|
Post by Vĩnh Long on Jun 15, 2008 7:01:08 GMT 9
trich tu trang nha giao phan Cai Mon Cái Mõn, thuộc Giáo Phận Vĩnh Long, nằm trong ðồng bằng sông Cửu Long: một vùng Công Giáo lớn mạnh của Việt Nam, có trụ sở chính của Dòng Kitô Vua, Dòng Mến Thánh Giá Cái Mõn & Cái Nhum, nõi ðào tạo nhiều linh mục và tu sĩ cho Giáo Hội, ðặc biệt lại là quê quán của Thánh Philipphê Phan vãn Minh và Nhà Bác học Trýõng Vĩnh Ký. Vị Kiến Trúc Sư Về Hưu
(hại mình)
Một nhà kiến trúc sư nọ, lớn tuổi muốn về hưu, nên xin vị giám đốc cho mình được toại nguyện. Ông giám đốc đề nghị anh làm một công trình cuối cùng thì ngưng việc. Anh ta miễn cưỡng thực hiện công trình này.
Anh làm nhưng cẩu thả, thiếu quan tâm cho nên ngôi nhà không đủ tiêu chuẩn. Anh ta chẳng màng đến công trình, chỉ cho người khác làm thay mình.
Đến ngày khánh thành, ông giám đốc mời cả công ty của mình để liên hoan và bàn giao nhà mới. Bất ngờ, vị giám đốc tuyên bố : ngôi nhà này là quà tặng của công ty dành cho anh ta. Anh ta bất ngờ vì mình không hết mình để xây dựng nó. Cho nên, không được bao lâu ngôi nhà đã bị hư hỏng nặng.
Đánh Giá Người Khác
(mình là trung tâm)
Có một ông vua muốn biết dân tình trong nước mình sống như thế nào. Cho nên, nhà vua sai người đi tìm hiểu :
Đầu tiên, vua sai một người xấu đi tìm người nào tốt nhất trong nước mình. Anh ta đi tìm hoài mà chẳng gặp ai cả. Cuối cùng, anh ta trở về và trả lời với nhà vua là không tìm được ai tốt cả. Cả nước toàn là người xấu giống như anh ta.
Sau đó, nhà vua sai một người có tiếng là tốt lành bảo anh ta đi tìm người xấu nhất trong nước. Anh ta cũng đi tìm. Tìm hoài mà chả gặp người nào là xấu cả. Vì ai cũng đối xử tốt với nhau. Anh ta trở về và báo cáo lại với nhà vua là mọi người trong nước đều tốt không ai xấu giống như người kia đã báo cáo.
Nhà vua vui mừng và kết luận rằng: chúng ta thường nhìn, đánh giá người khác theo quan điểm của chính mình. “chúng ta thường không nhìn người khác như họ là mà là như chúng ta là”
Kết Quả Của Một Niềm Tin
(câu nói thay đổi cuộc đời)
Bà mẹ kia có đứa con gái, nhưng con bà hư hỏng và đi làm chiêu đãi ở những hộp đêm. Bà buồn phiền và than thân trách phận. Nhưng khi suy nghĩ lại, bà tự hỏi : nếu ta thực sự tin Chúa, tin vào tình yêu của Ngài thì tại sao ta lại cứ buồn phiền mãi làm chi mà hãy cậy trông vào Người. Chính Người sẽ giúp ta trong khi khốn khó.
Thế rồi từ đó trở đi, bà không còn buồn phiền nữa mà luôn cậy trông vào Thiên Chúa. Lần kia, có người bạn đến thăm gia đình. Bà nói với người đàn ông giàu có về đứa con gái của mình.
Và ông này, lần kia vào một quán bar vô tình gặp người con của bạn mình. Cô này tiến đến mời mọc ông. Thay vì nói những lời như bao đàn ông khác: anh yêu em...em đẹp quá...ông ta nói: Đức Kitô yêu em lắm. Nói xong ông ta bỏ đi.
Một câu nói gây ngạc nhiên. Và từ đó, cô gái suy nghĩ lại cuộc sống của mình. Sau đó, cô ta quyết tâm thay đổi cuộc đời và trở về với Thiên Chúa.
Lòng Tin Của Một Bà Già
(chấp nhận mọi hoàn cảnh)
Một bà già có tuổi đi tàu đến thăm con gái của mình. Khi tàu đang chạy giữa biển thì bảo tố xảy đến. Ai nấy đều hoảng hốt, lo sợ. Chỉ có mình bà là người có vẽ bình tĩnh, ngồi cúi đầu và cầu nguyện. Sau khi trận bão qua, nhiều người đến hỏi tại sao bà giữ được bình tĩnh như thế. Bà đáp: “Tôi có hai người con gái. Một đứa đã qua đời đang ở với Chúa trên thiên đàng, cò một đứa ở trần gian này. Trong cơn bão tố, tôi không biết mình sắp gặp đứa nào. Nếu qua đời thì tôi sẽ gặp đứa ở thiên đường, còn nếu bình yên vô sự thì gặp đứa ở trần gian. Cả hai đều là con yêu dấu của tôi cả, dù gặp đứa nào thì lòng tôi cũng vui sướng. Vì vậy, trong lúc đó tôi cảm thấy bình an hơn”.
Dự Lễ Vì Ai ?
(tấm lòng)
Vua Louis XIV nước Pháp thường có thói quen đi dự thánh lễ tại nhà thờ Versailles. Dân chúng cũng đến đó dự lễ rất đông. Một Chúa Nhật kia, vua cũng đi dự thánh lễ nhưng hôm nay có rất ít người. Nhà vua ngạc nhiên và hỏi ĐGM lý do tại sao. ĐGM trả lời: - Chính tôi đã tung tin ra, là hôm nay nhà vua không đi dự thánh lễ được.
Bây giờ nhà vua mới hiểu ra được là người ta đi tham dự thánh lễ vì ai: nhà vua hay là Thiên Chúa.
Thiên Đàng
(mẹ là tất cả)
Đức cha Thiên đi làm lễ ở nhà thờ Cái Chanh. Trong bài giảng, ngài hỏi các em thiếu nhi :
- Ai muốn lên thiên đàng thì đưa tay lên.
Các em cùng nhau đưa tay lên. Có một em không giơ nên ngài hỏi lại. Em đó cũng không giơ tay lên nên ĐC mới hỏi: tại sao con không muốn lên thiên đàng ?
- Vì thiên đàng không có mẹ của con nên con không muốn lên.
Đôi Tình Nhân Và Con Gấu
(tình yêu thật)
Hai người yêu nhau. Họ cùng nhau đi qua một cánh rừng. Bỗng nhiên con gấu xuất hiện. Người con trai chạy nhanh và trèo lên cây cao. Còn cô con gái không trèo được nên không biết phải làm gì. Cô ta năn nỉ anh ta giúp nhưng sợ chết anh không dám xuống. Người con gái thấy mình không thoát được nên nằm dài úp mặt xuống đất và nín thở. Con gấu đến gần ngửi rồi bỏ đi vì nó tưởng cô bé đã chết.
Người bạn trai thấy gấu đi thì trèo xuống, cười và hỏi cô bạn gái của mình :
- Con gấu thì thầm với em cái gì vậy ?
Cô bé trả lời :
- Nó bảo: đừng bao giờ yêu một người bạn không có lòng tốt như anh.
Truyền Giáo Bằng Sự Nghiêm Trang
(hình thức bên ngoài)
Một hôm thánh Phanxicô gọi một tu sĩ trẻ đến và bảo :
- Này thầy, ta đi giảng đạo nhé !
Hai cha con ra đi, sau khi rảo quanh khắp phố, thánh nhân bảo thầy kia :
- Nào ta trở về thôi !
Thầy kia ngạc nhiên hỏi :
- Thưa cha, thế bao giờ chúng ta mới giảng đạo ?
- Giảng xong rồi thầy ạ.
- Chúng ta đâu có giảng gì đâu ?
- Này, chúng ta đã giảng bằng sự nghiêm trang tề chỉnh của chúng ta đó.
Bức Hoạ Thiên Đàng Hoả Ngục
(yêu thương và ích kỷ)
Một hoạ sĩ người Nhật vẽ hai bức tranh diễn tả thiên đàng và hoả ngục như sau :
Ở hoả ngục, các thực khách ngồi quanh một bàn to, có đủ các món thức ăn, rất ngon, còn nóng hổi và mỗi thực khách cầm một đôi đũa dài. Cho nên, họ không thể tự mình ăn được. Không ai giúp cho ai. Vì thế, ai cũng bực bội và khó chịu.
Ở thiên đàng, người họa sĩ cũng vẽ y như thế. Nhưng có một điểm khác biệt đó là mỗi người gắp thức ăn cho nhau. Ai cũng được thưởng thức món ăn ngon một cách vui vẻ.
Điểm khác biệt quan trọng là biết quan tâm đến nhau. Thiên đàng là yêu thương, còn hoả ngục là ích kỷ.
Hươu Và Sư Tử
(lợi hại)
Con hươu mệt nên ra bờ suối uống nước. Khi uống, nó nhìn xuống suối và chiêm ngắm vẽ đẹp của mình. Nó hãnh diện vì có hai cái sừng to và đẹp mắt. Nó tủi phận vì có đôi chân rất dài. Trong lúc đó, sư tử xông tới cắn hươu. Hươu phóng chạy và bỏ xa sư tử vì nó có đôi chân nhanh nhẹn. Khi chạy đến chỗ có nhiều cây cối, hươu không chạy nhanh được vì hai cái sừng to của mình. Cuối cùng, sư tử cắn được hươu. Thấy mình phải chết, hươu than phiền rằng: “ Bất hạnh cho ta ! cái mà ta khen lại hại ta, còn đôi chân ta chê lại cứu ta”.
Hãy Đọc Kinh Lạy Cha Cho Bố
(lời cầu làm thay đổi)
Bà nọ có một ông chồng mê rượu. Suốt ngày, ông ta không làm gì cả mà cứ nhậu. Khi say, ông thường đánh đập vợ con mình. Có khi, bà vợ phải đem giấu những đứa con ở nhà hàng xóm. Bà khuyên hoài nhưng không được, cứ chứng nào tật nấy. Cả nhà ai cũng buồn và thất vọng.
Một tối nọ, ông về muộn hơn thường lệ. Khi bước tới cửa nhà, ông nghe tiếng nói chuyện trong nhà. Ông lắng nghe trộm xem ai muốn nói xấu mình thì toi mạng. Lúc đó, bà vợ nói với các con mình sau khi họ đọc kinh tối chung với nhau : “Chúng ta hãy đọc thêm một kinh lạy cha cho bố tốt lành của chúng con”. Người chồng nghe được những lời đó, lòng đầy xúc động. Từ đó ông ta suy nghĩ lại và thay đổi cuộc sống không còn nhậu nhẹt nữa, siêng năng làm ăn, yêu thương vợ và con của mình nhiều hơn.
Mẹ Chết Để Con Sống
(hy sinh cho con)
Chị Hazel Lester, sống ở miền nam nước Anh, có gia đình và đang mang thai đứa con trai mới 2 tháng tuổi. Lúc đó, chị 32 tuổi. Bất ngờ hung tin đến với chị và gia đình. Bác sĩ cho biết chị bị bệnh ung thư trầm trọng. Nếu dùng các loại thuốc thì đứa trẻ sẽ bị dị tật sau này. Chị đã từ chối không dùng thuốc. Sau khi bé Adam ra đời được 7 tuần lễ thì chị trút hơi thở cuối cùng. Đó là tấm lòng cao cả của người mẹ hy sinh cho con của mình.
Vẽ Đẹp Của Đôi Bàn Tay
(hy sinh cho người khác+ cộng tác)
Có hai chàng thanh niên yêu thích hội họa. Họ vừa làm việc vừa học vẽ. Sau thời gian, hai anh không thể làm hai việc cùng một lúc được. Cho nên, họ quyết định một người đi học và người khác đi làm để nuôi người đó. Sau đó, người học xong nuôi lại người kia.
Thời gian qua nhanh, anh chàng đi học đã trở thành hoạ sĩ và nổi tiếng khắp nơi. Người bạn anh lại tiếp tục việc học nhưng không được vì hai bàn tay bị chai sần, thô cứng không thể điều khiển được bút vẽ.
Khi biết được sự thật đó, người hoạ sĩ ôm bạn mình và nói : “Đôi bàn tay chai sần của anh đã góp phần vào những bức vẽ đẹp của tôi. Nếu không có đôi bàn tay anh, những bức tranh này chẳng bao giờ hình thành cả. Hãy cho phép tôi hoạ đôi bàn tay cao đẹp của anh”.
Bức tranh ấy, với bàn tay lao động, đã trở thành tác phẩm nổi tiếng của nền hội hoạ thế giới hiện nay. Bức tranh này đang được trưng bày tại một viện bảo tàng ở Mỹ.
Hạt Thóc Kỳ Diệu
(Chúa trả công)
Thi hào Tagore viết một bài thơ có nội dung như sau : một người hành khất ngồi bên vệ đường. Nghe tin hôm nay đức vua sẽ đi ngang qua. Anh ta cố gắng lết đến cổng làng để gặp được Đức vua. Anh mong xin được một ân huệ. Khi đức vua đến, anh đưa tay vẫy chào và chạy ra ngoài chặn đứng đoàn người tháp tùng với đức vua. Bất ngờ, Đức vua xuống kiệu và đến gần anh ta. Thay vì hỏi anh ta cần gì, hoặc cho anh ta tiền nhưng Đức vua đưa tay ra để xin người hành khất bố thí. Anh ta quá bất ngờ, đưa tay vào trong túi cho nhà vua một hạt thóc. Đức vua nhận hạt thóc và lên xe tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Chiều đến, khi về đến nhà, người hành khất mở chiếc bị của mình ra. Anh thấy một hạt kim cương óng ánh, sáng chói trong bị. Lúc đó, anh hối tiếc và nói : “ Phải chi ta cho nhà vua tất cả hạt thóc thì hay biết mấy.”
Cầu Nguyện
(xin Chúa ban cho niềm tin)
Một nhà tư tưởng tự do người Mỹ rất muốn tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, và mặc dù đã chăm chú lắng nghe ĐHY Gibbons giải thích về những chứng cứ sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng ông ta vẫn không tin. Khi nhìn thấy thiện ý của nhà tư tưởng, ĐHY đề nghị ông hãy thường xuyên đọc lời kinh vắn tắt này: “ Lạy Thiên Chúa, nếu như Ngài hiện hữu, xin làm cho con nhận biết Người”. Sau một thời gian ngắn thực hành điều đó, nhà tư tưởng kia đã đón nhận được hồng ân đức tin sống động và vững vàng, cùng với niềm hạnh phúc tuyệt vời cho cuộc sống.
Đức Hồng Y Newman cũng có một kinh nghiệm tương tự. Suốt nhiều năm trời, ngài thành tâm đi tìm Giáo hội chân chính bằng việc đọc các sách lịch sử, nghiên cứu các tác phẩm của các giáo phụ, bàn luận với nhiều nhà thần học uyên bác. Cuối cùng ĐHY kêu lên: “ Tôi đã và đang làm gì ? Tôi đã đi tìm chân lý qua việc nghiên cứu và bàn bạc, nhưng tôi lại không dành thời gian để chuyên tâm cầu nguyện xin Chúa ban cho tôi hồng ân đức tin”. Ngài thay đổi phương thức và bắt đầu thành tâm kêu xin Thiên Chúa phù trợ. Lời kêu xin đã nhanh chóng được Chúa nhậm lời. Không những ngài có được niềm tin cho bản thân mà còn trở nên gương sáng cho Giáo Hội.(trích trong con đường nên thánh dễ dàng, tr 40)
Một Cách Trả Thù
Những người thổ dân Nam Phi thường đề cao sự tha thứ bằng câu chuyện sau đây: Có hai người thổ dân rất thù ghét nhau. Một ngày kia, một trong hai người gặp cô con gái nhỏ của kẻ thù mình trong rừng. Hắn đã bắt lấy cô gái và lấy dao chặt đứt hai ngón tay của cô bé. Cô bé vừa chạy về vừa khóc lóc đau đớn, con tên hung thủ thì vừa đi vừa đắc chí hô lớn: “Ta đã trả thù được rồi”. Mười mấy năm sau, cô bé đáng thương ấy đã lớn lên rồi có gia đình. Một hôm, có một người ăn xin đến gõ cửa nhà cô. Cô nhận ra tức khắc ngươi hành khuất chính là kẻ đã chặt tay cô cách đây mười mấy năm. Không một chút oán hờn, không một lời trả đũa, cô vội vàng vào nhà và mang thức ăn ra hầu hạ cho kẻ đã từng hành hạ mình. Khi người hành khuất đã ăn no rồi, người đàn bà liền đưa bàn tay cụt mất hai ngón cho ông ta xem vào nói: “tôi cũng đã trả được thù rồi”.
“Lấy ân trả oán": đó phải là phương châm hành động của người Kitô chúng ta. Không có cách trả thù nào cao quí hơn bằng yêu thương, tha thứ cho chính kẻ thù. Nói như thánh Phaolô, chúng ta không mắc nợ với nhau điều gì ngoài tình thương mến. Chỉ có tình thương, chỉ có lòng tha thứ mới có thể tiêu diệt được hận thù. Lấy hận thù để tiêu diệt hận thù, lấy bạo động để tiêu diệt bạo động: con người chỉ đổ thêm dầu vào hận thù và bạo động mà thôi. Cuộc cách mạng bạo động và đẫm máu nào cũng chỉ mang lại tang thương, chết chóc và không biết bao nhiêu hệ lụy khổ đau khác. Chỉ có một cuộc cách mạng duy nhất có thể cứu vãn được nhân loại: đó là cuộc cách mạng mà Chúa Giêsu đã đề ra. Chỉ có cuộc cách mạng tình thương ấy mới có thể tiêu diệt được hận thù. Đó là cuộc cách mạng mà người Kitô chúng ta cần phải đeo đuổi mỗi ngày. Thay vì tiêu diệt kẻ thù, chúng ta hãy tiêu diệt chính sự thù hận trong tâm hồn chúng ta.
Cuộc Sống Là Những Va Chạm
Hãy nghe một viên sỏi kể về nguồn gốc của mình: “Tôi vốn là một tảng đá khổng lồ trên núi cao, trải qua bao năm tháng dài đăng đẳng bị mặt trời nung đốt, người tôi đầy vết nứt. Tôi vỡ ra và lăn xuống núi, mưa bão và nước lũ cuốn tôi vào sông suối. Do liên tục bị va đập, lăn lộn, tôi bị thương đầy mình. Nhưng rồi chính những dòng nước lại làm lành những vết thương của tôi. Và tôi trở thành một hòn sỏi láng mịn như bây giờ”. Bạn nghĩ gì khi nghe câu chuyện trên? Cảm thấy lý thú với chuyến đi của hòn sỏi hay xúc động trước ánh mắt lạc quan của nó đối với cuộc đời đầy biến động? Đã bao giờ bạn thấy được rằng chính những chông gai mới tạo nên những hình hài đẹp và ấn tượng, dù là hình hài được tạo bởi chính những vết thương và những đớn đau. Có thể là bạn, có thể là tôi, cuộc sống chẳng bao giờ chỉ mang đến nỗi đau, cũng chẳng bao giờ chỉ mang đến niềm hạnh phúc. Vượt qua được gian khổ, vượt qua những cuộc thử thách, vượt qua được những nỗi đau là bạn đã tự làm hoàn thiện nhân cách chính mình. Cuộc sống là vô vàn những điều biến động. Vì vậy, cho dù trong khó khăn hay trong hạnh phúc, cũng mong bạn luôn nhớ cuộc hành trình của hòn sỏi để sống tự tin hơn, để mang những yêu thương xoa dịu và làm lành những vết thương. Sự va đập của cuộc sống chẳng có gì đáng sợ đâu bạn ạ!
Ơn trở lại : LM Nguyễn Viết Chung
Linh mục Augustinô Nguyễn Viết Chung nguyên là một bác sĩ Phật giáo, chuyên môn về Da Liễu. Khi lên 18 tuổi, nhân đọc một bài báo nói về cái chết của Đức Cha Jean Cassaigne tại trại phong Di-Linh, cậu Chung cảm thấy cuộc sống đó quá tốt đẹp và vô tình Đức Cha Jean Cassaigne đã trở thành thần tượng của cậu. Khi nhắc lại đoạn đời đó, cha Chung cho biết là ngài được rao giảng Tin Mừng bằng đời sống, chứ không phải bằng lời nói. Từ đó cậu Chung có ý nguyện học làm bác sĩ để phục vụ bệnh nhân phong như Đức Cha Jean Cassaigne. Khi bắt đầu học năm thứ nhất y khoa, nhân dịp tham dự Thánh lễ khai khóa của linh mục giáo sư bác sĩ Lischenberg, cậu Chung nhận thấy con người khoa học uyên bác của giáo sư Lischenberg đã biến thành một linh mục khả kính, trang nghiêm siêu thoát, chìm đắm trong cõi phúc lạc thần thiêng: Ơn gọi làm linh mục của cha Chung đã chớm nở từ đó. Khi bác sĩ Chung phục vụ tại trại phong Bến Sắn, Dì Hai Loan thuộc Tu Hội Nữ Tử Bác Ái là Phó Giám Đốc. Dì là người đã phục vụ ở đây gần 17 năm, bất ngờ ngã bệnh ung thư và mất đi sau mấy tháng. Khi Dì hấp hối, bác sĩ Chung đang sửa soạn để đi với bác sĩ Quang, bác sĩ Bích Vân lên trại phong Di-Linh khám mắt cho bệnh nhân. Vì xe chưa tới, bác sĩ Chung tiếc nuối những giây phút cuối cùng còn lại với Dì Hai Loan nên đã trở lại giường bệnh của Dì. Lúc đó Dì Hai Loan mở mắt ra, nhìn bác sĩ và đôi môi mấp máy như muốn nói điều gì. Dì Mười hiểu được, liền nói: “Chung, Dì Hai Loan nói, tại sao chưa đi?” Khi kể lại kỷ niệm nầy cho tôi, cha Chung đã dùng những ngón tay phải chỉ vào cánh tay trái và cho biết lúc đó cha cảm thấy bị rởn da gà lên. Sau đó, bác sĩ Chung về dự tang lễ của Dì Hai Loan và đã quyết định theo đạo. Một năm sau nữa bác sĩ đã vào tu ở Tu Hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn và đã nhận lãnh Thánh chức linh mục hơn một năm nay. Ba vị đã tác động mạnh mẽ trên Ơn Gọi của cha Chung là giám mục Jean Cassaigne, linh mục Lischenberg và Dì Hai Loan. Cả ba cùng có một mẫu số chung - như lời cha Chung - đó là họ đã rao giảng Tin Mừng cho cha bằng cuộc sống chứ không phải bằng lời nói! Nguyện ước của cha Chung là được phục vụ bệnh nhân phong và bịnh nhân Aids rồi cuối cùng ngã bệnh giữa những bệnh nhân mà cha yêu thương phục vụ, đúng như lời Chúa Kitô đã phán dạy : “Không có Tình Yêu nào cao trọng cho bằng hy sinh mạng sống mình vì kẻ mình yêu”.
Gia Đình Chài Lưới
(hãy chăm chỉ làm việc)
Một gia đình nọ (có 3 người : cha, con trai và con gái) sống ven biển, chuyên làm nghề chài lưới. Ngày nào hai cha con cũng đi thả lưới ngoài biển khơi. Người con gái ở nhà có nhiệm vụ là đan lưới. Vì mệt mõi, nhàm chán, ham chơi nên em gái không đan lưới kỹ lưỡng. Mặt lưới không chắc. Một ngày nọ, lúc hai cha con thả lưới, trời bảo to. Người con trai bị gió hất tung xuống biển. May mắn anh rớt vào mẻ lưới. Cha già từ từ kéo lưới lên. Ông yên tâm là con mình nằm gọn trong lưới. Nhưng khi kéo lên, không thấy con mình đâu. Ông nhìn mặt biển cách vô vọng. Về nhà, đứa con gái hỏi : “Anh con đâu ?” . Cha già trả lời : “Nếu con đan lưới kỹ thì anh con không chết”.
Vẽ Đẹp
(tâm hồn)
Cô Denise Quinones August, sinh viên 20 tuổi, người Puerto Ricô, là hoa hậu thế giới năm 2001. Trong vòng thi chung kết, khi ban Giám Khảo hỏi cô : “Hãy cho biết sự ngô nhận lớn nhất về sắc đẹp”. Cô trả lời : “Đó là việc chỉ tìm vẽ đẹp ở bên ngoài của một con người. Bạn cần phải đi sâu vào tâm hồn của người đó”. Với câu trả lời sâu sắc như thế, cô đã được nhận vương miệng hoa hậu thế giới năm 2001.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 15, 2008 7:02:41 GMT 9
BUỔI TRÌNH DIỄN KHÔNG ĐẠT
Một nghệ sĩ trẻ tuổi đang trình diễn đàn dương cầm trước cử tọa ngồi chật cả thính phòng. Tất cả đều im lặng như nín thở để theo dõi từng nốt nhạc.
Theo lời quãng cáo, thì đây là lần trình diễn đầu tiên để giới thiệu tài năng mới. Những ngón tay đẹp của nghệ sĩ không ngừng di động trên các phím đàn, hoà điệu với những âm thanh trầm bổng của dòng nhạc.
Bản đàn vừa chấm dứt, tất cả mọi người điều đứng dậy vỗ tay hoan hô nồng nhiệt và nhiều giọng nói yêu cầu của cử tọa xin trình diễn tiếp thêm nữa. Phải, tất cả mọi người cùng đứng dậy bày tỏ lòng hâm mộ. Nhưng trừ có một cụ già ngồi ở hàng ghế đầu có thái độ khác. Cụ không đứng dậy vỗ tay tán thưởng, mà vẻ mặt lại để lộ chút không vui.
Trong khi đó trên sân khấu chàng nghệ sĩ trẻ tuổi rời dương cầm, bước ra ngoài tấm màn lớn đang từ từ kéo lại, cúi sâu chào khán thính giả, rồi vội vàng ẩn mình vào trong.
Chàng đến nhanh bên ông giám đốc tổ chức cuộc trình diễn, nói nhỏ: “không, tôi trình diễn chẳng hay gì cả, nhưng tệ lắm”.
LỜI CẦU HOÀ BÌNH
Chuyện xảy ra tại Ben-phát bên Ái-lân như sau: Một linh mục Công Giáo, một mục sư Tin Lành, và một giáo trưởng Do thái, đang tranh luận rất sôi nổi về vấn đề thần học. Thình lình một Thiên Thần hiện ra giữa họ và nói.
Thiên Chúa chúc lành cho các ngươi. Các ngươi hãy nói lên một ước nguyện về hoà bình và Thiên Chúa toàn năng sẽ chấp nhận.
Thế là một mục sư Tin Lành liền khẩn cầu: Xin Chúa cho tất cả mọi người Công Giáo biến khỏi mảnh đất thân yêu này thì hoà bình sẽ trở lại tức khắc.
Vị Linh mục công giáo thì cầu nguyện: xin đừng để cho một người Tin Lành nào còn có mặt trên mảnh đất Ai-lân thân yêu này và hoà bình sẽ trở lại. Vị giáo trưởng Do Thái thì lại cúi đầu thinh lặng. Thấy thế Thiên Thần liền hỏi: Còn ngươi, hỡi giáo trưởng, ngươi không có ước nguyện nào ư? Ông ta liền thưa: Vâng, tôi không có điều gì để xin nữa. Tôi chờ cho lời cầu nguyện của hai vị này được Thiên Chúa chấp nhận là tôi mãn nguyện rồi.
VỊ QUỐC VƯƠNG LIÊM CHÍNH
Vào khoảng giữa thế kỷ thứ 19, các dân tộc thuộc vùng núi Cô-ca-dơ ở phía nam nước Nga được cai trị bởi một quốc vương Hồi Giáo nổi tiếng là thanh liêm chính trực. Ưu tiên hàng đầu trong việc chấn hưng đất nước của ông là quét sạch mọi tham nhũng, hối lộ.
Ông ban hành một sắc lệnh, theo đó là tất cả những ai bị bắt quả tang phạm tội tham nhũng và hối lộ sẽ bị phạt đánh 50 roi trước mặt công chúng.
Điều không may xảy ra cho ông, là người đầu tiên bị bắt quả tang phạm tội này lại chính là mẹ ông. Sự kiện này làm cho ông đau đớn vô cùng. Không có một luật trừ hay châm chước nào cho sắc lệnh mà chính ông đã ban hành.
Liên tiếp ba ngày liền nhà vua giam mình trong lều của ông. Sang ngày thứ tư ông xuất hiện trước công chúng cùng với thân mẫu. Ông ra lệnh cho hai binh sĩ trói tay mẹ ông và bắt đầu xử lý theo qui luật.
Thế nhưng khi chiếc roi đầu tiên vừa quật trên người mẹ ông thì nhà vua liền chạy bên cạnh bà. Ông mở trói cho bà. Rồi ra lệnh cho binh sĩ trói tay ông, lột áo ông ra và bắt đầu cuộc đánh roi. Đúng 50 roi đã quất xuống trên thân mình nhà vua.
Với thân thể rướm máu và khuôn mặt nhợt nhạt, nhà vua quay về phía dân chúng mà nói: Bây giờ thì các ngươi có thể ra về, luật đã được thi hành. Máu của vua các ngươi đã chảy ra đã đền bù cho tội ác này.
Kể từ ngày đó, trong vương quốc người ta không còn bao giờ nghe nói đến tội tham nhũng, hối lộ nữa.
MÔI SÊ THỤ GIÁO
Có người đã kể về Môi-sê như sau: Trước khi được sai đi lãnh đạo cuộc giải phóng dân Do thái khỏi ách nô lệ bên Ai-cập. Môi-sê đã đến thụ giáo với một vị thầy nổi tiếng vùng núi Ma-đi-an.
Qui luật tối thượng mà vị thầy này buộc Môi-sê giải giữ trong suốt thời gian thụ huấn là tuyệt đối giữ thinh lặng.
Ngày ngày thầy trò ngao du sơn thủy. đứng trước núi non hùng vĩ và bao vẽ đẹp của thiên nhiên, Môi-sê cảm thấy không gì dễ và thích thú cho bằng được ở thinh lặng.
Thế nhưng, một hôm, khi hai thấy trò đi dọc theo bờ biển, Môi-sê bỗng thấy một bé trai chới với trong nước, và người mẹ kêu la cầu cứu inh ỏi. Môi-sê không thể giữ thinh lặng được trước một cảnh tượng như thế. Ông cất tiếng hỏi thầy: Thưa thầy, thầy không làm gì để cứu đứa bé sao?
Nhưng vị thầy làm dấu bảo thinh lặng rồi tiếp tục đi.
Môi-sê bước theo thầy mà lòng không yên chút nào. Ông nghĩ tại sao thầy mình lại nhẫn tâm như thế? Đi được một đoạn Môi-sê bỗng dừng lại giơ tay chỉ ra biển và nói với thầy: Thầy nhìn kìa, cả một chiếc thuyền chở đầy người đang đắm kìa!
Lại một lần nữa Môi-sê được thầy ra dấu giữ thinh lặng và tiếp tục đi, như thế họ không cần quan tâm đến những gì đang xảy ra trước mắt.
Tâm hồn nhạy cảm của Môi-sê càng bối rối thêm nữa. Ông đưa chuyện ấy thưa với Chúa và muốn biết tại sao thầy mình đã cư xử như vậy. Chúa đã biện mnh cho cử chỉ thầy như sau:
Thầy của con hoàn toàn có lý. Đứa bé chới với trên bờ biển chỉ là một dàn cảnh để khai vào một cuộc chiến tranh khốc liệt giữa hai dân tộc, còn chiếc thuyền đang đắm ngoài khơi là thuyền của một bọn cướp đang chuẩn bị tấn công một ngôi làng ven biển.
Thầy của con đã có lý, để giữ con đứng bên ngoài những hảnh động tội ác.
CUỘC THỬ THÁCH CAM GO
Một bà đạo đức kia rất có lòng quí mến và tôn trọng các vị tu hành. Bà đã nhận chu cấp cho một đệ tử có chí nguyện từ bỏ cuộc sống trần gian để dấn thân theo con đường tu thân tầm đạo.
Suốt hai mươi năm trường bà không ngừng chăm lo và khuyến khích vị tu sĩ trẻ gắng công tu trì, tĩnh niệm, chuyên cần tìm hiểu phật pháp. Trong một khu vườn thanh tịnh âm u, xa khuất mọi tiếng ồn ào cõi thế và dựng một tịnh xá để ngày đêm vị tu sĩ chuyên tâm tu luyện.
Hai mươi năm trôi qua, một ngày nọ người đàn bà đạo đức ấy muốn biết công trình tu thân, luyện đức của nhà sư đã đạt tới mức nào, bà liền bày ra một cuộc thử thách thật cam go.
Bà nhờ một thiếu nữ xinh đẹp giúp bà trong cuộc thử thách này. Đúng nữa đêm khi nhà sư đang trầm ngâm trong tĩnh niệm, thiếu nữ liền đẩy cửa tịnh xá tiến bước vào trước mặt nhà sư và bày cách cám dỗ ông. Đôi mắt nhìn xuống, nét mặt thanh thản, nhà sư vẫn bất động.
Nhưng một hồi lâu, như không thể cầm mình được nữa, nhà sư cầm lấy cây chỗi quất lia lịa vào người thiếu nữ và xua đuổi nàng ra khỏi tịnh xá.
Khi nghe nàng kể lại sự kiện, người đàng bà đạo đức buồn rầu hỏi nàng: Thế ra hắn không nói với con một lời cãm thông ư? hắn không tỏ dấu gì là một tâm hồn đã siêu thoát và tự chủ ư? rồi bà thất vọng thốt lên.
Ôi, hai mươi năm trường tu luyện, thật vô ích! Hai mươi năm ân cần săn sóc và mong đợi của ta, thật uổng phí!.
TỰ MÌNH TẠO RA PHÉP LẠ
Một trong những cuốn phim của Pháp có doanh thu cao trong năm vừa qua là phim “Người mang mặc nạ vàng”. Phim được dàn dựng theo một câu chuyện có thật tại Mê-hi-cô xảy ra cách đây vài năm.
Tại đây thường tổ chức nhựng cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tùy sở thích và có thể đeo cả mặc nạ trong khi đấu võ.
Một linh mục ở nước nảy tên là Ga-ê-ta-nô đang lãnh đạo một nhóm các bạn trẻ làm công tác xã hội chuyên lo giúp các trẻ em nghèo. Để có thêm tiền cho mục đích trên, cha Ga-ê-ta-nô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.
Với một thân hình to lớn, thông thạo võ nghệ và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài cha Ga-ê-ta-nô mang một chiếc mặc nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những địch thủ hung hản nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao lãnh được, cha đều dành cho quỹ cứu trợ của trẻ em nghèo.
Từ đó chiếc mặc nạ vàng đã trỡ thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Ga-ê-ta-nô.
Giăng Rê-nô người đóng vai vị linh mục Ga-ê-ta-nô trong cuốn phim nói trên, đã phải đọc Kinh Thánh và tạo cho mình những tâm tư của một linh mục để có thể diễn xuất cách nhuần nhuyễn. Anh đã thổ lộ: “Đọc Kinh Thánh cho tôi gặp gỡ được Thiên Chúa, và nói với Ngài những điều mà trước đây tôi chưa từng nói với ai”. Lần kia cậu con trai của Rê-nô hỏi anh: Bố ơi, bố có thể tạo nên phép lạ không? Anh trả lời: “Phép lạ là những gì con tự tạo nên.
PHO TƯỢNG ĐÁ
Trong những giai thoại về các thánh ẩn tu vào những thế kỷ đầu của Kitô Giáo có câu chuyện sau đây:
Bảy vị ẩn tu nọ kéo nhau đến sống trong một ngôi đền bị bỏ hoang của người Ai-cập. Phía trước ngôi đền có một pho tượng đá. Đây là những pho tượng duy nhất còn sót lại sau khi ngôi đền bị cướp phá.
Vị cao niên trong bảy tu sĩ ấy tên là Đu-bô. Ông được anh em bầu lên làm Bề Trên của cộng đoàn.
Để dạy cho anh em một quy luật cơ bản cùa đời sống cộng đoàn, mỗi buổi sáng ông ra đứng trước pho tượng, nhặt một hòn đá, ném mạnh vào đó. Rối chiều đến ông lại trở ra đứng trước pho tượng và lớn tiếng xin lỗi vì hành động ném đá của ông.
Cử chỉ khác thường của vị bề trên ấy kéo dài trong một thời gian khá lâu. Một ngày kia, không làm chủ được tính tò mò, một người anh em trong cộng đoàn đã hỏi lý do của hành động khó hiểu ấy.
