|
Post by NhiHa on Nov 8, 2008 11:13:15 GMT 9
Noi thatVài kỷ niệm với điêu khắc gia LÊ THÀNH NHƠN Võ Kỳ Điền Tôi và Lê Thành Nhơn là bạn từ thưở ấu thơ, chúng tôi lớn lên ở xóm chợ Thủ Dầu Một thuộc thị xã Phú Cường. Hai đứa học trường Trung Học Tư Thục Nguyễn Trãi tọa lạc trên đường Võ Tánh. Cũng trên con đường nầy cách trường năm chục thước có con hẽm nhiều cây xanh, đầu hẽm là tiệm hủ tiếu Cây Dừa, đi sâu tuốt vô hẽm là nhà Nhơn, căn nhà bằng cây lá đơn sơ, cạnh con rạch nhỏ, bên kia là cầu đúc phía nhà thuốc Võ Văn Vân. Thưở đó mỗi ngày có buổi học tôi thường la cà, lang thang từ nhà, băng ngang qua khu phố chợ, đến nhà Nhơn để rủ đi học chung. Hồi nhỏ, tôi cũng có nhiều bạn nhưng không biết tại sao tôi lại thích cùng Nhơn đi chung hơn là các bạn khác. Có lẽ tánh tình Nhơn hiền lành và ưa chiều chuộng bạn bè. Tôi là thằng nhỏ dễ buồn dễ vui, lại ưa hờn mát, giận lẫy, khó có bạn nào chơi lâu cho được ngoài Nhơn.... Bây giờ nhớ lại từ thời con nít đó cho đến bây giờ, hình như hai đứa chưa hề gây lộn hay đáùnh lộn lần nào. Đến chơi nhà Nhơn có nhiều thú vị lắm. Nhà tuy nghèo nhỏ và đơn sơ, nhưng tôi đâu để ý mấy thứ đó làm chi. Cái tôi thích nhứt là mỗi lần đến, là Nhơn thường bày ra nhiều trò chơi ngộ nghĩnh. Những ngày nghỉ học tôi cùng Nhơn lội xuống rạch bên hông nhà để móc đất sét xám đen dẽo quánh lên phơi khô để nắn tượng. Tôi và Nhơn tha hồ mà nắn trâu, bò, gà, vịt, chó, heo, ông già, con nít... Trò chơi thiệt là vui và kỳ lạ. Tôi vốn làm biếng và thích ở dơ, nên việc vọc bùn vọc đất tay chưn mặt mũi tèm lem tuốt luốt thiệt là hạp. Con người Nhơn toát ra một vẻ gì đặc biệt kỳ lạ lắm, tôi không giải nghiã được. Nhơn có thân hình lực lưỡng, xương to và lộ, da đen mun, mắt lộ, kiểu mắt ốc bươu, ánh mắt sáng quắt và mạnh. Đầu to, tóc quăn xoắn đuôi rùa và xương quay hàm bạnh hẳn ra, mặt vuông hình chữ điền, răng Nhơn trong sáng và đẹp. Không biết vì cạp mía hay cắn vật gì cứng rắn, răng cửa của Nhơn bị mẻ một miếng to, tôi thường nhìn cái răng mẻ như một thói quen khi nói chuyện với bạn. Mỗi lần nhớ tới Nhơn là tôi nhớ cái răng cửa mẻ đó. Thoạt trông Nhơn rất gồ ghề, bậm trợn và gân guốc, vóc dáng bề ngoài dễ sợ như vậy nhưng tánh tình bên trong lại hiền khô. Tuy chơi thân và đến nhà Nhơn mỗi ngày, tôi chỉ biết mẹ Nhơn là một bà già tóc bạc với dáng vẻ phúc hậu. Bà ít nói và sống trầm lặng, tôi hoàn toàn không gặp cha Nhơn lần nào, nghe nói là ông đi làm xa, làm gì tôi không biết, thỉnh thoảng mới đem tiền về để gia đình chi dụng. Nhà có ba anh em trai, hao hao giống nhau, cũng to lớn, mập mập và đen đen. Tên của cả ba thiệt là lạ và hay. Anh Lê Chơn Thành, rồi Lê Thành Nhơn và cậu em út tên Lê Nhơn Thiện. Tên của người nầy lấy làm chữ lót của người kia, tên người kia lấy làm chữ lót cho người nọ... Tôi thích cách đặt tên của ba anh em nhà nầy lắm, rõ là cha mẹ muốn con cái liên kết nhau, ràng buộc gắn bó mà thương yêu nhau hoài hoài. Cũng do cách đặt tên nầy, tôi đoán ba má Nhơn tuy nghèo nhưng chắc chắn phải là người có học thức và có đời sống nội tâm cao. Lúc đó, học sinh Việt Nam còn phải học chương trình thuộc địa, giáo sư dạy môn Sử Địa của chúng tôi là nhạc sĩ Lê Thương (Ngô Đình Hộ) với các bài giảng về cuộc Chiến tranh Thập Tự Giá Một Trăm Năm, Thời Trung Cổ, Thời Phục Hưng...bên Âu Châu, cuộc Cách Mạng Tự Do Dân Chủ 1789, thầy giảng say mê bằng tiếng Pháp giọng Bắc nghe ngộ lắm và chúng tôi học cũng say mê. Tôi cố gắng học bài để được điểm tốt, thi cho đậu cao mà không chịu khó hiểu cho tường tận và ứng dụng được điều gì trong các bài học ở mấy cái xứ gì lạ hoắc đó. Trái lại Lê Thành Nhơn khác tôi. Sau thời gian vọc đất nắn tượng, không biết do đâu và đọc thêm sách nào, Nhơn lại đâm ra say mê môn hội hoạ. Nhà bạn bây giờ lại đầy giấy trắng, thuốc màu và cọ. Tôi lại thấy Nhơn say mê với cọ với màu, và câu chuyện giửa tôi và Nhơn không còn là chuyện đá cá lia thia, đá gà, câu cá, lội sông như thưở trước nữa mà là nghe Nhơn miên man nói về mấy ông hoạ sĩ lạ hoắc như Renoir, Gaugin, Matisse, Van Gogh... gì đó. Mỗi lần nói về trường phái Tượng Trưng, trường phái Siêu Thực, Dã Thú, Lập Thể, Án Tượng... Nhơn nói say sưa, tôi lắng nghe bạn nói, mà không hiểu gì hết trơn. Tôi cũng tin rằng Nhơn biết tôi không hiểu, nhưng mà Nhơn vẫn nói, hình như Nhơn nói cho chính Nhơn nghe. Nói ra được điều mình yêu thích cũng là một thứ hạnh phúc, cần gì người hiểu hay không hiểu. Đến bây giờ thì tôi hiểu được một chút, nói là một nhu cầu và bộc bạch, thố lộ tâm sự là một nhu cầu cần thiết. Bên trong con người Nhơn chất chứa từ đời nào, có thể từ kiếp trước, một thứ đam mê nghệ thuật, rất to, thiệt là to, khó mà hiểu được... Quả tình tôi có chịu khó lắng nghe... mà không cần phải hiểu và quả tình Nhơn có một sở thích mà tôi chưa từng thích bao giờ. Lúc đó cái tôi thích khác hẳn bạn mình. Tôi ngâm nga, ư ử suốt ngày các bài thơ có trong tay, Xuân Diệu, Huy Cận, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Bính... Tôi âm thầm nắn nót chép tay các bài thơ tình trong tập giấy trắng nõn, để lén tặng cho con nhỏ có cặëp mắt thiệt to, học lớp đệ nhị niên (deuxième année) mà tim đập thình thịch. Làm quen với con gái thiệt là khó và run muốn chết, tôi mắc cở mà thú thật với Nhơn như vậy.. Nhơn biết được chuyện riêng tư đó và cười cho tôi tầm thường. Nhơn đôi khi nói với tôi, đời người ngắn ngủi và vô thường, được sống làm người thì phải làm cái gì hữu ích cho xã hội, nhưng đã làm thì phải làm cho vĩ đại, đừng chấp nhận sự tầm thường, hèn mọn... rồi sau đó những mẫu người vĩ đại của Nhơn là Van Gogh, Matisse....lại ào ào tuôn ra. Bạn thường tâm sự với tôi những mơ ước cao xa, những thành công rực rỡ, những viễn ảnh kỳ thú, những sung sướng khi thực hiện được hoài bảo. Nhơn thường nói xa nói gần cho tôi hiểu những kẻ sống không lý tưởng, chỉ cố học cho cao dùng bằng cấp kiếm tiền cho nhiều, sống giàu sang sung sướng bên vợ đẹp, con khôn, sống đời ích kỷ là đáng chê trách. Tôi biết rồi, chuyện vĩ đại mà bạn mình nói là tạo nên những công trình đồ sộ cho nghệ thuật, nghệ thuật hội hoạ, nghệ thuật điêu khắc.... Tôi nghĩ thầm, Nhơn và tôi ở tỉnh nhỏ, lại còn là con nít, học hành đâu có bao nhiêu, nhà lại nghèo thì làm sao làm chuyện gì cho vĩ đại được. Những nhà danh hoạ, điêu khắc mà Nhơn thường ôm ấp trong lòng, thường nhắc tới đó, coi là thần tượng đó, nghe nói họ sống nghèo khổ lắm, không vợ, không con, và chết trong hiu quạnh cô đơn. Những tác phẩm của họ chỉ nổi tiếng sau khi đã chết. Cũng như thầy Nhan Hồi sống thiếu thốn nghèo rớt mồng tơi, vậy mà đức Khổng Tử đã từng khen ngợi -sống trong hẽm nhỏ, một giỏ cơm, một bầu nước, gấp tay gối đầu mà vui với đạo lý, quên đi cái nghèo. Nhà tôi vốn buôn bán và khá giả, tôi không hiểu và thiệt tình không hiểu, thiếu thốn, nghèo khổ làm sao mà vui được, thầy Nhan Hồi hay mấy ông Renoir, Gauguin gì đó... có thiệt vui không, mà chết rồi, nổi tiếng sau khi chết, thì dù đạt được cái danh, họ cũng đâu có biết, sướng ích gì đâu,... Tôi nghĩ như vậy, thương cho bạn (!) và thấy bạn thuộc mẫu người không tưởng, mơ mộng, xa xôi , hão huyền... Sau khi cả hai đậu Trung Học xong, tôi phải xuống Sài Gòn tiếp tục học các lớp cao hơn. Nhơn lại thi đậu vào trường Mỹ Nghệ Thủ Dầu Một, sau đó nhờ học giỏi thi đậu vào Cao Đẳng Mỹ Nghệ Gia Định... Rồi những nhu cầu cơm áo, những hệ lụy nhân sinh, tôi và Nhơn xa nhau biền biệt lúc nào không nhớ. Năm 1963 sau cuộc đảo chánh Ngô triều, tôi bất ngờ gặp Lê Thành Nhơn trong công viên Tao Đàn, trong phòng triển lãm rộng lớn, trình bày những hình ảnh Pháp nạn của Phật Giáo. Nhơn chỉ cho tôi bức tranh sơn dầu thật lớn, choáng đầy cả bức vách, hình ảnh những nạn nhân của chế độ đang rên siết oằn oại, vươn lên những cánh tay khẳng kheo như muốn bám víu một chút hy vọng, một chút tình thương, màu sơn đỏ bầm, màu sơn tím nâu như màu máu, màu lửa, màu đấu tranh bốc lên ngùn ngụt... tôi đọc được chữ ký tên Lê Thành Nhơn bằng sơn vàng ở góc phải. Cái sống động, cái to lớn vĩ đại của bức tranh làm tôi chú ý. Tôi hiểu ngay, những đường nét, màu sắc, khuôn khổ bạn tôi thể hiện cho tác phẩm không bao giờ có sự tầm thường và bạn tôi, tác giả, cũng không tầm thường. Con đại bàng lúc còn non thì cũng là đại bàng, không bao giờ là chim sẻ. Lê Thành Nhơn rời Bình Dương mà bay nhảy tận chưn trời góc biển nào. Đời sống vật chất bạn ra sao, tôi không biết, vợ con bạn ra sao, nghề nghiệp ra sao, tôi không biết. Cuộc chiến lúc đó dữ dội và tàn khốc quá mà. Thời gian trước tháng tư, 1975 chừng vài tháng, Lê Thành Nhơn lái một chiếc xe Huê Kỳ lớn màu xanh trở về Bình Dương kiếm tôi, không phải để đi rủ rê đi chơi mà bàn công chuyện. Tôi mừng cho bạn và ngạc nhiên hết sức. Bạn muốn tôi giới thiệu với ông bác, sui gia ba tôi ở Búng, thuộc quận Lái Thiêu, tỉnh Bình Dương. Tôi nhìn Nhơn ngạc nhiên và hỏi -bạn muốn tôi giới thiệu với bác Đạo để làm chi. ? Nhơn lấy ra một hoạ đồ kiến trúc thật lớn để lên bàn và giải thích cho tôi hiểu. Khu vực xa lộ từ Búng lên Bình Dương có những ngọn đồi cao thấp thật đẹp, tại sao lại phí phạm đem trồng củ sắn với khoai lang, khoai mì. Mình phải biến nó thành một công viên quốc gia với đầy đủ các tượng danh nhân, những người có công góp phần xây dựng đất nước Việt Nam thân yêu nầy như Trần Hưng Đạo, Quang Trung, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Phan Thanh Giản, Hoàng Diệu... những anh hùng, những văn nhân, nghệ sĩ tài hoa để con cháu noi gương mà yêu thương cái đất nước bốn ngàn năm văn hiến nầy. Tôi nhìn sững Nhơn - lập một công viên quốc gia, tiền ở đâu, ai cho, và làm như vậy để được cái gì, đất nước đang chiến tranh tàn khốc, làm sao mà thực hiện. Khả năng Nhơn tới đâu và công trình nầy đâu phải là một người có thể làm. Hàng trăm câu hỏi trong đầu, chuyện nầy Nhơn nói thiệt hay nói chơi và tôi chợt hỏi- tại sao bạn lại nhờ tôi giới thiệu với bác Đạo, bác Đạo có liên hệ gì tới vụ nầy ? Nhơn trả lời cho tôi là đã gặp ông xã Nhu làng Hưng Thạnh, cũng như đã nghiên cứu kỹ sổ địa bộ của vùng nầy, biết được những trái đồi đó thuộc sở hữu của bác Đạo, công trình nầy là tầm mức quốc gia, chớ không còn thuộc tỉnh hay địa phương nữa... Nhơn có khả năng thuyết phục các giới chức thẩm quyền tài trợ, các doanh thương, kỹ nghệ gia quyên góp, đồng thời có sự giúp đỡ của các cơ quan quốc tế... Rồi Nhơn nói miên man những công trình đã thực hiện ở Huế, ở Đà Nẵng, ở Phan Thiết, những phù điêu trang trí dinh Độc Lập, những cuộc triển lãm quốc tế, những huy chương vàng bạc nhận được và cuối cùng những phác hoạ đẹp đẽ trong tương lai cho Bình Dương chúng tôi -thung lũng xanh bên nầy phải là công viên cây cao rủ bóng, bên kia là suối reo, bên nọ là rừng thưa nuôi những đàn nai ngơ ngác, có những con đường trải sỏi cho những cặp tình nhân yêu nhau hò hẹn, dọc theo các đường mình dựng tượng... tất cả phải to lớn, phải vĩ đại. Tôi nghe qua như nằm chiêm bao, mới có chừng mười năm xa cách mà Nhơn đã khác lạ quá mức tưởng tượng trong tôi, thiệt tình tôi không ngờ, quả là không ngờ được... Sau đó, Nhơn gặp bác Đạo, các giới chức địa phương, trình bày, bàn cãi, thảo luận nhiều ngày về phương cách thực hiện dự án nầy. Lúc đó tôi mới bật ngửa, chuyện thiệt tình chớ không phải chuyện nói chơi, con đại bàng đã đủ lông cánh... * Khi nghe tin Nhơn bịnh rồi biết tin bạn mất ở Úc Đại Lợi, tận Nam Bán Cầu, tôi cảm thấy thật trống vắng và đâm nhớ miên man những ngày xưa. Chết hay sống là chuyện hiển nhiên đời người, có tụ thì phải có tan, có thành thì có hoại, Lê Thành Nhơn đã thấy rất rõ, rất rõ, bạn sẵn sàng ra đi yên vui, đời bạn đẹp quá, có gì phải tiếc nuối. Ôm ấp những giấc mơ Renoir, Van Gogh... nhiều hay ít bạn đã thực hiện đượïc. Lê Thành Nhơn bây giờ và mãi mãi sẽ là những Renoir, Van Gogh của những người yêu mến nghệ thuật. Sống một đời trọn vẹn cho những lý tưởng của mình, như vậy chẳng thoả nguyện sao ? Cái nhân ngày trước và cái quả bây giờ, không phải do một sớm một chiều mà có được. Nhơn ơi, ở một góc trời phương Bắc lạnh và xa, tôi bồi hồi nhớ thương bạn và ngay từ hồi còn nhỏ, tôi đã nhìn thấy bạn sẽ là con đại bàng và thời gian đã chứng minh đúng y như vậy, nhìn những tác phẩm của bạn để lại cho đời, rải rác ở Việt Nam, ở Pháp, ở Mỹ, ở Đức, ở Úc... khiến tôi hãnh diện và sung sướng. Bạn đã trở về được với cõi trăng sao và màu sắc. Võ Kỳ Điền (10 Feb 2003)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 17:16:38 GMT 9
