁI ĐỘ ĐẾ QUỐC Chúng ta chẳng cần tưởng tượng phản ứng của người Mỹ và các xứ khách hàng trong những trạng huống tương tự. Riêng Cuba đã không trả đũa bằng các hành vi bạo lực bên trong nước Mỹ. Thay vào đó, họ đã tuân thủ luật pháp quốc tế. Tháng 7-1960, Cuba đã gửi đến Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc hồ sơ liên quan khoảng 20 vụ oanh tạc, với đầy đủ tên phi công, ký hiệu phi cơ, những bom không nổ, và nhiều chi tiết đặc thù khác. Cuba cũng đã phúc trình các thiệt hại và thương vong, và kêu gọi LHQ giải quyết vấn đề theo đường lối ngoại giao. JF Kennedy và Cabot Lodge Trong phúc đáp, Đại sứ Henry Cabot Lodge đã quả quyết "Hoa Kỳ không theo đuổi mục đích gây hấn với Cuba."[2] Trong thực tế, sáu tháng trước đó, vào tháng 3-1960, Hoa Thịnh Đốn đã bí mật lấy quyết định chính thức phải lật đổ chính quyền Castro, và chiến dịch xâm lăng Vịnh Con Heo đã được chuẩn bị khá kỹ lưỡng. Hoa Thịnh Đốn quan ngại Cuba có thể tìm cách tự vệ. Vì vậy, Allen Dulles, giám đốc CIA, đã thúc đẩy Anh Quốc ngưng cung cấp vũ khí cho Cuba. Theo phúc trình của Đại sứ Anh về Luân Đôn, "lý do chính của Dulles là điều nầy có thể thúc đẩy người Cuba yêu cầu Xô Viết hay khối Xô Viết viện trợ vũ khí, một động thái có thể có hiệu quả ghê gớm"[3] - cho phép Hoa Thịnh Đốn mô tả Cuba như một đe dọa đối với an ninh Tây bán cầu, đúng theo kịch bản rất thành công trước đây ở Guatemala. Dulles đang nói đến việc Hoa Thịnh Đốn đã thành công trong nỗ lực phá hủy cuộc thí nghiệm dân chủ đầu tiên ở Guatemala. Như tình báo Hoa Kỳ đã phúc trình, trong khoảng thời gian 10 năm, hy vọng xen kẻ với tiến bộ, Hoa Thịnh Đốn đã rất âu lo vì sự ủng hộ lớn lao của quần chúng và tác động minh chứng của các biện pháp kinh tế xã hội có lợi cho đại đa số nhân dân. Sự đe dọa của khối Xô Viết thường được viện dẫn, và được tăng cường bởi sự kiện Guatemala đang lệ thuộc vào vũ khí của khối Xô Viết sau khi người Mỹ de dọa tấn công và cắt đứt các nguồn tiếp liệu khác. Kết quả là nửa thế kỷ ghê rợn và tình hình còn tệ hại hơn cả dưới thời các chế độ chuyên chế bạo ngược được Mỹ yểm trợ trước đây. Đối với Cuba, các âm mưu bởi phe bồ câu không mấy khác các mưu đồ của giám đốc CIA Dulles. Cảnh cáo T T Kennedy về những hậu quả ngoại giao và chính trị tai hại không thể tránh của một cuộc xâm lăng Cuba được hoạch định bởi một lực lượng ủy nhiệm, Arthur Schlesinger đã gợi ý những nỗ lực sập bẫy Castro trong một hành động có thể được sử dụng như lý do để xâm lăng:"người ta có thể quan niệm một chiến dịch đen , chẳng hạn ở Haiti, có thể kịp thời cám dỗ Castro gửi vài tàu biển đầy người đến bãi biển Haiti trong động thái có thể mô tả như nỗ lực lật đổ chế độ Haiti,...lúc đó vấn đề đạo đức có thể rất mập mờ, và chiến dịch chống Mỹ có thể bị chận đứng ngay từ đầu." Đối tượng là chế độ độc tài "Papa Doc" Duvalier, được Hoa Kỳ hỗ trợ (với vài dè dặt), do đó, một nỗ lực giúp người Haiti lật đổ chế độ có thể được xem như một tội phạm. Kế hoạch Tháng Ba 1960 của Eisenhower kêu gọi lật đổ Castro để thay thế bằng một chế độ "tận tình với quyền lợi đích thực của người dân Cuba và dễ được Hoa Kỳ chấp nhận, kể cả ủng hộ các hoạt động quân sự ngay bên trong đảo quốc Cuba và phát triển một lực lượng bán quân sự thích đáng bên ngoài Cuba."[4] Tin tức tình báo cho biết sự ủng hộ của quần chúng dành cho Castro rất vững chắc, nhưng Hoa Kỳ sẽ quyết định "những quyền lợi đích thực của nhân dân Cuba."[5] Sự thay đổi chế độ sẽ được thực hiện "trong phương cách khả dĩ tránh được bề ngoài của một hình thức can thiệp của Hoa Kỳ,"[6] nhằm tránh phản ứng tiên liệu trong châu Mỹ La Tinh và các vấn đề quản lý truyền thông quốc nội. CHIẾN DỊCH MONGOOSE Chiến dịch xâm lăng Vịnh Con Heo đã diễn ra một năm sau đó, vào tháng 4-1961, sau ngày Kennedy đắc cử tổng thống. Cuộc hành quân đã được chấp thuận trong bầu không khí kích động cuồng loạn đối với Cuba trong Tòa Bạch Ốc, như Robert McNamara về sau đã điều trần trước Ủy Ban Nghị Sĩ Church ở Thượng Viện. Theo ghi nhận trong phạm vi riêng tư của Chester Bowles, trong phiên họp hội đồng nội các đầu tiên sau khi cuộc xâm lăng đã thất bại, không khí hết sức căm phẫn và gay gắt: " một phản ứng gần như điên cuồng đòi hỏi một chương trình hành động."[7] Tại phiên họp của NSC hai ngày sau đó, Bowles nhận thấy bầu không khí "không kém phần cảm tính" và rất ngạc nhiên trước sự "hoàn toàn thiếu liêm chính đạo đức."[8] Tâm trạng chung đã được phản ảnh trong lời tuyên bố của Kennedy. Kennedy đã nói với dân Mỹ: "Những kẻ tự mãn, những người dễ bằng lòng, các tổ chức yếu mềm sắp bị quét sạch cùng với các đổ nát của lịch sử. Chỉ có những người kiên cường ...mới có thể sống sót"[9] - một đề tài phe Reagan đã có thể sử dụng hiệu quả trong cuộc chiến chống khủng bố của riêng họ. Kennedy cũng đã ý thức các đồng minh có thể nghĩ "chúng ta hơi điên"[10] về đề tài Cuba, một cảm nhận kéo dài cho đến ngày nay. Kennedy đã phát động cuộc cấm vận tàn bạo đối với quốc gia nhỏ bé, hầu như đã trở thành một thuộc địa thực sự của Hoa Kỳ trong suốt 60 năm tiếp theo sau ngày "giải phóng" khỏi Tây Ban Nha. Kennedy cũng đã ra lệnh tăng cường chiến dịch khủng bố: yêu cầu em trai ông, Bộ Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, cầm đầu một ủy ban liên bộ giám sát chương trình Mongoose, một chương trình khủng bố bán quân sự, chiến tranh kinh tế và phá hoại, vào cuối năm 1961, để lật đổ Castro. Chiến dịch khủng bố không phải là một chuyện đùa, Jorge Dominguez viết trong một tạp chí về những tư liệu vừa được giải mật liên quan đến các chiến dịch dưới thời Kennedy, những tư liệu đã được kiểm duyệt nặng nề và theo Piero Gleijeses, cũng mới chỉ là đầu típ của tảng băng. Theo Mark White, cuộc hành quân Mongoose là "tâm điểm chính sách Hoa Kỳ đối với Cuba từ 1961 cho đến lúc khởi đầu cuộc khủng hoảng tên lửa 1962, "[11] một chương trình hai anh em Kennedy "đã đặt nhiều hy vọng". Robert Kennedy đã thông báo cho CIA: vấn đề Cuba "mang ưu tiên hàng đầu của chính quyền Hoa Kỳ -- tất cả những gì khác chỉ thứ yếu -- dù mất bao nhiêu thì giờ, nỗ lực, hay nhân lực" trong nỗ lực lật đổ chế độ Castro. Người đứng đầu chiến dịch Mongoose, Edward Lansdale, cũng đã cung cấp thời biểu khởi động"cuộc dấy loạn công khai và lật đổ chế độ Cộng Sản" vào tháng 10-1962[12]. "Định nghĩa cuối cùng" của chương trình công nhận: "thành công cuối cùng sẽ đòi hỏi sự can thiệp quân sự quyết định của Hoa Kỳ," sau khi các nhóm khủng bố và phá hoại đã đặt xong căn bản[13]. Điều nầy có nghĩa: sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ phải diễn ra trong tháng 10-1962. Nhưng không may, cuộc khủng hoảng tên lửa lại bộc phát cùng lúc. Tháng 2-1962, Bộ Tham Mưu Liên Quân đã chấp thuận một kế hoạch cực đoan hơn cả kế hoạch của Schlesinger: sử dụng "các phương tiện bí mật để cám dỗ hay khiêu khích Castro, hay một tay chân không thể kiểm soát, khơi mào một phản ứng công khai thù nghịch chống lại Hoa Kỳ - một phản ứng đem lại một biện minh cho Hoa Kỳ không những trả đũa mà còn tiêu diệt Castro một cách nhanh chóng, mạnh mẻ và quyết định."[14] Do yêu cầu của Dự Án Cuba của Bộ Quốc Phòng (DOD Cuba Project), trong tháng 3, Bộ Tham Mưu Liên Quân đã đệ trình văn bản ghi nhớ lên Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara, phác thảo những nét chính "các duyên cớ dưới mắt họ đủ để biện minh cho một can thiệp quân sự vào Cuba."[15] Kế hoạch có thể được thực thi nếu "cuộc dấy loạn trong nội bộ đáng tin không thể thành đạt trong vòng 9-10 tháng tới", nhưng phải trước khi Cuba có thể thiết lập quan hệ với Nga - điều "có thể khiến Liên Bang Xô Viết trực tiếp bị dính líu."[16] Vì vậy, một biện pháp khủng bố thận trọng hơn có lẽ tránh được những bất trắc của can thiệp quân sự . Kế hoạch Tháng Ba nhằm xây dựng "nhiều sự kiện riêng rẽ để ngụy trang mục tiêu tối hậu và tạo ấn tượng cần thiết về sự liều lĩnh và tầm trách nhiệm của Cuba trên một căn bản rộng lớn, nhằm nhiều xứ khác cũng như Hoa Kỳ," đặt Hoa Kỳ "vào vị trí nạn nhân cần tự vệ và tạo hình ảnh quốc tế của một đe dọa Cuba đối với hòa bình ở Tây Bán Cầu." Những biện pháp đề nghị bao gồm một tàu biển Mỹ nổ tung trong Vịnh Guantanamo, phổ biến danh sách các thương vong trên báo chí Hoa Kỳ để kích động một làn sóng căm phẫn toàn quốc thuận lợi," miêu tả những cuộc điều tra của người Cuba như những bằng chứng xác thực chiếc tàu đã bị tấn công," khai triển một chiến dịch khủng bố của Cộng Sản Cuba ở Florida và ngay cả ở Hoa Thịnh Đốn," sử dụng những bom lửa của khối Xô Viết để tấn công và đốt phá các đồng mía trong những xứ láng giềng, bắn hạ một phi cơ không người lái ngụy trang như một phi cơ chở sinh viên trong dịp lễ, và nhiều âm mưu khéo léo tương tự -- không cần thực thi, chỉ để tạo biểu hiệu một tình trạng sôi động và tàn bạo đang lan tràn. Ngày 23 tháng 8, tổng thống ban hành một văn kiện ghi nhớ - Memorandum số 181, "chỉ thị tổ chức một cuộc dấy loạn nội bộ được tiếp nối bởi một can thiệp quân sự của Hoa Kỳ, liên quan những kế hoạch quân sự quan trọng, các cuộc thao diễn quân sự, và điều động lực lượng và trang thiết bị." Cũng trong tháng 8, các cuộc tấn công khủng bố được tăng cường, kể cả các cuộc tấn công bằng speed-boats vào một khách sạn Cuba ven biển "nơi các kỷ thuật gia quân sự Xô Viết thường lui tới, giết hàng chục người Nga và Cuba", tấn công các tàu Anh và Cuba, gây ô nhiễm các tàu chở đường, và nhiều hành động tàn ác và phá hoại khác, hầu hết đều do các tổ chức Cuba lưu vong được phép hoạt động tự do ở Florida. Vài tuần lễ sau, thế giới chứng kiến thời khắc nguy hiểm nhất trong lịch sử nhân loại. PHẢN ỨNG BÁO CHÍ Các hoạt động khủng bố vẫn tiếp tục trong giai đoạn căng thẳng nhất của cuộc khủng hoảng tên lửa. Tình trạng nầy trên danh nghĩa đã chính thức chấm dứt vào ngày 30-10-1962, vài ngày sau thỏa ước Kennedy-Khushchev, nhưng trong thực tế, vẫn được tiếp tục. Ngày 8 tháng 11, theo chính quyền Cuba, "một đội phá hoại bí mật người Cuba xuất phát từ Hoa Kỳ đã thành công phá hủy một cơ sở kỹ nghệ Cuba bằng chất nổ, giết hại 400 công nhân. Raymond Garthoff viết: "người Xô Viết chỉ có thể xem cuộc tấn công như một cố gắng đi lui trong vấn đề then chốt còn lại: các cam kết của Hoa Kỳ sẽ không tấn công Cuba."[17] Ông kết luận, sự kiện nầy và các hành động tương tự một lần nữa tiết lộ: "các bất trắc và nguy cơ đối với cả hai phía đã có thể lên đỉnh điểm, không loại bỏ tai họa."[18] Sau khi cuộc khủng hoảng chấm dứt, Kennedy vẫn tiếp tục chiến dịch khủng bố. Mười ngày trước khi bị ám sát, Kennedy đã chấp thuận một kế hoạch phá hoại của CIA, sử dụng những lực lượng ủy nhiệm, nhằm: "một nhà máy lọc dầu lớn và các cơ sở tồn trữ, một nhà máy điện lớn, nhiều nhà máy chế biến mía đường, các cầu hỏa xa, các cơ sở bến cảng, các bến tàu ngầm và tàu bè." Một âm mưu ám sát Castro cũng được khởi động vào đúng ngày Kennedy bị ám sát. Chiến dịch bị hủy bỏ năm 1965, nhưng "một trong những hành động đầu tiên của Tổng Thống Nixon năm 1969 là chỉ thị cho CIA tăng cường các hoạt động ngầm chống lại Cuba."[19] Đặc biệt đáng chú ý là nhận thức của các nhà làm kế hoạch. Trong khi tái duyệt các tư liệu vừa được giải mật về kỷ nguyên khủng bố dưới thời Kennedy, Dominguez nhận xét: " trong gần 1.000 trang tư liệu, chỉ một lần một quan chức Hoa Kỳ đã nêu lên một điều có vẻ như một đề kháng tinh thần yếu ớt đối với chủ nghĩa khủng bố do chính quyền bảo trợ"[20] - một thành viên của NSC đã gợi ý điều nầy có thể dẫn đến một phản ứng nào đó của Nga, và "những cuộc bố ráp ngẫu nhiên và gây thương vong cho các nạn nhận vô tội ... có thể đem lại những phản ứng bất lợi trong giới truyền thông báo chí của vài quốc gia bạn."[21] Những thái độ tương tự đã chiếm ưu thế trong các cuộc thảo luận nội bộ, như khi Robert Kennedy cảnh cáo một cuộc xâm lăng qui mô có thể "gây một số thương vong lớn cho thường dân và chúng ta sẽ phải đối phó với một phản ứng bất lợi lớn lao."[22] Các hoạt động khủng bố vẫn tiếp tục dưới thời Nixon, đạt đỉnh điểm vào giữa thập kỷ 1970, với các cuộc tấn công vào thuyền đánh cá, các tòa đại sứ, các cơ sở Cuba ở hải ngoại, và vụ nổ bom trên một phi cơ Cuba giết hại 73 hành khách. Những sự kiện nầy và các hoạt động khủng bố tiếp theo đều xuất phát từ lãnh thổ Hoa Kỳ, mặc dù vào lúc đó, còn bị FBI xem như những hành động phạm tội. Cứ thế mọi việc tiếp diễn, trong khi "Castro bị biên tập viên các báo Tây phương lên án đang điều hành Cuba như một trại lính, mặc dù đã được Hoa Thịnh Đốn cam kết sẽ không tấn công từ năm 1962."[23] Theo báo chí Tây phương, lời cam kết tự nó đã đủ, mặc dù những diễn biến thực tế trái ngược nói trên; chưa nói đến nhiều cam kết với đầy đủ tài liệu trước đó. Vào dịp kỷ niệm thứ 30 cuộc khủng hoảng tên lửa, Cuba đã phản đối một cuộc tấn công bằng vũ khí tự động vào một khách sạn đầy du khách Tây Ban Nha và Cuba. Một nhóm khủng bố ở Miami đã nhận trách nhiệm. Những vụ nổ bom khủng bố ở Cuba năm 1997, gây thương vong cho một du khách Ý, đã được truy gốc phát xuất từ Miami. Các phạm nhân là các tên tội phạm Salvador hoạt động dưới quyền điều khiển của Luis Posada Carriles và do Miami tài trợ. Một trong những tên khủng bố quốc tế lừng danh, Posada, đã vượt ngục từ một nhà tù Venezuela vì đã gài bom trên một phi cơ Cuba với sự giúp đỡ của Jorge Mas Canosa, một thương gia Miami đứng đầu Tổ Chức Quốc Gia Cuba-Hoa Kỳ được miễn thuế[24] (CANF). Posada đi từ Venezuela đến El Salvador, nơi đây y được tuyển dụng vào làm việc tại căn cứ không quân Ilopango, giúp tổ chức các cuộc tấn công khủng bố của Hoa Kỳ chống lại Nicaragua, dưới quyền điều khiển của Oliver North. Posada đã mô tả chi tiết những hoạt động khủng bố của mình và nguồn tài trợ từ người Cuba sống lưu vong và CANF ở Miami, nhưng vẫn được an toàn và không bị FBI điều tra. Lý do: Posada là cựu quân nhân trong biến cố Vịnh Con Heo, và các hoạt động trong thập kỷ 1960 đều do chỉ thị của CIA. Về sau khi gia nhập tình báo Venezuela với sự giúp đỡ của CIA, Posada đã có thể vận động để Orlando Bosch - một cộng sự viên từ những ngày làm việc cho CIA, bị kết án ở Hoa Kỳ về vụ cài bom trên chuyến tàu chở hàng đến Cuba - đến Venezuela theo anh tiếp tục tổ chức các cuộc tấn công Cuba. Một cựu quan chức CIA đã nhận diện được Posada và Bosch như hai nghi phạm trong vụ gài bom, một hành động Bosch đã tự bào chữa như "một hành vi chiến tranh chính đáng". Theo FBI, Bosch, được xem như người chủ mưu trong vụ cài bom một phi cơ hành khách, còn chịu trách nhiệm trong 30 vụ khủng bố khác. Bosch đã được Tổng Thống George H. W. Bush (Bush I) ân xá năm 1989, sau những vận động hành lang tích cực của Jeb Bush và các lãnh tụ Mỹ gốc Cuba ở Nam Florida, trái với "kết luận của Bộ Tư Pháp - việc ân xá sẽ có hại cho quyền lợi của Hoa Kỳ [khi che chở cho Bosch], bởi lẽ an ninh quốc gia Hoa Kỳ sẽ bị ảnh hưởng bởi uy tín của Hoa kỳ khi thúc đẩy các quốc gia khác từ chối trợ giúp và nơi ẩn náu cho các thành phần khủng bố."[25] CHẾ TÀI VÀ CẤM VẬN Những đề nghị chia sẻ tình báo của Cuba nhằm ngăn ngừa các cuộc tấn công khủng bố đều bị Hoa Thịnh Đốn bác bỏ, mặc dù vài đề nghị cũng đã đưa đến hành động từ phía Hoa Kỳ. "Nhiều quan chức cao cấp FBI viếng thăm Cuba năm 1998 đã gặp và được các đối tác Cuba trao các hồ sơ liên quan đến mạng lưới khủng bố có trụ sở ở Miami - những thông tin một phần đã do người Cuba nằm vùng thu thập được."[26] Ba tháng sau, FBI đã bắt một số người Cuba, những người đã xâm nhập các nhóm khủng bố có cơ sở ở Mỹ. Năm trong số nầy đã bị kết án tù dài hạn. Lý do an ninh quốc gia đã mất hết chút khả tín đạt được sau ngày sụp đổ của Liên Bang Xô Viết năm 1991. Nhưng cũng phải chờ đến 1998 tình báo Hoa Kỳ mới chính thức thông báo cho Cuba là Cuba không còn là một đe dọa đối với an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Tuy nhiên, chính quyền Clinton đã nhấn mạnh đe dọa quân sự của Cuba đã giảm xuống mức "không đáng kể", nhưng vẫn chưa hoàn toàn chấm dứt. Ngay cả với tiêu chuẩn mới, sự thẩm định tình báo cũng đã loại bỏ nguy cơ đã được nhận chân bởi Đại Sứ Mễ Tây Cơ năm 1961, khi ông bác bỏ nỗ lực của JFK tổ chức hành động chung chống lại Cuba, với lý do: "nếu chúng ta tuyên bố Cuba là một đe dọa đối với an ninh chung, bốn mươi triệu dân Mễ Tây Cơ sẽ phải cười đến chết."[27] Tuy nhiên, nói cho công bằng, cũng cần phải công nhận các tên lửa ở Cuba cũng là một đe dọa. Trong những cuộc thảo luận riêng tư, anh em Kennedy đã tỏ ra lo ngại sự hiện diện của các tên lửa của Nga có thể ngăn chặn hay làm nản lòng một cuộc xâm lăng Venezuela của Hoa Kỳ. JFK đã kết luận: "Vì vậy, vụ Vịnh Con Heo đã thực sự đúng."[28] Năm 1992, dưới áp lực vận động bầu cử từ phe Clinton, chính quyền Bush I đã phản ứng, đối với việc loại bỏ duyên cớ an ninh, bằng biện pháp cấm vận khắt khe hơn. Chiến tranh kinh tế cũng ngày một tàn nhẫn hơn trong năm 1996, do đó, đã gây thêm căng thẳng ngay trong hàng ngũ các đồng minh thân cận nhất của Mỹ. Biện pháp cấm vận cũng đã bị chỉ trích nặng nề trong quốc nội, với lý do nạn nhân duy nhất của cấm vận là giới xuất khẩu và đầu tư của chính Hoa Kỳ. Người Cuba không mấy bị ảnh hưởng. Những cuộc điều tra bởi các chuyên gia Hoa Kỳ cho thấy một câu chuyện hoàn toàn khác. Thực vậy, một nghiên cứu chi tiết của Hiệp Hội Y Tế Thế Giới Hoa Kỳ[29] đã kết luận: biện pháp cấm vận đã có những tác động y tế khắc nghiệt, và phải nhờ chính hệ thống y tế tuyệt vời của Cuba mới giúp tránh được "tai họa nhân đạo." Điều nầy hầu như không hề được nhắc đến ở Hoa Kỳ. Cuộc cấm vận đã thực sự chận đứng nguồn cung cấp thực phẩm và y tế. Năm 1999, chính quyền Clinton đã nới lỏng các biện pháp chế tài đối với tất cả các quốc gia có tên trên danh sách chính thức các "nhà nước khủng bố", ngoại trừ Cuba được tách riêng để đặc biệt trừng phạt. Tuy nhiên, Cuba không phải là quốc gia duy nhất đơn độc về phương diện nầy. Sau cơn bão tàn phá các đảo vùng West Indies trong tháng 8-1980, T T Carter đã từ chối mọi viện trợ trừ phi Grenada bị loại ra ngoài, như một trừng phạt vài sáng kiến nào đó của chính quyền cải cách Maurice Bishop. Khi các xứ nạn nhân trận bão từ chối điều kiện loại trừ Grenada, Carter đã từ chối mọi viện trợ. Cũng tương tự như thế, khi Nicaragua bị bão gây ra nạn đói và thiệt hại sinh thái nghiêm trọng trong tháng 10-1988, nhà cầm quyền Hoa Thịnh Đốn nhận thấy cuộc chiến chống khủng bố có thể hưởng lợi từ tai họa, và vì vậy, đã từ chối viện trợ, ngay cả đối với khu vực ven bờ Đại Tây Dương có quan hệ chặt chẽ với Hoa Kỳ và thù nghịch với Sandinistas. Hoa Thịnh Đốn cũng hành động tương tự khi một đợt sóng lớn cuốn trôi các làng chài lưới, gây tử vong và mất tích cho hàng trăm ngư dân trong tháng 9-1992. Trong trường hợp nầy, ngoài số tiền 25,000 USD, số ít viện trợ còn lại cũng đã được khấu trừ vào số trợ giúp đã lên lịch từ trước. Tuy nhiên, Quốc Hội cũng đã được đoan chắc chút ít viện trợ đó không hề ảnh hưởng đến quyết định ngưng ngân khoản viện trợ 100 triệu USD, vì lẽ chính quyền Nicaragua được Mỹ hậu thuẩn đã tỏ ra không phục tùng người Mỹ đúng mức. Chiến tranh kinh tế của Mỹ đối với Cuba đã bị lên án nặng nề trên hầu hết mọi diễn đàn quốc tế, và "bị tuyên bố là bất hợp pháp bởi ngay cả Ủy Hội Tư Pháp của Tổ Chức Các Quốc Gia Mỹ Châu, thường ngoan ngoãn phục tùng."[30] Liên Hiệp Âu Châu cũng đã yêu cầu Tổ Chức Thương Mãi Thế Giới WTO lên án cấm vận. Chính quyền Clinton đã đáp ứng: "Âu châu đang thách thức 'chính sách của Hoa Kỳ đối với Cuba trong suốt ba thập kỷ kể từ chính quyền Kennedy,' và hoàn toàn nhằm mục tiêu thay đổi chính quyền ở Havana."[31] Hoa Thịnh Đốn cũng tuyên bố WTO không có thẩm quyền quyết định các vấn đề an ninh quốc gia của Hoa Kỳ hay buộc Hoa Kỳ phải thay đổi luật pháp. Hoa Kỳ đã bỏ ngang phiên họp, và vấn đề đã phải xếp lại. MÔ HÌNH VÀ THÁCH THỨC Lý do các cuộc tấn công khủng bố quốc tế và các biện pháp cấm vận kinhtế bất hợp pháp chống lại Cuba đều đã được nêu rõ trong hồ sơ nội bộ. Và không ai cần phải ngạc nhiên khi khám phá những hành động vừa kể đã có một tiền lệ quen thuộc - chẳng hạn, trường hợp Guatemala một vài năm trước đây. Ngay về thời điểm, sự âu lo một đe dọa từ phía người Nga cũng đã không phải là yếu tố quan trọng. Những kế hoạch cưỡng bức thay đổi chế độ đã được soạn thảo và thực thi trước bất cứ một liên hệ có ý nghĩa nào với Nga Sô, và các biện pháp trừng phạt, chế tài cũng đã được tăng cường ngay cả sau khi người Nga không có mặt ở hiện trường. Quả thật, nguy cơ Nga có xuất hiện, nhưng đây chỉ là hậu quả hơn là nguyên nhân của chủ nghĩa khủng bố và chiến tranh kinh tế của Mỹ. Tháng 7-1961, CIA đã cảnh báo "ảnh hưởng rộng khắp của chủ thuyết Castro không phải là một hàm số của quyền lực Cuba... Hình bóng của Castro đã ám ảnh vì những điều kiện kinh tế và xã hội khắp Châu Mỹ La Tinh đang mời gọi sự chống đối các nhà cầm quyền đương nhiệm, và khuyến khích các hoạt động nhằm mang lại thay đổi cơ bản."[32] Và Cuba của Castro đã cung cấp một mô hình. Trước đó, Arthur Schlesinger đã chuyển đến JFK bản phúc trình của Phái Bộ Mỹ La Tinh, cảnh báo "người Mỹ La Tinh có thể bị lôi cuốn bởi 'ý tưởng Castro' phải tự nắm lấy chủ quyền."[33] Phúc trình cũng nhắc đến mắt xích Kremlin: Liên Bang Xô Viết "đang chờ đợi, phô trương tín dụng phát triển và tự giới thiệu như một mô hình để thành đạt canh tân chỉ trong vòng một thế hệ."[34] Schlesinger về sau đã diễn giải, "những nguy cơ của 'ý tưởng Castro' là đặc biệt nghiêm trọng, khi sự tái phân điền địa và các hình thức tài sản quốc gia khác có lợi lớn cho các giai cấp hữu sản cũng như những thành phần nghèo khó, thấp kém, và thiệt thòi về quyền lợi, bị kích thích bởi tấm gương cách mạng Cuba, ngày nay đang đòi hỏi cơ hội có được một cuộc sống phải chăng."[35] Kennedy e sợ viện trợ Nga Sô có thể biến Cuba thành một mô hình phát triển gương mẩu, đem lại cho người Xô Viết thế tay trên ở Mỹ La Tinh. Vào đầu năm 1964, Hội Đồng Hoạch Định Chính Sách Bộ Ngoại Giao[36]đã khai triển những âu lo vừa nói: "Nguy cơ hàng đầu chúng ta đối diện ở Castro là... tác động của chính sự hiện diện của chế độ của ông trên phong trào cánh tả trong nhiều xứ Mỹ La Tinh... Sự kiện đơn thuần Castro đã đại diện cho một thách thức thành công đối với Hoa Kỳ, một sự phủ nhận toàn bộ chính sách toàn bán cầu của chúng ta trong hơn một thế kỷ rưởi."[37] Như Thomas Paterson đã viết: Nói một cách đơn giản, "Cuba, như một tượng trưng và một thực tế, đã thách thức địa vị bá chủ của Hoa Kỳ ở Mỹ La Tinh."[38] Khủng bố quốc tế và chiến tranh kinh tế để đem lại thay đổi chế độ có thể được biện minh không phải bởi việc làm của Cuba, mà bởi chính sự hiện hữu, sự thách thức thành công ngay chính quốc gia bá chủ chính đáng của bán cầu. Sự thách thức tự nó cũng đã có thể đủ biện minh cho các hành động bạo lực, như ở Serbia, như đã được thầm hiểu sau sự kiện thực tế; cũng như ở Iraq, cũng đã được công nhận ngay cả khi các nguyên cớ viện dẫn đã sụp đổ. Sự xúc phạm qua thái độ thách thức đã từng xẩy ra từ xa xưa trong lịch sử Hoa Kỳ. Cách đây 200 năm, Thomas Jefferson đã gay gắt lên án Pháp vì thái độ thách thức khi chiếm hữu New Orleans, một thành phố Jefferson đang thèm muốn. Jefferson đã cảnh cáo "tư cách của Pháp [đang được] đặt ở điểm xung khắc vĩnh cửu với tư cách của chúng ta, một tư cách mặc dù cùng yêu chuộng hòa bình và theo đuổi giàu có, hết sức cao ngạo. Sự thách thức của Pháp [buộc chúng ta phải] liên minh với hạm đội Anh và chính Anh quốc."[39] Jefferson đã khuyến cáo đảo ngược các thái độ của chính ông, những thái độ đã phản ảnh phần đóng góp thiết yếu cho công cuộc giải phóng các thuộc địa khỏi ách đô hộ của Anh Quốc. Chính nhờ cuộc đấu tranh giải phóng Haiti, không được giúp đỡ và hầu như đã bị mọi nước chống đối, thái độ thách thức của Pháp cuối cùng cũng đã sớm chấm dứt, nhưng các nguyên tắc chỉ đạo vẫn còn hiệu lực, và hiện đang quyết định quan hệ bạn-thù vẫn còn lây lất mãi cho đến ngày nay. Tóm lại, người dân Cuba không may đã phải chứng nghiệm một hình thức chiến tranh khủng bố sớm sủa nhất - không phải"chiến tranh chống khủng bố"- của Hoa Kỳ. Thực vậy, khủng bố không thể là những gì những nhóm nhỏ quá khích phi-quốc-gia có thể gây ra cho các đại cường hùng mạnh. Theo một nghĩa nào đó, lịch sử đã và đang cho thấy một lịch sử Nhà Nước Khủng Bố, và Hoa Kỳ là quốc gia đang hoan hỉ thực thi một hình thức chiến tranh khủng bố, như trong trường hợp Cuba, với sự kiên trì không thương tiếc trong gần một nửa thế kỷ. Chẳng mấy khác số phận người dân Cuba trong nhiều thập kỷ kể từ khi Fidel Castro lên nắm chính quyền, đối với người dân Afghanistan đã trải nghiệm hàng nghìn cuộc hành quân khủng bố của quân đội Mỹ trong mấy năm gần đây, đối với người dân Pakistan đang thường xuyên bị khủng bố bởi cuộc chiến phi cơ không người lái của CIA chống lại al-Qaeda và Taliban, đối với người dân Iraq đã và đang tiếp tục sống với những kinh nghiệm"gây sốc và kinh hoàng" tương tự..., "cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu" của Mỹ tự nó luôn là "cuộc chiến khủng bố". Người dân trong các xứ nạn nhân đã hoặc đang chứng kiến người Mỹ giết họ ngay bên trong xứ sở của họ, ngay bên trong nhà riêng của chính họ, và chỉ vì họ là Hồi giáo... Vì vậy, căm thù ngày một sâu rộng và gay gắt... Người Mỹ luôn nói "cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu" đang ngày một gần tới thắng lợi. Trong thực tế, họ đang trực tiếp hoặc gián tiếp theo đuổi một "cuộc chiến khủng bố" ngày một khốc liệt, gây thêm nhiều nhiều tang tóc điêu linh!!! Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 16-9-2011 CHÚ THÍCH: Phần lớn dữ liệu dùng trong bài viết đều lấy từ tác phẩm Hegemony or Survival của Noam Chomsky, Institute Professor emeritus, MIT Department of Linguistics and Philosophy.
[1] National Security Council - NSC.
[2] ..by giving his assurance [that] the United States has no aggressive purpose against Cuba.
[3] Allen Dulles' main reason was that this might lead the Cubans to ask for Soviet or Soviet bloc arms, a move that would have a tremendous effects.
[4] ...in favor of a regime "more devoted to the true interests of the Cuban people and more acceptable to the U.S.," inluding support for military operation on the island" and" development of an adequate paramilitary force outside of Cuba.
[5] [But the US would determine the] true interests of the Cuban people.
[6] [The regime change] "was to be carried out in such a manner as to avoid any appearance of U.S. intervention."
[7] There was an almost frantic reaction for an action program.
[8] ...the atmosphere "almost as emotional" and was struck by "the great lack of moral integrity."
[9] ..The complacent, the self-indulgent, the soft societies are about to be swept away with the debris of history. Only the strong ...can possibly survive.
[10] Kennedy was aware that allies think that "we're slightly demented"on the subject of Cuba, a perception that persists to the present.
[11] Operation Mongoose was "the centerpiece of American policy toward Cuba from late 1961 until the onset of the 1962 missile crisis"the program on which the Kennedy brothers "came to pin their hopes."
[12] Robert Kennedy informed the CIA that the Cuban problem carries "the top priority in the United States Government - all else is secondary - no time, no effort, or manpower is to be spared" in the effort to overthrow the Castro regime. The chief of the Mongoose operations, Edward Lansdale, provided a timetable leading to "open revolt and overthrow of the Communist regime" in October 1962.
[13] The "final definition" of the program recognized that "final success will require decisive U.S. military intervention," after terrorism and subversion had laid the basis.
[14] ...to use "covert means...to lure or provoke Castro, or an uncontrollable subordinate, into an overt hostile reaction against the United States; a reaction which would in turn create the justification for the US not only retaliate but destroy Castro with speed, force and determination."
[15] ...outlining "pretexts which they would consider would provide justification for US military intervention in Cuba."
[16] ...if "a credible internal revolt is impossible of attainment during the next 9-10 months," but before Cuba could establish relations with Russia that might "directly involve the Soviet Union."