Vị bề trên trả lời bằng cách hỏi lại người đó như sau:
Khi ông ném đá vào pho tượng, pho tượng có lung lay không?
Người kia trả lời:-Thưa, không.
Vị bề trên hỏi tiếp:
-Buổi chiều khi tôi đến xin lỗi, pho tương ấy có để lộ xúc động nào không?
Người anh em cũng trả lời:
-Thưa, không.
Bấy giờ vị bề trên mới giải thích:
Anh em thân mến, chúng ta có tất cả bảy người trong một cộng đoàn. Nếu chúng ta muốn sống hiệp nhất yêu thương nhau, chúng ta hãy cũng sống như pho tượng này.
Đừng ai trong chúng ta tỏ ra giận dữ khi có người trong anh em xúc phạm đến mình. Và cũng đừng ai trong chúng ta tỏ ra những hảnh diện khi có người đến xin lỗi mình.
Lời khuyên đây của vị Bề Trên đã được mọi người vui vẻ đón nhận. Và từ đó họ sống với nhau trong hòa thuận, an bình.
CHỨNG TỪ CỦA LÒNG SÁM HỐI
Trong bộ sưu tập về các vị ẩn tu, ta đọc được câu chuyện sau đây:
Có hai tội nhân quyết tâm vào sa mạc để ăn chay đền tội. Nhiều tháng trời ròng rã , mỗi người giam mình trong một túp lều, ngày đêm đánh tội, ăn năn và cầu nguyện.
Ngày ngày các tu sĩ của một cộng đoàn ẩn tu mang thức ăn, nước uống đến tận căn lều của mỗi người.
Sau đúng một năm thử thách, các tu sĩ nhận thấy có một sự khác biệt giữa hai người. Một người thì khoẻ mạnh, vui tươi, một người người thì ốm o, buồn phiền.
Cả hai người trình diện trước vị Bề Trên của cộng đoàn để chờ đợi sự phán quyết của ngài, theo đó họ có xứng đáng gia nhập cộng đoàn hay không?
Khi được hỏi trong suốt một năm qua họ đã suy niệm những gì. Con người ốm o buồn phiền đáp:
-Trong suốt một năm qua, ngày ngày tôi nhớ lại những tội lỗi đã phạm. Từng giây, từng phút tôi nghĩ đến hình phạt tôi sẽ gánh chịu, tôi sợ hãi đến mất ăn mất ngủ.
Đến lượt mình, con người vui tưoi khoẻ mạnh trình bày như sau:
-Suốt một năm qua, từng giây, từng phút tôi nghĩ đến những ơn lành mà Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi luôn luôn nghĩ đến tình thương của Thiên Chúa.
Các tu sĩ trong cộng đoàn rất cảm kích về chứng từ của con người khoẻ mạnh vui tươi, vì lòng sám hối của anh đã biến thành lời ca chúc tụng, tri ân đối với tình yêu của Thiên Chúa.
Nhưng con người ốm o sầu buồn sau đó cũng được đón nhận vào cộng đoàn.
CỬ CHỈ ĐẸP
“Đây, tôi xin trả tiền cho tôi và cho sáu chiếc xe kế tiếp”. Đó là tiếng một người vang lên cùng một lúc với bàn tay giơ ra ngoài cửa xe trao một nắm tiền cho người ngồi ở phòng gác nhỏ nơi cổng ra xa lộ.
Sáu chiếc xe kế tiếp được hướng dẫn ra khỏi xa lộ với giọng nói từ phòng gác nhỏ làm cho mỗi tài xế đều sửng sốt.
-Ông không cần trả tiền nữa. người đi trước đã trả thế cho ông rồi.
Tuy bỡ ngỡ, những tài xế của 6 chiếc xe ấy không khỏi lộ niềm vui trên gương mặt. Cử chỉ tốt và âm thầm của người đàn bà kia có thể sẽ mời gọi họ cũng làm như vậy cho bất cứ ai khác.
Người đàn bà ấy là Giu-đích Pho-man. Một lần đền chơi nhà bạn, Giu-đích Pho-man đã bất ngờ đọc được dòng chữ nhỏ dán trên cửa tủ lạnh: “Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp”.
Những lời đơn sơ này đã đánh động Giu-đích Pho-man. Bà cẩn thận học thuộc lòng hàng chữ ấy, để rồi sau đó, trong mọi bức thư viết cho bạn bè hay người thân bà luôn luôn ghi vào cuối lá thư lời khuyến khích: “Thỉnh thoảng bạn nên làm một cử chỉ đẹp”.
TẶNG PHẨM CHÚA MONG ĐỢI
Một đêm Giáng Sinh nọ, Thánh Giêrônimô đang quỳ bên máng cỏ để suy niệm về Mầu Nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người. Bổng nhiên Chúa Hài Đồng hiện ra trong vầng sáng chói loà. Ngài hỏi thánh nhân :
- Giêrônimô, con có gì làm quà cho ta trong ngày Giáng Sinh không ?
- Lạy Chúa Hài Đồng, thánh nhân đáp, con xin dâng Chúa trái tim của con.
- Được lắm, nhưng còn gì khác nữa không ?
- và tất cả những gì con có thể.
- Con còn điều gì khác nữa không ?
- Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu.
Chúa Hài Đồng bảo :
-Này Giêrônimô, hãy dâng cho ta tội lỗi của con.
- Làm sao mà con dâng cho Chúa tội lỗi của con được.
- Ta muốn con dâng tội lỗi để ta tha thứ cho con. Đó là điều Ta mong đợi. Nghe thế thánh nhân bậc khóc.
CHỔ Ở CỦA CHUỘC
(hy sinh vật chất)
Có một con chuột sống trong một nhà thờ cũ kỹ ở một miền quê. Một hôm nó đi lang lang dạo mát bổng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền có dịp để tâm sự : “Tôi sống chui rúc dưới gầm một toà giải tội nên chẳng được yên thân vì lúc nào cũng có người đến phá giấc ngũ”. Nghe thế, con chuột bạn mới bảo : “Bạn hãy đến chổ của mình, ở đó yên tĩnh lắm thoải mái mà ngủ”. Chuột kia hỏi lại : “Ở đâu vậy”. Tôi đang ở trong thùng tiền giúp đỡ người nghèo ở dưới nhà thờ.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 15, 2008 7:05:10 GMT 9
CÁI LÝỠI (thận trọng lời nói) Khi còn là một ngýời nô lệ, triết gia Esope ðýợc chủ sai ði mua một thức ãn ngon nhất. Ông mua toàn lýỡi heo ðem về làm thức ãn. Ngýời chủ thấy lạ hỏi. Ông ðáp : “Lýỡi là chìa khoá tất cả những lý lẽ sự thật, nhờ nó mà con ngýời có ðýợc ðịa vị cao sang, ðýợc ngýời khác kính trọng”. Lần khác, ngýời chủ sai ông ði mua thức ãn dỡ nhất. Ông cũng mua toàn là lýỡi heo.Ông chủ ngạc nhiên hỏi. Ông giải thích : “Lýỡi là cái quý giá nhýng nó còn là vũ khí rất là lợi hại khi con ngýời dùng nó ðể hại ngýời khác, ðể bênh vực cho ðiều ác”. Tóm lại, cái lýỡi là con dao nguy hiểm, vừa có lợi nhýng cũng có hại cho con ngýời. CHA MAXIMILIEN KOLBE (hy sinh mạng sống) Một buổi sáng cuối tháng 7 nãm 1941, tại trại tập trung Oswiccim của Ðức quốc xã, có một ngýời výợt ngục, 10 ngýời khác sẽ bị xử tử (theo lệ của nhà tù). Các nạn nhân sợ hãi býớc ra, ðứng không vững, không dám kêu la. Hàng trãm tù nhân xếp hàng. Ngýời cai tù gọi tên ai thì ngýời ðó phải chết. Lần lýợt, gọi tên những ngýời tới số. Bỗng nhiên, có anh la lên : “Tôi còn vợ và con nữa. Tôi không muốn chết” Thế là cha Maximilien Kolbe býớc ra chịu chết thay cho anh ta. Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong thánh cho cha ngày 10.10.1082 tại Rôma. CON TIM RỘNG MỞ (Thánh Tâm Chúa) Nãm 1597, chính phủ Nhật ra lệnh cấm ðạo rất gắt gao. Nhiều nhà thờ bị phá huỷ. Ảnh týợng và sách Giáo Lý bị tịch thu hết. Các linh mục và giáo dân chạy trốn khắp nõi. Tại vùng Odawara, ngýời ta bắt ðýợc hai linh mục trẻ là Simauchi và Uzawa cùng nhiều ảnh týợng giải về Tokyo. Quan ðại thần Tsukamoto nhặt trong ðống ảnh týợng một týợng kỳ lạ : ngýời gì mà ðể trái tim ra bên ngoài. Tsukamoto là một nhà nho uyên bác, có óc thực tế thích tìm hiểu. Ông cầm týợng suy nghĩ và ðêm ðó ông không ngũ ðýợc. Gần ðến sáng, ông lấy viết ghi hai câu ðối : “Ðối ngoại hữu kỳ tâm- Ðối nội vô tâm giả”. Sau ðó, ông tìm hiểu ðạo và cảm nhận ðýợc chân lý. Sau cùng, ông xin ðýợc rửa tội âm thầm và vận ðộng triều ðình thả hai linh mục. RÝỢU (tác hại của rýợu) Ngày xýa có một con quỷ hiện về báo cho ngýời ðàn ông biết tin ông ta sắp chết. Nhýng nó bảo rằng : nó có thể cứu sống ông, nếu làm một trong 3 việc sau : Giết vợ, ðốt nhà và uống rýợu. Ngýời ðàn ông chọn phýõng án 3 là uống rýợu. Khi nhậu say rồi, vợ la mắng. Anh ta tức giận và ðâm vợ. Sau ðó, anh ta ðốt nhà và bỏ chạy. HOẠ PHÚC (Hoạ phúc không ngờ) Ngày xýa, có một ông lão ở gần cửa ải, mất một con ngựa. Ngýời ta ðến thãm và phàn nàn về sự rủi ro ðó. Ông ta ðáp : “Biết ðâu ðó là ðiều may mắn”. Vài ngày sau, con ngựa trở về và có một con ngựa khác ði theo. Có ngýời cho ðó là ðiều may mắn. Ðứa con trai của ông thấy con ngựa mới nên thích và cýỡi thử. Con ngựa chạy nhanh làm anh té gãy chân. Ngýời khác cho ðó là ðiều xui xẻo. Qua nãm sau, giặc tràn sang nýớc ông. Theo lệnh vua, các thanh niên trong làng phải ði ðánh giặc. Con trai ông bị tật nên không phải ði, nhờ ðó mà thoát chết. Việc họa phúc không biết ðâu mà ngờ ðýợc. CHIẾN DỊCH TIÊU DIỆT CHIM SẺ (quy luật tự nhiên) Vua nýớc Ðức Frederic tự cho mình là ngýời thông minh, tài cao. Ông tính nhý thế này : cứ mỗi nãm chim sẻ ãn hết 2 triệu thùng thóc trên toàn lãnh thổ. Vì thế, ông phát ðộng chiến dịch bài trừ chim sẻ. Giết ðýợc chim sẻ là có phần thýởng. Toàn dân hýởng ứng nhiệt liệt. Thế là, chim sẻ bị tiêu diệt hoàn toàn. Nhà vua vui mừng vì mình ðã thành công. Nhýng ðâu có ngờ, vừa khi mùa màng týõi tốt ðầy hứa hẹn thì bầy sâu ở ðâu kéo ðến phá hoại hoa màu. Ngýời dân không cách nào tiêu diệt ðýợc. Thế là vụ mùa thất trắng. Nhà vua thấy ðýợc mình ðã thất bại. Chìa Khoá Vào Thiên Ðàng (Chu toàn bổn phận) Một thầy dòng là thợ may cho cộng ðoàn. Ngày kia, ông ðau nặng và chờ chết. Ông nói với anh em trong nhà : “Ðýa cho tôi chìa khoá vào thiên ðàng”. Anh em nhìn nhau bối rối. Họ không biết ông muốn nói gì. Nhýng ông thýờng xuyên lập lại lời ðề nghị ðó. Cuối cùng, họ ðýa cho ông chiếc kim may. Một nụ cýời mãn nguyện làm gýõng mặt thầy già sáng lên và nói : “tôi làm việc mỗi ngày với chiếc kim này vì vinh danh Chúa. Bây giờ nó là chìa khoá mở cửa cho tôi vào thiên ðàng”. Mù Và Què (tinh thần cộng tác) Anh mù và anh què ðang ði thì gặp một vụ cháy. Họ rất sợ hãi. Anh mù chạy thẳng vào ðám lửa. Anh què la lớn : - Ðừng chạy về hýớng ðó. - Tôi nên chạy về ðâu ? - Tôi có thể chỉ cho anh ðýờng chạy, nhýng anh phải vác tôi trên vai, vì tôi không ði ðýợc. Nhờ ðó, tôi có thể nói cho anh biết con ðýờng thoát nạn. Anh mù ðồng ý và hai ngýời ðã thoát chết cháy. Nhiều Lời (lời nói) Cáo ðến cạnh gà trống và nói “không biết bạn có thể gáy hay nhý cha bạn không”. Gà trống liền trổ tài, nhắm mắt, cao cổ cất giọng gáy. Tức thì, cáo cắn con gà và chạy. Dân làng chạy ra và la lên : “kìa con cáo ðã bắt gà chúng ta” Gà nói với chú cáo : “anh nghe thấy chứ. Họ nói rằng anh ðã bắt gà của họ. Hãy nói cho họ biết, tôi là của anh, không phải của họ”. Cáo vừa mở miệng nói. Gà liền trốn thoát và bay lên cây nói xuống : “anh là kẻ nói dối. Tôi là của họ, không phải của anh”. Cáo ðập miệng xuống ðất và khóc : “miệng õi, mày nói nhiều quá. Nếu mầy không tiết kiệm lời nói, thì tao no bụng rồi”. Khiêm Tốn (vì ngýời khác) Ngày kia, thánh Clement Hofbauer xin ðồ viện trọ cho cô nhi viện. Ngài vào một quán ãn, có ba ngýời ðang ðánh bạc. Thánh nhân xin họ góp phần vào công việc từ thiện. Họ chýởi bới, rồi nhổ nýớc bọt vào mặt ngài. Thánh nhân lặng lẽ rút khãn ra lau mặt và nhẹ nhàng nói : “Ðó là phần ông dành cho tôi. Còn phần cho các em mồ côi ðâu ?” Tay cờ bạc kinh ngặc ðến thẹn thùng, rồi lấy tất cả số tiền ðýa hết cho ngài. Nýớc Mắt Sám Hối (sám hối là việc làm cần thiết) Ngýời Hồi Giáo có kể cho nhau nghe câu chuyện sau ðây : ngày kia Ðức Ala truyền cho một sứ thần xuống thế gian tìm xem ðiều gì tốt ðẹp nhất ðể ðem về trời. Sứ thần ðáp xuống ngay bãi chiến trýờng nõi máu của các vị anh hùng ðang chảy lai láng. Sứ thần lấy ít máu mang về cho Ðức Ala. Nhýng Ðức Ala không hài lòng cho mấy. Ngài bảo “máu ðổ ra cho tổ quốc là một ðiều quý giá nhýng chýa phải là ðiều tốt nhất” Sứ Thần ðành phải giáng thế lần nữa. Lần này, ngài gặp một ðám tang của một ngýời giàu có, rất là quảng ðại. Vì thế, nhiều ngýời ðýa ông ta ðến nõi an nghỉ và rõi nýớc mắt tiếc thýõng. Họ niệm nhang ðể tỏ lòng biết õn ông. Sứ thần liền thu nhặt hýõng thõm và ðem về trời. Nhýng Ala vẫn chýa hài lòng, ngài nói “dĩ nhiên lòng biết õn là một ðiều hiếm có, nhýng không phải là ðiều cao cả nhất”. Sứ Thần ðành phải xuống trần gian lần nữa. Sau nhiều ngày tìm kiếm mệt mõi, ngài ngồi lại bên vệ ðýờng. Ngài thấy một ngýời ðang khóc sýớt mýớt. Sứ thần ðến gần và hỏi “tại sao anh lại khóc”. Ngýời ấy giải thích “tôi ðã chìu theo cám dỗ và ðã phạm tội. Tôi ðã thất bại với bản thân của mình”. Sứ thần xin những giọt nýớc mắt sám hối và ðem về thiên ðình. Ðức Ala mỉm cýời và bảo “không có gì quý cho bằng tấm lòng của ngýời biết ãn nãn sám hối những lầm lỗi của mình, vì vô nhân thập toàn”. Hýởng Thiên Ðàng (ðiều kiện ðể vào thiên ðàng) Truyện kể rằng có một ngýời ðýợc diễm phúc tham quan thiên ðàng. Thánh Phêrô dẫn ông ta ði tham quan. Ông nhìn thấy một cái kệ. - Cái gì thế? Sao giống cái tai của con ngýời. - Ðúng thế, ðó là những cái tai của những ngýời chỉ biết lắng nghe Lời Chúa mà không biết thực hành. Một lát sau, ông thấy một cái kệ khác với những vật kỳ lạ. - Cái gì thế ? - Ðó là cái lýỡi của những ngýời chỉ biết nói Lời Chúa mà không thực hành bằng hai tay của mình. Muốn vào thiên ðàng. Chúng ta không chỉ lắng nghe, nói Lời Chúa mà còn thực hành trong ðời sống của mình nữa.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 15, 2008 7:12:16 GMT 9
Chúa Yêu Anh
(Chúa luôn hiện diện)
Một ngýời vô thần ðứng giữa công trýờng, ngửa mặt lên trời và thách thức Thiên Chúa.
- Trong 5 phút, hãy cho tôi chết ði.
Thời gian cứ trôi từng phút mà không thấy mình chết. Ông ta tuyên bố chẳng có Thiên Chúa trên mặt ðất này. Bất ngờ, một bà lão ði ngang qua và biết ðýợc câu chuyện ðó. Bà hỏi ngýời vô thần.
- Này ông, ông có ðứa con nào không ?
- Sao bà lại hỏi thế ?
- Nếu một ðứa con cầm dao ðýa cho ông và bảo giết nó ði, vậy ông có làm không ?
- Tức nhiên là không.
- Chúa cũng xử với con ngýời nhý thế. Ngýời không giết hại chúng ta. Ngài vẫn có ðó, cho dù con ngýời không nhận ra Ngài và phủ nhận Ngýời.
Hy Sinh
(gýõng hy sinh)
Ngày 10 tháng giêng nãm 1938, một chuyến xe lửa chạy từ miền Bắc xuống miền Nam nýớc Colombia. Bất ngờ bị trật ðýờng rầy. Nhiều hành khách bị thýõng và tử vong.
Trong số những ngýời bị thýõng, có cha Phénice, dòng thánh Gioan. Ngài bị thýõng nặng ở phần ruột. Nhận ra cha, các bác sĩ ðã vội ðến ân cần sãn sóc cho ngài. Nhýng cha ra hiệu cứ ði giúp ðỡ cho ngýời khác vì cha còn khoẻ. Phần mình, cha cố gắng hết sức ðể ði tìm những ngýời có ðạo và giải tội cho họ. Ðýợc một lúc, cha ngã quỵ và qua ðời. Các bác sĩ chạy lại và kịp nghe những lời thì thầm trên miệng cha “tạ õn Chúa ðã cho con có thời giờ ðể kịp làm những ðiều cần thiết cho ngýời anh em con”. Chiếc xe cấp cứu vội ðýa cha ðến bệnh viện, nhýng chỉ vài giờ sau ðó, ngài ðã trút hõi thở cuối cùng. Nãm ấy, cha mới có 36 tuổi.
Sự Tha Thứ Của Thiên Chúa
(tội lỗi)
Có một anh thanh niên ðã sa ngã phạm tội. Anh quyết tâm không bao giờ tái phạm nữa. Cho nên anh ra ðiều kiện : khi nào phạm tội, anh sẽ nhổ 50 sợi tóc. Nếu một ngày nào ðó không còn sợi tóc nào thì anh sẽ tự sát.
Chỉ vài tháng sau, soi gýõng thấy mình không còn sợi tóc nào trên ðầu của mình. Anh ta buồn quá vì mình ðã thất bại. Cho nên, tay lấy khẩu súng chỉa vào ðầu, dự ðịnh bóp cò. Lúc ðó, một Thiên Thần hiện ra và bảo “này anh, ðừng vội chết nhý thế, Thiên Chúa sai tôi ðến ðem cho anh món quà. Nào anh hãy mở ra xem”.
Anh thanh niên tò mò vội mở gói quà ra xem, ðó là bộ tóc. Trong một thoáng suy tý, anh nhận ra ðýợc ý của Thiên Chúa : luôn luôn tha thứ cho con ngýời.
Vết Thýõng
(tội vạ)
Một cậu bé có tính xấu là hay nổi nóng. Một hôm, cha cậu ðýa cho cậu một túi ðinh rồi nói với cậu “ khi nào con nổi nóng, con hãy ðóng cây ðinh vào tấm ván bằng gỗ”. Ngày ðầu tiên, cậu ðã ðóng nhiều cây ðinh vào tấm ván. Sau vài tuần, cậu ðã tập kiềm chế ðýợc tính nóng của mình. Từ từ, cậu khắc phục ðýợc tính xấu ðó.
Sau ðó, cha cậu ðề nghị : “khi nào không còn nóng giận, con hãy nhổ cây ðinh ra khỏi tấm ván”. Ngày này qua ngày khác, cậu ðã nhổ ðýợc hết ðinh.
Cha cậu nói với cậu rằng : “con hãy nhìn lên tấm ván gổ, không còn cây ðinh nào nữa, nhýng tấm ván ðó không còn nguyên vẹn nhý trýớc kia”. Cha cậu kết luận rằng : “những lầm lỗi mà ta xúc phạm ðến ngýời khác thì có tác hại rất là lớn và xem ra không thể xoá ðýợc”.
Giàu Nhýng Mà Nghèo
(không chia sẽ)
Kế hoạch hành khất ðể phát triển công tác truyền giáo tại Nãm Cãn ðang sôi sục trong tim. Mình nghĩ ngay ðến ông giám ðốc ở ðýờng Pasteur. Sáng nay, mình ði thẳng tới ðó. Trýớc mắt mình là một nhà cao tầng, ông giám ðốc ðang ðứng nói chuyện với ai ðó ở trýớc sân. Ông cao lớn và lực lýỡng. Cả con ngýời của ông toát ra vẻ uy quyền và giàu sang. Mình không quen ông nhýng lại biết rất nhiều về ông. Mình ðon ðả chào :
- Chào ông Bảy.
- Cha có chuyện gì thế ?
- Con ði truyền giáo ở Nãm Cãn thiếu thốn về mọi phýõng diện. Con ðến xin ông Bảy giúp ðỡ.
- Cha muốn tôi giúp cái gì ?
- Giáo ðiềm chúng con ðã chia thành nhiều nhóm, mỗi nhóm cần có cái xuồng máy ðể di chuyển. Vậy xin ông Bảy giúp chúng con cái máy Kohler 7.
Ông giám ðốc nhún vai một cái theo kiểu Tây phýõng, rồi ði vào hành lang và biến mất trong toà nhà ðồ sộ. Còn mình thì ðứng trõ ra ðó.(trích trong NKTG trang 29)
Áo Nhà Tu
(dấu hiệu bên ngoài)
Hôm nay, mình ði tìm ngýời Công Giáo, ðể từ ðó mình ðến với lýõng dân. Làm thế nào ðể tìm ðýợc họ ? Mình mặc áo dòng rồi cứ thả bộ trên ðýờng dọc theo bờ sông....bỗng có tiếng la lên :
- Cha!
- Ông có ðạo hả ?
- Dạ.
Ông Nãm móc ví ra, rồi ðýa cho mình một tấm hình thánh Antôn. Tấm hình củ kỷ và nhào nát. Ðã từ lâu rồi, ông Nãm cất ðạo trong lòng, không dám biểu lộ ra bên ngoài. Ðạo ðồng nghĩa với ðóng ðinh, ông hiểu nhý thế. Trong cãn lều của ông không có dấu hiệu gì của Công Giáo : không có ảnh Thánh Giá, không có hình Ðức Mẹ. Nhýng trong ký ức của ông có nhiều hình ảnh thân thýõng về ðạo, trong ðó có cái áo dòng ðen. Nếu không mặc áo dòng, thì hôm nay mình ðã không tìm ðýợc ông Nãm. Áo dòng õi, ta không thích màu ðen tang tóc của ngýõi, nhýng ta cần ngýõi, vì nhờ ngýõi mà ta tìm ra ðýợc những ngýời anh em thân yêu ðang trôi dạt trên mảnh ðất Nãm Cãn ô hợp này..(trích trong NKTG trang 54)
Nhà Bà Nãm
(Chúa quan phòng)
Mình xách chiếc môbylét ði một ðýờng, vừa ði vừa liếc, lòng thầm cầu nguyện ðể Chúa chọn cho ngýời truyền giáo một nõi dừng chân. Tự nhiên lòng mình cảm thấy ấm hẳn lên khi thấy một ngôi nhà có trồng cây lựu ở phía trýớc. Trái lựu to bằng nắm tay ðang ðánh ðu theo gió. Nhý một phản xạ, mình lái xe vào tới hàng ba, làm bộ ngắm nghía cây lựu.
Bà chủ nhà, nét mặt hiền từ, mái tóc muối tiêu, nghe tiếng xe nổ và tắt máy vội vàng chạy ra.
- Thầy kiếm ai ðó ?
- Chào bác. Cây lựu dễ thýõng quá, cho tôi ngắm một tí.
- Thì vô trong nhà uống nýớc ðã.
- Bác thứ mấy ðể tôi xýng cho dễ.
- Tôi thứ nãm. Thứ của ông nhà tôi.
- Thế bác trai ði ðâu rồi, bà nãm?
- Ông tôi mất từ lâu rồi.
- Bây giờ bà nãm ở với ai ?
- Có hai bà cháu à. Thầy ở ðâu mà vô ðây ?
- Tôi ở Ô Môn vào ðây dạy giáo lý. Sáng vô chiều về. Ði tới ði lui thấy bất tiện quá. Tôi muốn ở lại ðây luôn, mà chýa kiếm ðýợc chổ nào cho thuận tiện.
- Thì thầy ở ðây với tôi. Nhà rộng rinh à. Thầy ở ðây thì cũng nhý con cháu trong nhà chứ gì.
- Thế bà nãm theo ðạo nào ?
- Tôi chẳng theo ðạo nào hết. Thờ ông bà vậy thôi.
- Cám õn Chúa. Cám õn bà nãm. Vậy ngày mai tôi vào ở luôn nhé. (NKTG trang 84)
-
Tình Mẫu Tử
(ðau ðớn vì yêu)
Sau khi dạy giáo lý xong, có một bà hỏi Cha Hậu nhý thế này :
- Tôi thấy thầy giảng về Chúa. Cái gì của Chúa tôi cũng chịu hết, mà có một ðiều này là tôi không chịu. thầy giải thích ðýợc cho tôi thì tôi theo ðạo liền.
- Ðiều gì thế bà nãm?
- Thầy nói : Chúa yêu thýõng ngýời ta vô cùng, vậy tại sao Chúa lại ðể cho các bà mẹ sinh con cực khổ nhý thế : chín tháng cýu mang, sanh con rứt ruột, ba nãm bú mớm....tại sao Chúa không ðể ðàn bà sinh con dễ dàng nhý con gà, con vịt..vv.
- Bà nãm suy nghĩ hay quá. Vậy tôi xin tạm giải thích nhé. Chúa cho má bà nãm sinh ra bà nãm nhý con vịt cũng ðýợc. Nhýng tôi sợ rằng nếu mẹ sinh con không ðau ðớn, không cực khổ thì tình mẫu tử có thể bị giảm sút. Nếu mẹ không khổ vì con, thì e rằng con sẽ ít hiếu thảo. Vậy thì thay buồn Chúa, bà Nãm phải cám õn Chúa mới phải. (NKTG trang 85)
Hạt Giống Âm Thầm
(gýõng bà phýớc)
Hôm nay có một gia ðình xin theo ðạo. Ðó là niềm vui lớn của ðời truyền giáo, nhýng phải vẫn tìm hiểu.
- Tại sao gia ðình bà theo ðạo ?
- Tôi thích ðạo này từ lâu lắm rồi, từ hồi còn nhỏ tôi ði nuôi mẹ ở nhà thýõng Cần Thõ. Các bà phýớc ở ðó chãm sóc cho mẹ tôi kỹ lắm. Mấy bả thiệt là tốt.
Thế là mình ðã thu hoặch một vụ mùa mà ai ðó ðã gieo giống. Mình nhớ lại Lời Chúa trong Tin Mừng thánh Gioan “Ta ðã sai các con gặt hái nõi các con chýa từng lao ðộng vất vả” (Ga4,38). Ngýời vất vả gieo giống là các chị nữ tu Dòng Chúa Quan Phòng, phục vụ tại bệnh viện Cần Thõ. Họ âm thầm khiêm tốn chãm sóc, thãm viếng các bệnh nhân từ ngày này qua ngày khác. Hôm nay có thể họ ðã an nghĩ vĩnh viễn tại nghĩa trang nhà hýu Cù Lao Giêng. Hoặc có thể là những bà ngoại lýng còng, chống gậy ði lang thang. Họ ðâu có biết rằng hôm nay ở ðây mình ðang gặt những bông lúa mà họ ðã gieo từ xa xýa. (NKTG trang 103)
Yêu Kẻ Thù
(vấn ðề khó khãn)
Hôm qua mình khai triển bài Tin Mừng về tình yêu ðối với kẻ thù (Lc 6,27-38). Mình thao thao bất tuyệt. Khán giả há mồm mà nghe. Ai ngờ, sáng hôm nay, một dì phýớc báo cáo: Hôm qua tổ chúng con chia sẻ bài Tin Mừng mà cha ðã giảng, có một bà già bỏ về. Bà nói : “ Tôi không học ðạo nữa ðâu. Chúa dạy tôi yêu kẻ thù, tôi không theo nổi. Con dâu tôi hỗn quá, tôi không thể tha thứ ðýợc. Tôi thề ðến chết cũng không tha cho nó. Tôi ghi bãng ðàng hoàng...”.
Cha buồn trong lòng. (NKTG trang 198)
Không Tha Thứ
Một cha kể chuyện buồn nhất trong ðời Linh mục của mình :
Giáo xứ của ngài có hai dòng họ lớn : Nguyễn và Trần. Hai dòng họ này không thuận, hay cạnh tranh hõn thua với nhau..
Họ Nguyễn dâng cúng cho nhà thờ một sào ruộng , thì họ Trần sẽ dâng hai sào. Họ Nguyễn có ngýời ðậu tú tài, thì họ Trần cố gắng có ngýời ðậu cử nhân. Họ Nguyễn cho một ðứa ði tu thì họ Trần cho hai ðứa....và một lần kia có vụ tranh chấp ðất ðai, hai bên ðánh nhau. Ông tộc trýởng bị thýõng nặng.
Cha xứ ðến cử hành bí tích cuối cùng. Ðiều kiện ðể lãnh nhận bí tích là tha thứ. Nạn nhân quyết liệt từ chối. Cha xứ nãn nỉ :
- Chúa có tội gì ðâu, thế mà ngýời Do Thái ðóng ðinh ngài. Ngài tha thứ tất cả.
- Chúa khác, con khác. Thù này là thù truyền kíp. Con không thể tha ðýợc.
- Nếu không tha thứ, thì phải sa ðịa ngục.
- Thà xuống hoả ngục, chứ con không tha ðýợc.
- Cha sở giõ cây thánh giá và nói : “ Lạy Chúa, xin tha tội cho con và xin Chúa giúp con ðể con tha cho kẻ thù con”
Ông Nguyễn nhắm mắt lại, quay mặt vào vách không muốn nhìn cây thánh giá. (NKTG trang 199)
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Jun 15, 2008 7:12:53 GMT 9
Sức Mạnh Của Thánh Kinh
(thay ðổi phong tục)
Có một nhà thám hiểm vô thần ði tham quan vùng rừng rậm Châu Phi. Ðến một làng kia ông thấy một cụ già thổ dân ðang chãm chú ðọc một cuốn sách, tò mò ông ðến gần ðể xem thì ra ðó là một cuốn Kinh Thánh.
- Sách này ðã lỗi thời rồi sao cụ còn ðọc.
- Không biết ở xứ ông thế nào, nhýng ðối với chúng tôi Thánh Kinh ðã biến ðổi cuộc ðời chúng tôi.
Rồi ông cụ hýớng dẫn nhà thám hiểm ði xem một cái bể chứa ðầy xýõng sọ ngýời thật rùng rợn.
Cụ giải thích : “ Trýớc ðây, chúng tôi là một bộ lạc ãn thịt ngýời, nhýng nhờ ðọc cuốn Thánh Kinh này, chúng tôi nhận biết mọi ngýời là anh em nên không ãn thịt ngýời nữa. Nếu không ông cũng bị ãn thịt rồi”.
Nhà thám hiểm suy nghĩ và thấy ðiều ðó có lý, nên ðã thay ðổi suy nghĩ của mình.
Chúa Giúp
(ngýời khác là hình ảnh Thiên Chúa)
Trong một trận lụt, nýớc dâng cao ðến mái nhà. Có một bà ðạo ðức tay cầm tràng hạt cầu nguyện xin Chúa cứu mình.
Lúc ðó, có một con tàu cứu hộ ði ngang, thấy bà và kêu bà lên tàu. Bà không chịu lên nhýng chờ Chúa ðến cứu mình. Thế là, chiếc tàu ði cứu ngýời khác.
Sau ðó, có chiếc máy bay ðến cứu bà nhýng bà ta chẳng chịu lên. Bà chỉ mong Chúa ðến cứu mình.
Nýớc dâng lên cao. Bà chết. Khi chết, bà gặp thánh Phêrô. Bà trách sao Chúa không cứu bà trong khi bà ðọc kinh cầu nguyện rất là nhiều. Thánh nhân trả lời : “Chúa ðã cho tàu, rồi máy bay cứu bà mà không chịu lên”.
Tóm lại, Chúa không trực tiếp cứu chúng ta. Tuy nhiên Ngýời giúp chúng ta nhờ ngýời khác.
Lòng Tham
(tấm lòng ðối với Chúa)
Có một ông vua kia, dân chúng quý mến. Vua cho xây một cái giếng. Nhân ngày khánh thành, vua bảo dân chúng mỗi ngýời hãy mang nýớc ðến ðỗ vào giếng. Có ngýời mang một cái ly nhỏ, ngýời mang cái chén, ngýời mang cái ca. Chẳng thấy ai gánh thùng cả.
Sau ðó nhà vua phán: “Mỗi ngýời hãy mang vật ðựng nýớc của mình ðến kho nhà vua ðể lãnh vàng”.
Ai cũng phản ðối vì vua không báo trýớc ðể họ sử dụng những vật to hõn ðể mang nýớc.
Nhà Máy Sữa
(kỳ công Thiên Chúa)
Chuyện kể về cha già cố Lễ, trong dịp ngài thay mặt Ðức Cha Mỹ Tho ði họp do chính quyền mời. Trong cuộc họp, ngýời ta ca ngợi Ðảng và nhiều tiến bộ khoa học thời kỳ công nghiệp hoá hiện ðại hoá. Ngài cũng ðýợc mời phát biểu. Ngài ðã chứng minh cho mọi ngýời biết có những việc con ngýời ta không có khả nãng làm. Ngài cho ví dụ: có một nhà máy cung cấp mỗi ngày vài lít sữa chỉ bằng cỏ và rõm. Mọi ngýời ngạc nhiên. Cha giải thích ðó là con bò sữa. Nó chỉ ãn cỏ và rõm mà sản xuất ra sữa. Ðó là ðiều kỳ lạ mà Thiên Chúa ðã dựng nên. Con ngýời không làm ðýợc chuyện ðó.
Giá Trị Của Nụ Cýời
(quan tâm ðến ngýời khác)
Một anh quân nhân có bộ mặt rất xấu, không ai muốn làm bạn với anh. Khi anh chết, ngýời ta tìm thấy trong hộc bàn của anh có một lá thý với lời di chúc : tặng cho cô bé tên Perty bởi lý do rất ðõn giản. Cô bé cýời với anh ta khi hai ngýời gặp nhau trên ðýờng. Nhờ nụ cýời ðó mà anh ta cảm thấy bớt cô ðõn trong cuộc sống.
Chúng ta thýờng sống ích kỷ không biết cýời với ngýời khác, không biết chia sẽ quan tâm ðến những ngýời ðau khổ.