CHUYỆN HUYỀN BÍ CON MA TẠI TƯỢNG ĐÀI THƯƠNG TIẾC Trần Liêm Khảo Sưu Khảo Đây là câu chuyện... vốn có thật, nhiều người biết, nhiều người thuật lại, nhiều người sợ mà cũng chẳng ít người bán tín bán nghi. Chuyện này nay được Mặc Nhiên - tác giả bài"Con Ma Tại Tượng Đài Thương Tiếc" nghi nhận lại về câu chuyện ma như sau: NHỮNG CÂU CHUYỆN NÀY ĐÃ ĐƯỢC NHIỀU NGƯỜI CHÍNH MẮT THẤY TAI NGHE KỂ LẠI. Chung qui đều những chuyện huyền bí nói về một linh hồn ẩn ức trong cái pho tượng của người lính chiến VMCH. Có nhiều người khi nghe những câu chuyện này sẽ cho là thật, cũng có người dửng dưng cho là chuyện giải trí, bịa đặt hay là mê tín dị đoan, hoang đường. Họ sẽ nói:”mộtbức tượng vô tri vô giác thì thì làm gì có linh hồn ? Sự ẩn ức nào chứ? Vâng. Ai cũng c thể nói vậy, nhưng tin hay không là quyền của họ. Chỉ biết rằng tất cả người kể những câu chuyện này đều thật lòng, nghiêm chỉnh và họ không dám cười lên những linh hồn đã hy sinh cho tồ quốc vì chính họ cũng là những người dấn thân cho quê hương. Cũng có thể những câu chuyện này thật sự phát sinh ra từ ần ức. Sự ẩn ức của người lính chiến đã bị bức tử một cách vô tình, hay là sự ẩn ức của người dân Miền Nam VN bị mất nước vào tay CS. Với bất cứ lý do nào đó, tượng anh lính chiến với đề tài:"Thương Tiếc", có nét mặt trầm buồn ưu tư bao la thâm trầm, mà lại có vẻ ẩn chứa sự bình thản của một thiền sư, đã dễ dàng đi sâu vào lòng người. Tượng đài sống động, như ẩn như hiện, nhìn vào, thấy thổn thức tâm can của những người khao khát hòa bình. Kiệt tác là ở nơi chúng ta, cũng như chúng ở nơi kiệt tác. Sự đồng giao cảm của tâm hồn rất cần thiết cho sự thưởng lãmnghệ thuật. Lúc đó kiệt tác sẽ trở thành một thực thể có sinh khí. Chính vìvậy mà tượng"Tiếc Thương" đã hóa thành thần linh chăng ? Nghĩa Trang Quân Đội tọa lạc tại trên một đồi cao nên từ ngả tư xa lộ Saigon-Biên Hòa và lối vào Thủ Đức mọi người có thể nhìn thấy. Ngay từ lối vào, sừng sững bức tượng quân nhân trẻ tuổi, ngồi nghỉ vai đeo ba lô, tay cầm khẩu Garant M 1 để trên đùi. Đó là tác phẩm điêu khắc”Tiếc Thương” của Điêu Khắc Gia Nguyễn Thanh Thụ. Điêu Khắc Gia Thu cấp bậc Đại Úy phục vụ tại Cục Chiến Tranh Chính Trị, là người chịu trách nhiêm thực hiện tượng đài kỷ niệm”Tiếc Thương” cho Nghĩa Trang. Mới đầu nghệ sĩ Thu tốn biết bao tháng ngày phác họa trên mô hình, trên giấy và thạch cao những mẩu tượng đài nhưng vẫn chưa hài lòng mẩu phẩm nào cả. Tình cờ một hôm Đại Úy Thu đến thăm bạn ở Tiểu Đoàn lll Nhảy Dù (Tiểu Đoàn Trưởng, Thiếu Tá Trần Quốc Lịch, Tiểu Đoàn Phó, Nghiếp Ảnh Gia Nguyễn Ngọc Hạnh). Bạn Thu cư ngụ trong Doanh Trại ở Ngả Tư Bảy Hiền Saigon. Nhưng trước khi vô nhà bạn, Thu ghé vào quán giải khát trước cổng. Lúc vào quán Đại Úy Thu chú ý một Hạ Sĩ Nhảy Dù đang ngồi nhậu"la de". Trên bàn chỉ một mình anh nhưng có hai ly bia đầy đối nhau. Mỗi khi cầm ly bia lên, anh Hạ Sĩ nhảy dù vẫn thường cụng ly bia đối diện và nói: - Uống đi mày, uống đi mày... Tiếng cụng ly , lời mời vẫn đều đặn theo nhịp uống của anh. Thoạt đầu Đại Úy Thu nghĩ là anh này đã say nên không tự kèm chế được hành động, nhưng nhìn chung quanh chẳng ai thắc mắc thái độ lạ lùng đó, có lẽ họ đã hiểu tâm sự của anh. Anh Hạ Sĩ lại tiếp tục, tay cụng ly miệng nói: - Uống đi mày! Ông Thu hiếu kỳ, nhìn nét mặt buồn, đau xót vời vợi của anh Hạ Sĩ. Ông hỏi chủ quán sự tình rồi đến bàn anh để biết chi tiết hơn. Anh Hạ sĩ điềm tỉnh trả lời: - Trình Đại Úy, tôi và người bạn ở Vùng 4, rủ nhau gia nhập binh chủng Nhảy Dù cùng một ngày. Sau thời gian huấn luyện, cả hai về Tiểu Đoàn ll. Nay, người bạn thân đã hy sinh ở trận địa. Nói tới đây anh Hạ sĩ nghẹn ngào. Ngưng lại một lúc như để cho cơn xúc động lắng xuống, anh lại nâng ly cụng vào ly bên kia và miệng lại nói: - Uống đi mày. Có Đại úy đang uống với tao đây. Sau đó anh nói tiếp: - Từ ngày bạn tôi mất, tôi rất buồn , khi ra đi có nhau, nay còn một, đôi lúc tôi muốn đào ngũ về quê, nhưng về quê tôi cũng không tìm lại được nó nữa, ở đâu tôi còn tìm thấy hình bóng của nó ? Người hạ sĩ Nhảy Dù buồn vời vợi và tình bạn thắm thiết của anh đã gây cho nghệ sĩ Thu một xúc động tràn ngập vô bờ bến. Từ giao cảm thiên thu đó, nhà điêu khắc xin phép Tiểu Đoàn Trưởng cho biệt phái anh Hạ sĩ làm người mẫu để anh hoàn thành bức tượng đài kỷ niệm bức tượng"Tiếc Thương” đầu tiên bằng xi măng. Sau đó anh Hạ Sĩ Nhảy Dù trở về đơn vị, và trong một trận chiến quyết liệt ở Tam Quan, Bồng Sơn , anh đã hy sinh trên trận địa để sang bên kia thế giới với người bạn cố tri ngày nào. Anh Hạ sĩ sầu vời vợi vĩnh viễn ra đi, nhưng hình ảnh còn ghi mãi mãi trong lòng chúng ta. Nếu câu chuyện đến đây chấm dứt cũng đã nhiều lạ lùng kỳ diệu về tình bạn, tình chiến hữu, nhưng bức tượng lại còn nhiều kỳ bí khác nữa, có thể vì những kỳ bí mà bức tượng xi măng đã đổi thành tượng đồng.Sau đó biết bao tin đồn đại về bức tượng hóa thần, nào là: Các xe chở rau từ Đà Lạt về khuya thường gặp một người lính ra chận xe xin mua rau, khi đến bến kiểm lại tiền chỉ thấy toàn là tiền vàng mã. Lại một việc khác xảy ra ở Biên Hòa, số là vào buổi sáng kia một quân nhân đặt mua bánh mì khá nhiều, khi giao hàng cho người quân nhân ra về, người chủ cất tiền vô tủ, bất chợt khi cần tiền lấy hàng , mở tủ ra chỉ thấy toàn là tiền vàng mã, trong khi đó mỗi mộ ở nghĩa trang đều được cúng một khúc bánh mì. Có một cụ già ở chân núi Châu Thới, đêm nọ trời đã khuya, cụ nghe tiếng gọi ở ngoài xin nước uống. Khi đem nước và đèn ra cho người xin nước, thoạt đầu cụ tưởng như những lần quân đội hành quân vào xin nước uống là thường. Nhưng lần này người lính uống xong, ngẩng mặt lện cám ơn ra đi thì cụ chợt sửng sốt, tự nghĩ:”sao lại có người lính giống anh lính ở tượng đài"Tiếc Thương" như thế? Sáng hôm sau cụ già ra nghĩa trang để kiểm lại. Cụ nhận thấy mặt mũi vóc dáng anh lính xin nước tối qua y hệt tượng đài Tiếc Thương, cụ cho rằng bức tượng đã hiện thành người và thấy vết sình non hãy còn dính đầ đôi giày trận. Cụ về thuật lại với bà con ở Suối Lồ Ô, mọi người kéo nhau đi xem và đồn khắp cả Thủ Đức, Tân Vạn, Biên Hòa v.v.. Nhiều người hiếu kỳ đổ nhau đi coi tượng đài Tiếc Thương làm nghẽn cả lối giao thông ngay trước cổng Nghĩa Trang. (còn nữa)
|
|
|
Post by NhiHa on Aug 25, 2009 17:18:03 GMT 9
(tiếp theo)
Cũng vẫn theo câu chuyện huyền bí này do Mặc Nhiên ghi lại thì sau khi cụ già về thuật lại nhiều người tò mò rủ nhau đổ xô đi xem hiện tượng ma quái này. Vì vậy mà một quãng đường tại cổng Nghĩa Trang đông đặc cả người làm cản trở cả sự lưu thông.
Truyện bí ẩn này loan truyền khắp mọi nơi. Một số sĩ quan yêu cầu chẩn úy thhường vụ Chung Sự Nghĩa Trang cho biết hư thực thể nào?! Theo lời chuẩn úy thường vụ này kể lại:
- Nhân một hôm đi chợ Tam Hiệp sắm đồ giỗ ông thân, khi mua xong tôi kêu tài xế mang về trước. Tôi ghé Tam Hiệp thăm một người bạn ở Tam Hiệp và mời đến ăn giỗ ngày hôm sau. Khi về, trời sẩm tối, đến cổng Nghĩa Trang, tôi nghỉ chân dưới bức tượng. Không biết cao hứng thế nào, trước khi lội bộ về nhà, tôi nhìn tượng đài và nói với giọng điệu cố hữu của một “thượng sĩ đại đội”:
- Ê mày, mai giỗ ông già tao, mày có rảnh ghé nhà tao hai giờ chiều nhậu chơi.
Nói xong tôi bước vào nghĩa trang vì tôi ở phía sau khu nhà phục dịch việc chung sự. Tám giờ sáng hôm sau, việc thờ cúng bắt đầu và tiệc nhậu bắt đầu kéo dài đến 1 giờ chiều. Tiễn khách ra về xong, tôi đi ngủ, phần thì say, phần vì thức đêm quá khuya. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi nghe có tiếng gỏ cửa ầm ầm khiến tôi giật mình la lớn lên:
- Ai phá nhà tao đó ?
Tiếng gỏ cửa vẫn không dứt, tôi bực mình đứng dậy. Khi mở cửa ra, tôi bật ngửa, thấy pho tượng “Tiếc Thương”đứng chình ình trước cửa nhà tôi và nói:
- Chuẩn úy thường vụ bê bối quá, kêu tôi hai giờ chiều đến nhậu, giờ tôi đến đây thì png lại nằm ngủ say sưa vậy thì tôi nhậu với ai đây ?
Tôi hoảng sợ đóng sập ngay của lại không dám nhìn ra ngoài nữa. TÔi nghe có tiếng cười khằn khặc và tiếng bước chân nặng nề làm rung rinh cả mặt đất. Tiếng chân đi xa dần rồi im bặt lại.
Thiếu tá Chỉ Huy Trường Đại Đại Nghĩa Trang Biên Hòa kể trường hợp ông gặp tượng Tiếc Thương ngồi sau xe Jeep của ông.
- Khi chạy xe vào Nghĩa Trang tôi thường hay dừng lại, đón những binh sĩ đi bộ từ cổng vào, cho họ đở mỏi chân. Một buổi trưa, ăn cơm xong, trở lại làm việc, khi tới cổng nghĩa trang, tôi dừng xe lại đón một hạ sĩ xin quá giang. Khi anh ta ngồi ở phía sau tôi, tôi bắt đầu rồ ga sang tay số, tiếp tục chạy vào trong. Nhấn ga hoài mà xe không tiến thêm một tí nào. Tôi quay lại định nhờ anh lính xuống dẩy dùm thì thấy pho tượng "Tiếc Thương" đang ngồi ngoài sau tôi. Tôi chưa kịp phản ứng gì thì có tiếng nói cất lên:
- Xe Jeep Thiếu Tá sao chở nổi tôi.
Tiếp đó là một tràng cười khằn khặc, đồng thời tôi nghe chiếc xe như có vẻ nhẹ bỏng hêu hểu. Tôi quay lại thì thấy pho tượng Tiếc Thương đã biến đi đâu rồi.
Vị Thiếu tá này còn kể một câu chuyện khác:
- Nghĩa trang ở trên đồi vào tháng mưa cỏ mọc um tùm nên phải thuê người lân cận vô cắt cỏ. Trong lúc một cô gái đang cắt cỏ, có một anh binh sĩ đến bên tán tỉnh, quá quen với kiểu đó nên cô chẳng thèm quay lại xem hình dáng người đang trêu ghẹo mình ra làm sao ! Cô nghe tiếng người líng này hỏi:
- Cô có biết tôi đây là ai không ?
Cô gái không ngó lại chỉ lên tiếng đáp:
- Ông là ai, mặc kệ ông, mắc mớ gì tôi!
Bỗng một tràng cười ngạo nghễ khác thường từ phía sau vang lên rồi tiếp đến là những bước chân nặng nề bước đi khiến làm rung chuyển cả mặt đất. Bây giờ cô gái kia mới chịu quay lại, thì ôi thôi, đó là nguyên cả pho tượng Tiếc Thương đang đứng trước mặt người con gái này. Quá hoảng sợ, cô gái kia la hét lên, cắm cổ chạy vào khu làm việc, kể lại sự tình vừa xảy ra cho tôi nghe, đồng thời cô cũng xin nghỉ việc ngay ngày hôm đó".
* * *
Lại cũng là chuyện pho tượng "Thương Tiếc" tại nghĩa trang quân đội, do Đại Tá Trịnh Văn Vũ chuyển về Tam Hiệp thuộc tỉnh Biên Hòa thuật lại. Dưới đây là lời của Đại Tá Vũ:"Hôm ấy, nhằm ngày nghỉ tôi lên Sài Gòn một mình, đến thăm người anh vợ tôi tại tòa soạn đường Hồng Thập Tự. Chuyện trò ăn uống xong, tôi ra về thì trời đã tối và có mưa lâm râm. Khi đến gần cổng nghĩa trang thì có bóng một binh sĩ đưa tay ra gàn lại xin cho đi nhờ về chợ Tam Hiệp. Vì chỉ đi một mình buồn, nên ngừng lại và mời lên xe cùng ngồi ghê phía trước cạnh tôi. Tôi vừa nói vừa chuyện trò những chuyện đâu đâu cho đở buồn, nhưng tôi lại không nhìn hình dạng của người lính xin đi nhờ đang ngồi bên cạnh. Khi đến chợ Tam Hiệp tôi dầng lại bảo:
- Đến chợ Tam Hiệp rồi. Anh có thể xuống đây.
Không nghe tiếng người lính đáp lại mà cũng chẳng thấy anh ta bước xuống xe nữa, vội quay sang chăm chú nhìn, bất giác tôi hốt hoảng, người ngồi bên cạnh tôi chẳng khác nào pho tương "Thương Tiếc"nhưng miệng há hốc ra cười thành tiếng khằng khặc... Lúc bấy giờ tôi cảm thấy không còn hồn vía nữa vội nhảy ngay xuống đất định bỏ chạy... thì bỗng có tiếng réo gọi:
- Thưa Đại Tá, xin Đại Tá tha tội cho em út... Em chỉ đùa không thôi... Hẹn rồi có ngày em đền đáp ơn của Đại Tá đối với em lúc sinh thời... Đại tá cho em gửi lời thăm Đại tá Thọ Tỉnh Trưởng Bình Định... cùng với Đại Tá Phu Nhân... Nói dứt lời thì lạ lùng thay pho tượng kia bỗng biến mất liền ngay sau đó.
Chuyện pho tượng “Tiếc Thương” được nhiều người kể đến. Quí độc giả nghĩ thế nào về câu chuyện huyền bí này?
