|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:17:59 GMT 9
Những mảng êm hồi tưởng Vietsciences-Võ Thị Diệu Hằng - Ngân ơi, nhớ mua bánh chưng về cúng tết. Năm nay qua nhà mới, mình phải ra mắt ông bà. Con gái tôi dạy khôn: - Từ từ mẹ à, hôm nay mới ngày 10 tháng 2, đợi mấy ngày chót hãy mua. Vừa tươi vừa rẻ. Mua bây giờ để lâu sẽ hư. Hư thì chắc không đến nỗi nào, vì tủ đá còn một ngăn trống, vả lại tháng hai là đợt lạnh cuối cùng, nhiệt độ có khi xuống dưới không độ, có thể để thức ăn ra ngoài sân. Nhưng tôi bằng lòng ngay. Không gì khỏe cho bằng làm biếng. Sau khi đứng, ngồi và suy nghĩ liên tục từ 6 giờ sáng tới 6 giờ chiều, mọi người đều rã rời, chỉ muốn mau về nhà, qua loa cơm tối rồi đi nghỉ. Nhiều tháng không thấy mặt trời vì không dễ có việc làm gần nhà. Thấy thương cho người ở xứ lạnh, mùa xuân mà cây cối đen đủi trơ cành. Chỉ có hoa anh thảo cao không quá 2 tấc, rộng bằng bàn tay là có thể chịu qua mùa đông hay tình cờ thấy nụ hoa xuyên tuyết, nhỏ như hoa tóc tiên vững chãi vạch tuyết chui lên tự lúc nào. Không một tiếng chim. Không một tiếng côn trùng. Làm sao náo nức đi chơi “tết” được khi thấy hơi thở mình bốc khói, đầu trùm mũ len kín cổ kín miệng, chỉ chừa hai mắt, cứng ngắc trong áo lạnh dày? Xuân mà gió lạnh cưa xương, bầu trời nức nở, cây cối xác xơ...? Thoáng đó đã tới chiều 28 Tết. Năm nay lại không có ngày 30. Tôi giục Ngân đi chợ Lognes vì những ngày này khu chợ Tàu ở quận 13 khó kiếm chỗ đậu xe, phải chạy loanh quanh hàng nửa giờ, thấy ai mở cửa xe bước vô là mừng rỡ chớp đèn đứng chờ giành chỗ. Mười lăm phút sau Ngân gọi về báo tin bánh chưng đã hết mọi nơi từ hai ngày trước! Cúng tết mà không có bánh chưng bánh tét là không giống tết. Vững như một định đề. Như bò nhúng giấm phải có mắm nêm trộn thơm, ăn gỏi phải có bánh phồng tôm hay bánh tráng, chè trôi nước phải có gừng và mè rang... Hay là mình tự nấu lấy? Mới nghĩ tới đã sợ! Nào phải ngâm nếp, chưng đậu xanh, ướp thịt heo, mua lá chuối... Đang nằm trên giường loay hoay suy tính thì chị Vũ điện thoại báo tin ngày mai về Việt Nam. Về Việt Nam! Tiếng Việt thâm thúy làm sao! Không hẹn nhau, không học nhau, mà ai cũng đều dùng chữ về, cho dù chỉ ghé tạt vài ngày. Về Việt Nam! Không nơi nào dễ thương bằng nước mình, không ngôn ngữ nào xúc động bằng tiếng nói trầm bổng của dân mình. Đi xa mấy, lâu mấy rồi cũng thấy muốn trở về nơi mình sinh ra để được nói và nghe tiếng mẹ đẻ. Chị Vũ tiếp tục reo vui kể hàng loạt chuyện. Óc tôi đặc sệt nhớ nhung, không hiểu chị vừa kể những gì. Bỗng dưng nghe chị lớn giọng: “Năm nay em có nhớ chuẩn bị tết chưa?”, tôi mới giật mình, lắc đầu, làm như thể chị đang đứng trước mặt. Tôi đang được xích vào quá khứ, đang rưng rưng cầm bàn tay mềm mại của ký ức, nên chỉ chúc chị một cách phản xạ: “Chị đi đường bình an, về nước vui và ăn bánh chưng thiệt nhiều”. Chị cười to: “Cần gì phải về Việt Nam mới ăn bánh chưng? Chị đặt người ta nấu hai chục cái, còn chất đầy tủ đá, em có cần thì tới nhà chị lấy”. Chị ở Troyes, cách Paris 170km. Phải nuốt 340km đầy nguy hiểm rình rập để có được cặp bánh chưng! Nghe tiếng thở dài của tôi, chị đưa ra ngay giải pháp khác: “Ngày mai đúng 9 giờ, tới phi trường Charles de Gaulle. Chị xếp hàng ở Terminal 2D”. Tiếng “dạ” nhẹ như hơi thở, vừa tuột ra khỏi miệng, tôi đã muốn nuốt nó vô lại. Phải đi bộ ra ga tốn 25 phút, đón xe lửa đi Chatelet les Halles hết 20 phút rồi mới lên chuyến RER B chạy thẳng ra phi trường, trạm cuối dính liền với Terminal 2D... Trễ lắm cũng phải ra khỏi nhà lúc 6 giờ rưỡi sáng. Mùa đông đêm rất dài. Lỡ trật một chuyến xe, sẽ liên tục trễ mọi chuyến khác, như phản ứng dây chuyền trong lò nguyên tử. Hiểu ý sự im lặng khá dài của tôi, chị cười: “Chị cứ đem theo cặp bánh chưng, nếu em đến kịp thì tốt, còn không thì con chị sẽ mang về”. Cuối cùng tôi chọn giải pháp tự nấu lấy bánh chưng. Siêu thị Tang Frères ở Lognes nhỏ hơn nơi quận 13. Hàng trái cây có nhiều khoảng trống. Chỉ còn ba trái dưa hấu. Càng dễ lựa. Vài xấp lá chuối mà lớp lá ngoài cùng đã đổi màu xám nằm trơ trọi. Hai gói lá dong vàng nơi cuống và mép lá lạc lõng trong quầy rau thơm rơi vãi. Bảng giá vẫn 6,5 euro một ký. Không có bà bán hàng ngồi đó để mình chê héo mong được bớt, chỉ còn một cô thu ngân tay bấm máy lia lịa, mặt căng thẳng trong khi những cô khác đếm tiền chuẩn bị ra về. Không còn lấy một chậu bông! Tính toán khôn khéo quá đôi khi lại dở. Lá chuối rách và khô, xoay kiểu nào nếp cũng lọt ra ngoài. Ngân chọc tôi: “Bánh của mẹ ngó bất mãn quá, cạnh dài cạnh ngắn, bên dày bên mỏng, chắp vá một cách thảm não”. Tôi tiếc mớ lá vụn, gói thêm hai cái bánh ú. Nếp và đậu còn dư để nấu xôi và chè. Khi dọn lên bàn thì mới hay là quên mua nhang! Chín giờ tối! Sắp giao thừa! - Để con hỏi chị Thi. Chị thích cúng Phật lắm. Chị có áo tràng, có mõ, có chuông và có bàn thờ ông Địa. Nửa giờ sau, Ngân rạng rỡ khoe một cái bánh chưng, nửa bó nhang, một hộp mứt, ba nhánh liên kiều đầy hoa. - Hôm nay mới ngày 16 tháng 2 mà forsythia đã nở hoa rồi à? - Tôi bóp nhẹ từng cánh vàng mỏng, mềm và mát. Ngạc nhiên. Có người lấy hoa vải cắm vô thân forsythia. Hoa vàng thì giả làm cây mai, hoa hồng thì giả làm anh đào Đà Lạt. - Chị Thi bẻ ngoài hàng rào rồi đem cắm trong nhà từ tuần trước. Chị nói hoa này tên là “hoa mai Paris”. Bên này không ai kêu nó bằng cái tên “liên kiều”, nhất là tôi. Chắc mấy ông du học nhớ người yêu bên nhà nên lấy tên nàng ra đặt cho hoa, vì hoa forsythia không có vẻ gì giống hoa sen cả. Nghe đỏm dáng, lả lơi làm tôi ghét lây hoa. Bốn đài hoa màu vàng hẹp và dài. Hơi giống hoa mai. Bắt đầu nở vào đầu tháng 3, sau hoa thủy tiên, đến đầu tháng 4 là rụng hết, nhường chỗ cho những cây ăn trái. Nhụy không thơm ngọt mùi trà và hoa không có nhiều cánh mượt mà, tròn trĩnh xếp khít nhau như hoa mai. Lá màu xanh sậm, dễ rách, không láng bóng và dai bằng mai. Tôi có thiên vị không, nhưng quả tình món gì của Việt Nam tôi cũng thấy ngon hơn, thơm hơn, ngọt hơn, quý hơn. Bánh xèo ngon hơn bánh crêpe, bún bò ngon hơn spaghetti, gà tây không thể nào bằng gà ta. Như cái nhìn của người con đối với cha mẹ, đứa cháu với ông bà. Da ông bà dù có nhăn nheo, miệng có móm, nhưng không gì có thể so sánh được. Mỗi lần có dịp đi siêu thị, tôi thường tới quầy rau trái miền nhiệt đới ngắm một hồi, tưởng tượng mình đang ở trên bãi biển Nha Trang, nhìn ra khơi xanh biếc, tiếng sóng rào rào, lá dừa xào xạc, nước mơn man bàn chân lún trên cát mịn. - Con đã cắm hoa vô lọ rồi. Kệ nó, mình lấy mấy cái đèn sáp sinh nhật thắp đỡ. Mẹ tới cúng đi, con lên phòng lấy máy quay phim... Chén gạo để cắm nhang con quên ở cạnh bếp ga. Trà đã pha sẵn, mẹ chỉ cần chế ra tách... Mẹ ơi! Mai này người ta múa lân ở trước mairie* de Noisy-le-Grand, gần sát nhà mình. Mình đi coi nhen mẹ! Tôi thẫn thờ “ờ”. Tưởng bày ra cúng để ôn lại cho con nhớ đến tổ tiên, không ngờ nó rành hơn tôi. Bánh chưng Bất mãn Hoa forsythia Hoa mai Hoa anh thảo Hoa xuyên tuyết Hoa tóc tiên
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:20:41 GMT 9
Nhạc khúc mừng lễ đầu năm của sắc tộc Chàm
Thy Nga, phóng viên đài RFA Chương trình “Âm nhạc cuối tuần” kỳ này đến với quý thính giả giữa lúc nhiều quốc gia bạn trong vùng Á châu như Thái, Lào, Campuchia, Miến Điện, … đang rộn rã mừng lễ đầu năm. Sau đó vài ngày thì đến sắc tộc Chăm, và một số dân ở Vân Nam, ở Sri Lanka, ở Ấn Độ, … Các dân tộc vừa kể ấn định ngày đầu năm khi không còn chút se lạnh nào, và Xuân đã về với muôn hoa nở rộ. Phụ nữ trong trang phục và điệu múa truyền thống Champa. Photo courtesy CIACWEB.org Thời xa xưa từng có vương quốc Chiêm Thành nhưng rồi bị người Việt tràn xuống chiếm lĩnh, dân Chàm bị phân tán. “Hận đồ bàn” nhạc phẩm của Xuân Tiên qua giọng hát Việt Ấn diễn tả cảnh nước mất nhà tan … Theo số liệu thì hiện nay, có khoảng tám chục ngàn người gốc Chàm vẫn sống ở miền Trung Việt Nam, bốn chục ngàn ở vùng Châu đốc, Tây Ninh và Saigon. Bên Campuchia thì có cộng đồng hơn 270 ngàn người gốc Chăm. Từ biến cố tháng Tư 1975, lối chừng 15 ngàn người gốc Chàm sang Thái Lan tỵ nạn. Hiện, ở quanh Kuala Lumpur, thủ đô Malaysia, có cộng đồng trên 10 ngàn người Chàm; 2 ngàn ở Mỹ; khoảng 400 ở Canada; cũng 400 ở Úc; và 1500 người ở Tây Âu. Trong nỗ lực bảo tồn văn hóa dân tộc, mà một trong các việc cần phải thể hiện, là cử hành những lễ hội truyền thống của sắc dân mình, người Chàm đang sửa soạn lễ đầu năm. “Ginang Saranai” hòa tấu … Theo Chăm lịch thì ngày đầu năm nay nhằm 19 tháng Tư dương lịch nên chương trình kỳ này, Thy Nga xin dành cho các ca khúc Chăm, mời quý vị cùng nghe để góp vui với sắc dân Chàm các nơi … Trong giới nghệ sĩ Việt Nam, Thy Nga biết chắc chắn là Từ Công Phụng và Chế Linh gốc Chàm. Lâu nay, Chế Linh xúc tiến mạnh mẽ công cuộc giữ gìn và phát huy văn hóa Chăm nên Thy Nga hỏi chuyện anh. “Dạ thưa Chị, cái lễ hội này gọi là “Ri chà nư cơl aro akó thul tức là lễ mừng đầu năm. Lễ hội này là mừng đón năm mới và giải trừ những phiền muộn, thất thóat, lo âu, cãi vã, tranh tụng, v.v… thuộc về năm cũ. Chủ lễ này cúng vái và cầu nguyện rồi đem xuống giòng nước thả trôi bằng một cái bè nhỏ, ý như muốn mượn giòng nước để tẩy gội sạch những gì xấu trong năm cũ .Mùng 1 tháng Chăm lịch rơi vào tháng Ba, tháng Tư dương lịch, không nhất định. Những món ăn chính trong ngày lễ này gồm có cá, gà, vịt, dê, rau cải, v.v… không có thịt bò, cũng không có thịt heo vì người Chăm chúng tôi có 2 đạo: đạo Chăm cữ thịt bò, chết thì thiêu. Đạo Bà Ni cữ thịt heo, chết rồi chôn. Chủ lễ chính của buổi lễ này là ông Ing chuyên cúng vái để truyền đến những thần linh, rồi nhảy múa nghinh đón vị Đô đốc Hải quân, và vinh danh các vị anh hùng đã có công trong lịch sử Champa. Lễ đầu năm nay, chúng tôi sẽ tổ chức tại Sacramento vào ngày 22 tháng Tư tới đây. Bà con các nơi đổ về dự lễ hội. Làm giống hệt như bên Việt Nam, là cất lên cái rạp lớn đề ăn mừng.” Thy Nga: Sacramento là nơi qui tụ đông nhất người Chăm đến định cư ở Hoa Kỳ, phải không ạ. Tôi cũng được biết là năm ngoái, tại đó có tổ chức Trại Hè Thanh niên Champa, sinh hoạt rất đông vui. Hình ảnh trên trang web Bingu Champa. Chế Linh: “Bingu” là “hoa”. “Bingu Champa” là “Hoa Champa” trang web này do chúng tôi chủ trương, ý muốn nói là những người Chăm, chúng tôi mong họ như là những đóa hoa góp phần làm văn hóa dân tộc. Thy Nga: Tôi nghe nói là ban nhạc dân tộc Chăm được thành lập vào năm 1983 tại Paris và do anh hướng dẫn, trình diễn tại một số quốc gia, xin anh cho biết thêm chi tiết. Lễ hội của dân tộc Chăm. Hình do Chế Linh gửi. Chế Linh: Ban nhạc này, chúng tôi thành lập với mục đích đi sâu hơn trong giới trẻ Chăm và Việt để hiểu rõ văn hóa và nghệ thuật Chăm rất phong phú. Thế nên, chúng tôi nuôi dưỡng ban nhạc ấy để phổ biến, đem văn hóa nghệ thuật Chăm đi gần gũi với văn hóa nghệ thuật của các dân tộc khác. Chúng tôi cũng đã đi Pháp, Đức, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Mã Lai, Úc, bây giờ là bên Mỹ nhiều hơn. Thy Nga: Ban nhạc sử dụng các nhạc cụ, nhạc khí nào? Chế Linh: Nhạc cụ nhạc khí truyền thống của chúng tôi có Ginang (trống đôi, hai người đánh), Pinừng (trống ôm trong lòng ngực), Saranai (kèn), cheng, khèn, lục lặc, chứ không có một nhạc cụ nào của Tây phương cả, và cái chính là đàn Tr’ưng. Thy Nga: Nghe nói đến đàn Tr’ưng là tôi nhớ lại nhạc sĩ Nguyễn đình Nghĩa đã từ trần. Được biết anh đã cùng với nhạc sĩ Nguyễn Đình Nghĩa nghiên cứu về âm nhạc dân tộc Champa? Chế Linh: Thưa phải, từ trước 1975 lận. Chúng tôi cũng đã gắn bó với nhau để tìm những âm thanh lạ, nhạc cụ lạ để đưa vào văn hóa nghệ thuật Việt. Khi ra nước ngoài, chúng tôi vẫn còn đeo đẳng. Hai anh em đã đi nhiều quốc gia nhưng mà rất tiếc, anh qua đời quá sớm! “Urang Nao” (Người đi) … Lời ca diễn tả hoàn cảnh cô gái trông chờ tình lang đi biền biệt Thy Nga: Xin anh cho biết là cuốn CD nhạc dân gian Chăm phát hành cách nay vài năm, đã được phổ biến ra sao? Chế Linh: CD nhạc dân gian Chăm đã được Viện Viễn đông Bác Cổ Pháp cũng như chính phủ Malaysia tài trợ sản xuất, ra mắt năm 2000 tại Kuala Lumpur. CD này được phổ biến bằng cách gửi cho tất cả các quốc gia chứ không bán. Trong cuốn CD đó, chỉ mình tôi hát. Có lẽ nay mai, sẽ có một số những CD của các giọng ca, các nhạc sĩ người Chăm viết bài tiếng Chăm. Thy Nga: Chương trình “Radio Sắp Chăm” tại Phnom Penh hoạt động thế nào? Chế Linh: “Radio Sắp Chăm” tại Phnom Penh ở Campuchia do các em sinh viên thanh niên Chăm ở đó lập ra từ năm 2004. Chương trình 4 ngày / tuần nói bằng tiếng Chăm cho bên Việt Nam và các vùng lân cận nghe. Trên thế giới thì chúng tôi dự tính cũng sẽ phát thanh như vậy và có khoảng 2 tiếng đồng hồ. “Katha Daok Cham” (bài ca Chăm) nói lên tâm tình của đôi trai gái yêu nhau nhưng bị cấm đoán vì khác đạo. Theo như anh Chế Linh cho biết thì dân tộc Chăm có hai đạo: đạo Chăm và đạo Bà Ni, đội khăn khác nhau. Đôi trẻ yêu nhau, mong làm sao chập hai khăn lại để cùng đắp. Thy Nga xin chúc các bạn người Chăm khắp nơi vui thiệt nhiều vào dịp lễ Ró kó thul, và mến chúc những kẻ yêu nhau mau chóng đạt mộng ước chập được hai khăn lại để đắp chung. “Katha Daok Cham” (bài ca Chăm) …
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:27:22 GMT 9
Mùa TếtVietsciences-Bích Xuân Thêm một cái Tết lại đến người Việt lưu vong tại quê người bâng khuâng bên những nhành hoa Mai, hoa Đào muôn hồng ngàn tía chen nhau khoe sắc, trong một góc chợ tại các siêu thị Á Châu. Thiên hạ nườm nượp tới gian hàng « Hoa Tết » để chọn một cành Mai vàng năm nhánh về chưng trong nhà cho có không khí Tết (một loại hoa vàng có quanh năm suốt tháng ở Pháp giống Mai thật) . Mai vàng quanh năm cheo leo trên núi cao nào chẳng ai biết, chỉ thấy hoa mai xuất hiện trong những ngày sắp Tết để vui xuân với mọi nhà ( hoa mai chịu đựng được giá băng mùa đông, thân cây trơ trọi, rụng hết lá, đến những ngày sắp Tết bỗng dưng thân cây đầy lá xanh và búp nở, nên được xếp đầu trong các loài hoa nở rộ trong những ngày đầu xuân. Mai vàng được mọc nhiều nhất ở hai tỉnh : Quảng Nam và Bình Thuận VN ) Ở Pháp thì làm gì có hoa Mai thật ! Nói đến Tết là thấy hình ảnh hoa Mai, hoa Đào, chùa chiền, lư hương, bánh tét, bánh chưng, bánh dày, dưa hành củ kiệu…Riêng về các món bánh có tiệm bày bán quanh năm suốt tháng, thế mà đến ngày cuối năm, bà con đi chợ chen nhau mua lấy mua để cho bằng được mới thôi…làm như không có những món này là trong nhà không có Tết vậy ! Ở ngoại quốc mà nói chen lấn trong chợ là điều khó tin, nhưng thật đấy, bạn đến Paris 13 vào dịp Tết sẽ thấy hình ảnh này ngay trước mắt. Trời lành lạnh lại có những cơn mưa đầu xuân làm người viết bỗng nhớ những ngày Tết thơ ấu, nhớ làng xưa, lối cũ, nhớ cành Mai…Thôi thì đem nhành Mai bằng nhựa duyên dáng mỏng manh, không bao giờ thay đổi màu sắc tươi thắm, cắm vào bình trên bàn, rồi ngắm tới ngắm lui để chào đón chúa xuân và cùng vui Tết với thiên hạ. Hoa Mai, hoa Đào là đề tài muôn thủa làm mê đắm tân hồn các văn nhân bao đời nay. Trong mùa Tết chúng ta không thể không nhớ tới Vũ Đình Liên với thi phẩm Ông Đồ Già : Mỗi năm hoa đào nở Lại thấy ông đồ già Bày mực tàu giấy đỏ Bên phố đông người qua Năm nay đào lại nở Không thấy ông đồ xưa... Bên phố đông người qua trước cửa siêu thị Paris Store, Tết năm nay không có ông đồ già mà là… cô. Cô đồ trẻ này ngồi vẽ chữ với những màu sắc sặc sỡ. Khách Việt, khách tây hiếu kỳ đứng chung quanh xem cô vẽ chữ, và chờ tới phiên để vẽ liễng cho mình. Một hình ảnh Tết nơi đây như đọng lại trong tâm khảm người tha phương những giây phút xao xuyến lòng…Tại khu phố của người Á châu, bà con tưng bừng đón Tết, khách hàng tấp nập trong những ngày cuối năm trên những con huyết mạch đông người qua lại, tuy thời tiết có gió nhiều và lạnh. Các siêu thị, nhà hàng tàu treo lồng đèn, liễng hoa đỏ với những hàng chữ vàng chói như mọi năm để đón mừng năm mới. Người viết ra phố nhìn người qua lại, thấy ai cũng rộn rã để đón mừng năm mới, lòng mình cũng thấy vui như Tết… Những ngày lễ là những ngày các tiệm bán buôn đắt hàng, nhận tiền của khách không kịp. Người ngồi « két » ở trong tiệm Á châu, khi thối tiền lại cho khách thường hay bị nhầm. Khách kiên nhẫn và (đừng mắc cỡ), đứng tại chỗ kiểm sóat thế nào cũng bị thiếu từ 2 đến 5 euro…Khách hỏi thì họ xin lỗi là xong. Cái nhầm của họ luôn luôn bị thiệt về phía người mua, chẳng bao giờ bị thiệt bên người bán, nhất là mấy ông bị « khèo » nhẹ túi tiền kiểu này dài dài...trừ khi trả bằng thẻ tín dụng, ngay như nhà hàng ăn cũng vậy, có món không kêu mà thấy có tính tiền, thật là…vui. Vui là chưa có ai là « nạn nhân » nhưng biết đâu có bạn đã từng bị « chém » rồi mà không hay đó thôi ! Những ngày cuối năm ở chợ đã đông người mà ở chùa lại đông hơn, các bác, các anh, các chị kéo nhau đến làm bánh Tết cho chùa thật là đông. Mấy anh thì nhồi bột, mấy chị thì rán bánh…các phóng viên đài truyền hình Pháp đến quay phim làm phóng sự Tết, thấy máy quay phim cứ hướng về phía mấy anh chị làm bếp, anh chị khoái quá, tay vừa làm và cùng nhau hát bài Ly Rượu Mừng vang dội cả một góc chùa, vui ơi là vui. Đâu đâu cũng thấy tưng bừng không khí Tết. Đêm giao thừa, người Việt ở vùng lân cận Paris thường kéo nhau đến chùa để lễ Phật, xin xăm, được lộc đầu năm với bao lì xì đỏ. Ai quen chùa nào thì đi lễ chùa đó, nên chùa nào cũng đông người. Đến chùa mới thấy hình ảnh không khí Tết. Người Pháp cũng biết tục lệ này nên họ cũng theo vợ (hoặc chồng) đến chùa làm lễ. Ở Pháp có tất cả 30 ngôi chùa, 6 chùa ở vùng ngoại ô gần Paris là chùa : Khánh Anh, Quan Âm, Linh Sơn, Hoa Nghiêm, Tịnh Tâm, Xá Ngọc Điểm… Cũng trong đêm giao thừa các nhà hàng lớn của Á châu không còn chỗ trống, đa số là khách Tây đến dự vì có múa lân. Các tiệm đều có lân đến viếng từng tiệm, có tiệm treo bao lì xì ở tận trên cao mà thoạt nhìn người ta không nghĩ là lân sẽ lấy được, nhưng cao cách mấy lân cũng lấy được bao lì xì, mục này là hấp hẫn nhất. ( Đêm giao thừa được Thầy lì xì ) Người viết đi lễ trong đêm giao thừa (chùa Khánh Anh cũ) vừa bước vào bên trong chánh điện, đã thấy ngay Đức Phật ngồi trên tòa sen, trong lòng muốn làm bài thơ, làm được câu đầu, câu kế tiếp… tịt ngòi, nên mượn vội những câu thơ của thi sĩ Đan Hà hiện đang cư ngụ tại Đức quốc. Lên chùa thấy Phật mỉm cười Thấy hồn tôi nở rất tươi đóa hồng Ngoài sân nắng trải mênh mông Gió đưa mở cánh sen vàng thước tha Thấy em đứng chắp tay hoa Áo mây lam sắc bay qua trên ngàn… Những câu thơ thật nhẹ nhàng, đọc lên vừa có cảnh, có nhạc, có đạo, và bâng khuâng rung động chút tình trong cơn gió thoảng… Lúc vào chánh điện, tôi gặp Sư Tổ trụ trì chùa Khánh Anh là Thượng tọa Thích Minh Tâm chuẩn bị làm lễ. Thầy bao giờ cũng ân cần và gần gũi như một vị cha già nhiều tình cảm. Quả tim thầy đã mở rộng hơn 30 năm trong ngôi chùa nhỏ tại Pháp, từ một căn appartement bị đuổi tới đuổi lui cuối cùng để biến thành ngôi chùa làm mái ấm, để MaiChua012.jpgnhững người Việt xa quê hương tụ về. Ngôi chùa này bây giờ quá nhỏ thấy so với số lượng người đến nên thầy cất thêm ngôi chùa mới ở vùng Evry từ năm 1995 đến nay mà vẫn chưa xong, vì còn tùy theo sự đóng góp của phật tử. Ngôi chùa khá lớn nên chùa phải vay mượn tiền của các đạo hữu, các hội thiện khắp nơi để hộ trì chùa Khánh Anh. Ngôi chùa này mà xây cất ở Mỹ chắc chắn đã xong từ khuya rồi. (Chùa Khánh Anh tại Evry). Gặp thầy ngay trong đêm giao thừa, thay vì chắp tay xá, tôi lại đưa hai tay đỡ lấy bàn tay thầy, và chúc sức khỏe thầy được bình an. Thầy nói : « Lâu quá, không thấy con đến chùa. A, thầy có đọc những bài phóng sự của con…» tôi mừng thầm trong bụng, thưa: « Dạ, con cảm ơn thầy… ». Thầy đi, một chị phật tử bên cạnh tôi tên là Hoa, Lá gì đó, nhìn mặt chị có vẻ hốt hoảng, chị vội đánh vào tay tôi: « Nè, Trời ơi ! đàn bà không được cầm DSC_3428.jpgtay thầy như dzậy nghe chưa, người ta nhìn… ». Nghe chị nói tôi hoảng hồn, mặt cứ ngớ ra như vừa bị phạm tội…Nếu biết, ai mà dám đụng vào tay thầy ! Thỉnh thoảng người viết đến chùa để nhìn nụ cười từ bi của Phật cho hồn bớt sân, si, đôi chút, chứ có tu đâu mà biết những qui luật này ! Nhưng nhờ cái không biết ấy mà đầu năm mình được hên, không tu mà có cơ duyên đụng vào bàn tay người tu hành mình cũng hưởng chút ít phước lộc ở nơi thẩy. Tết năm nay tại Paris, cộng đồng người Việt có nơi tổ chức mừng xuân con Chuột trước Tết một tuần, không như những năm về trước tổ chức mừng xuân sau Tết hai, ba tuần lễ. Chắc là ngại tổ chức sau Tết sẽ đụng các hội khác. Không chỉ riêng người Á Châu đón Tết, mà ngay cả dân Pháp cũng rộn rã mừng Tết ta, vì có những nơi tổ chứcTết rất linh đình nhộn nhịp, được mời ăn uống free mấy năm liền tù ti, ví dụ như hội Hướng Đạo chẳng hạn. Hội lớn tổ chức theo lớn, nhỏ thì họp nhóm nhỏ, tổ chức văn nghệ mừng xuân, đồng hương đến chật cả hậu trường (200 người). Dễ thương nhất là các em nhỏ áo dài màu xanh, màu hồng lên chúc Tết các bác, các chú với những câu tiếng Việt rành mạch, làm cho khán giả ngồi dưới sân khấu trầm trồ khen con ai mà dễ thương, trong lòng các bác, các chú chộn rộn ; nôn nao, trên tay lăm le bao thơ đỏ, chuẩn bị « chạy » lên sân khấu để lì xì cho các em… Đang viết bài Tết thì điện thoại reng, bên kia đầu dây là chị Bích ở vùng Evry mời đi dự văn nghệ Tết của hội Hướng Đạo. Chị Bích dặn dò phải đến đúng giờ. Năm nào Hướng Đạo cũng bắt đầu chương trình đúng giờ, đi trễ là hụt coi các tiết mục đốt pháo, múa lân… Ít thấy có hội đoàn nào ở Paris mà chương trình đúng giờ như đã ghi trong thiệp mời, nếu đúng như lời chị Bích nói thì hội Hướng Đạo rất có qui tắc và nghiêm chỉnh trong việc tổ chức. IMG_9042.JPGDưới giải mây hồng nhạt, con đường ẩm ướt mưa xuân vào buổi sáng làm lòng người tràn ngập một cảm giác êm đềm trong những ngày đầu xuân. Sau một màn lái xe quanh co, lạc trước, lạc sau người viết mới đến được nơi Hướng Đạo tổ chức. Phòng đẹp, sân khấu khang trang, có dàn âm thanh và một hệ thống đèn màu thật là tuyệt. Hỏi tại sao Hướng Đạo không tổ chức tại Paris mà lại tổ chức ở đây, thì được biết : ông Thị trưởng ở đây có cảm tình với người Việt nên cho mượn phòng free để tổ chức, nên Hội Hướng Đạo mỗi năm đều tổ chức Tết tại đây để đồng hương thưởng thức văn nghệ và hội chợ xuân từ trưa cho đến chiều, buổi tối có khiêu vũ đến 4 giờ sáng mới chấm dứt. (Ông Bà Thị trưởng cùng hát bài nhạc xuân)Rồi tiếp đến là hội chợ và văn nghệ Tết năm thứ 43 của Tổng Hội Sinh Viên Paris, tại nhà hát Opéra de Massy. Tết Tổng Hội Sinh Viên Paris đã có truyền thống từ lâu nay nên Tết năm nào cũng chật ních người. Năm nay, Tổng hội « di tảng » Hội chợ Tết ra tận Massy vùng ngoại ô Paris. xuân về dù cho xa Paris đồng hương cũng vẫn tìm đến xem hội chợ và văn nghệ mừng xuân với chủ đề Kho Tàng Nước Việt. Những con chim rời tổ bay bỗng khắp mọi nơi, mùa Tết những tổ bay bỗng khắp mọi nơi. Mùa Tết những nơi lễ hội là dịp đồng hương tìm đến với nhau để lại những hương vị quê xưa. Sau Tết Việt là đến Tết Miên, Lào vào đầu tháng tư, được tổ chức ở trong khu rừng Vincennes gần Paris. Tại đây có ngôi chùa của người Lào, Miên cũng là trung tâm tụ họp trong những ngày lễ hội. Đàn ông, đàn bà từ già cho đến trẻ, đều thích múa tay với vũ điệu cổ truyền, sau đó là chơi bầu, cua, cá, cọp, họ đặt tiền 100 euro là thường. Cộng đồng người Á châu lưu vong tại Pháp đều ăn Tết. Mỗi dân tộc ăn Tết đều biểu hiệu nét đặc trưng văn hoá riêng của dân tộc mình. Buổi đầu xuân, người viết cùng hai chị Ngọc Lan và Thy Như đi đến nhà thương ở quận 13 Paris để thăm các người bệnh VN. Trước khi đến, chúng tôi phải chọn quà cho mấy cụ là các loại bánh, bánh nào mà khỏi cần phải nhai, ví dụ như bánh đâu xanh, vì có cụ đã rụng hết răng. Chúng tôi đến nơi thì biết một số bệnh nhân người Việt dời đến một nhà thương khác, vì không biết tên tuổi các bệnh nhân nên chúng tôi phải chờ khoảng 3 giờ chiều mới gặp được các bệnh nhân ở ngoài phòng khách (mỗi ngày hai tiếng) để các cụ trò chuyện và có buổi ăn nhẹ tại đây. Trong phòng khách, chỉ có một người đàn ông Việt là cụ Thái Văn Kiểm, ngoài ra là mấy bà đầm già. Lâu lắm rồi tôi không gặp cụ Kiểm, từ khi cụ bị bệnh, nên vừa trông thấy cụ tôi rất vui mừng và xúc động. Cụ Kiểm đang ngồi cùng với mấy bà đầm tỉnh tỉnh, điên điên, có bà nói chuyện một mình mà không biết mình đang nói gì. Nhìn các cụ như những đứa bé lên 3 vì ăn phẳi có người đưa thức ăn nước uống vào tận miệng. Tôi đến bên cạnh cụ Kiểm hỏi chuyện, cụ trả lời gọn hơ, rồi cười lên khanh khách. - Bác ơi ! bác còn nhớ cháu không ? - Nhớ chớ ! Người đẹp ai mà quên… - Trời ! Vậy người không đẹp, không nhớ ! - Nhớ chớ, nhưng người nào đẹp thì nhớ lâu hơn… Nhưng, hỏi thì cụ trả lời, không hỏi thì cụ ngồi yên, hỏi thêm vài câu nữa thì cụ bắt đầu nhớ nhớ, quên quên…(Thái Văn Kiểm là một trong những hội viên của Hàn Lâm Viện Pháp quốc, có những bài khảo cứu rất có giá trị ). cụ Thái Văn Kiểm, và Bích Xuân. Ra về, từ nhà thương chúng tôi đến thẳng nhà hai bà cụ ở quận 20, một cụ tuổi 84 và cụ 87, không chồng, không con thấy thương hết sức. Thỉnh chúng tôi đến thăm và mua vài thứ cần thiết cho hai cụ. Tuổi già không chồng con bên cạnh thật là cô đơn trong những ngày Tết. Mỗi lần đến thăm hai cụ đến 12 giờ khuya tôi mới ra về. Mùa Tết, người viết bài này đã nếm đầy đủ « chất lượng » từ chất nóng của ly trà, đến chất lạnh của khí trời, cùng chút tình thương chia sẻ, rồi đến chất đặc các bánh: bánh tổ, bánh chưng, bánh tét… Nếm đủ củ kiệu, dưa hành, thịt heo, bánh, mức…Rồi đi lung tung từ buổi trưa chưa tới, buổi sáng đã ra khỏi nhà. Hết nơi này đến chỗ kia. Cả ngày vui xuân, ngày mai tiếp tục, ngày mốt vui tiếp. Nhưng đâu đã xong đâu, chưa hết tháng giêng : « Tháng giêng là tháng ăn chơi mà…. » người viết sẽ còn đi nữa. Không biết Tết này năng lực mình giảm hay tăng ! Chắc là giảm, mặc dầu ăn uống thả dàn cánh nhạn, nhưng ăn là để thưởng thức, đâu phải ăn lấy ăn để đâu mà sợ thân thể tăng cường thêm chất lượng…Hơn nữa, đi tới, đi lui như chim bay để hít thở không khí trời. Đi là một cách để tập thể dục, và uống nước nhiều thì thế nào vòng số hai cũng nhỏ lại mà… Năm mới chúc qúi độc giả hưởng mùa xuân bình an hạnh phúc và mọi sự đều tốt đẹp như ý.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:33:20 GMT 9