Tràng Chuỗi Mân Côi
(siêng nãng lần chuỗi)
Trên xe lửa từ ngoại ô về thủ ðô Paris nýớc Pháp, có một ông lão ngồi chãm chú lần hạt và chìm ðắm trong sự cầu nguyện. Ngồi cạnh ông là một sinh viên trẻ tuổi, quan sát những cử chỉ của cụ già với vẻ bực bội. Anh ta lên tiếng nói :
- Thýa cụ, thời buổi này mà ông còn mê tín dị ðoan nhý vậy. Tại sao không dành thời gian ðể xem các sách báo khoa học mở mang kiến thức hõn là ngồi lần chuỗi, thật là mất thời gian và vô ích.
- Thế anh có cách nào giúp tôi hiểu ðýợc những khám phá mới của khoa học ?
- Ông cho tôi ðịa chỉ. Tôi sẽ gửi sách cho ông. Ông tha hồ mà ðọc những ðiều hay trong ðó.
Ông cụ không nói gì và ðýa cho anh tấm danh thiến của mình. Anh thanh niên xấu hổ vì ðã ðọc thấy tên : Louis Pasteur, viện nghiên cứu khoa học Paris.
Tình Mẹ
(ðứa con phản nghịch)
Một câu chuyện xảy ra ở quận 11 (TPHCM) về tình thýõng của một ngýời mẹ.
Có bà kia, chồng chết, nuôi một ðức con trai học ðến lớp 9. Sau ðó, ngýời con nghĩ học ðể giúp ðỡ cho gia ðình. Một buổi ði làm về, bà mẹ chýa kịp nấu cõm, anh ta ðòi tiền ðể ãn một cái gì ðó. Bà mẹ bảo : “ Con õi! tiền mẹ không có sẳn, con lấy mì gói ãn ðỡ. Mẹ sẽ nấu cõm, chỉ vài phút nữa thôi là cõm sẽ chín”. Nhýng ngýời con không ãn, bỏ ði ðâu ðó, một lát sau về, anh ta dùng thanh sắt ðánh ngýời mẹ bất tĩnh. Ngýời ta ðýa bà vào bệnh viện ðể cấp cứu. Công an bắt ngýời con vào tù.
Sau ðó, bà ðýợc xuất viện. Bà làm ðõn xin công an thả con mình. Khi ra toà, mặc dù có ðõn xin bãi nại nhýng toà vẫn kết án 18 nãm tù vì tội ðánh mẹ mình. Ngýời mẹ ngất xỉu tại phiên toà. Ðó là tấm lòng của một ngýời mẹ thýõng con.
Tha Thứ
(tha thứ cho ngýời làm khổ mình)
Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, có một phụ nữ Hà Lan nhýng gốc là ngýời Do Thái. Gia ðình của bà bị quân lính Ðức quốc xã bắt giam vào trại tập trung. Ngýời chị của bà bị tra tấn, hành hạ và chết trong tù.
Nãm 1945, chiến tranh kết thúc. Bà may mắn còn sống sót và ðịnh cý ở Hoa Kỳ. Bà luôn nhớ ðến những ngày tháng ðầy kinh hoàng ở các trại tập trung, nhất là hình ảnh ngýời chị ðã chết trong tù.
Nãm 1980, ngýời ta mời bà ðến Berlin ðể nói về tội ác của Ðức quốc xã. Trýớc ðám ðông ở sân vận ðộng Berlin, bà ðã kể lại những ngày tháng kinh khủng nhất ở trong tù. Bà chia sẽ làm mọi ngýời không cầm ðýợc nýớc mắt. Sau khi bà trở về chổ ngồi, có một ngýời ðàn ông ðến nói với bà giọng xúc ðộng: “chính tôi và một số anh em nữa là những ngýời coi tù ở trại tập trung, bà có thể tha thứ cho chúng tôi không ?”.
Lặng ngýời ði một lát, bà nói : “ Thiên Chúa ðã tha thứ cho tôi bằng chính cái chết của con Ngài, sao tôi không thể tha thứ cho các ông.” Và bà ðýa tay mình cho ngýời ðàn ông ðó bắt. Hai ngýời không cầm ðýợc nýớc mắt.
Sống Giây Phút Hiện Tại
(sẳn sàng)
Thánh Ða Minh Saviô trong một lần ðang vui chõi với các bạn của mình. Cha thánh Ðon Boscô ðến và hỏi :
- Nếu trong 5 phút nữa chết, các con sẽ làm gì ?
- Ngýời thứ nhất : con sẽ ði xýng tội ðể ðýợc chết lành
- Ngýời thứ hai: con sẽ về thãm cha mẹ
- Ngýời thứ ba: con sẽ chạy ðến với Ðức Mẹ và ðọc kinh kính mừng ðể xin Ngýời trợ giúp.
- Còn thánh Saviô: con vẫn vui chõi.
Chúng ta thấy rằng thánh nhân luôn sẳn sàng. Ngài ðã dọn mình từng giây phút trong cuộc sống.
Tiền Bạc
(quá bận tâm về tiền bạc)
Có một câu chuyện dí dỏm trong truyện ngụ ngôn của Lafontaine nói về ngýời giàu có và anh thợ giày nhý sau : Ngýời giàu có thì ngày ngày lo lắng không biết cất giữ tiền của thế nào, cứ sợ thiên hạ ðánh cắp. Còn ngýời thợ giày thì cứ thanh thản vui vẻ ca hát.
Một hôm, anh nhà giàu hỏi bác thợ khâu giày :
- Anh có bao nhiêu tiền trong nhà bãng ?
- Tôi làm không ðủ ãn lấy tiền ðâu mà gửi trong nhà bãng.
Ngýời giàu có hào phóng ðã tặng bác thợ giày vài trãm tiền vàng. Có một số tiền lớn, bác thợ giày cũng suốt ngày lo toan việc cất giữ nó, nên không còn nghe ðýợc tiếng ca hát. Bác mất ãn, mất ngủ vì số tiền ðó. Cho nên, ngýời thợ giày ðem tiền trả lại cho ngýời giàu có. Thế rồi, ngýời ta nghe ðýợc tiếng hát của bác thợ giày mỗi ngày. Câu chuyện này ðúng với câu Lời Chúa : “ tiền của anh em ở ðâu thì lòng của anh em ở ðó” (Lc12,34)
Tình Mẹ
(hy sinh vì con)
Có một em bé luôn khen khuôn mặt của mẹ mình rất là ðẹp, thân hình cũng ðẹp nhýng chỉ có ðôi tay là không ðẹp, cho nên em thắc mắc với mẹ mình :
- Tại sao ðôi tay của mẹ nhý thế ?
- Tay mẹ xấu là vì lúc con còn nằm trong nôi, nhà ta ðã xảy ra một trận hoả hoạn. Mẹ ðang ở tầng lầu còn con ðang ở tầng trệt. Khi lửa cháy ðến gần chiếc nôi của con, bất chấp mọi nguy hiểm, mẹ chạy xuống cứu con khỏi ngọn lửa. Khi cứu ðýợc con, tay của mẹ bị phỏng. Dù tay mẹ thế nào, nhýng cứu ðýợc con ðó là niềm hạnh phúc của mẹ.
Em bé nói: “Mẹ õi ! từ nay con sẽ yêu ðôi tay của mẹ nhiều hõn nữa....con yêu mẹ nhiều lắm”.
Nghe Ðýợc Tiếng Chúa
(Thiên Chúa thing lặng)
Ði ngang qua một trụ tháp cao, tôi nói với ðứa bé :
- Em thấy tháp trụ này không. Ðó là ãng ten của ðài phát thanh.
- Không thể ðýợc vì em không nghe gì hết.
- Ấy thế mà trong mỗi phút, mỗi giây nó gởi ði nhiều tin tức.
- Nhýng nó câm nín mà.
- Em chỉ cần có máy thu thanh là có thể nhận ðýợc sóng và nghe rất rõ những tin tức.
Nhý một ãng ten, Thiên Chúa nhý có vẽ câm nín. Thực ra, mỗi giây phút trong cuộc sống, Ngýời luôn chuyển ði các sứ ðiệp của mình. Ngài cho chúng ta có một máy thu thanh là lýõng tâm của mình.
|
|
|
Post by Can Tho on May 15, 2009 5:16:39 GMT 9
Bài Thơ ‘tuổi Trẻ’ Và Tướng Quân Mcarthur ĐÒAN THANH LIÊM . Việt Báo Thứ Tư, 5/13/2009, 12:00:00 AM Bài thơ ‘Tuổi Trẻ’ và Tướng Quân McArthur Đòan Thanh Liêm Vào dịp cuối năm 1956, lúc tôi còn theo học tại trường luật Saigon, thì anh bạn cùng quê là Vũ Năng Phương có gửi cho tôi một tấm thiệp Noel trong đó có ghi tòan văn bản dịch của bài thơ “Tuổi Trẻ” (Youth) của Samuel Ullman. Lời lẽ thật là sâu sắc, đầy tinh thần lạc quan và rất ngắn gọn. Bài thơ đã có ảnh hưởng lớn lao đối với tôi từ trên 50 năm nay. Nhưng mãi đến gần đây, nhờ tìm kiếm trên internet, tôi mới có được nguyên tác bản văn bằng tiếng Anh mà tác giả Samuel Ullman viết vào năm 1918 lúc ông đã 78 tuổi. Tòan văn theo nguyên tác và bản dịch sẽ được ghi nơi Phần Phụ Lục kèm theo bài viết này. Xin trích một vài đọan tiêu biểu như sau : “Không một ai lại già cỗi đi vì những năm tháng trôi qua. Chúng ta già nua bởi vì ruồng bỏ lý tưởng của mình”.” “ Năm tháng có thể làm nhăn nhúm làn da chúng ta, nhưng sự từ bỏ tinh thần hăng say phấn khởi, thì mới làm tâm hồn chúng ta thêm héo hắt Nhưng điều quan trọng hơn cả là thông qua Tướng Douglas Mc Arthur, mà cả nước Nhật đã lấy lại được cái hào khí sinh động khiến giúp cho việc tái thiết và phục hồi quốc gia sau cuộc bại trận được mau lẹ tốt đẹp ít ai có thể ngờ được. Chi tiết câu chuyện này như sau : Tướng Mc Arthur rất tâm đắc với bài thơ “Youth” này, nên ông đã cho trưng bày bản văn ngay tại văn phòng của ông tại Tokyo, lúc ông làm Tư lệnh Lực lượng Đồng Minh đặc trách công việc giải giới và phục hồi nước Nhật sau chiến tranh. Rồi vào năm 1946, tờ tạp chí Reader’s Digest ấn bản tiếng Nhật đã phổ biến tòan văn bản dịch ra Nhật ngữ của bài thơ bất hủ này. Nhiều thành phần công chúng tại Nhật đã hân hoan đón nhận cái tín hiệu đày lạc quan, tích cực và năng động được gói ghém trong “bài thơ không vần này”. Và từ đó mà họ đã hăng say dấn thân vào công cuộc tái thiết quốc gia, khiến cho chỉ sau vài chục năm từ vị trí của một nước thảm bại vì thua trận, và bị tàn phá nặng nề, nước Nhật đã lấy lại vị thế của một cường quốc về mặt kinh tế, chính trị cũng như văn hóa như ta thấy ngày nay. Nhiều người Nhật đã tìm hiểu cặn kẽ hơn về tác giả bài thơ “Youth” này, bằng cách đến tại thành phố Birmingham thuộc tiểu bang Alabama, miền Nam nước Mỹ và thúc đảy cả dân chúng Mỹ tại địa phương để cùng hợp tác thiết lập Viện Bảo Tàng Samuel Ullman (Museum), bằng cách gây quỹ để mua lại căn nhà xưa của tác giả và biến nhà đó thành cơ sở của Viện Bảo Tàng do Đại học Alabama tại Birmingham (UAB = University of Alabama Birmingham) quản lý. Kết cục là chính người Nhật lại đã thán phục cái tinh thần lạc quan năng động của Samuel Ullman như được ký thác trong bài thơ bất hủ này, và họ đã gây ra được cả một phong trào quần chúng tự phát đi tìm hiểu về thân thế sự nghiệp của tác giả, hơn cả chính người Mỹ ở Alabama bởi cái tâm lý “Bụt nhà không thiêng”, nên đã ít chú ý đến con người xuất chúng như thế từ chính quê hương bản quán của mình. Tiểu sử của tác giả Samuel Ullman (1840 – 1920) có thể ghi vắn tắt như sau Ông sinh tại nước Đức năm 1840, khi lên 10 tuổi thì theo gia đình qua lập nghiệp tại miền Nam nước Mỹ. Ông gia nhập quân đội Miền Nam (Confederate Army) trong cuộc nội chiến 1860-65. Sau khi miền Nam thất trận, thì giải ngũ về lo chuyện kinh doanh nhỏ. Sau này ông làm việc trong ngành quản lý giáo dục và hết sức hỗ trợ cho các trẻ em da màu (người Mỹ gốc Phi châu) có cơ hội được đi học. Ông cũng dành nhiều sự dễ dãi cho giới phụ nữ được tham gia các sinh họat văn hóa xã hội trong cộng đồng người Do Thái tại miền Nam. Lập trường cấp tiến như vậy đã gây cho ông nhiều sự phiền phức, vì vào thời đó tại miền Nam nước Mỹ nạn kỳ thị chủng tộc vẫn còn rất ngặt nghèo, tàn bạo. Một con người với đầu óc tiến bộ như vậy, nên vào tuổi 78 ông đã sáng tác được bài thơ mà Tướng Mc Arthur (1880 – 1964) đã đưa sang phổ biến tại Nhật bản sau thế chiến 2, khiến gây được một chấn động mạnh mẽ trong tâm lý người Nhật, cũng như trong giới quân nhân Mỹ phục vụ tại Nhật hồi sau chiến tranh. Quả thật, sức mạnh của tư tưởng nhân bản tích cực và lạc quan phát xuất từ bài thơ này đã tạo ra được sự hưởng ứng mãnh liệt của quần chúng khắp nơi, đặc biệt là tại nước Nhật, ngay cả gần 100 năm sau khi tác giả đã qua đời. Người viết xin trân trọng giới thiệu với các bạn đọc Việt nam câu chuyện về bài thơ “Youth” thời danh này. Nhân tiện cũng xin ghi lời biết ơn và tưởng nhớ sâu sắc đến với anh bạn Vũ Năng Phương, tức nhà biên khảo Vũ Lục Thủy là người đầu tiên đã cho tôi được biết đến bài thơ này như đã ghi ở đầu bài viết này. Anh đã sớm từ giã cõi đời năm 2001 tại San Diego lúc chưa đày tuổi 70./ California, Tháng Năm 2009 Đòan Thanh Liêm Phụ Lục: Tuổi Trẻ Nguyên tác : Youth by Samuel Ullman (1918) (Bản dịch của Đòan Thanh Liêm - 2009) Tuổi trẻ không phải là thời gian của cuộc đời; đó là một trạng thái của tâm trí; đó không phải là chuyện của những cặp má hồng, của làn môi đỏ mọng và của cặp gối mềm dẻo; đó là chuyện của ý chí, phẩm chất của óc tưởng tượng, sức mạnh của cảm xúc; đó là sự tươi mát của nguồn suối nhân sinh. Tuổi trẻ mang ý nghĩa là sự thắng vượt của lòng can đảm trên sự rụt rè của ham mê, thích phiêu lưu hơn là ưa chuộng sự dễ dãi. Điều này thường có ở người trên 60 tuổi, hơn là trong cơ thể của người ở tuổi 20. Không một ai lại già cỗi đi vì những năm tháng trôi qua. Chúng ta già nua bởi vì ruồng bỏ lý tưởng của mình. Năm tháng có thể làm nhăn nhúm làn da chúng ta, nhưng sự từ bỏ tinh thần hăng say phấn khởi thì mới làm tâm hồn chúng ta thêm héo hắt. Sự buồn phiền, sợ hãi, sụ ngờ vực chính bản thân mình bẻ nát tâm hồn và biến tinh thần trở về lại cát bụi. Dù ở tuổi 60 hay 16, trong mỗi con tim con người đều có sự quyền rũ của sự kỳ diệu, sự đam mê như trẻ con với cái điều sắp xảy đến, và niềm vui của trò chơi cuộc sống. Trong sâu thẳm của tâm hồn bạn cũng như của tôi, thì đều có một trạm vô tuyến; bao lâu mà cái trạm đó còn tiếp nhận tín hiệu của cái đẹp, niềm hy vọng, sự nô nức, lòng can đảm và năng lượng của con người và của Vô biên, thì lúc đó bạn còn trẻ mãi. Khi mà giây ăng ten cụp xuống, và tinh thần của bạn bị bao phủ bởi lớp tuyết hòai nghi yếm thế, thì dù bạn mới có 20 tuổi, bạn đã già nua cằn cỗi rồi; nhưng nếu giây ăng ten đó vẫn mở bật lên để đón bắt những đợt sóng của lạc quan, thì có hy vọng là bạn có thể chết trẻ vào tuổi 80./ Ghi chú : Tác giả Samuel Ullman mất vào năm 1920 lúc ông được 80 tuổi. Rõ rệt là ông vẫn còn tươi trẻ khi lìa đời, đúng như đọan sau cùng của bài thơ bất hủ, mà ông viết vào năm 1918 lúc” mới có 78 tuổi “./
ĐÒAN THANH LIÊM
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 5, 2009 0:47:00 GMT 9
NỤ CƯỜI NGƯỜI XƯA
Ngu Giả Trần Liêm Khảo
Trong tập “Cái Cười Của Thánh Nhân” của Nguyễn Duy Cần đề cập đến cái “Ngôn Vô Ngôn” trong văn u mặc. Tác giả cho rằng lối văn u mặc khác nào như bóng mờ mờ ảo ảo, hư hư thực thực, nó vừa kín đáo, vừa thâm trầm... bàn không bao giờ cạn lời, nghĩ chẳng thể nào hết ý (*)
“Lâm Ngữ Đường đã nói: “U mặc là một phần rất quan trọng của nhân sinh, cho nên khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi, ắt là có một phần rất quan trọng của nhân sinh, mới biết khi mà nền văn hóa của một quốc gia đã đến một trình độ khá cao rồi, ắt phải có một nền văn hóa u mặc xuất hiện” (trang 18 Cái cuời của Thánh Nhân). Và trang 19, có đoạn: “Tinh thần u mặc của nước Tàu ngày xưa cũng đã thấy bàng bạc ngay trong kho tàng ca dao của Trung Hoa. Trong Kinh Thi thiên Đường phong, một tác giả vô danh, vì thấy rõ cái “trống không” của cuộc đời hết sức vô thường của con người, đã trào lộng hát lên:
“Ngài có xe có ngựa, sao không cỡi, không tế...
Đợi lúc chết rồi, kẻ khác hưởng đi mất thôi!”
Có nghĩa là... nếu ông không chịu hưởng thụ thì đến khi ông chết rồi kẻ khác sẽ thay ông hưởng hộ những cái gì ông có... Ngựa ông người khác sẽ cưỡi, sẽ tế, tiền của ông họ sẽ ăn tiêu phè phỡn, trong khi đó thì cái xác ông bị vùi sâu dưới lòng huyệt lạnh...
“Than ôi! xe ngựa của ông thì thiên hạ cưỡi, thiên hạ tế!
Đợi đến kiếp sau ông đầu thai sống lại thì ngựa ông sẽ què chân, tiền bạc sạch sành sanh, mà phải để cho mặc ủ màu chau... !”
Nụ cười người xưa thường bằng mọi hình thức để làm vui lòng người đọc, đẹp dạ người nghe. Nó hồn nhiên và mạnh mẽ. Nó có thể bứng cả cái kiêu ngạo của con người chỉ bằng một lời nói bóng gió. Nó có thể lấp cả cái bề tối tăm của một kẻ đắm chìm trong sân si chỉ bằng một hơi thở nhẹ nhàng khác thường trong lời nói hay bằng một giọng văn hài hước... Như câu chuyện “Thiền” nói về Tô Đông Pha - nhà thơ lừng danh có lắm giai thoại làm cho người đời thích thú.
Tô Đông Pha đời Tống mộ đạo Phật. Người bạn rất thắm thiết của ông là Phật Ấn - nhà thiền sư lỗi lạc đương thời. Tu viện Phật Ấn nằm về phía Tây sông Dương Tử còn Tô Đông Pha có ngôi nhà dựng lên tại phía Đông. Hôm nọ Tô Đông Pha lặn lội đến thăm Phật Ấn, chẳng may nhằm hôm nhà sư đi vắng. Ngồi đợi suốt mấy giờ liền mà nhà sư vẫn chẳng thấy về. Đâm chán hô Tô bèn lấy tờ giấy viết nguệch ngoạc mấy hàng trong đó có mấy giòng: “Tô Đông Pha - người Phật tử vĩ đại này dù có tám ngọn gió thổi cũng chẳng hề lay động được” đoạn để trên mặt bàn, nhưng cũng chưa rời thiền viện đi vội còn cố nấn ná ở đợi thêm trong chốc lát nữa, nhưng bóng cà sa kia vẫn vắng biệt tăm hao.
Thấm mệt, họ Tô đứng dậy bỏ ra về. Đến khi Phật Ấn trở về thiền viện nhìn thấy tấm giấy của Tô Đông Pha đặt trên bàn cầm lên đọc, bèn lấy bút viết thêm mấy chữ: “Nhảm nhí! Nhảm nhí! Những gì ông bạn vừa nói chẳng hơn gì “cái rấm” (tức cái trung tiện) của ta. Xong xuôi, nhà sư bèn sai chú tiểu mang sang cho ông bạn nhà thơ khét tiếng họ Tô. Tô Đông Pha đọc xong lời lăng mạ của Phật Ấn bèn bước ngay xuống thuyền sang sông gặp nhà sư để hỏi cho ra lẽ.
Khi vào đến thiền viện họ Tô nắm ngay lấy tay Phật Ấn gầm lên như sư tử rống:
- Thầy lấy quyền hạn gì mà thóa mạ tôi bằng lời lẽ thô tục như vậy? Tôi há đã chẳng phải là một Phật tử mộ đạo chỉ chuyên chú tâm về việc tu hành đó sao? Ông vốn với tôi là chỗ thân tình mà còn viết lên các lời lẽ thóa mạ như vậy, huống hồ với kẻ khác ông còn viết lên những lời tục tiểu như thế nào nữa?
- À, ông anh bảo tôi viết như thế nào mà giận đến như thế?
- Còn hỏi lại nữa à? Ông dám bảo chỉ mỗi một cái “đánh đùng” hôi hám cũng đủ làm cho họ Tô này bay mất tiêu... ông nghe rõ chưa?
Phật Ấn đưa mắt nhìn ông bạn thân của mình trong cơn thịnh nộ, đợi đến khi họ Tô dứt lời, nhà sư bèn cười lên một tiếng:
- “Ông bạn Tô Đông Pha ơi! Người Phật tử vĩ đại của tôi đã viết rõ rành rành là dù có tám ngọn gió cũng khó lòng lay chuyển nổi... Ôi! Lời văn vẻ nghe oai hùng lắm thay! Ấy mà giờ đây chỉ mới mỗi một cái “rấm” cũng đủ làm cho ông anh bay bổng đến tận thiền viện của bần tăng tận này sang sông rồi!”
Nói xong Phận Ấn cười nghiêng ngửa, khiến họ Tô cũng phải ngửa nghiêng cười.
Thế mới hay cái câu “bát phong suy bất động” của họ Tô tự cho mình cứng như đá, vững như đồng, đụng nhằm phải lời đáp lại “nhất thí đả quá giang”của nhà sư Phật Ấn để đo lường cái “ngộ” của ông bạn thấm thiết chí thân họ Tô có vĩ đại như lời lẽ ông ta viết đó trong mảnh giấy đó không?(*)
Liêm Khảo
* “Bát phong suy bất động, nhất thí đả quá giang”: Có nghĩa, tám ngọn gió thổi cũng không thể lay chuyển được nổi, (mà) chỉ một cái “Rấm” cũng đủ đẩy qua bên này sông rồi!”
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 5, 2009 0:55:36 GMT 9
1001 CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Ông Thái Kiến Hoa, Center Rd. Dreell Hill, PA. 19026: Tin Cựu Tổng Thống VNCH đã thất lộc tại Boston, tang lễ được cử hành long trọng, đồng thời sau đó một Thánh lễ cầu hồn ngay tại San Jose tại Thánh đường St. Patrick tại San Jose với sự tham dự với hàng ngàn người cùng hàng ngũ tướng lãnh cùng các cấp trong binh chủng VNCH trước kia... do Đức Ông Đỗ Văn Đỉnh chủ tế... Tôi sực nhớ đến vụ tai tiếng 16 tấn vàng mà có nguồn tin đồn đãi là Cựu TT Nguyễn Văn Thiệu đã mang đi ngày ra đi ngoại quốc tị nạn... Chuyện này có hay không? Bà cụ có nghe hay biết điều này xin mách hộ cho.
Trong những tháng đầu ngày mất nước vào năm 1975, tôi cũng nghe người ta đồn đãi như vậy, nhưng chẳng bao lâu sau đó, thì nguồn tin này đã được chính ngay ông Nguyễn Xuân Oánh - cựu Thống Đốc Ngân Khố Quốc Gia - người có nhiệm vụ quản thủ tài sản to lớn này cho đất nước, ở lại cộng tác với Cộng Sản Việt Nam - tuyên bố là 16 tấn vàng của quốc gia VN hiện còn ở trong kho Ngân Khố. Từ đó nguồn tin Cựu TT Nguyễn Văn Thiệu mang đi số vàng hàng chục tấn đó được hoàn toàn bạch hóa... Chuyện này hoàn toàn sai lạc.
Cụ Tôn Thất Viên Mãn Borcelone Plaza Westminster, Aali. Một hôm tôi được hân hạnh biết Hoàng Tử Bảo Ân, thứ nam của cố Cựu Hoàng Bảo Đại, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, tôi sực nhớ lại "Ngọc Như Ý" mà các sử sách Trung Hoa ghi lại về bảo vật này, đem bàn thảo nhưng Hoàng tử Bảo Ân không biết rõ loại ngọc như ý này. Tôi muốn biết ý nghĩa của ngọc như ý này bà cụ biết xin chỉ giáo cho. Thành thật cám ơn cụ vô cùng.
Thời Ngũ Đại Tề Cao Đế Tiêu Đạo Thành từng ban thưởng cho Minh Tăng Thiệu là một ẩn sĩ lúc bấy giờ một cây như ý bằng thân trúc, cũng như Chiêu Minh Thái Tử được Lương Võ đế Tiêu Diễn một cây như ý bằng sừng con tê giác... Đồng Xương công chúa đời Đường đặc biệt có cây ngọc như ý trông giống như cây đào ngọc, phía trên đeo bảy lỗ rất sáng... Giá trị của cây như ý này là khi đeo vào người cảm thấy toàn châu thân mát mẻ khiến cho tâm hồn thoải mái tràn ngập cả sự vui vẻ... theo như ý muốn. Tưởng cũng nên biết Ngọc như ý thường lấy ngọc điêu khắc hình dạng như nấm linh chi được xem là loại thần dược mọc trên núi cao...đến cả ngàn năm mới nở một lần. (Ngày nay Trung Quốc mang xuống đồng bằng trồng, và sinh sôi nẩy nở mau chóng như các loại nấm thông thường).
Về sau, đến đời Thanh, còn lưu lại rất nhiều bức tranh vẽ hình cung phi mỹ nữ, người nào cây ngọc như ý. Nghĩa của Ngọc như ý là "xứng tâm vừa ý". Người ta thường dùng vật quý này để chúc thọ cho nhà vua, nhất là dùng loại "Cửu Cửu Như Ý" gồm có chín cây ngọc như ý đựng trong một cái hộp, dâng lên cho nhà vua phải đủ 9 hộp như vậy. Con số 9 biểu tượng cho số dương lớn. Chín hộp dâng lên nhà vua tức biệu tượng cho chín lần chín là con số lớn nhất, phúc phần nhất, cao cả nhất trong trời đất. Câu: "Cửu ngũ, phi long tại thiên, lợi kiến đại nhân." Câu này trích ra từ Kinh Dịch tiêu biểu cho sự tôn quý của bậc thiên tử... ý nghĩa nói lên sự trường thọ... v.v... Còn rất nhiều điển tích nói về Ngọc như ý, có dịp tôi sẽ cùng cụ lạm bàn.
Bà Trần Xuân Hương Brookhurst Orange County: Bà cụ có nhớ bài thơ "Tứ Thời" của nhà nữ sĩ Ngô Chi Lan không? Nếu có xin bà cụ nhắc hộ.
Bài "Tho Tứ Thời" đo như sau:
Mùa Xuân
Khí trời ấm áp đượm hơi dương,
Thấp thoáng lâu đài vẻ ác vàng.
Rèm liễu líu lo oanh hót gió,
Giậu hoa phấp phới bướm châm hương.
Mùa Hạ
Gió bay bông lựu đỏ tơi bời,
Tựa gốc cây đu đứng nhởn chơi.
Oanh nọ tiếc xuân còn vỗ cánh
Én kia nhớ cảnh cũng gào hơi.
Mùa Thu
Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ,
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa.
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm,
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa.
Mùa Đông
Lò sưởi bên mình ngọc lửa hồng,
Giải buồn chén rượu lúc sầu đông.
Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa,
Gió phẩy mưa băng giải mặt sông.
Cụ Hoài Nam Nhân Raleigh Dr. Carrollton, TX.75007: (Qua Trương Thị Thu - Philadelphia: Gần đây người ta lại bàn về "Sấm", tôi bỗng sực nhớ lại sấm Vạn Hạnh. Bà cụ có biết gì về câu chuyện này chăng? Nếu bà cụ nhớ xin ghi lại cho. Trân trọng đội ơn bà cụ.
Tôi xin tóm lược như sau: "...Khi hoàng tử Thầm lên làm vua chạy đến thôn Lưu Gia Hải Ấp gặp được người thiếu nữ có nhan sắc, con của Trần Lý hành nghề ngư phủ lấy làm vợ và phong Lý tước minh tự còn phong cho cậu vợ là Tô Trung Từ làm chức Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Cũng kể từ đấy nhà Lý suy sụp hẳn, quần thần thì ganh ghét tị hiềm ai cũng nghĩ đến tư lợi... mà quên hẳn bảo vệ quốc gia. Đến thái tử Sảm kế vị xưng hiệu là Huệ Tông, lại càng tỏ ra nhu nhược, đam mê gái họ Trần, sách lập Trần thị làm nguyên phi, và dùng cậu Tô Trung Từ làm thái úy phụ chánh v.v...Về sau vua Huệ Tông mắc phải bệnh điên, nguyên nhân, cứ theo Việt sử Thông giám Cương mục thì, nhà vua bị trúng ác phong, dần dần biến chứng cuồng dịch, khi xưng mình là tướng nhà trời giáng hạ, lúc thì cầm giáo và khiêng mộc múa may cả ngày lẫn đêm... Lắm lúc nhà vua uống rượu say khướt ngủ li bì giao tất cả quyền hành cho anh vợ là Trần Tự Khánh v.v... Hoàng hậu chỉ sinh được hai nàng công chúa. Nàng công chúa lớn là Chiêu Thánh, còn nàng công chúa thứ hai là Thuận Thiên. Vì nhà vua mắc bệnh điên nên triều thần bắt phải nhường ngôi cho con gái mới lên bảy tuổi láy đế hiệu là Lý Chiêu Hoàng.
Nhà Lý tuyệt tự nên nên sang tay họ Trần. Việc này nhà sư Vạn Hạnh đã tiên tri cho Lý Thái Tổ. Bài sấm đó như sau:
Thụ căn liễu liễu
Mộc biểu thanh thanh
Hòa đao mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông a nhập địa (*)
Dị mộc tái sinh
Chấn cung hiện nhật
Đoài cung ẩn tinh
Lục thất niên gian
Thiên hạ thái bình
Nghĩa:
Rễ cây liễu liễu
Hoa lá xanh xanh
Lúa đao cây rụng
Mười tám con thành
Đông a nhập địa (*)
Cây khác ắt sinh
Nhật xuất phương Đông
Phương Tây sao lặn
Sáu bảy năm nữa
Thiên hạ thái bình!
(*) Đông a: họ Trần. Cho thấy cơ đồ nhà Lý sang tay nhà Trần.
Ông Lê Văn Phan Reseda California: Nghe các thầy Đông Y bảo:Trong các loài thú, chỉ có loài "hổ" là có thể chữa được nhiều bệnh. Vậy có đúng vậy không? Bà cụ biết giải hộ. Nếu được bà cụ chỉ cho cách nấu cao hổ cốt thì thật không gì quí bằng!
Đúng vậy. Máu của hổ giúp cho ta có trí nhớ lâu bền. Móng chân cọp chữa các chứng kinh phong, tà khí. Răng của cọp chữa các bệnh lao trùng, phong độc hoặc bị chó dại cắn. Tim của cọp chữa ác mộng, mồ hôi trộm.Gân hổ đốt cháy còn tính chữa chứng âm suy, cũng như cổ họng mọc mụt. Da hổ đốt cháy hiệu lực phi thường trị được bệnh báng nước, sốt rét.(điều đặc biệt lưu ý, đừng bao giờ nằm trên da cọp nếu bị các lông rơi rụng nhằm vào vết thương sẽ làm lở loét sinh trùng v.v... Ngoài ra còn nhiều bộ phận của hổ chữa trị các bệnh nan y khác. Người ta lấy 10 bộ xương cọp đúng ý mình mang ngâm nước Địa Cốt Bì mà ta thường gọi là củ khởi độ hai ngày. Sau đó lấy ra dùng dao bằng tre hay miệng chén bát (không được dùng đồ sét) cạo tất cả thịt gân ra cho thật sạch, rồi lại ngâm vào với nước muối nguyên chất cũng trong vòng 2 ngày. Cuối cùng vớt ra đập thành từng mảnh nhỏ, nạo hết tủy trong xương bỏ, đoạn rửa sạch mang phơi khô khoảng được 3 nắng xong mới nấu nước đậu xanh ngâm, để chừng 2 ngày nữa lại vớt xương ra, phơi thêm nắng 3 ngày... Xong đâu đó mới ngâm xương cọ với nước gừng nguyên chất...Cuối cùng sao cho thật khô lúc bấy giờ mới nấu thành cao được. Có thể kỳ đến tôi sẽ nói về cách nấu cao.
Bà Nguyễn Đình Lộc Monterey Park: Trong Thần Chú Phật Đình Thủ Lăng Nghiêm, tôi làm rách mất từ câu thứ 14 đến 18. Bà cụ nhớ nhắc hộ cháu. Cám ơn bà cụ nhiều.
Các câu bà bị mất đó như sau: 14. Na mô bạt ra ha ma nê. 15. Na mô nhân đà ra gia. 16. Na mô bà già bà đế.17. Rô đà ra da. 18.Ô ma bát đế.
Ba Trương Vân Cứ San Jose: Bà cụ có biết điển tích của câu tục ngữ "Vẽ Rắn Thêm Chân"không? Nếu được xin cho cháu được nghe về điển tích của câu này.
Vẽ Rắn Thêm Chân" có thể câu này được dịch ra từ câu tục ngữ Trung Hoa. Đó là câu: "Họa Xà Thiêm Túc". Thường thường người ta muốn nói lên một sự việc gì không đáng vào đâu mà cứ vẽ vời thêm ra hoặc để quan trọng hóa... Theo Chiến Quốc Sách: “Nước Sở có Miếu Vũ, chủ nhân của ngôi miếu này mướn mấy người đế ở canh giữ.
Một đêm nọ, chủ nhân mang đến một bầu rượu để cùng nhau chia uống lấy chút làm thảo. Nhìn thấy bình rượu quá nhỏ biết khó lòng chia đều, cùng nhau bàn thảo: “Nhiều người uống không thể nào đủ được nên mở một cuộc thi, kẻ thắng sẽ trọn quyền nhâm nhi một mình cả bầu rượu này". Một người trong bọn hỏi: “Vậy trong bốn được xem là nhất trên cõi đời này là "Cầm, Kỳ, Thi, Họa" ai thích thi môn nào tự nói ra. Tất cả đều kháo mình là có tài "Vẽ" thiên hạ vô địch. Thế là họ hè nhau thi "Vẽ". Trong bọn bắt đầu dốc cả sức mình để vẽ cố đạt được chức khôi nguyên... Bỗng trong thoáng chốc có tiếng reo lên: "Tôi xong trước rồi." Anh này vừa nói vừa với tay lấy chai rượu ôm vào lòng, rồi nghêng ngang cao ngạo nói:
- Tài của tớ chẳng phải chỉ bấy nhiêu không đâu, tớ còn có thể vẽ thêm chân nữa...
