|
Post by Vĩnh Long on Dec 10, 2006 9:10:29 GMT 9
Ba người Việt thám sát văn minh phương Tây - Vĩnh Sính 05/11/2006 Hạm đội Baltic trên vùng biển Singapore Tảng sáng ngày 31-3-1905, từng chiếc khu trục hạm Nga từ từ ló dạng ở cửa biển vịnh Cam Ranh còn quyện sương mù. Những chiếc tàu này vượt cửa Bé vào vịnh trước để tìm nơi thả neo an toàn cho đoàn tàu 45 chiếc của hạm đội Baltic (Novikoff-Priboy, trang 95), tức hạm đội Thái Bình Dương II, dưới quyền chỉ huy của Đề đốc Rozhestvensky. Chỉ trong vòng hai tiếng đồng hồ sau, hạm đội Baltic thả neo, "đậu thành năm hàng song song với những chiến hạm bọc sắt lớn án ngữ cửa vịnh" (Hough, trang 137). Sau 28 ngày vượt trùng dương từ đảo Madagascar thuộc Pháp, Cam Ranh là bến cảng nghỉ chân đầu tiên sau một hải trình dài 4.500 hải lý của hạm đội này. Cam Ranh cũng là trạm tiếp tế nhiên liệu và lương thực cuối cùng trước khi đoàn tàu khổng lồ này lên đường đi Vladivostock nhằm trợ chiến cho hạm đội Thái Bình Dương I đang chiến đấu với hải quân Nhật trên vùng biển Bắc Á đã hơn một năm. Cam Ranh còn là điểm hẹn với hạm đội Thái Bình Dương III của Đề đốc Nebogatoff hãy còn theo sau đó. Cam Ranh một thời từng là bến cảng khá nhộn nhịp của hải quân Pháp. Vào thời điểm năm 1905, quân cảng này đã "đượm vẻ hoang vắng điêu tàn". Nhưng dù sao Cam Ranh vẫn nổi danh là một "hải cảng thiên nhiên toàn bích, an toàn, rộng rãi, mặt nước phẳng lặng như tờ". Chiến hạm Nga tuy đã lỗi thời, nhưng những giàn cự pháo 12 ly và 10 ly trang bị trên tàu là lý do khiến nhiều người cho rằng hải quân Nga "chỉ có thể thua trận trong trường hợp khả năng pháo kích của họ quá tồi". Bởi vậy, sau khi hạm đội Baltic hạ neo ở Cam Ranh, báo chí ở Singapore, Manila, Malacca, Sài Gòn, Hồng Kông và những thành phố nhiều người Hoa sinh sống ở ven biển Thái Bình Dương không ngớt bàn tán về một trận hải chiến vô tiền khoáng hậu sắp diễn ra. Ngày 2-4-1905, đề đốc Pháp de Jonquières, Phó tư lệnh hải quân Pháp ở Thái Bình Dương, dẫn tuần dương hạm Descartes ghé thăm xã giao hạm đội Nga. Nhưng khi de Jonquières trở lại ngày 22-4, tuy vẫn giữ thái độ hòa nhã, đề đốc Pháp yêu cầu hạm đội Nga phải nhổ neo trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Trước yêu sách đột ngột của chính quyền Đông Dương, đúng 1 giờ trưa hôm sau, Rozhestvensky ra lệnh nhổ neo và cho hạm đội Baltic "dàn thành đội ngũ ngoài cửa vịnh Cam Ranh". Quang cảnh hoành tráng của hạm đội Nga lúc bấy giờ được mô tả trên báo The Times (Anh) như sau : "Các chiến hạm Nga dàn thành một hình cánh cung dài như vô tận, trải dài từ mũi Valera sang tận mũi bên này của bán đảo Cam Ranh". Sau khi de Jonquières trịnh trọng tiễn chân soái hạm của Rozhestvensky ra đến cửa vịnh, nhằm tránh trách nhiệm cho Pháp là đã cho phép hạm đội Nga vào tiếp nhiên liệu và lương thực trong một thời gian khá lâu, ông đánh điện về sở chỉ huy với lời lẽ khôn khéo, tựa hồ như chẳng hay biết gì cả về tình hình chiến sự Nhật-Nga: "Hạm đội Nga đã rời bờ biển An Nam và đang tiến về hướng Đông. Không rõ sẽ đi đâu"! Sự thật thì sau khi tuần dương hạm của de Jonquières vừa đi khuất, Rozhestvensky lại đưa hạm đội của mình vào ẩn náu, lần này ở vịnh Vân Phong, cách cửa Bé không xa. Trên thực tế Rozhestvensky chỉ ra khỏi bờ biển Việt Nam vào ngày 14-5-1905, sau khi hạm đội Thái Bình Dương III của Đề đốc Nebogatoff bắt kịp và đã lấy thêm than đá. Những thương nhân Pháp cung cấp lương thực đủ loại cho hạm đội, từ trái cây, rau tươi, cho đến bột mì, đồ hộp hay thịt gà, thịt bò. Những hàng này bán "với giá cao kinh khủng, chưa nói những mặt hàng xa xỉ có lời lớn như rượu vang hay rượu mạnh". Bởi vậy, có thể hiểu tại sao chính phủ Đông Pháp đã chần chừ, không muốn nhanh chóng chấp hành lệnh trục xuất hạm đội Nga (Hough, trang 135). Thương nhân người Việt cũng thường mang thực phẩm ra bán bằng ghe (Novikoff-Priboy, trang 97). Đặc biệt vào đêm 16- 4-1905, biết thủy thủ Nga sẽ ăn mừng lễ Phục sinh, ghe thuyền của các thương nhân người Việt chở gà vịt, rượu đế ra bán cho tới khuya. Thủy thủ Nga nhận xét là các mặt hàng do người "An Nam" chở ra bán giá phải chăng, đặc biệt họ tấm tắc tán thưởng món rượu đế, khen là "mỹ tửu" giống rượu Vodka của người Nga. *** Có ai ngờ trong những ghe ra bán thực phẩm trên tàu Nga lúc ấy lại có chiếc ghe chở ba người giả dạng thương nhân để quan sát tận mắt văn minh cơ khí của phương Tây qua lăng kính là chiến hạm Nga! Đó là ba chí sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp trong chuyến Nam Du năm 1905. Trong tự truyện của mình, Huỳnh Thúc Kháng ghi lại việc lên xem tàu Nga như sau : "Lúc đi ngang qua Nha Trang, được tin chiến hạm Nga đậu tại Cam Ranh, bèn giả khách buôn, thuê thuyền đánh cá, mua trứng gà cùng trái cây các thứ, lên thuyền Nga xem rất khoái. Đấy chẳng qua vì tính thiếu niên hiếu kỳ, chứ không có ý gì". Trong ba chí sĩ nói trên, chỉ có Huỳnh Thúc Kháng để lại cứ liệu về cuộc "thám sát" độc đáo này. Cũng dễ hiểu thôi, vì Trần Quý Cáp thì mất sớm, ba năm sau (1908), khi phong trào Dân biến ở miền Trung bột phát, cụ bị sát hại ở Khánh Hòa. Còn Phan Châu Trinh thì ít khi đề cập đến việc riêng tư trong các trước tác văn xuôi (hầu hết là chính luận), hay nếu có nhắc tới chuyện riêng chăng nữa thì cũng chỉ để làm sáng tỏ những công việc chung có liên quan tới đồng bào, đất nước. Cách đây khá lâu, khi đọc những dòng trên đây của Huỳnh Thúc Kháng, người viết không khỏi lấy làm lạ. Đã đành Huỳnh Thúc Kháng là người có trí nhớ tuyệt vời, hầu như chẳng bao giờ lẫn lộn, bởi vậy chúng tôi tin việc các cụ tự mình "tạo điều kiện" để lên quan sát chiến hạm Nga 100 năm trước đây. Tuy nhiên, vì sao một việc kỳ thú và có ý nghĩa như vậy mà từ trước tới nay ít thấy ai nhắc đến! Thắc mắc ấy cứ lởn vởn trong đầu. Chuyện mạo hiểm của các cụ khiến chúng tôi nhớ lại một mẩu chuyện tương tự xảy ra ở Nhật vào giữa thập niên 1850. Khi chiến thuyền của Đề đốc Perry (Mỹ) đến Nhật, Yoshida Shôin nhận thấy cần phải tìm hiểu về phương Tây nên đã táo bạo chèo thuyền nhỏ ra biển rồi tìm cách đột nhập lên tàu của Perry để tìm đường du học. Kế hoạch không thành, Shôin bị bắt và bị giao trả lại cho phía Nhật, rồi bị giam lỏng một thời gian. Qua những hành động quả cảm trong cuộc đời vỏn vẹn 29 năm, sau khi mất, Shôin được người Nhật xem là "người đi tiên phong của phong trào dẫn đến Minh Trị Duy tân". Một chi tiết ít được biết tới, nhưng cụ Ngô Đức Kế có thuật lại rằng khi quan tỉnh lên án đày Huỳnh Thúc Kháng ra Côn Đảo (1908) "có dẫn việc đi xem thuyền Nga mà bắt tội". Nhớ lại chuyện cũ, gần đây chúng tôi tìm đọc các sách nói về hạm đội Baltic thử xem có cuốn nào ghi lại thời gian hạm đội cập bến ở Cam Ranh hay chăng. Chúng tôi tìm được hai cuốn sách tiếng Anh, một cuốn đặc biệt nghiên cứu về hạm đội Baltic và một cuốn là hồi ký của một sĩ quan Nga trên hạm đội Baltic còn sống sót sau trận hải chiến với hải quân Nhật ở eo biển Đối Mã. Cả hai cuốn thuật lại khá chi tiết những sự việc xảy ra khi hạm đội vào đậu ở Cam Ranh. Hai cuốn sách đó là : Richard Hough, The Fleet That Had to Die (Hạm đội phải bị tiêu diệt-New York : The Viking Press, 1958) và A. Novikoff-Priboy, Tsushima (Eo biển Đối Mã) do Eden và Cedar Paul dịch từ tiếng Nga sang tiếng Anh (New York : Alfred A. Knopt, 1937). Những thông tin về hạm đội Baltic trong thời gian cập bến ở Cam Ranh trong phần đầu của bài viết này phần lớn dựa theo hai nguồn tài liệu đó. Căn cứ vào những thông tin này, chúng tôi mới biết chắc là có khá nhiều ghe thuyền của thương nhân người Việt ra bán thực phẩm cho thủy thủ và việc lên tàu cũng khá dễ dàng - một phần có lẽ do nhu cầu cấp thiết của thủy thủ người Nga về lương thực, đặc biệt là các thức ăn tươi. Do đó, có thể suy luận việc giả dạng làm thương nhân của ba nhà chí sĩ chắc hẳn cũng không mấy khó khăn, điều cốt yếu là cần phải có óc quả cảm, táo bạo và liều lĩnh thì mới dám nghĩ tới kế hoạch đó. Vậy trong bộ ba Huỳnh Thúc Kháng, Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp, ai là người khởi xướng việc này? Chắc hẳn người đó không phải là Huỳnh Thúc Kháng, vì như nhà nghiên cứu Huỳnh Lý đã nhận xét, Huỳnh Thúc Kháng "nhanh nhạy chốn trường ốc nhưng chất phác ở ngoài đời". Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp tính tình đã hăng say mà còn có tầm nhìn sâu rộng, đặc biệt Phan Châu Trinh là người "từng trải và nhạy bén" và chắc hẳn là nhân vật có đầu óc táo bạo nhất trong ba người. Chỉ cần xem một vài hành động của cụ Phan thì rõ. Ví dụ, chẳng bao lâu sau chuyến Nam Du, khi nghe tin Phan Bội Châu đã sang Nhật - và chính Nhật là nước đã thắng Nga, tiêu diệt hạm đội Baltic mà Phan Châu Trinh đã quan sát tận mắt - Phan Châu Trinh đã tìm cách lặn lội sang Quảng Đông để gặp Phan Bội Châu, rồi từ đó cùng sang Nhật trong khoảng hai tháng (vào năm 1906) để nhìn tận mắt đất nước mới canh tân sau Minh Trị Duy tân. Rồi cũng chính Phan Châu Trinh, sau khi được phóng thích từ lao tù Côn Đảo, đã tìm đường sang nước Pháp để tìm con đường giải cứu cho đồng bào. Tư tưởng táo bạo "Không vào tận hang hùm sao bắt được cọp" được thể hiện suốt cuộc đời xả thân vì đồng bào, vì nước quên mình của cụ Phan. Bởi thế, chúng ta sẽ không ngạc nhiên nếu trên thực tế, chính Phan Châu Trinh là người đầu tiên ngỏ ý về cuộc "thám sát" văn minh phương Tây táo bạo ngay ở vịnh Cam Ranh 100 năm trước đây. Nhìn lại lịch sử nước nhà đầu thế kỷ 20, chúng tôi không khỏi có cảm tưởng là bánh xe lịch sử dường như chuyển mạnh từ năm 1905. Đã đăng trên Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn số 739 ngày 10/2/2005.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 10, 2006 9:17:21 GMT 9
Thử tìm hiểu thêm về chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát- Vĩnh Sính Tàu buồm cỡ tàu Phấn Bằng Trong nỗ lực tìm hiểu và so sánh về nhận thức ban đầu của giới sĩ phu Đông Á khi tiếp xúc với văn minh Tây phương vào khoảng giữa thế kỷ XIX, chúng tôi đã tìm đọc một số sứ trình nhật ký cùng thơ văn mà các sứ thần Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam ghi lại trong những lần đi công cán sang các nước Tây phương. Trong chuyến công vụ ra nước ngoài vào năm 1844, mặc dầu Cao Bá Quát chỉ đến vùng Hạ Châu thuộc Đông Nam Á, nhưng những bài thơ do ông sáng tác trong lần “ xuất dương hiệu lực ” này có thể xếp vào mảng tư liệu nói trên. Lý do là qua những bài thơ này, người đọc có thể thấy được những nét chấm phá nói lên cảm giác kinh ngạc của tác giả đối với nền văn minh cận đại của người Tây phương khi ông đi qua những thuộc địa hay tô giới của họ trong vùng Hạ Châu. Trong bài này, dựa trên những tư liệu của Việt Nam và của nước ngoài, chúng tôi sẽ đưa ra một số nhận xét và thông tin nhằm thấy rõ hơn về mục đích phái bộ Việt Nam đi Hạ Châu lần này và ấn tượng về văn minh Tây phương của Cao Bá Quát. 1) Mục đích của chuyến công du : Trước hết, chúng ta cần khẳng định vị trí của vùng Hạ Châu. Theo nghiên cứu của cố học giả Trần Kinh Hoà (Ch’en Ching-ho), địa danh Hạ Châu tuỳ theo thời điểm có thể dùng để chỉ những địa điểm khác nhau. Nói một cách cụ thể, địa danh Hạ Châu nguyên vào đầu thế kỷ XIX dùng để chỉ Penang và Malacca, nhưng sau khi Tân Gia Ba trở thành nhượng địa của Anh và cảng này được khai trương vào năm 1819, cả hai danh xưng Hạ Châu và Tân Gia Ba đều được sử dụng nhằm chỉ tân cảng Singapore. Tuy nhiên, vào thời điểm 1844 khi Cao Bá Quát được phái đi công vụ, danh xưng Hạ Châu trên nguyên tắc được dùng không những để chỉ Singapore mà còn để gọi cả Penang và Malacca -- tức là các thuộc địa trên eo biển Malacca mà tiếng Anh gọi chung là Straits Settlements. Nhằm hiểu rõ mục đích của phái bộ cùng phản ứng của Cao Bá Quát khi mục kích những biểu tượng của nền văn minh hiện đại Tây phương, chúng ta cần để ý đến thời điểm phái bộ được gửi đi Hạ Châu lần này : Đây là một trong các phái bộ đầu tiên do triều đình nhà Nguyễn gửi sang Hạ Châu ngay sau khi Thanh triều vì bị thất trận nặng nề trong chiến tranh Nha phiến (1839-1842) nên phải nuốt nhục ký kết điều ước Nam Kinh (1842) với nước Anh. Điều ước này mở đầu cho một loạt điều ước bất bình đẳng Trung Quốc phải ký kết với các liệt cường khác. Trên thực tế, theo điều ước Nam Kinh, Trung Quốc phải cắt nhường Hương Cảng cho Anh trong 150 năm, mở 5 cảng Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Thượng Hải cho người Anh đến buôn bán và cư trú, đồng thời phải bồi thường cho nước Anh 21 triệu đồng bạc Mễ Tây Cơ. Đối với các nước có quan hệ triều cống với Trung Quốc như Việt Nam hay Triều Tiên, điều ước này còn mang một ý nghĩa quan trọng khác : vị trí “ Thiên triều ” của Trung Quốc ở Đông Á không còn như trước. Theo chứng từ của một người Anh đến Việt Nam vài năm sau đó, “ từ khi chiến tranh Nha phiến bùng nổ, Trung Quốc đã có thái độ mềm mỏng và hoà hoãn (reconciliatory) đối với Việt Nam và thậm chí đã miễn việc triều cống,... điều ước Nam Kinh đã mang lại lợi ích cho vua nước An Nam, vì sau đó mậu dịch không còn giới hạn ở Quảng Đông và Hạ Môn như trước, mà có thể khuếch đại sang 3 cảng mới được mở thêm do điều ước Nam Kinh ”. Phái bộ đi Hạ Châu năm 1844 có mục đích gì ? Nhằm trả lời câu hỏi này, trước hết chúng ta cần thu thập một số thông tin cơ bản. Người dẫn đầu phái bộ (chánh biện) là Đào Trí Phú (nguyên Tả tham tri bộ Hộ) ; phó biện là Trần Tú Dĩnh (Viên ngoại lang Nội bộ phủ), quan viên tháp tùng còn có thừa biện Lê Bá Đĩnh, tư vụ Nguyễn Văn Bàn và Nguyễn Công Dao, thị vệ Trần Văn Quý, cùng hai người đi “ hiệu lực ” là Cao Bá Quát và Hà Văn Trung. Phái bộ đi trên tàu Phấn Bằng - một loại tàu buồm giăng ngang (square-rigged ship) mà triều đình Huế dùng làm tàu buôn lúc bấy giờ - khởi hành vào tháng 1-1844 và về lại vào tháng 7 năm đó. Đại Nam thực lục (sẽ ghi tắt là Thực lục) cho biết là “ trước kia, dưới triều Minh Mệnh [chắc hẳn là chuyến đi vào tháng 11 năm Minh Mệnh thứ 21, tức 1840]”, Trí Phú đã được phái đi mua tàu hơi nước, đó là các tàu Yên Phi, Vụ Phi, và Hương Phi, v.v. Nhưng những tàu này chỉ thuộc loại cỡ nhỏ. Trong cùng mục tháng 7 năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), Thực lục cho biết : “ Đào Trí Phú về lại từ Tây dương, mua một chiếc tàu hơi nước trị giá hơn 28 vạn quan tiền... Tàu mua lần này là loại tàu lớn, mang tên là Điện Phi hoả cơ đại thuyền ”. Điện Phi là “ tên do vua Thiệu Trị đặt ”, bởi lẽ tàu “ chạy nhanh như bay ”, còn “ hoả cơ đại thuyền ” nói nôm na là tàu hơi nước (steamer) cỡ lớn. Sau đó, Thực lục đã dành đến vài trang nhằm miêu tả tàu Điện Phi, trong đó có đoạn nói về tốc độ kinh dị của chiếc tàu này như sau : “ Từ cửa biển Cần Giờ tỉnh Gia Định ra kinh [Thuận Hoá] lệ thường đi hoả tốc bằng ngựa mất 4 ngày 6 giờ 5 khắc, tàu Điện Phi chạy chỉ cần 3 ngày 6 giờ, tức là nhanh hơn ngựa phóng nước đại trên đất liền đến 1 ngày 5 khắc ”. Phải chăng một trong những mục tiêu chính của phái bộ đi Hạ Châu năm 1844 là để mua chiếc tàu chạy bằng hơi nước cỡ lớn này ? Có lẽ đúng thế. Mặc dầu Thực lục chỉ cho biết một cách tổng quát là “ trước đây Trí Phú đã được phái đi Giang-lưu-ba, làm việc phần nhiều chưa xong, cho nên lại sai đi ”. Chúng ta biết rằng trước đó, Trí Phú đã được phái đi vào năm 1840, và công việc “ phần nhiều chưa xong (đa vị thanh) ” trong chuyến đi đó chắc hẳn hàm ý việc mua chiếc tàu lớn chạy bằng hơi nước mà sau này được mang tên là Điện Phi. Cần nói thêm là chuyến công cán mà Cao Bá Quát tháp tùng chỉ đi trong vòng 7 tháng và câu “ Đào Trí Phú về lại từ Tây dương, mua một chiếc tàu chạy bằng hơi nước trị giá hơn 28 vạn quan tiền ” trong Thực lục khiến người ta có thể hiểu nhầm là chỉ trong thời gian 7 tháng mà Trí Phú đi sang Tây phương và đã mua được tàu Điện Phi mang về. Sự thật thì như ta đã biết là phái bộ này không đi sang Tây phương. Vậy danh từ Tây dương trong Thực lục có nghĩa gì ? Vào nửa đầu thế kỷ XIX, kiến thức địa lý thế giới ở Trung Quốc và Việt Nam hãy còn hết sức hạn chế và tạp nhạp, ngay tờ quan báo do tỉnh Quảng Đông phát hành từ năm 1819 đến năm 1822 còn giải thích Bồ Đào Nha ở cạnh Malacca, mà Pháp và Bồ Đào Nha chỉ là một, hay nói một cách khác Pháp nằm kế cận eo biển Malacca ! Do đó, “ sang Tây dương ” trong trường hợp này không nhất thiết là phải đi sang các nước Âu Châu. Vì vô tình nhầm tưởng rằng “ sang Tây dương ” phải là sang Âu Châu, mà nếu đi bằng thuyền buồm thì không thể nào sang Âu Châu rồi về lại trong một khoảng thời gian 7 tháng, nên học giả Trần Kinh Hoà đã gợi ý là phải chăng Đào Trí Phú đã đi Giang-lưu-ba (Jakarta) bằng tàu Phấn Bằng, “ rồi từ Jakarta đổi sang tàu khác để đi Tây dương (Pháp), và cuối cùng nhận tàu Điện Phi ở Pháp rồi lên tàu đó để đi thẳng về Thuận Hoá ”. Sự thật thì không phải như vậy, vì như chúng ta đã biết, phái bộ có Cao Bá Quát tháp tùng đã không sang Âu Châu, mà chỉ đi các vùng thuộc địa của người Tây phương dọc theo eo biển Malacca. Nhưng căn cứ vào đâu mà chúng ta có thể đoán định được là tàu Điện Phi đã được mua ở Đông Nam Á ? Thông tin sau đây từ các nguồn tư liệu tiếng Anh mà chúng tôi tình cờ tìm thấy đã xác nhận điều đó. Trước hết, cần nói rằng các nguồn tư liệu tiếng Anh mà chúng tôi đã xem đều nhấn mạnh vào thời điểm đó Xiêm (Siam) và An Nam là hai nước láng giềng có quan hệ rất xấu (very bad neighbours). Khi chiến tranh Nha phiến vừa bùng nổ, vì nghe tin đồn là các chiến hạm Anh ở Trung Quốc sẽ tiện đường “ ghé viếng thăm [!] nước Xiêm ” một khi chiến tranh kết liễu, vua Xiêm lo sợ nên đã đặt mua nhiều súng ống và một chiếc tàu chạy bằng hơi nước qua công ty của ông Robert Hunter lo về việc mậu dịch giữa Bangkok với các nước Âu Châu. Vì các mặt hàng vua Xiêm đặt mua đến chậm, đến lúc sắp sửa giao hàng thì chiến tranh Nha phiến đã kết thúc và nỗi lo sợ của người Xiêm bị vạ lây với Trung Quốc cũng đã nguôi lắng. Bởi thế, vua Xiêm làm khó, không chịu mua chiếc tàu chạy bằng hơi nước theo giá hai bên đã thoả thuận lúc ban đầu. Hunter do đó mới đề nghị bán cho người An Nam – “ địch thủ của người Xiêm ”. Kết quả là Hunter bị trục xuất ra khỏi Bangkok, tuy sau đó có được phép trở về Xiêm để thu hồi tài sản. “ Trong thời gian ở Singapore, ông ta đã hoàn tất thủ tục bán chiếc tàu chạy bằng hơi nước cho người An Nam ”. Tóm lại, căn cứ vào thời điểm cùng những chi tiết của chứng từ trên, chúng ta có thể suy luận là : 1) chiếc tàu chạy bằng hơi nước mà thương nhân người Anh Robert Hunter bán cho An Nam chắn hẳn là tàu Điện Phi, 2) quá trình mua bán tàu Điện Phi đã diễn ra ở Singapore chứ không phải ở Âu Châu. Cũng theo các nguồn tài liệu tiếng Anh, mậu dịch giữa Việt Nam với các thuộc địa Anh thuộc vùng Hạ Châu chỉ bắt đầu sau khi tân cảng Singapore trở thành thuộc địa của người Anh (1819). Trước đó hầu như “ không có dấu vết gì về mậu dịch giữa Căm-pu-chia và Cochin-China với các thuộc địa Anh ở trên eo biển ”. Năm 1821, số thuyền mành (junk) đến Singapore từ hai nước này và Xiêm là 21 chiếc, và 3 năm sau (1824) số thuyền đến Singapore tăng lên thành 70 chiếc mỗi năm. “ Mậu dịch với Singapore rất bị hạn chế vào thập niên 1820, bởi lẽ phần lớn những sản phẩm của Cochin-China chỉ thích hợp với thị trường Trung Quốc, và chỉ có giai cấp thượng lưu ở Cochin-China và quân đội của nhà vua mới có nhu cầu về những hàng bông (cotton) và hàng nỉ (woollen) của Anh. Hàng nỉ của Anh dùng may trang phục cho quân đội của nhà vua hầu hết được đặt mua từ Quảng Đông ”. Mậu dịch giữa An Nam và Singapore do “ thần dân người Hoa trong nước đảm nhiệm ”. Báo cáo của toàn quyền Anh ở Singapore, John Crawfurd, về Luân Đôn cho biết là năm 1825 đánh dấu một mốc quan trọng trong việc mậu dịch giữa Cochin-China và Singapore. Vào năm ấy, “ nhà vua [vua Minh Mạng] gửi hai thuyền mành có trang bị vũ khí cùng quan viên sang Singapore để mua hàng nỉ và hàng thuỷ tinh ”. Sau đó, nhà đương cuộc Anh đã “ khám phá là những quan viên này đến Singapore có nhiệm vụ nghiên cứu nhằm báo cáo về tình hình trên những thuộc địa của người Âu Châu ở eo biển Malacca ”. Tuy người ta không biết trong báo cáo đó đã ghi những gì, nhưng sau lần thăm viếng đó, triều đình “ đã giành độc quyền mậu dịch với Singapore ”. Ngoài ra, theo báo cáo của Isodore Hedde - một ký giả có đến Việt Nam vào mùa Xuân năm 1844 -, tuỳ theo thời điểm, những phái bộ đi công cán ở Hạ Châu dưới hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị có mục đích khác nhau. Ví dụ, phái bộ năm 1832 là để “ diễn tập đi biển ”, năm 1835 nhằm “ nắm vững hải trình và tìm hiểu hình thế cùng phong tục ”, năm 1840 là để “ chọn mua hàng hoá ”, năm 1842 là để “ diễn tập đi biển và để giải quyết những vấn đề chưa làm xong cho nội vụ phủ ”. Hedde cũng cho biết một số chi tiết các mặt hàng xuất nhập giữa Việt Nam với Singapore trong khoảng những năm đầu triều vua Thiệu Trị : mặt hàng bán gồm có lụa chế tạo ở Trung Quốc và Việt Nam, chè xanh (green tea), vải trúc bâu Nam Kinh (nankeens), quế, sừng tê giác, gạo, đường, muối, ngà voi, da trâu, những loại gỗ quý, vàng bạc ; và hàng mua về gồm có vải lạc đà và hàng bông thường, có khổ dài để may áo quần cho quân đội, thiếc, nha phiến, súng ống, và một số sản phẩm Ấn Độ. Vì sao “ nha phiến ” là mặt hàng cấm nhập khẩu mà lại nằm trong danh sách này ? Ai là người đứng sau việc mua hàng đó ? Chúng ta không có đủ tư liệu để trả lời câu hỏi này một cách thoả đáng, chỉ biết theo các thông tin tản mạn trong Thực lục thì Phó biện của phái bộ trong lần đi Hạ Châu năm 1844 là Trần Tú Dĩnh về sau bị giáng chức vì tội “ buôn lậu ”, mà “ buôn lậu ” gì thì không thấy nói rõ và ngay hư thực của vụ án cũng không thấy có sách nào nói đến. Trong phạm vi của bài này, chúng ta có thể đoán định là ngoài nhiệm vụ diễn tập và mua bán, phái bộ đi Hạ Châu năm 1844 còn có mục đích mua chiếc tàu chạy bằng hơi nước cỡ lớn mà sau này sẽ mang tên là Điện Phi. 2) Ấn tượng về văn minh Tây phương của Cao Bá Quát : Trong chuyến đi “ dương trình hiệu lực ”, nhiệm vụ Cao Bá Quát trong phái đoàn là gì ? Câu hỏi này từ trước tới nay hình như chưa có ai đưa ra. Theo thiển ý của chúng tôi, phải chăng vì nổi tiếng xuất chúng về văn thơ chữ Hán, Cao Bá Quát đã được giao phó trách nhiệm tiếp xúc với người Hoa trên các thuộc địa của người Âu Châu, bút đàm với họ nhằm tìm hiểu và thu thập thông tin về động tĩnh của người Âu Châu trên những vùng mà phái bộ ghé qua ? Trong những bài thơ Cao Bá Quát sáng tác lúc xuất dương thỉnh thoảng có nhắc đến một vài thương nhân người Hoa mà tác giả đã gặp ; điều này ít nhiều khẳng định giả thiết nói trên. Ngoài ra, cần để ý là trong những bài thơ mà Cao Bá Quát sáng tác trong thời kỳ xuất dương, ông có nhắc đến chức vụ của ông là “ tham quân ” và đã phần nào biểu lộ ý thức trách nhiệm của ông về chức vụ này. Ví dụ, Cao Bá Quát viết : “ Nhật khiết ly cơ tam bách trản/Bất phòng hoán tác tiểu tham quân ” (Mỗi ngày ta có thể uống ba trăm cốc rượu/Nhưng ta [dừng lại vì] không muốn làm cản trở công việc của một anh tham quân). Hoặc “ Phiếm sà mạn tự đàm Trương Sứ/Quyết nhãn bằng thuỳ điếu Ngũ Viên” (Bàn tới chuyện Trương Kiện cưỡi bè đi sứ [nhằm tìm hiểu tình hình bên ngoài]/Ai là người làm Ngũ Viên khoét mắt [can vua]). “ Tham quân ” thông thường là chức vụ của một “ văn quan được phái vào doanh quân giúp trưởng đơn vị xây dựng và chiến đấu, hàm Chánh Tứ phẩm Văn giai ”, hoặc hàm “ Tòng Tam phẩm Văn giai ”. Như vậy Cao Bá Quát đã tham gia phái bộ với tư cách là một văn quan được biệt phái và chức tham quân trong trường hợp của ông chắc hẳn có mục đích thu thập thông tin như chúng tôi đã trình bày ở trên. Cuộc hành trình của Cao Bá Quát kéo dài 7 tháng gồm những chuỗi ngày lênh đênh trên sóng nước, mênh mông biển rộng trời cao. Đọc những bài thơ Cao Bá Quát sáng tác trong khoảng thời gian này, ta thấy những con tàu chạy bằng hơi nước đã gây ấn tượng mãnh liệt đối với nhà thơ.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 10, 2006 9:17:38 GMT 9
a) “ Hồng mao hoả thuyền ca ” : Như chúng ta đã biết, một trong những biểu tượng của Cách mạng công nghiệp ở Âu Châu vào giữa thế kỷ 18 là sự xuất hiện của đầu máy hơi nước. Đặc biệt sau khi chiếc tàu chạy bằng máy hơi nước đầu tiên được thí nghiệm thành công ở Scotland (1802), càng ngày càng có những bước tiến rõ rệt trong ngành hàng hải. Hải trình thiên lý từ Âu Châu sang các nước Á Châu tưởng chừng như được rút ngắn lại. Khi các con tàu chạy bằng hơi nước trang bị với những họng súng đại bác đen ngòm xuất hiện trên vùng biển Châu Á Thái Bình Dương, chủ quyền của các nước Đông Á bắt đầu bị thách thức bởi làn sóng Tây xâm. Trước những cột khói đen, cao ngút trời và tiếng máy tàu nổ liên hồi như muốn át tiếng sóng gầm của biển cả, người trí thức Á Đông giật mình trước sự tiến bộ của thế giới bên ngoài và cảm thấy bất an vì tình trạng đình trệ trên đất nước họ. Năm 1841, tàu Pháp vào vụng Sơn Trà (Đà Nẵng), đã ngang nhiên cho lính đổ bộ lại còn cho bắn 80 phát súng đại bác thị uy. Rồi sáu năm sau (1847), chiến thuyền Pháp lại vào cửa Hàn, nổ súng uy hiếp. Câu ca dao Quảng Nam sau đây có lẽ đã ra đời vào thuở đó : Tai nghe súng nổ cái đùng, Tàu Tây đã tới Vũng Thùng anh ơi ! Cần để ý là Cao Bá Quát đã xuất dương chính vào lúc chủ quyền lãnh thổ ở Trung Quốc và ở Việt Nam đang bị đe doạ trầm trọng : 2 năm sau khi những chiếc thuyền mành lỗi thời của nhà Thanh không địch lại sức mạnh cơ khí của những chiến hạm chạy bằng hơi nước của người Anh trong chiến tranh Nha Phiến và 3 năm sau khi chiến thuyền Pháp lần đầu tiên vào bắn phá ở cửa biển Đà Nẵng. Trên boong tàu Phấn Bằng, nhìn “ con vật khổng lồ quái dị ” chạy bằng hơi nước đang rẽ sóng phăng phăng từ xa tiến lại, Cao Bá Quát đã sáng tác bài Hồng mao hoả thuyền ca (Bài thơ về chiếc tàu chạy bằng hơi nước của người Anh). Bởi vậy không phải ngẫu nhiên mà lời thơ của Cao Bá Quát trong bài này đượm vẻ khẩn trương, hùng tráng. Tàu chạy bằng hơi nước của Anh trong chiến tranh Nha phiến Cao yên quán thanh không Khói ùn lên tuốt trời xanh, Ổng tác bách xích đôi Đùn lên cao ngút ba trăm thước liền, Yêu kiều thuỳ thiên long Rồng trời sa xuống nghiêng nghiêng, Cương phong xuy bất khai. Mặc cuồng phong thổi con thuyền chẳng sao ! Cao Bá Quát miêu tả khá chi tiết con tàu kinh dị này : cột tàu cao chót vót, con quay gió đứng im (nguy tường ngật lập, ngũ lạng tĩnh), ở giữa có ống khói phun khói lên cao ngất (tu đồng trung trĩ, phún tác yên thôi ngôi), bên dưới có hai bánh xe xoay chuyển liên hồi đạp sóng dồn (hạ hữu song luân triển chuyển đạp cấp lãng), guồng quay, sóng đánh tung toé ầm ầm như tiếng sấm rền (luân phiên lãng phá, ẩn kỳ sinh nộ lôi). b) Hình ảnh người phụ nữ Tây phương : Trong những bài thơ Cao Bá Quát làm khi xuất dương, có hai bài thơ nói đến người phụ nữ Tây phương. Trước hết, ta hãy xem bài Dương phụ hành (Bài hành “ Người phụ nữ Tây phương ”) : Dương phụ hành Tây dương thiếu phụ y như tuyết, Cô gái phương Tây áo như tuyết, Độc bạn lang kiên toạ thanh nguyệt. Ngồi kề vai chồng dưới ánh nguyệt. Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh, Nhìn sang thuyền ta đèn sáng choang, Bả duệ nam nam hướng lang thuyết. Níu áo cùng chồng nói rối rít. Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì, Uể oải cốc sữa biếng cầm tay. Dạ hàn vô ná hải phong xuy. Gió bể e chừng đêm lạnh đây ! Phiên thân cánh thiến lang phù khởi, Nhích lại còn đòi chồng đỡ dậy, Khởi thức Nam nhân hữu biệt ly ! Tình ta ly biệt có ai hay ! Hoá Dân dịch
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Dec 10, 2006 13:11:23 GMT 9
Mặc dầu tác giả không nói rõ, chúng ta có thể hình dung là con thuyền của phái bộ Việt Nam lúc ấy ðang cắm neo cạnh chiếc tàu của ngýời phýõng Tây. Ðêm về, tàu ðậu trên bến cảng ðã lên ðèn, ðặc biệt trong thuyền Việt Nam ðèn thắp sáng trýng. Nhìn sang tàu bên, nhà thõ Cao Bá Quát thấy một phụ nữ ðang nũng nịu với chồng. Với cặp mắt tinh tế, không thiên kiến, và với ngòi bút ðiêu luyện, Cao Bá Quát ðã phác hoạ bằng những nét chấm phá cá tính nãng ðộng của một ngýời phụ nữ phýõng Tây trong quan hệ nam nữ : “ tự dựa vào vai chồng ” (ðộc bằng lang), “ níu tay áo chồng nói chuyện ríu ra ríu rít ” (bả duệ nam nam hýớng lang thuyết), hoặc “ nghiêng mình, lại nhờ chồng nâng dậy ” (phiên thân cánh thiến lang phù khởi). Ðối với Cao Bá Quát, những gì hiện ra trýớc mắt ông hoàn toàn mới lạ bởi lẽ trong xã hội Việt Nam nói riêng hay Ðông Á nói chung vào thuở ấy, thông thýờng ngýời phụ nữ không có những ứng xử tự do ðối với chồng nhý thế. Chắc hẳn cảnh sum họp này ðã làm nhà thõ chạnh nhớ gia ðình, bởi thế Cao Bá Quát mới kết thúc bài thõ bằng câu : “ ðâu biết có một ngýời Việt Nam ðang ở trong cảnh xa nhà ” (khởi thức Nam nhân hữu biệt ly). Mýời sáu nãm sau ðó, nãm 1860, khi Fukuzawa Yukichi (Phúc-trạch Dụ-cát; 1835-1901) - một trí thức có ảnh hýởng rất lớn ðến quá trình canh tân của Nhật Bản vào thời Minh Trị - tháp tùng phái bộ do chính quyền Tokugawa gửi sang Hoa Kỳ nhằm phê chuẩn ðiều ýớc giao thýõng Nhật-Mỹ, ðiều khiến Fukuzawa ngạc nhiên nhất cũng là những phong tục tập quán hàng ngày - ðặc biệt là những khía cạnh có liên quan tới vấn ðề giao tế nam nữ. Chẳng hạn, khi phái bộ Nhật vừa ðến San Francisco, Fukuzawa ðýợc mời tham dự một dạ vũ. Trong tự truyện, Fukuzawa thuật lại ấn týợng ban ðầu khi thấy ngýời Tây phýõng khiêu vũ nhý sau : “ Tôi lấy làm lạ vì không biết ngýời ta ðang làm gì : các bà, các ông cứ chạy ði chạy về miết trên sàng ! Tôi phải ráng nín cýời vì sợ thất lễ ”. Hoặc giả một hôm Fukuzawa cùng những ngýời trong ðoàn ðýợc mời ðến ãn cõm tối với gia ðình một ngýời Mỹ gốc Hà Lan, “ Khi bữa ãn thịnh soạn sắp sửa ðýợc bày dọn trên bàn, ðiều tôi [Fukuzawa] thấy kỳ lạ nhất là bà chủ nhà vẫn ngồi trên ghế trò chuyện tỉnh bõ với khách, trong khi ông chủ nhà thì xãng xít ðiều ðộng ngýời giúp việc dọn thức ãn ra cho khách. Ðiều này thật hoàn toàn trái ngýợc với phong tục tập quán ở Nhật Bản ”. Trong tự truyện của Fukuzawa Yukichi, các mẩu chuyện nho nhỏ về quan hệ nam nữ trong việc giao tế hàng ngày ở Hoa Kỳ ðýợc xếp trong phần mang tiểu ðề là “ Nữ trọng nam khinh ” (trọng nữ khinh nam) - một tiêu ðề khá ấn týợng nhằm nói lên sự khác biệt với khuynh hýớng “ nam trọng nữ khinh ” (trọng nam khinh nữ) trong xã hội Nhật Bản lúc bấy giờ. Hai nãm sau (1862), khi Fukuzawa có dịp thãm viếng Âu Châu, ðiều khiến ngýời trí thức samurai (võ sĩ) này ngạc nhiên cũng là những vấn ðề có liên quan ðến cuộc sống của ngýời phụ nữ, chẳng hạn nhý ở Pháp có nhiều trýờng học cho nữ sinh, số nữ sinh cao, và chế ðộ ýu ðãi về lýõng bổng cho các nữ giáo viên. So với Fukuzawa Yukichi, mặc dầu những nhận xét về ngýời phụ nữ Tây phýõng của Cao Bá Quát chỉ giới hạn trong lãnh vực cá nhân và chỉ ðýợc diễn tả qua những nét chấm phá ðõn sõ của một bài thõ, nhýng không phải vì thế mà không ðáng ðýợc chú ý. Lý do là : 1) dù chýa ði các nýớc Âu Mỹ và chỉ có dịp quan sát con ngýời Tây phýõng qua thuộc ðịa của họ ở vùng Hạ Châu, Cao Bá Quát ðã tỏ ra tinh tế và nhạy cảm ; 2) trong mảng thõ vãn ði sứ hay ði công cán ở nýớc ngoài của các sứ thần Việt Nam vào thế kỷ XIX, bài thõ của Cao Bá Quát về ngýời phụ nữ Tây phýõng là một trýờng hợp rất hiếm hoi và có ý nghĩa bởi lẽ ðiều này nói lên cá tính phóng khoáng của Cao Bá Quát - không chịu bó mình trong những khuôn phép Nho giáo. Chính những khuôn thýớc gò bó của Nho giáo ðã ngãn chận các sứ thần Việt Nam hay Trung Quốc khi ði sứ ở Tây phýõng quan sát hay ghi lại những ðiều gì có liên hệ ðến nếp sống của ngýời phụ nữ nói riêng hay sinh hoạt hàng ngày của dân chúng nói chung, mà phần lớn chỉ ðể ý ðến các hình thức bên ngoài có tính cách lễ nghi. b) Ý thức ðồng vãn ðồng chủng ðối với ngýời Trung Quốc : Nhý ðã trình bày ở trên, trong chuyến ði dýõng trình hiệu lực Cao Bá Quát giữ chức “ tham quân ” và nhiệm vụ của ông có lẽ là thu thập thông tin về ðộng tĩnh của các nýớc Tây phýõng ở vùng Hạ Châu. Khi tiếp xúc với ngýời Hoa, vì ngôn ngữ bất ðồng, “ bút ðàm ” (nói chuyện bằng bút) là phýõng tiện duy nhất ðể Cao Bá Quát có thể trò chuyện với ngýời Hoa. Nói cụ thể là cả hai bên ðều viết chữ Hán lên giấy ðể ðàm thoại. Cần nói rõ là không riêng gì thế hệ của Cao Bá Quát, mà mãi về sau - hõn 60 nãm sau chuyến ði công cán ở Hạ Châu của Cao Bá Quát - khi Phan Bội Châu sang Nhật Bản và khởi ðầu phong trào Ðông Du, bút ðàm vẫn là phýõng tiện ðể trao ðổi ý kiến khi tiếp xúc với ngýời nýớc ngoài. Nhý chính Phan Sào Nam tiên sinh ðã thuật lại trong tự truyện : “ Trung tuần tháng tý, Nhật-Nga chiến sự ðã xong, mới có thuyền Nhật Bản ðến Thýợng Hải. Chúng tôi nhờ có ông lýu Nhật học sinh ngýời Trung Quốc tên là Triệu Quang Phục ngýời Hồ Nam làm ngýời chỉ ðýờng cho chúng tôi, chung nhau ngồi thuyền Nhật Bản ði Hoành Tân. Ðến lúc ðó mới phát sinh một việc rất khốn nạn : tiếng Nhật ðã không thông mà tiếng Tàu lại ú ớ, nói phô bằng bút, giao thiệp bằng tay, phiền luỵ không biết chừng nào ! Ngoại giao mà nhý thế, thất ðáng xấu hổ ! ” Hoàng Liên Phýõng (Huang Lianfang) là một thýõng nhân ngýời Hoa ở Singapore mà Cao Bá Quát chắc hẳn ðã tiếp xúc ðể bàn chuyện thời sự nhằm tìm hiểu tình hình. Qua bút ðàm, có lẽ Cao Bá Quát cảm thấy tâm ðầu ý hợp với Hoàng, chính vì thế nên một số bài thõ trong tập Hạ Châu tạp thi của Cao Bá Quát có ðề cập ðến nhân vật này. Ví dụ, trong bài Dữ Hoàng Liên Phýõng ngữ cập hải ngoại sự, hữu sở cảm, tẩu bút dữ chi (Cùng Hoàng Liên Phýõng bàn chuyện hải ngoại, có ðiều cảm xúc, viết nhanh tặng ông) ðã trích dẫn ở trên, Cao Bá Quát bày tỏ niềm vui mừng ðýợc gặp Hoàng là ngýời có thể san sẻ nỗi lòng : “ Khói sóng muôn dặm, ta vẫn là ngýời khách lạ/Trãng gió ba xuân, nay ðýợc gặp ông ” (Vạn lý yên ba do tác khách/Tam xuân phong nguyệt thặng phùng quân). Trýớc nạn Tây xâm (Cao Bá Quát nói bóng là Tây phong), do ý thức “ ðồng vãn ðồng chủng ” (cùng vãn hoá và cùng chủng tộc), Cao Bá Quát xem số phận của ngýời Việt Nam và ngýời Trung Quốc không mấy khác nhau - thậm chí gắn liền với nhau. Chính do ý thức ðó nên ông ðã viết : “ Ta cũng là nhân vật cũ của Trung nguyên/Ngoảnh ðầu hýớng gió Tây, lệ tuôn lã chã ” (Ngã thị Trung nguyên cựu nhân vật/Tây phong hồi thủ lệ phân phân). Hoặc giả khi trông thấy ngýời Hoa ở Singapore ngồi xem diễn tuồng một cách vô tý nhý thể ðã quên cái nhục nhà Thanh thua trận trong chiến tranh Nha phiến, trong bài Dạ quan Thanh nhân diễn kịch trýờng (Ðêm xem ngýời Thanh diễn tuồng), Cao Bá Quát ðã trách họ nhý thể là trách ngýời cùng nýớc : “ Chuyện Hổ Môn gần ðây anh chẳng biết sao ? / Ðáng trách ai ngýời nghển mũi ngồi xem ! ” (Hổ Môn cận sự quân tri phủ/Thán tức hà nhân ủng tỵ khan). Theo lối nhìn của Cao Bá Quát, vì ngay chính Trung Quốc cũng phải thất bại ðau ðớn khi ðụng ðộ với Tây phýõng, sau chiến tranh Nha Phiến (“ Tự tùng Hán mã thông Tây khí ”) ở Ðông Á không còn nýớc nào có thể ngãn chận làn sóng Tây xâm hung hãn (“ cuồng ba ”). Bởi thế nên ông ðã viết : Giang hải thôi di thế mạc hồi, Chuyển di sông biển thế ngày nay, Y Xuyên dã tế sử nhân ai. Ðền miếu Y Xuyên ngẫm tủi thay ! Tự tùng Hán mã thông Tây khí, Từ ðộ tàu Tây hõn ngựa Hán, Thuỳ chýớng cuồng ba vạn lý lai ? Sóng cuồng muôn dặm tính sao ðây ? Hoặc giả : Bắc cố yên vân nhãn quyện khan, Ngùi trông phýõng Bắc khói mênh mang, Trung nguyên dĩ biến cựu y quan. Mũ áo Trung nguyên ðã ðổi