[17] Raymond Garthoff writes that "the Soviets could only see [the attack] as an effort to backpedal on what was, for them, the key question remaining: American assurances not to attack Cuba."
[18] ..."the risk and danger to both sides could have been extreme, and catastrophe not excluded."
[19] ..."one of Nixon's first acts in office in 1969 was to direct the CIA to intensify covert operations against Cuba."
[20] ...only once in these nearly thousand pages of documentation did a U.S. official raise something that resembled a faint moral objection to U.S.-government sponsored terrorism": ...
[21] ...and raids that are "haphazard and kill innocents.. might mean a bad press in some friendly countries."
[22] ...a full-scale invasion of Cuba would "kill an awful lot of people, and we're going to take an awful lot of heat on it."
[23] ...Castro was condemned by editors for maintaining an "armed camp, despite the security from attack promised by Washington in 1962.
[24] ...tax-exempt Cuban-American National Foundation - CANF.
[25] ...the Justice Department had found the conclusion "inescapable that it would be prejudicial to the public interest for the United States to provide a safe haven for Bosch [because] the security of this nation is affected by its ability to urge credibly other nations to refuse aid and shelter to terrorists."
[26] Senior members of the FBI visited Cuba in 1998 to meet their Cuban counterparts, who gave [the FBI] dossiers about what they suggested was a Miami-based terrorist network: information which had been compiled in part by Cubans who had infiltrated exile group.
[27] ...if we publicly declare that Cuba is a threat to our security, forty million Mexicans will die laughing.
[28] So "the Bay of Pigs was really right."
[29] American Association for World Health.
[30] ...even declared illegal by the Judicial Commission of the normally compliant Organization of American States.
[31] ..."Europe is challenging 'three decades of American Cuba policy that goes back to the Kennedy Administration,' and is aimed entirely at forcing a change of government in Havana."
[32] .. the extensive influence of Castroism is not a function of Cuban power....Castro's shadow looms large because social and economic conditions throughout Latin America invite opposition to ruling authority and encourage agitation for radical change.
[33] ..."the Castro idea of taking matters into one's own hands."
[34] ...The Soviet Union "hovers in the wings, flourishing large development loans and presenting itself as the model for achieving modernization in a single generation."
[35] The dangers of the "Castro idea" are particularly grave when the distribution of land and other forms of national wealth greatly favors the propertied classes and the poor and underprivileged, stimulated by the example of the Cuban revolution, are now demanding opportunities for a decent living.
[36] State Department Policy Planning Council.
[37] The primary danger we face in Castro is ...in the impact the very existence of his regime has upon the leftist movement in many Latin American countries....The simple fact is that Castro represents a successful defiance of the US, a negation of our whole hemispheric policy of almost a century and a half.
[38] Cuba, as a symbol and reality, challenged U.S. hegemony in Latin America.
[39] ...France's character [is] placed in a point of eternal friction with our character, which though loving peace and the pursuit of wealth, is high-minded. France's defiance [requires us to] marry ourselves to the British fleet and nation.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 20, 2011 6:27:31 GMT 9
Thế kỷ Thái Bình Dương của Mỹ Phát biểu của bà Hillary Clinton, Foreign Policy, November 2011 Tương lai chính trị thế giới sẽ được định đoạt tại châu Á, chứ không phải tại Afghanistan hay Iraq, và Hoa Kỳ sẽ ở ngay trung tâm của biến chuyển này. Trong khi cuộc chiến tạiIraqlắng dịu và Mỹ bắt đầu rút quân ra khỏiAfghanistan, Hoa Kỳ đang đứng vào một vị trí bản lề. Trong 10 năm qua, chúng ta đã dành những nguồn lực to lớn cho hai chiến trường nói trên. Trong 10 năm tới, chúng ta cần phải khôn khéo và làm việc có hệ thống liên quan đến những vùng chúng ta sẽ đầu tư thì giờ và năng lực, ngõ hầu chúng ta có thể đặt mình vào vị trí thuận lợi nhất nhằm duy trì vai trò lãnh đạo của chúng ta, đảm bảo lợi ích của chúng ta, và cổ vũ những giá trị của chúng ta. Vì thế, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của lãnh đạo Mỹ trong thập kỷ tới sẽ là tập trung vào một nỗ lực đầu tư được tăng cường đáng kể – về ngoại giao, kinh tế, chiến lược, và các lãnh vực khác – tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Châu Á – Thái Bình Dương đã trở thành một động cơ chủ yếu của chính trị toàn cầu. Trải dài từ tiểu lục địa Ấn Độ đến bờ Tây châu Mỹ, khu vực này đã vắt ngang hai đại dương – Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương – những đại dương ngày càng được nối kết nhiều hơn bằng tàu bè và ý nghĩa chiến lược. Khu vực này cũng tự hào vì chiếm gần nửa dân số thế giới. Nó chứa đựng nhiều cỗ máy then chốt của kinh tế toàn cầu, cũng như các quốc gia đã tung ra những lượng khí thải nhà kính lớn nhất. Khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là quê hương của một số đồng minh chủ yếu của chúng ta và những cường quốc mới nổi (mới vươn dậy) quan trọng như Trung Quốc, Ấn Độ, vàIndonesia. Vào một thời điểm mà khu vực này đang xây dựng một cấu trúc kinh tế và an ninh già dặn hơn nhằm củng cố ổn định và thịnh vượng, sự cam kết của Hoa Kỳ đối với vùng này là thiết yếu. Sự cam kết này sẽ đóng góp cho việc xây dựng cấu trúc nói trên và mang lại lợi lộc cho vai trò lãnh đạo liên tục của Hoa Kỳ vào thế kỷ XXI này, giống hệt như sự cam kết của chúng ta sau Thế chiến II đối với việc xây dựng một mạng lưới gồm các định chế (institutions) và các mối quan hệ toàn diện và bền vững xuyên Đại Tây Dương đã từng mang lại lợi lộc nhiều lần hơn – và sẽ còn tiếp tục mang lại lợi lộc như thế. Đã đến lúc Hoa Kỳ cần thực hiện những đầu tư tương tự trong vai trò một cường quốc Thái Bình Dương, đây là một đường lối chiến lược được Tổng thống Barack Obama đưa ra từ đầu nhiệm kỳ của chính quyền ông và là một đường lối đã mang lại nhiều lợi lộc. Trong khiIraqvàAfghanistanđang còn ở thời kỳ chuyển tiếp và đất nước chúng ta đang đối đầu với những thử thách kinh tế nghiêm trọng, có một số người trên sân khấu chính trị Mỹ đang đòi hỏi chúng ta không được tái phối trí lực lượng (reposition) mà phải mang các lực lượng về nước. Họ tìm cách cắt giảm sự hiện diện của chúng ta ở nước ngoài để hậu thuẫn các ưu tiên bức thiết ở trong nước. Những thôi thúc này là dễ hiểu, nhưng chúng rất sai lầm. Những kẻ cho rằng chúng ta không còn đủ sức để tích cực tham gia cùng thế giới rõ ràng đã đặt ngược vấn đề – sự thật là, chúng ta không thể không tham gia cùng thế giới. Từ việc mở ra các thị trường mới mẻ cho các doanh nghiệp Mỹ đến việc chặn đứng sự bành trướng vũ khí hạt nhân đến việc giữ cho các tuyến đường trên biển được tự do sử dụng cho mậu dịch và thông thương, các nỗ lực của chúng ta ở nước ngoài giữ vai trò then chốt cho sự thịnh vượng và an ninh của chúng ta ở trong nước. Hơn 60 năm qua, Hoa Kỳ đã nhiều lần chống lại sự thu hút của các cuộc tranh luận “đưa quân về nước” này cũng như cái logic tiềm ẩn “bên lở bên bồi” (zero-sum) của những lý luận này. Một lần nữa chúng ta phải chống lại khuynh hướng cô lập này. Ở nước ngoài, người ta đang phân vân về các ý định của Mỹ – tức quyết tâm tiếp tục tham gia và lãnh đạo thế giới của chúng ta. Tại châu Á, họ thắc mắc liệu chúng ta sẽ duy trì sự hiện hiện ở đó hay không, liệu chúng ta có thể một lần nữa bị chia trí vì những biến cố ở những nơi khác hay không, liệu chúng ta có thể đưa ra – và giữ vững – những cam kết khả tín về kinh tế và chiến lược hay không, và liệu chúng ta có thể hậu thuẫn những cam kết đó bằng hành động cụ thể hay không. Câu trả lời là: Chúng ta có thể và chúng ta có quyết tâm. Vận dụng được sức tăng trưởng và tính năng động của châu Á là điều rất quan trọng đối với các lợi ích kinh tế và chiến lược của Mỹ và là một ưu tiên chủ yếu của Tổng thống Obama. Thị trường thông thoáng tại châu Á cung ứng cho Hoa Kỳ những cơ hội chưa từng có về đầu tư, mậu dịch, và sự tiếp cận công nghệ tinh vi. Sự phục hồi kinh tế ở trong nước chúng ta sẽ tùy thuộc vào hàng xuất khẩu và khả năng của các công ty Mỹ trong việc tiếp cận giới tiêu thụ rộng lớn và ngày càng đông đảo tại châu Á. Về chiến lược, duy trì hoà bình và an ninh trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương là ngày càng thiết yếu cho sự tiến bộ toàn cầu, dù bằng cách bảo vệ sự tự do thông thương trên Biển Đông, hay bằng cách chống lại các nỗ lực phổ biến vũ khí hạt nhân của Bắc Hàn, hay bằng cách đảm bảo tính minh bạch trong các hoạt động quân sự của các nước quan trọng trong vùng. Cũng như Châu Á là rất thiết yếu đối với tương lai của nước Mỹ, một nước Mỹ tích cực tham gia (engaged) là rất thiết yếu đối với tương lai châu Á. Khu vực này rất mong muốn sự lãnh đạo của Mỹ và doanh nghiệp Mỹ – có lẽ còn thiết tha hơn bất cứ thời nào trong lịch sử hiện đại. Chúng ta là cường quốc duy nhất có một mạng lưới liên minh vững mạnh ở trong khu vực, chúng ta không có tham vọng lãnh thổ, nhưng có một thành tích lâu dài là đã làm được nhiều ích lợi chung. Cùng với các đồng minh, chúng ta đã bảo đảm được an ninh khu vực qua hàng chục năm nay – tuần tra các tuyến đường biển châu Á và duy trì sự ổn định khu vực – và nỗ lực này đã giúp tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng kinh tế nơi đây. Chúng ta đã giúp hàng tỉ người trong khu vực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu bằng cách thúc đẩy năng suất kinh tế, tăng cường xã hội dân sự, và phát triển các quan hệ nhân dân-với-nhân dân (people-to-people ties). Chúng ta là một đối tác đầu tư và mậu dịch quan trọng, là nguồn sáng tạo đã làm lợi cho giới công nhân và các doanh nghiệp trên cả hai bờ Thái Bình Dương, là nước chủ nhà đón mời 350.000 du học sinh châu Á mỗi năm, một quán quân về thị trường cởi mở, và là quốc gia cổ vũ các nhân quyền phổ quát. Tổng thống Obama đã lãnh đạo một nỗ lực đa diện và kiên trì để nhận lãnh trọn vẹn vai trò không thể thay thế của chúng ta tại Thái Bình Dương, vận dụng toàn bộ Chính phủ Hoa Kỳ. Bấy lâu nay, đây là một nỗ lực khá âm thầm. Phần lớn nỗ lực này của chúng ta không nằm trên trang nhất của báo chí, một phần vì bản chất của nó – đầu tư dài hạn không gây được cảm tính bằng các khủng hoảng trước mắt – và một phần vì các tít lớn về tin tức của các vùng khác trên thế giới đã giành mất sự chú ý của mọi người. Trong vai trò Bộ trưởng Ngoại giao, tôi đã đi ra ngoài thông lệ khi mở cuộc thăm viếng chính thức đầu tiên của tôi ở nước ngoài tại châu Á. Trong bảy chuyến thăm viếng tiếp theo đó, tôi đã có đặc ân nhìn tận mắt những chuyển biến nhanh chóng đang diễn ra trong khu vực, nêu bật sự kiện tương lai của Mỹ sẽ được liên kết thiết thân với tương lai của khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Sự chuyển hướng chiến lược nhắm vào khu vực này là rất hợp lý đối với nỗ lực toàn cầu tổng quát của chúng ta nhằm đảm bảo và duy trì vai trò lãnh đạo toàn cầu của Mỹ. Sự thành công của việc chuyển hướng này đòi hỏi phải duy trì và gia tăng sự đồng thuận của hai đảng về tầm quan trọng của khu vực châu Á-Thái Bình Dương đối với lợi ích quốc gia của chúng ta; chúng ta sẽ dựa vào truyền thống hữu nghị vững chắc đã được các Tổng thống và các Bộ trưởng Ngoại giao của cả hai đảng đã xây dựng qua nhiều thập niên. Sự thành công của việc chuyển hướng này cũng đòi hỏi phải khôn khéo thi hành một chiến lược khu vực chặt chẽ, hàm chứa ý nghĩa toàn cầu trong các lựa chọn của chúng ta. Chiến lược khu vực đó sẽ như thế nào? Trước hết, nó đòi hỏi một sự cam kết bền vững đối với điều mà tôi gọi là chính sách ngoại giao “tiền phương” (forward-deployed diplomacy). Điều này có nghĩa là liên tục gởi đủ mọi thành phần trong vốn quý ngoại giao của chúng ta – gồm các viên chức cao nhất, các chuyên gia phát triển, các toán liên ngành, và các trang bị thường trực của chúng ta – đến mọi quốc gia và mọi nơi trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Chiến lược của chúng ta là sẽ liên tục tìm hiểu và thích ứng với mọi biến chuyển khẩn trương và sôi động diễn ra khắp châu Á. Với quan niệm này, công tác của chúng ta sẽ tiến hành theo sáu nguyên tắc hành động chủ yếu sau đây: tăng cường các liên minh an ninh song phương; củng cố các quan hệ hợp tác với các cường quốc mới trỗi dậy, kể cả TQ; tham gia các định chế đa phương trong khu vực; phát triển thương mại và đầu tư; tạo sự hiện diện quân sự trên cơ sở rộng lớn; và phát huy dân chủ và nhân quyền. Nhờ địa lý độc đáo của mình, Hoa Kỳ vừa là cường quốc Đại Tây Dương vừa là cường quốc Thái Bình Dương. Chúng ta hãnh diện về những đối tác châu Âu của chúng ta và tất cả những gì họ đã thể hiện. Thách thức của chúng ta hiện nay là xây dựng cho được một mạng lưới gồm có những đối tác và định chế khắp khu vực Thái Bình Dương vừa vững bền vừa phù hợp với lợi ích và các giá trị của Mỹ như mạng lưới chúng ta đã xây dựng khắp khu vực Đại Tây Dương. Đó là mục tiêu mà các nỗ lực của chúng ta trong tất cả những vùng này phải nhắm tới. Các liên minh có thỏa ước (treaty alliances) giữa chúng ta với Nhật Bản, Nam Hàn, Australia, Philippines, và Thái Lan là điểm tựa cho sự chuyển hướng chiến lược của chúng ta nhắm vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Các liên minh này đã đảm bảo hòa bình và an ninh khu vực hơn nửa thế kỷ nay, tạo ra môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế ngoạn mục trong khu vực. Chúng đã tạo thế đòn bẫy cho sự hiện diện của chúng ta trong khu vực và gia tăng vai trò lãnh đạo của chúng ta trong khu vực ở vào một thời điểm có những thử thách an ninh đang diễn ra. Mặc dù những liên minh này đã rất thành công, nhưng chúng ta không thể chỉ giản dị duy trì chúng như cũ – chúng ta cần phải hiện đại hóa chúng cho phù hợp với một thế giới đang thay đổi. Trong nỗ lực này, chính quyền Obama được hướng dẫn bởi ba nguyên tắc cốt lõi. Một là, chúng ta phải duy trì đồng thuận chính trị trên các mục tiêu cốt lõi của các liên minh của chúng ta. Hai là, chúng ta phải bảo đảm rằng các liên minh của chúng ta là gọn nhẹ và dễ thích ứng (nimble and adaptive) ngõ hầu chúng có thể đối phó thành công những thách đố mới và nắm bắt những vận hội mới. Ba là, chúng ta phải đảm bảo rằng khả năng phòng thủ và cơ sở hạ tầng thông tin liên lạc của các liên minh này có đủ khả năng hoạt động và đủ trang bị vật chất để chặn đứng các hành động khiêu khích dù đến từ bất cứ một quốc gia nào hay một phe nhóm phi-nhà nước (nonstate actor) nào. Liên minh với Nhật Bản, nền tảng của hòa bình và ổn định trong khu vực, chứng tỏ cách thế mà chính quyền Obama đang thể hiện những nguyên tắc nói trên. Hai quốc gia chúng ta chia sẻ một viễn kiến chung về trật tự ổn định trong khu vực với một thứ luật đi đường rõ ràng – từ tự do thông thương trên biển đến thị trường cởi mở và cạnh tranh công bằng. Chúng ta đã thoả thuận một sự dàn xếp mới, gồm có sự đóng góp trên 5 tỉ đôla từ Chính phủ Nhật Bản, nhằm đảm bảo việc tiếp tục duy trì sự hiện diện của các lực lượng Mỹ tại Nhật Bản, đồng thời mở rộng các hoạt động tình báo, giám sát, do thám hỗn hợp nhằm chặn đứng và phản ứng kịp thời các thách thức an ninh khu vực, cũng như chia sẻ thông tin để đối phó các đe dọa trên mạng lưới Internet. Chúng ta đã ký kết một thỏa ước Bầu trời mở (Open Skies agreement) nhằm gia tăng khả năng tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp và thắt chặt các quan hệ giữa nhân dân với nhân dân (people-to-people ties), đã phát động một cuộc đối thoại chiến lược về châu Á-Thái Bình Dương, và đã và đang hợp tác chặt chẽ trong tư thế là hai nước đóng góp nhiều nhất tại Afghanistan. Tương tự như thế, liên minh giữa chúng ta và Nam Hàn đã trở nên vững mạnh hơn và hoạt động hiệp đồng hơn, đồng thời chúng ta tiếp tục phát triển các khả năng hỗn hợp [của hai quân đội] để chặn đứng và trả lời các khiêu khích của Bắc Hàn. Hai nước đã chấp nhận một kế hoạch để đảm bảo sự chuyển giao tốt đẹp quyền điều khiển các cuộc hành quân trong thời chiến và để chuẩn bị cho việc Thỏa ước Mậu dịch Tự do Mỹ-Hàn được thông qua [Đã được Quốc hội Mỹ thông qua hôm 12-10 – DG]. Và liên minh giữa hai nước chúng ta đã mang tính toàn cầu, xuyên qua sự hợp tác của chúng ta tại các cuộc họp của nhóm G-20 và Hội nghị Thượng đỉnh Hạt nhân và xuyên qua các nỗ lực chung tại Haiti. Chúng ta cũng đang mở rộng liên minh với Australia từ một quan hệ đối tác Thái Bình Dương sang một quan hệ đối tác Ấn Độ-Thái Bình Dương, và thật ra đây là một quan hệ đối tác toàn cầu. Từ vấn đề an ninh mạng đến vấn đề Afghanistan đến cuộc Nổi dậy của Thế giới Ả Rập đến nỗ lực tăng cường cơ cấu khu vực tại châu Á-Thái Bình Dương, ý kiến và cam kết của Australia là không thể thiếu. Và tại Đông Nam Á, chúng ta đang phục hồi và tăng cường các liên minh giữa Hoa Kỳ với Philippines và Thái Lan, gia tăng, chẳng hạn, số thăm viếng của các chiến hạm Mỹ tại Philippine và đang hoạt động để đảm bảo huấn luyện thành công các lực lượng chống khủng bố Philippine xuyên qua Lực lượng Hành quân Đặc nhiệm Hỗn hợp (Joint Special Operations Task Force) tại Mindanao. Tại Thái Lan – đối tác có hiệp ước lâu đời nhất của chúng ta tại châu Á – chúng ta hoạt động để thành lập một trung tâm gồm những nỗ lực nhân đạo và cứu trợ thiên tai trong khu vực. Trong khi chúng ta cập nhật hóa các liên minh của chúng ta để đáp ứng những đòi hỏi mới, chúng ta cũng xây dựng các quan hệ đối tác mới để giúp giải quyết các vấn đề chung. Bàn tay hữu nghị của chúng ta đối với Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Singapore, Tân Tây Lan, Malaysia, Mông Cổ, Việt Nam, Brunei, và các Đảo quốc Thái Bình Dương là nằm trong một nỗ lực rộng lớn hơn để đảm bảo một đường lối toàn diện cho chiến lược Mỹ và sự tham gia của Mỹ trong khu vực này. Chúng ta yêu cầu những đối tác đang trỗi dậy này cùng chúng ta hình thành và tham gia một trật tự khu vực và toàn cầu dựa trên luật lệ. Một trong các quốc gia nổi bậc nhất trong những đối tác đang trỗi dậy này dĩ nhiên là Trung Quốc. Giống như rất nhiều nước khác trước nó, Trung Quốc đã phồn thịnh trong hệ thống kinh tế cởi mở và dựa vào luật lệ, một hệ thống mà Hoa Kỳ đã có công xây dựng và đang có nỗ lực duy trì. Và ngày nay, Trung Quốc tiêu biểu cho một trong những quan hệ song phương thách đố và quan trọng nhất mà Hoa Kỳ chưa từng phải đối phó. Điều này đòi hỏi một sự quản lý chính sách thận trọng, vững chãi, năng động; về phần chúng ta, đây là một đường lối đối với Trung Quốc đặt trên cơ sở thực tế, tập trung vào kết quả, và phù hợp với các nguyên tắc và lợi ích của chúng ta. Tất cả chúng ta đều biết rằng những lo sợ và những nhận thức sai lầm vẫn tiếp tục tồn tại trên cả hai bờ Thái Bình Dương. Một số người trên đất nước chúng ta coi sự tiến bộ của Trung Quốc như một đe dọa cho Hoa Kỳ; một số người tại Trung Quốc lo rằng Mỹ đang tìm cách kềm hãm sự tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc. Chúng ta bác bỏ cả hai quan niệm ấy. Sự thật là một nước Mỹ thịnh vượng là tốt lành cho Trung Quốc và một Trung Quốc thịnh vượng là tốt lành cho Mỹ. Cả hai nước chúng ta sẽ gặt hái rất nhiều điều tốt đẹp từ sự hợp tác hơn là từ xung đột. Nhưng chúng ta không thể xây dựng một quan hệ hữu nghị chỉ dựa vào các điều mong ước mà thôi. Việc biến những lời nói tốt đẹp thành sự hợp tác hữu hiệu một cách thường xuyên hơn – và, rất quan trọng, việc thể hiện trách nhiệm và bổn phận toàn cầu của mỗi nước là hoàn toàn tùy thuộc vào cả hai quốc gia chúng ta. Đây là những điều sẽ quyết định là mối quan hệ của chúng ta có phát triển hết tiềm năng trong những năm sắp tới hay không. Chúng ta cũng phải thẳng thắn nói ra những dị biệt giữa hai nước. Chúng ta phải cương quyết giải quyết những dị biệt này trong khi chúng ta theo đuổi công việc khẩn cấp mà hai nước chúng ta cùng nhau thực hiện. Và chúng ta cần phải tránh những kỳ vọng thiếu thực tế. Trong hai năm rưỡi vừa qua, một trong những ưu tiên hàng đầu của tôi là tìm cách nhận ra và mở rộng các lãnh vực lợi ích chung, hợp tác với Trung Quốc để xây dựng sự tin tưởng lẫn nhau, và khuyến khích các nỗ lực tích cực của Trung Quốc trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu. Đó là lý do tại sao Bộ trưởng Tài chính Timothy Geithner và tôi đã phát động cuộc Đối thoại Chiến lược và Kinh tế, những cuộc thảo luận sâu sắc và rộng rãi nhất từ trước đến nay giữa hai Chính phủ chúng ta, có sự tham dự của hàng chục cơ quan của cả hai bên để bàn thảo những vấn đề song phương bức thiết nhất, từ an ninh đến năng lượng đến nhân quyền. Chúng ta cũng đang tìm cách gia tăng tính minh bạch và giảm rủi ro vì tính toán sai lầm hoặc hiểu sai tín hiệu giữa hai quân đội. Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế đã và đang theo dõi những nỗ lực hiện đại hóa và bành trướng quân đội của Trung Quốc, và chúng ta còn đang tìm kiếm sự minh bạch về những ý định của Trung Quốc. Cả hai phía sẽ hưởng lợi từ sự tiếp xúc bền vững và có thực chất giữa quân đội với quân đội (military-to-military engagement), nhờ vậy sẽ gia tăng tính minh bạch. Do đó lắm lúc chúng ta mong đợi Trung Quốc khắc phục được sự do dự của mình và tham gia cùng chúng ta trong việc hình thành một cuộc đối thoại bền vững giữa quân đội với quân đội. Và chúng ta cần phải hợp tác với nhau để tăng cường cuộc Đối thoại An ninh Chiến lược (the Strategic Security Dialogue), một cuộc đối thoại quy tụ các lãnh đạo quân đội và dân sự để thảo luận các vấn đề nhạy cảm như an ninh trên biển và an ninh trên mạng Internet. Trong khi chúng ta cùng nhau xây dựng niềm tin, chúng ta cam kết hợp tác với Trung Quốc để đối phó với những vấn đề nghiêm trọng về an ninh khu vực và toàn cầu. Đây là lý do tôi thường xuyên gặp gỡ – lắm lúc trong bối cảnh thiếu nghi thức – với các đồng nhiệm Trung Quốc, Ủy viên Quốc vụ viện Đới Bỉnh Quốc và Bộ trưởng Ngoại giao Dương Thiết Trì để thảo luận thẳng thắn về những thách đố nghiêm trọng như Bắc Hàn, Afghanistan, Pakistan, Iran, và những diễn biến tình hình trong Biển Nam Trung Hoa. Trên mặt trận kinh tế, Hoa Kỳ và Trung Quốc cần phải hợp tác để đảm bảo sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu vững mạnh và quân bình. Tiếp theo sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã cùng nhau làm việc một cách hữu hiệu xuyên qua nhóm G-20 để giúp kéo nền kinh tế toàn cầu ra khỏi bờ vực thẳm. Chúng ta cần phải đặt tin tưởng trên sự hợp tác ấy. Các công ty Mỹ muốn có cơ hội đồng đều để xuất khẩu hàng hóa sang các thị trường đang tăng trưởng của Trung Quốc, những thị trường này có thể là động cơ quan trọng tạo ra công ăn việc làm tại Mỹ. Và các công ty Mỹ cũng muốn đảm bảo rằng 50 tỷ đôla tiền vốn của Mỹ đầu tư vào Trung Quốc sẽ tạo ra một nền móng vững chắc cho các cơ hội mới mẻ về thị trường và đầu tư nhằm hậu thuẫn tính cạnh tranh toàn cầu. Trong khi đó, các công ty Trung Quốc muốn có thể mua thêm nhiều sản phẩm công nghệ cao từ Hoa Kỳ, đầu tư thêm vào đây, và cùng được hưởng những điều kiện tiếp cận mà các nền kinh tế thị trường được hưởng. Chúng ta có thể hợp tác trên những mục tiêu này, nhưng Trung Quốc vẫn cần phải thực hiện những bước quan trọng để tiến tới cải tổ thị trường. Đặc biệt là, chúng ta đang làm việc với Trung Quốc để chấm dứt các phân biệt đối xử bất công đối với các công ty Mỹ và các công ty nước ngoài khác hay đối với các công nghệ đầy sáng kiến của họ, tháo gỡ những ưu đãi mà Trung Quốc dành cho các công ty nội địa, và chấm dứt những biện pháp gây bất lợi hay chiếm đoạt đối với quyền sở hữu trí tuệ nước ngoài. Và chúng ta cũng mong đợi Trung Quốc thực hiện những buớc cần thiết để cho phép tiền tệ của mình [tức đồng Nhân dân tệ] tăng giá nhanh hơn nữa, so với đồng đôla Mỹ cũng như so với tiền tệ của các đối tác thương mại quan trọng khác của Trung Quốc. Chúng ta tin rằng những cải tổ này không những có lợi cho cả hai nước (thật ra, chúng sẽ hậu thuẫn những chỉ tiêu của kế hoạch 5 năm của Trung Quốc, kêu gọi sự tăng trưởng dựa vào tiêu thụ nội địa), mà lại còn đóng góp cho sự quân bình kinh tế toàn cầu, cho khả năng dự đoán kinh tế, và sự thịnh vượng rộng lớn hơn. Tất nhiên, chúng ta cũng khẳng định rõ ràng, một cách công khai hoặc riêng lẻ, những quan ngại nghiêm trọng của chúng ta về nhân quyền. Và khi chúng ta thấy được những tin tức liên quan đến các luật sư, văn sĩ, nghệ sĩ, và những người hoạt động vì công ích khác bị giam giữ hoặc bị biến mất, Hoa Kỳ cần phải lên tiếng, một cách công khai hay một cách riêng lẻ, với những mối quan ngại của chúng ta về nhân quyền. Chúng ta từng biện minh với các đồng nhiệm Trung Quốc rằng một sự tôn trọng sâu sắc đối với luật quốc tế và một hệ thống chính trị cởi mở hơn sẽ tạo cho Trung Quốc nền móng vững chắc để đạt được ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế to lớn hơn nhiều – đồng thời tăng thêm niềm tin của các quốc gia đối tác của Trung Quốc. Nếu không thực hiện những điều vừa nói, Trung Quốc đang đặt ra những giới hạn không cần thiết cho sự phát triển của chính mình. Xét cho cùng, không có một cẩm nang nào hướng dẫn mối quan hệ đang diễn tiến giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. Nhưng vì những quyền lợi là quá cao, chúng ta không thể chịu thất bại. Khi xúc tiến các hoạt động, chúng ta sẽ tiếp tục đưa quan hệ của chúng ta với Trung Quốc vào trong một khuôn khổ khu vực rộng lớn hơn gồm có các liên minh an ninh, mạng lưới kinh tế, và các mối liên hệ xã hội. Trong số những cường quốc mới nổi quan trọng mà chúng ta sẽ hợp tác chặt chẽ là Ấn Độ và Indonesia, hai trong những cường quốc dân chủ năng động và đáng kể nhất của châu Á, và là hai quốc gia mà chính quyền Obama đã và đang theo đuổi những mối quan hệ rộng lớn hơn, sâu sắc hơn, và có chủ đích hơn. Vùng biển từ Ấn Độ Đương xuyên qua Eo biển Malacca đến Thái Bình Dương chứa đựng những tuyến đường mậu dịch và năng lượng sinh động nhất thế giới. Kết hợp lại, Ấn Độ vàIndonesiađã chiếm hết 1/4 dân số thế giới. Những quốc gia này là động cơ chủ yếu của kinh tế toàn cầu, đối tác quan trọng của Hoa Kỳ, và ngày càng có những đóng góp quan trọng cho hòa bình và an ninh khu vực. Và vai trò quan trọng của hai nước này có khả năng gia tăng trong những năm sắp tới. Tổng thống Obama đã phát biểu trước Quốc hội Ấn Độ rằng quan hệ giữa Ấn Độ và Mỹ sẽ là một trong những quan hệ đối tác có ý nghĩa nhất của Thế kỷ XXI, đặt cơ sở trên những giá trị chung và lợi ích chung. Cả hai bên vẫn còn có những trở ngại phải vượt qua và những vấn đề cần được giải đáp, nhưng Hoa Kỳ đang đánh cá chiến lược [đặt tin tưởng chiến lược] vào tương lai của Ấn Độ – rằng một vai trò to lớn hơn của Ấn Độ trên sân khấu thế giới sẽ gia tăng hòa bình và ổn định, rằng mở cửa thị trường Ấn Độ cho thế giới sẽ dọn đường cho sự thịnh vượng khu vực và toàn cầu rộng lớn hơn, rằng những tiến bộ khoa học và công nghệ của Ấn Độ sẽ cải thiện đời sống và nâng cao kiến thức nhân loại khắp mọi nơi, và rằng thể chế dân chủ sinh động và đa nguyên của Ấn Độ sẽ mang lại những kết quả có thể đo lường được và những cải thiện cụ thể cho người dân và khuyến khích các nước khác đi theo một đường lối cởi mở và bao dung tương tự. Vì vậy, chính quyền Obama đã mở rộng quan hệ đối tác song phương của hai nước; tích cực hậu thuẫn các nỗ lực Nhìn sang phía Đông (Look East efforts) của Ấn Độ, kể cả bằng cách tham dự một cuộc đối thoại ba bên (trilateral dialogue) với Ấn Độ và Nhật Bản; và phác họa một viễn kiến mới mẻ cho một khu vực Nam và Trung Á hội nhập kinh tế và ổn định chính trị hơn, với Ấn Độ ở vị trí then chốt. Chúng ta cũng đang thiết lập một quan hệ đối tác mới mẻ với Indonesia, nước dân chủ lớn thứ ba thế giới, quốc gia Hồi giáo đông nhất thế giới, và là một thành viên của Nhóm G-20. Chúng ta đã tiếp tục lại chương trình huấn luyện hỗn hợp các đơn vị lực lượng đặc biệt và ký một số thỏa ước về y tế, trao đổi giáo dục, khoa học và công nghệ, và quốc phòng. Và năm nay, đáp lời mời của Chính phủ Indonesia, Tổng thống Obama sẽ mở đầu sự tham dự của Mỹ tại Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á (the East Asia Summit) – Nhưng chúng ta vẫn còn một đoạn đường phải đi – chúng ta cần phải hợp tác với nhau để khắc phục những trở ngại hành chính, những nghi ngờ còn tồn đọng trong lịch sử, và những thiếu sót trong việc tìm hiểu quan điểm và lợi ích của nhau. Ngay cả khi chúng ta tăng cường những quan hệ song phương này, chúng ta đã nhấn mạnh sự quan trọng của hợp tác đa phương, vì chúng ta tin rằng muốn đối phó các thử thách xuyên quốc gia như loại vấn đề mà châu Á đang gặp phải hiện nay, chúng ta cần đến một loạt định chế có khả năng vận dụng hành động tập thể. Và một cơ cấu khu vực vững mạnh và chặt chẽ hơn tại châu Á sẽ tăng cường hệ thống luật lệ và trách nhiệm, từ việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đến việc đảm bảo quyền tự do lưu thông trên biển, những thứ quyền tạo cơ sở cho một trật tự quốc tế hữu