Trong bọn có người đến nhìn bức tranh vẽ:
- Này, này... đừng có xạo nha... Rắn đâu có chân mà vẽ? Giao lại bầu rượu đây... Chỉ được có cái... bịa chuyện ra vẽ... vời.
Người vẽ xong trước chịu thua... đành nằm giương mắt nhìn đồng bọn cùng nhau ngồi đánh chén. Kể từ đó phàm ai thấy người ta nói chuyện mà thêm thắt những điều không có hoặc chẳng nhằm vào câu chuyện, thường bảo là "Vẽ rắn thêm chân".
Cụ Trương Trọng Thu TX. (Qua Thái Kiển): Bà cụ còn nhớ bài Dịch Thủy không? Hình như bài này của Lạc Tân Vương?
Đúng. Bài Dịch Tủy là của Lạc Tân Vương. Bài thơ đó như sau:
"Thử địa biệt Yên Đan,
Tráng sĩ phát xung quan,
Tích thời nhân dĩ một,
Kim nhật thủy do hàn."
Cụ Ngô Tất Tố đã dịch:
Đất này giã cậu hoàng Yên,
Tóc người tráng sĩ dựng trên mái đầu.
Người xưa khuất bóng đã lâu,
Ngày nay còn thấy nước sâu lạnh lùng.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 5, 2009 0:59:20 GMT 9
LẦN GIỞ TRƯỚC ĐÈN
Đặng Trần Huân
BỨC PHÙ ĐIÊU KHẮC CẠN
Tác phẩm của Nguyễn Thị Thảo An gồm 12 truyện ngắn lấy truyện Bức Phù Điêu Khắc Cạn làm tên chung.
Truyện Xóm Hưu trong 12 trang giấy đã có tới mấy cái chết thật cô đơn buồn bã, những lục đục xích mích của một số người Việt mới đến Mỹ chung đụng mà chẳng thương nhau, được mô tả sáng sủa nhưng thản nhiên, tưởng như không hề có một xúc động nào, như một bức tranh, một bức phù điêu của một khác bàng quan, một người thợ ảnh bấm mấy kiểu hình.
Truyện chính Bức Phù Điêu Khắc Cạn bắt đầu bằng cái chết của bà ngoại người kể chuyện, lộn về những đời xa xưa, từ nhân vật có thật trong lịch sửû là ông Nguyễn Văn Thành thời Trịnh Nguyễn phân tranh, rồi lần mò theo gia phả được giấu kín và phát giác sau , tác giả kể về những thăng trầm của tổ tiên rồi tới những đời gần thời Việt Minh cướp chính quyền cho tới những năm tháng sau ngày 30/4/75.
Điều mọi người không ngờ, hai mươi năm tập kết, cậu Chín trở về làm dân trơn. Cậu không nhận một chức vụ nào trong Đảng. Khó tin hơn nữa cậu vẫn độc thân như hồi trẻ. Cậu cười, giải thích, không vướng bận dễ xin về (tr.181).
Tác giả nói về sự thức tỉnh của người nông dân trước chế độ công sản bằng hành động:
Khi mọi người thấy cậu Chín nói đúng thì đã muộn. Chế độ mới không chấp nhận người cũ,họhàng tôi lũ lượt vào tù. Mọi người vỡ lẽ, hòa bình cũng có chia lìa, chết chóc không khác chiến tranh. Cậu Tư tìm cách trấn an, bất cứ thời nào, nông dân cứ theo sau cái cày cũng sống. Nói vậy, nhưng cậu lật đật cắt ruộng, chia đều cho các con (tr. 182).
Cứ nhẩn nha như thế dù nội dung câu chuyện chứa nhiều đau thương cho đến cái chết của cậu Chín khi bị xã hội chủ nghĩa lừa đảo phải tự tử:
Cậu Tư kể, mọi người nằm trong mùng nhìn ra, thấy cậu Chín rót từng chén trà, ung dung uống. Không ai ngờ cậu đang uống thuốc độc. (tr 186).
Truyện Đỉnh Trời Tròn giống như một du ký về sinh hoạt ở tiểu bang Alaska xa xôi. Trong khung cảnh lạnh lẽo, đàn bà rất quý hiếm này lạc lõng một cặp vợ chồng người Việt đi tìm sinh kế.
Một người phía sau cười cợt, ACứ ở lâu rồi biết, một đàn bà quý hơn mười lò sưởi. A Cả bọn nhao nhao, ALuật xứ này, tội cướp vợ nặng hơn tội giết người.” Cả đám xúm cười hô hố. Oâng già bước tới vỗ vai, AAnh mang vợ , là mang cả gia tài theo đó, biết không?” (tr. 101).
Ngươi vợ Việt thương chồng. Một bữa anh đi ra ngoài cả ngày không mang súng, khiến chị vô cùng lo lắng. Mãi tới buổi chiều:
Thấy anh về, vợ vất cuốn sách, vụt ôm chầm rồi rơi nước mắt. Vợ nói, hỏi James, hắn bảo anh ra ngoài cả ngày lại không mang súng, đâm sốt ruột. Cảm động, nhưng lúng túng không nói được gì, anh ngượng nghịu vuốt từng lọn tóc mềm của vợ . . . Anh cụng trán vợ, gương mặt trắng mịn chợt tối sầm. Nhìn trong mắt, hình như trăng sao cũng tắt. (tr. 110, 111).
Nồng nàn thế đấy, nhưng vì sinh kế hay lạnh lẽo đã đi đến kết thúc rất buồn do quyết định bất ngờ của cái gia tài sống:
Về tới nhà, không thấy vợ. Chạy qua bên James, cửa đóng kín. Trên có gắn một miếng giấy đề tên anh. Ngạc nhiên, mở ra xem, trong vỏn vẹn có mấy chữ. “Chúng tôi chân thành xin lỗi.” Phía dưới đề: James Barrett và Di Nguyen (tr. 114).
Những truyện Mrs Jeans, Tình Ca Con Dúi, Khi Trời Không Có Mây và Chiều Đi Qua Làng Kinh có những đoạn buồn nhưng tác giả cũng chỉ ghi chép nhẹ nhàng mà gây cho độc giả ngậm ngùi khi đọc hết.
Đặc điểm văn Nguyễn Thị Thảo An ngắn gọn mà súc tích vừa đủ. Nhưng lối văn quá cô đọng này lại thất bại trong truyện Tên Thị Nữ Xứ Đàng Trong. Truyện xây dựng dựa theo những tài liệu lịch sử có rất nhiều sự kiện, rất nhiều nhân vật nên ngắn gọn, cô đọng quá sẽ trở thành khô khan, nhạt nhẽo và khó hiểu.
Sự ngắn gọn đôi lúc quá tay cũng làm cho câu thiếu, hụt hẫng như câu: “Khi chị ra phía sau. (chấm hết)” (tr. 167). Cũng có những từ sai có thể đo đánh máy vội vàng, ví dụ như: bush pilot (tr. 98), gềnh (tr. 99, 127), sát nhập (tr. 179) v.v... (đề nghị sửa: bus pilot, ghềnh, sáp nhập).
Điều đáng nói không chỉ ở truyện của Nguyễn Thị Thảo An mà là ở những câu trả lời phỏng vấn của tác giả. Độc giả hẳn đã đọc những câu phát biểu của nhiều nhà văn nữ khác khi duyên dáng, khi cầu kỳ, khi sâu sắc nhưng ít có ai khiêm nhường như Nguyễn Thị Thảo An. Những câu trả lời khá mộc mạc như về sứ mạng nhà văn bà nói: “Nhưng khi dùng hai chữ ‘sứ mạng’ thì tôi hơi ngờ, ngươi ta nâng người viết văn lên cao quá chăng? Tôi cứ nghĩ nhà văn cũng như các ‘nhà’ khác thôi... Gán cho họ những ‘sứ mạng’ thiêng liêng quá, tội nghiệp lắm” (tr. 202). Hoặc “Tôi ít viết về mình vì sợ truyện nhạt làm độc giả nản” (tr. 201), “Tôi chuộng sự đơn giản” (tr. 200), “Tôi chấp nhận quy luật đào thải một cách vui vẻ, còn hơn phải cầm bút viết nhảm.” (tr. 206)
Với BPĐKC, có thể là tác phẩm đầu tay, tác giả chớ sợ phải “chấp nhận một cách vui vẻ” đâu, mà với đà này chắc còn cống hiến cho chúng ta nhiều tác phẩm hay trong tương lai.
Bức Phù Điêu Khắc Cạn do Nxb Văn Mới xuất bản tháng 4. 2001. Dày 210 trang, bán 12 mỹ kim. Liên lạc qua địa chỉ mới của Nxb: 1127, W. Gardena Blvd * Gardena, CA 90247 * Phôn: (310) 366 - 6867 (310) 366 - 6867 .
CÓ BAO NHIÊU TỔNG THỐNG MỸ?
Trong bài Lần Giở Trước Đèn kỳ trước chúng tôi có viết từø George Washington tới George W. Bush là 42 vị tổng thống. Một độc giả viết ông Bush là tổng thống thứ 43 của Mỹø vậy tại sao viết 42. Thắc mắc của vị độc rất chí lý. Sở dĩ có sự khác nhau về con số 42 và 43 vì tổng thống Grover Cleveland làm tổng thống hai lần. Ông nhậm chức tổng thống thứ 22 của Hoa Kỳ tháng 3.1885. Tổng thống thứ 23 nhậm chức tháng 3.1889 là ông Benjamin Harrison. Tháng tư 1893 ông Cleveland lại nhậm chức lần thứ hai (nhưng không phải nhiệm kỳ 2) và là tổng thống thư 24.
Như vậy tính theo thứ tự thì có 43 tổng thống nhưng tính đầu người thì chỉ có 42 vị mà thôi. Thân này ví xẻ làm hai được.
THI VĂN BÌNH THOẠI CỦA NGƯYỄN VĂN LƯỢÏNG
Nguyễn Văn Lượïng, tác giả Thi Văn Bình Thọai là một nhà nhà giáo và là một cựu dân biểu Việt Nam Cộâng Hòa nhưng quan tâm nhiều tới văn học, nâng niu văn học, không chịu được những điều sai sót về văn học nên phải lên tiếng trong những bài viết rải rác từ gần hai chục năm qua. Nay gom lại in thành một cuốn vừa bình, vừa kể chuyện văn học khá thú vị.
Trong TVBT, Nguyễn Văn Lượng (bên trong còn ghi bút hiệu Vân Trình) góp ý, bổ túc từ những chuyện xảy ra từ lâu như chuyện ông không đồng ý với nhà biên khảo Nguyễn Ngọc Bích dịch hai chữ biểân dâu là mulberry sea có nghĩa là một biển trồng dâu, hai tiếng rút trong thơ Tàu mà Nguyễn Du viết lại “trải qua một cuộc bể dâu”, những phỏng đoán về thân thế T. T. KH., những lời bàn thêm về bài Tình tuyệt vọng của Arvers tới những văn thi phẩm mới xuất hiện cuối thập niên 1990 của những cây viết nữ Hồ Mộng Thiệp, Nguyễn Thị Ngọc Dung.
Cũng như khá nhiều tác gỉa khác Nguyễn Văn Lượng đả kích nặng nề những bịa đặt, xuyên tạc ngụy biện của cuốn Truyện Kiều Và Tuổi Trẻ của Lê Hữu Mục, Phạm Thị Nhung và Đặng Quốc Cơ trong suốt bài Xin Đừøng Vẽ Rắn Thêm Chân.
Tìm hiểu về lai lịch T. T. KH., Nguyễn Văn Lượng phân tách ba bài trước đây về vấn đề này của Nguyễn Vỹ, Thanh Châu và Nguyễn Thạch Kiên để tạm tin T.T. KH. là Thâm Tâm. Vì sao chỉ tạm tin. Vì ông cho rằng những tác giả đó cũng chỉ được nghe kể chứ không phải là nhân chứng. Nhất là khi ông Lương tìm ra cái sai của Nguyễn Vỹ khi gán cho bútù hiệu Thâm Tâm là lấy từ hai chữ Dạ, Sâu trong câu thơ “Một cánh ty gôn DẠ Khắc SÂU” của T. T. KH. Vì bút hiệu này Thâm Tâm lấy từ trước khi quen T. T. KH. và bài thơ chỉ có sau khi T. T. KH. đã lấy chồng (tr. 84, 85).
Có một lỗi có thể coi là lỗi chính tả nhưng khá quan trọng trong bài Ngô đồng nhất diệp lạc (tr. 173). Nếu đã đọc thơ chữ Hán không ai không biết câu này chỉ Một lá ngôâ đồng rụng. Theo chữ Hán Diệp là lá và Điệp là con bướm. Không giỏi chữ Hán lắm chỉ đọc nhan đề tiểu thuyết của Nguyễn Công Hoan cũng biết Lá Ngọc Cành Vàng là dịch từ ngọc diệp kim chi hay Tắt Lửa Lòng khi được chuyển sang cải lương với tên Lan Và Điệp có hoa và bướm thì cũng biết điệp là bướm. Không hiểu tại sao trong bài Ngô đồng nhất diệp lạc của Nguyễn Văn Lượng tất cả 4 từ Diệp đều in là Điệp kể cả nhan đề. Nếu lầm như vậy hóa ra tên tiểu thuyết Nguyễn Công Hoan phải là Bướm Ngọc Cành Vàng.
Thi Văn Bình Thoại do táùc giả xuất bản, năm 2000. Dày 256 trang, giá 12 mỹ kim. Liên lạc: 9715 Fremont Ave N * Seattle WA 98103.
MINH NHỎ LÀ AI?
Chúng tôi được đọc một bài báo có câu đại ý nói tướng Dương Văn Minh thường được gọi là “Minh Lớn” để phân biệt với “Minh Nhỏ” là tướng Trần Văn Minh của Không Quân.
Chi tiết này không đúng. Hai tên gọi Minh Lớn và Minh Nhỏ có từ hồi đảo chính 1/11/63. Báo Mỹ thường gọi Big Minh (Minh Lớn) để chỉ tướng Dương Văn Minh nhưng Little Minh (Minh Nhỏ) để chỉ tướng Trần Văn Minh thuộc lụïc quân. Tướng Trần Văn Minh là sĩ quan cấp tướng lâu đời. Có người bạn tôi tốt nghiệp Trường Đại Học Quân Sự còn giữ bằng tốt nghiệp do tướng Minh ký năm 1959 với chức vụ chỉ huy trưởng trường này. Về sau có thời tướng Minh đi làm đại sứ.
Thời gian trước đảo chính 1963, ông Trần Văn Minh Không Quân còn là sĩ quan cấp tá. Ông chỉ thăng cấp chuẩn tướng và giữ chức vụ tư lệnh không quân thay tướng Nguyễn Cao Kỳ trong chức vụ này khi tướng Kỳ tham chính. Tướng Minh không quân năm 1975 mang cấp trung tướng, sau di tản sang Mỹ và đã qua đời.
Chúng tôi cũng được nghe từ một đài phát thanh tiếng Việt tại quận Cam, CA kể chuyện đại tá Phạm Bá Hoa, chánh văn phòng của tướng Dương Văn Minh, được lệnh chia tiền cho phe đảo chính 1/11/63.
Sự thực người được lệnh chia tiền khi đó là thiếu tá Đặng Văn Hoa, chánh văn phòng của tướng Trần Văn Đôn. Chánh văn phòng của tướng Dương Văn Minh là đại tá Trương Minh Đẩu. Đại tá Phạm Bá Hoa là chánh văn phòng của tướng Trần Thiện Khiêm và chính ông đã kể lại chuyện chia tiền trong hồi ký Đôi Dòng Ghi Nhớ (ấn bản lần 3, tr. 65).
Chúng tôi sẽ trở lại với những chi tiết sai - mà chúng tôi biết chắc chắn - trong số những bài tình cờ đươc đọc để góp ý với các tác giả.
Đặng Trần Huân
PO Box 3022 * Industry CA 90744
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 5, 2009 1:11:48 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Cụ Diệp Ðạo Gulluzzo Dr. LA. Trong một cuộc trà ðàm, tôi ðýợc nghe câu chuyện là tại Trung Hoa có tấm mộ bia hoàn toàn không khắc một chữ nào. Sở dĩ tôi ngạc nhiên ngýời ngồi thuật lại là nhân khi ông ta ði du lịch ðýợc tận mắt nhìn thấy... tấm bia trống trõn ðó tại ngôi mộ của một ngýời ðàn bà hiển hách quyền uy bao trùm thiên hạ, ðó là bà Tý Hi Thái Hậu. Bà cụ có biết xin nhắc lại. Vô cùng cám õn.
* Vâng, quả có vậy. Theo sử chép, trýớc khi Võ Tắc Thiên qua ðời có hạ lệnh cho triều ðình là khi bà qua ðời, có thể dựng mộ bia nhýng không ðýợc khắc tên tuổi, chức vị bà cũng nhý khắc bất cứ một chữ nào. Có nghĩa phải hoàn toàn ðể tấm bia ðá ðó còn nguyên vẹn. Phàm: Theo qui ðịnh của các triều ðình thời xýa, ngýời có tội không ðýợc khắc tên tuổi vào bia ðá. Có thể Võ Tắc Thiên trýớc khi nhắm mắt cảm thấy mình có quá nhiều tội lỗi nên không cho khắc tên mình trong bia ðá chãng?!
Cháu Lê Hà Výõng Nguyễn San Jose: Bà cụ có nhớ bài Vịnh Cái Quạt của Hồ Xuân Hýõng không? Xin nhắc hộ. Cám õn bà cụ nhiều.
* Bài "Vịnh Cái Quạt ðó nhý sau:
Mýời bảy hay là mýời tám ðây,
Cho ta yêu dấu chẳng rời taỵ
Mỏng dày chừng ấy, chành ba góc,
Rộng hẹp dýờng nào, cắm một cây
Càng nóng bao nhiêu thờ càng mát,
Yêu ðêm chýa phỉ lại yêu ngày
Hồng hồng má phấn duyên vì cậy,
Chúa dấu vua yêu một cái này.
Ông Vũ Hồng (qua Kiển Thái (Philadelpia) Cháu có mấy ðiều muốn ðýợc bà cụ nhắc hộ: Tác giả của Tây Du Ký là ai? Câu hỏi của các vị Bồ Tát hỏi về Chân Kinh Tam Tạng của Nhý Lai nhý thế nào? Chẳng biết Ðức Phật Nhý Lai trả lời làm sao? Bà cụ nhắc lại hộ.
1. Tác giả Tây Du Ký là Ngô Thừa Ân. 2. Trong Tây Du Ký có bản dịch về câu chuyện này nhý sau: "Chân Kinh Tam tạng của Ðức Phật Nhý Lai nhý thế nào?". Nhý Lai ðáp: "Pháp tạng là một. Pháp này bàn về việc trời. Luận tạng là hai: nói về việc ðất. Kinh Tạng là ba: ðộ cho ma quỷ. Ba tạng ðó cộng ba mýõi lãm bộ, một vạn nãm nghìn bốn mýõi bốn quyển, ấy là kinh tu mà giữ lấy chân tâm.
Nó dẫn dắt con ngýời làm ðiều lành, ta muốn truyền sang cõi Ðông Ðộ. Nhýng mà, than ôi! Ngýời ở phýõng ấy ðầu óc ðen tối, ngu xuẩn, dốt nát, chẳng biết ðiều phải ðiều trái nên thýờng phỉ báng chân ngôn... Ta muốn tìm ngýời có pháp lực ðể ðýa sang Ðông Ðộ, tìm ngýời thiện tín mà dạy dỗ họ chịu khó výợt núi qua ðèo mà lýu truyền sang Ðông Ðộ khuyến hóa chúng sinh..." Rồi Ngýời hỏi: "Làm ðýợc việc này thì duyên cao nhý núi, ân ðức sâu nhý bể thẳm... Vậy có ai chịu ði không?" Tất nhiên có ngýời xuất hiện xin nhận lãnh nhiệm vụ cao cả cực kỳ gian nan này, ấy ðó là Ðức Quan Thế Âm Bồ Tát.
Cụ Lý Hải Thu (qua Quỳnh LawnBerry ) Maryland: Tôi có mấy câu tục ngữ Trung Hoa bà cụ giải thích hộ:
1. Hạ Trùng bất khả dĩ ngữ bãng.
2. "Ða ngật vô tý vị,
Ða thoại bất trị tiền".
3. "Ða ngôn ða quá."
4. "Thiên tác nghiệt do khả vi,
Tự tác nghiệt bất khả hoạt."
Xin bà cụ giải hộ,thành kỉnh cám õn bà cụ nhiều.
* 1. Cụ thiếu mất câu thứ hai trong cùng tục ngữ này. Tôi xin ghi lại cả hai trong cùng một câu ðể hầu cụ:
"Hạ trùng bất khả dĩ ngữ bãng
Tỉnh ðể oa bất khả dĩ ðàm thiên."
có nghĩa:
Trùng mùa hạ sao nói ðýợc bãng
Ếch ðáy giếng sao bàn trời nổi.
Ý nói: Ba tuổi ranh con mà nói chuyện ông Bành Tổ.
2. Câu tục ngũ thứ 2 này có nghĩa:
"Ãn nhiều không ngon miệng,
Nói lắm chẳng ðáng tiền."
Ta cũng có câu nghĩa týõng tự:
"Ãn lắm thì hết biết ngon,
Nói lắm thì hết lời khôn hóa rồ."
3. "Nói nhiều, lỗi lắm"
Vì vậy mới tục ngữ ta mới có lời ca dao khuyên rãn: "Nói hay hõn là hay nói"
4. Câu thứ tý này có nghĩa: "Trời gieo tai họa còn mong thoát, Mình tự gieo tai khó thoát vòng."
Cý sĩ Tịnh Sõn Garden Grove: Nghe nói Phật bỏ lối tu khổ hạnh có thật không? Bà cụ có ðọc sách nào nói về sự kiện này. Nếu bà cụ nhớ xin nhắc hộ.
* Sự kiện này có thật. Ðức Phật có một thời gian ðến sáu nãm chuyên tu khổ hạnh, nên sức khỏe bị giảm sút quá nhiều. Ngày Ngài ngự ðến ven dòng Ni Liên Thiền, nàng Na Ðà cùng nàng Ba La nhìn thấy Ngài quá gầy yếu bèn bàn với nhau lén ði nặn sữa một con bò mập mạp rồi mang ðến dâng cúng dýờng cho Phật. Và, cũng kể từ ðó lối tu khổ hạnh không còn nữa.
Nguyễn Anh Hùng, San Lucas Dr. Houston: (qua thingy) Chữ "DỤNG" có nghĩa là DÙNG, có mấy nét.
* DỤNG là DÙNG có 5 nét.
Cụ Vũ Thùy Yên Brookhurst, Orange County, CA. Tôi có nghe câu thành ngữ "Lạm Vu Sung Số", vậy bà cụ có biết câu thành ngữ này không?
* Vâng. Tôi cũng ðýợc biết ðại khái nhý thế này: "Ðời nhà Tề, có vua Tề Uyên Výõng, thích âm nhạc. Nhạc cụ làm cho nhà vua thích nhất là "Nhạc Vụ". Ðó là một cái kèn gồm 36 ống tre trí vào một cái bình thủy tinh, thổi ra tiếng nhờ có lýỡi gà ðồng, làm ngýời nghe phải mê mẩn tâm thần. Thýờng thýờng ban nhạc này gồm có 300 ngýời hợp nhau hòa tấu cho nhà vua thýởng thức.
Lúc bấy giờ có một ngýời tự xýng mình là Nam Quách Xứ Sĩ, tìm cách tâu lên nhà vua, là mình cũng là một tay hòa nhạc không kém gì với những tay trong ban nhạc của triều ðình. Nhà vua chấp thuận. Về sau Tề Tuyên Výõng bãng hà, thái tử lên nối ngôi vua chạ Tân Výõng cũng ham chuộng nhạc, song lại không thích hòa tấu:
_ Trẫm chỉ muốn thýởng thức ðộc tấu. Vậy các khanh ngýời nào có tài riêng gì lần lýợt lên trình diễn cho trẩm ðýợc cùng thýởng thức với.
Lần lýợt từng ngýời lên trổ tài trýớc mặt nhà vua. Khi gọi ðến tên Nam Quách Xứ Sĩ liên tiếp cả bao nhiêu lần vẫn không thấy xuất hiện. Thì ra, nhà nhạc sĩ này sợ bị lộ chân týớng bất tài của mình ðã bỏ xa bay cao chạy từ bao giờ rồi. Vì vậy mới có câu:"Lạm Vu Sung Số".
Cý sĩ Tịnh Hải Nan Ðộ Orange County CA. Thủ Lãng Nghiêm kinh là gì? Bà cụ nhớ xin nhắc hộ. Cám õn thật nhiều.
* "Kinh Thủ Lãng Nghiêm là bộ kinh ðại thừa. Nội dung của kinh hàm dýỡng tý týởng Thiền quán và mật giáo. Thiền quán là truy về cội nguồn tự tánh chân tâm. Mật giáo là thần chú với sức vạn nãng tiểu trừ nghiệp chýớng.
Kỳ sau xin thảo luận tiếp với cý sĩ.
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 5, 2009 1:21:47 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Nhà thõ Tú Lắc, (Checker's Dr. San Jose): Một ngýời bạn hỏi tôi cái nghĩa của từ "Thuyền Quyên" là gì? Xin bà chị vui lòng giải hộ.
* Thuyền có nghĩa là dáng dấp ðẹp ðẽ dễ yêu. Quyên là xinh ðẹp. Quyên còn ðýợc lặp lại thành "ðiệp tự" nhý "Quyên Quyên", có nghĩa là ðẹp ðẽ thýờng ði ðôi với chữ Thuyền (beautiful, pretty). Danh từ Quyên còn có nghĩa là một giọt nýớc hay dòng nýớc trong trẻo có vẻ ẻo lả. Dòng nýớc nhỏ nhắn ẻo lả này thýờng gọi là "Duềnh quyên" tức là "Dòng quyên". Chữ Quyên là ðẹp ðẽ viết khác với chữ Quyên của con Ðỗ Quyên tức Ðỗ Vũ nhý theo ðiển tích "Vua Ðỗ Vũ nýớc Thục sau khi phải nhýờng ngôi cho Bá Linh hóa ra chim giống chim này".
Thuyền quyên mà ông bạn anh hỏi theo Hán tự không phải Thuyền của nghĩa là ghe, tàu, mà nó có nghĩa dung nhan ðẹp ðẽ nhý ghi bên trên. Chữ "Thuyền" này còn ðýợc ðọc là "Thiền", cũng cùng nghĩa là "ðẹp". Vì vậy mà còn viết là "THIỀN QUYÊN", chữ Thiền và chữ Quyên ðều có bộ "Nữ" một bên (chỉ phái yếu) khác với chữ Thiền nhý "thiền ðịnh" tham thiền, tiếng nhà Phật ðịch theo âm chữ Phạn (dhyana, có nghĩa là yên lặng và nghỉ ngõi)). Vậy nghĩa của danh từ "THUYỀN QUYÊN" chỉ về dáng ðẹp ðẽ của ngýời phụ nữ. Ca dao có câu:
"Thuyền quyên muốn sánh anh hào, Vốn không thả lý gieo ðào nhý ai."
Nhýng từ xýa nay ngýời ðời vẫn thấy, anh hùng thýờng "nan quá mỹ nhân quan", vì vậy mà thuyền quyên chỉ cần "ứ hự" một tiếng cũng ðủ cho ðấng anh hùng ra tay rồi. Câu "Thuyền quyên ứ hự anh hùng ra tay"nhằm mỉa mai các ðấng mày râu này.
Nhý vậy chúng ta ðủ thấy gái thuyền quyên chỉ có mỗi cái "ứ hự" không thôi cũng ðủ làm cho ðấng anh hào ra tay rồi, ðâu cần phải binh hùng týớng mạnh?! "Thuyền Quyên" chẳng có ðiển tích nhý anh muốn tìm hiểu, mà nó là một danh từ chỉ cho dung nhan sắc nýớc hýõng trời ðýợc ghép lại bởi hai từ có cùng một nghĩa nhý nhau.
Ông Ðỗ Ðức Nhuận Los Angeles: Tôi có mấy câu xin bà cụ giúp cho: 1. Quạt ngà trâm ngọc 2.Án kia nâng ở ngang mày. 3. Cái nghĩa của "Phýợng cầu kỳ hoàng". * 1. "Quạt ngà trâm ngọc": Có nghĩa khi hai họ ðính ýớc gả con cái cho nhau thì họ ðàng gái trao quạt ngà cho ðàng trai, còn ðàng trai thì trao trâm trâm ngọc cho ðàng gái. Trong Phan Trần có câu: "Quạt ngà, trâm ngọc, kết nguyền họ Phan."
2. Án kia nâng ở ngang mày, có nghĩa: Ý nói ngýời vợ kính trọng chồng. Do ðiển
Lýõng Hồng với nàng Mạnh Quang, hai vợ chồng kính trọng nhau nhý khách. Khi dâng cõm lên chồng ãn, nàng nâng chén cõm và ðũa lên cao ngang lông mày.
3. Phýợng cầu kỳ hoàng: tên khúc ðàn của Tý Mã Týõng Nhý ngýời ðời nhà Hán gảy. Tiếng ðàn nghe não nùng ai oán, nàng Trác Vãn Quân là một ngýời ðàn bà trẻ tuổi góa chồng nghe phải cảm ðộng ðem lòng mê mẩn. Sau hai bên lấy nhau.
Cậu Vũ Quang Thuật Dayton Dr. San Jose (Thanh Huõõng chuyển), bà cụ có nhớ bài "Thanh Phong, Minh Nguyệt của Ngô Thế Vinh không? Nếu có xin nhắc hộ. Thành thật cám õn.
* Bài cậu hỏi ðó nhý sau:
Giang tâm thu nguyệt bạch, Não nùng thay khi gió mát, lúc trãng thanh! Bóng thiềm soi ðáy nýớc long lanh, Quang cảnh ấy cũng thanh mà cũng lịch. Vạn khoảnh tịch nhiên thu dạ vĩnh, Nhất hồ oánh nhĩ nguyệt minh thâu. Ðàn nãm cung, thõ một túi, cờ một cuộc, rýợu một bầu, Tiếng ca quản một vài câu khiển hứng. Chèo mấy mái, thuyền lan lững thững, Bạn mấy ngýời tài tử ngao du, Non mấy tầng, ðá mọc lô nhô, Cầu mấy nhịp, bắc ngang sông Vị thủy. Hội Xích Bích nọ nãm Tuất nhỉ! Thú phong lýu há ðể một Tô công? Trãng thanh gió mát kho chung...
Cụ Hà Thành Ðạo (qua Vãn Ðồng Virginia) Bà cụ có nhớ ðiển cố của con chim tinh vệ không? Xin nhắc hộ. Thành kính cảm õn.
* Con gái của vua Viêm Ðế bị chết ðuối ở Biển Ðông, hóa ra chim tinh vệ. Sau khi hóa thành chim tinh vệ rồi cứ bay ði nhặt ðá ở núi Tây ðể lấp biển. Về sau ngýời ta thýờng mýợn ðiển cố này ðể chỉ cho ngýời mang mối hận thù hoặc nói lên mối hận ở lòng mình.
Cháu Nguyễn Thanh Hùng Monterey Park (California): Cháu thýờng nghe nói ðến "Chỉ Hồng". Cháu cũng ðýợc biết ðó là "Sợi Xích Thằng", nhýng không biết ý nghĩa sâu xa của nó. Bà cụ giải hộ cho.
* Chỉ Hồng cháu hỏi ðó dịch từ chữ "xích thằng" mà ra. Nó chỉ cho sự hôn nhân. Trong Tình Sử có chép: "Ðời Ðýờng Vi Cố ði kén vợ gặp một ông cụ ðang ngồi dựa vào týờng ðá núi nõi chỗ khoáng ðạt dýới bóng trãng thanh xem sách. Vi Cố hỏi: “Sách ấy là sách gì?". Ông cụ bảo: "Sách chép tên những ngýời lấy nhau làm chồng vợ." Vi Cố hỏi: "Còn cái túi bên mình kia chứa gì bên trong ấy?" Ông cụ bảo:"Trong túi ấy chứa những sợi tõ hồng tức là sợi xích thằng".
Cý sĩ Tịnh Sõn Garden Grove (CA). Trong kinh Kim Cýõng có ðoạn nói về cái có có không không. Bà cụ có nhớ ðoạn này không? Tôi ðã có lần thảo luận về ðiểm này với cý sĩ Tịnh Hải, nhýng chúng tôi ðều không nhớ ðýợc ðầy ðủ. Xin bà cụ nhắc hộ.
* Theo triết của nhà Phật phủ nhận cái thế giới hiện týợng hình danh sắc týớng, bao gồm trong bốn câu nhý sau:
"Nhất thiết hữu vi pháp Nhý mộng ảo bào ảnh Nhý lộ diệc nhý ðiện ?ng tác nhý thị quan"
Nghĩa:
Tất cả hiện týợng có Nên xem tuồng mộng ảo Nhý bọt (nýớc) nhý ðiện chớp Týõng ðối không, có, hảo huyền.
Ông Tony Quan Laurel St. Preston 3072 Victoria Australia (qua nhà thõ Mộng Ðài): Nền vãn hóa của Trung Quốc có ảnh hýởng gì ðến nền vãn hóa Nhật Bản không? Cháu ðang tìm hiểu cứu về ðề tài này, bà cụ nhắc lại hộ.
* Ngoài Việt Nam ra, Trung Quốc còn là nýớc láng giềng của các nýớc Nhật Bản, Triều Tiên và cả với Mông Cổ nữa. Tuy nhiên về mặt giao lýu vãn hóa giữa Trung Quốc cùng hai quốc gia Nhật và Triều Tiên ðã có từ ngàn xýa và cả hai phía ðã trao ðổi về hệ thống vãn hóa vốn có của mình. Công cuộc giao lýu vãn hóa giữa Trung Hoa và Nhật ðã thực hiện ngay từ thế kỷ thứ hai, thứ ba... Trung Quốc ðã mang lại cho Nhật Bản các loại lúa nýớc, hay về mặt kỹ thuật trong việc canh tác, luôn cả ðồ ðồng, ðồ sắt v.v... liên tục từ thế hệ này sang thế hệ khác thúc ðẩy ðýợc sự phát triển của xã hội ðất nýớc Phù Tang. Có dịp tôi sẽ bàn thảo của ông bạn về các cuộc trao ðổi vãn hóa giữa hai xứ sở này từ thời kỳ Tam Quốc Tây Hán ðến thời Hán Vũ Ðế - thời kỳ mà hõn 30 nýớc của Nhật lần lýợt cử sứ thần sang Trung Quốc ðể kết thân - cũng là thời kỳ Kiến Vũ Trung Nguyên của thời Ðông Hán trao ðổi sứ thần giao hảo với nhau. Chính thời kỳ này Hán Quang Vũ Ðế ðã tặng "ấn vàng" cho quốc výõng Yamayhai của Nhật. Giai ðoạn cực thịnh của mối tình giao hảo hai nýớc Trung-Nhật vào triều ðại nhà Ðýờng. Nhật ðã cho hàng loạt các ðoàn du học sinh cũng nhý tãng lữ sang Trung Quốc nghiên cứu học hỏi thêm. Trong số ðông ðảo lýu học sinh này có nhiều ngýời lýu lại ðất nýớc Trung Hoa từ 20 ðến 40 nãm,nhý Chiêu Hoành, Cao Hýớng Huyền Lý, hay Không Hải, Tãng Mân v.v... Ngoài ra, còn về mặt chính trị, nhý việc nýớc Nhật tiến cử Thái tử Nhiếp chính của Suy Cố nữ výõng tham dự vào các cuộc ðấu tranh chính trị áp dụng tý týởng Nho, Pháp, Mặc và Phật của Trung Quốc... Ðó là chýa kểvề mặt giáo dục mà ngýời Nhật ðã mô phỏng theo v.v... Hoặc nhý về mặt vãn học của thời Ðýờng ðýợc các nhân sĩ Nhật Bản ham mộ. Họ ðã thu tập các tác phẩm thi vãn của các tác giả nổi tiếng ðời Ðýờng nhý Bạch Cý Dị (bài trýờng thi Trýờng Hận Ca và Tỳ Bà Hành) v.v... Có dịp tôi sẽ trình bày thêm.