màn, Mao ðầu nhất khí vô nhân thức, Cờ mao ðâu nhỉ, ai nào biết ? Dýõng hoá do thông Bá-lý-ðan. Bá-lý-ðan nay cũng nhập hàng ! Tuy nhiên, không phải Cao Bá Quát ðã hoàn toàn bi quan trýớc hiểm hoạ Tây xâm. Ông tin týởng là thiên nhiên sẽ có sức kỳ diệu xua ðuổi kẻ xâm lãng. Bởi vậy, Cao Bá Quát ðã kết thúc bài Hồng mao hoả thuyền ca nhý sau : “ Các ngýời chẳng thấy : Khi nýớc từ vũng Vỹ Lý rót vào tảng ðá Ốc Tiêu / Ngọn lửa khủng khiếp sẽ bốc lên ðến tận mây xanh / Khi kim nam châm của la bàn ði biển chỉ về hýớng Ðông thì hãy coi chừng / Thuỷ triều sớm chiều chả giống nhý ở biển Tây ðâu ! (Quân bất kiến : Vỹ Lý chi thuỷ hối Ốc Tiêu/Kiếp hoả trực thýợng thanh vân tiêu/Khai châm Ðông khứ thận tự giới/Bất tỷ Tây minh triêu mộ trào). Dịch thõ : Ngýõi chả thấy : Vỹ Lýu nýớc chảy, Chạm Ốc Tiêu lửa cháy bừng bừng, Mây xanh lên thẳng mấy từng, Về Ðông ngýõi hãy coi chừng tấm thân, Ngay nhý con nýớc xuống, dâng, Không nhý Tây hải, lần chần chuốc nguy ! Về danh từ Vỹ Lýu, thiên Thu thuỷ (thiên nổi tiếng nhất trong sách Trang Tử) có ðoạn nói nhý sau : muôn sông ðều chảy ra biển nhýng biển không bao giờ tràn nýớc ; ngýợc lại, nýớc biển chảy ra không ngừng qua lỗ thủng ở Vỹ Lýu mà nýớc biển chẳng có lúc nào cạn. Lời chú của Kê Khang trong bài Dýỡng sinh luận còn cho biết rằng khi nýớc từ Vỹ Lýu chảy dồn ðến một tảng ðá cực lớn gọi là Ốc Tiêu thì bốc cháy dữ dội, thiêu huỷ mọi vật. Ở ðây dĩ nhiên Cao Bá Quát muốn cảnh cáo ý ðồ bành trýớng sang Ðông Á của các nýớc Tây phýõng. Cũng cần nói thêm Kê Khang (223-262 sau CN) là ngýời nýớc Nguỵ thời Tam Quốc, tự là Thúc Dạ, nhân vật ðýợc nể vì nhất trong nhóm “ Trúc lâm thất hiền ”. Tuy làm quan ðến chức Trung tán Ðại phu, Kê Khang chịu ảnh hýởng của tý týởng Lão Trang, tính tình phóng khoáng, cầm, kỳ, thi, hoạ nghề gì cũng giỏi. Việc tác giả trích dẫn từ Trang Tử hay các ðiển cố ðýợm màu sắc Lão Trang thay vì lấy từ những kinh ðiển của Nho giáo nhý Tứ thý, Ngũ kinh cũng nói lên ðôi nét về diện mạo tý týởng cùng cá tính phóng túng, không muốn ép mình theo khuôn thýớc Nho giáo của Cao Bá Quát. Ý thức cảnh giác của Cao Bá Quát về sự hiện diện có tính cách dòm ngó của các chiến hạm Tây phýõng trên vùng biển Ðông Á hình nhý ðã ãn sâu vào tâm khảm của nhà thõ sau khi về nýớc. Trong bài Thập ngũ nhật ðại phong (Ngày rằm gió lớn) sáng tác sau một ðêm nghe tiếng sóng gầm từ cửa biển Thuận An vọng về kinh thành, Cao Bá Quát ýớc mõ sẽ có ngọn “ gió Ðông ” của Chu Du ngày trýớc sẽ ðuổi sạch chiến hạm Tây phýõng ra khỏi bờ cõi : Nhất dạ trýờng phong hám hải ðài, Ðêm qua sóng biển thét gầm vang, Thuận An môn ngoại lãng nhý lôi. Hải trấn rung mình -- cửa Thuận An ! Thiên thu thýợng tác Chu Lang khí, Ngàn thu nộ khí Chu Lang vẫn, Yếu ðả Hồng Mao cự hạm hồi ! Ðuổi bạt tàu Tây chạy ngút ngàn ! * Trên ðây chúng tôi ðã tìm hiểu mục ðích cụ thể của chuyến ði công vụ ở Hạ Châu nãm 1844 mà Cao Bá Quát là một thành viên. Trong nửa phần sau, chúng tôi ðã phác hoạ ðôi nét chính về những cảm nhận ban ðầu của Cao Bá Quát khi tiếp xúc với vãn minh Tây phýõng trong thời gian xuất dýõng. Ngoài những ðiểm mà chúng tôi ðã trình bày trên ðây, qua những bài thõ Cao Bá Quát sáng tác lúc xuất dýõng, chúng ta còn thấy tác giả ðã cảm nhận ðýợc vấn ðề kỳ thị chủng tộc trên các vùng ðất thuộc ðịa của ngýời da trắng. Nói cụ thể, ngýời Tây phýõng thì “ ngồi mát ãn bát ðầy ” trong khi ngýời dân da màu phải làm quần quật, thể hiện qua cảnh “ ngýời da ðen ðánh xe cho ngýời da trắng ” (cá cá ô nhân ngự bạch nhân). Qua chuyến xuất dýõng, Cao Bá Quát bừng tỉnh là trýớc ðây, khi còn ở trong nýớc tựa nhý ếch ngồi ðáy giếng, nào khác “ trông con báo mà chỉ thấy một vằn ” (ngu kiến chân thành báo nhất ban). Bởi thế, sau khi về nýớc, Cao Bá Quát ý thức ðýợc thói trọng từ chýõng, ýa hý vãn trong lối học cử tử bất quá chỉ là trò ðùa con trẻ : “Tân Gia từ výợt con tàu / Mới hay vũ trụ một bầu bao la / Giật mình khi ở xó nhà / Vãn chýõng chữ nghĩa khéo là trò chõi / Không ði khắp bốn phýõng trời / Vùi ðầu án sách uổng ðời làm trai”. Ðiều cần ðể ý là mãi hõn 70 nãm sau ðó, vào giữa thập niên 1910, sau nhiều nãm bôn ba hoạt ðộng ở hải ngoại và bị quân phiệt Trung Hoa bắt giam ở Quảng Ðông, Phan Bội Châu cũng ðã ghi lại trong Ngục trung thý tâm trạng thất vọng về tình hình giáo dục trong nýớc nói chung và cho chính bản thân cụ nói riêng : “ Tôi từ nhỏ tới lớn, vốn có tý chất thông minh, công phu ðèn sách giùi mài cũng không bê trễ, nhýng kết quả chẳng qua chỉ là sự học khoa cử mà thôi... Bà con ta muốn cỡi mây lýớt gió không thể nào không mýợn con ðýờng khoa cử, dầu ai có muốn chẳng theo thời ði nữa, cũng không có ðýờng học nào khác hõn mà ði. Than ôi ! Chổi cùn trong nhà, tự mình xem là của quý, sự ýa thích lâu ðời ðã thành thói quen thành ra rốt cuộc tôi cũng bị thời trang trói buộc ðến nỗi tiêu hao ngày tháng về nghiệp khoa cử gần hết nửa ðời ngýời. Ðó là vết nhõ rất lớn trong ðời tôi vậy ”. Tóm lại, qua những bài thõ Cao Bá Quát sáng tác trong thời kỳ xuất dýõng và sau khi về nýớc, ta thấy tác giả không chỉ là một nhà thõ ða tài mà còn là một trí thức mẫn cảm trýớc thời cuộc. Trên thực tế, Cao Bá Quát có lẽ là một trong số ít ngýời Việt Nam ðã cảm nhận rất sớm – ngay giữa thập niên 1840 – về mối hiểm hoạ Tây xâm và chế ðộ khoa cử lỗi thời chỉ dựa trên từ chýõng và hý vãn. Những vấn ðề này sẽ tiếp tục là ðề tài nóng bỏng ðối với ðất nýớc trong suốt hõn một thế kỷ sau ðó. Những nhận thức và nỗi bức xúc trong Cao Bá Quát dĩ nhiên chýa výợt khỏi phạm vi cảm tính. Nguyên nhân suy yếu của ðất nýớc và con ðýờng canh tân sẽ ðýợc Nguyễn Trýờng Tộ (1830-1871), một nhân vật có sở học uyên bác mà không bị trói buộc bởi lối học khoa cử, trình bày cụ thể và có mạch lạc qua các bản ðiều trần của ông gởi cho triều ðình trong thập niên 1860. Ðiều thật ðáng tiếc là những lời ðiều trần ðầy tâm huyết của nhà trí thức nhìn xa thấy rộng nhất ở Việt Nam vào hậu bán thế kỷ XIX này, vì bị ðình thần nghi ngờ và ðố kỵ cũng ðã không thay ðổi ðýợc gì vận mệnh của ðất nýớc. Trong chữ Hán, danh từ “ tiên giác ” dùng ðể chỉ ngýời thấy sớm hõn những ngýời cùng thời các sự việc chýa xảy ra. Tiên ðoán về tiền ðồ u ám của ðất nýớc ngay vào giữa thế kỷ XIX, Cao Bá Quát ðáng ðýợc xếp vào trong số những nhà tiên tri tiên giác rất hiếm hoi ở Việt Nam vào thời ðiểm ðó. Ở Nhật Bản, sau khi bốn chiến hạm của ðề ðốc Hoa Kỳ Matthew Perry ðến yêu cầu chính quyền Tokugawa bakufu mở cửa giao thýõng (1853), tình hình chính trị ở Nhật Bản trở nên vô cùng xáo ðộng. Yoshida Shôin (Cát-ðiền Tùng-âm ; 1830-1859) là nhà tiên giác (senkakusha) hàng ðầu ở Nhật Bản. Sinh bình, Shôin là một chí sĩ thýờng quan tâm ðến hiểm hoạ Tây xâm. Dýới danh nghĩa phò Thiên hoàng, Shôin hô hào lật ðổ chính quyền Tokugawa nhằm ðối phó với tình hình khẩn trýõng lúc ðó. Sau khi việc mýu sát sứ giả của chính quyền Tokugawa ở Kyoto mà Shôin có tham gia bị thất bại, ông bị hạ ngục và hành quyết nãm 1859 – 5 nãm sau khi Cao Bá Quát bị hành quyết ở Mỹ Lýõng. Phải chãng sự trùng hợp ðầy tính bi kịch giữa hai nhà tiên giác Cao Bá Quát và Yoshida Shôin chỉ có tính cách ngẫu nhiên ? Ðông chí, 2003 Vĩnh Sính Giáo sý Sử học ðại học Alberta - Canada Ðã ðãng trong Diễn Ðàn
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 20, 2008 6:28:19 GMT 9
“Những bức hình này được thiết kế bởi Liu Young, một người sinh tại Trung Quốc và theo học tại Đức. Tôi cảm thấy những bức hình này hay ngang, thậm chí có khi còn hay hơn bất kỳ quyển sách dạy về văn hoá nào mà tôi đã từng đọc. Chỉ có duy nhất một bức tôi không thật đồng tình là bức về cách giải quyết vấn đề. Có vẻ như nó ám chỉ rằng bằng cách đi lòng vòng quanh vấn đề, bạn cũng có thể giải quyết được vấn đề và cũng đến đích được. Tôi không tin vào điều này. Còn bạn, bạn nghĩ gì về những bức hình này?” (The pictures were designed by Liu Young who was born in China and educated in Germany. I feel these pictures are as good as or even better than any book I have read on cultural understanding. The only picture I slightly disagree with is the one that shows problem solving. It implies that by walking round a problem you can solve it and reach the same destination which I don’t believe is true. What do you feel about the below pictures.) (Kalid Muhmood, co-founder of Appolo) Xanh --> Phương Tây Blue --> Westerner Đỏ --> Á Đông Red --> Asian Quan điểm/ Opinion Cách sống/ Way of life Đúng giờ/ Punctuality Giao thiệp/ Contacts Tức giận/ Anger Xếp hàng đợi/ Queue on waiting Phố phường ngày Chủ nhật/ Sundays on the road Tiệc tùng/ Party Trong nhà hàng(am thanh,tan so an uong)/ In the restaurant Du lịch/ Traveling Giải quyết vấn đề/ Handing of problem Ba bữa một ngày/ Threes meals a day Phương tiện giao thông/ Transportation Cuộc sống của người già/ Elderly in day to day life Tâm trạng và thời tiết/ Moods and weather Sếp/ The boss Khuynh hướng / What’s Trendy Trẻ em/ The child
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 7, 2009 5:32:07 GMT 9
Ngôn Ngữ Của Cử Chỉ Bạn có biết 60 phần trăm sự giao tiếp của chúng ta không dùng đến lời nói. Con người trên khắp thế giới dùng hai bàn tay, đầu, mắt và cơ thể để truyền đạt một cách biểu cảm những suy nghĩ của mình, vậy làm thế nào giao tiếp bằng cử chỉ có thể so sánh với giao tiếp ngôn từ, theo George du Maurier thì " Ngôn ngữ nói là một thứ tín hiệu nghèo nàn. Bạn cho gió vào đầy phổi và rung một khe nhỏ trong cổ họng mình, và bạn uốn éo mồm miệng để làm rung luồng không khí, và luồng không khí đó làm rung cặp màng nhỏ trong đầu tôi....và óc tôi nắm được ý định của bạn một cách đại khái Thật vòng vo và phí thời gian biết bao"....người ta có thể thấy rằng ngôn ngữ của cử chỉ có thể lập tức được truyền đạt, đó là những con đường tắt...và ảnh hưởng thì trực tiếp trên cuộc sống chúng ta. Cử chỉ đầu tiên mà chúng ta có thể bắt gặp hàng ngày CHÀO HỎI Nếu cái bắt taychặt chẽ kèm với ánh mắt nhìn thẳng là kiểu chào chuẩn mực ở Hoa Kỳ, thì ở Nhật cử chỉ cúi đầu duyên dáng lịch sự và trang trọng là kiểu chào truyền thống của người Nhật, những người cha ở Ấn độ dạy con mình cử chỉ namaste, hai tay áp vào nhau trong tư thế cầu nguyện, để cao tầm ngực, và hơi cúi đầu, nó cũng có nghĩa là " Cám ơn" hay " Xin lỗi". Còn ở Thái Lan, củ chỉ dịu dàng và nhã nhặn này được gọi là wai, tuy nhiên hãy cẩn thận đấy nếu vì sơ ý hay quá phấn khởi mà đưa hai tay chắp lên quá đầu, có thể hiểu lầm là sự lăng mạ. Ở Trung Đông, người ta vẫn thấy người lớn tuổi làm cử chỉ salaam, bàn tay phải đưa lên phía trên, trước tiên chạm vào ngực, rồi chạm vào trán rồi cuối cùng đưa lên cao và hướng ra, đồng thời đầu gật nhẹ, lời nói đi kèm kiểu chào này là salaam alaykum, nghĩa là " Chúc bạn bình an", còn bắt tay người người Trung Đông dạy con họ " khi bắt tay, hãy nắm cho nhẹ nhàng, đừng siết chặt, siết chặt biểu lộ tính hiếu thắng, hung hăng"...đúng là mỗi nền văn hóa mỗi kiểu...phải không you. Một kiểu chào salaam khác được tìm thấy ở Malaysia là: người ta đưa hai bàn tay ra, chạm vào các đầu ngón tay của người kia , rồi đưa tay về chạm vào ngực ( nhớ đừng làm thế với nguời khác phái...hihihi). Tại các nước Châu Mỹ La Tinh kiểu chào abrazo được hiểu là một cái ôm siết, nghĩa là ôm hôn, nó thường đi kèm với cái vỗ nồng nhiệt vào lưng .... CỬ CHỈ LĂNG MẠ Chỉ xin được kể đến một cử chỉ lăng mạ phổ biến và lâu đời nhất ....đó là cử chỉ thuộc về "ngón giữa" (the finger), cử chỉ này được thực hiện bằng cách giơ nắm tay lên, các mấu khớp ngón tay xoay ra ngoài, ngón giữa duỗi thẳng chỉ lên, cử chỉ này có thể ở thể tĩnh, bất động, hoặc đi kèm với động tác đẩy lên . Bất kể " kiểu chào một ngón " này được cách điệu ra sao, cái ý nghĩa lăng mạ mạnh mẽ của nó thật khó mà hiểu sai được. Người La Mã thậm chí còn đặt cho nó cái tên rất đặc biệt bằng tiếng La Tinh " digiyus impudicus " có nghĩa là " ngón tay xấc láo " (impudent digit) DẤU HIỆU " O.K" smile Dạng nói OK có lẽ xuất phát từ Mỹ năm 1840, đối với người Mỹ, đây là cử chỉ có nghĩa " Tốt", nhưng với ngưòi Đức nó được hiểu là " Đồ ngu" hay " Đồ đáng khinh", ở Châu Mỹ La Tinh nó thì tương đương với câu chửi " Đ.m ...", còn ở Pháp hiểu như là " zero" hay " Vô giá trị". Ở Nhật vòng tròn hình thành bởi ngón cái và ngón trỏ là dấu hiệu của tiền bạc ...rõ ràng cử chỉ OK mà người Mỹ và nhiều nước khác sử dụng thật chẳng OK chút nào ......cẩn thận khi sử dụng đấy....hihihi NGÓN CÁI CHỈ LÊN smile Nguồn gốc cử chỉ này có từ thời các kiếm thủ La Mã, những kẻ nhận được " ngón cái chỉ lên " từ bàn tay hoàng đế hay quần chúng, dấu hiệu cho biết họ được sống vì đã can đảm hay dũng mãnh, " ngón cái chỉ xuống" có nghĩa ngược lại, và là bản án tử thần cho người dũng sĩ thua cuộc. Hầu như đây là dấu hiệu phổ biến khắp Bắc Mỹ và nhiều nơi ở Châu Âu, diễn tả " Mọi thứ' đều OK" hay "Tốt" hoặc " Ổn thỏa" và cả tá thông điệp khác tương tự. Ở Mỹ còn được hiểu như là ai đó muốn đi nhờ xe, nhưng khi ở Nigeria bạn chớ dại dột làm cử chỉ này ....nếu không muốn bị bầm giập ....vì tội lăng mạ người khác .....hihihihi. Ở Úc ra dấu bằng chỉ ngón cái lên trời và giật nhẹ lên một lần là dấu hiệu bạn muốn nói " Đ.m" Nếu thích đếm ngón tay, ......khi bùn bùn hihihihi, hãy cẩn thận khi đang ở nước ngoài vì bạn có thể gây ngộ nhận. Ví dụ như ở Đức, để ra dấu một người ta dùng ngón cái chỉ lên thay cho ngón trỏ, vì ngón trỏ ở đây có nghĩa là hai . Nhật : bắt đầu đếm với ngón trỏ để ra hiệu là một và ngón giữa là hai, ngón đeo nhẫn là ba, ngón út là bốn, và ngón cái là năm ......Nếu có đi du lịch ở Đức đừng giơ ngón trỏ khi bạn chỉ muốn một chai bia ......họ sẽ tưởng bạn đòi haiiiiii CHỮ " V" CHIẾN THẮNG Đây là dấu hiệu "Chiến thắng" hay " Hòa bình" đối với hàng triệu người" . Nhưng tại Anh nếu bạn để lòng bàn tay và các ngón tay quay vào trong, nó...... sẽ giống ngón giữa nhưng mạnh nghĩa gấp đôi, nhất là các ngón tay thọc lên phía trện. Winston Churchill là người đã dùng chữ V chiến thắng để diễn tả lòng can trường trong thế chiến thứ II, nó trở nên gắn bó với Ông đến độ ....ta thấy các sách lịch sử ngày nay luôn cho thấy ông đang tự hào giơ cao dấu hiệu đó, nhưng chú ý là lòng bàn tay ông hướng ra ngoài .....có lẽ cũng từ đó mà ngày nay ...người Pháp, Mỹ và người ở những nước khác đều dùng chữ " V" ( lòng bàn tay hướng ra ngoài) diễn tả dấu hiệu " Chiến thắng " hay " Hòa bình", ..... àh nhắc bạn đừng xoay lòng bàn tay vào trong ở Anh, nếu không muốn đổ máu ......hì`hì`hì`hì` CẶP SỪNG DỰNG ĐỨNG Khi hai ngón tay út và trỏ được duỗi thẳng, lòng bàn tay hướng ra ngoài, đa số dân Texas biết cử chỉ này nó được hiểu là một cử chỉ, cỗ vũ, tập hợp . Còn ở Ý nó được hiểu là bạn đang bị "Cắm sừng" hay " Lừa dối " " Ngu ngốc" ..nói lịch sự hơn là " Người bạn đời của bạn không chung thủy" bạn cũng có thể thấy ở đây " Cặp sừng" được dùng như một phương tiện để tránh tà ma. Còn ở Brazil và Venezuela nó được hiểu là sự "May mắn" ĐẦU, MẶT VÀ TAI smile Đầu và mặt là những phần cơ thể biểu cảm và gây ấn tượng nhiều nhất .....nào xem ..thấy một khuôn mặt hân hoan , choáng váng, buồn bã, tự tin mệt mỏi, ngạc nhiên, nghi ngơ, chán nản, xảo quyệt ....yeahhhh ......chúng ta dùng đầu để chuyển đi hàng chục thông điệp.......tất cả chúng ta đều biết gật đầu lên và xuống có nghia là được ( phải, đúng, vâng) và lắc đầu có nghĩa là không. Nhưng tại Bulgaria, nhiều nơi ở Hy Lạp, Nam Tư, Thỗ Nhĩ Kỳ, Iran và Bengal thì trái lại : gật đầu có nghĩa là không, và lắc đầu có nghĩa là có .....khó nhỉ, thử xem " lắc đầu" hihihi tôi đang đồng ý với bạn ..... Mắt : Người Mỹ, Canada, Anh, Đông Âu .. thích những quan hệ " diện đối diện", phụ nữ Tây ban nha thường tiếp xúc bằng mắt lâu hơn các Phụ nữ nước khác, nhưng ở Đông Phương, thì lại tránh tiếp xúc trực tiếp bằng mắt . Ở Nhật, Triều Tiên, Thái Lan nhìn ai chằm chằm được coi là thô lỗ, nhìn lâu và thẳng vào mặt ai là bất lịch sự, thậm chí là đe dọa. Ơ Mỹ dùng ngón trỏ liên tục vẽ vòng tròn quanh phía ngoài tai, nó có nghĩa ai đó hay cái gì đó là " Khùng". Ở Argentina có nghĩa là " Anh có một cú điện thoại ".........................hì hì hì mệt wá ....... ngồi thở......hi
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 24, 2009 10:32:30 GMT 9
Thời Hùng Vương tổ tiên ăn mặc thế nào?Tác giả: Nguyễn Vũ Tuấn Anh Bài đã được xuất bản.: 08/12/2009 Sao cứ bắt tổ tiên phải cởi trần đóng khố? Xin đừng hiểu về trang phục của tổ tiên như thế! TRONG MỤC NÀY Để sàn vàng hoạt động tốt hơn Dư luận đa chiều quanh chuyện ăn mặc của tổ tiên Giải quyết tranh chấp Biển Đông trong mắt học giả Trung Quốc (Đọc thêm...) Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến trải gần 5000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. LTS: Thời Hùng Vương, tổ tiên chúng ta ăn mặc thế nào đang là câu chuyện gây nhiều tranh cãi. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam xin giới thiệu bài viết của nhà nghiên cứu Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Có thể một vài thông tin trong bài cần được thảo luận thêm. Nhà Xuất Bản Giáo Dục đã cho phép in cuốn sách minh họa hình ảnh tổ tiên ta vào thời An Dương Vương ăn mặc như thời mông muội trong lịch sử nhân loại: Chung quanh người chỉ cuốn lá cọ. Mà vào thời đại tương đương với thời gian lịch sử ấy, có thể nói rằng: Hầu hết các dân tộc khác trên mặt địa cầu này đã có một nền văn minh phát triển. Điều này khiến tôi có thể chắc chắn rằng: Không phải chỉ một mình tôi cảm thấy đau lòng vì sự miêu tả tổ tiên một cách thấp kém của những cuốn sách truyện loại này. Một trào lưu hạ thấp giá trị cội nguồn dân tộc Tôi không có thành kiến riêng với người họa sĩ minh họa cho bộ chuyện tranh này. Anh ta chỉ là một trong rất đông người nằm trong trào lưu của quan điểm phủ nhận những giá trị truyền thống về cội nguồn trải gần 5000 năm văn hiến của dân tộc Việt. Cách đây không lâu trong cuộc thi thể hình ở Đài Loan, Nguyễn Tiến Đoàn - mệnh danh là Hoa vương của cuộc thi - cũng đã ăn mặc như truyện tranh trên miêu tả và hiên ngang phát biểu trước tất cả các đại diện thi thể hình nam của các dân tộc trên thế giới: "Đây là y phục dân tộc truyền thống của dân tộc Việt". Điều này khiến tôi - người viết bài này thấy nghẹn ngào khi y phục truyền thống của các dân tộc khác trên thế giới rất đẹp và chứng tỏ họ là một dân tộc văn minh. Còn hình ảnh y phục truyền thống dân tộc Việt, theo như Nguyễn Tiến Đoàn công bố thì chỉ "Ở trần đóng khố"!?. Sự việc cũng không chỉ mới ở Nguyễn Tiến Đoàn và truyện tranh "An Dương Vương và nhà nước Âu Lạc". Từ năm 1996, Nxb Trẻ cũng in một bộ truyện "Lịch sử Việt Nam bằng tranh", khi miêu tả về thời Hùng Vương thì chúng ta cũng lại chỉ gặp hình ảnh những người dân "ở trần đóng khố". Dưới đây là hai hình minh họa của bộ truyện tranh "Lịch sử Việt Nam bằng tranh" về y phục thời Hùng Vương: Vua Hùng và các quan lang (Lịch Sử Việt Nam bằng tranh - tập III. Nxb Trẻ 1998. Vua Hùng và Chử Đồng Tử (Lịch sử Việt Nam bằng tranh - Nxb Trẻ - 1998. Những bài viết về y phục dân tộc thời Hùng Vương miêu tả như những con người sống ở thời bán khai, nhan nhản, có thể không khó khăn lắm khi tìm những tài liệu này rải rác trên báo chí và sách, mạng...và ngay cả trong sách giáo khoa phổ biến từ trước 2004 từ cấp I đến Đại học. Quan niệm về một hình ảnh thấp kém của tổ tiên không còn là một suy nghĩ riêng lẻ, một thứ tư duy lạc loài mà người ta quen gọi là "hiện tượng cá biệt". Nó đã trở thành một tư duy khá phổ biến. Họ đã căn cứ vào đâu để có một nhận định như vậy về y phục dân tộc Việt thời Hùng Vương? Có thể xác định rằng: Không hề có một căn cứ khoa học nào hết. Nhưng ngược lại, tôi có thể xác định rằng: Người Việt thời Hùng Vương đã có một nền văn minh rực rỡ, xứng đáng với danh xưng văn hiến trải gần 5000 năm, một thời huyền vĩ bên bờ nam sông Dương Tử. Nhưng bằng chứng mà tôi trình bày dưới đây, xác định quan điểm này. Y phục thời Hùng Vương - cội nguồn lịch sử 5000 năm văn hiến Việt 1 - Y phục giới bình dân Để chứng minh cho nhận định trên, bạn đọc so sánh những bức vẽ minh hoạ, những hình ảnh di vật khảo cổ và những luận cứ được trình bày sau đây: Hình trên được chép lại từ cuốn "Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ 20" (Nxb Trẻ 1989 - Nguyễn Mạnh Hùng giới thiệu). Đây là công trình sưu tầm của một học giả người Pháp có tên là Henri Joseph Oger. Nói một cách khác, ngay ở thế kỷ 20 này người ta vẫn ở trần đóng khố, nhưng đó không phải là y phục phổ biến trong sinh hoạt xã hội ở thời gian này. Hình lớn trong trên đây mà bạn đang xem là bức tranh dân gian nổi tiếng: "Đánh ghen", thuộc dòng tranh dân gian của làng Đông Hồ. Đó là bức tranh giàu tính nhân bản, thể hiện ở hình người con chắp tay lạy cha mẹ. Hình ảnh hai người phụ nữ trong tranh tuy không thuộc thời Hùng Vương, nhưng bạn đọc có thể so sánh với bức tranh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở góc trên bên trái, được in lại trong cuốn "Lịch sử Việt Nam bằng tranh" (Nxb Trẻ 1996, tập 3). Chắc chắn bạn sẽ ngạc nhiên về sự tương tự của người phụ nữ trong hai tranh. Đương nhiên bức tranh minh họa trong cuốn "Lịch sử Việt Nam bằng tranh" không phản ánh sự thật về y phục phổ biến trong sinh hoạt của thời Hùng Vương. Bởi vì nó không thể liên hệ được sự giống nhau trong khoảng cách gần 2000 năm theo quan điểm lịch sử mới về y phục thời Hùng Vương mà họ miêu tả với bức tranh dân gian Việt. Ngược lại, chúng ta so sánh y phục trong bức tranh "Đánh ghen" và y phục dân tộc truyền thống của phụ nữ miền Bắc với hình người trên cán dao bằng đồng trong hình mô tả dưới đây: Minh họa: Thiên Sứ Ảnh Tượng chùa Dâu: Thiên Sứ; Ảnh người phụ nữ nông thôn: Võ An Ninh. Hình trên mà các bạn đang xem là một cụm hình, được ghép bởi hình chiếc cán dao bằng đồng từ thời Hùng Vương - có niên đại được xác định là 300 năm tr.CN, được tìm thấy ở Lãng Ngâm - Hà Bắc - trên có tạc người phụ nữ với y phục thời Hùng Vương và hình vẽ miêu tả y phục của một phụ nữ miền Bắc (Ảnh Võ An Ninh) và ảnh Tượng chùa Dâu, do người viết ghép lại thành cụm hình để tiện so sánh. Kiểu y phục của hình vẽ này tuy không còn phổ biến, nhưng bạn vẫn có thể gặp ở một bà già cao tuổi sống trong một vùng nông thôn xa thành thị nào đó ở miền Bắc Việt Nam, ngay trong năm 2009 này. Đó là thế hệ cuối cùng nằm trên võng ru con, bằng cách kể lại những câu chuyện cổ tích từ thời xa xưa và truyền thuyết về một nước Văn Lang - nơi cội nguồn của người Việt - trước khi nhường lại cho những phương tiện thông tin đại chúng và những người nghiên cứu thông thái nói lại về những câu chuyện của họ. Qua hình ảnh minh họa đã trình bày với bạn đọc ở trên, chúng ta cũng nhận ra sự trùng khớp hoàn toàn bởi những đường nét chính giữa y phục trên cán dao đồng và y phục của người phụ nữ Việt hiện đại còn mặc, tuy không còn phổ biến. Điều này chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: Y phục của người phụ nữ miền Bắc còn mặc hiện nay chính là sự tiếp nối truyền thống y phục từ thời Hùng Vương thể hiện trên chiếc cán dao đồng. Đồng thời sự so sánh này cũng cho thấy: Từ 2300 năm qua trở lại đây - về căn bản - hình thức y phục phổ biến trong dân gian không có sự thay đổi đáng kể. Như vậy, có thể khẳng định: Dưới thời Hùng Vương, ông cha ta đã có những y phục phổ biến trong giới bình dân, tương tự như y phục dân tộc còn tồn tại ở các vùng thôn quê Việt Nam. Qua đó, chúng ta cũng nhận thức được rằng: Y phục của tầng lớp bình dân trong xã hội thời Hùng Vương đã mang tính văn hoá đặc thù của dân tộc Việt và xã hội này phải có một nền văn minh phát triển để chế tác ra những cấu trúc y phục cầu kỳ đó. Chúng ta tiếp tục tìm hiểu về y phục của tầng lớp trên trong xã hội Việt thời Hùng Vương. 2 - Y phục tầng lớp trên trong thời Hùng Vương Tất nhiên, khi mà trang phục phổ biến của các tầng lớp bình dân đã hoàn chỉnh và đa dạng thì y phục của tầng lớp trên cũng phải phù hợp với đẳng cấp của nó vì sự trang trọng và việc thực hiện những nghi lễ quốc gia văn hiến. Để chứng minh điều này, bạn đọc tiếp tục xem xét các vấn đề và hiện tượng được trình bày sau đây: Hình trên mà bạn đọc đang coi được chép lại từ bộ truyện tranh "Tam quốc diễn nghĩa" do chính các họa sĩ Trung Quốc thực hiện, Nxb Mũi Cà Mau in lại vào năm 1995, trọn bộ 30 tập. Đây là hình thứ 3795 trong tập 16. Hình người nổi bật trong tranh bên chính là Tôn Quyền (Thế kỷ II và III sau CN). Hình người phụ nữ ở giữa cụm tranh này chính là Tôn Phu Nhân, em gái Tôn Quyền, vợ Lưu Bị cũng được chép lại từ bộ truyện tranh trên. Bạn hãy so sánh y phục của tất cả những nhân vật Tam Quốc, thể hiện nền văn hoá Hán trong các tranh trên với hình người trên cán dao bằng đồng của thời Hùng Vương có trước đó 500 năm (Tư liệu trong sách "Thời đại Hùng Vương" Nxb Khoa học Xã hội Hà Nội 1995). Bạn sẽ thấy một sự tương tự trong y phục. Chỉ có khác chăng là tay áo thụng của các nhân vật Tam Quốc và tay áo bó của hình người trên cán dao đồng, còn phần y phục gần như hoàn toàn giống nhau. Nếu như y phục của các bậc vương giả thời Tam Quốc không phải là bắt chước y phục thời Hùng Vương, thì chắc chắn y phục của cô gái ở trên cán dao đồng thời Hùng Vương không thể bắt chước các nhân vật Tam Quốc. Bởi vì, chiếc cán dao này có niên đại trước thời Tam Quốc ít nhất 500 năm. Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây. Về y phục của tầng lớp trên trong xã hội Văn Lang, người viết xin được trình bày một đoạn trích dẫn trong kinh Thư. Kinh Thư là một trước tác từ trước đến nay vẫn được coi là sản phẩm của nền văn minh Trung Hoa, nhưng lại có rất nhiều dấu ấn chứng tỏ thuộc về nền văn minh Văn Lang. Dấu ấn đầu tiên của người Lạc Việt trong Kinh Thư được chứng minh trong sách "Thời Hùng Vương qua truyền thuyết và huyền thoại" (Nguyễn Vũ Tuấn Anh. Nxb Văn Hoá Thông Tin tái bản lần thứ 2 - 2002) chính là Hồng phạm cửu trù, bản hiến pháp đầu tiên của người Lạc Việt. Đoạn trích dẫn sau đây liên quan đến y phục dân tộc thời Hùng Vương được trích trong cuốn "Thượng Thư - sách ghi chép thời thượng cổ" (bản dịch Võ Ngọc Liên, Trần Kiết Hùng. Nxb Đồng Nai 1996, trang 156): "Ba loại như mặt trời, mặt trăng, các vì tinh tú thì làm tinh kỳ, rồng chỉ y phục của vua, hổ chỉ y phục của đại thần theo sự phân biệt ba loại y phục khác nhau: cổn miện (của vua), tệ miện, tuyệt mịch. Tên của ba loại quần áo là dựa vào hình vẽ trên y phục mà gọi, như "cổn" thì có long cổn, cổn miện có chín bậc trong đó có long cổn đứng đầu. Tệ tức là chim trĩ, tệ triều có bảy loại trong đó có hổ đứng đầu". Qua đoạn văn trên, bạn đọc nhận thấy rằng "cổn miện" (tức là mũ của vua) có chín bậc, trong đó long cổn đứng đầu; "tệ miện tức là cái mũ có hình chim trĩ". Về hình ảnh mũ có hình tượng rồng của vua và mũ có hình chim trĩ của các quan - Oái oăm thay - nó lại được chứng tỏ trên trống đồng của nền văn minh Văn Lang. Qua hình trên, bạn đọc cũng dễ dàng nhận thấy, trên mũ của những hình người trên trống đồng này thể hiện chiếc đầu rồng và đầu chim phượng đã được cách điệu để chứng tỏ địa vị của người đó trùng hợp với văn bản của Kinh Thư. Nếu như hình vẽ trên trống đồng và những vấn đề y phục của vương triều nói trên trong Kinh Thư chỉ là một lần trùng hợp duy nhất thì có thể coi đó là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nhưng vấn đề lại không phải đơn giản như vậy! Khi mà một thiên được coi là quan trọng nhất của kinh Thư: Thiên Hồng phạm, lại hoàn toàn mang nội dung của người Lạc Việt và một lần nữa cũng không chỉ dừng lại ở đấy. Người viết xin được đặt vấn đề để các bậc trí giả minh xét với đoạn trích dẫn sau đây (Việt Lý Tố Nguyên, Kim Định 1971): "Trong mấy thiên đầu kinh Thư chữ "Viết" cũng đọc và viết là "Việt". "Viết nhược kê cổ" cũng là "Việt nhược kê cổ". Các nhà chú giải lâu đời nhất như Mã Dung và Khổng An Quốc cũng chỉ giải nghĩa rằng đó là câu nói giáo đầu (phát ngữ từ) nhưng không đưa ra lý do tại sao lại dùng câu đó, tại sao chữ viết với Việt lại dùng lẫn lộn... Vì thế mà có câu lập lờ mở đầu "Việt nhược kê cổ". Cả Mã Dung lẫn Khổng An Quốc đều cho chữ "nhược" là thuận, chữ "kê" là khảo. Và, câu trên có nghĩa rằng: "Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa". Nếu nói "Viết nhược kê cổ" thì ra câu văn thiếu chủ từ. Còn khi thay vào bằng chữ Việt thì có chủ từ là người Việt, nhưng phải cái phiền là ghi công người Việt vào đầu kinh Thư không tiện, nên cho rằng chữ "Việt" với "Viết" như nhau..." Qua phần trích dẫn của ông Kim Định, người viết không cho rằng: "Việt nhược kê cổ" tức là "Người Việt thuận theo ý vua xin kê cứu việc cổ xưa" và càng không thể là người Việt có công chép lại Kinh Thư cho nền văn minh Trung Hoa. Từ những sự phân tích trên, hoàn toàn có cơ sở để đặt một dấu hỏi hoài nghi về nguồn gốc đích thực của Kinh Thư. Và câu trên có thể hiểu là: "Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt". Như vậy, với những dấu chứng của văn minh Văn Lang trong kinh Thư; hoàn toàn không thể cho rằng: Y phục của các vị vua thời Nghiêu, Thuấn trùng hợp một cách ngẫu nhiên với những hình ảnh trên trống đồng. Hiện tượng này chỉ có thể giải thích một cách hợp lý rằng: Y phục của vương triều được nhắc tới trong Kinh Thư, chính là y phục của vương triều Văn Lang. Việc gán ghép cho vua Nghiêu, Thuấn chế tác ra y phục cũng giống như sự gán ghép những học thuật của văn minh Văn Lang cho các vị vua cổ đại Trung Hoa, khi những hình ảnh của y phục vương triều lại được thể hiện trên trống đồng Lạc Việt. Kinh Thư chính là cuốn "Lược khảo những câu chuyện cổ của người Việt" mà điều này đã ghi rõ ngay trên câu đầu của cuốn sách "Việt nhược kê cổ" và nội dung của nó hoàn toàn trùng khớp với hình ảnh trên trống đồng của nền văn hóa Việt đã trình bày. Nếu theo quan niệm mới cho rằng: Thời Hùng Vương chỉ tồn tại khoảng vài trăm năm (thế kỷ thứ VII tr.CN) và địa bàn nước Văn Lang chỉ vỏn vẹn ở miền Bắc Việt Nam, thì sẽ không thể liên hệ và có sự minh chứng một cách chặt chẽ về sự liên quan giữa y phục trên trống đồng Lạc Việt với vương triều của vua Nghiêu (khoảng 2000 tr.CN theo bản văn chữ Hán) thể hiện trong Kinh Thư, bởi một khoảng cách hàng vạn dặm về địa lý và hàng thiên niên kỷ về thời gian. Trở lại vấn đề y phục, qua sự so sánh trên cho thấy: Sự có mặt của vua Nghiêu (2253 tr.CN) trong việc quy định y phục vương triều, gắn với hình ảnh trên trống đồng Lạc Việt (là một di vật khảo cổ), đã chứng tỏ một cách sắc sảo rằng: nền văn minh Văn Lang không những đã chế tác ra y phục phổ biến cho con người trong xã hội, mà ở tầng lớp trên đã có những y phục thể hiện sự trang trọng trong nghi lễ quốc gia và sự phân biệt ngôi thứ. Điều này minh chứng bổ sung cho những vấn đề được đặt ra ở những phần trên và có sự liên hệ tiếp nối như sau: * Hình người trên trống đồng mà giáo sư Nguyễn Khắc Thuần viết trong "Thế thứ các triều đại Việt Nam" cho rằng: "Hình người đang múa" thực ra đây là hình ảnh thể hiện những người đứng đầu nhà nước Văn Lang đang thực hiện những nghi lễ quốc gia. Điều này được minh chứng qua hình ảnh đầu rồng và đầu chim phượng trên những chiếc mũ của các ngài đang đội. * Từ đó đặt vấn đề: Hình chữ nhật được cách điệu trên tay các ngài chính là những văn bản được đọc trong khi hành lễ. Tính văn bản được chứng tỏ bằng nếp gấp phía trên góc hình chữ nhật. Giả thuyết này bổ sung việc minh chứng cho sự tồn tại một hệ thống chữ viết của người Lạc Việt. * Sự tồn tại hình ảnh những người đứng đầu nhà nước Văn Lang trên trống đồng là: Vua: đội mũ có hình đầu rồng; đại thần: đội mũ gắn hình chim phượng, đã khẳng định sự tồn tại một nhà nước có tổ chức chặt chẽ ở thời cổ đại, tương tự như các quốc gia cổ đại hùng mạnh khác vào thời bấy giờ. Chính những y phục đã tồn tại hàng thiên niên kỷ trước Công nguyên trong nền văn minh Văn Lang, đã trở thành căn nguyên cho bản sắc văn hóa thể hiện trong y phục truyền thống của người Việt Nam hiện nay. Những lập luận và hình ảnh minh họa về y phục thời Hùng Vương ở trên được bổ trợ bằng một phát hiện của ngành khảo cổ như sau: 19.2.1.1 Trước hết, đó là tơ tằm. Cùng với nghề trồng lúa, nghề tằm tang có từ rất sớm. Trong những di chỉ khảo cổ thuộc hậu kỳ đá mới cách đây khoảng 5000 năm (như di chỉ Bầu Tró), đã thấy có dấu vết của vải, có dọi xe chỉ bằng đất nung. Đến giai đoạn Đông Sơn (cách nay khoảng 3000 - 2500 năm), hình người trên trống đồng đều mặc áo, váy và đóng khố. Cấy lúa và trồng dâu, nông và tang - đó là hai công việc chủ yếu luôn gắn liền nhau của nền nông nghiệp Việt Nam. Người Hán từ xưa cũng luôn xem đó là hai đặc điểm tiêu biểu nhất của văn hóa phương Nam: đó chính là hai đặc điểm đầu tiên mà Từ Tùng Thạch kể đến trong cuốn Việt giang 178 lưu vực nhân dân (Kim Định 1971a: 108); trong chữ "Man" mà người Hán dùng để chỉ người phương Nam có chứa bộ trùng chỉ con tằm. (Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam - Trần Ngọc Thêm). Trong sách Luận ngữ, thiên Hiến vấn, khi nhận xét về vai trò của Quản Trọng đối với nước Tề và ảnh hưởng của nó tới xã hội Trung Hoa, chính Khổng Tử đã nói: "Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải búi tóc và vắt vạt áo bên tả như người Man Di" Bạn đọc có thể tìm thấy câu nói đã dẫn của Khổng Tử ở trên trong hầu hết các sách dịch ra Việt ngữ liên quan đến Luận Ngữ, như: "Luận Ngữ - thánh kinh của người Trung Hoa". Nxb Đồng Nai 1996, Hồ Sĩ Hiệp biên soạn, Trần Kiết Hùng hiệu đính, trang 208; hoặc ngay trong cuốn "Lịch sử văn minh Trung Hoa". tác giả Witt Durant, do Nguyễn Hiến Lê dịch. Nxb Văn Hoá Thông Tin - 1997. trang 32) ... Quản Trọng - tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu - sống vào giai đoạn đầu thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên, không rõ năm sinh, mất năm 654 tr.CN, người đưa nước Tề trở thành một cường quốc, bá chủ các chư hầu nhà Chu. Đây là thời điểm tương đương với thời kỳ mà không ít những nhà nghiên cứu đã căn cứ vào Việt sử lược, cho rằng: "Đó là giai đoạn khởi đầu của thời Hùng Vương". Việt sử lược viết: Vào thời Trang Vương nhà Chu (698 - 682 tr.CN), ở bộ Gia Ninh có người lạ dùng ảo thuật khuất phục các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương" Như vậy, qua sự trích dẫn ở trên quí vị cũng nhận thấy sự tương đương sát sao về niên đại của thời Quản Trọng (mất năm 654 tr.CN và thời Trang Vương nhà Chu: 698 - 682 tr.CN) và thời điểm lập quốc của các Vua Hùng theo cái nhìn mới - mà họ cho rằng: "Thời Hùng Vương chỉ xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VII tr. CN". Thật là một sự vô lý, khi chính Khổng Tử thừa nhận một nền văn minh phát triển ở ngay bên cạnh địa bàn cư trú của người Hoa Hạ, có khả năng ảnh hưởng và chi phối đến sự phát triển của nền văn minh này. Đã có nhà nghiên cứu cho rằng: "Người Man di ở phía Bắc Trung Quốc"(?). Trên thực tế, trong các thư tịch cổ chữ Hán chưa lần nào dùng từ "Man di" để chỉ giống người phương Bắc Trung Hoa. Ngược lại, trong các thư tịch cổ chữ Hán, "Man di" là từ được dùng nhiều lần để chỉ người Việt. Từ "người Man" trong câu nói của Khổng Tử không phải là một danh từ chung để chỉ những tộc người có trình độ phát triển khác nhau, cư ngụ ở miền Nam sông Dương Tử. Ở đây, Khổng Tử đă nói đến nền văn minh Lạc Việt. Bản văn sau đây do chính Tô Đông Pha, một danh sĩ thời Tống - sau Khổng Tử ngót 1500 năm xác nhận lại điều này: Tô Đông Pha chép rằng: ...Nước Nam Việt từ Tam Đại trở xuống, không đời nào dẹp yên cả. Đời Tần (246 - 207 tr.CN), tuy có đặt quan chức cai trị, xong rồi trở lại tình trạng man di. B' Ly mới diệt được nước ấy và chia làm chín quận. Nhưng đến đời Đông Hán, lại có người con gái là Trưng Trắc, khởi binh rung động hơn 60 thành. Đương thời vua Thế Tổ mới dẹp yên thiên hạ, thấy dân đã mỏi mệt và chán việc dụng binh, bèn đóng cửa Ngọc Quan từ tạ Tây Vực. Phương chi Nam Việt là chỗ hoang viếng, không đáng phiền lụy đến quân đội nhà vua nếu không phải Tuân Tức Hầu (Mã Viện) chịu khó đánh dẹp thì dân chín quận vẫn khoác áo bên trái đến bây giờ.