|
Post by Can Tho on Sept 17, 2013 9:04:27 GMT 9
Obama xỉ vả Putin tại G20: “you’re a jackass” và “you’re a thingy” OBAMA VA PUTINHỒNG THANH dịch Có thể nói cuộc vận động của chánh quyền của TT Obama cho cuộc chiến trừng phạt nhà cầm quyền Syria giết dân bằng vũ khí hoá học, là một chiến dịch chiến tranh tâm lý, chiến tranh chánh trị vô cùng qui mô, lớn lao nhứt so với các cuộc chiến mà Hoa kỳ đã tham dự. Chánh quyền Obama thực hiện đủ mọi mặt, dân vận, quân vận, địch vận. Nếu cần TT Obama sẵn sàng có những lời lẽ nặng nề như TT Obama xỉ vả TT Putin của Nga hậu CS là người đỡ đầu cho nhà cầm quyền Syria và liên tục chống Mỹ. Thực vậy TT Obama là một nhà hùng biện, khéo dùng chữ, giỏi lực lời, thế mà ít ai ngờ Ông có lời lẽ quá nặng đối với TT Putin khi xuất hiện trong cuộc họp báo chung sau cuộc họp thượng đĩnh G20 ở thành phố St Petersburg của Nga.Theo thông lệ vì lý do tế nhị truyền thông chính thống lớn tránh không loan tải. Nhưng người ta có thể thấy trên trang blog The Borowitz Report và thông tấn xã AP của Mỹ dẩn dụ và chuyển tải. Có lẽ vì TT Obama đã nói lên cảm nghĩ của người dân Mỹ về Ô Putin. TT Obama ngó thẳng, chỉa ngón tay thẳng về hướng TT Putin nói “you’re a jackass” và “you’re a thingy” – (nghĩa thường trong Google translate, ‘ông là con lừa, anh là thằng cà chớn’; còn theo thông tục, nghĩa rất nặng và tục ‘lổ đ… lừa’ và “con c…”. Trong lúc đó mặt TT Putin như hoá đá và nghinh TT Obama bằng nửa con mắt, đáp lại “Tôi mà phải sợ người đàn ông da bọc xương này à? Tôi từng vật lộn với gấu.” Âu đây là một giai thoại để đời cho thấy đừng tưởng chỉ có Nga xô khi xưa mới có một Tổng Bí Thư CS Khrushchev cởi giày đập lên bàn để phản đối tại Đại Hội Đồng Liên hiệp Quốc ở Mỹ. Hoa kỳ cũng có một TT Obama một nhà hùng biện, khéo ăn khéo nói, biết đi với Bụt thì mặc áo cà sa, đi với ma thì mặc áo giấy đớp chát ra trò, khéo léo chọn thời cơ nói lên cảm nghĩ của người dân Mỹ và thế giới tự do trước một cựu trung tá KGB của Liên xô bây giờ muốn làm tổng thống nước Nga suốt đời thời hậu CS. Ô. Obama khéo léo chụp thời cơ nói một hơi mấy phút, đối phương trả lời chưa được một câu thì chủ toạ bế mạc để tránh một đột biến của một xì can đan ngoại giao quốc tế, TT Obama hoàn toàn đắc lợi so với TT Putin. * Nên chi xin phép dịch bài blog này trên The Borowitz Report và thông tấn xã AP của Mỹ dẩn dụ và chuyển tải để tường lãm và làm tài liệu, như sau. “G20 chậm dứt đột ngột trong lúc Obama gọi Putin một Jackass ST. PETERSBURG (Tường Trình Borowitz)-Hy vọng cho một hội nghị thượng đỉnh G20 tích cực sụp đổ hôm nay khi Tổng thống Obama trong một cuộc họp báo chung, nói thẳng với TT Nga Vladimir Putin, rằng với “Mọi người ở đây nghĩ rằng anh là một con lừa”, khi xuất hiện họp báo chung. Báo chí có mặt choáng váng bởi ông Obama nói liên tục một tràng hai ba phút xỉ vả TT Nga. Ô. Obama nói, “Nghe này,, tôi không chỉ nói về Snowden và Syria,” “Thế còn girl thingy Riot? Những gì về luật chống đồng tính của Ông? Toàn là những hành vi ngu dại, ông bạn à.” Ô. Putin im lặng băng giá, nheo mắt nhì, ông Obama có vẻ nhiệt huyết hơn với chủ đề của mình.”Nếu Ông nghĩ rằng tôi là người duy nhất cảm thấy cách này, Ông đang tự đùa đó,” ông Obama vừa nói nói vừa chỉ ngón tay về hướng khuôn mặt của Tổng thống Nga. “Hỏi Angela Merkel. Hỏi David Cameron. Hỏi những vị Thổ Nhĩ Kỳ. Mọi người nghĩ Anh là một người cà chớn.” Một thời gian ngắn sau cơn phẩn nộ của ông Obama, ông Putin trả lời, đọc trên giấy “Tôi mà phải sợ người đàn ông da bọc xương này à ? Tôi từng vật lộn với gấu.” Sau một ngày họp, các lãnh đạo G20 bỏ phiếu nhất tề tất cả mọi người chỉ nên về nhà. (Cuối blog người viết trên Borowitz Report còn ngỏ ý đưa blog này vào họp thư của bạn.Và Alexander Zemlianichenko của AP chuyển blog này trên AP. Nguồn FB Hồng Thanh Có thể tìm tài liệu gốc qua web của báo New Yorker:http://m.newyorker.com/online/blogs/borowitzreport/2013/09/g20-ends-abruptly-as-obama-calls-putin-a-jackass.html
|
|
|
Post by Can Tho on Sept 17, 2013 9:11:03 GMT 9
"Tất cả đều thoát, trừ... NƯỚC"NGUYỄN BÁ THANH: "Kiểu này là tôi oải luôn" ! TRONG BUỔI LÀM VIỆC VỚI TAND TỐI CAO, ÔNG THANH THAN: "MẤY BỮA TRƯỚC THẤY KIỂU NÀY LÀ TÔI OẢI LUÔN. KIỂU NÀY CHẮC BAY TIÊU CẢ NĂM 2013..." Khi ông Nguyễn Bá Thanh ra Hà Nội, dân yêu bóng đá có một sự ví von đầy thâm thuý: Chảo lửa Mỹ Đình nóng hơn rất nhiều sự cuồng nhiệt ở sân Chi Lăng (Đà Nẵng) và "cầu thủ" quen khoác áo số 9 Nguyễn Bá Thành sẽ gặp rất nhiều thử thách. Thử thách thực sự cam go thế nào thì chắc ông Nguyễn Bá Thanh hiểu rõ hơn ai hết. Hai ngày trước, trong buổi làm việc với Toà án nhân dân tối cao, ông Thanh đã kêu oải. Cái sự oải của ông được khoanh vùng trong lĩnh vực giám định tư pháp đang còn ách tắc, nhưng cũng có thể rộng hơn nhiều vì ông Thanh đã dẫn lại câu nói châm biếm cửa miệng nổi tiếng của người dân Thủ đô: "Hà Nội không vội được đâu". Ông Thanh than: "Mấy bữa trước thấy kiểu này là tôi oải luôn. Kiểu này chắc bay tiêu cả năm 2013. Anh em nói vui Hà Nội không vội được đâu, thôi thì cũng biết thế". Ở Đà Nẵng, dưới thời lãnh đạo của ông, các nhân vật VIP nhất thành phố, thỉnh thoảng vẫn nhận được tối hậu thư của ông: Việc tồn đọng này các ông phải giải quyết trước ngày X, Y, Z, nếu không các ông sẽ bị xử lý. "Đừng để dân phải chờ dài cổ. Chậm trễ ngày nào là có tội với dân." Và dĩ nhiên, khi nhận tối hậu thư, chẳng có vị VIP nào dám nói: "Đà Nẵng không vội được đâu". Nhờ thế, Đà Nẵng nhanh chóng trở thành thành phố đáng sống nhất Việt Nam. Trở lại chuyện Hà Nội. Nhiều năm trước, khi dự án thoát nước trăm tỉ đồng ở Thủ đô vừa được hình thành, thì nó liền được kiểm nghiệm hiệu quả bằng một trận mưa lớn. Và dự án "hiệu quả đến nỗi" một tờ báo phải giật cái ít rất chua xót: "Tất cả đều thoát, trừ...nước". Vâng, nếu tiền của dự án thất thoát rất nhanh thì dĩ nhiên nước sẽ thoát rất chậm. Công thức này đã được kiểm nghiệm rất rõ không chỉ tại Hà Nội mà còn ở TP.HCM. Khi người dân hàng ngày vẫn vật lộn, ngụp lặn trong các phố ngập sau mỗi trận mưa, sau mỗi đợt triều cường, thì "dòng nước tiền bạc" lại thoát rất nhanh vào túi tham của ông Giám đốc Cty thoát nước (200 triệu đồng/ tháng). Nhưng nếu dân gian chỉ quy trách nhiệm cho Hà Nội và TP.HCM thì oan quá. Ông Nguyễn Bá Thanh hẳn phải biết một câu cửa miệng khác được lưu hành trên toàn lãnh thổ Việt Nam, rất giống với câu của Hà Nội: "Muốn nhanh thì phải...từ từ". Đến đây, thì chúng ta có thể hiểu rõ vì sao ông Thanh kêu oải. Cái oải cơ chế. Thời gian vốn công bằng nhưng thời gian không chờ đợi ai cả. Người Thái, người Sing, người Mã và bây giờ là người Myanma sẽ không dừng lại, từ từ đợi ông bạn Việt Nam cùng sánh bước. Nói về nỗi lo tụt hậu của đất nước, nỗi lo "từ từ" trong phát triển, nỗi lo tiền bạc của nhân dân thì thoát nhanh và ách tắc thì vẫn ở lại, một nhà báo có thâm niên đã đề nghị chỉnh sửa "chính tả" rất tinh tế cái tít bài báo rất hay đã nêu ở trên. Tít cũ: "Tất cả đều thoát, trừ...nước". Tít chỉnh sửa: "Tất cả đều thoát, trừ... NƯỚC". (Theo Soha.vn/NLG).