Cụ Võ Khải Hoàn,Philadelphia (qua Kiển Thái Drexell Hill,PA.19026): Tôi còn nhớ nãm 1942, có ðọc ðýợc trong tạp chí Tri Tân, bài nghiên cứu lịch sử "Từ binh chế ðến hình phạt của nhà Ðinh" của ông Tiêu Dàm trong ðó nói về thời loạn lạc, giặc giả, trộm cýớp khắp nõi, nhà vua cho lập một ngục thất giữa lòng núi ở làng Yên Hạ rồi ra lệnh nhốt hổ báo vào, kẻ nào phạm trọng tội cho quãng vào ðó ðể mãnh thú ãn thịt. Kẻ phạm tội trọng quá nhiều nên ðầu lâu ở lòng núi này cũng chẳng ít. Hết ðời Ðinh hình phạt này ðýợc bải bỏ những oan hồn trong ngục thất giữa lòng núi ðó ðêm nào cũng hiện lên kêu khóc nghe ðến ghê rợn. Những ngýời tiều phu thýờng nghe thấy khi ngang qua dải núi non này. Chuyện ấy thực hý ra sao, bà cụ có nhớ xin nhắc nhở hộ.
* Vâng. Tôi có dịp ðã ðọc qua dýờng nhý trong Ðại Việt Sử Ký Toàn Thý nõi q.1, có nói về trýờng hợp kinh hoàng này. Nhiều ngýời qua lại nõi này ðều nghe thấy kêu khóc của oan hồn, tiếng hổ thét, báo gầm... ðều hoảng sợ. Cho mãi ðến ðời nhà Lý có vị Cao Tãng Nguyên Minh Không nổi tiếng pháp thuật cao cýờng, ngang nhiên vào trong hang tụng kinh thuyết pháp cho ma quỉ nghe ðýợc siêu thoát và từ ðó không còn tiếng khóc than nữa. Hang này, nay ðýợc gọi là Am Tiên Ðộng ðýợc xem là thắng cảnh của huyện Gia Viễn tỉnh Ninh Bình ngày nay. Ðó không còn nghe tiếng khóc than nữa.
Ông Lý Nguyên Westminster (CA): Nhà Tần có vãn học không? Xin bà cụ giải thích hộ.
* Không. Có thể nói nhà Tần không có vãn học. Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc thì mọi học thuật, mọi tý týởng, vãn học ðều tự do nẩy nở. Nhýng ðến khi Tần Thủy Hoàng thôn tính lục quốc thì nền vãn hóa bị tàn phá: ðốt sách, giết học trò... từ ðó nền vãn học bị gần nhý biến hẳn...
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 5, 2009 1:24:49 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Ông Võ Hữu Pasadena (qua Thân Trọng New Caney TX. 77357. Tôi có lần nghe mấy từ "Hôn", "Mặc", "Sát" nhýng không rõ nghĩa nó. Bà cụ có nhớ về ðiển tích nói về mấy từ này không? Xin nhắc hộ.Cám õn bà cụ nhiều.
* Mấy từ ðó là:"Hôn, Mặc, Tặc, Sát" trong Kinh Thý. Ðó là hình pháp của thời xýa gồm 4 ðiều liệt kê nhý sau:
1. Tự mình phạm tội mà cố cýớp ði mỹ danh của ngýời khác, tội ðó gọi là "Hôn". 2. Vì tham lam làm bại hoại ðến chức vụ của mình gọi ðó là "Mặc". 3. Phạm tội sát nhân mà chẳng kiêng nể gọi là "Tặc, Sát”.
Trong Tả Truyện - Chiêu Công thập tứ niên có ghi lại câu chuyện nhý sau:" Ngày ðó ở nýớc Tần có cuộc tranh chấp một khoảnh ruộng tại ðất Súc giữa hai ngýời tên là Hình Hầu và Ung Tử làm náo loạn cả lên, ðến ðộ phải kéo nhau lên cửa quan có tên là quan tý pháp Cảnh Bá ðể ðýợc phân xử. Hai bên ðýa ra lý lẽ trình bày, ðối với bên nào quan Cảnh Bá cũng không dám vội ðýa ra lý lẽ ai phải ai quấy! Vì vậy mà kéo dài một khoảng thời gian dài không sao kết thúc ðýợc. Trong thời gian này quan Cảnh Bá lại ðýợc triều ðình cử ði sứ nýớc Sở và truyền bàn giao cho Ðại phu Thúc Ngý tạm thời thay thế. Thýõng Khanh Hàn Tuyên Tử tại triều hạ lệnh cho Thức Ngý xét xử công minh vụ án ðã bị ðể quá lâu này. Không dám chậm trễ, Thụ Ngý bèn mang bản án ra nghiên cứu, cho ðòi cả hai ðýõng ðõn và bị ðõn ðến cửa quan hầu nghe xử lý. Nhận thấy rõ ràng là Ýng Tử cýỡng chiếm phi pháp ruộng ðất buộc Ýng Tử phải trao trả khoảng ðất lại cho Hình Hầu. Bị thua kiện, tìm cách ðảo ngýợc lại bằng cách tìm ngýời mai mối ðể ðem con gái của mình ra gả cho Thúc Ngý ðể làm thiếp. Nhìn thấy gái ðẹp, Thúc Ngý không cầm lòng ðýợc, bèn thuận lời, mang ðõn ra xử lại. Cuối cùng phán quyết là Hình Hầu có tội. Ðang mừng rỡ là mình ðýợc thu hồi lại ruộng ðất, ðang cho ngýời ðến thửa ruộng ðo ðạt lại, bỗng nghe tin này chẳng khác nào nhý sét ðánh ngang tai, vội vàng chạy lên triều ðình ðể tìm Thúc Ngý và Ýng Tử tranh luận. Nhìn thấy Thúc Ngý và Ýng Tử mặt mày Hình Hầu ðỏ bừng lên vì giận dữ, trừng mắt nhiếc mắng không tiếc lời. Hõi giận càng lúc càng trào lên ðến nổi tuốt kiếm ra chém chết ngay Thúc Ngý và Ýng Tử. Vụ án này lại càng trở nên phức tạp.
Hàn Tuyên Tử bèn lý vào ðể sữa trị, hỏi ý kiến các ðại phu tại triều nên phải xử nhý thế nào? Các quan triều chỉ ðýa mắt nhìn nhau chẳng ai phát biểu, khiến Hàn Tuyên Tử ðàng quay lại hỏi Thúc Hýớng là bào huynh của Thúc Ngý.
Thúc Hýớng sau khi tìm hiểu bèn trả lời: "Cả ba ngýời ðều có tội". Hàn Tuyên Tử hỏi: "Vậy phải xử làm sao?". Thúc Hýớng bảo: "Ðối với ngýời sống nên xử tử, còn ðối với ngýời chết thì phanh thây. Ung Tử biết mình thua kiện, hối lộ con gái cho Thúc Ngý, ham mê gái ðẹp cố làm sai ði pháp luật. Thúc Ngý nhận hối lộ rồi chuyển tội cho ngýời khác. Còn Hình Hầu phạm tội giết chết triều thần, phạm tội sát nhân ðáng tội chết. Phàm mình ðã phạm tội mà lại cýớp mỹ danh của ngýời khác thì gọi ðó là "Hôn”, vì lòng tham lam mà làm cho bại hoại chức vị cùng trách nhiệm của mình thì gọi là "Mặc". Còn giết ngýời chẳng kiêng nể ai thì gọi ðó là "Tặc". Trong Kinh thý ðã ghi "Hôn, Mặc, Tặc, Sát" ðó là hình pháp ðýợc lýu truyền từ thời xýa chiếu theo ðó mà làm. Mặc dù Thúc Ngý là bào ðệ của tôi, tôi cũng không thiên vị.
Thế là Hàn Tuyên Tử bèn theo ý kiến của Thúc Hýớng mang Hình Hầu (ngýời còn sống duy nhất) ra xử tử và ðồng thời truyền mang thi thể của Thúc Ngý và Ýng Tử ra phanh thây tại ngay cửa chợ.
Cụ Lê Vãn Phan, Brookhurst, Orange County : Tôi nhớ hai câu Ðýờng Thi:
Sõn tự minh chung trú dĩ hôn, Ngý lýõng ðộ ðầu tranh ðộ huyên.
Hai câu này của nhà thõ nào? Bà cụ có nhớ xin ghi lại ðề của bài thõ và trọn bài này. Nếu có thể có bài thõ nào ðã dịch xin cho ghi lại cho luôn. Trân trọng cám õn bà cụ.
* Hai câu của cụ hỏi thuộc trong bài thõ có tựa ðề "Dạ Qui Lộc Môn Ca" của Mạnh Hạo Nhiên. Toàn bài thõ ðó nhý sau:
Sõn tự minh chung trú dĩ hôn,
Ngý lýõng ðộ ðầu tranh ðộ huyên.
Nhân tùy sa ngạn hýớng giang thôn,
Dý diệc thừa chu qui Lộc môn.
Lộc môn nguyệt chiếu khai yên thụ,
Hốt ðáo Bàng công thê ẩn xứ.
Nham phi tùng kính trýờng tịch liêu,
Duy hữu u nhân tự lai khứ.
Trên non vẳng vọng chuông chùa
Chiều hôm.Huyên náo bến ðò dậy vang...
Thuyền ngang dọc bến thôn Giang
Ðýa ta ðến chốn Lạc môn nẻo ngoài.
Trãng thì rọi, khói thì bay
Bàng công thoắt ðã ðến ngay lúc nào!
Ðýờng tùng cửa núi âm hao
U nhân qua lại viếng nhau mấy ngýời!
Thinh Quang dịch
Cháu Vũ Quốc Thúc UCLA (qua cô Sýõng MPK, CA.) Nghe nói Trung Hoa có trò chõi thể thao từ ngàn xýa giống nhý môn trýợt bãng của Tây phýõng ngày nay. Trò chõi này ở vào triều ðại nào bên Trung Hoa? Cháu rất thích về môn này nên muốn tìm hiểu. Xin bà cụ biết chỉ giáo giúp. Kính cẩn cám õn bà cụ nhiều.
* Có nhý vậy. Ðó là môn trýợt bãng xuất hiện từ thời cổ ðại ở Trung Hoa, nhýng thịnh hành vào triều ðại nhà Minh. Danh từ trýớc gọi cho môn trýợt tuyết này là "Bãng Hí" tức là "vui ðùa trên bãng", nó còn có tên nữa là "Kiên Bãng Chi Hí" có nghĩa chung là vận ðộng thể dục trên bãng tuyết. Thời cổ ðại Trung Quốc xem ðây là môn hoạt ðộng thể thao ðýợc xếp hạng quan trọng.
Nhân ðây cũng ghi luôn ðể cháu ðýợc biết thêm, theo sách Tùy Thý thì cách ðây 1.300 nãm tại vùng rừng núi An Lĩnh có bộ tộc gọi là Thất Vi có trò chõi "Kỵ Mộc Hành" có nghĩ "ði bằng cýỡi gỗ". Ngýời ðời nhà Nguyên giải thích: con ngựa gỗ có hình cong nhý cánh cun, chiều dài bốn xích, chiều rộng nãm thốn" dùng ðể ði trên tuyết nhanh tợ thể ngự phi.
Ông Hồng Hà San Gabriel (CA) Nghe nói nhà cũng có týớng của nhà cũng nhý con ngýời cũng vậy. Có hay không? Và hõn nữa, ngýời xýa thýờng trýớc khi rýớc dâu về nhà, phải coi hýớng kê giýờng ngủ ðể ðýợc hạnh phúc và sinh con nở cái ðýợc nhiều. Có vậy chãng?
* Tôi không là thầy phong thủy cũng nhý týớng mệnh. Tuy nhiên tôi cũng nghiên cứu ðại khái, xin mang ra trình bày ðể cùng ông thảo luận. Phàm, thì nhà cũng có týớng nhý ngýời, týớng mặt, týớng tay v.v... tốt xấu ðều thể hiện ngay các sắc diện của mỗi cá nhân.Ví nhý nhà cửa có an vui hay không, làm ãn phát ðạt ra làm sao? Thịnh, suy, cát, hung nhý thể nào? Ngýời ta thýờng quan sát cái ðẹp, cái xấu, nghệ thuật thiết kế về týớng nhà mà suy tính theo cách lý tắc liên quan ðấn sự lành dữ giữa ngýời chủ với cái nhà ðang ở. Phýõng pháp luận về týớng nhà không ngoài những thuật ngữ cố hữu nhý: bát quái, ngũ hành, can chi... xýa nay thýờng dùng. Ngoài ra còn có những phýõng pháp chuyên môn nghiên cứu về môn xem týớng nhà. Trong một xã hội con ngýời sống giữa thời ðại khoa học gần nhý lên tận ðỉnh tối cao, không tránh khỏi những bở ngở về những lý luận thuật ngữ cũng nhý những phýõng pháp mà những nhà ðịa lý thýờng áp dụng. Ngýời xýa bất cứ ngýời nào sắp tiến hành ðến ngày cýới thýờng xem hýớng ðặt giýờng. Chẳng biết việc này tuổi trẻ ngày nay tin hay không, nhýng thật ra vô cùng quan trọng...Ví dụ:
Ngýời tuổi Giáp Tý, giýờng ðặt về hýớng Tây ðối với phái nữ vô cùng bất lợi. Nếu ðặt hýớng Tây Bắc thì thýờng tật bệnh ở mắt và phổi. Nếu ðặt ðúng hýớng Ðông thì con cháu hýng thịnh. Nếu là Ðông Nam thì mọi việc ðều kiết týờng. Ðặt ở hýớng Bắc sản nghiệp kiết týờng, nhýng có ðiều tiền thịnh hậu suy. Ðặt nhằn Chánh Nam thì tiền kiết hậu hung, lại còn bất lợi cho việc tạo dựng sản nghiệp. Nhýng kê vào hýớng Tây Nam thì tật bệnh về dạ dày và ðýờng tim. Còn ở hýớng Ðông Nam bị ðau bệnh về mắt...
Cháu Lý Thýờng Ðạo Daytona San Jose CA. Cháu thýờng nghe U.F.O. biết là chỉ về Ðĩa Bay, tuy nhiên nguyên cả ba chữ ðó ðọc nhý thế nào? Và, ðĩa bay có thật hay không?
* U.F.O là chữ viết tắt của Undefined Flying Objects – những vật thể bay chýa ðýợc ðịnh nghĩa. Hõn cả nửa thế kỷ khắp cả thế giới ðều nhắc nhở ðến "Ðĩa Bay" nhýng chýa có một quốc gia nào chính thức công bố là... sự thật có sự hiện diện của loại ðĩa bí mật này!
Cháu Vũ thị Thanh Hýõng Virginia qua Liên Diep (Maryland): Cháu thýờng nghe "Rýõi" nhýng chẳng biết rýõi là gì, bà cụ giải thích hộ cho.
* Rýõi là một giống thuộc loại hải trùng.Nó sống bằng mồi bọ nhỏ li ti dýới biển. Cứ vào những dịp trãng thýợng huyền thàng Giêng, tháng Hai khi nýớc thủy triều rút xuống; ðó là lúc con rýõi vào ruộng ðẻ trứng dýới ðộ sâu của ðất lối bốn, nãm mýõi phân Tây. Ðến vào mùa trãng hạ huyền lúc nýớc tủy triều dâng cao, nýớc biển tràn vào ruộng, trứng rýõi nở ra con rýõi nhỏ rồi nhô lên và ðứt ra thành từng ðoạn chẳng khác các loài sâu bọ khác. Mỗi ðoạn là một con rýõi. Con rýõi có ðặc ðiểm là nếu chặt ðầu, mà nó có nýớc biển thì nó lại sinh ra ngay một ðầu khác hoặc chặt ðuôi nó thì nó lại sinh ra cái ðuôi khác... (Rýõi con từ trứng nở ra xuất hiện trên mặt ðất vào những ngày mồng 5 tháng 9, 25 tháng 10, tháng 9 ðôi mýõi, tháng 10 mồng 5 - là những ngày nýớc thủy triều dâng lên) Rýõi là món ãn ðặc biệt chỉ có ở mùa Thu của miền Bắc Việt Nam. Rýõi làm các món ãn nhý: chả rýõi, rýõi hấp, rýõi xào, rýõi nấu và rýõi chiên với trứng... Ðặc buệt mắm rýõi là ngon nhất. Ngýời ta thýờng ãn rýõi xào với miếng thái chỉ, tức là bún. Còn rất nhiều món ãn làm bằng rýõi rất thõm ngon nhờ những gia vị nhý vỏ quýt thái mỏng, ýớp nýớc mắm nhỉ, hành tây ðảo trộn mỡ thõm, thịt ba rọi thái nhỏ mùi thõm tỏa ra ãn vào ngon ðể không thể quên ði ðýợc... Có dịp bà sẽ kể tiếp ðể cháu rõ hõn.
Mộng Tuyền DaiChung.com
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 5, 2009 1:28:11 GMT 9
MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN NHỚ QUÊN
Mộng Tuyền Nữ Sĩ
Ông Hà Vĩ Mô W.Kingsbridge Rd.Bron, NY 10468. (Qua Trýõng Chu Drexel Hill, PA.19026) Nghe nói ở Campochia có cái tết gọi là Tết "Chôn Nãm Mây", vậy ðó là cái tết gì? Bà cụ biết không?
Ðáp: Tết này ngýời dân Campochia gọi là Chol Chnam May. Ðây là cái tết lớn nhất của xứ sở Chùa Tháp này. Hàng nãm sau Tết Âm lịch của Việt Nam ta lối vài ba tháng thì ðến Tết Chol Chnam May của Cao Miên. Lễ tết ðýợc tổ chức tôn nghiêm ngay trong các chùa chiền và luôn cả ở các ðền thờ của Nhà Vua. Dân chúng cũng tổ chức hội hè ðình ðám, mở tiệc tùng, rýợu chè khoản ðãi nhau. Họ mở các sòng bạc ở dọc theo các bờ hè nếu là ở chốn phố phýờng ðô hội. Các trò chõi cờ bạc thýờng là "bầu, cu, tôm, cá"gọi là "Khla Khlôt" hay "À Pun" còn gọi là "Xe Vu", họ cũng chõi các loại bài cào, xì phé... Tuy nhiên trò chõi mà các thanh niên nam nữ thích nhất vũ múa. Họ tập trung ðến một nõi ðýợc ấn ðịnh sẵn ðể nhảy múa, ca hát vui chõi ðể chào mừng nãm mới...
Bà Trọng Thủy Brookhurst Westminster: Trong Kiều có mấy câu: 1. "Lòng còn gởi áng mây vàng Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay"
Mây vàng ðó có phải lấy từ "từ" của một câu thõ nào ðó của Trung Hoa không?
2. "Vẫn nghe thõm nức hýõng lân Một nền Ðồng týớc, khóa xuân hai Kiều..."
Ý của hai câu này nhý thế nào? Xin bà cụ giải hộ cho.
Ðáp: 1: Câu "Lòng còn gởi áng mây vàng / Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay": Mây vàng ðó lấy từ "từ" "hoàng vân ảnh" ra. Nguyên câu ðó nhý sau:
"Thiên thýợng hoàng vân ảnh, du tử hà thời quy" Có nghĩa: Trên trời có áng mây vàng, con ði bao giờ trở về?
2: "Vẫn nghe thõm nức hýõng lân / Một nền Ðồng týớc, khóa xuân hai Kiều."
Trong thõ Ðỗ Mục có câu:
"Ðông phong bất dữ Chu lang tiện Ðồng týớc xuân thâm tỏa nhị Kiều."
có nghĩa:
Nếu gió Ðông không giúp cho Chu Du thì hai Kiều phải khóa xuân trong ðền Ðồng týớc. Ðời Tam Quốc có hai Kiều là Ðại Kiều và Tiểu Kiều. Một là vợ Chu Du và một là vợ Tôn Sách.
Cụ Hoàng Trọng Khải Little Saigon: Tôi có nhớ về cách tôn kính của ngýời xýa theo Tam Tự Kinh ví nhý cha hiền thì con hiếu, chồng hòa thì vợ thuận v.v... Bà cụ có nhớ nguyên bản chữ Hán này không và lối diễn dịch của họ nhý thế nào, xin nhắc nhở hộ. Vô cùng cảm tạ.
Ðáp: Nguyên vãn chữ Hán của mấy câu cụ quên ðó nhý sau:
"...Thử Thập Nghĩa, Nhân Sở Ðồng, Ðýõng Thuận Tự, Hốt Vi Bối, Trảm Tề Suy, Ðại Tiểu Công, Chí Ty Ma, Ngũ Phục Chung". Thập Nghĩa ðó là: Cha hiền, con hiếu, Chồng hòa vợ thuận, em kính anh nhýờng, Bạn bè nghĩa tín, Quân kính thần trung.
Còn nghĩa của từng chữ: Ðồng là ðồng ý, Ðýõng là cần phải, Thuận tự là tuân theo, Hốt là không ðýợc, không thể, Vi bối là làm trái ngýợc, Trảm suy là tang phục của con cái mặc cho cha mẹ chết, Tề suy là tang phục của cháu mặc khi ông bà nội qua ðời. Ðại công là tang phục của anh hoặc em mặc khi anh hoặc em chết. Tiểu công là tang phục của Cháu mặc khi chú bác ruột qua ðời. Ty Ma là tang phục của cháu ngoại hoặc anh em họ mặc cho ông ngoại hoặc anh em họ chết.
Tóm lại các từ trong "Ngũ Phục", ðó là Trảm Suy, Tề Suy, Ðại Công, Ty Ma, áp dụng cho việc tang chế.
Có chuyện kể rằng:"Trong truyện Tam Quốc, khi Từ Thức từ biệt Lýu Bị, có tiến cử hai ngýời cho Lýu Bị: Một là Phýợng Sồ, hai là Gia Cát Khổng Minh. Từ Thức nói rằng nếu ðýợc một trong hai ngýời thì Lýu Bị cũng lập ðýợc Nghiệp Bá.
Trong khi Lýu Bị chuẩn bị lễ vật ðể lên ðýờng tìm ðến chỗ của Khổng Minh.Trýõng Phi nổi nóng nói: "Huynh không cần phải ði cho vất vả, ðể ðệ cho ngýời ði mời ông ấy tới là xong." Lýu Bị bèn trách mắng: "Ðệ không ðýợc lỗ mảng. Gia Cát Lýợng là một hiền tài mà ta ðang cần, tự ta phải thân hành ðể mời ông ta ra giúp mình mới phải. Các ðệ không ðýợc vô lễ." Nói xong cả ba ngýời lên ðýờng tìm ðến gò Ngọa Long. Khi tới ðầu làng gần nhà, Lýu Bị xuống ngựa mà ði bộ tới cổng. Gõ cửa hồi lâu, một thý ðồng ra Lýu Bị nói rõ ý ðồ và xin ðýợc vào gặp Khổng Minh. Nhýng thý ðồng trả lời là Thầy mình ði chõi chýa về.
Một tháng sau ba anh em Lýu Bị lại tới lần nữa, nhýng vẫn không ðýợc gặp. Trýõng Phi nổi nóng nói với Lýu Bị rằng: "Ðể ðệ vào xách cổ nó ra cho". Lýu Bị quát mắng Trýõng Phi rồi ba ngýời lại ra về. Một tháng sau Lýu Bị tắm rửa sạch sẽ, chuẩn bị lễ lộc rồi lên ðýờng. Khi gần tới nhà ở của Khổng Minh Lýu Bị bảo với Quan Vân Trýờng và Trýõng Phi là: "Hai em ở ðây chờ ðể Huynh tới xem sao", rồi tự thân hành
ðến gõ cửa, liền thấy thý ðồng ra nói là"Tiên sinh" vừa về tới nhà và ðang còn say ngủ". Lýu Bị bèn nói:"Vậy ðể tôi chờ ở ngoài, hãy ðể yên cho Tiên Sinh an giấc". Khoảng một giờ sau (tức hai tiếng ðồng hồ bây giờ), thý ðồng mới ra mời Lýu Bị vào nhà.
Vì cảm phục lòng thành của Lýu Bị, Gia cát Lýợng khứng lời giúp cho Lýu Bị và ðã dựng lên ðýợc nýớc Thục ðể kình chống với Ngụy và Ðông Ngô lập thành thế chân vạc/ Ðó là thời ðại Tam Quốc.
Sau khi Quan Công bị chết, Lýu Bị không nghe lời khuyên của Gia cát Lýợng, cứ xuất quân ðánh Ðông Ngô ðể trả thù cho Quan Công, kết quả Lýu Bị thua, lui binh về Bạch Ðế Thành vì quá phẩn uất nên bị ốm nặng. Trýớc khi chết Lýu Bị cho gọi Khổng Minh vào bảo: "A Ðẩu" còn nhỏ không thể trông coi việc nýớc ðýợc Trẩm giao hết quyền hành cho Khanh. Lýợng vội quì xuống tâu:"Thần không dám. Ấu Chúa tuy nhỏ nhýng Thần vẫn hết lòng phò trì một lòng một dạ quyết không ở hai lòng. Thần cam kết sẽ làm tròn nhiệm vụ của kẻ bề tôi." Về sau, vì Gia Cát Lýợng làm việc quá sức ngả bệnh qua ðời ở Ngũ Trýợng Nguyên. Trýớc khi chết Khổng Minh còn bày mýu kế cho
Lục Tốn ðể ðýa toàn bộ quân lính cùng Ấu Chúa trở về ðýợc an toàn.
Xét từ câu chuyện trên ta thấy Lýu Bị là vua của một nýớc mà biết tôn kính những ngýời tài giỏi. Nhý vậy những ngýời nhý Khổng Minh làm sao mà không trung thành với vua ðể hoàn thành sứ mệnh.
Còn những lễ nghi trong tang chế, ta cần phải tuân theo những việc hiếu thảo ðối với cha mẹ lại là việc cần thiết phải làm khi cha mẹ còn sống. Tãng Tử là học trò của Khổng Tử có nói rằng: "Lúc ngýời thân mất ði, ta giết trâu bò ðể cúng tế ðể tỏ lòng hiếu thảo, thì tại làm sao khi ngýời thân còn sống ta lại không ðem dâng cao lýõng mỹ vị ðể kẻ trýởng thýợng của mình ðýợc hýởng, làm nhý vậy há không tốt hõn sao!" Ý của Ðức Khổng Tử muốn bảo rằng:"Sống chẳng cho ãn, ðợi chết ðể làm vãn tế ruồi."
Ông La Thoại Khanh Towsend St. Worcester MA. 01609 (qua Chu Lee Philadelphia): Thành ngữ Trung Hoa có câu:"Thố Tử cẩu Hanh", ý nghĩa của ông ấy nhý thế nào? Xin bà cụ giải hộ.
Ðáp: “Tố tử cẩu hanh" có nghĩa sãn ðýợc thỏ thì giết chó. Ta cũng có câu: "Ðýợc chim bẻ ná, ðýợc cá quên nõm". Câu thành ngữ này lấy ra từ sự tích: Triệu Výõng Câu Tiển và Ðại phu Phạm Lãi từng bức xúc nýớc Việt nhiều lần. Khi hai nýớc Ngô Việt phát sinh chiến tranh, kết quả Việt thua. Phạm Lãi khuyên Câu Tiển nên tạm thời ðầu hàng Ngô Phù Sai, ðợi thời cõ sẽ ra sức hýng binh tấn công trả thù. Câu Tiển nghe lời và quả nhiên thắng trận. Sau khi chiến thắng, lẽ ra Câu Tiển lýu Phạm Lãi ðể tiếp tục giúp việc nýớc, lại ðể cho ông ta ra về hýởng thú với gia ðình. Phạm Lãi biết lòng dạ của câu Tiển nhý thế nào bèn gửi thý cho ngýời ðồng sự tên là Ðại Phu Vãn Chủng khuyên nên từ bỏ danh lợi hầu tránh tai họa về sau. Trong thý gửi ðó có câu: "Phi ðiểu tận, lýõng cung tàn, Giao thố tử, Tẩu cẩu hanh". Có nghĩa: "Chim hết rồi, cung có hay ðó cũng dẹp bỏ ði, con giao con thỏ chết hết rồi, chó sãn cũng bị thịt luôn". Ý nghĩa của câu thành ngữ trên là vậy.
Ông Tấn Dũng N Hanthingy St. Phila. 19120. (qua Võ Thu Tịnh): Trong Ðịnh Chế của Kinh Dịch có ðề cập ðến "Trạch Ðịa Túy", bà cụ có biết giải hộ cho. Kính cẩn cám õn bà cụ.
Ðáp: Trạch Ðịa Túy, theo hình vạch ra thì: Quẻ ÐOÀI (bùn, ðầm) và quẻ KHÔN (ðất) nhập chung lại gọi là quẻ TỤY. TỤY có nghĩa là hợp, có cuộc gặp gỡ tụ hợp quây quần. Ðại ý nói muốn họ hýởng ứng thì phải tụ họp họ, cũng có nghĩa là tụ họp nhau lại ðể bàn tán, nếu cuộc họp ðó tất cả thật lòng với nhau trong một mục ðích chung phụng sự cho xã hội thì thýờng thành công; nhýng tụ hội mà mỗi ngýời mỗi ý chỉ muốn thủ lợi về mình thì ắt phải là chýa họp ðã tan. Ðại ðể là nhý thế.
Cý sĩ Sõn Hải Brookhurst Westminster (CA. Bà cụ có nhớ ba câu ðầu Thần Chú Phật Ðình Thủ Lãng Nghiêm không? Xin nhắc hộ cho. Cám õn bà cụ vô cùng.
Ðáp: Theo thứ tự nhý sau:
1. Na mô tát ðát tha tô già ða gia a la ha ðể tam ðiểu tam bồ ðà tả.
2. Tát Ðát tha Phật ðà câu chi sắt ni sam.
3. Na mô tát bà bột ðà bột ðịa tát ðá bệ tệ,
Cháu Hồ Hải San Jose: Bà cụ có nhớ bài thõ của Nguyễn Hữu Chỉnh không? Nếu có xin nhắc hộ cho. Cám õn bà cụ!
Ðáp: Bài cháu hỏi ðó nhý sau:
"Ai có hay chãng là chẳng hay? Lòng này vốn ðã dạy thân này. Kẻo lầm kẻo lỡ ngýời yêu ghét Ðà tỏ ðà týờng kẻ thảo ngay. Xem nỗi thế thời, xem ðã nhạt Bén mùi ðạo lý, bén càng say. Phải cõ, mới biết cõ trời nhiệm, Có rủi, bằng dýờng lại có may."
Mộng Tuyền
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 24, 2009 10:42:26 GMT 9
Bài học từ cú sảy chân của Toyota Tác giả: Như Nguyệt (dịch từ Economist) Bài đã được xuất bản.: 19/12/2009 Toyota đang bộc lộ những dấu hiệu khủng hoảng quá rõ rệt. Nhà sản xuất xe hàng đầu thế giới học được gì sau cuộc cải tổ của các ông lớn khác trong ngành? Cách đây chưa đầy hai thập niên, Toyota đã từng vượt mặt General Motors (GM) trở thành nhà sản xuất ô tô hàng đầu thế giới và giữ vững vị thế này trong nhiều năm liền. Vậy mà, giờ đây, không ai khác chính Akio Toyoda - vị chủ tịch mới và cũng là cháu nội của người sáng lập tập đoàn - lại tuyên bố tập đoàn đang chao đảo trong vòng xoáy khủng hoảng. Toyota vẫn là một tập đoàn có quy mô vô cùng lớn. Một số người trong ngành và nội bộ tập đoàn cho rằng Akio Toyoda đang nghiêm trọng hóa vấn đề. Tuy nhiên, dù người ta có cố tình chối bỏ thì Toyota vẫn bộc lộ những dấu hiệu khủng hoảng quá rõ rệt. Khủng hoảng không chỉ là câu chuyện của riêng Toyota mà của toàn bộ ngành công nghiệp sản xuất ô tô. Đó là bài học cho mô hình sản xuất ra những công nghệ vượt trội nhưng lại được cóp nhặt, chắp ghép từ tinh hoa công nghệ của vô số các nhà sản xuất khác. Sai lầm Toyota đang thực sự mắc phải là gì và tập đoàn này cần làm gì để tự cứu lấy mình đều sẽ là bài học quý giá cho các nhà sản xuất khác trong ngành. Người khổng lồ ngã ngựa Trong khi các đối thủ trực tiếp của Toyota điển hình là Volkswagen và Hyundai đều đã trụ vững trong khủng hoảng thì Toyota lại để mất hoặc không thể mở rộng thị phần ở tất cả các thị trường trên toàn thế giới ngoại trừ Nhật Bản - thị trường vốn đã bị thu hẹp từ rất nhiều năm trước cuộc khủng hoảng năm ngoái. Tại Mỹ - thị trường vốn đem lại doanh số và lợi nhuận lớn nhất cho hãng - Toyota bị tẩy chay gay gắt sau vụ bê bối cho xuất xưởng những chiếc xe hơi không đạt tiêu chuẩn an toàn. Hình minh họa. Nguồn: Economist Tại Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil - những thị trường hứa hẹn tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ - doanh số bán của Toyota cũng bị chững lại. Thậm chí, ngay cả trong lĩnh vực sản xuất xe hơi thân thiện với môi trường, Toyota vốn ở vị trí số một nay cũng đã bị các đối thủ khác bắt kịp bởi nhiều nhà sản xuất xe đồng loạt cho ra đời các dòng xe bảo vệ môi trường trước khi các nhà làm luật áp hàng loạt các quy định lượng khí thải ở mức thấp. Thật sửng sốt khi trong quý đầu 2009, mức thua lỗ của Toyota còn lớn hơn cả General Motor - một tập đoàn ít lâu sau cực chẳng đã phải tuyên bố phá sản để tái cơ cấu. Đằng sau tất cả những sự việc này, người của Toyota phải thừa nhận một sự thực chua chát rằng mình đang dần để các đối thủ đuổi kịp bởi đối thủ của họ đã cho ra đời những dòng xe có chất lượng đảm bảo và hợp thị hiếu người tiêu dùng trong khi Toyota chỉ biết rập khuôn các sản phẩm hàng loạt hết sức cục mịch và bình thường để phục vụ số đông. Lời báo động của vị tân chủ tịch dựa trên phân tích của tác giả Jim Collins trong cuốn sách "How Mighty Fall" (tạm dịch là "Người khổng lồ đã gục ngã ra sao?"). Cuốn sách mô tả chi tiết năm giai đoạn dẫn tới sự sụp đổ của một tập đoàn và theo cảnh báo của tân chủ tịch, tập đoàn Toyota đã trượt tới tận mức thứ tư rồi. Theo lời tác giả, các doanh nghiệp đã đến giai đoạn này dẫu sao vẫn tự định đoạt được số mệnh của mình nhưng họ luôn loay hoay trong các kế hoạch tái cơ cấu đầy tham vọng để rồi dần trượt dài tới trạng thái không thể cứu vãn thêm được nữa. Những lỗi họ thường mắc phải là: nóng lòng tìm kiếm một thương vụ sáp nhập lớn để chuyển đổi doanh nghiệp của mình trong chớp nhoáng, bắt tay vào một dự án cải tổ mạnh mẽ mà bỏ qua mọi thế mạnh vốn có của mình, mất định hướng và rời xa dần triết lý kinh doanh ban đầu bởi tiến hành cải tổ quá gấp gáp, đặt niếm tin vào những chiến lược không có sức thuyết phục chẳng hạn như tham vọng tiến xa về công nghệ hoặc trong kinh doanh, kỳ vọng vào một lãnh đạo có tầm chiến lược nhưng lại không nắm vững về thế mạnh cốt lõi của doanh nghiệp. Trong khi đó, tác giả Collins lại đề cao những phẩm chất lãnh đạo dù đã cũ nhưng vẫn luôn giữ được giá trị là lòng quyết tâm, tính kỷ luật, điềm tĩnh trước áp lực cùng khả năng đưa ra quyết định có tính chiến lược dựa trên sự cân nhắc thận trọng căn cứ vào thực tế. Thông thường, một người lãnh đạo có khả năng chặn đứng sự suy giảm của doanh nghiệp là một người trưởng thành từ tập đoàn - người biết doanh nghiệp của mình phải làm gì để đồng thời tạo dựng những thế mạnh vững chắc và xác định, khắc phục được các điểm yếu. Chúng ta có vô vàn ví dụ để dẫn chứng về kinh nghiệm của những doanh nghiệp đã từng kinh qua thời khắc như Toyota hiện giờ. Cuối thập niên 90, cả Hewlett-Packard và Motorola đều ngập trong khủng hoảng và IBM vốn là một tập đoàn đầy uy tín tại Hoa Kỳ cũng trải qua những khó khăn tương tự. Cả ba đều phải đối mặt với bài toán về cách thích ứng trong thời đại Internet. Nỗ lực để làm mới mình, HP và Motorola đã thuê về một người quản lý mới từ bên ngoài và liên tục tái cơ cấu doanh nghiệp. Cả hai có cùng một hướng giải quyết nhưng lại nhận được hai kết cục khác nhau. May mắn cho HP, tập đoàn này đã có thể thoát khỏi khủng hoảng dưới sự lãnh đạo của Mark Hurd. Mark Hurd có phong cách lãnh đạo hoàn toàn khác với người tiền nhiệm là bà Carly Fiorina - người buộc phải rời khỏi ghế lãnh đạo sau 5 năm làm việc không hiệu quả. Thay vì những kế hoạch sáp nhập và các chiến lược đầy tham vọng, Mark Hurd chú trọng đến việc duy trì tính hiệu quả, khả năng giải quyết vấn đề, cải thiện tình trạng tài chính và quan tâm tới khách hàng. Trong khi đó, Motorola đã không bao giờ gượng dậy được sau bong bóng công nghệ năm 2000 -2001. Giá trị cổ phiếu của tập đoàn đã rớt xuống chỉ còn 1/6 so với lúc đỉnh điểm. Với IBM, tập đoàn này không những vượt qua khủng hoảng mà còn tạo đựng được cho mình một vị thế mới trên thương trường nhờ việc Lou Gerstner kiên quyết không chia tách tập đoàn giống như lời "mách nước" của các nhà phân tích phố Wall, của thống đốc các ngân hàng đầu tư và một số nhà quản lý cấp cao lúc đó của IBM. Trái lại, Gerstner đã chọn cách dần dần vực dậy tập đoàn từ chính những thế mạnh đã tạo dựng nên danh tiếng của tập đoàn để đưa IBM lên vị trí hàng đầu trong thị trường dịch vụ máy tính. (Một trong những thế mạnh không thể không kể đến kỹ năng tuyệt vời của đội ngũ nhân viên đang làm việc tại đây). Toyota học được gì từ thất bại của kẻ khác? Toyota cũng có thể học được nhiều điều từ thất bại của các nhà sản xuất khác trong ngành. Một thập niên trước, Ford cũng tưởng rằng mình đã tìm được vị cứu tinh với sự xuất hiện của chủ tịch Jac Nasser. Vị chủ tịch này khẳng định quyết tâm chuyển đổi tập đoàn từ một nhà sản xuất ô tô kiểu cũ sang một doanh nghiệp năng động, khôn ngoan trong thời đại Internet, hướng tới người tiêu dùng để không ngừng củng cố thương hiệu và dịch vụ cung cấp ra thị trường. Và rồi vị chủ tịch này cũng bị cuốn vào những thương vụ sáp nhập quy mô lớn bằng việc mua lại Volvo và Land Rover. Nhưng không may, trong khi mải mê theo đuổi cuộc cách mạng đậm chất Nasser, Ford đã dần rời xa mục tiêu ban đầu của mình là tạo ra những phương tiện trang nhã một cách hiệu quả và đem lại lợi nhuận lớn nhất có thể - đó mới chính là triết lý kinh doanh đã làm nên tên tuổi của Ford. Và đó cũng là những gì lúc này, Ford đang nỗ lực vực dậy dưới thời lãnh đạo của Alan Mulally - một nhà lãnh đạo không ồn ào nhưng lại có cách thức lãnh đạo chắc chắn hơn Nasser. Hơn thế, Toyota cũng đứng trước cơ hội lớn để chỉnh sửa sai lầm. Họ sẽ không phải là một GM thứ hai bởi GM đã lún sâu vào rắc rối về cơ cấu từ rất lâu trước khi phải vin đến cách tuyên bố phá sản để thoát khỏi bế tắc. Toyota được dẫn dắt bởi một vị chủ tịch biết rõ vấn đề doanh nghiệp đang thực sự vấp phải là gì: đó là việc để rơi mất vị thế hàng đầu về chất lượng vì mải mê chạy theo số lượng bằng mọi giá và việc không còn đặt nhu cầu của khách hàng lên hàng đầu. Khi nhận ra sai lầm, Toyota đang nỗ lực để lấy lại chất lượng và sự tin cậy của khách hàng. Giờ đây, họ cần tiếp tục cho ra đời những mẫu xe hơi mới đầy cảm hứng và sáng tạo. Những gì chủ tịch Toyota đang làm hoàn toàn không viển vông. Nó thật đơn giản, hiệu quả và đòi hỏi nhà sản xuất này phải đặc biệt chú trọng đến nhu cầu của người tiêu dùng. Và đó chẳng phải điều cốt lõi trong kinh doanh hay sao?