Tết ở Nhật và Shichifukujin (“Bảy vị thần phước đức”) Vietsciences- Vĩnh Sính Người Nhật gọi Tết là O-shogatsu (chính nguyệt) – ngày lễ lớn nhất trong năm, thường được nghỉ từ 29 tháng 12 cho đến hết ngày 3 tháng 1. Ở Nhật Tết là ngày lễ đầu tiên của rất nhiều tế lễ hội hè và người ta đã vô tình cho rằng Tết là ngày đầu tiên khi mùa Xuân đến, mặc dù nước Nhật đổi từ âm lịch sang dương lịch từ mồng 1 tháng 1 năm 1873 – tức là năm thứ 6 thời Minh Trị. I. Những gì liên hệ với O-shogatsu thường có nghĩa là mới nhất, nên từ O-shogatsu còn có nghĩa là “đổi mới”. Giờ giao thừa, một-trăm-linh-tám hồi chuông trừ tịch (joya no kane) gióng lên từ các ngôi chùa làm người ta quên đi những phiền não trong Năm Cũ để chào mừng Năm Mới. Thiên hạ phần đông đi thăm đền, chùa đầu năm, gọi là “Hatsumode” ; người ở vùng Tokyo thường đến Meiji Jingu (Minh Trị Thần Cung), đền kỷ niệm Minh Trị Thiên hoàng ở trong thành phố. Để đón Tết, trong nhà người ta thường treo Origami (giấy xếp) hình con hạc (tsuru) và con rùa (kame), hai sinh vật tượng trưng cho trường thọ và hạnh phúc. Nhà cửa, phố xá thường cắm nhành thông Kadomatsu (môn tùng) ở cửa ra vào nhằm “ tế thần ” trong dịp Tân Niên. Thường thường, ngoài nhành thông, người ta còn thêm tre, vì tùng (thông) và trúc (tre) là biểu hiện của sự cường tráng, sức mềm dẻo, uyển chuyển và tràn đầy nhựa sống. Đồ 'ăn Tết' O-sechi Kadomatsu Thông thường người Nhật chuẩn bị đồ ăn cho đến hết ngày mồng 3. Trước hết phải nói đến “ đồ ăn Tết ” O-sechi-ryori. O-sechi là “ Tiết ”, giống như trong từ “ sekku ” (tiết cú), một trong năm tiết mỗi năm (chẳng hạn như Tiết Đoan ngọ, v.v.) ; và ryori là “ liệu lý ”, tức là món ăn. Cũng nên nói thêm rằng chữ Tết trong tiếng Việt cũng bắt nguồn từ chữ “ tiết ” này – một điểm khá thú vị mà ta ít để ý. Bắt đầu từ thời Heian (794-1185) người Nhật tiếp thu phong tục này từ Trung Hoa. O-sechi-ryori thường để trong hộp gỗ gọi là jubako, giống như hộp cơm bento. Trong ba ngày đầu năm, người ta tránh dùng bếp và nấu ăn, ngoại trừ những thức ăn đơn giản. Từ xưa, O-sechi gồm có những món nghe qua có vẻ dân dã, nhưng ngày nay không rẻ. O-sechi gồm những thứ như : Datemaki (trứng đổ chả, thêm những gia vị khác và đổ dày) ; kamaboko (giống như chả cá, nhưng có thêm vào khoai từ, lòng trắng trứng, v.v.) ; kazunoko (trứng cá hồi, sake) kazu có nghĩa là số, và ko có nghĩa là con, ăn kazunoko sẽ may mắn về đường con cái) ; konbu (một loại rong biển rộng bản ; konbu nghe giống như chữ yorokobu, có nghĩa là vui mừng) ; kuro-mame (đậu đen ; mame còn có nghĩa là sức khoẻ), tai (cá hồng, âm tai thường làm người liên tưởng đến medetai, tức là chuyện tốt lành), và tazukuri (tức là cá xacđin khô, kho với xì dầu Nhật là shoyu). Tazukuri nguyên nghĩa là “ làm ruộng ”, vì cá xacđin (iwashi) vốn để làm phân bón. Người ta tin rằng ăn món tazukuri nông dân sẽ được mùa. Thiên hạ thích ăn mì sợi kiều mạch toshi-koshi soba trong giờ Giao thừa. Cây kiều mạch (soba) có trồng ở miền Bắc nước ta hồi Thế chiến thứ hai. Toshi-koshi soba có nghĩa là “ mì sợi kiều mạch soba ăn vào giờ Giao thừa ”. Người ta tin là ăn mì sợi soba vào giờ Giao thừa sẽ trường thọ và được nhiều sức khoẻ trong năm mới. Trên thực tế, món này ít khi thiếu trong dịp mừng Xuân ! Sáng mồng một Tết, một món không thể thiếu là mochi, giống như bánh dầy không nhân của Việt Nam. Để làm mochi, người ta dùng nếp, chưng thành xôi (chứ không nấu), xong rồi giã cho thật mịn (thường giã bằng cối). Mochi để khô sẽ cứng ra, rồi từ đó người ta dùng mochi để làm những thức ăn cần thiết. Chẳng hạn, mochi thả trong nước xúp “ miso ” và ăn nóng gọi là “ ozoni ”, hoặc ăn với chè đậu đỏ (azuki) gọi là “ shiruko ”, v.v. Người ta rất thích ăn mochi vào ngày Tết vì những hạt nếp khi nấu thành xôi “ dính liền nhau ” – một biểu tượng mà từ lâu người ta tin là ăn mochi thì tình nghĩa sẽ hoà hợp và sợi dây đoàn kết sẽ mỗi ngày một thắt chặt và gắn bó hơn. II. Trên đây chúng ta đã lướt qua vài điểm chính của ngày Tết ở Nhật, qua đó ta thấy ít nhiều về những tương đồng giữa Nhật và các nước láng giềng – trong đó có Việt Nam. Sau đây, chúng ta thử xem những nét độc đáo của văn hoá Nhật Bản trong ngày Tết qua Shichifukujin (Thất phúc thần), hay là “ Bảy vị thần phước đức ”, một phong tục mà các nước Đông Á khác không có. Sau những năm loạn lạc dài đằng đẵng mà người ta gọi là “ Thời Chiến quốc ” (Sengoku jidai, 1477-1573), dân chúng mong ước thái bình cùng những điều may mắn tốt lành trong cuộc sống. Từ nguyện vọng đó, nước Nhật có tục thờ Shichifukujin. Họ tin rằng những vị thần Shichifukujin xuống cõi trần trong đêm Giao thừa và ở lại trong ba ngày đầu của Năm Mới. Bởi vậy quà cho trẻ em là hình của các vị thần này ngồi trên chiếc thuyền buồm Takarabune (Bửu thuyền, tức là “ Thuyền chở của quý ”) bằng tranh vẽ, hoặc làm bằng gỗ nhỏ nhắn, lót dưới gối khi trẻ em nằm mơ “ thấy ” giấc mộng đầu năm (hatsuyume). Trên thuyền có ghi bài thơ đọc xuôi đọc ngược gì cũng giống nhau (tiếng Nhật gọi những bài như vậy là kaibun, tức là “ hồi văn ”) : “ Nagaki yo no/tô no nemuri no/mina mezame/nami nori fune no/oto no yoki kana ”. Tạm dịch là : Đêm dài ngủ giấc say sưa / Thuyền ta sóng vỗ thấy người vui sao ! Điểm thú vị là lúc ban đầu Bảy vị thần Shichifukujin người ta cho các em bé tấm hình nhỏ bé, lót dưới gối khi em bé ngủ, hy vọng em bé sẽ nằm mơ thấy giấc mộng đẹp đầu năm, nhưng dần dần, Shichifukujin đã trở thành biểu tượng chiêm bái và tượng thờ để đi hành hương (Shichifukujin meguri) đến các đền chùa vào Năm Mới của tất cả mọi người ! Khi đi hành hương người ta mang theo vật hiến nạp. Điều quan trọng là các vật hiến nạp không được chênh lệch nhau lắm, nếu không thì những điều may mắn sẽ khác nhau ! Ở vùng Tokyo, người ta đi hành hương ở nhiều chùa và đền, chẳng hạn ở Fukagawa và Kameido thuộc Koto-ku, hoặc Kichijoji, v.v. Tục lệ này bắt đầu từ đầu thời Edo (1600-1868) và vẫn tiếp tục cho đến ngày nay. Bảy vị thần Shichifukujin là :Ebisu (Ebisuten) Daikoku (Daikohuten) 1. EbisuThần Ebisu (Huệ-tỷ-thọ) là vị thần độc nhất có gốc ở Nhật trong Shichifukujin. Thần Ebisu là con của Izanagi và Izanami, theo Thần đạo là hai người sáng lập ra nước Nhật và biểu tượng của thuần chân và mang lại điều tốt lành. Thần Ebisu nguyên là Hiruko-no-Mikoto ở đền Nishinomiya, thuộc huyện Hyôgo, thần phù hộ người đi biển, ngư nghiệp và thương nghiệp. Ebisu cai quản các ngư dân và phù hộ họ với những mảng cá đầy khoang. Vì thần Ebisu có nguồn gốc từ biển, thần còn giúp cho người đi biển được an lành. Ở miền quê, vị thần này coi quản ruộng đồng và tất cả những gì có dính líu đến nghề nông. Được xem là vị thần được mến chuộng nhất trong bảy vị thần, nông gia và doanh gia xem Ebisu như thần hộ mạng. Biểu tượng của thần Ebisu là một con cá cực lớn, thường là cá hồng (tai), cá chép (koi), cá cá rô biển (suzuki), hoặc cá tara (có người gọi là “cá tuyết” theo chữ Hán trong tiếng Nhật) – một loại cá ở biển Bắc. Thần Ebisu thường buộc con cá hồng bằng sợi dây dừa rồi đeo ở tay mặt trước ngực, hoặc cầm dây buộc cá bằng tay trái. Thần có nụ cười hồn nhiên, bộ râu cằm cạo nhẵn nhụi, đội mũ như người đi săn. 2. Daikokuten Daikokuten (Đại Hắc Thiên) du nhập sang Nhật Bản từ Trung Hoa vào thế kỷ IX. Do tiếng Phạn là Manhakala, theo Mật giáo Daikokuten là hoá thân của Tự Tại Thiên, tức là thần thủ hộ của Phật giáo Đại Thừa có gốc từ Ấn Độ giáo. Thần Daikokuten kính yêu tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) và thích ăn uống. Ở Nhật Bản, lúc ban đầu Daikokuten là Thần Chiến đấu và Thần Phẫn nộ, sau đó trở thành Thần Bếp, nói nôm na là “ Ông Táo trong bếp ”. Thường thường, ta thấy thần đầu chít khăn vải, đứng trên bồ lúa; tay trái mang một cái túi lớn, tay mặt cái vồ nhỏ bằng gỗ (uchide-no-kozuchi). Thần Daikokuten còn giúp người ta được mùa màng, hoặc may mắn khi buôn bán, làm ăn. Bishamon (Bíhamonten) Benten (Benzaiten) 3. Bishamonten Bishamonten (Tỳ Sa Môn Thiên), viết tắt là Bishamon, là một vị thần Phật giáo Đại Thừa có gốc từ Ấn Độ giáo. Tên tiếng Phạn là Vaisravana, thần Bishamonten là một của Tứ Thiên Vương hay Thập Nhị Thiên. Thần có dáng vẻ phẫn nộ, bận áo giáp như võ thần, một tay cầm bửu tháp (tahoto, đa bửu tháp) bên tay mặt và cái mâu bên tay trái. Thần Bishamonten ở Bắc phương của Tu Di Sơn, lo coi giữ Bắc phương Thế giới và là người che chở cho lẽ phải và quyền uy. Tên thần còn được dịch là Đa Văn Thiên. Bishamonten còn là thần tài (tượng trưng bởi bửu tháp) và thần của chiến tranh (tượng trưng bởi cái mâu). Thần mang lại điều may trong chiến loạn cũng như trong thái bình. Thần lo giữ Phật Giới và hoà bình trên thế gian. Trong chùa, thần chia của cải và điều may cho những người nghèo hoặc người xứng đáng. Nếu người ta đã ăn nên làm ra, thần giúp họ giữ gìn những cái gì họ đã có được. Điều đáng tiếc là trên thế gian có lắm người không xứng đáng, thần thường dùng sức mạnh để phá huỷ tài sản của họ. 4. BenzaitenBenzaiten (Biện Tài Thiên) hay Benten (Biện Thiên) là nữ thần duy nhất trong Shichifukujin, thường cầm cây đàn tỳ bà (biwa). Thần thường ngồi hay đứng trên lá sen, hoặc cỡi bạch long (rồng trắng), rắn biển, hay rắn thường. Những sinh vật này thường ghen nhau, bởi vậy các đôi nam nữ thường tránh viếng nữ thần. Thần Benzaiten là một trong ba nữ thần Ấn Độ, tên tiếng Phạn là Sarasvati. Benzaiten là thần trông coi về âm nhạc, tài biện luận và ăn nói (biện tài), phúc trí, trường thọ, tai qua nạn khỏi, và chiến thắng. Mặc dù thần Sarasvati vốn là thần Ấn Độ giáo, thần Benzaiten được tiếp thu vào Nhật Bản cùng với Phật giáo. Những nghệ nhân, ca sĩ, cùng những người làm quán ăn cũng thường thờ nữ thần. Thỉnh thoảng thần Benzaiten được hiện ra với nhiều tay (bốn tay, sáu tay hay tám tay) và có thể đàn hay hoạ cùng một lần. Fukurokuju(Fukurokujujin) Jurojin 5. FukurokujuFukurokuju (Phúc Lộc Thọ), hay Fukurokujujin (Phúc Lộc Thọ Thần), là một vị thần của Lão giáo (Đạo giáo). Thần Fukurokuju thường biến hoá phép lạ, đặc biệt về sống lâu và phát tài. Ngoài ra, người ta cho Fukurokuju là thần tài, thần của trí tuệ, của những điều may mắn, sức khoẻ, sinh lực và sống lâu. Thần có cùng thân hình với Jurojin, và hai thần na ná giống nhau. Thần Fukurokuju mặc áo Tàu dài và rộng, tay chống gậy. Trên gậy thần buộc cuốn kinh (makimono) ghi những bí truyền về sống lâu và trí khôn của nhân loại. Tay trái thần cầm cái quạt xếp (ogi). Thần trán rộng, đầu hói đội mũ văn nhân, bộ râu để dài và bạc, tượng trưng cho cao niên và trí tuệ. Bên cạnh thần Fukurokuju thường có nai (shika), rùa (kame), và hạc (tsuru). Những sinh vật này tiêu biểu cho trường thọ. 6. JurojinJurojin (Thọ Lão Nhân), người Trung Hoa vào khoảng đời Nguyên Hữu (1086-1093) thời Tống. Dáng vóc bên ngoài của thần Jurojin trông giống như thần Fukurokuju : một ông lão đầu dài, râu dài và bạc phơ, tay cầm trượng, trên đầu trượng có cuốn kinh ghi về trí khôn nhân loại và bí quyết sống lâu. Thần là tiêu biểu của trường thọ, thần tài, của trí tuệ và sức khoẻ. Thần thường có những sinh vật tượng trưng cho sống lâu như nai, rùa, hạc đứng chung quanh. Jurojin thường được xem giống như Fukurokujin là thần tài. Hotei (Hoà thượng Bố Đại) 7. Hotei Hotei (Bố Đại) là một Thiền tăng đời Hậu Lương. Tên là Khế Tỷ, hiệu là Trường Đinh Tử hoặc Định Ứng Đại Sư, ngụ ở Tứ Minh Sơn. Hoà thượng Hotei có dung mạo phúc đức, thân hình to béo, lúc nào cũng mang cái đãy, bụng thường để lộ ra ngoài khi đi khất thực. Ta thường gọi hoà thượng là “ Ông Phật cười ”. Người ta tin Hoà thượng Hotei là hoá thân của Di Lặc Bồ Tát (Miroku Bosatsu). Giống như Daikoku, Hotei là thần của dồi dào và may mắn. Thần cũng là thần cười và vui vẻ với những gì mình đang có. Bởi vậy, thần là thần viên mãn trong mậu dịch, như ta thường thấy tượng của thần để trước cửa hàng quán. Thần Hotei thường được người ta để thờ là một ông Phật cười với cái bụng to lớn để nói lên cái tâm rộng rãi của thần. Thần Hotei thường cầm quạt và mang trên vai một đãy gạo. Gạo trong đãy của thần không bao giờ cạn vì lòng độ lượng vô hạn của thần Hotei. Có khi thần ngồi trên xe kéo bởi các trẻ đã biết lòng vị tha của thần. III. Qua phong tục Shichifukujin, chúng ta thấy những nét độc đáo sau đây của văn hoá Nhật Bản : 1. Người Nhật tiếp thu rất nhiều văn hoá nước ngoài. Qua Shichifukujin, ngoài văn hoá Nhật Bản, ta thấy họ tiếp thu văn hoá Trung Hoa và văn hoá Ấn Độ. Chúng ta đã biết thần Ebisu có gốc Thần đạo của Nhật Bản, rồi chúng ta cũng có Fukurokuju, Jurojin, và Hotei từ Trung Hoa ; sau đó lại có Daikokuten, Bishamonten và Benzaiten từ Ấn Độ. Trong những vị thần đi từ Trung Hoa, thần Hotei có gốc Phật giáo, Fukurokuju và Jurojin là hai vị thần Lão giáo. Chúng ta cũng nên để ý điểm khác nhau giữa thần Bishamonten với hai vị thần Daikokuten và Benzaiten : Bishamonten là thần của Phật giáo, còn Daikokuten và Benzaiten là thần của Ấn Độ giáo. Cũng nên nhắc lại Benzaiten là một nữ thần. 2. Vì Shichifukujin bắt nguồn từ thế kỷ 16, ta thấy có phảng phất ít nhiều ảnh hưởng của thời đó. Ví dụ, Bishamonten (Tỳ Sa Môn Thiên) là Thần Chiến tranh của daimyo lừng danh Uesugi Kenshin (1530-1578) vùng Echigo vào “ Thời Chiến Quốc ”. Kenshin vừa giỏi về binh lược lại giàu lòng nghĩa hiệp. Lúc tranh hùng với Takeda Shingen (1521-1573), một võ tướng nổi tiếng ở Shinano và Kai, Kenshin thấy quân của Shingen bị phong toả muối bởi một đối thủ khác, ra lệnh lấy muối tiếp viện cho quân của Shingen. Kịp đến khi nghe tin địch thủ là Shingen chết, người ta nói Kenshin đã khóc rống lên. Bởi vậy, thiên hạ mới đồn Kenshin là hoá thân của thần Bishamonten. Phải chăng Bishamonten đã được đưa vào “ Bảy vị thần phước đức ” Shichifukujin vì dân chúng cảm phục và luyến tiếc Kenshin chẳng bao lâu sau khi vị tướng lãnh tài ba qua đời ? 3. Chúng ta thấy văn hoá Nhật rất mới, nhưng cũng rất cũ. Ngày Tết đổi qua dương lịch ngay từ đầu thời Minh Trị, thoạt nghe có gì “ rất mới ”, nhưng nội dung thì lại “ rất cũ ” và rất truyền thống. Bởi vậy, một học giả Tây phương sau nhiều năm nghiên cứu văn hoá Nhật Bản đã từng nói : “ Không có dân tộc nào bén nhạy đối với văn hoá của thế giới như người Nhật trong việc tiếp thu văn hoá nước ngoài ; mặc khác, không có dân tộc nào lại thích bảo tồn văn hoá của mình như dân tộc Nhật Bản ”. Quả thật như vậy, cách trang hoàng nhà cửa ngày Tết như Kadomatsu hoặc Origami, các món ăn như O-sechi-ryori hoặc mochi, đối tượng chiêm bái và hành hương đến những nơi có “ Bảy vị thần phước đức ” Shichifukujin đều phản ánh chiều hướng đó. 4. Cuối cùng, như chúng ta đã thấy, “ Bảy vị thần phước đức ” Shichifukujin ra đời ngay sau lúc nước Nhật Bản vừa bước qua một cuộc chiến dài đằng đẵng, không tiền khoáng hậu, vào cuối thế kỷ 16. Dân chúng mong ước an cư lạc nghiệp và những gì may mắn tốt lành trong cuộc sống. Nói một cách khác, nguyên nhân của sự hình thành Shichifukujin là những khổ đau trong chiến tranh. Sau Thế chiến thứ hai, nước Nhật Bản lại tạo được “ kỳ tích ” khác ngay từ điêu tàn của chiến tranh. Lòng lạc quan và tin tưởng ở ngày mai thể hiện qua khi đi hành hương ngày đầu Xuân đến “ Bảy vị thần phước đức ” Shichifukujin có thể nói là một trong những điểm son của văn hoá Nhật Bản. Đã đăng trên TBKTSG
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:42:19 GMT 9
"Hải đường lả ngọn đông lân" Vietsciences- Vĩnh Sính Ở miền Bắc và miền Trung có một loài hoa đẹp nở vào đầu Xuân; thân và cành cây cứng cáp, cao vừa phải; hoa năm cánh màu trắng, đỏ thắm hay hồng tươi; nhụy hoa màu vàng đậm nhưng không có hương thơm. Dân gian quen gọi loài hoa này là hoa "hải đường". Trong Từ điển tiếng Việt (1997) cây "hải đường" được định nghĩa là "Cây nhỡ cùng họ với chè, lá dày có răng cưa, hoa màu đỏ trồng làm cảnh". Từ điển Việt-Anh và Việt-Pháp thường dịch "hải đường" là camellia/camélia. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhắc đến hoa hải đường hai lần nhằm gợi đến nàng Kiều : Hải đường lả ngọn đông lân, Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.[1] (hàng 175-178) Hải đường mơn mởn cành tơ, Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng. (hàng 1283-1284) Sự cách biệt giữa một cây mang tên là "hải đường" có thân và cành cây cứng cáp mà tôi hằng thấy trong những khu vườn cổ ở Huế, với ấn tượng về một cây hải đường mảnh khảnh như đã được miêu tả qua những vần thơ trên đã khiến tôi thắc mắc trong một thời gian khá lâu. Không lẽ Tiên Điền tiên sinh lại miêu tả cây hải đường thiếu chính xác đến thế ? Niềm hoài nghi đó được giải tỏa khi chúng tôi tình cờ được thấy tận mắt cây hải đường đúng như tiên sinh đã miêu hoạ trong Kiều. Một sáng mùa Xuân cách đây đã có hơn 30 năm (ngày đó tôi còn là một du học sinh ở Nhật), khi đang đi bách bộ quanh khu cư xá du học sinh ở một vùng khá yên tĩnh ở Đông Kinh, tôi chợt thấy một cây hoa mảnh khảnh, cành trĩu hoa màu hồng tươi. Loài hoa này tôi chưa bao giờ thấy ở Việt Nam. Nhân có người đi qua, tôi hỏi hoa ấy tên gì. Ông ta bảo : "Kaidô desu yo" (Hải đường đấy mà !). Không hiểu linh tính nào đó đã cho tôi biết kaidô đích thị là loài hoa hải đường "lả ngọn đông lân" mà Nguyễn Du đã nhắc đến trong Kiều ! Cho đến bây giờ khi ngồi viết những dòng này, tôi vẫn chưa quên được cảm giác khoan khoái nhẹ nhàng lúc đó khi vừa vỡ lẽ một điều thắc mắc đã ám ảnh tôi khá lâu. Đại từ điển tiếng Nhật Nihongo daijiten định nghĩa cây hải đường ở Trung Quốc (haitang) và ở Nhật (kaidô) như sau : "Cây nhỡ rụng lá, thuộc họ tường vi (rose) trồng làm cây kiểng trong vườn. Hoa nở vào tháng 4 dương lịch, sắc hồng nhạt. Loại có trái giống như quả táo tây, có thể ăn được. Cao từ 2 đến 4 mét". Cuốn từ điển này còn chua thêm là hoa hải đường dùng để ví với người con gái đẹp, đặc biệt khi muốn nói lên nét gợi cảm hay vẻ xuân tình. Theo "Dương Quý Phi truyện" trong Đường thư, một hôm Đường Minh Hoàng ghé thăm Dương Quý Phi, nghe nàng còn chưa tỉnh giấc, nhà vua bảo : "Hải đường thụy vị túc da ?", nghĩa là "Hải đường ngủ chưa đủ sao ?" Trong văn học cổ Trung Quốc, cảnh hoa hải đường trong cơn mưa thường dùng để ví với dáng vẻ người con gái đẹp mang tâm trạng u sầu. Tên khoa học của cây hải đường là Malus spectabilis; tiếng Anh gọi là flowering cherry-apple (hay Chinese flowering apple, Japanese flowering crab-apple và nhiều tên khác nữa), tiếng Pháp gọi là pommier sauvage. Hải đường (Malus spectabilis) Như vậy tên tiếng Việt của cây camellia/camélia mà từ trước đến nay ta thường gọi lầm là "hải đường" đúng ra phải gọi là gì ? Có người gọi camellia/camélia là hoa trà, hay trà hoa. Chẳng hạn, tiểu thuyết La Dame aux camélias của Alexandre Dumas (Dumas fils) trước đây có người dịch là "Trà hoa nữ" hay "Trà hoa nữ sử", và từ điển Việt Anh của soạn giả Bùi Phụng cũng dịch "trà hoa" là camellia. Tuy dịch camellia là trà hoa (hay hoa trà) nghe có lý hơn là "hải đường", nhưng theo thiển ý cũng chưa được ổn cho lắm vì hoa trà chỉ có màu trắng, trong khi đó camellia/camélia không chỉ có màu trắng mà còn có màu hồng và màu đỏ. Ta thử xem người Nhật và người Trung Quốc gọi camellia/camélia là gì. Tiếng Nhật gọi cây này là tsubaki, chữ Hán viết là "xuân", gồm chữ bộ "mộc" bên trái và chữ "xuân" là mùa Xuân bên phải. Chữ "xuân" dùng trong nghĩa này nghe quá lạ tai đối với người Việt. Người Trung Quốc gọi camellia/camélia là shancha (sơn trà), sơn trà nghe cũng thuận tai và khá sát sao vì cây này cùng họ với cây chè (trà) và sơn trà nên hiểu là cây "trà dại" hay một biến thể của cây trà. Đang phân vân chưa biết dùng từ nào trong tiếng Việt để dịch camellia/camélia cho thật sát nghĩa, chúng tôi lướt xem Truyện Kiều một lần nữa. Nào ngờ lời giải cho câu vấn nạn của chúng tôi đã có sẵn ngay trong đó : cụ Nguyễn Du trong tác phẩm bất hủ của mình cũng đã dùng hoa "trà mi" nhằm ám chỉ nàng Kiều, và trà mi chính là từ tiếng Việt tương ứng với camellia/camélia : Tiếc thay một đoá trà mi, Con ong đã tỏ đường đi lối về. (hàng 845-846) hoặc : Chim hôm thoi thót về rừng, Đoá trà mi đã ngậm gương nửa vành. (hàng 1091-1092) Nhưng do đâu chúng ta có thể khẳng định như thế ? Việt Nam Từ điển của Hội Khai trí Tiến đức giải thích về hoa "trà mi" như sau : "Thứ cây, có hoa đẹp, sắc đỏ, hoặc trắng, mà không thơm". Trà mi cùng họ với cây chè, có sắc đỏ hoặc trắng, và không có có hương thơm – đó chính là những đặc điểm của cây camellia/camélia mà chúng ta đã đề cập ngay ở đầu bài. Trà mi (Camellia) Một điều thú vị và rất đáng chú ý : "trà mi" là một tên gọi thuần Nôm, không có trong chữ Hán ! Nói một cách khác, thay vì gọi "sơn trà" như người Trung Quốc, ta chọn tên "trà mi" là cách gọi riêng của người Việt. Trong ấn bản chữ Nôm của Truyện Kiều (bản Lâm Nhu Phu, 1870), hai chữ "trà mi" được viết bằng hai chữ Nôm như sau : chữ "trà" được viết với bộ "dậu" với chữ "trà" bên phải, và chữ "mi" được viết với bộ "dậu" với chữ "mi" là cây kê bên phải (từ điển của Hội Khai trí Tiến đức mượn chữ "mi" là lông mày trong chữ Hán để viết chữ "mi" tiếng Nôm này). Trong Từ điển Truyện Kiều, học giả Đào Duy Anh trong phần văn bản viết hai chữ "trà mi" là "trà (đồ) mi" nhằm gợi ý "trà mi" cũng có thể đọc là "đồ mi", tuy nhiên trong phần "Từ điển" lại giải thích là "nước ta có hoa trà mi, nhưng khác với đồ mi của Trung Quốc". Theo thiển ý, hai chữ Nôm nói trên chỉ có cách đọc là "trà mi" chứ không thể đọc là "đồ mi", vì trong chữ Hán, loài "cây nhỏ, cành lá có gai, đầu mùa hè nở hoa sắc trắng, hoa nở sau các thứ hoa cây khác" mà Đào tiên sinh đã giải thích về "hoa đồ mi" trong cuốn Hán Việt từ điển do tiên sinh biên soạn, chính là hoa mâm xôi (Robus rosacfolius) trong tiếng Việt. Qua bài viết ngắn ngủi này, chúng tôi hy vọng đã chứng minh được rằng cây hải đường mà chúng ta thường ngỡ là tương ứng với cây camellia/camélia trong tiếng Anh và tiếng Pháp kỳ thực là một loài cây có hoa khác, có tên khoa học là Malus spectabilis. Mặt khác, tên gọi tiếng Việt của hoa camellia/camélia đúng ra phải là trà mi. Trong Truyện Kiều, cụ Tiên Điền Nguyễn Du -- nhà thơ muôn thuở của dân tộc Việt Nam – đã dùng tên của hai loài hoa này chính xác và tách bạch. Tiên Điền tiên sinh mượn hoa hải đường nhằm nói lên những nét yểu điệu gợi cảm của nàng Kiều qua bóng dáng của một Dương Quý Phi kiều diễm. Khi định mệnh đã đưa đẩy Kiều vào tay của Mã Giám Sinh và Sở Khanh -- những kẻ "thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương" -- tiên sinh đã mượn hình tượng của đoá hoa trà mi nhằm nói lên kiếp hồng nhan trước những thử thách quá ư nghiệt ngã của số phận. Nhân thể, chúng tôi cũng xin nói rằng trong Đại Nam nhất thống chí, trong phần nói về các loài hoa ở "Kinh sư" (Huế) và "Phủ Thừa Thiên", có đoạn nhắc đến hoa hải đường. Vì có liên quan đến bài viết này, chúng tôi xin trích lại nguyên văn : "Kính xét bài thơ ‘Vịnh hải đường’ trong Minh Mệnh thánh chế có lời chú rằng : Theo Quần phương phả thì hải đường có bốn loại, là chiêm cánh, tây phủ, thuỳ lục và mộc qua, ngoài ra lại có hoa vàng loại hoa thơm, nhưng đều là cành mềm, hoa nhỏ, hoặc sắc vàng, hoặc đỏ lợt, hoặc như yên chi, chỉ có mấy sắc ấy thôi. Hải đường phương nam thì cây cao, lá to vừa dài vừa nhọn, hoặc sắc đỏ tươi, ruột có nhị, cánh to mà dày, lúc nở đẹp hơn hoa phù dung, nên tục gọi là "sen cạn"; so với hoa hải đường ở đất Thục thì đẹp hơn nhiều, tựa hồ phương Bắc không có giống hoa hải đường này, cho nên những lời trước thuật có khác. Còn như nói rằng ‘hoa đẹp lá tươi, mềm mại như xử nữ, hây say như Dương Phi say, yểu điệu như Tây Tử’ thực chưa hình dung hết được vẻ đẹp của hoa ấy. Năm Minh Mệnh thứ 17 khắc hình tượng vào Nghị đỉnh. Lại có một loại là Kim ti hải đường". Đọc đoạn trích dẫn ở trên, ta có thể thấy là ngay từ thời vua Minh Mệnh đã có sự nhầm lẫn giữa hoa hải đường và hoa trà mi. Những loại hoa có "cành mềm" trong phần trích dẫn đúng là hoa hải đường, nhưng loại hoa gọi là "Hải đường phương nam thì cây cao, lá vừa to vừa dài vừa nhọn, hoặc sắc đỏ tươi, ruột có nhị, cánh to mà dày ..." thì đúng ra phải gọi là hoa trà mi chứ không phải là hoa hải đường. Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước đó (dưới triều vua Gia Long), nhưng tại sao thi hào họ Nguyễn lại có thể phân biệt hai loại hoa này rạch ròi đến thế ? Chúng ta có thể phỏng đoán là ngoài những kiến thức thu thập qua sách vở, chắc hẳn Nguyễn Du đã thấy tận mắt hai loài hoa này trong lần đi sứ sang Trung Quốc vào năm 1813. Một thức giả cũng vừa cho chúng tôi hay là khi tìm trong Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế (Nxb Hà Nội, 1991) hai câu có từ "hải đường" trích dẫn ở trên thì "thấy đó là những câu tả cảnh tả tình do Nguyễn Du sáng tác", chứ không có trong nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (bản của Nguyễn Đình Diệm). Điều này càng xác nhận sự hiểu biết chính xác về cây cỏ cũng như tinh thần "vận dụng sáng tạo" của Tiên Điền tiên sinh khi viết Truyện Kiều. Edmonton, cuối Hè 2003 [1] Theo học giả Hoàng Xuân Hãn và một số nhà nghiên cứu khác, chữ "gieo" trong câu này phải đọc "treo" mới đúng, hoặc chữ "tỏ" trong câu "Con ong đã tỏ đường đi lối về" phải đọc là "mở". Vì chưa bắt kịp với những nghiên cứu về Truyện Kiều hiện nay, trong khuôn khổ bài này chúng tôi xin tạm thời dựa theo cách đọc hiện hành.
|
|
|
Post by NhiHa on Feb 9, 2011 5:51:59 GMT 9
Chùm hoa Ti gôn lãng mạnVietsciences- Võ Quang Yến 05/02/2011 Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy
Mà viết tìm em được ích gì ?