hiệu. Trong các bối cảnh đa phương, hành vi có trách nhiệm [của một chế độ] sẽ được tưởng thưởng bằng tính chính danh và sự kính trọng của thế giới, và chúng ta có thể cùng nhau làm việc để buộc những ai phá hoại hòa bình, ổn định và thịnh vượng phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Vì thế, Hoa Kỳ đã bắt đầu tham dự đầy đủ các định chế đa phương trong khu vực như Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), ý thức rằng sự hợp tác của chúng ta với các định chế khu vực chỉ bổ túc chứ không thể thay thế các quan hệ song phương. Có một đòi hỏi từ khu vực này rằng Mỹ cần phải đóng một vai trò tích cực trong việc sắp xếp nghị trình của những định chế này – và sự kiện các định chế này cần phải hoạt động hữu hiệu và sẵn sàng đáp ứng với tình hình cũng nằm trong lợi ích của chúng ta. Đó là lý do tại sao Tổng thống Obama sẽ tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Đông Á lần đầu tiên vào tháng Mười một này. Để chuẩn bị, Hoa Kỳ đã mở một Văn phòng Đại diện mới tại ASEAN ởJakartavà đã ký kết Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác với ASEAN. Sự tập trung của chúng ta vào việc phát triển một nghị trình nhắm vào kết quả (results-oriented agenda) đã rất hữu ích trong các nỗ lực nhằm giải quyết các cuộc tranh chấp trong Biển Nam Trung. Vào năm 2010, tại Diễn đàn Khu vực ASEAN tại Hà Nội, Hoa Kỳ đã giúp phát động một nỗ lực toàn khu vực nhằm bảo vệ quyền tiếp cận không hạn chế và tự do thông thương trên Biển Nam Trung Hoa, và hỗ trợ những luật lệ quốc tế quan trọng nhằm xác định các tuyên bố chủ quyền trong vùng Biển Nam Trung Hoa. Với sự kiện một nửa trọng tải hàng hóa của thế giới đi qua vùng biển này, đây là một nỗ lực rất quan trọng. Và trong năm qua, chúng ta đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc bảo vệ những lợi ích quan trọng của chúng ta liên quan đến sự ổn định và tự do thông thương và dọn đường cho một chính sách ngoại giao đa phương và bền vững giữa những nước có tuyên bố chủ quyền trong Biển Nam Trung Hoa, cố gắng đảm bảo rằng các tranh chấp sẽ được dàn xếp một cách hòa bình và phù hợp với các nguyên tắc hiện hữu của luật pháp quốc tế. Chúng ta cũng có nỗ lực củng cố APEC như một định chế cấp lãnh đạo (leaders-level institution) tập trung vào việc xúc tiến hội nhập kinh tế và quan hệ mậu dịch xuyên Thái Bình Dương. Tiếp theo việc nhóm APEC mạnh dạn kêu gọi thành lập một khu mậu dịch tự do của châu Á-Thái Bình Dương, Tổng thống Obama sẽ là gia chủ của Cuộc họp các Lãnh đạo APEC năm 2011 tại Hawaii tháng Mười một này. Chúng ta cam kết xây dựng APEC thành một định chế kinh tế khu vực hàng đầu của châu Á-Thái Bình Dương, đưa ra nghị trình kinh tế theo một đường lối có thể kết hợp các nền kinh tế tiên tiến và các nền kinh tế mới nổi nhằm đẩy mạnh tự do mậu dịch và đầu tư, cũng như xây dựng khả năng và cải thiện các chế độ điều tiết (regulatory regimes). APEC và hoạt động của nó giúp bành trướng các mặt hàng xuất khẩu của Mỹ, tạo ra và yểm trợ các việc làm có chất lượng cao tại Hoa Kỳ, đồng thời nuôi dưỡng mức tăng trưởng kinh tế trong khu vực. APEC cũng cung cấp một phương tiện quan trọng để thúc đẩy một nghị trình rộng lớn nhằm giải phóng tiềm năng tăng trưởng kinh tế mà phụ nữ là tiêu biểu. Về phương diện này, Hoa Kỳ cam kết hợp tác với các đối tác của chúng ta bằng những bước đầy tham vọng nhằm thúc đẩy sự ra đời của Thời đại Tham gia (the Participation Age), trong đó mọi cá nhân, bất chấp giới tính hay các đặc tính khác, đều là thành viên có đóng góp và quý báu của thị trường toàn cầu. Ngoài cam kết của chúng ta đối với những định chế đa phương rộng lớn này, chúng ta đã cố gắng tổ chức và phát động một số các cuộc họp “đa phương nhỏ”, các nhóm nhỏ những quốc gia có quan tâm để đối phó những vấn đề riêng biệt, chẳng hạn Sáng kiến Hạ lưu Sông Mê Kông (the Lower Mekong Initiative) mà chúng ta đã phát động nhằm hỗ trợ giáo dục, y tế, và những chương trình bảo vệ môi trường tại Căm Pu Chia, Lào, Thái Lan, và Việt Nam, và Diễn đàn các Đảo Thái Bình Dương (the Pacific Islands Forum), ở đó chúng ta đang hoạt động để hỗ trợ các thành viên trong khi họ đương đầu với các thử thách, từ thay đổi khí hậu đến đánh bắt cá quá mức quy định đến tự do thông thương trên biển. Chúng ta cũng đang bắt đầu theo đuổi các cơ hội ba bên mới mẻ (new trilateral opportunities) với những nước khác nhau nhưMông Cổ,Indonesia, NhậtBản,Kazakhstan, và Nam Hàn. Và chúng ta cũng đang nhắm vào việc cải thiện việc điều hợp (coordination) và tham gia của ba đại cường [ba anh khổng lồ] của châu Á-Thái Bình Dương: Trung Quốc, Ấn Độ, và Hoa Kỳ. Bằng tất cả các đường lối khác nhau này, chúng ta đang cố gắng ảnh hưởng và tham dự vào một cơ cấu khu vực linh động, hiệu quả, và có khả năng đáp ứng tình hình – và đảm bảo rằng cơ cấu này nối kết với một cơ cấu toàn cầu rộng lớn hơn, không những bảo vệ sự ổn định và thương mại quốc tế mà còn phổ biến các giá trị của chúng ta. Chúng ta nhấn mạnh chức năng kinh tế của APEC trong việc theo đuổi những cam kết rộng lớn hơn là để nâng cao chính sách kinh tế như là một cột trụ của chính sách đối ngoại Mỹ. Sự tiến bộ kinh tế ngày càng lệ thuộc vào các quan hệ ngoại giao vững mạnh, và sự tiến bộ ngoại giao ngày càng lệ thuộc vào các quan hệ kinh tế vững mạnh. Và lẽ tự nhiên, một sự tập trung vào việc thúc đẩy sự thịnh vượng của Mỹ có nghĩa là một sự tập trung lớn hơn vào mậu dịch và sự cởi mở kinh tế tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Khu vực này đã tạo ra hơn nửa sản lượng toàn cầu và gần nửa lượng mậu dịch toàn cầu. Trong khi chúng ta đang phấn đấu để đạt mục tiêu của Tổng thống Obama là tăng gấp đôi lượng hàng xuất khẩu vào năm 2015, chúng ta cũng đang tìm kiếm cơ hội để phát triển doanh nghiệp Mỹ hơn nữa tại châu Á. Năm ngoái, lượng hàng xuất khẩu của Mỹ đến các nước ở Bờ Tây Thái Bình Dương (the Pacific Rim) lên đến tổng số 320 tỷ đôla, hỗ trợ cho 850.000 việc làm tại Mỹ. Như vậy có rất nhiều yếu tố thuận lợi khi chúng ta cân nhắc việc tái phối trí [chiến lược] này. Khi tôi nói chuyện với các đồng nhiệm châu Á của tôi, một đề tài thường xuyên nổi bật: Họ vẫn muốn Hoa Kỳ là một đối tác tích cực và đầy sáng kiến trong các tương tác thương mại và mậu dịch đang gia tăng trong khu vực. Và khi tôi nói chuyện với các lãnh đạo doanh nghiệp khắp đất nước chúng ta, tôi nghe rằng việc Hoa Kỳ mở rộng các cơ hội xuất khẩu và đầu tư của chúng ta tại các thị trường năng động của châu Á là rất quan trọng.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 20, 2011 6:29:04 GMT 9
Tháng Ba vừa qua tại các cuộc họp APEC tại Washington, và một lần nữa tại Hồng Kông vào tháng Bảy, tôi đã nêu ra bốn thuộc tính (attributes) mà tôi cho là mô tả tính cách của một sự cạnh tranh kinh tế lành mạnh: thông thoáng, tự do, minh bạch, và công bằng. Qua sự tham gia tích cực của chúng ta trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, chúng ta đang giúp thể hiện những nguyên tắc này và chứng minh giá trị của chúng với thế giới. Chúng ta đang theo đuổi những hiệp ước thương mại tiên phong có khả năng nâng cao tiêu chuẩn cạnh tranh công bằng ngay cả khi những hợp đồng này mở ra những thị trường mới mẻ. Chẳng hạn, Hiệp ước Tự do mậu dịch Mỹ-Hàn sẽ loại bỏ thuế quan trên 95% hàng xuất khẩu tiêu thụ và hàng xuất khẩu công nghiệp của Mỹ trong vòng 5 năm và hỗ trợ khoảng 75.000 việc làm tại Mỹ. Nội việc giảm thuế quan này mà thôi cũng có thể gia tăng các mặt hàng xuất khẩu của Mỹ thêm hơn 10 tỉ đôla và giúp kinh tế Nam Hàn tăng trưởng thêm 6% của tỷ lệ tăng trưởng hàng năm. Hiệp ước này sẽ san bằng sân chơi cho các công ty xe hơi Mỹ và công nhân Mỹ. Vì thế, bất luận bạn là một nhà chế tạo máy móc Mỹ hay một người xuất khẩu hóa chất Nam Hàn, hiệp ước này sẽ hạ thấp các rào cản đã ngăn cấm bạn với tới các khách hàng mới. Chúng ta cũng đạt được tiến bộ về Quan hệ Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TTP), một thỏa ước sẽ tập hợp một số nền kinh tế xuyên Thái Bình Dương – phát triển cũng như đang phát triển – thành một cộng đồng thương mại đơn nhất [còn đang trong vòng đàm phán giữa Hoa Kỳ và 8 quốc gia khác trong đó có Việt Nam – DG.] Mục đích của chúng ta là tạo ra tăng trưởng không những nhiều hơn, nhưng còn tốt đẹp hơn. Chúng ta tin rằng các thỏa ước thương mại cần phải có những điều khoản bảo vệ công nhân, môi trường, quyền sở hữu trí tuệ, và sáng kiến. Những điều khoản này cũng phải khuyến khích dòng giao lưu tự do của công nghệ thông tin và truyền bá công nghệ xanh [bảo vệ môi trường], cũng như sự chặt chẽ trong hệ thống điều tiết của chúng ta và hiệu năng của hệ thống cung cấp sản phẩm. Sau cùng, sự tiến bộ của chúng ta sẽ được đo lường bằng phẩm chất của đời sống dân chúng – là liệu cả đàn ông lẫn đàn bà có được việc làm phù hợp với nhân phẩm, có kiếm được đồng lương đủ sống, có nuôi gia đình được khỏe mạnh, có giáo dục được con cái, và có nắm bắt cơ hội để cải thiện vận mệnh của chính họ hay của thế hệ tiếp theo hay không. Chúng ta hy vọng một hiệp ước TTP với tiêu chuẩn cao có thể được dùng làm mẩu mực cho các hiệp ước tương lai – và sẽ phát triển để trở thành một diễn đàn cho sự tương tác rộng lớn hơn trong khu vực và sau cùng trở thành một khu mậu dịch tự do của châu Á-Thái Bình Dương. Muốn đạt được quân bình trong những quan hệ mậu dịch, chúng ta cần có sự cam kết hai chiều. Đó là bản chất của quân bình – nó không thể được áp đặt một cách đơn phương. Vì thế, chúng ta đang làm việc thông qua APEC, nhóm G-20, và các quan hệ song phương để cổ vũ thêm nhiều thị trường tự do hơn nữa, giảm các hạn chế trên hàng xuất khẩu, tăng cường tính minh bạch, và đòi hỏi một cam kết chung cho sự công bằng. Doanh nghiệp Mỹ và công nhân Mỹ cần có sự tin tưởng là họ đang hoạt động trên một sân chơi bằng phẳng, với những luật lệ có thể tiên đoán được trên mọi phương diện từ sở hữu trí tuệ đến sáng kiến của người bản xứ. Tăng trưởng kinh tế ngoạn mục của châu Á trong thập niên qua và tiềm năng tăng trưởng liên tục vào tương lai của châu Á tùy thuộc vào nền an ninh và ổn định từ lâu được bảo đảm bởi quân đội Mỹ, bao gồm 50.000 lính Mỹ phục vụ tại Nhật Bản và Nam Hàn. Những thách đố do tình hình biến chuyển nhanh chóng trong khu vực hiện nay – từ những tranh chấp lãnh thổ và lãnh hải đến những đe dọa mới mẻ đối với tự do thông thương trên biển đến hậu quả thiên tai trầm trọng – đòi hỏi Hoa Kỳ phải theo đuổi các khả năng quân sự được phân bố theo địa lý, có sức bật trong chiến đấu, và có lợi thế chính trị. Chúng ta đang hiện đại hóa các căn cứ quân sự Mỹ với các đồng minh truyền thống trong khu vực Đông Bắc Á – và sự cam kết của chúng ta trên vấn đề này là rất vững chắc – trong khi chúng ta gia tăng sự hiện diện của mình tại Đông Nam Á và vào trong Ấn Độ Dương. Chẳng hạn Hoa Kỳ sẽ triển khai các chiến hạm đến Singapore, và chúng ta đang điều nghiên các phương thức khác để gia tăng cơ hội cho hai quân đội huấn luyện và hoạt động với nhau. Ngoài ra, Hoa Kỳ vàAustraliavào năm nay đã đồng ý thăm dò một sự hiện diện quân đội Mỹ to lớn hơn tạiAustraliađể gia tăng cơ hội cho việc huấn luyện và thao diễn hỗn hợp. Chúng ta cũng đang thăm dò phương cách để gia tăng khả năng tiếp cận hành quân của chúng ta tại Đông Nam Á và khu vực Ấn Độ Dương đồng thời tăng cường những tiếp xúc của chúng ta với các quốc gia đồng minh và đối tác. Làm thế nào để diễn dịch đường nối kết ngày càng phát triển giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương thành một ý niệm hành quân là một câu hỏi chúng ta cần phải trả lời nếu chúng ta muốn thích ứng với những thách đố mới mẻ ở trong khu vực. Trong bối cảnh này, một sự hiện diện quân sự được phân bố rộng rãi hơn nữa khắp khu vực sẽ tạo ra những lợi thế rất quan trọng. Hoa Kỳ nhờ thế sẽ ở vào một vị trí thuận lợi hơn để hỗ trợ các sứ mệnh nhân đạo. Cũng không kém phần quan trọng là, có thêm nhiều đồng minh và đối tác để cùng làm việc sẽ tạo được một lực lượng phòng thủ vững chắc hơn để chống lại những đe dọa hay các nỗ lực phá hoại hòa bình và an ninh khu vực. Nhưng thậm chí còn hơn cả sức mạnh quân sự của chúng ta hay tầm cỡ của nền kinh tế của chúng ta, tài sản giàu có nhất của chúng ta trong tư thế một quốc gia là sức mạnh nội tại trong các giá trị của chúng ta – đặc biệt là sự hậu thuẫn vững chắc của chúng ta cho dân chủ và nhân quyền. Điều này chứng minh phẩm cách quốc gia sâu sắc nhất của chúng ta và nằm ngay trung tâm của chính sách đối ngoại Mỹ, kể cả sự chuyển hướng chiến lược của chúng ta nhắm vào khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong khi chúng ta tăng cường sự cam kết của chúng ta với những đối tác mà chúng ta bất đồng ý kiến về những vấn đề này, chúng ta sẽ tiếp tục thúc đẩy họ chấp nhận các cải tổ nhằm cải thiện việc quản trị quốc gia, bảo vệ nhân quyền, và gia tăng các tự do chính trị. Chẳng hạn, chúng ta đã nói rõ với ViệtNamrằng nguyện vọng phát triển một quan hệ đối tác chiến lược của chúng ta đòi hỏi quốc gia này phải có hành động bảo vệ nhân quyền và đẩy mạnh tự do chính trị hơn nữa. Hay hãy xét đến Miến Điện, một nơi mà chúng ta cương quyết đòi trách nhiệm giải trình của Chính phủ về các vi phạm nhân quyền. Chúng ta chăm chú theo dõi những diễn biến tại Nay Pyi Taw [thủ đô mới của Miến Điện] và những tương tác đang gia tăng giữa Bà Aung San Suu Kyi và giới lãnh đạo Chính phủ. Chúng ta đã nhấn mạnh với Chính phủ rằng họ phải thả tù chính trị, đẩy mạnh các tự do chính trị và nhân quyền, và từ bỏ các chính sách trong quá khứ. Còn về Bắc Hàn, chế độ Bình Nhưỡng đã chứng tỏ luôn luôn coi thường các quyền của người dân trong nước, và chúng ta tiếp tục lên tiếng mạnh mẽ chống lại các đe dọa mà họ đặt ra cho khu vực và các nơi khác. Chúng ta không thể và không muốn áp đặt hệ thống chính trị của chúng ta lên các nước khác, nhưng chúng ta thực sự tin tưởng một số giá trị nhất định là phổ quát – rằng người dân trong mọi quốc gia trên thế giới, kể cả châu Á, trân quý chúng – và rằng những giá trị này gắn liền với các quốc gia ổn định, hòa bình, và phồn thịnh. Cuối cùng, việc theo đuổi những quyền tự do và nguyện vọng của mình là hoàn toàn tùy thuộc vào người dân châu Á, y hệt như chúng ta nhận thấy người dân đã làm khắp nơi trên thế giới. Trong thập kỷ vừa qua, chính sách đối ngoại của chúng ta đã chuyển biến từ những lợi lộc nhờ hòa bình sau Chiến tranh Lạnh đến đòi hỏi những cam kết tạiIraqvàAfghanistan. Khi những cuộc chiến này tàn lụi, chúng ta sẽ cần tăng tốc những nỗ lực để hướng về những tình hình thực tế mới mẻ trên toàn cầu. Chúng ta biết rằng những thực tế mới mẻ này đòi hỏi chúng ta phải có sáng kiến, phải cạnh tranh, và phải lãnh đạo bằng những đường lối mới. Thay vì phải rút khỏi thế giới, chúng ta cần phải xốc tới và đổi mới cách lãnh đạo của chúng ta. Trong một thời kỳ khan hiếm nguồn lực, hẳn nhiên là chúng ta cần phải đầu tư những nguồn lực này một cách khôn ngoan vào những nơi chúng có thể tạo ra nhiều lợi nhuận nhất, đó là lý do tại sao khu vực châu Á-Thái Bình Dương tượng trưng cho một vận hội đích thực của Thể kỷ XXI đối với chúng ta. Tất nhiên, những khu vực khác vẫn còn rất quan trọng. Châu Âu, quê hương của hầu hết các đồng minh truyền thống của chúng ta, vẫn còn là một đối tác hàng đầu, gần như hoạt động sát cánh với Hoa Kỳ trước mọi thử thách toàn cầu khẩn cấp, và chúng ta đầu tư vào việc cập nhật hóa các cấu trúc của liên minh chúng ta. Nhân dân Trung Đông và Bắc Phi đang vạch ra một con đường mới, việc này đang có những hậu quả toàn cầu sâu sắc, và Hoa Kỳ cam kết duy trì những quan hệ đối tác tích cực và bền vững trong khi khu vực này đang chuyển mình. Châu Phi đang giữ tiềm năng to lớn chưa được khai thác cho việc phát triển kinh tế và chính trị trong những năm sắp tới. Và tất cả những quốc gia láng giềng của chúng ta tại Tây Bán cầu không những chỉ là những đối tác xuất khẩu to lớn nhất của chúng ta; họ còn đóng một vai trò ngày càng quan trọng trong các vấn đề chính trị và kinh tế toàn cầu. Mỗi một khu vực này đòi hỏi Hoa Kỳ phải tích cực tham gia và lãnh đạo. Và chúng ta sẵn sàng lãnh đạo. Trong giờ phút này, tôi biết rằng có những người đang hoài nghi khả năng tồn tại của chúng ta khắp thế giới. Khi Chiến tranh Việt Nam chấm dứt, có một công nghiệp rất thịnh hành gồm các bình luận gia đưa ra ý kiến cho rằng Hoa Kỳ đang tháo chạy, và đây là một đề tài cứ lặp đi lặp lại mỗi vài thập niên. Nhưng bất cứ khi nào Hoa Kỳ tạm thời gặp thất bại, chúng ta lại khắc phục chúng bằng tái phát minh và sáng kiến. Khả năng hồi phục mạnh mẽ hơn trước của chúng ta là vô địch trong lịch sử hiện đại. Khả năng này phát sinh từ mô hình dân chủ tự do và tự do kinh doanh của chúng ta, một mô hình vẫn còn là nguồn tạo ra phồn vinh và tiến bộ mạnh mẽ nhất mà nhân loại biết tới. Khắp mọi nơi tôi đến, tôi nghe rằng thế giới vẫn còn trông đợi Hoa Kỳ lãnh đạo. Quân đội của chúng ta rõ ràng là hùng mạnh nhất, và nền kinh tế của chúng ta rõ ràng là lớn nhất. Công nhân của chúng ta có năng suất cao nhất. Đại học của chúng ta nổi tiếng khắp hoàn cầu. Vì thế hiển nhiên là, Hoa Kỳ có khả năng đảm bảo và duy trì quyền lãnh đạo của chúng ta trong thế kỷ này cũng như đã từng làm trong thế kỷ trước. Khi chúng ta bước tới chuẩn bị tham gia các hoạt động tại châu Á trong 60 năm tới, chúng ta luôn luôn ý thức cái di sản lưỡng đảng đã ảnh hưởng sự dấn thân của chúng ta trong 60 năm qua. Và chúng ta đang tập trung vào những việc mà chúng ta phải thực hiện ở trong nước – tăng quỹ tiết kiệm, cải tổ các hệ thống tài chính của chúng ta, giảm bớt việc vay nợ, khắc phụ nạn chia rẽ đảng phái – để đảm bảo và duy trì quyền lãnh đạo của chúng ta ở nước ngoài. Tuy rằng sự chuyển hướng này không phải là dễ dàng, nhưng chúng ta đã dọn đường cho nó trong 2 năm rưỡi vừa qua, và chúng ta cương quyết phải thấy nó hoàn thành như một trong những nỗ lực ngoại giao quan trọng nhất thời đại chúng ta. Nguồn: www.foreignpolicy.comT.N.C. dịch
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 21, 2011 2:22:09 GMT 9
Sự kiện 11/09 và biệt lệ Hoa Kỳ
Vietsciences-Nguyễn Trường 18/12/2011
Kỷ niệm thứ 10 của sự kiện 11-9-2001, một biến động đã làm thay đổi thế giới, đã đến rồi đi. Ngày 1-5-2011, Osama bin Laden, người chính thức được xem như chủ mưu, đã bị hạ sát ở Pakistan bởi đội biệt kích tinh nhuệ của Hải Quân Hoa Kỳ, SEALS, ngay sau khi bị bắt, không vũ khí và không được bảo vệ, trong cuộc hành quân Geronimo.
Một số nhà phân tích đã ghi nhận: mặc dù cuối cùng đã bị giết, bin Laden cũng đã thành đạt một số thắng lợi đáng kể trong cuộc chiến chống lại Hoa Kỳ.Theo Eric Margolis, "[Bin- Laden] đã nhiều lần khẳng định phương cách duy nhất để buộc Hoa Kỳ phải rút khỏi thế giới Hồi Giáo và đánh bại các tay chân là lôi kéo người Mỹ vào một chuổi các cuộc chiến nhỏ nhưng tốn kém, những cuộc chiến cuối cùng sẽ đẩy Hoa Kỳ đến bờ phá sản. Hay theo ngôn từ của chính bin Laden: Làm Hoa Kỳ mất máu. Hoa Kỳ, trước hết dưới thời George W. Bush, và kế đến, Barack Obama, đã nhảy vào bẩy sập của bin Laden...Các chi tiêu quân sự và nợ nần gia tăng thái quá và lố bịch...có thể là di sản tai hại nhất của nhân vật tự nghĩ có thể đánh bại Hoa Kỳ"[1] -- nhất là khi số công trái được phe cực hữu lợi dụng bất chấp cả đạo lý, với sự cấu kết của phe Dân Chủ, để xói mòn những gì còn sót lại của các chương trình xã hội, giáo dục, nghiệp đoàn, và nói chung, những rào cản ngăn ngừa và chống đỡ sự bạo ngược chuyên quyền của các đại công ty tư bản.
Trong một thời gian ngắn, Hoa Thịnh Đốn đã tỏ rõ khuynh hướng luôn sẵn sàng thỏa mãn những mong đợi thiết tha nhất của bin Laden. Bất cứ ai với chút kiến thức về vùng Trung Đông đều dễ dàng nhận chân: một làn sóng tấn công ồ ạt vào thế giới Hồi giáo cũng là một đáp ứng cho những ước nguyện của bin Laden và các cộng sự, và theo lời Bộ trưởng ngoại giao của Pháp, có thể đẩy Hoa Kỳ và các đồng minh vào bẩy sập cực kỳ nguy hiểm.
Như Michael Scheuer, một nhà phân tích cao cấp chịu trách nhiệm theo dỏi Osama bin Laden từ năm 1996, đã viết:"bin Laden đã cho Hoa Kỳ biết chính xác những lý do tuyên chiến với chúng ta. Ông đã quyết tâm thay đổi chính sách của Hoa Kỳ và Tây phương đối với thế giới Hồi giáo," và phần lớn đã thành công - các lực lượng và chính sách của Hoa Kỳ đang hoàn tất 'cực đoan hóa' thế giới Hồi giáo, một mục tiêu Osama bin Laden đã cố gắng thực thi khá thành công nhưng chưa hoàn tất từ đầu thập kỷ 1990. Vì vậy, tôi nghĩ phải công bằng để kết luận: Hoa Kỳ vẫn luôn là đồng minh thiết yếu duy nhất của bin Laden,"[2] và có thể nói đang tiếp tục như thế ngay sau ngày bin Laden đã bị hạ sát.
11/9 ĐẦU HAY 11/9/1973
Câu hỏi cần được đặt ra: Liệu có thể có một giải pháp thay thế?
Rất có thể phong trào Thánh Chiến, phần lớn không mấy ủng hộ bin Laden, có thể đã bị phân hóa và suy yếu sau 11-9. "Tội ác chống lại nhân loại," như đã được gọi như thế, đã có thể được tiếp cận như một tội phạm, với một chiến dịch quốc tế lùng bắt các nghi phạm. Điều nầy lúc đó đã được công nhận, nhưng một ý tưởng như thế vẫn chưa được xem xét.
Thực vậy, theo lời Robert Fisk: tội phạm khủng khiếp 11-9 đã xẩy ra mang tính "đồi bại và tàn ác kinh tởm"[3] - một phán đoán chính xác.
Tưởng cần nên ghi nhớ các tội phạm cũng có thể đã tệ hại hơn nhiều. Chẳng hạn, giả thiết cuộc tấn công đã đi xa hơn như bỏ bom Tòa Bạch Ốc, giết chết tổng thống, áp đặt một chế độ độc tài quân sự tàn bạo: giết hại hàng nghìn và tra tấn hàng chục nghìn trong khi thiết lập một trung tâm khủng bố giúp áp đặt những nhà nước tra tấn và khủng bố quốc tế; thực hiện một chiến dịch ám sát quốc tế; và sử dụng một đội ngũ kinh tế gia nhanh chóng đẩy kinh tế vào những cuộc khủng hoảng tệ hại nhất trong lịch sử. Điều đó rõ rệt là đã có thể tai hại hơn 11-9 rất nhiều.
Không may, đó không phải một thí nghiệm chỉ được nghĩ tới. Mà đó là điều đã thực sự xẩy ra. Điều không chính xác duy nhất trong bản liệt kê ngắn ngũi trên đây là các con số cần được nhân lên gấp 25 lần để có được những con số tương đương theo đầu người, một thước đo thích hợp. Chúng ta đang nói đến điều ở Mỹ La Tinh thường được gọi là 11-9 đầu tiên -- 11-9-1973, khi Hoa Kỳ đã thành công trong nổ lực lật đổ chính quyền dân cử của Salvador Allen ở Chí Lợi với cuộc đảo chính quân sự đưa chế độ tàn bạo [của Tướng] Pinochet lên cầm quyền. Mục tiêu, theo ngôn từ của chính quyền Nixon, là "giết các 'vi khuẩn' có thể khuyến khích "tất cả những người nước ngoài nào muốn hại chúng ta" hầu chiếm lại các tài nguyên riêng của chính họ và trong nhiều cách theo đuổi một chính sách phát triển độc lập không thể tha thứ. Lẫn khuất trong hậu trường là kết luận của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia (NSC) : Nếu Hoa Kỳ không thể kiểm soát châu Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ sẽ không thể hy vọng "thành đạt một trật tự mới thành công ở những nơi khác trên thế giới."[4]
11/9/đầu tiên [1973] - không giống 11/9 lần thứ hai [2001]- đã không thay đổi thế giới. "Đó không là một cái gì có hậu quả thật lớn lao,"[5] như Henry Kissinger đã quả quyết với minh chủ Nixon một vài ngày sau đó.
Những biến cố với rất ít hậu quả không chỉ giới hạn ở cuộc đảo chánh quân sự hủy hoại nền dân chủ Chí Lợi và khởi động câu chuyện rùng rợn sau đó. Biến cố 11/9 đầu tiên chỉ là một hành động trong bi kịch đã bắt đầu từ 1962, khi JFK đã chuyển dịch sứ mạng của giới quân sự Mỹ La Tinh từ "bảo vệ bán cầu" - một ý niệm lỗi thời còn sót lại từ Đệ Nhị Thế Chiến - qua "an ninh nội bộ" - một ý niệm với một giải thích ghê rợn trong những giới Mỹ La Tinh dưới sự khống chế của Mỹ.
Trong cuốn History of the Cold War - Lịch Sử Chiến Tranh Lạnh - của Đại Học Cambridge mới xuất bản, học giả Mỹ La Tinh John Coatsworth viết, từ thời đó cho đến "sự tan rã của Liên Bang Xô Viết năm 1990, con số những tù nhân chính trị, nạn nhân các cuộc tra tấn và hành quyết, những thành phần bất đồng chính kiến và bất bạo động ở Mỹ La Tinh, đã vượt rất xa những con số cùng loại ở Liên Bang Xô Viết và các xứ vệ tinh Đông Âu," kể cả các người tử vì đạo cũng như các vụ tàn sát hàng loạt, luôn được Hoa Thịnh Đốn hổ trợ hay khởi xướng. Hành động bạo lực quan trọng cuối cùng là vụ giết hại dã man sáu nhà trí thức Mỹ La Tinh hàng đầu, các linh mục Jesuit, vài ngày sau khi Bức Tường Bá Linh sụp đổ. Thủ phạm là tiểu đoàn Salvador, đã từng để lại các dấu tích kinh tởm và vừa được tái huấn luyện tại Trường Chiến Tranh Đặc Biệt JFK - JFK School of Special Warfare, hành động theo lệnh trực tiếp của Bộ tư lệnh Nhà Nước khách hàng của Mỹ.
Khỏi cần phải nói, các hậu quả của tai họa nầy vẫn còn vang vọng ở Tây Bán Cầu.
TỪ BẮT CÓC VÀ TRA TẤN ĐẾN ÁM SÁT
Tất cả những điều kể trên, và nhiều điều tương tự, đều bị gạt bỏ như chẳng có gì quan trọng và đã chìm vào quên lãng. Những người có sứ mệnh thống trị hoàn cầu được an hưởng một hình ảnh thoải mái hơn, được diễn tả rành mạch trên số báo mới đầy uy tín - The Royal Institute of International Affairs, ở Luân Đôn. Bài viết chủ đạo thảo luận "trật tự thế giới mang tính viễn kiến" của "hậu bán thế kỷ 20" được đánh dấu bằng "sự phổ quát hóa một viễn kiến Hoa Kỳ về thịnh vượng thương mãi."[6] Cũng có một chút gì đó trong bảng liệt kê, nhưng nó đã không chuyển tải được nhận thức của những ai đang ở đầu họng súng.
Điều đó cũng đúng với vụ ám sát Osama bin Laden, đã đánh dấu chung cuộc của ít ra một giai đoạn trong "cuộc chiến chống khủng bố," lần nầy do T T George W. Bush tái tuyên chiến sau biến cố 11/9 thứ hai. Chúng ta thử duyệt xét một vài tư tưởng về biến cố nầy và ý nghĩa của nó.
Ngày 1-5-2011, Osama bin Laden đã bị ám sát ngay trong khu nhà đang ở, gần như hoàn toàn không được bảo vệ, trong cuộc hành quân biệt kích 79 Navy SEALs, vi phạm không phận Pakistan bằng trực thăng. Sau nhiều câu chuyện khủng khiếp do chính quyền tung ra rồi rút lại, những phúc trình chính thức cũng đã cho thấy lúc một sáng tỏ cuộc hành quân là một cuộc ám sát - đã được hoạch định vi phạm nhiều chuẩn mực luật quốc tế sơ đẳng, bắt đầu với chính cuộc xâm lăng.
Cuộc hành quân hình như không hề có ý định bắt sống một nghi can không vũ khí, điều lẽ ra đã có thể thực hiện bởi 79 biệt kích. Họ đã không gặp một kháng cự nào - ngoại trừ, như chính họ đã phúc trình, từ người vợ nghi can cũng không vũ khí. Họ đã "bắn hạ để tự vệ" khi bà nhào tới, theo Tòa Bạch Ốc.
Các biến cố đã được tái cấu trúc đáng tin cậy của phóng viên Trung Đông kỳ cựu Yochi Dreazen và các đồng nghiệp trong tờ Atlantic. Dreazen, nguyên phóng viên quân sự của tờ Wall Street Journal, là phóng viên cao cấp của National Journal Group về các vấn đề quân sự và an ninh quốc gia. Theo điều tra của nhóm, kế hoạch của Bạch Ốc rõ ràng đã không xét đến sự khả dĩ bắt sống bin Laden: "Nhà cầm quyền đã chỉ thị rõ ràng cho Bộ Chỉ huy Hành Quân Đặc Nhiệm Liên Ngành bí mật là muốn một bin Laden chết, theo một quan chức cao cấp biết rõ các cuộc thảo luận. Một sĩ quan cao cấp Hoa Kỳ tóm tắt cuộc tấn công đã cho biết SEALs hiểu sứ mệnh của họ là không bắt sống."[7]
Các tác giả còn nói thêm: "Theo nhiều quan chức ở Ngũ Giác Đài và Cơ Quan Tình Báo Trung Ương có nhiệm vụ săn lùng bin Laden gần một thập kỷ nay, giết chiến binh là một hành động trả thù cần thiết và chính đáng." Hơn nữa, "bắt sống bin Laden có thể đặt ra cho chính quyền một loạt thách thức luật pháp và chính trị gai góc." Tốt hơn hết là ám sát nghi can, quẳng thi thể xuống biển, không cần mổ xác phân tích, luôn được xem như thủ tục thiết yếu trong pháp y- một động thái chắc chắn gây ra căm thù và nghi ngờ trong thế giới Hồi Giáo.
Như cuộc điều tra của tờ Atlantic đã ghi nhận, "Quyết định giết bin Laden tức khắc là một minh họa rõ ràng nhất hiện nay của một khía cạnh ít ai lưu ý trong chính sách chống khủng bố của chính quyền. Chính quyền Bush đã bắt hàng nghìn nghi phạm chiến binh và gửi họ đến những trại giam ở Afghanistan, Iraq, và Guantanamo Bay. Chính quyền Obama, ngược lại, đã tập trung vào việc thanh toán các cá nhân khủng bố thay vì tìm cách bắt sống." Đây là sự khác biệt đáng kể giữa Bush và Obama. Các tác giả đã trích dẫn, nguyên Thủ Tướng Tây Đức Helmut Schmidt đã tuyên bố với truyền hình Đức: cuộc bố ráp của Hoa Kỳ "rõ ràng là một vi phạm luật quốc tế và bin Laden lẽ ra đã phải được bắt giữ và đưa ra tòa xét xử." Khác với Schmidt, Bộ trưởng Tư Pháp Hoa Kỳ, Eric Holder - người bênh vực quyết định giết bin Laden mặc dù bin Laden đã không là một đe dọa trực tiếp cho Navy SEALs - đã tuyên bố trước một tiểu ban Quốc Hội: "...cuộc bố ráp là hợp pháp, chính đáng và thích ứng trên mọi phương diện."[8]
Cách xử lý thể xác [trái với pháp y] cũng đã bị các đồng minh chỉ trích. Luật sư được kính nể người Anh, Geoffrey Robertson, người ủng hộ sự can thiệp nhưng chống đối việc hành quyết vì những lý do thực tiển, tuy vậy, cũng đã mô tả việc Obama tuyên bố "công lý đã được thực thi" là một điều "phi lý", lẽ ra đã hiển nhiên và rõ rệt đối với một nguyên giáo sư luật hiến pháp. Luật Pakistan "đòi hỏi một vụ điều tra thuộc địa về cái tử vong do bạo lực, và luật nhân quyền quốc tế nhấn mạnh 'quyền sống' cũng đòi hỏi điều tra mỗi khi có trường hợp tử vong vì bạo lực bởi chính quyền hay hành động cảnh sát. Hoa Kỳ, vì vậy, có bổn phận phải mở điều tra để thỏa mãn thế giới về trạng huống đích thực trong vụ hành quyết nầy."