Trần Liêm Khảo
|
|
|
Post by NhiHa on Sept 18, 2009 18:14:09 GMT 9
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 22, 2010 5:09:06 GMT 9
Mai Chửng, tài năng và nhân cáchDu Tử Lê Cho tới hôm nay, người ta vẫn chưa đồng ý với nhau về câu hỏi, tại sao trong lãnh vực nghệ thuật, với những bộ môn chính như: Sân khấu, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, điện ảnh... thì điêu khắc là bộ môn ít được quần chúng biết đến nhất? Mặc dù trong đời thường, ở bất cứ đất nước, quốc gia nào, hình ảnh những pho tượng, vẫn quen thuộc với đám đông vì chúng luôn chiếm lĩnh những vị trí trung tâm, quan trọng tại những địa điểm có tính cách công cộng như các quảng trường, công viên, giao lộ chính... Những điêu khắc gia cũng ít nhận được những vòng nguyệt quế hoặc tiếng vỗ tay từ quần chúng! Trong sinh hoạt 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, ngay thời kỳ hưng thịnh nhất, dường cũng không có một cửa khác dành cho bộ môn này! Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, ta vẫn thấy có một vài ngoại lệ. Một trong vài ngoại lệ đó, là Mai Chửng, điêu khắc gia. Điêu khắc gia Mai Chửng thời trẻ. Tôi muốn nói, với những người ít, nhiều quan tâm tới lãnh vực nghệ thuật của miền Nam Việt Nam 20 năm, có thể đa số không rõ lắm về những đóng góp của điêu khắc gia Mai Chửng. Nhưng tối thiểu, họ cũng có đôi ba lần nghe tới tên ông. Vậy, trước khi bước vào thế giới tạo hình ba chiều của điêu khắc gia họ Nguyễn, ta cũng nên biết qua về cuộc đời của ông. Ngay phần tiểu sử Mai Chửng, tự thân cũng đã cung cấp cho chúng ta khá nhiều chi tiết về tài năng và những đóng góp của ông. Tổng hợp từ hai nguồn tài liệu chính là sách, báo và thân bằng quyến thuộc của Nguyễn Mai Chửng, ta được biết: Ðiêu khắc gia Nguyễn Mai Chửng sinh năm 1940 tại Bồng Sơn, Bình Ðịnh. Một năm trước khi quyết định ra Huế, theo học trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật ở cố đô, ông học dự bị tại trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Gia Ðịnh năm 1957, cùng với các họa sĩ Ðinh Cường, Hồ Hữu Thủ. Năm 1961, ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 2 Cao Ðẳng Mỹ Thuật Huế. Sau đó, trở về Saigon, học khóa Sư Phạm Hội Họa tại trường Quốc Gia Cao Ðẳng Mỹ Thuật Saigon, ông tốt nghiệp năm 1963. Theo trang mạng Bách Khoa Toàn Thư Mở Wikipedia thì, ngay thời gian còn là sinh viên Cao Ðẳng Mỹ Thuật Huế, Mai Chửng đã cùng điêu khắc gia Lê Ngọc Huệ (về từ Pháp, cũng là thầy của họ Nguyễn,) thực hiện một loạt tượng lớn, khuynh hướng hiện đại, đặt tại quảng trường nhà thờ La Vang, Quảng Trị, đầu thập niên (19)60. Những pho tượng này có một vài tượng bị hư hại bởi chiến tranh. Nhất là sau trong cuộc giao tranh ác liệt năm 1972 xẩy ra. Tới nay, nơi này vẫn còn một số tượng và đã được tu bổ. Năm 1968, Mai Chửng bắt đầu dạy ở trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Huế. Năm 1974 ông được biệt phái hẳn về dạy trường Ðại Học Kiến Trúc Saigon, thay thế họa sĩ Võ Doãn Giáp về hưu. Theo nhà báo Nguyễn Chí Khả, một trong số ít những người bạn thân của Mai Chửng thì, vì Mai Chửng khi đó đã là quân nhân tại ngũ. (1) Ðể can thiệp cho Mai Chửng được về dạy tại Cao Ðẳng Mỹ Thuật Huế, nha Mỹ Thuật đã phải làm tờ trình với những lý lẽ mạnh mẽ trình lên Bộ Quốc Gia Giáo Dục duyệt xét. Từ đây, đơn xin biệt phái của Mai Chửng lại phải gửi qua Bộ Quốc Phòng, để nơi này quyết định. Nói cách khác, vẫn theo nhà báo Nguyễn Chí Khả thì nếu Mai Chửng không thực sự có tài và cần thiết cho trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Huế, ông sẽ khó qua khỏi những cửa ải phức tạp như vừa kể. Năm 1975, như tất cả những sĩ quan khác của QL/VNCH, với cấp bậc trung úy, Nguyễn Mai Chửng bị tù cải tạo. Cuối năm 1978, ông mới được trả tự do. Trong bài viết nhan đề “Mai Chửng, vừa hẹn tôi, mùa hè tới” đăng tải trong tập sách “Mai Chửng, cuộc đời và sự nghiệp,” họa sĩ Ðinh Cường cho biết: Mai Chửng vượt biên tới Mỹ năm 1981. Ông bắt đầu cuộc đời mới bằng những nghề có tính cách lao động ở thành phố San Jose. Sau đó, cùng một người bạn (ông từng cho biết ông rất mang ơn), sang được chiếc xe “lunch” bán thức ăn nhanh cho nhân viên các công tư sở... Sau đấy, ông ra đảo Hawaii hành nghề tài xế taxi. Năm 1990, ông bảo lãnh được vợ và 4 con qua Mỹ đoàn tụ. Tất cả các con của ông đều tốt nghiệp đại học và đã thành gia thất. Khi ông lo đám cưới cho người con gái út ở thành phố Dallas, 1 tờ báo Mỹ ở địa phương đã có bài và hình ảnh về một gia đình Việt Nam mà báo này coi là gương mẫu tốt đẹp của truyền thống văn hóa phương Ðông. Tháng 7 năm 2001, Mai Chửng trở về Saigon, tham dự cuộc triển lãm chủ đề “Hồi Cố” với các cựu thành viên của Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam. Nhưng, đúng ngày khai mạc, ông ngã bệnh. Mai Chửng được đưa vào nhà thương Chợ Rẫy cấp cứu. Người bạn đời tên Lan của ông cùng một người con gái từ Texas bay vội về Saigon, đem ông trở lại Hoa Kỳ. Mai Chửng trút hơi thở cuối cùng vào lúc 1 giờ 20 sáng Thứ Bảy, ngày 1 tháng 9 năm 2001, tại bệnh viện Taylor, thành phố Dallas, Texas. Ông mất vì gan của ông bị nhiễm một loại siêu vi trùng không thể chữa trị trừ phi được thay gan khẩn cấp... Năm 1966, điêu khắc gia Mai Chửng là một trong những thành viên sáng lập Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam ở Saigon. Nhiều thành viên hội này, sau đó rất nổi tiếng, như Nguyễn Trung, Nguyên Khai, Nghiêu Ðề, Trịnh Cung, Ðinh Cường, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Ðồng, Nguyễn Thị Hợp, Bé Ký, Hồ Thành Ðức, v.v... Ông cũng từng giữ chức vụ chủ tịch Hội Họa Sĩ Trẻ Việt Nam sau cùng, tính đến tháng 4, 1975. (Hai chủ tịch trước là các họa sĩ Ngy Cao Uyên và Nguyễn Trung.) Về phương diện tác phẩm hay tài năng, điêu khắc gia Mai Chửng, được biết đến như nhà điêu khắc tiên phong của Việt Nam trong việc sử dụng chất liệu kim loại trong bộ môn này. Năm 1973, Mai Chửng ra mắt tác phẩm Cái Mầm tại gallery La Dolce Vita trong khách sạn Continental, Saigon. Ông dùng hàng ngàn vỏ đạn đồng hàn lại, cao 1,50 m. Ngụ ý cách gì thì hy vọng vẫn là hạt mầm nuôi sống người dân miền Nam trong chiến tranh. Sau đấy, hoàn tất bức tượng Chị Em, được nhiều người chú ý, đặt tại thương xá Tam Ða. (Bức tượng này đã biến mất sau tháng 4, 1975.) Một tác phẩm khác của Mai Chửng được nhắc nhở nhiều nhất, có lẽ là bức tượng “Bông Lúa Con Gái.” Tác phẩm điêu khắc này thể hiện qua hình ảnh một bó bông lúa sung sức, cao tới 13 m, làm bằng những mảng phế liệu đồng gắn lại; được dựng tại trung tâm thị xã Long Xuyên năm 1970. Tới năm 1975, bức tượng bị phá hủy. Dù thế, sau nhiều năm, nhìn lại, họa sĩ Nguyễn Trung (2) viết: “...Nghệ thuật của Mai Chửng cũng vậy; đã trải qua nhiều biến chuyển; từ những thể hiện tươi mát chất lãng mạn, cho đến những công trình đậm trí tuệ. Mỗi giai đoạn có nét đặc trưng riêng, nhưng trong đại thể vẫn có một nét chung rất dễ thấy. Ðó là sự đơn giản và tính cách lớn lao của nó. Ðơn giản mà không thiếu sự tinh tế. Lớn lao cho dù tác phẩm được thể hiện trong một kích thước khiêm tốn.” Họa sĩ Trịnh Cung, (3) người cùng học khóa 2 Cao Ðẳng Mỹ Thuật Huế với Mai Chửng, thì cụ thể hơn khi ghi rõ rằng: “Những ai từng biết Mai Chửng trước những năm 1975 ở Việt Nam, ông là tác giả của những tác phẩm điêu khắc hiện đại có kích cỡ lớn mang tính tiên phong trong phong cách và chất lượng như ‘Bông Lúa Con Gái’ ở Long Xuyên, cao 18 mét bằng đồng lá; ‘Cái Mầm’ ông triển lãm đầu năm 1974 tại Gallery La Dolta Vita nằm trong khách sạn nổi tiếng Continental, trên đường Tự Do cũ, làm bằng cả ngàn cái vỏ đạn súng trường hàn lại...” Họa sĩ Ðinh Cường, người mới có một cuộc triển lãm tranh (cùng với Nguyễn Ðình Thuần), tại Paris, Thứ Sáu, ngày 29 tháng 10 vừa qua, phát biểu về tài năng của điêu khắc gia Mai Chửng như sau: “Tôi vừa ghé museum Brâncusi, trước mặt Centre Pompidou, Paris mùa Thu lạnh, không hiểu sao tôi nhớ Mai Chửng, người bạn cùng thời làm điêu khắc giỏi, tài hoa... Nếu Lê Thành Nhơn là những tượng đồ sộ bằng đá granito thì Mai Chửng là những tượng bằng đồng ghép hay những vỏ đạn... và Dương Văn Hùng là những tượng có vẽ thêm vào... Ba người bạn điêu khắc này cộng thêm Trương Ðình Quế... tôi cho là những nhà điêu khắc hiện đại, lớn, của miền Nam trong lịch sử mỹ thuật chung của cả nước...” Về nhân cách của tác giả “Cái Mầm,” cũng được họ Ðinh đánh giá là: “Mai Chửng đời thưòng là người bạn đáng tin cậy và hiền lành nhất mà tôi luôn quý trọng. Lần về Dallas thắp nhang cho bạn, chị Mai Chửng đã cho tôi nhiều ống màu sơn dầu lớn bạn để lại, và tôi còn treo cái bay gọt đất sét của bạn như một kỷ niệm không rời. Tôi thương quý Mai Chửng biết chừng nào...” Cũng vậy, nhà báo Nguyễn Chí Khả, một trong vài người bạn thân (không thuộc giới tạo hình) của cố điêu khắc gia Mai Chửng kể rằng, những lần Mai Chửng về dạy ở trường Cao Ðẳng Mỹ Thuật Huế, cuối tuần, tác giả “Bông Lúa Con Gái” không ở phòng riêng dành cho các giáo sư ở xa về, ông theo Nguyễn Chí Khả về nơi đóng quân của bạn. Chỉ vì muốn được ở với bạn mà ông chấp nhận ngủ trong hầm trú ẩn, ăn mì gói, nằm giường xếp... để được sống lại những ngày tháng có nhau trong doanh trại cục Tâm Lý Chiến. Nguyễn Chí Khả kể: “Ðầu năm 1973, tôi lập gia đình. Lợi dụng ít ngày phép có được, tôi bay về cục Tâm Lý Chiến tìm Mai Chửng. Thấy tôi, Mai Chửng rút từ túi áo 5,000 đồng, đưa cho tôi, bảo: “‘Ðây là tiền tiêu của tao. Tao để dành để mừng đám cưới mày. Mày cầm lấy mà tiêu! Những ngày qua, có báo chúc mừng mày... Nhưng tao không thấy cần thiết làm việc ấy. Nó phù phiếm. Nó bề ngoài... Tao ngược lại!’ Chân tình của bạn khiến tôi vừa bất ngờ, vừa cảm động. Thời đó, lương đại úy độc thân của tôi chỉ có 25 ngàn. Không kể ruột thịt, bạn bè nếu có đi mừng đám cưới thì tối đa cũng chỉ có thể cho tới 2 ngàn là cùng! Nhưng tình bạn mà Mai Chửng dành cho tôi, không chỉ dừng ở đó! Năm 1995, khi được tin tôi tới Mỹ, Mai Chửng nhờ Nguyên Khai chở đi tìm tôi ở tòa soạn VB, khi đó còn ở đường Sullivan. Gặp tôi, Chửng nói: ‘Tao chỉ có 120 đồng. Cho mày 100, tao giữ lại 20 đồng.’” Tôi muốn ra khỏi bài viết này, bằng hai mẩu chuyện nhỏ trong đời thường của Nguyễn Mai Chửng. Theo tôi tự thân vài mẩu chuyện kể trên, đã nói lên cái nhân cách đáng trân trọng; cũng như sự đáng trân quý về tài năng lớn lao của điêu khắc gia này. Và, với riêng tôi, những tác phẩm điêu khắc của Mai Chửng, không chỉ có giá trị ở không gian ba chiều. Chúng còn có giá trị ở chiều thứ tư: Chiều vĩnh hằng, nữa. Du Tử Lê (23 tháng 11, 2010) Chú thích:
(1) Nguyễn Mai Chửng bị động viên khóa 21 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Ðức. Sau khi tốt nghiệp tháng 7 năm 1966, cùng với nhạc sĩ Ðỗ Kim Bảng, nhà báo Nguyễn Chí Khả... điêu khắc gia Nguyễn Mai Chửng được tuyển chọn về phục vụ tại Cục Tâm Lý Chiến, Saigon.
(2), (3) Hai họa sĩ Nguyễn Trung và Trịnh Cung hiện cư ngụ tại Saigon.