* ---------------------------------- * Chú thích: An Nam chí lược; Lê Tắc; Quyển đệ nhất; mục "Cổ Tích". Viện Đại học Huế 1961. Giáo sư Linh mục Cao Văn Luận. Qua đoạn trích dẫn trên, chúng ta lại một lần nữa thấy tính hợp lý giữa các hiện tượng và vấn đề liên quan đến việc vạt áo cài bên trái của chín quận Nam Việt. Điều này chứng tỏ tính thống nhất về văn hóa ở vùng đất nam sông Dương Tử này hoàn toàn khác biệt với văn hóa Hoa Hạ. Đây cũng chính là vùng đất: Bắc giáp Động Đính Hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba Thục; Đông giáp Đông Hải của nước Văn Lang xưa. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đã chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 tr.CN, và xa hơn - Từ thời Tam Đại - nền văn hóa Lạc Việt đã là một nền văn hóa ưu việt cho khu vực. Ảnh hưởng của nền văn hóa này rất lớn, để "nếu không có Quản Trọng thì người Hán đã phải cài vạt áo bên trái" . Hình ảnh của việc cái vạt áo bên trái (Bên tả) cho y phục truyền thống Việt trong các bản văn trên, được minh chứng tiếp tục trong di sản văn hóa Việt tiếp nối qua các thời đại lịch sử đến tận ngày hôm nay. Bạn đọc tiếp tục so sánh với các hình ảnh dưới đây: Hình bên đây là một hình khắc nổi tiếng trên một hang động ở tình Hồ Nam, thuộc Nam Dương Tử, có niên đại trên 2500 năm, mà người sống ở vùng này vẫn tương truyền rằng: Đó là hình bà Nữ Oa và vua Phục Hy. Chúng ta lại nhận thấy vạt áo cài bên trái của vua Phục Hy và bên phải của bà Nữ Oa. Có thể nói: Đây là dấu chứng cổ xưa nhất minh chứng về y phục truyền thống Việt liên hệ đến câu nói của Khổng Tử trong sách Luận Ngữ viết về hiện tượng áo cài vạt bên trái vào thế kỷ thứ VII trước Công Nguyên. Mối liên hệ này chúng ta sẽ còn tiếp tục tìm thấy những dấu chứng qua các thời đại, mà điển hình là hình tượng những con rối nước sau đây: Hình ảnh mà người viết trình bày với bên đây được chép lại từ tạp chí Heritage số tháng 9/10 năm 1996 của Cục Hàng không Việt Nam. Hoàn toàn không có sử dụng kỹ thuật vi tính để lật ngược lại bức tranh. Bạn đọc có thể kiểm chứng điều này qua tay phải của một số nhân vật cùng đứng trong tranh. Bạn đọc cũng thấy vạt áo của nhân vật rối nước này ở phía bên "tả" (trái) và mấy cái búi tóc của những hình rối nước này. Cho đến đầu thế kỷ 20, phần lớn đàn ông của dân tộc Việt vẫn búi tóc. Điều này chắc không cần phải chứng minh. Hình tượng những con rối nước - một nghệ thuật dân gian truyền thống của người Việt - cái vạt áo bên trái sẽ chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi đó chính là sự tiếp nối của y phục dân tộc Việt từ hàng ngàn năm trước, khi liên hệ với câu của Khổng Tử trong sách Luận ngữ: "Nếu không có Quản Trọng thì chúng ta phải cài vạt áo bên tả và búi tóc như người Man di". Rất tiếc! Những con rối nước cài vạt áo bên trái ngày nay rất hiếm gặp. Người ta đã hiện đại hoá nó bằng cách tạo cho nó một cái vạt áo bên phải. Đây là sự biến dạng của những di sản văn hóa phi vật thể. Nhưng cũng may mắn thay! Đây không phải bằng chứng duy nhất cho y phục dân tộc thời Hùng Vương. Xin bạn đọc tiếp tục xem hình bên: Y phục dân tộc Dao ở Phú Thọ (Trích từ bài "Cạy cửa tìm nhau" Ngọc Vinh và Lương Ngọc An - Tuổi Trẻ 8/6/2002 Tất nhiên tác giả bài báo này không có nhã ý nhằm giới thiệu y phục dân tộc Dao và giúp minh chứng cho luận điểm của người viết. Dân tộc Dao là một dân tộc có nền văn hóa lâu đời tồn tại trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, y phục dân tộc này cũng còn giữ được những nét văn hoá cổ truyền của nước Văn Lang xưa: Trên y phục của cặp vợ chồng ở hình trên, bạn đọc cũng nhận thấy người đàn ông áo vạt đưa sang bên trái, người phụ nữ vạt đưa sang bên phải. Vấn đề cũng không chỉ dừng ở đây: Đám cưới người Mông với y phục từ ngàn xưa Nam mặc áo bên tả, nữ bên hữu (Ảnh chụp từ VTV1). Hình trên đây được người viết chụp trực tiếp hình ảnh trên chương trình truyền hình VTV1, có nội dung miêu tả đám cưới người dân tộc Mông. Chúng ta lại một lần nữa tìm thấy dấu ấn y phục từ ngàn xưa của tổ tiên với người nam mặc áo bên "tả" và nữ bên "hữu": Dân tộc Dao và Mông sống trong vùng rừng núi hẻo lánh, cho nên ít chịu ảnh hưởng của văn hoá Hán. Do đó, hiện tượng cài vạt áo bên trái của người đàn ông trong y phục của những dân tộc này còn lại đến nay, cùng với các tư liệu đã trình bày ở trên cho thấy: Đó là những chứng cứ có sự tiếp nối văn hóa từ ngàn xưa và cho đến tận bây giờ - khi bạn đọc đang xem bài viết này - của nền văn hiến Việt, một thời huyền vĩ ở nam Dương Tử. Những chứng cứ rõ ràng đó và luận điểm trình bày hoàn toàn phù hôp với những tiêu chí khoa học: "Một giả thuyết khoa học chỉ được coi là đúng, nếu nó lý giải một cách hợp lý hầu hết những vấn đề liên quan đến nó; có tính khách quan; tính hệ thống, tính quy luật và có khả năng tiên tri" . Những vấn đề được hân hạnh trình bày với bạn đọc, nhằm chứng minh cho một nền văn hoá cao cấp tốn tại ở miền Nam sông Dương Tử mà chính Khổng Tử nói tới với sự tiếp nối, liên hệ của những giá trị đó trong những di sản văn hóa Việt Nam hiện nay. Tính đa dạng trong y phục của Việt tộc thời cổ xưa Sự đa dạng trong y phục của Việt tộc xác định qua sự liên hệ với hình ảnh những con rối nước là một minh chứng "Y phục dân tộc thời Hùng Vương" được tiếp tục qua những hình ảnh sau đây. Hình bên là một hình ghép được chép lại trong sách Thời đại Hùng Vương (sách đã dẫn) chiếc cán dao bằng đồng miêu tả y phục thời Hùng Vương và hình nhân vật rối nước trong trò "Múa Tiên". Qua hình ảnh trên, chắc quí vị sẽ nhận thấy một sự trùng hợp hoàn toàn về hình thức cái mũ trên đầu hình rối nước và cái mũ trên cán dao đồng. Ngoài sự trùng hợp về cái mũ, còn một số nét tiêu biểu khác trên y phục của hai vật thể này cũng trùng hợp gần như hoàn toàn. Từ đó có thể dẫn đến sự liên hệ hợp lý cho một cấu trúc đặc thù chung của y phục thời Hùng Vương qua y phục rối nước. Hay nói một cách khác: Hoàn toàn có căn cứ khoa học thực sự khi dùng những hình mẫu có chọn lọc của những con rối nước truyền thống để phục chế lại y phục thời Hùng Vương. Vấn đề cũng không chỉ dừng lại ở đây, khi chúng ta tiếp tục so sánh chiếc mũ trên hình cán dao đồng - được khẳng định niên đại từ thời Hùng Vương - với chiếc nón trong hình rối nước "Múa Tiên" và chiếc nón trên hai bức tượng Tiên Dung và Ngọc Hoa công chúa hiện đang thờ ở đền Hùng Phú Thọ (ảnh bên): Hiện nay, có rất nhiều trò rối nước được sáng tác ngay thời hiện đại, hoặc vào những thế kỷ trước. Nhưng trò "Múa Tiên" là một trò truyền thống có từ rất lâu trong nghệ thuật rối nước Việt Nam, tất cả các đoàn rối đều có trò này. Do đó, hình rối nước trong trò "Múa Tiên" chắc chắn đã xuất hiện từ thời xa xưa. Qua một khoảng cách thời gian của hơn 1000 Bắc thuộc, nghệ thuật rối nước được ghi nhận lần đầu tiên trong văn bia Sùng Thị Diên Linh - đời Lý - của chùa Đội Sơn (Huyện Duy Tiên, tỉnh Nam Hà), tức là vào đầu thời hưng quốc của Đại Việt, cách đây cả ngàn năm. Nhưng điều đó không có nghĩa rằng múa rối nước chỉ xuất hiện vào thời kỳ này. Đền thờ Tổ 18 thời Hùng Vương xác định xây dựng (hoặc được trùng tu vào thế kỷ XIV). Chiếc cán dao bằng đồng có cách đây khoảng 2500 năm và chỉ mới được phát hiện vài chục năm gần đây. Trước hết chúng ta cần phải khẳng định rằng: Trò "Múa Tiên", tượng công chúa đền Hùng và chiếc dao đồng là những sản phẩm của trí tuệ sáng tạo. Tṛò "Múa Tiên" và tượng công chúa đền Hùng đều có trước khi tìm ra chiếc cán dao đồng với khoảng cách hơn 2000 năm cho sự sáng tạo ra hai vật thể này. Do đó, nó không thể được coi là sự sao chép từ chiếc cán dao đồng hoặc là một sự trùng khớp ngẫu nhiên. Hình thức tồn tại giống nhau của những di sản văn hoá nói trên với khoảng cách tính bằng thiên niên kỷ, đã xác định sự tiếp nối truyền thống xuyên thời gian của y phục dân tộc Việt từ thượng tầng xã hội cho đến các tầng lớp bình dân là đa dạng và phong phú, thể hiện qua y phục của những con rối nước trong di sản văn hóa truyền thống Việt. Những hình thức y phục của những con rối nước Việt còn thấy tồn tại trong y phục dân tộc của các quốc gia láng giềng với Việt Nam ngày nay. Lịch sử gần 5000 năm văn hiến qua y phục dân tộc Qua y phục dân tộc thời Hùng Vương trình bày ở trên, chúng ta hoàn toàn có đầy đủ cơ sở khoa học để xác quyết về một truyền thống văn hóa sử được chính sử xác định: Thời Hùng Vương có niên đại 2879 BC và kết thúc vào 258 BC, có biên giới: Bắc giáp Động Đình Hồ; Nam giáp Hồ Tôn; Tây giáp Ba Thục; Đông giáp Đông Hải. Sự hiện hữu của văn hóa y phục cài vạt bên trái của Nam Việt, liên hệ với sách Luận ngữ của Khổng Tử đã chứng tỏ rằng: Từ trước thế kỷ thứ 7 tr.CN, và xa hơn - Từ thời Tam Đại - nền văn hóa Lạc Việt đã là một nền văn hóa ưu việt của phương Đông cổ đại. Và chính các nhà nghiên cứu Trung Hoa cũng thừa nhận. Bạn đọc xem đoạn trích dẫn dưới đây: Phát hiện mộ cổ bí ẩn ở Trung Quốc Các nhà khảo cổ nước này vừa khai quật một ngôi mộ hơn 2.500 tuổi, có thể thuộc về một vị vua của triều đại Ba (Ba Kingdom) bí ẩn. Ngoài 500 đồ vật bằng đồng, trong mộ còn có bộ xương của 2 người đàn bà và một người đàn ông, mặt ngửa lên trời và hướng về phía đông. Nhóm nghiên cứu cho rằng đó có thể là những tuỳ tùng hoặc chư hầu được chôn cùng vị vua. Nếu được xác nhận, đây sẽ là phát hiện khảo cổ quan trọng nhất liên quan tới triều đại Ba. Ngôi mộ nằm ở Luo Jiaba, tỉnh Tứ Xuyên, mang đặc điểm điển h́ình của một ngôi mộ thuộc đẳng cấp cao nhất trong số các ngôi mộ thuộc triều đại Ba đã được tìm thấy. 31 ngôi mộ khác cũng đã được khai quật ở khu vực. Hầu hết các đồ đồng là vũ khí (như giáo, gươm, dao găm và rìu), hay các vật cúng tế tương ứng với vị trí tối cao của chủ nhân ngôi mộ. Triều đại Ba bao trùm các vùng Tứ Xuyên, Hồ Nam và nhiều nơi khác ở miền nam Trung Quốc trước khi biến mất một cách bí ẩn khoảng 2.000 năm trước đây. Người dân thời đại này được miêu tả là những chiến binh hiếu chiến và gan dạ. Tuy vậy, nguồn gốc, cấu trúc xã hội và văn hoá của họ vẫn còn là một điều bí ẩn. Minh Thi
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 24, 2009 10:35:12 GMT 9
Sao cứ bắt tổ tiên phải cởi trần đóng khố? Tác giả: Đinh Công Nguyên Bài đã được xuất bản.: 01/12/2009 Tại sao người vẽ tranh cho truyện lại bắt tổ tiên ta phải ăn mặc nghèo nàn - trong khi, cùng thời đại - mà người láng giềng lại có được quần áo chỉnh tề như thế? LTS: Xung quanh những bức hình trong cuốn truyện tranh "An Dương Vương và Nhà nước Âu Lạc" truyện của Nguyễn Thị Thu Hương, tranh của Hồ Vĩnh Phúc, do Nhà Xuất bản Giáo dục in năm 2007 đang có các ý kiến tranh luận nhiều chiều. Để rộng đường dư luận, Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết thể hiện góc nhìn riêng của CTV Đinh Công Nguyên, mời độc giả đóng góp thêm ý kiến. Sau đây là nội dung bài viết: Tôi nghĩ cách thể hiện hình ảnh trong cuốn truyện tranh có 2 cái sai, đó là: 1. Trang phục của tổ tiên ta không đúng với thực tế (bài viết: Xin đừng hiểu về trang phục của tổ tiên như thế chủ yếu chứng minh cho điều này). Nhưng xét trên khía cạnh một tác phẩm văn học - nghệ thuật (truyện, phim,...), vấn đề này cũng không phải là quá quan trọng. 2. Vấn đề đáng nói hơn, sai lớn hơn là ở chỗ, tại sao người vẽ tranh cho truyện lại bắt tổ tiên ta phải ăn mặc nghèo nàn trong khi, cũng cùng thời đại - mà người láng giềng phương bắc lại có được quần áo chỉnh tề như thế. (Ít nhất thì cũng phải ngang nhau chứ - nếu có quần áo, thì cùng mặc quần áo - nếu không ta đóng khố lông chim, thì họ cũng là lông thú thôi, chứ đằng này...). Cái ấu trĩ ở đây có lẽ là tư tưởng luôn tự cho mình là thấp kém hơn người khác. Nhiều người, do những lý do nào đó, họ không bao giờ được bằng bạn bằng bè, không bao giờ vượt qua được chính mình vì trong tiềm thức họ đã luôn tự ti, mặc cảm rằng mình luôn thấp kém, không bằng mọi người... bản thân những người bi quan, tự ti, sẽ là thiệt thòi cho chính họ. Nhưng đem cái tư tưởng của số ít mà áp cho cả một dân tộc (theo kiểu bụng ta suy ra bụng cả làng..) thì thật là không nên, thật không thuyết phục. Ảnh minh họa Ở đây tôi không muốn quy kết cái tội danh gì cho ai đã viết, hay vẽ nên những bức tranh truyện kia (vì ít nhất, nó cũng đã được qua kiểm duyệt trước khi xuật bản!). Song điều đáng nói ở đây là, hiện tượng tâm lý như trên, không phải chỉ có ở một vài người, hay một phần nhỏ người dân ta, mà có vẻ như nó đã ăn sâu, như một căn bệnh ung thư về tư tưởng trong một bộ phận không nhỏ người dân. Việc này khiến tôi liên tưởng tới một trong những hiện tượng (có thể nói là đặc biệt) của xã hội ta cách đây ít lâu, đó là khi cả nước ta ăn mừng chiến thắng trước Thái Lan rồi giành cúp vô địch cúp bóng đá khu vực. Khi đó tôi tự hỏi, liệu chiến thắng có thực sự đáng tự hào đến thế hay không? Thực tế, đây dù sao cũng chỉ là một chiến thắng trong thể thao (cho dù là môn thể thao vua - được yêu thích nhất) nó chắng thể sánh với những chiến thắng trong những thành tựu khoa học mà chúng ta đã phải rất khó khăn gian khổ, thậm chí mất mát hy sinh để có được những chiến thắng này có giá trị đích thực của nó mà không cần phải tung hô thể hiện ở sự ngưỡng mộ, nể trọng của bạn bè thế giới (ví dụ như chiến thắng trong công cuộc giải phóng đất nước, rồi những thành tựu y học kiệt xuất của một số cá nhân như: BS. Nguyễn Tài Thu, NS. Đặng Thái Sơn,... và nhiều người khác). Nhưng cũng thật dễ hiểu cho lễ ăn mừng rầm rộ (thậm chí là hơi quá) của quần chúng cả nước cho chiến thắng (mặc dù nếu nhìn từ lăng kính nước ngoài vào, thì đó đúng là chuyện vui nhưng cũng thường thôi, họ không hiểu vì sao lại rầm rộ đến như thế). Bởi vì, mặc dù đây chỉ là một chiến thắng trong thể thao, nhưng nó đã đáp ứng mong mỏi từ đã rất lâu rồi của một xã hội mấy chục triệu dân, của cả một dân tộc mà vừa mới giành lại được một quốc gia độc lập cho riêng mình, được mấy chục năm. Nhưng chính là từ đó đến nay, cái mà họ đã vất vả, cực nhọc, thậm chí hy sinh mất bao xương máu để đạt được ấy từ khi khai sinh, dường như sau đó, chưa khẳng định được mình trước bạn bè thế giới đáp ứng lòng mong mỏi của toàn dân. Để rồi đến khi, một chiến thắng trong thể thao, như miếng bánh, cốc nước thỏa nỗi thèm khát của một cơ thể đang đói cồn cào, khát khô cổ... Ảnh minh họa Tất nhiên, đây chẳng phải lỗi của riêng ai, cũng không thể đổ tội cho mọi người trong xã hội (bằng chứng là, ở đâu đó, trong lĩnh vực nào đó đã có những cá nhân nổi lên để khẳng định mình, qua đó góp phấn quảng bá bộ mặt dân tộc, đất nước ra thế giới). Phải chăng đây là hậu quả của sự trì trệ, tự bóp chẹt mình trong một thời gian dài. Trong hoàn cảnh như vậy, mỗi người tiến bộ, trước hết hãy tự đổi mới, cải cách chính mình ngay từ tư duy, cách nghĩ. Tiếp đến là làm sao để truyền bá luồng tư tưởng tiến bộ, mạnh dạn cầu tiến của mình đến cho người khác, đặc biệt là thế hệ trẻ. Chỉ có cách như vậy, dần dần đến một lúc nào đó, khi đa phần người trong xã hội có "bộ óc mới" thì khi đó mới có thể tăng tốc cho cả bộ máy xã hội này được. Một lần nữa tôi muốn nhấn mạnh, rằng mình có thể kém người về tiền bạc, của cải, thậm chí là tri thức, khoa học công nghệ,... . Những thứ này đều có thể phấn đấu để làm giầu thêm cho mình, thậm chí đuổi kịp để sánh ngang, hay vượt qua những người đi trước (như ví dụ về những "con rồng châu Á" là điển hình). Nhưng trên tất cả, nếu ta thua kém người về ý chí, chấp nhận thất bại ngay từ trong ý nghĩ, nhận mình thua kém từ trước khi phấn đấu, xác định thua từ trước trận đấu thì... có thể nói thật quá khó để chúng ta vượt qua được chính mình.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 24, 2009 10:37:49 GMT 9
Xin đừng hiểu về trang phục của tổ tiên như thế! Tác giả: TTVH Bài đã được xuất bản.: 27/11/2009 "Xem phần tranh cuốn tranh truyện "An Dương Vương và Nhà nước Âu Lạc" truyện của Nguyễn Thị Thu Hương, tranh của Hồ Vĩnh Phúc, do Nhà Xuất bản Giáo dục in năm 2007 tôi sửng sốt đến vã mồ hôi". (Nhân xem cuốn tranh truyện "An Dương Vương và Nhà nước Âu Lạc") Tôi vừa được xem cuốn tranh truyện "An Dương Vương và Nhà nước Âu Lạc" truyện của Nguyễn Thị Thu Hương, tranh của Hồ Vĩnh Phúc, do Nhà Xuất bản Giáo dục in năm 2007. Phần truyện thì tác giả viết theo truyền thuyết không có gì phải bàn. Riêng phần tranh xem xong tôi sửng sốt đến vã mồ hôi. Hình vẽ An Dương Vương và Mỵ Châu. * Vẽ An Dương Vương cởi trần, đóng khố, chân đất Tất cả người Âu Lạc từ dân thường đến quân sĩ đều vẽ cởi trần trùng trục, phần dưới thân che bằng lá cây. An Dương Vương luôn luôn đóng khố, bàn chân không guốc dép, cũng cởi trần, quanh cổ quàng một dải lông chim. Riêng Mỵ Châu có mặc váy và mặc yếm. Tất cả người Hán từ Triệu Đà, Trọng Thuỷ đến quân lính đều áo mũ xênh xang như ta thường thấy trong phim truyền hình về truyện Tam Quốc. Sự đối lập về trang phục này dĩ nhiên đưa đến cho người xem, mà đối tượng chính là các em học sinh nhỏ tuổi hiểu sai về nền kinh tế đời sống, văn hoá xã hội của hai dân tộc, một đằng quá hoang dã, một đằng quá văn minh (xem ảnh) Ở đây tôi chỉ muốn nói rằng, vải vóc của dân ta thời cổ đại không phải quá hiếm hoi, đến nỗi vua chúa phải đóng khố như nhiều hoạ sĩ, điêu khắc sĩ đã vẽ và đắp tượng. * Người Lạc Việt đều đã có quần áo mặc Truyền thuyết thời Hùng Vương cho biết, Mẫu Âu Cơ dạy dân trang Hiền Lương (Hạ Hoà Phú Thọ) cấy lúa trồng dâu nuôi tằm dệt vải. Ứng với thời kỳ này là văn hoá khảo cổ Phùng Nguyên cách nay 4000 - 4500 năm, đã phát hiện nhiều dọi xe sợi. Nhà khảo cổ học uy tín GS.TS Hán Văn Khẩn nghiên cứu hàng chục di chỉ Phùng Nguyên đưa ra kết luận về vải như sau: "Dọi xe chỉ tìm thấy khá phổ biến trong văn hoá Phùng Nguyên... Như vậy nghề dệt vải đã phổ biến trong văn hoá Phùng Nguyên. Cư dân văn hoá này ít nhất cũng có hai loại vải mặc, đó là vải vỏ cây và vải dệt từ sợi" (Hán Văn Khẩn - Văn hoá Phùng Nguyên - NXB Đại học quốc gia Hà Nội - 2005). Hình vẽ An Dương Vương cởi trần đóng khố, bên cạnh là một người mặc quần vỏ cây. Đấy là nói về vải vóc ở giai đoạn mở đầu thời đại Hùng Vương. Đến các giai đoạn sau như Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn thì nghề dệt vải đã phát triển ngang tầm các nghề thủ công khác như nung gốm với 35 mẫu hoa văn, đan lát bộ đồ dùng tre nứa gần như ngày nay, đúc đồng với trống Ngọc Lũ nổi tiếng. Các mộ táng thời Hùng Vương như mộ Tứ Xã (Phú Thọ) thuộc văn hoá Gò Mun cách nay hơn 3000 năm, mộ Châu Can (Hà Tây cũ), mộ Việt Khê (Hải Phòng) thuộc văn hoá Đông Sơn cách nay 2800 năm đến thế kỷ thứ III trước công nguyên đều có vải liệm in trên hài cốt. Sách Lịch sử Việt Nam, tập I (NXB KHXH, 1971) viết về vải thời Hùng Vương như sau: "Dấu vải in trên nhiều đồ đồng đồ gốm. Tượng người, hình người trạm khắc trên trống, thạp, cho ta biết y phục người đương thời đã khá phong phú. Người Lạc Việt mặc áo chui đầu gài khuy bên trái". * Xin đừng bắt vua quan phải "cởi trần, đóng khố" nữa Sách Lịch sử Vĩnh Phú của Vũ Kim Biên và Lê Tượng (in năm 1980) viết "Về cuối thời Vua Hùng tầng lớp trên may mặc khá xa hoa. Ở di chỉ Làng Cả (Việt Trì) tìm thấy bộ khoá dây lưng bằng đồng mỗi bên tạc 4 con rùa trang trí rất đẹp, to khoẻ, dự đoán là của một vị quan võ". Đây là nhận thức về đời sống vật chất thời Hùng Vương từ 30 năm trước, ngày nay hiểu biết đó còn rõ hơn. Chúng tôi khẳng định, thời Hùng Vương theo truyền thuyết chỉ có Chử Đồng Tử quá nghèo khó phải luôn luôn đóng khố mà thôi. Còn nhân dân Lạc Việt cũng đóng khố trong lúc lội nước mò tôm cá, hoặc dầm mình cấy lúa chiêm sâu, nhưng sau đó về nhà họ đều có quần áo mặc, váy của nữ gọi là xiêm. Về mùa hè nóng bức thì nữ ít mặc áo mà chỉ mặc yếm. Những hình người hoá trang khắc trên trống đồng thạp đồng có thể hiểu đấy là áo dài cách điệu. Triệu Đà - Trọng Thủy quần áo lộng lẫy Dân như thế thì tất nhiên vua chúa thừa điều kiện để có quần áo đẹp xứng với uy quyền. Chúng ta biết rằng thời đó các Vua Hùng đã dùng trống đồng để biểu thị uy quyền. Sang thời An Dương Vương thừa hưởng thành quả sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp rực rỡ của thời Hùng Vương, không thể có chuyện quay trở lại hoang sơ mấy nghìn năm trước của cư dân nguyên thuỷ lấy lá cây làm áo, thủ lĩnh cởi trần đóng khố, như vậy được? Phạm vi của một bài báo chúng tôi chỉ nêu sơ qua vài dẫn chứng như vậy, chứ chưa thể nói rõ được rằng nền văn minh Lạc Việt không hề thua kém, mà có cái còn hơn các nước trong khu vực cùng thời đại. Mong rằng từ nay trở đi các hoạ sĩ, điêu khắc sĩ đừng vẽ và tạc tượng vua quan thời Hùng Vương, An Dương Vương cởi trần đóng khố nữa. Vả lại đã là sáng tác nghệ thuật thì đâu có cần phải bệ nguyên xi thực tế vào tác phẩm. Các hoạ sĩ Trung Hoa vẽ tổ tiên họ thời Tam hoàng Ngũ đế, Hạ, Thương, Chu, Xuân thu Chiến quốc (ngang với thời Hùng Vương) vua quan sĩ thứ đều áo mão xênh xang lộng lẫy, để vừa thoả mãn lòng khao khát thẩm mỹ của người xem vừa tự tôn dân tộc, chứ có phải là sự thật cả đâu. Là vì nghệ thuật thường có một khoảng cách xa với tự nhiên chủ nghĩa. Theo Nhà nghiên cứu Vũ Kim Biên
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 29, 2009 17:45:24 GMT 9
Khổng giáo và siêu cường Trung Quốc Nguyễn Trường Khổng Tử Thế vận hội Bắc Kinh đã bế mạc. Cơn bão phê bình, biểu tình phản đối, những âu lo ô nhiễm ban đầu, hay hoan hô, ca ngợi các vận động viên giành được huy chương sau đó, đã cùng với thời gian giảm dần và trôi qua. Kế đó, việc phóng phi hành gia đi bộ lên không gian cũng đã thành công trong không khí phấn khởi , tự hào của quần chúng. Trong quá trình đó, hình ảnh Trung Quốc (TQ) cũng đã đổi thay. Lợi dụng các cuộc tranh tài để phân ranh giữa quá khứ của chính mình và những ước mong của thế giới về một tương lai tươi sáng hơn, TQ đã khéo léo giới thiệu với toàn cầu hình ảnh một quốc gia vừa thoát khỏi nghèo đói, chiến tranh, cách mạng, những tai ương tự tạo, để trỗi dậy như một siêu cường trên đường tiến tới phú cường và văn minh. VẤN NẠN LỊCH SỬ Kể từ khi những chiến thuyền của Anh Quốc xuất hiện ở biển Nam Hải vào giữa thế kỷ thứ 19, giới trí thức và lãnh đạo TQ đã phải thường xuyên đối phó với tình trạng yếu kém và luôn tìm cách phục hồi sự phú cường của xứ sở. Cuộc đấu tranh ngày một cấp thiết hơn khi Tây phương liên tục ép buộc TQ phải chấp nhận ký kết một chuỗi nhiều hiệp ước bất bình đẳng . TQ đã dần dà mất hết tự tin sau khi đế quốc Nhật đánh bại nhà Thanh trong cuộc chiến Trung-Nhật 1895 và tiến chiếm nhiều vùng rộng lớn của TQ trong hai thập kỷ 1930s và 1940s. Nhật đã mở đầu một quá trình qua phân đen tối của TQ. Vào đầu thế kỷ 20, nhiều sĩ phu thuộc khuynh hướng cải cách đã phải tự hỏi tại sao người phương Tây luôn đầy sức sáng tạo trong khi TQ vẫn luôn trì trệ tê liệt, và đã phải lên tiếng báo động: 'TQ cần phải cải cách nếu không muốn tự vẫn'. Trong suốt thế kỷ 20, khát vọng nhìn thấy một TQ lấy lại uy thế và sự kính nể của thế giới đã trở thành một leitmotif ám ảnh trong tư duy chính trị. Thực vậy, tình trạng bất lực tủi hổ TQ phải trải nghiệm đã là một trong những động lực đưa đến cách mạng cực đoan của Mao Trạch Đông. Dưới bề mặt ý thức hệ và xáo trộn, điều mà Mao tìm kiếm là một sự phú cường - hay ít ra môt bộ mặt phú cường xã hội chủ nghĩa mới - như phương cách đem lại cho người TQ một ý thức hãnh diện về xứ sở của mình. Mặc dù mang tính cực đoan và độc tôn, Mao đã cảm nhận và nắm bắt được khát vọng của người dân được thấy TQ phục hồi địa vị trung tâm và vĩ đại của đất nước. Tạm gác tư tưởng chính trị của Mao qua một bên, TQ đã gần như hoàn toàn tái thống nhất đất nước với sự trở về của Hong Kong và Macao (ngoại trừ Đài Loan), và thành đạt một nhịp phát triển 10% GDP/năm trong gần hai thập kỷ vừa qua, trở thành một trong những đối tác thương mãi năng động nhất thế giới, hiện đại hóa lực lượng quân sự, phát động một chương trình không gian đầy tham vọng, và đăng cai thành công thế vận hội 2008. TQ không những đã đạt được một điểm mốc quan trọng trong hành trình một thế kỷ rưỡi thoát khỏi đói nghèo, yếu kém, và đạt được phú cường, mà cũng đã thành công trong cuộc vận động giao tế ngoạn mục trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên, trong thành tích biểu trên đây của chính quyền TQ, người ta chưa thấy có những thành tích đạo đức. TQ, đầy dẫy những vi phạm nhân quyền trong quốc nội, giao hảo với nhiều chế độ bạo tàn trên thế giới - từ tướng Than Schwe ở Miến Điện, và Kim Jong Il ở Bắc Hàn, đến Omar al-Bashir ở Sudan, và Robert Mugabe ở Zimbabwee - cần một hồi sinh đạo đức tiếp theo sau hồi sinh kinh tế. Không may, những giáo điều Mác-Lê rõ ràng không mấy thích ứng để khích lệ nhân dân TQ trong nỗ lực xây dựng một quốc gia hiện đại, cởi mở, và thịnh vượng. KHỔNG GIÁO VÀ NHÂN TRỊ Tuy nhiên, lịch sử TQ còn có một truyền thống văn hóa thuận lợi cho việc tái tạo những nguyên tắc và đạo lý thiết yếu cho việc điều hành quốc gia. Đúng vậy, TQ thừa hưởng một gia tài truyền thống cổ điển khổng lồ, có thể làm căn bản cho việc xây dựng một hình thức chính quyền mới vững chắc, mặc dù không hẳn hoàn toàn dân chủ, ít ra không dân chủ theo nghĩa Tây phương. Hơn thế nữa, Chủ Tịch Hồ Cẩm Đào và Thủ Tướng Ôn Gia Bảo cũng đã bắt đầu chắt lọc , vận dụng từ truyền thống quý giá đó những nhân tố tô điểm cho những ý niệm định hình guồng máy quản trị quốc gia. Biểu hiện rõ nét nhất của khuynh hướng nầy là sự tái khẳng định gần đây tầm quan trọng của 'ý niệm hòa hợp trong một xã hội ổn định' của tư tưởng Khổng giáo. Mặc dù lúc khởi đầu, Mao đã kiên quyết nhấn mạnh những mâu thuẫn xã hội và đấu tranh giai cấp, với lời tuyên bố quyết liệt: 'một cuộc cách mạng không phải là một bữa tiệc tối, mà là một cuộc nổi dậy, một hành vi bạo động nhờ đó một giai cấp lật đổ một giai cấp', Hồ Cẩm Đào đột nhiên khởi động một mục tiêu hòa bình hơn, nhằm hòa hợp các nhóm đối nghịch trong xã hội Trung Hoa. Hồ Cẩm Đào đã công khai đưa ra ý niệm phi-Marxist nầy lần đầu trong bài diễn văn năm 2005. Âu lo về tình trạng phân hóa trong xã hội TQ, ông tuyên bố:'Khổng Tử đã từng dạy, hòa hợp là một điều đáng trân quí'. Vài tháng sau, ông lại lên tiếng khuyến cáo các đảng viên Cộng Sản phải 'dồn hết khả năng xây dựng một xã hội hòa hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa'. Từ đó, cụm từ 'xã hội hòa hợp' đã trở thành một khẩu hiệu lan truyền thật nhanh chóng. Tháng 3 năm 2007, Thủ Tướng Ôn Gia Bảo tiếp lời: 'Từ Khổng Phu Tử đến Tôn Dật Tiên, văn hóa truyền thống của TQ chứa đựng nhiều thành tố quí giá'. Và khắp TQ, cán bộ Đảng răm rắp vồ vập ý niệm 'xã hội hòa hợp', và chẳng bao lâu hầu như bất cứ ý tưởng, diễn đàn, hội nghị, lý thuyết hay dự án nào được giới thiệu hay liên hệ với câu thần chú mới mẻ đó đều được tán thưởng. Đó cũng là dấu hiệu cho thấy ở TQ, văn hóa 'Lãnh Tụ Vĩ Đại' vẫn rất thịnh hành. Ngay cả nhà đạo diễn danh tiếng, đồng thời giám đốc Lễ Khai Mạc Thế Vận Hội, Dương Nghệ Mưu, cũng không cưỡng nổi câu khẩu hiệu thần chú vừa nói. Như khán giả truyền hình toàn cầu đã được thấy qua màn ảnh nhỏ, họ Dương đã trang trí trên sàn gạch từ 'Hòa [Hợp]' như một phần dàn dựng hoành tráng, sống động và kiêu sa kiểu Las Vegas. Học thuyết Khổng Tử, đã từng được sử dụng làm cơ sở cho thuật trị nước của các vua chúa TQ, nhấn mạnh đến sự hòa hợp. Thực vậy, ý niệm lịch sử 'Thuận Hòa' vẫn còn vang vọng đối với người TQ. Nhưng Khổng Giáo cũng nhấn mạnh khía cạnh đạm bạc, làm việc thiện, công lý, và ngay cả giá trị của những ý kiến dị đồng. Khổng Tử nói với Mạnh Tử: 'Giàu có, danh vọng, mà thiếu công lý, cũng chỉ là phù vân'. Trong triết lý chính trị Khổng Giáo, chính danh có lẽ là đức tính quan trọng nhất của người lãnh đạo. Và vị 'Vạn Thế Sư Biểu' xem chính danh là cách ứng xử của người quân tử, một cách lý tưởng hóa ý niệm lãnh đạo tốt tương tự với ý niệm 'triết gia-quân vương' (philosopher-king) của Plato. Theo Khổng Tử, quân tử lãnh đạo không bằng luật pháp khắt khe, cưởng chế, và độc tài, mà bằng thiện tâm, đức tính tốt, và nêu gương sáng. 'Nếu người lãnh đạo chỉ muốn làm việc tốt, người dân sẽ tốt. Uy lực đạo đức của người quân tử tựa như gió, uy lực đạo đức của thần dân tựa như cỏ. Gió thổi, cỏ sẽ uốn theo'. Khổng Tử tin, chúng ta có thể hiểu được thế nào là uy lực đạo đức khi nghiên cứu Tứ Thư và Ngũ Kinh và tìm hiểu cách trị dân của các vị minh quân như vua Nghiêu vua Thuấn. Nhà lãnh đạo lấy đức độ để trị dân cũng giống như sao Bắc Đẩu, đứng yên ở chân trời trong khi các tinh tú khác phải quần tụ chung quanh. Về nhiều phương diện, cách ứng xử đức độ căn bản của một lãnh đạo khôn ngoan theo quan niệm của Khổng Tử có nhiều điểm tương đồng với học thuyết nhân bản (humanism) của các nhà tư tưởng Pháp thời Khai Sáng. Khác với Mao tin ở giá trị giai cấp thay vì phổ quát, Khổng Tử và các tư tưởng gia thời Khai Sáng tin có những quyền và giá trị phổ quát bẩm sinh trong mỗi người. Người quân tử, trong Khổng giáo, không bao giờ rời xa nhân bản, dù phải trải qua nhiều thử thách, gian truân. Giới lãnh đạo Bắc Kinh hiện nay hình như đã cảm nhận: chính trị TQ đã rơi vào một khoảng trống đạo đức. Họ cũng đã chứng tỏ sẵn sàng nhìn về quá khứ của TQ, thay vì thế giới bên ngoài, để tìm phương thức cứu chữa. Xét cho cùng, Khổng giáo là truyền thống đặc thù của TQ và đã in rõ nét trong mả văn hóa di truyền DNA của người Hoa. Chấp nhận bất cứ một lý thuyết chính trị Tây phương nào, nhất là ý niệm dân chủ, cũng hàm chứa một sự đầu hàng chủ nghĩa ngoại lai. CHỦ THUYẾT PHÁP TRỊ Vẫn luôn đặt nặng 'sức mạnh mềm' của đạo đức thay vì 'sức mạnh cứng' của quyền cưởng chế, chủ thuyết lý tưởng của Khổng giáo nhiều khi không đem lại một hệ ý thức hữu hiệu cho các giới lãnh đạo cứng rắn, đặc biệt trong những thời loạn ly, chia rẽ. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi TQ cổ xưa cũng đã cùng lúc khai sinh nhiều trường phái tư tưởng chính trị trái ngược. Một trong những trường phái nầy là Phái Pháp Trị hay Pháp Gia. Trường phái nầy - đặt nặng trung ương tập quyền, lãnh đạo mạnh mẽ, luật pháp và chế tài nghiêm minh - là chủ thuyết đối lập với Khổng Giáo. Thay vì tin 'nhân chi sơ tánh bổn thiện', và vì vậy, luôn noi theo gương tốt, Phái Pháp Gia tin bản tính con người vốn xấu, thiếu can đảm, yếu hèn. Vì vậy, họ xem những nhà lãnh đạo đặt niềm tin ở đức độ - như phương cách duy trì trật tự xã hội trong khi con người bản chất vốn ác và bất trị - là ngây thơ. Thay vì đức độ, Phái Pháp Gia tin ở luật pháp, một hệ thống thưởng phạt nghiêm minh, đáng sợ và đàn áp. Họ xem nhẹ khả năng cải hóa của các nhà lãnh đạo gương mẩu, trị dân một cách nhân đạo, qua cách ứng xử phản ảnh đạo đức Khổng giáo. Đối với họ, điều đó chỉ là triết lý suông. Như Hàn Phi Tử, một triết gia thế kỷ thứ ba trước công nguyên và là người chủ trương pháp trị nổi danh, đã viết: 'Nhà lãnh đạo sáng suốt không bàn tới những việc làm đầy nhân tính và đức độ, và cũng không lắng nghe lời của các học giả'. Hàn Phi hiểu 'học giả theo nghĩa 'quân tử' của Khổng giáo. Ông cũng viết: 'Người trị nước không quan tâm đến đức độ mà chỉ quan tâm đến luật pháp'. Và ông hiểu luật theo nghĩa trừng phạt hơn là công lý. Hình thức Machiavellianism nầy của TQ khuyến cáo các chính trị gia không nên tin tưởng bất cứ ai, phải nghi ngờ ý định của mọi người và phải bao che mình bằng những màn chắn bí mật. 'Từ chỗ ẩn trong bóng tối, quan sát những lỗi lầm của người khác', Hàn Phi viết. 'Thấy nhưng đừng tỏ ra thấy; lắng nghe nhưng đừng để lộ đang lắng nghe; biết nhưng không để ai biết mình biết. Che giấu mọi hành tung và che giấu mọi nguồn tin, để người dưới không thể dò tìm cội nguồn hành động của bạn. Đừng tỏ ra khôn ngoan và có khả năng để kẻ dưới không thể đoán bạn đang toan tính gì'. Thuật trị nước của Phái Pháp Gia đã trở thành nguồn cảm hứng cho Tần Thủy Hoàng, vị quân vương thống nhất TQ đầu tiên - lăng tẩm của ngài gồm cả hình tượng một đội lính canh nổi tiếng, tượng trưng cho ý chí bám chặt lấy quyền lực ngay cả cho đời sau. Chính Hàn Phi là một trong những người nhắc đến ý niệm phú cường sớm nhất. Một lãnh đạo anh minh phải biết nắm vững nghệ thuật làm giàu và quyền lực, Hàn Phi tuyên bố, nêu rõ một trong những nhiệm vụ căn bản của người cầm quyền là làm giàu cho Nhà Nước và tăng cường sức mạnh quân sự. Một quan niệm về thuật trị nước phi đạo đức như thế là một phản đề đối với chủ thuyết đạo đức của Khổng Tử. Khổng Phu Tử đã nhận xét một cách khinh bỉ: trong khi người quân tử luôn trọng chính danh, kẻ tiểu nhân chỉ biết cầu lợi. Thực vậy, đồ đệ của Khổng Tử luôn coi thường cái mà sử gia nổi tiếng của Harvard, trong tác phẩm 'In Search of Wealth and Power: Yen Fu and the West', mô tả như thứ triết lý phú cường tàn nhẫn và vô lương tâm của Phái Pháp Gia. Cố nhiên, Hàn Phi và Phái Pháp Gia cũng khinh thường Khổng Phu Tử không kém. Hàn Phi viết: "Ngày nay, đồ đệ của Khổng Tử, khi cố vấn về thuật trị nước, không hề bàn đến phương cách đem lại trật tự hiện giờ, mà chỉ đề cao sự thành đạt một trật tự tốt đẹp trong quá khứ. Với lời nói bọc đường, đồ đệ của Khổng Tử nói:'Nếu ngài lắng nghe lời chúng tôi, ngài sẽ có thể trở thành lãnh tụ của tất cả các bộ lạc phong kiến'. Các vị cố vấn nầy chỉ là những phù thủy và thầy tu". Mặc dù nhiều trường phái tư tưởng khác cũng đã phát triển ở TQ cổ xưa, như Phật Giáo và Lão Giáo, Phái Pháp Gia và Khổng Giáo luôn mang tính thực tiễn, do đó, giữa hai phái đã có một quan hệ âm-dương đặc biệt, với ảnh hưởng của mỗi phái lúc lên cao khi xuống thấp qua các triều đại kế tiếp khác nhau. Kết quả là tác động hỗ tương đã đem lại cho các triều đại đương nhiệm một mô hình hỗn hợp mang tính vừa chính đáng vừa thực tiễn chính trị - một thuật trị nước đặc thù TQ, thấm nhuần một sức sống nhị nguyên sinh động. Trong sáu thập kỷ dưới chế độ độc tài theo định hướng thị trường và xã hội chủ nghĩa vừa qua, TQ đã dựa trên cảm hứng của Hàn Phi và Phái Pháp Gia nhiều hơn là Khổng Giáo. Những nhà cách mạng Leninist kiểu Mao Trạch Đông đã bị ảnh hưởng và mê hoặc bởi Tần Thủy Hoàng. Tư tưởng Marxist-Leninist-Mao Trạch Đông - vay mượn nhiều yếu tố từ Phái Pháp Gia - hình như đã là con đường đưa TQ đi từ chiến tranh, hỗn loạn đến phú cường nhanh nhất. Nhưng hiện nay, khi địa vị trung tâm, uy tín, cũng như phú cường đã đến trong tầm tay, giới lãnh đạo TQ đang đối mặt với một thời vận mang tính quyết định. Trong hành trình tiến tới địa vị một đại cường, TQ - sau khi đã gây ấn tượng với thế giới bên ngoài với thành tích phát triển kinh tế - đang bước vào một giai đoạn lịch sử mới đòi hỏi phải đa dạng hóa các mục tiêu theo đuổi xứng danh một siêu cường thực sự. Trong trường hợp TQ, một trong những thành tố quan trọng nhất của sự vĩ đại còn thiếu vắng, đó chính là uy lực đạo đức. Sự thiếu vắng đó ngày một rõ nét hơn đối với giới lãnh đạo TQ. Một phương cách bổ khuyết là họ phải ứng xử theo đúng truyền thống Khổng giáo hơn là Pháp Gia.Thực vậy, với việc chính quyền TQ cho thành lập Viện Khổng Học nhiều nơi trên thế giới, các phương tiện truyền thông và truyền hình giải thích và đề cao lời dạy của đấng Vạn Thế Sư Biểu, và một học giả lên tiếng hậu thuẫn đổi tên nước thành Cộng Hòa Khổng Giáo Xã Hội Chủ Nghĩa, hình như thời cơ thực sự đã đến. Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây một sự kiện lố bịch và mang tính đạo đức giả thường gặp trong sinh hoạt thế giới hiện nay. Tây phương nói chung, đặc biệt là Hiệp Chủng Quốc, luôn rao giảng đạo đức - tự do, dân chủ, nhân quyền... - cho các nước khác, kể cả TQ. Tây phương và Hoa Kỳ cũng nên nhìn lại lịch sử đế quốc và chế độ nô lệ, để tự điều chỉnh cách ứng xử hợm hỉnh của mình trên khắp thế giới, đặc biệt là trong thế giới thứ ba và các xứ cựu thuộc địa. Thời đại 'Thành Phố Trên Đỉnh Đồi' và 'Ngọn Hải Đăng' đã lùi xa vào dĩ vãng. Trong nhiều thập kỷ gần đây, người Mỹ cũng đã tận mắt chứng kiến uy thế đạo đức của mình ngày một mờ nhạt. Trên bình diện nầy, Hoa Kỳ và TQ cũng chỉ là hai người bạn đồng hành cùng hội cùng thuyền. Liệu Hồ Cẩm Đào và Ôn Gia Bảo, cả hai đều ưa thích Tứ Thư, Ngũ Kinh, có thể nào trở thành hai quân tử thời nay bằng cách vay mượn triết lý Khổng Giáo; liệu các giá trị đạo đức có thể nào được hồi sinh - từ văn hóa cổ truyền đã bị Mao ruồng bỏ - dưới hình thức một Tân Khổng Giáo đầy ý nghĩa, là một điều, vào thời điểm nầy, không ai có thể đoan chắc. Nhưng sự kiện, TQ hiện nay đang đặc biệt lưu tâm đến Khổng Giáo, chứng tỏ: chính người TQ đã bắt đầu cảm nhận được sự trống vắng đạo đức trong cách ứng xử của chính quyền. Vì vậy, khi TQ nhìn lại Thế Vận Hội và khi Hoa Kỳ đón chờ một chính quyền mới, cả hai thấy mình đang ở trong một trạng huống giống nhau. Cả hai đang đứng trước thách đố phải tái khám phá, trong những giá trị truyền thống, những suối nguồn đạo đức đủ để tăng cường vốn liếng của sự phú cường - sức mạnh kinh tế, quân sự, ngoại giao - cùng với yếu tố tế nhị nhưng tuyệt đối thiết yếu cho sự vĩ đại thực sự. Trong tác phẩm In Search of Wealth and Power xuất bản cách đây gần nửa thế kỷ, Benjamin Schwartz đã thấy rõ tình trạng bối rối khó xử đang đối diện TQ và Hoa Kỳ hiện nay: 'Vấn đề tương quan giữa hệ thống giá trị Faustian - chạy theo tiền tài, quyền lực, phú cường - và sự thể hiện những giá trị chính trị và xã hội, cả những giá trị nhân bản đích thực, vẫn còn là một vấn nạn đối với cả hai quốc gia'. GS Nguyễn Trường Irvine, California, U.S.A. 28-10-2008