|
|
|
Post by nguyendonganh on Mar 20, 2015 7:26:22 GMT 9
"Phở" Hơn "Cơm" ở Chỗ NàoGS Vũ Khiêu đã viết hàng trăm tác phẩm, công trình khoa học lớn về chủ nghĩa Mác - Lê nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và nhiều lĩnh vực khác như triết học, đạo đức học, văn hóa, văn học - nghệ thuật, xã hội; tiêu biểu là công trình khoa học “Bàn về văn hiến Việt Nam” có giá trị lớn, góp phần quan trọng vào quá trình xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam. Nhờ những đóng góp không ngừng nghỉ cho đất nước,Đảng và Nhà nước đã trao tặng GS Vũ Khiêu nhiều phần thưởng, danh hiệu cao quý: Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu (năm 1996), Anh hùng Lao động (năm 2000). Nếu xét về "thành phần cấu tạo" thì cơm và phở rất giống nhau, đều được làm chủ yếu từ... gạo tẻ. Phở có thịt có hành, thì cơm có cũng có, đã vậy cơm còn hay hơn vì không bao giờ bị trộn... hàn the. Cơm cũng rẻ hơn và... no lâu hơn. Dân gian (hay đúng hơn là đàn ông trong giân dan) gọi vợ là cơm, bồ là phở. Nếu xét theo khoa học thì cách gọi đó chẳng xúc phạm ai cả vì 2 "nguyên tố" ấy đều có 2 giá trị độc lập, chả cái nào cao hơn cái nào. Nhưng xét về giá trị "nhận thức" rõ ràng có ưu thế, vì phở luôn luôn tượng trưng cho sự bay bướm. Thật vậy, biết bao nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu đã tốn hàng ngàn trang giấy tán tụng phở như Thuần Việt, Hồn Việt hay Đặc Việt. Chính một quan chức cấp cao đã từng kêu: Thương hiệu Việt dường như chỉ có phở, áo dài, và nón lá. Rất ít bài viết về cơm. Nhà văn Nguyễn Tuân nổi tiếng về bài ký "Phở", chưa có nhà văn, thơ nào nổi tiếng về bài ký "Cơm". Thật quá ngạc nhiên. Trở lại vấn đề chán "cơm" thèm "phở", đã có rất nhiều bài vè bài thơ và chuyện hài về việc ấy mà gần như chàng đàn ông nào cũng thuộc. Ưu thế của phở so với cơm là quá rõ ràng trong chuyện tình ái, mặc dù nhiều lúc buồn cười là "phở" xấu hoặc già hơn "cơm". Vừa qua tại một quán bia tại trung tâm thành phố, giới đàn ông đã tổ chức một cuộc hội thảo nghiêm túc với chủ đề "cơm" và "phở". Về dự hội nghị có đông đủ giới đàn ông nhân sĩ, trí thức và các thành phần, kể cả đàn ông Việt ở nước ngoài. Sau 3 ngày khẩn trương làm việc, thảo luận sôi nổi các đại biểu đã thông nhất một bản báo cáo để đệ trình lên Liên hợp quốc giải thích nguyên nhân tại sao chán cơm thèm phở: 1. Đàn ông thèm "phở" vì ít được ăn phở. Muốn ăn phở nhất là phở đặc biệt, phải có tiền, xe hoặc vừa có tiền vừa có xe. Trong khi cơm ngày nào cũng được ăn và phải ăn. 2. Đàn ông dùng cơm ở nhà trong không khí quen thuộc ấm áp đến nhàm chán, còn dùng phở ở xa nhà trang trí lạ mắt, đôi khi đẹp mắt và có cả âm nhạc 3. No thì rất khó ăn thêm cơm, còn phở no tới mấy cũng có thể làm thêm một tô cũng chẳng sao. 4. Ăn phở xong là đứng dậy, đi ngang hoặc ngồi, nằm một chút là tuỳ. Còn ăn cơm xong nhiều khả năng phải thu dọn và rửa bát đĩa. 5. "Phở" không quán nào giống quán nào, thậm chí là không tô nào giống tô nào. Còn cơm thì có khi bao nhiêu năm vẫn thế chỉ có nguội hơn. 6. "Phở' có thể ăn chung với bạn bè. "Cơm" thì rất ít, phần lớn là ăn chung với... bà nấu cơm. 7. Lúc ăn phở, dễ dàng yêu cầu thêm tý hành, tý bánh hoặc thêm tý ớt cho mặn nồng. Còn cơm có gì trên mâm hãy xơi nấy, yêu sách lôi thôi còn bị mắng hoặc bị gắt gỏng "không ăn thì thôi". Ai gắt xin tự hiểu. 8. Phở tuy cùng một chỗ nhưng có thể tái, chín, nạm, gân.. tuỳ ta quyết định. Cơm thì do mụ nấu cơm quyết định, đàn ông chỉ có chấp hành. 9. Nếu ăn phở nhiều tới mức độ trở thành khách quen, ta có thể ăn... thiếu. Còn nếu không đưa tiền lương và nộp ,"cơm" sẽ dừng ngay. 10. Cuối cùng bỏ tiệm "phở" này dễ dàng tìm tiệm "phở" khác. Còn bỏ "cơm" thì phức tạp vô cùng. Sưu tầm ******************************* 1. Bồ thích rủ ta đi chơi khuya. Vợ luôn bắt ta về sớm. 2. Vợ đưa ta về nhà bà ngoại. Bồ muốn đưa ta tới cửa hàng. 3. Bồ muốn ta mặc quần áo đẹp. Vợ muốn ta mặc quần áo bền. 4. Bồ thích ta mua quà. Vợ thích ta mua đồ dùng trong nhà. 5. Khi ta đưa thứ gì ra, vợ hỏi giá tiền, còn bồ hỏi bao giờ đưa món tiếp theo. 6. Đi du lịch xa, vợ mong ngày về, còn bồ sợ hãi ngày đó. 7. Vợ nhăn nhó khi thấy bạn của chồng. Bồ nhăn nhó khi ta giấu bạn. 8. Vợ dọa ly dị. Bồ dọa cưới. 9. Vợ chê ta ít tắm. Bồ chê ta phải tắm một mình. 10. Bồ thích đi xem phim. Vợ thích đi chợ. 11. Vợ lục ví ta. Còn bồ lục ví mình đưa cho ta thấy. 12. Khi ta bảo ta là một đàn ông vĩ đại, vợ không tin, còn bồ sẽ vờ tin. 13. Ngày lễ tình yêu, ta đi với vợ, còn bồ đi với ai chỉ có quỷ sứ biết. 14. Vợ khen ta khỏe mạnh, còn bồ khen ta đẹp trai. 15. Bồ đưa ta đi uống rượu. Còn vợ đưa đi uống thuốc. 16. Vợ hay nói về quá khứ, bồ hay nói về tương lai. 17. Khi cùng nhau chạy dưới mưa, bồ bảo như thế là lãng mạn. Vợ bảo như vậy là điên. 18. Vợ thích dậy sớm. Bồ thích dậy muộn. 19. Bồ thích lấy áo ta mặc. Vợ thích lấy áo ta đi giặt. 20. Vợ nhìn đường phố ban đêm nhăn nhó bảo là đông. Bồ nhìn và reo lên bảo là vui. 21. Khi ta bị bệnh, vợ mang cơm, còn bồ mang hoa. 22. Khi ta say, vợ nhăn nhó, còn bồ cùng say. 23. Vợ hay kể đêm qua có trộm định vô nhà. Bồ hay kể đêm đêm có chàng trai đi qua. 24. Ta gọi vợ là bà xã, ta gọi bồ là em yêu. 25. Ta khen vợ trẻ, còn bồ thì khen đẹp. 26. Đang đi với bồ nhìn thấy vợ ta quay đi. Đang đi với vợ nhìn thấy bồ ta cười bí hiểm. 27. Đi công tác xa, ta điện thoại bảo vợ: “Nhớ khóa cửa nhà”, còn điện thoại bảo bồ: “Nhớ đi ngủ sớm”. 28. Với bồ ta không tiếc tiền. Với vợ ta không tiếc thân thể. 29. Bồ thích chó con hoặc mèo con. Vợ thích gà vịt đã làm sẵn. 30. Xem phim, vợ khóc khi thấy những cảnh đói khổ. Còn bồ khóc khi thấy các cảnh chia tay. 31. Bồ hay nói về tình yêu. Vợ hay nói về cuộc sống. 32. Bồ nhí nhảnh. Vợ đường bệ. 33. Vợ nói yêu ta vì ta đứng đắn. Bồ nói yêu ta do ta hấp dẫn. 34. Ta và vợ kỷ niệm ngày cưới, ta và bồ kỷ niệm ngày làm quen. 35. Ta hô to với vợ: “Anh yêu gia đình” và thì thầm với bồ: “Anh yêu em”
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jan 2, 2018 5:02:30 GMT 9
6 câu chuyện cười chứa đựng bài học thâm thúy Câu chuyện cuộc sống thứ 1Anh chồng bước vào phòng tắm ngay sau khi vợ anh vừa tắm xong và có tiếng chuông cửa reo. Cô vợ vội vàng quấn khăn tắm quanh người và chạy ra mở cửa. Cửa mở và anh chàng hàng xóm Bob đang đứng đó. Cô chưa kịp nói lời nào thì Bob đã nhanh nhảu: “Tôi sẽ đưa cho cô 8 triệu nếu cô gỡ chiếc khăn tắm ra.” Sau khi suy nghĩ và đắn đo một hồi, cô vợ gỡ chiếc khăn tắm và đứng trước mặt Bob không mảnh vải che thân. Sau vài giây, Bob đưa cô 8 triệu và ra về. Cô vợ quấn lại chiếc khăn quanh người và bước vào phòng tắm. Anh chồng hỏi: “Ai thế em?” “Anh Bob ở nhà kế bên đó mà” cô vợ trả lời. “Àh” anh chồng nói tiếp “Thế Bob có đem trả anh 8 triệu anh ấy nợ anh không vậy?”. Bài học rút ra: Nếu bạn chia sẻ mọi thông tin quan trọng liên quan đến tiền bạc và những rủi ro với cổ đông, đồng nghiệp và người thân của bạn đúng lúc, bạn có thể sẽ tránh được những tổn thất nghiêm trọng. Câu chuyện cuộc sống thứ 2Một nhân viên bán hàng, một thư kí và một giám đốc cùng nhau ra ngoài ăn trưa. Họ bất ngờ phát hiện ra một chiếc đèn dầu cổ. Khi họ chà xát để lau chùi bụi bám lên chiếc đèn, thì bất ngờ Thần Đèn hiện ra. Thần Đèn nói: “Ta sẽ tặng các con mỗi người một điều ước. Ai trước nào?” “Con trước, con trước” cô thư kí lanh lẹ, “Con muốn được ở Bali lướt sóng mà không cần quan tâm, lo lắng đến bất cứ việc gì trên đời này!” Bùm.. Cô biến mất. “Con kế tiếp, con kế tiếp” anh nhân viên bán hàng nôn nóng, “Con muốn được nằm dài trên bờ biển Hawaii, có nhân viên mát xa riêng, uống thỏa thích thingytail cùng với người yêu của con.” Bùm.. Anh cũng biến mất. “Còn con?” Thần Đèn hỏi anh giám đốc, anh ước: “Con muốn 2 người đó quay lại phòng làm việc sau giờ nghỉ trưa.” Bài học rút ra: Luôn luôn để sếp của bạn phát biểu trước. Câu chuyện thứ 3Một vị linh mục cho một bà sơ quá giang. Bà sơ bước vào xe và vô tình làm rách áo choàng do bất cẩn bị vướng vào cửa xe, để lộ ra phần chân trắng nõn nà. Vị linh mục gần như mất kiểm soát tay lái khi nhìn thấy cảnh đó. Sau khi trấn tĩnh lại, ông lén lút để tay mình lên đùi bà sơ. Bà sơ phản ứng lại: “Cha à, Cha nhớ đoạn Psalm 129 trong Kinh Thánh chứ?”