|
|
|
Post by NhiHa on Jul 11, 2010 18:41:07 GMT 9
ĐỂ CÓ ĐƯỢC MỘT LỜI XIN LỖI Trong cuộc sống, để có được một cảm nhận đẹp về mối quan hệ giữa người và người thì vừa rất khó, mà cũng lại rất dễ. Một ánh mắt cảm thông, một nụ cười chia sẻ, một câu cảm ơn, một lời xin lỗi chẳng hạn đâu có khó gì. Ấy vậy mà để có được điều đó, được nghe một lời như vậy, nhận được một nụ cười như thế, thấy được những ánh mắt làm ấm lòng người nhiều khi lại quá hiếm hoi! Tại sao? Các cụ ta thường dạy con cháu “lời chào hơn mâm cỗ cháu ạ, liệu mà thưa gửi cho lễ phép chỉn chu”, hay “lời nói không mất tiền mua, liệu lời mà nói cho vừa lòng nhau con ơi…”. Cho nên mới có câu tục ngữ “học ăn, học nói, học gói, học mở”. Trong “Sửa đổi lối làm việc” viết năm 1947, Bác Hồ đã mấy lần nhắc đến câu tục ngữ này để lưu ý cán bộ trong ứng xử với quần chúng, trong quan hệ với dân. Mà xem ra, những ứng xử người ta gọi là “có văn hóa” phải được đơm hoa kết trái từ một nền tảng văn hóa được thường xuyên vun trồng, chăm bón. Đúng như lời dạy của ông cha ta “cần phải thăm dò cái gốc của nó, lại phải tưới tắm cho cái ngọn của nó, mở rộng cái nguồn của nó, lại phải buông lơi cái dòng của nó” (Nguyễn Văn Siêu). Và Bác là tấm gương mẫu mực về tác phong ứng xử vừa thân tình cởi, mở khiến người gặp Bác luôn cảm nhận được sự thoải mái vì có sự bình đẳng, chan hòa, gần gũi. Người ta gọi đó là một trong những nét thể hiện “văn hóa lãnh đạo”. Mà xét đến cùng, phẩm tính của con người như thế nào sẽ thể hiện ra trong tác phong, trong lối ứng xử, lời nói và việc làm không vênh, không trái nhau, không nói một đằng làm một nẻo, “nói vậy mà không phải vậy”. Điều này chắng có gì mới. Cách đây hai nghìn năm, cụ Khổng đã khuyên các nhà làm chính trị “tiên hành kỳ ngôn, nhi hậu tòng chi”, tạm dịch là làm trước điều mình muốn nói, rồi hãy nói. Nếu “nói năng khéo léo, nét mặt giả bộ niềm nở, thái độ quá cung kính” [xảo ngôn, lệnh sắc túc cung], hoặc “giấu lòng oán mà bề ngoài làm bộ thân thiện” [Nặc oán nhi hữu kỳ nhân] thì Khổng Tử lấy làm thẹn khi gặp phải những người như vây. (Luận Ngữ, thiên Công Dã Tràng). Lại cũng chẳng phải đây là nét riêng biệt và độc đáo của văn hóa Phương Đông. Hãy chỉ dẫn ra vài sự kiện nóng hổi vừa được báo chí nước ngoài đưa tin cũng thấy được rằng nhiều chính khách, cả Đông và cả Tây đã có những ứng xử giàu sức thu phục nhân tâm. Xin nhắc lại đây lời xin lỗi của Gordon Brown, Thủ tướng Anh: "Tôi muốn thay mặt tất cả các chính khách, các đảng phái xin lỗi vì những gì đã xảy ra. Các nghị sĩ Quốc hội phải có trách nhiệm chứng tỏ rằng họ được bầu vào nghị viện để phục vụ các quyền lợi của công chúng, chứ không phải vì lợi ích bản thân”. Cũng phải nói thêm cho rõ là lời xin lỗi này đưa ra khi tờ Daily Telegraph phanh phui những khoản chi tiêu công quỹ. Trong lúc đất nước đang vật lộn đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng thì Thủ tướng Brown từng trả cho người em trai 6.500 bảng (9.934 USD) về công việc dọn dẹp căn hộ của ông ở Westminster. Còn ông Bộ trưởng Cộng đồng Hazel Blears thì có đến 3 căn hộ trong một năm và đã chi tới gần 5.000 bảng (6.644USD) trang trí nội thất trong vòng 3 tháng. Bộ trưởng Thương mại - Lord Mandelson thì kê khai gần 2.850 bảng (4.356 USD) tiền sửa chữa một ngôi nhà của ông sau khi thông báo sẽ rời Hạ viện Anh để trở thành ủy viên Ủy ban châu Âu. Sau đó, chính ông đã bán căn nhà để thu được 136.000 bảng Anh (207.864 USD). Những hé lộ trên do báo chí phơi ra trước dư luận đã khiến công chúng Anh phẫn nộ khi nước này đang tìm cách thoát khỏi cơn suy thoái hiện tại. Đại khái là như vậy. Và rồi người ta đặt câu hỏi: nếu không có Daily Telegraph đưa tin, [mà dù tờ báo này không đưa, tờ báo khác cũng chớp lấy thông tin để đưa], thì liệu ông Brown có đưa ra lời xin lỗi không? Nhưng xin khất câu trả lời sau khi đọc tiếp những dòng tin sau đây: Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung-bak lên tiếng xin lỗi dân chúng lần thứ hai trong tháng về những rắc rối liên quan tới kế hoạch nhập khẩu thịt bò Mỹ. Ông Lee trần tình: "Tôi và chính phủ đáng lẽ phải thấy được những quan ngại của dân chúng về an toàn thực phẩm một cách kín kẽ hơn… Tuy nhiên, chúng tôi đã không làm được điều đó và tình cảnh hiện giờ phản ánh rõ thất bại của chính phủ". Ông đảm bảo rằng sẽ không nhập khẩu thịt của những con bò hơn 30 tháng tuổi. Những con bò già được cho là có nguy cơ nhiễm dịch bò điên. Lần xin lỗi trước diễn ra ngày 22/5/2009 khi mà làn sóng biểu tình phản đối chính phủ nhập khẩu thịt bò Mỹ. Tỷ lệ ủng hộ ông Lee đã giảm đáng kể sau sự kiện này. Nhiều thành viên trong nội các của ông đã đệ đơn từ chức sau làn sóng biểu tình này. Và lại xin khất thêm một lần nữa câu trả lời trước khi đọc tiếp một lời xin lỗi nữa: Ngày 15/8/2009, nhà lãnh đạo Đài Loan Mã Anh Cửu đã phải nói lời xin lỗi về phản ứng chậm chạp của chính quyền trước cơn bão Morakot. Cơn bão khủng khiếp này đã cướp đi sinh mạng của hàng trăm người. Ông Mã nói: "Chúng tôi đáng ra đã có thể làm tốt hơn và phản ứng nhanh hơn. Nhưng chúng tôi đã không làm tốt hơn và cũng không phản ứng nhanh hơn. Chúng tôi gửi lời xin lỗi đến người dân”. Ông Mã phát biểu như vậy với các phóng viên khi đi thị sát công việc cứu trợ, cứu hộ ở quận Nantou. Sau ông Mã với cương vị người đứng đầu Đài Loan, mới hôm rồi ông phụ trách hành pháp đã đệ đơn từ chức với lý do: “Phải có người chịu trách nhiệm về những thiệt hại nặng nề của đời sống người dân Đài Loan sau vụ thiên tai thảm khốc này”. Một số lãnh đạo ngành khác cũng đang theo gương ông này đệ đơn từ chức. Thì ra, cùng với chuyện xin lỗi dân, hay từ chức vì những hệ lụy do quản lý kém gây ra, do nhập nhèm công tư bị báo chí phanh phui, nói theo ngôn từ dân dã là “ăn vụng chùi mép không sạch” đều thuộc phạm trù “văn hóa lãnh đạo”. Mà để là “người có văn hóa” thì dù là nguyên thủ quốc gia, vùng lãnh thổ khi vướng vào chuyện này đều phải nhanh chóng tự xử trước khi búa rìu của dư luận quật vào. Do vậy, câu hỏi đặt ra cứ phải lần khần chưa trả lời chỉ là vì, cho dù phải đợi sự lên tiếng của công luận thì rồi ông nọ, ông kia mới đưa ra lời xin lỗi thì đã khí muộn. Nhưng muộn còn hơn không! Chả thế mà người tự vỗ ngực mà rằng “Nhà nước là ta” như Napoléon cũng đành ngậm ngùi tuyên bố “Nhà nước là gì? Chẳng là gì cả nếu không có dư luận”. Đúng là phải có áp lực từ dư luận. Và áp lực ấy, một nhà nước hiểu rõ sứ mệnh của mình, phải chủ động tiếp nhận để tự làm trong sạch mình, nâng cao sức mạnh và uy tín của mình trong dân chúng. Phải làm cho áp lực của dư luận lành mạnh, đích thực là tiếng nói tích cực của công chúng, trở thành một liều kháng sinh cực mạnh chống trả kịp thời những viêm nhiễm dẫn đến bội nhiễm trong cơ thể xã hội, và nguy hiểm hơn khiến cho nó di căn. Cho nên, dù có giương mục kỉnh đạo đức học lên để soi rọi về động cơ của những lời xin lỗi hay sự từ chức nói trên thì cũng phải sòng phẳng mà nói rằng: những lời xin lỗi, hay sự từ chức dù kịp thời hay muộn mằn, đều đem lại những nét đẹp cần thiết cho cuộc sống. Có thể đẹp nhiều, có thể đẹp ít, nhưng dù thế nào cũng là đẹp. Vì, muốn hay không, chúng vẫn giải tỏa bớt đi những bức xúc trong xã hội. Cho dù ai đó gọi đây là sự khôn ngoan chính trị đi chăng nữa, thì tại sao lại không cổ vũ và biểu dương sự khôn ngoan ấy? Không thế, thì chả nhẽ lại tán dương sự dại dột chính trị? Đấy là chưa nói đến chuyện: nếu từ góc độ của đạo đức học, thì dù hành vi xin lỗi hay là từ chức đều là do áp lực từ xã hội mà thuật ngữ đạo đức học gọi đó là “sự cưỡng chế bên ngoài”. Thuật ngữ này nhằm phân biệt với “sự cưỡng chế bên trong”, biểu đạt nhu cầu nội tâm được thể hiện ra trong hành vi của chủ thể. Nhưng dù từ bên ngoài hay tự bên trong, đạo đức học vẫn đánh giá tác dụng tích cực của cả hai loại hành vi đó. “Sự cưỡng chế bên ngoài” có tác dụng hỗ trợ cho “sự cưỡng chế bên trong”. Sự tự cưỡng chế xuất phát từ động cơ thôi thúc của tình cảm đạo đức muốn có sự thanh thản của lương tâm, hoặc tránh khỏi sự day dứt lương tâm. Do vậy, hành vi xin lỗi hay từ chức của các chính khách nước ngoài vừa dẫn ra ở trên, dù muộn dù sớm, vẫn cần được ghi nhận là một nét của “văn hóa lãnh đạo” nằm trong tổng thể những tương tác giữa lãnh đạo và công chúng, một công chúng có đầy đủ ý thức và được tạo điều kiện để thực thi quyền hạn và nghĩa vụ công dân của họ. Chính vì thế, để có được một lời xin lỗi, dễ hay khó là tùy thuộc vào chính điều này đây. Có hiểu vậy mới thấm thía ước vọng của Montesquieu, nhà khai sáng Pháp thuộc thế hệ thứ nhất, cha đẻ của triết lý về nhà nước pháp quyền, người đồng hương với Napoléon. Ước vọng rằng, ông ta sẽ là người sung sướng nhất trên đời nếu chứng kiến được việc nhà quản lý nhà nước am hiểu sâu sắc với đầy đủ trách nhiệm về công việc của mình và người bị quản lý thì vui vẻ tự nguyện tiếp nhận sự quản lý đó. Đã là ước vọng thì bao giờ cũng nhuốm ít nhiều chất ảo tưởng! Nhưng chính ước vọng là nguyên cớ đem lại cho con người sự kiên nhẫn để mà sống. •TƯƠNG LAI (Nguồn: VietNamnet) Quan chức Đài Loan gập đầu xin lỗi dân chúng. (Ảnh: Feer) Đại diện nhà thầu Nhật Bản cúi gập mình xin lỗi vụ sập cầu Cần Thơ, trong khi ông Hồ Nghĩa Dũng, Bộ trưởng GTVT thản nhiên… ngồi!
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 3:28:57 GMT 9
CÂU CHUYỆN NGÀY XƯA
Kỹ sư Sagant Phan
Cách đây vài tuần, có dịp xuống Santa Ana. Tôi chạy xe ngang một tiệm Phở tên gọi là Phở Bolsa. Phở ở khu thủ đô Người Việt Tị nạn, hay gọi bằng Anh ngữ là Little Saigon thì có quá nhiều, nhiều hơn nấm mối mọc đầu mưa. Điều kỳ lạ, Phở nhiều nhưng người ta vào ăn cũng nhiều. Người bạn quen trong sở, anh này người Britain, anh nói: “Hình như người Việt thích ăn uống không thua người Tàu?” Vâng! người Việt thích ăn uống, nhưng họ mở tiệm hình như chỉ có người Việt là vào, còn người Âu Mỷ thì như cánh cò bay biền biệt phương nào. Còn người Hoa thì họ mở tiệm, người Âu Mỹ cũng vào rất đông. Nhưng người Âu Mỹ thường hay than phiền là người Tàu họ thêm quá nhiều bột ngọt vào thức ăn.
Tại tiệm Phở Bolsa, ngay cửa tôi gặp anh Nguyễn Long. Ngày xưa mà có danh đồn là “Long đất”, nghĩa là anh... kỵ nước, rất ít muốn tắm.
Anh là một nghệ sĩ mà bộ môn nào anh cũng có mặt, chỉ thiếu làm nghề ca sĩ mà thôi. Anh đạo diễn rất nhiều phim, làm tài tữ nữa. Phim anh sản xuất rất nhiều, có cái có thể mua về cất trong thư viện riêng của mình, có cái vất vào... xọt rác cũng không tiếc.
Anh quen thân với quái kiệt Trần văn Trạch, lúc đó bài ca xổ số nổi tiếng của Trần văn Trạch là: “Xổ Số Quốc Gia, chỉ mươi đồng thôi, mua lấy xe nhà giàu sang mấy hồi! Triệu phú đến nơi, chỉ mươi đồng thôi...”. Nghĩa là lúc đó, triệu phú không phải dễ gì! Nhưng anh Nguyễn Long lúc đó ra phim, có lúc hốt đến trên dưới 20 triệu đồng. Nghĩa là “Multimillionaire” rồi. Lúc đó anh quá giàu, làm băng nhạc lấy tên Joe Marcel cũng là triệu phú nữa, nhưng ngày nay anh ngồi ngoài cửa trông ngóng từng độc giả mua sách của anh, anh có mặt tại tiệm Phở lúc 9 giờ sáng đến 9 giờ khuya, rồi anh xếp thùng sách mà đến cửa tiệm ăn chơi nhảy đầm Majestic mà bán sách đến 2 giờ khuya.
Anh ra phim mà có tựa đề linh thiêng cho đến những hàng chục năm sau thành sự thật.
Phim “Xin nhận nơi nầy làm quê hương”, tôi còn nhớ phim này tôi coi xong phân nửa là... bỏ về nhà ngủ sướng hơn. Đúng ngày nay, xứ Hoakỳ nơi nầy xin nhận làm quê hương! thì phim anh tôi muốn coi lại... thì không thể nào được rồi.
Lúc còn ở Saigon, tôi còn đang dùi mài kinh sử, rớt một cái là đi lính ngay, chưa lập gia đình, còn người yêu thì thấy trơn trịu một mình. Phim mang tên: “Sợ Vợ mới anh hùng”. Tôi thấy sao mà giống cảnh gia đình của chú ruột tôi hết sức. Chú chở tôi bằng xe vespa ra ngoài Chợ Cũ mà mua xá xíu và uống ly nước mía, về trễ thì bà thím làm chú tôi một trận. Bà Nội tôi cũng buồn ra mặt, bà nói với ba tôi: “Má cưng thằng tài hết sức, không muốn nó làm việc cực trong nhà... thế mà ngày nay nó sợ vợ quá xá”. Tôi thì không biết tác giả là ai để mà cự nự một trận... làm mất mặt mày râu. Sau này mới biết chính là Nguyễn Long. Chính anh cũng thú nhận trong quyển sách gần đây của anh viết, anh thích kết thân với kẻ nào sợ vợ, không muốn kết thân với kẻ nào vũ phu. Như vậy đúng lá số anh rồi. Anh không ở chung với vợ, anh ở riêng độc thân. Trước đó vợ con chưa qua thì anh viết báo chí ca tụng bà vợ hết lời, tiền có lúc anh gửi về cho vợ một lần cả những 50 ngàn đôla. Cho nên vợ anh ở Saigon tưởng anh là triệu phú nữa, khi qua đây thấy sự thật thì bà dông tếch lên cực bắc California. Một nhà văn nào có nói: “đàn bà có thể lấy đàn ông lưu manh, chớù họ không muốn lấy đàn ông... hèn làm chồng!”
Nhưng đến ngày hôm nay tôi lấy vợ rồi... mới thắm. Phép mầu của tôi học được trên núi ĐàLạt lúc chưa ra khỏi quân trường, nay xuống núi đi trấn đóng ngoài biên ải, rồi về phép lấy vợ. Lấy xong thì phép học trên núi... hết thiêng. Pháo kích tôi không sợ! Nhưng tôi sợ bà xã gây với tôi rồi bã tức bã giãy đành đạch... ngộp thở thì tù chết. Bã mập quá mà!
Trong lúc này tình hình Hoakỳ sôi lên vì giận nhóm khủng bố do cha đạo râu dê dài thườn thượt là Osamar bin Laden làm chủ chốt. Sau đó Hoakỳ đánh Afghanistan bằng bom bằng oanh tạc cơ đủ cở... rồi Hoakỳ được xứ Pakistan hậu thuẫn. Nhưng Pakistan là một xứ có trình độ văn mình tối cổ nhất thiên hạ, nay thì không. Xứ quá nghéo dân rất ít học. Danh từ Pakistan mới được thành hình cách đây không lâu. Xứ này có nhiều sắc dân du mục chung chạ với nhau, nhiều bang họp lại chung với nhau như: Punjab, Afghan, Kasmir, Sind, Baluschistan.
Năm 1931 một sinh viên Muslim du học tại Oxford bên Anh, tên là Rhamat Ali, tin chắc ngày kia xứ mình sẽ được đế quốc Anh trả lại độc lập, nên anh ngồi ghi lại trên giấy những tên, rồi gọp lại sao cho có một tên mà sắc dân du mục của nước anh được vui dạ, viết rồi xóa, rồi viết lại. Cho đến một lúc thì anh lóe ra là nước của anh phải có một ý niệm là “Đất được thuần bởi người Persian và người Urdu”. Sau đó danh từ riêng ra đời. Tên gọi là Pakistan.
Xứ này có nhiều đồi hoang, núi cao, thung lũng và nhiều hang động. Khoảng 150 triệu năm về trước, thời gian mà “khủng long” (dinosaurs) đang gầm thét, thì có một vùng biển rất lớn, nằm trong đất liền. Sóng biển vỗ đến chân núi Hymã lạp sơn. Biển ngút ngàn... rồi vật đổi sao dời... biển rút đi, trơ lại lòng đất khô cằn... đó là xứ Ấn Độ và xứ Pakistan ngày nay vậy. Thành thử tại gần thủ đô Tibet, người ta thấy rất nhiều vỏ sò sót lại, đó là biển cả dâng đầy nơi đây. Biển mất, rồi có nhiều dòng sông xuất hiện, đó là sông Indus, mà nhà Tần gọi là dân xứ đại Hà (xứ có sông lớn)...
Khi biển mất, thì có một nền văn minh cực kỳ sáng chói xuất hiện, đó là nền văn minh mà sử sách gọi là nền văn minh nhân hậu nhất. Văn minh này vượt xa nền văn minh sau này như: Troy, Nineveh, Babylon, Aicập. Nền văn minh này biết lập ra nhà dưỡng lão nuôi người già cả, có nhà thương thí cứu giúp những người nghèo, có bộ luật pháp mà tôn trọng sự công bằng, nền văn minh đó là Mohenjo-Daro, tại sao người ta gọi tên dài như vậy, vì thành phố cực kỳ rộng lớn, nhưng phần lớn ngày nay nằm sâu dưới lòng biển Ấn độ Dương, phần còn lại là phần mà người ta đào xới từ nơi di tích là Mohenjo-Daro. Tiếng Ấn gọi là thung lũng Tử thần. Nhờ mang danh như vậy nên bọn trộm đạo không dám thọt xuống, hay đào xới mà chôm chĩa. Nền văn minh đi mất, nhưng trong kinh vệ đà là kinh căn bản của Ấn độ Giáo (Bàla môn) có ca ngợi đến đó là kinh Rig-Veda... Kinh kể thật sự là một thiên anh hùng ca dã sử, cho rằng có một giống dân mệnh danh là dân Aryan đến xâm lấn, giống dân này có màu da xanh xanh mà người dân da đen Ấn độ sơn trên vách tường là màu xanh nước biển. Giống dân này rất dũng mãnh, mà Hitler đi tìm một chủ thuyết cho đứng vững chủ thuyết của mình nên Hitler gọi là giống Aryan mà dân Đức mới chính là hậu duệ sót lại. Nay cực bắc Pakistan còn sót lại di chỉ của nhóm này.
Ngày nay quanh khu vực Mohenjo-Daro là sa mạc sỏi đá, ngày nóng cháy da, đêm lạnh kinh hồn... chỉ có cát và gió mà thôi thêm nữa là ánh nắng mặt trời chói lọi ngày ngày. Nhưng 4000 năm trước khu vực này là vùng đồng lầy, có nhiều dấu vết cả cá sấu loại cực lớn, trâu rừng cũng cực lớn, tê giác, hà mã, voi thì hàng hà sa số... thú lớn gầm thết vang dội cả vùng Pakistan.
Vào khoảng thế kỷ thứ sáu trước tây lịch, có vua xứ Cyrus (gọi là Cyrus the great) lập nên đế quốc mạnh đó là đế quốc Persia (nay gọi là Phổ hay gọi là Iraq cũng được). Rồi sau đó vua hùng mạnh nhất là Darius I kéo rộng thêm nữa đến tận Ấn độ và sông Indus (đại hà). Khi xứ Persian thịnh vượng, thì nền kinh tế phồn vinh theo. Từng đoàn lạc đà, thương nhân nối đuoi đến nườm nượp mà buôn bán, thủ đo giàu có nhất là Kabul ngày nay vậy... Rồi quốc gia Persia xụp đổ, thì cực bắc Pakistan tuyên bố độc lập. Họ được độc lập cho đến vua trẻ hùng mạnh nhất bấy giờ là Alexander the Great đến đánh lấy mất xứ.
Từ một thung lũng nhỏ, thế mà chàng trai trẻ xứ Macedonia đánh lấy Hylạp (Greece), Ai Cập (Egypt), Babylon... Sau khi Babylon xụp thì vua này vẫn rong ruỗi trên lưng ngựa không ngừng nghỉ đến tận xứ Turkestan và Afghanistan. Năm 327 B.C trước khi đánh lấy Pakistan thì quân lính của nhà vua Alexander ther Great họp nhau lại và than phiền là họ đã đi quá xa nhà rồi. Tám năm ròng rã viễn chinh được cái gì đâu? Đất đai quá rộng, nhưng được điều gì đây? Nhưng Alexander hứa khi nào đoàn quân viễn chinh của ông đến tận dòng sông Indus (Đại Hà) thì ông sẽ cho lui quân về cố quận. Để chúng minh lời thành thật, ông chia quân làm hai cánh. Cánh nào tới trước thì thành công. Chia quân ra từ hẻm núi Khyber pass. Khi quân Alexander đi ngang qua Kabul River Valley, thì ông đụng phải nhóm quân du kích hung dữ quanh núi đó. Ông cho quân ngừng lại nghĩ gần một tháng, rồi ông âm thầm cho quân đóng bè vượt sông nơi xa. Bè đóng xong, thì đêm đó đại quân ông qua sông. Trận đánh tại Taxila thì quân địch thua.
Mai này quân của ông sẽ gặp một vì vua oai hùng mà Alexander cũng cảm phục. Vua xứ Paurava. Trận đánh này nếu tính theo quân sử thì Alexander hy vọng thắng có vài phần trăm, mà thua thì gần đến 90%. Trận này quyết định sự thành bại của Alexander the Great, ông vua trẻ này không ngờ được, vì quân thiện chiến của ông được chia ra làm hai rồi, tại hẻm núi Khyber Pass vừa qua.
Mở màn trận đánh thì quân Alexander thua, vì quân số yếu hơn quân địch. Đạo quân ông đụng một thứ mà ông không ngờ... đó là đoàn voi trận đông kinh khủng, trên 600 thớt voi hùng dũng của vua Porous. Kể lại thì quân Alexander gồm có 6000 quân bộ chiến và 4000 ngàn kỵ binh, còn bên kia thì có 35 ngàn bộ binh, 300 chiến xa (war chariots), điều kinh khủng là 600 thớt voi trận vô cùng hung dữ thiện nghệ.
Cú ra quân đầu tiên, nghe voi trận rống từ xa thì lính Alexander kinh hồn rồi. Ngựa chiến Alexander the Great không cách chi đến gần voi được, ngựa kinh hoàng chạy ngược về sau. Hai bên tạm dừng lại vì có dòng sông chắn ngang. Vua Porous và Vua Alexander chờ ngày mai qua sông giáp chiến. Hai bên đóng trại, thì đêm đó toán quân do thám của Alexander the Great tìm được lòng sông cạn cách trên đó khoảng 20 cây số. Đêm khuya Alexander cho quân âm thầm chạy ngược lên trên giòng sông cạn, doanh trại vẫn để đèn canh gác như thường lệ. Tình báo của vua Porous cho biết quân Alexander đã vượt sông, nhưng các tướng lãnh của vua Porius cho rằng cánh quân của Alexander sẽ bị lún đầm sình lầy nơi đó... Vua Porous hừng sáng cho dàn quân voi trận và lính thiện nghệ đón rồi. Alexander cho quân lính mình biết, thay giáo nhọn có thể đâm hay bắn trúng voi được, nhưng không bao giờ làm voi chết được, voi càng bị thương càng nguy hiểm cho mình. Nên ông ra lệnh bắn vào nài voi, nghĩa là người điều khiển voi. Bắn phải thật trúng và nếu không trúng thì sẽ thua và voi sẽ đạp mình chết.
Sáng sớm giáp trận, thì nhất tề hàng ngàn mũi tên của lính Hylạp đều bắn ngã nài voi, người điều khiển voi bị chết thì voi không người điều khiển sẽ trở lại đạp quân lính.
Chiến thuật tinh klhôn của Alexander đã đảo ngược tình thế nan giải. Với số quân ít và không bao giờ thấy voi trận, nhưng Alexander thắng trận này.
Lính giải giao một tướng lãnh địch quân cho vua trẻ Alexander, mình bị trọng thương nhưng viên đại tướng này vẫn dõng khí hiên ngang. Alexander hỏi tướng bị thương: “Thế thì nhà ngươi muốn ta làm gì?” Viên tướng bị thương máu chảy ròng ròng không kêu than một tiếng, tướng này nói: “Ta muốn được đối xử như vua với vua”. Viên tướng đó là vua Porous. Thầm phục sự hiên ngang và oai hùng của vua địch. Alexander liền cho ghế ngồi và trả lại ngai vàng cho vua Porous.
Đó là lời nói hiên ngang của nhà vua xưa Paurava, cực bắc Pakistan nay là một phần của Afghanistan.
Sau này vua Alexander chưa tới sông Indus nhưng đến Ấn độ. Năm 324 B.C vua Alexander chiến thắng Babylon, rồi năm sau ông ngã bệnh và mất tại chiến trường.
Còn xứ Pakistan thì thượng tướng của Alexander nắm giữ không muốn trở về lại Macedonia nữa.
Nay quý bạn đã biết chiến trận chưa dứt tại Macedonia thì cũng cùng thời gian Pakistan và Afghanistan lại dấy động binh lửa... nhưng mà từ xa đưa đến. Có thật lịch sử tái diễn trùng phùng hay chăng? Trên hai ngàn năm rồi mà?
Kỹ sư Sagant Phan
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 24, 2010 3:30:15 GMT 9
HÀNH TRÌNH CỦA NỀN VĂN HÓA CHÀM
Thinh Quang
LTS. Hiện nay người Chiêm Thành định cư tại đất nước Hoa Kỳ vào khoảng 10.000 và lối 20.000 tại Mã Lai Á. Trong khi đó tại Việt Nam chỉ còn lại vào khoảng 100.000 người, đa số đều ở tại Phan Rang và Châu Đốc. Hầu hết người Chàm đều theo đạo Islam. Đặc biệt những người Chàm tại hải ngoại thiết tha với việc bảo tồn truyền thống văn hóa dân tộc từ ngàn xưa tại Vương quốc Champa để khỏi bị mai một.
Nền văn hóa Chàm dồng thời hoặc trước cả các nền văn minh trong các quốc gia Đông Nam Á. Theo Đông Nam Á Sử Lược Thời Tiền Âu Châu ghi nhận theo hai tác phẩm biên khảo Pararaton và Nagarakertagama giải thích về triều đại của Kertanagara, nhưng nhận định khác nhau về nhân phẩm cũng như đường lối hoạt động của vị vương này có liên quan mật thiết với dân tộc Chàm.
Theo Pararaton cho rằng triều đại của Kertanagara ngắn ngủi và cũng có tiếng tăm gì để đáng được ca tụng. Còn Nagarakertagama thì ghi nhận triều vua này kéo dài đến năm 1293 và lập được nhiều thành công đáng kể. Trong suốt một thời gian dài, các triều đại này mở rộng bờ cõi kể cả cuộc chinh phục Malaya và cuối cùng đã trở thành một đế quốc hùng mạnh. Thành tích được xem là vĩ đại sau khi chiếm cứ được Srivijaya.
Năm 1286 một tấm bia đá được tìm thấy ở ngay giữa hòn đảo trên dòng sông Batang, đó là tượng hình của Đức Phật Amogapasalokesvara. Các dòng chữ khắc trên bia đá do bốn vị thượng quan Javamang sang Sumatra theo lịnh của Kertanagara đặt tại Malaya, nhằm mục đích kéo quốc gia này vào cùng liên bang Indonesia để phô trương thanh thế và biến thành một đế quốc lớn mạnh khắp vùng Đông Nam Á.
Theo ức thuyết của Moons đưa ra năm 1924 thì Kertanagara tự cung hiến cho thần Bairava là hậu quả của Hốt Tất Liệt từng tự cống hiến cho Phật Tina vào năm 1264... Lúc bấy giờ Kertanagara đã trở thành vương quốc hùng mạnh lập tức thiết lập mối giao hảo với Chiêm Thành - một trong những quốc gia có nền văn hóa cao và một binh đội hùng hậu.
Các sắc tộc Đông Nam Á gần như cùng một xu hướng tín ngưỡng, như sùng bái Quỉ Dạ Xoa của Ấn Độ thường được gọi là Yaksas vào thời kỳ Phật giáo chưa ra đời. Trước kia, người Chàm cũng như người Việt đều có tục cầu thần linh bằng hình thức "lên đồng", còn gọi là Charmanism hay Vu Nghiễn, cùng ý nghĩa như nhau. Các đấng thần linh mượn xác đồng để giải đáp các sự kiện mà người phàm nào khấn hỏi, thường những lời khấn hỏi liên quan đến cá nhân mình trên mọi lĩnh vực.
Về tư tưởng, người Chàm chẳng khác với các sắc dân Đông Nam Á. Các diễn biến của lịch sử ghi nhận bên dưới đây có liên quan mật thiết với dân tộc Chiêm Thành. Nagarakertagama chép: "Khi Ketjasa Jayaverdhana lên ngôi vua được dân chúng khắp mọi nơi hoan hỉ. Krom và Stutterheim cho rằng bốn công nương đều là con gái của vua Kertanagara. Tấm bia đá ghi khắc cuộc hôn phối của các nàng công chúa có liên quan hay đúng hơn có tính huyền bí với các lãnh thổ mà Kertanagara đã chinh phục được. Nhà vua tin mình đã nhờ anh linh của quốc vương phù trì hiển thánh vào năm 1275 như là Phật Bhaira. Bốn Vương Hậu tiêu biểu đó là Bali, Malayu, Madura và Tanjungpura...