Robertson nhắc nhở chúng ta thực tế không luôn như thế. Mỗi khi cần xem xét số phận những phạm nhân đã chìm sâu trong tội ác - sâu xa hơn nhiều so với Osama bin Laden, như giới lãnh đạo Quốc Xã, chẳng hạn - chính quyền Anh đã muốn treo cổ phạm nhân nội trong sáu giờ sau khi bắt giữ. Tổng Thống Truman đã tỏ ra ngần ngại, viện dẫn kết luận của thẩm phán tối cao pháp viện Robert Jackson: Việc xử tử giản lược không thể được lương tâm người Mỹ chấp nhận dễ dàng hay được các thế hệ con em sau nầy lấy làm hãnh diện... Con đường duy nhất là thẩm định bị cáo vô tội hay có tội sau khi phán xử vô tư, trong chừng mức thời gian cho phép và căn cứ trên hồ sơ ghi rõ lý do và động lực.
Eric Margolis bình luận "Hoa Thịnh Đốn chưa bao giờ công bố bằng chứng Osama bin Laden đã chủ mưu các cuộc tấn công 11/9," có thể vì vậy, các cuộc thăm dò công luận cho thấy 1/3 dân Mỹ tin chính quyền Hoa Kỳ và/hoặc Do Thái đã đứng sau các vụ tấn công," trong khi trong thế giới Hồi Giáo tỉ số nghi ngờ còn cao hơn. Một cuộc xử công khai ở Hoa Kỳ hay The Hague có thể soi sáng sự quyết đoán, một lý do thực tế Hoa Thịnh Đốn lẽ ra đã cần phải tuân thủ luật pháp quốc tế.
Trong các xã hội thượng tôn luật pháp, các nghi can đều bị cầm giữ và đem ra xét xử công minh. Theo báo Washington Post, tháng 6-2002, người cầm đầu FBI, Robert Mueller, đã mô tả "trong những lời bình luận công khai chi tiết nhất của ông về nguồn gốc các cuộc tấn công, cũng chỉ có thể nói "các viên chức điều tra tin ý tưởng về các cuộc tấn công 11-9 vào Trung Tâm Thương Mãi Thế Giới và Ngũ Giác Đài đã đến từ các lãnh đạo al-Qaeda ở Afghanistan, sự hoạch định thực sự đã được thực hiện ở Đức, và tài trợ đã đến từ các nguồn cung cấp ở Afghanistan qua ngã United Arab Emirates."[9]
Những gì FBI tin và nghĩ trong tháng 6-2002, họ đã không hề biết tám tháng trước đó, thời điểm Hoa Thịnh Đốn đã bác bỏ những đề nghị thăm dò của Taliban (không ai biết rõ trình độ nghiêm túc) cho phép xét xử bin Laden nếu có được bằng chứng. Như vậy, khi T T Obama đưa ra lời xác nhận trong bản tuyên bố của Tòa Bạch Ốc sau cái chết của bin Laden, "chúng tôi đã nhanh chóng biết được những cuộc tấn công 11-9 là do al-Qaeda thực hiện,"[10] lời tuyên bố đó rõ ràng không đúng sự thật.
Chưa bao giờ có lý do để nghi ngờ những gì FBI đã tin vào giữa năm 2002. Ngay cả sự tin tưởng đó cũng vẫn còn rất xa với "bằng chứng có tội" đòi hỏi trong các xã hội văn minh. Trong mọi trường hợp, điều đó cũng không phải lý do đủ xác đáng để biện minh hành động ám sát một nghi phạm có thể đã bị bắt giữ dễ dàng và mang ra xét xử. Nhận định nầy cũng đúng với các bằng chứng đã được đưa ra từ ngày đó.
Như vậy, Ủy Hội 11/9 đã cung cấp nhiều bằng chứng "suy diễn" về vai trò của bin Laden trong biến cố 11-9, căn bản chỉ cơ sở trên những gì người ta được nghe về những lời tự thú của các tù nhân ở Guantanamo. Đã hẳn, những bằng chứng loại nầy khó lòng đứng vững trước một tòa án độc lập, nhất là với phương cách các lời tự thú nầy đã được thâu thập. Trong mọi trường hợp, những kết luận của các cuộc điều tra được Quốc Hội cho phép, dù đáng tin cậy đến mấy, cũng luôn kém xa một phán quyết của một tòa án có uy tín, một văn kiện chuyển dịch loại bị cáo từ "nghi can" qua "có tội" [đã bị kết án phạm tội].
Nhiều người còn nhắc đến lời tự thú của bin Laden, nhưng đó chỉ là một lối khoe khoang, không phaỉ một lời xưng tội. Lời khoe cho chúng ta biết rất nhiều về tư cách của người nói, nhưng chẳng là gì về trách nhiệm đối với những gì anh ta xem như một thành quả to lớn và muốn giành lấy uy tín.
Một lần nữa, tất cả những điều đó rõ ràng khá độc lập với những phán đoán bên ngoài về trách nhiệm của nghi can, mang tính hiển nhiên tức thời, ngay cả trước cuộc điều tra của FBI, và vẫn luôn như thế.
TỘI XÂM LĂNG
Tưởng cần phải nói thêm trách nhiệm của bin Laden đã được công nhận và lên án trong phần lớn thế giới Hồi giáo. Một ví dụ điển hình là giáo sĩ Lebanon Sheikh Fadlallah, một nhân vật rất được kính nể bởi các nhóm Hizbollah và Shia, ngay cả bên ngoài Lebanon. Ông đã có một ít kinh nghiệm sống về ám sát. Ông đã từng là mục tiêu ám sát bởi một xe bom bên ngoài nhà thờ Hồi giáo, do CIA tổ chức năm 1985. Sheikh Fadlallah thoát nạn, nhưng 80 người khác đã thương vong, phần lớn là đàn bà và trẻ con vừa rời khỏi nhà thờ - một trong vô số tội phạm không được ghi nhận trong lịch sử khủng bố bởi lẽ đây chỉ là ảo tưởng bề ngoài "cơ quan sai quấy."[11] Sheikh Fadlallah đã gay gắt lên án những cuộc tấn công 11-9.
Một trong các chuyên gia hàng đầu của phong trào Jihad, Fawaz Gerges, đã đưa ra ý kiến: phong trào có thể đã bị phân hóa vào lúc đó nếu Hoa Kỳ biết lợi dụng cơ hội động viên phong trào thay vì khai thác biến cố, nhất là xâm lăng Iraq, một phần thưởng lớn lao cho bin Laden cũng như một động lực gia tăng khủng bố nhanh chóng, như các cơ quan tình báo đã tiên đoán.
Chẳng hạn, trong cuộc điều trần Chilcot về bối cảnh cuộc xâm lăng Iraq, , người đứng đầu cơ quan tình báo quốc nội MI5 của Anh quốc xác nhận cả tình báo Anh lẫn Mỹ đều biết rõ Saddam không phải là đe dọa quan trọng; cuộc xâm lăng rất có thể sẽ khiến khủng bố gia tăng, và hai cuộc xâm lăng Afghanistan và Iraq đã cực đoan hóa một thế hệ Hồi Giáo xem các hành động quân sự như một cuộc "tấn công vào đạo Hồi." Và trong nhiều trường hợp, an ninh không phải là lý do ưu tiên trong các hành động của nhà nước.
Một điều có thể rất bổ ích nếu chúng ta tự hỏi người Mỹ có thể phản ứng như thế nào nếu biệt kích Iraq đã xâm nhập khu gia cư của George W. Bush, ám sát Bush, và quẳng thi hài xuống Đại Tây Dương. Không ai tranh luận hay dị nghị, Bush không phải một nghi can mà là người quyết định và ra lệnh xâm lăng Iraq - có nghĩa, là "tội phạm quốc tế chỉ khác các tội phạm chiến tranh thông thường ở chỗ tội phạm nầy tự thân đã ẩn chứa tất cả tội lỗi lũy tích của toàn bộ,"một tội các phạm nhân Nazi đã phải chịu án treo cổ: hàng trăm nghìn tử vong, hàng triệu người tỵ nạn, hủy hoại phần lớn xứ sở và di sản quốc gia, và xung đột phe phái, tàn sát sinh linh, nay đã lan tràn ra toàn vùng. Cũng không ai tranh luận hay dị nghị, những tội phạm nầy vượt quá xa những gì cho đến nay đã được quy tội cho bin Laden.
Khi nói tất cả những điều nầy đều không thể tranh cãi hay dị nghị, chúng ta không có ý nói điều nầy không bị phủ nhận. Sự hiện diện của những ai tin quả đất dẹp không làm thay đổi thực tại không thể dị nghị: quả đất không dẹp. Cũng tương tự như vậy, một điều không thể dị nghị là Stalin và Hitler phải chịu trách nhiệm về những tội các ghê rợn, mặc dù các ngưới trung thành với Stalin và Hitler đều phủ nhận. Một lần nữa, tất cả những điều nầy đã quá rõ ràng để tranh cãi hay bình luận; đã hẳn ngoại trừ trường hợp bầu không khí cuồng loạn hay kích động quá trớn đã che khuất mọi tư duy duy lý.
Cũng tương tự như vậy, không còn là điều có thể tranh cãi hay dị nghị, Bush và các cộng sự viên đã phạm "tội quốc tế tột đỉnh"[12] - tội xâm lăng. Tội nầy đã được Thẩm Phán Robert Jackson, trưởng đoàn các luật gia Hoa Kỳ tại Nuremberg, định nghĩa rất rõ ràng. Trong lời tuyên bố mở đầu, Jackson đã đề nghị với Tòa Án Nuremberg: xâm lăng là nhà nước đầu tiên khởi động những hành vi như "xâm lăng bởi các lực lượng vũ trang của chính mình, có hay không có tuyên chiến, lãnh thổ một Nhà Nước khác ..."[13] Không ai, ngay cả người ủng hộ cực đoan nhất cuộc xâm lược, có thể chối cãi Bush và các cộng sự viên đã làm chính điều đó.
Chúng ta cũng cần nhắc lại những lời hùng biện của Jackson tại Nuremberg về nguyên tắc phổ quát: "Nếu một vài hành động vi phạm các thỏa ước là tội phạm, các hành động đó luôn là tội phạm dù do Hoa Kỳ hay Đức quốc, và chúng ta sẽ không sẵn sàng đặt ra một quy luật "ứng xử tội phạm" chỉ để áp dụng cho kẻ khác nhưng chính chúng ta có thể không muốn được viện dẫn để chống lại chúng ta."[14]
Một điều khác cũng không kém rõ ràng: các mục đích công bố tự chúng đã không thích đáng, ngay cả khi thật sự được tin như thế. Các hồ sơ nội bộ cho thấy phát xít Nhật rõ ràng đã tin: qua việc tàn phá Trung Quốc, họ đã phải gánh chịu nhiều hy sinh để biến TQ thành một "thiên đường hạ giới." Và mặc dù khó lòng tưởng tượng, nhưng cũng có thể quan niệm Bush và phe nhóm đã tin tưởng họ đang bảo vệ thế giới khỏi bị hủy diệt bởi các vũ khí tiêu diệt hàng loạt của Saddam. Nhưng tất cả đều không thích đáng, dù cho các tay chân nhiệt liệt trung thành của họ từ mọi phía có thể tìm mọi cách để tự thuyết phục ngược lại.
Chúng ta chỉ còn lại với hai lựa chọn: hoặc Bush và phe nhóm phạm "tội ác quốc tế tột cùng"[15] gồm tất cả các tội lỗi đi kèm, hoặc ngược lại ,chúng ta phải kết luận thủ tục tố tụng Nuremberg là một trò hề và phe đồng minh đã phạm tội ám sát luật pháp - judicial murder.
TÂM LÝ ĐẾ QUỐC VÀ 11/9
Vài ngày trước khi bin Laden bị ám sát, Orlando Bosch đã lặng lẽ qua đời ở Florida, ngay nơi cư trú cùng với tòng phạm Luis Posada Cariles và nhiều cộng tác viên trong phong trào khủng bố quốc tế. Sau khi bị FBI cáo buộc hàng tá tội khủng bố, Bosch đã được T T Bush ân xá mặc dù Bộ Tư Pháp phản đối - viện dẫn kết luận "không thể tránh: [biện pháp ân xá] sẽ có hại cho quyền lợi của Hoa Kỳ vì người Mỹ đang cung cấp chỗ ẩn náu cho Bosch."[16] Theo chuyên gia quan hệ quốc tế Harvard danh tiếng Graham Allison, sự trùng hợp giữa hai cái chết buộc mọi người phải nghĩ đến chủ thuyết Bush II --"đã là....một quy luật trong thực tế về quan hệ quốc tế," -- một chủ thuyết đã hủy bỏ quyền tối thượng của các quốc gia cung cấp chỗ ẩn náu an toàn cho khủng bố."[17]
Allison viện dẫn lời tuyên bố của Bush II [nhằm Taliban]: "những ai che chở khủng bố cũng có tội như chính người khủng bố."[18] Vì vậy, những quốc gia đó đã đánh mất chủ quyền tối thượng của họ và trở thành mục tiêu chính đáng để dội bom và khủng bố -- chẳng hạn, quốc gia che chở cho Bosch và đồng đội. Khi Bush ban hành "quy luật thực tế mới nầy về quan hệ quốc tế," hình như không ai lưu ý đến sự kiện tổng thống đang mặc nhiên kêu gọi xâm lăng và tiêu diệt chính Hoa Kỳ và sát hại các tổng thống có tội của Mỹ.
Chẳng có gì mơ hồ và cần phải bàn, nếu chúng ta bác bỏ nguyên tắc phổ quát của Thẩm Phán Jackson, và thay vào đó chấp nhận nguyên tắc Hoa Kỳ được tự miễn nhiễm đối với các luật lệ và quy ước quốc tế[19] -- như trong thực tế chính quyền Mỹ đã thường tỏ rõ - Biệt Lệ Hoa Kỳ.
Tưởng chúng ta cũng nên suy ngẫm về danh hiệu cuộc hành quân ám sát bin Laden: Cuộc Hành Quân Gironimo. Tâm lý đế quốc đã thẩm thấu sâu đậm đến độ rất ít người có thể nhận thức Tòa Bạch Ốc đang vinh danh bin Laden khi dành cho bin Laden tên gọi "Gironimo"- [lãnh tụ Apache Indian chief -1829-1909, lãnh đạo cuộc kháng chiến can trường chống lại những kẻ xâm lăng lãnh thổ Apache].
Sự chọn danh xưng tùy tiện cũng làm nhiều người nhớ lại lối đặt tên cẩu thả cho các vũ khí giết người của Mỹ theo tên các nạn nhân của các tội phạm của Hoa Kỳ: Apache, Blackhawk... người Mỹ đã hẳn có thể phản ứng một cách khác nếu Luftwaffe đặt tên các chiến đấu cơ của mình là "Jew" và "Gypsy."
Những ví dụ nói trên có thể xếp vào loại "Biệt Lệ Hoa Kỳ" nếu không vì sự kiện lấp liếm dễ dàng các tội phạm của chính mình hầu như đang diễn ra khắp nơi trong các cường quốc, ít ra những nước chưa từng bị đánh bại và buộc lòng phải công nhận sự thật.
Có thể hành động ám sát đã được chính quyền nhận thức như "một hành động trả thù," như Robertson kết luận. Và có thể quyết định bác bỏ sự lựa chọn hợp pháp -đưa ra xét xử, đã phản ảnh sự khác biệt văn hóa đạo đức giữa năm 1945 và năm 2011, như Robertson gợi ý. Dù động lực là gì chăng nữa, cũng khó lòng để có thể viện dẫn lý do an ninh. Tương tự với trường hợp "tội phạm quốc tế tột đỉnh" ở Iraq, vụ ám sát bin Laden cũng là minh họa một sự thật quan trọng: trái với chủ thuyết chính thức, an ninh thường không phải là lý do ưu tiên trong hành động của nhà cầm quyền.
Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
13-9-2011
[1] He repeatedly asserted that the only way to drive the U.S. from the Muslim world and defeat its satraps was by drawing Americans into a series of small but expensive wars that would ultimately bankrupt them. Bleeding the U.S., in his words. The United States, first under George W. Bush and then Barack Obama, rushed right into bin Laden's trap... Grostesquely over blown military outlays and debt addiction... may be the most pernicious legacy of the man who thought he could defeat the United States.
[2] "...bin Laden has been precise in telling America the reasons he is waging war on us. [He] is out to drastically alter U.S. and Western policies toward the Islamic world", and largely succeeded: "U.S. forces and policies are completing the radicalization of the Islamic world, something Osama bin Laden has been trying to do with substantial but incomplete success since the early 1990s. As a result, I think it is fair to conclude that the United States of America remains bin Laden's only indispensible ally."
[3] ...wickedness and awesome cruelty...
[4] ...to achieve a successful order elsewhere in the world.
[5] ...nothing of very great consequence.
[6] ..."the visionary international order" of the "second half of the twentieth century" marked by " the universalization of an American vision of commercial prosperity".
[7] The administration had made clear to the military's clandestine Joint Special Operations Command that it wanted bin Laden dead, according to a senior U.S. official with knowledge of the discussions. A high-ranking military officer on the assault said the SEALs knew their mission was not to take him alive.
[8] ...the assault had been lawful, legitimate and apropriate in every way.
[9] Robert Mueller...among his most detailed public comments on the origins of the attacks, could say only that investigators believe the idea of the Sept. 11 attacks on the World Trade Center and Pentagon came from al Qaeda leaders in Afghanistan, the actual plotting was done in Germany, and the financing came through the United Arab Emirates from sources in Afghanistan.
[10] ...We quickly learned that the 9/11 attacks were carried out by al-Qaeda.
[11] ...because of the fallacy of "wrong agency".
[12] ..."supreme international crime."
[13] "An aggressor" is a state that is the first to commit such actions as "invasion of its armed forces , with or without a declatation of war, of the territory of another State..."
[14] If certain acts in violation of treaties are crimes, they are crimes whether the United States does them or whether Germany does them, and we are not prepared to lay down a rule of criminal conduct against others which we would not be willing to have invoked against us.
[15] ..."supreme international crime."
[16] ...[The Justice Department ] which found the conclusion "inescapable that it would be prejudicial to the public interest for the United States to provide a safe haven for Bosch."
[17] The coincidence of these deaths at once calls to mind the Bush II doctrine --"already...a de facto rule of international ralations," according to the noted Harvard international ralations specialist Graham Allison -- which revokes 'the sovereignty of states that provide sanctuary to terrorists."
[18] Those who harbor terrorists are as guilty as the terrorists themselves.
[19] Xin xem thêm bài Biệt Lệ và Thế Kỷ của Hoa Kỳ: Một Huyền Thoại trong Thế Giới Thời Hậu Chiến Tranh Lạnh, tr.139-158, Nhà Xuất Bản Tri Thức, 2010.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 21, 2011 2:24:54 GMT 9
Mạng lưới căn cứ quân sự Hoa Kỳ: một tai họa
Vietsciences- Nguyễn Trường
Với mạng lưới các căn cứ quân sự tốn kém mang tính đế quốc, Hoa Kỳ ngày một tiến gần đến bờ phá sản.
Ngày 27-5-2009, Bộ Ngoại Giao đã khởi sự xây một tòa đại sứ mới ở Islamabad, Pakistan, với kinh phí dự trù 736 triệu USD. Đây là cơ sở ngoại giao lớn thứ hai, nếu không cần thêm chi phí phụ trội, chỉ kém tòa đại sứ ở Baghdad, Iraq.
Bộ Ngoại Giao còn dự tính mua lại khách sạn năm sao Pearl Continental ở Peshawa, gần biên giới Afghanistan, dùng làm trụ sở Lãnh Sự Quán và chỗ ở cho nhân viên. Không may, ngày 9-6-2009, quân cảm tử phe Tabiban đã dùng xe vận tải quân sự chứa đầy chất nổ tấn công, gây 18 tử thương và ít ra 55 bị thương, cũng như trọn một cánh của khách sạn sụp đổ. Từ đó, không có tin tức gì về khả năng xúc tiến việc tậu mãi.
Trong mọi trường hợp, các chi phí nầy đã không được phản ảnh trong ngân sách quân sự vốn đã quá lớn, mặc dù toàn bộ kiến trúc không hề được thiết kế để làm cơ sở ngoại giao - nơi dân bản xứ đến xin chiếu khán và là trụ sở của các viên chức Hoa Kỳ đại diện cho các giới doanh thương và ngoại giao.
Trong thực tế, những cơ sở mệnh danh là sứ quán hoặc lãnh sự quán nầy sẽ là nơi cư trú với thành quách an toàn, tương tự các thành trì đồn trại thời Trung Cổ, nơi các gián điệp, quân đội, nhân viên tình báo, và ngoại giao theo dỏi quần chúng thù nghịch trong những khu vực chiến sự. Người ta có thể tiên đoán một cách chắc chắn đây cũng sẽ là nơi đồn trú của một số thủy quân lục chiến và cả những bải đáp trực thăng để lâm thời di tản nhanh chóng.
Đã hẳn các viên chức ngoại giao, phục vụ trong các vùng thiếu an ninh, cảm thấy an toàn hơn khi làm việc trong những thành trì kiên cố, nhưng đồng thời, cũng như dân bản xứ, đều hiểu rõ họ là một bộ phận trong mạng lưới đế quốc của Hoa Kỳ. Không ai ngạc nhiên khi các lực lượng chống Mỹ xem các cơ sở ngoại giao không khác các đồn bót , dù được bảo vệ nghiêm ngặt, như những mục tiêu dễ tấn công hơn là các cứ điểm quân sự rộng lớn.
HOA KỲ: MỘT ĐẾ QUỐC QUÂN SỰ TỐN KÉM
Câu hỏi cần được đặt ra là người Mỹ có thể làm được gì với trên dưới 800 căn cứ quân sự rải rác trong nhiều xứ khắp địa cầu? Trong khi Quốc Hội và chính quyền Obama đang tranh cãi về các chi phí cứu trợ các ngân hàng, chương trình bảo hiểm y tế, giải quyết ô nhiểm, và các chi tiêu quốc nội cần thiết khác, không một ai gợi ý đóng cửa một số căn cứ mang tính đế quốc chẳng ai ưa thích và tốn kém, để tiết kiệm ngân sách đang thâm thủng nặng nề.
Đã thế, các căn cứ nầy ngày một trở nên tốn kém hơn. Chẳng hạn, ngày 23-6 vừa qua, tin tức báo chí cho biết Kyrgyzstan, Cộng Hòa Trung Á Xô Viết trước đây, trong tháng hai năm 2009, loan báo sẽ không cho phép quân đội Hoa Kỳ tiếp tục sử dụng căn cứ không quân Manas Air Base (được mướn làm căn cứ yểm trợ cuộc chiến Afghanistan từ 2001), nhưng rồi đã được thuyết phục tái tục thỏa ước với giá thuê hàng năm tăng gấp ba, từ 17,4 triệu lên 60 triệu, chưa kể hàng triệu tiền tu bổ các tiện nghi phi trường và vặt vảnh khác. Lý do là vì chính quyền Obama, do cam kết mở rộng chiến tranh trong vùng, đang cần căn cứ không quân nầy để tiếp liệu cho cuộc chiến Afghanistan.
Đã hẳn việc nầy đã được chính quyền các xứ bị chiếm đóng, thường không mấy ưa thích Hoa Kỳ, lưu ý. Chẳng hạn, người Ecuador đã yêu cầu người Mỹ rời khỏi căn cứ Manta Air Base vào tháng 11-2009. Thật vậy, Ecuador cũng có niềm kiêu hảnh của họ, đó là chưa nói họ không thích nhìn người Mỹ gây nhiễu loạn ở Honduras, Colombia và Peru. Tuy nhiên, cũng rất có thể, họ muốn lợi dụng cơ hội để kiếm thêm nhiều tiền.
Cũng vậy, người Nhật, trong hơn 57 năm qua, đã phải gánh chịu tài trợ các căn cứ quân sự của Mỹ ngay trên lãnh thổ của mình. Gần đây, họ đã thỏa hiệp với Mỹ di chuyển một số thủy quân lục chiến Hoa Kỳ ở Okinawa qua Guam, lãnh thổ thuộc Mỹ. Trong quá trình thực hiện, người Nhật phải trả không những chi phí vận chuyển, mà cả chi phí xây cất những cơ sở mới ở Guam cần thiết cho số quân mới đến.
Liệu người Nhật có thể, theo gương Kyrgyzstan, đòi hỏi người Mỹ phải tự trang trải động thái nầy? Hay ít ra liệu họ có thể ngưng tài trợ quân nhân Mỹ, thường hãm hiếp phụ nữ Nhật (trung bình hai nạn nhân mỗi tháng), hay gây đau khổ cho dân Nhật sinh sống chung quanh 38 căn cứ Mỹ ở Okinawa. Đây chắc chắn là điều người Okinawa luôn hy vọng và cầu mong ngay từ khi người Mỹ đến chiếm đóng vào năm 1945.
Mặc dù nghị trình đối nội của T T Obama đầy tham vọng, một vấn đề, chưa được công khai ghi nhận, hiện mang khả năng triệt tiêu mọi nổ lực cải cách của ông: các quan hệ mang tính đế quốc với các nước ngoài - một đế quốc quá tốn kém với các căn cứ quân sự đi kèm. Tuy vậy, người Mỹ vẫn chưa chịu hiểu, sử dụng bừa bải bộ máy quân sự, ngày một bành trướng quá mức, vào các sứ mệnh không thích hợp, không sớm thì muộn, sẽ đem lại ba loại hậu quả tai hại: tham vọng ngoài tầm với, chiến tranh triền miên, và vở nợ - khó tránh một sụp đổ tương tự như Liên Bang Sô Viết trước đây.
Theo kiểm kê chính thức của Ngũ Giác Đài năm 2008 về các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ trên thế giới, mạng lưới đế quốc Hoa Kỳ bao gồm 865 cơ sở quân sự trong hơn 40 quốc gia và lãnh thổ hải ngoại. Người Mỹ đã bố trí trên 190.000 quân trong 46 quốc gia và lãnh thổ.
Tính đến cuối tháng 3-2008, Hoa Kỳ vẫn còn duy trì 99.295 nhân viên quân sự làm việc và sinh sống ở Nhật: 49.364 quân nhân, 45.753 thân nhân, và 4.178 nhân viên dân sự. Khoảng 13.975 trong số nầy tập trung trên đảo Okinawa nhỏ bé, nơi tập trung quân nước ngoài lớn nhất ở Nhật.
Tháng 3 vừa qua, Bob Herbert, báo New York Times, ghi nhận, tệ nạn hãm hiếp và các hình thức tấn công tình dục khác là một sỉ nhục lớn cho quân đội Mỹ. Và cũng chẳng có bằng chứng là vấn đề ghê tởm nầy, dù được che đậy, đang giảm bớt. Herbert còn nói:
"Những dữ kiện mới do Ngũ Giác Đài công bố đã cho thấy tỉ số gia tăng gần 9% trong số tấn công tình dục -2.923, và 25% do các nữ quân nhân phục vụ ở Iraq và Afghanistan báo cáo [trong năm qua]. Thử tưởng tượng sự kiện thật kỳ lạ là khi các nữ quân nhân Mỹ vừa phải trải nghiệm căng thẳng nơi tiền tuyến vừa phải âu lo tự vệ chống lại các nguy cơ hãm hiếp và xâm phạm tình dục đến từ các đồng đội chiến đấu ngay bên cạnh"[1].
Vấn đề càng trầm trọng hơn khi quân Mỹ đồn trú trong các căn cứ hải ngoại bên cạnh các thường dân bản xứ, như những người chiếm đóng nước ngoài luôn dòm ngó họ. Chẳng hạn, bạo động tình dục của lính Mỹ đối với phụ nữ vượt khỏi vòng kiểm soát ở Okinawa, một tỉnh nghèo nhất của Nhật, ngay từ ngày quân đội, thủy quân lục chiến, không quân, đến chiếm đóng thường trực cách đây 64 năm.
Okinawa là nơi đã diễn ra nhiều cuộc biểu tình chống Mỹ từ sau Đệ Nhị Thế Chiến, nhất là sau vụ hai thủy quân lục chiến và một thủy thủ bắt cóc, hãm hiếp, và sát hại một nữ sinh 12 tuổi.
Vần đề hãm hiếp thường xẩy ra khắp nơi chung quanh các căn cứ quân sự Mỹ trên các châu lục và có lẽ đã góp phần làm gia tăng sự thù ghét người Mỹ ở hải ngoại, bên cạnh chính sách của chính quyền Bush hay sự bóc lột kinh tế và khai thác nguyên liệu trong các xứ nghèo khó.
Quân lực Hoa Kỳ cũng chẳng làm gì để bảo vệ chính các nữ quân nhân của họ hay quyền lợi dân bản xứ vô tội không may sinh sống kế cạnh các quân nhân Mỹ thường thiếu kỷ luật và đạo đức, và phân biệt chủng tộc. Theo Herbert, thành tích truy tố các phạm nhân hãm hiếp không những tồi tệ mà còn tàn nhẫn. Trong những lãnh thổ do quân lực Hoa Kỳ chiếm đóng, bộ tư lệnh cấp cao và Bộ Ngoại Giao luôn tìm cách đạt cho kỳ được loại Thỏa Ước Quy Chế Quân Nhân - SOFAs - theo đó chính quyền bản xứ phải từ bỏ thẩm quyền tài phán đối với quân nhân Mỹ phạm tội. SOFAs cũng tạo mọi dễ dàng cho quân đội di chuyển các quân nhân phạm tội ra khỏi nước chủ nhà trước khi có thể bị chính quyền bản xứ bắt giữ.
Đề tài nầy đã được phản ảnh rõ ràng trong vụ một giáo viên người Úc, thường trú nhân kỳ cựu ở Nhật. Tháng 4-2002, cô bị hiếp bởi một thủy thủ phục vụ trên hàng không mẫu hạm USS Kitty Hawk, tại căn cứ hải quân Yokosuka. Cô đã nhận diện và tố cáo phạm nhân với nhà chức trách Nhật Bản và Hoa Kỳ. Thay vì câu lưu và truy tố phạm nhân, nữ nạn nhân lại bị gây phiền nhiểu và làm nhục bởi cảnh sát. Trong khi đó, Hải quân Hoa Kỳ cho nghi phạm giải ngũ và giúp phạm nhân trốn tránh luật pháp Nhật bằng cách thuyên chuyển đương sự về Mỹ sinh sống cho đến ngày nay.
Trong quá trình đi tìm công lý, nữ giáo viên người Úc đã khám phá: gần năm mươi năm trước đây, vào tháng 10-1953, hai chính phủ Nhật và Mỹ đã ký một phụ ước bí mật - một phần của SOFA - theo đó Nhật thỏa thuận từ bỏ quyền tài phán của mình khi tội phạm "không mang tầm quan trọng quốc gia đối với Nhật"[2]. Hoa Kỳ đặc biệt quan tâm đến phần phụ ước, vì e ngại, nếu không, nhà cầm quyền Mỹ sẽ phải đối diện với sự khả dĩ trao khoảng 350 binh phạm mỗi năm cho Nhật vì tội phạm tình dục.
Từ đó, Hoa Kỳ đã thương thảo các điều khoản tương tự trong các SOFAs với Canada, Irland, Italy, và Denmark. Như đã được ghi rõ trong sách bỏ túi về luật chi phối các quân nhân ở nước ngoài[3], những điều khoản dự liệu trong SOFA với Nhật đã trở thành chuẩn mực trong các SOFAs trên khắp thế giới.
Ở Nhật, trong số 3.184 nhân viên quân sự xâm phạm tình dục từ 2001 đến 2008, 83% không hề bị truy tố. Ở Iraq, Hoa Kỳ chỉ mới ký một SOFA rất giống với thỏa ước hậu chiến đầu tiên với Nhật: nói rõ hơn, các nhân viên và nhà thầu quân sự bị tố cáo phạm tội ngoài công vụ sẽ do người Mỹ tạm giam trong khi người Iraq tiến hành các thủ tục điều tra. Đã hẳn, đây là cơ hội tốt nhất để di chuyển các nghi phạm ra khỏi nước chủ nhà trước khi có thể bị kết tội.
Trong nội bộ quân đội, nhà báo Dahr Jamail, tác giã cuốn "Bên Ngoài Khu Green Zone: Những Bản Điện Tin của Nhà Báo Độc Lập từ Iraq Bị Chiếm Đóng"[4] đã nói đến "văn hóa tấn công tình dục vô tội vạ" (culture of unpunished sexual assaults) và "số vụ đưa ra tòa án mặt trận thấp đến kinh ngạc", (shockingly low numbers of courts martial) liên quan đến hãm hiếp và các hình thức xâm phạm tình dục trong giới quân sự. Helen Benedict, tác giã cuốn "Người Lính Cô Đơn: Cuộc Chiến Riêng của Nữ Quân Nhân Phục vụ ở Iraq"[5] đã đơn cử các con số trong phúc trình năm 2009 của Pentagon về các vụ xâm phạm tình dục trong quân đội: 90% các vụ hãm hiếp trong quân đội không bao giờ bị truy tố, và, khi bị truy tố, hậu quả đối với can phạm cũng không đáng kể.
Nói một cách công bằng, quân đội Hoa Kỳ đã tạo một sân chơi tình dục toàn cầu cho nhân viên quân sự và bảo vệ phần lớn các can phạm né tránh hậu quả của hành vi phạm pháp. Do đó, năm 2006, một nhóm cựu nữ quân nhân Mỹ đã sáng lập "Mạng Lưới Hành Động của Cựu Nữ Quân Nhân"[6]. Mục tiêu là phổ biến lời kêu gọi không một phụ nữ nào nên gia nhập quân đội (no woman should join the military). Có lẽ giải pháp tốt nhất là hồi hương số binh sĩ thường được rèn luyện theo lối suy nghĩ dân bản xứ luôn thấp kém hơn và không am hiểu môi trường văn hóa địa phương. Nói rõ hơn, Hoa Kỳ nên giải thể mạng lưới căn cứ quân sự mang tính đế quốc.
Cố nhiên, việc giải thể mạng lưới đế quốc đòi hỏi một thời gian lâu dài. Chalmers Johnson liệt kê những bước khởi đầu người Mỹ nên theo đuổi:
1. Các căn cứ quân sự Hoa Kỳ trên thế giới phải chấm dứt gây ô nhiểm môi trường. Người Mỹ cũng cần ngưng áp đặt các SOFAs miễn trừ trách nhiệm cho chính mình trong công tác trùng tu và bảo vệ môi trường.
2. Từ bỏ chính sách đế quốc, nhờ đó, sẽ chấm dứt gánh nặng duy trì các căn cứ quân sự và các phí tổn cơ hội đi kèm - những việc lẽ ra đã có thể làm với tài nguyên nhân, tài, vật, lực sẵn có.
3. Chủ nghĩa đế quốc thường đưa đến việc sử dụng tra tấn.Trong hai thập kỷ 1960s và 1970s, người Mỹ đã giúp lật đổ các chính quyền dân cử ở Brazil và Chile, kế đến đã hổ trợ các chế độ tra tấn, trước khi trực tiếp tra tấn các tù binh ở Iraq và Afghanistan . Từ bỏ chủ nghĩa đế quốc sẽ thực sự chấm dứt chính sách tra tấn của Mỹ ở hải ngoại.
4. Cần cắt giảm các chi phí do thân nhân, các nhân viên dân sự của bộ quốc phòng, cùng các cơ sở y tế, cư trú, tiêu khiển ...đi theo các căn cứ quân sự khắp nơi trên thế giới.
5. Cần chấm dứt huyền thoại do tập đoàn quân sự kỹ nghệ quảng bá: các căn cứ quân sự đem lại công ăn việc làm, nghiên cứu khoa học, và quốc phòng - huyền thoại đã bị phá vỡ bởi nhiều công trình nghiên cứu kinh tế nghiêm túc.
6. Như một quốc gia dân chủ biết tự trọng, Hoa Kỳ cần chấm dứt vai trò xứ xuất khẩu hàng đầu: vũ khí; quân trang; huấn luyện sĩ quan các quốc gia trong thế giới thứ ba về kỷ thuật tra tấn, đảo chánh, lính đánh thuê cho Hoa kỳ. Chẳng hạn, đóng cữa School of the Americas, ở Fort Benning, Georgia, nơi huấn luyện các sĩ quan Mỹ La Tinh.