|
|
|
Post by NhiHa on Dec 31, 2010 9:41:18 GMT 9
Venus, hình tượng cái đẹp qua mọi thời đạiTranh Venus With a Mirror của Titian (hình tư liệu online) Mặc Lâm Cứ mỗi lần Tết đến, trong trí óc non nớt của tôi vào thời xa xưa, ngoài những vật dụng trong nhà được xanh đỏ một cách vui mắt, điều anh em tôi mong nhất trước ngày đưa ông Táo về trời là được xem những bức tranh treo tường mà mẹ tôi sẽ mua treo trong ba ngày Tết. Những tấm tranh có hình dạng giống như những bức đối, thường thì 4 tấm liền treo kề bên nhau kể lại những câu chuyện cổ tích bằng tranh và được nhiều người thừa nhận không thể thiếu trong ba ngày Tết. Màu sắc tươi vui cùng những hình ảnh đẹp đẽ trong tranh góp phần trang điểm không khí hội hè và cũng che bớt những hình ảnh khó nghèo của nhiều gia đình trong đó có gia đình chúng tôi. Anh em tôi mỗi đứa thích một loại tranh, thằng thì thích các câu chuyện như Trương Chi thổi sáo cho nàng Mỵ Nương nghe, đứa thì thích tranh gà lợn Đông Hồ, còn tôi thì bất kể đề tài nào miễn là được vẽ dưới tay của họa sĩ Lê Trung. Mãi tận bây giờ đối với tôi, tranh của Lê Trung nổi bật do yếu tố duy nhất là chi tiết ông miêu tả hình ảnh các cô gái. Những cô gái trong tranh ông đều giống nhau ở nét chính với những đặc tính được nhận thấy rất rõ theo tiêu chuẩn: Ngực nở, eo thon, mông vạm vỡ cùng với mái tóc dày gợi cảm! Các cô gái này sống động và hổn hển thở trong tranh của Lê Trung khiến chúng có khả năng làm người xem tranh ông nhanh chóng cảm nhận nét thanh xuân cùng sức sống ngồn ngộn trong từng nét vẽ của người nghệ sĩ. Cảm nghiệm cái đẹp từ người nữ đã đến với tôi như thế và tôi tin rằng nhiều người cùng thế hệ tôi cũng có kinh nghiệm như vậy. Một điều rất lạ là hầu như rất hiếm họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam vẽ theo motif Lê Trung. Hình ảnh người nữ trong tranh họ thường được biểu hiện dưới phong cách 'liễu yếu đào tơ' đôi khi đến quá mức. Người nữ trong hầu hết tranh của họa sĩ Việt Nam đều không khoe nét đẹp của thân thể theo khuynh hướng trào lưu mỹ thuật hay thậm chí cố tránh những nét đẹp tròn trịa, gợi cảm theo tiêu chuẩn vàng của hội họa. Có lẽ những bài học luân lý kinh điển đã làm nét cọ của họ chững lại trước những bức bối của nét thanh xuân đòi phô diễn từ cơ thể của người ngồi làm mẫu. Ít nhiều gì thì sự cấm kỵ bất thành văn này ngự trị một thời gian khá dài trên các khung vải, không riêng trong khuôn viên vài trường mỹ thuật Việt Nam mà còn lan tỏa ra hầu hết tại các gallery lớn nhỏ bên ngoài xã hội. Dĩ nhiên cũng có họa sĩ cố thoát ra cái rào cản đó trong lúc hội họa Việt Nam tiếp cận ngày càng sâu với nền mỹ thuật thế giới. Một trong vài họa sĩ thành công trong cách diễn đạt cơ thể người nữ qua cách nhìn khác với đồng nghiệp của mình là họa sĩ Nguyễn Thị Hợp. Người mẫu trong tranh của bà toát ra nét thanh thoát của bắp, của cơ, của sức sống, cùng sự đầy đặn của cơ thể. Tính nữ trong tranh bà không nhấn mạnh đến cái 'liễu yếu' nữa mà khắc họa họ dưới những thanh tú đầy đặn qua nét nhìn chân phương của người họa sĩ. Nhân vật nữ trong mẹ con, trong nằm võng, trong hái hoa... với các bắp thịt ẩn dấu phía sau tà áo đã chứng tỏ sự suy cảm ngùn ngụt sức sống của họa sĩ. Cơ bụng của người nữ trong tranh Nguyễn Thị Hợp toát lên sinh khí của vũ trụ và khi nhìn vào, người xem nhận ra ngay nỗi khao khát loan truyền nòi giống hơn là những ám ảnh về dục tính mà nhiều họa sĩ khác cùng cố gắng thể hiện nhưng thất bại. Người nữ trong tranh Nguyễn Thị Hợp cuồn cuộn nỗi khát khao và âm ỉ khơi gợi mầm sống, đưa nét đẹp của toàn thân đạt tới điểm cao nhất của ý thức thẩm mỹ. Tác phẩm 'Mẹ con' của họa sĩ Nguyễn Thị Hợp, trong bộ sưu tập của Phạm Thế Nguyên. Màu nước trên lụa 28x23', 1982. Motif người nữ dưới nét vẽ của Lê Trung trước đây và Nguyễn Thị Hợp sau này thật ra đã xuất hiện khá lâu trước đó. Gaston Lachaise (1882-1935), điêu khắc gia bậc thầy người Pháp đã dẫn dắt khuynh hướng thẩm mỹ của giới thưởng ngoạn Tây phương trong một thời gian khá dài qua các tác phẩm của ông. Chất liệu mà ông thường dùng để sáng tác là đá, gỗ và kim loại nhưng có lẽ thành công nhất vẫn là đồng đỏ (bronze). 'Người đàn bà đứng', Standing Woman (1932) là một tuyệt tác của Gaston Lachaise. Bức tượng miêu tả một phụ nữ khỏa thân với những đường cong có sức quyến rũ kỳ lạ. Nét gợi cảm của ngực và bụng được Gaston phô diễn với tất cả sự tinh tế của một nhà điêu khắc tài hoa. Chất lượng đồng đã tăng thêm vẻ gợi cảm mặc dù có khả năng gây lạnh cho người xem ở các đường cong rắn rỏi. Chiếc eo thon đến độ không thể thon hơn được nữa là nét nổi bật nhất của tác phẩm. Thanh tú và thuần khiết là cách nói chính xác nhất cho tác phẩm này. 'Người đàn bà đứng', Standing Woman (1932) Bronze. Trong nghệ thuật tạo hình, danh từ Vệ Nữ (Venus) được sử dụng làm tựa cho nhiều danh phẩm trên thế giới từ thời kỳ trước Thiên Chúa Giáng Sinh kéo dài đến Phục Hưng. Venus được hiểu như cách diễn tả cái đẹp, cái tính nữ trong tác phẩm. Có lẽ danh tài Praxiteles của Hy Lạp là người sáng tác và đặt tên tác phẩm Venus đầu tiên của nhân loại. Tác phẩm của ông nổi tiếng đến nỗi chúng được sáng tác lại và mang tên Venus xuất hiện tại các trung tâm mỹ thuật thế giới và vẫn được cất giữ cẩn thận trong nhiều viện bảo tàng nổi tiếng. 'Aphrodite of Cnidos' là tác phẩm miêu tả về nữ thần Aphrodite. Nữ thần này tượng trưng cho sắc đẹp, sự quyến rũ, mê hoặc. Nữ thần Aphrodite cũng là đại diện của biển cả, của sự tốt giống (fertility) và luôn cả thảo mộc nữa. Đây có lẽ là tác phẩm giá trị nhất của Praxiteles qua mọi thời đại, lấy cảm hứng và khắc họa lại từ vẻ đẹp huyền ảo của một nhân vật cũng huyền ảo không kém: mỹ nữ Phryne của Athen. Nhiều nhà sử học đồng ý với nhau rằng Aphrodite of Cnidos được sáng tác qua người mẫu Phryne, một Hetaera nổi tiếng của thành phố Thespiae. Hetaera tương tự như các Gheisa của Nhật Bản, họ được huấn luyện kiến thức và tài năng để phục vụ giới thượng lưu Hy Lạp thời bấy giờ. Phryne là Hetaera đẹp nhất và cái giá phải trả cho cô để ngồi mẫu đắt hơn hàng trăm lần so với các Heataera khác. Phryne trở thành giàu có và nổi tiếng ngay sau khi bức tượng bằng cẩm thạch mang tên 'Aphrodite of Cnidos' ra đời. Nữ thần 'Aphrodite of Cnidos' được các vua triều Knos đặt làm để trong đền thờ và khi xuất hiện lần đầu tiên, công chúng đã thật sự bị nghẹt thở vì vẻ đẹp tuyệt trần của nó. Với kích thước của người thật, dù nhìn ở bất cứ góc cạnh nào thì bức tượng khỏa thân này cũng toát lên vẻ đẹp cân đối của vị thần sắc đẹp, và ngay sau đó, chuẩn mực của nét đẹp này được thừa nhận như một tiêu chuẩn vàng cho các tác phẩm về sau. Venus Pudica, Capitoline Venus, và Medici Venus là những phiên bản xuất hiện sau đó có cùng hình thể với Aphrodite of Cnidos nhưng khác chút ít về cách để tay hay kiểu co chân, còn phần đầu và ngực đều giống như nguyên mẫu. Danh tác Capitoline và Medici là nguồn cảm hứng cho họa sĩ Phục Hưng Sandro Botticlli. Họa sĩ đã tạo lại dáng đứng bất hủ này vào tác phẩm 'The Birth of Venus' và ngay sau đó bức tranh đi thẳng vào lịch sử hội họa thế giới. Danh tác 'The Birth of Venus' miêu tả Nữ thần sắc đẹp Aphrodite đang đứng trên con sò nổi bên trên mặt biển và trôi dần vào bờ. Một tay che ngực một tay che phần kín của cơ thể, bức tranh cho thấy nét thanh xuân của Venus lồng lộng trong gió biển, tượng trưng cái bao la của vũ trụ và trong cái bao la đó, sức đẹp chính là sức mạnh muôn thuở làm con người tự vượt thoát lên mọi thử thách của tạo hóa. Con sò dưới chân của Venus ẩn dụ cho sinh thực khí của người nữ, là một trong những nét đẹp của bức tranh và cũng là triết lý thẩm mỹ của cái đẹp trên cơ thể phụ nữ kéo dài đến thời kỳ Phục Hưng. Tuy nhiên xét về giải phẫu học thì 'The Birth of Venus' không thể hiện rõ tiêu chuẩn của Leonardo da Vinci hay Raphael nhưng thay vào đó, tác phẩm đã tự đưa ra được một tiêu chuẩn riêng: Gợi cảm và quyến rũ. Hai tiêu chuẩn vàng này khó thể hiện thành công trong các tác phẩm khỏa thân nếu họa sĩ không đủ tài năng để nâng da thịt trở thành bệ phóng cho những suy tưởng thẩm mỹ. Cho tới khi tác phẩm Venus With a Mirror của Titian ra đời vào năm 1555, cuối thời kỳ Phục Hưng thì cái đẹp của Venus đã dần bước sang một khuynh hướng mới. Cơ thể của Venus không còn thon thả theo tiêu chuẩn của Raphael nữa mà có da có thịt hơn. Ngực người nữ trong tranh Titian đậm chất biểu cảm hơn và khuynh hướng này từng có thời kỳ bị các Giáo Hoàng lên án và cho rằng thấm đẫm sắc dục. Titian vẫn không nhường bước, bức tranh được ông cất giữ cẩn thận trong một thời gian dài mãi đến khi ông mất và nó được phát hiện sau đó. Khuynh hướng thẩm mỹ không dừng lại khi một Venus khác xuất hiện thổi vào nền mỹ thuật đương đại một khái niệm mới sau khi tung hoành nhiều thế kỷ trong các viện bảo tàng thế giới. Năm 1908 “Venus” of Willendorf được phát hiện bởi nhà khảo cổ Josef Szombathy. Bức tượng nhỏ bằng lòng bàn tay nhưng ý nghĩa của nó thật lớn lao và mở ra nhiều câu hỏi cho giới nghiên cứu mỹ thuật cũng như nhân chủng học. Niên đại bức tượng được xác nhận là hơn 25 ngàn năm trước Thiên Chúa Giáng Sinh, mô tả một phụ nữ khỏa thân với đầy đủ tứ chi được tìm thấy tại một vùng thuộc nước Áo. 'Venus of Willendorf' mô tả 'vẻ đẹp' của người phụ nữ một cách khác thường: với ngực lớn quá khổ, cơ bụng lớn, nhiều nếp gấp. Hai đùi thật lớn phía trên và nhỏ dần bên dưới. Cơ quan sinh dục rất chi tiết và điều này được các nhà nhân chủng học cho rằng phản ánh lại ước vọng của người sáng tạo ra nó sống trong thời ấy. Mốc thời gian chỉ định bức tượng được khai sinh trong lúc con người mải miết săn bắn kiếm sống và do đó người phụ nữ trong thời kỳ này khó lòng 'phốp pháp' cho được. Có lẽ quá quen thuộc với những phụ nữ ốm yếu chung quanh, người đàn ông cổ đại nung nấu ước vọng người đàn bà của mình sẽ có một cơ thể khác với thường nhật nay đã trở nên nhàm chán. Động lực thúc đẩy người nghệ sĩ là phải tạo nên một hình ảnh phụ nữ có sinh lý vững mạnh, khả năng sinh sản cao để lưu giống về sau... những ý tưởng này đã hình thành 'Venus of Willendorf'. Vẻ đẹp của tượng tuy chưa định hình một cách cụ thể, nhưng với những bước giả định về tính thẩm mỹ, người ta có thể tin rằng đây là khuynh hướng thẩm mỹ của người hang động và biết đâu, trong tiềm thức con người nó đã sống dai đến nỗi trong các trường mỹ thuật ngày nay, không hiếm người mẫu có thân hình thật không thua bao nhiêu so với 'Venus of Willendorf'. Ngày Tết nhìn lại những danh tác Venus cổ kim chợt nảy sinh ra lắm điều lạ lẫm. Đẹp mạnh mẽ như các cô gái trong tranh Lê Trung, hiền hòa đầy đặn như người mẫu trong tranh Nguyễn Thị Hợp hay sắc sảo quyến rũ như Phryne, và chí ít cũng là nữ thần sắc đẹp như trong The Birth of Venus, thì mới đáng gọi là Nữ Thần sắc đẹp! chứ phốp pháp, dữ dội và quá khổ như 'Venus of Willendorf' mà cũng gọi là Venus thì thật là khó thể tưởng tượng đối với hầu hết người Việt. Nhưng xét cho cùng, nghệ thuật là bước đường khám phá vô tận. Nét đẹp qua từng thời kỳ phải khác nhau. Ngày nay người mẫu gầy như que tăm mới lọt được vào mắt xanh của các tay tổ Fashion design. Thế nhưng biết đâu chỉ trong vài thập niên nữa, khi quân số của những phụ nữ quá khổ trên thế giới tăng vượt hơn con số 50% so với 27% hiện nay thì khi ấy việc lựa chọn người mập mạp, đầy đặn như 'Venus of Willendorf' để làm mẫu đâu có gì đáng phải ngạc nhiên!
|
|
|
Post by NhiHa on May 25, 2011 6:58:35 GMT 9
Sự kỳ ảo của những người thợ rèn Nguyễn Thu Thủy Một cuộc triển lãm điêu khắc lớn của các nghệ sĩ tên tuổi Tây Ban Nha đang diễn ra tại Bảo tàng Mỹ thuật và sẽ kéo dài đến ngày 30-11. Sự kiện này do Viện Nghệ thuật hiện đại Valencia và Đại sứ quán Tây Ban Nha tại Hà Nội tổ chức nhân kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam-Tây Ban Nha. Có lẽ từ rất lâu công chúng Hà Nội mới được thưởng thức một cuộc triển lãm điêu khắc qui mô và chuyên nghiệp như vậy. Hơn 100 tác phẩm gốc từ bộ sưu tập của Viện nghệ thuật hiện đại Valencia (IVAM) được trả bảo hiểm và chuyển tới bảo tàng Mỹ thuật VN, trưng bày trên 2 tầng gác nhà chuyên đề của bảo tàng. Cuộc triển lãm này dành sự quan tâm đặc biệt cho tác phẩm của Julio Gonzales, vị cha đẻ của nền điêu khắc chất liệu sắt. Lịch sử mỹ thuật thế giới ghi nhận truyền thống điêu khắc hiện đại bắt đầu bằng Rodin và Julio Gonzales, để rồi được củng cố với Picasso và Matisse cho tới khi tìm thấy một con đường chắc chắn ở một số nghệ sĩ như Moore, Chillida, Calder hay Smith. Vậy là Hà Nội đang vinh dự tiếp đón một trong những bậc thày điêu khắc thế giới. Julio Gonzales sinh năm 1887 tại Barcelona và mất năm 1942 tại Paris. Ông lớn lên trong một gia đình có truyền thống làm nghề kim hoàn ở vùng Catalan. Julio đã học ở trường Mỹ thuật và câu lạc bộ nghệ thuật Sant Lluc và quen biết Picasso, Hugue, Rusinol, Torres Garcia,... Năm 1900 gia đình ông chuyển đến sống ở Paris và ở đó ông đã liên hệ với Picasso, và có quan hệ bạn bè với Modigliani, Brancusi, Max Jacob... Năm 1910, những chiếc mặt nạ đầu tiên mang nét lập thể đã ra đời, khiến Julio Gonzales trở thành nghệ sĩ đầu tiên chọn con đường sử dụng sắt để thể hiện ý tưởng của mình. Tại triển lãm trưng bày nhiều mặt nạ bằng sắt cắt, uốn, hàn và rèn thời kỳ này của ông như mặt nạ ánh sáng và bóng tối, Mặt nạ Thép, Gương mặt Thanh xuân... Người phụ nữ ngồi đọc sách và Bóng khỏa thân là hai tác phẩm pha trộn giữa hiện thực và lập thể, rất đẹp và ấn tượng. Năm 1918, Gonzales học kỹ thuật hàn xì và dự định tiến hành điêu khắc bằng hình thức này, hình thức đã được ông sử dụng trong giai đoạn 1927-1931 khi ông quyết định rời bỏ hội họa. Gonzales đã đặt nền móng cho một nền điêu khắc mới bắt nguồn từ ý tưởng phá vỡ sự lệ thuộc vào khối lượng, thể tích