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 24, 2010 8:49:16 GMT 9
MỐI TƯƠNG ĐỒNG LÝ THÚ GIỮA TỤC NGỮ VIỆT NAM VÀ TỤC NGỮ NƯỚC NGOÀI Đàm Trung Pháp. VienVietHoc 譚 忠 法 Mọi ngôn ngữ đều có những câu nói ngắn gọn nhưng chứa đựng những nhận xét sắc bén về kinh nghiệm sống. Tên của những câu nói ngắn gọn đó là TỤC NGỮ trong tiếng Việt và Hán, PROVERB trong tiếng Anh, PROVERBE trong tiếng Pháp, DICHO trong tiếng Tây ban nha, PROVERBIO trong tiếng Ý, và SPRICHWORT trong tiếng Đức. Với khả năng tóm gọn ý tứ, tô điểm cho lời văn thêm mặn mà, và chứng minh lý lẽ một cách hùng hồn, tục ngữ đóng một vai trò đáng kể trong ngôn ngữ thường nhật. Điều nổi bật nhất là sự tương đồng trong nội dung của tục ngữ nhân loại. Chẳng hạn, các tục ngữ YÊU AI YÊU CẢ ĐƯỜNG ĐI của người Việt, LOVE ME, LOVE MY DOG của người Mỹ, và ÁI ỐC CẬP Ô 爱屋及烏 của người Tàu đều có chung một ý nghĩa. Có khác chăng thì chỉ là phương tiện diễn tả. Người Việt yêu thơ nên đề cập đến người mình yêu và con đường mang dấu chân người ấy; người Mỹ mê chó cho nên khi mê ai thì cũng mê chó của người ấy luôn cho tiện việc; và người Tàu thì diễn tả kinh nghiệm ấy như một bức tranh thủy mặc, rất có thể đã căn cứ vào một điển tích nào đó. Trong tiếng quan thoại, ÁI ỐC CẬP Ô phát âm là [àiwu-jíwu], với điều đáng nói ở đây là lối chơi chữ: Hai từ [wu] đồng âm nhưng dị nghĩa; từ thứ nhất nghĩa là “nhà” và từ thứ hai nghĩa là “quạ.” Vậy thì nghĩa đen của tục ngữ này là nếu yêu một căn nhà nào thì yêu luôn cả mấy con quạ (một loại chim đen đủi xấu xí với tiếng kêu buồn thảm) đậu trên mái nhà đó. Ba tục ngữ vừa kể nói lên một sự thực tâm lý khó chối cãi mà tiếng Anh mệnh danh là “the halo effect” (hiệu lực hào quang). Trong tiến trình học hỏi ngoại ngữ của tôi, một điều lý thú là tìm xem trong các ngoại ngữ ấy (Hán, Anh, Pháp, Tây ban nha, Ý, Đức) có những tục ngữ nào tương đồng về ý nghĩa với tục ngữ Việt của chúng ta. Bài viết này chia xẻ với độc giả điều lý thú ấy. Khi so sánh nội dung của tục ngữ trong các ngôn ngữ khác nhau, chúng ta sẽ thấy những tương đồng, tốt phần do bản chất đại đồng của kinh nghiệm đời sống loài người. Thí dụ, để nhắn nhủ người đời không nên hấp tấp mà hỏng việc, tiếng Việt có câu ĐI ĐÂU MÀ VỘI MÀ VÀNG, MÀ VẤP PHẢI ĐÁ MÀ QUÀNG PHẢI DÂY? Cùng một nội dung ấy là các câu sau đây: MORE HASTE LESS SPEED (Anh: vội bao nhiêu chậm bấy nhiêu); PLUS ON SE HÂTE MOINS ON AVANCE (Pháp: vội bao nhiêu càng ít tiến bấy nhiêu); CHI VA PIANO VA LONTANO (Ý: ai đi chậm thì đi xa); và DỤC TỐC BẤT ĐẠT 慾 速不 達 (Hán: muốn mau chóng thì không thành được). Nếu nội dung các tục ngữ tương đương trong các ngôn ngữ cùng gốc (như Pháp và Tây ban nha, hoặc như Anh và Đức) giống nhau như đúc thì cũng dễ hiểu thôi. Chẳng hạn, mang máng với câu VẶT ĐẦU CÁ VÁ ĐẦU TÔM của chúng ta là các câu DÉCOUVRIR SAINT PIERRE POUR COUVRIR SAINT PAUL (Pháp: lột quần áo thánh Pierre để mặc vào thánh Paul), DESNUDAR A UNO SANTO PARA VESTIR A OTRO (Tây ban nha: lột quần áo một vị thánh để mặc vào một vị thánh khác), ROB PETER TO PAY PAUL (Anh: cướp tiền Peter để trả Paul), và DEM PETER NEHMEN UND DEM PAUL GEBEN (Đức: lấy của Peter và đưa cho Paul). Vì vậy, tôi thấy thú vị hơn nhiều mỗi lần gặp các câu tục ngữ tương đương giữa tiếng Việt và một ngoại ngữ chẳng liên hệ họ hàng gì với tiếng Việt cả (thí dụ như tiếng Anh trong trường hợp này), như các cặp tục ngữ ĐƯỢC ĐẰNG CHÂN LÂN ĐẰNG ĐẦU và GIVE HIM AN INCH AND HE WILL TAKE A MILE (cho hắn một tấc thì hắn đòi một dặm); GIEO GIÓ GẶT BÃO và SOW THE WIND AND REAP THE WHIRLWIND (gieo gió gặt gió lốc); LẮM THẦY THỐI MA và TOO MANY COOKS SPOIL THE BROTH (quá nhiều người nấu bếp thì hư nồi canh); và THỜN BƠN MÉO MIỆNG CHÊ TRAI LỆCH MỒM và THE POT CALLING THE KETTLE BLACK (cái nồi mà chê cái ấm đen). Về hình thức cấu tạo, khá nhiều tục ngữ của nhân loại giống nhau ở điểm chúng có thể được chia ra làm hai phần quân bình lẫn nhau với cú pháp và âm điệu song hành. Thí dụ, các tục ngữ tương đương của XA MẶT, CÁCH LÒNG trong một vài ngôn ngữ khác cũng cho thấy một cấu tạo và một nội dung tương đồng với tiếng Việt: OUT OF SIGHT, OUT OF MIND (Anh: khuất mặt, khuất tâm trí); LOIN DES YEUX, LOIN DU COEUR (Pháp: xa mắt, xa tim); AUS DEN AUGEN, AUS DEM SINN (Đức: khuất mắt, khuất tâm trí); OJOS QUE NO VEN, CORAZÓN QUE NO SIENTE (Tây ban nha: mắt không thấy, tim không cảm); và LONTANO DAGLI OCCHI LONTANO DAL CUORE (Ý: xa mắt xa tim). Trong số các tục ngữ được coi như châm ngôn cho một nếp sống đạo đức, tiếng Việt có câu KHÔN NGOAN CHẲNG NGOẠI THẬT THÀ để nhắc nhở người đời tránh xa sự lươn lẹo. Nội dung châm ngôn này được diễn tả bộc trực hơn trong tiếng Anh qua câu HONESTY IS THE BEST POLICY (lương thiện là chính sách tốt nhất). Ý nghĩa câu GẦN MỰC THÌ ĐEN, GẦN ĐÈN THÌ SÁNG rõ như ban ngày. Câu này chắc là do các cụ nhà nho khi xưa đã chuyển ngữ thật sát nghĩa từ câu chữ Hán CẬN MẶC GIẢ HẮC, CẬN ĐĂNG TẮC MINH 近墨者黑 近燈者明. Những kẻ chỉ thích “gần mực” hoặc “cận mặc” thôi thì sẽ liên kết thành một bầy để cùng nhau làm những chuyện không hay, như được ám chỉ trong câu tục ngữ Hán-Việt đã hoàn toàn Việt hóa NGƯU TẦM NGƯU MÃ TẦM MÃ 牛尋牛.馬尋馬 (trâu tìm trâu ngựa tìm ngựa), và trong các câu BIRDS OF A FEATHER FLOCK TOGETHER (Anh: chim cùng thứ lông tụ tập thành bầy), DIS-MOI QUI TU HANTES, ET JE TE DIRAI QUI TU ES (Pháp: nói tôi nghe anh giao du với ai, tôi sẽ cho anh biết anh là loại người nào), CADA CUAL CON LOS SUYOS (Tây ban nha: kẻ nào đi với phường nấy), GLEICH UND GLEICH GESELLT SICH GERN (Đức: hai kẻ giống nhau kết hợp dễ dàng), và DIO LI FA E POI LI APPAIA (Ý: Thượng đế sinh ra họ rồi kết hợp họ với nhau). Tiểu nhân hay đắc chí, và mỗi khi đắc chí họ cười lâu lắm. Tiếng Việt dành cho những tiểu nhân có đầu óc nông cạn ấy lời nhắc nhở này: CƯỜI NGƯỜI CHỚ VỘI CƯỜI LÂU, CƯỜI NGƯỜI HÔM TRƯỚC HÔM SAU NGƯỜI CƯỜI. Trong vài ngôn ngữ khác, lời khuyên ấy ngắn gọn hơn và cũng đều dành thắng lợi cho người cười sau cùng: HE LAUGHS BEST WHO LAUGHS LAST (Anh: người đáng được cười nhất là người cười sau cùng), RIDE BENE CHE RIDE L’ULTIMO (Ý: cười xứng đáng là người cười sau cùng), và RIRA BIEN QUI RIRA LE DERNIER (Pháp: người sẽ cười xứng đáng là người sẽ cười sau chót). Tục ngữ phản ánh những điều xảy ra hàng ngày trên bàn cờ xã hội và cung cấp cho thế gian những lời khuyên khôn ngoan để đối phó với cuộc sống. Câu CÁ LỚN NUỐT CÁ BÉ mô tả một lối sống hung bạo trong xã hội ngày nay, khi biết bao công ty nhỏ đang bị các công ty lớn hơn ăn sống nuốt tươi trong một thế giới mà người Mỹ tả chân là A DOG-EAT-DOG WORLD (một thế giới chó-ăn-chó). Trong mọi liên hệ, phải có đi có lại thì mối giao tình mới bền, theo châm ngôn BÁNH ÍT ĐI, BÁNH QUY LẠI của người Việt hay châm ngôn YOU SCRATCH MY BACK, I’LL SCRATCH YOURS (anh gãi lưng tôi, tôi sẽ gãi lưng anh) của người Mỹ. Và xin chớ quên là trong một cuộc tranh chấp, kẻ có tiền thường có nhiều lợi điểm, vì NÉN BẠC ĐÂM TOẠC TỜ GIẤY, cũng như ĐA KIM NGÂN PHÁ LUẬT LỆ 多金銀破律例 (Hán: nhiều tiền bạc phá luật lệ) và MONEY TALKS (Anh: tiền nói dùm). Kín đáo là một biện pháp an toàn, vì TAI VÁCH MẠCH RỪNG, hoặc LAS PAREDES OYEN (Tây ban nha: những bức tường biết nghe), hoặc những câu sau đây mà ý nghĩa đều là tường có tai: WALLS HAVE EARS (Anh), LES MURS ONT DES OREILLES (Pháp), I MURI HANNO ORECCHI (Ý), DIE WAENDE HABEN OHREN (Đức), và CÁCH TƯỜNG HỮU NHĨ 隔 墻 有耳 (Hán). TRÁNH VOI CHẲNG XẤU MẶT NÀO là lời cổ nhân khuyên chúng ta nên làm mỗi khi bị kẻ vũ phu đe dọa tấn công. Nếu tiếng Việt ví kẻ vũ phu như voi thì tiếng Tây ban nha ví hắn như bò mộng hoặc kẻ khùng điên, như trong câu AL LOCO Y AL TORO DARLES CORRO (với kẻ khùng điên và bò mộng, hãy nhường chỗ). Tục ngữ cũng khá rành khoa tâm lý và cung cấp những khuyến cáo thực dụng. Con người phải biết rằng nhiều khi SỰ THẬT MẤT LÒNG, một ý niệm được gói ghém bộc trực trong câu THE TRUTH HURTS (Anh: sự thật làm đau lòng) cũng như trong câu khuyên răn tế nhị TOUTE VÉRITÉ N’EST PAS BONNE À DIRE (Pháp: không phải sự thực nào cũng nên nói ra đâu). Vì LỜI NÓI CHẲNG MẤT TIỀN MUA, người khôn ngoan phải LỰA LỜI MÀ NÓI CHO VỪA LÒNG NHAU. Châm ngôn dành cho những ai ăn nói vụng về để mất lòng người khác một cách vô tích sự này tương ứng với câu CORTESÍA DE BOCA VALE MUCHO Y POCO CUESTA (Tây ban nha: sự nhã nhặn bằng miệng có nhiều giá trị và chẳng tốn bao nhiêu). Người Việt khôn ngoan ít khi THẢ MỒI BẮT BÓNG vì họ biết rõ MỘT CON NẰM TRONG TAY HƠN MƯỜI CON BAY TRÊN TRỜI. Người phương tây cũng diễn tả sự khôn ngoan đó một cách dễ hiểu, như câu trong tiếng Anh A BIRD IN THE HAND IS WORTH TWO IN THE BUSH (một chim trong tay đáng hai chim trong bụi), hoặc như câu trong tiếng Ý MEGLIO UN UOVO OGGI CHE UNA GALLINA DOMANI (một trái trứng hôm nay tốt hơn một con gà mái ngày mai), hoặc như câu thi vị hơn trong tiếng Đức là EIN SPATZ IN DER HAND IST BESSER ALS EINE TAUBE AUF DEM DACH (một chim sẻ trong tay tốt hơn một bồ câu trên nóc nhà). Khi đã bị nạn một lần rồi thì người ta trở nên sợ bóng sợ gió, thấy cái gì na ná với nguyên nhân gây ra tai nạn cũ thì vội lánh xa. Đó là điều câu ĐẠP VỎ DƯA, THẤY VỎ DỪA CŨNG SỢ ám chỉ trong tiếng Việt. Người Tàu diễn tả sự sợ bóng sợ gió ấy bằng câu tục ngữ nên thơ KINH CUNG CHI ĐIỂU KIẾN KHÚC MỘC NHI CAO PHI 驚弓之鳥見曲木而高飛 (con chim sợ cây cung thấy khúc cây cong thì vội bay cao), trong khi các ngôn ngữ tây phương sử dụng nội dung cụ thể hơn, như ONCE BITTEN, TWICE SHY (Anh: một lần bị cắn, hai lần nhát), CHAT ÉCHAUDÉ CRAINT L’EAU FROIDE (Pháp: mèo bị bỏng sợ nước lạnh), GATO ESCALDADO DEL AGUA FRÍA HUYE (Tây ban nha: mèo bị bỏng chạy xa nước lạnh), GEBRANNTE KINDER SCHEUEN DAS FEUER (Đức: trẻ nít bị bỏng thì sợ hãi lửa). Người viết xin kết luận bài này với nhận định rằng tục ngữ cũng mang lại hy vọng cho người đời. Thực vậy, cuộc đời này không hẳn lúc nào cũng xấu đâu, vì SAU CƠN MƯA TRỜI LẠI SÁNG, một mối lạc quan được diễn tả qua câu chữ Hán KHỔ TẬN CAM LAI 苦盡甘來 (hết đắng thì đến ngọt), câu tiếng Pháp APRÈS LA PLUIE LE BEAU TEMPS (sau cơn mưa trời đẹp), và câu tiếng Anh AFTER A STORM COMES A CALM (sau trận bão yên tĩnh trở lại). Nếu “trời lại sáng” và cho ta một cơ hội, ta đừng để mất cơ hội ấy. Đó là lời nhắn nhủ của câu CỜ ĐẾN TAY PHẢI PHẤT cũng như của câu tiếng Anh STRIKE WHILE THE IRON IS HOT (đập khi thỏi sắt đang nóng). Nhưng khi “phất cờ” hoặc “đập thỏi sắt đang nóng” ấy, ta chớ quên rằng tinh thần hợp tác là điều không thể thiếu, vì MỘT CÂY LÀM CHẲNG NÊN NON. Câu này mang ý nghĩa thật gần với các câu CÔ THỤ BẤT THÀNH LÂM 孤樹不成林 (một cây không thể thành rừng) trong tiếng Hán, UNE HIRONDELLE NE FAIT PAS LE PRINTEMPS (một con én không làm nên mùa xuân) trong tiếng Pháp, và EINE SCHWALBE MACHT KEINEN SOMMER (một con én không làm nên mùa hạ) trong tiếng Đức.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 24, 2010 7:17:37 GMT 9
Tục kiêng “huý” và hiện tượng biến đổi từ trong ngôn ngữ địa phương
Lao Động 21/03/2010
(LĐCT) - Theo “Hán Việt từ điển” của Đào Duy Anh, “huý” được giảng nghĩa: kiêng không được nói đến. Nhiều triều đại phong kiến, tục kiêng huý như là quy tắc bắt buộc trong các văn tự.
Ở nước ta, tục lệ này không biết xuất hiện từ đời nào, chỉ biết rằng sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, quyển V có chép “...năm Nhâm Thìn, Kiến Trung năm thứ 8 (1232), vào mùa hạ, tháng 6, (Trần Thái Tông, tức Trần Cảnh - P.T.M chú giải) ban bố chữ quốc huý và miếu huý. Vì nguyên tổ tên huý là Lý mới đổi triều Lý làm triều Nguyễn, vả lại cũng để dứt bỏ lòng mong nhớ của dân chúng” (sđd, t.2, bản dịch của NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983).
Không biết nguyên tổ nhà Trần có phải tên huý là Lý hay không, nhưng lệnh vua đã ban thì thần dân phải thi hành; và đương nhiên con cháu nhà Lý phải từ bỏ gốc gác họ hàng của mình để được tồn tại(!). Và từ đó đến mãi thời nhà Nguyễn, lệnh kiêng huý tiếp tục duy trì, nhiều thời được áp dụng một cách khắt khe. Ngoài tên riêng là nguyên tổ và vua, nhiều khi tên của những người thân thuộc với vua cũng được kiêng như: cha, mẹ, vợ, con, anh, em,... và có khi đến hàng ông nội, bà nội, tên giả, chữ đệm của vua cũng được kiêng.
Sau khi lên ngôi, Vua Gia Long cấm thần dân nói và đọc tên riêng của mình là Ánh (Nguyễn Phúc Ánh) và cả tên con trai của mình đã chết trước đó là hoàng tử Cảnh (Nguyễn Phúc Cảnh) nên các trường hợp trùng âm phải đọc chệch thành yến, kiểng (ví dụ: ánh sáng - yến sáng, cây cảnh - cây kiểng...).
Vua Tự Đức vốn là nhà thơ, uyên thâm chữ nghĩa nhưng tính tình hẹp hòi và lắm cố tật, dễ giật mình nên bắt thần dân kiêng nhiều chữ đến mức vô lý trong đời sống ngôn ngữ và xã hội. Tương truyền, ông vốn mê “Kim Vân Kiều truyện” đến nỗi quên ăn mất ngủ, nhưng Truyện Kiều có khá nhiều chữ “thì”, nào là “Ra tuồng trên Bộc trong dâu/ Thì con người ấy, ai cầu mà chi”, nào là “Tha ra thì cũng may đời/ Làm ra thì cũng con người nhỏ nhen”...; từ đấy vua bỏ công “hiệu đính” - cho nên bản in Kiều cũ nhất hiện nay còn là dưới thời Tự Đức - 1871(?). Thì ra là thế, vì lẽ Nguyễn Phúc Thì là tên cúng cơm của Nguyễn Hồng Nhậm, tức Vua Tự Đức. Và cũng vì lẽ đó, tên danh sĩ Ngô Thì Nhậm sống ở triều đại trước cũng đổi thành Ngô Thời Nhiệm.
Ngày xưa sĩ tử thi cử, trước hết phải thuộc các chữ cần phải kiêng để mà làm bài khỏi phạm huý (đồng nghĩa với phạm quy). Theo PGS.TS Lê Trung Hoa trong “Họ và tên người Việt Nam” (NXB Khoa học xã hội, 2005), Phan Văn San phải đổi thành Phan Bội Châu để được đi thi, vì lẽ chữ San trùng với tên huý “Vua Duy Tân là Vĩnh San. Tuy nhiên theo chúng tôi, Vua Duy Tân sinh năm 1900, đúng năm Phan Bội Châu thi hương và đỗ đầu, mãi đến năm 1907 (khoa Canh Tý) Vĩnh San mới lên ngôi, vì vậy việc đổi tên của cụ Phan là vấn đề cần nói lại cho rõ.
Từ quy định của vua ra lệnh, nhiều thời đã thành lệ “bất thành văn” được phổ biến đến dòng tộc riêng và cả thái độ ứng xử với người lớn tuổi. Việc đặt tên cho trẻ sơ sinh cũng phải tra cứu gia phả của cả dòng tộc hai bên nội-ngoại để mà tránh trùng tên với bậc bề trên; nếu mắc phải được xem như là hỗn láo. Thời chưa trưởng thành, người viết bài này (sinh cuối năm 50 thế kỷ trước) vẫn không biết ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của mình tên thật là gì, vì thời ấy mọi người thường gọi những người lớn tuổi theo tên con cả (ở miền Nam thường gọi là con thứ hai).
Lý giải các hiện tượng tộc Huỳnh hiện diện từ Quảng Nam trở vào Nam, nhiều nhà nghiên cứu gia phả của tộc này đều cho rằng: xuất xứ của nó là tộc Hoàng có gốc gác vùng Thanh Hoá - Nghệ An, do kiêng tên huý của Chúa Tiên (Nguyễn Hoàng) mà nói trại thành (tương tự: Võ - Vũ, Châu - Chu, Phúc - Phước...). Dấu tích các hiện tượng này dễ thấy rõ ở miền Nam, ở miền Bắc hầu như không kiêng mấy (?). Tuy nhiên, ngay tại Huế (kinh đô dưới triều Nguyễn) và các vùng lân cận thì hiện tượng này không rõ lắm. Vì ngay ở Huế vẫn tồn tại tộc Hoàng(?).
Ngoài hiện tượng nói trại do kiêng huý, nhiều danh từ khác cũng được nói trại so với ngôn ngữ phổ thông như: đàn (nhạc cụ) thành đờn, hoa thành huê, sinh (đẻ) thành sanh, chính (chính trị, hành chính, chính sách, chính nghĩa,...) thành chánh, nàng thành nường, hồng (hoa hồng) thành hường, phụng (loài chim) thành phượng, long thành luông v.v... Những trường hợp này chưa thấy một ai giải thích cặn kẽ dưới gốc độ ngôn ngữ học. Mong rằng sẽ có lời giải đáp khoa học.
Ngày nay, những quy định về kiêng huý không còn tác dụng nữa. Bởi lẽ nó là hình thức quá vô lý với đời sống ngôn ngữ và xã hội một thời; mặt khác nó không phải là phong tục tốt đẹp mà chúng ta cần phải giữ gìn.
Do vậy, người viết bài này mong những người có trách nhiệm hãy trả lại tên thật cho những danh nhân đất Việt đã một thời do kiêng huý hoặc lý do nào đó mà biến thành tên khác như Ngô Thì Nhậm (Ngô Thời Nhiệm), Phan Châu Trinh (Phan Chu Trinh), Châu Thượng Văn (Chu Thượng Văn)... Phan Thanh Minh (Quảng Nam)
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 2, 2010 4:11:21 GMT 9
Vốn là thú, ta… Vietsciences-Phan Huy Đường Abstract Ce que nous ne comprenons pas, nous le sacralisons grâce à un mot honoré d'une majuscule, la Vie. Nous en faisons une valeur suprême de notre existence. Nous l'adorons. Nous adorons la partie obscure de nous-même. Tel est le sens profond du mot aliénation. La Vie est devenue la valeur suprême de multiples religions, philosophies, courants de pensée et courants littéraires. Le développement des sciences de la vie a rendu justice à de nombreux préjugés en ce domaine du savoir. Il a aussi mis en évidence notre rattachement irréductible au monde vivant. Pour la première fois, nous avons une base rationnelle pour humaniser nos rapports avec le monde vivant. Cette humanisation ne relève pas du monde vivant lui-même, mais de la culture, un monde spécifiquement humain, celui du savoir et des valeurs. Phan Huy Đường, traducteur, écrivain, philosophe. * Ngươi sẽ không giết ! Tu ne tueras point ! Câu văn đẹp, thừa tình, tối nghĩa. Đúng hơn, không có nghĩa. Thực chất, đó là một câu thơ. Như nhiều câu thơ trứ danh, nội dung nó "mở". Ở đây, nó hoàn toàn mở : nó mơ hồ. Chỉ thêm một ý, nó sẽ có nghĩa liền nhưng câu thơ biến ngay thành một lời nói tầm thường, một mệnh lệnh bất khả thi : a/ Ngươi sẽ không giết người. Đương nhiên phải thế. Trong mọi cộng đồng người từ muôn thuở, giết người là cấm lệnh đầu tiên và sự trừng phạt cuối cùng. Tuy vậy, người ở đây có nghĩa giới hạn : người cùng cộng đồng. Trong Cựu Ước, dân của Đấng Vĩnh Cửu[1] giết người của những cộng đồng khác sành sỏi và khốc liệt chẳng thua ai. b/ Mở rộng cõi từ bi theo kiểu Phật : ngươi sẽ không sát sinh. Rất đẹp nhưng bất khả thi. Không ai sống được nhờ ăn sỏi đá. Không "ăn thịt" thú còn được, nhưng vẫn phải ăn cỏ cây, hoa quả, ngũ cốc. Đó cũng là những hình thái của sự sống. Đây có vẻ là một quy luật trong thú giới[2] : để sống, nhiều loài thú vật phải ăn thịt nhau. Gọi đó là luật rừng, rất đúng : nó tự-nhiên[3], nó…. khoa học ! Ta tưởng con giun sống nhờ ăn đất vì bụng nó đầy bùn. Nhưng trong bùn đó có biết bao tế bào sống của đủ thứ sinh vật. Nhờ chúng mà khi ta cắt đôi con giun, nó biết… đổ máu. Chưa ai biến được bùn tinh khiết thành máu. Tại sao lại phải thế ? Ta không biết. Đó là nỗi đau đặc thù của một loại sinh vật quái đản, con người : nó không chịu đựng được lâu những điều nó không hiểu được. Điều ta không hiểu được, để tạm "hiểu"[4] nó, ta thần thánh hoá nó bằng Ngôn Từ : Sự Sống, và thờ nó. Ta thờ mảnh tăm tối của chính mình dưới hình thái sán lạn của một ngôn từ viết hoa : Sự Thật, Niềm Tin, … dĩ nhiên phải tuyệt đối. Định nghĩa cơ bản của khái niệm tha hoá (aliénation) của Marx là thế. Chỉ mấy anh trí thức lôi thôi mới tiếp tục thắc mắc quằn quại với những cấu hỏi dấm dớ : sự sống là gì ? Thuở xa xưa, người ta tạc tượng dương vật (lingam) và âm hộ (yoni) để thờ : đó là nguồn gốc của Sự Sống. Từ ấy Sự Sống đã là và vẫn là giá trị tối cao của nhiều tôn giáo, nhiều tư tưởng, nhiều nhà thơ, nhà văn. Trên nó, chỉ còn kẻ tạo ra Sự Sống : Đấng Tối Cao. Nhưng nhân giới có quá nhiều Đấng Tối Cao. Những Ngài ấy lại hay có máu ghen, ham độc quyền[5], lắm lúc đến khát máu, chẳng coi sự sống của ai khác dân mình ra gì cả. Người đời thường thì ít ai biết đến tất cả các Ngài để có thể so sánh và lựa chọn. Và cũng ít ai có thời giờ tìm hiểu các Ngài. Nói chung chẳng mấy ai lựa chọn tôn giáo của mình. Cha mẹ đã gài nó trong đầu và trong lòng mình ngay từ thời thơ ấu khi mình chưa có khả năng lựa chọn một cách có ý thức bất cứ giá-trị nào. Ngược lại, Sự Sống thì ai mà chẳng biết, vì ai cũng sợ chết, ai cũng ngại giết người. Nhưng cũng chẳng mấy ai mất thời giờ suy nghĩ về nó. Suy nghĩ về cái gì ? Con người chỉ quan tâm, suy ngẫm tới Sự Sống khi nó phải giết người hoặc phải đối diện với khả năng chết của chính mình hay người thân. Phải chăng vì thế mà trong những thời điểm khủng hoảng tư tưởng của những nền văn minh, Sự Sống trở thành giá trị tối cao và giải đáp cuối cùng cho mọi chuyện ở nhiều nhà văn và triết gia ? Một thí dụ khá nổi tiếng tại Pháp và Bỉ, những năm 60-70 : Raoul Vaneigem, trong trường phái Internationale situationiste[6]. Năm 1996, ông công bố quyển Nous qui désirons sans fin[7] (Chúng ta, những kẻ khao khát bất tận). Đọc nó, có thể toát mồ hôi hột. Một bản trường ca vinh danh Sự Sống. Văn phong, khỏi nói. Thỉnh thoảng phát thèm mình viết được một câu văn Pháp "hay" đến thế ! Nhưng đọc đi đọc lại, suy nghĩ nát óc, cũng chẳng thể nào đoán mò được rằng, đối với ông, Sự Sống là gì, nên như thế nào, để làm gì, để đi tới đâu, với ai, cho ai, et tutti quanti – để khi buông tay thở dài từ giã nó, ta mỉm cười toại nguyện : ta đã không sống thừa. Ngoài chất thơ của ngôn từ (thua xa Nietzsche), chẳng có gì giúp tôi… "sống", ở đời này, với con người đời nay. Xưa kia, nhiều tôn giáo và triết gia đã khẳng định được mình nhờ niềm tin của thiên hạ : linh hồn của vũ trụ (Đấng Tối Cao) hay kiến thức duy nhất đúng về vũ trụ (triết gia, các vị thánh). Khoa học vật lý đã ít nhiều cho họ nghỉ hưu, ít nhất trong lĩnh vực này. Nhưng từ thuở Giordano Bruno bị thiêu sống (1600) tới nay, đã phải mất hơn… 400 năm ! Ngay hôm nay, vẫn còn không ít hậu duệ của Chúa tin rằng thế giới này đã được Chúa tạo ra như nó là nội trong 6 ngày. Ngày thứ 7, Ngài xả hơi, khiến chính giới Pháp ngày nay tranh luận túi bụi về chuyện cho hay không cho phép buôn bán ngày Chúa Nhật[8] ! Ở Mỹ có đại học cấm giảng dạy học thuyết của Darwin. Dường như những nhà văn, nhà tư tưởng và triết gia đã dùng Sự Sống làm cột trụ giá trị và trí tuệ cho ý tưởng của mình đang hay sắp phải đương đầu với nguy cơ nghỉ hưu. Từ nửa thế kỷ nay, sinh học đang bào mòn tất cả những niềm tin hão về Sự Sống. Ba nhát chém chí mạng : a/ không ai định nghĩa được sự sống là gì.[9] Vậy ai muốn tán gì về nó thì tán, có chút văn phong tràn trề nhục cảm và thần bí càng hay, sẽ có người tin, thậm chí yêu yêu điên người, có khi mê mệt thí mạng. Nhưng đừng bao giờ đem kiến thức khoa học ra để lòe đời. Hết ăn tiền rồi. b/ không có Sự Sống biệt lập, Sống không có ngoài vật giới. Nó là một quá trình vận động của một cấu trúc vật chất. "Thực ra sự sống là một quá trình vận động, một hình thái tổ chức của vật chất.[10]" Quan điểm này của F. Jacob, cơ bản mà nói, có khác gì "định nghĩa" của Engels về "sự sống" ? Còn chưa đầy đủ và chính xác bằng : “Sự sống là hình thái XE "hình-thái.." tồn tại XE "tồn-tại.." của những cơ thể XE "cơ-thể.." cấu tạo bằng anbimun, và hình thái tồn tại đó cơ bản XE "cơ-bản.." thể hiện XE "thể-hiện.." qua sự tái thiết XE "tái-thiết.." liên tục XE "liên-tục.." , do chính chúng, cơ cấu XE "cơ-cấu.." hóa học của chúng[11].” “Như thế, sự sống XE "sự-sống.." , hình thái XE "hình-thái.." tồn tại XE "tồn-tại.." của những cơ thể XE "cơ-thể.." cấu tạo bằng anbimun, biểu hiện XE "biểu-hiện.." trước nhất như sau: sinh vật XE "sinh-vật.." luôn luôn vừa là chính mình XE "chính-mình.." vừa là khác mình[12].” Cứ như thơ của Verlaine ! (sống cùng thời với Engels) : Mon Rêve familier Je fais souvent ce rêve étrange et pénétrant D'une femme inconnue, et que j'aime, et qui m'aime, Et qui n'est, chaque fois, ni tout à fait la même Ni tout à fait une autre, et m'aime et me comprend. Giấc Mơ thân thuộc của tôi Tôi hay mơ một giấc mơ lạ lùng thấm thía Mơ tới một người đàn bà xa lạ, mà tôi yêu, mà yêu tôi, Mà, mỗi lần, không hẳn là mình Cũng không hẳn là người khác, và yêu tôi và hiểu tôi. Thỉnh thoảng nhà thơ bất hủ nhạy bén không thua triết gia lỗi lạc ! Vui chơi chữ nghĩa tí thôi : cấu một hai câu của tác giả này để "bình luận" về tác giả kia, vì đọc toàn bộ bài phát biểu của F. Jacob và quyển La logique du vivant, une histoire de l'hérédité[13], tạm dịch : Lôgích của quá trình sống, một cách hiểu khái niệm di truyền trong lịch sử kiến thức của người đời, thì thấy quan điểm của F. Jacob đồng nhất với quan điểm của Engels, nhưng phong phú, cụ thể hơn, với đầy kiến thức mà loài người đã đạt được trong thế kỷ 20, tuy không có kiến thức nào vượt qua tầm nhìn tổng quát của Darwin (chính Jacob công nhận) và Engels cả[14]. Và mời bạn đọc giải lao một khắc với chuyện dịch thuật, không còn là văn chương văn gừng nữa, mà là dịch ý tưởng của người khác. La logique du vivant : không dịch thành Lôgích của sự sống, nghe rất bùi tai nhưng sai. Vì chính tác giả khẳng định : sự sống không là gì cả, không định nghĩa được, nó (là) một quá trình vận động, mô tả được. Trong tiếng Pháp, bàn tới khái niệm sống, có nhiều từ. Vivre = sống, động từ. La vie = sự sống, danh từ. Vivant = sống, tính từ hay động tính từ. Cách nói và viết : le vivant, dùng động tính từ như một danh từ, chỉ xuất hiện một cách phổ biến trong thế kỷ 20 thôi. Nó cưỡng lại khuynh hướng cố hữu danh từ hoá động từ của tiếng Pháp, biến quan-hệ-sống của con người với thế-giới thành quan-hệ "chết" của con người với… khái niệm ![15] Nó ghi nhận một "bế tắc" của tư duy bằng ngôn ngữ Pháp thông thường[16]. Nó cũng chỉ cưỡng lại được một cách tương đối thôi : trong le vivant, về mặt hình thức, vivant có chức năng của một… danh từ. Đó là một danh từ tự phủ định chính mình trong tư cách ấy. Ôi biện chứng ! Ôi nỗi đau ngôn từ ! Không dịch une histoire de l'hérédité thành một lịch sử của sự di truyền, vì "sự" di truyền cũng (là) một quá trình vận động, còn là một quá trình vận động quái đản : vừa khắt khe, do định trình gen (programme génétique) quyết định, vừa ngẫu nhiên ! Bản thân định trình ấy lại tự tạo ra những công cụ để thực hiện chính nó và tự… thay đổi ! Hơn thế, une ở đây có nghĩa une parmi d'autres, một trong những (lịch sử hay, đúng hơn, thuyết trình về…). Lịch sử bao gồm toàn bộ những sự kiện đã là. Thế thì chỉ có một lịch sử thôi, vĩnh viễn là nó như nó là. Ngược lại, cách hiểu những sự kiến ấy thì… vô vàn. Do đó mới có ý niệm : xuyên tạc lịch sử (falsifier l'histoire[17]). Vì thế mà trong lịch sử "kiến thức" của loài người, đã từng có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm di truyền. Phải từ Mendel trở đi, mới bắt đầu có một cách hiểu có cơ sở khoa học, kiểm chứng được. Bản thân quyển sách của F. Jacob thuật lại và phân tích quá trình vận động ấy của tư duy. Đó là một trong những thuyết trình về… Thuyết trình ấy, có cơ sở khoa học, kiểm chứng được. Với tư cách "một quá trình vận động, một hình thái tổ chức của vật chất", sinh giới chẳng khác gì vật giới. "Bất cứ" vật thể nào, dù nhỏ như hạt nguyên tử, cũng là một hình thái tổ chức của vật chất, cũng đang vận động. Người ta phân biệt vật giới với sinh giới vì người ta đã sớm linh cảm rằng sự vận động sống có những hình thái đặc thù không có trong sự vận động của vật thể phi sinh tính. Trong thú giới, có hai hình thái cơ bản đặc thù sau : 1/ Tự nó, thú vật chọn lựa những quan hệ của nó với thế giới để tái tạo tổ chức và sự vận động nội tại của chính nó, để tiếp tục… sống ! Nói thế nghĩa là : thú vật là một thực thể có ý hướng. Ý hướng (intentionalité) không là tính đặc thù của con người, của ý thức (conscience), như Husserl, Sartre và Trần Đức Thảo tưởng. Nó là một đặc tính chung của thú giới. 2/ Thú vật giao tiếp với nhau để sinh đẻ, tái tạo ngoài nó những thú vật như nó, đồng giống. Hai hình thái vận động ấy đều mang tính mục đích[18]. Chúng không hề có nội dung giá-trị (đạo đức, lý trí, v.v.), một loại quan-hệ chỉ có trong nhân-giới, khiến con người có thể giết nhau chỉ vì một lời nói, một niềm tin. Điều quan trọng ở đây : mục đích ấy là tái tạo cái đã có và, vì sự sống chỉ có thể đến từ sự sống, tồn tại nhờ sự sống : ăn sinh vật khác để sống. Như thế hai nét đặc thù của vận động có ý hướng này là : bảo thủ[19] và sát sinh. Rất tự-nhiên, dễ chấp nhận vì chính ta cũng là thú vật. Và, xin thú thật, ngày ngày ta sống như vậy.[20] Ta nên do dự khi chắp bút thăng hoa Sự Sống thành giá trị tối cao của con người. Đừng bao giờ quên tư tưởng của Hitler và những người theo nó, với những "lebensraum", "espace vital" khủng khiếp của nó. Tính ý hướng đòi hỏi một hình thái ý thức về chính mình : thú vật phải biết phân biệt nó với thế giới chung quanh và, hơn thế, phải có khả năng cảm nhận sự hiện diện của nhiều thực thể khác nhau trong thế giới ấy[21], thì mới biết chọn lựa những quan hệ với thế giới cho phép nó tái tạo chính mình. Ý thức đó hình thành xuyên qua một loại quan hệ đặc thù của sinh giới : quan hệ nhục-cảm xuyên qua giác quan. Hình thái tổng hợp của những quan hệ này cộng với ký ức nghiệm sinh và văn hoá, gọi là trực giác cũng được. Ngoài tính ý hướng ấy, trong văn học Tây Âu còn có một thứ "ý hướng" khác đã tràn ngập thơ văn, lý luận văn học và một đống môn khoa học tâm lý, xã hội, thậm chí lịch sử, dựa vào tư tưởng của Freud : Tiềm thức. Rất có thể, như Freud[22] đã từng mong ước, môn sinh học về óc não thời nay sẽ mang lại cho tiềm thức cơ sở sinh học của nó[23] : "Tiềm-thức có một cơ sở vật-chất XE "vật-chất.." và sinh-học XE "sinh-học.." : toàn bộ cấu-trúc XE "cấu-trúc.." -nơron XE "cấu-trúc-nơron.." ghi-nhớ XE "ghi-nhớ.." nghiệm-sinh XE "nghiệm-sinh.." của một con người. Những cấu-trúc ấy có thể không gắn liền với toàn bộ những cấu-trúc-nơron cần-thiết XE "cần-thiết.." để cho phép ứng-xử XE "ứng-xử.." có ý-thức XE "ý-thức.." mà chỉ gắn liền với một số cấu-trúc-nơron nào đó thôi. Trong trường hợp ấy, ký-ức XE "ký-ức.." kia vẫn tồn-tại XE "tồn-tại.." , vẫn sống ở đâu đó trong óc ta, vẫn chi phối ứng-xử và hành-động XE "hành-động.." của ta mà ta không biết. Cái ký-ức thiếu quan-hệ XE "quan-hệ.." tổng-hợp XE "tổng-hợp.." mà hiện nay, vì ta còn dốt-nát XE "dốt-nát.." , ta gọi là tiềm-thức, cái ký-ức bị dồn-nén XE "dồn-nén.." kia là và không là ký-ức, nó là một ký-ức không nhớ mình nhưng không mất mình, một ký-ức bị lãng quên, một tiền-ký-ức[24]. Trong một số trường hợp, hoặc xuyên qua một quan-hệ đặc biệt với thế-giới XE "thế-giới.." , hoặc xuyên qua một suy-luận XE "suy-luận.." có ý-thức và, thường thường, xuyên qua sự kết-hợp XE "kết-hợp.." của cả hai, con người có thể lặp lại một cách hoàn chỉnh những mắc nối cần-thiết giữa các cấu-trúc-nơron để tìm thấy lại lịch-sử XE "lịch-sử.." của chính-mình XE "chính-mình.." , gánh vác nó, vượt nó, khiến nó nên lời. Là sản-phẩm XE "sản-phẩm.." của lịch-sử, nó tự-tái-tạo XE "tự-tái-tạo.." một cách có ý-thức – ở nó, do nó, cho mọi người – bằng cách đưa lịch-sử đó ra ánh sáng của tư-duy XE "tư-duy.." và ngôn-ngữ XE "ngôn-ngữ.." [25]. Qua hành-động ấy, nó nhân-hóa ký-ức âm u kia, nó tự-nhân-hóa. Nó là thực-thể XE "thực-thể.." khiến cho thế-giới này ngày càng đậm nhân-tính XE "nhân-tính.." , do con người làm ra cho con người, thực-thể khiến – một cách có ý-thức – nhân-tính nhập thế-gian XE "thế-gian.." ." Tư tưởng của Darwin, với hai khái niệm tiến hoá và sự chọn lựa tự nhiên, mở đường cho sự hiểu biết sinh giới trong kích thước lịch sử của nó. Hiện nay, nhiều ngành khoa học khác nhau ngày ngày khiến cho sự hiểu biết ấy chắc chắn, vững vàng, phong phú hơn. Và… đắc dụng ! Sự hiểu biết ấy đã khẳng định : mục đích của định trình gen của một loài vật là tái tạo chính nó "y như" nó. Nếu lịch sử vận động của sinh giới đã tạo ra nhiều hình thái sống khác nhau, nhiều loài vật khác nhau, ngược với mục đích của các định trình gen sẵn có, đó là vì : 1/ ngẫu nhiên. Nhưng những sự kiện ngẫu nhiên, đột biến, cũng chỉ có tác dụng trong khung vận động của sự sống thôi. Phần sáng tạo trong quá trình tiến hoá sinh hoá học không xuất phát từ số không. Thực chất đó là làm cái mới với cái cũ. Chính là điều tôi gọi là "quá trình xào nấu phân tử"[26]. 