7. Bải bỏ chương trình huấn luyện sĩ quan trừ bị (Reserve Officers' Training Corps) và các chương trình nhằm phát huy chủ nghĩa quân sự trong học đường.
8. Vãn hồi kỷ luật và trách nhiệm trong quân lực bằng cách cắt giảm việc sử dụng các nhà thầu dân sự, những công ty quân sự tư nhân, và các viên chức làm việc cho quân đội bên ngoài dây chuyền chỉ huy, quân luật, và tòa án quân sự.
9. Cắt giảm quân đội và cần có các biện pháp săn sóc thương bệnh binh đối phó với những hội chứng bệnh lý hậu chiến.
10. Từ bỏ việc sử dụng lực lượng quân sự một cách không thích đáng như những phương tiện chính yếu nhằm thành đạt các mục tiêu đối ngoại.
Hoa Kỳ hiện nay không mấy khác Anh quốc vào cuối Đệ Nhị Thế Chiến: tìm mọi cách củng cố một đế quốc chưa bao giờ cần thiết và không đủ sức cáng đáng, sử dụng nhiều phương sách tương tự các phương sách của các đế quốc từng thất bại trước đây, kể cả các cường quốc Phe Trục và Liên Bang Sô Viết. Hoa Kỳ có thể rút bài học kinh nghiệm của Anh quốc năm 1945, tự nguyện từ bỏ chính sách đế quốc, thay vì đợi bị buộc phải bỏ cuộc vì chiến bại, như trường hợp của Nhật và Đức, hay chiến tranh giải phóng ở các xứ thuộc địa làm suy nhược như Pháp và Hòa Lan.
Hoa Kỳ nên theo gương người Anh trước đây. Điều đáng tiếc là hiện nay người Anh đang đi giật lùi, cộng tác với người Mỹ trong cuộc chiến Afghanistan.
CUỘC CHIẾN AFGHANISTAN-PAKISTAN: MỘT TAI HỌA TỰ TẠO KHÁC
Một trong những lầm lỗi chiến lược của Hoa Kỳ ở Afghanistan là đã không học được bài học kinh nghiệm của Anh quốc và Nga Sô, những xứ đã thất bại trong kế hoạch bình định Afghanistan, sử dụng những biện pháp quân sự tương tự với người Mỹ hiện nay. Trong những năm 1849 - 1947, người Anh hàng năm đã gửi quân viễn chinh đến các bộ lạc Pashtun trong khu vực các Lãnh Thổ dọc Biên Giới Tây Bắc (North-West Frontier Territories) - biên giới giữa Afghanistan và Pakistan - mệnh danh là đường ranh Durand Line. Đây là biên giới ấn định bởi Sir Mortimer Durand, Bộ Trưởng Ngoại Giao Anh đặc trách Ấn Độ.
Cả Anh Quốc lẫn Pakistan chưa bao giờ thực sự kiểm soát được khu vực nầy. Như nhà sử học Louis Dupree đã viết trong tác phẩm "Afghanistan" (Oxford University Press, 2002): "Các bộ lạc Pashtun, hầu như bẩm sinh đã là những chuyên gia du kích sau nhiều thế kỷ kháng chiến chống ngoại xâm và chống đối lẫn nhau khi không có người ngoại nhập tìm cách mở rộng Pax Britannica đến vùng quê núi đồi của họ"[7]. Khoảng 41 triệu người Pashtun sống trong một vùng không ranh giới rõ rệt dọc đường ranh Durand Line và không trung thành với chính quyền trung ương của cả Pakistan lẫn Afghanistan.
Vùng nầy ngày nay được biết như Khu Vực Bộ Lạc Dưới Quyền Quản Trị Liên Bang (Federally Administered Tribal Areas - FATA) của Pakistan, trực thuộc Islamabad, và được chia làm 7 tiểu vùng, mỗi vùng đặt dưới quyền cai trị của một viên chức chính trị tương tự thời thuộc địa Anh. Trước đây cũng như bây giờ, khu vực FATA, được biết dưới tên Waziristan và là trú khu của bộ lạc Pastun, là khu vực chống đối dữ dội nhất.
Paul Fitzgerald và Elizabeth Gould, hai tác giả có nhiều kinh nghiệm về Afghanistan, trong cuốn "Lịch Sử Vô Hình: Câu Chuyện Chưa Hề Kể về Afghanistan"[8], đã viết:
"Nếu các quan chức ở Hoa Thịnh Đốn không nhớ lịch sử trong vùng, người Afghanistan luôn nhớ. Người Anh dùng không lực bỏ bom các làng Pashtun sau Đệ Nhất Thế Chiến và đã bị lên án. Khi người Xô Viết dùng phi cơ Mig và trực thăng chiến đấu trang bị hỏa tiển Mi-24 Hind oanh kích vùng nầy trong thập kỷ 1980s, họ bị xem như các tội phạm. Nếu Hoa Kỳ dùng hỏa lực hùng hậu một cách bừa bải và tàn bạo, bất kể công lý và đạo đức thế giới, họ sẽ bị người dân Afghanistan và thế giới Hồi giáo chống đối nhiều hơn"[9].
Hiện nay, Hoa Kỳ vẫn tiếp tục dùng bạo lực, nhưng viện cớ số thường dân thương vong chỉ là hậu quả ngoài ý muốn (collateral damage), hay do lỗi cá nhân. Sử dụng các phi cơ không người lái, điều khiển bởi máy vi tính từ các căn cứ quân sự trong vùng sa mạc Arizona và Nevada với độ chính xác tối thiểu, người Mỹ đã sát hại hàng trăm, có lẽ hàng nghìn thường dân Pakistan và Afghanistan. Chính quyền Afghanistan và Pakistan đã nhiều lần cảnh cáo người Mỹ là đang làm mếch lòng chính người dân mà họ rêu rao đang giúp đem lại dân chủ.
Tháng 5-2009, khi được cử làm tư lệnh Afghanistan, tướng Stanley McChrystal đã ra lệnh hạn chế các cuộc không tập, kể cả của CIA, ngoại trừ trường hợp cần thiết để bảo vệ quân đội đồng minh. Không may, vì những bất cập trong dây chuyền chỉ huy, ngày 23-6-2009, người Mỹ đã thực hiện một cuộc không kích bằng phi cơ không người lái đúng vào đoàn người tham dự đám tang, sát hại ít nhất 80 người trên lãnh thổ Pakistan. Các cơ quan truyền thông dòng chính và các kênh truyền hình của Mỹ không hề phản ảnh sự cố nầy. Họ chỉ tập trung đưa tin về các quan hệ tình ái của Thống Đốc bang South Carolina và cái chết đột ngột của ca sĩ Michael Jackson.
Các cuộc hành quân của Mỹ ở Afghanistan và Pakistan thường căn cứ trên tin tức tình báo sai lạc trong hai xứ, các định kiến ý thức hệ ủng hộ hay chống đối các phe khác nhau, và sự hiểu biết thiển cận về những gì người Mỹ hy vọng thành đạt. Như Fitzgerald và Gould đã nêu rõ, trái với tin tức tình báo của Mỹ tập trung vào Afghanistan, Pakistan mới là trung tâm của vấn đề. Cả hai đã nói thêm:
"Quân đội Pakistan và Tình Báo Liên Ngành...từ 1973, luôn giữ vai trò then chốt trong việc tài trợ và chỉ huy - ban đầu các lực lượng thánh chiến [chiến binh chống Sô Viết trong thập kỷ 1980s]...và, về sau, Taliban. Chính quân đội Pakistan đang kiểm soát vũ khí nguyên tử, đang cản trở sự phát triển các định chế dân chủ, đang huấn luyện các chiến binh Taliban về chiến thuật tấn công cảm tử, và chỉ huy các lực lượng nầy đánh lại quân Mỹ và NATO đang bảo vệ chính quyền Afghanistan"[10].
Quân đội Pakistan và cánh tình báo gồm nhiều tín đồ Hồi giáo nhiệt thành bảo trợ phe Taliban-Afghanistan, theo đúng nhu cầu nghị trình riêng, mặc dù không nhất thiết nhằm thúc đẩy thánh chiến Hồi giáo. Mục tiêu của họ luôn nhằm: loại ảnh hưởng của Nga hay Ấn Độ khỏi Afghanistan, cung cấp địa bàn huấn luyện và tuyển mộ các du kích quân thánh chiến để hoạt động ở những nơi như Kashmir, chế ngự cánh Hồi giáo Afghanistan quá khích, và huy động tài chánh từ Saudi Arabia, các tiểu vương quốc trong Vịnh Ba Tư, và Hoa Kỳ, để trang trải phí tổn và huấn luyện các chiến binh tự do trong thế giới Hồi giáo. Chính sách liên tục của Pakistan luôn nhằm hổ trợ các chính sách thầm kín của Tình Báo Liên Ngành và ngăn chặn ảnh hưởng của quốc gia thù nghịch và cạnh tranh chính - Ấn Độ.
Đại Tá hưu trí Douglas MacGregor, cố vấn tại Trung Tâm Thông Tin Quốc Phòng ở Hoa Thịnh Đốn, tóm tắt cuộc chiến vô vọng của Hoa Kỳ ở Nam Á, như sau: "Bất cứ điều gì chúng ta làm cũng sẽ không thể thuyết phục được 125 triệu người Hồi giáo ở Pakistan đứng chung chiến tuyến với một Hoa Kỳ liên minh với hai quốc gia rõ ràng chống Hồi giáo: Do Thái và Ấn Độ"[11].
Lần tăng quân của Obama hồi giữa năm 2009 vào Nam Afghanistan và nhất là vào tỉnh Helmand, một cứ điểm trọng yếu của Taliban, khiến nhiều người nhớ lại những lần yêu cầu tăng viện liên tục và lời hứa của tướng William Westmoreland: nếu chấp nhận gia tăng cường độ chiến tranh và số thương vong chút ít, người Mỹ chắc chắn sẽ bẻ gảy ý chí kiên trì của phe "Việt Nam nổi dậy" (Vietnamese insurgents). Đây là một đánh giá hoàn toàn sai lầm bản chất cuộc chiến ở Việt Nam, cũng như ở Afghanistan hiện nay.
Hai mươi năm sau khi hồng quân chiến bại và rút khỏi Afghanistan, vị tướng chỉ huy người Nga sau cùng, Boris Gromov, đã đưa ra lời tiên đoán: Tai họa sẽ tới với hàng chục nghìn quân Obama mới gửi tới Afghanistan, cũng như đã xẩy ra với 15.000 quân Liên Bang Sô Viết thương vong trong cuộc chiến Afghanistan. Người Mỹ cần thú nhận họ đang phí thì giờ, sinh mạng, và tài nguyên ở một vùng họ chưa bao giờ hiểu rõ các động lực chính trị, và tiếp tục phạm phải sai lầm.
HOA KỲ KHÔNG CÒN ĐỦ KHẢ NĂNG THEO ĐUỔI THAM VỌNG ĐẾ QUỐC
Ngay sau khi đắc cử tổng thống, trong dịp công bố một số thành viên trong nội các mới, Barack Obama đã quả quyết "chúng ta phải duy trì một lực lượng quân sự hùng mạnh nhất hành tinh"[12]. Vài tuần lễ sau, ngày 12-3-2009, trong buổi nói chuyện ở Đại Học Quốc Phòng, Hoa Thịnh Đốn, Obama một lần nữa nhấn mạnh, "Bây giờ xin mọi người đừng hiểu lầm, quốc gia nầy sẽ duy trì vị trí áp đảo quân sự. Chúng ta sẽ có lực lượng quân sự hùng mạnh nhất trong lịch sử thế giới"[13]. Và trong lần nói chuyện đầu niên học với các sinh viên sĩ quan Viện Hàn Lâm Hải Quân Hoa Kỳ (U.S. Naval Academy) ngày 22-5-2009, Obama lại nhấn mạnh "chúng ta sẽ duy trì vai trò áp đảo quân sự và các bạn là lực lượng chiến đấu tinh nhuệ nhất thế giới"[14].
Điều Obama quên ghi nhận là Hoa Kỳ không còn đủ khả năng duy trì bá quyền toàn cầu, và cố tình tin ngược lại chỉ chuốc lấy tai họa.
Theo các kinh tế gia và các nhà khoa học chính trị trên khắp thế giới, Hoa Kỳ khó thể tiếp tục giữ vai trò bá quyền toàn cầu, một khi, trước mắt mọi người, nước Mỹ chỉ còn là một cường quốc kinh tế què quặt. Một quốc gia trong tình trạng đó khó thể thượng tồn trong lịch sử các đế quốc. Robert Pape thuộc University of Chicago, tác giả tập nghiên cứu quan trọng "Quyết tử để Quyết Thắng: Luận Lý Chiến Lược của Chủ Nghĩa Khủng Bố Cảm Tử"[15], đã viết:
"Nước Mỹ đang trên đường suy sụp vô tiền khoáng hậu. Các vết thương tự tạo, do cuộc chiến Iraq, công trái ngày một gia tăng, ngạch số khuy khiếm trong cân thương mãi [nhập siêu] ngày một trầm trọng, và nhiều suy nhược kinh tế quốc nội khác, đã làm Hoa Kỳ mất hết thực lực trong thế giới tri thức và kỷ thuật phổ biến nhanh chóng ngày nay. Nếu các xu thế hiện nay tiếp diễn, chúng ta sẽ nhìn lại những năm dưới thời Bush như tiếng chuông báo tử của bá quyền Hoa Kỳ"[16].
Hình như đế quốc quân sự Mỹ ẩn chứa một cái gì mâu thuẩn, phi lý, có thể nói mang tính ác mộng. Jay Barr, một luật sư chuyên về phá sản, đã mô tả trạng huống nầy, sử dụng phương pháp tương tự nội suy (insightful analogy):
Dù thanh lý hay tái tổ chức, một con nợ muốn được bảo vệ qua thủ tục phá sản phải cung cấp bảng liệt kê các chi phí, nếu được xét là phải chăng, sẽ được khấu trừ vào lợi tức, trước khi đi đến số tài sản khả dụng có thể dùng vào việc thanh toán cho các chủ nợ. Giờ đây thử tưởng tượng một người nộp đơn xin được bảo vệ theo luật phá sản nhưng lại nại lý do không thể trả được nợ vì số tiền cần thiết để duy trì ít ra cũng đến 737 cơ sở ở hải ngoại hiện không đem lại tí lợi nhuận nào... Cố nhiên anh ta không thể đủ điều kiện để được bảo vệ bởi luật phá sản mà không phải trao phần lớn các tích sản của mình cho các chủ nợ, kể cả các bất động sản quý giá ở hải ngoại nơi các cơ sở của anh đang tọa lạc"[17].
Nói một cách khác, Hoa Kỳ không mấy quan tâm đến hiểm họa phá sản. Thay vào đó, người Mỹ vẫn tiếp tục làm ngơ đà xuống dốc kinh tế và lúc một tiến gần đến hiểm họa vở nợ.
Nick Turse, tác giả cuốn "Tập Đoàn Quân Sự: Bằng Cách Nào Giới Quân Sự Xâm Lấn Vào Đời Sống Hàng Ngày Của Chúng Ta"[18], ước tính, người Mỹ có thể thu được 2,6 tỉ USD nếu bán tích sản ở căn cứ Diego Garcia ở Ấn Độ Dương, và 2,2 tỉ khác với Guantanamo Bay ở Cuba. Đó mới chỉ là hai trong số trên 800 căn cứ quân sự lớn ở hải ngoại. Việc từ chối cắt giảm phần lớn các căn cứ vừa nói phản ảnh óc tưởng tượng quá nghèo nàn của các cấp lãnh đạo.
Tháng 5-2009, Cục Quản Lý và Ngân Sách (Office of Management and Budget) tiên đoán, vào năm 2010, ngân sách của Hoa Kỳ sẽ thiếu hụt ít nhất cũng 1.750 tỉ. Đây là chưa kể dự phóng ngân sách Ngũ Giác Đài khoảng 640 tỉ, và các chi phí trong hai cuộc chiến tốn kém ở Iraq và Afghanistan. Tổng số khuy khiếm sẽ lên đến mức phải mất vài thế hệ mới trả hết các chi phí liên quan các cuộc phiêu lưu của Bush. Con số nầy lên tới 13% GDP của Mỹ hiện nay. Tưởng nên nhắc lại, điều kiện để một quốc gia Âu châu có thể gia nhập Khu Vực Euro là khuy khiếm ngân sách không được quá 3% GDP.
Cho đến nay, T T Obama đã công bố một số cắt xén manh mún, tiết kiệm được 8,8 tỉ, trong số chi tiêu về vài loại vũ khí không mấy cần thiết, kể cả hủy bỏ loại phi cơ chiến đấu F-22. Ngân sách Ngũ Giác Đài năm tới, trong thực tế, còn cao hơn cả ngân sách cuối cùng trong kỷ nguyên Bush. Những cắt xén quan trọng hơn trong chi phí quân sự rõ rệt rất cần thiết trong nay mai nếu chính quyền Obama có ý định duy trì bộ mặt một chính quyền có trách nhiệm về tài chánh.
CẦN GIẢI THỂ MẠNG LƯỚI CĂN CỨ QUÂN SỰ MANG TÍNH ĐẾ QUỐC
Điều đáng buồn là rất ít đế quốc trong quá khứ đã tự nguyện từ bỏ chính sách thuộc địa để thay vào đó các chương trình nhằm phát huy các định chế chính trị độc lập, tự trị. Hai ví dụ quan trọng gần đây nhất là đế quốc Anh và Liên Bang Sô Viết. Nếu Hoa Kỳ không học được kinh nghiệm của Anh và Nga Sô, sự suy tàn và sụp đổ của đế quốc Mỹ sẽ là một điều khó tránh.
Hồi đầu tháng 10-2009, chính quyền Obama cho biết khuy khiếm trong ngân sách liên bang trong tài khóa 2009 lên tới 1.400 tỉ mỹ kim, lớn nhất kể từ 1945, tương đối với kích cỡ nền kinh tế.
Con số, mặc dù thấp hơn số dự phóng mấy tháng trước đây, đã làm nổi bật những thách thức trong nổ lực giảm thiểu ngạch số khuy khiếm trong những năm tháng sắp tới, nhất là khi Tòa Bạch Ốc và Quốc Hội đang xem xét những bước mới nhằm kích thích nền kinh tế hiện đang hồi phục chậm chạp. Những trở ngại chính trị trong quá trình tìm giải pháp đang phơi bày trước công luận khi hai đảng đang đổ trách nhiệm cho nhau về ngạch số khuy khiếm gia tăng.
Theo thông cáo chung của Bộ trưởng Ngân Khố, Timothy F. Geithner, và Giám Đốc Cục Quản Lý và Ngân Sách, Peter R. Orszag, ngạch số khuy khiếm 1.400 tỉ USD trong tài khóa 2009, vừa chấm dứt ngày 30-9-2009, đã lên đến 10% GDP, so với 459 tỉ hay 3,2% GDP trong tài khóa 2008.
Các kinh tế gia nói chung thường đồng ý khuy khiếm hàng năm không nên vượt quá 3% GDP, và đó cũng là mục tiêu T T Obama quyết tâm thành đạt vào cuối nhiệm kỳ đầu - năm 2013.
Ở mức 10% GDP, khuy khiếm trong tài khóa 2009 đã lên cao nhất kể từ sau Đệ Nhị Thế Chiến (21,5%), do đó, đã trở thành một vấn đề kinh tế và chính trị lớn hơn bất cứ năm nào từ cuối thập kỷ 1980s.
Các nhà đầu tư tài trợ số nợ nầy, kể cả Trung Quốc và vài xứ khác, rất nóng lòng chờ đợi dấu hiệu chính quyền Mỹ sẽ sớm cân bằng được ngân sách.
Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy người Mỹ cũng ngày một âu lo và quan tâm nhiều hơn đến nghị trình đầy tham vọng của Obama, kể cả tái cơ cấu hệ thống bảo hiểm y tế. Cùng lúc, nhiều người Mỹ cũng đang đòi hỏi chính quyền giúp đỡ thêm , và đang đối diện với tỉ suất thất nghiệp 10.2% (10-2009), cao nhất trong 26 năm qua, và dự báo còn tiếp tục gia tăng cho đến giữa năm 2010.
Orszag còn ám chỉ tình trạng bối rối trong chính sách tài chánh của chính quyền khi nói: "Trong khi chúng ta đang chuyển đổi từ cứu trợ để phục hồi, tổng thống công nhận chúng ta cần phải đưa xứ sở trở lại con đường tài chánh ổn định lâu dài"[19]. Ông cho biết các đề nghị theo hướng nầy sẽ là một phần trong ngân sách năm tới cho tài khóa 2011.
Tài khóa 2009 bắt đầu từ tháng 10-2008 khi T T George W. Bush đang đối diện với hiểm họa sụp đổ của hệ thống tài chánh và đang chuẩn bị luật cứu trợ 787 tỉ USD. Sau khi nhận nhiệm vụ, các viên chức chính quyền Obama đã tính toán lại: con số khuy khiếm thực sự đã lên tới 1.200 tỉ USD thay vì 787 tỉ.
Theo Geithner và Orszag, khuy khiếm trong tài khóa 2009 phần lớn là sản phẩm của các chính sách tài chánh và thuế vụ thừa hưởng từ chính quyền tiền nhiệm và nay trở nên trầm trọng với suy thoái kinh tế tài chánh đang tiếp diễn lúc một sâu xa hơn khi Obama mới bắt đầu nhiệm kỳ.
Con số khuy khiếm 1.400 tỉ do chính quyền Obama đưa ra đã dựa theo số ước tính vào đầu tháng 10-2009 của Sở Ngân Sách Quốc Hội. Con số khuy khiếm thực sự hơi thấp hơn mỗi bên ước tính trong tháng 8-2009, khi Sở Ngân Sách Tòa Bạch Ốc dự phóng 1.800 tỉ khuy khiếm và Sở Ngân Sách Quốc Hội dự phóng 1.600 tỉ.
Trong khi một vài định chế tài chánh đã hồi phục và còn báo cáo những số doanh lợi lớn bất ngờ như JP Morgan và Goldman Sachs, tỉ suất thất nghiệp, số bất động sản bị tịch biên, và nhu cầu tín dụng của giới tiểu thương và doanh nghiệp nhỏ, tiếp tục gia tăng, buộc Tòa Bạch Ốc và Quốc Hội phải tiếp tục tập trung vào nổ lực kích cầu nền kinh tế. Số khuy khiếm, do đó, tiếp tục gia tăng thay vì sụt giảm.
Trong mọi trường hợp, sự thành công mới đây cũng chỉ giới hạn vào một vài định chế tài chánh khổng lồ ở Wall Street. Chỉ vài hôm sau, Citigroup và Bank of America đã báo cáo số thua lỗ từ các món nợ bất động sản và thẻ tín dụng vô giá trị - một dấu hiệu khủng hoảng kéo dài ở Main Street - bên ngoài Wall Street.
Hiện nay, tỉ suất khuy khiếm vẫn là vấn đề chính được chính quyền mọi cấp đang đặc biệt quan tâm. Tổng số quốc trái - số khuy khiếm lũy tích hàng năm của ngân sách - lên gần 12.000 tỉ, và số khuy khiếm dự phóng cho thập kỷ tới (2010s) sẽ còn tăng thêm 9.000 tỉ. Theo các viên chức chính quyền, 2/3 con số nầy là hậu quả các chính sách của chính quyền Bush, như giảm thuế, chiến tranh, và trợ cấp dược phẩm thuộc Medicare..., không được bù đắp bởi các số tiết kiệm do cắt giảm các khoản dự chi khác.
Với đà suy giảm về kinh tế, quân sự, chính trị trong mấy thập kỷ gần đây, giới lãnh đạo Hoa Kỳ không còn lựa chọn nào khác hơn là giảm thiểu tham vọng toàn cầu.
Vả chăng, hệ thống căn cứ quân sự ở hải ngoại không hề cần thiết cho nhu cầu quốc phòng của Mỹ. Trong thực tế, các căn cứ nầy thường là yếu tố quan trọng gây ra nhiều xung đột với các xứ khác. Các cơ sở nầy, dĩ nhiên, rất tốn kém. Theo Anita Dancs, phân tích gia của website Foreign Policy in Focus, Hoa Kỳ chi tiêu khoảng 250 tỉ mỗi năm để duy trì sự hiện diện quân sự trên toàn cầu. Mục tiêu duy nhất là duy trì bá quyền, kiểm soát hoặc áp đảo, trong càng nhiều xứ càng tốt.
Không sớm thì muộn, mạng lưới căn cứ quân sự Hoa kỳ trên thế giới cũng sẽ đưa nước Mỹ đến chỗ phá sản. Dù nhanh hay chậm, Hoa Kỳ vẫn đang rỉ máu. Bám víu lấy chính sách đế quốc và các căn cứ yểm trợ hiện nay cuối cùng cũng sẽ đưa Hoa Kỳ đến chỗ vỡ nợ - không còn là một nước Mỹ như mọi người đang biết.
Nói một cách ngắn gọn, Hoa Kỳ cần giải thể mạng lưới căn cứ quân sự trên khắp thế giới. Và về lâu về dài, phía trước chỉ còn hai con đường: hòa bình hay phá sản.
GS Nguyễn Trường
Irvine, California, U.S.A.
25-11-2009
[1] New data released by the Pentagon showed an almost 9 percent increase in the number of sexual assaults - 2,923 - and a 25 percent in such assaults reported by women serving in Iraq and Afghanistan [over the past year]. Try to imagine how bizarre it is that women in American uniforms who are enduring all the stresses related to serving in a combat zone have to also worry about defending themselves against rapists wearing the same uniform and lining up in formation right beside them.
[2] ...not of national importance to Japan.
[3] Handbook of the Law of Visiting Forces - 2001.
[4] Beyond the Green Zone: Dispatches from an Unembedded Journalist in Occupied Iraq, Haymarket Books, 2007.
[5] The Lonely Soldier: The Private War of Women Serving in Iraq, Bacon Press, 2009.
[6] Service Women's Action Network.
[7] Pastun tribes, almost genetically expert at guerrilla warfare after resisting centuries of all comers and fighting among themselves when no comers were available, plagued attempts to extend the Pax Britannica into their mountain homeland.
[8] Invisible History: Afghanistan's Untold Story, City Lights, 2009.
[9] If Washington's bureaucrats don't remember the history of the region, the Afghans do. The British used air power to bomb these same Pashtun villages after World War I and were condemned for it. When the Soviets used MIGs and the dreaded Mi-24 Hind helicopter gunships to do it during 1980s, they were called criminals. For America to use its overwhelming firepower in the same reckless and indiscriminate manner defies the world's sense of justice and morality while turning the Afghan people and the Islamic world even further against the United States.
[10] Pakistan's army and its Inter-Services Intelligence branch...from 1973 on, has played the key role in funding and directing first the mujahideen [anti-Soviet fighters during 1980s]...and then the Taliban. It is Pakistan's army that controls its nuclear weapons, constrains the development of democratic institutions, trains Taliban fighters in suicide attacks and orders them to fight American and NATO soldiers protecting the Afghan povernment.
[11] Nothing we do will compel 125 million Muslims in Pakistan to make common cause with a United States in league with the two states that are unambiguously anti-Muslim: Israel and India.
[12] We have to maintain the strongest military on the planet.
[13] Now make no mistake, this nation will maintain our military dominance. We will have the strongest armed forces in the history of the world.
[14] We will maintain America's military dominance and keep you the finest fighting force the world has ever seen.
[15] Dying to win: The Strategic Logic of Suicide Terrorism, Random House, 2005.
[16] America is in unprecedented decline. The self-inflicted wounds of the Iraq war, growing government debt, increasingly negative current-account balances and other internal economic weaknesses have cost the United States real power in today's world of rapidly spreading knowledge and technology. If present trends continue, we will look back on the Bush years as the death knell of American hegemony.
[17] Whether liquidating or reorganizing, a debtor who desires bankrupcy protection must provide a list of expenses, which, if considered reasonable, are offset against income to show that only limited funds are available to repay the bankrupted creditors. Now imagine a person filing for bankrupcy claiming that he could not repay his debts because he had the astronomical expense of maintaining at least 737 facilities overseas that provide exactly zero return on the significant investment required to sustain them... He could not qualify for liquidation without turning over many of his assets for the benefit of creditors, including the valuable foreign real estate on which he places his bases.
[18] The Complex: How the Military Invades our Everyday Lives , Metropolitan Books, 2008.
[19] As we move from rescue to recovery, the president recognizes that we need to put the nation back on a fiscally sustainable path.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 7:40:13 GMT 9
Bài học Trung Đông và phương cách ứng xử của siêu cường
Vietsciences- Nguyễn Trường 10/01/2012
Hai cuộc chiến Afghanistan và Iraq đã được hoạch định nhằm củng cố địa vị đế quốc của siêu cường Hoa Kỳ trong thực tế. Người Mỹ những mong thể hiện một Pax Americana nghìn lẻ một năm. Ngay từ đầu, “sứ mệnh đã hoàn tất” luôn là giấc mơ khó lòng thực hiện. Sau mười năm tai họa, người Mỹ vẫn chưa hoàn toàn tỉnh giấc Nam Kha. Với cuộc chiến Iraq, người Mỹ chỉ là người khách tự mời và chưa bao giờ muốn tự mình từ giả. Cho đến phút chót, mặc dù Tổng Thống Obama đã nhiều lần hứa hẹn lực lượng Mỹ sẽ hồi hương, và ngay cả với thỏa ước chính quyền Iraq đã ký với chính quyền George W. Bush trong năm 2008, các tư lệnh quân lực Hoa Kỳ vẫn tiếp tục vận động hành lang và Hoa Thịnh Đốn vẫn liên tục thương thuyết hầu để lại phía sau từ 10.000 đến 20.000 quân nhân trong vai trò cố vấn và huấn luyện viên.
Chỉ sau khi chính quyền Iraq nhất quyết chối từ thỏa ước đặt quân lực Mỹ ngoài thẩm quyền tài phán của nước chủ nhà, người Mỹ mới bắt đầu rời Iraq. Chỉ lúc đó các quan chức hàng đầu của Mỹ mới ca ngợi điều trước đó họ không bao giờ muốn: chấm dứt sự hiện diện quân sự của Hoa Kỳ ở Iraq để đánh dấu một kỷ nguyên “thành tựu.”[1] Họ cũng bắt đầu ca ngợi sự triệt thoái khỏi Iraq như một thắng lợi, và quân lực Mỹ, theo lời của T T Obama, đã ra đi với “đầu ngẩng lên cao.”[2]
Trong buổi lễ hạ cờ cuối cùng ở Baghdad, rõ ràng dành cho khán giả quốc nội, với sự hiện diện đông đủ của giới báo chí truyền thông Hoa Kỳ, nhưng vắng mặt các quan chức Iraq và giới truyền thông địa phương, Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đã hân hoan tuyên bố: người Mỹ đã đạt được“thắng lợi cuối cùng.”[3] Panetta đảm bảo với các quân nhân rời Iraq: họ là “những binh sĩ đằng sau các tiến bộ lớn lao”[4] và họ có thể hãnh diện rời Iraq “vững tin sự hy sinh của các bạn đã giúp người dân Iraq bắt đầu một trang sử mới, khỏi nạn chuyên chế và đầy hy vọng một tương lai thịnh vượng và hòa bình.”[5] Kế đó, trong một cuộc viếng thăm Trung Đông, khi nói đến cái giá nhân sự của cuộc chiến, ông nói thêm “tôi nghĩ cái giá phải trả quả thật rất xứng đáng.”[6]
Và sau đó, các binh sĩ cuối cùng đã thực sự “trở về với gia đình”[7]– nếu chúng ta định nghĩa “gia đình” đủ rộng rãi để bao gồm không những các căn cứ ở Hoa Kỳ, mà cả những doanh trại quân sự ở Kuwait, và những nơi khác trong vùng vịnh Ba Tư, và không sớm thì muộn ở Afghanistan.
Vào ngày 14-12-2011, tại Fort Bragg, North Carolina, Tổng Thống Obama và phu nhân đã nhiệt liệt đón mừng các cựu quân nhân thuộc Sư Đoàn Dù 82 (82nd Airborne Division) và một số đơn vị khác. Với mũ lưỡi trai mầu xanh xinh đẹp, các binh sĩ đã hoan hô người đã có lần gọi cuộc chiến của họ là “ngu ngốc” (dumb).
Đã hẳn, vì nhu cầu vận động tuyển cử 2012, T T Obama giờ đây cũng đã nói đến thành công ở Iraq, đến những lợi lộc, đến niềm hãnh diện của Tổng Thống ở quân đội, đến quốc gia ghi ơn các chiến sĩ, đến các thành quả to lớn và những cam go “các chiến sĩ tinh nhuệ nhất trong lịch sử thế giới” đã gặt hái hay chịu đựng, cũng như những hy sinh của “các thương binh, tử sĩ”.
Obama đã khen ngợi “thành quả phi thường đã thai nghén trong chín năm,” và minh họa sự ra đi của họ bằng những lời lẽ đầy lý tưởng: ” Thực vậy, mọi điều quân đội Hoa Kỳ đã làm ở Iraq — chiến đấu, thương vong, xây dựng, huấn luyện và đối tác — tất cả đã đưa đến giờ phút thành công hôm nay…Chúng ta đang để lại phía sau một Iraq đầy đủ chủ quyền, ổn định và tự túc, với một chính quyền đại diện do chính người dân bầu chọn.”[8]
Và các đề tài — “lợi lộc” và “thành công”, cũng như “hãnh diện và tri ân” người Mỹ luôn dành cho giới quân nhân — đã được thu thập bởi các cơ quan truyền thông và các bình luận gia “luôn theo quân đội đến tận tiền tuyến.”[9]
Cùng lúc, các tin tức và tường trình của báo chí bên ngoài đều ghi nhận “Iraq đang rơi vào một địa ngục phe phái mới[10], nhen nhúm bởi lực lượng quân sự do Hoa Kỳ xây dựng, phần lớn thuộc phái Shiite, trên một lãnh thổ số thu nhập từ dầu lửa may lắm cũng chỉ bằng thời Saddam Hussein, trong một thủ đô hiện chỉ có điện vài giờ mỗi ngày, với các cuộc tấn công và bom mìn tự sát từ các nhóm liên hệ với al-Qaeda (không hiện diện trước năm 2003), ngay cả khi ảnh hưởng của Iran ngày một gia tăng và Hoa Thịnh Đốn luôn ái ngại.
BINH SĨ TRONG XÃ HỘI TIÊU THỤ
Quả thật, nếu bạn tìm kiếm các chiến thắng rẻ tiền trong cuộc chiến tốn kém gần 1.000 tỉ USD, lần nầy các nhà ngoại giao Hoa Kỳ — như các phóng viên và các nhà bình luận mô tả — đã không chen lấn lên trực thăng trên nóc tòa đại sứ giữa cảnh hỗn loạn và đốt hàng thùng USD. Nói một cách khác, đây không phải là Việt Nam và, như mọi người đều biết, đó là chiến bại. Trong thực tế, như nhiều bài viết đã minh chứng, vì không tìm được từ thích hợp, nhiều người đã tạm gọi cuộc triệt thoái lần nầy của Mỹ là một thành tích tuyệt vời của kỷ thuật ngược chiều, xứng đáng với một quân đội vô địch của hành tinh.
Ngay Tổng Thống Obama cũng đã phải ghi nhận. Xét cho cùng, sau khi đã chuyển vận một số lớn tiền của, vật dụng, vũ khí của xứ Mỹ qua Iraq, quá trình triệt thoái cũng không phải một chuyện đơn giản. Khi quân Mỹ bắt đầu tháo gở 50 căn cứ đã xây dựng trước đây ở Iraq với số tổn phí nhiều tỉ USD, người Mỹ đã bỏ lại phía sau một số trang bị không còn cần thiết, trị giá khoảng 580 triệu USD. Tuy vậy, họ cũng đã tìm cách chuyển vận đến Kuwait, các cơ sở đóng quân trong vùng Vịnh Ba Tư, Afghanistan, và ngay cả các thành phố nhỏ ở Mỹ, hơn hai triệu trang thiết bị, từ áo giáp Kevlar cho đến những vật dụng vặt vãnh khác. Chúng ta đang nói tới khoảng trên 20.000 xe vận tải đầy quân trang, quân dụng.