và độ đặc, và như vậy chấp nhận không gian như một vật liệu mới. Nếu ngắm kỹ các tác phẩm của Julio Gonzales tại triển lãm người xem sẽ bị hút mắt vào những sáng tạo vừa giản dị vừa bác học, vừa ngẫu hứng vừa lý trí nơi con mắt nghệ sĩ chế ngự những đường cắt và những mối hàn. Từ năm 1931, Gonzales bắt đầu cắt những tấm sắt để dần đi vào không gian ba chiều khi ông nghiên cứu về giá trị của khoảng không như trong tác phẩm Cái đầu được gọi là Đường hầm, đồng thời ông cũng vẽ trong khoảng không và tạo ra những hình khỏe khoắn và năng động. Từ năm 1927 ông cộng tác với Picasso trong việc dàn dựng các tác phẩm bằng sắt hàn và dao động giữa trừu tượng mà không làm mất đi những hình tượng. Những hình tượng Người phụ nữ ngồi, Người ngồi tựa đầu, Người đứng, Đầu thân dài, Venus,... là những khối điêu khắc bằng đồng thiếc và sắt rèn thoạt nhìn tưởng như những khối hình trừu tượng, nhưng ngắm kỹ người xem đều nhận ra hình tượng nhân vật mà tác giả sáng tạo nên. Julio Gonzales đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc đi tiên phong không chỉ trong việc sử dụng các loại vật liệu mà còn trong việc tạo ra một nền mỹ học cách tân, phi vật chất hóa hình dáng mà vẫn không tách rời hoàn toàn các chủ đề và trục điêu khắc truyền thống. Bên cạnh khoảng hơn 70 tác phẩm của Julio Gonzales tại triển lãm Sự kỳ ảo của những người thợ rèn, còn có những tác phẩm của ba môn đệ của ông là Andreu Alfaro, Martin Chirino và Miquel Navarro. Cuộc triển lãm cho thấy sự ảnh hưởng của Julio Gonzales đối với các thế hệ nghệ sĩ điêu khắc Tây Ban Nha tiếp theo. Andreu Alfaro (sinh năm 1929), thích áp dụng những kiến thức hình học của mình để tạo nên những tác phẩm trừu tượng đầy sức hút bởi những thanh sắt mảnh kết hợp khối liền. Những tác phẩm đầy sắc thái kết hợp với mô đun, với loạt tác phẩm, với ánh sáng và màu sắc. Martin Chirino (1925) được biết tới với những tác phẩm làm người ta liên tưởng tới khoảng không và các môn khoa học tự nhiên. Ông được đánh giá là một nghệ sĩ điêu luyện trong nghệ thuật rèn sắt. Đối với Miquel Navarro (1945), thế giới tự nhiên là một nguồn cảm hứng, các tác phẩm của ông đi sâu vào cấu trúc của mọi vật. Các thành phố của ông đưa ta đến với những câu chuyện không tưởng. Biến đổi chất sắt cứng, thô nhám, thành những hình tượng, biến kim loại thành thơ, những dáng hình thành ý tưởng, các nghệ sĩ điêu khắc lớn của Tây Ban Nha đã minh chứng cho quyền năng của sáng tạo nghệ thuật: mang lại sự đồng cảm và tình yêu cái đẹp đến mọi người trên trái đất
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 7:56:09 GMT 9
Triển lãm nghệ thuật khắc gỗ của Bình Phó (VienDongDaily.Com - 08/08/2008) LOS ANGELES (California) – Phòng trưng bày del Mano khai mạc cuộc triển lãm những tác phẩm điêu khắc gỗ của Bình Phó hôm 02.08.2008. Tác phẩm Warrior #4 (2008) - chất liệu: gỗ ash, sơn acrylic, vàng lá – kích cỡ: 8 ½ in. chiều cao x 8 in. đường kính. Bình Phó (Phó Đức Bình) sanh tại Việt Nam năm 1955 trong một gia đình di cư từ miền Bắc, lớn lên trong cuộc chiến, học trường kiến trúc. Ông ở lại Việt Nam sau 1975, vượt biên bằng thuyền và đến Mỹ năm 1979. Tại Mỹ ông đã học được nghệ thuật khắc gỗ và đã trở nên một nghệ sĩ danh tiếng trong ngành này với hơn 50 tác phẩm được đánh giá cao và trưng bầy ở các viện bảo tàng khắp nơi trên nước Mỹ cũng như được lưu giữ trong những bộ sưu tầm của những người yêu nghệ thuật. Tác phẩm của Bình Phó thường có dạng những chiếc bình gỗ tiện ra từ những khúc gỗ quý, sau đó được để khô và mài láng. Trên mặt gỗ này, Bình Phó dùng nhiều chất liệu, mầu sắc và kỹ thuật khác nhau để diễn tả ý tưởng của mình. Ông Bình Phó tại phòng triển lãm del Mano Bình Phó giải thích: “Tác phẩm của tôi thường phản ảnh văn hóa Viễn Đông và cuộc hành trình của tôi đến phương Tây”. Cuộc triển lãm gồm 14 tác phẩm khắc gỗ, trưng bày đến 30.08.2008. Địa chỉ của del Mano Gallery: 11981 San Vicente Blvd., W. Los Angeles, CA 90049. Điện thoại: (310) 476-8508, (800) 335-6266. Mở cửa từ 10:00AM-6:00PM. Đóng cửa Chủ Nhật và thứ Hai. Mời quý độc giả xem một số tác phẩm hiện đang được trưng bày của Bình Phó sau đây. Ảnh do del Mano Gallery cung cấp. Tác phẩm Flames in the Dream (2008) Chất liệu: gỗ box elder, sơn acrylic – 9 in. chiều cao x 5 ¼ in. đường kính. Tác phẩm Gateless Dream (2007) Chất liệu: gỗ tulip, sơn acrylic, kim loại dát mỏng - 6 in. chiều cao x 13 in. đường kính. Tác phẩm Realm of Dream (2007) Chất liệu: gỗ box elder, sơn acrylic, kim loại dát mỏng - 14 ½ in. chiều cao x 8 ½ in. đường kính. Đọc thêm: Bài viết của Trân Hương, "Phó Đức Bình và những tác phẩm khắc gỗ đặc biệt" Vien Dong Daily News
|
|
|
Post by Cửu Long Giang on Dec 15, 2011 8:14:56 GMT 9
Nghệ thuật khắc gỗ của Phó Đức Bình(VienDongDaily.Com - 10/08/2008) LTS: Nhân dịp ông Bình Phó triển lãm những tác phẩm mới nhất tại del Mano Gallery từ ngày 2-30.08.2008, Nhật báo Viễn Đông đăng lại một bài viết của Trân Hương về những cảm nghĩ khi xem cuộc triển lãm “Dòng sông định mệnh” của ông tại Viện Bảo tàng Nghệ thuật Long Beach vào năm 2006. [Tác phẩm True Paradise của Bình Phó tại cuộc triển lãm 2006] Phó Đức Bình và những tác phẩm khắc gỗ đặc biệt Bài và ảnh: Trân Hương Tuần qua quả là thời gian tôi được chìm ngập trong những hình ảnh đẹp và niềm hãnh diện. Thực ra, thấy một người Việt thành công, mình không hiểu nổi tại sao mình lại hãnh diện. Nhưng cảm giác hãnh diện ấy thì có thật không thể chối cãi, mình thấy hãnh diện như chính mình là người thành công. Trước hết là tôi được biết đến những người trẻ Việt Nam thành công, đa số là trong lãnh vực âm nhạc và thiết kế thời trang, được giới thiệu trên DVD Thúy Nga mới nhất. Thứ hai là được đến xem những tác phẩm của nhà nghệ sĩ khắc gỗ Bình Phó, người đã và đang vang danh trong thế giới nghệ thuật khắc gỗ hiện đại của nước Mỹ từ hơn một chục năm nay. ***************** [Tác phẩm Reflection của Bình Phó] Tác phẩm của ông Phó Đức Bình được triển lãm tại Long Beach Museum of Art, một viện bảo tàng gồm nhiều tòa nhà đẹp nằm ngay trên bờ biển Long Beach thật thơ mộng. Phòng trưng bày tác phẩm của Bình Phó là một căn phòng thiết trí thật trang trọng và đẹp mắt với những mặt phẳng ngang khiến người ta có thể chiêm ngưỡng những tác phẩm này đúng với tầm mắt mà không phải rướn lên hay cúi xuống. Một vài tác phẩm cỡ lớn thì được gắn trên tường hay trên những giá riêng. Dĩ nhiên ánh sáng đã được dàn sao cho có tác dụng làm đẹp tác phẩm tối đa. Mới nhìn vào phòng, người ta dễ có cảm giác ấm cúng, sáng sủa và thân thiện. Khác với một số những cuộc triển lãm khác, những tác phẩm này không phải để bầy bán mà đây toàn là sưu tập của các bảo tàng viện trên khắp nước Mỹ cũng như những nhà sưu tập cá nhân. Thoạt nhìn toàn bộ tác phẩm của Phó Đức Bình, người ta dễ có cảm nghĩ: Quá đẹp! Quá tao nhã! Quá tỉ mỉ! Quá khéo tay! Không nhìn kỹ, người ta có thể cho rằng sự khéo tay và tỉ mỉ đến mức độ “perfect” đã làm cho những tác phẩm này phần nào mất đi tính nghệ thuật của nó. Trước khi đến xem triển lãm, tôi đã đọc qua cuốn sách nói về nghệ thuật của Bình Phó nên may mắn hiểu được phần nào những tâm tư của người tạo nên những tác phẩm này cùng ý nghĩa của chúng. Do đó, tôi nhìn kỹ, nhìn nhiều lần, và hiểu được tại sao giới thưởng ngoạn nghệ thuật Mỹ đánh giá thật cao tác phẩm của Bình Phó. Trong cái hoàn hảo của tác phẩm là những nét vẽ bay bướm, những dàn xếp bố cục hài hòa, những mầu sắc tuyệt vời chứng tỏ một tâm hồn nghệ sĩ cao độ. Một chủ nhân phòng tranh đã phát biểu trong cuốn sách: “Đối với nhiều tác phẩm chúng tôi trưng bày ở đây,người ta phải có nhiều kiến thức về nghệ thuật gỗ hiện đại mới hiểu được tác phẩm và tri nhận giá trị của nó. Nhưng tác phẩm của Bình Phó vượt qua những cái đó. Chỉ nhìn những tác phẩm này là đã thấy yêu thích, không cần biết nó là gỗ hay gì khác. Không cần phải hiểu biết về gỗ hay câu chuyện đằng sau những tác phẩm này, người ta cũng có thể yêu thích chúng”. Phó Đức Bình, người nghệ sĩ Sau khi xem hết những tác phẩm của Bình Phó, tôi hỏi cô tiếp tân về nơi biểu diễn của ông như đã ghi trên tờ flyer. Theo lời chỉ dẫn, tôi ra sân cỏ bên hông tòa nhà triển lãm của Long Beach Museum of Art để tìm chỗ nghệ sĩ điêu khắc gỗ Phó Đức Bình - Binh Pho đối với người Mỹ - đang biểu diễn nghệ thuật khắc gỗ của ông cho một đám đông, dưới chiếc lều dã chiến. Ngoài chiếc lều của ông còn lều của Hội Tiện Gỗ (Wood Turning Association) cũng biểu diễn nghệ thuật tiện gỗ thành đủ mọi hình dáng. Khán giả bu quanh bàn làm việc của Bình Phó, đa số là người Mỹ, chỉ có vài người Việt, trong đó có nhạc sĩ Lê Văn Khoa và phóng viên Viễn Đông là tôi. Phó Đức Bình là một người đàn ông trung niên với nét mặt điềm đạm hiền hòa và mái tóc trắng lơ thơ. Ông mặc một chiếc áo T-shirt trắng đã cũ và chiếc quần đậm mầu đã nhuốm phong sương. Có lẽ đây là trang phục để làm việc của ông. Hai hôm trước, ông đã đóng bộ để dự buổi tiếp tân đặc biệt dành cho giới truyền thông và những người hâm mộ tài ông do Viện Bảo tàng Long Beach tổ chức. Có đến vài trăm người đến tham dự, chứng tỏ sự hâm mộ các tác phẩm của ông từ phía người Mỹ. Trong lúc đó, cộng đồng Việt Nam có lẽ ít nghe nói đến người nghệ sĩ khắc gỗ tài hoa và đặc biệt này, người đã được giới nghệ thuật Mỹ tôn vinh rất nhiều về cả tài năng lẫn chính con người ông. Bàn làm việc của Bình Phó có rất nhiều máy móc như máy khắc gỗ, máy sơn airbrush, máy tiện... Tác phẩm của ông thường là những chiếc bình giống như bình hoa, tiện từ những khối gỗ quý, được mài láng, để khô và sau đó được khắc cũng như sơn, dát vàng... lên thành những hình tượng tuyệt đẹp, nói lên một câu chuyện và một ý nghĩa nào đó. Ông cũng sử dụng những hình thái khác nhưng ít hơn. Hôm nay ông đã tiện gỗ thành một chiếc bát lớn mầu ngà rất mỏng (thường là chỉ dày 1/16 hay 3/32 của 1 inch) có những vân gỗ rất đẹp. Trước khi vẽ lên chiếc bát, ông đã có một số bản vẽ trên giấy những ý tưởng ông định thực hiện trên chiếc bát. Những “mô típ” thường thấy trên tác phẩm của Bình Phó là những con chuồn chuồn, những chiếc lông chim công, những con bướm, những chiếc lá tre. Có lẽ hiện nay, những hình ảnh này đã trở thành “chữ ký” của ông. Với lối vẽ những hình ảnh này cách đặc biệt nào đó, ông đã tạo cho mình một phong cách riêng. Nhìn những hình ảnh này, người ta phải nghĩ ngay đến tên Bình Phó. Hôm nay cũng không ra ngoài thông lệ, ông đã thực hiện hình những con chuồn chuồn trên chiếc bát. Trước khi sơn bằng máy air brush, ông dán những mảnh giấy hình chuồn chuồn trên chiếc bát, sau đó sơn đè lên. Sau khi sơn xong bằng những mầu sắc rất hài hòa, ông gỡ bỏ những mảnh giấy ra và hình những con chuồn chuồn xuất hiện, rõ ràng hơn khi ông gắn thêm cho mỗi chú chuồn chuồn hai viên bi nhỏ xíu làm hai mắt. Một nét đặc biệt khác của tác phẩm Bình Phó là ông đã khắc trên gỗ những miếng “ren” có những đường nét nghệ thuật ngoằn ngoèo tròng tréo lên nhau mà trong đó những “mô típ” chuồn chuồn, lá tre, bướm... có thể được nhận ra dễ dàng. Ông cũng dùng vàng dát lên gỗ hoặc lợi dụng vân gỗ và những chỗ nứt, cháy của gỗ... để tạo hình. River of Destiny Những kỹ thuật của Bình Phó dĩ nhiên cũng không phải xa lạ đối với giới khắc gỗ trên thế giới nhưng phần quan trọng là những gì ông đã gửi gấm trong tác phẩm của mình. Nhân dịp cuộc triển lãm tác phẩm của Bình Phó được tổ chức tại Long Beach Museum of Art, mượn từ nhiều Viện Bảo tàng cũng như bộ sưu tập của nhiều người trên khắp nước Mỹ, một cuốn sách có tựa là River of Destiny: The Life and Work of Binh Pho do Mike Wallace, curator từng cộng tác với nhiều bảo tàng viện khác nhau, viết. Cuốn sách in rất đẹp, có hình của hầu hết những tác phẩm của Bình Phó. Đây giống như một cuốn tự truyện, kể lại cuộc đời của Phó Đức Bình từ lúc mới sinh ở Sài Gòn năm 1955 tới hiện tại. Ông lớn lên trong những năm chiến tranh Việt Nam ác liệt nhất, bị bỏ lại Việt Nam năm 1975 khi cả gia đình ông vượt thoát, ở tù cộng sản hơn 1 năm vì vượt biên đường bộ, sau đó tìm cách trốn thoát vài lần nữa cho đến năm 1979 thì vượt biên thành công. Ông gặp bà Tường Vi, vợ ông, trên chuyến tầu vượt biên và ở đảo Pulau Bidong. Qua Mỹ, cuộc tình duyên của hai người cũng có nhiều trắc trở đến lúc họ thành hôn năm 1985. Sau đó, cuộc sống của gia đình ông là một biểu tượng cho sự thành công của những người tị nạn Việt trên đất Mỹ với hai vợ chồng có công ăn việc làm vững chắc. Họ có hai đứa con, một trai một gái, tạo thành một gia đình hạnh phúc, mẫu mực. Cách đây khoảng 20 năm, vợ ông tặng ông một chiếc cưa máy. Bình Phó bắt đầu tạo những đồ gỗ và sau đó học về kỹ thuật tiện cũng như rất nhiều kỹ thuật khắc gỗ, kỹ thuật airbrush... với nhiều tay nghề bực thầy cũng như những nghệ sĩ khắc gỗ có tiếng. Sau một thời gian tìm kiếm, nghe theo lời khuyên của một nghệ sĩ, ông tìm ra được hướng đi riêng của mình và bắt đầu tạo nên những tác phẩm khắc gỗ độc đáo, không giống bất cứ một tác phẩm điêu khắc gỗ nào của người khác. Chẳng bao lâu, danh tiếng của ông trong giới điêu khắc gỗ hiện đại nổi như cồn. Những tác phẩm của ông được trân trọng và đánh giá cao. Rất nhiều người chuyên sưu tập nghệ thuật đặt ông làm riêng cho họ những tác phẩm khắc gỗ đặc biệt này. Tuy nhiên, theo lời Bình Phó trong cuốn sách: “ Nhờ có một nghề để sinh sống riêng biệt, tôi có thể chọn làm những tác phẩm nghệ thuật tôi yêu thích, hơn là phải làm theo đơn đặt hàng”. [Tác phẩm Serendipity của Bình Phó] Đọc cuốn sách, với rất nhiều chi tiết thú vị trong cuộc đời khá sôi nổi của Bình Phó, người ta có thể hiểu tại sao ông cho ra đời cuốn sách này. Vì nhiều biến cố và kỷ niệm trong cuộc đời của ông đã trở thành đề tài cho ông dàn trải lên mặt gỗ. Cuốn sách lần lượt in hình những tác phẩm gắn liền với