. Nghe vậy, vị linh mục bèn rút tay lại. Một lát sau, vị linh mục lại để tay lên đùi bà sơ một lần nữa. Bà sơ một lần nữa nhắc nhở: “Cha à, xin Cha nhớ đoạn Psalm 129 trong Kinh Thánh.” Vị linh mục phân trần: “Xin lỗi sơ, thân xác thật là yếu đuối.” Về đến tu viện, bà sơ xuống xe. Khi về đến nhà thờ, vị linh mục vội vã lật Kinh Thánh tìm câu Psalm 129. Nó có nội dung như sau: “Đi tới và tìm kiếm, tiến sâu hơn, con sẽ tìm thấy vinh quang.” Bài học rút ra: Nếu bạn không giỏi và thông thạo công việc mình làm, bạn có thể đánh mất một cơ hội tốt. Câu chuyện thứ 4Một con diều hâu đậu trên một cành cây và chẳng thèm làm gì nguyên ngày. Con thỏ thấy thế bèn hỏi: “Mình có thể ngồi một chỗ và không làm gì như bạn được không nhỉ?”. Diều hâu trả lời: “Được chứ, sao lại không?”. Thế là con thỏ ngồi bên dưới cái cây con diều hâu đậu và nằm ngủ. Bỗng từ đâu nhảy ra, một con cáo vồ tới, nhanh chóng ngoạm lấy con thỏ và ăn thịt nó. Bài học rút ra: Để ngồi chơi hưởng lợi, bạn phải “ngồi” ở trên một vị trí rất rất cao. Câu chuyện cuộc sống thứ 5Một con gà tây tán gẫu với con bò: “Mình rất thích leo lên được ngọn của cái cây kia.” – gà tây thở dài, “nhưng lại không có đủ sức.” Con bò góp ý: “Vậy bạn thử ăn chất thải của mình xem sao? Chúng chứa rất nhiều chất dinh dưỡng đấy!”. Gà tây gặm một miếng phân bò và đúng thật là nó cung cấp cho chú nhiều chất dinh dưỡng đủ để leo lên nhánh thấp nhất của cái cây đó. Ngày kế tiếp, sau khi thưởng thức thêm phân bò, gà tây leo lên được nhánh thứ hai. Cuối cùng sau bốn đêm leo trèo, gà tây đã chễm chệ ngồi trên ngọn cây cao nhất. Nhưng chưa tận hưởng được niềm vui chiến thắng bao lâu, gà tây đã bị bắn chết bởi người nông dân khi ông phát hiện ra nó lấp ló ở ngọn cây. Bài học rút ra: Những chuyện nhảm nhí, vô nghĩa (bull) có thể đưa bạn lên đỉnh cao, nhưng nó sẽ không giữ bạn ở vị trí đó lâu đâu. Câu chuyện thứ 6Chú chim nhỏ đang bay về miền Nam tránh rét. Trời quá lạnh đến nỗi chú lạnh cóng và rơi xuống khu đất của một nông trại. Khi chú chim đang nằm thoi thóp, một con bò đi ngang qua và vô tình thải phân của mình lên chú chim. Khi nằm trong đống phân bò, chú bắt đầu nhận ra phân bò thiệt là ấm áp quá đi! Chú chim nằm đó, sưởi ấm đầy hạnh phúc trong đống phân bò, và chú bắt đầu cất tiếng ca vì vui mừng. Một con mèo đi ngang nghe tiếng chim hót liền chạy tới thám thính. Đi theo âm thanh của tiếng hót, nó phát hiện ra chú chim trong đống phân bò. Nó kéo chú chim ra khỏi đống phân và ăn thịt luôn. Bài học rút ra:1. Không phải tất cả những ai ném phân vào bạn đều là kẻ thù của bạn; 2. Không phải tất cả những ai kéo bạn ra khỏi đống phân đều là bạn của bạn; 3. Và khi bạn đang ở sâu trong đống phân, điều hay nhất nên làm là khép miệng mình lại!
|
|
|
Post by Can Tho on May 23, 2018 0:58:51 GMT 9
Cổ nhân: Thiên hạ có 3 điều nguy hiểm nhất định phải tránhTrí tuệ của cổ nhân đối với con người hiện đại ngày nay mà nói, nhiều người sẽ thấy rằng tựa như ngốc, nhưng kỳ thực nghiêm túc suy ngẫm lại thấy đó là sự thông minh sáng suốt. “Đại trí nhược ngu” của Lão Tử là câu nói khắc họa chân thật nhất về bậc trí giả thời xưa. Điều này cũng đúng cho người thời nay. Thiên hạ có ba điều nguy hiểmTrong tác phẩm “Hoài Nam Tử” của Hoài Nam Vương Lưu An từng viết: Thiên hạ có ba loại nguy hiểm, bậc trí giả nhất định phải biết mà tránh xa. 1/Loại nguy hiểm nhất chính là người khuyết thiếu đức hạnh lại được nhiều người tôn sủng. 2/Loại nguy hiểm thứ hai chính là người có tài năng kém cỏi nhưng lại có địa vị cao. 3/Loại nguy hiểm thứ ba chính là người không có công lao lớn mà lại được hưởng bổng lộc nhiều. Ba loại nguy hiểm này, nhìn trước mắt thì thấy có lợi nhưng kỳ thực ẩn sâu trong đó là hại vô cùng. Người bình thường đều chỉ biết đến lợi là lợi và hại là hại. Chỉ có bậc thánh nhân hiểu rõ rằng hại có thể chuyển hóa thành lợi và lợi cũng có thể chuyển hóa thành hại. Những bậc trí giả thời xưa đều nhất định không nhận bổng lộc đãi ngộ nhiều hơn phúc phần của mình, bởi vì họ tin tưởng rằng “tài vật và số mệnh không tương xứng thì tất sẽ sinh ra họa”. Cho nên, trong cuộc đời, có đôi khi bị hao tổn chút tài vật lại là phúc, trái lại được nhiều quá lại là họa. Đây cũng chính là điều mà cổ nhân gọi là “trong họa có phúc, trong phúc có họa”. Nói về loại nguy hiểm thứ hai, thời nhà Đường, Phan Mạnh Dương đảm nhận chức vị quan Thị lang khi chưa đến 40 tuổi. Mẹ của ông thấy vậy nên than: “Dựa vào tài cán của con mà được làm quan Thị lang, thực sự khiến mẹ lo phiền.” Thời đại Nam triều Lưu Tống, Tạ Hối đảm nhận chức quan Hữu vệ tướng quân, quyền thế rất lớn. Lúc Tạ Hối từ Bành Thành trở về kinh sư Kiến Khang đã tổ chức đại yến tiệc thiết đãi tân khách, ngựa xe như nước, vô cùng xa hoa và náo nhiệt. Anh trai của Tạ Hối là Tạ Chiêm chứng kiến cảnh em trai mình phóng túng, phô trương, lại được nhiều người tôn sủng như vậy thì lấy làm sợ hãi vô cùng. Ông nói: “Thanh danh và địa vị của đệ cũng không phải cao quý gì, vậy mà mọi người đều đến bợ đỡ xu nịnh như thế. Lẽ nào đây là phúc phần của gia môn chúng ta sao?” Thế là Tạ Chiêm liền lấy tấm phên để ngăn cách hẳn sân nhà mình với sân nhà người em trai. Ông còn nói: “Ta không muốn nhìn thấy loại cảnh tượng này của đệ.” Không những thế, Tạ Chiêm còn thỉnh cầu Hoàng đế nhà Lưu Tống là Lưu Dụ phê chuẩn giáng chức hoặc cách chức của ông để giữ gìn gia môn sắp bị suy bại. Về sau, mặc dù Tạ Hối lập được chiến công lớn với triều đình nhưng trong lòng Tạ Chiêm vẫn vừa lo vừa sợ. Sau khi Tạ Chiêm bị bệnh qua đời thì Tạ Hối quả thực bị diệt tộc. Tưởng hại mà hóa lợinhân sinh Trong sử sách ghi chép rằng, Tôn Thúc Ngao là lệnh doãn nước Sở thời Xuân Thu có công giúp Sở Trang Vương đánh thắng nước Tấn. Sau khi giành chiến thắng trở về, Sở Trang Vương lập tức muốn phong thưởng bổng lộc cho Tôn Thúc Ngao nhưng Tôn Thúc Ngao lại khước từ không chịu tiếp nhận. Về sau, khi Tôn Thúc Ngao bị bệnh nặng không qua khỏi. Trước khi chết, ông căn dặn với con trai rằng: “Sở vương đã nhiều lần tỏ ý muốn ban cho cha những chỗ ruộng đất phì nhiêu nhưng cha không nhận. Khi cha chết, Sở Trang Vương nhất định sẽ phong thưởng đất đai cho con, nhưng con nhất định không được nhận lấy. Nếu bị ép buộc quá, con nhất định phải từ chối nhận những nơi phì nhiêu, giàu có, chỉ nhận vùng đất Tẩm Khâu. Đó là nơi đất cằn cỗi, lại nằm giữa biên giới Sở – Việt nên chẳng ai thèm dòm ngó đến. Người Sở vốn mê tín dị đoan, còn người Việt thì nhút nhát sợ tai hoạ, vì thế đều ghét bỏ vùng đất ấy. Con giữ mảnh đất này thì sẽ không còn ai tranh chấp nữa, như thế sẽ giữ được đất phong hoá khô cằn lâu dài hơn là nhận chỗ đất màu mỡ.”Không lâu sau Tôn Thúc Ngao qua đời, Sở Trang Vương quả nhiên phong thưởng cho con trai của ông những vùng đất phì nhiêu màu mỡ. Người con trai của Tôn Thúc Ngao nhớ lời cha dặn, nhất quyết chỉ xin vùng đất Tẩm Khâu. Chiểu theo luật lệ của nước Sở, những nơi màu mỡ là bổng lộc được phong cho công thần chỉ được truyền đến đời thứ hai. Duy chỉ có bổng lộc của Tôn Thúc Ngao là được bảo tồn tiếp đến đời sau. An Hòa (t/h)
|
|
|
Post by Can Tho on May 23, 2018 1:03:03 GMT 9