T.T. Kh (Bài thơ cuối cùng) Vào khoảng giữa năm 1937, tạp chí "Tiểu thuyết thứ bảy" ở Hà Nội có đăng một truyện ngắn "Hoa Ti-gôn" của ký giả Thanh Châu. Đây là một chuyện tình bi đát của chàng họa sĩ Lê Chất. Vừa mới ra trường, trên đường đi tìm phong cảnh làng quê để vẽ, anh thấy một cô gái đẹp đang víu một cành hoa ti gôn màu đỏ trước một biệt thự ven Hà Nội. Mấy ngày liền, anh mê mẩn trở lại nhìn cô ta nhưng đến một hôm thì hết còn thấy. Chín năm sau, công thành danh toại, anh vẫn không quên cô gái đẹp thời xưa. Một hôm, trong một buổi dạ vũ ở toà lãnh sự Pháp ở Vân Nam bên Trung Quốc, anh gặp lại cô gái, nay đã có chồng, một viên chức cao cấp, mà cô ta không hề yêu thương. Sau kỳ tái ngộ đó, họ tâm sự và quyết định trốn qua Nhật cùng sống với nhau. Nhưng cuối cùng, cô gái từ chối ra đi và gởi cho Lê Chất một lá thư kèm một chùm hoa ti gôn. Bốn năm sau, anh nhận được một lá thư của chồng cô gái báo tin nàng đã mất. Từ đó cho đến suốt cuộc đời, cứ đến mùa hoa ti gôn nở, buồn đau, anh không quên mua một chùm hoa trang hoàng phòng làm việc để nhớ đến người yêu xa xưa. Mấy ngày sau truyện ngắn trữ tình nầy được đăng báo, một thiếu phụ khoảng 20 tuổi, dáng dấp thùy mị, mang lại toà báo một bài thơ tựa đề "Hai sắc hoa ti gôn" ký tên T.T.Kh., đề ngày 30.10.1937. Bài thơ nghe nói bị vứt vào sọt rác, may lấy ra lại được, lột tả những đau xót của một người con gái phải xa người yêu đi lấy chồng và suốt đời ray rức như mình là người phụ bạc, càng não nùng qua giọng ngâm của người tốt giọng như Hoàng Oanh. Một mùa thu trước, mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buốn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương.Sau bài thơ lời lẽ mộc mạc nầy đã gây xôn xao trong giới yêu văn thơ, tòa soạn nhận được qua bưu điện một bài thơ khác tựa đề "Bài thơ thứ nhất" cùng tác giả, lời lẽ tương tự, mô tả kỹ lưỡng hơn mối tình dang dở. Giới văn nghệ lại càng bàn tán xôn xao. Trong bầu không khí xao động, tờ "Phụ nữ thời đàm" ở Hà Nội nhận được, cũng qua bưu điện, bài thơ "Đan áo cho chồng" cùng tác giả, cùng giọng điệu, than vản, oán trách thân phận mình. Bài báo nầy vừa ra mắt thi tờ "Tiểu thuyết thứ bảy" lại nhận thêm một bài thơ nữa kỳ nầy có tựa đề "Bài thơ cuối cùng" (1938) cùng tác giả, ý tứ có phần khác ba bài thơ trước và, như tác giả đã báo truớc, không còn một bài thơ nào khác ký tên T.T .Kh để độc giả hoang mang không biết nàng là ai. Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên
Và người vỡ lỡ duyên thầm kín
Lại chính là anh, anh của em. Trong suốt bốn bài thơ luôn có nói đến hoa dáng tim vỡ, nhưng, ngoài tên bài "Hai sắc hoa ti gôn", chỉ trong "Bài thơ cuối cùng" là có chỉ định hoa ti gôn : Trách ai mang cánh "ti gôn" ấy. Tuy nhiên nội dung ngây thơ của người con gái lúc đầu gặp gỡ người yêu dưới giàn hoa rồi luôn buồn tưởng tới nhà nghệ sĩ trong cuộc sống lạnh lẽo bên người chồng… những dữ kiện hoà hợp rất khắng khít với cốt truyện "Hoa Ti-gôn". Rất dễ hiểu ký giả Thanh Châu khẳng định tác giả các bài thơ là người yêu của ông. Nhưng ông không phải là người độc nhất. Nhà thơ Nguyễn Bính, vì cũng đã sống một cuộc tình duyên dang dở tương tự, cũng cho T.T Kh là người tình vườn xanh xưa cũ của mình : Và tiễn người đi bến cát xa, Ở lại vườn Thanh có một mình. Bên phần thi sĩ Thanh Tâm (Nguyễn Tuấn Trình) thì dẫn cớ T.T. là những chữ cái của bút hiệu mình, còn Kh là hai chữ đầu tên cô Trần Thị Khánh, một nữ sinh ở phố Sinh Từ, Hà Nội, được biết là không cho cưới người yêu mà phải lấy một ông chồng nhiều tuổi hơn : Khánh ơi, còn hỏi gì anh, Ái tình đã vỡ, ái tình lại nguyên (1940). Trong những bài thơ viết tặng T.T.Kh. có bài "Mẩu máu Tigôn". Theo nhà thơ lão thành Lương Trúc (1985) có gặp bà Trần Thị Khánh thì chuyện nầy có thật. Tuy nhiên, sau nầy (1994), qua nhà văn Thế Nhật, có giả thuyết chữ T đầu là họ nữ sĩ Trần Thị Văn Chung, kết hôn với luật sư Lê Ngọc Chấn, hiện còn sống ở miền nam nước Pháp; chữ T thứ hai là Thanh, tên ký giả Thanh Châu, tác giả truyện ngắn ; còn Kh là….khóc, khóc cho mối tình dở dang ! Rút cuộc, với vẻn vẹn độc nhất bốn bài thơ não lòng, T.T.Kh. đã gây xốn xao dư luận cả một thời và đến nay chưa ai biết chắc chắn tung tích tác giả. Theo thi sĩ Nguyễn Vỹ, cô Khánh không biết làm thơ, những bài ký tên T.T.Kh. là do Thanh Tâm làm, còn Nhà văn Vũ Hạnh thì cho tác giả những bài thơ nấy là thi sĩ Jean Leiba ! Nhưng cần chăng biết nàng là ai, và như tác giả một bài sưu tầm tỉ mỉ (1) đã kết luận, chúng ta cần gì phải thắc mắc, nàng là ai cũng thế mà thôi, dù nàng là cô Trần Thị Khánh ở Hà Nội hay là cô Trần Thị Chung ở Thanh Hóa. Điều quan trọng mà chúng ta biết rất rõ, những bài thơ của T.T.Kh. là những bài thơ rất hay, sẽ mãi mãi bất tử trong thi đàn Việt Nam. Tuy vậy, cũng nên tìm biết ti gôn là hoa gì, không lý chỉ có trong trí tưởng tưởng của nhà văn lãng mạn, nhà thi sĩ đa tình ! Thưa không : gần đây tôi may mắn được đọc Vườn có những hàng cây yên ả
Mùa Ti-gôn chưa trổ hoa
Nắng nhìn nghiêng lá trổ màu lục
Đôi khi đợi chờ là hạnh phúcHồ Đắc Thiếu Anh (Có một mùa Ti-gôn) Thật ra, ti gôn là một loại hoa nguồn gốc ngoại lai mà trong Nam nuớc ta thường nôm na gọi là hoa nho hay nho kiểng, còn ở ngoài Trung và Bắc thông thái phiên âm rút gọn danh từ Tây phương antigon hay antigone. Trong thần thoại Hy Lạp có một bà tên Antigone, con vua Œdipe thành quốc Thèbes (nay là Thiba) bên nước Hy Lạp và hoàng hậu Jocaste. Vì là con của một cặp loạn luân, bà đã phải chịu sống một cuộc đời đau khổ, không chồng, không con và sau cùng bị kết án giam lỏng trong mồ gia đình. Ngay lúc mới sinh, Œdipe bị cha là Laios đem bỏ vào rừng cho chết đi vì ông tin một lời nguyền rủa bảo con ông sẽ giết cha và lấy mẹ làm vợ. Œdipe không chết, được nuôi lớn lên ở vương triều Corinthe như một đứa con mồ côi. Một ngày trên đường đi, vì một chuyện xích mích, Œdipe giết Laios mà không biết ông ta là cha mình. Trả lời là "con người" đúng câu hỏi của quái vật Sphinx, thân phụ nữ mình sư tử, ai ban sáng đi bốn chân, trưa đi hai chân, chiều đi ba chân, sau khi quái vật đập đầu vào đá chết đi, Œdipe được dân chúng đón tiếp như một người hùng và tôn xưng lên ngôi vua. Sau đấy ông cưới hoàng hậu Jocaste làm vợ mà không dè bà là mẹ mình, vô tình thực hiện lời nguyền rủa. Vào lúc ấy có bệnh dịch hoành hành và thánh nhân đòi tìm cho ra người đã ám sát Laios may ra cứu được toàn dân Thèbes. Khám phá ra mình đã giết cha, Oedipe vô cùng đau đớn, nhổ mắt thành mù, được Antigone dẫn ra khỏi Thèbes làm người ăn xin trước khi chết ở Colone. Còn Jocaste thì treo cổ tự tử. Ngoài hai con gái, Antigone và Ismène, Œdipe và Jocaste có hai con trai, Polynice và Etéocle. Hai anh em thỏa thuận luân phiên nhau thế cha lên ngôi trị vì mỗi người một năm. Etéocle bắt đầu lên ngôi nhưng một năm sau không chịu nhường ngôi lại cho Polynice. Trong cuộc chiến huynh đệ tranh ngôi cả hai đều tử trận. Em của Jocaste là Créon lên nối ngôi, truyền lệnh khâm niệm Etéocle theo nghi lễ một nhà vua nhưng cấm không được chôn cất Polynice xem như là kẻ phản bội. Antigone không chịu tuân lời cậu, lại rải một ít đất lên thi hài anh gọi là lễ tang tối thiểu để linh hồn anh yên giấc ngàn thu, vậy mà Créon lên án giam cháu. Không chịu sống giam cầm suốt đời, Antigone treo cổ tự tử. Hémon, con của Créon, người yêu của Antigone, tự sát ngay trên thi hài Antigone và tiếp theo đó, vợ Créon cũng chết theo con. Rút cuộc người còn sống trong đau khổ là Créon cùng một lúc mất con, góa vợ, chỉ vì một xử lý thiếu suy nghĩ của mình. Lời nguyền rủa thấy như còn tiếp tục lâu dài… Trong bối cảnh một thế giới đảo điên, con giết cha, anh em giết nhau, cậu giết cháu, Œdipe không chủ ý phạm tội loạn luân, một hiện tượng sau nầy được nhiều triết gia biện luận và nhiều soạn giả viết thành bi kịch..., Antigone tỏ ra là một người con có hiếu vì đã chịu chăm sóc người cha mù cho đến lúc ông chết, lại là một người em mang một tình thương anh vô tận nên mới đơn thương độc mã bất tuân lệnh của ông vua cậu. Nhiều học giả đã thấy qua nàng một bi kịch của những đối lập : một bên là tình thương chị em, mệnh lệnh thần thánh, sự tận tâm tận tụy, bên kia là ý chí nhà vua, luân lý thành quốc, sự mù quáng của tuổi già. Lòng hiếu thảo, tình thương của nàng phải chăn được thể hiện qua một cây leo luôn quấn quít trên những cành cứng, những bụi rậm như cây antigone thường thấy ở Nam Mỹ, phát xuất từ Mexico, mọc hoang nhiều ở các tiểu bang California, Arizona bên Hoa Kỳ, ở tỉnh Phan Thiết bên ta. Mang tên khoa học Antigona leptopus Hook. et Arn. (5,7) (có khi viết Linn. (8,9) ) thuộc họ Răm Polygonaceae, cây ti gôn còn được gọi hiếu nữ, Coral vine, Mountain Rose, Queen’s Wreath hay Love’s chain. Dây leo đa niên nhờ có củ to, thân mảnh, lá có phiến không lông, hình tim, xanh tươi, dúng. Chùm có vòi, to, ở chót nhánh, hoa hường hay trắng (var. alba Horst) (*) cho nên T.T.Kh. mới có tựa bài "Hai sắc hoa ti gôn". Hoa có 5 tai đỏ, ngoài 3 trong 2, tiểu nhị dính nhau ở đáy, noãn sào 3 cánh, 3 vòi, nhụy bế quả. Ưa chịu nóng mùa hè và thích nhiều nước. Vào mùa đông lá rụng nhiều, chỉ ngọn cây chết nhưng chóng phục hồi (2) . Là một loại hoa đẹp, lại được mệnh danh là hoa lòng, hoa máu, hoa ti gôn đã được nhiều nhà chú ý khảo cứu, nhất là về mặt chất sắc. Nhóm Minocha ở viện Đại học Allahabad bên Ấn Độ dùng methanol-HCl (1%) chiết xuất được hai anthocyanin pelargonin và malvin (4). Thay đổi dung dịch, dùng ethanol, họ đạt được hentriacontan và trimethoxy propanoyl anthraquinon (5), quercetin, rhamnetin, quercetin glucopyranosid và hydroxy methyl anthraquinon arabinofuranosyl glucopyranosid (3). Nhóm Valsakumari ở Trường kỷ sư Tiruchirapalli cũng ở Ấn Độ thì tìm ra được trong hoa quercetin rhamnosyl rhamnoside (7). Nhóm Kawasaki ở viện Đại học Shinshu bên Nhật bản phát hiện trong lá 28 cây thuộc họ Răm 33 flavonoid. Quercetin glycosid có mặt trong hầu hết các lá, nhiều nhất là rhamnodid và glucuronid, còn myrcetin thì hiếm hơn (6). Những nhà khảo cứu ở viện Đại học Michigan bên Hoa Kỳ dùng methanol thì chiết xuất được từ tất cả các bộ phận khí sinh của cây, kể cả hoa, hentriacontan, ferulic acid, hydroxy cinnamic acid, quercetin rhamnosid, kaempherol glucosid đồng thời với bêta-sitosterol, bêta-sitosterol glucosid và mannitol (16). Trong một cuộc khảo cứu về các acid béo trên 15 cây đủ loại mọc ở Rajasthan trong ấy có Antigonon leptopus, tinh dầu hột cống hiến dimethyl oxazolin (10). Cây ti gôn không chỉ phô trương sắc đẹp. Người ta đã tìm ra được trong những phần chiết methanol các bộ phận khí sinh của cây có tính chất ức chế lipid peroxi hóa (89%), cycloxygenase (50,4 – 72,5 %) với 250 microgam/mL (16), phản thrombin (80%) (13). Ở viện Đại học Victoria bên Canada, một cuộc khảo cứu đã được thực hiện trên các cây dùng để chữa các chứng thuộc đường niệu cùng bệnh đái đường ở Trinidad và Tobago trong ấy có ti gôn (15). Một văn bằng sáng chế Trung Quốc đề nghị dùng Antigonon leptopus cùng nhiều cây khác như kha tử Terminalia chebula, mã tiền Strychnos nux-vomica, đàn hương Santalum album, thảo đậu khấu Alpinia katsumadai, nhục đậu khấu Myristica fragrans, đinh hương Eugenia caryophyllata, ngũ linh chi Facces trogopterpri… nhờ những tính chất chống đau, chống viêm, chống siêu trùng, bài niệu, giải độc, để chữa một loạt bệnh viêm : viêm thận, viêm gan, viêm kết tràng,… (14). Ti gôn đã được dùng làm thức uống (16). Cũng cần biết thêm nhóm Krishna ở viện Đại học Andhra bên Ấn Độ đã khảo cứu cách đường hóa và lên men cùng lúc sinh khối ti gôn để sản xuất ethanol với các chủng Trichoderma reesei và Saccharomyces cerevisiae (8,11) hỗn hợp với Kluyveromyces fragilis (l2), bêta-glucosidase (9). Hoa ti gôn không thơm tùy loại có hai màu : màu trắng tượng trưng cho lòng trinh bạch (Và phương trời thẳm mờ sương cát, Tay vít giây hoa trắng chạnh lòng ), màu hồng hay đỏ chỉ sự đau khổ trong đời. (Nhưng hồng, tựa trái tim tan vỡ, Và đỏ như như màu máu thắm phai). Chỉ với hai màu, T.T.Kh đã trưng bày đủ đời mình, kết liễu với một nỗi nhớ tiếc không nguôi, ví mình như một loài hoa vỡ, một trái tim phai : Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi, người ấy có buồn không ?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng. Theo kết quả của những tìm kiếm, rất có thể T.T .Kh hiện còn sống. Một con người, với một cuộc đời như vậy, có hảnh diện không khi thấy những bài thơ mộc mạc nhưng chân thành của mình đã gây náo động khắp nước, cả một thời, không những ở quốc nội hồi thơ mới được đăng báo, mà còn bây giờ, gần bảy mươi năm sau, khắp thế giới, bất kỳ ở nơi nào có người Việt, còn người yêu thơ ? Nghiên cứu và Phát triển 2 (79) 2010***************************************** Tham khảo (*) Phạm Hoàng Hộ, Cây cỏ Việt Nam, Mekong Ấn quán (1991) I, 954 1- Lưu An, TTKh và những khám phá về thân thế tác giả, khoahocphothong.net/forum/archiv/index.php/t-8504.html 2- Lê Văn Lân, Mùa thu và hoa tim vỡ, khoahoc.net 20.09.2007. 3- K.P. Tiwari, P.K. Minocha, Chemical constituents of the flowers of Antigonon leptopus, Indian J. Chem.section B (5) 19B (1980) 431-2 4- K.P. Tiwari, P.K. Minocha, Study of anthocyanins from flowers of Antigone leptopus, Vijnana Parishad Anusandhan Patrika (4) 23 (1980) 305-7 5- P.K. Minocha, M. Masood, K.P. Tiwari, 1,6,8-Trimethoxy-3-propanoylanthraquinone, a new pigment from the flowers of Antigonon leptopus Hook and Arn, Indian J. Chem.section B (3) 20B (1981) 251-2 6- M. Kawasaki, T. Komata, K. Yonutsama, Flavonoids in the leaves of twenty-eight polygonaceous plants, Bot. Mag. (Tokyo) (1053) 99 (1986) 63-74 7- M.K. Valsakumari, N. Sulochana, Phytochemical investigation on the flowers of Antigonon leptopus Hook and Arn, J. Inst.Chem.(India) (1) 64 (1992) 38 8- S.H. Krishna, Y. Prabhakar, R.J. Rao, Saccharification studies of lignocellulosic biomass from Antigonon leptopus Linn, Indian J; Pharm. Sci .(1) 59 (1997) 39-42 9- S.H. Krishna, G.V. Chowdary, D.S. Reddy, C. Ayyanna, Simultaneous saccharification and fermentation of pretreated Antigonon leptopus Linn leaves to ethanol, J. Chem. Tech. Biotech. (11) 74 (1999) 1055-60 10- M.M. Azam, M.R.K. Sherwani, Chemical investigation of some seed oils from arid zone of Rajasthan, Oriental J. Chem. (2) 15 (1999) 295-300 11- S.H. Krishna, G.V. Chowdary, Optimization of simultaneous saccharification and fermentation for the production of ethanol from lignocellulosic biomass, J. Agri. Food Chem.(5) 48 (2000) 1971-6 l2- S.H. Krishna, D.S. Reddy, T. Janardhan, G.V. Chowdary, Simultaneous saccharification and fermentation of lignocellulosic wastes to ethanol using a thermotolerant yeast, Biores. Tech. (2) 77 (2001) 193-6 13- N. Chistokhodova, Nguyen Chi, T. Calvino, I. Kachirskaia, G. Cunningham, M.D. Howard, Antithrombin activity of medicinal plants from central Florida, J.Ethnopharm. (2) 81 (2002) 277-80 14- J. Wu, Manufacture of traditional Chinese medicine with antiviral, anti-inflammatory, and detoxicating effects, Faming Zhuanli Shanqing Gongkai Shuomingshu CN 1840147 (2006) 6 tr. 15- C.A. Lans, Ethnomedicines used in Trinidad and Tobago for urany problems and diabetes mellitus, J.Ethnobio. Ethnomed. 2 (2006) 45 16- M. Vanisree, R.L. Alexander-Lindo, D.L. De Witt, M.G. Nair, Functional food components of Antigonon leptopus tea, Food Chem. (2) 106 (2008) 487-92
|
|
|
Post by NhiHa on Apr 15, 2011 6:57:42 GMT 9
Lịch sử ít được biết về Swastika Vietsciences- Phạm Việt Hưng Rất nhiều người thắc mắc không hiểu tại sao chữ Vạn của Phật giáo lại có hình thức trùng lặp với “chữ thập ngoặc” của Đức quốc xã. Gọi là “chữ”, nhưng thực ra cả hai đều là những biểu tượng. Người Việt gọi hai biểu tượng này bằng hai tên gọi khác nhau, nhưng người Tây phương đều gọi là Swastika, vì cả hai có hình thức bề ngoài hoàn toàn giống nhau. Một số tài liệu Phật giáo, thậm chí cả một số Bách khoa toàn thư, đã cố gắng chứng minh rằng hai biểu tượng này có hình dạng khác nhau – khác nhau về chiều quay và khác nhau về tư thế thẳng đứng hoặc nghiêng: Chữ Vạn quay thuận chiều, “chữ thập ngoặc” quay ngược chiều; Chữ Vạn thẳng đứng, “chữ thập ngoặc” đổ nghiêng. Nhưng thực tế không đúng như thế: Chữ “Vạn” của Phật giáo sử dụng cả hai chiều quay trái ngược nhau, “chữ thập ngoặc” của Đức quốc xã sử dụng cả hình đứng lẫn hình nghiêng. Tóm lại về hình thức bề ngoài, hai biểu tượng này hoàn toàn giống nhau. Vì thế, cần tìm hiểu vì sao có sự “trùng lặp” khó hiểu như vậy. Tuy nhiên, tìm hiểu lịch sử của Swastika chúng ta sẽ thấy rằng: ● Swastika đã xuất hiện từ thời cổ đại, ngay từ đầu nó không chỉ là biểu tượng của riêng Phật giáo, mà là biểu tượng của rất nhiều nền văn hoá và tôn giáo khác nhau. ● Swastika của Đức quốc xã hoàn toàn không liên quan gì đến chữ Vạn của Phật giáo, mà chỉ liên quan đến Swastika của người Aryan. Vậy để tránh nhầm lẫn, bài viết này sẽ sử dụng tên gọi chung của biểu tượng này là Swastika. Chữ Vạn sẽ chỉ được dùng khi đề cập đến Swastika của Phật giáo. Vậy Swastika có xuất xứ từ đâu? Ý nghĩa nguyên thuỷ của nó là gì? Người Aryan là ai? Tại sao Hitler lại sử dụng Swastika của người Aryan? Đó là những câu hỏi cần được trả lời. PHẦN I: TỪ SWASTIKA ĐẾN ARYAN I.1-Hành trình và ý nghĩa nguyên thuỷ của Swastika: Swastika là một trong những biểu tượng cổ xưa nhất mà loài người đã sử dụng. Nó đã được phát hiện trên những di chỉ khảo cổ có độ tuổi ít nhất hơn 3000 năm tại khu vực thung lũng nằm giữa hai con sông Euphrates và Tigris và một số vùng trong thung lũng Indus. Swastika cũng xuất hiện trên các bình gốm và những đồng xu cổ trên đống đổ nát của thành Troie (Troy), chứng tỏ nó đã được sử dụng ít nhất từ 1000 năm trước C.N. Mặc dù chưa ai vẽ ra được một “lộ trình di cư” chính xác của Swastika qua các thời đại, nhưng có thể biết chắc chắn rằng trải qua hàng ngàn năm, Swastika đã có mặt ở hầu khắp các lục địa Á, Âu, Mỹ. Vì thế, Swastika có rất nhiều tên gọi khác nhau. Tiếng Hán gọi là “wan” (Vạn), tiếng HyLạp – tetraskelion, tiếng Pháp – croix gammé, tiếng Anh – fylfot, tiếng Đức – hakenkreuz, tiếng Ý – croce uncinata, v.v… Nhưng tên gọi phổ biến nhất vẫn là swastika, bắt nguồn từ chữ svastika (đọc là suastika) trong tiếng Sanscrit – ngôn ngữ cổ Ấn Độ. Vị trí thành Troie (Troy) trên bản đồ Trong tiếng Sanscrit: Sv, đọc là su, có nghĩa là tốt lành (good, well); asti có nghĩa là tồn tại (to be); ka là một tiếp vĩ ngữ thể hiện một sự vật hay sự việc nào đó. Vậy swastika là một sự vật hay một sự việc tồn tại tốt lành, hoặc có trạng thái tốt lành (well-being). Charles Messenger trong cuốn “Lịch sử Thế Chiến II bằng hình” (The Pictorial History of World War II) nói rằng Swastika thể hiện sự phồn thịnh (prosperity) và sáng tạo (creativity). Swastika trong nghệ thuật của người Hindu có các dấu chấm trong các cung phần tư, nhưng Swastika của Hindu giáo (Ấn giáo) không có những dấu chấm này, thể hiện sự thiêng liêng cao cả. Phật giáo đã thừa hưởng Swastika của Hindu giáo. Trong các kinh Phật, Swastika thường xuất hiện ngay ở phần mở đầu. Trong tiếng Hán, chữ Vạn (wan) biểu thị cái bao trùm tất cả (all) và sự vĩnh hằng (eternality). Cuốn “Phật Học Quần Nghi” xuất bản tại Đài Loan viết: Theo truyền thuyết cổ Ấn Độ, phàm là thánh vương chuyển luân cai trị thế giới đều có 32 tướng tốt. Phật là một thánh vương trong Pháp nên cũng có 32 tướng tốt. Điều này được ghi trong kinh Kim Cương Bát Nhã. Chữ Vạn là một trong 32 tướng tốt của Phật. Theo kinh Trường A Hàm thì đó là tướng tốt thứ 16 nằm trước ngực của Phật. Tại Nhật Bản, chữ Vạn của Phật giáo được gọi là manji, thể hiện Dharma – sự hài hoà và cân bằng âm dương trong vũ trụ (giống tư tưởng của Dịch và Lão học) – trong đó manji quay trái được gọi là một omote manji, thể hiện tình yêu và lòng nhân từ, khoan dung; manji quay phải được gọi là ura manji, thể hiện sức mạnh và trí thông minh. Tại Nam Âu, khu vực tiếp giáp với châu Á, dấu vết Swastika cũng đã được tìm thấy trong các công trình kiến trúc thuộc nền văn hoá Byzantine – nền văn hoá thuộc khu vực Biển Đen và Địa Trung Hải kéo dài từ thế kỷ thứ 7 trước CN đến tận thời trung cổ. Dấu vết Swastika cũng xuất hiện trong các đền đài thuộc nền văn hoá Celtic (đọc là Seltic hoặc Keltic) – nền văn hoá đậm nét Âu châu phi Địa Trung Hải, có xuất xứ từ Tây và Trung Âu từ khoảng 1000 năm trước CN kéo dài mãi đến nhiều thế kỷ sau CN, ảnh hưởng sâu rộng khắp Âu châu. Chủ nhân của nền văn hoá này là người Celt – người nói tiếng Celtic – những người nổi tiếng thông minh, yêu tự do, dũng cảm trong chiến đấu. Cần đặc biệt chú ý rằng ngôn ngữ Celtic là một bộ phận của một nhóm ngôn ngữ rộng lớn hơn được gọi là ngôn ngữ Aryan hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu. Vậy ngôn ngữ Aryan và ngôn ngữ Ấn-Âu là gì? I.2-Ngôn ngữ Aryan và người Aryan: Những người ít quan tâm đến ngôn ngữ học có thể sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết các thứ tiếng Âu châu ngày nay hoá ra lại có chung một thuỷ tổ với tiếng Hindi (tiếng Ấn Độ). Thuỷ tổ ấy là ngôn ngữ Aryan, hoặc ngôn ngữ Ấn-Âu (Indo-European languages) – ngôn ngữ của những cư dân sinh sống từ xa xưa trên vùng cao nguyên Iran ở Nam Á, giữa vùng biển Caspian và vùng núi Hindu Kush ngày nay. Những cư dân này tự gọi mình là người Aryan. Vào khoảng 1500 năm trước CN, người Aryan đã xâm chiếm vùng tây bắc Ấn Độ. Họ mang theo một nhánh ngôn ngữ của họ đến đó, và trong suốt 1000 năm đầu tiên tại Ấn, họ đã hoàn thiện ngôn ngữ này đến mức tìm ra cách để viết. Đó chính là ngôn ngữ Sanscrit mà ngày nay ta gọi là tiếng Ấn Độ cổ. Tiếng Hindi, ngôn ngữ chính của Ấn Độ ngày nay, cũng bắt nguồn từ ngôn ngữ Sanscrit. Chính nhờ các văn bản cổ viết bằng tiếng Sanscrit vẫn còn lưu giữ được trong các di tích tôn giáo và văn hoá của người Hindu mà ngày nay ta biết được lịch sử của người Aryan. Những văn bản này mô tả người Aryan có nước da sáng mầu (fair-skinned), có máu mê chiến tranh (warlike), và bản thân chữ Aryan trong tiếng Sanscrit có nghĩa là người phú qúy (nobleman) hoặc chúa tể đất đai (lords of land)! Một nhánh khác của người Aryan đã di cư sang xâm chiếm Âu châu và truyền bá ngôn ngữ của họ ở đó. Vì thế ngôn ngữ của phần lớn người Âu châu ngày nay rất giống nhau – thực ra hầu hết người Âu đều nói một thứ ngôn ngữ có nguồn gốc Aryan (trừ tiếng Thổ, Hung, xứ Basques, PhầnLan, LátVia, Estonia, và một vài nhóm nhỏ ở Nga). Vì thế ngôn ngữ Aryan được gọi là ngôn ngữ Ấn-Âu, người Aryan được gọi là người Ấn-Âu tiền sử (proto-Indo-European). Người Ấn ở miền bắc Ấn Độ còn được gọi là người Ấn-Âu. Họ cao lớn, nước da sáng mầu, trong khi người Ấn ở miền nam có nguồn gốc Dravidian, vóc dáng nhỏ bé hơn, nước da tối mầu hơn. Việc khám phá ra ngôn ngữ Aryan vào những năm 1790 được coi là một trong những khám phá vĩ đại nhất của ngôn ngữ học. Người Âu châu thời đó đã sửng sốt khi biết rằng không chỉ các dân tộc ở Âu châu, mà ngay cả một xứ “xa tít mù tắp” vào thời đó như Bắc Ấn, hoá ra cũng có chung một nguồn gốc ngôn ngữ với họ, thậm chí chung một tổ tiên với họ. Từ đó, các nhà khảo cổ học lao vào nghiên cứu mối liên hệ giữa người Âu châu tiền sử với người Aryan cổ đại. Trong bài “Lịch sử lần theo chữ Vạn” (đã dẫn), tôi đã đặt dấu hỏi: “Dân tộc Iran ngày nay và người Aryan xưa kia có liên hệ gì với nhau không? Về mặt âm ngữ, hai từ Iran và Aryan rất giống nhau. Về mặt lịch sử, chẳng lẽ người Aryan đi chinh phục Ấn Độ và Âu châu hết mà không để lại một chi nhánh nào của dòng họ ở nơi xuất xứ là cao nguyên Iran hay sao?”