Không có gì đáng ngạc nhiên. Xuất thân từ một xã hội tiêu thụ, quân lực Hoa Kỳ đã quen với loại chiến tranh cồng kềnh, nặng về tiêu thụ, và vì vậy, trên căn bản thuần thương mãi, triệt thoái khỏi Iraq là một quá trình mang tính thời đại. Chúng ta cũng không nên quên những chiến lợi phẩm giới quân sự mang theo, kể cả một kho tàng dữ liệu đồ sộ của Lầu Năm Góc – dấu tay (thumbprints), và phân hình giác mạc (retina scans) của lối 10% dân số Iraq. Một dự án tương tự cũng đang diễn tiến ở Afghanistan.
Nói đến thành công, Hoa Thịnh Đốn còn mang về nhiều hơn thế. Xét cho cùng, người Mỹ còn có kế hoạch duy trì một tòa đại sứ khổng lồ ở Baghdad, với một nhân số từ 16.000 đến 18.000, kể cả một lực lượng lối 5.000 lính đánh thuê do các nhà thầu an ninh tư nhân cung cấp — như Triple Canopy trong một hợp đồng trị giá 1,5 tỉ USD với Bộ Ngoại Giao.
Riêng trong năm 2012, Bộ Ngoại giao cũng đã có kế hoạch chi tiêu lối 3,8 tỉ USD, một tỉ trong số nầy để tài trợ chương trình huấn luyện cảnh sát đang bị chỉ trích nặng nề, nhưng cũng chỉ 12% đươc dành cho cảnh sát Iraq. Nói một cách khác, cả một kế hoạch mới cho kỷ nguyên hậu chiến đã được để lại phía sau.
Tuy nhiên, tạm quên đi những mỹ từ và thuật ngữ, nếu chỉ cần một thước đo chiều sâu sự sụp đổ của Hoa Kỳ trong vùng trung tâm dầu lửa của hành tinh, bạn chỉ cần lướt qua phương cách đơn vị cuối cùng của quân lực Mỹ đã triệt thoái khỏi Iraq. Theo Tim Arango và Michael Schmidt của New York Times, cuộc triệt thoái đã diễn ra lúc 2 giờ 30 sáng, trong bóng đêm dày đặc. Không một trực thăng trên nóc Tòa Đại Sứ, chỉ có 110 xe vận tải khởi hành trong đêm tối, từ Căn Cứ Contingency Operating Base Adder. Ngày hôm trước, cũng theo các phóng viên New York Times, các thông dịch viên của đơn vị đã được chỉ thị gọi điện cho các quan chức chính quyền địa phương và các lãnh tụ Hồi Giáo thân cận thường được tham khảo về các kế hoạch tương lai, tựa hồ như mọi chuyện sẽ tiếp diễn bình thường trong những tuần lễ sắp tới.
Nói một cách khác, người Iraq, sáng hôm sau thức dậy, sẽ hiểu được các đối tác nước ngoài đã ra đi không một lời giã biệt. Thêm một bằng chứng về tình hữu nghị và tương tín người Mỹ dành cho các “đồng minh địa phương”. Sau chiến dịch Gây Sốc và Kinh Hoàng, chiếm đóng Baghdad, Sứ Mệnh Hoàn Tất, bắt giữ, xử lý và hành hình Saddam Hussein, sau những hình ảnh vô nhân đạo ở Abu Ghraib và cảnh xương rơi máu đổ của nội chiến, sau chiến dịch tăng quân và phong trào “Thức Tỉnh của phái Sunni”[11], sau các tài khoản tái thiết chệch đường, sau các cảnh tượng bắn giết và chết chóc, giới quân sự Hoa Kỳ đã lặng lẽ ra đi trong đêm tối không một lời giả biệt.
Tuy nhiên, nếu bạn muốn tìm một vài từ thích hợp để mô tả tình hình thực tế, một vài từ kém cay nghiệt hơn những gì đang lan truyền — ”rã đám,” “tán lọan”,và “chiến bại”[12]– có lẽ là những từ trung thực nhất. Giới quân sự — của quốc gia tự nhận là siêu cường vô song thế giới, cấp lãnh đạo đã có lần xem sự chiếm đóngTrung Đông là chìa khóa của chính sách toàn cầu nay mai, và các doanh trại quân sự dài lâu được hoạch định và thiết kế cho nhiều thế hệ tương lai — đã buộc lòng phải cuốn gói ra đi. Thực tế đó quả thật đáng kinh ngạc và phủ phàng.
Đối diện với những gì đã xẩy ra ở Iraq, bạn sẽ hiểu: bạn đang sống trên một hành tinh mới.
THẤT BẠI KÉP
Thực vậy, xâm lăng Iraq là cuộc xâm-chiếm-trở-thành-chiến-tranh-chống-du-kích-trở-thành-tai-họa. Cuộc chiến thứ hai, khởi đầu trước và hiện còn tiếp diễn, có thể trở thành một tai họa lớn hơn. Cho đến nay còn ít tốn kém về số thương vong và ngân khố Mỹ, cuộc chiến Afghanistan đang đe dọa trở thành thất bại mang tính quyết định hơn là cuộc chiến Iraq, mặc dù các lực lượng đối đầu với người Mỹ ở Afghanistan đã được vũ trang kém hơn, và gồm nhiều bộ tộc thiểu số tương đối yếu kém hơn.
Với một công trình vĩ đại — xây dựng một hạ tầng cơ sở chiếm đóng quân sự cũng như trang bị và tiếp liệu một lực lượng quân sự khổng lồ năm nầy qua năm khác, cuộc chiến Iraq vẫn không thể sánh với những gì người Mỹ đã phải làm ở Afghanistan. Một ngày nào đó, quyết định xâm lăng, chiếm đóng, xây dựng hơn 400 căn cứ quân sự, tăng cường trên 60.000 quân, với rất nhiều nhà thầu, nhân viên tình báo, các nhà ngoại giao, các viên chức dân sự, và áp lực buộc chính quyền địa phương dành cho Hoa Thịnh Đốn quyền trú đóng lâu dài, sẽ được xem như những hành động điên rồ của Hoa Thịnh Đốn không còn khả năng đo lường giới hạn quyền lực của chính mình trên thế giới.
Đề cập đến bài học kinh nghiệm: sau khi đã tận mắt chứng kiến sự thất bại thảm hại trong cuộc chiến lớn ở lục địa Á châu cách đây hơn ba thập kỷ, nhà cầm quyền Hoa Kỳ một cách nào đó đã tự thuyết phục là không có gì ở ngoài tầm với đối với quyền lực quân sự của “siêu cường duy nhất.” Và họ đã quyết định gửi hơn 250.000 quân đến hai chiến trường nằm sâu trong lục địa Á-Âu. Kết quả là đã viết thêm một chương mới vào lịch sử thất bại của Hoa Kỳ — lần nầy là một cường quốc dù đầy tham vọng nhưng không những đã suy nhược mà khả năng tưởng tượng cũng yếu kém hơn rất xa so với cấp lãnh đạo trong kỷ nguyên Việt Nam.
Bạn có thể nghĩ, sau một thập kỷ chứng kiến một thất bại kép, lần nầy người Mỹ có thể sẽ gấp rút triệt thoái. Tuy vậy, kế hoạch triệt thoái quân tác chiến khỏi Afghanistan cũng chỉ được dự liệu hoàn tất trước 31-12-2014, để lại phía sau hàng nghìn cố vấn, huấn luyện viên, và lực lượng đặc biệt. Và chính quyền Obama, dù với những mỹ từ thông thường, vẫn còn cực lực thương nghị với chính quyền Hamid Karzai về một thỏa ước cho phép người Mỹ đồn trú ở Afghanistan trong nhiều năm sắp tới. Và, cũng như ở Iraq trong những năm 2010 và 2011, các tư lệnh Mỹ cũng đang công khai vận động hành lang cho một thời biểu triệt thóai chậm hơn rất nhiều.
Một lần nữa, cũng như ở Iraq, đối diện với thực tế hiển nhiên, ngôn từ chính thức vẫn không thể nào lạc quan hơn. Trong thưc tế, giữa tháng 12-2011, Bộ Trưởng Quốc Phòng Leon Panetta đã nói với binh sĩ ngoài tiền tuyến: họ đang chiến thắng. Các tư lệnh mặt trận cũng tiếp tục rêu rao tương tự, chẳng hạn, đang có nhiều tiến bộ và thắng lợi, cũng như địa vị của Taliban trong các trung tâm Pashtun miền Nam Afghanistan ngày một suy yếu, do nạn lụt cũng như đợt tăng quân và các cuộc bố ráp ngày đêm, liên tục và thành công, bởi các lực lượng đặc biệt Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, thực tế an ninh ở Afghanistan vẫn rất u ám đối với người Mỹ — ngay từ ngày đầu, cuộc chiến đã đánh thức lực lượng Taliban, một phong trào với rất ít hậu thuẩn trong quần chúng.
Điển hình nhất, gần đây LHQ đã đi đến kết luận, trái với thẩm định của NATO, các biến cố liên hệ đến an ninh trong 11 tháng đầu năm 2011 đã gia tăng 21% so với cùng kỳ năm 2010.
Trong một chiều hướng tương tự, tài nguyên vẫn tiếp tục được rót vào nổ lực không ngừng – xây dựng và huấn luyện các lực lượng an ninh. Gần 12 tỉ USD đã được dành cho dự án trong năm 2011 và một kim ngạch tương đương trong năm 2012. Tuy vậy, các lực lượng an ninh vẫn chưa thể hành quân độc lập, cũng như luôn chiến đấu thiếu hữu hiệu, trái ngược với phe Taliban. Cảnh sát và binh sĩ Afghanistan tiếp tục đào ngũ hàng loạt và vị tướng Mỹ phụ trách chương trình huấn luyện trong năm rồi đã cho biết: muốn có đôi chút cơ may thành công, chương trình cần được tiếp tục cho đến cuối năm 2016 hay 2017. Đó là chưa nói đến một chính quyền Afghanistan nghèo túng hoàn toàn không có đủ khả năng tài trợ các lực lượng đang được thiết lập giúp họ.
Phe Taliban, phần lớn người Pashtun, cũng như bất cứ lực lượng du kích truyền thống nào khác , luôn tránh né trước sức mạnh quân sự áp đảo của một đại cường, tuy vậy, rõ ràng vẫn kiểm soát được khu vực nông thôn miền Nam, và trong năm rồi, các hành vi bạo động đã lan tràn sâu vào phía Bắc không thuộc Pashtun.
Và nếu các lực lượng Hoa Kỳ ở Iraq đã không thể tin tưởng ở các đối tác địa phương khi triệt thoái, người Mỹ ở Afghanistan sẽ có nhiều lý do hơn để âu lo e ngại. Người Afghanistan, trong đồng phục cảnh sát hay quân nhân — một số do người Mỹ hoặc NATO huấn luyện, một số là du kích quân Taliban trong đồng phục mua ở chợ đen — thường quay súng bắn vào các lực lượng được xem như “đồng minh”, một sự kiện thường được gọi “bạo lực xanh lợt trên xanh đậm” (green-on-blue violence). Chẳng hạn, vào cuối năm 2011, một binh sĩ Afghanistan đã bắn chết hai quân nhân Pháp. Trước đó không lâu, vài binh sĩ NATO đã bị thương khi một người trong đồng phục quân nhân Afghanistan đã xả súng vào họ.
Trong lúc chờ đợi, quân đội Mỹ đang bắt đầu rút bớt; đồng minh NATO không vững chắc; và Taliban, dù đang gặp nhiều thử thách cam go, chắc hẳn đang cảm thấy thời cơ đang nghiêng về phía họ.
LỆ THUỘC VÀO LÒNG TỐT NƯỚC NGOÀI
Mặc dù với sự hiện diện của vài thành phần có thể yếu đuối, không ai có thể nghi ngờ tinh thần kiên trì của phe Taliban sẽ giúp họ chiến thắng trước uy lực quân sự của siêu cường thời đại. Tuy vậy, thực tế đó không mấy ảnh hưởng đến sự khả dĩ sụp đổ của cuộc chiến Afghanistan. Nếu bạn muốn xét đoán trình độ điên cuồng của cuộc chiến và đo lường tình trạng rệu rã trong uy quyền toàn cầu của Hoa Kỳ, bạn chẳng cần phải lưu ý đến chính Afghanistan.Thay vào đó, bạn chỉ cần quan tâm đến các tuyến đường tiếp liệu đi đến nước nầy.
Xét cho cùng, Afghanistan là một xứ nằm sâu trong lục địa Trung Á. Hoa Kỳ tọa lạc cách xa hàng nghìn dặm. Không một hải cảng kiêm căn cứ quân sự tương tự Vịnh Cam Ranh ở Nam Việt Nam trong thập kỷ 1960, để tiếp nhận hàng tiếp liệu và vũ khí.
Đối với Hoa Thịnh Đốn, nếu du kích quân Afghanistan chỉ cần chiến đấu với chút ít quân trang quân dụng trên lưng, quân đội Mỹ lại khác. Từ thức ăn cho đến áo giáp che thân, từ vật liệu xây cất đến vũ khí đạn dược, quân đội Mỹ luôn cần đến một hệ thống tiếp liệu khổng lồ và tốn kém. Quân lực Hoa Kỳ tiêu thụ nhiên liệu không khác một bợm ghiền núc rượu: tiêu thụ hơn 20 tỉ USD ở Afghanistan và Iraq mỗi năm, và đó mới chỉ là chi phí cần thiết cho các máy điều hòa không khí.
Để có thể hoạt động hữu hiệu, quân đội Mỹ phải trông cậy vào những con đường tiếp vận ngòng ngoèo dài hàng nghìn dặm. Chính vì vậy, Hoa thịnh Đốn không thể là trọng tài của chính số phận riêng mình ở Afghanistan, mặc dù không mấy ai lưu ý tình thế nầy trong nhiều năm trước đây.
Trong tất cả các cuộc chiến không thực tế một đế quốc đang suy tàn cần theo đuổi, Afghanistan là cuộc chiến thiếu thực tế nhất. Đối với Liên Bang Xô Viết trước đây, “vết thương rĩ máu”, từ ngữ thường được Mikhail Gorbachev sử dụng, ít ra cũng chỉ nằm gần kề bên cạnh. Đối với gần 90.000 quân Mỹ hiện nay ở Afghanistan, 40.000 quân của đồng minh NATO, và hàng nghìn nhà thầu tư nhân, nhu yếu phẩm, quân trang, quân dụng dự trữ cần thiết cho chiến tranh chỉ có thể đến theo ba ngã: 20% qua đường hàng không, dĩ nhiên quá tốn kém; khoảng 1/3 bằng đường bộ, ngắn và rẻ nhất, qua cảng Karachi thuộc Pakistan, bằng xe vận tải hay hỏa xa phía Bắc, kế đó bằng xe tải xuyên qua đồi núi ngoằn ngoèo chật hẹp; và có lẽ 40% vật dụng, ngoài vũ khí đạn dược, qua Mạng Lưới Phân Phối Phía Bắc (Northern Distribution Network – NDN).
Mạng lưới NDN mới được phát triển toàn bộ vào đầu năm 2009, khi Hoa Thịnh Đốn cuối cùng đã hiểu rõ Pakistan đang kiểm soát một vòng vây thắt chặt tiềm năng chiến tranh của Mỹ. Bao gồm ít ra 16 quốc gia và mọi hình thức chuyển vận có thể tưởng tượng được, hệ thống NDN trong thực tế gồm ba con đường, hai trong ba xuyên qua Liên Bang Nga, vận hành như một “cái phễu” chuyển mọi thứ qua “cổ chai Uzbekistan” độc tài và thối nát.
Nói một cách đơn giản, để điều hành cuộc chiến, Hoa Thịnh Đốn đã tự buộc mình phải lệ thuộc vào lòng tốt của các xứ ngoài — trong trường hợp nầy, Pakistan và Liên Bang Nga. Đối với một siêu cường hay đại cường đang lên, quan hệ thân thiện với các xứ khác, không nhất thiết là đồng minh tự nhiên, là một việc; khi siêu cường hay đại cường đang tuột dốc , đó là một chuyện hoàn toàn khác. Lãnh đạo Liên Bang Nga đã nhiều lần lên tiếng cảnh cáo khả năng sử dụng tuyến đường phía Bắc nếu Hoa Kỳ tiếp tục làm mếch lòng Nga qua việc thiết trí hệ thống tên lửa phòng vệ tương lai.
Tuy nhiên, bi kịch tâm lý trước mắt của cuộc chiến Afghanistan tùy thuộc ở Pakistan. Nơi đây, động thái tiếp liệu ồ ạt các kho hàng ven đường đã là một phỉ báng thóa mạ lớn. Chẳng hạn, trong năm 2008, 12% trong tổng số tiếp liệu trên tuyến chuyển vận từ Karachi đến căn cứ Bagram Air Base đã bị thất thoát. Trong một vụ cảnh sát trưởng ở Karachi đã gọi là “mẹ của các vụ biển lận”[13], 29.000 tấn hàng tiếp liệu của Hoa Kỳ đã thất thoát sau khi đã được bốc dở xuống cảng Karachi.
Trong thực tế, toàn bộ hệ thống tiếp liệu — cùng với các thỏa ước bảo vệ an ninh địa phương và hối mại nhiều nhóm trực thuộc dọc đường — rõ ràng đã giúp tài trợ và tiếp liệu cho lực lượng Taliban, cũng như tái tiếp liệu các kho hàng các tiệm tạp hóa dọc đường và hổ trợ lãnh chúa các sứ quân và các giới biển lận địa phương.
Mới gần đây, để đáp lại các cuộc không tập của Mỹ gây tử thương cho 24 quân nhân biên phòng , cấp lãnh đạo Pakistan đã buộc người Mỹ phải triệt thoái khỏi căn cứ không quân Shamsi, nơi CIA đang điều khiển các cuộc hành quân bằng phi cơ không người lái dọc biên giới Pakistan, và đóng chặt cửa khẩu biên giới không cho phép hệ thống tiếp liệu của Hoa Kỳ đi qua. Mãi đến hai tháng sau, cửa khẩu biên giới vẫn chưa hoạt động trở lại. Không có các tuyến đường nầy, cuộc chiến Afghanistan của Hoa Kỳ trong trường kỳ đơn thuần không thể tiếp tục.
Mặc dù các tuyến đường đi qua cửa khẩu sớm muộn rồi cũng được khai thông sau nỗ lực tái thương thuyết nghiêm chỉnh quan hệ Hoa Kỳ-Pakistan, thông điệp cũng đã quá rõ ràng. Các cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan, cũng như ở các vùng dọc biên giới Pakistan, chẳng những đã làm cạn kiệt ngân khố Hoa Kỳ, mà còn phơi bày tính tương đối vô vọng của siêu cường duy nhất. Mười hay ngay cả năm năm trước đây, người Pakistan đơn thuần không bao giờ dám có những hành động tương tự.
Như thực tế đã minh chứng, quyền lực quân sự của Hoa Kỳ quả thực đã mang tính răn đe ấn tượng, nhưng cũng chỉ có thể kéo dài đến hai lần quyết định nổ súng của George W. Bush. Với các hành động đó, Bush đã phơi bày trước thế giới một sự thật: Hoa Kỳ không thể chiến thắng trong các cuộc chiến trên bộ trong những vùng sâu trong lục địa Trung Á, chống lại những kẻ thù nhỏ bé không đáng kể, hay áp đặt ý muốn của mình trên hai quốc gia nhược tiểu trong vùng Trung Đông Nới Rộng. Một thực tế khác cũng đã được phơi bày, nhưng vẫn còn cần thêm thời gian để thẩm thấu: chúng ta không còn sống trên một hành tinh rõ rệt đã cho thấy bằng cách nào có thể chuyển biến lực đòn bẫy của các lợi thế kỹ thuật quân sự choáng ngợp thành một thứ quyền lực khác.
Trong quá trình, cả thế giới đã có thể thấy thực trạng của Hoa Kỳ trước đây: một thứ quyền lực khác của kỷ nguyên Chiến Tranh Lạnh đang ngày một suy giảm. Tình trạng lệ thuộc của Hoa Thịnh Đốn vào lục địa Á-Âu ngày nay đã khá rõ ràng, có nghĩa bất cứ thỏa ước nào đạt được với chính quyền Afghanistan, tương lai của Afghanistan cũng không còn tùy thuộc ở Hoa Kỳ như một siêu cường bá chủ.
Trong thập kỷ vừa qua, Hoa Kỳ đã nhiều lần học được bài học mỗi khi nhắc đến các cuộc chiến trên bộ trong lục địa Á-Âu: chớ nên phát động. Sự suy sụp do thất trận kép đang đến, lần nầy không thể nào có thể rõ rệt hơn. Vấn đề còn lại chỉ là nỗi nhục triệt thoái khỏi Afghanistan sắp tới sẽ diễn ra như thế nào. Lần lửa càng lâu, tai họa đối với quyền lực Hoa Kỳ càng lớn.
Tất cả các điều trên đây cũng chẳng cần phải nhắc lại nhiều lần. Tuy nhiên, khi năm mới 2012 bắt đầu, với mùa bầu cử nay đã rộn rã, thực tế đau đớn càng thêm rõ ràng: Hoa Thịnh Đốn sẽ không còn khả năng chấm dứt cuộc chiến Afghanistan sớm sủa.
Vào cao điểm của khả năng thành công ở Iraq và Afghanistan, các quan chức Hoa Kỳ đã không ngớt âu lo làm sao, như câu nói khinh mạn vào lúc đó, khoác “bộ mặt Afghanistan” hay “bộ mặt Iraq”[14] lên các cuộc chiến Hoa Kỳ. Ngày nay, từ vực thẳm trong vùng Trung Đông Nới Rộng, có lẽ cũng là thời điểm cuối cùng để khoác “bộ mặt Hoa Kỳ” lên các “cuộc chiến Hoa Kỳ”, để có thể thấu hiểu cái giá phải trả cho sự đổ vỡ của giấc mơ đế quốc, cũng như để còn tìm một cách cách ứng xử thích nghi.
Nguyễn Trường
07-01-2012
[1] …an era of accomplishment… [2] …the troops were departing with “their heads held high.” [3] …having “achieved ultimate success.” [4] …driving force for remarkable progress. [5] …secure in knowing that your sacrifice has helped the Iraqi people begin a new chapter in history, free from tyrannyand full of hope for prosperity and peace. [6] …I think the price has been worth it. [7] And then the last of those troops really did “come home”… [8] Indeed, everything that Americantroops have done in Iraq — all the fighting and all the dying, the bleeding and the building, and the training and partnering — all of it has led to this moment of success…We’re leaving behind a sovereign, stable and self-reliant Iraq, with a representative government that was elected by its people. [9] …embedded… [10] …descending into a “new sectarian hell.”… [11] Sunni Awakening movement. [12] …”debacle” and “defeat”… [13] …the mother of all scams… [14] …an “Afghanistan face” or “Iraqi face” on America’s wars.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 8:40:20 GMT 9
Toàn văn chiến lược quân sự mới của Mỹ Thứ ba, 10 Tháng 1 2012 15:58 dinh tuan anh Chiến lược quân sự mới của Mỹ (Defense Strategic Guidance) do Tổng thống Obama và giới chức quốc phòng Mỹ công bố ngày 5/1/2012 với nội dung chính là điều chỉnh trọng tâm từ Trung Đông sang Châu Á-Thái Bình Dương. Phần 1 của Chiến lược: Duy trì sự lãnh đạo toàn cầu của Mỹ: Những ưu tiên cho quốc phòng thế kỷ 21.
White House, Washington, Jan 3rd 2012 Quốc gia của chúng ta đang trong một thời điểm chuyển tiếp. Nhờ những sự hy sinh lớn lao của các quân nhân nam, nữ của chúng ta, chúng ta đã kết thúc có trách nhiệm cuộc chiến tranh ở Irắc, đưa Al Qaeda vào con đường thất bại - kể cả thực thi công lý với Osama bin Laden – và đạt được tiến bộ đáng kể ở Ápganixtan, cho phép chúng ta bắt đầu chuyển giao trách nhiệm cho Ápganixtan. Đồng thời, chúng ta phải sắp xếp lại trật tự ngôi nhà tài chính của chúng ta ở trong nước và khôi phục sức mạnh kinh tế dài hạn của chúng ta. Vì mục đích đó, Đạo luật Kiểm soát ngân sách 2011 đã yêu cầu giảm chi phí liên bang, kể cả chi phí quốc phòng. Với tư cách là Tổng tư lệnh, tôi quyết định rằng chúng ta phải đáp ứng những thách thức của thời điểm này một cách có trách nhiệm và chúng ta nổi lên thậm chí còn mạnh hơn theo cách duy trì sự lãnh đạo toàn cầu của Mỹ, duy trì ưu thế quân sự của chúng ta, và giữ lời hứa với binh sĩ, các gia đình quân nhân và cựu chiến binh của chúng ta. Do vậy, tôi chỉ đạo bản đánh giá này nhằm xác định rõ những lợi ích chiến lược của chúng ta và chỉ dẫn nhũng ưu tiên và chi phí phòng thủ của chúng ta trong những năm tới. Đánh giá này đã được định hình bởi những lợi ích an ninh quốc gia lâu dài của Mỹ. Chúng ta tìm kiếm an ninh của quốc gia, của các đồng minh và các đối tác của chúng ta. Chúng ta tìm kiếm sự thịnh vượng bắt nguồn từ một hệ thống kinh tế quốc tế mở cửa và tự do. Và chúng ta tìm kiếm một trật tự quốc tế công bằng và bền vững ở đó các quyền lợi và trách nhiệm của các quốc gia và các dân tộc được duy trì, đặc biệt các quyền cơ bản của mọi con người. Quả thực, khi chúng ta kết thúc các cuộc chiến tranh của ngày nay, chúng ta sẽ tập trung vào một loạt rộng rãi hơn những thách thức và cơ hội, kể cả an ninh và thịnh vượng của châu Á-Thái Bình Dương. Khi một thế hệ mới khắp Trung Đông và Bắc Phi đòi hỏi các quyền lợi chung của họ, chúng ta ủng hộ cải cách chính trị và kinh tế và làm sâu sắc thêm các quan hệ đối tác để đảm bảo an ninh khu vực. Trái với tầm nhìn đầy sát khí của những kẻ cực đoan bạo lực, chúng ta tham gia cùng các đồng minh và đối tác trên khắp thế giới để xây dựng khả năng của họ thúc đẩy an ninh, thịnh vượng, và nhân phẩm. Và khả năng ngày càng tăng của các đồng minh và đối tác, như được thể hiện trong sứ mệnh thành công để bảo vệ người dân Libi, tạo ra những cơ hội mới cho việc chia sẻ gánh nặng. Đáp ứng những thách thức này không thể chỉ là công việc của quân đội chúng ta, điều là lý do tại sao chúng ta đã tăng cường tất cả các công cụ của sức mạnh Mỹ, bao gồm ngoại giao và phát triển, tình báo và an ninh nội địa. Tiến về phía trước, chúng ta cũng sẽ nhớ những bài học của lịch sử và tránh lặp lại những sai lầm của quá khứ, khi quân đội của chúng ta bị để trong tình trạng không được chuẩn bị tốt cho tương lai. Khi chúng ta kết thúc các cuộc chiến tranh hiện nay và định hình lại Các lực lượng vũ trang của chúng ta, chúng ta sẽ đảm bảo rằng quân đội của chúng ta là nhanh nhạy, linh hoạt, và sẵn sàng cho một loạt đầy đủ các sự việc bất ngờ. Đặc biệt, chúng ta sẽ tiếp tục đầu tư vào những khả năng thiết yếu cho thành công tương lai, bao gồm tình báo, giám sát và do thám; chống khủng bố; chống vũ khí hủy diệt hàng loạt; hoạt động trong môi trường chống tiếp cận; và thắng thế trên tất cả các lĩnh vực, kể cả không gian mạng. Quan trọng nhất, chúng ta sẽ giữ lời hứa với các binh sĩ, các gia đình quân nhân và các cựu chiến binh của chúng ta những người đã mang gánh nặng của một thập kỷ chiến tranh và những người làm cho quân đội chúng ta trở thành quân đội giỏi nhất trên thế giới. Mặc dù chúng ta phải đưa ra những lựa chọn tài chính khó khăn, chúng ta sẽ tiếp tục ưu tiên những nỗ lực tập trung vào các thương binh, sức khỏe tâm thần và các gia đình. Và khi các cựu chiến binh mới nhất của chúng ta quay trở lại với cuộc sống dân sự, chúng ta tiếp tục có một cam kết theo đạo lý – với tư cách là một chính phủ và một quốc gia – đem lại cho các cựu chiến binh của chúng ta sự chăm sóc, những lợi ích và cơ hội việc làm mà họ xứng đáng được hưởng. Những lựa chọn tài chính mà chúng ta đối mặt là những lựa chọn khó khăn, nhưng không nên có sự nghi ngờ - ở nước Mỹ đây và trên khắp thế giới – chúng ta sẽ duy trì Các lực lượng vũ trang của chúng ta là lực lượng chiến đấu được huấn luyện tốt nhất, được lãnh đạo tốt nhất và được trang bị tốt nhất trong lịch sử. Và trong một thế giới đang thay đổi đòi hỏi sự lãnh đạo của chúng ta, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ sẽ vẫn là sức mạnh lớn nhất vì tự do và an ninh mà thế giới từng biết đến. Barack Obama BỘ TRƯỞNG QUỐC PHÒNG 1000 DEFENSE PENTAGON WASHINGTON , DC 20301-1000 Ngày 5/1/2012 Tôi công bố đường lối chỉ đạo chiến lược mới đối với Bộ Quốc phòng để nêu rõ những ưu tiên cho một nền quốc phòng thế kỷ 21 duy trì sự lãnh đạo toàn cầu của Mỹ. Đường lối chỉ đạo này phản ánh đường hướng chiến lược của tổng thống đối với Bộ Quốc phòng và đã được sự thấm nhuần sâu sắc của ban lãnh đạo dân sự và quân sự Bộ Quốc phòng, bao gồm các Tham mưu trưởng liên quân, các Bộ trưởng các Bộ thuộc Bộ Quốc phòng, và các Chỉ huy Chiến đấu. Đất nước này đang ở vào một bước ngoặt chiến lược sau một thập kỷ chiến tranh và do vậy chúng ta đang định hình một Lực lượng liên quân chủng cho tương lai sẽ nhỏ hơn và gọn nhẹ hơn, nhưng sẽ nhanh nhạy, linh hoạt, sẵn sàng và tiên tiến về công nghệ. Nó sẽ có những khả năng mũi nhọn, tận dụng lợi thế công nghệ, phối hợp và làm việc qua mạng của chúng ta. Nó sẽ được lãnh đạo bởi các nhà chuyên nghiệp được thử thách qua chiến trận và có năng lực cao nhất. Nó sẽ có sự hiện diện trên toàn cầu chú trọng đến châu Á-Thái Bình Dương và Trung Đông trong khi vẫn đảm bảo khả năng của chúng ta duy trì các cam kết phong thủ của chúng ta với châu Âu, và tăng cường các liên minh và quan hệ đối tác khắp tất cả các khu vực. Nó sẽ duy trì khả năng cúa chúng ta tiến hành các sứ mệnh mà chúng ta đánh giá là quan trọng nhất đối với việc bảo vệ các lợi ích quốc gia cốt lõi của chúng ta: đánh bại Al Qaeda và các chi nhánh của tổ chức này cũng như thành công trong các cuộc xung đột hiện tại; ngăn chặn và đánh bại sự xâm lược của các đối thủ, kể cả những kẻ tìm cách ngăn cản việc triển khai sức mạnh của chúng ta; chống vũ khí hủy diệt hàng loạt; hoạt động có hiệu quả trong không gian mạng, không gian vũ trụ và khắp tất cả các lĩnh vực; duy trì một sự răn đe hạt nhân an toàn và có hiệu quả; và bảo vệ nội địa. Các lực lượng liên quân chủng sẽ được chuẩn bị để đương đầu và dánh bại cuộc xâm lược ở bất cứ đâu trên thế giới. Nó sẽ có khả năng tăng quân và tái lập các lực lượng và các khả năng, đảm bảo rằng chúng ta có thể đáp ứng bất cứ mối đe dọa nào trong tương lai, bằng cách đầu tư vào con người và một cơ sở công nghiệp hùng mạnh của chúng ta. Đó sẽ vẫn là quân đội thiện chiến nhất thế giới. Leon Panetta LỜI GIỚI THIỆU Mỹ đóng một vai trò lãnh đạo trong việc thay đổi hệ thống quốc tế trong 65 năm qua. Làm việc với các quốc gia có chung ý kiến, Mỹ đã tạo ra một thế giới an toàn hơn, ổn định hơn, và thịnh vượng hơn cho nhân dân Mỹ, cho các đồng minh của chúng ta, và cho các đối tác của chúng ta trên khắp toàn cầu so với trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Trong thập kỷ qua, chúng ta đã tiến hành các hoạt động mở rộng ở Irắc và Ápganixtan và mang lại sự ổn định cho hai nước đó và đảm bảo cho những lợi ích của chúng ta. Khi chúng ta giảm bớt một cách có trách nhiệm hai hoạt động này, thực hiện các biện pháp để bảo vệ sự sống còn về kinh tế của dân tộc chúng ta, và bảo vệ những lợi ích của chúng ta trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng, chúng ta phải đối mặt với một bước ngoặt. Điều này xứng đáng có một sự đánh giá về chiến lược quân sự của Mỹ dưới ánh sáng của một môi trường địa chính trị đang thay đổi và những hoàn cảnh tài chính đang thay đổi của chúng ta. Đánh giá này phản ánh phương hướng chiến lược của Tổng thống đối với Bộ Quốc phòng và được sự thấm nhuần sâu sắc bởi ban lãnh đạo dân sự và quân sự của Bộ Quốc phòng, bao gồm các Tham mưu trưởng Liên quân, các Bộ trưởng các bộ trực thuộc Bộ Quốc phòng, và các Chỉ huy Chiến đấu. Từ sự đánh giá đó chúng ta đã phát triển được một chiến lược phòng thủ làm chuyển biến thiết chế quốc phòng của chúng ta từ chú trọng vào hai cuộc chiến tranh hiện nay sang chuẩn bị ứng phó với những thách thức trong tương lai, bảo vệ hàng loạt rộng rãi những lợi ích an ninh quốc gia của Mỹ, thúc đẩy những nỗ lực của Bộ Quốc phòng nhằm cân bằng lại và cải cách, và ủng hộ vấn đề cấp bách về an ninh quốc gia là giảm bớt thâm hụt thông qua mức chi phí quốc phòng thấp hơn. Văn kiện hướng dẫn chiến lược này miêu tả môi trường an ninh dự kiến và các sứ mệnh quân sự then chốt mà Bộ Quốc phòng (DoD) sẽ chuẩn bị. Nó được dự định là bản kế hoạch chi tiết cho Lực lượng liên quân chủng vào năm 2020, cung cấp một loạt quy tắc sẽ góp phần hướng dẫn những quyết định liên quan đến quy mô và định hình lực lượng về chương trình tiếp theo và chu kỳ ngân sách, và làm nổi bật lên một số nguy cơ chiến lược có thể gắn liền với chiến lược đã được đề xuất. Môi trường an ninh toàn cầu gây thách thức Môi trường an ninh toàn cầu gây ra một loạt ngày càng phức tạp các thách thức và cơ hội theo đó tất cả các yếu tố trong sức mạnh quốc gia của Mỹ phải được vận dụng. Việc tiêu diệt Osama Bin Laden và bắt giữ hoặc tiêu diệt nhiều nhà lãnh đạo cao cấp khác của Al Qaeda đã làm cho tổ chức này giảm bớt khả năng của nó. Tuy nhiên, Al Qaeda và các chi nhánh của nó vẫn hoạt động ở Pakixtan, Ápganixtan, Yêmen, Xômani, và những nơi khác. Nói rộng hơn, các phần tử cực đoan bạo lực sẽ tiếp tục đe dọa những lợi ích, các đồng minh, các đối tác, và đất nước Mỹ. Địa điểm chủ yếu của những mối đe dọa này là Nam Á và Trung Đông. Với việc phổ biến công nghệ hủy diệt, các phần tử cực đoan này có khả năng gây ra các mối đe dọa khủng khiếp