Câu chuyện nhân quả trong cuộc đời Đức PhậtPhật Thích Ca Mâu Ni không phải là đấng toàn năng sáng tạo ra vạn vật, ngài cũng từng có thân thể bằng máu thịt như thân thể con người chúng ta. Đồng thời, ngài cũng phải nếm trải qua sinh, lão, bệnh, tử. Nhưng đương nhiên, ngài có rất nhiều chỗ là không giống chúng ta. Một trong số đó là ngài không có phiền não, không kêu than và đau buồn, không để tâm vào chuyện vặt đời thường như chúng ta. Phật Thích Ca Mâu Ni Ngoài việc trên thân thể có khả năng cảm thụ những vui buồn với bên ngoài ra thì trong tâm của ngài không có một tia lo lắng, tức là ngoại cảnh chỉ có thể tác động đến thân thể xác thịt chứ không thể tác động đến tâm của ngài. Đối với ngài mà nói, mọi sự trên đời đều là “duyên đến duyên đi”, sao phải vì thế mà phiền não, u buồn? Trong cuốn “Hưng khởi hành kinh” kể rằng, Phật Thích Ca Mâu Ni từng bị bệnh đau nhức xương khớp. Đây là một trong 10 khổ nạn mà ngài gặp phải trong cuộc đời. Rất nhiều người không hiểu vì sao Phật Thích Ca Mâu Ni đức độ lại có thể bị bệnh đau ốm. Phật Thích Ca Mâu Ni đã giải thích rằng, đây là do nghiệp lực kiếp trước còn sót lại, kiếp này phải hoàn trả. Phật Thích Ca Mâu Ni đã kể lại rằng: Xưa kia, đã rất lâu rồi, ở trong thành La Duyệt Kỳ (Vương xá) của nước Ấn Độ cổ có một người là con trai của một ông lão giàu có đột nhiên bị sốt cao, bệnh tình vô cùng nghiêm trọng. Lúc ấy ở trong thành đó có một vị danh y không những tinh thông đủ loại y thuật mà còn giỏi về chữa trị đủ các loại bệnh khó gặp và kỳ lạ. Con trai ông lão liền mời gấp danh y kia đến để chữa trị cho mình. Anh ta nói với vị danh y: “Xin ngài hãy chữa trị bệnh cho ta. Nếu như ta có thể khỏi bệnh, ta nhất định sẽ tặng cho ngài thật nhiều vàng bạc châu báu.” Vị danh y dốc lòng dốc sức chữa trị bệnh cho anh ta. Nhờ sự chăm sóc cẩn thận và sự dốc sức của danh y, sau thời gian ngắn con trai vị trưởng lão đã khỏi hẳn bệnh tình. Nhưng vào lúc anh ta sắp khỏi hẳn bệnh lại vì tham lam mà vong ân phụ nghĩa, không muốn thực hiện lời hứa của mình lúc trước. Một thời gian sau, người con trai của vị trưởng lão giàu có lại bị nhiễm bệnh trở lại. Anh ta lại đưa ra lời hứa “mê hoặc” người khác để nhờ vị danh y kia chữa bệnh cho mình. Nhưng lần này cũng vẫn như lần trước, vừa khỏi bệnh xong, anh ta lại vong ân phụ nghĩa, không thực hiện lời hứa của mình. Cứ như vậy trải qua 3 lượt mắc bệnh, 3 lượt mời vị danh y và hứa những điều “dụ dỗ” người rồi cuối cùng lại chối từ thực hiện lời hứa. Sau 3 lần như vậy, vị danh y vô cùng phẫn nộ. Ông cảm thấy rằng mình bị con trai của vị trưởng lão coi là đứa ngốc mà đùa giỡn hết lần này đến lần khác và cảm thấy bị khinh thường. Vì thế, vị danh y này bắt đầu âm thầm kế hoạch trả thù của mình. Ông ta cho con trai trưởng lão uống một loại dược liệu không phải trị bệnh sốt cao khiến con trai trưởng lão chết không minh bạch. Phật Thích Ca Mâu Ni kể đến đây liền giải thích: “Mọi người có biết vị danh y kia là ai không? Đó chính là ta ở kiếp trước. Còn người con trai của trưởng lão giàu có bị bệnh kia chính là kiếp trước của Đề Bà Đạt Đa.” Phật Thích Ca Mâu Ni kể tiếp: “Bởi vì ta cho con trai vị trưởng lão uống độc dược, khiến anh ta bị chết oan uổng nên ta đã bị đày xuống địa ngục. Sau khi trải qua rất nhiều khổ sở vì bị trừng phạt suốt những năm tháng dài đằng đẵng, về sau lại chuyển sinh thành súc sinh và chịu khổ trong cõi ngạ quỷ. Cho nên mặc dù kiếp này đã tu hành nhưng vẫn phải chịu đau do nghiệp lực kiếp trước của mình gây ra. Nghiệp lực do mình gây ra thì phải trả, vì thế đời này mọi người luôn phải thời thời khắc khắc mà tu dưỡng thân, khẩu, ý của bản thân mình!” (Tu thân, khẩu, ý bên nhà Phật có nghĩa là: Không làm điều ác, không nói lời ác và không nghĩ điều ác.) Câu chuyện nhân quả của Phật Thích Ca Mâu Ni nhắc nhở chúng ta rằng, khi người khác có lỗi với chúng ta, chúng ta ngàn vạn lần đừng đi trả thù đối phương. Khi chúng ta trả thù đối phương thì cũng giống như chúng ta cầm trên tay con dao hai lưỡi, đả thương người đồng thời cũng làm mình bị thương. Bởi vậy, suy cho cùng, hại người cũng chính là hại mình. An Hòa (dịch theo sự cho phép của tác giả) Sự ra đời của chùa chiền và lời dạy của Đức Phật về ý nghĩa cốt lõi của tu hànhVào 2.500 năm trước tại Ấn Độ cổ, Đức Thế tôn Thích Ca Mâu Ni Phật sau khi giáng sinh, tu hành, giác ngộ, chứng đắc chính quả đã vì muốn phổ độ chúng sinh mà bắt đầu truyền giảng Phật Pháp. Chùa Huyền Không, Trung Quốc (Ảnh qua woman.hotnews.bg) Lúc ban đầu, khi Đức Thích Ca Mâu Ni truyền giảng Pháp ở Ấn Độ là không có chùa chiền. Về sau, vì để cung cấp nơi chốn cho Phật Thích Ca Mâu Ni giảng kinh Pháp nên người ta bắt đầu xây dựng “Tinh xá”. Đây được xem là nguồn gốc ra đời đầu tiên của chùa chiền. “Chi Viên tinh xá” và “Trúc Lâm tinh xá” ở nước Xá Vệ của Ấn Độ cổ xưa được xem là những ngôi chùa miếu đầu tiên của nước Ấn Độ. “Trúc lâm tinh xá” là do Vua Bimbisāra, đệ tử đầu tiên của Phật Thích Ca Mâu Ni trong hàng Vua chúa xây cất và phát tâm cúng dường Phật cùng các chư tăng làm nơi an cư. Ngoài ra, vào thời kỳ đầu, Phật giáo tại Ấn Độ chủ yếu hoạt động ở trong các công trình kiến trúc hang đá. Vô luận là hang đá hay tinh xá thì mục đích chủ yếu là để chúng tăng sinh sống và tu hành. Bởi vậy mà ban đầu trong đó cũng không có tượng Phật và kinh sách như trong chùa chiền ngày nay. Nguyên nhân là bởi vì khi Phật Thích Ca Mâu Ni truyền Pháp hoàn toàn đều là truyền miệng, không có ghi chép lưu lại. Hơn nữa, Phật Thích Ca Mâu Ni không cho phép mọi người tạc tượng để cúng bái. Đó là bởi vì ngài yêu cầu các đệ tử của mình dựa vào Phật Pháp làm gốc để tu hành chứ không phải dựa vào những thứ bề ngoài như uy tín, quyền uy. Sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni niết bàn, thi thể của ngài được hỏa táng. Tám vị quốc vương ở Ấn Độ cổ phái sứ giả đến nơi hỏa táng, yêu cầu được chia xá lợi Phật. Nhưng còn hai Quốc vương nữa đến nhưng không nhận được xá lợi Phật, nên một người liền lấy chiếc bình đựng xá lợi, một người lấy tro cốt của Đức Phật về an táng. Tám quốc gia được phân chia Xá lợi Phật đã trở về nước mình xây tháp để an táng và định kỳ tổ chức lễ hội tưởng niệm. Cho nên, ở toàn thể nước Ấn Độ cổ thời ấy đã kiến tạo mười tòa tháp, bao gồm tám tòa tháp an táng xá lợi Phật, một tòa tháp an táng chiếc bình đựng xá lợi Phật và một tòa tháp an táng tro cốt Phật. Thích Ca Phật Đài – Vũng Tàu (Ảnh qua wikimapia.org) “Tháp” trong tiếng Phạn là Stupa có nghĩa là phần mộ cao, thông thường là phần mộ để tưởng niệm ở các địa phương. Ngoài ra, thời kỳ ấy, các tăng nhân cũng bắt đầu biên tập, sửa sang lại các nội dung mà Phật Thích Ca Mâu Ni đã giảng nói. Bởi vậy, từ đây bắt đầu xuất hiện kinh Phật (kinh của Phật Thích Ca Mâu Ni). Vào thời kỳ Vua Ashoka, khoảng thế kỉ thứ 3 TCN, Phật giáo trở thành quốc giáo ở Ấn Độ. Vì muốn mở rộng và làm hưng thịnh Phật Pháp, Vua Ashoka đã hạ lệnh khai quật tám vương xá lợi tháp lên. Nhưng, trong đó, có một, hai tòa tháp bởi vì kiến tạo quá chắc chắn nên không thể khai quật được. Toàn bộ phần xá lợi Phật sau khi lấy ra, một lần nữa được chia làm 84.000 phần được đựng trong 84.000 hộp quý giá nhỏ được an táng trong 84.000 tòa tháp. Tại chùa Pháp Môn ở Tây An, Trung Quốc cất giữ xá lợi xương ngón tay của Phật Thích Ca Mâu Ni. Thuận theo việc các nơi xây dựng tòa tháp, xá lợi cũng được truyền đến rất nhiều nơi tín ngưỡng Phật giáo. Cũng bởi vì thế mà tháp trở thành nơi người dân cúng bái Phật Thích Ca Mâu Ni. Về sau, tháp cũng trở thành một trong những kiến trúc chủ yếu của Phật tự, đền thờ Phật giáo. Sau này, nghệ thuật tạc tượng từ Hy Lạp được truyền vào đất Ấn Độ, các Phật tử bắt đầu kiến tạo tượng Phật, tượng Bồ Tát. Việc thờ phụng trong Phật giáo cũng theo đó mà chuyển từ thờ phụng xá lợi sang thờ phụng tượng Phật. Sau khi xuất hiện việc tạc tượng, người ta bắt đầu phải xây dựng nơi để đặt tượng Phật. Cho nên, chúng ta có thể thấy kiến trúc