Công nương thứ nhất được sắp xếp vào địa vị Chánh hậu. Bà tên là Dara Petak. Đây là nàng công chúa xứ Sumatra. Bà hạ sinh được một hoàng tử đặt tên là Yaynagara về sau vào năm 1320 nối ngôi vua Kertarajasa. Tiếp đến là nàng công chúa Chiêm Thành – hoàng hậu được nhà vua sũng ái. Bà tên là Gayatri. Bà sinh hạ được hai công nương. Năm 1291 bà về nước gửi lại một nàng có tên là Tapasi cho vua Chiêm...
Xem các diễn biến trên ta thấy quốc gia Chiêm Thành có một tiềm lực khiến cho vị vương Kertagara luôn luôn tìm cách cầu hòa. Vị vua này còn mang trọng lễ dâng lên cho vua Chiêm nói lên lòng kính trọng của một đế quốc hùng mạnh đối với quốc gia Chiêm Thành, mà nhà vua kertanagara từng tuyên bố đây là một đất nước có lắm điều hay cần phải học hỏi như từ phong tục, tập quán đến cả văn học, nghệ thuật...
Chiêm Thành tức Champa ở giữa hai quốc gia Phù Nam và Âu Lạc, nhưng hoàn toàn không bị ảnh hưởng, kể cả nền văn minh của phương Bắc tràn xuống. Người Chiêm Thành có một nếp sống riêng biệt. Về đạo giáo thì ảnh hưởng Bà La Môn, tuy nhiên về văn học nghệ thuật cũng như nếp sống hoàn toàn độc lập chẳng giống với bất cứ quốc gia dân tộc nào!
Các Tháp Chàm biểu trưng cho công trình nghệ thuật xây cất bằng loại đất sét tinh luyện đặc biệt, không cần phải sử dụng đến chất dẻo, các hình ảnh được điêu khắc khá tinh vi hiện còn nằm rải rác dọc theo quốc lộ số 1. Các nhà khảo cổ đều ngạc nhiên khi đứng trước những hình tượng các vũ nữ nhảy múa, hình ảnh các vua chúa, thần linh v.v...tất cả đều có những đường nét điêu khắc tinh xảo không thua kém gì các hình tượng của Ấn Độ, hoặc Thái Lan hay các quốc khác trong khối Hồi giáo...
Tuy nhiên, cũng có những nhận xét về nghệ thuật của Chiêm Thành, có phần nào phưởng phất nghệ thuật Ấn Độ. Theo Cham Sculpture có đoạn:"Ấn độ của xứ sở thầy tu và vũ nữ" (Engels) của khắc kỷ và khoái lạc. Còn nghệ thuật của Chàm là cả một sự huyền bí. Nếu chúng ta có dịp chiêm ngưỡng các hình tượng nữ thần ở Tam Kỳ, hay các tấm mộ bia khắc đầy văn tự Chiêm Thành tại Mỹ Sơn (Quảng Nam Đà nẵng), hoặc chiêm ngưỡng bức tượng Đản Sinh thần Brahama, tượng thần Khánh Chúc, phù điêu bệ tượng Đồng Dương được khắc từ thế kỷ thứ 9 hay Ravan - Phù điêu đài thờ Đồng Dương hay Garuda, lá nhĩ ở Trà Kiệu, khắc từ thế kỷ thứ mười, tiếp thần "Đầu Con Sư Tử" ở Trà Kiệu, tượng "U Ma vũ khúc" ở Chánh Lộ Quảng Ngãi v.v... cho thấy người Chàm có một trình độ khá cao mà các quốc gia trong vùng khó lòng sánh kịp...
Thinh Quang
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 18, 2011 5:05:20 GMT 9
NHỮNG NGHI VẤN KHI CẦU NGUYỆN
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
Câu hỏi đó đã được rất nhiều người đặt ra, trong Cơ-Đốc giáo cũng như trong các truyền thống tôn giáo khác. Tại sao vậy? Tại vì nếu có linh ứng thì mình mới cầu, còn nếu không thì tại sao mình lại cầu? Vì vậy mà mình phải trả lời câu hỏi này trước, rồi sau đó mới đi tìm câu trả lời cho các nghi vấn khác.
Sự thật là mình thấy sự cầu nguyện nhiều khi có hiệu lực, nhiều khi lại chẳng có hiệu lực gì cả! Cho nên nói có là sai mà nói không cũng không đúng.
Có một em bé người Mỹ hồi còn sáu tuổi, một hôm ra sân chơi với con chuột trắng của mình, con chuột mà em thích nhất. Không biết em chơi với con chuột ra sao mà con chuột chui vào một cái lỗ, rồi đi thẳng xuống đất mà không trở lên nữa! Buồn quá trời đất, em bé quỳ xuống, khẩn cầu Chúa để Chúa đem con chuột lên cho em. Ngoài má em ra thì con chuột đó là kẻ thân với em nhất, là người bạn số một trong thiên đường tuổi thơ của em. Không có con chuột đó thì em buồn khổ vô cùng, em không muốn sống nữa. Vì vậy nên em đã quỳ xuống, hai tay chắp lại với tất cả trái tim để cầu nguyện Chúa xin Chúa đem con chuột trở lên cho mình. Bắt chước mẹ, em lẩm nhẩm khấn cầu: Con tin tưởng hoàn toàn nơi Chúa, nếu Chúa muốn thì Chúa có thể đem con chuột trở lên cho con!
Em bé quỳ suốt một tiếng, rồi hai tiếng đồ ng hồ, với tất cả sự chí thành của mình mà con chuột vẫn không chịu trở lên! Rốt cuộc thì em phải vào nhà ăn cơm. Không có con chuột, em buồn khổ vô cùng!
Một vài câu chuyện như vậy đã xảy ra trong đời cậu bé, cho nên cậu không còn tin vào sự cầu nguyện nữa.
Lớn lên vào trung học, cậu chọn ngành âm nhạc. Hôm đầu tiên vào lớp, chàng thấy giáo sư nhạc của chàng là một ông già lớn tuổi, bệnh hoạn, giọng nói hơi run run. Đặc biệt là sáng nào vào lớp ông cũng cầu nguyện, cầu nguyện tới 15 phút, làm học trò trong lớp rầu lắm. Tại vì cái cách thức cầu nguyện của ông không hay ho và hấp dẫn gì cả! Trước khi bắt đầu, ông thường hỏi: Anh có điều gì cầu nguyện không? Chị có điều gì cầu nguyện không? Ông ghi lại hết tất cả những điều mà cá c học trò của ông muốn cầu rồi bắt cả lớp cúi đầu xuống, và ông bắt đầu cầu nguyện cho tất cả mọi người.
Những điều cầu xin có lúc rất buồn cười, ví dụ: Ngày mai là ngày chúng con đi picnic, xin trời nắng ráo, đừng mưa! Vì vậy mà đối với anh chàng học sinh đi học nhạc kia thì 15 phút cầu nguyện trước giờ học là 15 phút chán ngấy, anh chẳng tin gì hết! Vậy mà ông thầy vẫn tiếp tục làm một cách rất chí thành, rất tinh chuyên!
Một hôm có một nữ sinh vào lớp, khóc nức nở. Cô nói rằng bác sĩ vừa khám phá ra một cái bướu trong óc của má cô, và bác sĩ còn nói là sợ bà ta không sống nổi qua tuần này! Cô khóc sướt mướt rất là tội nghiệp, làm tất cả mọi người trong lớp xúc động! Lúc ấy ông giáo bèn đứng dậy, giương mắt nhìn cả lớp bằng một cái nhìn rất là mãnh liệt, rồi tuyên bố: Trong lớp này có ai không tin vào khả năng cứu chữa của Thượng đế thì đi ra hành lang đứng, tại vì chúng tôi sẽ cầu nguyện cho má của cô nữ sinh này. Sau khi cầu nguyện xong thì tôi sẽ cho người ra đón các vị vào lại! Anh chàng của chúng ta định đứng dậy đi ra, tại vì anh không tin gì vào sự cầu nguyện cả. Nhưng không biết tại sao anh lại không đủ can đảm để đi ra, nên anh ngồi nán lại.
Ông giáo yêu cầu mọi người cúi đầu xuống, và ông bắt đầu cầu nguyện. Lời cầu nguyện tuy ngắn gọn nhưng giọng ông lại rất hùng tráng. Trong tư thế cúi đầu, chắp tay, và khép mắt, ông nói rằng: Chúng con xin cám ơn Thượng đế chữa lành cho má cô Nancy ngay trong giờ phút này. Nhân danh Chúa Ki-tô, Amen! (Lord! We thank you f or healing Nancy’s mother right now. In the name of Jesus Christ, AmenÔng chỉ nói có chừng đấy!
Hai tuần sau người ta báo tin rằng bà má của Nancy đã lành bệnh. Bác sĩ rọi kiếng, làm scanner và thấy không còn một dấu tích tối thiểu nào của cái bướu ngày xưa nữa. Đúng là một phép lạ! Bà lành lập tức chứ không trải qua một thời gian trị liệu nào hết!
Lúc đó anh chàng sinh viên của chúng ta mới bắt đầu tin vào khả năng cứu chữa của Thượng đế. Anh tin vào sự linh ứng của việc cầu nguyện, và anh bắt đầu cầu nguyện cho ông thầy dạy nhạc của mình. Anh đã cầu nguyện với tất cả tâm thành, tại vì chuyện chữa lành cho bà mẹ của Nancy là một phép lạ mà anh đã chứng kiến. Anh cầu nguyện với tất cả trái tim anh cho sức khỏe của ông thầy dạy nhạc. Nhưng một năm sau thì ông giáo qua đời!
Như vậy có nghĩa là, để trả lời cho nghi vấn thứ nhất, ta có thể nói rằng cầu nguyện có khi thành công, có khi không thành công.
Vì vậy câu hỏi thứ hai được đặt ra là tại sao cầu nguyện có khi thành công, có khi không thành công? Có một phương thức cầu nguyện nào bảo đảm đem lại kết quả không? Nếu người nào có phương thức đó thì mình sẽ bằng lòng mua với giá rất cao, vì nếu làm đúng theo phương thức đó thì thế nào cầu nguyện cũng có kết quả. Nhưng ai là người đang nắm cái phương thức cầu nguyện có kết quả đó?
Như đã nói ở trên, khi đối diện với việc cầu nguyện, ta thường gặp rất nhiều nghi vấn. Vì vậy mà khi đang tìm câu trả lời cho câu hỏi thứ hai, thì một thắc mắc kh� �c lại hiện đến. Đó là câu hỏi thứ ba: Nếu Trời đã quyết định như vậy, nếu Thượng đế đã an bài như vậy rồi, thì cầu nguyện làm gì nữa? Các nhà thần học nói rằng nếu Thượng đế đã muốn như vậy thì cái ý nguyện của Thượng đế sẽ thành tựu (Que ta volonté soit faite) vậy thì ta cầu làm gì nữa? Nếu tất cả đều đã được Thượng đế sắp đặt rồi, ví dụ như người đó đến tuổi đó thì sẽ phải bị bệnh ung thư, thì tại sao ta lại còn cầu nguyện cho mất công? Ngài đã quyết định rồi mà!
Cũng như đứng về phương diện nhân quả và nghiệp báo, vì người kia đã làm những điều ác, cho nên tới giờ phút đó thì phải bị bệnh này, thì làm sao cầu nguyện mà có thể thay đổi được?
Một bên là cái ý chí của Thượng đế, một bên là cái ngh iệp báo của chúng sanh. Nghiệp đã như vậy rồi thì làm sao có thể thay đổi được quả?
Cái gọi là ý chí (volonté) của Thượng đế ở trong đạo Ki-tô cũng tương đương với cái nghiệp báo ở trong đạo Bụt.
Chưa hết, nghi vấn thứ tư từ từ lộ diện: Nếu cầu nguyện không có kết quả, có phải là tại đức tin của mình đang yếu kém hay không? Thánh kinh có nói rằng “Nếu đức tin của anh vững chãi thì anh có thể dời một ngọn núi từ chỗ này sang chỗ kia”!
Vậy thì đức tin của mình lúc nào mới thực sự gọi là đầy đủ, là vững chãi? Đối với câu chuyện chuột chui vào hố sâu của cậu bé trên đây, thì một cậu bé sáu tuổi, quỳ xuống cầu nguyện như vậy, là cậu có một đức tin rất lớn. Cậu vững tin rằng nếu Thượng đế muốn thì chắc chắn được! Lúc đó nếu có ai hỏi về niềm tin của cậu, thì cậu sẽ nói rằng đức tin của cậu rất lớn, tại vì nó đã được un đúc trong biết bao nhiêu năm tháng! Mỗi đêm cậu đều có cầu nguyện theo lời chỉ dẫn của má, vậy mà tại sao lần này cậu lại không thành công trong việc cầu nguyện?
Hay là tại trong khi cầu nguyện cậu chỉ có ý muốn được thoả mãn cái ham muốn của mình, cái ưa thích có con chuột để làm bạn với mình, mà cậu không thật sự thương con chuột đó đang bị hoạn nạn ở trong hố sâu? Vì vậy nếu cầu nguyện mà không có kết quả, thì có phải là do mình không có tình thương hay không?
Nhiều khi mình tin rằng mình đã cầu nguyện hết lòng, cầu nguyện với tất cả mọi tế bào trong cơ thể của mình, với tất cả mọi giọt máu trong con ngư� ��i của mình, vậy mà cầu nguyện cũng không thành công! Mình thương người đó quá chừng, người đó đang hấp hối, vậy mà nói là mình không có tình thương sao được? Mình thật sự có thương mà!
Tuy vậy, nếu nhìn sâu vào thì ta sẽ thấy tình thương này đôi khi không hẳn là tình thương mình hướng về cho người đó, mà chỉ là vì mình sợ bị bơ vơ, mình lo bị thiếu vắng! Nếu mình lầm lẫn tình thương với sự sợ hãi về cái bơ vơ của mình, thì đó có phải là tình thương, hay đó chỉ là một cái ước muốn, ước muốn người đó được sống để cho mình khỏi bơ vơ? Cho nên đó không phải thật sự là tình thương mình dành cho người đó, mà chỉ là tình thương hướng về cho chính mình.
Đó là những câu hỏi được đặt ra trong khi mình thực tập nhìn sâu vào vấn đề. Tất cả những câu hỏi này cũng cần phải được trả lời.
Ngoài ra, trong vấn đề cầu nguyện ta còn một câu hỏi cuối, câu hỏi thứ năm: Người mình cầu nguyện là ai? Thượng đế là ai? Bụt là ai? Bồ tát Quan Thế Âm là ai? Đức mẹ Maria là ai?
Nói rõ ra, câu hỏi cuối cùng trong vấn đề cầu nguyện: Khi cầu, ta cầu ai?
ST
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 6, 2011 4:26:07 GMT 9
Quái Nhân - Quái Chí - Quái Dị Thiên địa sơ khai, hoàn cầu hỗn độn. Loài người từ khi có văn minh là bắt đầu có vô số những câu chuyện thần bí, hàng loạt các vấn đề quái dị mà chỉ còn biết "hỏi Trời". Tới thế kỷ 20, những chuyện thần kỳ không những không giảm đi mà lại có xu thế tăng lên như sóng cồn. Ðương nhiên, phần lớn những câu chuyện này, những câu "hỏi Trời" ấy lại được nêu ra sau khi những tiến bộ xã hội phát triển khoa học của mấy ngàn năm lịch sử. Ðó là những điều được nêu ra ở gia đoạn phát triển cao độ của diễn biến xã hội đang hướng về phía trước. Nó được nêu ra trong hoạt động xã hội, lịch sử tiến lên theo hướng xoắn ốc nên làm ta càng cảm thấy huy hoàng tráng lệ, khiến ta không khỏi giật mình. Chuyện dị thường qui tập những câu chuyện, những nghi vấn giàu ý nghĩa khiến ta không thể không bàn tán trao đổi. Ðó là những vấn đề về văn hoá mà ai cũng muốn biết tường tận. Có chuyện xảy ra từ thời kỳ xa xưa do truyền thuyết từ ngoài hành tinh và có những chuyện đang tồn tại trong thế kỷ này (nhưng cũng không loại trừ những vấn đề có trước thể kỷ này mà còn tồn tại tới bây giờ vẫn chưa giải thích được). Những câu chuyện được đề cập tới được chia thành 3 phần có liên quan đến người, vật, và sự việc. Nhiều chuyện xem ra có vẻ hoang đường mê muội nhưng đấy lại là những chuyện sự thật bằng xương bằng thịt, khiến ta không thể không tin, ít nhất cũng bán tín bán nghi, nửa tin nửa ngờ. Những câu hỏi "chỉ trời mới biết" ấy được loại bỏ khỏi "trung tâm luận nhân loại", "trung tâm luận địa cầu" mà đi theo đường tắt nhằm giải đáp những câu chuyện, những hiện tượng thần bí hoang đường ly kỳ trong loài người và quanh loài người. Nhiều lời giải thích thuộc dạng kinh thiên động địa, đóng cửa mà chế ra xe, nhưng lại không htoát ly tinh thần tiến thủ về khoa hoạc và mang sắc thái tư duy lý tính. Về điểm này có sự hướng đạo cấp thiết và đáng để coi trọng. Ý nghĩa của chuyện dị thường này là vậy. Ngoài ra, với những quái nhân, quái chí, quái sự mà chúng ta gọi những chuyện dị thường thế giới dẫn tới đạo đức tự thân loài người là những vấn đề biến dị về nhân tính thiện ác cũng được mổ xẻ và đánh giá một cách khách quan nhằn thúc đẩy loài người tiếp tục giương cao ngọn cờ khoa học, ngọn gió văn minh, tiếp tục tiến lên, hiên ngang bước qua thể kỷ 20, tiếp tục vào cuộc chiến mới thì sẽ có ý nghĩa lớn hơn.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 24, 2011 5:18:30 GMT 9
Cho và Nhận
Một hôm, một sinh viên trẻ có dịp đi dạo với giáo sư của mình. Vị giáo sư này vẫn thường được các sinh viên gọi thân mật bằng tên "người bạn của sinh viên" vì sự thân thiện và tốt bụng của ông đối với học sinh. Trên đường đi, hai người bắt gặp một đôi giày cũ nằm giữa đường. Họ cho rằng đó là đôi giày của một nông dân nghèo làm việc ở một cánh đồng gần bên, có lẽ ông ta đang chuẩn bị kết thúc ngày làm việc của mình. Anh sinh viên quay sang nói với vị giáo sư: "Chúng ta hãy thử trêu chọc người nông dân xem sao. Em sẽ giấu giày của ông ta rồi thầy và em cùng trốn vào sau những bụi cây kia để xem thái độ ông ta ra sao khi không tìm thấy đôi giày." Vị giáo sư ngăn lại: "Này, anh bạn trẻ, chúng ta đừng bao giờ đem những người nghèo ra để trêu chọc mua vui cho bản thân. Nhưng em là một sinh viên khá giả, em có thể tìm cho mình một niềm vui lớn hơn nhiều nhờ vào người nông dân này đấy. Em hãv đặt một đồng tiền vào mỗi chiếc giày của ông ta và chờ xem phản ứng ông ta ra sao." Người sinh viên làm như lời vị giáo sư chỉ dẫn, sau đó cả hai cùng trốn vào sau bụi cây gần đó. Chẳng mấy chốc người nông dân đã xong việc và băng qua cánh đồng đến nơi đặt giày và áo khoác của mình. Người nông dân vừa mặc áo khoác vừa xỏ chân vào một chiếc giày thì cảm thấy có vật gì cứng cứng bên trong, ông ta cúi xuống xem đó là vật gì và tìm thấy một đồng tiền. Sự kinh ngạc bàng hoàng hiện rõ trên gương mặt ông. Ông ta chăm chú nhìn đồng tiền, lật hai mặt đồng tiền qua lại và ngắm nhìn thật kỹ. Rồi ông nhìn khắp xung quanh nhưng chẳng thấy ai. Lúc bấy giờ ông bỏ đồng tiền vào túi, và tiếp tục xỏ chân vào chiếc giày còn lại. Sự ngạc nhiên của ông dường như được nhân lên gấp bội, khi ông tìm thấy đồng tiền thứ hai bên trong chiếc giày. Với cảm xúc tràn ngập trong lòng, người nông dân quì xuống, ngước mặt lên trời và đọc to lời cảm tạ chân thành của mình. Ông bày tỏ sự cảm tạ đối với bàn tay vô hình nhưng hào phóng đã đem lại một mòn quà đúng lúc cứu giúp gia đình ông khỏi cảnh túng quẫn người vợ bệnh tật không ai chăm sóc và đàn con đang thiếu ăn. Anh sinh viên lặng người đi vì xúc động, nước mắt giàn giụa. Vị giáo sư lên tiếng: "Bây giờ em có cảm thấy vui hơn lúc trước nếu như em đem ông ta ra làm trò đùa không?" Người thanh niên trả lời: "Giáo sư đã dạy cho em một bài học mà em sẽ không bao giờ quên. Đến bây giờ em mới hiểu được ý nghĩa thật sự của câu nói mà trước đây em không hiểu: "Cho đi là hạnh phúc hơn nhận về".
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 2, 2011 10:35:00 GMT 9
Giấu chim trong quần (VienDongDaily.Com - 15/11/2011) Hoài Mỹ/Viễn Đông Sở quan thuế Pháp ở Cayenne, French Guiana, mới đây đã xác nhận tin của báo chí là họ có bắt tại phi trường Rochambeau một hành khách đàn ông gốc Hòa Lan đã “giấu chim trong quần” vì xét đây là “hành vi buôn lậu chim hoang dã”. Nhân “sự cố” nêu trên mà kẻ hèn này động lòng nhớ lại quan niệm làm giầu xưa kia của tiền nhân Việt Nam, ấy là “phi thương bất phú”. Không buôn bán thì đừng hòng mong giầu. Nên nhớ, chữ “giầu” ở đây chỉ mang nghĩa là “giầu có” thôi đấy nhá, chứ không hắn đã là “giầu sang”. Có lẽ vì các cụ mình thấy lắm kẻ “giầu có”, nghĩa là “tiền rừng bạc biển” nhưng sao mặt mũi của chủ nhân vẫn tối tăm như “đêm ba mươi” đồng thời nhất cử nhất động của đương sự trong cách xử thế thì cứ tiếp tục thi nhau mà “hèn”, thành ra “giầu” chưa hẳn đã “sang”. Trong khi ngược lại, không thiếu những người “chạy ăn từng bữa toát mồ hôi”; tổng số lượng vải vóc cũng chỉ đủ “ban ngày quấn thành quần, tối đổi thành gối”, đêm nằm thì đã có “đất làm chiếu, trời thay màn”… vậy mà nhìn vẫn “sang” đáo để. Chẳng thế mà quan niệm về cấp bậc được trọng nể trong xã hội, cổ nhân ta đã xếp thứ tự: “Sĩ - nông - công - thương”. Giới buôn bán muôn năm bị chấm điểm về chót, vì thế sự nghiệp cha truyền con nối vẫn là số phận “cầm đèn đỏ” kinh niên. Tại sao? Thưa, bởi vì dưới mắt của người xưa đã “thương” thì phải “tham” - mà “tham” với “gian” cũng một vần. Nói cách khác, buôn bán mà cứ thật thà như đếm thì chỉ “ba bẩy hai mươi mốt” ngày, vốn liếng sẽ không cánh mà bay chứ tuyệt nhiên mong chi kiếm được một đồng xu lời. Có cho kẹo ăn suốt đời cũng chẳng có một “thương gia” lớn, nhỏ nào dám “liều thân sa trường” mà “buôn ngay bán thật”. Đặt thí dụ, nếu ta đốt đuốc để ngày đêm lùng kiếm ở trên cõi đời ô trọc này mà chẳng may cuối cùng cũng bắt gặp được một “quí nhân” như vậy thì chẳng phải là thầy bói, xem tướng số hoặc thầy địa lý hay vua phong thủy, ta cũng đoán trúng phoóc, đó là kẻ nếu không điên thì cũng khùng vào thời kỳ chót, nếu thần kinh không bị chạm dây đụng dợ thì tính khí cũng tưng tửng. Nói tóm lại, đó chính hiệu là kẻ “hết xài”, vừa thấy mặt, ta đã rõ lý lịch và quốc tịch, chưa xem ID đã biết địa chỉ là… Chợ Quán. Vậy thì, theo nhận định của cổ nhân, “buôn thất nghiệp, lãi quan viên”, nghĩa là buôn bán nhàn hạ đến độ như cảnh “Vân Tiên cõng mẹ đi ra, đụng phải cột nhà, cõng mẹ đi vô”, và rồi lại “Vân Tiên cõng mẹ đi vô, đụng nhằm cái bồ, cõng mẹ đi ra”, nhưng lời lãi nhiều lắm; tuy vậy để được nhiều lời, lắm lãi như thế thì phải biết “buôn gian bán lận”, phải “buôn tranh bán cướp”, khi cần thì cũng không từ “buôn thần bán thánh”. Ấy như đảng Việt Cộng cũng vì muốn “vinh thân phì gia” mà ngay từ thuở mới chào đời, bọn chúng cũng đã “rành sáu câu” trong việc “buôn dân bán nước” cơ mà! Mà một khi đã được “phú” nhờ “thương” gian lận thì đương nhiên việc làm ấy thất đức, trái luân lý. Truyện cổ tích “Cái cân thủy ngân” đã chứng minh: Ngày xưa, một cặp vợ chồng nọ nhờ buôn bán mà đã giầu có “nứt vách đổ tường”. Thế nhưng để thu lời nhiều, họ đã bí mật đổ chút thủy ngân vào một bên đầu cái cần của cái cân, phía bên đặt hàng hóa khiến khi cân, đồ của khách tuy ít, tuy nhỏ mà cũng đã nặng. Mặc dù mỗi lần lãi chẳng bao nhiêu nhưng “tích tiểu thành đại” nên cặp vợ chồng này trở thành “đại gia” lúc nào không hay. Cũng vì “trời xanh có mắt” nên - một mặt, trời dành cho họ một hình phạt nhãn tiền là bắt bà vợ chịu cảnh “hữu sanh vô dưỡng”, cả chục lần đầu đã mém đẻ, lại bị sẩy thai; hơn chục lần sau, đẻ được rồi, con lại chết - mặt khác, trời đặc phái một tiếng nói bí mật thường xuyên rúc rỉa lương tâm ông chồng khiến ông ta ngày ăn không ngon, đêm bất khả chợp mắt mặc dù chiều nào ông cũng uống hết “sữa ong chúa”, lại rượu “ngầu pín” đại bổ. Sau cùng cả hai vợ chồng cùng giác ngộ một lượt, cùng đồng thời ăn năn hối cải, bèn cùng “nhất trí” từ nay không ăn gian nói dối nữa. Để thể hiện lòng cải thiện, người chồng đã mang cái cân thủy ngân ra trước mặt vợ định phá hủy. Khi vừa chẻ làm đôi cái cần, hai vợ chồng đều “tá hỏa tam tinh” vì thấy trong đó toàn những máu là máu. Trí óc của hai người liền tóe sáng để họ cùng hiểu đó là máu của dân lành, của người nghèo mà họ đã “buôn gian bán lận”. Liền đó, họ đã quyết định “bán đổ bán tháo” hết hàng hóa rồi lấy tiền ấy mà làm phúc cho những kẻ bất hạnh trong làng. Ít lâu sau, họ đã thực hành cuộc sống lam lũ, vất vả đến độ “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, nhưng họ lại cảm thấy hạnh phúc vô biên giới. Sau cùng, trời xanh khi thấy đôi vợ chồng này đã lập công, tích đức đầy đủ, bèn phái hai chim hạc bự thật bự xuống đón họ về cõi tiên. Vâng, theo thi hào Nguyễn Du, “chữ Tài liền với chữ Tai một vần” thế nào thì như trên cũng đã nói, “chữ” tham đi với chữ “gian” cũng đồng vận y chang nhau. Với ý nghĩa này, người ta thỉnh thoảng được nghe về các vụ thương mại trái phép, buôn hay bán những đồ quốc cấm - Gọi vắn tắt là “buôn lậu”, “bán lậu”. Từ ngữ “lậu” có nhiều nghĩa, khi xài phải cẩn thận kẻo “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Trước hết, “lậu” là lỗi thời, như “hủ lậu”. Nghĩa thứ hai, nghe dễ nổi da gà, theo đó “lậu” là thứ bệnh hoa liễu do một thứ cầu khuẩn gây nên, khiến bệnh nhân khi đi tiểu thì “cần” rát, còn “thủy triều” thì tựa nước gạo. “Bệnh lậu” còn gọi là “bạch trọc”. Hai nghĩa vừa kể không thuộc phạm vi câu chuyện này, biết qua rồi bỏ, nhưng nghĩa thứ ba này mới “hợp tình hợp cảnh”. Đó là việc làm hay đồ vật có tính trái phép, lén lút… như trường hợp của anh chàng Hòa Lan trên đây. Theo tờ báo cáo của sở quan thuế Pháp ở Cayenne, French Guiana, đương sự đã giấu nhiều con chim bói cá và con chim ruồi trong cái túi đặc biệt rồi khâu trong quần, ở phía hai bên bẹn. Dĩ nhiên chim nào cũng quí, nhưng hai loại chim kể trên còn quí hơn loại thường vì chim bói cá và chim ruồi thuộc giai cấp đặc biệt, thứ hoang dã nên hiếm thấy. Mà theo trò đời, một khi đã “hiếm”, hẳn “quí” - mà đã “quí”, ắt “đắt”mặc dù chim bói cá, chim ruồi không bự con nhưng chim này vẫn được đánh giá là “của quí”. Một trong những điều kiện buôn lậu là phải đa mưu túc trí, lắm mánh mung, nhiều xảo thuật để qua mặt được những người thi hành luật pháp. Anh chàng Hòa Lan này đã đạt được ưu điểm vừa kể, nghĩa là quả thật đương sự có “mưu ma chước quỷ”. Chẳng thế mà, theo bản tin, “nhà chức trách cũng chẳng dám xác quyết là đối tượng này sẽ bị phạt hay không, bởi vì đây là ‘sự cố’ đầu tiên được ghi nhận”. Việc anh chàng Hòa Lan giấu chim trong quần, thế võ Quyền Điểu giải thích nôm na là “tung cánh chim tìm về tổ ấm”. Giấu gần chục con chim ở trong quần, chủ nhân này đương nhiên phải mặc một chiếc quần rộng thùng thình giống váy đầm. Ngoài đặc tính rộng, quần này còn phải đáp ứng hai yêu cầu: Thứ nhất, mỏng để không khí trong lành bên ngoài có thể lọt vào, đánh át khí độc CO2 sa thải ở bên trong kẻo chim bị ngạt mà chết - Thứ hai, mỏng nhưng vẫn phải đậm màu, sặc sỡ hoa hòe hoa sói để chim hiểu lầm là chúng vẫn đang ở trong rừng rậm; bằng không chúng sẽ nổi dậy, dẫy dụa thì phiền lắm. Vả lại, nếu mỏng mà vải lại thưa, mầu đơn thuần thì kể như dễ “bể mánh”, nghĩa là “ông đi qua, bà đi lại” sẽ thấy ngay chim của anh chàng này rồi ai nấy sẽ vội kêu ầm lên là sao thằng đó lắm chim thế. Hớ hênh như vậy khác chi “lậy ông tôi ở bụi này”. Khi đọc bản tin “giấu chim trong quần”, tôi cứ thắc mắc mãi trước cảnh “cá chậu chim lồng” ấy. Tôi tự hỏi, làm cách nào mà anh chàng Hòa Lan này có thể bịt miệng chim để chim không hót, không kêu chim chíp? Tới đây tôi chợt nhớ đến một câu thơ chữ Hán của Trần Tế Xương tự Tú Xương: “Lung trung bách thanh điểu” - nghĩa là trong lồng có cả trăm tiếng chim - khi nhà thơ này lúc lên 10 tuổi đối lại câu thơ một một thầy đồ”: “Đình tiền ngũ sắc hoa”, trước nhà có năm màu hoa sặc sỡ. Ngoài ra tôi còn nhớ cả đến đề tựa một cuốn tiểu thuyết của nhà văn Nhật Tiến: “Chim hót trong lồng” (xin làm ơn làm phúc, tòa soạn khi in đừng làm mất phụ âm “g” của tôi trong chữ “lồng”- như một lần tôi đã gặp đại họa trong lần tôi viết lá thư tỏ tình với người yêu đầu tiên. Thật tình tôi chỉ có ý trong sạch là muốn nàng đọc tác phẩm giá trị này và tôi ước ao mình sẽ trở thành một con “chim hót trong lồng” của nàng, nhưng lúc viết tới cái chữ “định mệnh” ấy thì mẹ tôi gọi ầm lên như thể bà Triệu Ẩu thuở xưa xua quân binh đuổi giặc Tầu chạy vắt giò lên cổ, tụt cả khố. Thế là tôi vội chạy xuống bếp giúp mẹ, vô ý chưa viết nốt chữ “g” - rồi khi gửi thư đi, tôi lại lơ đễnh không đọc kỹ lại. Hậu quả là tôi đã bị thất tình ngay trận thử lửa đầu tiên đó). Sau nữa, anh chàng Hòa Lan này làm cách nào để gần chục con chim đó không động đậy trong quần? Bản tính của chim là hay cựa quậy, ưa mổ. Nhất là nằm trong “buồng tối”, chim bị gò bó, khó chịu nên lại càng cựa quậy liên tục. Hơn nữa mỗi bước đi của anh chàng Hòa Lan này lại là một cú kích động, chim nào mà không ngỏng cổ, không ngỏng đầu dậy? Theo các chuyên gia động vật, “xửng cồ” vốn là đặc tính của tất cả loài chim. Đó là chưa kể lần đầu tiên trong đời, chúng được “tiếp cận” với một “đối tượng” lạ kỳ: Da non và thịt mềm ở hai bên bẹn của chủ nhân, làm sao các con chim này có thể không muốn nếm thử. Tôi không tin là chàng Hòa Lan này đã cho chim của anh uống thuốc ngủ hoặc lấy băng keo quấn mỏ chim lại. Nguy hiểm chết chim chứ bỡn sao. Hai phương pháp vừa kể dễ đưa tới hệ quả mà trong khoa thuốc dân tộc gọi là Liệt Điểu, nhẹ thì ở cấp “xìu xìu ển ển” mà nặng thì “chết ngoài quan ải”. Dù chim có sống nhưng đã trở thành vô dụng thì có hạ giá cỡ nào cũng chẳng ai dại dột bỏ tiền ra mua hay cho không cũng chẳng ai thèm nhận. Anh chàng Hòa Lan này, vua chuyển lậu chim hoang dã đương nhiên phải biết những điều vừa kể. Bởi thế bất cứ giá nào, chàng ta cũng phải bảo vệ chim để sao chim càng khỏe, càng làm được nhiều trò thì càng quyến rũ được nhiều khứa mua. Nhưng rồi “mưu kế thần sầu” của chàng thanh niên Hoa Lan này đã tan thành mây khói khi các nhân viên sở quan thuế ở sân bay Rochambeau đã bắt được tại trận chim trong quần của anh ta. Câu hỏi được đặt ra là bằng cách nào mà nhà chức trách đã tặng được cho ngoại kiều lậu chim này một bài học để đời: “Mưu toan thì dễ, sự thành công không dễ làm nên”. Thông thường tại các phi trường, cảnh sát vẫn dùng chó để đánh hơi ma túy, trong khi máy “scan” dò vũ khí. Đã nói ở trên là nhà chức trách ở French Guiana tới nay vẫn chưa tỉnh giấc chiêm bao trước “sự cố vĩ đại” này, bởi “đây là trường hợp đầu tiên được ghi nhận” thì việc huấn luyện quân khuyển ngửi chim nơi người ta hẳn chưa có và máy “scan” cũng chưa được trang bị bộ phận tìm chim. Nếu đã không chuẩn bị trước mà vẫn xài đại, e sẽ không tránh khỏi nhiều hệ lụy, trong trường hợp này chó và máy dễ lầm lạc trong việc phân biệt các loại chim, chứ chưa muốn nói tệ nạn nhận diện chim nọ xọ chim kia. Phiền! Vậy thì chỉ có người mới “phát hiện được nhiều chim bói cá và chim ruồi nằm trong một cái túi khâu trong quần”. Người ở đây tức là các nhân viên nam, nữ của sở quan thuế Pháp. Phải tinh ý, tinh mắt lắm mới nhận ra “cái gì khang khác” nhô lên thành một cục u khổng lồ trên mặt quần của người hành khách ngoại quốc này. Theo kinh nghiệm bản thân, kẻ hèn phải thành thật công nhận là trời đã ban cho phái nữ cái giác quan đặc biệt này, nghĩa là họ phân biệt được nhanh chóng “thật” và “giả”. Đơn giản nhưng cũng là “chân lý” vậy thôi. Thành ngữ Việt Nam có câu “đàn bà dễ có mấy tay” - tay đã là thứ vũ khí nhậy cảm rồi - nhưng lại còn bồi thêm “mắt phượng mày ngài” cộng với “mắt trước mắt sau” thì chim nằm ở đâu mà bà chẳng mò ra, có giấu chim chốn nào, bà cũng “năm tỏ rõ mười”. Khi đọc tin chàng Hòa Lan bị khám phá “chim giấu trong quần”, phần nhiều nam độc giả tuy bầy tỏ sự cảm phục, muốn ngả mũ chào, nhưng trước sự thất bại ê chề của chàng thì lý luận: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” - trong khi đó, hầu hết nữ độc giả chỉ phản ứng bằng động tác mắt thì lim dim, miệng phán nhẹ: “Chuyện nhỏ!” – (HM) Hoài Mỹ/VienDong