có thể ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh và sự thịnh vượng của chúng ta. Trong tương lai có thể thấy trước, Mỹ sẽ tiếp tục thực hiện một đường hướng tích cực để chống lại các mối đe dọa này bằng cách giám sát các hoạt động của các mối đe dọa phi nhà nước rộng rãi trên thế giới, làm việc với các đồng minh và đối tác nhằm thiết lập sự kiểm soát đối với các vùng lãnh thổ chưa được quản lý, và trực tiếp tấn công các tổ chức và những cá nhân nguy hiểm nhất khi cần thiết. Những lợi ích kinh tế và an ninh của Mỹ được gắn chặt với sự phát triển trong vòng cung kéo dài từ Tây Thái Bình Dương và Đông Á sang khu vực Ấn Độ Dương và Nam Á, tạo ra một sự kết hợp những thách thức và cơ hội đang gia tăng. Vì vậy, trong khi quân đội Mỹ sẽ tiếp tục đóng góp cho an ninh toàn cầu, chúng ta sẽ nhất thiết cân bằng lại đối với khu vực châu Á-Thái Bình Dương . Các mối quan hệ của chúng ta với các đồng minh châu Á và các đối tác then chốt là mang tính quyết định đối với sự ổn định và tăng trưởng trong tương lai của khu vực. Chúng ta sẽ chú trọng tới những liên minh hiện tại của chúng ta, các liên minh tạo nền tảng mang tính sống còn đối với an ninh của châu Á-Thái Bình Dương. Chúng ta cũng sẽ mở rộng các mạng lưới hợp tác của chúng ta với các đối tác đang nổi lên trên khắp châu Á-Thái Bình Dương để đảm bảo khả năng tập thể và khả năng đảm bảo những lợi ích chung. Mỹ cũng đang đầu tư vào mối quan hệ đối tác chiến lược lâu dài với Ấn Độ để hỗ trợ khả năng của nước này trở thành chiếc neo kinh tế khu vực và là quốc gia đảm bảo an ninh ở khu vực Ấn Độ Dương rộng rãi hơn. Hơn nữa, chúng ta sẽ duy trì hòa bình trên Bán đảo Triều Tiên bằng cách làm việc có hiệu quả với các đồng minh và các nước khác trong khu vực nhằm ngăn chặn và chống lại sự khiêu khích từ Bắc Triều Tiên, quốc gia đang tích cực theo đuổi chương trình vũ khí hạt nhân. Việc duy trì hòa bình, ổn định, dòng chảy thương mại tự do, và ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực năng động này sẽ phụ thuộc một phần vào sự cân bằng cơ bản về khả năng và sự hiện diện quân sự. Về lâu dài, sự nổi lên của Trung Quốc như một cường quốc trong khu vực sẽ có khả năng ảnh hưởng đến nền kinh tế Mỹ và an ninh của chúng ta theo nhiều cách khác nhau. Hai nước chúng ta có lợi ích mạnh mẽ trong hòa bình và ổn định ở Đông Á và lợi ích trong việc xây dựng mối quan hệ song phương hợp tác. Tuy nhiên, sự gia tăng sức mạnh quân sự của Trung Quốc phải đi đôi với việc làm sáng tỏ hơn những ý định chiến lược của nước này để tránh gây ra sự bất đồng trong khu vực. Mỹ sẽ tiếp tục có những đầu tư cần thiết để đảm bảo rằng chúng ta duy trì sự tiếp cận khu vực và khả năng hoạt động tự do phù hợp với những nghĩa vụ trong hiệp ước của chúng ta và với luật pháp quốc tế. Làm việc chặt chẽ với mạng lưới đồng minh và đối tác của chúng ta, chúng ta sẽ tiếp tục thúc đẩy một trật tự quốc tế dựa trên các nguyên tắc đảm bảo sự ổn định cơ bản và khuyến khích sự trỗi dậy hòa bình của các cường quốc mới, sự năng động kinh tế, và sự hợp tác phòng thủ mang tính xây dựng. Ở Trung Đông, phong trào Thức tỉnh Arập tạo ra cả cơ hội lẫn thách thức chiến lược. Những thay đổi chế độ, cũng như những căng thẳng bên trong và giữa các nước bị sức ép phải cải cách, gây ra sự bất trắc trong tương lai. Nhưng chúng cũng có thể dẫn đến những chính phủ mà, về lâu dài, có trách nhiệm hơn đối với những khát vọng chính đáng của người dân của họ, và là các đối tác ổn định và đáng tin cậy hơn của Mỹ. Những nỗ lực phòng thủ của chúng ta ở Trung Đông sẽ nhằm chống lại các phần tử cực đoan bạo lực và xua tan những mối đe dọa, cũng như giữ vững cam kết của chúng ta với các đồng minh và các nước đối tác. Mối quan tâm đặc biệt là về việc phổ biến tên lửa đạn đạo và vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD). Chính sách của Mỹ sẽ chú trọng vào an ninh vùng Vịnh, cộng tác với các nước Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh khi thích hợp, nhằm ngăn chặn khả năng phát triển vũ khí hạt nhân của Iran và chống lại các chính sách gây bất ổn định của nước này. Mỹ sẽ làm việc này đồng thời ủng hộ an ninh của Ixraen và hòa bình toàn diện ở Trung Đông. Để hỗ trợ các mục tiêu này, Mỹ sẽ tiếp tục coi trọng sự hiện diện quân sự của Mỹ và đồng minh tại - và ủng hộ - các nước đối tác trong và xung quanh khu vực này . Châu Âu là nơi có một số đồng minh và đối tác đáng tin cậy nhất của Mỹ, nhiều nước trong số đó đã hy sinh cùng với các lực lượng của Mỹ ở Ápganixtan, Irắc, và các nơi khác. Châu Âu là đối tác chủ yếu của chúng ta trong việc tìm kiếm an ninh toàn cầu và an ninh kinh tế, và vẫn sẽ như vậy trong tương lai có thể nhìn thấy trước. Đồng thời, những thách thức an ninh và các cuộc xung đột chưa được giải quyết vẫn còn dai dẳng ở các khu vực thuộc châu Âu và Á–Âu, nơi Mỹ phải tiếp tục thúc đẩy an ninh khu vực và sự hội nhập châu Âu-Đại Tây Dương. Mỹ có những lợi ích lâu dài trong việc ủng hộ hòa bình và thịnh vượng ở châu Âu cũng như tăng cường sức mạnh và sinh lực của NATO, tổ chức mang tính quyết định đối với an ninh của châu Âu và vượt ra ngoài châu lục này. Hầu hết các nước châu Âu hiện là các quốc gia “sản xuất” an ninh chứ không phải “tiêu thụ” an ninh. Kết hợp với việc rút quân ở Irắc và Ápganixtan, điều này đã tạo ra một cơ hội chiến lược để cân bằng lại sự đầu tư quân sự của Mỹ ở châu Âu, chuyển từ tập trung vào các cuộc xung đột hiện nay sang tập trung vào những khả năng trong tương lai. Để phù hợp với bối cảnh chiến lược đang phát triển này, tư thế của chúng ta ở châu Âu cũng phải phát triển. Khi việc này diễn ra, Mỹ sẽ duy trì những cam kết trong Điều 5 của chúng ta đối với an ninh đồng minh và thúc đẩy tăng cường khả năng và khả năng hoạt động tương tác quốc tế cho các hoạt động của liên minh. Trong kỷ nguyên eo hẹp về tài lực này, chúng ta cũng sẽ làm việc với các đồng minh NATO để phát triển một đường hướng “Phòng thủ Thông minh” nhằm phối hợp, chia sẻ, và chuyên môn hóa những khả năng cần thiết để ứng phó với những thách thức của thế kỷ 21. Ngoài ra, sự can dự của chúng ta với Nga vẫn có tầm quan trọng, và chúng ta sẽ tiếp tục xây dựng mối quan hệ gần gũi hơn trong các khu vực có lợi ích chung và khuyến khích nước này trở thành quốc gia đóng góp trong hàng loạt rộng rãi các vấn đề. Việc xây dựng khả năng quan hệ đối tác ở nơi khác trên thế giới cũng vẫn có tầm quan trọng trong việc chia sẻ chi phí và trách nhiệm về sự lãnh đạo toàn cầu. Trên khắp toàn cầu chúng ta sẽ tìm cách trở thành một đối tác an ninh được lựa chọn, theo đuổi các mối quan hệ đối tác mới với số lượng các quốc gia ngày càng tăng - trong đó có các nước ở châu Phi và Mỹ Latinh – mà những lợi ích và quan điểm của các nước này đang hợp dần vào một tầm nhìn chung về tự do, ổn định, và thịnh vượng. Bất cứ k hi nào có thể, chúng ta sẽ phát triển những đường hướng đổi mới, chi phí thấp, và ít dấu vết nhằm đạt được các mục tiêu an ninh của chúng ta, dựa vào các cuộc tập trận, sự hiện diện luân phiên, và những khả năng tư vấn. Để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế và thương mại, Mỹ, kết hợp với các đồng minh và đối tác trên khắp thế giới, sẽ tìm cách bảo vệ quyền tự do tiếp cận khắp các tài sản chung toàn cầu - các khu vực vượt ra ngoài quyền tài phán quốc gia tạo thành một chuỗi hệ thống quốc tế kết nối mang tính sống còn. An ninh và thịnh vượng toàn cầu ngày càng phụ thuộc vào dòng chảy hàng hóa tự do được vận chuyển bằng đường hàng không hoặc đường biển. Các bên tham gia nhà nước và phi nhà nước gây ra các mối đe dọa tiềm tàng đối với sự tiếp cận các tài sản chung toàn cầu, cho dù thông qua sự phản đối các chuẩn mực hiện tại hoặc các đường hướng chống tiếp cận khác. Cả các bên tham gia nhà nước lẫn phi nhà nước đều có khả năng và ý định hoạt động tình báo trên mạng và, có khả năng, tấn công trên mạng vào nước Mỹ, với những ảnh hưởng có thể nghiêm trọng đối với cả các hoạt động quân sự của chúng ta lẫn tổ quốc của chúng ta. Sự gia tăng số lượng quốc gia hoạt động trên không gian cũng dẫn đến một môi trường không gian ngày càng đông đúc và cạnh tranh, đe dọa sự an toàn và an ninh. Mỹ sẽ tiếp tục đi đầu trong những nỗ lực toàn cầu với các đồng minh và đối tác có khả năng để đảm bảo sự tiếp cận và sử dụng những tài sản chung toàn cầu, cả bằng cách tăng cường các chuẩn mực quốc tế về ứng xử có trách nhiệm lẫn bằng cách duy trì các khả năng quân sự thích hợp và có khả năng hoạt động tương tác. Việc phổ biến công nghệ hạt nhân, sinh học, và hóa học có khả năng phóng đại các mối đe dọa do các bên tham gia nhà nước trong khu vực gây ra, tạo cho họ tự do hành động hơn để thách thức những lợi ích của Mỹ. Sự tiếp cận của các phần tử khủng bố với ngay cả các thiết bị hạt nhân có khả năng gây ra những hậu quả tàn phá đối với nước Mỹ. Vì vậy, Bộ Quốc phòng sẽ tiếp tục tăng cường những khả năng của mình, hành động với một loạt đối tác trong nước và nước ngoài, để tiến thành các hoạt động có hiệu quả chống lại việc phổ biến WMD. (còn tiếp) Viết Tuấn (gt)
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 8:42:08 GMT 9
Quốc tế giải mã Định hướng Chiến lược Quốc phòng mới của Mỹ Thứ năm, 12 Tháng 1 2012 00:00 Nguyen Tien Thinh Định hướng Chiến lược Quốc phòng (DSG) mới của Mỹ công bố tuần trước điều chỉnh các ưu tiên chiến lược trong bối cảnh cắt giảm ngân sách. Viện Nghiên cứu Chiến lược Quốc tế Anh (IISS) ngày 9/1 có đăng bài bình luận về Định hướng Chiến luợc Quốc phòng Mỹ, cho rằng DSG cung cấp một cái nhìn sâu sắc về bối cảnh chiến lược mà theo đó các quyết định sẽ được thực hiện.
Với việc Ngu Giac Dai lên kế hoạch cắt giảm 450 tỷ USD trong 10 năm tới thì việc đánh giá lại các ưu tiên quốc phòng sẽ phản ánh "một thời điểm chuyển đổi" đối với quân đội Mỹ. Ngoài sự cần thiết phải đáp ứng các yêu cầu tiết kiệm như đã đề ra trong Đạo luật Kiểm soát Ngân sách, việc kết thúc sự hiện diện quân sự tại Irắc, giảm quân tại Ápganixtan, cái chết của trùm khủng bố Osama Bin Laden và các chiến dịch tiếp diễn chống lại al-Qaeda cùng các chi nhánh của chúng đã và đang là những động lực chính cho việc đánh giá lại các ưu tiên chiến lược của Mỹ. Những thách thức toàn cầu vẫn là nỗi ám ảnh của Mỹ. Theo Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta, những thách thức này bao gồm "mối đe dọa tiếp tục của chủ nghĩa cực đoan bạo lực, việc phổ biến các nguyên vật liệu và vũ khí giết người, các hành vi gây bất ổn của Iran và Bắc Triều Tiên, sự nổi lên của các cường quốc mới tại châu Á, những thay đổi mạnh mẽ ở Trung Đông". Thực tế là, theo DSG mới, Mỹ cảm thấy cần thiết phải tái cân bằng hướng tới khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đối với các khu vực khác, việc duy trì các khối liên minh và phát triển mạng lưới đối tác được coi là sống còn. Trong khi việc rút quân khỏi Irắc chỉ được đề cập theo tính chất bối cảnh, Trung Đông vẫn sẽ là lợi ích chủ chốt đối với Oasinhtơn. Đối với châu Âu, Mỹ tuyên bố rằng vị thế quân sự của Mỹ tại khu vực này sẽ tiếp tục thay đổi dựa theo nhu cầu an ninh của châu lục và trên cơ sở đánh giá những ưu tiên chiến lược đang nổi lên tại những nơi khác. Đối với các quốc gia châu Âu đã và đang phải thắt chặt ngân sách thì đây là một dấu hiệu cho thấy họ không thể tiếp tục kỳ vọng Mỹ trở lại vai trò trung tâm trước đây trong các hoạt động phòng thủ của châu Âu. Chiến dịch tại Libi có thể được coi là sự trải nghiệm trước những gì sắp xảy ra. Cũng nhận định về DSG mới của Mỹ, tờ “Bưu điện Băng Cốc” (Thái Lan) cho rằng chiến lược này sẽ tác động cả trực tiếp lẫn gián tiếp tới Thái Lan và các nước khác tại Đông Á. Tổng thống Mỹ Barack Obama đã nêu rõ các lực lượng vũ trang của Mỹ sẽ cắt giảm quân số và chuyển trọng tâm từ châu Âu và Trung Đông sang châu Á. Ngay lập tức, Trung Quốc cảnh báo và phản đối Oasinhtơn về vấn đề “thể hiện sức mạnh” trong khu vực. Chiến lược mới có thể khiến Lầu Năm Góc phải chấp nhận một lực lượng quân đội "nhỏ hơn". Quân số của lực lượng lục quân, thủy quân lục chiến và số tàu của hải quân sẽ giảm. Tuy nhiên, tại châu Á sẽ có thêm nhiều hơn bao giờ hết các liên minh và thỏa thuận với các nước đồng minh của Mỹ, với phần đầu tiên trong chiến lược này là lực lượng thủy quân lục chiến của Mỹ sẽ đồn trú ở miền Bắc Ôxtrâylia. Xinhgapo sẽ là một cảng của Hải quân Mỹ. Báo “Bưu điện Băng Cốc” nhận xét trong kỷ nguyên mới, Mỹ có nhiều thứ để chào mời châu Á, kể cả Trung Quốc. Mỹ có lực lượng cứu hộ siêu việt và là một siêu cường của thế giới, nước này có thể mang đến những cơ hội thương mại rất lớn cho các nước khu vực. Có thể Trung Quốc cố chỉ trích chính sách của Mỹ vì mục tiêu tuyên truyền, nhưng Bắc Kinh hiểu và cần đánh giá cao sự hiện diện lặng lẽ của Oasinhtơn tại một khu vực vốn vẫn còn tồn tại tranh chấp giữa Trung Quốc, Philíppin, Việt Nam và Đài Loan. Thùy Anh ****************************** Những thách thức lớn của Mỹ trong thế kỷ 21 Thứ hai, 10 Tháng 10 2011 dinh tuan anh .
Bài viết trên trang web của Quỹ "Heritage Foundation" (Mỹ) của cựu Bộ trưởng Hải quân Mỹ (1/2006-3/2009) Donald Charles Winter, đánh giá tình hình an ninh quốc gia của Mỹ trong thế kỷ 21 trong so sánh với thời kỳ Chiến tranh Lạnh, và chỉ ra các thách thức an ninh quốc gia khác nhau hiện nay Mỹ đang đối mặt
Từ nạn cướp biển đe dọa công dân Mỹ và thương mại thế giới trên biển Xômali đến các tổ chức khủng bố xuyên quốc gia như Al-Qaeda, cho tới các nước "cứng đầu" nắm trong tay khả năng hạt nhân như Bắc Triều Tiên. Kèm theo các mối đe dọa đó là sự phát triển của quân đội Trung Quốc và sự mất ổn định tiếp tục diễn ra ở Trung Đông. Những thách thức an ninh này chứa đựng hàng loạt mối đe dọa từ các thiết bị nổ tức thì đến các loại vũ khí hạt nhân. Hơn nữa địa điểm của các mối đe dọa đó tiếp tục thay đổi. Trọng tâm của Mỹ đã chuyển từ Ápganixtan đến Pakixtan, sau đó đến Libi trong những tuần gần đây do Mỹ có ý đồ đáp ứng các yêu cầu đang thay đổi về quân sự. Việc cắt giảm sức mạnh quân sự của Mỹ sau sự sụp đổ của Liên Xô đã làm tăng khó khăn trong việc giải quyết môi trường của mối đe dọa rộng lớn, phân tán và biến động. Sau khi Bức tường Béclin sụp đổ năm 1989, Mỹ cắt giảm 1/3 quân số và cơ cấu lực lượng của Lục quân giảm từ 18 sư đoàn xuống còn 10 sư đoàn. Hơn nữa gánh nặng giải quyết các thách thức an ninh trên toàn thế ngày càng đặt trên vai quân đội Mỹ do các nước khác thiếu khả năng quân sự và quyết tâm chính trị để hỗ trợ những nỗ lực như vậy. Thực tế, giải pháp quan trọng duy nhất đối với an ninh quốc gia của Mỹ trong thế kỷ 21 là duy trì một lực lượng quân sự có quy mô hợp lý, trang bị hùng mạnh và được huấn luyện toàn diện để có khả năng khuất phục, ngăn chặn, và nếu cần đánh bại các kẻ thù khác nhau trong tương lai. Chiến lược Quốc phòng của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh Nửa cuối thế kỷ 20, quân đội Mỹ tập trung nỗ lực vào Liên Xô và Khối Vácsava. Phát triển lực lượng, bố trí các đơn vị và đầu tư cho các hệ thống vũ khí đều dựa trên cơ sở đánh giá mối đe dọa từ Liên Xô. Liên Xô đầu tư rất lớn cho lực lượng vũ trang và đạt được các công nghệ hiện đại cả trên vũ trụ, trên không, trên biển và trên bộ, như đưa vệ tinh nhân tạo Sputnik lên quỹ đạo trái đất tháng 10/1957. Thật may mắn, mặc dù một số nỗ lực tình báo cho phép Liên Xô thu thập công nghệ của Mỹ và hầu hết các hệ thống vũ khí của họ được phát triển trong nước, nhưng tiến trình triển khai, phát triển và quy trình của Liên Xô mất thời gian khá dài, từ đó tạo cơ hội cho Mỹ và phương Tây nỗ lực hiện đại hóa quân đội. Các đánh giá chính xác mối đe dọa trở thành cơ sở cho quân đội Mỹ hoạch định tác chiến và tăng ngân sách. Ngành công nghiệp và các cơ sở nghiên cứu của Chính phủ Mỹ phối hợp chặt chẽ với nhau để duy trì ưu thế về số lượng vũ khí, một phần do tiến trình triển khai và phát triển vũ khí của Liên Xô khá chậm. Nhờ nỗ lực ngân sách và phát triển công nghệ, Mỹ dần dần xóa bỏ khoảng cách công nghệ với Liên Xô. Mỹ cũng tin tưởng và nắm chắc các mối đe dọa có thể xuất hiện ở đâu. Sự ra đời của Hiệp ước Vácsava, bố trí lực lượng của tổ chức quân sự này và lịch sử đặc điểm địa lý quân sự giúp Mỹ đánh giá chính xác những nơi có khả năng xảy ra xung đột. Trên cơ sở xác định các vị trí đó, Mỹ và NATO triển khai lực lượng và các căn cứ quan trọng ở châu Âu cũng như nhiều nơi khác xung quanh "Lá chắn Thép" nhằm đối phó với những hành động thù địch của Liên Xô và Khối Vácsava. Mỹ coi Liên Xô là mối đe dọa bởi Liên Xô có lực lượng quân sự hùng mạnh, được trang bị các loại vũ khí hạt nhân nhằm phá hủy thế giới tự do nhiều lần, và dưới sự kiểm soát của giới lãnh đạo độc quyền có ý đồ đánh bại phương Tây. Chiến lược của Mỹ trong Chiến tranh Lạnh đã giúp lực lượng Mỹ và NATO ngăn chặn cuộc tấn công của Khối Vácsava. Cuối cùng, công nghệ Mỹ, cộng với sự ủng hộ mạnh mẽ Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược của Tổng thống Ronald Reagan đã khuất phục Tổng Bí thư Mikhail Gorbachev ngừng tiếp tục Chiến tranh Lạnh. Gorbachev tuyên bố trước Bộ Chính trị rằng Liên Xô có nguy cơ "bị lôi kéo vào một cuộc chạy đua vũ trang vượt quá khả năng của mình". Tác động của phổ biến và phát triển công nghệ Chưa có dấu hiệu nào cho thấy tình hình an ninh biến động và phức tạp hiện nay sẽ giảm trong tương lai gần. Đây là một giai đoạn thay đổi lớn và sự thay đổi này được thúc đẩy một phần do cuộc cách mạng công nghệ, trong đó đặc biệt là sự bùng nổ của Internet. Các phương tiện truyền thông xã hội đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển nhanh chóng của "Mùa Xuân Arập" từ Tuynidi đến Ai Cập và Libi trong nhiều tháng. Đồng thời phe đối lập đã sử dụng Internet để phát động biểu tình chống Tổng thống Hosni Mubarak tại Aicập, Al-Qaeda sử dụng Internet để tuyển mộ những kẻ khủng bố mới, huấn luyện chúng và phối hợp hành động. Việc sử dụng Internet của Al-Qaeda trở thành một nhân tố quan trọng để tồn tại mặc dù Mỹ và đồng minh đã phát động cuộc chiến chống khủng bố kéo dài gần 10 năm. Từ lâu, Mỹ cho rằng công nghệ kiểm soát và chỉ huy của Mỹ tạo ra ưu thế hơn hẳn công nghệ của tất cả các nước, trừ một số đối thủ cạnh tranh. Nhưng Internet đã ảnh hưởng rất lớn đến ưu thế này bởi vì nó cho phép các nhân tố phi nhà nước, trong đó có Al-Qaeda, sử dụng các công nghệ thông tin liên lạc và kỹ thuật số hiện đại với chi phí rất nhỏ. Thật đáng tiếc, Internet không phải công nghệ duy nhất đã được phổ biến rộng rãi. Thậm chí tại thế giới thứ ba nghèo khổ, sự phát triển các hệ thống vũ khí hiện đại, đặc biệt các loại vũ khí hạt nhân và tên lửa đã phát triển mạnh. Công nghệ tên lửa của Bắc Triều Tiên phát triển nhanh chóng và gây nỗi lo ngại lớn cho Mỹ. Năm 1998, phát hiện kịp thời sự phát triển đó, Ủy ban Đánh giá Mối đe dọa từ Tên lửa Đạn đạo của Mỹ nhấn mạnh: "Hiện nay, một nước muốn phát triển các loại tên lửa đạn đạo và các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt có thể tranh thủ sự trợ giúp kỹ thuật rất lớn từ các nguồn bên ngoài". Ủy ban này sợ rằng Mỹ có thể giảm bớt các chương trình phát triển tên lửa mới. Mặc dù Liên Xô chỉ dựa vào việc phát triển các công nghệ quan trọng ở trong nước, một tiến trình mất rất nhiều thời gian, nhưng các nước mới muốn tham gia cộng đồng tên lửa đạn đạo có thể bỏ qua nhiều bước phát triển đó bằng cách mua công nghệ từ các nước khác. Chấm dứt khả năng dự báo Những thay đổi gấp nhiều lần về công nghệ và thái độ xã hội đã tạo nên một môi trường đe dọa ngày càng khó dự đoán. Mỹ không thể biết chắc chắn nước nào sẽ là mối đe dọa tiếp theo chống lại Mỹ và không thể biết nguồn gốc mối đe dọa đó hoặc các khả năng quân sự có thể được sử dụng. Người ta cho rằng khó khăn này sẽ kéo dài một số năm. Trước kia có ai dự đoán Mỹ can dự Xômali hoặc các nước Bancăng mà ít nghĩ tới Irắc và Ápganixtan? Ai có thể dự đoán Thổ Nhĩ Kỳ không cho phép lực lượng Mỹ sử dụng lãnh thổ để tiến hành chiến dịch "Bão Táp Sa mạc" hoặc phản ứng của Tây Ban Nha trước các cuộc tấn công khủng bố tại Mađrít? Ai có thể dự đoán Mùa Xuân Arập và sự can dự của NATO tại Libi? Trong Chiến tranh Lạnh, Mỹ cảm thấy tự tin vào các nỗ lực chuẩn bị để chống lại mối đe dọa Xôviết. Các khả năng quân sự được phát triển trong thời gian đó và tổ chức lực lượng của Mỹ đã ngăn chặn hiệu quả Liên Xô. Kế hoạch lực lượng của Mỹ hoàn toàn minh bạch và có thể được ủng hộ trước Quốc hội và được công khai trước công chúng Mỹ vì nó dựa trên cơ sở phát triển nhưng chủ yếu nhờ các khả năng từ Liên Xô. Quốc hội và công chúng Mỹ nhận thức rõ mối đe dọa của Liên Xô và ủng hộ tăng ngân sách để xây dựng sức mạnh quân sự và thực hiện các chương trình hiện đại hóa quân sự, từ đó dẫn đến sự sụp đổ của Bức tường Béclin năm 1989. Các chiến lược trong kỷ nguyên không chắc chắn Tình hình hiện nay rất khác, Mỹ cần tiếp tục cuộc chiến chống khủng bố tại Irắc, Ápganixtan và bất cứ nơi nào xuất hiện Al-Qaeda và tay chân của chúng. Mỹ cần kiểm soát cướp biển ở biển Xômali, khuyên can và ngăn chặn Iran, Bắc Triều Tiên và các nước cứng đầu khác gây hành động thù địch, đồng thời tiếp tục ghi nhớ rằng Nga vẫn có hơn 10.000 đầu đạn hạt nhân và Trung Quốc đang tiếp tục hiện đại hóa quân đội và thách thức các nước láng giềng khắp khu vực Biển Đông. Nhưng hiện nay quân đội Mỹ ít hơn lực lượng trong thời gian Chiến tranh Lạnh và Chính phủ Mỹ dường như cắt giảm các nhu cầu của quân đội cho các mục tiêu ngân sách. Thực tế, hiện nay các mối đe dọa phát triển với tốc độ nhanh chóng, do đó Mỹ cần chuẩn bị trước và không chờ đợi các thách thức nổi lên. Quân đội Mỹ cần có quy mô hợp lý để có thể hành động kịp thời với mọi tình huống và được trang bị mạnh để thực hiện hàng loạt nhiệm vụ. Tốc độ mà các thách thức có thể nổi lên và các loại vũ khí nằm trong tay các kẻ thù của Mỹ làm cho bất cứ chiến lược nào cũng có khả năng bị vô hiệu hóa. Mặc dù việc xây dựng quân đội Mỹ trong thời gian Chiến tranh Thế giới thứ II chứng tỏ các khả năng đặc biệt của Mỹ, nhưng các nước thách thức Mỹ trong tương lai có thể không mất nhiều năm cảnh báo để cho phép Mỹ chuẩn bị. Mỹ cũng không thể có các nước đồng minh như Anh cách đây 70 năm, có thể chống lại kẻ thù mà không cần Mỹ. Các quân đội hiện đại cần huấn luyện toàn diện. Họ không thể được hiện đại hóa nhanh chóng bằng cách tăng số lượng tân binh theo lệnh nhập ngũ và chỉ được huấn luyện vài tuần lễ. Sử dụng hiệu quả các loại vũ khí hiện đại đòi hỏi công tác chuẩn bị và huấn luyện toàn diện. Tương tự, bản thân các loại vũ khí đòi hỏi nhiều năm mới có thể phát triển và sản xuất. Hơn nữa, Mỹ ngày càng lệ thuộc các nước cung cấp các nhiên liệu thô và sản xuất hầu hết các sản phẩm. Trung Quốc và nhiều nước khác từ lâu đã vượt Mỹ trên nhiều lĩnh vực sản xuất quan trọng. Khả năng của Mỹ để được coi như một cái nôi của dân chủ đã giảm sút trong những năm gần đây và có thể bị nhiều nước khác thách thức. Thậm chí, việc cắt giảm tạm thời các khoản đầu tư quốc phòng có thể gây ảnh hưởng bất lợi cho ngành công nghiệp của Mỹ và làm ảnh hưởng sâu sắc đến tương lai. Trong thế kỷ 21, biện pháp quan trọng sống còn duy nhất đối với an ninh quốc gia của Mỹ là duy trì một lực lượng có quy mô hợp lý, được huấn luyện toàn diện và được trang bị các loại vũ khí hiện đại để có khả năng khuất phục, ngăn chặn và nếu cần đánh bại các kẻ thù trong tương lai. Mỹ sẽ không thể dự đoán địa điểm, bản chất, thời gian của thách thức quân sự tiếp theo. Mỹ không thể cho rằng tương lai sẽ giống như những can dự của Mỹ tại Irắc và Ápganixtan, càng không thể như cuộc đối đầu với Liên Xô hoặc các nước ủy nhiệm của Liên Xô. Do đó, Mỹ phải chuẩn bị quân đội cho thế kỷ 21. Muốn vậy, Quốc hội và Tổng thống phải đáp ứng các đề nghị ngân sách của Lầu Năm Góc. Lầu Năm Góc cần 731 tỷ USD trong năm tài khóa 2012 và 3600 tỷ cho 5 năm tới để bảo đảm sẵn sàng chiến đấu và tăng cường các khả năng; bảo đảm lực lượng Mỹ có thể đối phó với hàng loạt mối đe dọa trên thế giới. Quân đội Mỹ cần được tổ chức, huấn luyện và trang bị để khuất phục, ngăn chặn và cần thiết đánh bại tất cả các kẻ thù; đầu tư cho các tài sản cơ động trên không và trên biển cần thiết để nhanh chóng đối phó với các thách thức ở khắp nơi trên thế giới. Những tài sản này sẽ mất nhiều năm để phát triển và sản xuất. Mỹ không thể chờ đợi đến khi các mối đe dọa tương lai phát triển mới chuẩn bị; đầu tư cho các công nghệ cần thiết để tiếp tục đối phó với các mối đe dọa. Phát triển công nghệ và sử dụng ngày càng tăng các công nghệ đòi hỏi một chiến lược đầu tư lâu dài. Kết luận Các nhà hoạch định chính sách Mỹ cần hiểu được những hạn chế của kế hoạch lực lượng được dựa trên cơ sở mối đe dọa trong một môi trường an ninh toàn cầu hiện đang thay đổi nhanh chóng và ngày càng không thể dự đoán. Quốc hội Mỹ cần tìm cách cung cấp các nguồn tài chính cần thiết. Đây không phải vấn đề xây dựng quốc gia để chống lại nước ngoài. Nó là vấn đề bảo đảm sự sống còn của Mỹ và thế giới tự do. Theo Heritage: "Adapting to the Threat Dynamics of the 21st Century” Viết Tuấn
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 8:47:03 GMT 9
Nhìn nhận lại tư thế siêu cường của nước Mỹ Thứ sáu, 08 Tháng 10 2010 Mỹ có thể đang sa sút nhưng không có nghĩa là vị thế siêu cường đang tuột khỏi tầm tay. Rõ ràng, trong các mối quan hệ quốc tế, nước Mỹ vẫn là nhân tố chủ chốt, có ảnh hưởng và chi phối nhất. Đề cập đến vấn đề này, tạp chí Newsweek số ra gần đây đăng bài phân tích với nội dung như sau.
Giống như sức nóng của mùa Hè, nỗi lo sợ về sự suy sụp sắp xảy ra của nước Mỹ đang đè nặng lên Oasinhtơn vào những ngày này. Liệu Mỹ có đánh mất sức mạnh của mình với tư cách là một siêu cường không? Ngay cả Tổng thống Obama cũng không khỏi có cái nhìn ảm đạm. Obama đã hét lên tại một cuộc mít tinh chính trị vào đầu tháng 8: “Người Mỹ sẽ không bằng lòng với vị trí số hai”. Vậy vị trí thứ 11 thì sao? Đó là thứ bậc của Mỹ trong danh sách 100 nước tốt nhất trên thế giới của Newsweek, không có mặt ngay cả trong top 10. Và khi cuộc suy thoái tồi tệ nhất kể từ những năm 1930 trở nên trầm trọng, cùng với các cuộc chiến tranh ở Ápganixtan và Irắc, không có một thắng lợi nào về lập pháp – cải cách tài chính! Y tế! – dường như có thể đưa đất nước này thoát khỏi tình trạng chán nản.
Hiện nay Tổng thống đang chuyển hướng sự chú ý sang việc cải thiện hệ thống giáo dục. Bộ trưởng Giáo dục của Obama, Arne Duncan, đã nói vào đầu tháng 8: “Chúng ta không phát triển trong khi những nước khác vượt qua chúng ta”, khi đề cập đến một cột mốc đáng chán nản khác: bản báo cáo của Ủy ban các trường Đại học Mỹ (College Board) đã cho thấy một sự suy giảm “đáng báo động” số những người Mỹ trưởng thành trẻ tuổi đã hoàn thành chương trình đại học; đã từng là nước dẫn đầu trên thế giới, Mỹ hiện nay đứng thứ 12 trên thế giới nếu xét theo thước đo đó. Duncan cảnh báo: “Đất nước đào tạo chúng ta tốt hơn ngày hôm nay sẽ cạnh tranh tốt hơn vào ngày mai”. Đó không chỉ là nói quá. Một nghiên cứu gần đây của McKinsey&Co chỉ ra rằng khoảng cách đang gia tăng về thành tựu giáo dục giữa Mỹ và các nước dẫn đầu khác “tương đương với một cuộc suy thoái quốc gia lâu dài về kinh tế - một cuộc suy thoái lớn hơn rất nhiều so với cuộc suy thoái trầm trọng mà đất nước hiện nay đang trải qua”. Theo danh sách của Newsweek, về bất cứ con số nào thuộc các chỉ số, Mỹ không phải là một nước nổi trội hơn tất cả các nước khác như nước này đã từng một thập kỷ trước đây. James Manyika, Giám đốc Viện McKinsay toàn cầu nói: “Về các nền tảng kinh tế chẳng hạn như sự tăng trưởng GDP, tiêu dùng hộ gia đình, sản xuất công nghiệp và thương mại, 10 năm trước đây Mỹ đứng đầu trên hầu hết các chỉ số”. Ngày nay, Mỹ chỉ nằm trong 4 nước đứng đầu trong một số lĩnh vực này, và Mỹ đã rơi xuống 4 nước cuối cùng về Nghiên cứu và phát triển (R&D).