chùa chiền ngày nay cũng là thuận theo đó mà được xây dựng, trong đó tạc tượng chiếm một vị trí rất quan trọng. Tạc tượng cũng theo đó mà truyền nhập vào Trung Quốc và các nước khác. Một bức tượng Phật (Ảnh qua Erkusov.com) Trên thực tế, bất luận là tháp, Phật tượng hay kiến trúc chùa chiền thì ở mỗi địa phương, mỗi quốc gia lại có sự khác nhau. Phật tử thông thường lễ bái là kinh Phật, Phật tháp (xá lợi) và Phật tượng, trong đó Phật tượng là phổ biến nhất. Phật tự (chùa miếu) bản thân nó vốn chủ yếu cũng là để thờ cúng kinh Phật, tượng Phật, tượng Bồ Tát mà được kiến tạo. Mặc dù việc kiến tạo Phật tượng cũng không phù hợp với lời dạy của Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế: Không dùng tượng làm đối tượng tín ngưỡng. Nhưng con người luôn mong muốn dùng một hình tượng hữu hình tốt đẹp nào đó để biểu đạt lòng mình. Chính vì thế mà xuất hiện việc điêu khắc tượng Phật và kiến tạo chùa chiền. Từ nguồn gốc sự ra đời của chùa chiền có thể thấy, điều quan trọng nhất của tu luyện là tu tâm, phải dựa vào Phật Pháp làm gốc để tu hành. Nếu chỉ đặt tâm tư, suy nghĩ vào điêu khắc tượng Phật, xây dựng chùa chiền mà không thật tâm tu thì sẽ rất khó để có thể tu hành được đến đích. An Hòa (biên dịch và t/h) ****************************************** Tu viện Labrang Tây Tạng ẩn chứa thiên cơ huyền diệu về Cứu thế chủTrần Hưng Tây Tạng là vùng đất chứa nhiều bí ẩn chưa được khám phá, nơi đây có 16.000 tu viện lớn nhỏ. Bên cạnh Jokhang là tu viện thiêng liêng và nổi tiếng nhất, nằm ở trung tâm thủ đô Lhasa, thì Tu viện Labrang thuộc huyện Hạ Hà, châu tự trị dân tộc Tạng ở miền nam Cam Túc suốt 300 năm tồn tại ẩn chứa thiên cơ huyền bí. Với bầu trời xanh ngắt và những dãi đất bao la, những chỏm núi băng tuyết sừng sững, những dãy núi chập chùng trắng xoá, những mặt hồ bóng láng trải dài, những ruộng đồng chạy dài xa tít đến chân trời, người ta đến xứ Tây Tạng cũng giống như đang đi vào một bức tranh diễm tuyệt. Tây Tạng vẫn luôn được xem như một vùng đất kỳ ảo của phương Đông huyền bí, là cao nguyên cao nhất thế giới thuộc dãy Hymalaya, là cái nôi của Phật giáo Tây Tạng, vốn mang rất nhiều điểm khác biệt với Phật giáo Đại thừa và Phật giáo Tiểu thừa ở những miền đất khác. Thung lũng Larung Gar, nơi ở của hàng chục nghìn tăng nhân Tây Tạng. Xứ Tây Tạng nổi tiếng với những ngôi chùa và tu viện linh thiêng. Đặc biệt có những ngôi chùa mà người Tạng “tam bộ nhất bái” (đi ba bước bái một lần) hay “nhất bộ nhất bái” (đi một bước bái một lần) cả chặng đường dài dằng dặc lên chùa. Bên cạnh Jokhang là tu viện thiêng liêng và nổi tiếng nhất Tây Tạng, nằm ở trung tâm thủ đô Lhasa, thì Tu viện Labrang thuộc huyện Hạ Hà, châu tự trị dân tộc Tạng ở miền nam Cam Túc cũng là một điểm đến ẩn chứa thiên cơ huyền bí. Tu viện Labrang Tây Tạng ẩn chứa thiên cơ huyền diệu về Cứu thế chủ Labrang nằm cạnh con sông Đại Hạ, một nhánh của sông Hoàng Hà, quanh năm nước chảy miên man Tu viện Labrang được xây vào năm 1709 bởi một trong lục đại tông chủ của Hoàng Giáo trong Phật Giáo Tây Tạng. Vì đời thứ nhất và đời thứ hai chủ xây chùa này đều là các Phật sống thâm hiểu thiên cơ, nên cách tạo tượng của chùa Labrang cũng ẩn chứa nhiều điều kỳ diệu. Tại hậu điện phía Tây, bên cạnh đại sảnh đường trong tự viện thờ cúng một tượng đồng Đại Phật Di Lặc mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng, hai tay Phật đặt trước ngực. Theo lời giải đáp của vị Lạt Ma hướng dẫn khách du lịch về tư thế của tượng thì: “Đây là Di Lặc Phật đang hướng về thế gian chuyển Pháp Luân! Ngài nửa đứng nửa ngồi, ám chỉ Di Lặc Phật sắp đem Pháp Luân tới nhân gian cứu độ thế nhân”. Chính vì thế, chùa Labrang còn được gọi là chùa Trát Tây Kỳ, hàm nghĩa là Pháp Luân chuyển động hiện Cát Tường. Tu viện Labrang Tây Tạng ẩn chứa thiên cơ huyền diệu về Cứu thế chủ Tượng Phật Di Lặc mạ vàng tư thế nửa ngồi nửa đứng, hai tay Phật đặt trước ngực. Ở chính giữa Đại Kim Ngõa Điện là một tượng đồng mạ vàng thờ cúng Phật Di Lặc từ hơn 200 năm trước, do hai đời chủ chùa này đặc biệt mời thợ thủ công từ Nepal đúc thành, tượng Phật cao 10 mét. Ngay bên dưới, phía trước mặt tượng Phật Di Lặc là một pho tượng Phật nhỏ bằng đồng thờ Phật Thích Ca Mâu Ni. Cách bài trí tượng hai vị tôn Phật ở Đại Kim Ngõa Điện, một trước một sau, một lớn một nhỏ, một cao một thấp trong cùng một tế đàn này quả thực là hiếm thấy. Các vị Lạt Ma nơi đây giải thích rằng: “Các bức tiểu Phật ở phía trước là Phật Thích Ca Mâu Ni và đệ tử của Ngài, còn Phật Di Lặc ở đằng sau, tay cầm Pháp Luân. Ngài là vị Như Lai có thần thông tối quảng đại, với năng lực lớn nhất trong vũ trụ; Ngài mang Pháp Luân tới cứu độ chúng sinh trong vũ trụ, tức Ngài là Đấng Cứu Thế duy nhất của chúng sinh toàn vũ trụ”. Tu viện Labrang Tây Tạng ẩn chứa thiên cơ huyền diệu về Cứu thế chủ Các bức tiểu Phật ở phía trước là Phật Thích Ca Mâu Ni và đệ tử của Ngài, còn Phật Di Lặc ở đằng sau, tay cầm Pháp Luân. Trong đạo Phật, Đức Phật Di Lặc (hay còn gọi là Maitreya trong tiếng Phạn) được tôn sùng là vị Phật của tương lai. Tương truyền rằng khi đạo đức thế gian trở nên băng hoại và thế giới đứng trước nguy cơ diệt vong thì Ngài sẽ tới phục hồi lại tín ngưỡng chân chính đối với Thần Phật cho nhân loại. Cũng có một số học giả cho rằng, hình tượng Đức Phật Di Lặc thực chất còn bắt nguồn từ một tín ngưỡng cổ xưa trong một vùng rộng lớn bao gồm Tây Á, Bắc Phi, Tiểu Á, lưu vực Lưỡng Hà, Ai Cập và thậm chí còn xa hơn thế. Đó là niềm tin về một vị Cứu thế chủ sẽ xuất hiện và cứu vớt nhân loại tại thời khắc cuối cùng của vũ trụ. Chính vì thế, có thể nhiều người sẽ thấy sự liên hệ giữa cái tên Maitreya của Phật Di Lặc trong tiếng Phạn, và cái tên Messiah của Cứu thế chủ trong Cơ đốc giáo hay Do thái giáo. Vũ trụ trong Thần Khúc của Dante - Kỳ VIII: Hỏa ngục - Thế nào là dị giáo? Hình ảnh Cứu thế chủ của Cơ đốc giáo đang phán xét các linh hồn trong sự kiện Đại thẩm phán (Ảnh: Wikipedia) Có lẽ chính vì mang theo thiên cơ về Cứu thế chủ mà tu viện Labrang trở thành một nơi đặc biệt linh thiêng của Phật giáo Tây Tạng. Trải qua hơn 300 năm, tu viện này đã chứng kiến nhiều thăng trầm của Phật giáo nơi đây. Và những bí ẩn truyền kiếp của một nền văn minh cổ xưa vẫn đang ẩn hiện trong tiếng nước chảy của sông Đại Hạ và tiếng tụng kinh trùng điệp chùa Labrang. Trần Hưng
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:04:41 GMT 9
MỌI CHUYỆN RỒI SẼ QUA
Một ngày nọ, vua Salomon bỗng muốn làm bẻ mặt Benaiah, một cận thần thân tín, nổi tiếng khôn ngoan, thông thái. Vua bèn nói với ông: “Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một món quà nhân lễ hội lần này, và ta cho ông 6 tháng để làm việc đó”
Benaiah trả lời: “ Nếu có một thứ gì đó tồn tại trên đời này, tôi sẽ tìm thấy nó và mang về cho ngài, thưa đức vua” Nhà vua nói: “món quà đó có sức mạnh kì diệu. Nếu kẻ nào đang vui, nhìn vào nó sẽ thấy buồn, và nếu ai đang buồn nhìn thấy nó sẽ vui”. Vua salomon biết rằng sẽ không đời nào có một món đồ như vậy tồn tại trên thế gian này, nhưng ông muốn cho người cận thần của mình nếm một chút bẽ bang.
Mùa xuân trôi qua, mùa hạ đến nhưng Benaiah vẫn chưa có một ý tưởng nào để tìm ra một món quà như thế. Vào đêm trước ngày lễ, ông quyết định lang thang đến một trong những nơi nghèo nhất của kinh thành. Ông đi ngang qua một người bán hàng rong đang bày những món hàng trên một tấm bạt tồi tàn. Benaiah dừng chân lại hỏi: “có bao giờ ông nghe tới một món đồ kì diệu làm cho người hạnh phúc nhìn thấy nó thì quên đi niềm vui sướng và người đau khổ nhìn thấy nó thì quên đi nỗi buồn ko?”
Người bán hàng lấy từ tấm bạt lên một chiếc vòng giản dị có khắc một dòng chữ. Khi Benaiah đọc dòng chữ trên chiếc vòng đó, khuôn mặt ông rạng ngời một nụ cười.