2/ sự uyển chuyển hầu như vô tận của định trình gen. Bản thân sự uyển chuyển ấy dựa vào rất ít nhân tố : Đa số gen và protein là những loại hình ráp do lắp ghép một vài nguyên tố, một vài motif liên quan tới một địa bàn nhận diện. Số luợng những motif ấy giới hạn, một hay hai nghìn. Sự tổng hợp những motif ấy khiến cho protein có khả năng khác nhau vô tận. Sự tổng hợp của một vài motif đặc biệt tạo cho một protein những thuộc tính đặc thù của nó[27]. Nhưng ngược lại, mỗi nguyên tố ấy và một số tổng hợp cơ bản của chúng lại cực kỳ ổn định xuyên qua lịch sử phát triển của sinh giới : Ở con ruồi, đã hưởng một lịch sử gen lâu dài, người ta đã minh bạch vạch ra những gen đảm bảo, ngay trong quả trứng, phương thức cấu tạo những trục phôi thai tương lai của con vật và những gen quyết định định mệnh và hình thù của từng khúc. Mọi người đều kinh ngạc khi tìm thấy những gen ấy ở tất cả những con thú được quan sát : liên tiếp, con ếch, con giun, con chuột và con người. Chỉ cách đây mười lăm năm thôi, ai có thể tưởng tượng rằng những gen điều khiển quá trình cấu tạo cấu trúc của một con người cũng là những gen tiến hành điều ấy ở một con ruồi hay một con giun. Đành phải chấp nhận rằng những thú vật hiện có trên quả đất đều xuất phát từ một sinh thể đã sống cách đây sáu trăm triệu năm và đã có bộ gen này[28]. Sự hiểu biết ấy cũng đã khẳng định điều quan trọng này : khi chào đời, con người chưa có khả năng tư duy bằng ngôn ngữ. Nếu nó không được người khác dạy, quá một tuổi nào đó, nó mất luôn khả năng học nói : quá muộn, những cơ cấu tế bào não cho phép hiện thực khả năng ấy đã hụt thời cơ để hình thành trong đầu nó ở tuổi thơ, qua quá trình phát triển của óc não[29]. Học thuyết của Darwin và những kiến thức hiện đại về sinh giới cho ta ý thức rõ : trong tư cách một thú vật, ta "đồng chất" với mọi thú vật. Quan trọng hơn : ta không thể tiếp tục sống ngoài một sinh giới có đầy hình thái sống khác ta. Quan trọng hơn nữa : ta không thể nên người, làm người một mình được. Điều đó khuyến khích ta khiêm tốn, học tiếp cận sinh giới và chính ta một cách nhân bản : thận trọng, quý mến, che chở, bảo vệ mọi hình thái của sự sống không uy hiếp sự sống của chính ta hay của tha nhân. Qua đó, giá gì thú hoá nhân giới, ta nhân hoá chính mình và ta nhân hoá quan hệ của ta với sinh giới. Điều ấy không thuộc lĩnh vực sinh học nữa. Nó thuộc lĩnh vực văn hoá, trong đó khoa học chỉ là một bộ phận, tuy rất cơ bản. Có nhà văn đã từng thành danh nhờ ý tưởng bất hủ này : so sánh thú vật với con người là sỉ nhục thú vật[30]. Đằng sau câu ấy, có ý này : bình thường thú vật không độc ác như con người. Nó giết để ăn và ngừng giết ngay khi đã no trong khi đó con người có thể giết, kể cả con người, để… vui chơi. Nó không ăn thịt đồng loại trong khi đó con người thì cứ thoải mái, có khi với nội dung sau, trong truyện ngắn Qua sông của Cung Tích Biền : Một hôm bà mẹ nói – đúng hơn là một bộ xương nói: - Nếu tôi chết, rất mong mình và các con hãy ăn thịt tôi để sống qua ngày. Liêu cắn môi, rít qua kẽ răng: - Đừng nói điều vô đạo. Bà mẹ nghiêm chỉnh, nói lời nguyện cầu; như một sấm truyền đầy cảm ứng thần linh, như máu trong mẹ nói: - Sao lại vô đạo? Tôi là vũ trụ tạo ra chúng. Lúc nằm trong bụng tôi, chúng chẳng từng hít máu tôi, thở trong tôi, ăn hút tủy xương tôi đó sao? Khi là bào thai lại hoang vu ăn thịt người, lúc thành người lại mang đạo đức ra trá hình đối với những dâng hiến cuối cùng. Để ? để tiếp tục làm cái việc muôn đời cho muôn người. Con người, đương nhiên là một vật thể, một hình thái tổ chức của vật chất. Nó cũng là một con thú, đã sống phải ăn, được ăn thì sống, hết ăn thì chết. Và cuối cùng, đã sống, phải chết[31]. Phải chăng vì vậy mà trong lịch sử phát triển của nhân giới, con người đã liên miên gán nhân tính đặc thù của mình cho vật giới và sinh giới, gán cho chúng những giá trị tinh thần chỉ có trong nhân giới thôi ? Ngày nay, nhiều người muốn dựa vào sinh học để hiểu và giải thích con người. Họ có lý, trong giới hạn này : hiểu biết và giải thích con người trong tư cách thú vật của nó. Ngoài ra, những kiến thức về sinh giới và những khái niệm biểu hiện chúng không là những thuộc tính của sự sống. Nó là sự hiểu biết hiện nay của con người về sự sống, thể hiện bằng ngôn ngữ. Trong sự hiểu biết ấy, chưa có bao nhiêu điều giúp ta hiểu biết chính ta trong tư cách người[32]. Ta biết chắc : không có tư duy độc lập với một sinh thể, không có một sinh thể độc lập với vật thể. Nhưng nhịp cầu nối liền vật-giới với sinh-giới, sinh-giới với nhân-giới, hôm nay vẫn mù mịt. Ta vẫn phải tìm hiểu và suy luận từng thế giới một trong tính đặc thù của nó, với những khái niệm thích ứng, ta chưa thể suy diễn thế giới này từ thế giới kia ra được. Vì thế, ta nên tránh lạm dụng tính chất hàm hồ của ngôn từ hiện nay của ta để xào xáo những vấn đề rất khác nhau. Trong cả ba thế giới, tất cả đều động, điều duy nhất hiểu được không là thực-thể gì gì đó, như Kant đã khuyên ta, mà là những quan-hệ tạo ra những thực thể tạm thời ổn định đối với nhãn quan rất người, rất giới hạn của ta. Trong vật-giới, chỉ có quan-hệ về lượng thôi, có thể "đo đếm" được[33] và biểu hiện được bằng phương trình toán. Trong những phương trình ấy, có độ dài của làn sóng, không có màu sắc, âm thanh. Không có nhục cảm. Sinh-giới vận động trên cơ sở đó[34], nhưng có thêm quan hệ về chất[35], quan hệ nhục-cảm. Trong sinh giới có màu sắc và âm thanh, có nóng có lạnh, có đau có sướng. Et tutti quanti. Nhân-giới vận động trên cơ sở hai thế giới kia, nhưng có thêm tính đặc thù này : đó là hình thái vận động của một thực thể có ý thức, có khả năng nhớ và hiểu biết vô tận, vượt sự sống của riêng nó, có những giá trị thuần nhân tính : đúng–sai, đẹp–xấu, tốt–tồi, tử tế – lưu manh, đáng yêu – đáng ghét, et tutti quanti, tất cả thể hiện bằng ngôn ngữ. Ngôn ngữ ấy có hình thái tồn tại độc lập với thân xác của con người và khả năng tái sinh trong đầu người khác. Nhờ ngôn ngữ, nhất là dưới hình thái viết, nhân loại đã tích lũy được nghiệm sinh, kiến thức, những giá trị đạo đức và nghệ thuật, truyền lại cho nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác. Con người là một con vật văn hoá ở đó. Trong tư cách ấy, nó nên người nhờ tha nhân, với ngôn ngữ và ý tưởng của người khác, do ngôn ngữ của người đời tải vào đầu nó. Nhưng nó cũng là một sinh vật cá thể, chẳng giống ai. Quan-hệ của nó, hôm nay, với thế-giới luôn luôn thay đổi này, cũng là quan-hệ vừa quá cũ kĩ vừa cực mới của người đời xưa với thế giới của người đời nay – xuyên qua chính nó ! Vì thế nó có khả năng đặt lại câu hỏi về chính mình trong mọi lĩnh vực của tư duy, sáng tạo những kiến thức và giá trị mới cho bản thân nó và người đời, khiến xã hội phải thay đổi. Từ từ ôn hoà hay bạo liệt đột biến thì tuỳ… những ai ? Điều ấy có nghĩa : a/ trí tuệ và nhân cách của ta cắm sâu vào lịch sử của loài người, trước hết những cộng đồng văn hoá khai sinh ra ta, và có khả năng ù lì hay phát triển vô tận cho tới khi loài người tiêu vong. b/ xã hội rất có thể ít nhiều quay về thú giới chỉ nội vài thế hệ thôi nếu thế hệ trước chẳng còn bao nhiêu kiến thức, trí tuệ và giá trị đáng kể để truyền lại cho thế hệ sau. c/ xã hội có thể phát triển nhanh, độc đáo khi có tự do tư duy và ngôn luận. Trên cơ sở ấy, có lúc nó điên điên, sáng tác nghệ thuật để lưu lại ở đời, có khi hàng thế kỷ, một nỗi đam mê quái đản : yêu. Cứ đọc Tristan và Yzeut, Roméo và Juliette thì thấy. Con của thú "biết" nhảy, con của người biết yêu. Ta vốn là thú. Ta phải học làm người mới nên người được. Bài học đó, hiện nay, không thể tìm được trong sinh giới và những kiến thức của ta về sinh giới, dù là kiến thức của bác học đích thực.[36] Tìm ở đâu là một câu chuyện khác. 2009-09-25, sửa lần cuối : vứt ít từ thừa, sửa vài từ, thêm vài dòng Phan Huy Đường [1] L'Éternel. [2] Sinh giới mênh mông, bao gồm thảo giới (monde végétal) và thú giới (monde animal). Thú giới cũng lại mông mênh, bao gồm những vi khuẩn tí ti cho tới con người. Trong bài này, nói chung, ta giới hạn sinh vật và thú vật theo nghĩa thông dụng : những thú vật gần ta nhất, chí ít có một hệ thần kinh (système nerveux) dù thô sơ. [3] Trong bài này, những khái niệm viết một cách hơi khác thường, giá-trị thay vì giá trị, là những khái niệm riêng đã được định nghĩa trong quyển Tư Duy Tự Do, nxb Đà Nẵng, 2006. Xin lỗi độc giả : tôi không thể lải nhải lại mãi những định nghĩa ấy, chết người ta. [4] đưa nó vào một hệ suy luận nhất quán về mặt hình thức. [5] … car moi, l'Éternel, ton Dieu, je suis un Dieu jaloux, qui punis l'iniquité des pères sur les enfants jusqu'à la troisième et à la quatrième génération de ceux qui me haïssent, et qui fais miséricorde jusqu'en mille générations à ceux qui m'aiment et qui gardent mes commandements. … vì ta, Đấng Vĩnh Cửu, Chúa của ngươi, ta là một vị Chúa ghen tuông, ta sẽ trừng phạt sự đồi bại của những người cha tới tận ba bốn đời con cháu của những kẻ căm ghét ta, và ta sẽ khoan dung cả nghìn thế hệ cho những kẻ yêu ta và duy trì mệnh lệnh của ta. Cựu ước. [6] tạm dịch chữ nghĩa thôi : Quốc tế duy bối cảnh. Raoul Vaneigem tham gia : 1961-1970. Năm 1970, bị Guy Debord trục xuất. [7] le cherche midi éditeur, Paris, 1996. [8] Chí ít, niềm tin này đã khiến dân chúng bớt khổ trong suốt chục thế kỷ phong kiến ở Pháp : Chúa Nhật thì cấm lãnh chúa đánh nhau và giết người ! Ngày nay, suốt tuần, cạnh tranh nhau không thương tiếc, kiếm tiền túi bụi với bất cứ giá nào, rồi ngày Chúa Nhật, đi nhà thờ nghe nhạc thánh, xả hơi, không là điều dở. [9] Le malheur est qu'il est particulièrement difficile, sinon impossible, de définir la vie. Khốn thay, định nghĩa sự sống là điều cực khó, nếu không nói là bất khả thi. Texte de la 1ère conférence de l'Université de tous les savoirs réalisée le 1er janvier 2000 par François Jacob. [Nobel y khoa]. Sau đây, mỗi lần trích văn bản này, tôi chỉ ghi [François Jacob] cho gọn. [10] En réalité la vie est un processus, une organisation de la matière. [François Jacob] [11] Anti-Dühring, Engels, Éditions Sociales, 1973, tr.113. PHĐ nhấn mạnh. [12] Anti-Dühring, Engels, Éditions Sociales, 1973, tr.114. [13] Nxb Gallimard, 1970. [14] Engels và Marx quý trọng học thuyết của Darwin ngay từ lúc nó mới xuất hiện. Engels còn so sánh Tư bản luận với Nguồn gốc các loài. Và Marx đã từng viết : Đây là quyển sách chứa đựng nền tảng, về mặt lịch sử của tự nhiện, cho những ý tưởng của chúng ta. (thư cho Engels, 19/12/1860) : www.cmaq.net/fr/node/32454. Về "định nghĩa" trên, Engels nhận định : đó chỉ là quan điểm trừu tượng nhất về sự sống. Muốn thực sự hiểu sự sống là gì, trước hết phải lần lượt nghiên cứu tất cả những hình thái vận động cụ thể của nó. "Biện chứng duy vật" kiểu Marx và Engels nghĩa là thế. Vì thế ông tránh không tán liều về biện chứng của sự sống : Thư của Engels cho Marx, ngày 30 tháng 5 năm 1873 : 4. L'organisme. Sur ce point, je ne me hasarderai pour l'instant à aucune dialectique . 4. Sinh thể. Trên vấn đề này, hiện nay, tôi không liều bất cứ suy luận biện chứng nào. classiques.uqac.ca/classiques/Engels_friedrich/dialectique/preface.htmlNgày nay, người ta đang tiến hành những nghiên cứu ấy như người ta đã từng tìm hiểu hầu hết những hình thái vận động cụ thể của vật chất trong 3-4 thế kỷ vừa qua. [15] Như Goethe đã từng nói đâu đó : “Mọi lý thuyết đều màu xám. Chỉ cây đời là mãi mãi xanh tươi”. [16] Trong lý luận văn học, thay vì nhà văn người ta đã tạo ra : l'écrivant, kẻ đang viết. [17] Ai thích dùng khái niệm falsifiabilité hay réfutabilité của Karl Popper để biến môn lịch sự thành một môn "khoa học", nên quan tâm đến vấn đề này. Lịch sử của quá trình phát triển kiến thức vật lý, sinh học, v.v. rất khác lịch sử của quá trình phát triển các xã hội loài người, tuy hai lịch sử ấy không thể biệt lập được. [18] but, fin, projet, dessein, objectif… [19] L'être vivant représente bien l'exécution d'un dessein, mais qu'aucune intelligence n'a conçu. Il tend vers un but, mais qu'aucune volonté n'a choisi. Ce but, c'est de préparer un programme identique pour la génération suivante. C'est de se reproduire. Sinh thể đúng là thể hiện một ý đồ, nhưng không do trí tuệ nào thai nghén. Nó nhắm một mục đích, nhưng không do ý chí nào đã lựa chọn. Mục đích ấy là chuẩn bị một dịnh trình y hệt cho thế hệ sau. Là tự tái tạo. La logique du vivant, François Jacob, Tel Gallimard, 1970, tr.10. [20] Rất có thể nghiệm sinh này là một trong những cơ sở khiến người đời tin vào Sự trở lại vĩnh cửu (Éternel Retour) đã tràn ngập thơ văn và các hệ tư tưởng. Ngày nay, ngay ở mức vật lý thôi, người ta đã bắt đầu quen quen với quan điểm rằng vũ trụ đang phềnh nở, không trở lại cái gì cả, dù ngày mai, mặt trời sẽ mọc lại. [21] La conscience est toujours conscience de quelque chose. Sartre, ý của Husserl. Ý thức luôn luôn là ý thức về một cái gì. Do đó, nó không là cái mà nó ý thức. Khổ thay, con người lại có ý thức về… chính mình ! Vậy nó không thể là… mình ! Nội dung cơ bản của L'Être et le Néant, Thực-thể và Hư-Vô ở đó. [22] xuất thân là bác sĩ. [23] Tư Duy Tự Do, PHĐ, nxb Đà Nẵng, 2006 [24] Ta thấy em trong tiền kiếp dưới mặt trời lẻ loi. Trịnh Công Sơn. Người không tin có tiền kiếp nghe vẫn mủi lòng! [25] Proust bỏ ra nhiều năm của đời mình, viết hàng nghìn trang sách để cuối cùng tìm lại được mùi vị của chiếc bánh mađơlen trong tuổi thơ. Ông đã không sống thừa. Thú vị ta cảm-nhận XE "cảm-nhận.." khi đọc ông hôm nay chứng nhận điều ấy. [26] La part créative de l'évolution biochimique ne se fait pas à partir de rien. Elle consiste à faire du neuf avec du vieux. C'est ce que j'ai appelé le "bricolage moléculaire". [François Jacob] [27] Gènes et protéines sont pour la plupart des sortes de mosaïques formées par l'assemblage de quelques éléments, de quelques motifs portant chacun un site de reconnaissance. Ces motifs existent en nombre limité, mille ou deux mille. C'est la combinatoire de ces motifs qui donne aux protéines leur infini variété. C'est la combinaison de quelques motifs particuliers qui donne à une protéine ses propriétés spécifiques. [François Jacob] [28] Chez la mouche, qui jouit d'un long passé génétique, ont été mis en évidence les gènes qui assurent, dans l'oeuf, la mise en place des axes du futur embryon, puis ceux qui déterminent le destin et la forme de chacun de ces segments. A la stupéfaction générale, ces mêmes gènes ont été retrouvés chez tous les animaux examinés : coup sur coup, grenouille, ver, souris et homme. Qui eut dit, il y a encore quinze ans, que les gènes qui mettent en place le plan d'un être humain sont les mêmes que ceux fonctionnant chez une mouche ou un ver. Il faut admettre que tous les animaux existant aujourd'hui sur cette terre descendent d'un même organisme ayant vécu il y a six cent millions d'années et possédant déjà cette batterie de gènes. [François Jacob] [29] Cuối đời, Trần Đức Thảo có nhận định này : trong quá trình học làm người của đứa trẻ (0-6 tuổi), con người phải lập lại, ngay trong cơ thể và óc não của nó, một cách cấp tốc, toàn bộ quá trình lịch sử đã biến con thú thành người. Cứ nhìn trẻ con học đứng, học đi và học nói, thấy liền ! [30] "Nói như thế, nhà văn của ta đánh giá con người theo “quan-điểm XE "quan-điểm.." ” của thú-vật. Chàng không biết rằng thú-vật không có “quan-điểm”. Chàng quên rằng con người, khác thú-vật ở đó, là sinh-vật duy-nhất biết nuôi dưỡng kỷ-niệm XE "kỷ-niệm.." về người đã chết, biết giết người vì những lý-do XE "lý-do.." khác hơn là sự-sống XE "sự-sống.." -còn: với tư-cách người, nó có một điều gì quý giá hơn cả sự-sống của chính nó và, khi cần-thiết, nó chấp nhận giết người hay chấp nhận chết để bảo vệ điều ấy, để đảm bảo cho điều ấy tồn-tại XE "tồn-tại.." vượt qua sự-sống-còn của chính-mình XE "chính-mình.." . Điều ấy là văn-hóa. […] Và chính văn-hóa cho phép nhà văn của ta gào lên câu ấy!", Tư Duy Tự Do, PHĐ, nxb Đà Nẵng, 2006. [31] Vie et mort . Dès maintenant, aucune physiologie ne passe pour scientifique, qui ne conçoive la mort comme moment essentiel de la vie (Note, HEGEL : Encyclopédie, I, p. 152-153), qui ne comprenne la négation de la vie comme essentiellement contenue dans la vie elle-même, de sorte que celle-ci est toujours pensée en relation avec son résultat nécessaire, qui est constamment en elle à l'état de germe, la mort. La conception dialectique de la vie n'est rien d’autre. Mais pour quiconque a bien compris cela, c'en est fini de tout le bavardage sur l'immortalité de l'âme. Ou bien la mort est décomposition de l'organisme, qui ne laisse rien derrière lui que les éléments chimiques composant sa substance, ou bien elle laisse un principe de vie, plus ou moins identique à l'âme, qui survit à tous les organismes vivants et non pas seulement à l'homme. Il suffit donc ici d'élucider simplement, à l'aide de la dialectique, la nature de la vie et de la mort pour éliminer une antique superstition. Vivre c'est mourir. Sống và chết. Ngay bây giờ, không có một học thuyết sinh lý học nào đáng gọi là khoa học mà không quan niệm cái chết như một thời điểm cơ bản trong sự sống (Ghi chú, HEGEL : Encyclopédie, I, p. 152-153), mà không hiểu rằng phủ định sự sống, cơ bản ở ngay trong chính sự sống, do đó mà sự sống luôn luôn được ý thức trong quan hệ với kết quả tất yếu của nó, kết quả luôn luôn tồn tải ở nó dưới hình thái mầm mống, cái chết. Quan điểm biện chứng về sự sống chẳng là gì khác hơn. Nhưng ai đã hiểu rõ điều ấy, chẳng còn tin được những tán dóc về tính vĩnh cửu của linh hồn. Hoặc cái chết là sự tan rã của sinh thể, không để lại gì ngoài những nguyên tố hoá học tạo ra nó, hoặc nó để lại một nguyên thể của sự sống, ít nhiều giống như linh hồn, sống vượt qua tất cả những sinh thể chứ không chỉ vượt sự sống của con người thôi. Ở đây, chỉ cần vạch rõ, bằng tư duy biện chứng, bản chất của sự sống và sự chết để loại bỏ một niềm tin dị đoan cổ xưa. Sống là chết. Engels, Dialectique de la nature. classiques.uqac.ca/classiques/Engels_friedrich/dialectique/engels_dialectique_nature.pdfBây giờ thì ai cũng biết : định trình gen không chỉ quyết định quá trình sống của sinh vật, nó còn quyết định thời điểm chết của nó. [32] Lĩnh vực tiên phong trong vấn đề này : những khoa học về sự hiểu biết (sciences cognitives), đặc biệt bộ phận nghiên cứu những quá trình hình thành và vận động của óc não, ngày nay kiểm chứng được, trong quan hệ tri-thức và giá-trị của con người với thế-giới (Chân Thiện Mỹ chẳng hạn) mang lại nhiều giả thuyết cực lý thú. Coi Biologique de la conscience của Gerald Edelman và L'homme neuronal của J-P Changeux. Theo tôi, thế nào cũng có ngày nó vừa khẳng định được một cách hợp lý thể-thống-nhất ba-chiều-kích ở con người (vật-thể, sinh-thể, trí-thể), vừa dẹp vô vàn thành kiến về Sự sống và Tinh thần. [33] Ở đây, ta không bàn tới những vấn đề lôi thôi trong vật lý lượng tử (xin coi Kỷ yếu Max Planck) : không thể đo đếm được tất cả cùng một lúc nhưng vẫn tính toán được những gì cần thiết cho hành động hữu hiệu của con người. [34] Giữa thế kỷ này, một sự thay đổi trong cách tiếp cận những sinh thể xuất hiện. Sự thay đổi ấy tương ứng với sự chào đời của ngành sinh học phân tử, nó xuất phát từ một ý tưởng mà những kiểm nghiệm sau đó mới khẳng định. Ý tuởng là những đặc tính của những sinh thể nhất thiết phải được giải thích bằng cấu trúc và những tương tác giữa những phân tử tạo ra nó. Quan điểm ấy do một nhóm nhà vật lý, nhất là Bernal, Niels Bohr, Delbrück, Schrödinger đưa ra, họ tin rằng mọi giải thích sinh học đều phải có một cơ sở phân tử. Dù phải tìm ra những quy luật mới tuy không thoát được vật lý nhưng chỉ có thể khám phá ra trong những sinh thể. Điều ấy, tới nay, chưa ai đã từng phát hiện.
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 2, 2010 4:12:22 GMT 9
[34] Giữa thế kỷ này, một sự thay đổi trong cách tiếp cận những sinh thể xuất hiện. Sự thay đổi ấy tương ứng với sự chào đời của ngành sinh học phân tử, nó xuất phát từ một ý tưởng mà những kiểm nghiệm sau đó mới khẳng định. Ý tuởng là những đặc tính của những sinh thể nhất thiết phải được giải thích bằng cấu trúc và những tương tác giữa những phân tử tạo ra nó. Quan điểm ấy do một nhóm nhà vật lý, nhất là Bernal, Niels Bohr, Delbrück, Schrödinger đưa ra, họ tin rằng mọi giải thích sinh học đều phải có một cơ sở phân tử. Dù phải tìm ra những quy luật mới tuy không thoát được vật lý nhưng chỉ có thể khám phá ra trong những sinh thể. Điều ấy, tới nay, chưa ai đã từng phát hiện. Au milieu de ce siècle, survint un changement nouveau dans la manière de considérer les organismes vivants. Cette transformation, qui correspondait à la naissance de la biologie moléculaire, est partie d'une idée que l'expérimentation est venue étayer seulement après coup. L'idée était que les propriétés des êtres vivants doivent nécessairement s'expliquer par la structure et les interactions des molécules qui les composent. Cette conception était due à un groupe de physiciens notamment Bernal, Niels Bohr, Delbrück, Schrödinger pour qui toute explication biologique devait avoir une base moléculaire. Quitte à trouver des lois nouvelles qui, sans échapper à la physique, auraient pu n'être découvertes que chez les êtres vivants. Ce qui, jusqu'à ce jour n'a pas été observé. [François Jacob] [35] Qualité, định nghĩa của tôi trong Penser librement hay Tư duy tự do, nxb Đà Nẵng, 2006. [36] Cứ đọc L'homme cet inconnu của Alexis Carrel, Nobel y khoa 1912, thì thấy. Kinh hoàng ! @@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@@ Con Chuột MẬU TÝ Đặng Tiến Năm nảo năm nao, năm nào cũng vậy, ngày hết Tết đến, viết bài Tết, ký ức lại xôn xao nhiều hình ảnh quê xưa, nao nao vần điệu ca dao.Năm Tý, nhớ câu : Chuột kêu rúc rích trong rương Anh đi nhè nhẹ, đụng giường má hay Ngày nay, nhất là ở thành phố, thấy chuột chạy, nghe chuột kêu, sẽ có người hoảng hốt. Nhưng xưa kia, việc ấy bình thường, thậm chí câu lục bát nói trên, còn là một âm vang của hạnh phúc. Nó chứng tỏ trong nhà có cái ăn. Tiếng rúc rích canh khuya gợi lên khoảng thời gian thanh lắng, và không gian êm ả. Trong khí hậu yên lành đó có tiếng chân người, kín đáo, kiêng dè : hạnh phúc đang đi dần, đi dần lại, cùng bóng đêm đồng lõa. Chúng ta tưởng tượng đôi vợ chồng mới cưới, về thăm cha mẹ, có lẽ là cha mẹ vợ, vào một dịp giỗ tết. Cứ tưởng tượng tối mồng hai Tết : mồng một lễ cha, mồng hai lễ mẹ, mồng ba lễ thầy. Vợ chồng đã cưới hỏi, nhưng khi về nhà cha mẹ, vẫn phải giữ kẽ nằm riêng. Tại sao lại sợ « má hay », mà không sợ cha, sợ tía ? Có lẽ là thời ấy, đàn ông ngủ nhà trên, phụ nữ ngủ nhà dưới. Xưa. Hạnh phúc ngày xưa : dè dặt mà đằm thắm sâu xa, không như cái vồ vập, thường dễ phôi pha ngày nay. Tình huống đêm hôm khuya khoắt này ắt là hư cấu, hoặc ít xảy ra. Nhưng tình cảm là thật và lễ nghi là thường. Lời người con gái – tôi dùng từ sai – nói ra lúc nào ? Phải chăng chỉ là giấc mơ hạnh phúc, thậm chí là hoang tưởng của người phụ nữ, đặt trên tình yêu, đồng cảm và lễ nghĩa, và trong chừng mực của kinh tế. Hạnh phúc trong không gian âm phái : người vợ, người mẹ, canh khuya, cái giường. Phải đặt tiếng chuột rúc rích trong không gian đó, chứng nhân, đồng lõa, rúc rúc chúc phúc. Một câu ca dao ngắn, ôi sao mà súc tích ! Tiếng chuột biểu hiện hạnh phúc, không phải tôi suy ra để tán tụng câu ca dao, mà do Tô Hoài kể lại, trong truyện O chuột, 1941, một thành công đầu tay của anh : « Người ta chỉ ưa cái tiếng kêu « chuúc… chuuúc.. ». Các cụ ta nói : ấy chuột chù bảo : « túc, túc » « đủ đủ ». Nhà ai mà chuột chù cứ túc túc luôn, ắt nhà ấy hẳn sắp có việc đại phát tài ». Nửa thế kỷ sau, Tô Hoài nhắc lại ý cũ, và đế thêm vào câu ca dao minh họa : Thứ nhất đom đóm vào nhà, Thứ nhì chuột rúc, thứ ba hoa đèn. Lại Chuyện chuột, trong Chuyện Cũ Hà Nội, ấn bản 2000, là một đoản văn hay, đầy đủ về loài chuột. Tác giả giải thích : « Tôi viết bài lại kể về chuột này bởi xưa nay tôi có cơ duyên với chuột, đã viết nhiều về chuột. Những truyện ngắn O chuột, Chuyện gã Chuột bạch, Chuột đồng chuột nhà, và những Chuột thành phố, Đám cưới chuột… Tôi kiếm cơm nhờ chuột, vậy mà tôi vẫn chén thịt chuột… » Trong các tác phẩm được nhắc lại, đặc sắc nhất là Chuyện gã chuột bạch, tinh vi và tinh quái, ý vị và thi vị : « Cả hai vợ chồng cùng ưa đêm tối. Bởi ban ngày họ thường ngủ. Bốn cái chân trước sát vào nhau ; bốn con mắt cùng khép. Chiều đến đã đem bóng về dần dà trong cửa sổ, Bấy giờ vợ chồng chuột mới bừng mắt. Họ ngơ ngác nhìn hoàng hôn. Gã chuột đực mò mẫm tìm cái đĩa đựng gạo. Chị vợ cũng nhẹ nhàng đi theo. Họ gậm nhấm mấy hạt. Những tiếng răng nghiến trên hạt gạo, nghe ken két, sàn sạt như tiếng một con mọt cựa mình trong thớ gỗ ». Không biết trong văn học thế giới, có nhiều những âm hao tinh tế như vậy chăng ? Một hôm chuột vợ ngoạm được miếng mồi to, nuốt trửng một chú bọ ngựa : « Một mạng lớn, giết đi một mạng nhỏ, êm nhẹ như hơi chiều lặng lờ sang… » Chuột ả chết vì mắc nghẹn, chuột chàng không mấy quan tâm : « Gã đã khỏi ốm. Không có đàn bà thì chừng như gã khỏe khoắn lắm lắm. Một mình đánh cả hai cái vòng, nghe rộn ràng, cũng vui… ». Truyện đăng báo Tiểu Thuyết thứ bảy, 1941. Nhân cái Tết năm Tý này, đọc lại, ngoài niềm thích thú, ta còn tìm được đôi ba chìa khóa đưa vào triết lý Tô Hoài, hiểu thêm non 200 trước tác của anh, về sau. Trong Lại Chuyện Chuột đã dẫn, Tô Hoài có nhắc đến truyện dân gian Trinh Thử ; chắc là anh đã nghe truyển khẩu và không kiểm soát văn bản nên đã kể… ngược, nhầm nhân vật chuột chồng ra chuột vợ. Trinh Thử, con chuột trinh tiết là một truyện nôm bằng thơ, ra đời cuối thế kỷ 19. Vì các bản in xưa kia, ngoài bìa ghi tác giả là « Trần triều xử sĩ Hồ huyện Qui tiên sinh soạn » nên độc giả tưởng là tác phẩm thời Trần Hồ. Ngày nay, giới biên khảo tìm ra nguồn gốc là truyện văn xuôi Trung Quốc xuất hiện nửa sau thế kỷ XIX, tên là Đông thành trinh thử truyện, chuyện con chuột trinh tiết thành phía đông. Bản in sớm nhất hiện nay là 1875, có người cho là của Nguyễn hàm Nghi, quê Quảng Bình. Tác phẩm gồm 850 câu lục bát, kể chuyện con chuột Bạch góa bụa đi kiếm mồi nuôi con ; một hôm tránh chó, lỡ cơ sa vào ổ khác. Gặp lúc chuột Cái đi vắng, chuột Đực thừa cơ tán tỉnh, chuột Bạch một mực từ chối ; chuột Cái về, bắt gặp, nghi ngờ và ghen tuông. Cuối cùng là đả thông và hòa giải. Chuyện răn đời, đề cao tiết hạnh, cảnh cáo thói trăng hoa và tính ghen tuông không cơ sở. Nhưng đặc sắc của Trinh Thử là đã đưa lời ăn tiếng nói dân gian vào tác phẩm, đôi khi bất ngờ. Ví dụ thành ngữ « râu quặp » chỉ người sợ vợ, qua lời chuột Đực : Ta đây dễ nạt được nào Chẳng như kẻ quặp râu vào rẻ roi. Thành ngữ « no cơm rửng mỡ » tưởng là đã hiện thực, Trinh Thử lại còn táo tợn hơn : « no cơm thì rửng hồng mao ». Một câu nói đùa vui, không ngờ xuất hiện trong tác phẩm văn học : Ruồi kia một phút bay qua Biết là đực cái, lọ là sự ai. Đây là lời chuột Cái trách chồng, rất thực tế và dân dã : Chiếu chăn nào có hững hờ Mà như voi đói thì vơ dong dài Quen mùi bận khác ăn chơi Có ngày cũng được như ai ghẻ tàu. Ghẻ tàu là tên nôm na của bệnh dương mai, da liễu. Truyện Kiều lắm lầu xanh, từ Tú Bà sang đến Bạc Bà dập dìu lắm kẻ vào ra, mà không nghe những Thúc Sinh, Từ Hải bệnh hoạn gì. Trinh Thử thật sự là một truyện dân gian. * Trên đây là những con chuột tượng trưng, tô điểm cho văn chương. Không phải là loài chuột thực tế, phá hoại mùa màng và đồ đạc trong nhà. Chưa kể phương Tây còn cho rằng chuột truyền nhiễm nạn dịch. Trong tiếng Pháp, từ thông dụng để nói hỏng việc là rater, nguồn gốc là từ rat, loài chuột đồng, chuột cống. Vì nạn phá hoại mùa màng, từ thời Kinh Thi do Khổng Tử san định, đã có ba bài Thạc thử, Chuột lớn : chuột lớn chuột lớn…, đừng ăn nếp ta… Chớ ních gạo mạch… đừng cắn mạ ta… Ngoài nghĩa đen, ở đây loài chuột còn ám chỉ tham quan, ô lại. Cùng nghĩa ấy trong thơ Việt Nam, Nguyễn Bỉnh Khiêm 1491-1585, có bài Tăng thử, Ghét chuột, dữ dội, với câu thơ cô đúc : thành xã ỷ vi gian. Con chuột, không những tàn phá đồng áng, mà còn ẩn nấp, dựa vào nơi tường thành, đàn xã (bàn thờ xã tắc) để làm điều gian xảo. Trích đoạn bản dịch của Ngô Lập Chi : Chuột lớn kia bất nhân Gậm khoét thật thâm độc Đồng ruộng trơ lúa khô Kho đụn hết gạo thóc Nông phụ cùng nông phu, Bụng đói miệng gào khóc Mệnh người dám coi thường Chuột mi sao tàn khốc ? Ỷ thành xã làm càn Thần, nhân đều hằn học. Rõ ràng là Nguyễn Bỉnh Khiêm không chỉ nhắm vào chuột-súc vật. Thơ Trạng Trình như là có tính cách sấm ký. Gần ta hơn Nguyễn đình Chiểu, 1822-1888, có bài Thảo thử hịch, Hịch đánh chuột, hiện thực, chân xác và quyết liệt : Gọi danh hiệu : chuột xạ, chuột lắt, chuột chù, chuột cống, anh em dòng họ nhiều tên, tra quán chỉ : ở nhà, ở ruộng, ở lạch, ở ngòi, bầu bạn non sông lắm lối… Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm kín biết bao nhiêu, vắn dài râu mọc hai chia, vắng mặt chủ hung hăng đà lắm lúc… (…) Sâu hiểm bấy tấm lòng nghiệt thử, cục cứt ra cũng nhọn hai đầu… (…) Ngàn dòng nước khôn bề rửa sạch tội đa dâm … Bị kết án đa dâm vì… mắn đẻ. Trong bài, có câu nằm ngửa cắn đuôi tha trứng… nhắc tới thơ Trinh Thử : cắn đuôi tha trứng gần xa…. Con chuột muốn tha quả trứng, phải nằm ngửa, ôm trứng trên bụng, đợi một con chuột khác ngậm đuôi kéo đi. Tranh Trung quốc có minh họa cảnh này : Loài chuột, do đó, được tiếng tinh khôn, có tài « ngũ kỹ » gồm năm cái khéo, theo sách Tuân Tử : bay, leo, bơi, đào, chạy. Lại có sách nói : thiên khai ư tý : trời mở ở cung Tý, vì theo lịch Trung Quốc, thiên can và địa chi khởi đầu ở cung Giáp Tý. Mỗi chu kỳ 12 hay 60 năm đều vậy. Chuyện nọ bù chuyện kia, hình ảnh chuột, ngay ở phương Tây cũng không phải luôn luôn và hoàn toàn xấu. Bằng cớ là con chuột Mickey trong tranh và phim hoạt họa Walt Disney, có lẽ là chú chuột lừng danh nhất thế giới hiện đại. Hãng phim này trong năm 2007 đã sản xuất một phim hoạt họa lừng danh, đoạt nhiều giải thưởng quốc tế, « Ratatouille », một cách chơi chữ, lấy tên một món ăn bình dân, tương đương với món bung của ta, và bắt đầu bằng tiếng Rat (chuột). Phim kể chuyện con chuột Rémy chạy lạc vào một tiệm ăn lớn ở Paris, lừng danh là nơi có nhiều tiệm ăn ngon. Tình thế đẩy đưa, chú chuột Rémy trở thành một đầu bếp xuất sắc, được làng chuột Paris bảo vệ và ủng hộ. Phim có tính cách ngụ ngôn, vui nhộn, truyền cảm, nhạc hay. Ý nhị, tinh tế. Ngày nay, trong máy điện toán, con chuột là bộ phận thân thiết nhất với bàn tay, có lẽ dịch từ tiếng Anh Mouse, tiếng Pháp Souris, là chuột nhắt, chứ không phải là chuột cống, Rat, mang âm vang xấu hơn. Trong ca dao, dường như cũng là chuột nhắt : Con mèo mày trèo cây cau Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà ? Chú chuột đi chợ đường xa Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo. Tranh Đám cưới chuột, có tiêu đề Nghênh hôn, vẫn có người gọi là Chuột vinh quy , trong nghệ thuật dân gian, có lẽ nguyên ủy là hai bức tranh kết hợp, bổ sung cho nhau, không rõ là chuột gì; có lẽ là chuột nhắt mới phải đấm mõm mèo, dù là trên đường vinh quy. Dung hòa những nét đa dạng, có khi tương phản về loài chuột, Apollinaire, 1880-1919, có bài thơ La Souris, Con chuột, trong bộ Le Bestaire, Tranh cầm thú, gồm 30 bài được Raoul Dufy minh họa, 1911. Bài thơ ngắn, đơn giản, hiện thực và thi vị : Belles journées, souris du temps Vous rongez peu à peu ma vie. Dieu ! je vais avoir vingt huit ans, Et mal vécus, à mon envie. Tạm dịch : Bao nhiêu ngày đẹp, chuột thời gian Gậm nhấm đời ta đã mẻ mòn. Trời ơi ! mình sắp lên hăm tám Sống vất vơ và mộng dở dang. Nhạc sĩ Nguyễn Tư Triệt đã phỏng dịch và phổ nhạc : Năm tươi tháng đẹp, ôi lũ chuột thời gian, Đời ta từng chút gậm mòn… Bài hát Chuột thời gian được in trong tập nhạc Khúc hát tiều phu, nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 2003 và ghi vào đĩa hát CD. Đây là cuộc giao duyên tươi đẹp của nghệ thuật, mà con chuột đã giăng đầu tơ mối nhợ. * Chuột gây tai hại, thì ai cũng biết. Nhưng tâm thức con người và qua văn thơ, nhất là ngôn ngữ dân gian, chuột là một hình ảnh thân thuộc và thân ái. Có lẽ vì vậy mà chuột đứng đầu trong hàng can chi, và nhiều người tin năm Tý là năm may mắn. Ở đời, không có gì may mắn bằng Chuột sa chĩnh gạo. Đón mừng xuân Mậu Tý, mình cứ chúc nhau dân dã như thế. Đặng Tiến Orléans, Tết Mậu Tý 2008
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 2, 2010 4:42:06 GMT 9