những biến cố cuộc đời ông với những lời giải thích tỉ mỉ. Vì thế độc giả cảm thấy rất thú vị và đọc xong cuốn sách, có thể cảm thấy là một người rất quen với ông, hiểu ông rất rõ, cũng như học được không ít về văn hóa và cuộc chiến Việt Nam. Đối với ông, con chuồn chuồn có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Máy bay trực thăng được trẻ Việt Nam kêu là máy bay chuồn chuồn. Vì thế trong tác phẩm The Last Helicopter, nhắc đến chuyến vượt thoát bất thành trên sân thượng của Tòa Đại sứ Mỹ ngày 30 tháng 4, 1975, ông đục hình một con chuồn chuồn trên một mặt của chiếc bình khắc như một cánh cửa nhiều chấn song, mặt kia là rất nhiều những con chuồn chuồn khác tượng trưng cho những người bị bỏ lại. Trong tác phẩm Dream in the Wind, những chiếc lông công bay dạt theo cùng một chiều, như giấc mộng đào thoát đang bị thổi bay đi bằng trận gió gây ra từ chiếc máy bay trực thăng cuối cùng. Hình ảnh chuồn chuồn, lông công, bướm, lá tre xuất hiện rất nhiều lần trong các tác phẩm của ông và có thể mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Dòng sông, một hình ảnh quan trọng đối với ông, cũng xuất hiện nhiều lần. Đối với ông, định mệnh là một dòng sông, đưa con người đến những nơi chốn mình không ngờ. Và lời cuối của cuốn sách là: Destiny: Looking back at the years I was struggling in the communist regime, no one could have imagined that I would one day have the life that I have now... a very fortunate man with a beautiful family. Thank you destiny, I will never doubt you again. Phó Đức Bình rất khiêm nhượng. Có thể định mệnh đã đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời ông. Nhưng qua cuốn sách, người ta có thể thấy Bình đã làm chủ cuộc đời mình nhiều lần, từ những chuyến vượt biên, từ chuyện đi tìm và chinh phục lại người yêu, chuyện học kỹ thuật điêu khắc gỗ, chuyện đi tìm hướng đi cho nghệ thuật của mình. Chính tinh thần vươn lên, tiến tới, không chịu lùi bước của ông đã đưa ông đến cuộc đời tươi sáng hôm nay. Cuốn sách cũng đưa ra lời chứng của rất nhiều người nổi tiếng, những bậc thầy. Ai nấy cũng đều đồng ý rằng Bình Phó là một con người đẹp đẽ đúng với ý nghĩa của nó. Ông rất phóng khoáng, rộng lượng, sẵn sàng chia sẻ kiến thức cũng như những gì ông có với người khác vì ông cảm kích và tri nhận những gì ông đã được cho từ những người đi trước ông trong nghệ thuật. Cuộc biểu diễn kỹ thuật tiện và khắc gỗ của ông trên sân cỏ Viện Bảo Tàng Long Beach hôm nay chứng tỏ điều đó. Bình Phó đã thực hiện một chiếc bát rất đẹp, một tượng trưng cho nghệ thuật của ông. Biết đâu, một người trong đám đông hôm nay sẽ theo được bước chân của ông. Cám ơn những người trẻ Việt Nam, cám ơn nhà điêu khắc gỗ Phó Đức Bình, đã cho tôi niềm hãnh diện hôm nay. 16.12.2006 Vien Dong Daily News
|
|
|
Post by Can Tho on May 3, 2012 3:46:49 GMT 9
ĐIÊU KHẮC MỸVõ Công Liêm gởi: đkg Phạm văn Hạng Lâu nay mỗi khi nói đến văn học nghệ thuật, nhất là bộ môn mỹ thuật thường có khuynh hướng nhìn về phương tây nhiều hơn phương đông. Một cái nhìn chủ quan và coi như chuẩn mực để xác định cho một giá trị của trường phái nào đó, có lẽ; trong quá khứ lịch sử, chỉ có một nền văn hóa độc tôn cai trị tư tưởng và tư tưởng đó lần hồi bị thấm nhuần vào tâm não; thậm chí trở nên khuôn thước, để rồi không có bước đi xa hơn hoặc mở ra một đường lối cho riêng mình, một sáng tạo mới nói lên được nhân tính và bản sắc dân tộc hoặc có chăng cũng nằm trong phép tắc của lề thói; tuy nhiên bộ mặt hội họa và điêu khắc ngày nay có những dấu hiệu rực sáng với cách nhìn riêng, nói lên được hồn khí của con người, hồn thiêng của đất nước, so sánh phương hướng đó; vẫn để lại những dấu vết tuyệt mỹ như những quốc gia khác đã đi qua nhiều niên đại trước đây. Giờ đây; hơn nửa thế kỷ qua chúng ta đã tiếp cận với Mỹ châu, gần gũi trên mọi lãnh vực và thu thập những dấu hiệu tiến bộ của họ, đặc biệt văn học sử yếu Mỹ xem ra có những nét đặc trưng đáng kể, thiết tưởng cũng là điều chuyên sâu qua từng mảng khoa học khác nhau cho chúng ta và thế hệ về sau. Điêu khắc Mỹ (The American Sculpture) một đặc thù văn hóa Mỹ quốc, nó được sắp xếp vào viện bảo tàng quốc gia, thuộc thủ đô nghệ thuật điêu khắc Mỹ, gặt hái thành công tốt đẹp như món quà dâng tặng qua một quá trình lâu dài -gần như cả thế kỷ, thực như thế- cung cấp một cách thích đáng, hợp thời, một ghi nhận về bộ môn điêu khắc nghệ thuật. Chắc chắn là điều mong muốn và ngưỡng mộ cho một năng lực như là một cái gì qúy giá, tốt đẹp, một thẩm quang về những gì họ đã làm nên cho thế giới điêu khắc Mỹ như đã tìm thấy khắp nơi trên đất nước của họ. The American sculpture in the Metropolitan Museum, gathered by gift and by purchase over a long period of years -almost a century, in fact- provides a fairly complete record of the art of sculpture in this country. In certain respects it affords as good a survey of what has been going on in the world of American sculpture as can be found anywhere. Có vô số tác phẩm điêu khắc đã sưu tập, kể cả những tác phẩm của người bản điạ (native-born) hoặc những sắc dân khắp nơi đã trở thành công dân Mỹ. Đây là một tích lũy lớn lao và những đổi thay khác nhau qua từng thời kỳ; với nhiều bàn tay và óc sáng tạo góp lại để làm nên những mỹ thuật điêu khắc; được sắp xếp trong một tỷ lệ kể từ những anh hùng lịch sử cho đến những tác phẩm cở nhỏ đồng đúc hoặc gỗ chạm, diễn tả qua từng thể loại, kiểu dáng tân cổ diển Ý-Đại-Lợi đã có trước ở thế kỷ thứ 19 để từ đó biến thể qua dáng (manner) trừu tượng như ngày nay; dĩ nhiên là cùng một cứu cánh để tạo ra phẩm vật cách riêng, chớ không bao giờ nhìn vào cái thỏa đáng đạt được của nó mà nhìn vào cái trạng thái của một tác phẩm lớn dành cho nghệ thuật. Nói cho ngay; những nghệ nhân đã nổ lực hoàn thành công trình sáng tạo của mình như lời nói gián tiếp để gìn giữ và bảo vệ bộ môn điêu khác Mỹ được lâu dài và có một giá trị tương đương như những người đi trước. Ấy là dữ kiện mà ta tìm thấy trong nghệ thuật điêu khắc Mỹ. Bao nhiêu tác phẩm có trước đây hầu hết là những kiệt tác (masterpieces), nhưng bên cạnh đó mất đi tính quản lý trong việc truyền thông, chưa được phổ quát rộng rãi hoặc đương đầu với những đổi thay thời sự và thói tính ưa phê bình hơn là xây dựng làm cho điêu khắc Mỹ cuốn theo đám mây mờ; may ra chỉ còn lại một sự say mê của giới chuyên nghiệp nghệ thuật hưởng ứng, cổ vũ tích cực trong hạng thứ cực tính (extremely) nhỏ mà thôi; cho nên đánh giá nghệ thuật điêu khắc thời ấy vẫn trong giai đoạn tiệm tiến, muốn thành hình có mức độ, cần phải có con mắt điêu khắc mới nhìn suốt được cái giá trị vật chất cũng như tinh thần của điêu khắc gia; về mặt nầy điêu khắc Mỹ phải chịu đựng một thời gian lâu dài mới mong khắc phục được con mắt thưởng lãm nghệ thuật và nói lên giá trị tuyệt đối của nó. Nhiều tác phẩm điêu khắc ở thế kỷ thứ 19 thường để lại những hoài niệm lớn lao, kể cả văn chương hoặc được liệt kê vào lịch sử và được xem như tác phẩm đương đại . Trong lúc đó điêu khắc Mỹ xuống cấp thấy rõ, bởi họ nhìn điêu khắc, tạc tượng là món đồ qúy giá được trình bày cho việc trang trí nội thất; ít nhất cũng hơn 50 năm sau điêu khắc Mỹ mới vương lên được dưới nhãn quang của văn học nghệ thuật. Mẫu mực đầu tiên của điêu khắc Mỹ và cũng là một trong những điêu khắc gia đầu tiên, được tuyển chọn vào Viên bảo tàng Quốc gia là tượng đá cẩm thạch 'California' của Hiram Powers vào năm 1875 và được xếp vào hàng nghệ thuật Hoa kỳ. Đầu thế kỷ thứ mười chín (tk 19) Mỹ có tượng đá cẩm thạch của điêu khắc gia Powers. Powers theo học và sống ở Ý. Lần thứ hai đến Ý cùng một trong ba nhóm lớn và lần thứ ba đến Pháp học điêu khắc đồng (bronzes) vào thập niên cuối ở thế kỷ thứ mười chín và lần sau cùng ông học tập với những nhà điêu khắc đương đại. Hiram Powers được xem là nhà điêu khắc lớn của Mỹ. Và từ thời điểm 1870 đến 1920 đã có một số nam, nữ Mỹ đến học và huấn luyện ở trường Mỹ Thuật Ba Lê (École des Beaux Arts) Paris. Tiêu chuẩn được chấp nhận cho một số học viên Mỹ thời ấy; giữa 1855 và 1914 trên dưới một trăm sáu mươi(160) điêu khắc gia Mỹ, khao khát được chiếu cố cho tham gia trình bày những tác phẩm của họ ở nơi có tao nhân mặc khách (Salon) thì mới đánh giá được tác phẩm của họ; điêu khắc Mỹ gặp phải hoàn cảnh khó khăn để làm quen thị giác quần chúng, vì thế những điêu khắc gia vận dụng mọi sở năng để làm sao có chỗ đứng vinh quang cho bộ môn mỹ thuật nầy. Hiện nay có hơn ba mươi(30) hoặc nhiều hơn nữa với những tác phẩm khác nhau đều được chọn để đưa vào Viện Bảo Tàng Quốc Gia Mỹ, đây là buổi triển lãm đầu tiên về điêu khắc Mỹ. Và sau đó một số nghệ nhân điêu khắc nhận bằng khen hay truy tặng Huy Chương Danh Dự Đề Cao (Honorable Mention) nhờ đó mà loé mắt giới thưởng lãm. Trong buổi triển lãm đó có một trong hai vị nhận Huy Chương Hạng Hai (Medal of the Second) và Huy Chương Trường Phái Hạng Ba (Medal of the Third Class). Phòng trưng bày điêu khắc năm 1880 có những tượng đáng chú ý: Tượng bán thân Farragut của Saint-Gaudens. Năm 1886 có 'Người Hùng Biện Trẻ' (The Young Sophocles) của John Donoghue. Năm 1887 có tượng đồng 'Con Gấu Bụi Đời-Tamer' (The Bohemian Bear-Tamer) của Paul Barlett... Kể từ thời điểm 1880 cho đến nay điêu khắc Mỹ đã cho ra đời nhiều tác phẩm độc đáo dưới mọi thể loại khác nhau, người, vật, tĩnh vật, động vật, trừu tượng; pha trộn những chất liệu khác nhau, cẩm thạch trắng, đen, đồng, kền (nickel) mạ sắt (chrome) đá, gỗ...và nẫy sinh nhiều điêu khắc gia với những sáng tác mới kể cả trừu tương thể và nhiều mô hình biến thể vượt ngoài tầm nhìn của điêu khắc. Đó là những dữ kiện đáng kể cho việc tuyển chọn về điêu khắc Mỹ là để nói lên cái nhìn tuyệt đối cho một thứ nghệ thuật sáng giá, một sự đánh đổi qua năng lực sáng tạo cũng như tìm kiếm chất liệu mới cho điêu khắc Mỹ. Ở bài viết nầy không thể phơi bày trọn vẹn hết tài năng của những điêu khắc gia cùng lúc; mà ở đây chỉ dành một cái nhìn tổng quan và đánh giá mặt thật của điêu khắc Mỹ từ giai đoạn bắt đầu cho tới ngày nay và từ đó điêu khắc Mỹ có một chỗ đứng vững vàng trong một đô thị bảo tàng nghệ thuật Hoa Kỳ. Cũng đủ nói lên được sự kỳ diệu do những nhóm người hay một vài nghệ nhân đơn độc qua tác phẩm của họ; cho ta một tương quan về những con người kỳ bí khó hiểu (obscure-man) như trường hợp của Olin Warner cùng một số bè bạn đã bày tỏ qua chân dung bán thân của họ là ít nhiều ảnh hưởng cổ La Hy. -một quan điểm mà gần như đưa tới cái điều không thể hiểu thấu một cách trọn vẹn qua điêu khắc ngày nay... Với những sưu tập khác về điêu khắc 'đồng' qua 19 tác phẩm của Augustus Saint-Gaudens.Mà người ta đã dày công nhiều năm để phân định một số điêu khắc của ông là có vị trí xứng đáng và được chính thức thừa nhận trong Nghệ thuật Mỹ (American Art) và được coi là một trong những điêu khắc gia vĩ đại của Hoa Kỳ. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn sản sinh ra nhiều nghệ nhân điêu khắc khác cũng làm nên lịch sử nghệ thuật Mỹ với những điêu khắc nổi tiếng như Frederic Remington, một lợi hại khác của Remington là sức chịu đựng, kiên trì làm việc là một trải rộng lòng nhiệt tình dành cho vùng đất hoang vu miền viễn tây nầy (Wild West) đó là đối tượng của vấn đề điêu khắc Mỹ -giữa mục đồng và dân bản điạ- (cowboys and Indians). Phân tích về những sưu tập điêu khắc là vấn đề chủ lực phóng vào một thứ ánh sáng rực rỡ cho bộ môn điêu khắc, một lợi ích cho điêu khắc gia cũng như những nhà bảo trợ họ. Hiển nhiên đó là việc làm có ý nghĩa quan trọng cho lãnh vực điêu khắc Mỹ và đó cũng chưa hẳn là điều làm cho ta ngạc nhiên về khám phá đó; cái trọng yếu cho vai trò điêu khắc là tạo vật có giá trị vừa có tính lịch sử, vừa có tính nghệ thuật cho nhân loại ngày nay và một điều khác nữa là sưu tập một số tạc tượng chân dung đáng kể; có hằng trăm hoặc hơn nữa về chân dung, mà cái chính là dành vào việc học tập và tìm hiểu qua từng nhân vật. Hai phần ba chân dung thường nghiêng về đàn ông nhiều hơn. Trong số đó có chừng mười ba (13) là nghệ sĩ, số còn lại là những danh nhân lịch sử, chính trị, xã hội và khoa học gia, theo sau đó có một ít danh nhân phụ nữ như Susan B. Anthony cho tới Anna Pavlova. Danh nhân lịch sử như Tổng thống A. Lincoln. Tổng thống A. Jackson. Những anh hùng nội chiến Nam Bắc ; Tướng Sherman, Tướng Hanthingy, Tướng P. Kearny và Đề đốc Farragut. Một số tượng đồng cở nhỏ được coi là vật phẩm qúy ngang hàng với những thứ kim hoàng khác như tượng của Pavlova của Afred Lenz. Mặt khác về tượng súc vật cũng dành những giải thưởng cao qúy cho trường phái nầy. (Từ trái qua phải) : * "Califor nia" 1850 by Hiram Powers. Thạch trắng /Marble. Cao 71'(H). * "Abraham Lincoln" 1914 by Leonard Wells Volk. Đồng/Bronz. Cao 20-3/4' (H). * "The Wounded Bunkie/ Tải Thương Binh Bunkie" 1896 by Frederic Remington. Đồng/Bronz 21'3/4 (H) Trong thời gian mười lăm, hai mươi năm sau, có nhiều điêu khắc sưu tập đã gây sôi nổi thêm cho điêu khắc gia, đặc biệt những điêu khắc gia đương đại, họ làm ngơ những tác phẩm cẩm thạch trắng và đen, đồng và sắt mà trước đây cha ông họ đã đi qua; giờ với một bề dày kinh nghiệm, những nghệ nhân điêu khắc xây dựng bằng một mô thức khác, tân kỳ và hiện đại hơn. Chính yếu tố đó cho ta một tư duy khác, mới lạ để tìm thấy cái kỷ năng sáng tạo của điêu khắc qua mọi thể cách của nó, tạo một cảm giác mới lạ qua chất liệu nhào nặng chất dẻo (plastic) và chạm trổ trên đá qúy (glyptic) một mô thức không phải là mơ mà thực của Powers và Saint-Gaudens. Viện Bảo Tàng Sưu Tập Điêu Khắc Mỹ là đại diện đứng ra chọn lựa công bằng, hợp lý những tác phẩm điêu khắc của các nghệ nhân là hoàn toàn vô tư và nghiêm chỉnh, mà trước đây có nhiều hội đoàn đứng ra thành lập hội điêu khắc để đánh giá tác phẩm