Đêm đó toàn thành phố hân hoan, tưng bừng đón mùa lễ hội. “Nào ông bạn của ta-vua Salomon hỏi-ông đã tìm thấy điều ta yêu cầu chưa? Tất cả cận thần đều cười lớn và cả Salomon cũng cười
Trước sự ngạc nhiên của mọi người, Benaiah đưa chiếc vòng ra và nói: “Nó đây thưa đức vua”. Khi vua Salomon đọc dòng chữ, nụ cười biến mất trên khuôn mặt vua. Trên chiếc vòng đó có khắc dòng chữ: MỌI VIỆC RỒI SẼ QUA
Vào chính giây phút ấy, vua Salomon nhận ra rằng tất thảy những sự khôn ngoan, vương giả và quyền uy của ông đều là phù du, bởi vì một ngày nào đó nó sẽ trôi đi, bất cứ một đế chế chính trị nào đó rồi cũng sẽ tàn, ông cũng chỉ còn là cát bụi và tất cả chỉ là vô thường.
Hãy nhớ rằng, MỌI CHUYỆN RỒI SẼ QUA
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:13:43 GMT 9
Bổn phận, Danh dự, Đất nước – Tướng Douglas MacArthur Tướng quân Douglas MacArthur là một huyền thoại của nước Mỹ vào thời Thế chiến thứ hai. Thành công của ông không chỉ đến từ những chiến tích của một người lính, mà còn đến từ sự vĩ đại của một tâm hồn nhân bản. Chỉ trong vài năm ông đã tạo ra nền tảng tự do và dân chủ cho một nước Nhật bại trận hồi sinh từ những hoang tàn đổ nát. Ngày ông rời Nhật Bản, hàng trăm ngàn người xếp hàng dài hàng chục cây số để tiễn đưa, bày tỏ lòng thương mến và cảm ơn ông. Vậy nền tảng gì đã tạo nên một Douglas MacArthur vĩ đại?
Dưới đây là bản dịch bài diễn văn của tướng quân Douglas MacArthur, đọc tại học viện quân sự Hoa Kỳ vào ngày 12/05/1962, khi ông nhận giải thưởng danh dự Sylvanus Thayer. Lúc này ông đã già, và chỉ 2 năm sau, ông qua đời ở tuổi 84.Bản dịch: Xin chào tướng Westmoreland, tướng Grove, các vị khánh mời danh dự, cùng toàn thể các quý ông trong Quân đoàn! Khi tôi rời khỏi khách sạn sáng nay, nhân viên mở cửa đã hỏi tôi, “Ông sẽ tới đâu, thưa Tướng quân?” Và khi tôi trả lời, “West Point*,” anh ấy nhận xét, “Một nơi tuyệt vời. Ngài đã từng đến đó chưa?” * Hay còn gọi là học viện quân sự Hoa Kỳ – United States Military Academy Không một người nào có thể không cảm động khi nhận được vinh dự [là Giải Thayer] này. Hơn nữa nó còn đến từ sự nghiệp quân nhân mà tôi đã phụng sự trong nhiều năm, và được một người tôi yêu quý trao tặng, điều đó làm tôi cảm động không thể nói nên lời. Nhưng giải thường này không nhằm để vinh danh một nhân cách, mà để hình tượng hóa một quy tắc đạo đức cao cả — quy tắc của sự chỉ huy và của những người hiệp sĩ đã bảo vệ mảnh đất thân yêu của văn hóa và của những giá trị ngàn xưa này. Đó chính là ý nghĩa của chiếc huy chương [mà tôi được trao đây]. Đối với bất kỳ ai và ở bất kỳ thời điểm nào, chiếc huy chương này đều là biểu tượng đạo đức của người lính Mỹ, điều mà tôi sẽ luôn ấp ủ trong mình như một lý tưởng cao quý, với một cảm giác tự hào nhưng khiêm tốn. Bổn phận, Danh dự, Đất nước: Ba từ thiêng liêng ấy là chỉ dẫn tối thượng nhất cho các bạn – những người lính Mỹ – biết mình cần, có thể, và sẽ trở thành những con người như thế nào. Chúng là đích đến của các bạn: để có dũng khí khi lòng can đảm dường như không còn; để lấy lại lòng tin khi lòng tin tưởng chừng đã mất; để tạo ra hy vọng trong vô vọng. Thật đáng buồn thay, tôi không sở hữu tài hùng biện, không sở hữu tài làm thơ, cũng không có tài ẩn dụ, để có thể diễn tả hết cho các bạn ý nghĩa của ba từ ấy. Kẻ bất tín sẽ nói rằng chúng chỉ đơn thuần chỉ là những từ ngữ, là một thứ khẩu hiệu, hay là một cụm từ được đánh bóng. Những kẻ mô phạm, những kẻ mù quáng, những kẻ hoài nghi, những kẻ đạo đức giả, và những kẻ có tích cách hoàn toàn đối lập [với ba từ ấy] – điều thật đáng tiếc – sẽ cố gắng hạ thấp ba từ ấy, thậm chí là nhạo báng và chế giễu [ba từ thiêng liêng này]. Nhưng những điều mà ba từ ấy làm được là: Chúng xây dựng cho các bạn một phẩm cách. Chúng định hình tương lai cho các bạn, những người gìn giữ an ninh quốc gia. Chúng khiến các bạn đủ mạnh mẽ để nhận ra khi nào mình yếu đuối, và đủ dũng cảm để đối diện với nỗi sợ hãi của bản thân. Chúng dạy các bạn tự hào và không hạ mình trong thất bại một cách trung thực, nhưng lại khiêm tốn và nhẹ nhàng trong thành công; dạy các bạn lời nói phải đi với hành động, đừng chạy theo sự dễ dãi, mà đối mặt với căng thẳng và mệt mỏi trong khó khăn để rồi thách thức chúng; dạy các bạn học cách đứng thẳng trong cơn bão, nhưng vẫn có lòng trắc ẩn đối với những người gục ngã; dạy các bạn chế ngự bản thân trước khi chỉ huy người khác; dạy các bạn có một trái tim trong sạch và mục tiêu cao thượng; dạy các bạn biết cười, nhưng không bao giờ quên biết khóc; dạy các bạn vươn tới tương lai nhưng không bao giờ bỏ quên quá khứ; dạy các bạn biết nghiêm túc, nhưng không quá cực đoan; dạy các bạn khiêm tốn, để nhớ đến sự giản đơn nơi những điều phi thường chân chính, sự cởi mở của một trí tuệ chân chính, sự hiền hậu của một sức mạnh chân chính. Chúng mang lại cho các bạn sự bình tĩnh nội tâm, khả năng tưởng tượng, cảm xúc mãnh liệt, nguồn sống tươi mới, lòng dũng cảm vượt trên hèn nhát, biết mạo hiểm thay vì yêu thích sự dễ dàng. Chúng tạo nên trong trái tim của các bạn cảm giác kỳ diệu, hy vọng vào tương lai, niềm vui và cảm hứng cho cuộc sống. Chúng sẽ dạy các bạn trở thành một sĩ quan và cả một quý ông. Và các bạn sẽ dẫn dắt những người lính như thế nào? Họ có đáng tin cậy không? Họ có dũng cảm không? Họ có khả năng chiến thắng không? Các bạn đều biết đến câu chuyện này. Đó là câu chuyện của những người lính Hoa Kỳ. Hình ảnh về họ mà tôi học được từ chiến trường rất nhiều năm về trước chưa bao giờ thay đổi. Tôi tôn trọng hình ảnh ấy, dù là trong quá khứ hay hiện tại, như một trong những hình tượng tôn quý nhất của thế giới, không chỉ là một trong những hình tượng tốt đẹp nhất trong quân đội, mà còn là hình tượng trong sạch nhất. Tên tuổi và danh tiếng của hình tượng ấy đến từ sinh quyền của mọi công dân Hoa Kỳ. Với tuổi trẻ và sức mạnh của mình, với tình yêu và lòng trung thành, họ đã cống hiến tất cả những gì mà một con người có thể cống hiến. Hình tượng ấy không cần những lời ca ngợi của tôi, hay của những người khác. Hình tượng ấy đã viết nên lịch sử của mình, và viết những dòng chữ máu lên ngực của kẻ thù. Nhưng khi tôi nghĩ đến sự kiên nhẫn của người lính Mỹ trong nghịch cảnh, sự dũng cảm của họ dưới những làn đạn, và sự khiêm tốn của họ khi chiến thắng, tôi cảm thấy hoàn toàn thán phục mà không thể thốt nên lời. Hình tượng người lính Mỹ là một trong những ví dụ vĩ đại nhất trong lịch sử về lòng yêu nước. Họ là những người dẫn đạo để hậu thế hướng tới tương lai trong sự tự do. Họ thuộc về chúng ta, với đức hạnh và chiến công của họ. Trong 20 chiến dịch, trên hàng trăm chiến trường, giữa hàng ngàn trại lính, tôi đã chứng kiến sự quả cảm bền bỉ đó, sự hy sinh yêu nước đó, và sự quyết tâm không thể nào lay chuyển đó, chúng đã tạc tượng người lính Mỹ vào trái tim của người dân. Trên khắp thế giới, họ đã vô cùng quả cảm. Khi tôi nghe những bài hát [trong câu lạc bộ], tôi lại nhớ tới những tượng đài đáng kinh ngạc trong Thế chiến thứ nhất, họ cong mình dưới những ba-lô ướt sũng, trải qua cuộc hành quân từ bình minh ướt sương cho tới tận hoàng hôn mưa bụi, mắt cá chân ngập dưới bãi lầy trên những con đường bị oanh tạc, quyết tập hợp nhau cho trận đánh, với đôi môi xám xịt phủ đầy bùn, rét run vì mưa gió, hướng tới mục tiêu, và với nhiều người, là trở về dưới sự phán xét của Chúa. Tối không biết nhân cách của họ khi chào đời, nhưng tôi hiểu sự vinh quang khi họ ra đi. Họ qua đời không thắc mắc, không phàn nàn, với niềm tin trong tâm, và lời nói hy vọng rằng chúng ta sẽ giành chiến thắng. Họ luôn luôn giữ: Bổn phận, Danh dự, Đất nước; họ luôn đổ máu, mồ hôi và nước mắt, trong khi chúng ta tìm kiếm đường đi, tìm kiếm ánh sáng, tìm kiếm sự thật. Và 20 năm sau đó, tại bên kia bán cầu, một lân nữa trong sự bẩn thỉu dưới những hố công sự tối tăm, trong mùi khó chịu ở những con hào chết chóc, trong đám bùn lầy ở những hầm trú ẩn dột nát; dưới cái nắng thiêu đốt của mặt trời, dưới những cơn mưa bất tận của những cơn bão hủy diệt; giữa sự cô đơn và đơn độc trên những con đường mòn; với nỗi cay đắng khi phải ly biệt người họ yêu thương; trước bệnh dịch chết người của những khu rừng nhiệt đới; rồi sự kinh hoàng của các chiến địa; với tất cả những thứ đó, họ kiên quyết phòng thủ, họ nhanh nhẹn và vững chắc tấn công, vì mục tiêu bất khuất, họ toàn thắng — luôn luôn chiến thắng. Luôn luôn vượt qua làn mây mù đẫm máu với những tiếng súng vang dội, hình ảnh của những người lính hốc hác và nhợt nhạt vẫn tôn kính tuân theo quy tắc: Bổn phận, Danh dự, Đất nước. Quy tắc mà ba từ thiêng liêng ấy chứa đựng là quy luật đạo đức cao nhất, và nó sẽ đứng vững trước mọi bài kiểm tra khắt khe của bất cứ thứ đạo đức hay triết học nào được đề ra để đảm bảo sự tiến bộ của nhân loại. Chúng yêu cầu người ta hành xử đúng đắn, và hạn chế người ta khỏi những sai lầm. Trên hết tất cả, những người lính cần phải thực hiện một hành vi tín ngưỡng cao quý — hy sinh. Trong trận chiến và khi đối mặt với nguy hiểm cũng như tử vong, họ bộc lộ ra những bản tính thần thánh mà Đấng Sáng Tạo* đã ban cho khi tạo ra loài người theo hình ảnh của chính mình. Không có sự dũng cảm về thể chất hay sự thô thiển của bản năng nào lại có thể thay thế cho sự trợ giúp thần thánh đó. * Cả tín ngưỡng phương Đông và phương Tây đều quan niệm rằng, Thần tạo ra con người theo hình ảnh của chính mình. Bất kể chiến tranh có khủng khiếp ra sao, người lính sẵn sàng cống hiến và hy sinh cuộc sống của mình cho đất nước, đó là sự phát triển cao quý nhất của nhân loại. Ngày nay các bạn phải đối diện với một thế giới mới — thế giới của những thách thức. Việc con người tiến vào vũ trụ với vệ tinh, với tên lửa đã đánh dấu một kỷ nguyên mới của nhân loại. Trong vòng khoảng 5 tỉ năm mà các nhà khoa học cho rằng quả đất được tạo ra, trong vòng khoảng 3 tỉ năm phát triển của loài người, chưa từng có một bước tiến đột ngột và đáng kinh ngạc đến như vậy. Chúng ta không còn chỉ đối mặt với những gì bên trong Trái đất, mà còn phải đối mặt với những khoảng không vô hạn, với những bí ẩn của vũ trụ. Chúng ta đang tiến tới một biên giới mới, một biên giới không giới hạn. Chúng ta sử dụng những cụm từ mới: về thu năng lượng vũ trụ; về bắt gió và thủy triều làm việc cho chúng ta; về tạo ra những vật liệu được tổng hợp chưa từng thấy để bổ sung hay thay thế các vật liệu cũ; về lọc nước biển làm nước uống; khai thác đáy biển cho nhiều lĩnh vực; về sử dụng thuốc phòng bệnh để kéo dài tuổi thọ đến cả trăm năm; về điều khiển thời tiết để có sự phân bố cân bằng của nóng và lạnh, của mưa và nắng; về những con tàu vũ trụ đi đến mặt trăng; về những mục tiêu chính trong chiến tranh, không còn chỉ là quân đội, mà còn bao gồm cả dân thường; về cuộc đối đầu tối thượng giữa một nhân loại thống nhất và những lực lượng huyền bí đến từ những thiên hà khác; về những giấc mơ và giả tưởng khiến cho cuộc sống trở nên thú vị chưa từng có. Và xuyên suốt qua những thay đổi và phát triển chóng mặt ấy, nhiệm vụ của người lính Mỹ vẫn không thay đổi, vẫn minh xác và bất khả xâm phạm: chiến thắng trong những cuộc chiến của chúng ta. Tất cả mọi thứ khác trong sự nghiệp của các bạn đều là hệ quả từ sự cống hiến tối quan trọng này. Tất cả những mục đích, dự án, hay nhu cầu khác của cộng đồng, dù nhỏ hay lớn, sẽ được những người khác thực hiện. Còn các bạn là những người được huấn luyện để chiến đấu. Các bạn cần có sự chuyên nghiệp trong vũ trang, cần có tinh thần quyết thắng, cần hiểu rằng trong chiến tranh, không gì có thể thay thế chiến rằng; vì rằng nếu bạn thua, quốc gia sẽ bị hủy diệt; hãy hiểu rằng bạn phải tuyệt đối phục vụ theo nguyên tắc: Bổn phận, Danh dự, Đất nước. Người ta sẽ tranh cãi về những vấn đề phức tạp, về quốc gia và quốc tế, về những điều khiến bạn phân tâm; nhưng hãy thanh thản, bình tĩnh và tách biệt, bởi vì bạn là người bảo hộ chiến tranh của đất nước này, là người cứu hộ trong những cơn triều cường giận dữ của mâu thuẫn quốc tế, là võ sĩ giác đấu trên đấu trường. Trong vòng một thế kỷ rưỡi qua, người lính Mỹ đã phòng ngự, đã giữ gìn, đã bảo vệ những truyền thống thần thánh của quốc gia về tự do, quyền và công lý. Hãy để người dân quyết định sẽ vinh danh hay không vinh danh cho những quy trình của chính phủ; cho dù sức mạnh của chúng ta bị kiềm chế bởi thâm hụt của ngân sách, thứ đã bị sử dụng bừa bãi từ lâu vì chủ nghĩa liên bang phát triển quá mạnh mẽ, vì những nhóm lợi ích phát triển quá ngạo mạn, vì chính trị trở nên hủ bại, vì tội phạm phát triển quá hung hăng, vì đạo đức ngày càng thấp, vì thuế ngày càng cao, vì những kẻ cực đoan ngày càng manh động; cho dù tự do cá nhân của chúng ta có được đầy đủ và triệt để như nó đáng phải có. Những vấn đề lớn của quốc gia không cần có đến sự tham dự hay những giải pháp quân sự của người lính. Thứ chỉ đường cho các bạn vẫn đứng sừng sững như một ngọn hải đăng trong đêm: Bổn phận, Danh dự, Đất nước. Các bạn là chất keo gắn kết hệ thống phòng thủ của đất nước. Từ hàng ngũ của các bạn, sẽ xuất hiện những thuyền trưởng vĩ đại nắm giữ vận mệnh quốc gia trong tay, khi tiếng chuông của chiến tranh vang lên. The Long Gray Line* chưa bao giờ làm chúng ta thất vọng. Nếu bạn khiến đất nước thất vọng, thì hàng triệu những linh hồn với màu nâu xám ô liu, với màu nâu khaki, với màu xanh nước biển và màu xám**, sẽ nổi lên từ nơi an nghỉ để kêu vang lên những từ ngữ thiêng liêng: Bổn phận, Danh dự, Đất nước. * The Long Gray Line – tạm dịch: Đường xám dài – là bộ phim Mỹ năm 1955 kể về cuộc đời của một người lính Mỹ. ** Có thể ám chỉ đến màu áo của các loại binh chủng. Nhưng việc này không có nghĩa rằng các bạn là những kẻ đi gây chiến. Ngược lại, một người lính, vượt trên tất cả những người khác, sẽ cầu nguyện cho hòa bình, vì họ là những người phải chịu những vết thương sâu sắc nhất từ chiến tranh. Nhưng tai chúng ta luôn vang vọng lời nói của Plato, triết gia thông thái nhất: “Chỉ có những người chết mới nhìn thấy được kết thúc của chiến tranh.”* * Ý nghĩa của câu nói này là, chỉ có người chết mới được an nghỉ, còn những người sống, sớm muộn cũng lại chứng kiến chiến tranh. Câu nói này rất phổ biến trong các binh lính Mỹ thời bấy giờ tuy nhiên thực chất không phải là câu nói của Plato. Tôi đã ở vào buổi hoàng hôn của cuộc đời. Những ngày tháng cũ đã qua đi, cả về âm thanh lẫn sắc màu. Chúng đã lấp lánh xuyên gia những giấc mơ xưa. Ký ức đó đẹp kỳ diệu, vun tưới bởi nước mắt, được vỗ về và chăm sóc bởi những nụ cười của ngày hôm qua. Tôi lắng nghe một cách hão huyền, háo hức, những giai điệu mê hồn từ các cây kèn thổi nhạc lệnh, từ những tiếng trống rền vang. Trong mơ, tôi lại nghe tiếng súng giao nhau, tiếng súng nổ, tiếng thì thầm xa lạ đầy tang tóc của chiến trường. Nhưng từ trong đêm tối của ký ức, tôi luôn trở về West Point. Luôn luôn vẫn là những từ ngữ vọng đi và vọng lại: Bổn phận, Danh dự, Đất nước. Hôm nay đánh dấu lần cuối cùng tôi điểm danh các bạn, nhưng tôi muốn các bạn biết rằng khi tôi chết đi, ý nghĩ tỉnh táo cuối cùng của tôi sẽ là Quân đoàn, Quân đoàn, và Quân đoàn. Chào tạm biệt. Trong quá trình biên dịch, chúng tôi cố gắng khiến bản dịch sát nghĩa và thể hiện được tinh thần của bài diễn văn trong khả năng tốt nhất của mình, tuy nhiên để mang được cái hồn của những áng văn tới độc giả là một điều không dễ. Chúng tôi trân trọng mọi ý kiến giúp cho bản dịch hoàn chỉnh và hay hơn. Thanh Thanh biên dịch Nguồn: m.trithucvn.net/van-hoa/dien-van-bon-phan-danh-du-dat-nuoc-tuong-douglas-macarthur.html
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 18, 2019 18:15:38 GMT 9