Văn hóa khoa học Vietsciences- Nguyễn Văn Tuấn Tám đặc điểm của văn hóa khoa học: 1- Thói quen đặt câu hỏi. 2- “Nói có sách, mách có chứng.” 3- Tôn trọng sự thật khách quan 4- Làm việc và thực hành dựa vào bằng chứng khách quan. 5- Hệ thống hóa những gì mình biết, không giấu giếm. 6- Dân chủ. 7- Kế thừa. 8- Trách nhiệm xã hội. Trong một lần nói chuyện về đề tài béo phì và sắc đẹp con người, người viết bài này đề cập đến một nghiên cứu ở Anh mà trong đó các nhà khoa học đo lường các chỉ số nhân trắc như chiều cao, vòng eo, vòng mông, cân nặng, và sử dụng các thuật toán thống kê để phát triển một mô hình định lượng “đẹp” dựa vào các đo lường trên. Đồng nghiệp và sinh viên trong cử tọa cười ồ lên và tỏ ra ngạc nhiên về ý tưởng mà họ cho là rất lạ lùng đó. Có người còn nói “Đúng là ở Tây phương người ta thừa tiền của để làm những nghiên cứu vớ vẩn”! Thoạt đầu mới nghe qua thì quả là … vớ vẩn thật, nhưng suy nghĩ kĩ thì công trình nghiên cứu có ứng dụng rất lớn trong y tế và thương mại. Cái mô hình thống kê để tiên đoán cái đẹp đó không phải chỉ là phương tiện dành cho các thanh niên để đi tìm người bạn đời, mà còn là một cơ sở khoa học để các nhà sản xuất quần áo thời trang dựa vào đó mà phát triển những chuẩn mực thích hợp cho từng độ tuổi và giới tính của một quần thể, và qua đó họ có thể đánh giá được thị trường tiêu thụ ra sao. Phản ứng của đồng nghiệp và sinh viên Việt Nam trước những nghiên cứu khoa học lạ mà tôi vừa kể trên đây không phải là cá biệt, mà khá phổ biến. Trước những kết quả nghiên cứu có vẻ khá hiển nhiên, chúng ta thường nói “Cái đó không làm nghiên cứu cũng biết”. Thói quen suy nghĩ kiểu “không làm nghiên cứu cũng biết” vô tình làm cho chúng ta thụ động, chỉ khoanh tay nhìn thế giới, mà không chịu khó tìm tòi và đào sâu suy nghĩ. Thói quen này còn là một hàng rào cản trở tiến bộ khoa học, bởi vì nói thư thế là mặc nhiên công nhận một giả định rằng những gì mình biết là chân lí, không cần làm gì thêm. Vả lại, vấn đề không phải đơn thuần là biết hay không biết, mà là định lượng cái biết của mình bao nhiêu, biết như thế nào, biết từ đâu, v.v… Nói tóm lại, phải có một văn hóa khoa học thì mới cảm nhận được những nghiên cứu mà thoạt đầu tưởng như vớ vẩn và vô bổ ấy. Vậy thì văn hóa khoa học là gì và có những đặc điểm gì? Theo định nghĩa của giới xã hội học, văn hóa bao gồm những qui ước, giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra và tích lũy trong quá trình tương tác giữa con người và môi trường tự nhiên. Hoạt động khoa học dựa vào một số qui trình, qui ước đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận và lấy làm chuẩn, và do đó hoạt động khoa học tạo nên văn hóa khoa học. Chẳng hạn như trong khi làm thí nghiệm, tất cả các dữ liệu liên quan đến phương pháp, số liệu, hình ảnh, hay nói chung kết quả đều phải được ghi chép cẩn thận trong nhật kí thí nghiệm, và nếu cần phải có một đồng môn kí vào nhật kí. Tất cả các kết quả phải được trình bày trong các buổi họp hàng tuần trước đồng nghiệp và được “soi mói” cẩn thận. Hay trong thực hành lâm sàng, bác sĩ phải trình bày những ca bệnh mình phụ trách trong buổi họp giao ban, để các đồng nghiệp khác bàn luận. Đó là một khía cạnh của văn hóa khoa học. Theo tôi, tám đặc điểm của văn hóa khoa học là: 1- Thói quen đặt câu hỏi. Đứng trước một sự kiện hay sự vật, người có văn hóa khoa học phải đặt câu hỏi tại sao, đào sâu suy nghĩ, và từ đó phát hiện vấn đề. Một khi đã phát hiện được vấn đề thì giải pháp để giải quyết cũng có thể theo sau. Chính vì thế mà có người nói trong khoa học, biết được câu hỏi, biết được vấn đề cũng có nghĩa là đã thành công 50% trong nghiên cứu. Kĩ năng phát hiện vấn đề được hệ thống giáo dục phương Tây phát đặc biệt chú trọng ngay từ bậc tiểu học. Ngay từ lúc mới vào học, học sinh các nước Tây phương đã khuyến khích tự mình tìm hiểu thế giới chung quanh, đặt câu hỏi, và tranh luận trước lớp học. Nhưng ở nước ta, phương pháp giáo dục phổ thông đòi hỏi học sinh phải nhồi nhét một số kiến thức cơ bản, và giải quyết những vấn đề theo một công thức đã định sẵn, nhưng không khuyết khích cách đặt vấn đề, phát hiện vấn đề. Một điểm đáng chú ý khác là giáo dục Việt Nam một cách vô hình đặt người học sinh và sinh viên vào một vị trí học thuật khiêm tốn. Sự tôn ti trật tự trong học thuật đó đòi hỏi người học sinh và sinh viên phải biết mình đang ở vị trí không có quyền đặt vấn đề, không có quyền tranh luận. Hệ quả là chưa lên tiếng thì đã bị phê bình ngay “con nít mới học vài ba chữ biết gì mà nói”, hay “không biết thì dựa cột mà nghe”, hay thậm chí “hỗn với thầy cô”. Thái độ trù dập như thế làm thui chột khả năng phát hiện vấn đề và làm suy giảm sự tự tin của học sinh. Trưởng thành trong môi trường thứ bậc trong học thuật như thế, không ngạc nhiên khi sinh viên của chúng ta ra ngoài du học tuy rất khá trong việc trả bài, học trong khuôn khổ của sách giáo khoa, nhưng khi học cao lên một bậc hay thoát ra ngoài sách vở thì họ rất lúng túng trong nghiên cứu khoa học, vì họ không biết cách đặt vấn đề và cũng thiếu tự tin để trình bày vấn đề. 2- “Nói có sách, mách có chứng.” Kiến thức mang tính kế thừa từ đời này sang đời khác. Thành ra, đối với người có tinh thần khoa học nghiêm túc, phát biểu có cơ sở và tài liệu tham khảo là điều đương nhiên. Mở bất cứ một sách giáo khoa hay thậm chí sách tham luận nào ở các nước Tây phương, chúng ta đều thấy phần tài liệu tham khảo dồi dào, ngay cả những thư từ trao đổi cá nhân cũng được trình bày cẩn thận với sự cho phép của đương sự. Cách làm việc này còn là một cách kế thừa di sản của người đi trước, và cũng là một cách ghi nhận công trạng của họ. Nhưng rất tiếc là ở nước ta, văn hóa “nói có sách mách có chứng” này vẫn chưa được chấp nhận rộng rãi. Có thể tìm thấy khá nhiều sách khoa học ở Việt Nam không kèm theo một tài liệu tham khảo nào. Vì không có tài liệu tham khảo, người đọc không biết tất cả những phát biểu trong sách là phát kiến của tác giả, hay mượn của người khác mà không chịu ghi nhận. Nếu là phát kiến của chính tác giả thì không có gì để nói, nhưng nếu lấy từ tài liệu của người khác thì đó là một vi phạm đạo đức khoa học. Phải nói thêm rằng “nói có sách, mách có chứng” có nghĩa là dựa vào tài liệu tham khảo gốc mà người phát biểu phải có trong tay, tận mắt nhìn thấy, và từng đọc qua. “Nói có sách, mách có chứng” không có nghĩa là trích dẫn nguồn tài liệu hạng thứ, hay trích dẫn từ một nguồn nào đó mà người phát biểu chưa từng đọc qua. Đây là một vấn đề trong khá nhiều bài báo nghiên cứu khoa học ở nước ta, vì nhiều tác giả có xu hướng trích dẫn tài liệu theo những bài báo khác, chứ không có tài liệu gốc, và hệ quả là nhiều phát biểu rất sai lầm, một sai lầm mang tính truyền nhiễm. 3- Tôn trọng sự thật khách quan. Làm khoa học là một hành trình đi tìm sự thật, khai hóa, truyền bá cái mà chúng ta gọi là “văn minh”, và vì thế khoa học đặt sự thật trên hết và trước hết, trước tất cả những định kiến cá nhân. Khoa học dựa vào những sự thật có thể thấy, có thể nghe, có thể sờ được, chứ không dựa vào kinh nghiệm cá nhân hay suy luận theo cảm tính. Điều quan trọng và cần thiết trong khoa học là không chỉ sự thật, mà là sự thật có liên quan đến vấn đề đang được điều tra. Những sự thật này phải được thu thập (i) có tổ chức, trực tiếp, và khách quan; (ii) độc lập với lí thuyết; và (iii) một cách tin cậy để làm nền tảng cho suy luận. Một số sinh viên khi làm nghiên cứu chưa quán triệt văn hóa khoa học nên có xu hướng sửa số liệu hay bỏ qua số liệu. Người viết bài này từng có một kinh nghiệm thú vị: khi phân tích mối tương quan giữa lượng đường trong máu và độ cholesterol trong máu, nhà nghiên cứu phát hiện một bệnh nhân với số liệu “trệch hướng” với mô hình, và đơn phương quyết định bỏ số liệu của bệnh nhân này để phân tích lại. Đây là một vi phạm nghiên trọng trong hoạt động khoa học. Văn hóa khoa học không cho phép chúng ta làm như thế. Trong hoạt động khoa học, tất cả những thất bại hay bất bình thường đều được khai thác, xem xét kĩ lưỡng để học hỏi thêm. Có khi chính những dữ liệu bất thường này là đòn bẫy để chúng ta phát hiện một cái mới thú vị khác. Thuốc viagra được phát hiện một cách tình cờ vì phản ứng của thuốc không nằm trong “dự kiến” của các nhà nghiên cứu. Nhiều khám phá khoa học bình thường đã được thực hiện từ những dữ liệu bất bình thường như thế. Tôn trọng sự thật khách quan để một cách nói rằng những giả thuyết sai lầm có thể cho ra những kết quả đúng nhưng ngẫu nhiên; tuy nhiên, không một giả thuyết đúng nào có thể cho ra những kết quả sai lầm. 4- Làm việc và thực hành dựa vào bằng chứng khách quan. Trong khoa học, niềm tin và kinh nghiệm cá nhân không thể xem là khách quan, và không thể làm nền tảng để hành động, nếu những kinh nghiệm đó chưa qua thử nghiệm khách quan. Trong y khoa, học thuyết y học thực chứng (evidence-based medicine) ra đời với phương châm thực hành lâm sàng phải dựa vào bằng chứng đúc kết từ các nghiên cứu khoa học. Học thuyết này đã lan rộng sang các ngành nghề khác như y tế công cộng, môi trường học, thậm chí quản lí hành chính. Theo đó, chúng ta phải hành xử và phán xét dựa trên cơ sở dữ kiện nghiên cứu, những dữ kiện được thu thập một cách khách quan, chứ không dựa vào cảm tính hay theo phong trào hay áp lực. Người Việt chúng ta còn quá quen với thói quen phát biểu theo kinh nghiệm cá nhân, niềm tin, thậm chí theo cảm tính. Chẳng hạn như năm ngoái, khi bệnh xơ hóa cơ delta bùng phát, một số chuyên gia phát biểu một cách khẳng định rằng (“theo kinh nghiệm của tôi”) nguyên nhân bệnh là do tiêm chích thuốc nhiều lần. Cần nói ngay rằng kinh nghiệm cá nhân dù rất quan trọng và có khi quí báu, nhưng không thể thay thế cho các sự thật được đúc kết từ những nghiên cứu khoa học khách quan. Một kinh nghiệm trong y học trước đây cho thấy giải quyết vấn đề theo kinh nghiệm và niềm tin cá nhân có thể gây ra nhiều tai họa nguy hiểm. Ở các nước Tây phương khoảng 20 năm trước đây thay thế estrogen từng được xem là một “thần dược” cho những phụ nữ sau mãn kinh, và các giáo sư y khoa tin vào hiệu quả của thuốc này đến nỗi cảnh báo các sinh viên y khoa rằng nếu mai đây khi hành nghề họ không sử dụng thuốc cho vài bệnh liên quan đến mãn kinh là một cái tội! Cho đến khi khoảng cuối thập niên 1990s, nhiều nghiên cứu khách quan cho thấy thay thế hormone có thể gây ra nhiều tác hại cho bệnh nhân hơn là lợi ích. Có lẽ thói quen thực hành dựa vào bằng chứng khách quan đã làm thiệt thòi y học cổ truyền ở nước ta. Các thuật điều trị cổ truyền đã được thực hành qua hàng nghìn năm, nhưng hiệu quả của chúng vẫn chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Chúng ta vẫn còn tin và hành xử theo tin đồn, theo truyền thuyết, thậm chí theo những niềm tin dị đoan. 5- Hệ thống hóa những gì mình biết, không giấu giếm. Trong hoạt động khoa học, tất cả những giả thuyết, phương pháp nghiên cứu, phương pháp phân tích, kết quả, và ý nghĩa của kết quả đều phải được hệ thống hóa trong một báo cáo khoa học, và công bố cho toàn thế giới biết. (Tất nhiên, đôi khi vì quyền lợi kinh tế và an ninh quốc gia, một số phương pháp không được công bố). Đặc điểm “văn hóa mở” này rất quan trọng và có lẽ là một yếu tố thúc đẩy phát triển khoa học ở các nước Tây phương. Đọc lại những nghiên cứu khoa học đơn giản từ thế kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, tôi không khỏi thầm khen những ghi chép cẩn thận (có khi cẩn thận đến từng dấu chấm và con số lẻ) của những nhà nghiên cứu thời đó, không có dấu diếm gì cả. Nhưng ở nước ta, “văn hóa dấu nghề” hình như vẫn còn tồn tại trong không ít nhà khoa học. Những câu chuyện về giáo sư cố tình không truyền hết kĩ năng cho sinh viên và nghiên cứu sinh ở nước ta đôi khi nghe qua rất khôi hài, nhưng rất tiếc là lại thực tế. Trong hoạt động khoa học, báo cáo khoa học thường được gửi cho một tập san chuyên ngành để đồng nghiệp có cơ hội thẩm định, và nếu không có vấn đề, sẽ công bố để đồng nghiệp khắp nơi trên thế giới biết được. Công bố báo cáo khoa học trên các tập san chuyên môn còn là một hình thức “thử lửa” và bảo đảm chất lượng của nghiên cứu. Trên bình diện quốc gia, công bố báo cáo khoa học trên các diễn đàn khoa học quốc tế là một cách không chỉ nâng cao sự hiện diện, mà còn nâng cao năng suất khoa học, của nước nhà. Ở phương Tây người ta thường thống kê số lượng bài báo khoa học mà các nhà khoa học công bố trên các tập chí chuyên ngành để đo lường và so sánh hiệu suất khoa học giữa các quốc gia. Nhưng ở nước ta văn hóa công bố báo cáo khoa học trên trường quốc tế vẫn chưa được hình thành rõ rệt. Phần lớn các công trình nghiên cứu tại nước ta chỉ được kết thúc bằng những buổi nghiệm thu hay luận án. Thật vậy, phần lớn các nghiên cứu khoa học ở nước ta chỉ được công bố trong các tập san nội địa dưới hình thức bản tóm tắt hay không qua bình duyệt nghiêm chỉnh. Trong hoạt động khoa học, cho dù công trình đã được nghiệm thu hay đưa vào luận án tiến sĩ hay thạc sĩ , nếu chưa được công bố trên các diễn đàn khoa học quốc tế thì công trình đó coi như chưa hoàn tất, bởi vì nó chưa qua “thử lửa” với môi trường rộng lớn hơn. Theo tác giả Phạm Duy Hiển (Tạp chí Tia Sáng số Tháng 6 năm 2005) trong năm 2003, các nhà khoa học Việt Nam đã công bố trên 7000 bài báo trên các tạp chí hay tập san khoa học trong nước. Con số này rất ư là ấn tượng, song đó chỉ là những bài báo “ta viết cho ta đọc” chứ trên trường quốc tế thì sự hiện diện của các nhà khoa học Việt Nam còn rất khiêm tốn. Vẫn theo tác giả Phạm Duy Hiển, trong năm 2001 các nhà khoa học Việt Nam chỉ công bố được 354 bài báo khoa học trên các tập san quốc tế, mà 71% con số này là do cộng tác với các nhà khoa học ngoài Việt Nam. Trong ngành y khoa, trong suốt 40 năm qua (tính từ 1965) các nhà khoa học tại Việt Nam chỉ có khoảng 300 bài báo trên các tập san y sinh học quốc tế. Đó là những con số cực kì khiêm tốn, nếu so sánh với Thái Lan (5000 bài) hay Singapore (20.000 bài). 6- Dân chủ. Thật vậy, hoạt động khoa học là một môi trường dân chủ, hiểu theo nghĩa tất cả các phát kiến của nhà khoa học đều được đồng nghiệp bình duyệt nghiêm túc, và ngược lại, nhà khoa học cũng có cơ hội bình duyệt các nghiên cứu của đồng nghiệp mình. Dân chủ trong khoa học còn có nghĩa một mô thức (paradigm) nào đó được đa số cộng đồng khoa học chấp nhận, thì mô thức đó được xem là chuẩn để thực hành. Nhưng đến khi mô thức đó được chứng minh không còn thích hợp hay sai, thì vẫn theo tinh thần dân chủ, mô thức đó sẽ được thay đổi bằng một mô thức mới. Tinh thần dân chủ khoa học còn có nghĩa là các nhà khoa học lớn và có kinh nghiệm phải lắng nghe ý kiến của các nhà khoa học trẻ, chứ không có tình trạng “cây đa cây đề” dùng uy tín cá nhân để lấn ép đồng nghiệp trẻ. Bất cứ ai từng đi dự các hội nghị khoa học ở các nước Tây phương đều thấy những nhà khoa học cao tuổi, những người mà chúng ta hay gọi là “cây đa cây đề” nghiêm chỉnh lắng nghe đồng nghiệp trẻ trình bày, hay trả lời nghiêm chỉnh những phê phán, phản biện từ đồng nghiệp trẻ đáng tuổi học trò hay con cháu mình. Rất tiếc tinh thần dân chủ này chưa thể hiện rõ ở nước ta, vì vẫn còn khá nhiều giáo sư lâu năm tự cho mình cái quyền lên lớp giới trẻ mà không chịu lắng nghe hay đánh giá thấp ý kiến của giới trẻ. Có nhiều vị thậm chí không chịu tiếp cận một cái nhìn mới về một vấn đề cũ, và hệ quả là các trao đổi chỉ có một chiều, thiếu dân chủ, làm cho hoạt động khoa học mất hào hứng và tất nhiên là thiếu dân chủ. 7- Kế thừa. Điều đẹp nhất của văn hóa khoa học không chỉ là dân chủ mà còn mang tính kế thừa, chuẩn bị cho một thế hệ tiếp nối. Không có kế thừa, khoa học sẽ là đi vào bế tắc rất nhanh. Ở các nước phương Tây (như ở Úc nơi người viết bài này đang làm việc), người ta có những kế hoạch cụ thể, kể lập ra những ngân sách đặc biệt, để nuôi dưỡng thế hệ nghiên cứu khoa học trẻ, những người đã có học vị tiến sĩ và đang làm nghiên cứu hậu tiến sĩ. Ngân sách này được phân phối cho các trung tâm nghiên cứu có điều kiện và cơ sở vật chất để sử dụng các nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ và từng bước đào tạo họ thành những nhà nghiên cứu độc lập, những con chim đầu đàn. Ngoài ra, trong các hội nghị quốc gia, những “cây đa cây đề” thậm chí nhường những chức vụ và vai trò quan trọng cho giới trẻ đảm trách để chuẩn bị họ cho một tương lai kế thừa sự nghiệp của những người đang sắp về hưu. Nhưng ở nước ta, việc chuẩn bị cho thế hệ kế tiếp vẫn còn là một … ý nguyện. Nhiều nhà khoa học trẻ được đào tạo bài bản từ trong và ngoài nước vẫn chỉ là những cái bóng bên cạnh các “cây đa cây đề”, chưa được giao những trọng trách. Có người chờ đợi mòn mỏi, và không đủ kiên nhẫn (cũng không thể trách họ) nên đành phải tìm cách ra nước ngoài và khả năng quay về nước thật thấp. Hệ quả là ngày nay, chúng ta thường nghe đến tình trạng “lão hóa” trong đội ngũ nghiên cứu khoa học nước nhà: trong khi những nhà khoa học lớn sắp về hưu chúng ta vẫn chưa có một đội ngũ xứng đáng kế thừa. Theo thống kê năm 2000, chỉ có 15% thầy cô đại học có học vị tiến sĩ (một học vị cần thiết cho nghiên cứu khoa học độc lập), và trong số mang hàm giáo sư, phần lớn ở độ tuổi 60 – 65. Với một lực lượng yếu như thế, không ngạc nhiên chúng ta chưa đủ khả năng để cạnh tranh trên trường quốc tế như là một tập thể. Sự hụt hẫng này xảy ra vì văn hóa kế thừa trong khoa học ở nước ta chưa được hình thành. 8- Trách nhiệm xã hội. Bản chất của khoa học là nhân đạo, và vì thế hoạt động khoa học còn phải có trách nhiệm với xã hội. Người làm khoa học, nói cho cùng, cũng là một thành viên trong xã hội, chứ không thể nào đứng ngoài hay đứng cao hơn xã hội. Nhà khoa học phải thông qua các cơ chế dân chủ để truyền đạt tri thức, để có tiếng nói; không thông qua các cơ chế này là biểu hiện của sự kiêu ngạo. Trong thập niên 1960s, trước chiến dịch sử dụng chất độc da cam ở Việt Nam, các nhà khoa học Mĩ cũng đã lên tiếng phản đối, và một số còn lên án gay gắt hành động này và và yêu cầu Chính phủ Mĩ phải ngưng ngay việc dùng hóa chất độc hại. Năm 1967, Hiệp hội vì Phát triển Khoa học Mĩ (American Association for the Advancement of Science), với sự thúc đẩy của Giáo sư E. W. Pfeiffer (Đại học Montana), khuyến cáo Bộ quốc phòng Mĩ về hậu quả lâu dài cho người dân và môi sinh Việt Nam do chiến dịch phun hóa chất gây ra. Mới đây, Việt Nam bàn thảo dự án xây một nhà máy điện hạt nhân, và các nhà khoa học trong và ngoài nước cũng đã góp ý khá sôi nổi, và đó chính là một cách thể hiện trách nhiệm xã hội của người làm khoa học. Trong thực tế, không phải lúc nào các nhà khoa học cũng thành công trong việc thuyết phục chính quyền, nhưng ai cũng nhất trí là nhà khoa học phải có trách nhiệm với xã hội, và lên tiếng là một điều cần thiết. *** Những đặc điểm mà tôi vừa nêu có lẽ chưa hoàn toán đầy đủ, nhưng thiết nghĩ cũng nói lên được những khía cạnh cơ bản của văn hóa khoa học. Tất nhiên, văn hóa khoa học có thể khác nhau giữa các quốc gia, nhưng các đặc điểm phổ quát mà đại đa số những người làm khoa học chấp nhận. Nhìn qua những đặc điểm trên, chúng ta thấy văn hóa khoa học thực chất là những mô thức, những “mốt” mà con người và xã hội tiếp nhận khoa học và công nghệ. Văn hóa khoa học có ảnh hưởng đến văn hóa và xã hội nói chung. Chẳng hạn như trong y học có văn hóa y học, và một trong những đặc điểm của văn hóa đó là thực hành lâm sàng theo bằng chứng nghiên cứu khoa học (tức là y học thực chứng), nhưng văn hóa này còn ảnh hưởng đến các hoạt động khác ngoài y học, kể cả hoạt động chính trị. Đó cũng là một đóng góp gián tiếp của văn hóa khoa học cho văn hóa xã hội. Trong thập niên vừa qua, văn hóa khoa học đã trở thành một “đề án” được thảo luận rộng rãi ở các nước Tây phương. Phần lớn giới hoạch định chính sách quốc gia xem văn hóa khoa học là một yếu tố trong phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Đối với giáo dục, văn hóa khoa học là một điều kiện cơ bản và cần thiết mà người dân cần có để hiểu các vấn đề khoa học của xã hội hiện đại, và từ đó mỗi công dân có thể đóng góp một vai trò tích cực cho tranh luận xã hội. Dưới cái nhìn của các nhà xã hội học và sử gia Tây phương, văn hóa khoa học là một điều kiện tất yếu cho phát triển kinh tế và sáng tạo. Kinh nghiệm từ các nước Tây phương tiên tiến cho thấy khoa học và văn hóa khoa học không chỉ sản sinh ra một số giá trị mới để hiểu thế giới chung quanh, mà còn thay đổi mục tiêu của hoạt động kinh tế, và thay đổi xã hội thành mội môi trường khoa học hiện đại, và qua đó thúc đẩy hoạt động khoa học. Nếu kinh nghiệm của các nước Tây phương là một bài học, sự phát triển khoa học và kinh tế ở nước ta không chỉ phụ thuộc vào việc ta có ít hay nhiều viện nghiên cứu hay nhiều tiền, mà chủ yếu phụ thuộc vào văn hóa khoa học. Có thể nói từ xưa, nước ta không có một truyền thống khảo cứu khoa học. Lịch sử Việt Nam cho thấy nước ta có nhiều anh hùng quân sự, nhà thơ, nhà sử học, nhưng rất ít nhà khoa học, kĩ sư hay nhà kinh tế. Hệ thống giáo dục của nước ta ngày xưa được mô phỏng theo hệ thống giáo dục của Trung Quốc. Hệ thống này đòi hỏi người học sinh phải tuân theo sách vở một cách máy móc, và không khuyến khích sự tự do tìm tòi, thử nghiệm. Nó ca ngợi sự học thuộc lòng những điều chỉ dạy của Khổng Tử, và khinh bỉ những ai làm nghề tay chân (kĩ sư, khoa học gia, công nhân, nông dân, v.v…) hay làm thương mại. Khi người Pháp vào Việt Nam, hệ thống giáo dục Trung Quốc được thay thế bằng hệ thống giáo dục Pháp, phải nói là có “tiến bộ” hơn, vì những tri thức khoa học và kĩ thuật được đưa vào một cách có hệ thống hơn, nhưng cũng, một phần lớn, chỉ để phục vụ cho thực dân. Với cả một hệ thống giáo dục, học sinh phải học thuộc lòng sách giáo khoa nhằm cố thi đỗ trong các kỳ thi rất gắt gao. Cách giáo dục "độc thoại" và "thụ động" này làm cho người học sinh nản lòng đi tìm hiểu, chất vấn những sự việc, hiện tượng chung quanh xảy ra như thế nào và tại sao. Hậu quả là nhiều thế hệ học sinh thụ động, kém tưởng tượng, không phát triển được kĩ năng thực hành, sáng tạo và tính chủ động, tự lập; không có cơ hội nghiên cứu khoa học. Do đó, phần lớn những kiến thức về Việt Nam, dân tộc Việt Nam và tài nguyên Việt Nam lại nằm trong tay các nhà khoa học ngoại quốc, thay vì trong tay các nhà khoa học Việt Nam. Xã hội Việt Nam về căn bản vẫn là một xã hội nông nghiệp, và chúng ta thường quen với những ước lệ chung chung, tư duy trung bình, xu hướng ổn định (không muốn tìm thêm vấn đề!), thiếu tiêu chuẩn cụ thể, vẫn dựa vào các giá trị truyền thống chưa từng qua thử nghiệm khoa học, vẫn xem thường văn hóa “cân đo đong đếm”, hay nói chung là vẫn chưa hình thành một văn hóa khoa học. Nhưng có lẽ sẽ không ngoa khi nói rằng văn hóa Việt Nam đang chuyển mình trước thời kì mới, và cũng như trong quá khứ cứ mỗi lần chuyển mình, chúng ta tiếp thu một số đặc điểm văn hóa mới. Trong thời kì hội nhập quốc tế như hiện nay, chúng ta rất cần phát triển một văn hóa khoa học như là một bộ phận của văn hóa dân tộc. Vì thế, để phát triển kinh tế xã hội, chúng ta rất cần hình thành văn hóa khoa học. Ngày nay, chúng ta nói rất nhiều đến đổi mới tư duy kinh tế, nhưng tôi thấy ít người nhắc đến văn hóa khoa học. Theo đó, phải dứt khoát đoạn tuyệt với hình thức chủ nghĩa (như hám bằng cấp, học hành tài tử hiện đang còn rất phổ biến trong người Việt). Thay vào đó là trang bị văn hóa tìm tòi cho mỗi học sinh khi họ cắp sách đến trường, trang bị cho họ tư duy ham hiểu biết, say mê sáng tạo, trọng phương pháp, sẵn sàng thích ứng với môi trường mới, dân chủ, và có ý thức trách nhiệm với xã hội và đồng bào. Người có văn hóa khoa học phải có can đảm tôn trọng sự thật khách quan, không câu nệ chủ nghĩa giáo điều, hay thành kiến dân tộc; phải có tự tin và sáng tạo, không máy móc đi theo đường mòn, không làm theo sách vở một cách máy móc; luôn luôn tìm tòi học hỏi; biết áp dụng tinh thần khách quan và khoa học vào mọi phương diện của đời sống cá nhân và xã hội, không phải chỉ trong phạm vi chuyên môn; và phải biết hợp tác, và ở một số người, biết lãnh đạo theo những nguyên tắc dân chủ văn minh. Để đo lường trình độ văn hóa đó, chúng ta cần phát triển những tiêu chuẩn khách quan để đánh giá trình độ văn hóa khoa học qua những chỉ tiêu đầu vào (như số nhà khoa học, kĩ sư, chuyên gia; số trung tâm nghiên cứu khoa học nghiêm chỉnh; đầu tư cho khoa học; v.v…), hoạt động (đào tạo, đề bạt, hiểu biết về khoa học trong công chúng, báo chí khoa học, v.v…), và đầu ra (bằng sáng chế, bài báo khoa học, thành tựu trong ứng dụng khoa học, thương mại hóa, v.v…). Chỉ khi nào chúng ta hình thành được một văn hóa khoa học thì mới có thể tạo ra một bước tiến mới cho khoa học Việt Nam.
|
|
|
Post by NhiHa on Oct 27, 2010 5:53:54 GMT 9
|
|
|
Post by NhiHa on Jan 15, 2011 5:40:13 GMT 9
Ngầu pín
CAO TỰ THANH
Buổi tối đang đau đầu vì những Độ mở kinh tế, Đo lường mức độ thương mại trong quyển Một trăm câu hỏi đáp về Ngoại thương Thành phố HCM thì Trần Hữu Quang bên Viện Khoa học xã hội Thành phố phone qua hỏi Ngầu pín là gì ? Thật là điên ruột khi biết y đang nhậu với một đám, nhậu ngầu pín, rồi no pín rửng chữ, rồi thảo luận xem ngầu pín là gì, rồi không có trọng tài bèn cử y phone qua hỏi, còn nói nhã là tra từ điển hộ. Trời ạ, bản nhân đang cày lòi cả thủy tinh thể, các người thì rảnh rỗi đàn đúm ăn nhậu hưởng lạc phi vô sản, mà chỉ nghĩ tới bản nhân như một thứ từ điển sống thế này thôi à ! Thật là tình đời đen bạc. Nhưng đúng là từ này bản nhân chưa có dịp tra, thôi thì một công đôi việc. Cúp máy đi tao gọi lại. Ừ mau lên nhé. Y mà ở đây thì chắc được ăn từ điển chứ không phải nhậu ngầu pín đâu.
Ra rồi nghe đây. Ngầu là ngưu, tức con bò (thủy ngưu mới là con trâu), pín là âm Hoa Hán giọng Quảng Đông, giọng Quan thoại cũng thế vì đây thuộc mảng từ vựng cơ bản, âm Việt Hán là tiện, làm động từ là lái ể nhưng đây là danh từ, chắc là một biệt danh kiểu tiếng lóng để chỉ công cụ tác nghiệp trong đó có li lái của con đực. Ngầu là ngưu thì phải rồi, nhưng mày có chắc pín là tiện không. Phụ âm đầu t thời Đường chuyển thành phụ âm đầu p và b thời Minh Thanh rất nhiều, như tỳ bà thành pípá, tân khách thành bìnkè, có thể nói là một quy luật ngữ âm, về cả ý nghĩa lẫn âm thanh thì chữ tiện đều hợp lý, còn đúng hay không để tao hỏi lại mấy cô bạn người Tàu. OK cảm ơn tiên sinh nhiều nhiều, chào nhé. Quả thật bọn người nhậu ngầu pín này rất có tác phong cắc bụp mau lẹ trong các hoạt động giao lưu.
Bực mình xong lại buồn cười, may là tôi tra ra, không thì nếu chẳng may họ pín vào lời ra suy diễn tào lao lại gây nhiễu kiến thức ngôn ngữ của người thiên hạ. Còn nhớ có một đại nhân vật lên cả tivi giải thích thổ là đất, mộ là nấm mộ, xe thổ mộ tức cái xe như nấm mộ lùm lùm chạy trên đường. Nguyễn Văn Huệ bên Đại học Tổng hợp thành phố thấy vô lý bèn chửi đổng “ Mả cha mày chạy chứ mả ai chạy ! ”. Thứ từ nguyên học dân gian ấy dùng để tào lao thì được còn nếu tưởng là học vấn thì chỉ làm em cháu ngu đi. Thổ mộ là cách đọc Việt hóa của từ t’ủ mỏ, tức độc mã (một ngựa) đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông. Xe thổ mộ tức xe (một) ngựa.
Thêm một ví dụ về sự suy diễn tào lao. Cái áo trường sam (áo vạt dài, tức áo dài) của người Hoa đọc theo âm Hoa Hán giọng Quảng Đông là sường sám, các tiệm may hiện nay không hiểu bèn cải biên thành sườn xám, có lẽ định gán cho nó một ý nghĩa (cái sườn màu xám?) trong tiếng Việt, cũng chẳng chết ai nhưng dễ dãi với ngôn ngữ sẽ dẫn tới đại khái về tư duy rồi vô nguyên tắc trong hành vi. Nói thế không phải quá lời đâu, vì ngôn ngữ là công cụ giao tiếp, nếu dễ dãi về ngôn ngữ rất dễ phạm lỗi dù là vô tình trong ứng xử. Sự đại khái về tư duy ngôn ngữ vì thế có hại hơn nhiều người tưởng. Ngày xưa người ta viết bằng bút lông, để ngòi bút khô lâu sẽ giòn gãy rụng lông (Trúc se ngọn thỏ trong Truyện Kiều là chỉ chuyện này) nên thỉnh thoảng phải nhúng nước. Vì thế các báo chí, nhà xuất bản ở Trung Quốc trả tiền thù lao cho tác giả đều gọi nhã là tiền nhuận bút (thấm ướt ngòi bút). Về sau viết bài bằng bút sắt rồi bút bi, máy đánh chữ và thậm chí hiện nay viết trên máy tính cũng được gọi là trả tiền nhuận bút, thôi thì cũng được đi, có điều vụ tiền nhuận ảnh (đăng báo) mới là đại kỳ quái, thậm phi lý, không lẽ là làm ướt máy ảnh ! Tương tự, nhiều vị thuộc chính giới và báo giới hiện nay gọi Hùng Vương là Quốc tổ, nhưng lại gọi Âu Cơ mẹ Hùng Vương đầu tiên là Quốc mẫu. Mẹ lại sinh ra được ông nội à ?
Tháng 6. 1975 tôi từ Hà Nội về tới Sài Gòn, đổi được ít tiền miền Nam bèn đi chơi, thấy xe bò bía bèn sấn vào gọi mấy cuốn. Thấy chỉ có lạp xưởng, tép khô với rau, liền hỏi sao không có thịt bò, cô nhỏ bán hàng thấy tôi mặc áo bộ đội liền cười nói cái này đâu có bò chú. Tôi hỏi không có bò sao gọi là bò bía, cô ta đáp người ta kêu sao con kêu vậy chứ con biết gì đâu. Hơn mười năm sau gặp anh Tăng Văn Hỷ tác giả nhiều quyển từ điển Hán Việt sực nghĩ ra, hỏi anh người bang nào, anh đáp là Triều Châu, tôi hỏi hai chữ bò bía không phải giọng Quảng Đông, có phải giọng Triều Châu không. Anh cười nói chú hỏi đúng người rồi, chú biết chữ Hán nên tôi không cần nói nhiều, rồi viết ra hai chữ Hán bạc bính. Té ra nó là bánh mỏng (bánh tráng), đọc theo âm Hoa Hán giọng Triều Châu, sau khi từ pò pía chuyển thành bò bía cho phù hợp với ngữ âm và từ vựng tiếng Việt thì được dùng để đại diện cho cái món bánh tráng cuốn lạp xưởng tép khô với rau. Một loại bánh ngọt có nhân đậu xanh, sầu riêng, dừa vân vân ở Sóc Trăng được gọi là bánh bía cũng là theo nguyên tắc đại diện này, tức bía đã trở thành danh từ riêng, chứ pía vốn là bánh nói chung.
Chuyện đại diện về từ vựng - ngôn ngữ này còn lồng vào nhiều chuyện khác về văn hóa và giao lưu văn hóa. Một lần tôi đi dự hội nghị chữ Nôm quốc tế ở Siam Riep, trong bữa ăn gặp mặt đầu tiên ở một nhà hàng tự chọn, thấy menu có món soup de Vietnam, nhìn cái hình thì là món lẩu. Anh Nguyễn Văn Lịch bên Đại học Tổng hợp thành phố nói với đám khách hội nghị người nước ngoài đó vốn là món lẩu của Tàu. Họ hỏi riết tới, tôi phải giải thích (anh Lịch dịch) rằng lẩu là âm Hoa Hán giọng Quảng Đông, âm Việt Hán là lô tức cái bếp lò, đây chỉ một loại nồi đặc biệt gắn liền với lò, rất tiết kiệm năng lượng mà người Việt ngày trước gọi là cái cù lao. Vật dùng này vốn của người Mông Cổ trước cả thời Thành Cát Tư hãn, quân kỵ Mông Cổ hành quân thường mỗi người hai ngựa, một con chở người, một con chở lương thực và trang bị khác, trong đó có một cái túi đựng phân ngựa. Ngựa ăn cỏ nên phân nhiều xenluylô, phơi khô cháy rất đượm, họ dùng phân ấy làm chất đốt kết hợp với cái lò tiết kiệm năng lượng kia nên khi hành quân vẫn được ăn nóng, giữ được sức chiến đấu. Sau khi nhà Nguyên chiếm Trung Quốc, loại nồi gắn lò (hay lò gắn nồi) này truyền tới Giang Nam rất được giới thương nhân ngư dân và cả bọn thủy khấu hải tặc đi sông đi biển hoan nghênh vì tiện dùng ở những nơi gió lớn, từ đó nó có tên Tàu. Đến khi nhà Thanh chiếm Trung Quốc, nó lại theo thuyền các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam trôi qua Việt Nam mà đặc biệt là Đàng Trong. Trên nguyên tắc nó là cái lò nhưng được dùng để gọi chung các món canh nhiều mỡ cần ăn nóng, Việt Nam vẫn gọi theo tên Tàu là lẩu, bây giờ theo chân người Việt lên biên giới Campuchia - Thái Lan lại có hộ chiếu mang tên lai Pháp. Nhưng gọi là soup de Vietnam cũng đáng, vì nó đã được Việt hóa trăm phần trăm, chẳng hạn nhà hàng ấy có cả lẩu mắm, gần giống lẩu mắm ở vùng Đồng Tháp Mười, rất nhiều loại rau dại, có điều tôm cá toàn là thứ đông lạnh.
Tào lao thêm một chút. Tại nhà hàng ấy, tôi còn đọc thấy trong menu món beef luk lak, ngẩn ra xong thì phì cười, vì nó là một cách dịch ra tiếng Pháp (hay Anh) rất sáng tạo mà trung thành về âm điệu từ bò lúc lắc ở Việt Nam. May mà anh Lịch không nói tới món ấy, chứ mấy người nước ngoài kia mà truy nguyên luk lak là gì, chắc tôi cũng chỉ đành cười gượng lak đầu mà nói know die immediate.
7. 2007
NGUỒN : trục nhật phi
Hôm qua anh Nguyễn Ngọc Giao ở Pháp có hỏi tôi lấy bài Ngầu pín về đưa lên mạng, và quả nhiên như tôi đã lo, ngầu pín mà giải thích là ngưu tiện là không đúng. Tối hôm qua tôi nhận được thư của anh Giao, nội dung như sau :
« Bài Ngầu pín vừa đưa lên mạng đã có hồi âm của một bạn đọc, xin chuyển ngay để anh biết : “ Cám ơn BBT ZD đã đưa bài Ngầu pín của Cao Tự Thanh, cho em được dịp học hỏi thêm gốc gác từ nguyên một số chữ Hán Việt rất thú vị... tuy nhiên hình như ông Cao Tự Thanh dẫn gốc của Ngầu pín là Ngưu tiện có vẻ chưa được thuyết phục lắm... Có người bảo đúng ra nó có gốc từ chữ ngưu tiên 牛鞭 mà người mình học đọc theo âm Quảng Đông thành Ngầu pín. Em thử nhờ cụ Gật Gù kiểm tra hộ lại trên mạng thì thấy trên nhiều trang tiếng Hoa cũng quảng bá đến món ngưu tiên (牛鞭) này... Có lẽ đấy là tên gọi cho "cơ phận" của chú Bớp mà người Tàu đã dùng làm roi khi phơi khô thành một 'hình cụ', mà tiếng Việt mình gọi nôm na là 'roi c... bò', thay cho ma-trắc, ngày xưa... nhưng đồng thời cũng với tư duy hư cấu sáng tạo đầy phong phú của người Tàu qua 'âm dương ngũ hành' v.v... cái 'roi' này cũng đã biến thành một món ăn 'bổ dưỡng''”'».
Tôi nghĩ ý kiến của người đọc nói trên là chính xác, xin anh Giao chuyển giúp lời cảm ơn của tôi tới anh ấy, và xin đính chính cách hiểu trước đây của tôi bằng ý kiến này.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 26, 2011 7:59:41 GMT 9
Thời trang mệnh phụ phu nhân Thursday, March 11, 2004 Thanh Thảo Qui luật không hề thay đổi của thời trang là “Thời trang không ngừng thay đổi.” Và những kiểu thời trang thế nào cũng được dùng lại theo tuần tự thời gian nhưng thêm thắt một chút nét tô điểm cho khác thời đại trước.
Vì vậy nếu là người giữ hoài trong tủ áo nhiều kiểu trang phục đã lỗi thời từ trên 30-40 năm qua (vì kiểu đẹp, màu nhẹ nhàng, hay vì những liên hệ tình cảm nào đó), Mùa Xuân năm nay quí vị có quyền mang ra dùng lại. Còn nếu chưa có trong tủ áo những kiểu thời trang đầy nữ tính này quí vị tha hồ chọn tại các tiệm thời trang khắp nơi trong mùa này.Mùa Xuân năm 2004 những nhà vẽ kiểu thời trang đã tung ra thị trường loại trang phục trông hết sức sang trọng theo kiểu mệnh phụ phu nhân (lady-like) một thời là mẫu mực của các bà toàn thế giới. Kiểu thời trang được Ðệ Nhất Phu Nhân Hoa Kỳ Jacqueline Bouvier Kennedy ưa chuộng thời đầu thập niên 1960s và cũng là kiểu thời trang hầu như gắn liền với dáng vẻ đài các của nữ tài tử Audrey Hepburn cùng thời. Dù dùng lại những nét cũ của các kiểu thời trang một thời vang bóng này, vào Mùa Xuân 2004 các nhà thời trang cũng phải thay đổi nhiều nét cho mới mẻ hơn (và để bảo đảm bán được cho giới tiêu thụ). Những mặt hàng có pha chất bóng như satin, lụa, lụa chiffon trong những màu sắc đượm đầy nét tươi mát của Mùa Xuân như hồng, cam, vàng, xanh lá mạ, xanh lơ, hoặc vải in hoa nhiều màu sắc trong các tủ kính nhiều cửa tiệm làm ngợp mắt chúng ta. Ðặc biệt một điều là những kiểu thời trang mệnh phụ phu nhân này trông lại đầy nữ tính chứ không cứng ngắc như nhiều người lo ngại. Vào thời điểm nhìn đâu cũng chỉ thấy những cô bé choai choai (có khi cả những bà chưa ý thức được nên phục sức ra sao cho đúng cương vị, tuổi tác của mình) mặc những kiểu quần tây, váy đầm xệ lưng khoe rốn, hoặc những kiểu áo đường cổ khoét quá rộng, quá sâu, quả thật những kiểu thời trang mệnh phụ lại mang theo nét mới lạ và hấp dẫn hơn nhiều. Nhắc đến thời trang mệnh phụ có lẽ đa số chúng ta liên tưởng đến những chiếc áo đầm may sát người làm nổi bật những đường cong đầy nữ tính của người mặc cùng với những chuỗi hạt trai (hoặc hạt trai nhân tạo), những chiếc nón trông đài các và những đôi giày tiệp màu với kiểu áo. Tuy những nơi khí hậu ấm áp như California thường khiến cư dân lười biếng trang sức hơn và tuy lối phục sức quá ư cẩu thả gồm quần Jeans và áo thun hai dây, đi cùng với dép nhật thường là kiểu quần áo điển hình vào mùa nóng tại đây nhưng điều này không có nghĩa chúng ta không thể chọn phục sức theo kiểu mệnh phụ phu nhân mà trông vẫn hợp thời, thoải mái. Còn đẹp nữa là đàng khác! Tuy theo thời trang mệnh phụ chúng ta không nhất thiết phải rập khuôn những kiểu thời trang cũ. Trái lại, thêm thắt chi tiết nhẹ nhàng một chút, điểm tô chỗ này chỗ nọ một ít, hoặc mặc kiểu thời trang mệnh phụ cùng với giày, hoặc bốt kiểu mới của thời đại này là những điều chúng ta nên làm để giữ nét riêng biệt, thoải mái của chúng ta. Hồi giữa thập niên 1960s trở đi, vụ giải thoát phụ nữ (women’s lib.) đánh dấu lúc thời trang mệnh phụ bị kiểu “hippy” lười biếng thay thế. Có lẽ đợt thời trang trở lại lần này sẽ là dịp đánh dấu ngược lại. Ðó là kiểu quần áo mang vẻ mệnh phụ sẽ dần thay thế những kiểu thời trang rất cẩu thả của mấy năm qua.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 4:52:41 GMT 9
Tặng hoa Huyền Trân Ý NGHĨA TƯỢNG TRƯNG CHO NHỮNG CON SỐKhi tặng hoa hồng nên tôn trọng vài quy luật: * Nếu bạn tặng dưới 10 hoa, hãy tôn trọng con số lẻ. * Nếu bạn muốn: - cám ơn nàng: Hãy tặng nàng 12 hoa hồng - chứng tỏ bạn ga lăng: Tặng nàng 24 hoa hồng. - tỏ tình yêu: Tặng nàng 36 đóa hoa hồng MỖI DỊP LÀ MỘT LOẠI HOA KHÁC NHAU: * Sinh con: Tặng người mẹ mới sinh bó hoa có màu tế nhị và hoa thơm nhẹ. * Lễ rửa tôi: Tặng hoa trắng, tượng trưng cho sự trong trắng. * Lễ ban thánh thể lần thứ nhất: Tặng hoa cúc trắng marguerite, hoa đinh (lilas), huệ dạ hương (jacinthe) * Lễ đính hôn: chàng tặng nàng bó hoa trắng * Lễ cưới: Chàng tặng nàng cách nào để có sự hài hòa với cách trang điểm của nàng * Lễ Bạc: Tặng nàng hoa pensée, violette, hoa hồng trà bao quanh bằng bông lúa bạc tạo vòng hào quang * Lễ Vàng: Tặng nàng hoa hồng vàng hay hơi cam tô điểm những bông lúa vàng * Lễ Kim cương: Tặng nàng hoa hồng đỏ và hoa pensée kèm với bông lúa bằng thủy tinh. VÀI QUY LUẬT VỀ PHÉP XỬ THẾ Không bao giờ tặng: * Hoa hồng đỏ cho cô gái: Ðây có nghĩa là bạn tỏ tình yêu cho cô ấy, cha cô ta có thể không tán thưởng đấy. * Hoa hồng vàng cho một người đàn bà có chồng: Bà ấy có thể nghi ngờ lòng chung chủy của bạn * Hoa cẩm chướng (oeillet) cho nghệ sĩ: Cách đây không lâu, hoa cẩm chướng bị mang tiếng là mang đến những lời phê bình không hay. * Hoa cúc vàng: còn được mang danh hiệu "hoa của những bà góa" và có ý nghĩa về tang tóc (hoa trồng nơi nghĩa địa ở Pháp nhưng loại hoa này bên ta lại trang hoàng vào dịp Tết.)
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 4:55:13 GMT 9
Tử vi âm lịch: Con thỏ Trung Quốc trở thành con mèo Việt Nam ra sao Hai quốc gia cùng sử dụng lịch hoàng đạo với biểu tượng của 12 con vật — chuột, hổ, rồng, rắn, ngựa, dê, khỉ, gà, chó và lợn. Nhưng người Việt lại thay con thỏ với con mèo và con bò bằng con trâu.