. Và tôi đã tìm thấy câu trả lời. Bách khoa toàn thư Wikipedia viết: “Vào khoảng nửa đầu của thiên niên kỷ thứ nhất trước CN, người Aryan đã có mặt trên cao nguyên Iran và tiểu lục địa Ấn Độ. Thực ra, thuật ngữ Iran là kết quả của thuật ngữ Ariana (Airyana) có nghĩa là xứ sở của người Aryan. Nhóm ngôn ngữ Aryan có hai nhánh chủ yếu: Ngôn ngữ Sanskrit và ngôn ngữ cổ-Iran … trong tiếng Ba-Tư thời trung cổ, chúng ta thấy chữ Ariana được gọi là Eran, và cuối cùng trong tiếng Ba-Tư hiện đại, được gọi là Iran”. Nhà triết học nổi tiếng Hegel từng viết trong cuốn Triết học Lịch sử (The Philosophy of history) rằng: “Lịch sử của loài người bắt đầu từ lịch sử của Iran”. Các di chỉ khảo cổ tại Tây Nam Á cho thấy nền văn minh Iran có trước nền văn minh Ai Cập quãng 3000 năm, khởi đầu ít nhất từ 12000 năm trước đây. Tóm lại, người Aryan một phần đã chinh phục Bắc Ấn, một phần ở lại Iran, và một phần đã di cư sang Âu châu và chinh phục hầu khắp Âu châu, lai tạp với cư dân bản địa Âu châu cổ đại để dần dà trở thành người Âu Mỹ như ngày nay. Tuy nhiên, khái niệm “người Aryan” dần dần đã bị những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc biến tướng thành khái niệm “chủng tộc Aryan”, từ đó dẫn tới những hậu quả chính trị xã hội vô cùng tệ hại. I.3-Về cái gọi là “chủng tộc Aryan”: Như độc giả đã thấy, các văn bản đã cổ gắng mô tả người Aryan là những người có những “ưu điểm vượt trội”: những người “phú qúy” hoặc “chúa tể đất đai”! Trong thực tế, người Aryan đã chinh phục một dải đất vô cùng rộng lớn từ Á sang Âu! “Thành tích vượt trội” của người Aryan đã làm nức lòng những kẻ theo chủ nghĩa dân tộc ở châu Âu cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Trong con mắt của họ, “người Aryan” đồng nghĩa với “chủng tộc Aryan” (Aryan race) – một “chủng tộc ưu tú hơn” (superior race) so với bất kỳ chủng tộc nào khác. Ngay từ thời đó, tư tưởng này đã bị phê phán. Nhà Sanscrit học lỗi lạc Max Muller từng nhấn mạnh: “Khi tôi nói đến chữ Aryan, tôi không hề có ý định đề cập đến những khái niệm liên quan đến hộp sọ”. Nói cách khác, theo những tiêu chuẩn của chủng tộc học, không hề có cái gọi là “chủng tộc Aryan”, mà chỉ có người Aryan mà thôi. Nhưng bất chấp mọi giải thích, những kẻ có đầu óc dân tộc tiếp tục truyền bá khái niệm “chủng tộc Aryan” như một sự thật lịch sử và khoa học. Đến những năm 1920, chủ nghĩa quốc xã Đức đã nâng lý thuyết “chủng tộc Aryan lên đến mức cực kỳ: “Chủng tộc Aryan là chủng tộc thượng đẳng (master race) có quyền thống trị thế giới”. Lý thuyết này dựa trên nền tảng của một học thuyết được coi là “khoa học” vào thời đó: Học thuyết Đác-uyn-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – một học thuyết chủ trương áp dụng nguyên lý đấu tranh sinh tồn của Darwin vào trong xã hội loài người. Nhưng tại sao Đức quốc xã lại chọn Swastika làm biểu tượng của chúng? Trước khi biết rõ bối cảnh nào đã dẫn Hitler tới chỗ đích thân hắn chọn Swastika làm biểu tượng cho đảng quốc xã, đọc giả cần biết rõ sự kiện sau đây: Heinrich Schliemann Cuối thế kỷ 19, nhà khảo cổ học nổi tiếng Heinrich Schliemann, người đã khám phá ra Swastika trên đống đổ nát của thành T’roa, trong một công trình nghiên cứu công phu kết hợp khảo cổ học với Sanscrit học, đã đi đến một kết luận vô cùng quan trọng rằng Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu. Nói cách khác: Swastika là biểu tượng đặc trưng của người Aryan! PHẦN II –TỪ HỌC THUYẾT BỆNH HOẠN ĐẾN SWASTIKA CỦA QUỶ DỮ Lý thuyết “chủng tộc thượng đẳng” (master race) của chủ nghĩa quốc xã (nazism) là một quái thai trong lịch sử loài người, nhưng quái thai ấy không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên. Nó là con đẻ của một “bà mẹ bệnh hoạn” – Học thuyết Đác-uyn-xã-hội (Social-Darwinist Ideology) – và một “ông bố điên rồ” – Tư tưởng phục thù (Feeling of Revenge) trong xã hội Đức sau Thế Chiến I. Khi đã có Học thuyết Đác-uyn-xã-hội làm cơ sở “khoa học” để suy tôn “chủng tộc Đức” thành “chủng tộc thượng đẳng có quyền thống trị thế giới”, chủ nghĩa quốc xã chỉ còn thiếu một lá cờ với biểu tượng thích hợp. Nhưng đích thân Hitler đã tìm thấy biểu tượng đó: Swastika của người Aryan! Vậy trước hết hãy tìm hiểu xem Học thuyết Đác-uyn-xã-hội là gì? II.1-Học thuyết Đác-uyn-xã-hội: Học thuyết Đác-uyn-xã-hội là lý thuyết cho rằng xã hội loài người tiến hoá thông qua quá trình đấu tranh sinh tồn, trong đó chủng tộc nào thông minh hơn, khoẻ mạnh hơn, thích nghi với môi trường tốt hơn sẽ là chủng tộc có quyền tồn tại; chủng tộc nào dốt nát, ốm yếu, kém thích nghi với môi trường sẽ bị đào thải. Đây là kết quả của việc áp dụng một cách máy móc Thuyết tiến hoá của Darwin vào trong xã hội loài người. Không phải ngẫu nhiên mà có sự áp dụng máy móc đó. Đây là hệ quả của việc áp dụng tràn lan chủ nghĩa thực chứng (positivism) vào trong xã hội học. Chủ nghĩa thực chứng do Auguste Comte (1798-1887) nêu lên từ những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 19, trong đó cho rằng một hệ thống lý thuyết chỉ trở thành khoa học thực sự khi nó có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm trong thực tế. Với thắng lợi trong khoa học tự nhiên, chủ nghĩa thực chứng đã tạo ra tinh thần lạc quan mạnh mẽ trong thế kỷ 19, thúc đẩy các nhà xã hội học tìm cách giải thích hành vi của số đông (en masse behaviour) bằng những quy luật của tự nhiên. Đúng lúc đó, Thuyết tiến hoá của Darwin ra đời. Những kẻ có đầu óc chủng tộc lập tức áp dụng Thuyết tiến hoá của Darwin để giải thích sự tiến hoá của xã hội loài người, khẳng định rằng về cơ bản xã hội loại người cũng phải tiến hoá theo quy luật của sinh giới nói chung. Đó chính là Học thuyết Đác-uyn-xã-hội. Học thuyết Đác-uyn-xã-hội có liên quan gì đến cá nhân Darwin không? Trước đây tôi luôn luôn nghĩ rằng Darwin chỉ nêu lên quy luật tiến hoá trong xã hội loài vật mà thôi. Việc đem lý thuyết của ông áp dụng một cách máy móc vào xã hội loài người là việc làm của những kẻ có đầu óc kỳ thị chủng tộc. Nhưng gần đây, tôi phải suy nghĩ rất nhiều khi đọc bài báo “What Darwin taught Hitler?” (Darwin đã dạy Hitler cái gì?) của Grenville Kent, trên tạp chí SIGNS of the Times ở Úc, số tháng 10 năm 1996, trong đó tác giả đã trích nguyên văn một phát biểu của Darwin như sau: “Trong một tương lai không xa lắm, có thể đo bằng số thế kỷ, các chủng tộc văn minh của loài người hầu như sẽ tiêu diệt và thay thế các chủng tộc dã man trên thế giới”. Có thật Darwin đã nói như thế hay không? Trong bài báo nói trên, Kent nói rõ rằng câu nói này nằm trong cuốn On the Origin of Species (Về nguồn gốc các loài), tác phẩm nổi tiếng nhất của Darwin. Nếu đúng như thế thì không thể trách tại sao ở Phương Tây hiện nay, một nửa giới khoa học chống lại Darwin. Liệu một lý thuyết thực sự khoa học có thể bị một nửa thế giới chống lại nó hay không? Điều này chúng ta không hề thấy ở các học thuyết khác, như Cơ học Newton, Thuyết tương đối của Einstein, Cơ học lượng tử của Bohr-Heisenberg, v.v. Ngay từ năm 1934, Lý Tôn Ngô đã viết trong cuốn “Hậu Hắc Học” rằng “Đác-Uyn phát minh (ra học thuyết) sinh vật tiến hoá cũng như Niu-tơn phát minh ra “Sức hút của quả đất”, là những công thần lớn của giới học thuật, điều ông nói “Muốn sinh tồn phải cạnh tranh mạnh được yếu thua” là một điều không khỏi lệch lạc, cần uốn nắn lại”. Than ôi, nhân loại chưa kịp uốn nắn thì đã xẩy ra cuộc Đại chiến thế giới lần thứ hai thảm khốc chưa từng có – một cuộc chiến tranh bắt nguồn trực tiếp từ một đầu óc bệnh hoạn về đấu tranh sinh tồn dựa trên học thuyết Darwin! Những người quen sùng bái Darwin như ông thánh sẽ dẫy nẩy lên khi thấy ông thánh của mình bị kết tội, nhưng chắc chắn họ không thể tranh cãi với Kent khi ông đặt dấu hỏi chua chát “Nếu Darwin đúng thì tại sao Hitler lại không được bào chữa về mặt khoa học?”. Theo Kent, chủ nghĩa quốc xã Đức đã từng lý luận rằng “Nếu chúng ta xuất thân từ động vật thì tại sao chúng ta không hành động theo quy luật (đấu tranh sinh tồn) đó?”. Thế đấy, dưới con mắt của chủ nghĩa quốc xã, con người trước hết là một động vật, do đó mọi hành vi trước hết phải tuân theo quy luật đấu tranh sinh tồn – một quy luật bất khả kháng của tự nhiên (!!!). Nếu Darwin đúng và nếu con người là một bộ phận của thế giới động vật thì cớ gì con người không tuân thủ những “định luật tiến hoá” của Darwin? Đó là một câu hỏi quá khó đối với tư duy khoa học logic máy móc – kiểu tư duy chủ yếu đến nay vẫn thống trị trong thế giới khoa học! Ngày nay, khi Học thuyết Đác-uyn-xã-hội đã lộ nguyên hình là một học thuyết bệnh hoạn, không ai có thể chấp nhận sự vay mượn tư tưởng từ một học thuyết thuần túy sinh học để đem áp dụng vào xã hội loài người một cách thô thiển và đơn giản đến như thế. Nhưng than ôi, đó lại là một sự thật đã diễn ra vào những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 20, chúng ta không thể được phép quên! Heinrich Himmler Thật vậy, vào đầu thế kỷ 20, trường Đại học tổng hợp Berlin chặt cứng sinh viên ngồi nghe các giáo sư trình bầy Học thuyết Đác-uyn-xã-hội. Trong đám thính giả có rất nhiều nhà ngoại giao, nhà quân sự, thương gia và các lãnh tụ của nhà nước Đức. Một trong số đó là Heinrich Himmler, kẻ sau này trở thành cánh tay phải của Hitler, đứng đầu bộ máy SS – bộ máy tàn sát chủng tộc khét tiếng của Nazi. Bối cảnh ấy thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phục thù ở Đức phát triển mạnh mẽ, tạo nên một cơ sở xã hội để đảng quốc xã thắng thế vào cuối những năm 1920, đầu 1930, dẫn tới sự ra đời của Đế chế Thứ III (The Third Reich) với việc Adolf Hitler lên cầm quyền ở Đức năm 1933, thực hành một chính sách chủng tộc thảm khốc chưa từng có trong lịch sử. II.2-Chủ nghĩa chủng tộc và phục thù: Bước vào thế kỷ 19, trong khi các nước như Anh, Pháp đã trở thành những đế quốc lớn, hùng mạnh, thì Đức lúc đó vẫn bao gồm các tiểu vương quốc rời rạc. Mãi đến năm 1871 mới thống nhất thành một quốc gia. Sự tụt hậu này tạo cho giới trẻ Đức thời đó một cảm giác tủi hổ, bất mãn. Từ đó nước Đức có xu thế muốn vươn lên, chứng tỏ cho thế giới thấy mình không những không thua kém ai, mà còn vượt trội so với kẻ khác. Xu thế ấy là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc Thế Chiến I. Nhưng thất bại thảm hại của Đức trong cuộc thế chiến này lại càng đẩy thanh niên Đức lún sâu vào tâm trạng tủi hổ và bất mãn sâu sắc hơn nữa. Để chống lại căn bệnh tủi hổ này, những nhà lý luận có đầu óc chủng tộc đã cố gắng xới lên những học thuyết đề cao chủng tộc Đức, trong khi các nhà chính trị theo chủ nghĩa dân tộc lại tuyên truyền cho chủ nghĩa phục thù, hứa hẹn sẽ lấy lại sức mạnh cho nước Đức, đưa nước Đức lên vị trí lãnh đạo thế giới. Trong bối cảnh ấy, Lịch sử người Aryan và Swastika cùng với Học thuyết Đác-uyn-xã-hội đã trở thành “những nguyên liệu qúy giá” để những nhà lý thuyết và chính trị theo chủ nghĩa chủng tộc ở Đức chế biến nên một chủ thuyết chủng tộc trong đó khẳng định rằng người Aryan chính là thủy tổ của người Đức, người Đức chính là hậu duệ thuần chủng nhất và tinh túy nhất của người Aryan, và do đó xứng đáng để lãnh đạo thế giới. Một trong những kẻ đi tiên phong trong học thuyết này là Alfred Rosenberg. Rosenberg coi “chủng tộc Aryan là chủng tộc nằm ở bậc thang cao nhất trong “hệ thống các bậc thang chủng tộc” (racial hierarchy), trong khi “chung tộc Do Thái” nằm ở tầng dưới cùng và là một mối đe doạ đến “nền văn minh thuần nhất Aryan của Đức”, do đó cần phải bị đào thải. Hơn thế nữa, “chủng tộc Aryan” là chủng tộc duy nhất có khả năng sáng tạo nên những nền văn hoá và văn minh đích thực, trong khi các chủng tộc khác chỉ có khả năng giữ gìn hoặc phá hoại những nền văn hoá đó mà thôi. Rosenberg sau này đã trở thành cánh tay phải của Hitler về tuyền truyền và giáo dục tư tưởng quốc xã, đồng thời làm bộ trưởng quốc xã phụ trách khu vực chiếm đóng ở Liên Xô, cuối cùng bị đồng minh bắt năm 1945, bị xử tử hình tại toà án tội phạm chiến tranh Nuremberg ngày 16-10-1946. Từ điển Lịch sử thế giới (Dictionary of World History) do Chambers của Anh xuất bản năm 1994 viết: “Nước Đức đã ôm lấy cái khái niệm phi khoa học về chủng tộc Đức như là bộ phận tinh túy nhất trong chủng tộc Aryan, trong số những người cùng nói thứ ngôn ngữ Ấn-Âu, và rằng họ có trách nhiệm với tiến bộ của nhân loại (trang 60), … Chủ nghĩa quốc xã khẳng định rằng thế giới được chia thành một hệ thống nhiều thang bậc chủng tộc: Người Aryan, trong đó người Đức là đại diện thuần chủng nhất, là chủng tộc thượng đẳng về văn hoá, trong khi người Do Thái là thấp kém nhất. Điều đó cũng có nghĩa là người Do Thái sẽ bị người Aryan tiêu diệt loại bỏ khỏi thế giới …(trang 661)”. Một khi đã tự nhận mình là hậu duệ tinh túy nhất của người Aryan thì đương nhiên, những kẻ theo chủ thuyết chủng tộc Đức cũng sẽ tự nhận Swastika là biểu tượng của họ, bởi như chúng ta đã biết trong bài kỳ trước: Nhà khảo cổ học Heinrich Schliemann đã khám phá ra rằng Swastika là một biểu tượng đặc trưng Ấn-Âu, tức đặc trưng của người Aryan. Đó là lý do để chủ nghĩa quốc xã đã chộp lấy Swastika để biến thành biểu tượng của chúng. II.3-Swastika rơi vào tay quỷ dữ: Bách khoa toàn thư Wikipedia cho biết: Cuối thế kỷ 19, Swastika của người Aryan đã xuất hiện trong tạp chí về chủng tộc xuất bản định kỳ của những người Đức theo chủ nghĩa quốc gia và là biểu tượng chính thức của những vận động viên thể thao Đức. Đầu thế kỷ 20, Swastika của người Aryan đã trở thành một biểu tượng chung của chủ nghĩa dân tộc Đức (German nationalism) và có thể tìm thấy ở nhiều nơi như biểu tượng của Wandervogelb – một phong trào tuổi trẻ Đức; trên tạp chí Ostarra, một tạp chí định kỳ bài Do Thái của Joerg Lanz von Liebenfels; trên nhiều đơn vị Freikorps khác nhau; và như một biểu tượng của Hội Thule. Nhưng Swastika chỉ chính thức trở thành biểu tượng của quỷ dữ kể từ khi Hitler chính thức sử dụng biểu tượng đó. Sau hai lần thi trượt vào Đại học Mỹ thuật vì bị phê là “thiếu tài năng”, Hitler rất hậm hực bất mãn. Năm 1909, Hitler rơi vào cảnh nghèo túng, nhưng được một người Do Thái là Hanisch giúp kiếm sống bằng cách vẽ bưu ảnh để bán cho du khách (tổng cộng trước Thế Chiến I, hắn đã bán được 2000 bưu thiếp). Trớ trêu thay, chẳng bao lâu sau Hitler đã phản bội lại người giúp đỡ mình khi hắn say mê với những lý thuyết về chủng tộc Aryan, coi người Do Thái là kẻ thù của người Aryan và phải chịu trách nhiệm về những khủng hoảng trong nền kinh tế Đức. Đến những năm 1920, khi Hitler trở thành lãnh tụ đảng quốc xã, hắn thấy đảng này cần phải có một lá cờ và biểu tượng riêng của nó. Năm 1923, Hitler bị phạt tù 5 năm vì một hành động chống chính phủ. Trong tù, hắn viết tác phẩm “Mein Kampf” (Cuộc đấu tranh của tôi), trong đó viết: “Lá cờ mới phải là một biểu tượng của cuộc đấu tranh riêng của chúng ta, đồng thời có hiệu quả cao như một áp-phích tuyên truyền”. Không những thế, vốn xuất thân là một thợ vẽ, Hitler còn thiết kế ra hình ảnh cụ thể của lá cờ đó, trong đó Swastika của người Aryan được đặt chính giữa trên một hình tròn mầu trắng. Hắn viết trong Mein Kampf: “Mầu trắng thể hiện tư tưởng dân tộc, biểu tượng Sawstika thể hiện sứ mạng đấu tranh vì thắng lợi của người Aryan, đồng thời nói lên sự chiến thắng của tinh thần sáng tạo, một tinh thần đã và sẽ mãi mãi chống lại bọn Do Thái”. Chẳng bao lâu sau, Mein Kampf đã nhanh chóng trở thành cuốn “kinh thánh” của đảng quốc xã, chứa đựng tất cả các giáo điều của chủ nghĩa quốc xã, bao gồm cả những kỹ thuật tuyên truyền và kế hoạch làm thế nào để trước tiên chiếm lĩnh nước Đức, sau đó là chiếm lĩnh châu Âu. II.4-Kết: Đến đây độc giả thấy rõ chính đích thân Hitler đã chọn Swastika của người Aryan làm biểu tượng cho đảng quốc xã. Từ năm 1933, khi đảng quốc xã thắng cử ở Đức, Hitler trở thành quốc trưởng của Đế Chế Thứ III, thì Swastika trở thành biểu tượng của cả nhà nước quốc xã và quân đội quốc xã. Kể từ đó, Swastika bị coi là biểu tượng của quỷ dữ. Sau Thế Chiến II, Swastika bị cấm phô bầy tại rất nhiều nước Âu châu. Trong thời đại hiện nay, khi sự giao lưu trao đổi văn hoá giữa các quốc gia, các sắc tộc, các vùng địa lý, các truyền thống văn hoá khác nhau ngày một phát triển, thì hai nhận thức khác nhau về Swastika đã gây nên những hiểu lầm và va chạm rất đáng tiếc, thậm chí có nơi đã xẩy ra xung đột. Chỉ có một cách duy nhất thanh toán sự hiểu lầm và xung đột này là mọi người phải biết rõ lịch sử của Swastika, để có thể phân biệt được đâu là Swastika của cái Thiện, đâu là Swastika của quỷ dữ. Vì thế, lịch sử là một khoa học rất cần thiết đối với nhận thức nói chung (Sửa lại tại Sydney ngày 19-08-2010, PVHg) Bài đăng lần đầu 29/12/2006 Đăng lần 2 có bổ sung ngày 09/04/2011
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 4:40:45 GMT 9
Giao Duyên Ngôn Ngữ
Đàm Trung Pháp. Sau ba chục năm tỵ nạn tại Mỹ, nhiều người Việt chúng ta đã sử dụng tiếng Mỹ trong đời sống hàng ngày cũng như trong công ăn việc làm rất thành thạo. Cũng chính vì vậy mà khi nói tiếng Việt với nhau tại quê hương mới này, chúng ta có khuynh hướng đưa khá nhiều tiếng Mỹ vào ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng ta. Trong các câu chuyện xã giao, trong báo chí, và ngay cả trong văn chương nữa, mối giao duyên ngôn ngữ Việt-Mỹ thực tự nhiên và đề huề! Các tiệm ăn mới khai trương thường không tính tiền nước uống cho thực khách và diễn đạt ý tưởng ấy bằng nhóm chữ "FREE Nước Ngọt". Kỳ diệu thay, nhóm chữ này dùng cú pháp Mỹ rất chỉnh: tính từ FREE mô tả danh từ Nước Ngọt được trịnh trọng đặt trước danh từ ấy! Vài tiệm phở có sáng kiến bán phở làm sẵn cho người mua mang về nhà, và quảng cáo thứ phở đó là "Phở TO GO". Khỏi phải nói, nhóm chữ này cũng đúng cú pháp Mỹ luôn! Mới đây, nguyệt san văn học Khởi Hành (số 103, tháng 5-2005) của nhà thơ Viên Linh tại Little Saigon có đăng một bài thơ vui của Nguyễn Phú Long, trong đó tiếng Mỹ sánh vai cùng tiếng Việt ngộ nghĩnh làm sao: Xe thư bưu điện đến rồi đi, Ngoài COUPONS ra chả có gì. Bạn tới chúc xuân khui nước ngọt, BUY ONE ngoài chợ GET ONE FREE. Hiện tượng giao duyên ngôn ngữ của chúng ta thực ra là một khuynh hướng đại đồng. Mọi sắc tộc di dân khác tại xứ này đều cho tiếng nói mẹ đẻ của họ giao duyên "tưới hột sen" cùng Mỹ ngữ, y chang như chúng ta vậy. Mùa Giáng Sinh vừa qua, một sinh viên gốc Mễ Tây Cơ của tôi có gửi cho tôi một bài thơ vui khá dài mang tên "The Night Before Christmas" trong đó tất cả các câu đều bắt đầu bằng Mỹ ngữ và kết thúc bằng Tây Ban Nha ngữ với vần điệu hẳn hòi và cú pháp của cả hai thứ tiếng đều hoàn hảo. Đoạn đầu bài thơ ấy như sau: It was the night before Christmas and all through the CASA (1) Not a creature was stirring, CARAMBA, QUÉ PASA? (2) I was hanging the stocking with MUCHO CUIDADO (3) In hopes that old Santa would feel OBLIGADO (4) To bring all the children, both BUENOS Y MALOS, (5) A nice batch of DULCES Y OTROS REGALOS (6) Giới nghiên cứu ngôn ngữ tại Mỹ mệnh danh cái hiện tượng giao duyên ngôn ngữ rất tự nhiên này là "code-switching" và không hề lên án những người sử dụng nó là cẩu thả, lai căng, hoặc hỗn loạn trí tuệ. Trái lại, họ cho rằng những người có khả năng cho hai ngôn ngữ giao duyên với nhau một cách hữu hiệu là những người thực sự đã làm chủ được cả hai ngôn ngữ ấy, và khi cần thiết (như khi giao dịch với một cá nhân "đơn ngữ") họ dư khả năng sử dụng chúng một cách "tinh tuyền" không pha trộn chút nào. Có vài lý do khiến chúng ta cho tiếng Việt giao duyên cùng tiếng Mỹ, và những lý do này rất thực tiễn. Có lẽ lý do thông thường nhất là khi tiếng Việt không có ngữ vựng hoặc thành ngữ thỏa đáng để diễn tả một ý niệm mà chúng ta đã quá quen trong tiếng Mỹ. Thí dụ, khi còn ở quê nhà trước 1975, lúc bị bệnh không đi làm được, chúng ta đâu có gọi điện thoại vào sở để "cáo ốm" được? Thành ra, khi diễn tả ý niệm đó trong cuộc sống hiện tại, chúng ta liền cho thành ngữ rất tiện dụng của người Mỹ là CALL IN SICK giao duyên ngay với tiếng Việt mến yêu, để phát sinh ra câu "Bữa nọ mình bịnh quá, đi làm hết nổi, thành ra phải CALL IN SICK rồi nhờ người ta đưa đi bác sĩ đấy". Những từ ngữ chuyên môn như SOFTWARE, BLUEPRINT, EMAIL, WORKSHOP, những công thức ngắn gọn để chào hỏi, chúc tụng, cảm tạ, hoặc chia tay trong tiếng Mỹ như HELLO, GOOD MORNING, SORRY, CONGRATULATIONS, THANK YOU, và GOOD-BYE cũng rất được chúng ta chiếu cố và sẵn sàng cho vào tiếng nói chúng ta. Một lý do nữa khiến chúng ta dùng yếu tố Mỹ trong tiếng Việt là để gián tiếp nói lên một mối liên kết giữa những người "đồng hội đồng thuyền" với nhau. Tôi biết chắc những Việt kiều áo gấm về làng khi gặp nhau tại quê cũ thế nào cũng "pha" ê hề tiếng Mỹ vào tiếng Việt của họ, như thể để nhắc nhở mọi người mọi giới rằng họ là những "người Mỹ gốc Việt" chính cống sáng giá lắm đấy, chứ không phải là đồ bỏ đâu! Khôn ngoan chẳng kém gì chúng ta, các chánh trị gia người Mỹ gốc Mễ Tây Cơ khi đi vận động tranh cử ở những địa phương có nhiều cử tri cùng gốc gác sắc tộc với mình sẽ tận dụng võ khí giao duyên ngôn ngữ Mỹ-Mễ để nhắc nhở các cử tri song ngữ ấy rằng "chúng ta đồng hội đồng thuyền với nhau đâu mà, vậy thì hãy bỏ phiếu cho tôi đi!" Sau hết, chúng ta có thể dùng yếu tố Mỹ trong tiếng Việt như để chuyển sang một thái độ mới, như để cảnh giác người nghe. Chẳng hạn, khi thấy sắp đến giờ đi học mà đứa nhỏ còn nằm dài trên giường, người mẹ song ngữ Mỹ-Việt có thể phát ngôn "Này cu Tý, gần bảy giờ sáng rồi đấy nhá. Ngủ nhiều rồi mà, con ơi. NOW GET UP!" Nghe bà mẹ hiền đang nói tiếng Việt rồi bà bất chợt nghiêm giọng chuyển sang tiếng Mỹ ở câu cuối cùng thì cu Tý, dù có lì lợm đến mấy, chắc cũng phải nhảy ra khỏi giường tức khắc. Tóm lại, thưa quý bạn, CODE-SWITCHING giữa hai ngôn ngữ Việt Mỹ là một NATURAL PHENOMENON, cho nên chúng ta chẳng phải WORRY gì cả về vấn đề này, OK? Vả lại, cái HABIT này nó khó bỏ lắm! Bạn cứ thử nói tiếng Việt "tinh tuyền" về thời sự hoặc công ăn việc làm trong một bữa cơm gia đình mà coi. IT WOULD BE A PAIN, BELIEVE ME! CƯỚC CHÚ: (1) CASA = House, (2) CARAMBA, QUÉ PASA? = My goodness, what's happining? (3) MUCHO CUIDADO= Much care, (4) OBLIGADO = Obliged, (5) BUENOS Y MALOS = Good and bad, (6) DULCES Y OTROS REGALOS = Candies and other gifts.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 4:42:06 GMT 9
Vài Nét Đặc Thù Trong Cú Pháp Tiếng Việt