Của dân, do dân và vì dân – Tổng thống Abraham Lincoln Diễn văn tại Gettysburg (The Gettysburg Address) được tổng thống Abraham Lincoln đọc tại Nghĩa trang liệt sỹ quốc gia ở Gettysburg, Pennsylvania trong cuộc Nội chiến Mỹ vào ngày 19/11/1863 – hơn 4 tháng sau khi quân đội Liên bang miền Bắc chiến thắng quân đội Liên minh miền Nam tại trận Gettysburg. Mặc dù chỉ gói gọn trong vòng vài phút đồng hồ, và được tổng thống Abraham Lincoln đọc trong một trạng thái mỏi mệt do bị ốm, nhưng Diễn văn tại Gettysburg đã trở thành một trong những bài diễn văn nổi tiếng nhất và có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của lịch sử nước Mỹ, được nhiều thế hệ người Mỹ học thuộc lòng trong trường học. Đáng tiếc thay, toàn văn chính xác của nó lại chưa được các sử gia Mỹ thống nhất, và 5 phiên bản khác nhau của nó hiện vẫn đang được lưu hành. Bản dịch: Tám mươi bảy năm về trước, những vị cha lập quốc đã sáng lập nên một quốc gia mới trên lục địa này, thai nghén trong tự do và dâng hiến cho lời tuyên bố rằng mọi con người được tạo ra (*) bình đẳng. (*) Dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ. Từ tiếng anh là “create”, ở đây được dịch là “tạo ra”, tín ngưỡng phương Tây tin rằng Chúa Sáng Thế tạo ra con người. Tín ngưỡng phương Đông về bà Nữ Oa, hay mẹ Âu Cơ, cũng vậy. Có nhiều nguồn dịch là “sinh ra”. Ngày hôm nay, chúng ta đang phải đối mặt với một cuộc nội chiến lớn, để thử thách xem một quốc gia như vậy, hay bất cứ một quốc gia nào được thai nghén [trong tự do] và dâng hiến [cho sự bình đẳng] đến mức như vậy, có thể trường tồn được hay không. Chúng ta hội ngộ trên chiến trường lớn của cuộc nội chiến ấy. Chúng ta tới đây để dâng hiến một phần của chiến trường này thành nơi an nghỉ cuối cùng cho những con người đã ngã xuống để tổ quốc được sống. Đó là một điều phù hợp và nên làm. Nhưng, theo một ý nghĩa rộng lớn hơn, chúng ta không thể dâng hiến, không thể thờ cúng, không thể thần thánh hóa mảnh đất này [hơn nữa]. Những con người dũng cảm, dù còn sống hay đã khuất, đã nỗ lực để thần thánh hóa mảnh đất này vượt trên khả năng nhỏ bé của chúng ta, chúng ta đã không thể góp phần hay làm lu mờ bớt đi nỗ lực ấy. Thế giới sẽ không ghi nhớ những gì mà chúng ta đang nói tại đây ngày hôm nay, nhưng thế giới sẽ không bao giờ quên điều mà những con người dũng cảm ấy đã làm được. Đối với chúng ta, những con người đang sống, chúng ta cần phải dâng hiến bản thân cho những công việc dang dở, mà những con người đã chiến đấu ở đây đang thúc đẩy một cách cao thượng. Chính chúng ta cần phải dâng hiến cho nhiệm vụ trọng đại mà chúng ta đang phải đối diện – nhiệm vụ mà chúng ta nhận lấy từ những người đã khuất đáng kính, để dâng hiến hơn nữa cho chính nghĩa mà họ đã tận lực hiến dâng; nhiệm vụ mà chúng ta phải kiên tâm để những người đã ngã xuống không ra đi một cách uổng phí; nhiệm vụ khiến cho đất nước này, dưới bàn tay của Chúa, được tái sinh trong tự do; nhiệm vụ để cho một chính quyền của dân, do dân và vì dân sẽ không biến mất khỏi mặt đất này. Quang Minh biên dịch Bản dịch Trí Thức VN sử dụng dưới đây là phiên bản “Bliss” – phiên bản được sử dụng nhiều nhất, nhưng chưa hẳn đã là phiên bản chính xác nhất của Diễn văn tại Gettysburg. Phần thu âm trong video không phải là thu âm thực tế của tổng thống Abraham Lincoln, mà được người đi sau diễn lại. Nguồn: m.trithucvn.net/van-hoa/dien-van-cua-dan-dan-va-vi-dan-tong-thong-abraham-lincoln.html
|
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 11, 2022 2:01:45 GMT 9
Vì sao chiếc áo cần có 5 cúc? Tác giả:Hồ Quỳnh Châu
Ngày ấy, tôi là một thợ may nghèo, không có tay nghề nên chỉ dám mở một cửa hiệu nhỏ chủ yếu nhận đồ sửa chữa quần áo là chính. Một lần, được một anh bạn thân tặng một quyển sách tự học cắt may. Giọng anh vui vẻ: Thấy em khéo tay nên anh tặng em quyển này biết đâu lại giúp được gì cho nghề nghiệp. Từ đó tôi bắt đầu học cắt may một cách say sưa. Khi bước đầu có chút kiến thức về nghề, rồi được nhiều người động viên, tôi liều mở một cửa hiệu khá to ngay trên mặt phố. Cửa hiệu của tôi khá đông khách. Ngoài ra còn có cả hơn chục người tới xin học việc. Chưa thật sự có nhiều kiến thức và tay nghề cũng chưa cao nên mỗi khi định dạy học sinh cắt cái gì thì tối hôm trước tôi ôn luyện cái đó, nghĩa là theo kiểu “cơm chấm cơm” như người ta thường nói. Vậy mà học sinh không hề phát hiện mà còn khen: Chị giảng dễ hiểu như giáo viên vậy. Ngày ấy tôi thường rất tự hào. Nhưng có một lần… Một bác khách hàng đến may chiếc áo bà ba. Áo bà ba rất khó cắt mà tôi lại chưa cắt bao giờ nên lưỡng lự muốn từ chối. Nhưng cuối cùng tôi liều nhận lời vì không muốn mọi người biết là mình còn yếu kém, sẽ bị giảm uy tín. Hôm cắt chiếc áo bà ba, tôi đã thức trắng một đêm mò mẫm từng chút một, cuối cùng thì nó cũng thành. Rồi khi may cũng vậy, tôi cẩn thận từng đường kim mũi chỉ, tự tay là phẳng phiu rồi treo lên chiếc móc, ngắm nghía gật gù ra chiều thích thú. Bác khách hàng rất thấp, chỉ đến vai tôi nên chiếc áo ngắn cũn cỡn. Khi đơm cúc thấy chia khoảng cách làm năm như thông thường thì quá dầy, vì vậy nên tôi quyết định chia làm bốn cho cân xứng với chiếc áo. Làm xong việc ấy, tôi cảm thấy rất lí thú vì nghĩ mình đã có một cách tân tuyệt vời, chắc hẳn sẽ được khách hàng ưng ý. Đúng hẹn, bác khách hàng đến lấy và mặc thử. Bác soi gương, ngắm trước ngắm sau rất lâu. Tôi thì thót tim, chỉ sợ bác ấy chê xấu và bắt đền. May quá bác cởi ra và bảo tôi cho vào túi. Tôi vui sướng như mở cờ trong bụng. Đang gấp chiếc áo tự nhiên bác ấy cầm tay tôi và bảo: Ơ! Sao em đơm cho chị có bốn cái cúc thế này? Tôi giải thích: Vì cái áo ngắn quá nên đơm năm cúc nhìn rất xấu. Em đã thử đặt rồi nhưng nhìn rất vô lý! Đây là sự cải tiến của em đấy, chị biết không. Bác hơi cau mày: Nhưng từ xưa đến giờ không ai làm như thế! Áo thì phải có năm cúc chứ em! Tôi hơi phật ý: Em đã nói rồi. Đây là một cải tiến của em. Chị mặc trông đẹp mà. Nhưng áo thì phải có năm chiếc cúc mới đúng. Cải tiến gì thì cũng phải tôn trọng truyền thống em ạ. Câu đi câu lại nhưng có lẽ bác ấy cũng không phải là người quá khó tính nên đã nhận chiếc áo với vẻ mặt không vui. Còn tôi thì thầm nghĩ, bác ta thật vô lý, đã làm đẹp cho mà lại không biết điều. Tuy trả được chiếc áo nhưng suốt cả ngày hôm đó tôi làm việc trong tâm trạng không thoải mái, bứt rứt khó chịu và thắc mắc rất nhiều về cái áo, tại sao nhất định cứ phải là năm cúc mà không phải là bốn hay sáu… Hôm sau, tôi về nhà lục tung hòm quần áo của mẹ lên và đếm gần chục chiếc áo cả cũ lẫn mới và thấy cái nào cũng 5 chiếc cúc cả. Nghĩ lại câu nói hôm qua của bác khách hàng “cải tiến nhưng cũng phải tôn trọng truyền thống em ạ” tôi bỗng cảm thấy hình như mình đã có điều gì không phải. Từ sau ngày ấy mỗi khi ra đường tôi thường nhìn chằm chằm và những người già mặc áo bà ba để đếm từng chiếc cúc như người lẩn thẩn. Và đúng là chiếc áo bà ba nào cũng có đủ năm chiếc cúc. Lạ thế. Nhiều năm trôi qua, tôi bỏ nghề may chuyển sang nghề bán hoa tươi, quên dần bác khách hàng năm xưa. Câu chuyện cũ cũng tưởng như trôi vào quá khứ. Một buổi chiều tôi đang cắt những tờ báo cũ để gói hoa cho khách, thì bất chợt nhìn vào góc tờ báo có dòng chữ: “BÍ MẬT NĂM CHIẾC CÚC ÁO”. Như người chết đuối vớ được cọc, tôi cầm tờ báo đọc lấy đọc để. Câu chuyện kể rằng: Ngày xưa học trò toàn mặc áo bà ba, trên chiếc áo quy định năm chiếc cúc là tượng trưng cho năm đức tính của con người: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Mỗi lần thầy giáo gọi, học trò lên bảng đầu cúi thấp khoanh tay trước ngực, khi trả lời không được, thầy giáo thường bắt trò vân vê 5 chiếc cúc áo và bắt nói về ý nghĩa của từng chiếc cúc một. Chiếc cúc áo trên cùng là chữ NHÂN (người thiếu chữ NHÂN sẽ trở thành kẻ độc ác). Chiếc thứ 2 là chữ NGHĨA (người thiếu chữ NGHĨA sẽ trở thành kẻ bội bạc). Cứ như vậy cho đến chiếc cuối cùng. Chao ôi! Tôi vừa sung sướng vì đã giải được những thắc mắc của mình mấy chục năm nhưng lại xấu hổ về sự thiếu hiểu biết của mình. Giá như ngày ấy tôi hiểu được ý nghĩ của từng chiếc cúc áo thì đâu dám cả gan “cải tiến” cái áo bà ba thành bốn cái cúc như vậy. Hóa ra, sự cách tân của tôi chỉ là một việc làm liều lĩnh và điên rồ. Sáng nay trời chớm Đông se lạnh, tôi mở tủ để lấy quần áo, tự nhiên tôi lại chọn cho mình cái áo có đủ 5 chiếc cúc để mặc và chợt nghĩ đến bác khách hàng thấp bé ngày nào. Bây giờ không biết bác đang sống ở nơi đâu. Nếu đọc được những dòng này, xin bác hãy quay lại gặp tôi ở cửa hàng hoa Minh Châu thuộc tổ 1, phường Hoa Chè, thành phố Sông Phượng. Gặp lại bác, dù không còn làm nghề may nữa nhưng tôi nhất định sẽ tưởng nhớ lại nghề cũ để may đền bác một chiếc áo bà ba thật đẹp, có đủ năm chiếc cúc.
|
|