Lý do chính xác tại sao họ lại thay thế những con vật này thì vẫn không được rõ, nhưng một vài học giả nói rằng sự khác biệt này có thể bắt nguồn từ nhữnng huyền thoại khi kiến tạo lịch hoàng đạo.Một trong câu chuyện này là Đức Phật mời các con vật đến để cùng thi bơi sang một con sông và 12 con vật nào đến bờ trước sẽ được vinh dự có tên trong cuốn lịch. Vì không biết bơi, hai người bạn thân chuột và mèo bèn quyết định quá giang bằng cách cưỡi trên lưng trâu. Nhưng khi chúng gần đến đích, loài gặm nhấm này đã trở mặt đẩy mèo xuống nước — và hai loài này từ đấy đã trở thành kẻ thù không đội trời chung. Câu chuyện của người Việt thì khác một tí. Theo họ, Ngọc hoàng Thượng đế đã tổ chức cuộc đua. Và trong phiên bản của mình, con mèo thì biết bơi. “Có những giải thích về nhân chủng và văn hoá,” Philippe Papin, một chuyên gia về lịch sử Việt Nam tại Ecole Pratique des Hautes Etudes ở Paris nói. Nhưng vì có nhiều người Việt mang gốc gác Trung Quốc, cách giải thích tốt nhất là về phương diện ngôn ngữ, ông nói. “Tiếng Trung Quốc gọi thỏ là ‘mao’, phát âm nghe giống như ‘mèo’ trong tiếng Việt (Có lẽ ông Philippe Papin đã nhầm thỏ, phát âm Trung Quốc là “thố”, và mèo, phát âm Trung Quốc là “miêu”. Nếu thế thì suy luận của ông không có ý nghĩa về sự trại âm – ND). Khi ngữ âm thay đổi, ý nghĩa cũng thay đổi theo,” Papin nói. Cho dù nguyên nhân của sự tách biệt này là gì, người Việt ngày nay không quan tâm đến việc đưa những biểu tượng hoàng đạo của mình đi đúng với cách dùng của Trung Quốc. “Đối với người Việt, không bắt chước hoàn toàn Trung Quốc là một vấn đề danh dự quốc gia,” theo Benoit de Treglode thuộc Học viên Nghiên cứu Đông nam Á Đương đại ở Bangkok. “Hình thức khác biệt trong mô phỏng này có thể được tìm thấy trong suốt nền văn hoá Việt Nam,” ông nói thêm. Chính trị cũng đóng một vai trò trong mâu thuẫn ngày càng tăng giữa Bắc Kinh và Hà Nội đối với một số tranh chấp lãnh thổ kéo dài. “Chúng tôi không biết chính xác việc lựa chọn mươi hai con giáp này xảy ra như thế nào,” Đào Thanh Huyền, một nhà báo độc lập tại Hà Nội nói. Nhưng “giờ đây những từ “Trung Quốc” và “người Trung Quốc” có thể trở thành nguồn gốc của những nghi ngại và thậm chí dẫn đến tranh cãi, nhiều người Việt không muốn giống người láng giềng của mình, mặc dù đúng là ngớ ngẩn khi quan trọng hoá vấn đề này.” Hoàng Phát Triệu, một diễn viên về hưu người Việt, nói rằng đồng bào của ông chỉ đơn giản thích mèo hơn là thỏ.” “Đa số người Việt là nông dân,” diễn viên 76 tuổi này nói. “Thỏ chẳng liên quan gì đến nông dân Việt Nam, trong khi mèo luôn là người bạn tốt của nông dân, cố gắng bắt chuột phá hoại mùa màng.” Khi Việt Nam đánh dấu Tết Nguyên Đán của mình vào thứ Năm, những ai sinh vào năm con Mèo, Ngựa hoặc Gà sẽ cẩn thận để không là người đầu tiên xông đất vào nhà — vì bị cho là xui xẻo. “Theo lời thầy bói thì năm nay là năm trung bình,” cô Huyền nói. Tuy nhiên cô hy vọng rằng chồng và con trai mình, cả hai đều mang tuổi con Chó, sẽ làm cho năm nay trở nên lý thú hơn là lời dự đoán buồn tẻ và đầy thất vọng. “Mọi người đều biết chó và mèo đối nghịch ra sao,” cô nói, cho thấy mọi người đều ước vọng lời tiên đoán tử vi đi theo hướng mình mong muốn. Ít nhất về mặt này thì người Trung Quốc và người Việt đều giống nhau. Diên Vỹ (Theo AFP) Horoscope lunaire: comment le Lapin chinois est devenu le Chat vietnamien HANOI, 3 février 2011 (AFP) - L'Asie célèbre ce jeudi avec faste et gourmandise l'entrée dans l'année du Lapin, mais le Vietnam, jamais en reste d'une touche de distinction vis-à-vis de son encombrant voisin chinois, n'en fait qu'à sa tête. Il entre dans l'année du Chat.
Les deux calendriers zodiacaux sont très similaires, avec pour seule autre différence le Buffle vietnamien à la place du Boeuf chinois. Les autres - Rat, Tigre, Dragon, Serpent, Cheval, Chèvre, Singe, Coq, Chien et Cochon - leur sont communs.
Bien malin qui pourrait expliquer l'origine d'un schisme que certains datent de quelques siècles, d'autres de plus de deux millénaires.
Mais plusieurs ouvrages renvoient à une légende fondatrice commune, selon laquelle Bouddha aurait convié les animaux à participer à une course pour choisir les douze représentants du Zodiac éternel.
Le Chat et le Rat, alors amis, se seraient réfugiés sur le dos du boeuf pour traverser le fleuve. Mais à l'approche de la rive, le fourbe rongeur aurait poussé le chat dans l'eau, déclenchant ainsi une ancestrale inimitié.
Au Vietnam dit-on, ce serait plutôt l'Empereur de Jade, un dieu taoïste, qui aurait organisé la compétition. Mais le Chat, cette fois, savait nager...
"On peut utiliser les explications anthropologiques et culturelles", tempère Philippe Papin, historien à l'Ecole pratique des hautes études (EPHE) à Paris.
Mais l'explication la plus probable est linguistique, alors qu'une majorité du Vietnamien contemporain vient du Chinois. "Mão en chinois (lapin) se rapproche de mèo en Vietnamien (chat). Il s'agit d'un glissement du sens en suivant la pente du son, comme souvent".
Légende, histoire ou langue, peu importe. Nul, au Vietnam, ne songerait à s'aligner sur l'Empire du Milieu. Car la Chine a occupé le Vietnam pendant pas moins de mille ans. Et si ce dernier en a gardé des mots, des génies et mille autres choses, il n'en cultive pas moins un profond besoin de distinction.
"C'est une question d'honneur national de n'avoir pas copié la Chine en tout point", souligne Benoît de Tréglodé, directeur de l'Institut de recherche sur l'Asie du Sud-Est contemporaine (Irasec). "Cette forme d'imitation dans la distinction est présente partout dans la culture vietnamienne".
"Le chat est plus proche des Vietnamiens que le lapin", relève de façon plus prosaïque Hoang Phat Trieu, un comédien de 76 ans à la retraite . "La plupart des Vietnamiens sont des paysans et le lapin n'a rien à voir avec eux, alors que le chat a toujours été leur allié, en tuant les rats qui détruisent les récoltes".
Aujourd'hui, la politique s'en mêle. Pékin et Hanoï s'affrontent sur des questions territoriales et certains dissidents accusent le pouvoir vietnamien d'avoir cédé des terres à l'ennemi.
"Il y a des héritages qu’on reçoit comme ça, passivement, sans poser de questions", avoue Dao Thanh Huyen, une journaliste indépendante. Mais "maintenant que les mots +Chine+ et +chinois+ peuvent devenir sources de polémique ou même de dispute, beaucoup de Vietnamiens sont contents de ne pas +être+ comme le voisin".
Ce jeudi, au Vietnam, les natifs de l'année du Rat, du Cheval ou du Coq - en conflit avec le Chat - étaient priés de ne pas pénétrer les premiers dans une demeure pour ne pas attirer le mauvais sort.
Mais au Vietnam comme en Chine, pour le coup, chacun s'accommode comme il peut des prédictions astrologiques. "Cette année est une année moyenne, selon les voyants", explique Huyen. "Mais j’ai déjà un antidote, ou plutôt deux: mon mari et mon fils sont Chien. Et on sait que Chat et Chien..."
AFP
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:04:57 GMT 9
Tết TA Dưới Mắt Người Tây Phương Vietsciences-Nguyễn Thị Chân Quỳnh Trong "Lối Xưa Xe Ngựa..." tập II, tôi có viết ba bài về những tục lệ liên quan đến Tết Nguyên đán (1), song là viết theo sách sử của ta. Ở đây tôi trích dịch một số bài viết về Tết, từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, dưới mắt quan sát của Tây phương. Họ đã ghi lại nhiều phong tục mà ngày nay không còn. Là ngoại quốc với một nền văn hóa khác hẳn, họ có những suy diễn có thể sai lầm song vẫn là những tài liệu quý giúp ta rõ phần nào xưa kia cha ông ta ăn Tết ra sao. GS Alexandre de Rhodes (1593-1660) - Người Pháp, tu Dòng Tên. Năm 1624, giáo sĩ định sang Nhật giảng đạo nhưng lúc ấy Nhật đang đóng cửa ngoại giao nên đành đến Ðàng Trong. Năm 1627, Tòa Thánh ủy thác cho ông dựng thêm cơ sở ở Ðàng Ngoài. Lúc đầu giảng đạo ông được Chúa Trịnh tiếp đãi nồng hậu, nhưng đến 1630 thì bị trục xuất chính vì vấn đề truyền giáo. Nhiều lần ông lén quay lại song lúc ấy Ðàng Trong cũng cấm đạo rất ngặt. Năm 1645, ông bị kết án tử hình, sau được ân xá nhưng phải lập tức rời Việt-Nam và từ đấy không trở lại nữa. Khoảng 1646 ông viết xong Histoire du Royaume de Tunquin (Lịch sử Vương quốc Ðàng Ngoài) trong có nhắc đến một vài tục lệ ăn Tết của ta (2). Tôi lược dịch : "Có một tục lệ lâu đời nhưng nực cười mà khắp Ðàng Ngoài còn giữ là những người già, cả nam lẫn nữ, cứ đến cuối năm thì sợ hãi trốn vào các đền chùa để tránh con quỷ mà họ gọi là Votuan(3). Họ cho rằng Votuan có nhiệm vụ sát hại và bóp cổ tất cả những người già thuộc cả hai phái. Thế là trong ba hay bốn ngày cuối năm, những kẻ khốn khổ đó đến trú ẩn trong các đền chùa, ngày đêm không dám thò mặt ra cho mãi tới mồng một Tết mới về nhà, vì họ tin rằng uy quyền của con quỷ đó, kẻ thù của những người già, đến hôm ấy chấm dứt (...). Những người khác có phận sự trong nhà như các gia trưởng thì vào ngày cuối năm có thói quen dựng gần cửa một cây cột cao vượt mái nhà, trên ngọn treo cái giỏ hay cái hộp đục thủng nhiều lỗ, đựng đầy những đồng tiền vàng bạc nhỏ làm bằng bằng giấy bồi cứng. Họ rồ dại đinh ninh rằng vào cuối năm tổ tiên họ có thể bị túng thiếu, cần đến vàng bạc để trả nợ. Sự kiện này dẫn đến một tục lệ khác là bất cứ già trẻ sang hèn, không ai khất nợ quá một năm, trừ trường hợp không thể trả nổi. Hành động của họ rất đáng ngợi khen nếu họ làm không phải vì tin nhảm, như họ thường làm, tức là sợ chủ nợ không đòi được tiền, tức giận, nói năng động chạm tới tổ tiên họ khiến tổ tiên oán hờn con cháu. Ðiều mà họ rất sợ là nếu có ai bị tố cáo và tòa kết tội đã xúc phạm tới danh dự người khác, đụng chạm tới tổ tiên người ta thì người đó sẽ bị quan tòa trừng phạt cũng nghiêm khắc như phạm một trọng tội. Họ còn lo trả nợ trước cuối năm vì một tin nhảm khác, sợ chủ nợ đến đòi vào ngày mồng một Tết, bắt đồ đạc trừ, họ cho thế là xúi quẩy và là một điềm gở". Samuel Baron là người Hòa Lan lai Bắc. Cha làm đại diện cho công ty Ấn độ-Hòa-lan ở Kẻ chợ (Thăng-long) vào năm 1663. S. Baron sinh ở Kẻ chợ, sống nhiều năm ở miền Bắc, lớn lên cũng làm cho công ty này, lấy quốc tịch Anh, rồi bỏ đi buôn quanh vùng Ðông Nam Á. Những năm 1678/80/82 đều có trở lại Kẻ chợ. Năm 1685-6, S. Baron viết cuốn A Description of the King dom of Tonqueen (Mô tả Vương quốc Ðàng Ngoài) cũng nhắc đến một vài tục ăn Tết thời Hậu Lê (4) : "Cái lễ vui nhất là Tết, thường rơi vào khoảng 25 tháng giêng tây lịch và kéo dài một tuần. Vào dịp ấy, ngoài múa hát và những thú tiêu khiển (chọi gà, đi cà kheo...) họ còn bầy nhiều trò chơi như đá cầu hay đánh đu, cột đu làm bằng tre dựng ở mọi góc phố, đàn ông khoe sức mạnh và tài khéo léo trong khi những gánh hát rong trình diễn các trò ảo thuật, múa rối. Họ không bao giờ chểnh mảng trong việc chuẩn bị lễ Tết, cỗ bàn khá tươm tất. Tùy hoàn cảnh, mỗi người đều tìm cách trội át láng giềng trong ba, bốn ngày Tết. Ðây là thời gian người ta mặc sức ăn ngon, phóng túng, ai mà không cố tiếp đãi họ hàng, bạn bè chu tất thì mang tiếng là bủn xỉn, bần tiện, nên dẫu họ biết rằng tiêu hoang vào dịp này thì rồi sẽ khánh kiệt, cả năm đến phải sống bằng cách đi ăn xin cũng không quản ngại. Mồng một Tết không ai ra ngoài đường (trừ những tùy thuộc của các lãnh chúa) người nào cũng ở trong nhà và chỉ tiếp cận họ hàng gần và gia nhân. Ðối với tất cả những người khác thì dù một ngụm nước, một thanh củi họ cũng không cho và còn khó chịu thấy ai dám ngỏ lời xin vì họ mê tín, sợ rông : mồng một mà cho ai cái gì thì cả năm cứ phải tiếp tục cho đến nỗi cuối cùng phải đi ăn mày. Tục lệ không đi ra đường cũng chung một lý do : sợ nhỡ ra đường mà gập điềm xấu thì cả năm sẽ khổ. Người Bắc còn tin nhiều điều như gập may hay không may tùy vào một vài sự kiện vớ vẩn. Mồng hai, họ đi chúc Tết nhau và đến chào người trên để làm tròn bổn phận : lính tráng, gia nhân cũng đi mừng tuổi quan thầy hay chủ nhà. Tuy nhiên, các quan thì lại đi chầu vua chúa vào ngày mồng một, theo đúng nghi lễ. Có người tính Tết bắt đầu từ 25 tháng chạp là tính bậy. Họ lầm vì thấy hôm ấy cái ấn/triện được xếp vào hộp, mặt ngửa lên, tỏ ý không dùng đến, nghỉ việc trong một tháng (khóa ấn, phong ấn). Trong thời gian ấy các vụ kiện tụng đều đình hoãn, không một tờ biên bản nào được đóng triện, những con nợ không bị tịch biên gia sản, những đám trộm cắp vặt, đánh nhau đều không sợ bị phạt. Các quan Tổng đốc, Tuần phủ, Tri huyện chỉ đếm xỉa đến những tội phản loạn, sát nhân, bắt giam phạm nhân lại chờ ngày khai ấn mới đem ra xử. Thực ra Tết bắt đầu vào ngày mồng một tháng giêng âm lịch, tức là khoảng 25 tháng giêng dương lịch và theo Trung quốc thì kéo dài tới một tháng" (5). Dampier w. là tác giả quyển Un Voyage au Tonkin en 1688 (Một chuyến du lịch Bắc kỳ năm 1688) đăng trong Revue Indochinoise (6) : "Cái lễ lớn nhất là Tết, vào ngày đầu trăng thượng tuần tháng giêng, tức là khoảng giữa tháng giêng dương lịch. Dân chúng thong dong trong mươi, mười hai ngày, ai cũng nghỉ việc, cố ăn mặc sạch sẽ, tươm tất, nhất là dân đen. Những người này tiêu khiển bằng các trò chơi hay vận động. Ðường phố đông như nêm cối, nhà quê cũng như kẻ chợ, nô nức đi xem các trò giải trí. Có người dựng cột đu ở các hè phố và thu tiền của những ai muốn đánh đu, lối đu tựa như của ta, phảng phất giống quang cảnh những cánh đồng phụ cận Luân-đôn, dân chúng dạo chơi ngày lễ hội. Nhưng người đánh đu ở đây đứng thẳng dưới chân cột, dẫm lên một cái ngáng nằm ngang, hai đầu buộc chặt vào hai sợi dây thừng treo ở trên, người đu nắm giữ bằng hai tay và rún chân đưa bổng lên cao tít, ví thử dây chão mà đứt thì ít ra cũng ngã gẫy xương nếu không chết. Những người khác dùng thì giờ vào việc uống trà là thứ giải khát thường nhật, nhưng họ cũng ưa khề khà, nhấm nháp một loại rượu hâm nóng, cất bằng gạo, pha chung với trà, song dù pha cách nào thì chung quy nó cũng rất khó uống dẫu không pha nồng quá. Chính vì thế mà họ thích, thứ nhất trong cái mùa họ được tự do bê tha, rượu say bí tỉ. Những người giầu có là những người có chừng mực nhất nhưng cũng chơi bời thỏa thích. Người sang thì đãi bạn bè những món cao lương mỹ vị, rượu nhất hạng không thiếu dẫu rằng, nói cho đúng sự thật, loại rượu này chẳng ra quái gì. Tuy nhiên, họ coi nó là thuốc rất bổ, đặc biệt khi ngâm với rắn độc, bọ cạp (ấy là tôi nghe nói thế), không những rượu ấy được coi là một thứ rượu bổ mà còn là thứ thuốc rất mạnh để trị bệnh hủi, chữa mọi nọc độc, phải là người họ trọng vọng ghê lắm mới có diễm phúc được thưởng thức thứ rượu trân quý ấy. Tôi biết chuyện này là qua một người đã được những nhà quyền quý bậc nhất mời như thế. Chính vào lúc ấy họ ăn rất nhiều trầu và trao tặng nhau trầu cau. Tôi đã được một người ở thôn quê mời đến nhà ăn Tết. Tôi lên bộ cùng với các thủy thủ cũng được mời đi ăn Tết. Không rõ những người kia được tiếp đãi ra sao, riêng tôi thì trông cung cách tiếp đón quá xoàng xĩnh, tôi vội vàng cáo từ. Món ăn chính không bao giờ thiếu là cơm, món thường nhật của họ, ngoài ra, ông bạn tôi muốn cho tôi và những người khách của ông nếm của ngon, sáng hôm ấy dã đi câu ở cái ao gần nhà dược rất nhiều ếch và hớn hở đem ra khoe khi tôi tới nhà. Tôi ngạc nhiên thấy ông ta xếp rất nhiều những con vật nhỏ đó vào cái giỏ và khi tôi hỏi để làm gì thì ông trả lời là để ăn, song tôi không hiểu ông ướp thịt ếch ra sao. Những món ninh nấu của ông trông không đủ hấp dẫn để giữ tôi ở lại đánh chén với ông". GS Benigme là tác giả Vingt ans en Annam (Hai mươi năm sống ở An-nam). Viết về Tết, giáo sĩ có những nhận xét khá tỉ mỉ, xin lược dịch (7) : "Hôm trừ tịch, mỗi người trồng ở góc nhà một cây tre đẹp nhất, trên ngọn, chỗ những chùm lá, người ta treo cái giỏ nhỏ đựng trầu cau đã têm sẵn, thuốc lá gói từng điếu, thuốc lào (...). Trên bàn thờ đèn nến sáng choang, trước các bài vị cỗ bàn bầy la liệt (...). Chiều hôm ấy thiên hạ đốt pháo. Tôi đã thấy có nhà đốt tới 5000 cái pháo (...). Vong hồn tổ tiên trở về xum họp với con cháu và ở lại ăn Tết mấy ngày đầu năm. Thọat đầu hồn dừng lại ở ngọn tre, ăn trầu, hút thuốc rồi mới vào nhà sau ba lần cung thỉnh của gia chủ. Hồn ngồi dự tiệc giữa những tiếng chiêng trống ầm ỹ. Mỗi người xì xụp quỳ lạy ba lần (8) để tiếp rước ông bà ông vải. Hôm sau, sáng chiều họ đều làm như thế, và cứ như thế suốt cả một tuần lễ. Trong ba ngày Tết, ai cũng diện quần áo mới toanh, hết sức tránh không to tiếng trong nhà, tất cả mọi công việc đều ngừng vì ngại làm phiền tổ tiên muốn yên tĩnh, đòi hỏi con cháu phải kính cẩn giữ yên lặng (...). Người ta tiêu khiển bằng cách đi mừng nhau đã sống lâu được đến hôm ấy và chúc phúc năm mới. Những kẻ dưới đi Tết người trên thì đem theo lễ vật và quỳ lạy ít ra là một lễ (8), không bao giờ người ta đi chúc Tết người trên mà lại đi tay không. Sau đó họ được phép tha hồ bê tha cờ bạc trong ba ngày Tết, say mê đến nỗi thua sạch cả quần áo. Nhưng họ không được phép chơi ở gìan nhà chính mà chơi ở dưới mái hiên và với điều kiện chỉ nói cười khe khẽ. Ðáng phục là điều kiện này đến cả các bà cũng tuân theo !". Bs COURTOIS Edmond là bác sĩ quân y và tác giả quyển Le Tonkin français contemporain (Bắc kỳ Pháp thuộc, hiện đại). Tết năm 1886 (Bính Tuất) đặc biệt ở chỗ có tới bốn người đã dự và viết bài tường thuật. Xin lược dịch đoạn trích trong Le Tonkin français contemporain(9) : "Tết năm 1886 rơi vào ngày mồng 3 tháng hai dương lịch. Tôi đang ở với một đội ngũ coi mấy nghìn phu an-nam làm đường. Tết đến, tất cả mọi công việc đều ngừng lại như có phép lạ. Viên đội trưởng phân phát vô số thịt lợn, trà, và cho phu nghỉ việc với điều kiện là phần đông phải thuận ở lại chỗ làm việc. Rất nhiều người xin về ăn Tết với gia đình. Tôi có hai tên gia nhân an-nam rất tận tâm, quá tận tâm nữa bởi vì chúng không bao giờ đợi tôi sai bảo mà cứ tự tiện làm mọi việc thành thử chúng làm bậy lung tung. Hôm trừ tịch, chúng nghiêm trang bảo tôi bằng thứ tiếng Pháp chưa rành : "Hết việc nàm" và xin phép tôi về nhà cha mẹ tuy ở khá xa. Tôi còn như thấy trước mắt chúng trịnh trọng mang những gói quà (một nắm cơm) rồi chắp tay, cúi rạp xuống cung kính chào theo kiểu an-nam, rất cảm động. Tôi tò mò rất muốn biết cái lễ Tết ấy ra sao, bèn hỏi một nhà buôn an-nam giầu có và là người đôi khi tôi đã giúp đỡ vài việc vặt, ngỏ ý muốn ăn Tết với gia đình ông ta. Khi tôi vừa nói tôi rất tôn kính những tục lệ cổ truyền, rất thán phục cái tục trọng vọng gia đình mà không xứ nào sánh bằng ở đây thì ông ta thuận để tôi tự do đến nhà suốt thời gian có lễ Tết. Tết trước hết là lễ thờ phụng tổ tiên, nhà nào cũng đóng cửa ăn Tết trong gian phòng trang hoàng đẹp nhất vào dịp đặc biệt này. Nhiều người chỉ đến Tết mới thay áo quần, thành ra ờ xứ Bắc ngày hôm ấy ai cũng diện bảnh chọe, mọi khi họ ăn mặc rách rưới, nhếch nhác thì hôm ấy trông gần như sạch sẽ. Người ta tặng nhau quà, trẻ con chúc Tết cha và được mừng tuổi một xâu tiền kẽm buộc lạt, ngoài bọc giấy đỏ hay giấy trắng. Cũng vào ngày Tết người chủ gia đình giúp đỡ họ hàng nghèo và bao giờ trong gói quà cũng nói rõ để cúng ông bà ông vải. Cái chỗ vinh dự nhất nhà dành cho bàn thờ tổ tiên. Ðó là một cái bàn thờ sơn son trên bầy bình hương đựng cát, những chân nến cũng sơn son, những thoi giấy vàng giấy bạc và những đĩa đựng cơm, thịt (...) mỗi ngày người ta hạ và thay cỗ mới mấy lần. Tất cả gian phòng bầy rặt đồ thờ cúng, nào tàn quạt, nào bình phong. Bên trên bàn thờ treo những tờ giấy lớn viết đặc những chữ nho ca tụng công đức tổ tiên và lòng tôn sùng của con cháu. Cạnh bàn là chỗ các cung văn ngồi dạo nhạc liên tục những ngâm khúc lê thê, uể oái, kèm theo những bài ca. Tất cả mọi người cung kính lắng nghe gần như say mê. Nhưng Tết không phải chỉ là lễ cúng tổ tiên, nó còn là cái cớ để người ta tiệc tùng, chè rượu thả cửa, tất cả những đĩa đồ ăn bầy la liệt trên bàn thờ mỗi ngày thay mấy lần, có thể nói là họ ăn uống từ sáng đến tối. Chiều mồng một hiếm khi gập một người an-nam nào không chuếnh choáng hơi men, say khướt thứ rượu "choum choum", rượu trắng cất bằng gạo, rất dở mà khắp xứ Bắc đâu đâu cũng có. Thỉnh thoảng người ta ngừng ăn uống, các cung văn nghỉ đàn hát, rồi bỗng những tiếng súng nổ đùng đùng đinh tai nhức óc, chiêng khua trống gióng inh ỏi, mỗi người đều ra sức đập một vật như thể họ thi đua xem ai đập to hơn. Thế rồi lại ca hát ê a, và Tết kéo dài khoảng một tuần ở nhà giầu, nhà nghèo thì ngắn hơn. Số tiền nhỏ mọn họ dành dụm ky cóp đã tiêu sạch. Ðến một lúc nào đó họ đốt vàng mã, những thỏi vàng bạc bằng giấy, cho ông bà ông vải. Và còn rất nhiều lễ kỳ dị, thay đổi tùy vùng. Ở đồng bằng thường thấy họ cân nước lã để bói. Nếu nước năm mới nặng hơn nước năm cũ là điềm gở, năm ấy sẽ có nạn hồng thủy ghê gớm (10). Tổ tiên được coi như linh hiển, về ăn Tết, vì thế người ta mới luôn luôn thay đổi món ăn trên bàn thờ. Dân chúng cũng đi tảo mộ, nhổ cỏ, đắp mộ. Họ đi tảo mộ quanh năm. Nếu ruộng có mộ chôn đã bán đi thì trong văn tự phải chua rõ chỗ đất ấy không nhượng. Ngày Tết, Phật cũng được dự phần cúng bái nhưng xếp vào hàng phụ, sau tổ tiên. Người ta trồng một cái cột tre trước cửa, trang hoàng những mảnh giấy để làm dấu hiệu cho tổ tiên biết đường về nhà (...). Tất cả cái lễ Tết ấy tựa như một lễ tuyên tôn (béatification) tổ tiên. Vua chúa cũng ban hiệu lệnh cho dân chúng ăn chơi, nghỉ việc trong nửa tháng". Bs HOCQUARD cũng là Bác sĩ quân y và là tác giả cuốn Une campagne au Tonkin (Một chuyến viễn chinh ở Bắc kỳ), viết từ 11 tháng giêng 1884 đến 31 tháng 5 năm 1886 kèm theo những tấm ảnh rất hiếm quý do chính ông chụp. Tập Hồi ký của ông được đánh giá cao. Xin lược dịch đoạn tả cái Tết năm 1886 ở Huế (11) : "Từ sáng nay cả thành phố Huế tưng bừng, nô nức : sắp đến Tết đầu năm an-nam. Trong non một tháng trời dân chúng, giầu cũng như nghèo, đình hết mọi việc để ăn uống, dong chơi : không ai buôn bán, cầy bừa, không làm những việc chán ngán, lớn bé đều diện quần áo ngày Tết. Những người nghèo khó bán cả đồ đạc còn sót trong nhà, đi vay nợ, để có tiền tiêu Tết. Tục ngữ an-nam có câu "Ðầu năm phải tốt đẹp không thì rông cả năm". Các bộ, viện đều đóng cửa. Từ 25 tháng chạp âm lịch chính phủ ngừng làm việc, không ký và đóng dấu các công văn nữa, hộp đựng ấn tỷ sẽ khóa cho tới ngày 11 tháng giêng năm sau. Những hạng cùng đinh mà họ gọi là danlan(12), một năm chỉ được nghỉ ba lần mỗi lần một ngày, còn thì phải phục vụ những người giầu sang, nhưng họ bắt phải trả đắt, vì không mấy người làm việc nên họ có thể đòi hỏi nhiều. Tất cả mọi cửa hiệu đều đóng cửa im ỉm, thành phố như chết nếu không có tiếng pháo của khách trú và tiếng các nhạc khí. Những người thuộc hạng trung lưu và các quan thì mặc lễ phục đi chúc Tết, trao đổi những cánh thiếp lớn mầu đỏ cùng quà cáp. Tết cũng là ngày vui của trẻ con, để đáp lại những lời chúc tụng, chúng được mở hàng những đồng tiền kẽm bao giấy đỏ. Chỗ nào cũng thấy đỏ rực, mầu đỏ vốn là mầu của vui mừng. Trước cửa mỗi nhà người ta trồng những cành tre lớn còn đầy lá, cũng có những cột trên ngọn trang trí bằng tầu là dừa hay chùm lông gà, đèn treo đủ mọi mầu sắc. Cây cột này trồng cho tổ tiên hay cha mẹ đã mất. Dân chúng tin rằng hàng năm vào dịp Tết vong linh tổ tiên trở về thăm gia đình và ở lại ăn Tết, thế thì cần phải để hồn người chết nhận biết nhà của con cháu mà vào, cây cột có mục đích chặn họ lại không để đi quá nhà. Trước ngưỡng cửa, nhà nào cũng vạch xuống đất những hình cung tên xếp tréo nhau bằng vôi bột. Tục lệ này nhắc lại tích đức Phật đánh dẹp ma quỷ (13). Có người còn lấy cây xương rồng và những cành cây có gai bịt kín cửa để ma quỷ không vào được nhà quấy nhiễu mất vui. Ngoài cổng, mé trái bức tường, dựng một bàn nhỏ thắp đèn hương thờ thần giữ cửa, nhà giầu bầy hoa, vàng giấy, bánh trái, cỗ bàn ngày hai buổi cúng bái. Trong nhà, bàn ghế được kê lại, đổi chỗ, cuối sân chăng dây kết hoa hay giấy sặc sỡ, thờ thần giếng. Những ông thầy bói thì đến cân nước để đoán quẻ : trong hai cái lọ dung tích bằng nhau người ta đổ hai khối nước như nhau, một đựng nước múc trước ngày Tết và một đựng nước múc sau Tết. Nếu lọ nước múc trước ngày mồng một nặng hơn lọ múc sau thì thầy bói cho là điềm gở, trong năm phải cẩn thận. Chỉ những người đầy tớ là sung sướng nhất trong dịp lễ này : chẳng ai mắng mỏ họ một câu, nếu mắng ắt cả năm sẽ rông, họ bảo thế. Vào dịp Tết dân an-nam ăn nhậu của ngon vật lạ phè phỡn, mỗi ngày họ ăn ba bữa chính và bao giờ cũng đem lên cúng một mâm cỗ mới. Trong bếp luôn luôn thắp hương cúng ba vị thần (Vua Bếp hay Táo công) sống ở ba hòn đá trong bếp (cái kiềng bếp ba chân) (14). Từ khi Tết bắt đầu, dân chúng lũ lượt đi sửa sang mồ mả (có ngôi mộ chỉ là nấm đất, người giầu sang xây mộ đá, tường vây xung quanh...). Không gì kỳ dị bằng quang cảnh từng đoàn lũ thợ thuyền xúm xít nhổ cỏ và sơn phết lại các lăng mộ. Tết năm nay rơi vào ngày 18 tháng giêng dương lịch (15). Ngay từ sáng thành phố Huế đã nhộn nhịp khác thường : các ông quan, các ông hoàng, và lũ lượt theo sau là một đám đông tùy tùng, mặc phẩm phục tiến vào thành nội để chúc Tết vua (Ðồng Khánh). Khắp nơi, các Ngự lâm quân vũ trang gươm giáo giám thị bờ sông để giữ trật tự đám thuyền bè đông đảo chuyên chở các quan chức. Tất cả quân đội Pháp đều trưng dụng, đứng làm hàng rào từ cổng thành tới cung điện (Thái-hòa), suốt thời gian vua thiết đại triều đón tiếp Thiếu tướng Prudhomme và viên Khâm sứ (16). Tại sân thứ nhất của Hoàng thành, quang cảnh thật là ngoạn mục : từ cửa Ngọ môn đến sân chầu, các đội Hải quân bộ binh mặc lễ phục, đội mũ trắng, đeo binh khí, dàn thành hai hàng hai bên thành cái cầu nhỏ dẫn tới cung điện. Cái mũ trắng này đã khiến bộ Lễ phải thương lượng rất lâu vì mầu trắng là mầu tang tóc, trong dịp Tết vui mừng mà dùng mầu trắng là điềm chẳng lành cho năm mới. Trong hai ngày dòng dã, Lễ bộ Thượng thư liên tiếp gửi cho Prudhomme hết thư này đến thư khác, điều đình xin đổi mầu mũ nhưng viên tướng Pháp khăng khăng một mực : trời nắng chang chang mà đội mũ đen có thể khiến quân sĩ bị say nắng (17). Giữa sân chầu, đại đội lính khố đỏ Bắc kỳ đứng thành hai hàng để chừa ở giữa một khoảng rộng làm lối đi cho tướng Prudhomme. Ðằng sau lính khố đỏ, cách quãng đều nhau là những bia đá chạm trổ, khắc chữ nho, các quan đứng sắp hàng theo thứ bậc cạnh những cái bia ấy, bên trái dành cho quan văn, bên phải là quan võ. Tất cả đều mặc triều phục, áo bào dài thườn thượt, tay áo rộng thùng thình, lưng thắt đai khảm ngọc quý nhiều mầu, đằng sau lại trang điểm cái gì như hai cái cánh rung rinh mỗi khi họ cất bước, chân mang hia tầu bằng vải thâm, đế dạ (feutre) dầy dặn. Mỗi ông quan cầm trong tay một cái giống như cái vương vị (hốt) bằng ngà. Mũ hơi giống mũ tế của các giám mục, phủ trán, bọc vải đen tô điểm bằng kim tuyến và những viên ngọc mầu, trùm lên trên cái lưới bao tóc sát thái dương. Hinh dáng mũ và xiêm áo của tất cả các quan giống nhau nhưng gấm vóc may áo, những hình thêu trên áo hay những đồ trang sức trên mũ thay đổi tùy phẩm tước : áo quan văn thêu con phong(phụng ?), một loại chim ưng đang giang cánh, quan võ thì thêu hình đầu con hổ (18). Với quan chức cấp dưới thì những trang sức đều ở vuông lụa trước ngực chiếc áo thụng bằng gấm đồng mầu xanh lam, mũ điểm trang cũng sơ sài thôi. Các đại thần bận áo bào xa hoa sắc mầu lộng lẫy, nhiều nhất là mầu quan lục. Áo gấm thêu hoa lá, hai bên mũ tô điểm vàng, đính hai miếng vải cứng giống như cánh con chuồn chuồn, trên thêu rồng (19). Các hoàng thân tụ tập ở phía trên các quan, ngay trong cung điện : họ khoác những tấm áo đỏ thêu kim tuyền lóng lánh rực rỡ Ở góc sân chầu, hai bên cung điện là các nhạc công mặc sắc phục đỏ, người thì mang nhạc khí tựa như kèn tây, kẻ đặt trống trên cái giá ở trước mặt. Bên cạnh là lính hầu cầm tàn lọng, gươm giáo, lắp vào cái cán gỗ dài là búa rìu, rồng trượng, bàn tay ngà biểu thị vương quyền. Hai bên sân chầu, những con voi khổng lồ trang sức mỹ lệ, chân đeo vòng kim khí, ngà treo vòng chạm trổ những hình kỳ dị, đứng trầm ngâm, lưng mang ghế bành thếp vàng trong đặt một hình nhân ngồi, trang phục choáng lộn, che một chiếc lọng vàng to do tên thủ hạ cầm, đứng đằng sau, trên mông con voi. Hình nhân này đại diện cho các lãnh chúa tùng phục triều đình, từ các miền xa xôi nhân dịp lễ Tết về chầu. Thình lình, một sự yên lặng sâu thẳm lan ra khắp các quan và lính. Một điệu nhạc vọng ra như từ chốn xa xăm, phía sau cung điện mà các cửa trong cùng đều mở, báo hiệu vua sắp lâm triều. Tiếng nhạc to dần, tựa như một bản hành quân nhịp điệu kỳ lạ, cứ giở đi giở lại mãi một âm điệu trầm buồn, u hoài, phát ra từ những nhạc khí có âm thanh rất êm nhẹ tựa như một dàn nhạc gồm ống tiêu, vĩ cầm, đàn ghi-ta. Một tiếng lanh lảnh kéo dài vang lên ở cuối cung điện và được các truyền lệnh sứ thay nhau nhắc lại, đứng rải rác từ tẩm cung ra đến sân chầu, qua các hành lang và những con đường vua phải đi qua để ra ngự triều. Và đây mở đầu đám rước : Trước tiên là đoàn Ngự lâm bận áo điều, đầu đội mũ lưỡi trai xuống đến gáy bằng giấy bồi sơn, tay dựng tua tủa những thanh gươm rất dài tra trong vỏ gỗ, cán bịt bạc. Rồi đến các môn vệ vác búa trượng khắc những hình kỳ quặc, Thị vệ cầm những sợi xích sắt treo trên cán ngắn, những đỉnh trầm hương khói nghi ngút. Bọn khác cầm quạt lông ngựa xua ruồi, cờ thêu viền răng cưa giả hình ngọn lửa. Cả đoàn khoan thai tiến từng bước rồi dàn ra hai bên ngự tọa. Cuối cùng nhà vua xuất hiện giữa bốn tên Thị vệ ăn mặc rất đẹp, khiêng bốn cái lọng vàng che cho vua. Vua vận một bộ áo hình dáng cũng tựa như áo các quan nhưng bằng vóc vàng thêu chỉ vàng. Mầu vàng là mầu dành riêng cho vua dùng, ở nước Nam chỉ có vua mới được mặc mầu vàng, các quan mà dám dùng mầu này trước công chúng là mang tội khí quân, lập tức bị án tử hình. Vua dận đôi ủng tầu đen, dát vàng, tay cầm một cái vương quyền bằng ngà (hốt ngà), đầu đội mũ cùng mầu với áo, khảm kim cương, ngọc trai, hoàng ngọc. Chiếc kim khánh bằng vàng chạm ngọc trai và kim cương đeo lủng lẳng ở cổ bằng một sợi dây chuyền vàng. Trên ngực áo cẩm bào thêu hai chữ nho "Vạn thọ". (...) Vua vừa ngồi xuống thình lình vang lên từ phía đầu thành tiếng kèn tây rộn rã của binh sĩ Pháp. Tướng Prudhomme, bên phải sóng vai viên Khâm sứ, nối đuôi là các sĩ quan và rất nhiều công chức, thông ngôn, vừa mới tiến vào sân thứ nhất, đi giữa hai hàng rào quân đội Pháp bồng súng chào trong khi lính thổi kèn tấu nhạc. Khi Prudhomme bước lên thềm sân chầu thứ nhất thì vua đứng dậy, rời long ỷ, đường bệ bước xuống, tiến ra cửa cung đón tiếp viên đại diện nước Pháp, bốn tên Thị vệ theo sau che lọng. Tướng Prudhomme ngỏ lời chúc mừng năm mới, được người thông ngôn chính của tòa Khâm (20) dịch ngay ra, vua đáp lại mấy lời nhã nhặn rồi tướng Prudhomme cáo từ ra về với những nghi thức y như khi đến. Nhưng chưa hết. Bây giờ mới tới những nghi lễ hấp dẫn, thú vị nhất. Các hoàng thân, đại thần làm lễ tuyên thệ trung thành với vua theo đúng thủ tục mỗi khi bước sang năm mới. Các quan sắp thành sáu hàng, quay mặt về phía cung điện. Theo hiệu lệnh của Thượng thư bộ Lễ, tất cả quỳ xuống, dập đầu sát đất, tuyên thệ trong khi âm nhạc nổi lên gợi cho ta phảng phất nhớ tới những buỗi lễ hát trong giáo đường. Các quan lom khom lên gối xuống gối ba lần như thế, và giữa hai lần phủ phục, âm nhạc trong cung văng vẳng đưa ra, vẫn cái điệu u hoài, uể oải. Tôi rất chú ý đến cái cảnh tượng đặc biệt tôn nghiêm ấy : đám đông các quan bận phẩm phục rực rỡ, lóng lánh dưới ánh dương quang, quỳ rạp giữa hai hàng voi đứng im phăng phắc, điệu nhạc kỳ dị, hương trầm bát ngát bay trong không gian, tất cả chập chờn, như ẩn như hiện trong bóng tối mờ mờ của gian ngự điện rộng thênh thang, một ông vua trẻ tuổi, trạc đôi mươi, trong chiếc long bào mầu vàng rộng thùng thình, nét mặt vô cảm hệt như một pho tượng, và người ta quỳ gối sùng bái như phụng thờ một vị thần linh trong một khung cảnh tuyệt vời với những tòa cung điện, một quang cảnh không thể nào quên được. Buổi lễ triều kiến kết thúc, vua vừa ra khỏi ngự điện thì những vệ sĩ và quan thuộc cấp từ từ giải tản dần. Các hoàng thân, đại thần được vua ban yến trong cung. Những lời khen tặng, những phần thưởng đã được vua ưu ái ban phát cho những người làm việc xứng đáng trong năm qua. (...) Ngày xưa, hoàng đế an-nam mỗi năm xuất hiện cho thần dân chiêm ngưỡng tôn nhan một lần vào dịp Tết nhưng sau khi Nam kỳ bị thất thủ vào tay quân Pháp, vua Tự Ðức buồn rầu, ẩn lánh trong cung và chỉ ra ngoài bằng thuyền hay kiệu che kín mít (...). Vua Ðồng Khánh từ khi mới lên ngôi muốn quay lại noi theo cổ tục của tổ tiên (21). Ðồng hồ điểm đúng 3 giờ, một tiếng súng vang ra từ thành nội báo hiệu vua xuất hành. Ðám rước vượt qua chiếc cầu gỗ lớn vắt ngang sông, tiến sang mỏm Ðông ba, đi đủng đỉnh giữa hai hàng lính Pháp, đằng sau lũ lượt hộ giá có cả nghìn người gồm các hoàng thân, Thượng thư, đại thần, Thị vệ, các nhạc công, Ngự lâm quân mang gươm giáo, cờ quạt, tàn lọng. Vua ngự trên chiếc kiệu thếp vàng do bốn người lực lưỡng khiêng, che bốn lọng vàng. Dân chúng xúm đông hai bên đường, phủ phục khi vua đi qua. Những tràng pháo an-nam nổ liên thanh, không khí tỏa ngát trầm hương từ những cái án thư nhỏ bầy lộc bình, phủ vải điều thêu, dựng khắp nơi bên đường vua đi qua. Ðứng trước án thư là các kỳ lão ở Huế đến chào mừng hoàng đế và cũng để tiếp nhận phần thưởng dành cho những bô lão trường thọ do vua ban theo đúng Kinh Lễ. Vua dừng lại trước tòa Thương bạc để thăm viên chủ soái quân đội Pháp. Từ sân, vua được tướng Prudhomme song song sánh bước cùng viên Khâm sứ và toàn thể binh sĩ ra nghênh giá. Một tiệc chiêu đãi nhỏ đã bầy sẵn. Vua ngồi giữa Prudhomme và viên Khâm sứ ở chiếc bàn đặc biệt, kê trên một cái bục hơi cao trong khi tại phòng bên, các đại thần và các ông hoàng ngồi ăn uống ở những cái bàn thấp hẳn hơn". Thiếu tướng Prudhomme giữ chức Lĩnh Trú sứ ở Trung kỳ năm 1886 đã tường thuật lại cái Tết Bính Tuất ở Huế mà ông đóng một vai chủ chốt, có những nhận xét khác với Bs Hocquard. Bài được Cosserat trích đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hué(22), xin dịch thêm để bổ sung : "Vào dịp Tết này, thể theo lời yêu cầu của tướng Prudhomme, vua (Ðồng Khánh) thuận đặc cách bãi bỏ tất cả tục lệ cổ truyền mà ra mắt công chúng để cho mọi người thấy nhà vua không phải là tù nhân của người Pháp như thiên hạ đồn đại, mà là đồng minh của Pháp quốc. Sáng ngày mồng 3 tháng 2 dương lịch, bẩy tiếng súng lớn báo hiệu một năm mới bắt đầu vào ngày mồng 4 tháng 2 năm 1886, và sáng hôm ấy vua dành để tiếp tướng Prudhomme, các sĩ quan và công chức tòa Khâm ở cung điện (Thái-hòa). Trên những sân bên trong, các binh lính an-nam dàn thành hàng rào. Giữa sân chầu, các quan sắp theo thứ bực. Bên trái là ban nhạc cung đình, bên phải là quân nhạc đại đội Lạp bộ binh thứ 11 (chasseurs à pied). Hai bên là Ngự lâm quân với cờ xí, tàn lọng, đằng trước đàn voi trận. Viên Kinh lược sứ và hai viên Thượng thư quan trọng nhất (23) tiến ra đón tướng Prudhomme và đoàn tùy tùng, dẫn lên ngự điện. Vua Ðồng Khánh đợi ở đấy, bận long bào vóc vàng thêu chỉ vàng, đội mũ nạm bảo ngọc, ngồi trên long ỷ thếp vàng xung quanh có các quan thị phụng. Khi tướng Prudhomme đến nơi, vua từ ngự tọa bước xuống đón, bắt tay rồi trở lại ngồi nghe những lời chúc mừng của Prudhomme. Cha Hoàng, thông ngôn của triều đình, quỳ lạy ba lần rồi mới dịch bài diễn văn ấy. Nghe xong, vua đứng lên thong thả đáp lễ, cũng do cha Hoàng dịch. Buổi triều kiến kết thúc với lễ ban phát huy chương cho các viên chủ sự, văn và võ. Sau khi những lời cảm tạ của tướng Prudhomme được dịch xong, viên chủ soái quân đội Pháp cáo từ, cũng do viên Kinh lược sứ và hai quan Thương thư tiễn đưa. Một lúc sau khi trở về đại bản doanh thì những huy chương bằng vàng to nhỏ được đưa đến một cách long trọng và lập tức được phân phát cho các viên chủ sự kèm với lời căn dặn là phải đeo trong buổi diễn binh trưa nay. (...) 2g30 vua, cùng với tướng Prudhomme và toàn bộ tham mưu văn võ, ra khỏi cung điện, vua ngồi trên kiệu sơn son thếp vàng không mui để ra mắt công chúng. Ngự lâm quân hộ giá, binh sĩ Pháp đi tiên phong và tập hậu đám rước... diễu hành khắp Hoàng thành và Ðông ba trong tiếng nhạc an-nam. Tất cả mọi chùa chiền đều thắp đèn sáng và cắm cờ xí... Khi vua đi qua, dân chúng phủ phục sát đất rồi đứng dậy biểu lộ sự vui mừng ầm ỹ và đốt rất nhiều pháo. (...) Ðến chiều, vua đãi tướng Prudhomme và viên Khâm sứ cùng tùy tùng của họ một đại tiệc theo kiểu Tây phương trong tiếng nhạc cung đình. Ngày lễ chấm dứt bằng mục đốt pháo bông rất huy hoàng. Lễ Tết, và đặc biệt là chuyến xuất hành ra mắt thần dân của vua Ðồng Khánh rất có tiếng vang. Ngoài bằng chứng cho thấy nhà vua hoàn toàn tự do, Ðồng Khánh còn biểu lộ ý muốn cắt đứt với những hủ tục mấy trăm năm của chế độ quân chủ, khiến cho ông vua trở thành một một nhân vật có tính chất huyền thoại, xa cách nhân dân. Ðồng Khánh chứng tỏ ông ta muốn cải cách cổ tục và sống theo văn hóa Thái Tây. Cuộc viếng thăm đại bản doanh xác nhận lòng tôn kính đối với nước Pháp và mối giao tình hoàn hảo với đại diện Pháp... Tin tưởng rằng chỉ cần nhà vua xuất hiện trước công chúng là thu phục được những phần tử chống đối, tướng Prudhomme, qua cha Hoàng, đã đề nghị ý muốn đi dẫn đầu đám rước". Phóng viên báo Figaro cũng có mặt ở Huế vào dịp Tết 1886 và đã tường thuật với con mắt bàng quan. Cosserat trích lại trong BAVH(24) : "Dẫn đầu đám rước là hai con voi, hai con ngựa của vua do ba tên thị vệ dắt, rồi đến nhạc đội Lạp bộ binh thứ 11, một trung đội Lạp binh, âm nhạc an-nam, các quan mang gươm giáo, tàn lọng... Vua ngồi trên kiệu, bên phải có tướng Prudhomme, bên trái là Ðại tá Brissaud, cả hai đều cưỡi ngựa, theo sau là đội lính thổi kèn, rồi đến các ông Hoàng, Thượng thư, nhân viên tòa Khâm, sĩ quan Pháp, các quan Nam đủ mọi cấp bậc, một đám phu an-nam mang vũ khí bằng gỗ thếp vàng, bạc, cờ xí. Ðám người này trông như vừa mới ở cửa hiệu bán đồ cũ bước ra. Ði đoạn hậu là 6 con voi, một toán bộ binh xứ Algérie (zouaves), trông như dân Lilliput (tí hon) bên cạnh những con vật khổng lồ... Ðường phố Ðông ba lúc nẫy ồn ào, náo nhiệt là thế, giờ vắng tanh, ai về nhà n ấy, vì không ai được phép nhìn vua. Trước cửa mỗi nhà đều đặt một án thư trên đốt trầm hương. Khi đám rước đã đi qua rồi, đường phố lại ồn ào đông nghịt những người, pháo liên thanh nổ... 5 giờ chiều chấm dứt buổi diễu hành, vua trở về cung và sau đó gửi tặng tướng Prudhomme một thanh gươm rất quý trị giá 2000 quan. Chiều tối, tướng Prudhomme dự một tiệc yến trong vòng thân hữu ở cung điện". Châtenay-Malabry, tháng 11, 2006 Nguyễn Thị Chân Quỳnh sưu tầm và lược dịch
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:05:58 GMT 9
Nguyễn Thị Chân Quỳnh sưu tầm và lược dịch
CHÚ THÍCH
[1] - Ba bài ấy là : "Tết Nguyên đán và lễ Nghênh Xuân", "Khai bút đại cát", "Tế Nam giao" in trong "Lối Xưa Xe Ngực..." tập II. Paris : An Tiêm, 2003.