Đàm Trung Pháp (Tóm lược bài thuyết trình trong Hội Thảo Văn Hóa Việt Nam ngày 11-9-2010 tại San Jose State University) Các chủ ngữ vô hình Nhiều câu trong tuyệt tác Truyện Kiều của thi bá Nguyễn Du chứa đựng những chủ ngữ vô hình, thiếu minh xác mà theo Đoàn Phú Tứ (1949) như “ẩn hình ngay trong động từ, ta không vạch được nó ra một cách rành rọt mà chỉ hội được nó, theo cái nghĩa của đoạn văn mà thôi.” Ông Đoàn đưa ra thí dụ dưới đây: Bóng hồng nhác thấy nẻo xa, Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. Người quốc sắc kẻ thiên tài, Tình trong như đã mặt ngoài còn e. Chập chờn cơn tỉnh cơn mê, Rốn ngồi chẳng tiện rứt về chỉn khôn. Bóng tà như giục cơn buồn, Khách đà lên ngựa người còn nghé theo. Dưới cầu nước chảy trong veo, Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha. Rồi ông Đoàn đặt câu hỏi và tự trả lời, để chứng minh cho “cái lợi của tính chất thiếu minh xác trong ngôn ngữ văn chương của ta”: “Ai nhác thấy? Đành là Kim Trọng, nhưng không nói rõ, thì sao lại không có thể là cả chàng độc giả thư sinh nọ, cảm thông với chàng Kim một cái liếc nhìn? Chập chờn cơn tỉnh cơn mê là ai? Là người quốc sắc hay kẻ thiên tài? Hay cả hai? Luận ra thì biết, song trước khi lý luận, tại sao ta không có quyền nghĩ đến cả hai người? Bóng tà như giục cơn buồn: Nỗi buồn của ai vậy? Của Kim Trọng hay của Thúy Kiều, hay của hai người? Hay cũng là nỗi buồn của ta chăng? Và hai câu cuối: Dưới cầu … thướt tha có phải chỉ là cái tình của Thúy Kiều gửi vào trong cảnh ấy, hay còn phảng phất cả cái tình của người đọc sách nữa?” Nhưng khi được dịch sang tiếng Pháp và tiếng Anh thì các chủ ngữ vô hình bắt buộc phải xuất hiện. Nguyễn Văn Vĩnh (1943) thì cho rằng chủ ngữ của chập chờn cơn tỉnh cơn mê chính là nàng Kiều cho nên đã dịch câu ấy sang Pháp văn thành “Kiều flottait entre le rêve et la réalité” và cũng cho rằng bóng tà như giục cơn buồn chỉ áp dụng cho nàng mà thôi, qua câu dịch “La descente du soleil vers l’horizon semblait provoquer chez elle un accès de mélancolie.” Bốn mươi năm sau (1983), Huỳnh Sanh Thông trong bản dịch sang tiếng Anh đã nghĩ khác ông Nguyễn trong hai ngữ cảnh nêu trên. Ông Huỳnh dùng chủ ngữ số nhiều để gồm cả nàng Kiều và chàng Kim vào trong cơn tỉnh cơn mê ấy: “They hovered, rapture-bound, ‘tween wake and dream” và không cho nàng Kiều độc quyền thấy cơn buồn đang bị bóng tà giục giã: “The dusk of sunset prompted thoughts of gloom.” Ông Đoàn chắc hẳn tán đồng lối dịch của ông Huỳnh hơn lối dịch của ông Nguyễn, vì ông Đoàn cho rằng ông Nguyễn “đã hiểu vội vàng, và cũng bị lầm vì cái thiếu minh xác của ngôn ngữ.” Đó là chuyện cũ. Hôm nay, tôi cũng xin chia xẻ cùng quý vị một chút văn chương của người bạn đồng môn tài hoa của tôi, nhà thơ Lưu Văn Vịnh, trong đó chủ ngữ vắng mặt, nhưng tôi vẫn hiểu văn và thơ bạn tôi rất rõ, vì bạn tôi và tôi đều là người Việt. Thử hỏi trong hai câu lục-bát êm tai được trình bầy thành ba dòng sau đây trích từ thi tập Oang Oang Lòng Chén Rỗng (2007): “Kề vai ở chốn phong sương / Nhìn nhau đáy mắt / Đoạn trường hiện ra” thì ai và ai kề vai và nhìn nhau đáy mắt? Và trong tuyển tập Bốn Lần Leo Núi Tản (2000), có câu bạn tôi viết về chuyến thăm Bích Câu lưu loát trong sáng mà chẳng cần đến một đại từ nhân xưng (personal pronoun) đóng vai chủ ngữ nào cả: “Cuối thế kỷ, một ngày cuối năm, viếng Bích Câu như tới thăm giấc mơ của người xưa, tuy chẳng là cánh bướm, nhưng cứ bay vào những giấc mộng lớn giấc mộng nhỏ, thì giấc mộng lũy thừa nhân lên sẽ mông lung bằng cả cõi tiên vô tận …” Khi đọc đoạn này tôi thấy như tôi đang được cùng nhà văn họ Lưu viếng Bích Câu, như thể chính bạn tôi và tôi đóng vai chủ ngữ cho các động từ “là”, “viếng”, và “bay” vậy. Nói một cách chung chung, chủ ngữ tiếng Việt thường vắng mặt trong các trường hợp dưới đây: Khi câu bắt đầu bằng một động từ hiện hữu như có hoặc còn: Có vấn đề rồi! Còn nước còn tát. Có người khách ở viễn phương. (Truyện Kiều) Còn về còn nhớ đến người hôm nay. (Truyện Kiều) Khi câu là một tục ngữ : Đi một ngày đàng học một sàng khôn. Khi câu là một độc thoại : Mệt quá rồi, nghỉ một chút. Lát nữa làm tiếp. Khi câu là một trao đổi giữa hai cá nhân mà chỉ ngữ cảnh mới có thể xác định ai là ai : Đang làm gì đấy ? - Đọc sách. Lãnh lương chưa ? - Lãnh sáng nay rồi. Khi câu là một trao đổi giữa hai cá nhân chưa xác định được mối liên hệ xưng hô phù hợp : Đi đâu đấy mà đẹp thế kia ? Cho hỏi thăm một chút được không ? Khi câu là một trả lời cho một câu hỏi thuộc dạng có/không (yes/no question) : Anh có muốn nghỉ không ? - Muốn ! Bạn đã hiểu chưa ? - Hiểu rồi. Bồ chịu điều kiện đó không ? - Chịu mạnh đi chứ ! Khi câu là một lời ra lệnh : Hãy dựa tóc vào vai cho thuyền ghé bến Hãy nhìn nhau mà sưởi ấm trời mưa. (Nguyên Sa) Mối liên hệ lỏng lẻo giữa các mệnh đề Một số mệnh đề độc lập có thể được viết kề cận nhau mà không thấy có những liên từ nối những mệnh đề ấy cho thêm rõ nghĩa, như trong các thí dụ sau đây : Trời mưa to quá, chúng tôi quyết định ở nhà. Chúng tôi đến nơi, họ đang cãi nhau to tiếng, chúng tôi hết sức can ngăn nhưng chẳng ăn thua gì, chúng tôi bỏ về, lòng buồn vô hạn. Áo nàng vàng tôi về yêu hoa cúc Áo nàng xanh tôi mến lá sân trường (Nguyên Sa) [Viết tiếng Anh theo kiểu Việt này thì sẽ bị các giáo sư người Anh người Mỹ sổ toẹt, vì phạm lỗi run-on sentences trong hai thí dụ đầu và incoherence hoặc dangling modifiers trong thí dụ chót lấy từ thơ Nguyên Sa. Tất cả là do có sự khác biệt tu từ (rhetorical difference) khá lớn giữa tiếng Việt và tiếng Anh]. Tiếng Việt có đầy đủ các liên từ diễn tả các mối liên hệ giữa mệnh đề chính và phụ, như vì, bởi vì để chỉ lý do ; để, để cho để chỉ mục đích ; giá, giá mà để chỉ giả thiết ; nếu, nếu như để chỉ điều kiện, vân vân. Khác chăng thì tiếng Việt có khuynh hướng ít dùng liên từ hơn là các ngoại ngữ như tiếng Pháp, tiếng Anh. Nhưng, đây mới là một nghịch lý thú vị của tiếng Việt : Khi một liên từ được dùng cho mệnh đề phụ thì mệnh đề chính cũng có khuynh hướng sử dụng một tiểu từ để giữ quân bình cho cấu trúc -- tức là còn kỹ lưỡng hơn tiếng Pháp, tiếng Anh. Quả vậy, khi một câu phức tạp tiếng Việt bắt đầu bằng mệnh đề phụ sử dụng một trong các liên từ vì/tuy/nếu thì mệnh đề chính thường bắt đầu bằng một trong các “từ quân bình” (balance words) nên/nhưng/thì, như trong các thí dụ sau đây: (1a) Vì nó kiêu ngạo, nên nó không có bạn. (2a) Tuy họ nghèo, nhưng họ rất hạnh phúc. (3a) Nếu anh yêu em, thì anh phải cưới em ngay! Khuynh hướng kỹ lưỡng nêu trên cũng thấy trong văn chương bác học : Dẫu chẳng phải ngọc ngà kỳ dị, Nhưng cũng trong ý nhị thanh tân. (Bần Nữ Thán) Nếu thi gan với anh hùng thì thua. (Phan Trần) [Nếu vô tình để khía cạnh cú pháp này của tiếng Việt ảnh hưởng lối viết tiếng Anh, người Việt chúng ta có khuynh hướng viết ra các câu bất cập sau đây: (1b) Because he is arrogant, so he has no friends. (2b) Although they are poor, but they are very happy. (3b) If you love me, then you must marry me at once!]. Tới đây tôi cần nói lên nhận xét là những người Việt chúng ta thông thạo tiếng Pháp hoặc tiếng Anh thường cho ảnh hưởng văn pháp hai thứ tiếng ấy vào tiếng Việt khiến cho câu văn tiếng Việt của họ đỡ bị chê là không có chủ từ, hoặc chủ từ mù mờ, hoặc thiếu phần mạch lạc vì tránh dùng liên từ trong câu phức tạp. Họ sẽ chuyển câu Trời mưa to quá, chúng tôi quyết định ở nhà thành ra Vì trời mưa to quá, (cho nên) chúng tôi quyết định ở nhà và câu Các anh cười khúc khích làm em ngượng quá thành ra Cái cười khúc khích của các anh làm em ngượng quá. Cấu trúc đề/thuyết (topic/comment) Cấu trúc của một câu tối thiểu trong ngôn ngữ nào cũng gồm hai yếu tố là chủ ngữ (subject) và vị ngữ (predicate). Chủ ngữ thông báo một đề (topic) và vị ngữ cung cấp một thuyết (comment) tức là một nhận định về đề ấy. Mối liên hệ chủ ngữ/vị ngữ và đề/thuyết được thấy rõ rệt trong các câu Trời/mưa và Anh Tám/ mới lấy vợ hôm qua. Nhưng không phải lúc nào chủ ngữ cũng trùng hợp với đề đâu. Chẳng hạn trong câu (1) Chiếc xe này/chạy ngon lắm và (2) Chiếc xe này/tôi mua lâu rồi thì Chiếc xe này vừa là chủ ngữ vừa là đề trong câu (1), nhưng chỉ là đề và đóng vai túc từ cho động từ mua trong yếu tố thuyết của câu (2). Hơn nữa, đề luôn luôn xuất hiện ở đầu câu, trong khi chủ ngữ có thể xuất hiện ở đầu hoặc cuối câu (thí dụ, trong câu này thì chủ ngữ nằm ở cuối câu: Giữa rừng già xuất hiện một bầy voi). Đề cũng có thể được coi như một “chủ ngữ tâm lý” trong câu vì nó sửa soạn trí tuệ cho sự đón nhận thông điệp của phần thuyết. Tiếng Nhật luôn luôn đánh dấu chủ ngữ và đề bằng các tiểu từ (particles) ga và wa, thí dụ: Neko ga sakana o tabemanutsa. [Mèo (chủ ngữ) cá (túc từ) đã ăn = Mèo đã ăn cá.] John wa san-nen-sei desu. [John (đề) tam-niên-sinh là = Còn về John, thì anh ấy là sinh viên năm thứ ba.] Tiếng Việt cũng có khuynh hướng dùng cấu trúc đề/thuyết, với tiểu từ thì đánh dấu cấu trúc này, như thí dụ dưới đây: Chị Ba luôn buồn bã. Chồng chị thì / ngược lại, lúc nào cũng vui. Ngoài ra cũng có các cách giới thiệu cấu trúc đề/thuyết sử dụng các phương tiện từ vựng và cú pháp đặc thù như trong các câu thí dụ sau đây: Cái anh chàng ấy hả / trời ơi, keo kiệt lắm đấy! Tám Mập và Út Sẹo có lấy nhau không / xem hồi sau sẽ rõ. Riêng tôi / tôi rất mê những bài ca vọng cổ. Nỗi nàng / tai nạn đã đầy Nỗi chàng Kim Trọng / bấy chầy mới thương (Truyện Kiều) Áo nàng vàng / tôi về yêu hoa cúc Áo nàng xanh / tôi mến lá sân trường (Nguyên Sa) Có lẽ vai trò “chủ ngữ tâm lý” của yếu tố đề trong cấu trúc đề/thuyết đã giúp tiếng Việt vẫn dễ hiểu bất kể các nhược điểm như chủ ngữ thiếu vắng hoặc mù mờ và sự lỏng lẻo trong mối liên hệ giữa các mệnh đề như đã giải thích ở trên. Riêng trong thể lục-bát của thi ca Việt Nam, câu lục thường đóng vai đề và câu bát đóng vai thuyết, như trong các câu thơ sau đây: Trăm năm trong cõi người ta (đề) Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau (thuyết) (Truyện Kiều) Trước đèn xem truyện Tây Minh (đề) Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le (thuyết) Hỡi ai lẳng lặng mà nghe (đề) Dữ răn việc trước, lành dè thân sau (thuyết) (Lục Vân Tiên) Và qua nhận định này, đồng môn Lưu Văn Vịnh của tôi cũng đã vô hình trung sử dụng cú pháp đề/thuyết khi viết câu hai câu lục-bát êm tai nhưng cũng đượm mầu bi quan của anh: Kề vai ở chốn phong sương (đề) Nhìn nhau đáy mắt đoạn trường hiện ra (thuyết) Liệu bạn tôi có đồng ý không? ĐÀM TRUNG PHÁP Tài Liệu Tham Khảo Đoàn Phú Tứ (1949). “Đi Tìm Chủ Từ Trong Vài Đoạn Văn Đoạn Trường Tân Thanh.” In trong sách Nguyễn Du: Về Tác Giả Và Tác Phẩm (1999). Nhà Xuất Bản Giáo Dục, Việt Nam. Hà Như Chi (1970). Việt Nam Thi Văn Giảng Luận. Nhà Xuất Bản Sống Mới, Saigon. Huỳnh Sanh Thông (1983). The Tale of Kiều. Yale University Press, New Haven and London. Nguyễn Đình Hòa (1997). Vietnamese – Tiếng Việt Không Son Phấn. John Benjamins Publishing Company, Amsterdam and Philadelphia. Nguyên Sa (2000). Thơ Nguyên Sa Toàn Tập. Nhà Xuất Bản Đời, Irvine, California. Lưu Văn Vịnh (2000). Bốn Lần Leo Núi Tản. Hạ Long Thư Các, Elridge, California. Lưu Văn Vịnh (2007). Oang Oang Lòng Chén Rỗng. Ổ Văn Hạ Long, Elridge, California.
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 4:44:53 GMT 9
Tuồng Hát Bội Viết Bằng Chữ Nôm Tam Cố Mao Lư
Bản Nôm, Thư viện Anh Quốc Nguyễn Văn Sâm phiên âm Nguyễn Khắc Kham hiệu đính Ban Tu Thư Viện Việt Học, California 2001 Lời Giới Thiệu Nhà văn Nguyễn Văn Sâm lâu nay dùng nhiều thời giờ đọc các tác phẩm xưa của ông bà chúng ta viết bằng chữ Nôm, đặc biệt là những tác phẩm chưa ai biết đến và các tuồng hát bội cổ. Công việc ông làm rất âm thầm, các tác phẩm được phiên âm xong cũng khá nhiều nhưng ông chưa muốn phổ biến vội vì vẫn chưa hoàn toàn hài lòng với công việc mình. Phiên âm, theo ông, cần thiết phải kèm theo một sự khảo sát về tác phẩm, chú thích cẩn thận, tạo lại chữ Nôm trên máy điện toán toàn bộ bản văn để người bây giờ dễ đọc và kiểm chứng lại sự phiên âm nhằm làm căn cứ cho những khảo sát về sau. Một bản từ vựng chi tiết về chữ dùng cũng là điều ông muốn có trong mỗi tác phẩm. Tôi cho rằng đó là lý tưởng của một công việc làm nghiêm túc, nhưng tôi cũng nghĩ rằng chỉ riêng việc phiên âm giới thiệu những tác phẩm chưa từng được phổ biến rộng rãi cũng đã là một công trình đáng được lưu ý, các sự khảo sát nội dung, chú thích, làm từ vựng, chế bản chữ Nôm... có thể để cho sau này người khác thực hiện. Bây giờ cứ lo phiên âm trước đã. Nhưng chọn quyển nào? Tuồng? Truyện thơ nỗi tiếng hay truyện thơ bình dân? Tác phẩm dầy hay mỏng? Cuối cùng, theo hoàn cảnh và khả năng của Viện Việt Học, nhà văn Nguyễn Văn Sâm đồng ý cho trình làng quyển Tam Cố Mao Lư này. Bản Nôm rút từ ba hồi 37-39 trong truyện Tam Quốc Diễn Nghĩa vốn có ảnh hưởng trong dân chúng Việt Nam từ lâu, hồi 37 nói lên lòng tha thiết cầu hiền của Lưu Bị. Có thể người xưa khi viết hồi này đã gởi gắm ý muốn nói lên nỗi lòng của mình với nhà vua đương thời rằng nhà nho thời đại bây giờ không được trọng dụng đúng mức, nhà vua thiếu cái nhẫn, thiếu sự biết tài kẻ sĩ hiền của người cầm vận nước. Người viết nào cũng thác gởi một điều gì đó trong tác phẩm mình. Tác giả viết tuồng cũng không ra ngoài quy luật đó. Tác phẩm vô danh, nhưng ta biết được thời đại xuất hiện vào thời các vua đầu nhà Nguyễn càng cho ta tin rằng người viết không dám nói rõ ràng những điều mình muốn nói. Có thể trong tuồng Tam Cố Mao Lư này nhà văn Nguyễn Văn Sâm trong khi phiên âm đã đọc một vài-- rất ít--- từ khiến tạo nên sự tranh cãi sau này, nhưng mà khi chọn chữ nào ông cũng đã suy nghĩ cẩn thận trên nhiều mặt, từ ngữ học đến ý nghĩa trong toàn thể câu văn hay tính chất địa phương của tác phẩm. Tôi giúp đọc lại sau cùng bản văn và gợi ý các vấn đề liên quan đến sự tìm hiểu bản văn, nhưng sự giúp đỡ này, tình thiệt mà nói, cũng không nhiều gì lắm. Bất kỳ công việc gì liên quan đến sự tìm hiểu một tác phẩm của người xưa đều là công việc rất đáng được khích lệ. Phiên âm lại là công việc cần sự cẩn thận của người đã được đào tạo trong lãnh vực chuyên môn. Xin trân trọng giới thiệu cùng chư độc giả, hi vọng trong tương lai chúng ta có nhiều hơn những tác phẩm tương tự từ nhà văn Nguyễn Văn Sâm hay bất kỳ học giả nào khác. California, tháng 10/2001 Nguyễn Khắc Kham Dẫn nhập Tuồng Tam Cố Mao Lư mà quý vị đang cầm trên tay là một trong bộ chín hồi của tuồng hát bội viết bằng chữ Nôm, lấy đề tài trong truyện Tam Quốc, tức Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa. Nhóm tuồng này và hơn hai mươi tuồng khác, đã từng được công bố bằng chữ quốc ngữ hay chưa, đều được viết tay do học giả người Pháp chuyên về Việt Nam là A. Landes mướn người chép sưu tập của ông khi ông phục vụ ở Việt Nam vào cuối thế kỷ 19. Bản này hiện lưu trữ tại Thư Viện Anh Quốc, Luân Đốn. Là bản chép tay nên toàn thể số tuồng trong đó trở thành độc nhất, là kho tàng đáng trân trọng đối với giới Việt học nói chung và người nghiên cứu về tuồng hát bội hay văn chương Việt nam nói riêng. Trong sưu tập này, các tuồng đã được phổ biến nhiều từ trước như Sơn Hậu, Kim Thạch Kỳ Duyên.. thì không cần thiết lắm để được phiên âm giới thiệu lần nữa trong lúc ta chưa có phương tiện dồi dào, nhưng đối với các tuồng chưa từng được phiên âm thì việc giới thiệu dưới dạng chữ quốc ngữ quả là điều đáng thực hiện. Khóm 9 hồi của tuồng Tam Quốc trong số đó. Chúng tôi giới thiệu trước Tam Cố Mao Lư vì có thể lần lượt giới thiệu từng hồi mỏng, việc in ấn và chú thích vì vậy tương đối không mất bao nhiêu thời giờ. Cũng không cần phải giới thiệu một lúc nguyên nhóm chín hồi của sưu tập. Chúng tôi sao được là tuồng này qua nhiều trung gian từ bản được tặng Chánh Phủ Anh quốc tặng cho Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn Hóa của Quốc Vụ Khanh Mai Thọ Truyền vào năm 1971, tạm gọi bản này về mặt vật chất là bản QVK vì nội dung nó là bản A. Landes hay là bản TVAQ. Sao qua sao lại nhiều lần nên bản chúng tôi có được bị mờ nhòe nhiều chỗ. Mờ nhòe một vài chữ còn có thể tái tạo, mờ nhoè nhiều chữ nhiều trang thì không làm sao đọc được. Chúng tôi đã nhiều lần đến tận nơi lưu trữ bản QVK tại Thư Viện Quốc Gia cũ nhưng không lần nào được phép sờ đến bản sao lại để tham khảo hiện chứa trong phòng gọi là 'tham khảo hạn chế' nói gì đến bản QVK. Mua lại một bản sao từ Thư Viện Anh Quốc cũng không phải là chuyện dễ dàng. Do đó chúng tôi đành sử dụng những gì mình đang có. Sự đánh máy lại trên máy điện toán toàn bộ các tuồng này là việc nên làm. Việc phiên âm toàn bộ các tuồng này càng cấp thiết hơn. Từ khi học giới có được bản QVK đến nay đã trên 30 năm nhưng chưa ai công bố tuồng nào trong bộ sưu tập này. Có thể có nhiều vị thông thạo Hán Nôm đã âm thầm phiên âm, nghiên cứu nhiều về bộ sưu tập này nhưng chưa có phương tiện công bố hay chưa muốn công bố. Nay Viện Việt Học có nhã ý cho in bản phiên âm do chúng tôi thực hiện, đó là điều đáng mừng cho người phiên âm vì sẽ được thấy cụ thể kết quả sự làm việc của mình, một công việc như là hành động nhốt gió, không bao giờ thấy kết quả! * Tam Cố Mao Lư là một lớp gồm năm hồi, trong đó có hồi Tam Cố Thảo Lư, một hồi trong truyện Tàu có tựa là Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa --- cũng như tuồng Tiết Đinh San Cầu Phàn Lê Huê là một hồi trong truyện Tiết Đinh San Chinh Tây --- được khai thác nhiều về dạng tuồng hát bội cũng như tuồng cải lương vì tánh chất dễ diễn của nó, tính chất võ: những tình tiết dễ diễn đã đành, văn chương lại không khó khăn cao kỳ khiến dân chúng khán giả bình dân khó lòng lãnh hội, và kết cục thường có hậu, và nhất là trong tuồng có nhiều màn đánh nhau để khán giả được xem các tướng với những đao thương mũ mão, múa gươm đá giáp xông trận trừ gian diệt bạo. Các tuồng Lôi Phong Tháp, Tứ Linh, Trần Trá Hôn, Sơn Hậu, Nhạc Hoa Linh... thuộc loại này. Tính chất võ nhằm tạo nên sự hào hứng tức thời về mặt tình cảm và nhãn quan cho người xem, một số đông thính chúng mà trình độ văn học và ngôn ngữ trường ốc thật giới hạn. Nói cách khác sự lĩnh hội về nghệ thuật thật giới hạn, họ không cần đi sâu vào tình tiết, sự hay dở của từng câu nói, từng lời hát, họ thưởng thức bằng sự nắm bắt lấy toàn thể câu chuyện. Họ vui cười hể hả với những sự bị đày đọa khó khăn mà ngoài đời không có, như tam cố, quỳ trước thảo thất, tam bộ nhứt bái... Họ thích thú về những phát tiết từ sự nóng tánh của Trương Phi, thoải mái với những lời khổ công năn nỉ ỉ ôi của Tiết Đinh San, Tiết Nhơn Quý đối với người ngọc của những tướng này. Ngược với tuồng võ là tuồng văn, rất ít khi được trình diễn vì không hội được những điều kiện trên. Rất nhiều hồi khác trong bộ truyện Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa bản, toàn bộ tuồng viết ra từ Tây Du Ký, tuồng Vạn Bửu Trình Tường, tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên, tuồng Kim Vân Kiều, tuồng Lục Vân Tiên... ở trong loại liệt kê này. Tuồng văn chỉ được diễn bởi nhóm nhà nghề thật siêu đẳng hay diễn ở trong nội cho vua chúa xem mà thôi. Chúng tôi được mách rằng trước đây độ tám mươi năm, khoảng 1920 ở Huế, chỗ Chợ Dinh, gần Gia Hội có đoàn hát bội Thanh Bình chuyên diễn cho vua xem, diễn viên như công chức của triều đình, ngoài giờ diễn, thực tập tuồng đã đành, họ còn luyện võ nữa. Gánh này chỉ chuyên diễn cho vua và các cung tần mỹ nữ coi. Các tuồng diễn trong nội đều thật dài, theo sát truyện Tàu, có tuồng cả trăm hồi như Tây Du, Tam Quốc, có tuồng cũng vài chục hồi như Vạn Bửu Trình Tường, Đường Chinh Đông, Đường Chinh Tây... Ở đây người diễn cũng như người xem có đủ những yếu tố để thưởng thức những gì sâu ẩn mà tác giả vở tuồng muốn ký gởi. Rất nhiều khi đó là chuyện tình yêu, tâm tư, lòng ái quốc, sự hận thù... là những điều thuộc về cảm tính ít thấy được trên sân khấu về mặt diễn vốn là điều đòi hỏi của những người đầu tắt mặt tối cho miếng cơm manh áo, cần món ăn văn nghệ nhưng phải là thứ dễ nuốt trôi, ăn liền. Cũng vì vậy các tuồng võ được nhiều người biết và văn bản của bổn tuồng chẳng những được bảo tồn mà có khi còn hiện diện bằng nhiều thoại khác nhau do sự chỉnh lý của thầy tuồng hay sửa đổi nho nhỏ của diễn viên. Tuồng văn ít được trình diễn càng ngày càng mai một, ít người biết đến, và nếu ai còn may mắn gìn giữ được văn bản thì cũng chỉ lõm bõm chớ không mấy khi đầy đủ trọn bộ một tuồng dài. Thỉnh thoảng nếu gánh Thanh Thanh nói trên diễn cho công chúng xem thì các hồi được chọn, như đã nói, thường có tính chất võ và đã được cải biên lại hạ thấp mặt điển cố và giới hạn số lượng từ Hán Việt. Tuồng bấy giờ được rút ngắn lại nhiều. Phần loạn (hát khách), bạch (nói chí khí), thán (than thở) vốn viết thuần bằng thơ Hán Việt đã được giản lược đến tối thiểu, phần hài và vãn (hát Nam) đa phần được tăng bổ. * Chúng tôi không thấy rằng tuồng Tam Cố Mao Lư này là một tuyệt tác văn học hay là một viên ngọc quý của bộ môn trình diễn để chúng ta khổ công khảo sát, tôi chỉ thấy rằng đó là một di chỉ văn hóa về hoạt động của ông bà mình ngày trước mà mình cần biết. Ngày xưa người biết chữ thuờng thưởng thức các truyện từ Trung Hoa sang. Đó là điều không trách được vì đó là con đường văn hóa đến với đất nước chúng ta có thể nói là duy nhất. Đọc một mình họ không vừa ý, họ muốn chuyển những điều hay ho thích thú mà mình thu lượm được cho đám đông chung quanh. Họ có nhu cầu kể lại vốn là điều kiện đầu tiên của người sáng tác. Ngay ở thế kỷ 18 sự chuyển ý ra bằng văn xuôi cũng chưa có thể gọi là có, trường hợp Tân Biên Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Thế Nghi trước đó khá lâu là sự ngoại lệ gần như duy nhứt. Thế kỷ 17-18 phương thức diễn đạt duy nhất cho số đông là hát bội, chèo chưa xuất hiện, nhà nho bèn đem truyện Tàu viết lại dưới dạng này. Người lưu dân từ Miền Trung trên đường Nam tiến, đến định cư vùng đất mới của Nam Kỳ chấp nhận dễ dàng hình thức mua vui cho mình là tuồng, khoái nhứt là tuồng võ. Đi coi một buổi trình diễn tuồng, họ được thưởng thức cùng nhau, có bạn có bè, có dịp gặp gỡ gái trai hay người lối xóm. Họ có dịp ra ngoài, đi đến nơi tụ họp đông đảo, thưởng thức món ăn tinh thần mà không cần trang bị trước bằng những năm dài ngồi trong trường ốc mày mò những chữ chi hồ dã giả. Họ lại thỏa mãn được thị quan vốn không có đối với người đọc sách thui thủi một mình. Sự phát rộ của tuồng ở thế kỷ 19 là vậy. Thế kỷ này là thế kỷ của tuồng. Một vài tác phẩm văn xuôi, dầu tuyệt tác như Đoạn Trường Tân Thanh hoặc khá hay như Nhị Độ Mai, Phan Trần... một vài nhà văn của thời này để lại thi tập này kia không thấm tháp vào đâu so với kho tàng rộng lớn của tuồng. Ngày nay tuồng đã mất đi bộ áo hoàng tử của mình là sân khấu, mất sự trình diễn của diễn viên cũng như của âm nhạc và cả không khi vui tươi rộn ràng bao quanh buổi trình diễn. Tuồng chỉ còn lại thuần chữ trên văn bản, giống như con công mất đi bộ lông rực rỡ màu sắc. Giá trị của tuồng bị giảm đến mức tối thiểu. Ta chỉ còn (a) nhìn cách sử dụng từ trong tuồng để mà biết cách nói của người xưa như thế nào. (b) khảo sát các hồi, cảnh, phân đoạn để thấy sự cấu trúc tuồng hay dở thế nào. (c) xét hành vi và tâm tư của nhân vật để nhìn lại tư tưởng của người xưa. Đại cương tuồng có nhiều giá trị về sử dụng nhuần nhuyễn và thông thạo kho tàng ngôn ngữ của dân tộc, đó là chưa kể về sự phổ biến rất hiệu quả các khái niệm tam cương ngũ thường bằng những hành vi sống động của nhân vật. Đọc nhiều tuồng, ta có thể đi đến kết luận mà không sợ sai lầm rằng tuồng hát bội là tiền thân đồng thời của hai thể loại khác nhau là cải lương và tiểu thuyết văn xuôi. Cải lương lấy từ tuồng sự cấu trúc của phân cảnh, những bài ca bài hát xen với đối thoại dầu cho nhân vật ở vào tình huống bi đát như biệt ly, lao lý, bệnh tật, tử thương.... Cải lương là kịch bản viết theo hoàn cảnh mới của tuồng với những thể điệu ca lý mới, dàn dựng mới và loại bỏ câu Hán Việt trong đối thoại. Cải lương còn giữ lại sự dài dòng, sự diễn tả sự kiện bằng lời và sáo ngữ của tuồng như là nhũng yếu tố ăn khách cần phải có. Y trang lộng lẫy của cải lương cũng là hình thức khác của xiêm y triều đình văn thần võ tướng của hát bội. Tiểu thuyết --- hay nói rõ hơn là văn xuôi --- đã được trui rèn trong lời nói lối của tuồng nên khi hình thành nó chưa hóa thân hết, còn sót lại biết bao nhiêu từ Hán Việt và sự đối xứng, biền ngẫu điển tích chúng ta thầy được ở những nhà văn miền Bắc đầu thế kỷ. Sự sáo trong văn xuôi không ở chỗ nói nhiều như tuồng cải lương mà sáo trong sự sính dùng điển tích, cách nói cao kỳ, nhiều khi trở thành rườm rà nhiều lời vốn là điều được chấp nhận với sự hoan hỉ của khán giả hát bội nhưng lại không được độc giả văn xuôi chấp nhận. Rồi với thời gian, hai thể loại mới sanh đó dần dần trưởng thành, một cung ứng cho số đông bình dân, một thoả mãn sự thưởng thức một mình của người có văn học thích ngồi bên quyển sách, tuồng hát bội ở ngay những năm ba mươi của thế kỷ 20 đã trên đà mất lần ảnh hưởng, thoái hóa và trở nên lạc hậu với bước tiến triển của xã hội cho đến ngày bị xô đẩy vào vùng hẻo lánh sanh sống quanh các đình và những đám kỳ yên. Người nghệ nhân mới đa phần không thuộc tuồng vì không hiểu rõ những gì mình sắp diễn, sắp nói. Hát bội chết dần như thứ cây khô trước sự phát triển của xã hội đô thị và ảnh hưởng của văn hóa Tây phương. Vài cố gắng gần đây ở quê nhà của những người tha thiết với bộ môn này, đặc biệt là người nghệ sĩ tài danh nhiều kiến thức hát bội Đinh Bằng Phi, hy vọng vực dậy con bệnh hát bội đang trong tình trạng hôn mê bằng những cải biến đến tận căn để là chọn tuồng tích lịch sử Việt Nam, khai thác đề tài hiện đại, triệt để loại bỏ đến tận cùng những thể loại hát, nói dùng toàn chữ Hán Việt... cũng không thấy chút gì gọi là sáng sủa. Hát bội ngay trên vùng đất ngày xưa nó tung tăng vùng vẫy, bây giờ trở nên le lói như ngọn đèn sắp tắt, chỉ sống nhờ sự trợ giúp ít oi của một chế độ không lưu ý nhiều đến văn hóa. Ngày nay ta khảo sát tuồng để hy vọng đi lần đến chỗ vẽ lại một mặt nào đó của đời sống tinh thần, sự giải trí của người Việt xưa. Ta chắp vá những gì còn lại từ xưa với lòng trân tàng những tín hiệu văn hóa của người đi trước. Công việc thật có nhiều khó khăn, cần phải có sự giúp sức của nhiều người với những kiến thức khác nhau và ngành nghề khác nhau. Con đường thật dài, đầy khúc quanh và bẩy rập... Nguyễn Văn Sâm Phiên âm [Quan Công](t1) nói: Dám bẩm đại ca: Đại ca dốc dày sương đạp tuyết. Nhị đệ nguyền lặn suối trèo non. Thời có phải a, trảm hắc ngưu thề nọ còn ghi, tru bạch mã nguyền kia hỡi tạc. Chẳng như tôi: Chi rời nửa khắc, chẳng bỏ một giờ. Trên ca ca dầu dãi nắng mưa, dưới nhị đệ dễ từ sương tuyết a! Trương Phi: Dạ dám bẩm ca ca: Đông dầu trừ bắc dầu diệt là chi cho khỏi tay Phi, đánh thành nọ phá lũy kia ai dám đương cùng Dực Đức a! Bẩm ca ca: Nói nói rằng Khổng Minh đã nên tài tá quốc, vốn người đà đáng (t2) mặt làm tôi. Phải a! Vậy thời: Tân Dã thành huynh trưởng hỡi ngồi, em tới bắt Khổng Minh về nạp cho nè! Lưu Bị: Tam đệ quen tánh nóng, buông lời nói mặn nồng thời có phải a! Ba phen đều chẳng gặp hiền nhân, anh cũng nguyện lên cầu cho đặng. Sách xưa còn để dạy, nay ta phải ân cần. Nhị đệ, Thôi! Chớ nại sức hai em. Giang Nam quận trông chừng bắc mặt hè! hát nam: Giang Quận trông chừng bắc mặt, Dốc cầu hiền tá quốc an bang. Ngày nào đem lại trùng quang. Lưu triều vững đặt Hán bang (t3) thâu về. Ngọa Long kia đã gần kề. Truyền quân tạm nghỉ ta huề dừng chân. *** Điền phu: Đời thạnh trị an cư lạc nghiệp, thời thái bình Nguyễn chúa ra làm . Chuyên một việc nông tang, Điền Phu là tên lão. Như tôi! Thuở đông thiên vũ thuận phong điều, sang thu tiết cày bừa giá sắc. tán: Số là thuở lão lên Giang Nam quận, lão thấy ông Khổng Minh có làm một bài thơ chi chi đấy ư. ca: Thân này thong thả chốn Giang Nam, Phú quý công danh chí chẳng tham. Thảo lư xịch xạc ngày ba bữa, Chờ cho gặp chúa mới ra làm (t4) *** Lưu Bị: Dòng truyền Hán thất, ngã hiệu Lưu Huyền. Nghe tiên sanh dật sĩ Giang Nam, tôi xin rước về thành Tân Dã nào! Điền phu: Chúa công lầm đã quả, tôi vốn thiệt điền phu. Như tôi: Chuyên một việc làm mùa, biết đâu nghề đánh giặc. Lưu Bị: Điền phu ta hỏi: Ngươi phân ngươi nữa là người điền phu, ấy mần răng mà ngươi ca đặng bài thơ ấy? Điền phu: Dám bẩm chúa công: Thuở trước tôi tới đó, làm mùa mái Giang Nam. Thấy ông Khổng Minh miệng đọc tay làm, dán lên đó tôi bèn học đặng.