Nhiều chuyên gia lưu ý rằng Trung Quốc và Đức, cả hai đều là các cường quốc xuất khẩu lớn, đã phát triển mạnh về kinh tế, trong khi Mỹ đương đầu với cái mà một số người lo sợ rằng có thể là sự xuống dốc theo kiểu Nhật Bản thành giảm phát và sự tăng trưởng chậm chạp trong dài hạn. Trung Quốc, được cho là siêu cường của tương lai, hiện nay có tỷ lệ các sản phẩm có bằng sáng chế cao hơn nhiều so với Mỹ, cũng như có số kỹ sư tốt nghiệp đại học cao hơn. Và do hầu hết chi tiêu vào R&D của Mỹ xuất phát từ một số ít các tập đoàn đa quốc gia của Mỹ, một số chuyên gia lo ngại các công ty cuối cùng sẽ chuyển vốn của họ sang Trung Quốc. Manyika nói: “Bức tranh về Mỹ đang nổi lên là con đường ở phía trước 10 năm trước đây và ngày nay vẫn ở phía trước, nhưng không còn quá xa ở phía trước”.
Ngoài ra, Mỹ vẫn chưa phục hồi từ những cú giáng nghiêm trọng vào tầm cỡ của Mỹ bởi gần một thập kỷ tranh luận về chính sách. Khi Obama chưa bao giờ biết chán việc nhắc nhở công chúng Mỹ - đang ngày càng ít lắng nghe xét theo tỷ lệ ủng hộ ông - rằng ông thừa kế một nhiệm vụ hết sức khó khăn: mớ hỗn độn lớn do George W.Bush bỏ lại đằng sau. Đầu tiên là có sự đổi hướng các nguồn lực quân sự và sự chú ý từ Ápganixtan sang Irắc – một cuộc chiến tranh và chiếm đóng làm kiệt quệ và không đúng hướng mà nhiều người tin rằng đáng ra không bao giờ được xảy ra. Sau đó Mỹ đã trải qua một giai đoạn dài bất cẩn về tài chính, điều tiết mà đã góp phần vào sự sa sút tồi tệ hơn bao giờ hết kể từ cuộc Đại suy thoái. Cuối cùng, Oasinhtơn đã bỏ lỡ cơ hội lãnh đạo về vấn đề biến đổi khí hậu. Tờ Washington Post đã viết hồi tháng vừa qua, “thập kỷ những con số không” thực sự nghĩa là không có gì: những năm 2000 là “một thập kỷ đã mất”, với sản lượng kinh tế tăng ở mức độ thấp nhất so với bất cứ thập kỷ nào kể từ những năm 1930 và tốc độ tăng trưởng công ăn việc làm chưa từng thấy là bằng không. Không còn nghi ngờ gì nữa, những nước khác đã bắt đầu đuổi kịp Mỹ một cách nhanh chóng.
Cũng không còn ai có thể xem Mỹ như là một kiểu mẫu nữa. Bất chấp sự say mê phấn khích ban đầu bùng lên khắp thế giới đối với việc Obama được bầu là tổng thống – đã từng có ai đoạt giải Nobel Hòa bình với ít nỗ lực hơn chưa? – những người chỉ trích hiện nay quay trở lại phàn nàn rằng Mỹ không còn là tâm điểm của tri thức, hay ngôi sao dẫn đường cho cách ứng xử. Thomas Wright thuộc Hội đồng về các vấn đề toàn cầu ở Chicago mới đây đã viết trong Tạp chí Financial Times: “Trong 70 năm qua, Mỹ đã tìm kiếm việc lãnh đạo và mở rộng một trật tự thế giới cởi mở và dân chủ. Thời đại mở rộng này đang đi tới kết thúc. Trung Quốc không cho thấy một dấu hiệu dân chủ hóa nào khi nước này phát triển thịnh vượng hơn. Cuộc khủng hoảng tài chính đã làm suy yếu sức cám dỗ của các thị trường mở cửa”.
Vì vậy, đúng là Mỹ rõ ràng đã trải qua sự suy giảm ở một chừng mức nào đó, tương đối so với các nước khác, và đã đánh mất uy tín của mình. Nhưng ngay cả bị giáng cho nhừ tử thì sức mạnh của Mỹ cũng mau phục hồi hơn là những người phản đối công nhận. Và hệ thống quốc tế phụ thuộc vào sức mạnh của Mỹ với tư cách là người làm bình ổn trung tâm cũng vậy. Điều mà những người phản đối thường bỏ qua là thực tế Mỹ thực sự không có đối thủ. Chắc chắn rồi, Đức là một nước xuất khẩu mạnh; nhưng liệu nước này lúc nào đó sẽ lại có thể là một cường quốc toàn cầu hay không? Ngay cả người Đức cũng không muốn điều đó – họ không có một lực lượng quân sự đáng nói đến, và không ai muốn họ xây dựng một lực lượng quân sự như vậy. Nga thì sao? Đúng, nếu người ta nghĩ rằng các công ty do KGB điều hành và việc ám sát có tổ chức những người chống đối rốt cuộc là một mô hình cai trị tốt. Còn Nhật Bản? Đã từ lâu kể từ khi Nhật Bản cam chịu trở thành Thụy Sĩ của châu Á, giàu có và dễ chịu nhưng hoàn toàn trung lập về mọi việc (có lẽ là trừ việc săn cá voi). Trong khi đó Liên minh châu Âu đang làm tất cả những gì mà nó có thể để gắn kết lại với nhau, do những áp lực thị trường lên đồng tiền gây phiền toái của liên minh này. Còn Trung Quốc, một sự lựa chọn ưa thích của mọi người về đối thủ cạnh tranh trong tương lai, thì sao? Một cuốn sách gần đây, “Sự đồng thuận Bắc Kinh: Mô hình của Trung Quốc sẽ chi phối thế kỷ 21 như thế nào?”, lập luận rằng Bắc Kinh đang tiến tới kế tục “sự đồng thuận Oasinhtơn” – công thức hậu Chiến tranh Lạnh cho các thị trường mở cửa đã thất bại trong cuộc khủng hoảng tài chính. Nhưng mô hình chủ nghĩa tư bản chuyên quyền của Trung Quốc, thành công khi ở trong nước, khó có thể là thứ gì đó mà phần lớn các nước khác muốn ganh đua, và nó có thể rất gần đạt tới đỉnh điểm. Học giả John Ikenberry của Princeton, tác giả của cuốn “Thủy quái tự do: Những nguồn gốc, khủng hoảng và sự biến đổi của hệ thống Mỹ” nói: “Rõ ràng là Trung Quốc năng động hơn và sẽ cạnh tranh với Mỹ theo nhiều cách khác nhau, nhưng không thực sự lôi kéo được các đồng minh, và đang tạo ra tình trạng bất ổn ở châu Á mà thậm chí sẽ đưa Mỹ vào sâu hơn bên trong khu vực này”. Ikenberry có đánh giá khác thường về ảnh hưởng toàn cầu: Ông đếm xem bao nhiêu đồng minh mà một nước giành được trong các thập kỷ. Ông nói rằng bắt đầu vào năm 1946, Mỹ đã tăng thêm các đồng minh – các nước mà Mỹ có kiểu quan hệ an ninh theo cách nào đó – cứ mỗi 5 năm hoặc hơn và hiện nay có tổng cộng 62 nước đồng minh, kể cả nhiều nước thuộc khối Liên Xô trước đây. (Oasinhtơn cũng có một quan hệ đối tác chiến lược với Ấn Độ, một cường quốc thế giới khác). Ikenberry nói rằng trong cùng thời kỳ đó, Trung Quốc chưa bao giờ quản lý được hơn hai đồng minh (cho dù Trung Quốc có rất nhiều “bạn đường”, những nước nằm dưới sự thống trị về vốn đầu tư của Trung Quốc). Ikenberry nói: “Để Trung Quốc thực sự là một đối thủ cạnh tranh toàn cầu ngang hàng, người ta phải nghĩ đến việc sẽ có những nước rời bỏ Mỹ và bắt đầu xây dựng mối quan hệ an ninh với Trung Quốc”.
Hãy thử nhìn lại bản danh sách của Newsweek, những nước “tốt nhất” có xu hướng là những nước nhỏ, đồng nhất và tương đối vô hại: Phần Lan (Số 1), Thụy Sĩ, Thụy Điển. Tất cả là những nơi tuyệt vời, nhưng họ là những nước hầu như không có vai trò địa chính trị đáng nói nào và sẽ không bao giờ có. Chỉ là họ quá nhỏ bé. Tuy nhiên, nếu xét về phạm trù những nước “lớn” – có nghĩa là quan trọng – Mỹ vẫn dễ dàng vượt lên trước Trung Quốc về mỗi chỉ số chính, bao gồm sự năng động kinh tế, giáo dục, y tế và “môi trường chính trị”. Những gì mà các con số đó không hoàn toàn chỉ ra là sự thỏa hiệp không được nói ra trong hệ thống toàn cầu, một cuộc mặc cả lớn kéo dài dai dẳng trong một nửa thế kỷ: nghĩa là người châu Âu và châu Á (ngoại trừ Trung Quốc) sẽ tán thành việc từ bỏ sức mạnh quân sự thực sự và sự thống trị chiến lược để đổi lấy việc thừa nhận (một lần nữa là ngấm ngầm) rằng Mỹ sẽ đóng vai trò đó. Họ chọn cách này để duy trì các thệ thống phúc lợi xã hội hào phóng của họ và duy trì mức sống cao theo kiểu McKinsey của họ.
Lúc này gạt sang một bên cuộc xâm lược Irắc. Mỹ chi vào phòng thủ nhiều hơn phần còn lại của thế giới công nghiệp cộng lại, không phải bởi vì Mỹ vốn là một nước quân sự, mà bởi vì Mỹ là người thực thi của hệ thống quốc tế. Sức mạnh quân sự của Mỹ che phủ lên mọi khu vực trên hành tinh này, kiềm chế các phe tham chiến và ngăn chặn các cuộc chạy đua vũ trang nổi lên từ Đông Á đến Mỹ Latinh. Đổi lại, điều đó thúc đẩy sự toàn cầu hóa tiến triển, ngay cả vào những thời điểm khó khăn đối với nền kinh tế thế giới. Ngoại trừ Irắc, cơ sở hạ tầng bị che đậy này của sức mạnh Mỹ chỉ thỉnh thoảng mới được công chúng nhận thấy, trong cuộc cứu nạn sóng thần hay trong khả năng độc nhất của Mỹ đem lại sự hỗ trợ về không vận và hậu cần cho những điểm nóng như Timo Leste hay Xuđăng. Kể từ sự kiện 11/9, Lực lượng tác chiến đặc biệt của Mỹ đang ngày càng hoạt động như là đội đặc nhiệm SWAT toàn cầu, lặng lẽ băng qua các biên giới để loại bỏ những nhóm khủng bố.
Vấn đề lớn mới la liệu Oasinhtơn có thể duy trì vai trò cha đỡ đầu toàn cầu này với nền kinh tế không còn thống trị hay không. Một yếu tố then chốt khác của sức mạnh của Mỹ là vai trò độc nhất của đồng USD. Mỹ là nước duy nhất trên thế giới có thể rơi vào cảnh nợ nần mà không lo sợ vỡ nợ hay một sự sụp đổ tiền tệ bởi vì hầu hết các nước khác đều giữ đồng USD như đồng tiền dự trữ của họ. Những nước đó tất nhiên phải tài trợ cho khoản nợ của Mỹ. Liệu điều đó có thể kéo dài bao nhiêu lâu? Đủ kỳ quặc, bất chấp mọi sự kiêu căng xuất phát từ Bắc Kinh, Béclin và Mátxcơva kể từ cuộc khủng hoảng tài chính, hầu như không có gì thay đổi trong các mối quan hệ cũ. Trung Quốc, Nhật Bản và các nước châu Á giàu có khác tiếp tục mua trái phiếu Kho bạc của Mỹ (một lí do là lãi suất vẫn ở mức rất thấp, bất chấp sự thâm hụt khổng lồ của Mỹ).
Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy sự nổi dậy hòa bình chống lại sự bá quyền của Mỹ đã bắt đầu. Obama và Ngoại trưởng của ông, Hillary Clinton, đã đụng phải sự nổi dậy này tại hội nghị khí hậu toàn cầu vào tháng 12/2009, khi họ xen vào một cuộc họp riêng do các quan chức Trung Quốc sắp đặt, những người này có ý định thuyết phục Ấn Độ, Braxin và Nam Phi cản trở một hiệp ước. Sử dụng một số biện pháp ngoại giao năng nổ, Obama và Clinton đã xoay xở để ra về với thành công một phần trong việc giảm những khí thải gây hiệu ứng nhà kính. Một nỗ lực tương tự thoát khỏi sức mạnh và ảnh hưởng của Mỹ diễn ra vào đầu năm nay khi hai đồng minh của Mỹ, Thổ Nhĩ Kỳ và Braxin, để sắp đặt một sự khai thông có tính độc lập đối với Iran về chương trình hạt nhân bất hảo của nước này, làm Oasinhtơn lúng túng. Bà Clinton nói: “Chúng ta không sống trong một thế giới nơi Mỹ gần như độc quyền về thông tin và mọi phương tiện quyền lực”.
Michael Mandelbaum, tác giả của một cuốn sách mới có tựa đề “Siêu cường tiết kiệm: sự lãnh đạo toàn cầu của Mỹ trong kỷ nguyên kẹt tiền mặt” tranh luận rằng Mỹ sẽ phải giảm sự hiện diện của mình trong các vấn đề quốc tế. Ikenberry nói: “Câu chuyện này ít nói về một nhà nước đang nổi lên để tiếp quản địa vị của Mỹ, mà nói về sự suy giảm khả năng của tất cả các nhà nước chủ yếu điều hành hệ thống quốc tế. Đó là làm giảm bớt sự lãnh đạo từ trung tâm”. Sức mạnh của Mỹ có thể suy giảm, nhưng còn lâu mới mất đi. Và hệ thống toàn cầu mà Mỹ phần lớn đã tạo ra bằng hình tượng của chính mình tiếp tục được hầu hết các nước ủng hộ - thậm chí là những “nước tốt nhất” trong số họ./. Nguồn: Newsweek
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Mar 19, 2012 7:16:23 GMT 9
CUỘC CHIẾN TOÀN CẦU CHỐNG KHỦNG BỐ: TỪ GIẢI PHÓNG ĐẾN ÁM SÁT Tháng Ba 11, 2012 Đã khá lâu Hoa Kỳ đã bước vào thập kỷ thứ hai, thời kỳ Ngũ Giác Đài đã mệnh danh “kỷ nguyên xung đột triền miên.”[1] Cuộc chiến trước đây đã được biết dưới tên gọi “Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố’,”[2] ngày một có vẻ “manh mún” và “khuếch tán.”[3] Không ghi được chiến thắng, nhưng vẫn không sẵn sàng nhận thất bại, lực lượng quân sự của Hoa Kỳ đã rút khỏi Iraq. Người Mỹ cũng đang tìm cách rời bỏ Afghanistan, nơi họ hình như không có triễn vọng kết thúc tốt đẹp như hằng mong muốn. Trong nhiều xứ khác — Pakistan, Libya, Yemen, và Somalia — lực lượng Hoa Kỳ hiện đang bận rộn mở nhiều mặt trận mới. Theo tường trình báo chí, Hoa Kỳ còn đang thiết lập nhiều căn cứ phi cơ không người lái bí mật bên trong hoặc gần Horn of Africa và Bán đảo Á Rập. Chiến tranh, do đó, chắc sẽ mở rộng nhiều hơn nữa. Trong một bài đăng trên trang đầu, báo The New York Times đã mô tả các kế hoạch tăng cường sự hiện diện dày đặc hơn của lực lượng hành quân biệt kích Hoa Kỳ trên toàn cầu. Quân đội Mỹ cũng đang gấp rút cải biến các tàu đổ bộ hải quân thành những căn cứ nổi di động đến gần tiền tuyến – một căn cứ xuất phát lưu động dành cho các cuộc hành quân còm-măng-đô hay rà quét bom mìn trong vùng Vịnh Ba Tư – thêm một dấu hiệu tăng cường và mở rộng cuộc chiến. Trong khi một vài căn cứ được đóng cữa, một số mới lại xuất hiện, câu chuyện chiến tranh, do đó, ngày một thêm phức tạp khó lường. Nhìn gần và nhìn kỷ, cuộc “chiến” hình như đã đánh mất vóc dáng, hình thù. Tuy nhiên, nếu lùi lại vài bước, mẫu mực quan trọng ũng đã bắt đầu ló dạng. Những gì sau đây chỉ là một nổ lực sơ bộ để thẩm định Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố. Cuộc chiến tạm thời được xem như trận đấu với ba hiệp. Mặc dù rất có thể sẽ còn nhiều hiệp phụ, ở đây chỉ cần lưu ý ba hiệp chúng ta đã và đang trải nghiệm cho đến nay. KỶ NGUYÊN RUMSFELD Hiệp 1: Giải Phóng. Hơn bất cứ ai, bất cứ tướng lãnh nào, và ngay cả chính tổng thống, Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld đã giữ vai trò áp đảo trong thời kỳ đầu của cuộc chiến. Được tâng bấc quá đáng, uy tín được thổi phồng, và được hâm mộ, ít ra trong mắt câu lạc bộ tân bảo thủ, như một Bộ Trưởng Chiến Tranh tài ba, Rumsfeld cực kỳ tin tưởng, trong chiến tranh, tốc độ là chìa khóa quyết định thành công. Ông đã dốc toàn lực hậu thuẩn hình thái chiến tranh chớp nhoáng cơ sở trên công nghệ cao của Mỹ. Rumsfeld thường nhấn mạnh, lực lượng Hoa Kỳ thông minh và nhanh nhẹn hơn bất cứ đối thủ nào. Sử dụng quân lực trong những phương cách tối đa hóa các đặc tính vừa nói là bảo đảm thắng lợi. Từ được báo chí lựa chọn để mô tả ý niệm nầy là “sốc và kinh hoàng.”[4] Không ai tin tưởng ở “sốc và kinh hoàng” hơn Rumsfeld. Thiết kế cuộc hành quân Operation Enduring Freedom, phát động trong tháng 10-2001, và Operation Iraqi Freedom, bắt đầu vào tháng 3-2003, đã phản ảnh lòng tin ấy. Trong mỗi trường hợp, chiến dịch khởi động đầy hứa hẹn, với quân Mỹ đã giáng những cú đấm thần tốc và đầy ấn tượng. Tuy nhiên, trong cả hai cuộc hành quân, họ đều không thể thắng hẳn đối phương, hay trong thực tế, ngay cả không nhận diện được ai là kẻ thù của họ. Không may cho Rumsfeld, các thành phần “khủng bố” đã từ chối luật chơi của ông, và lực lượng Mỹ đã chứng tỏ ít thông minh và nhanh nhẹn hơn là lợi thế kỷ thuật sẵn có — và guồng máy “quan hệ quần chúng”, hay đúng hơn “đổi trắng thay đen” của họ đã chứng minh điều đó. Thực vậy, khi bị quấy rối bởi các nhóm trỗi dậy và các nhóm thánh chiến đó đây, quân đội Mỹ đã tỏ ra chậm chạp đáng ngạc nhiên trong cách ứng phó. Ở Afghanistan, Rumsfeld đã để chiến thắng vuột khỏi tầm tay. Ở Iraq, phương cách quản lý cuộc chiến sai lầm của ông đã buộc Hoa Kỳ phải trực diện với thất bại hoàn toàn. Cấp lãnh đạo Hoa Kỳ trước đó đã nuôi hy vọng “giải phóng” (và cố nhiên khống chế) thế giới Hồi giáo sau một chuổi tấn công gọn ghẽ chóng vánh. Nhưng những gì Bush nhận được là hai cuộc tranh hùng khó khăn và dài lâu. Vào cuối năm 2006, chiến lược “sốc và kinh hoàng” đã hoàn toàn thất bại. Bị dân Mỹ và quân lực bỏ lại phía sau quá xa, Tổng Thống Bush rút cuộc đã mất hết tin tưởng ở chiến lược của vị Bộ Trưởng Quốc Phòng của mình. Kết quả cuối cùng, Rumsfeld đã bị thay thế. Hiệp 1 đã chấm dứt, và người Mỹ đã phải bối rối và chịu thua điểm. KỶ NGUYÊN PETRAEUS Hiệp 2: Bình Định. Đến phiên Tướng David Petraeus. Hơn bất cứ ai, dù quân sự hay dân sự, Petraeus đã giữ vai trò áp đảo trong Hiệp 2 cuộc Chiến Chống Khủng Bố. Hiệp hai bắt đầu với ít kỳ vọng hơn. Giấc mơ giải phóng hay khống chế không còn nữa. Các tiên đoán thắng lợi chớp nhoáng cũng không còn. Giờ đây, Hoa Kỳ phải bằng lòng với các mục tiêu khiêm tốn hơn nhiều trong khi vẫn rêu rao đang thắng lợi. Thực ra, chiến lược của Petraeus giờ đây chỉ nhằm vãn hồi một bề ngoài trật tự trong các xứ đã rơi vào hỗn độn, hậu quả của Hiệp 1. Trật tự có thể cho phép Hoa Kỳ tự tháo gỡ trong khi vẫn làm ra vẻ đã đạt được các mục tiêu chính sách. Đó chỉ là định nghĩa thực tế của thắng lợi trong chiến lược mới. Tên gọi chính thức Petraeus dành cho chiến lược là “chống nổi loạn” – counterinsurgency, hay COIN. Thay vì tìm cách đánh bại kẻ địch, COIN đã cố gắng đem lại một thứ quốc gia-nhà nước (nation-state), có thể tồn tại vất vưởng và ổn định tạm bợ. Đây là mục tiệu ấn định của đợt dấy lên hay tăng cường (surge), ở Iraq, theo lệnh của T T George W. Bush vào cuối năm 2006. Dưới sự lèo lái của Petraeus, bạo lực trong xứ đã nhanh chóng giảm bớt. Liên hệ của hai sự kiện mang tính nhân quả hay chỉ trùng hợp ngẫu nhiên vẫn còn là một đề tài tranh luận. Tuy vậy, sự thành công biểu kiến của Petraeus đã thuyết phục vài quan sát viên chiến lược chống nổi loạn tầm cỡ toàn cầu, dưới tên gọi GCOIN, lúc đó, chọn làm cơ bản cho chiến lược an ninh quốc gia Hoa Kỳ. Họ lập luận, đây là cách tiếp cận hay chính sách chắc chắn có thể giải cứu Hoa Kỳ ra khỏi cuộc chiến chống khủng bố toàn cầu, cùng lúc đem lại một thứ chiến thắng. Thay vì dùng chiến lược “sốc và kinh hoàng” để giải phóng thế giới Hồi giáo, các lực lượng Hoa Kỳ có thể áp dụng học thuyết chống nổi loạn để bình định, dù chỉ tạm thời. Nhiệm vụ chứng minh hiệu lực hay giá trị của COIN bên ngoài Iraq được giao phó cho Tướng Stanley McChrystal, được bổ nhiệm một cách trang trọng năm 2009 vào chức vụ Tư Lệnh các lực lượng Hoa Kỳ và NATO ở Afghanistan. Báo chí ca tụng McChrystal như một Petraeus thứ hai, một ứng viên lý tưởng để lặp lại các thành tựu đã đem lại uy tín vẻ vang cho “King David.” Sự thăng tiến của McChrystal đã đến vào một thời điểm khi sự tôn sùng các tướng lãnh đang thẩm thấu Hoa Thịnh Đốn. Thay vì vũ khí công nghệ cao là yếu tố quyết định thành công như Rumsfeld đã từng tin tưởng, chìa khóa thành công lúc đó là “đặt người đúng chỗ” với “trọn quyền tự do điều hành quản lý”. Các chính trị gia lưỡng đảng đã không tiếc lời tâng bấc McChrystal là tướng tư lệnh lý tưởng cho Afghanistan. Các bình luận gia mọi sắc màu cũng tham dự hợp xướng tán dương. Vừa an vị ở Kabul, và sau khi đã quan sát tình hình, không mấy ai ngạc nhiên khi McChrystal trang trọng tuyên bố: “thành công đòi hỏi một chiến dịch chống trỗi dậy toàn diện.”[5] Chiến dịch phát động một đợt “tăng cường tấn công” hay “surge” ở Afghanistan, tương tự những gì đã từng giúp đảo ngược thế cờ ở Iraq. Tháng 12-2009, mặc dù không mấy hồ hởi tin tưởng, T T Obama đã chấp nhận yêu cầu hay tối hậu thư của tướng tư lệnh. Và quân đội Hoa Kỳ ở Afghanistan đã được tăng cường nhanh chóng. Nhưng rồi tình hình lại lúc một tệ dần. Tiến độ giảm thiểu làn sóng trỗi dậy hay cải thiện khả năng của các lực lượng an ninh Afghanistan, dù đã được đánh giá một cách rộng lượng nhất, vẫn không đáng kể. McChrystal đã đưa ra nhiều hứa hẹn, như thỏa mãn các nhu cầu căn bản của chính quyền Afghanistan, tướng tư lệnh sau đó đã không đủ khả năng thực thi. Quan hệ với T T Hamid Karzai vẫn gượng ép, căng thẳng. Quan hệ với nước láng giềng Pakistan, không mấy tốt đẹp ngay từ đầu, giờ cũng chỉ tồi tệ thêm. Cả hai chính quyền đều tỏ ra phẩn uất sâu xa trước lối ứng xử kẻ cả của người Mỹ và trước thực tế thường dân thương vong ngày một nhiều. Điều làm cho tình hình tồi tệ hơn, mặc dù những hứng khởi cuồng nhiệt ban đầu, McChrystal đã tỏ ra không thích ứng — rõ ràng không phải “đúng người đúng chỗ”. Điều đáng chú ý, ông ta đã tỏ ra không nắm vững nhu cầu phải biết tôn trọng, ít ra bề ngoài, nguyên tắc kiểm soát và lãnh đạo dân sự ở Hoa Thịnh Đốn. Và mùa hè 2010, McChrystal đã bị thay thế. Petraeus, một lần nữa, trở lại nắm quyền tư lệnh Afghanistan. Ở Hoa Thịnh Đốn, nếu không phải ở Kabul, uy tín thổi phồng quá đáng dành cho Petraeus đã giúp dập tắt ý tưởng, với ngọn nến leo lét McChrystal, chiến dịch Afghanistan rất có thể đã tuyệt vọng. Chắc chắn, người lính được ca ngợi nhất của thế hệ ông rất có thể sẽ tái diễn xảo thuật Iraq của chính ông, tái xác nhận tài ba riêng và sức sống liên tục của COIN. Nhưng thực tế không hề đơn giản. Điều kiện ở Afghanistan trong suốt thời gian trách nhiệm của Petraeus đã được cải tiến — nếu đó là từ chính xác — cũng chỉ hết sức khiêm tốn. Cuộc chiến đã tiếp diễn đúng theo “định nghĩa sa lầy của bất cứ ai.” Với giọng điệu nhẹ nhàng nhất, Thẩm định Tình báo Quốc gia 2011 đã gọi tình hình thực tế ở Afghanistan đang lâm vào “thế bí” hay “bế tắc”; ”stalemate” là từ chính thức được sử dụng. Chẳng bao lâu sau, câu chuyện “chống trỗi dậy toàn diện” — comprehensive counterinsurgency — đã thực sự phai mờ. Với định nghĩa chuẩn mực của thành công tuột xuống mức thấp hơn bao giờ hết, đề cao quyết định trao trách nhiệm chiến đấu lại cho lực lượng an ninh Afghanistan và quân đội Mỹ cuốn gói hồi hương, đã trở thành mục tiêu chiến tranh được chính thức công bố. Thêm một bài hoc và một tín hiệu mạt vận của chủ nghĩa đế quốc! Được triệu hồi về Mỹ, Petraeus đã rời quân ngũ để trở thành giám đốc CIA, trong khi chưa, hay đúng hơn, không thể hoàn thành trách nhiệm được giao phó ở Afghanistan. Mặc dù vẫn còn được tín nhiệm, sự từ bỏ quy chế hiện dịch đã để lại phía sau hình ảnh tơi tả thảm thương của hàng ngũ tướng lãnh, một thời đã được hết lòng tôn sùng bởi Hoa Thịnh Đốn. Vào đúng lúc Tướng John Allen kế nhiệm Petraeus — trở thành Tướng Mỹ thứ tám được bổ nhiệm vào chức vụ chủ trì cuộc chiến Afghanistan đang tiếp diễn — không còn ai tin: chỉ cần đơn thuần đặt đúng người vào vị trí tư lệnh là đủ để đem lại ma thuật thần diệu. Với nhận định đó, Hiệp 2 Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Trổi Dậy, hay GCOIN, đã chấm dứt. KỶ NGUYÊN VICKERS Hiệp 3: Ám Sát. Khác với Donald Rumsfeld hay David Petraeus, Michael Vickers chưa bao giờ được xếp vào hàng lỗi lạc. Tuy nhiên, hơn bất cứ ai trong hay ngoài quân ngũ, Vickers, đang giữ chức vụ Thứ Trưởng Quốc Phòng phụ trách Tình Báo, xứng đáng được công nhận như gương mặt biểu tượng cho Hiệp 3 Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố. Với phong cách khiêm tốn, ôn hòa của một người được ưa chuộng, Vickers có nhân cách hoàn toàn thích hợp với giai đoạn mới nhất trong cuộc chiến. Rất ít người bên ngoài Hoa Thịnh Đốn biết ông là ai, điều nầy thực sự thích hợp, vì lẽ ông đang chủ trì một cuộc chiến rất ít người bên ngoài Hoa Thịnh Đốn còn lưu ý. Với quyết định hưu trí của nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert Gates, Vickers là nhân vật cao cấp duy nhất còn sót lại từ Ngũ Giác Đài thời George W. Bush. Thành tích quá khứ chẳng có gì lổi lạc đặc biệt, nếu không nói là chiết trung. Trước đó, ông đã phục vụ trong Lực Lượng Đặc Biệt của Bộ Binh Hoa Kỳ và là một nhân viên tình báo. Trong tư cách đó, Vickers đã giữ vai trò hàng đầu trong việc hổ trợ các dân quân thánh chiến Afghanistan chống lại quân chiếm đóng Xô Viết trong thập kỷ 1980. Sau đó, ông đã làm việc trong một cơ quan nghiên cứu, think tank, ở Hoa Thịnh Đốn và lấy được văn bằng tiến sĩ khoa nghiên cứu chiến lược tại Đại Học Johns Hopkins với luận án : “Cơ Cấu của Các Cuộc Cách Mạng Quân Sự” — The Structure of Military Revolutions. Trong suốt kỷ nguyên George W. Bush, Vickers chưa bao giờ theo đuổi mục đích: Hoa Kỳ có thể “giải phóng” hay “bình định” thế giới Hồi Giáo. Cách tiếp cận Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố ông ưa thích luôn rất đơn giản. Ông từng phát biểu, “Tôi chỉ muốn giết những tên đó,” ông muốn nói đến các thành viên al-Qaeda. Giết mọi người muốn giết người Mỹ và không ngừng giết cho đến khi tất cả bọn chúng đều chết: đó là định nghĩa chiến lược của Vickers, một chiến lược dưới thời T T Obama đã thay thế COIN như hình thái chiến lược mới nhất của Hoa Kỳ. Cách tiếp cận của Vickers có nghĩa: tích cực tấn công để loại bỏ những tên giết người tiềm năng — would-be killers, tìm thấy bất cứ ở đâu, sử dụng bất cứ phương tiện cần thiết nào. Như một người hâm mộ đã bình luận, Vickers có “khuynh hướng tư duy như một kẻ cướp. Ông có thể hiểu các khuynh hướng và rồi thay đổi luật chơi để có lợi cho phe mình.”[6] Hiệp 3 của Cuộc Chiến Toàn Cầu Chống Khủng Bố là uốn nắn, bẻ gảy, và tái sáng chế những quy luật theo nhiều phương cách được tin là có lợi cho Hoa Kỳ. Rất giống với COIN đã thay thế “sốc và kinh hoàng,” một chương trình lượng định thông thoáng và rộng rãi các mục tiêu cần ám sát, nay đã thay thế COIN như hình thức diễn đạt thịnh hành chiến lược mới của người Mỹ. Hoa Kỳ nay không còn gửi nhiều bộ binh đến xâm lăng và chiếm đóng các xứ trong lục địa Âu-Á. Robert Gates, khi còn giữ chức vụ Bộ Trưởng Quốc Phòng, đã có tuyên bố dứt khoát về đề tài nầy. Hoa Kỳ hiện chỉ sử dụng các phi cơ không người lái và các lực lượng hành quân đặc biệt nhằm thanh toán bất cứ ai, kể cả công dân Mỹ, tổng thống Hoa Kỳ quyết định đã trở thành một phiền nhiễu không thể tha thứ. Dưới thời T T Obama, các cuộc tấn công như vậy đã tăng nhanh. Đây là chính sách mới của Hoa Kỳ. Nhại theo một cảnh cáo của Bộ Trưởng Ngoại Giao Hillary Clinton, báo Washington Post đã tóm tắt một cách ngắn gọn những gì muốn nói: “Hoa Kỳ tự dành quyền tấn công bất cứ ai được xem như một đe dọa trực tiếp cho an ninh quốc gia Hoa Kỳ , bất cứ ở đâu trên thế giới.”[7] Hơn nữa, hành động thay mặt cho Hoa Kỳ, tổng thống hành xử quyền trên không cần cảnh cáo, không cần quan tâm đến sự đòi hỏi của chủ quyền quốc gia tối thượng, không cần sự cho phép của Quốc Hội, không cần tham khảo ý kiến của bất cứ ai ngoài Michael Vickers và một số ít các thành viên khác trong guồng máy an ninh quốc gia. Vai trò dành cho nhân dân Hoa Kỳ là hoan hô, nếu và khi được thông báo một hành vi ám sát đã thành công. Và hoan hô: dân chúng đã từng thể hiện! Chẳng hạn, khi cuộc bố ráp táo bạo và trắng trợn bởi các thành viên trong SEAL – Đội 6, bí mật xâm nhập không phận Pakistan để thanh toán Osama bin Laden với hai phát súng gọn ghẻ. Thù hận lâu ngày đã thay thế mọi suy xét những hệ lụy chính trị thứ yếu có thể gây ra. Hiệp 3 sẽ chấm dứt ra sao là một điều khá khó tiên đoán. Điều có thể nói chỉ là Hiệp 3 khó lòng sớm chấm dứt, nhất là chấm dứt tốt đẹp. Như Do Thái đã khám phá, một khi “ám sát các mục tiêu có sẵn” đã trở thành chính sách, danh sách các mục tiêu luôn có cách ngày một lớn và dài thêm. Như vậy, những phán đoán tạm thời chúng ta có thể đưa ra liên quan đến Cuộc Chiến Toàn Cầu chống Khủng Bố là gì? Về phương diện điều hành, một cuộc chiến được phát động bởi những đầu óc ước lệ đã dần dà rơi vào phạm vi của những ai đang cư trú, như thingy Cheney có lần đã gọi, “bên phía tối tăm,” với hệ lụy rất ít ai muốn dò tìm. Về phương diện chiến lược, một cuộc chiến ngay từ đầu được quan niệm với nhiều chờ đợi không tưởng, được tiếp tục cho đến nay, với không một chờ đợi được trình bày cụ thể, đà đi tới của các biến cố sẽ thay thế những lý do chính đáng của mục tiêu . Về phương diện chính trị, một cuộc chiến một lúc nào đó đã chiếm vị trí trung tâm trong chính trị quốc gia, giờ đang tuột dần ra phía ngoại vi, dân Mỹ tiếp tục hướng về các quan tâm và giải trí khác, với những vấn đề luật pháp và đạo đức cuộc chiến đã nêu lên hiện đang lơ lửng trong không trung. Phải chăng đó là tiến bộ và văn minh? Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 11-3-2012 [1] …era of persistent conflict… [2] …the war formerly known as the global war on terrorism (unofficial acronym WFKATGWOT). [3] …fragmented and diffuse. [4] …shock and awe… [5] ..success demands a comprehensive counterinsurgency campaign. [6] Vickers tends to think like a gangster. He can understand trends then change the rules of the game so they are advantageous for your side. [7] The United States reserved the right to attack anyone who it determined posed a direct threat to U.S. national security, anywhere in the world.
|
|