[2] - A. de Rhodes, Lịch sử Vương quốc Ðàng Ngoài, tr. 104-5.
[3] - "Votuan" : chưa rõ nghĩa.
[4] - S. Baron, Description du Royaume de Tonquin, tr. 34-5.
[5] - Cuối năm có lễ Phong ấn hay Khóa ấn : hộp đựng ấn úp mặt xuống, công sở nghỉ làm việc cho đến ngày Khai ấn, làm việc trở lại vào đầu năm mới. Xin xem "Tết Nguyên đán và lễ Nghênh Xuân", "Lối Xưa Xe Ngựa..." tập II.
Chính S. Baron lầm : người ta tính Tết kể từ ngày cúng ông Táo lên chầu Trời vào 23 tháng chạp chứ không phải 25 (theo luật năm 1807, 25 là ngày phong ấn). Ngoài ra, Tết có thể rơi vào tháng giêng hay tháng hai dương lịch chứ không nhất thiết "vào khoảng 25 tháng giêng dương lịch".
[6] - W. Dampier, "Un voyage au Tonkin en 1688", Revue Indochinoise, Sept. 1909.
[7] - Père Bénigme, Vingt ans en Annam, tr. 113.
[8] - Không hiểu tác giả nhầm hay tục lệ đã thay đổi vì tới giữa thế kỷ XX thì lễ người sống chỉ có hai lễ một vái, lễ người chết phải bốn lễ hai vái, không thấy có lệ lễ một lạy hay ba lạy.
[9] - Dr Edmond Courtois, Le Tonkin français contemporain, tr. 347-9.
[10] - Bs Hocquard viết ngược lại trong Une campagne au Tonkin : nếu nước năm cũ nặng hơn nước năm mới là điềm gở.
[11] - Họcquard, tr. 623-33.
[12] - "Danlan" : chưa rõ nghĩa. Papin đoán là "dân làng".
[13] - Tương truyền sự tích vẽ cung tên là từ Ðinh Tiên Hoàng (chứ không phải Phật), trong nước có nạn dịch hạch, vua cầu khẩn và được một ông thần chỉ cách vẽ cung tên bằng vôi bột để trị.
Còn sự tích Phật trừ ma quỷ thì dính líu đến cây nêu trồng 7 ngày mới hạ vi trong 7 ngày Tết Phật lên chầu Trời, ma quý tự do hoành hành, chỉ hứa tránh đất nhà Phật, tức là những chỗ nào có cây nêu, cành phướn. Xin xem "Tết Nguyên đán và lễ Nghênh Xuân", "Lối Xưa Xe Ngựa..." tập I I.
[14] - 23 thánh chạp (trong Lối Xưa Xe Ngựa..." in nhầm là 30 tháng chạp) cúng ông Táo (tức Vua Bếp) lên chầu Trời để phúc trình những hành vi của gia chủ trong năm qua. "Ông Táo" gồm một bà và hai ông (hai đời chồng), cái kiềng bếp có ba chân tượng trưng cho ba Vua Bếp. Xin xem "Tết Nguyên đán và lễ Nghênh Xuân","Lối Xưa Xe Ngựa..." tập II.
[15] - Hocquard nhầm, Tết năm 1886 rơi vào ngày 4-2-1886, không phải 18-1-1886. Nếu tính từ lễ cúng ông Táo thì phải kể từ ngày 23 tháng chạp, một tuần lễ trước, tức là ngày 28-1-1886. Có lẽ Hocquard tính từ lễ Phong ấn hoặc nhầm ngày 18 với ngày 28 ?
[16] - Thiếu tướng Prudhomme (nổi danh về cướp phá các kho tàng trong cung khi vua Hàm Nghi xuất bôn) là phụ tá của Trung tướng de Courcy, người lập Ðồng Khánh lên ngôi ngày 19-9-1885. Ngày 20-9-1885 de Courcy phải ra Bắc vì tình hình bất ổn, giao chính quyền lại cho de Champeaux và binh quyền cho Prudhomme.
Tháng 10-1885 de Champeaux bất hòa với de Courcy, từ chức. Hector , quan cai trị từ Nam ra thay thế ngày 3-10-1885, vậy Khâm sứ ở Huế tết Binh Tuất (4-2-1886) chắc là Hector, trong khi Prudhomme giữ chức Résident délégué en Annam, tạm dịch là Ðại diện Pháp lĩnh chức Trú sứ ở Trung kỳ, và de Courcy là Tổng Trú sứ Bắc kỳ.
[17] - Chắc Hocquard nhầm, không có lý bộ Lễ lại xin đổi mầu trắng sang mầu đen vì mầu đen cũng là mầu tang.
[18] - Hocquard nhầm, vuông lụa đính trước ngực áo, gọi là bổ tử, quan văn thêu hình các loài chim, quan võ thêu hình các loài thú, chim hay thú thay đổi tùy phẩm trật.
[19] - Mũ cánh chuồn.
[20] - Theo Prudhomme thì viên Thông ngôn ấy là cha Hoàng, làm việc với triều đình chứ không phải thuộc tòa Khâm như Hocquard viết, tuy nhiên ở đoạn sau (tr. 608) Hocquard sửa lại, gọi cha Hoàng là thông ngôn chính của triều đình. Nguyễn Xuân Thọ (tr. 403) cho cha Hoàng là tay sai của Pháp đặt bên cạnh Ðồng Khánh để do thám. Rất có thể cha Hoàng chính là gm Nguyễn Hoằng từng làm thông ngôn cho cả hai triều Tự Ðức và Ðồng Khánh (chữ "Hoằng" không bỏ dấu thành "Hoang", người đọc tự sửa thành "Hoàng") mà thời Tự Ðức thì Pháp chưa có quyền áp đặt người của mình vào làm quan với triều đình.
[21] - Trong phần chú thích tr. 626 Papin nói là ở một đoạn sau Hocquard viết rằng tướng Prudhomme đã yêu cầu Ðồng Khánh cùng đi diễu hành với ông ta... song tôi chỉ thấy Hocquard cho biết là Ðồng Khánh muốn ra mắt công chúng để đoạn tuyệt với những tuc lệ cổ truyền (tr. 632), không có chỗ nào nói đó là ý của Prudhomme. Có lẽ Papin đã lẫn Hocquard với Prudhomme ? Chính Prudhomme kể đã đưa ra ý kiến (ngây thơ) muốn cùng đi diễu hành với Ðồng Khánh để cho dân chúng thấy nhà vua không phải là tù nhân của người Pháp. Nhưng dù che đậy cách nào bài của Prudhomme cũng vẫn bộc lộ vai trò bù nhìn của Ðồng Khánh. (Xin xem bài tường thuật của Prudhomme).
[22] - Cosserat, Bulletin des Amis du Vieux Huế viết tắt là BAVH (Hiếu cổ Tập san), Juil. Sept. 1924, tr. 302-4.
[23] - Viên Kinh lược sứ có lẽ là Nguyễn Hữu Ðộ, nhạc phụ của Ðồng Khánh, Chủ tịch Viện Cơ mật, người đã đề nghi lập Chánh Mông tức Ðồng Khánh lên ngôi.
Chưa rõ hai viên "Thượng thư quan trọng nhất" là ai.
[24] - Cosserat, BAVH, tr. 305.
SÁCH THAM KHẢO
Samuel BARON, A Description of the Kingdom of Tonqueen viết khoảng 1685-6, bản dịch sang Pháp văn của H. Deseille không đề năm xuất bản.
Père BENIGME, Dix ans en Annam, Paris, 1884.
H. COSSERAT, "Les fêtes du Têt en 1886 à Hué - Promenade publique du Roi". Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH), Juil.-Sept., 1924. Trích tướng Prudhomme và phóng viên báo Figaro.
Dr Edmond COURTOIS, Le Tonkin français contemporain, Paris : Charles Lavauzelle, 1891.
W. DAMPIER, "Un voyage au Tonkin en 1688", Revue Indochinoise, No 9, Sept. 1909.
Dr HOCQUARD, Une campagne au Tonkin, Paris : Hachette, 1892 ; 2e édition annotée par Papin. Paris : Arléa, 1999.
NGUYỀB XUÂN THỌ, Bước mở đầu của sự thiết lập hệ thống thuộc địa Pháp ở Việt-Nam (1858-1897), 1994, không đề nơi xuất bản..
PHAN KHOANG, Việt-Nam Pháp thuộc sử (1884-1945), 1961 ; tái bản ở Mỹ, không đề năm.
A. de RHODES, Histoire du Royaume de Tunquin, bản tiếng Ý năm 1650, bản dịch sang Pháp văn của Henri Albi, Lyon, 1651 ; bản Việt ngữ của Hồng Nhuệ, TPHCM : Ủy ban Ðoàn kết Công giáo, 1994. (Ðoạn trích dịch in trong bài này không phải của Hồng Nhuệ).
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:10:36 GMT 9
Nguyễn Thanh / Phương Nguyễn Tết ta và Tết tây Với nhiều Việt kiều ở Pháp, ăn Tết ta thường chỉ đơn giản là cùng gia đình ăn vài lát bánh chưng đặt làm hay mua ở một cửa tiệm chuyên bán sản phẩm Á Đông. “Nhập gia tùy tục” noel và Tết tây từ lâu đã thành hai sự kiện quan trọng nhất trong năm, ngay cả đối với chúng tôi! Noël và Tết tâyỞ pháp, từ khoảng đầu tháng 11, các đường phố, quảng trường, ngã tư lớn... đã bắt đầu được trang hoàng để tạo ra một không khí lễ hội ngày càng tưng bừng. Nhiều người cũng đã bắt đầu suy tính đến việc mua quà cáp để tặng nhau vào đúng nửa đêm Noël (24/12), đây là một khoản chi phí khá lớn. Thông thường, bữa tiệc vào tối Noël chỉ tập hợp những người trong gia đình và một vài người rất thân đang sống một mình. Hai món ăn truyền thống vẫn còn được chuộng nhất trong bữa tiệc này là hàu sống (ăn với một tí nước chanh) và gan ngỗng vỗ béo (foie gras, hiện nay chủ yếu được chế biến từ gan vịt vỗ béo). Đến nửa khuya thì mọi người tặng quà cho nhau (các món quà đã được đặt từ sớm dưới gốc cây thông). Vào đêm giao thừa của Tết tây (người Pháp gọi là đêm Thánh Sylvestre), người ta thường rủ nhau đi ăn tiệm (rất thịnh soạn và đắt hơn ngày thường đến bốn, năm lần) hoặc mời bạn bè ăn tiệc làm ở nhà cho đến 12 giờ khuya thì mọi người ôm hôn và chúc mừng nhau dưới nhánh cây tầm gửi(gui, tượng trưng cho may mắn) treo trên trần nhà. Riêng ở Paris, hàng triệu người đổ về đại lộ Champs Élysées (lớn và sang trọng nhất của thủ đô Pháp) để đón giao thừa: họ bóp còi xe và thổi nhiều loại kèn, loạn xị và đinh tai nhức óc; họ chúc mừng, ôm hôn cả những người chưa từng quen biết và, nhiều khi, mời nhau uống rượu champagne. Giai đoạn lễ hội chấm dứt vào ngày chủ nhật đầu tiên của năm mới: trong hầu hết các gia đình, vào cuối bữa tiệc mọi người chia nhau chiếc bánh "các vua" (galette des Rois, một loại bánh nướng, tròn như bánh tráng nhưng dày hơn 2cm, bên trong có kem hạnh nhân); người nào tìm thấy trong phần bánh của mình hình nhân làm bằng sứ (gọi là feve) sẽ được đội vương miện (làm bằng cáctông thếp vàng, bán cùng với hộp bánh) để đóng vai vua hay hoàng hậu cho đến khi tiệc tàn. So với cái Tết hiện nay ở bên nhà, phải nói là cái Tết Việt kiều dường như quá sức giản đơn, thậm chí có phần thê lương. Tết ta ở Pháp hiện nayVì Tết ta thường đến khoảng một tháng sau Tết tây, ngay trong thời gian mọi người ở nước sở tại đang tất bật làm ăn, nên chẳng có được một chút không khí rạo rực, háo hức và rộn ràng nào của những ngày Tết ở quê nhà. Những Việt kiều lớn tuổi (thường sinh ra và trưởng thành ở Việt Nam trước khi sang định cư ở Pháp) thường tìm đôi chút hương vị Tết trong miếng bánh chưng hay bánh tét mà những người thuộc thế hệ thứ hai trở đi thường không thích mấy vì quá "nhớt" (gluant) và vì nhân thường quá nhiều mỡ. Để ăn Tết ta, một số Việt kiều, nhất là ở vùng Paris, cũng thường tham dự các bữa tiệc lớn (quy tụ cả hàng mấy trăm người), được tổ chức ở các nhà hàng Á Đông đôi khi giao thừa đến cả tháng! Tết xưa và Tết nay ở trong nước
Nói chung những người đã cao tuổi như tôi thường ăn Tết bằng hoài niệm: đây là dịp để tưởng nhớ da diết đến quê nhà, ôn lại những kỉ niệm xưa, nhất là về thời thơ ấu. Qua hoài niệm, tôi chiệm nghiệm được là hóa ra Tết nhất cũng vô thường ra phết: vì mỗi thời một khác. Trong những năm tản cư ở một làng vùng núi Quảng Nam, vào thời kháng chiến chống Pháp. Khi tôi còn ở tuổi thiếu nhi, Tết là dịp duy nhất để được ăn bánh tét, bánh tổ, vài lát thịt... sau suốt năm ăn cơm ghế bắp, sắn hay khoai với mắm muối. Và Tết cũng là dịp để tôi được mặc bộ quần áo bà ba mới may bằng vải ta, cùng bạn bè chạy chơi trong làng. Năm 1955, sau khi hồi cư, tôi mới được ăn lần đầu tiên một cái Tết tưng bừng ở cả quê nội lẫn quê ngoại: được xem hay tham gia rang nổ, làm các loại bánh (tét, tổ, nổ, in... ), làm thịt heo, đốt pháo, chơi bài chòi, đánh "xìlát" và "cáctê" cắn hạt dưa (đỏ cả răng, môi)... và nhất là được nghe loại nhạc boléro mà sau này nhiều người thường gọi đùa là nhạc sến, phát ra từ chiếc máy hát cổ lỗ sĩ chạy bằng lò xo! Tôi vẫn tiếp tục ăn cái Tết quê mùa đó trong những năm sống ở Hội An rồi Đà Nẵng cho đến khi qua Pháp du học vào năm 1963: khoảng mồng hai Tết, tôi lại về quê ăn Tết ba bốn ngày với gia đình nội, ngoại. Vào thời đó ở Quảng Nam, tuy không còn chuyện ăn chơi trong suốt cả tháng riêng, nhưng hương vị Tết vẫn còn lưu lại cả tháng trong các lát bánh tét, bánh tổ chiên hay trong các món mứt, dưa món với những củ kiệu còn nguyên cả rễ. Tết ta ở Pháp ngày xưaSau cái Tết xa xứ đầu tiên buồn thối ruột trong cái giá lạnh của quê người (vào năm 1964), tôi đã ăn ròng rã mười mấy cái Tết "đấu tranh" bên cạnh những người bạn cùng trang lứa. Những cái Tết này còn kéo dài hơn những cái Tết bên nhà và khá độc đáo: Tết là dịp rất quan trọng để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận Việt kiều cũng như dư luận Pháp cho việc lập lại hòa bình ở Việt Nam, thông qua đêm văn nghệ và lễ hội có đến vài ngàn người tham dự. Chúng tôi thường phải chuẩn bị Tết từ năm, sáu tháng trước: tập các tiết mục văn nghệ, rồi làm phông, phối cảnh sân khấu... Và cả tuần trước đêm Tết, chúng tôi còn tham gia làm thức ăn (thịt heo nướng, chả giò, gỏi cuốn... ) để bán cho khán giả. Các buổi gặp nhau để tập dượt hay "lao động chân tay" như vậy, thường kết thúc quanh một nồi cháo gà kỳ diệu không kém nồi cơm của Thạch Sanh vì bao nhiêu người ăn cũng đủ! Bây giờ nhớ lại vẫn còn thấy vui. Lại ăn Tết ta ở quê nhàKhoảng năm 1990, lần đầu tiên tôi lại được ăn một cái Tết ở Đà Nẵng đến nay vẫn nhớ, nhất là cảnh cả thành phố đốt pháo đến đinh tai nhức óc, khói bay mù mịt khắp nơi đến ngạt thở. Vì lúc đó mọi người nói chung còn nghèo do Việt Nam mới mở cửa, nên một số gia đình vẫn còn phải chung tiền, rồi cử người về quê mua heo đem ra Đà Nẵng làm thịt để chia nhau, hoặc góp củi to để nấu chung nồi bánh tét. Trong ba năm rồi, tôi lại ăn liên tiếp ba cái Tết ở Đà Nẵng - phải nói là tưng bừng và có nhiều lễ nghi hơn xưa rất nhiều - khiến tôi càng thấm thía câu "phú quý sinh lễ nghĩa". Cách đây năm mươi năm, vào dịp Tết, người mình cũng thích cắm hoa trong nhà, ở miền Trung chủ yếu là hoa mai vàng. Chỉ có một số ít nhà giàu mới có được cả cây mai chặt sát gốc, chứ bàng dân thiên hạ thì chỉ mua được một cành thôi. Trái lại, hiện nay, nhiều nhà có thể bỏ ra đến cả mấy chục triệu đồng để mua một chậu mai kiểng rất nhiều hoa và có hình dáng đẹp. Và chợ hoa ở quảng trường 29. 3 là cả một rừng màu sắc mênh mông: về chuyện trồng và chơi hoa, đúng là Việt Nam đã tiến một bước rất dài. Vào đêm giao thừa, cảnh đốt pháo bông ở hai địa điểm trên sông Hàn cũng rất hoành tráng. Ngay cả việc lì xì cho trẻ con (và ngay cả cho một số người lớn có vai vế) và tiếp đãi nhau khi thăm viếng cũng sang trọng hơn thời xưa quá đỗi. So với cái Tết hiện nay ở bên nhà, phải nói là cái Tết Việt kiều dường như quá sức giản đơn, thậm chí có phần thê lương: đối với nhiều người như tôi, nói thường là dịp để hoài niệm về những cái Tết của thời thơ ấu ở quê nhà, và đôi khi để băn khoăn, day dứt hay ước mơ về quê cha đất tổ! Nguyễn Thanh
Theo Sài Gòn Tiếp Thị số Xuân 2011 Vui buồn chuyện Tây đón Tết ta “Tết Nguyên đán ở Việt Nam là dịp đặc biệt khiến lòng tôi hân hoan như một đứa trẻ” - Cathy, nữ giáo viên người Anh sang Việt Nam dạy học từ hai năm qua, bày tỏ nỗi háo hức đón chờ ngày Tết Tân Mão 2011 ở Hà Nội. Tết Việt là một lễ hội văn hóa ấn tượng trong mắt người phương Tây. Trong ảnh: Một cô gái Úc chụp ảnh lưu niệm với ba thanh niên Việt đóng vai ba ông Phúc - Lộc - Thọ trong Hội chợ Tết Tân Mão 2011 ở Úc. (ABC) ‘Nhập gia tùy tục’ Cathy thích nhất là khoảng thời gian chuẩn bị cho Tết: từ dọn dẹp nhà cửa đến bày biện và trang trí đồ dùng, mâm quả. Cô cũng mua đào và bánh chưng ở ngoài chợ về “bày cho đẹp nhà”. “Không khí Tết (ở Việt Nam) rất đặc biệt mà tôi không diễn tả được. Tết rất thú vị, đặc biệt là khi bạn chưa từng một lần được trải nghiệm Tết. Ở trường mà tôi dạy tiếng Anh được trang trí rất vui mắt với đủ mọi màu sắc. Dường như Tết làm mọi cảnh vật và con người tươi tắn hơn: trẻ con mặc quần áo đỏ, hoa đào màu hồng và những cây quất xanh quả vàng. Nhiều nhà cũng dùng các đồ vật mạ vàng rất đẹp”. Điều khiến Cathy cảm thấy đặc biệt nhất về Tết là ai ai cũng vui vẻ. “Đây là thời gian gia đình đoàn tụ, mọi người ai cũng nhớ đến nhau khiến tôi cũng hơi chạnh lòng nhớ về gia đình của mình ở bên Anh! Tôi cũng đặc biệt thích truyền thống người Việt dành hai ngày đầu tiên của Tết với gia đình và họ hàng, còn ngày thứ ba là dành cho bạn bè”. Cathy cũng mua những phong bao màu đỏ để đựng tiền lì xì cho học sinh của mình ở trường. Tuy nhiên, Cathy cho rằng: “Mặc dù phong tục lì xì trẻ em có ý nghĩa rất hay nhưng tôi không thích phong tục ấy nhiều nữa. Tôi cảm thấy nó gây áp lực cho mọi người phải lì xì nhiều và nhiều hơn mỗi năm”. Để chuẩn bị cho phong bì lì xì, Cathy thường hỏi xin bạn bè những đồng xu tiền các nước khác nhau để tặng cho học sinh của mình ngày Tết. Cô muốn cho bọn trẻ biết thêm nhiều điều mới chứ đừng chú trọng giá trị tiền được lì xì nhiều hay ít. Vui Tết ở miền quêKris và Ola là hai người Ba Lan ở Hà Nội đã hơn 2 năm để học thạc sĩ chuyên ngành Việt Nam học. Ola cho biết Tết là lúc cô cảm nhận được nhiều nhất về các nét văn hóa của Việt Nam, từ việc ăn uống, thăm hỏi gia đình và cả thờ cúng. Mặc dù được học và nghiên cứu nhiều về Việt Nam từ sách vở và trường lớp nhưng không gì ấn tượng mạnh với hai bạn trẻ người Ba Lan bằng lần 'về quê ăn Tết’ ở Hưng Yên theo lời mời của một anh đồng nghiệp làm cùng trung tâm ngoại ngữ. “Tôi biết Tết của các bạn là dịp để gia đình gặp gỡ. Tôi rất cảm động khi mọi người ở Thái Nguyên rất niềm nở và vui vẻ với chúng tôi. Đi đến đâu chúng tôi cũng được chào đón, được mời dùng bữa nhiệt tình. Dù ngôn ngữ khác biệt nhưng những cử chỉ thân mật và những tiếng cười làm mọi người gần nhau hơn!”. Vào sáng mùng một Tết, Kris và Ola cùng mọi người đi lễ chùa như nhiều người dân địa phương. Họ cũng cố cầu nguyện bằng tiếng Việt theo đúng cách mà bạn đồng nghiệp địa phương dạy. Ola còn khoe cô xin được quẻ trên chùa và thành tâm cất vào ví rất cẩn thận. Đối với cô, đây là những kỉ niệm vô cùng thú vị mà không phải khách du lịch nào khi đến Việt Nam cũng có dịp trải nghiệm. Tết Tân Mão 2011 này, Ola và nhóm mấy người bạn nước ngoài lại có kế hoạch mới: phóng xe lên Hà Giang để xem người dân tộc ăn Tết với mong muốn hiểu hơn về đất nước Việt Nam. Rick, một người Mỹ tới Việt Nam để học bộ môn võ thuật cổ truyền, thì lại thích chu du “lãng tử” vào dịp Tết Nguyên đán. Rick tổ chức cả một nhóm bạn đi cắm trại ở những vùng quê hẻo lánh vào đúng những ngày Tết vì theo anh lúc này “đường phố ở khắp mọi nơi đều vắng, chạy xe máy trên đường rất thích!”. Rick kể anh và bạn bè thường phải chuẩn bị rất nhiều lương thực cho nhiều ngày rong ruổi vì nơi hẻo lánh mà họ đến cắm trại chợ không hề hoạt động trong mấy ngày Tết. Tuy vậy, cũng có lúc nhóm bạn hết sạch lương thực và “bí quá” đành phải vào nhà dân xin nước, rau. Không ngờ Rick lại được người dân mời ăn cơm cùng và đãi như khách quý mặc dù hai bên không hiểu nhau do rào cản ngôn ngữ. “Ở bên Mỹ, việc đón ngày lễ cùng những người xa lạ là điều không bao giờ xảy ra. Ở Việt Nam thì ngược lại, Tết khiến mọi người lại càng niềm nở hơn với người chưa quen biết” - Rick nhớ mãi những cử chỉ tiếp đón nồng nhiệt và chân tình của những người dân ở vùng sâu, vùng xa thị thành Việt Nam mà anh gặp ngẫu nhiên trên đường ngao du ngày Tết. “Tết: dịp đặc biệt để ăn” Với một người Úc như Mark Lowerson, chủ nhân của blog stickyrice.typepad.com - một trong 50 blog chuyên về món ăn hay nhất thế giới 2009 theo bình chọn của TimesOnline thì cho rằng phong tục quây quần bên mâm cỗ của người Việt là một nét văn hóa rất đặc trưng mà anh thích nhất. Theo quan sát của Mark, “Tết là dịp mà các bạn thường ăn rất nhiều. Dường như tinh túy của Tết tập trung ở bữa ăn gia đình. Hay nói cách khác, Tết là một dịp vô cùng đặc biệt để ăn!”. “Có lần Tết tôi về nhà người bạn ở Nha Trang. Mẹ anh bạn tôi nấu chè kho gồm gạo nếp và đậu xanh trộn với đường và gừng khi còn nóng hổi. Quả là một bữa tráng miệng tuyệt vời. Không một nhà hàng nào có thể cho tôi một bữa Tết ngon đến vậy”. Mark cũng rất tinh ý: “Đặc biệt là trong Tết, các hàng bún riêu xuất hiện rất nhiều, ở bất kì phố nào ở Hà Nội. Người ta thường ăn món này khi cảm thấy ngấy các đồ ăn thức uống khác ”. Mark từng reo lên vì sung sướng khi phát hiện ra một loại quả mới chỉ xuất hiện trong dịp Tết: quả Phật Thủ (loại quả chỉ chuyên để trưng bày trên bàn thờ cúng tổ tiên ở miền Bắc). Xôi gấc thì được Mark miêu tả: “Xôi có màu đỏ rực rỡ rất bắt mắt, được đúc thành hình vuông vắn là một trong những món ăn phổ biến của ngày Tết vì nó tượng trưng cho may mắn”. Tuy nhiên, cũng có vài điều về Tết ở Việt Nam mà Mark Lowerson cảm thấy không vui. Mark kể về chuyến đi đền Bà Chúa Kho ở Bắc Ninh những ngày đầu năm: “Ở đây vàng mã và nhang hương được đốt với một tốc độ mà các nhà khoa học cũng phải rùng mình khi nghĩ đến lượng carbon nó thải ra. Người người chen lấn, xô đẩy và to tiếng. Tiếng loa liên tục nhắc mọi người để phòng bị móc túi. Tôi không chắc trong bầu không khí như thế, các vị thánh thần có thể nghe thấy bất kì điều gì mà mọi người khấn vái!”. Mark cũng đặc biệt chú ý đến các mâm đồ cúng: “Trên các mâm đồ cúng được mọi người bưng có rất nhiều thứ như hương nhang, gà luộc, hoa quả, bia, bánh kẹo, nước ngọt, xôi gấc và tiền. Đó là những đồ cúng lễ để người ta cầu xin sức khỏe, tài lộc, thành công và sung túc. Tôi thấy rất ít người đem những đồ cúng từ nhà đi mà chủ yếu là họ mua sẵn ở các sạp hàng ngoài đường. Quả là tiện lợi nhưng liệu cách này có chứng tỏ được sự thành tâm đi lễ chùa của bạn hay không?”. Ngoài ra, Mark cũng đề cập đến những chiếc bánh chưng, bánh tét được một vài doanh nghiệp làm để lập kỷ lục lớn nhất Việt Nam: “Tôi đã từng mua vé vào hội chợ có trưng bày chiếc bánh tét lớn nhất Việt Nam dài hơn 31 mét để xem một lát và… không thể tưởng tượng được. Có lẽ chiếc bánh tét này có thể chỉ được sử dụng như một cái cột mà thời trung cổ người ta dùng để phá tường thành. Tất cả chỉ vì kỷ lục mà thôi!”. “Tôi vẫn thích những chiếc bánh chưng bình thường hơn. Ăn kèm bánh với một ít nước mắm và vài củ dưa hành thật là tuyệt làm sao!” - Mark nói. Phương Nguyễn
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:11:57 GMT 9
Tết Paris Vietsciences- Võ Thị Xuân Sương Mỗi năm, cứ mùa Giáng Sinh và Tết Tây Tết ta là khu Paris 13 vốn luôn luôn sinh động rộn ràng, càng thêm náo nhiệt. Báo chí và truyền hình truyền thanh Pháp biết nhiều đến Tết Á Châu là nhờ cộng đồng người Hoa bỏ tiền ra tổ chức ăn chơi rầm rộ. Giáng sinh, những tiệm Tàu bán lương thực như Tang Frères (Anh em họ Tang) bao dàn đèn chung quanh khu 13 chớp nháy cả tháng trên cây. Tết ta thì rước cộ múa lân, con rồng chỉ có trong truyền thuyết bỗng dưng hiên ngang lộng lẫy diễu chơi ở nhiều quận Paris, là cái đích cho bàn dân hội họp vui đùa. Dân Paris chẳng xài súng lung tung tha hồ như dân Mỹ nên tiếng pháo rộn rã dòn tan là âm thanh kích thích mời mọc. Dưới cái se lạnh mùa đông, xác pháo hồng tung tăng quyện chân lân là hình ảnh duyên dáng hấp dẫn. Mỗi năm thiên hạ vẫn chờ đợi ngày này, háo hức nhìn cho được thân rồng uốn éo. Năm nay mùa đông không khắc nghiệt, ngày cuối năm và mồng một Tết vừa rồi trời êm dịu nắng sáng trưng và hy vọng tuần sau trời cũng sẽ đẹp, dân Tây tha hồ đổ ra đường ăn Tết ta đùa giỡn với lân.Dân Việt Nam vì sống rải rác lẫn lộn với người Pháp không thành khu thuần Việt như khu Tàu, nên «kín đáo» hơn nhiều, mình ra khu này để chợ búa chớ không để sinh hoạt, cũng chẳng nghe ai đi xem rồng lượn. Năm nay bên Tây dân ta ăn Tết theo Tàu, cúng giao thừa chiều thứ 7. Đi mua con gà đầy đủ đầu cổ chân tay thì to quá không vào lọt nồi, ông hàng thịt bảo thì bà mua con nhỏ kia, tui cho bà cái đầu và chân của con này. Tôi nói không được đâu, chẳng khác nào tôi cắt đầu và chân ông lắp vào thân thể cái ông kia thì Ông Bà tui la chết. Thôi thì, đằng nào cũng cúng Ông Bà cơm chay, mâm cúng tứ phương con gà chỉ có cái mình cũng chẳng sao, được ăn là sung sướng rồi, chỉ có người sống mới trách móc. Và lăng xăng hối chồng pha bình trà mới rót ba ly, khui chai rượu mới rót ba ly, bày bánh chưng xôi chè hoa trái, đốt ba cây nhang thủ thỉ với cõi bên kia với lòng thành hy vọng họ nghe, là thấy Tết rồi. Chẳng biết các cụ có xin được giấy xuất nhập cảnh qua với mình không, nhưng mời thì cứ mời, không mời thấy lòng dạ xốn xang không phải đạo. Cứ mời các cụ là thấy có Tết, có vui. Đúng là Tết trong lòng. Bình hoa xuân chỉ mấy cành đào, mấy cành liên kiều hoa vàng giả mai, bó huệ trắng, thêm «cây phát tài» đã bỏ thì giờ lựa mãi. Cầm trong tay rồi mà liếc cây người khác chọn vẫn thấy nó có vẻ «phát» hơn cây mình, lại tiếp tục lựa tới lựa lui... Bất kỳ Tết nhằm ngày nào trong tuần, thứ 7 hoặc chủ nhật đầu tiên là bữa cơm gia đình anh em con cháu. Bạn bè gọi điện thoại hoặc gửi meo chúc tụng rồi sau Tết một tuầnmới tổ chức mời mọc nhau thường kéo dài dài đến cuối tháng ba. Năm nay trên Net có bày gia chánh một món như sau, xin kê ra đây để cầu chúc bà con suốt năm an lạc. 1 - Lấy 12 tháng trong năm đem rửa sạch các mùi cay đắng, ghen tị, thù oán … rồi để cho ráo nuớc 2 - Tuần tự cắt mỗi tháng ra 28, 30 hay 31 phần 3 - Trộn đều với chút Tình Yêu, một chút Kiên Nhẫn, một chút Can Ðảm, một chút Cố Gắng, một chút Hy Vọng và một chút Trung Thành 4 - Uớp thêm các gia vị: Lạc Quan, Tự Tin và Hài Hước 5 - Ðem ngâm một khắc trong dung dịch “Những Ðiều Tâm Niệm của Chính Mình” 6 - Vớt ra xay nhuyễn, đổ tất cả vào nồi “Yêu Thương” và nấu với lửa “Vui Mừng” 7 - Ðem ra ăn với “Nụ Cười” trong chén “Bao Dung” và gắp một “Năm Mới Ðầy Yêu Thương và Hạnh Phúc”. Xuân Sương Paris, Fév. 2007
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:13:59 GMT 9
Tết tha hương đầu tiên Vietsciences-Trần Văn Khê Trong đời tôi, có lẽ chưa có cái Tết nào buồn hơn cái Tết đầu tiên tại thành phố Paris năm 1950 khi tôi vừa rời đất nước. Đang sống đầm ấm với vợ và ba con nhỏ tại Sài Gòn, hàng ngày vừa đi dạy tại nhiều trường tư thục vừa là cộng tác viên của hai tờ báo tên tuổi thời bấy giờ là Thần Chung và Việt Báo, hoàn cảnh đưa đẩy khiến tôi phải lìa xa quê hương, từ giã gia đình để một thân một mình sang tận trời Âu. Khi mới sang Paris, tôi ở nhờ nhà cha mẹ của một người bạn Pháp là François Lebouteiller. Đang sống trong một biệt thự khang trang rộng rãi tại đường Monceau (Tân Định) ở Sài Gòn, những ngày đầu mới tới đây tôi tá túc trong căn phòng nhỏ xíu vỏn vẹn bốn mét vuông - vốn dành cho người giúp việc - tận trên tầng lầu thứ sáu một chung cư. Vì vậy mà trong cái Tết đầu tiên nơi xứ lạ quê người, vào buổi chiều 30 cuối năm, tôi một mình ngồi cô đơn trong căn phòng vắng lặng, nhìn lên khung cửa sổ nhỏ trên nóc nhà chỉ thấy một khung trời xám xịt thê lương, tôi cảm nhận hết nỗi sầu chất ngất của cảnh đời tha hương và nhớ da diết từ đất nước, quê nhà đến những người thân yêu. Tết Nguyên đán nhằm vào tháng hai dương lịch là thời điểm lạnh nhứt trong năm tại Paris. Trừ một số người tìm lên vùng núi nghỉ Đông để hưởng thú vui trượt tuyết, mọi người tại thành phố đều đi làm như bình thường. Paris những ngày này ngoài đường phố thì tuyết giá ngập đầy, trên không bầu trời ảm đạm, trong công viên cây cối trụi lá, vườn cảnh không còn hoa, thì tìm đâu ra chút nắng hanh vàng, làm sao hưởng được ngọn gió Xuân phơi phới của miền Nam hay giọt mưa phùn lất phất của miền Bắc! Đêm giao thừa đầu tiên tại Paris, tôi mới qua không lâu chưa có dịp quen biết nhiều người Việt tại đây, lại sống trong một gia đình người Pháp chính gốc không hề quan tâm gì đến cái Tết của người Việt. May mà còn có anh bạn người Pháp của tôi. (François vốn từng tình nguyện sang Việt Nam, nghĩ rằng để tiếp tay cho đất nước mình “hồi phục thuộc địa”, nhưng sau khi có dịp làm quen với các em tôi là Trần Văn Trạch và Ngọc Sương trong một lần đến tiệm cà phê ca nhạc, qua đó gặp gỡ và quen biết với tôi. Và khi nghe tôi giải thích về phong trào Việt Minh chống lại sự chiếm đóng của người Pháp, anh không gia hạn thời kỳ tình nguyện nửa mà trở về Pháp và từ đó thường xuyên thư từ qua lại với tôi. Vốn có cảm tình với con người và đất nước Việt Nam nên khi về Pháp anh đem theo một lon đất để giữ làm kỷ niệm). Thế là đêm giao thừa năm đó François rủ tôi sang phòng riêng của anh, pha một bình trà, bày dĩa mứt gừng, đốt một cây nhang (tất cả đều mua từ Việt Nam) cắm vào lon đất mang về trước đây rồi hai anh em ngồi đối ẩm. François nhắc lại những bài hát tiếng Việt mà anh rất thích trong thời kỳ ở Việt Nam, còn tôi kể chuyện hai đứa em và gia đình mình cho anh nghe. Rồi sau đó tôi trở về căn phòng lạnh lẽo trên từng lầu thứ 6, nằm cô độc một mình mà thấm thía nỗi cô đơn. Sáng mùng một, tôi khai đàn theo như thông lệ xưa nay, dạo mấy câu Nam Xuân thanh thản mà lòng da diết nhớ đến bao người thân yêu ở nơi xa xôi và không sao ngăn được giọt lệ. Phải đợi tới bốn ngày sau, nhằm tối thứ bảy cuối tuần, mới là đêm kiều bào tổ chức ăn Tết đến khuya, vì hôm sau chủ nhựt mọi người không đi làm. Hội người Việt - lúc đó mang tên là Ái hữu Việt kiều - tổ chức đêm văn nghệ cho kiều bào tại phòng A nhà Maubert Mutualité có sức chứa hơn ngàn khán thính giả. Năm đó tiết mục chánh của chương trình là một vở hài kịch mà hai nhân vật chánh là một cặp chồng Việt vợ Pháp, tuy rất thương yêu nhau nhưng do bất đồng về ngôn ngữ và khác biệt về nếp sống mà xảy ra nhiều ngộ nhận cười ra nước mắt. Đây là một hài kịch “song ngữ” vừa nói tiếng Việt vừa chêm tiếng Pháp, tuy mục đích để giải trí nhưng cũng ngụ ý nhắc nhở các cặp vợ chồng Việt Pháp cố gắng nhân nhượng nhau để có được hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi. Tối hôm đó tôi nhận lời hát một bản nhạc trào phúng của Lê Thương tựa đề “Liên hiệp quốc” trong chương trình văn nghệ của Hội Ái hữu, sau đó lúc 9 giờ 30 tôi phải rời nơi đây để có mặt ở tiệm “Bồng Lai”, một hiệu ăn có ca nhạc giúp vui tại vùng Champs – Elysées. Đây là nơi tôi làm thêm vào hai đêm cuối tuần để kiếm sống, giới thiệu nhạc truyền thống Việt Nam, ca một bản nhạc dân ca và tiếp theo là một bài hát trào phúng bằng tiếng Pháp trong chương trình văn nghệ của nhà hàng. Nhưng không ngờ chương trình của Hội Ái hữu Việt kiều đêm đó có sự trục trặc. Chị kịch sĩ nghiệp dư người Pháp do quá lo lắng nên uống chút rượu vang trước khi ra sân khấu để được tự tin, nhưng rồi có hơi quá chén nên lúc ra diễn thì quên hết lời đối thoại. Chị mất bình tĩnh đến độ khóc oà ngay trên sân khấu và không thể tiếp tục diễn tuồng được nữa. Màn hạ gấp trước sự sững sờ của hơn cả ngàn khán giả bên dưới! Ban tổ chức hết sức bối rối, vì huy động được chừng đó kiều bào đến vui Tết không phải là dễ, giờ chẳng lẽ mọi người phải ra về! Nhứt là người Việt vốn thường kiêng kỵ, hễ đầu năm đầu tháng mà trục trặc như vậy coi như xui xẻo cả năm. Lúc bấy giờ tôi vừa ra đến cửa ngoài thì gặp anh Phạm Huy Thông, Chủ tịch Hội Ái hữu Việt kiều, tất tả chạy đến nắm tay tôi và nói: “Tình hình đã vậy, chỉ còn biết trông cậy vào anh. Nhờ anh lên làm vài tiết mục để cho bà con được vui”. Tôi hết sức phân vân và lưỡng lự không muốn nhận lời. Bởi tôi biết tánh anh Tuyền, chủ hiệu ăn Bồng Lai, rất kỵ chuyện nghệ sĩ không đúng giờ. Tôi đã tận mắt chứng kiến có lần cô ca sĩ chánh của hiệu ăn chỉ đến chậm 15 phút, vậy mà anh Tuyền nhứt định không sắp cho hát mà yêu cầu cô ra về. Vì vậy nếu tôi nhận lời “cứu nguy” cho chương trình Tết của Việt kiều thì sẽ đến Bồng Lai rất muộn, không chỉ 15 phút mà có lẽ phải cả tiếng đồng hồ. Như vậy không chừng sẽ bị mất việc làm. Nhưng trong hoàn cảnh bất khả kháng nầy thì lỡ có mất việc cũng đành chịu thôi, chớ không lẽ để mọi người phải ra về nửa chừng! Vậy là tôi quay trở lên sân khấu. Cũng may trong dàn nhạc có em Võ Đức Lang (con của bạn tôi là nhạc sĩ Võ Đức Thu) biết tất cả những bài hát “tủ” của tôi nên đệm theo rất nhịp nhàng. Tôi hát một số bài thể theo yêu cầu, bày ra những cách đối thoại với khán giả, rồi tiếp theo kể chuyện vui …. Trong một tiếng đồng hồ tôi ứng biến “hát cương” đủ màn trên sân khấu, trong khi bên dưới khán phòng khán giả cổ vũ tinh thần hoan hô từng chập. Và đến khi chấm dứt chương trình thì tiếng vỗ tay kéo dài đến độ tôi phải trở ra sân khấu chào ba bốn lượt. Lúc đó đã gần 12 giờ khuya, tôi rời nhà hát vội vàng đến hiệu ăn Bồng Lai, chuẩn bị tinh thần sẽ đối diện với nét mặt nghiêm khắc của anh Tuyền lạnh lùng mời tôi ra về như trường hợp cô ca sĩ trước đây. Nhưng không ngờ tôi vừa bước vào nhà hàng, anh Tuyền đang ngồi uống rượu với rất đông bạn bè người Việt lật đật đứng dậy chạy đến bên tôi với nét mặt lo lắng: “Ủa, anh có bị gì không ? Xưa nay anh luôn đúng giờ nên hôm nay thấy anh đến trễ, tôi cứ lo anh bị tai nạn giao thông”. Tôi giải thích vắn tắt mấy câu lý do vì sao tôi đi trễ. Vậy là anh Tuyền vui vẻ mời tôi uống một ly rượu để chúc mừng việc tôi đã góp phần “cứu một bàn thua trông thấy” cho Hội Ái hữu Việt kiều. Rồi anh nhắc tôi: “Anh em đang chờ nghe anh đàn tranh và giới thiệu nhạc dân tộc kìa”. Tôi bước lên sân khấu nhỏ của nhà hàng vào đúng 12 giờ khuya. Đêm đó tôi đàn ca rất hào hứng vì có đồng bào người Việt chăm chú ngồi nghe, cũng vì cảm kích tấm lòng anh Tuyền đối với tôi như người bạn chớ không phải như với người làm công. Giờ đây, đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, tôi vẫn không quên cái Tết tha hương đầu tiên với nỗi buồn da diết nhớ quê nhà, cùng nỗi lo lắng bởi chương trình nghệ thuật đột xuất và sự tất bật “chạy sô” bất đắc dĩ trong cái đêm đáng nhớ ấy .
|
|