(t5) Lưu Bị: Thiện a! Thời: Nghe đó nói đây đà nghiệm tỏ, dường như vén ngút thấy trời xanh. Quân! Truyền quân nhân khẩn cấp thừa hành, Giang Nam quận nhặt giong vó ký. hát nam: Giang Quận nhặt giong vó ký Rước người hiền tá trị Lưu gia Đoái nhìn sắc sảo cỏ hoa Lá in màu lục ngửa mà hứng sương. *** Đức Tháo: Như tôi! Vốn dòng truyền học sĩ, tôi Đức Tháo là tên. Xem thấy đời Tam quốc chiến tranh, bui Lưu Bị lập an cơ nghiệp. Lưu Bị: Nghiêng mình làm lễ (t6), tôi hiệu Lưu Huyền. Nghe tôn sư dật sĩ Giang Nam, tôi xin rước về thành Tân Dã. Đức Tháo: Nếu vậy: Chúa công lầm đã quả, tôi Đức Tháo là tên. Bạn học với Khổng Minh, chẳng phải Gia Cát Lượng. Chẳng qua là tôi thấy chưng đời bát loạn, nên tỏ [nỗi] thủy chung. Thời có phải a! Lưu Quý xưa điềm ứng trạch trung, trảm xà mới ra đời thạnh trị. Từ qua Đông Hán kỷ, Vương Mãng mới tiếm ngôi. Bao giờ hết vận suy, thời chúa công mới thạnh. Lưu Bị: Tiên sinh tua an nghỉ (t7) đặng tôi tới Giang Nam. Quân! Truyền quân nhân loan giá nghiêm bày. Y ngã lịnh trông chừng Nam Quận. hát nam: Nam Quận mau chân khoan khoái. Trải lộ đồ nào nại thân ta. Miễn cho gặp kẻ hiền lương. Lưu triều vững đặt Hán gia lâu dài. *** Khổng Minh: Như ta! Bầu thế giới vai mang, quán càn khôn tay xách. Kim Ngọa Long Cương lãnh, ta biểu tự Khổng Minh. Thấy chưng đời Tam quốc chiến tranh, ta cũng muốn ra tay đánh dẹp. Nhưng mà: Gái tốt nỡ đành gả ép, ngọc lành há dễ (tờ 8) bán rao này! Mảng luận bàn quân tới lao-xao, thấy Lưu chúa tướng quân bày biện. Nọ Vạn Quân bảo đây! Ấy! Vạn Quân em gìn giữ thảo lư, dầu người có hỏi anh nữa, thời: Em nói chơi nhà bạn, coi người nói lẽ nào. Thử lòng kia cho hản. Như sự dầu hết ý, ta sẽ giúp cơ mưu. Chi nữa! Mặt chỉ dặm sơn đầu, kẻo quân nhân nối gót. Lưu Bị: Đoái thấy chim kêu vượt hót, chợt nhìn hạc múa thông reo. Kìa Khổng Minh còn ở trên lầu, âu là ta bước tới quỳ nơi các hạ. lại nói: (t.9) Dạ! Hán gia tôn thất, danh gọi Lưu Huyền. Nghe tiên sinh dật sĩ Nam Giang, tôi xin rước về thành Tân Dã. Cát Quân: Dạ dám bẩm chúa công: Anh tôi đã du sơn du thủy, tôi là em giữ cửa giữ nhà. Năm ba ngày vắng mặt phương xa, bảy tám bữa về nhà giáo sĩ. Tôi vốn thiệt liên chi đồng khí. Gia Cát Quân vốn thiệt tên tôi. Thưa người tỏ khúc nôi, anh tôi là Gia Cát Lượng. Trương Phi: Thôi! Ghe phen phiền lòng tướng, nhiều thuở mỏi dạ quân! Họa (t.10) không tài tế thế trị dân, bởi vậy cho nên thấy ta tới dời chân lánh mặt đó mà thôi! Dạ dạ dám bẩm ca ca! Xin đem quân vào bắt, cầm Gia Cát chẳng tha. Đặng tiến nộp đại ca, rồi sẽ dời loan giá. Lưu Bị: Tam đệ đừng có nóng nảy, để anh phân lại cho mà nghe. Tôi hiền là báu nước, còn con thảo thiệt phước nhà. Non vàng tìm ngọc dễ ra, cầu sĩ cầu hiền phải vậy. Thời! Đã nhiều phen xe đẩy, đi rước chẳng đặng thầy. Cát Quân! Phiền Cát Quân nghiên bút đem đây, đặng ta tả thư kia gởi lại. Đã nhiều phen lên rước, (t.11) mà chẳng đặng tiên sinh. Gia Cát Quân còn ở lều tranh, đặng cho mỗ trở về Tân Dã. *** Cát Quân: Thưa! Từ anh ra khỏi cửa, có Lưu sứ tới nhà. Người nói rằng thỉnh anh về mưu quốc mưu gia, em rằng đã du sơn du thủy. Hữu tâm thơ cẩn ký, phiền tôi giao lại cho anh. Dám thưa anh! Người đã nên chỉ tín chỉ thành, lại đáng mặt cầm quyền thiên hạ! Khổng Minh: Ta dốc lòng thử gã, gã có dạ vì ta. Âu là, tâm thư này ta kíp xem qua, cho (t12) hãn lẽ tường trong ý chỉ a! thư: Mỗ tánh xưng Lưu Bị, thư ký thỉnh tiên sinh. Bốn phương dân lầm chốn đao binh, tám hướng chúng mắc nơi nước lửa. Xin giúp sức cứu dân thủy hỏa, ngõ ra tài tá quốc an bang. lại nói: Hảo a! Xem qua đà hãn ý, mới liểu đắc tâm tình. Ta là sĩ mai danh, người biết tài phụ quốc. Thời ta: Đã toan rồi chung thủy, đà phải vận làm tôi. Tiểu đồng! Thầy vào nhắp trướng mai, tiểu đồng lui môn ngoại. *** Lưu Bị: Quân! Lịnh truyền (t.13) tiến mã, tua chỉnh loan xa. Đồng tựu tại trang gia, rước người hiền tá quốc. Chư công! Ậy, nghe ta dặn: Trước nghiêm bày lễ vật, sau bố liệt can qua. Mặt trông chừng chỉ dặm sơn đầu, đặng ta tới thảo lư nghinh tiếp. hát nam: Ta tới thảo lư nghinh tiếp, Biết bao giờ đặng hiệp hiền lương. Muốn cho sửa trị bốn phương, Nối theo Thang Võ tuyết sương mới thành. Căm hờn Ngụy quốc tương tranh, Hiềm thay Ngô địa hoành hành chẳng an. Xa xem đã khỏi sơn trang, Phút đâu lố thấy Giang Nam hầu gần. lại nói: (t.14) Tiểu đồng! Cậy tiểu đồng trình với tiên sinh, rằng có Lưu sứ thỉnh lai tương kiến. Tiểu đồng: Dạ dám bẩm chúa công! Thầy còn an giấc điệp, tôi chẳng dám vào thưa. Chừ thôi thời: Xin Chúa công quỳ trước thảo lư, chờ tỉnh giấc sẽ vào thưa lại. Lưu Bị: Nhị đệ, tam đệ! Giờ thời ta phải nghe theo lời gã, ta đều quỳ trước giai tiền. lại nói: Hán triều tôn thất, danh gọi Lưu Huyền. Nghe tiên sinh dật sĩ Giang Nam, tôi xin rước về thành Tân Dã. Trương Phi: (t.15) Thời! Ngoài còn dầm sương tuyết, trong bao nỡ chẳng vì. Nếu vậy thời, quả không tài tế hiểm trợ nguy, cho nên mới ẩn thân tàng tị. Chuyển lôi đình chi nộ, phấn tích lịch chi uy. Âu là: Kíp lấy lửa mau mau, tốc Dực thiêu lư thảo. Lưu Bị: Ứ hự! Tam đệ quen tánh nóng, buông lời nói dọc ngang. Nói thiệt: Nếu mà ngươi đốt thửa nhà kia, ắt nhà gã đầu lìa nơi thử xứ. Tiểu đồng: Dạ! Lưu sứ đã tới nơi thảo thất, dạy tôi vào trình quá tôn sư. (t.16) Khổng Minh: Thỉnh nhập! Thưa! Hoang mang lễ tiếp, cung thỉnh sứ quân. Lưu Bị: Diện thượng long mi phụng nhãn, hình dung nho nhã phong tư. Xin nhậm chức quân sư, hồi thành trung phụ quốc. Khổng Minh: Thưa! Chúa công đã lựa mặt, tôi đâu dám chối từ. Giờ thôi thời: Sấp lưng từ giã thảo lư, bắc mặt trông chừng thành phụng. Lưu Bị: Hảo a! Quân sư đà an dạ, ta khôn xiết mừng lòng. Thiên niên khắc cốt nan vong, vạn cổ minh tâm (t.17) bất phụ đi mà thôi! Quan Công, Trương Phi: Phỉ bấy tôi hiền giúp nước, toại thay tướng ngõ an bang. Quân! Truyền quân nhân loan giá sẵn sàng, đồng cử bộ hồi thành giải giáp. Bốn người cùng hát khách: Huề thủ đồng hành tẩu như phi. Bôn ba kinh địa mạc khu trì. Thiên kim vị trọng, giao tình trọng. Vạn tải tinh di, chí bất di. Lưu Bị: Đây đã tới Dã thành, truyền chúng tướng loan xa yển tức. lại nói: Phỉ bấy đặng người tá quốc, mừng thay Hán thất hữu nhơn. Lời phán trước bệ đơn, phong Quân sư chi chức, phiền cùng trợ lực, điều khiển binh nhung. Ta trở lại cung trung, bá quan hồi công phủ. *** Tào Tháo: Như ta: Suất hổ lữ nhứt thân chinh chiến, thống hùng sư vạn đội thiên viên. Lực cường lược hổ thao long, ngô nãi danh xưng Mạnh Đức. Văn thần dường phụng vũ, võ tướng tựa bằng phi. Hoàng gia xem bằng dạ bằng lòng, chư tướng nhắm như tâm như phúc. Ơ này! Nghe hiệu quân phi báo, Lưu Huyền (t.19) đà tức vị Dã thành. Sứ quân còn ngụ đất Kinh Châu, nên ta phải chiêu binh mãi mã. Bây giờ đà thong thả, lại súc tích binh lương. Gã có chí bốn phương, còn ta dốc thâu một mối. Hầu Đôn: Dạ! Thời, Lưu Bị thiệt là thằng đóng dép, Huyền Đức [vốn] một đứa bán giày. Có đâu trời lại thêm vây, dám bẩm lại, cho dẫu có thiệt đi nữa, thời cũng chẳng khác phụ tân nhi cứu hỏa. Phen này: Nguyện hết sức lấy thành Tân Dã, quyết ra tài tận sát Lưu gia. Thề phấn động can qua, kẻo yếm tài yến hạc. Nguyện phi thiết giáp, (t.20) lãnh ấn tiên phong. Sanh cầm Gia Cát, Lưu Huyền, nhược bất đắc nạp Hầu Đôn thủ cho này. Tào Tháo: Hảo a! Thị thần long diệu diệu, chân hổ tướng hoàn hoàn. Vậy mới phải tôi Tào, quả anh hùng bạt tụy. Hầu hữu nhứt tâm tá quốc, Ngụy quyền phong Đô Đốc ấn ban. Phó hổ lữ ba ngàn, suất hùng binh vạn đội. Hầu Đôn: Thệ dương ngô thần lực, nguyện diệt đảng Ô Sào. *** Lưu Bị: Rày đà nhàn hạ, thêm đặng người hiền. Tôi chúa mới phỉ duyên, (t.21) quân thần giai hội ngộ. Quân báo: Dạ! Cấp dã cấp dã, nguy tai nguy tai! Hạ Hầu Đôn binh tiến chỉ huy, xem đội ngũ tinh kỳ lẫm liệt. Lưu Bị: Nay Tào Tháo hưng binh khởi ngụy, sai Hầu Đôn chiếm đoạt Dã thành. Xin quân sư quyết sách vận trù, luận hà kế tương binh cự chiến nào! Khổng Minh: Chúa công đà chỉ phán, tôi đâu dám từ lao. Nếu xuất binh binh bại sao nên, bằng khiển tướng tướng hoàn nghịch mệnh. Lưu Bị: (t.22) Chức quân sư đã định, quyền Thượng Phụ nấy trao. Hay còn khuất thửa tiếng nào, xin quân sư phân lại thử nào! Khổng Minh: Dám bẩm chúa công! Chúa công đà chức nấy quân sư, thời tôi phải giữ quyền Thượng Phụ. Giờ thời phải mần ri mới đặng: Xin ban ấn hổ, điều khiển một tay. Đặng mà: Rao chư tướng đều hay, cứ tuân y pháp luật thời mới đặng cho! Lưu Bị: Lời quân sư phân lại, mới liểu đắc cơ quan. Kiếm ấn nọ nấy ban, điều khiển một tay cử chỉ. Lịnh truyền triều sĩ, vâng thửa lời ta. (t.23) Nghi chỉnh túc loan xa, ngõ đăng đàn bái tướng. Khổng Minh: Trương Phi không phải tớ, còn ta chưa có phải mặt làm thầy. Lập trận đồ ngươi phá đặng xong, thời ta nộp chức về non chẳng ở. Trương Phi: Đã rằng làm vậy, lời nói chẳng quên. Phân phó có bá quan. Xà mâu nguyền phá tan bốn phía. Khổng Minh: Hạ lịnh truyền quân sĩ, xuất trận bố tứ phương. Nghe ta dặn, bát hướng mạc ngôn, tam quân hổn chiến. Nhược hà nhân sai thiển, trảm thủ huyền đầu. (t.24) Y lịnh cổ hồi, tam quân thượng trận. Trương Phi: Khâm thừa huynh trưởng, phụng lệnh quân sư. Hoang mang phấn lực đề thương, tốc tốc giải khai đồ trận. (chiến trận...) Trương Phi: Cả khen trận rắn, chưa mỏi mình rồng. Quyết nỗ lực giải khai, huy xà mâu đả phá. Khổng Minh: Trương Phi! Ấy! Ngươi sa trận lẽ thời chẳng thứ đó. Nhưng mà đương đề binh hạ lịnh truyền tha đó. Ta thụ quyền thụ chức quốc gia, đâu có lẽ vị thân vị kỷ. (t.25)! Nói thiệt! Thuận phép min thời thứ, bằng mà, nghịch mệnh mỗ chẳng dung. Ấy! Ai ai cũng tai nghe, người người đều thấy mặt. Chư công lai thính lịnh. Tiên phong ấn phó, Triệu Tử đương chi. Bạch Vị thủy tiến binh, thừa kinh tàng yếu lộ. Chúa công tập hậu, quản nhị đạo hùng binh. Kíp thả chiến thả công, cơ mưu cho cẩn thận. Ấy! Dụ gã vào nơi đất Vọng, phân tứ phương mai phục hỏa binh... Trương Phi! Khá đem binh hữu dực, Vân Trường nghi lãnh tả chi. Nghe ta dặn: Ấy! Dụ Hầu Đôn qua đất Vọng thành, khỏi (t.26) đó sẽ hỏa phần bắt gã. Chư quân! Chư quân đều thính lịnh, chúng tướng khá cử binh. Còn phần ta cẩn thủ bản doanh, Tôn Càn khá tiếp binh cho sẵn. Trương Phi: Vậy cũng gọi điều binh khiển tướng, vậy cũng rằng lược trận đồ thành. Lão nầy quỷ cha chả! Đánh vòng nọ không lo, thịt kia đà khỏi bẩy. Nước bắc lên chửa nóng, bầu còn ở ngoài dàn. Cắc cớ thay giặc bắc đón nam, ngã ngớn bấy hùm non vầy nội. Ba phen đà tuyết sương lặn lội, kiếm người về tá quốc khuôn phò. Như lão này khi không xong (t.27) [Nói thiệt], chẳng làm nên Trương nguyện bẻ giò, bằng thất trận Phi xin ăn thịt thôi! Lưu Bị: Tam đệ còn táu tánh, hỡi nghịch mạng quân sư mà thôi! Ừ! Phá trận đồ tội nọ mới tha, sa binh thế mà không biết hổ. Chúng tướng! Hạ lịnh truyền bản bộ, khá tua chỉnh đao thương, kíp thẳng tới Ngụy thành, đặng đem binh cự chiến. *** Triệu Tử: Phò Lưu trào Hán thất, mỗ xưng Triệu Tử Long. Nay vâng lịnh chúa công, dạy tôi ra nghinh tiếp. Dám phiền quan Đốc Tướng, xin rước lại bổn (t.28) dinh. Trước là hiệp mặt Dã thành, sau ngõ ưu tư Hán thất. Dạy tôi ra thông thuyết, còn người hỡi đi sau. Kìa quân sư lễ vật đem theo, nọ Lưu chúa cũng đều nối gót. Hầu Đôn: Bất thính bất thính, vô văn vô văn. Dĩ cam ngôn dụ ngã, bất úy nhĩ Triệu Vân. (hai bên đánh nhau) lại nói: Tiên phong gã Triệu Vân tẩu thoát rồi nè, tập hậu xem Lưu Bị hỡi còn. Quân! Hạ lịnh dữ ngô binh, kíp sanh cầm Lưu Bị. Mặt thấy Bị dường như mùi ngọt, nhìn Triệu Vân khác thể (t.29) miếng ngon. Nguyện giết ngươi lấy đất Kinh Châu, bắt nhà gã về dâng Ngụy chúa. Lưu Phong: Phụng lịnh mai phục, mỗ tự hiệu Lưu Phong. Kìa chúa công Triệu Tử khỏi vòng, y kế nội truyền quân khởi hỏa. Hầu Đôn: Khổ dã chân khổ dã, nguy nhiên thị nguy nhiên! Chẳng nghe lời Từ Thứ gián ngôn, đà trúng kế Khổng Minh vây nội rồi! Thương hại: Bốn phía rần rần lửa cháy, tám phương mịt mịt khói đen. Khôn thoát khỏi trùng vây, nhứt thân tao lâm trận. Tôi biết lo mần răng chừ. Bát diện (t.30) quân reo tở mở, tứ phương lửa cháy rần rần. Thác dư muôn đội hùng binh, Chừ thời ta phải trở lại Bạch Hà Vị Thủy. hát khách: Đoạt lộ bôn ba tự điểu phi, Đáo lai Vị Thủy giải kỳ nguy. Nhứt thân nan địch thiên viên tướng. Vạn đội hùng binh tận tử chi. Quan Công: Tả chi mai phục, ngã hiệu Vân Trường. Hạ Hầu Đôn xuống đất không nanh, Tào Mạnh Đức lên trời thiếu cánh. Trương Phi: Ngô đam binh hữu dực, ngã hiệu viết Yên nhân. Hầu Đôn (t.31) ngươi chốn cũ khôn về, xà mâu kíp lấy đầu nhà gã. Hầu Đôn: Ta cả khoe sức mạnh, hay đâu mắc kế cao. Thương hại: Binh mười muôn bị chốn đau thương, tướng bốn đạo mắc nơi tên pháo. Sau lưng thấy binh reo bát hướng, trước mặt nhìn tướng phủ tứ phương. Giang Bắc quân thuyền rước mau mau, kíp đưa mỗ khỏi nơi tử địa. Trương Phi: Nó đã khỏi miền Hà Vị, chốn Bạch Hà ta ắt khó theo. Truyền chúng tướng thu quân, đặng hồi thành Tân Dã. lại nói: Bái tạ bái tạ, quân sư, quân sư! Phi những nghĩ là kẻ sất phu, như trận thế cũng đà đáng mặt. Dạ! Mỗ lạy quân sư đừng có chấp Phi. Bạch Hà thủy thây trôi dường củi, đất Vọng thành chúng thác tựa mưa. Dám bẩm quân sư từ nay sấp lên: Dầu quân sư người có ngủ trưa, thời Phi cũng đứng hầu ngoài trướng. Lưu Bị: Có ra sức đá, mới biết tuổi vàng. Mất thịt nọ không màng, thắng hùm kia rất toại. Rày an mối nước, thêm vững đạo nhà. Chư tướng lại doanh gia, ta lui nơi ngọc các. Khổng Minh, Quan Công, Trương Phi: (t.33) Trước trừ an Bắc Ngụy, sau sẽ diệt Đông Ngô. Chúc Nguyễn triều hạc toán thiên thu, dâng tuổi chúa hạ hồi phân giải. Nguyễn Văn Sâm phiên âm
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Jun 19, 2011 4:46:25 GMT 9
THỬ PHÁC HỌA “CHÂN DUNG” CỦA MỘT HỌC VIÊN NGOẠI NGỮ HỮU HIỆU
Đàm Trung Pháp Sau nhiều năm quan sát, ghi nhận và chia xẻ, giới nhà giáo ngôn ngữ chúng tôi đã có thể phác họa ra “chân dung” của một học viên ngoại ngữ hữu hiệu qua một số đặc trưng. Tôi xin giải thích về những đặc trưng đó để quý bạn đọc nào đang học ngoại ngữ tự lượng giá, và nếu thấy mình thiếu hụt thì có thể làm thêm được những gì để có thể thành công hơn trong nỗ lực ấy. Vì chúng ta đang sống tại Hoa Kỳ, tôi xin đưa ra những thí dụ bằng tiếng Anh trong bài viết này. Dưới đây là “chân dung” của một học viên ngoại ngữ hữu hiệu, qua các đặc trưng được mô tả vắn tắt cùng với các thí dụ liên hệ làm sáng tỏ vấn đề. Người học viên ấy: Sẵn sàng đoán ý nghĩa của một chữ mới gặp lần đầu, căn cứ vào ngữ cảnh (context) của chữ mới ấy. Điều này rất hữu lý, vì đâu có phải lúc nào học viên cũng có tự điển trong tay? Khi nghe hoặc đọc một đoạn đề cập đến một “obese man” nặng trên 300 pounds đang thở hổn hển leo cầu thang, thì học viên đoán được ngay ý nghĩa của chữ “obese” phải là “mập phì” rồi. Sau đó khi có thì giờ, người học viên sẽ tra tự điển để phối kiểm ý nghĩa, cách phát âm, cũng như chính tả của chữ “obese”cho chắc ăn. Luôn luôn tìm kiếm cơ hội đàm thoại với người bản xứ và không mảy may bận tâm về những lỗi lầm về phát âm hoặc văn phạm của mình. Đành rằng lối phát âm tiếng Anh lôi thôi lắm, văn phạm cũng phiền hà nữa, nhưng nếu cứ e ngại sợ người Mỹ cười thì chẳng bao giờ dám phát ngôn, chẳng bao giờ nói được tiếng Anh! Không ai có thể chinh phục được một ngoại ngữ mà không phạm lỗi phát âm cũng như lỗi văn phạm nhiều lần trong khi học tập. Sự nhút nhát này rất tai hại, vì nó sẽ cho phép các lỗi ấy ngủ yên và cuối cùng biến chúng thành chai đá (fossilized) vô phương sửa chữa sau này. Người học ngoại ngữ hữu hiệu thường là những cá nhân có tính tình cởi mở, thân thiện, thích nói chuyện, và có cảm tình với ngoại văn, ngoại ngữ nói chung. Họ cũng không bao giờ bị trằn trọc, áy náy suốt đêm vì ban ngày họ đã phạm các lỗi phát âm hoặc văn phạm tiếng Anh! Tận dụng mọi cơ hội để thực tập các chức năng ngôn ngữ (language functions) đã học được nhưng dùng chưa nhuyễn, trong cả hai lãnh vực nói và viết. Mỗi chức năng ngôn ngữ là một phương tiện để truyền thông và có một cấu trúc và từ vựng đặc thù. Thí dụ như chức năng “tạ lỗi” thường dùng động từ “apologize for” cho cái hành động mà nay mình hối hận, được diễn tả bằng mô thức [having + past participle của động từ đã gây ra hành động đáng tiếc ấy] như trong câu “I apologize for having ignored you at the party last week.” Quả thực, mức thông thạo (proficiency level) về một ngoại ngữ của một cá nhân có thể được đánh giá qua tổng số các chức năng mà người ấy đã thủ đắc được trong ngoại ngữ ấy. Thực tập cách phát âm những chữ khó sau khi đã nghe người bản xứ, nhất là các chữ chứa đựng những âm vị (phonemes) không có trong tiếng mẹ đẻ của mình (như âm vị đầu trong các chữ “think” và “judge” không tồn tại trong tiếng Việt), hoặc các chữ mà âm tiết nhấn mạnh (stressed syllable) nằm trong vị trí bất thường (như “melancholy” và “industry” đều được nhấn mạnh ở âm tiết đầu tiên). Sự thực tập phát âm này có thể âm thầm, có thể lớn tiếng. Nỗ lực này thực tế lắm, vì người Mỹ thường không hiểu chúng ta khi chúng ta phát âm trật một âm vị trong chữ hoặc nhấn mạnh trật âm tiết trong một chữ. Lắng nghe lối nói người bản xứ để học hỏi cách phát âm, cách dùng chức năng ngôn ngữ, và nhất là cách dùng những đặc ngữ (idioms) như trong các câu “Mary went through the roof when she heard she had been fired” hoặc “We only see them once in a blue moon.” Vì ý nghĩa của các đặc ngữ “go through the roof” (nổi cơn tam bành) và “once in a blue moon” (năm thì mười họa) rất khó đoán trúng, học viên phải hiểu cho rõ bằng cách lưu ý chúng rồi tra cứu ý nghĩa qua tự điển hoặc nhờ người bản xứ giúp đỡ. Để ý đến những sắc thái tế nhị của ý nghĩa trong từ vựng và cú pháp. Thí dụ, người Mỹ thường không muốn dùng động từ “die” nghe quá phũ phàng, cho nên họ dùng những chữ thanh lịch hơn như “pass away” hoặc “depart.” Cú pháp cũng cho thấy thái độ của người sử dụng là lịch lãm hay cọc cằn, chẳng hạn như sự khác biệt giữa câu “Would you mind closing the window?” và “Close the window!” Chú trọng đến hình thức của ngoại ngữ đang học hỏi, nào là viết chữ cho đúng chính tả (spelling), nào là chấm câu (punctuation) cho chỉnh, nào là chia động từ (conjugation) cho phân minh, vân vân. Nỗ lực này đòi hỏi sự chú tâm quan sát, ghi nhận, và thực tập đều đặn, vì tiếng Anh không phải là thứ tiếng dễ viết dựa vào lối “đánh vần” (hai chữ “key” và “quay” cùng phát âm như nhau), vì quy luật chấm câu trong tiếng Anh rất chặt chẽ (nếu không cẩn thận với dấu phết, người viết sẽ phạm vào các “trọng tội” như “comma splices” hoặc “run-on sentences”), và vì tiếng Anh có hàng trăm động từ bất quy tắc (sắp xếp theo mẫu tự từ “arise/arose/arisen” đến “wind/wound/wound”). Đây là lối tiếp thu văn phạm nghiêm chỉnh của một cá nhân học ngoại ngữ hữu hiệu để dẫn đến mức thông thạo hàn lâm (academic proficiency). Không quá nóng lòng vì chưa hiểu rõ một cấu trúc nào đó của ngoại ngữ mình đang học hỏi, mà kiên nhẫn chờ đợi trong khi tìm hiểu thêm và chấp nhận đó là một phần tự nhiên của tiến trình học hỏi. Câu “Had John studied harder, he might have passed that tough exam” chắc chắn từng làm nhiều học viên tiếng Anh thắc mắc vì cấu trúc khác thường của nó. Hiển nhiên, cấu trúc này rất cần được tìm hiểu và thủ đắc vì nó diễn tả một sự giả dụ trái với sự thực trong quá khứ, đồng nghĩa với “If John had studied harder, he might have passed that tough exam.” Sự thực là John đã chẳng học chăm hơn tí nào và chàng đã rớt kỳ thi khó khăn đó rồi. Dùng kiến thức tiếng mẹ đẻ để hiểu thêm về ngoại ngữ đang học. Người Việt chúng ta không may mắn bằng những người nói tiếng Tây Ban Nha khi học tiếng Anh, vì giữa tiếng Việt và tiếng Anh không hề có những chữ cùng gốc (cognates), nhưng cả chục ngàn những chữ cùng gốc đó tồn tại giữa tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha. Vì vậy người Mễ Tây Cơ sẽ hiểu ngay câu tiếng Anh sau đây chứa đựng vài chữ lạ lùng, khó đoán nghĩa cho người Việt chúng ta: “The coward osculated a taciturn damsel.” Trong khi người Việt thấy các chữ “coward, osculated, taciturn, damsel” lạ hoắc thì người Mễ hiểu chúng ngay rồi, vì “coward” cùng gốc với “cobarde” (kẻ hèn nhát), “osculated” cùng gốc với danh từ “ósculo” (nụ hôn), “taciturn” cùng gốc với “taciturna” (lầm lỳ), và “damsel” cùng gốc với “damisela” (thiếu nữ). Về cú pháp, người học viên hữu hiệu sẽ lưu ý tới những nét khác biệt đáng kể giữa ngôn ngữ mẹ đẻ và ngôn ngữ đang học hỏi, qua tiến trình “nâng cao ý thức” (consciousness-raising) để không phạm vào các lỗi lầm do sự “nhiễu nhương” (interference) – tức là không để cú pháp ngôn ngữ mẹ đẻ ảnh hưởng tiêu cực đến cú pháp ngôn ngữ đang học. Chẳng hạn, khi một câu phức tạp tiếng Việt bắt đầu bằng mệnh đề phụ sử dụng một trong các liên từ “vì/tuy/nếu” thì mệnh đề chính thường bắt đầu bằng một trong các “từ quân bình” (balance words) “nên/nhưng/thì” như trong các thí dụ sau đây: (1a) Vì nó kiêu ngạo, nên nó không có bạn. (2a) Tuy họ nghèo, nhưng họ rất hạnh phúc. (3a) Nếu anh yêu tôi, thì anh phải cưới tôi ngay! Nếu vô tình để khía cạnh cú pháp này của tiếng Việt ảnh hưởng lối viết tiếng Anh, chúng ta sẽ viết ra các câu bất cập sau đây: (1b) Because he is arrogant, so he has no friends. (2b) Although they are poor, but they are very happy. (3b) If you love me, then you must marry me at once! Người học viên hữu hiệu sẽ tinh ý dẹp bỏ ngay các “từ quân bình” không cần thiết “so/but/then” trong các câu (1b), (2b), và (3b).