|
|
|
Post by Can Tho on Dec 25, 2011 5:53:22 GMT 9
Đơn Âm Và Đa Âm
Minh Văn VN Loài người làm ra âm nhạc là để thỏa mãn thú vui tinh thần của mình. Các nhạc cụ được sử dụng để mô phỏng âm thanh ở trong trời đất, từ đó mà tạo thành âm luật và những cung bậc khác nhau. Cung bậc càng nhiều thì sự mô phỏng âm thanh càng đầy đủ và trung thực. Vì vậy mà người ta tập hợp nhiều loại nhạc cụ, rồi tạo thành dàn nhạc để âm thanh được giao hưởng mà đến tai người nghe vậy. Một cây đàn có nhiều giây thì âm thanh mô phỏng càng nhiều, ngược lại đàn một dây thì bị hạn chế trong việc diễn đạt âm thanh, vì thế mà trở nên đơn điệu. Trong đời sống con người, việc chỉ tiếp nhận thông tin một chiều khiến cho sự việc thiếu đi tính trung thực và khách quan. Xã hội ngày nay gọi đó là tính Dân chủ. Thiếu đi môi trường dân chủ trong sinh hoạt chính trị hay bất cứ công việc nào khác cũng sẽ dẫn đến một kết quả là sự việc bị che lấp và mê hoặc. Việc người nghe chỉ tiếp nhận thông tin qua một chiều hướng duy nhất khiến cho sự thật bị bưng bít, vì thế mà không thể đạt đến sự dân chủ và tiến bộ. Điều đó cũng như việc nghe đánh đàn một dây vậy. Xưa, Án Anh đi sứ sang nước Lỗ. Lỗ Ai Công hỏi: - Tục ngữ có câu: Không hỏi ba người thì bị mê hoặc. Nay quả nhân bàn việc với mọi người trong cả nước, nhưng nước Lỗ vẫn loạn là tại làm sao? Án tử trả lời: - Sử dĩ ngày xưa nói không hỏi ba người thì bị mê hoặc là vì một người nói sai thì có hai người nói đúng. Vì thế mà ba người đủ làm thành nhiều người. Cho nên không hỏi ba người thì bị mê hoặc. Nay bề tôi nước Lỗ có hàng trăm hàng ngàn mà tất cả đều theo cái lợi riêng của họ Quý (Quý Thúc Tôn là đại thần chuyên quyền). Như vậy số người không phải không đông, nhưng lời nói là lời nói của một người. Làm gì có ba người? Vì vậy, dù bệ hạ có hỏi tất cả những người trong nước, nhưng nước cũng vẫn không khỏi loạn! Nay, ở tại Việt Nam ta. Chính trị thì có đủ các Bộ, Ban, Ngành. Thông tin đại chúng thì có những mấy trăm báo đài cùng truyền hình góp mặt. Các tổ chức chính trị - xã hội có đầy đủ cả, cớ làm sao mà mọi sự rối ren không thể kiểm soát? Đất nước trở nên rối loạn, mọi người đối xử với nhau theo kiểu luật rừng: mạnh được yếu thua. Kinh tế thì tụt hậu so với các nước khu vực, với một nền sản xuất lạc hậu. Dân thì bị thất nghiệp và nạn quan tham sâu mọt hoành hành. Xã hội đầy rẫy những bất công chồng chất, ấy là tại làm sao? Tại sao có những mấy trăm tờ báo cùng phát thanh truyền hình mà những ý kiến trung thực của người dân không được đề cập? Ngược lại chỉ một mực ca ngợi sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng với những thành tích lẫy lừng năm châu bốn biển? Tại sao chỉ thấy các báo đài tuyên truyền về đường lối, chủ trương của đảng mà không nêu ý kiến của người dân, không nói lên thực trạng bất công xã hội? Xin thưa, đó là vì các báo đài này đều thuộc sự kiểm soát của nhà nước, do đảng nắm giữ. Các tổ chức chính trị - xã hội có đầy đủ cả, sao lại không đấu tranh cho quyền lợi của con người, không bảo vệ người dân? Xin thưa, nguyên nhân là vì các tổ chức này đều trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc, do đảng lãnh đạo. Vì thế cho nên, tuy có mấy trăm báo đài và đầy đủ các tổ chức xã hội nhưng tất cả đều nói và làm theo sự chỉ đạo của một đảng. Đó là nguyên nhân mà sự thật bị che dấu, dân chủ và nhân quyền bị mất đi. Trong một đất nước mà không có tự do thông tin thì không có chỗ cho những tiếng nói và quan điểm khác nhau. Trong chính trị thì gọi là mất dân chủ, là chuyên chế, là độc tài. Công việc của một đất nước, một xã hội thì mọi người dân đều được bàn thảo, mọi tổ chức và cá nhân đều có quyền và trách nhiệm được tham gia. Nay những người tham gia góp ý đều bị quy cho tội danh phản động và thành phần bất mãn thì thử hỏi ai còn dám lên tiếng? Đất nước vì thế mà ngày càng rối loạn vì mất dân chủ, những kẻ có quyền hành làm theo ý riêng mình với mục đích mưu lợi cho cá nhân và phe nhóm. Một xã hội mà chỉ có một đảng cai trị thì sẽ mất dân chủ, những tiếng nói khác nhau để xây dựng đất nước bị bưng bít và cấm đoán. Mọi thông tin đều bị kiểm duyệt và phải nói theo sự chỉ đạo của nhà nước độc tài. Những tiếng nói dân chủ và khách quan vì thế mà không được cất lên. Điều đó giống như việc nghe âm thanh của cây đàn một giây vậy, đơn điệu và nhàm chán. Nó không thể đại diện được hết những âm thanh khác mà chúng ta cần phải nghe. Âm thanh của một cây đàn sẽ trở nên hay và đa dạng hơn nếu nó được những nhạc cụ khác hỗ trợ. Nói cách khác là khi nghe nhạc hòa tấu thì sẽ hay hơn rất nhiều khi nghe độc tấu. Con đường duy nhất để có dân chủ là phải có đa đảng trong một đất nước. Có nhiều đảng thì mới thể hiện được hết những trí tuệ và tài năng của mọi người trong xã hội. Chỉ có dân chủ thì thông tin mới không bị bưng bít, sự thật mới có thể đến được với người dân. Khi ấy thì chúng ta sẽ được tiếp nhận thông tin đa chiều và khách quan, điều vẫn diễn ra như cuộc sống vốn có vậy. Chúng ta không còn phải nghe một luận điệu cũ rích và nhàm chán được phát ra từ cây đàn một dây cổ lỗ sĩ nữa, thay vào đó là cả một dàn nhạc với đầy đủ những nhạc cụ khác nhau. Âm thanh vì thế mà trở nên đa dạng, trung thực và khách quan hơn. Giúp thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu của người nghe, cuộc sống vì thế mà trở nên tự do và tươi đẹp! Cây đàn một dây không thể đại diện cho tất cả mọi loại nhạc cụ được. Âm thanh của nó vốn không phải là tất cả, mà chỉ là một trong những âm thanh mà thôi. Vì vậy không thể nói rằng cây đàn một dây là tất cả âm nhạc, là ưu việt nhất được. Tất cả mọi người dân Việt Nam cũng như tôi đều muốn được nghe âm thanh giao hưởng của một dàn nhạc, chứ không phải thứ âm thanh đơn điệu của cây đàn một dây kia! Minh Văn (Hà nội, VN) Ngày 21/12/2011
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 7:39:02 GMT 9
Phương Bắc từng yểm bùa nước Nam?Đền Hùng thờ Quốc Tổ, nơi linh thiêng bậc nhất của người dân Việt Nam, từng bị người phương Bắc đặt một ‘đạo bùa yểm’ chôn dưới nền đất, một quan chức coi giữ khu đền này khẳng định với báo chí trong nước. Trao đổi với BBC từ Hà Nội, nhà sử học Lê Văn Lan cho biết chuyện người phương Bắc tìm cách yểm bùa nước Nam là ‘có thực’ mà ‘ý thức dân gian còn ghi lại’. Chính sử không hề đề cập đến việc này nhưng trong ngoại sử và sách địa lý thì có chép, ông Lan nói. “Đã có nhiều dấn ấn trong tâm lý dân gian qua các đời rằng người Tàu hay sang đây làm các thứ tệ hại như yểm bùa, triệt long mạch và đập phá những thứ có giá trị tâm linh của người Việt,” ông giải thích. “Tôi đã đi điền dã và sưu tầm nhặt nhạnh được nhiều lời kể dân gian không chỉ tập trung vào Cao Biền (quan đô hộ đời Đường) mà còn cả các đời khác rằng các thầy địa lý người Tàu đi vào đây (nước Nam) bán thuốc đeo quang gánh, đội nón lá rộng vành,” ông nói. “Họ đi đến đâu thường hay xem đất, tìm đất... sau đó chôn bùa hoặc đào đất để phá long mạch.” Tuy nhiên đối với khu vực đền Hùng mà ông Lan nói ông đã ‘điền dã rất kỹ từ nửa thế kỷ nay’ thì ông chưa sưu tầm được truyền thuyết, lời kể hoặc hiện vật nào ‘chứng tỏ người Tàu đã sang đây để yểm bùa hay triệt phá gì’. Cho nên ông Lan cho rằng phiến đá trấn yểm đặt trong đền Thượng ‘nên được di dời ra khỏi đền’ vì ‘đấy là thứ mới tạo chứ không phải có từ trước’. ĐẠO BÙA ĐỀN HÙNG BẮT ĐẦU PHÁT HUY TÁC DỤNG TRẤN YỂMLời dẫn: Trên Blog của mình, nhà báo Nguyễn Thông - Báo Thanh Niên cho biết: "Bác nào tinh ý sẽ thấy hôm nay 18.4 chả có tờ báo nào dám đăng thông tin về vụ hòn đá ở đền Hùng nữa, không phải sợ đá mà là... ". Dưới đây là bài đăng trên báo điện tử "Người đưa tin" và sau vài giờ đã bị gỡ bỏ. Và có lẽ đây là bài cuối cùng về hòn đá lạ ở Đền Hùng. Xem ra, đạo bùa Đền Hùng bắt đầu phát huy tác dụng trần yểm, mà làng báo nước nhà đang phải chịu trận rồi! ‘Tác giả vẽ trên hòn đá lạ không được đào tạo bài bản’ Nguoiduatin.vn - 18/04/2013 10:31 ‘Tôi đọc báo nghe nói chính quyền và người dân tỉnh Phú Thọ cho rằng, từ khi đặt hòn đá ở Đền Hùng, mọi công việc diễn ra rất tốt đẹp, suôn sẻ. Tôi cho rằng đó là sản phẩm của trí tưởng tượng hài hước’, tiến sỹ triết học Nguyễn Văn Vịnh. Xung quanh câu chuyện về hòn đá lạ ở Đền Hùng (Phú Thọ), nhiều ý kiến đồn thổi rằng hòn đá lạ này là một dạng yểm bùa không tốt. Càng đến ngày Giỗ tổ Hùng Vương, những câu chuyện thêu dệt về hòn đá lạ càng nhiều. PV báo điện tử Người đưa tin đã trao đổi với tiến sỹ triết học Nguyễn Văn Vịnh - phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế - Xã hội và Phát triển. - Thưa tiến sỹ Vịnh, ông đánh giá thế nào về những đồn thổi xung quanh “hòn đá lạ”? Theo tôi, câu chuyện về “hòn đá lạ” đang diễn biến theo xu hướng bi hài, nhưng nhìn chung, chúng ta có thể hiểu theo ba cách: Thứ nhất, ký hiệu trên hòn đá hỗn độn như một nồi lẩu, có cả trận đồ bát quái, có cả chữ Phạn - là câu thần chú của Phật giáo Mật tông, chữ Hán và nhiều ký hiệu khác mang cả yếu tố văn hóa Ấn Độ lẫn Trung Quốc. Tất cả những yếu tố này thể hiện, đây là một thứ lung tung được vẽ ra. Tôi cho rằng, tác giả của những dòng chữ trên không được đào tạo một cách bài bản ở lĩnh vực bùa chú. Tôi không hiểu tại sao ở một nơi thờ Quốc tổ linh thiêng như Đền Hùng lại có thể làm một việc tùy tiện như thế, bởi vì theo tôi được biết, ngay cả những lãnh đạo địa phương cũng không có quyền làm việc này. Thứ hai, theo tôi, đá thạch anh mới có tác dụng trấn yểm nhiều nhất, đá ngọc tuy cũng có lợi cho sức khỏe, nhưng không thể bằng đá thạch anh được. Hơn nữa, hòn ngọc trên cũng không phải quá độc đáo, bởi có những khối ngọc lớn hơn hòn ngọc này rất nhiều. Tuy nhiên, hòn ngọc trên có phải là đá quý hay không thì phải bàn bạc, thẩm định và đánh giá lại một cách kỹ lưỡng. Thứ ba, nếu nói một hòn đá mang lại cát khí cho dân tộc thì rất buồn cười. Tôi có đọc bài viết trên báo Tiền phong nói chính quyền và người dân tỉnh Phú Thọ cho rằng, từ khi đặt hòn đá ở Đền Hùng, mọi công việc diễn ra rất tốt đẹp, suôn sẻ. Tôi cho rằng đó là sản phẩm của trí tưởng tượng hài hước. - Theo ông, hòn đá có phải là một dạng yểm bùa không tốt? Chúng ta có nên tổ chức hội thảo để nghiên cứu hòn đá không? Tôi có đọc phân tích của tiến sỹ Nguyễn Xuân Diện, Viện nghiên cứu Hán Nôm nhận định: “Hòn đá là đạo bùa có sự pha trộn giữa Phật giáo Mật tông, Đạo giáo, phù thủy, trận đồ bát quái của Khổng Minh, cho thấy là một đạo bùa tổng hợp. Quan sát hình thức bên ngoài một số nhà nghiên cứu cho rằng nó là đạo bùa cát (lành), mong cầu giải tai ương, nhằm thỉnh cầu phúc đức cho một cá nhân, tập thể nào đó, chứ không phải là bùa độc, hoặc bùa trấn yểm, triệt hạ long mạch, linh khí. Tuy nhiên, các chi tiết khác của hòn đá mà chúng ta chưa biết có thể làm phản lại ý nghĩa trên nếu xem xét lại vị trí đặt hòn đá. Nếu đặt không đúng chỗ thì nó cũng là một cách trấn yểm để triệt hạ linh khí”. Về điểm này, tôi cho rằng TS Diện phân tích khá đầy đủ và chính xác. Ý kiến của tôi cũng giống ý kiến TS Nguyễn Xuân Diện, không cần phải tổ chức hội thảo để nghiên cứu thảo luận về hòn đá lạ bỗng dưng lạc vào đền Hùng như thế. Gần đây xuất hiện khá nhiều trường hợp tự phong là nhà nọ, nhà kia, chuyên xử lý và trấn yểm phong thủy, chọn đất cho mai táng hoặc đơn giản là cúng tế giải hạn, xem bói…. Trong thực tế, những việc làm như trên đã có từ lâu trong đời sống xã hội, nhưng ở thời điểm này, những hiện tượng trên nở rộ như nấm sau mưa. Với lý do là các vấn đề tâm linh nên các thân chủ ít đặt vấn đề phản biện, chỉ đơn giản dựa vào lòng tin để giao tiếp, đây cũng chính là mảnh đất màu mỡ cho những trò bịp bợp, lừa đảo lấy tiền nhưng người nhẹ dạ, cả tin. Xin cám ơn ông! Ngọc Trà Nguồn: Người Đưa tin - nhưng đã bị gỡ ngay TỈNH PHÚ THỌ: NHẠO BÁNG TỔ TIÊN, LỪA GẠT ĐỒNG BÀO CẢ NƯỚC
Trên đây là tờ GHI CÔNG ĐỨC TU BỔ ĐỀN HÙNG, do Khu Di tích Lịch sử Đền Hùng phát ra, trên có cả chữ ký của Ông Nguyễn Xuân Các - GĐ Khu Di tích lịch sử Đền Hùng. Trên tờ giấy ghi công đức có hình dấu ấn, có bốn chữ Nho trong ô vuông. Bốn chữ ấy là: TỔ VƯƠNG TỨ PHÚC (Vua Tổ ban phúc) . Tuy vậy, chữ "Tổ" một nửa thì bị cụt đầu, mất nét; một nửa lòi ra thừa nét. Đây là các chữ "TỔ" lối chữ triện, theo ghi nhận của "Hán Điển Thư Pháp": Chữ "Tổ" theo ghi nhận của "Khang Hy Tự điển" thì có một mã chữ không có nét ngang ở trên: Tuy vậy, trong cùng một con triện, có hai chữ đều có bộ "Kỳ": Đó là chữ TỔ và chữ PHÚC. Chữ PHÚC trong con triện được viết như sau: Còn chữ TỔ thì chỉ được viết: Nửa của chữ TỔ là chữ "Thả". Chứ này, lối triện thư, theo ghi nhận của Hán Điển Thư pháp có: Chứ không phải thừa ra nét ngang rời ở đít chữ, như trong hình ấn đền Hùng: [Nói thêm, ngoài lề, nhân nói đến chữ TỔ. Chữ này gồm 2 bộ phận: Bộ phận bên trái là bộ "Kỳ", nghĩa là Thần đất. Nó có hình dạng một cái đài thờ, một cây hương, bệ thờ đặt trên một cây ba chạc, biểu tượng cho Thờ Cúng. Bên phải là bộ "Thả", có hình dạng của cái Dương Vật - có khấc hẳn hoi, tượng trưng cho đàn ông/nam giới. Cả chữ Tổ này ngụ ý nói đến việc thờ cúng Tổ tiên - nòi giống được duy trì bởi những người đàn ông các thế hệ nối nhau. Là hồi đi học, thầy cháu dạy thế!] Ngoài ra, chữ PHÚC cũng viết không thật chuẩn theo lối chữ triện, mà nó được chế tác theo kiểu "dĩ khải tác triện" rất là ...Việt Nam. Chữ PHÚC đúng ra nếu viết theo lối triện thư, thì có hình như sau: Nhưng mà thôi, cũng cho là được... Bốn chữ: "TỔ VƯƠNG TỨ PHÚC" lại được ghi bên cạnh là HÙNG VƯƠNG TỨ PHÚC. Hơn nữa, chúng tôi nghiên cứu Hán Nôm lâu nay không gặp từ ghép "Tổ Vương" vì đấy là tư duy tiếng Việt hiện nay. Trên ấn triện cũng không dùng chữ 賜"Tứ", mà dùng chữ 錫 "Tích". Đã thế lại bịa đặt, nhạo báng rằng đây là "Dấu ấn Vua Hùng từ thời Lê Hồng Đức truy phong". Dấu ấn này từ thời Lê Hồng Đức ư? Thời Hồng Đức, Lê Thánh Tông trị vì mà làm cái ấn cẩu thả vậy chăng? Phú Thọ học đòi Nam Định, lợi dụng Vua Hùng để kiếm xèng của bà con đây mà! Cái ấn này đã được dùng để đóng vào giấy hoặc vải để thậm thụt "ban" cho rất nhiều người trong thời gian mấy tháng nay rồi, kiếm bộn tiền như Nam Định vẫn làm nhiều năm nay. Dưới đây là miếng vải có đóng dấu ấn, xem ra cùng đóng bởi con ấn cho hình như trên phiếu ghi công đức, vừa được một thân hữu cung cấp cho chúng tôi - mà theo ông nói là mới nhận được trước Tết Quý Ty ít ngày: Đi lễ Đền Hùng, xin đồng bào cả nước và kiều bào ở nước ngoài về chớ nên mang cái hình dấu ấn này về, vì như vậy là tiếp tay cho sự nhạo báng của tỉnh Phú Thọ, xúc phạm Quốc tổ Hùng Vương, xúc phạm Hoàng đế Lê Thánh Tông, xúc phạm Tổ tiên và Lịch sử! Tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên đoán rằng: "Năm nay là đóng ấn vào tờ ghi công đức. Rồi sẽ có lúc Đền Hùng cũng sẽ bán/phát ấn cho mà xem! Mà muốn thế chắc chắn phải mời bằng được một bác VIP về đóng ấn, mới linh!" Nguyễn Xuân Diện
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 8:02:43 GMT 9
Giải mã “Hòn đá lạ” ở Đền HùngTPO - Theo lý giải, viên đá có thể hóa giải bùa yểm xấu, trấn trạch bình an, tạo năng lượng vũ trụ cho Đền Thượng khiến quốc gia được hưng thịnh, tốt đẹp. Sau khi lãnh đạo tỉnh Phú Thọ yêu cầu ông Nguyễn Tiến Khôi, nguyên Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng, hiện là Chủ tịch Hội sử học tỉnh Phú Thọ, giải trình về sự hiện diện và các vấn đề xung quanh “Hòn đá lạ” ở Đền Thượng mà dư luận những ngày qua rất quan tâm, ông Khôi và cả ông Nguyễn Minh Thông, một đại tá quân đội, hiện là Giám đốc Trung tâm nghiên cứu ứng dụng Phương Đông (ở Hà Nội), người được xem là tác giả nắm rõ nhất nguồn gốc, ý nghĩa của hòn đá đặt tại đây, đã có văn bản trả lời về vấn đề này. Ông Nguyễn Tiến Khôi khẳng định viên đá ngọc ở Đền Thượng là rất tốt. Trao đổi với Tiền Phong sáng 14/4/2013, ông Khôi nói thời kỳ năm 2008-2009 khi chuẩn bị hoàn thành tu bổ khu di tích Đền Hùng, một số lãnh đạo tỉnh Phú Thọ đã chỉ đạo ông tìm một người giỏi để “làm công tác tâm linh” cho Đền Hùng. Ông Khôi đã đến Bộ VHTTDL nhờ tìm thầy, và đã được một số cán bộ thuộc Bộ này giới thiệu đến gặp ông Thông, người rất được tin cậy, kính trọng trong lĩnh vực tâm linh. Khi đó phía Phú Thọ cũng đã đồng ý, vì ông Thông cũng chính là người có hiểu biết uyên thâm từng cùng ông Nguyễn Hữu Điền (nguyên Bí thư Tỉnh ủy Phú Thọ) tìm ra huyệt đạo xây dựng Đền thờ Mẫu Âu Cơ (cạnh Đền Hùng). Với Đền Quốc Tổ Lạc Long Quân, ông Thông cũng là người được Phú Thọ mời đến với trọng trách xử lý những vấn đề tâm linh liên quan. Và lần này, bước vào tu sửa Đền Thượng, ông Thông cũng được ông Nguyễn Hữu Điền mời về. Khi sửa nền Đền Thượng, cán bộ và công nhân phát hiện có một viên gạch lạ, có in chữ Hán, ông Thông nói với ông Khôi và lãnh đạo tỉnh Phú Thọ, có ý kiến là viên gạch này tựa như bùa yểm xấu (còn gọi yểm đảo, không rõ ai đặt dưới nền cát, có từ bao giờ...) nên sau khi hoàn thành tu sửa Đền Thượng thì rất nên có đá đặt ở Đền để trấn yểm “phản” lại viên gạch yểm xấu kia. Văn bản trả lời của ông Nguyễn Minh Thông (đề ngày 20/3/2013) mới đây lên tỉnh Phú Thọ, cho biết viên gạch nọ được Phú Thọ nhờ Trung tâm của ông Thông nghiên cứu, xem xét. Một số nhà khoa học, chuyên gia ngoại cảm đã vào cuộc hội thảo nhiều lần, khẳng định viên gạch này có từ cuối thời Trần, do đạo sỹ của quân Nguyên Mông mang đến đặt. Thời đó phía Nguyên Mông bị thua trận vì bị nhà Trần ta đánh tan ba lần, đã cử đạo sỹ được cải trang sang nước Nam ta, dùng thủ đoạn yểm bùa gạch này tại Đền Thượng, trên viên gạch được ghi “Đánh đổ đức sáng Vua Hùng (hiện còn lưu giữ tại bảo tàng Đền Hùng). Nên Trung tâm của ông Thông đã lên kế hoạch tìm một viên đá ngọc xanh có nhiều năng lượng tốt lành, có khả năng hóa giải các hung khí và tiếp nhận năng lượng tốt của tinh tú trời đất cho Đền Hùng. Điều này đã được ông Khôi và một số lãnh đạo tỉnh Phú Thọ đồng ý. Theo ông Khôi, từ năm 2009 đến nay, hòn đá (như Tiền Phong đã mô tả trong bài viết trước) chắc chắn đã làm tốt nhiệm vụ của nó, với ý hóa giải bùa yểm phương Bắc, trấn trạch bình an, tạo năng lượng vũ trụ cho Đền Thượng khiến quốc gia được hưng thịnh, tốt đẹp. Theo ông Thông, đã may mắn có ông Nguyễn Đình Khảm, Giám đốc một Cty đá quý trong Hội liên hiệp đá quý Việt Nam (ở Hà Nội) công đức viên đá ngọc xanh này. Đá cũng đã được các chuyên gia thẩm định chất lượng, đo năng lượng, rồi được chạm thêm ngọc rubi và nhiều loại ngọc quý khác. Mặt trước đá chạm: “Trận đồ bát quái thiên tinh Phật Tổ Như Lai” dựa trên trận đồ bát quái trong Binh thư yếu lược của nhà Trần và theo mô phỏng của Từ điển thuật ngữ quân sự, gọi là Thiên tinh vì ghép tượng hình chòm sao Bắc Đẩu và trận đồ của Đức Thánh Trần ứng dụng khi đánh quân Nguyên Mông. Trên mặt của Trận đồ còn có câu mật chú thiền phái Mật Tông làm tăng hòa quang của Phật và độ linh, độ uy của Phật để giải hóa bách nạn, bách khổ, bách bệnh cho nhân dân. Ông Thông khẳng định phải có linh khí của Phật thì mới cùng với linh khí của Đức Thánh Trần kết hợp thì mới hóa giải được bùa phép nguy hiểm đã bị yểm đảo của giặc phương Bắc. Văn bản trả lời của ông Thông cho biết tiếp, mặt sau của viên đá ngọc, phía trên là Ấn của Vua Hùng (mà hiện Khu di tích đang dùng), dưới có chạm lá bùa giải bách họa cho nhân dân mà các nhà sư đi tu ai cũng biết. Từ ngày được hóa giải đến nay, ông Thông cho rằng tỉnh Phú Thọ và Khu di tích Đền Hùng được đánh giá là phát triển rất tốt đẹp. Theo năm tháng, viên đá ngọc sẽ ngày càng tích năng lượng thu phát, các địa phương khác cùng với Phú Thọ cùng được hưởng phúc. Ông cũng cam đoan viên đá đang rất linh ứng và hiệu nghiệm. Được biết, nghi lễ nhập trạch Đền Thượng cùng với lễ dâng ngọc hóa giải bùa yểm đã được tổ chức hết sức long trọng và trang nghiêm. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Tiến Khôi và ông Trần Nguyễn Xuân Các (hiện là Giám đốc Ban quản lý Khu di tích Đền Hùng), sau dịp Quốc Giỗ này, Phú Thọ sẽ tổ chức hội thảo khoa học, tập hợp những ý kiến đóng góp của nhiều chuyên gia, nhà khoa học, để có trả lời rõ ràng về “Hòn đá lạ” mà cộng đồng cư dân mạng đang xôn xao. Tùng Duy Nguồn: Báo Tiền phong *Sáng 16.4, thấy ghi tác giả là: Tùng Duy-N.C.Khanh Cận cảnh hòn đá lạ tại đền HùngTPO – Hòn đá lạ có những hình vẽ khó hiểu xuất hiện tại đền Hùng (Phú Thọ), khiến người dân xôn xao và làm nóng các diễn đàn trên mạng internet. Hòn đá có những hình vẽ khó hiểu. Ảnh: Minh Đức Trao đổi với phóng viên, ông Nguyễn Xuân Các, Giám đốc Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng cho biết, sau khi kết thúc giỗ tổ Hùng Vương (10/3 âm lịch) sẽ làm rõ nguồn gốc xuất xứ của hòn đá. Để làm rõ việc này, Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng sẽ thành lập hội đồng đánh giá về ý nghĩa và nội dung ghi trên hòn đá này. Ông Các cho biết, hòn đá lạ không có trong hồ sơ của Ban quản lý đền Hùng. Hiện ông Nguyễn Xuân Các chưa hiểu nội dung và ý nghĩa được tạc trên hòn đá lạ. Đền Hùng được xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh (xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, Phú Thọ). Tương truyền xa xưa, các vua Hùng lựa chọn nhiều nơi, cuối cùng mới tìm nơi đây làm nơi đóng đô. Trong các đợt khai quật khảo cổ ở Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Làng Cả…, các nhà khoa học phát hiện dấu tích tiêu biểu chứng minh đây là địa bàn sinh tồn của người Việt cổ thời Hùng Vương. Tương truyền, 99 ngọn đồi nơi đây, vốn là 99 con voi phủ phục chầu núi Tổ, riêng một voi bất nghĩa, quay ngược lại bị chém đầu. Vì vậy, tại vùng này có một quả đồi có vết xẻ thành khe. [/URL] Mặt ngoài hòn đá lạ. Ảnh: Minh Đức ] [/URL] Mặt trong có những hình thù rất khó hiểu. [img src=" i68.photobucket.com/albums/i13/Haba55/312124_480_zpsa172570d.jpg"][/img] [/URL] [/URL] [/URL] Những chi tiết khó hiểu. [/URL] Đền Thượng, khu vực xuất hiện hòn đá lạ. Minh Đức
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Sept 3, 2013 6:49:20 GMT 9
Thư gửi Hillary Clinton nhân chuyện lương bạc tỷ ở VNPhụ nữ làm Tổng thống. Ảnh: HM hieuminh.org/2013/08/30/thu-gui-chi-hillary-clinton/Hôm qua (28-8-2013), kỷ niệm 50 năm “I Have a Dream” của MLK, tôi ngó ra National Mall một lúc. Chỗ cửa kiểm tra an ninh phía War II Wall có dòng chữ to tướng Ms. President 1872-2016. Có lẽ người ta muốn bầu chị Hillary Clinton vào Nhà Trắng năm 2016. Vì thế, tôi viết thư này, mong chị đừng ứng cử chức Tổng thống Mỹ nữa. Chả là mấy hôm nay, dân nước tôi đang đồn ầm chuyện lương bổng của các quan ở Sài Gòn, lên mấy tỷ một năm, ai cũng tròn mắt. Hóa ra lương bên VN hơn cả lương Mỹ, dù giá cả bên Tây cao gấp nhiều lần giá ta. Vụ tung bí mật lương bổng này cũng là đòn khá hiểm để các quan trị nhau. Nhìn vào thu nhập chính thức và số của cải, nhà cửa, xe hơi, kể cả nhà thờ họ xây mấy chục tỷ, con cái du học, tài khoản bí mật…có thể đoán ra tiền của từ đâu mà có. Đã từ lâu lắm rồi, người ta kêu gọi công khai tài sản của cán bộ ăn lương bằng thuế của nhân dân nhưng chẳng đi đến đâu. Chị Hillary chắc còn nhớ thời làm Ngoại trưởng Mỹ. Lương của chị khoảng 180 ngàn đô la năm, tương đương 3,6 tỷ VNĐ, đóng thuế khoảng 40%. Phần lấy về nhà cho anh Bill và con gái Chelsea khoảng 2,1 tỷ VNĐ. So với lương của ông giám đốc Công ty thoát nước đô thị ở Sài Gòn là 2,6 tỷ VNĐ, ông chiếu sáng công cộng là 2,2 tỷ VNĐ, kế toán trưởng với lương 1,6 tỷ, thì Tổng Cua khuyên chị Hillary nên xin việc bên Việt Nam. Chị hay đi chợ Safeway nên biết, một mớ thì là bên Mỹ giá 1,2$, đủ nấu một bát canh cá, bên xứ Việt với cùng số tiền có thể mua được một rổ, ăn cả chục cân cá basa. Chủ Nhà Trắng mệt lắm. Làm tổng thống không xong bị dân đuổi đó. Chị sang VN làm Giám đốc Thoát nước cho Hà Nội hay Sài Gòn, tha hồ mà sướng. Nước thoát hay không thoát, chả quan trọng. Mưa lụt khắp nơi, chị cứ mặc mẹ cho họ bơi. Làm bên ngành điện cứ tăng giá thoải mái, bố thằng dân nào biểu tình. Ai ra đường hò hét, chị cứ kêu công an đến bắt, liệt họ vào loại phần tử chống phá nhà nước, chống đảng, chống nhân dân. Phải im lặng để cho chị ăn thoải mái đã. Lương cao chị cứ hưởng. Nhiệm vụ này do đảng phân công, cứ làm cho đến hết đời nha. Chả đâu sướng bằng làm cán bộ ở Việt Nam, nhiệm vụ không thành, đôi khi còn phá hoại, nhưng chẳng ai bị đuổi việc. Đó là nguyên tắc tổ chức. Có ông Thủ tướng cả đời chẳng kỷ luật ai. Chỉ hơi bất tiện, khi sang VN chị Hillary phải học rất nhiều về đạo đức của người Cộng sản. Nước tôi bị ảnh hưởng của Khổng giáo rất nhiều. Cụ Khổng từng dạy trò “Lập đạo của trời nói âm và dương, lập đạo của đất nói nhu và cương, lập đạo của người nói nhân và nghĩa.” Tất cả các tính khác của con người đều do nhân và nghĩa mà nên, cũng như vạn vật, vạn việc trên trời dưới đất do âm dương, nhu cương tạo tạo thành vậy, con người bất nhân là ác, bất nghĩa là bạc, chính vì lẽ đó con người muốn được coi là “nhân” thì phải có nhân, nghĩa phải có lương tâm.” Cán bộ đều thấm nhuần, nhất là cán bộ cao cấp. Có một thời nước tôi còn được phong là lương tâm thời đại, cả thế giới muốn làm người VN. Thế nhưng vốn kiến thức về đạo Khổng bị mai một dần với thời gian. Nhiều người thấy làm việc có lương tâm thì khó sống nên mới tách bạch hai chữ này thành hai nghĩa: lương là lương bổng, tâm là đạo đức, là có tâm. Lương thấp và không hợp lý nên cần phải ăn cắp để bù vào, kéo theo tâm thấp. Bé ăn cắp kiểu bé, to ăn cắp kiểu to, người không ăn cắp được gì ăn cắp thời gian. Vì quen mùi rồi, lẽ ra lương cao rồi thì tâm cũng cao theo số tiền, nhưng thật đáng tiếc, lòng tham con người là vô cùng. Vì thế lương cao nhưng tâm vẫn thấp, có khi còn thấp lúc hơn cả lúc lương hẻo. Mới có chuyện Giám đốc ngành cấp thoát nước để thành phố lụt lội thường xuyên sau mưa mà lương vẫn cao hơn cả Ngoại trưởng Mỹ. Chị nên khuyên chính phủ VN vay vốn ODA để trả lương thật cao cho cán bộ. Lương cao, nhưng pháp luật chặt chẽ như Singapore, báo chí có quyền được lên tiếng, bố bảo anh nào dám ăn cắp. Nếu cứ để thế này, đạo đức sẽ bị băng hoại, đất nước không thể phát triển, mà vốn vay và tiền thuế dân đóng vẫn bị xà xẻo bằng mọi cách. Tệ nạn mua quan bán chức kéo theo tham nhũng. Lương bạc tỷ như mấy ông cán bộ ở Sài Gòn chẳng làm ai ngạc nhiên. Nếu được phép tìm ra của chìm của các quan thì còn khối chuyện ối giời ôi. Mong chị Hillary nghĩ thật kỹ trước khi tranh chức Tổng thống Mỹ hay sang Việt Nam làm cán bộ nguồn. Nếu được chọn vào chức to, công việc không trôi chảy, anh Bill và cháu Chelsea túng thiếu, chị cứ tách LƯƠNG và TÂM ra làm hai, thế là ổn ngay. Kính chúc chị thành công. HM. Cua Times. 29-8-2013
|
|