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Feb 19, 2013 11:33:02 GMT 9
Chủ nghĩa Hậu hiện đại phương Tây và phương Đông S. Kornev
Chủ nghĩa hậu hiện đại đem lại cho con người phương Đông cơ hội chiến thắng văn hóa Tây phương trong chính mình, chiến thắng tính duy lý Tây phương đã bóp méo ý thức hắn, nhờ chính thuốc trị Tây phương. Không tốn quá nhiều thời gian, dưới mặt nạ “cuộc trình diễn hậu hiện đại”, logic học tự nhiên của phương Đông đã được phát sáng.
Như vậy, hậu hiện đại có hai bộ mặt – Đông và Tây. Cái ở phương Tây là sự tự hủy, thì ở phương Đông lại là sự giải phóng và sự trở về mình.
S. Kornev
Hậu hiện đại phương Tây
Về “hậu hiện đại” đã có hàng núi tài liệu được viết ra, thậm chí định nghĩa về hiện tượng này cũng gây ra những cuộc tranh cãi liên tu bất tận[1]. Trong khi đó bản chất của nó hết sức đơn giản và rõ rệt, nó đã được các nhà văn hóa học (nhất là Spengler và Toynbee) tiên báo và lý giải từ khi nó còn chưa xuất hiện. Hậu hiện đại – đó là giai đoạn già và chết của văn hóa, đó là bước chuyển từ “văn hóa” sống sang “văn minh” chết. Về tinh thần, như một cơ thể sống, văn hóa đã chết, nhưng về mặt thể xác, như một cơ chế, theo quán tính nó vẫn tiếp tục tồn tại, thậm chí còn có vẻ phồn thịnh bề ngoài, bởi vì các thiết chế kinh tế, chính trị, xã hội của nó vẫn đang còn hoạt động, và chính ở giai đoạn này những nỗ lực trước đây từng đầu tư vào việc tạo ra chúng được bù đắp lại.
Thí dụ về hiện tượng như thế là Đế chế La Mã vào hai thế kỷ đầu của kỷ nguyên chúng ta; cái gọi là “thời hoàng kim” của nền văn minh cổ đại, thời đại của “thế giới toàn thể” và của sự “cáo chung lịch sử” – chưa bao giờ con người cổ xưa được sống an hòa, no nê và thoải mái như ở thời đó. Nhưng “cuộc sống sau khi chết” như vậy không thể kéo dài vĩnh viễn: vào một ngày tất cả đảo lộn, và trong vòng năm mươi năm tiếp theo thế giới cổ đại bị lâm hỗn loạn và suy tàn. Bây giờ chúng ta đang nhìn thấy ở phương Tây chính cái “thời hoàng kim”, thời “cáo chung lịch sử” đó.
Để hiểu bản chất của hậu hiện đại thì phải ý thức rõ rằng hậu hiện đại là một hiện tượng hoàn toàn của phương Tây, rằng đó là giai đoạn phát triển của chính văn hóa Tây phương, là sự mở đầu quá trình tự hủy của nó. Nó có quan hệ đối với tất cả các nền văn hóa còn lại, đối với văn hóa loài người nói chung, trong chừng mực là ở những thời đại trước chúng bị giả đồng hình (pseudomorphism) và mang trên mình dấu vết của phương Tây. Xét về thực chất của mình thì đó không phải là giai đoạn phát triển của tổng thể văn hóa loài người, mà là logic văn hóa của phương Tây hậu kỳ[2].
Mất ý nghĩa – có thể xác định triết học của thời “hậu hiện đại” một cách hết sức đơn giản và cô đúc như vậy – sự mất mát không phải một ý nghĩa cụ thể nào, mà bản thân sự nắm được ý nghĩa. Ở chỗ con người của các thời trước nhìn thấy sự thống nhất của ý nghĩa, tính toàn vẹn có nghĩa, thì con người thời hậu hiện đại chỉ thấy bạo lực trần trụi, sự gắn buộc nhân tạo để làm nên chỉnh thể. Ý nghĩa của chỉnh thể dựa trên thứ bậc của các bộ phận, trên trật tự hài hòa của các phân mảnh có nghĩa riêng lẻ. Con người những thời xưa biết nhìn ra ý nghĩa này, tức là biết cảm thấy được tính xác đáng của hệ thống thứ bậc của các phân mảnh ý nghĩa, tin vào sự hài hòa định trước của chỉnh thể và bộ phận. Con người thời hậu hiện đại đã mất thói quen thấy được ý nghĩa – hệ thống thứ bậc đó đối với hắn là giả tạo và cưỡng bức. Chuẩn mực đối với hắn là “không chọn lọc” và “không thứ bậc”, tức là nền dân chủ của những mảnh vỡ, sự từ chối về nguyên tắc việc sắp xếp chúng thành chỉnh thể. Đằng sau mọi sáng tạo và sự kiện toàn vẹn con người hậu hiện đại chỉ thấy lộ ra trần trụi ý chí quyền lực, thủ đoạn và sự kiến tạo giả tạo. Ý nghĩa của chỉnh thể đối với hắn bị tan ra thành tổng số các phân mảnh ý nghĩa riêng rẽ, các nguyên tử tự chủ mà bản thân chúng không hề muốn tự sắp xếp lại thành chỉnh thể, ngược lại, mâu thuẫn nhau, phủ nhận nhau – mà thế nghĩa là phủ nhận ngay cái chỉnh thể mà chúng là những bộ phận.
Điều này xảy ra trong tất cả không trừ một lĩnh vực nào của văn hóa phương Tây mà hậu hiện đại đụng tới – dù đó là chính trị, đời sống xã hội, nghệ thuật, văn học, triết học, khoa học. Thứ bậc ý nghĩa đâu đâu cũng bị bung ra thành một món tạp pí lù, giờ là lúc của trạng thái tâm thần phân lập, của chủ nghĩa vô chính phủ bản thể luận. Các thiết chế kinh tế, chính trị, xã hội, khoa học kế thừa từ thời hiện đại sống chủ yếu theo quán tính, và dần mất đi xung lực đã được đặt vào chúng lúc tạo lập.
Các nhà triết học hậu hiện đại (Baudrillar, Deleuze, Derrida, Lyotard, Foucault, Heidegger) đã “giải kiến tạo” di sản triết học hai ngàn năm, khi họ chứng minh tính quy ước và tính nhân tạo, “cưỡng bức” của những phạm trù cơ bản của tính duy lý Tây phương. Biến mất niềm tin vào sự tồn tại của những nguyên lý và quy luật chung điều khiển thế giới này, biến mất lòng tin vào chính lý trí của con người. Những khuôn khổ khái niệm do quá trình phát triển hàng thế kỷ trước đây của tư duy nêu ra chỉ mới hôm qua còn rành mạch và rõ ràng đối với tất cả mọi người thì nay biến thành những màn sương mù che lấp hơn là soi tỏ. Các phạm trù logic mất đi tính nghiêm nhặt của mình và bắt đầu dồn đống lên nhau. Giờ thì không chỉ khó biết đâu là chân, đâu là giả, mà ngay cả các phạm trù giả và chân mà lý trí lành mạnh của con người từng có lúc tự hào cũng bị mất ý nghĩa của mình.
Nổi lên là những biến đổi trong nghệ thuật – từ kiến trúc và văn học đến âm nhạc và điện ảnh, nơi đang diễn ra sự thống trị của hình thức “pastiche” – từ này dịch ra tiếng Nga đúng nhất là “hổ lốn”. Nghệ thuật thời hậu hiện đại vẻ như là sự chồng chất hỗn độn các phân mảnh thuộc đủ loại phong cách bị tách ra khỏi khung cảnh. Đôi khi trong đó người ta cũng thấy có một ý nghĩa nào đó – thí dụ một biến thể của “parody”. Nhưng ở nơi pastiche lớn lên thành parody – đó còn là tàn tích của quá khứ, là những gì còn lại cuối cùng của thời hiện đại. Đừng nên nhầm pastiche với parody – parody có bề sâu, có mặt trái, có sự ám chỉ – nó có ý nghĩa, nó biết cười cái gì, nó hoàn toàn có ý thức đặt vào trong tiếng cười một ý nghĩa nào đấy[3]. Ý nghĩa này gắn nối parody, đem lại cho nó sự toàn vẹn. Pastiche, ngược lại, đó thuần túy là bề mặt, đằng sau nó không có sự ám chỉ nào: nó không hề mang trong mình mong muốn phát giác ý nghĩa ẩn kín – nó chỉ đơn giản là trò chơi của những liên tưởng tự do. Đó là phát ngôn không muốn biểu đạt cái gì, không muốn nói lên cái gì có nghĩa, đó là sự dứt khoát từ chối khẳng định hay phủ định. Đó là cử chỉ của một thứ văn hóa đang chết mà sự thông thái cổ xưa của nó bắt nó phải im lặng. Thứ văn hóa đó lâm vào tình trạng suy vong, tòa nhà chọc trời nhiều tầng đầy kiêu hãnh bị sụp đổ, chỉ còn lại cánh đồng tung tóe những mảnh vỡ, trên đó đám con cháu thoái hóa bước đi và lấy những hòn đá nhặt được sắp thành những họa tiết rắc rối trên mặt phẳng. Những họa tiết không có ý nghĩa nào – và chính vì thế nên có thể thấy ra nghĩa nào cũng được.
Để nhập thấu “tâm thức hậu hiện đại” này cần phải hiểu rằng bề sâu đã biến mất khỏi thế giới này, chỉ còn lại bề mặt. Chủ nghĩa hậu hiện đại không thừa nhận bề sâu. Bản thân phép nhị nguyên của bản chất và hiện tượng, ký hiệu và nghĩa, cái biểu đạt và cái được biểu đạt trước đây từng có ý nghĩa sâu sắc thì nay đã bị triết học hậu hiện đại phủ định. Trước đây – cả trong lĩnh vực lý thuyết, cả trong lĩnh vực ý nghĩa lành mạnh – đằng sau tập hợp các hiện tượng luôn được ngầm hiểu là có sự hiện diện của một bản chất thống nhất, hay một ý chí thống nhất, xuyên qua chúng hiện ra thế giới, sắp xếp chúng lại và giải thích chúng. Giải thích một cái gì đó nghĩa là quy hiện tượng về bản chất của nó, quy ký hiệu về nghĩa của nó. Bây giờ trong thế giới của các tư tưởng và các kiến tạo thẩm mỹ đang diễn ra một bước ngoặt có tính dân chủ: sự tìm kiếm bản chất đã bị mất ý nghĩa, những “sự kiện”, hiện tượng có tính độc lập và tự do, và người ta học được cách bỏ qua ý nghĩa mà bản chất mang lại cho chúng. Hiện nay “giải thích” biến thành sự thao tác bất tận với các ký hiệu, các câu cú và tư tưởng đứt gãy, thành cái vòng khép kín của những sự diễn dịch không giải thích gì cả, mà chỉ dẫn ra nhau liên hồi kỳ trận.
Chủ nghĩa hậu hiện đại – đó là sự sụp đổ hoàn toàn của logic văn hóa phương Tây và của lý tính Tây phương, ở dạng như nó đã hình thành từ thời Descartes. Và chuyện này không có gì bất ngờ hết. Bất kỳ logic nào, dù nhìn ngoài nó có duy lý đến đâu, cũng dựa trên một niềm tin phi lý, và ngọn nguồn của nó là một xung động hoàn toàn phi lý. Mọi logic xét đến tận cùng cơ sở của mình – đó là Ý Chí, Ý Chí quyền lực, Ý Chí sắp xếp lại thế giới. Nếu Ý Chí bị bẻ gãy, nếu Ý Chí ra đi, thì tất cả những cái nó gắn kết và gom lại cùng nhau sẽ bung ra hỗn độn như thuở hoang sơ. Còn tất cả những gì chưa bị bung ra, tất cả những điểm mà Ý Chí chỉ thuần do quán tính còn trụ lại được thì dưới mắt con người đã mất đi Ý Chí này trong mình sẽ thành ra là bạo lực vô nghĩa, là chuyên quyền trắng trợn. Trước đây, khi văn hóa còn sống, con người đã có Ý Chí ấy, cái mà văn hóa của hắn đã đặt vào thế giới cần phải cải tạo, đặt vào những cấu trúc logic và những thiết chế xã hội. Con người không nhận thấy sự bạo lực và chuyên quyền đó bởi vì đó là bạo lực của hắn, chuyên quyền của hắn - cả trong hắn, cả trong logic này, cả trong những thiết chế này, chỉ có một Ý Chí hành động. Ý Chí của phương Tây.
Trường hợp Đế chế thứ Ba sẽ soi sáng tình trạng này. Khi Đế chế thứ Ba đang sống, phần đông người Đức thấy nó là Vương quốc của cái Thiện với những bến bờ trĩu quả, thành tựu sáng tạo tự nhiên của tinh thần dân tộc Đức. Họ không thấy Đế chế là bạo lực – họ chỉ thấy nó là chính mình, là sự phản ánh các ý chí và ước vọng của mình. Về sau, khi ý chí này bị bẻ gãy, khi nó đã bị bứt ra khỏi đầu óc người Đức, thì đối với họ nó trở thành là ý chí của kẻ khác, họ bắt đầu nhớ lại Đế chế với nỗi sợ hãi và hoài nghi, nhìn thấy ở đấy chỉ bạo lực và chuyên quyền. Toàn bộ nền văn minh Tây phương chính là “đế chế thứ ba” như thế đang trên đường đi đến điểm sụp đổ của mình, đến điểm mà cái Ý Chí Thống Nhất từng tạo nên sinh khí cho nó bắt đầu tan rã. Nếu hiểu được tư tưởng đơn giản này thì mọi sự hoàn toàn sáng rõ. Chẳng hạn, vì sao khái niệm bản chất lại rời bỏ tâm thức hậu hiện đại? Khái niệm bản chất ở phương Tây không còn thể được duy trì ở cấp độ logic chính bởi vì Bản Chất đã chuyển sang cấp độ bản thể luận. Logic học của phương Tây – đó là sự phản ánh bản thể luận của nó. Nền văn hóa đã được thực hiện hoàn toàn về sau này thực sự đã mất đi Bản Chất của mình, Ý Chí của mình, bởi vì Bản Chất đó, Ý Chí đó đã hoàn toàn thành hiện thực - tất cả, không chừa lại chút nào, đã biến thành hiện thực, thành kết quả. Văn minh châu Âu hiện nay giống như một bà mẹ anh hùng kiệt sức vì nhiều lần sinh nở.
Bản Chất, Ý Chí của nền văn hóa non trẻ, chưa biết thể hiện mình, là một khối năng lượng hỗn độn giống như một ngọn lửa sạch đang âm ỉ trong tâm hồn mỗi con người của nền văn hóa này mà chưa tìm thấy lối ra. Bản Chất đó, Ý Chí đó còn bị che kín với cái nhìn bên ngoài, chính vì thế nó có ý nghĩa đối lập bản chất -hiện tượng, ký hiệu – nghĩa. Bởi vì hiện tượng còn chưa chứa đựng trong mình bản chất hoàn toàn, còn ký hiệu chỉ mới là dấu chỉ cái có, nhưng chưa hiển lộ. Ngược lại, nền văn hóa cũ đã vắt kiệt hoàn toàn Bản Chất của mình thì không còn cần đến khái niệm “bản chất” (như một cái đối lập với hiện tượng), khái niệm “nghĩa” (như một cái đối lập với ký hiệu). Bản Chất của nó, tức Ý Chí của nó, đã được hiện thực hóa hết trong kỹ thuật, khoa học, nghệ thuật của nó, trong các thiết chế xã hội của nó, trong các hệ thống ký hiệu mà chúng dựa vào. Bản Chất, Ý Chí của văn hóa, vốn trước đó là sống động và chưa hiển lộ, đã đông cứng lại trong một cỗ máy đã tồn tại thực, nhưng chết lặng, vô hồn. “Hiện tượng” bây giờ không phải dẫn đến “bản chất”, mà đến một hiện tượng khác nó có quan hệ trong phạm vi hoạt động của bộ máy này, còn “ký hiệu” không phải dẫn đến “nghĩa”, mà đến một ký hiệu khác nó có quan hệ trong phạm vi của hệ thống giao tiếp điều phối hoạt động của cái tổ kiến này. Ý nghĩa rời khỏi hệ thống – còn lại chỉ là những quan hệ cơ học thuần túy “kích thích – phản ứng”, “cà rốt – dùi cui”. Do đó, không có gì lạ là hiện nay nền văn minh Tây phương hiện ra như một “Hệ Thống” chết, vô sinh khí, một kẻ thù cần chống lại, không chỉ trong mắt những dân tộc bị nó áp bức, mà ngay cả những người tây phương. “Chủ nghĩa hậu hiện đại” – đó là phản ứng chiếm lấy những giá trị nền tảng của phương Tây từ phía chính người tây phương, vì hiện thời họ không còn nhận ra mình trong nền văn minh của mình, trong sáng tạo của riêng mình.
Hậu hiện đại phương Đông[4]
Hậu hiện đại, nếu nhìn từ góc nhìn phương Tây, thì hiện ra như là sự tự hủy của nền văn hóa châu Âu cũ, như là sự từ bỏ quá khứ vĩ đại của mình và sự chế nhạo quá khứ đó. Dễ hiểu là từ góc nhìn của người thuộc văn hóa phi phương Tây, từ góc nhìn của người phương Đông, người Nga, vốn coi quá khứ của phương Tây là quá khứ độc ác, còn Ý Chí của phương Tây là ý Chí độc ác, thì thời hậu hiện đại lại mang ý nghĩa hoàn toàn ngược lại. Đó là thời giải phóng lớn lao, thời hắn có cơ hội vứt bỏ được khỏi mình cái ách giả đồng hình, hủy bỏ được phương Tây trong chính bản thân mình, trong tâm hồn của mình. “Chủ nghĩa hậu hiện đại đem lại cho con người phương Đông cơ hội chiến thắng văn hóa Tây phương trong chính mình, chiến thắng tính duy lý Tây phương đã bóp méo ý thức hắn, nhờ chính thuốc trị Tây phương. Không tốn quá nhiều thời gian, dưới mặt nạ “cuộc trình diễn hậu hiện đại”, logic học tự nhiên của phương Đông đã được phát sáng[5]”.
Như vậy, hậu hiện đại có hai bộ mặt – đông và tây. Cái ở phương Tây là sự tự hủy, thì ở phương Đông lại là sự giải phóng và sự trở về mình. Ngay thái độ khinh miệt và hoài nghitheo lối hậu hiện đại đối với lý tính đã chứa đựng trong mình một cái gì đó phương Đông. Nhưng ở phương Đông còn diễn ra một cái lớn hơn là sự phá hủy tâm thức phương Tây bị từ ngoài buộc vào: vẫn dưới những hình thức hậu hiện đại, ở đây còn diễn ra song song quá trình thức tỉnh logic văn hóa riêng của phương Đông. Sự phá hủy cái của kẻ khác và sự thức tỉnh cái của mình – đó là hai mặt của cùng một quá trình. Hậu hiện đại, khi đập vỡ logic bên trong của văn hóa Tây phương, lẽ dĩ nhiên trở thành hình thức tạm thời cho lôgic tự nhiên của phương Đông, logic của nền văn hóa Nga non trẻ nhận lấy. Chúng ta thấy rằng chính ngay các nền văn hóa Đông phương không sợ hãi sự “giải kiến tạo hậu hiện đại”, bởi vì khác với văn hóa Tây phương, chúng vẫn đang là những nền văn hóa sống, vẫn còn giữ được sự Thống Nhất bề sâu của Ý Chí. Ở đây xảy ra một thứ nghịch lý hình thức: vào thời hậu hiện đại, sự phá hủy tính toàn vẹn, sự giải kiến tạo và sự phân mảnh của một nền văn hóa (Tây phương) lại cho phép tất cả các nền văn hóa còn lại trước đây từng bị nó chế áp cuối cùng có được tính toàn vẹn của mình, thoát được sự phân chia giả tạo ra thành các khu vực và mảng miếng, và chấp nhận hình thức cổ xưa của mình. Có thể nói về một chủ nghĩa hậu hiện đại đặc biệt của phương Đông mà nếu chưa phải đã được sinh ra thì là cũng đang sinh ra ngay trước mắt chúng ta. Cái khác biệt cơ bản của nó với dạng thức Tây phương là ở chỗ “nếu chủ nghĩa hậu hiện đại Tây phương chỉ đơn giản là trò chơi và sự vô nghĩa, thì chủ nghĩa hậu hiện đại Đông phương là logic ẩn giấu dưới mặt nạ trò chơi và sự vô nghĩa”.
Để hiểu làm cách nào logic (một thứ logic đôi khi rất chặt chẽ và nghiêm ngặt) có thể ẩn giấu dưới mặt nạ của sự vô nghĩa, của trò chơi phi lý, cần lấy hiện tượng công án thiền làm thí dụ[6]. Công án – đó là cách dùng hình thức lời dạy để đưa ra phép tu tập trực tiếp của các thiền sư vĩ đại đời Đường, họ giúp cho các đệ tử của mình đốn ngộ trực tiếp, bỏ qua nhiều khâu trung gian[7]. Trong thiền – một sự tổng hợp của phật giáo và lão giáo, phép tu tập này chính là đóng vai trò của “chủ nghĩa hậu hiện đại đông phương”, trở thành vũ khí của giới tu hành tự nhiên phía nam Trung Hoa dùng để bẻ gãy học thuyết tín điều truyền từ Ấn Độ sang. Công án thiền rèn luyện phép tu tập này dưới dạng lời nói nhìn ngoài thì hoàn toàn giống như một trò chơi, một sự khờ khạo – toàn những lời đối đáp phi lý, những hành động bột phát vô nghĩa, những tiếng la hét, những cú đánh bằng gậy, v.v. – nhưng hóa ra đó lại là cách duy nhất chỉ ra được cái thực sự nghiêm túc. Logic của công án – đó là logic của cái phi lý, bẻ gãy những chuẩn mực quen thuộc của lẽ phải thông thường, phá tan tảng băng thâm căn cố đế của “lý tính phổ thông” để rồi sau đó, khi đã cân bằng được trên các mảnh vỡ này, nó sẽ khiến con người đốn ngộ.
Có thể so sánh logic của Dostoevsky, đúng hơn là logic của các tiểu thuyết của Dostoevsky, với logic của công án. Cả ở đây và ở kia đều là sự chất chồng những hành động, những đối đáp, những độc thoại nhìn ngoài là hợp lý, mỗi thứ đó lấy tách riêng ra thì dường như là logic và hợp lý, nhưng gom lại với nhau chúng tạo thành một hỗn hợp nổ hủy diệt toàn bộ. Chức năng của vụ nổ tinh thần này là vứt con người ra ngoài giới hạn của “lẽ phải thông thường” và “tư duy phổ thông”, “giật đổ ngọn tháp”, bẻ gãy chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa duy vật mà Dostoevsky coi là những kẻ thù chí mạng của mình. Cả ở Dostoevsky, các thiền sư và vị linh mục Hồi giáo Nasreddin[8] đều diễn ra “tư duy giữa những dòng chữ”, bài tập logic phi lý, thứ logic vỡ ra chỉ ở những chỗ đứt gãy và hư hỏng của logic Tây phương. Ở đâu tính duy lý Tây phương bị gãy đổ và vỡ vụn, ở đâu nó tỏ ra hao hụt và bất lực, ở đâu nó phải đánh nhau chí chết với chính mình, ở đó tư duy Đông phương có được những hình thức phù hợp nhất với nó. Đây là đang nói về một thứ “logic siêu lý” – logic dùng các diễn tiến có vẻ “hợp lý” bề ngoài chỉ như công cụ phụ trợ. Logic này là khó hiểu đối với con người Tây phương ‘quy phạm”, không biết “suy nghĩ giữa các tư tưởng”, hắn chỉ thấy là hoàn toàn phi lý và vô nghĩa – con người Đông phương thì thấy và cảm được logic đó. Khúc quanh khó lường của tư duy Đông phương giống như đường bay của trái banh quần do các cây vợt đánh lên (đóng vai trò các cây vợt ở đây là những luận chứng “duy lý” và các phương tiện của ngôn ngữ đời thường). Tư duy Tây phương bị giới hạn bởi cấp độ lý tính thực dụng không nhìn thấy gì ngoài những cây vợt vung lên trong không trung đó, còn tư duy Đông phương thì có khả năng nhìn thấy cả bản thân trái banh, cả những họa tiết nó vẽ lên trong không trung. Điều quan trọng phải hiểu là đây đang nói vềlogic. Ở đây chúng ta liên quan không phải với tính phi lý, không phải với sự vô lý, không phải với sự hỗn loạn và vô nghĩa (những cái mà nghệ thuật mang tính hậu hiện đại bề ngoài thường lấy làm tiêu khiển cho mình), mà là với logic nghiêm ngặt không kém logic Tây phương nhưng được xây dựng theo cách khác. Đơn giản đó là một thứ logic khác, vượt ra ngoài thứ lý tính tầm thường của phương Tây do Descartes vạch ra. Giống như trong khoa học logic ngoài logic học cổ điển của Aristotle còn có những hệ thống với bộ tiên đề khác (nơi nguyên lý loại trừ cái thứ ba, quy luật phủ định kép bị phá vỡ, nơi quy luật mâu thuẫn hiện ra hoàn toàn khác), thì trong lĩnh vực tinh thần, xét tổng thể, cũng có những tâm thức khác nhau với logic khác nhau vốn có của chúng. Lĩnh vực trong suốt, tự sáng rõ ở mỗi nền văn hóa được xây dựng theo cách của mình, với những quan hệ và quy luật bên trong của mình. Tính duy lý Descartes làm cơ sở cho cách nhìn thế giới của phương Tây chỉ là một trong những phương án có thể có.
Để thực hành logic Đông phương vào thời Dostoevsky, khi phương Tây đang ở đỉnh cao, còn tâm thức Tây phương đang vững như bàn thạch, cần phải có những thiên tài sinh ra, giống như chính Dostoevsky, hoặc Rozanov (người cũng am hiểu “tư duy giữa các tư tưởng” và logic của cái phi lý). Hiện nay nhiệm vụ này đã thành đơn giản hết mức. Tâm thức Tây phương đã tự bẻ gãy mình và tan ra thành những mảng rời, biến thành patiche, thành hổ lốn. Và bây giờ logic tự nhiên của phương Đông, cái logic sống tự nhiên trong tâm hồn mỗi con người Đông phương, có thể kết hợp những mảng này lại theo cách của mình, dùng chúng như một mã số mà chỉ những người có cùng một kiểu tâm hồn mới hiểu được.
Ý Chí Thống Nhất từng đứng đằng sau văn hóa Âu châu, điều khiển sự phát triển của nó, gắn nó thành chỉnh thể thống nhất, áp đặt logic của nó, hiện nay đã ra đi, và văn hóa Tây phương dường như bị bỏ hoang. Những phân mảnh của nó hiện nay bất lực trước phương Đông, bởi vì khác với phương Tây, phương Đông vẫn chưa tiêu hết Ý Chí của mình, vẫn chưa hoàn toàn truyền hết nó vào thế giới xung quanh. Các cặp đôi bản chất /hiện tượng, ký hiệu /nghĩa chưa rời bỏ các nền văn hóa của phương Đông, và hiện giờ chúng ta có thể đặt Ý Nghĩa của mình, Bản Chất của mình, Ý Chí của mình lên trên những phân mảnh đã bị mất đi tải trọng ý nghĩa của nền văn hóa khác.
Đó không đơn giản là cách vô hiệu hóa và thực lợi hóa tâm thức Tây phương đang rệu rã, mà đó còn là con đường bành trướng. Vấn đề là nhìn từ góc độ của chính hậu hiện đại, thứ logic Đông phương vô ngôn, khó diễn đạt bằng các thuật ngữ lý tính Tây phương, là ẩn khuất, khó thấy. Thao tác “giải kiến tạo ý nghĩa” mà nghệ thuật hậu hiện đại đang làm, có khả năng làm nổi chỉ với lý tính Tây phương. Logic Đông phương dễ dàng đi qua cái rây này. Về nguyên tắc, có thể đem logic Đông phương ẩn kín này đổ đầy vào các sản phẩm hậu hiện đại của văn hóa đại chúng bề ngoài không khác gì phương Tây rồi xuất chúng sang thị trường Tây phương. Con người Tây phương gần như đã mất đi tâm thức tự nhiên của mình, khi tiêu thụ các sản phẩm của hậu hiện đại Đông phương, sẽ hấp thụ vào mình logic Đông phương có sẵn trong đó, sẽ dần dần tự cải tạo từ bên trong theo nếp Đông phương. Thế nghĩa là, chủ nghĩa hậu hiện đại Đông phương – đó còn là một hình thức cứu thế đặc biệt, đó là khả năng đặt vào tâm hồn con người Tây phương ý chí Đông phương, hướng hắn về phía người Nga, và do đó cứu vớt phần còn lại của nhân loại phía Tây thoát khỏi sự suy thoái tinh thần hoàn toàn. “Có thể hình dung một bệnh nhân tâm thần phân liệt thực sự, để tránh bị bắt nên phải khoác mặt nạ nhà hậu hiện đại. Sự giảo quyệt Đông phương có thể ngụy trang mình dưới chính mặt nạ “chủ nghĩa hậu hiện đại” như thế”.
Ngân Xuyên dịch từ nguyên bản tiếng Nga
Chú thích [1] Tiếp đây trong bài tôi đưa ra sự trình bày hậu hiện đại dưới góc nhìn logic học của chính phương Tây, tức là từ góc nhìn của siêu hình học Tây phương. Trong hoàn cảnh khác bài giảng này có thể là thừa, nhưng tôi thường gặp phải trường hợp là mặc dù từ ‘hậu hiện đại” đã đi vào tiếng Nga từ lâu, nhưng nhiều người có học hẳn hoi (đặc biệt những người thuộc phe truyền thống) lại có hình dung rất lạ lùng về hiện tượng này (thường là họ dựa trên kinh nghiệm làm quen với những biểu hiện của “chủ nghĩa hậu hiện đại” trong văn hóa đại chúng). Vì thế tôi xin phép giới thiệu một số nguồn tư liệu khái quát. Sự phân tích hậu hiện đại như một thời đại, trong tất cả các biểu hiện của nó, có thể xem: F. Jameson. Postmodernism or The Cultural Logics of Later Capitalism. Durham, 1991. Lý thuyết và phương pháp luận của chủ nghĩa hậu hiện đại: R. Harland. Superstructuralism. The Philosophy of Structuralism and Poststructuralism. N.Y., 1987. Tài liệu tốt nhất trong tiếng Nga là: И. Ильин.Постструктурализм. Деконструктивизм. Постмодернизм. М., 1996; он же.Постмодернизм. М., 1998.
[2] F. Jameson đã tóm tắt định nghĩa trong công trình nêu trên của ông
[3] Về sự khác nhau giữa pastiche và parody, xem công trình đã nêu của F. Jameson.
[4] Nội dung phần này gắn chặt với nội dung bài viết của tôi Восточный постмодернизм //”Русский журнал”. Tất cả những đoạn như trích dẫn trong phần này đều lấy từ đó.
[5] Xin nhắc lại một lần nữa rằng trong bài này “Phương Đông” là dùng để gọi tích hợp Phi-phương Tây, còn “con người Đông phương” là tên gọi tổng hợp để chỉ những đại diện của các nền văn hóa phi Tây phương. Và dù cố nhiên là mỗi nền văn hóa này có “logic Đông phương” riêng của mình, nhưng vẫn có một cái chung thống nhất chúng lại – cái đối lập chúng với phương Tây và tính duy lý Tây phương. Ngoài ra, cần lưu ý rằng trong bài này từ “phương Đông” và “Đông phương” thường được dùng như đồng nghĩa với các từ “Nga” và “tính nga”.
[6] Đề tài thiền và logic của cái phi lý đã được khảo sát kỹ trong bài của tôi Восточный постмодернизм: логика абсурда и “мышление между строк”, từ đó lấy ra đoạn này với một vài sửa chữa. Ngoài ra, sự đối chiếu mở rộng về chủ nghĩa hậu hiện đại và thiền tông có thể đọc trong một bài khác: С. Корнев. Столкновение пустот // ”Новое Литературное Обозрение”. No. 28 (1997). (См. раздел “Пустота Пелевина и Пустота Фуко”)
[7] Генрих Дюмулен. История Дзэн-буддизма. Индия и Китай. СПб., 1994. С. 270.
[8] Có thể tìm thấy truyện ngụ ngôn về linh mục Hồi giáo Hodge Nasreddin trong sách Идрис Шах. Суфизм. М., 1994. С. 81-124.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 28, 2022 0:48:14 GMT 9
Âm Dương và Mâu Thuẫn Nguyễn Văn Ba
Ta thử mở nắp sau của cái đồng hồ ra xem. Tic-tắc, Tic.tác, Tic.tắc... bánh xe giây gió xoay tròn bên trái, rồi xoay tròn bên phải, trở lại xoay bên trái rồi xoay bên phải nữa, cứ xoay qua xoay lại không ngừng, đun đẩy các bánh xe khác chạy vòng tròn, hoàn thành một cái máy chỉ ngày giờ không sai. Con người ta cũng sống trong cảnh nhịp nhàng như thế. Thở ra rồi lại hít vào, rồi lại thở ra hít vào không phút nào ngơi, đun đẩy dưỡng khí vào châu thân để bài tiết thán khí ra ngoài. Mặt trời và quả đất không đun lẫn đẩy nhau, thì làm sao có bốn mùa, tám tiết. Ánh sáng và bóng tối phải đun đẩy lẫn nhau mới có sớm tối, trưa chiều. Có sinh, lão, bịnh, tử là do đun đẩy của sự tử và sự sinh. Một vật gì cũng có nửa sống nửa chết trong lòng mình hết. Cho đến ánh sáng, âm thanh, điệnn khí, đất trời là việc lớn, còn việc nhỏ như một thoi từ-thạch, mộ hột cát, một nguyên tử cũng có hai phần đun đẩy lẫn nhau mà tồn tại. Kia xem con sâu đo, nó cong mình lại là lấy sức để giản ra; con trùng mà có nấp ẩn dưới đất là đễ có khi phải trồi lên ! Sự co giãn, ẩn hiện, đun đẩy, vãng lai có nhịp nhàng của hai phần trong mọi vật, đang diễn một cách êm lặng, điều hòa, cảm thông và tồn tại trong mọi quá trình phát triển, suốt từ đầu chí cuối của vạn vật không phút nào ngừng. Sự đun đẩy vãng lai có nhịp nhàng là căn bản sự sống còn của vũ trụ, là hơi thở của vũ trụ vậy. Ta thử ngưng hơi thở ấy thì vũ trụ liệu còn tồn tại được chăng ? Hai phần tương đối, đun đẩy lẫn nhau trong mọi vật, là nòng cốt của sự vật: Ta thử rút một phần trong hai phần ấy, thì liệu sự vật còn đứng vững được không ? Hai phần tương đối đun đẩy lẫn nhau để cho vạn vật sinh tồn, thật là rõ rệt, không ai chối cãi được. Nhưng gọi nó là gi ? Thượng cổ gọi là Âm Dương, cận đại gọi là Mâu Thuẫn. Vậy, Mâu Thuẫn là gì? Hồi xửa hồi xưa, có anh chàng bán mâu ở giữa chợ, hò hét quảng cáo mâu mình là bén nhọn đâm vật gì cũng thủng, không có vật gì chịu nổi. Ít lâu, anh chàng ấy dẹp nghề bán mâu mà lại làm nghề bán thuẫn. Anh cũng hò hét quảng cáo rằng thuẫn mình bền và chắc, không có vật gì đâm thủng, ở thế gian dầu vật gì bén và chắc đến đâu cũng không sao đâm cho thủng được, Có người biết chuyện, hỏi rằng : « Lấy cái mâu của anh mà đâm cái thuẫn của anh, thì có thủng được không ? ». Chàng ta không sao đáp được. Đó là anh nói mâu thuẫn với lời anh đã nói trước; anh đã đưa ra hai lẽ, mà hai lẽ đó chọi với nhau, tranh đấu với nhau không sao thống nhứt được. Gần một trăm năm nay, khoa học cơ giới phát triển trong mọi ngành, đem thuyết điện nóng (+), điện nguội (-) áp dụng trong số học, hình học, lực học, vật lý học, hoá học, xã hội học, chiến tranh học. Càng học và càng suy luận, các nhà tiến bộ càng nhìn nhận mâu thuẫn phổ biến tất cả, mọi vật đâu đâu cũng có hai phần, tranh đấu với nhau khiến cho mọi vật tiến hóa và tồn tại. Có người, đến nổi phải nói: « Không có mâu thuẫn, không có thế giới ». Có người cũng nói: « Mâu thuẫn là cơ sở của hình thức vận động đơn giản nhứt mà cũng là hình thức vận động phức tạp nhứt ». Có người cũng nói : « Mâu thuẫn chẳng những ở thế giới vật chất mà thôi, lại còn ở thế giới tư tưởng nữa: Mâu thuẫn khách quan phản ánh vào tư tưởng « chủ quan », tổ hợp thành vận động mâu thuẫn về khái niệm làm cho tư tưởng phát triển ». Có người cũng nói : « Mâu thuẫn phải có hai bên, mất đi một bên (hoặc mâu, hoặc thuẫn), thì bên kia không có nữa ». Nói tóm tắt Mâu thuẫn có một tính thứ nhứt là: Phổ biến tính. Tính phổ ấy vừa cần yếu vừa tuyệt đối. Tính thứ nhì của mâu thuẫn là Đặc Thù Tính. Mâu thuẫn trong hình thức vận động của vật chất đều có mang tính đặc thù. Tính đặc thù là tính riêng biệt cho mỗi mâu thuẫn. Ví dụ: trong cục đá và hột gà cũng đều có mâu thuẫn (phổ biến tính) nhưng mâu thuẫn của hột gà và mâu thuẫn của cục đá khác nhau: hột gà ấp thì nở được gà con, cục đá ấp không nở được gà con (đặc thù tính). Các đặc thù trong Mâu thuẫn cấu thành bản chất đặc thù giữa sự vật để khu biệt một vật này với một vật khác. Tính đặc thù là nguyên nhân nội-tại, khiến cho mọi việc trong vũ trụ đều ngàn muôn sai biệt với nhau. Việc chia loại trong sự nghiên cứu về khoa học vốn căn cứ vào tính cách Mâu thuẫn đặc thù có sẵn trong đối tượng khoa học. Do dó, đối với một lãnh vực hiện tượng nào, là có riêng một sự nghiên cứu về một thứ Mâu thuẫn đặc thù ấy, đễ cấu thành đối tượng của môn khoa học muốn nghiên cứu. Vì có Mâu thuẫn đặc thù và bản chất đặc thù, mới cấu thành đốii tượng nghiên cứu không đồng nhau của các môn khoa học. Nhận thức của loài người xuyên qua hai quá trình: một quá trình từ chỗ đặc thù đến chỗ tổng quát, và một quá trinh từ chỗ tổng quát đến chỗ đặc thù. Do sự nhận thức tới và lui như thế của nhân loại mà làm cho sự nhậ thức của nhân loại càng được cao lên mãi. Trong vấn đề đặc thù tính của mâu thuẫn, có vấn đề mâu thuẫn chủ yếu. Sự vật ít khi đơn giản, mà là rất phức tạp nên có tồn tại rất nhiều mâu thuẫn đặc thù ; và cũng vì sự vật phải trải qua những quá trình phát triển, nên các mâu thuẫn đặc thù phát triển không đồng đều nhau. Có lúc mâu thuẫn đặc thù này trở thành mâu thuẫn chủ yếu, chi phối ảnh hưởng hoặc qui định sự tồn tại và phát triển của các mâu thuẫn khác, Có khi mâu thuẫn đặc thù khác, tùy nơi, mà thay đổi địa vị, từ địa vị phụ chuyển thành địa vị chủ yếu. Vậy nên, ta có thể tóm tắt hai tính của mâu thuẫn như thế này: Phổ biến tính vừa là cần yếu, vừa là tuyệt đối, Còn Đặc thù tính vừa là có chủ yếu vừa là tương đối. Các học giả cận đại khi khảo sát xong hai tính phổ biến và đặc thù của mâu thuẫn lại còn học nghiệm đến hai phương diện biến chuyển của mâu thuẫn. Trong một sự thể, mâu thuẫn này lấy mâu thuẫn kia làm điều kiện để tồn tại, hai mâu thuẫn cùng ở trong một thể, ở trong một thống nhất thể. Hai mâu thuẫn cùng ở trong một thống nhất thể, biến chuyển trên hai phương diện khác nhau: a) – Phương diện Đồng nhất b) - Phương diện Đấu tranh. Về phương diện Đồng nhất, thì hai mẫu thuẫn căn cứ trên điều kiện nhất định nào để lo chuyển hóa cho nhau. Ví dụ: Chiến tranh và hòa bình cùng hổ tương chuyển hóa. Nếu chuyển hóa được, thì có thể hợp tác được, liên kết được, ỷ lại được, quán thông được, nhất trí được và thống nhất được. Về phương diện Đấu tranh, hai mâu thuẫn không căn cứ trên một điều kiện nào, tương hại tàn sát lẫn nhau. Trong vấn đề mâu thuẫn đấu tranh có bao hàm hình thức đối kháng. Đối kháng là một trong nhiều hình thức mâu thuẫn đấu tranh chớ không phải là tất cả hình thức mâu thuẫn đấu tranh. Trong lịch sử đấu tranh loài người, nhiều mâu thuẫn đã được giải quyết, nhưng trong mâu thuẫn đấu tranh, còn có một vài biểu hiện đặc thù như sự mâu thuẫn giữa số người bị bóc lột và số người bóc lột vậy. Không luận ở xã hội nào, hình thức đối kháng ấy vẫn còn và cứ phát triển mãi, cho đến lúc gặp điều kiện thuận thích, là lúc được chín mùi, thi hai mâu thuẫn giải quyết nhau bằng hình thức đối kháng. Trong khi các mâu thuẫn biến chuyển trên hai phương diện Đồng Nhất và Đấu Tranh, thì sự vật trải qua ba giai đoạn: - Giai đoạn sát - Giai đoạn sinh - Giai đoạn giải quyết cục bộ hoặc tạm thời. Giai đoạn sát là những giai đoạn hai mâu thuẫn đấu tranh tàn sát lẫn hại nhau mà tự diệt. Giai đoạn sinh là những giai đoạn hai mâu thuẫ biến chuyển trên phương diện Đồng Nhất, hợp tác, tương tợ, thống nhất. Giai đoạn giải quyết cục bộ hoặc tạm thời, là những giai đoạn mà trong khi chưa sát, chưa sinh, nảy sinh ra giai đoạn thứ ba là giai đoạn được giải quyết mặc dù bằng cục bộ hoặc tạm thời. Nhưng, muốn giải quyết mâu thuẫn phải làm sao, trên nguyên tắc nào ? Với phương pháp nào? Trên hai nguyên tắc: a)- Mâu thuẫn không đồng chất chỉ dùng phương pháp không đồng chất mới có thể giải quyết được b). Quá trình cũ thì mâu thuẫn cũ đã tiêu diệt; quá trình mới thì mâu thuẫn mới phát sinh ra. Do đó mà phương pháp giải quyết mâu thuẫn cũng phải tùy theo quá trình phát triển. Phương pháp giải quyết mâu thuẫn là làm thế nào bộc lộ được mâu thuẫn trong quá trinh phát triển của sự vật ở nơi tính đặc thù trên tổng thể, căn-cứ ở sự hỗ tương liên kết của nó, tức là bộc lộ bản chất trong quá trình phát triền của sự vật, cũng tức là bộc lộ tính đặc thù của mâu thuẫn trong quá trinh tiến triển của sự vật ấy trên mọi phương diện. Tồng kết : 1 - Những học giả cận đại tin tưởng ở sự phát minh Mâu Thuẫn của họ; 2 - Vì mỗi mâu thuẫn đều có tính đặc thù của nó, nên mọi mâu thuẫn đều phải giải quyết riêng biệt và phù hợp với nó; 3 - Phép tắc giải quyết mâu thuẩn là phép tắc thống nhút mâu thuẫn, căn-cứ trên sự biến chuyển mâu thuẫn theo phương diện Đồng Nhất 4– Do đó, ở xã hội tương lai không còn mâu thuẫn Đấu Tranh dầu dưới hình thức Đối Kháng, mà chỉ còn tồn tại Mâu Thuẫn Đồng Nhất, đem hợp nhất và hòa-bình cho nhân loại. Đó là ý kiến của học giả cận đại, đương cố gắng thực hành lập trường của họ. Còn những bậc cao minh thượng cổ đã đặt vấn đề ra sao ? Các bậc cao minh thượng cổ bắt đầu từ Phục-Hi, rồi đến Văn-Vương, Chu-Công, Khổng-Tử, Chu-Tử, Trinh-Tử đặt vấn đề trên Dịch-Lý, khởi điểm bằng Âm-Dương, giải quyết vấn đề lấy Trí-Trung-Hòa làm đích, lấy Thuận-Lý, Ứng-Vật, Tùy-Thời làm phương châm, lấy 64 quẻ, 384 hào làm luật pháp biến chuyển, lấy Khắc-Sinh-Chế làm 3 giai đoạn cấu thành sinh hóa của vạn vật, xem vạn vật biến chuyển không nghịch thù, không tương tàn, mà trong Hòa, Lạc. Vậy, Âm Dương là gì ? Như ta đã thấy, vũ trụ này đầy mâu thuẫn không có mâu thuẫn biến chuyền thì không có vũ trụ. Nhưng mâu thuẫn là sự theể, là một sự gì, một vật gì, một thể gì, có đặc thù tính. Vì mâu thuẫn có đặc thù tính nên nó có cá tính, có bao nhiêu mâu thuẫn thi có bấy nhiêu cá tính. Vì mâu thuẫn có đặc thù tính và cá tính, nên trên vũ trụ này có hàng triệu mâu và hàng triệu thuẫn khác nhau, nếu ta có thể phân biệt được. Âm là biểu trong cho hàng triệu mâu ấy, và Dương là biểu tượng cho hàng triệu Thuẫn ấy. Mâu Thuẫn có phổ biến tính, và đặc thù tính, Âm Dương có phổ biến tính mà không có đặc thù tính. Âm Dương là Lý của mâu thuẫn, mâu thuẫn là Thể của Am Dương. Mâu Thuẫn là số-học, Âm Dương là đại- số học, Dịch - lý luận và giải quyết trên lý chớ không trên thê, nên Hệ-Từ có câu : « Phạm vi thiên địa chi hóa nhi bất quá, khúc thành vạn vật nhi bất di. thông hồ trú dạ chi đạo nhi tri; cố thần vô phương, nhi Dịch vô thể ». Nghĩa là: Dịch bao gồm hết sự biến hóa của thiên địa mà không thừa, uốn chuyền theo vạn vật mà không sót, thông hiểu được đạo biến chuyển của ngày và đêm thì cũng thông hiểu được Dịch vậy; cho nên người ta nói thần (cái gì kỳ diệu không đo lường được) không phương hướng, còn Dịch thì không thể chất ». Dịch không thể chất vì Âm Dương là lý của vạn vật, và Dịch là lý biến chuyển của vạn vật. Bởi vậy các bậc tiên hiền Á-Đông không lấy mâu thuẫn làm khởi điểm mà lùi lại thêm một tí nữa, Thuẫn của Mâu lấy cái lý làm khởi điểm vì mâu thuẫn là số nhiều mà Âm Duơng là số đơn. Ở đời này, không ai chối cãi rằng đời là không phức tạp. Có biết bao nhiêu sự thể xảy ra hằng ngày, hằng giờ, mà mỗi sự thể phải giải quyết bằng một cách và phương pháp khác nhau. Hình như ta sống ở trên trần này là đễ giải quyết sự thể, giải quyết được là thành công, không giải quyết được là thất bại, mà sự giải quyết biến đổi vô cùng, mỗi lần mỗi cách khác nhau. Con người ta không thể mỗi lần mỗi bắt lại từ đầu, mỗi sự thể mỗi công phu, mỗi sự thể mỗi gay go, mỗi sự thể mỗi bài toán đố nát đầu nát óc. Các bậc tiên nho ta nói: « Không thể lấy vạn biến mà ứng vạn biến, phải lấy bất biến mà ứng vạn biến mới được ». Âm Dương tất là bất biến, còn vận biến tức là muôn nghìn sự thể ở đời. Tuy muôn nghìn vấn đề có muôn nghìn cách giải quyết, nhưng cái đích của muôn nghìn cách giải quyết ấy không ngoài sự di đến chỗ Trí Trung-Hòa. Trí-Trung Hòa là chỗ rất trung và rất hòa. Trung là giữ được thăng bằng để tồn tại, còn hòa là để điều hòa với vũ trụ để hanh thông. Giữ thăng bằng để tồn tại, và điều hòa đề hanh thông mới « lợi, trinh » được, nghĩa là mới toại mãn và thành đạt được, theo chữ của Dịch-Kinh. Tuy muôn nghìn sự thể nhưng giải quyết để đi đến một mối mà thôi. Trong Hệ-Từ, Khổng-Tử nói: «Thiên hạ hà tư hà lự, thiên hạ đồng qui nhi thù đồ, nhứt trí nhi bách lự». Nghĩa là : Thiên hạ nghĩ gì, lo gì? Thiên hạ qui về một chỗ tuy con đường thì khác, trăm lo về một mối ». Mối ấy là Tri-Trung-Hòa là con đường duy nhất để tồn tại và thành đạt, điều hòa theo vũ trụ. Giải quyết vấn đề đến chỗ Tri-Trung-Hòa đã đành, nhưng lấy gì làm phương châm trong khi giải quyết ? Lấy Thuận-Lý, Ứng-Vật, Tùy-Thời làm phương châm vậy. Trong khi giải quyết vấn đề, không nên lấy đa số thắng thiểu số mà làm phương châm, vì như thế không sao tránh khỏi những sự mưu mô áp đảo. Phải thuận theo Lý của vũ trụ, ứng theo sự thể của sự vật, và bao giờ cũng tùy theo cho đúng lúc đúng Thời mới thi hành một việc mới được. Thi hành được việc mới, tức là đã giải quyết việc cũ vậy. Cho nên trong quẻ Càn, Trình Tử có nói khi thuận lý, ứng vật, tùy thời được rồi, thì « làm trước trời, trời cũng đồng lòng; mà làm sau trời, trời cũng ưng thuận, bởi chẳng qua cái lẽ hợp với lý đương nhiên mà thôi. » Nhưng lẽ hợp với lý đương nhiên là như thế nào ? Tiền bối ta sở dĩ tìm được 64 luật biến chuyển của vũ trụ và 384 hào chỉ thời cơ biến chuyển trong 64 luật ấy là cũng vì tiền bối ta vô tư mà « cực thâm nhi nghiên cơ » nghĩa là rất sâu sắc mà nghiên cứu nguyên nhân biến chuyển của sự vật. Nghiên cứu vì muốn tìm lẽ phải để lại cho đời, chớ không vì muốn binh vực phe nào, phái nào, hoặc lập luận cho tư tưởng hay cho thị dục của mình, 64 luật biến chuyển ấy là định luật của vũ trụ và con người, không gian và thời gian. Trước kia có 8 quái, sau tìm được 64 quẻ, sau chia làm 384 hào. Ngày nay, các bậc cao minh hiện đại, sau khi « cực thâm nhi nghiên cơ », có thể làm giàu thêm cho Dịch bằng những quẻ và hào mới. Luật Vũ Trụ là sinh sinh, hóa hóa để thành đạt, Phục-Hi nhìn Hà-Đồ mà vạch 8 quái và định luật sinh thành của vũ trụ : Thiên nhất sinh thủy, địa lục thành chi; Địa nhị sinh hỏa, thiên thất thành chi; Thiên tam Sinh mộc, địa bát thành chi; Địa tứ sinh kim, thiên cửu thành chi; Thiên ngũ sinh thổ, địa thập thành chi. (Xin nhớ : Thủy, hỏa, mộc, kim, thổ là những danh từ biểu tượng). Sự Sinh Thành ấy trải qua ba giai đoạn Khắc Sinh Chế. Ví như mộc khắc thổ, thổ chưa bị hại thì trong khi bị kích thích lại Sinh ra Kim; kim mới nảy sanh trong trường hợp đặc biệt ấy trở lại chế mộc để mộc không khắc thổ nữa. Sự khắc rồi lại không khắc, rồi lại khắc rồi lại không khắc cứ liên tiếp như vậy với một tốc lực mau hay chậm tùy sự vật, Hành mộc đã khắc sinh chế và sinh hóa đạt thành như thế, mấy hành khác cũng đều như thể cả. Mỗi hành sinh hóa thành đạt sự vật của hành mình; và sự vật của mỗi hành lại cũng theo luật khắc sinh chế ấy mà sinh hóa thành đạt riêng theo phương diện mình nữa, tạo thành một vũ trụ biến chuyển phức tạp vô cùng. Âm Dương, trong khi khắc sinh chế, mà hóa thành sự vật, không phải xung đột nhau mà khắc sinh chế, cũng không phải thù nghịch nhau mà khắc sinh chế. Mới khởi sự khắc (tức là kích thích) thì đã có sinh, mới vừa sinh thì đã có chế, chế được rồi mới sinh sinh hóa hóa được. Trong quẻ Đại Tráng, Trình Tử có nói : Dịch là hòa dịch, lạc dịch chớ không phải nan dịch,» nghĩa là hòa thuận mà biến chuyển, vui vẻ mà biến chuyển, chứ không phải khổ sở mà biến-chuyển, không phải thù nhau mà biển chuyển. Trong Hệ Từ, Không tử nói : Dịch không suy nghĩ, không làm gì, yên lặng tự nhiên, chỉ tương cảm mà hạnh thông với nhau (Dịch vô từ dã, vô vi dã, tịch nhiên bất động, cảm nhi toại thông), Muốn được tương cảm với nhau thì phải có thuận rồi mới động được, phải hòa thuận rồi mới tiến hành được (Động nhi dĩ thuận hành). Trình-Tử có nói thêm rằng: « Hóa dục chi công sở dĩ bất tức giả, cương chính hòa thuận nhi dĩ ». Nghĩa là : Công đức của Hóa-Dục sở dĩ không ngừng nghỉ, là chỉ vì luật vũ trụ lập trên Cương, Chính và Hòa Thuận vậy. Suy luận khởi điểm từ Âm-dương là lý của các hiện tượng mâu thuẫn, dùng những 64 luật của Âm-dương bao quát cho muôn sự thể, để giải quyết muôn sự thể trên tính cách điều hòa cho đến trạng-thái Trí-Trung-Hòa, « dĩ bất biến (Âm Dương) ứng vạn biến (muôn sự thể) » chớ không « dĩ vạn biến (Mâu Thuẫn) ứng vạn biến », (muôn sự thể) « nhất Bản nhi vạn thù» dùng một gốc mà trị được muôn mối khác nhau, đó là những đặc điểm của Dịch-lý. Khổng Tử nói: « Suy nghĩ kỹ càng về Dịch-lý, đem ra thi hành lợi ích cho dân, đó là SỰ NGHIỆP của CON NGƯỜI vậy ». Chắc độc giả cũng đồng ý. NGUYỄN-VĂN-BA Nguồn: Tạp Chí Bách Khoa số 27
|
|
|
Post by Can Tho on Oct 12, 2023 0:15:03 GMT 9
BI KỊCH CỦA CN KHỔNG TỬ & CN MÁC Bài: Đào Hiếu.
Khổng Tử và Các-Mác đều là triết gia. Cả hai đều muốn áp dụng học thuyết chủ nghĩa của mình cho cả thiên hạ. Cái “thiên hạ” của Khổng Tử là quần thể các nước thời Xuân Thu. Còn cái thiên hạ của Mác là các nước nghèo trên thế giới. Cả hai đều không câu nệ đến vấn đề biên giới, dân tộc, mà có tham vọng dùng học thuyết của mình để mưu cầu hạnh phúc ở bất cứ nơi đâu. Và cả hai đều đã thất bại thê thảm. Tại sao?
Con người có hai Bản Năng Gốc. Freud gọi bản năng thứ nhất là Libido (tính dục), và La Rochefoucauld gọi bản năng thứ hai là Egoism (lòng ích kỷ). Lòng ích kỷ khiến con người luôn hướng về “tư hữu”. Bản năng truyền giống khiến con người luôn hướng về “sắc dục”. Hai thứ bản năng ấy chi phối mọi sinh hoạt, mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi cảm xúc của loài người. Mác muốn xóa bỏ “tư hữu”, tức là muốn đánh vào cái bản năng gốc quan trọng của con người. Khổng tử cũng mắc sai lầm tương tự khi muốn dùng “lễ nhạc” để trị thiên hạ trong khi thiên hạ đang đói rách, đang tranh dành miếng ăn mà chém giết nhau cuồng loạn trong thời Xuân Thu. Đó là thời đại mà giới cầm quyền các nước toàn là bọn hôn quân vô đạo, con giết cha, vợ giết chồng, cha con loạn dâm, cái bản năng “tính dục” (libido) và bản năng “giành ăn” hoành hành dữ dội chưa từng thấy. Nếu như Mác muốn tiêu diệt lòng hám lợi của nhân loại thì Khổng Tử muốn dùng lễ nhạc để “bình thiên hạ”, ngăn chặn chiến tranh, đó là vì Khổng Tử chưa được nghe câu nói của họ Mao: “Chiến tranh là trường cửu, hòa bình chỉ là tạm thời.” Và Khổng Tử cũng không nhìn thấy được sức mạnh ghê gớm của cái “tính dục” nên mới có chuyện đang lúc Khổng Tử và vua quan nước Lỗ cúng tế, thực hành Lễ Nhạc thì vua Lỗ lẻn về cung để du hí với mấy nàng kỹ nữ mà nước Tề vừa đem tặng, khiến Khổng Tử thất vọng ê chề, phải bỏ nước Lỗ mà đi. Cả Mác lẫn Khổng đều thất bại vì có tham vọng điên rồ là xóa bỏ những bản năng gốc của con người. Không ai có thể xóa bỏ được chúng, vì chúng do ông trời tạo ra, chúng là bản chất, là máu thịt, là lẽ sống của nhân loại. Bản chất của con người cũng giống như dòng sông: chúng ta không thể xóa bỏ một dòng sông được mà chỉ có thể uốn nắn dòng chảy của nó để nó biến thành nguồn nước tưới ruộng đồng, biến thành nguồn điện năng phục vụ đời sống. Nếu chúng ta tìm cách san lấp nó, nó sẽ chảy sang hướng khác, biến thành lũ lụt hủy diệt môi trường, hủy diệt con người. Đáng buồn là cả Mác lẫn Khổng đều không biết điều đó. Khổng Tử là một “thiên tài” nhưng ông không hiểu được một câu nói rất bình dân, rất đơn giản là: “phú quý sinh lễ nghĩa” chứ không phải lễ nghĩa sinh phú quý. Muốn có lễ nghĩa chỉ cần làm cho dân giàu. Nếu để dân nghèo thì “bần cùng sinh đạo tặc.” Mác cũng là một “thiên tài” nhưng ông ta cũng không hiểu được một câu châm ngôn rất mộc mạc của chị tiểu thương ngoài chợ: “đồng tiền đi liền khúc ruột”. Câu nói ấy phải được hiểu: “tư hữu là mạng sống của con người.” Vậy muốn cho con người sống cho ra sống thì phải giúp họ tạo ra nhiều “tư hữu” chứ không phải tìm cách tiêu diệt “tư hữu”. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh là khi tiêu diệt tư hữu của nhân dân thì người ta lại tập trung tư hữu vào một nhóm người cầm quyền. Cả hai nhà tư tưởng lớn của nhân loại sở dĩ đều thất bại ê chề vì đã không hiểu gì về cái “bản năng gốc” của nhân loại. Có thể có người dè bỉu cho rằng “lòng ích kỷ” và “tính dục” không phải là bản chất của con người mà chỉ là “thú tính” cho nên cần phải ngăn chặn nó. Xin thưa, đó không phải là thú tính. Đó là bản chất của muôn loài, bao gồm cả con người. Nhưng vì con người có trí tuệ vượt trội các động vật khác nên biết cách “thăng hoa” (sublimer) những bản chất ấy. Nếu chúng ta đi sâu vào những lý giải của La Rochefoucauld thì lòng ích kỷ cũng chính là cội nguồn của “tình mẫu tử” của “từ thiện” của “lòng bác ái”. Và cái tính dục của Freud cũng bỗng chốc mang vẻ đẹp huyền ảo của tình yêu. Đó là điều mà Freud gọi là sublimation (sự thăng hoa). Chính vì không hiểu “sức mạnh không gì ngăn cản nổi” của hai thứ bản năng gốc ấy nên cả Khổng lẫn Mác đều đã gây ra những hậu quả bi thảm: Khổng Tử muốn xây dựng một nhân loại thái bình sung túc trong đó vua tôi và thần dân đều lấy LỄ mà sống với nhau chứ không dùng đến chiến tranh chém giết lẫn nhau, nhưng trên thực tế thì các chính quyền phong kiến lại dựa vào những ý niệm về trung quân ái quốc, về tam cương ngũ thường để gây chiến tranh khắp nơi, chém giết lẫn nhau, triều đình thì vô đạo, loạn dâm, hoàn toàn đi ngược lại với chủ trương “Lễ Nhạc” của Khổng Tử. Khổng Tử từng bị các đại thần nhà Chu đuổi đi, ông sang Tề cũng bị Án Anh tìm cách từ chối, ông trở về nước Lỗ tiếp tục dạy học. Ở Lỗ ông từng làm quan phụ trách việc xây dựng gọi là Tư Không. Sau đó vua Lỗ ham mê tửu sắc không lo việc nước, Khổng Tử can ngăn không được liền cùng các học trò bỏ đi, hy vọng tìm được cơ hội thực hiện chủ trương chính trị của mình. Tuy nhiên đó là thời đại chiến tranh liên miên nên chuyện lễ nhạc của Khổng Tử không ai để ý tới. Một lần ông và các học trò bị quân nước Trần vây khốn phải nhịn đói mấy ngày, sau nhờ quân nước Sở đến giải vây, tưởng được trọng dụng nào hay vua Sở chết đột ngột, triều thần nước Sở lại đuổi Khổng Tử đi. Mác cũng vậy: ông muốn xóa bỏ áp bức bất công, muốn tạo dựng một thế giới đại đồng không có nạn người bóc lột người, nhưng thực tế học thuyết của ông lại đẻ ra những chính quyền tham nhũng tràn lan, bất kể nhân cách… như trường hợp chính quyền của Stalin, Bắc Triều Tiên, Mao Trạch Đông, Pol Pot… Cả hai học thuyết đều đẻ ra những nhà nước đi ngược lại ý muốn của người khai sinh ra nó. Cả hai học thuyết đều rất đồ sộ nhưng chỉ là những tòa lâu đài không có nền móng. Hơn 2500 năm trước Khổng Tử đã chết trong buồn khổ. Lúc lâm chung, ông đã nói với các đệ tử: -Suốt đời ta mơ một thế giới đại đồng, mơ về một xã hội trong đó mọi người thương yêu nhau, không dối trá, không trộm cắp, ra đường thấy của rơi không nhặt, tối ngủ không cần đóng cửa… Hơn 2500 năm sau Mác cũng từng có những giấc mơ như vậy. Và nếu còn sống đến ngày nay chắc ông cũng sẽ ê chề vì cái di sản kinh hoàng mà mình đã để lại. KẾT: Bản chất của con người là “tư lợi” và “ái dục”. Đó là hai dòng cuồng lưu rất dũng mãnh. Xây dựng xã hội con người không phải là san lấp hai dòng cuồng lưu ấy, mà là biết cách sử dụng, vận dụng và điều khiển chúng. Kẻ nào đi ngược lại điều ấy sẽ chỉ gây ra những tàn phá khủng khiếp mà thôi.
|
|