của họ, Tất cả những tặng phẩm điêu khắc đều đem ra khảo nghiệm về giá trị chất liệu cũng như giá trị sáng tác qua việc thẩm tra của những điêu khắc gia nổi tiếng như John Quincy, Adams Ward là một trong những vị sáng lập và là những vị thẩm sát Viện Bảo Tàng (Trustee of the Museum). Từ năm 1885 đến 1896 đặc dưới quyền cai quản của người phụ trách viện bảo tàng. Hồi đó toàn quyền cai quản viện bảo tàng dưới quyền của giáo sư Isaac H. Hall và về sau tiếp nối thừa kế quản thủ viện như đã làm. Ngày nay điêu khắc Mỹ nằm trong đơn vị thuộc viện khoa học nghệ thuật Hoa Kỳ. * Rồi từ đó điêu khắc Mỹ như bước nhảy vọt. Cuối thế kỷ mười chín (tk19) nghệ thuật Hoa kỳ thật sự hiện hữu giữa Đông và Tây. Bộ môn điêu khắc không ngừng hoạt động , kéo theo nhiều điêu khắc gia nam nữ như một cuộc trỗi dậy thời hậu thế chiến Hai. Sau cơn chấn động hoặc tân-tự-do (new-freedom) của cuộc chiến đã biến đổi hoàn cảnh, mở đường và đánh dấu nghệ thuật : Hiện sinh và Trừu tượng (The Existential and the Abstract) Điêu khắc Mỹ thật sự dấn thân để nói lên sự hiện diện của họ, một tầm vóc của thời kỳ đương đại. Trong số điêu khắc gia Mỹ, phải nói đến một vài vị điêu khắc thuộc trường phái Trừu tượng, một hình ảnh mới lạ đưa điêu khắc Mỹ vào một tầm nhìn rộng lớn của thế giới điêu khắc. Lề thói của những con người bi quan không thể áp đặt vào bất cứ lý sự gì về cái cung cách thuộc Trường phái Ấn tượng Trừu tượng của điêu khắc Mỹ cả, mà phải nhìn qua những tác phẩm của David Smith, Tony Smith, Mark Di Suvero và Jonh Chamberlain. Pessimistic interpretations do not apply by any means to the gestural Abstract Expressionnism of the American scultures in the work of David Smith, Tony Smith, Mark Di Suvero and Jonh Chamberlain. Postwar sculture drew its own highly original consequences from the classical modernism of Gabo, Picasso and González. Thời hậu chiến của điêu khắc Mỹ đã thu hút một số lượng nguyên bản với một giá trị sáng giá và có tầm ảnh hưởng sâu, một kết quả cụ thể từ trường phái hiện đại cổ điển của Gabo, Picasso và González. Theo ý của những nhà điêu khắc đương thời, bước tiên khởi của họ là chấp nhận bước đi của Hans Arp và Henry Moore. Arp nói: 'Chúng tôi không đi lùng kiếm để bắt chước cái tự nhiên đó...chúng tôi muốn sáng tạo, tợ như cấy hạt giống, và điều đó không cho là bắt chước' ( We do not seek to imitate nature...we want to create, as the plant creates its fruit, and not to imitate) Điêu khắc trở thành cái gì dễ tiếp nhận nhất, một cái tương quan phát triển, một năng lực, một cơ cấu hợp lý; nhưng đây không phải là hình thức qua từng nhóm hoặc kiểu cách nào đó, nhưng ở đây là cơ bản bao quát (broad-based), chuyển động đó là chuỗi phát sinh ra những điều mới lạ hơn. Một kiến trúc thiết kế, một khuynh hướng siêu thực cho một thứ nghệ thuật sau thời chiến, một con đường mở mang phát tiết ở bên kia bờ Đại Tây Dương. Ở Mỹ; điêu khắc được coi như là định hướng nghệ thuật, không thể thiếu vắng trong văn học nghệ thuật Mỹ, điều đó không hẳn thế mà phải chờ vào những năm sau đó. Qua điêu khắc của David Smith và Tony Smith đã làm một sự chuyển hướng để có hệ thống mẫu mực hơn. Cùng thời có Jonh Chamberlain, Jonh đã xử dụng vật liệu phụ tùng xe uốn ép, đắp lên mô hình; còn Mark Di Suvero thì dùng những đòn sắt lớn tựa vào nhau để tạo hình thể. Điêu khắc Mỹ ở thập niên năm mươi (50's) là một bung phá sáng tạo mãnh liệt nhất cho tới thập niên sáu mươi (60's). Nói chung lịch sử nghệ thuật luôn luôn là nguồn sáng tạo phát sinh theo thời gian và niên đại. Điêu khắc gia Mỹ David Smith có thể thảo luận một cách dễ dàng như người đã gặt hái thành công về những kiến trúc điêu khắc thép, sắt như những điêu khắc của P. Picasso. González và A. Calder hay những bậc sư phụ của'Tiểu Phẩm Chủ Nghĩa' (Minimalism) điêu khắc. Ở đây chúng ta để tâm vào một năng lực xử dụng hình dáng điêu khắc trong lối dùng lửa hàn (welding torch) qua cách thức diễn tả của D.Smith ở thập niên năm mươi(50's). Chính lúc nầy; điêu khắc của Smith chắc chắn có một sự tiếp cận gần gũi, tác động đến tranh của F. Kline và W. De Kooning. Riêng ở đất nước Hoa Kỳ đã coi David Smith như một anh hùng huyền thoại của nghệ thuật đương đại. Ông là điêu khác gia Mỹ đầu tiên tạo được đường nét của trừu tượng (gestural abstraction) vượt hẳn những nhà điêu khắc đương thời sau thời hậu chiến của trường phái siêu thực và tiểu phẩm nghệ thuật. Điêu khắc của David Smith được xây dựng trong một bố cục giản đơn, thường ảnh hưởng vào nghệ thuật tiểu phẩm (Minimal Art). Smith cố giữ ý niệm về một bố cục có chiều sâu hơn là thể hiện sự vật qua điêu khắc. Tony Smith thì lại khác xây dựng điêu khắc qua một mô hình to lớn, qua một thể cách biến đổi như một kết tinh thể (crytalline), một hợp chất lóng lánh thể lỏng (octahedra) khởi từ 1959 và về sau nầy chúng ta bắt gặp những ảnh hưởng đó qua tác phẩm điêu khắc của Donald Judd và Sol LeWitt. Barnett Newman lại xây dựng qua mô thức siêu hình cổ điển có một chiều sâu nặng màu sắc thuộc lãnh vực hội họa (Color-Field) Năm 1967 tạc phẩm của Newman thiết kế như bia dựng đứng, qua tạc phẩm: Tháp Bia Gãy (Broken Obelisk). * Tượng trưng vài ba điêu khắc gia Mỹ là chứng minh con đường điêu khắc của họ, là những kẻ thực sự thừa kế sự nghiệp và đây là những tác phẩm điêu khắc sống thực là một chuyển đổi từ tất cả những quan niệm về tổ phái (totemism) và phái thẳng (verticalism) mà quan niệm đó đã đưa chúng ta nghiêng hẳn về những gì mà họ đã thực hiện như một thứ nghệ thuật chỉ là tầm cở nhỏ và tạm thời. Không! đó là cái nhìn không phải nghệ thuật thẩm mỹ đối với điêu khắc, bộ môn nầy thể hiện một năng lực đầy trí tuệ dành cho nghệ thuật; trong mỗi tác phẩm đều chứa đựng tính triết học nhân sinh dù được mô tả qua hình thức người hay vật, vượt qua một quá trình nghiêng cứu, học tập để đưa điêu khắc Mỹ vào thế giới siêu hình và trừu tượng như một số nghệ nhân đã thực hiện. Điêu khắc Mỹ ngày nay không còn là hình ảnh thuở xa xưa mà là cả một hình ảnh vĩ đại của thế giới điêu khắc ngày nay. Nên chiêm ngưỡng những kỳ bí nầy ./. * " Tanktotems II (Sounding) Bánh Xe Chứa Tổ Vật II (Âm thanh) 1952 by David Smith . Sắt và Đồng /Steel and Bronz. Cao 80-1/2 inch (H). * "Bec-Dida Day/Ngày Bec-Dida"1963 by David Smith. Sắt,Tráng Nhựa Màu/Steel,Polychromiert. 230cmX 150cm . Đường kính 47.5cm * " Broken Obelisk /Tháp Bia Gãy"1963-1967 by Barnett Newman. Sắt/Steel. 7.75cmX 306cmX306cm. * "Moses/ Luật Kinh Moses" 1968-1970 by Tony Smith. Sắt/Steel 518cm X 434cm. VÕ CÔNG LIÊM (ca.ab.30/4/75-2012) SÁCH ĐỌC: - American Sculpture . Sách bị hỏng 70%; không rõ tác giả và NXB. Ở trang sau: 'In lần đầu tháng 4/1965 với 3500 cuốn'. USA. - Art of the 20th Century : (Sculpture: Metamorphoses of Modern Sculpture -P.107) TASCHEN 2000. - Art news magazine 2000/2010 # Hình Trong Bài sưu tập vcl : Chú Thích: Những danh sĩ trong bài từ đầu trang đến cuối trang. * B (Sanh) D (Chết) F (Phái nữ) - Hiram Power (1895-1873). B. Woodstock;Vermont D. Florence (USA). - Augustus Saint-Gaudens (1848-1907) B. Dublin.Ái Nhĩ Lan.D. New Hampshire. (USA) - Jonh Talbott Donoghue (1853-1903) B. Chicago.D.Hamden. Connecticut (USA) - Paul Wayland Bartlett (1865-1925) B. New Haven, Connecticute .D. Paris(France) - Olin Levi Warner(1844-1896) B. Suffield, Connecticut. D. New York (USA) - Frederic Remington (1861-1909)B. New York. D. Connecticute(USA) - Susan B. Anthony (F) (1820-1906) B. Rochester, New York. D New York (USA) - Anna Pavlova (1885-1931) Vũ nữ Nga. Được M. Hoffman tạc bằng sáp màu.cao 15-1/2' 1924. - Alfred David Lenz (1879-1926) B. Wiscosin. D. Havana Cuba. - Jonh Quincy Adams Ward (1830-1910).B. Urbana. D. New York (USA) - Malvina Hoffman (F) (1887-1935) B. New York (USA) - Leonard Wells Volk (1828-1895) B. New York.D.Chicago (USA) - David Smith (1906-1965) B. Indiana D. Albany New York (USA) - Tony Smith (1912-1980) B. New Jersey. D.New York (USA) - Mark Di Suvero (1933- ) B. Shanghai (China) - Jonh Chamberlain (1927- ) B. Indiana (USA) - Gabo Naum (1890-1977) B. Russia. D. Waterbury Connecticute(USA) - Pablo Picasso (1881-1973) B. Málaga(Spain) D. Mougins (France) - Alexander Calder (1898-1976) B. Philadelphia D.New York (USA) - Julio Gonzalez (1876-1942) B. Barcelona(Spain) D. Arcueil (France) - Jean ARP Hans (1886-1966) B. Strasbourg (Germany)D. Basel(France) - Henry Moore (1898-1986) B. Castleford (England) D. Much Hadham (England) - Franz Kline(1910-1962) B. Wilkes-Barre(PN/USA) D. New York (USA) - Willem De Kooning (1904- 1997) B. Rotterdam (Holland) D. New York(USA) - Donald Judd (1928-1994)B. Excelsior Spring(MO) D. New York (USA) - Sol Lewitt (1928- ) B. Harford. Connecticut (USA) - Barnett Newman (1905-1970) B.New Yorh. D. New York (US
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Apr 21, 2013 9:11:07 GMT 9
Auguste Rodin (1840-1917) Sóng Việt Đàm Giang Để kỷ niệm 172 sinh nhật nhà điêu khắc tài danh người Pháp Auguste Rodin, hôm November 12, 2012 Google đã thiết kế một biểu tượng cho chữ Google với một O mang hình bức tượng nổi tiếng Le Penseur/Người Suy Tư của ông. Bức tượng Le Penseur/The Thinker là một phần trong tác phẩm La Porte de l' Enfer hiện đặt tại Viện Bảo Tàng Rodin ở Paris, Pháp. Trong những tác phẩm nổi danh của Rodin phải kể đến The Thinker, The Kiss, Victor Hugo, Honoré de Balzac, Eternal Springtime, Eternal Idol, Eve, v.v... Auguste Rodin ( François-Auguste-René Rodin (November 12, 1840 -November 17, 1917) là một họa sĩ và nhà điêu khắc người Pháp. Ông là điêu khắc gia hàng đầu của Pháp vào cuối thế kỷ thứ 19, đầu thế kỷ thứ 20 và hiện nay tên tuổi của ông được biết đến khắp nơi trong và ngoài giới nghệ thuật. Có đọc tiểu sử cuộc đời của Rodin mới thấy ông ta không phải là người được thành công mau chóng ngay từ khi bắt đầu mà ông đã phải trải qua nhiều thời kỳ gian gian nan, nghèo khổ và di chuyển liên miên. Rodin không hề đuợc chấp nhận vào trường hội hoa có tiếng của Pháp vì lối nghệ thuật khác thường. Có thể nói nguồn cảm hứng cho một số tác phẩm của Rodin bắt nguồn từ nhà điêu khắc Michelangelo của Italy. Bài viết ngắn dưới đây theo dõi những thời kỳ quan trọng trong cuôc đời của Rodin cùng chú ý đến một số tác phẩm nghệ thuật điêu khắc của ông trải dài từ khi ông còn là một cậu trai trẻ cho đến những ngày cuối cuộc đời vào năm 1917. Nhiều tác phẩm có tiếng của Rodin đã bị chê trách đồng loạt khi ông còn sinh thời vì chúng không theo truyền thống điêu khắc, tức là kém về phần trang trí, và không hợp đề tài cổ điển. Tác phẩm của Rodin không miêu tả chuyện trong huyền thoại Hy lạp hay điển tích trong Kinh thánh, mà ông nắn tượng tiêu biểu cho riêng từng cá nhân. Tuy ông luôn luôn theo rõi những chỉ trích yêu cầu thay đổi nhưng ông luôn luôn cứng rắn, giữ vững đường lối riêng biệt. Sự nhẫn nại và cuơng quyết của ông dần dân mang lại kết quả tốt và ông rồi ông chiếm được sự ngưỡng mộ của giới nghệ thuật Tiểu Sử Dưới đây là một phần lịch trình tóm tắt ghi lại những năm Rodin thực hiện tác phẩm và hình ảnh một số tác phẩm của ông do người viết chụp tại Museum Rodin trong hai chuyến đi thăm Paris vào tháng 10 năm 2009 và tháng 8 năm 2012. Auguste Rodin sinh ngày 12 tháng 11 năm 1840 tại Paris, Pháp. Năm 14 đến 17 tuổi (1854) Rodin là học trò trường Petite École trong Khu Latin (nay trường mang tên École Impériale Spéciale de Dessin et de Mathématiques). Nãm 17 tuổi (1857) Rodin bị loại lần thứ ba không đuợc chấp nhận theo học Trường Mỹ Thuật (École des Beaux-Arts), và từ đó trở đi Rodin tạo một lối đi riêng biệt trong điêu khắc khác hẳn với trường phái mỹ thuật được giảng dậy tại các trường mỹ thuật đương thời. Nãm 18 đến 22 tuổi (1858-1862), để mưu sinh, Rodin làm thợ hồ, thợ gạch, và thợ đổ khuôn cho nhiều nhà thầu xây cất thời đó. Nãm 24 tuổi (1864) Rodin có một phòng làm việc nhỏ tại Rue de Brun, Paris. Tại đây Rodin nặn tượng bán thân một người đàn ông láng giềng mang tên Bibi. Thero Rodin kể lại sau này thì vì phòng ốc không có đủ sưởi ấm nên tượng đất bị đông cứng và phần sau của cái đầu bị rơi vỡ. Tượng này Rodin đặt tên là "Mặt Người đàn ông với mũi gẫy" (The Mask of Man with Broken Nose). Khi ông mang trưng thì bị Hội đồng của các phòng tranh bác bỏ với lý do không đạt tiêu chuẩn nghệ thuật đuơng thời. Bức tượng này sau đó có tình tiết ly kỳ sẽ được kể sau. Nãm 25 tuổi (1865) Rodin tạo tác phẩm "Thiếu nữ với Mũ Hoa" (Young Lady with Flower Hat), người mẫu chính là một cô gái đang chung sống với ông tên là Rose Beuret. Năm 35 tuổi (1875) Rodin dọn sang Brussel, Belgium với Rose Beuret và họ ở Brussel cho đến năm 1877. Trong thời gian ở Brussel, Rodin làm việc nhiều và để tìm cách tạo dựng tên tuổi, Rodin bắt đầu thực hiện một tác phẩm không phải do được đặt hàng. Đây là tượng Rodin sáng tạo sau khi nghiên cứu và quan sát một người lính Bỉ mang tên Auguste Neyt. Rodin đặt tên tượng là "The Age of Bronze" (Thời đại đồng đen). Cùng thời gian đó Rodin đi sang Italy vùng Genova, Pisa, Florence, Naples, Rome để học hỏi từ nhiều hoạ sĩ người Ýcùng những tác phẩm của Michelangelo. Đến cuối năm 1876 Rodin hoàn tất bức tượng "The Age of Bronze". Nhìn bức tượng mọi nhiều người cho nhận xét bức tượng chịu ảnh hưởng của Micheangelo từ hình dạng đứng của người mẫu, và những bắp thịt thể hiện trên tượng. Năm sau khi 37 tuổi (1877) Rodin cho triển lãm bức tượng "The Age of Bronze" (Thời đại đồng đen) mà Rodin gọi là "The Conquered Man". Rodin đã bị ban hội đồng mỹ thuật đương thời nghi ngờ là ông đã dung phương pháp đổ khuôn từ người thật do đắp vữa lên người mẫu rồi đem đúc chứ không phải do ông nặn ra bức tượng. Trong cùng năm 1877 sau khi triển lãm ở Bỉ, ông mang tượng về Paris triển lãm. Khi biết những lời dị nghị từ Bỉ đã truyền sang Paris, Rodin đã yêu cầu ông chánh hội đồng giám đốc trường Mỹ Thuật cho được giải thích rằng ông đã tốn một năm rưỡi làm việc với người mẫu để sáng tạo bức tượng. Hai người bạn ở Bỉ cũng chứng nhận là họ đã quan sát Rodin làm việc thật sự trên bức tượng với người mẫu hiện diện. Rodin cũng trưng những tấm hình ông chụp so sánh người mẫu Auguste Eyet và bức tượng để làm bằng cớ những lời buộc tội là dối trá nhưng hội đồng mỹ thuật đã bác bỏ không xét lại. Sau năm 1877, Rodin và Rose trở về sống và làm việc ở Paris. Thời gian này Rodin sáng tác tượng " St John the Baptist Preaching". Để tránh bị buộc tội là làm giả mạo bức tượng, kỳ này Rodin chế tạo tượng lớn hơn người đời, và để cả hai chân của người mẫu trên mặt đất dù đang ở trong tư thế bước. (Cũng nên chú ý là nửa phần dưới của bức tượng này cũng đã được Rodin cho ghép vào một bức tượng khác mang tên The Walking Man, làm sau đó một thời gian). Năm 40 tuổi (1880), Rodin được Turquet của ngành Mỹ Thật quốc gia trả tiền cho đúc tượng đồng "The Age of Bronze" và "St John the Baptist Preaching". Sau cuộc triển lãm tượng "The Age of Bronze" được giải thưởng vàng ở Ghent vào tháng 8, 1880 sau khi đã đuợc Pháp mua. Bắt đầu từ năm này, Rodin được coi như chính thức là một nhà nghệ sĩ điêu khắc. Cũng trong năm 1880 này, với sự ủng hộ của Turquet, Rodin được commission để sáng tạo một tấm cửa đồng cho Viện Bảo tàng Nghệ thuật trang hoàng với theme của nhà thơ Dante. Rodin có hứng với "Cánh cửa Thiên đàng" của Ghiberti ở Florence, Ý, và có ý định sáng tác cánh cửa với nhiều phần khác nhau dựa theo mẫu bức họa The Last Judgement của Michelangelo trong Sistine chapel. "Cánh cửa Địa ngục" của Rodin có rất nhiều nhân vật khác nhau, mỗi phần tiêu biểu cho một câu chuyện nào đó của những linh hồn đang tìm cách tự thoát ra khỏi ngọn lửa vĩnh cửu. Theo dự tính thì Rodin sẽ phải bận rộn với dự án lớn lao này trong vòng 40 năm, nhưng trong thời gian Rodin còn sống thì những plaster mẫu này không hề được đúc thành đồng, chỉ có hai bản được đúc, một do một nhà sưu tầm người Hoa Kỳ và một bức do Museum Rodin đặt. Về những tượng trên cánh cửa đồng này, thì một số nhân vật đã được sáng tác lại như là những tượng cá nhân riêng biệt. Mặc dù dự án Cánh cửa Địa ngục bằng đồng cho Viện bảo tàng không hoàn tất, nhưng trong thời gian này Rodin đã được chính quyền dành cho một cơ sở riêng để làm việc và nhờ thế mà Rodin đã thực hiện được một số tác phẩm trong khi tiếp tục công trình "Cánh cửa Địa ngục". Trong thời gian này, Rodin làm việc trên một số tác phẩm khác như 'The Thinker', 'Young Woman with Child', 'The Limbo' và 'The Sirenes'. Năm 41 tuổi (1881) Rodin tiếp tục hoàn tất "The Shades" và "Eve". Khi làm tượng Eve, người mẫu của Rodin vì có bầu nên sự thay đổi mỗi ngày một rõ. Và Rodin đã lợi dụng hiện trạng này để sáng tác một "Eve" như là một người mẹ của nhân loài. Bức Eve không được hoàn tất vì người mẫu đã không trở lại làm việc sau khi sanh. Năm 43 tuổi (1883) Rodin quen cô học trò trẻ Camille Claudel và bắt đầu một cuộc tình đầy sóng gió với Camille. Năm 45 tuổi (1885) với sự phụ tá của Camille, Rodin thực hiện "The Burghers of Calais". Bức The Burghers of Calais cho thấy hình 6 người đại diện cho thành phố Calais đứng trên cùng một bình diện và kích thước như nhau, khác hẳn với đề nghị của hội đồng thành phố Calais là một nhân vật chính đứng giữa cao nhất với những người khác đứng thấp hơn vây quanh. Sáu nhân vật này diễn tả những phản ứng rất người đối với số phận nghiệt ngã đã ràng buộc họ với nhau. Bức tượng đồng này với kích thước nhân vật lớn hơn người thường, nặng hơn 2000 kg hoàn tất đúng 10 năm sau đó (năm 1895). Trong những năm từ 1884 đến 1889 (44 đến 49 tuổi) ngoài những dự án vẽ/nặn cho tác phẩm Fleurs du Mal của Baudelaire, Rodin đã thực hiện được một loạt những tượng đôi nhân tình, diễn tả sự dằn vặt sâu xé giữa thất vọng, tuyệt vọng, và ham muốn, nhục dục và xấu hổ, như phản ảnh mối tình không thể được giữa Rodin và Camille; trong đó có Fugitive Love/1884, Avarice and Lust/1885,Faun và Nymph/1886, Paolo & Francesca/1887, Death of Adonis/1888) và 'Eternal Idol/1889. Tượng Centauress cũng thực hiện trong thời gian này. Năm 1891. Rodin làm việc trên tượng Balzac và rồi Victor Hugo. Sau một thời gian gặp nhiều phản đối và phê bình, tượngVictor Hugo đã được hoàn tất và trưng bày như ngày nay. Rodin Museum The Shades The Age of Bronze Honoré de Balzac St Jean-Baptist Preaching Năm 1895, sau khi trưng bày tượng The Burghers of Calais trên một nền cao trái với ý Rodin thì vào năm 1897 Rodin lại bị chỉ trích với một Balzac đang thủ dâm dưới cánh áo rộng. Trong hai năm 1894-95, Camille và Rodin chia tay trong cay đắng về phần Camille, nỗi niềm của Camille được coi như bày tỏ trong tác phẩm Maturity miêu tả mối tình tay ba giữa Rodin và hai người đàn bà, một già (Rose) và một trẻ (Camille). Năm 1897, sau khi hoàn tất tượng Balzac thì Camille và Rodin hoàn toàn xa nhau. Năm 1917 Rodin mới chính thức làm đám cưới với Rose Beuret hai tuần trước khi bà qua đời ngày 14 tháng 2, 1917. Và chín tháng sau đó Rodin cũng qua đời ở Meudon vào ngày 17 tháng 11, 1917. Một năm trước khi qua đời, Rodin đã làm giấy tờ/chúc thư tặng toàn bộ tác phẩm nghệ thuật của ông cho chính quyền Pháp. Một lâu đài mang tên Hôtel Biron đã được chính phủ Pháp dành để trưng bày tác phẩm của Rodin, sau đó Hôtel Biron đuợc chính thức mang tên là Viện Bảo tàng Rodin. Mộ của Rodin và vợ ông được chôn trong căn vườn của toà nhà Villa des Brillants tại Meudon. Một đài có mang tượng Người Suy Tư được đặt gần mộ ông theo đúng đòi hỏi của ông. The Walking Mane Meditation Gate of Hell Kiss Eve Eternal Idol Victor Hugo The Burghers of Calais Eternal Spring Kiss Call to Arms Sóng Việt Đàm Giang
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Aug 29, 2013 9:15:11 GMT 9
ĐIÊU KHẮC LÀ GÌĐiêu khắc là một môn nghệ thuật mà người nghệ sĩ tác động vào những hình khối gọn gàng, tinh tế nhất nhằm thể hiện 1 hay nhiều ý nghĩa của tác phẩm. Có thể là tượng đài (tượng đồng, đá, bê tông,...), có thể là biểu tượng (con sư tử vàng ở Lasvegas chẳng hạn), có thể là bích trương (hàng loạt bích trương ở Mêhicô là tác phẩm của các nhà điêu khắc chứ không phải họa sỹ) hay các phù điêu thạch cao (đền Parthenol), đồng,... điêu khắc tồn tại trong không gian 3 chiều. Điêu khắc gồm 2 thể loại chính: phù điêu, tượng tròn. Khái niệm điêu khắc của người phương tây:Điêu khắc là một ngành nghệ thuật của nghệ thuật tạo hình, được sáng tạo theo nguyên tắc về thể tích, hình khối, vật chất trong không gian ba chiều và chịu sự chi phối của những quy luật tạo hình Khái niệm điêu khắc của người Việt nam:Từ “điêu khắc” có nguồn gốc Hán-Việt. “Điêu” là chạm khắc, nói rộng ra thì các lối chạm trổ thì gọi là điêu. Lấy dạo vạch vào vật gì đó thì gọi là khắc. Như vậy điêu khắc có nghĩa là dùng dụng cụ cứng như kim loại (đục, dao…) tác động vào các chất liệu cứng như đá, gỗ, xương, ngà voi tạo nên các tác phẩm nghệ thuật. Như vậy khái niệm về điêu khắc ở đây cũng bắt nguồn từ cách thức tạo hình trên chất liệu. Phù điêu (Relief - Pháp, có nguồn gốc từ tiếng La tinh Relevo: làm nổi lên) là loại điêu khắc được thể hiện trên mặt phẳng, có sự gắn kết khăng khít với mặt phẳng. Mặt phẳng đóng vai trò là nền tảng cơ bản và là phông nền của hình khối tạo hình trên nó. Với những điểm đặc thù của mình, phù điêu là một loại hình quan trọng của điêu khắc. Tính cố hữu của phù điêu là triển khai bố cục trên mặt phẳng, nó có khả năng kiến tạo xa gần bằng các lớp không gian và tạo nên các ảo giác về không gian (không gian ảo). Phù điêu cho phép triển khai những bố cục phức tạp như bố cục có nhiều lớp nhân vật thậm chí thể hiện những công trình kiến trúc và tranh phong cảnh. Phù điêu không những thể hiện những bố cục ở tường, vòm mái, ở các chi tiết kiến trúc, mà còn được sáng tác như một tác phẩm độc lập để trưng bày. Dựa trên mối quan hệ giữa hình khối và mặt phẳng nền người ta phân biệt ra phù điêu khoét lõm ( khối âm) và phù điêu nổi lên ( khối dương). Tranh phù điêu thiếu nữ Tây Âu. Chất liệu composite giả đồng. Kích thước: chiều cao 1500 Sản phẩm thích hợp trang trí cho không gian nội thất Châu Âu sang trọng, cổ kính Tượng QUỲNH PHƯƠNG Là hình thức biểu diễn khối 3 chiều trong không gian để thể hiện ý tưởng của tác giả ngôn ngữ của điêu khắc cơ bản là mảng khối. Người Suy Tưởng tượng đồng của Rodin. Ban nhạc cổ tượng đất nung của Nguyễn Viết Thắng. Phù điêu Là hình thức đắp nổi hoặc khoét lõm với chiều dài, rộng là thực còn phần nổi mang tính ươc lệ về khối. Các phương pháp tạo hình Tạc Tạc là một phương pháp mà trong đó người nghệ sĩ thao tác chủ yếu trên chất liệu rắn như đá, gỗ,... để tạo hình. Ở phương pháp này, người nghệ sĩ chủ yếu dùng búa đục loại bỏ những "phần thừa" trên chất liệu để tạo ra một sản phẩm mong muốn. Ngoài ra, đất cũng là một chất liệu để tạo hình bằng cách nặn. Đất nặn thành tượng hoặc phù điêu có thể nung để thành tác phẩm điêu khắc gốm, hoặc có thể đúc thành khuôn. Đúc Đúc là phương pháp sử dụng khuôn mẫu có sẵn do chế tác, sau đó dùng chất liệu lỏng hoặc nấu chảy lỏng đổ vào khuôn, sau khi đông đặc, người nghệ nhân sẽ tháo bỏ lớp khuôn bên ngoài ra và thu được tác phẩm đúc. Các chất liệu đúc: Đồng, nhôm, gang,... Thạch cao, xi măng, nhựa Đồ gốm cũng có thể đúc, người ta còn gọi là đổ rót và in đất. Gò Gò là phương pháp sử dụng dụng cụ tác động trực tiếp lên chất liệu cần thể hiện nhằm tạo ra hình thù người nghệ nhân mong muốn. Chất liệu cho gò là kim loại được cán mỏng. Tranh ghép gốm – vũ điệu của những sắc màu Tranh gốm có nhiều loai. Có loai đươc vẽ men sống trưc tiếp trên măt phẳng. Có loai hoa sĩ tô men trên môt bức phù điêu mỏng… Tai các trường mỹ thuậthiên nay cũng phổ biến loai tranh chất liêu, thưc hiên bằng nhiều loai vât liêu kết hơp – trong đó có gốm [...] Tranh gốm có nhiều loai. Có loai đươc vẽ men sống trưc tiếp trên măt phẳng. Có loai hoa sĩ tô men trên môt bức phù điêu mỏng… Tai các trường mỹ thuậthiên nay cũng phổ biến loai tranh chất liêu, thưc hiên bằng nhiều loai vât liêu kết hơp – trong đó có gốm – trên môt bề mặt phẳng… Ngoài ra, còn có môt loai tranh gốm khác, thuần chất gốm, đươc lắp ghép từ nhiều, rất nhiều các mảnh gốm màu bé xíu: tranh ghép gốm, hay còn goi là tranh gốm mosaic. Mosaic (hay khảm, ghép), là một kỹ thuật cổ xưa. Từ thiên niên kỷ thứ 3 trước công nguyên, mosaic đã xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà, như một thể loại trang trí bằng đá màu và ngà voi. Khoảng 1.500 năm trước công nguyên, mosaic gốm ra đời, nhưng chỉ thật sự phát triển từ thời đế chế Ba Tư (thế kỷ thứ 8 trước công nguyên) cùng với các loại vật liệu mosaic khác, chủ yếu dùng trong trang trí các cung điện và đền thờ. Mosaic tiếp tục ảnh hưởng sang các nền văn minh Hy Lạp, La Mã, phát triển cả về kỹ thuật và màu sắc, được nhiều thế hệ nghệ sĩ kế tục, trở thành một thể loại nghệ thuật đặc thù, và định danh tên gọi. Mêhicô, Liên Xô (cũ) và một số nước khác đã có nhiều thành công về thể loại này. tranh ghép gốm làng quê Tranh mosaic có nhiều loại: ghép từ mảnh thủy tinh, ghép từ đá, sỏi, hay ghép từ mảnh gốm. Ở Châu Âu, phổ biến là tranh ghép thủy tinh hay ghép đá. Tại Châu Á, nhiều công trình cổ Trung Quốc có tranh ghép gốm sứ. Ở Việt Nam, khách du lịch cũng thường được giới thiệu về chùa Chén kiểu ở Sóc Trăng, Lăng Khải Định ở Huế, và một số ngôi chùa cổ của người Hoa ở TP. HCM có nhiều mảng trang trí làm từ mảnh gốm, sứ hay sành. Tranh ghép mặt hổ Tại Đồng Nai, người dân qua lại trên đường Nguyễn Ái Quốc cũng có thể thấy các mảng gốm ghép trang trí hai bên cầu vượt trước trường Tiểu học Hùng Vương. Chùa Ông, một ngôi chùa cổ nổi tiếng trên đất Cù lao cũng có một vài chi tiết ghép gốm. Tuy nhiên, trong hầu hết các công trình tại Châu Á và Việt Nam, kỹ thuật ghép gốm thường chỉ mang tính chất trang trí. Không ít người còn hiểu sai: ghép gốm như một kỹ thuật tận dụng các mảnh chén vỡ, là việc làm chỉ của thợ xây dựng ở các vùng quê! Lần đầu tiên, từ một số cuộc triển lãm uy tín tại TP. HCM và Bình Dương năm 2010, khách tham quan được làm quen với những tác phẩm mỹ thuật thực sự, từ nguyên liệu gốm và kỹ thuật ghép mosaic. Tranh ghép mosaic Hằng ngàn mảnh gốm nhỏ nhiều sắc màu, qua bàn tay tỉ mỉ của các nghệ nhân, được ghép lại cạnh nhau theo một chủ ý nhất định và hình thành nên những tác phẩm nghệ thuật thực sự, chắc khỏe, độc đáo, có một sức thu hút khó kềm chế được. Đây là những sản phẩm bền bĩ với thời gian, có thể trưng bày cả trong nhà và ngoài trời, hay tự tạo nên những mảng tường trang trí độc đáo, phù hợp cho các công trình thể thao, văn hóa, tôn giáo… Quy trình chế tác một bức tranh ghép gốm cũng thật công phu. Bắt đầu từ ý tưởng, họa sĩ phác thảo nên bức tranh mẫu với đầy đủ sắc màu dự kiến. Căn cứ trên sắc màu này, các nghệ nhân bắt đầu pha chế men gốm. Sau khi qua lò nung ở nhiệt độ khoảng 1.200oC, các miếng gốm với đủ sắc màu cần thiết cho bức tranh hình thành. Bắt đầu công đoạn chế tác, căn cứ vào hình dạng cụ thể của từng mảng màu và tông màu, sắc độ màu của từng vị trí trên tranh, nghệ nhân dùng kềm bấm tạo hình chi tiết cho từng mảnh gốm. Các mảnh gốm thường chỉ nhỏ khoảng 0.5 đến 2cm. Một bức tranh có thể có từ vài trăm đến vài chục ngàn mảnh ghép thủ công như thế tùy theo độ phức tạp. Về màu sắc, để hoàn thiện, tác phẩm sẽ cần có từ vài chục đến vài trăm màu men khác nhau. Không có mảnh gốm nào giống nhau hoàn toàn về hình dạng và màu sắc, nhưng tất cả sau khi ghép chung với nhau, làm nên một vũ điệu gốm lung linh sắc màu! Có thể nói không ngoa, quy trình chế tác tranh ghép gốm là quy trình sáng tạo hai lần: lần thứ nhất họa sĩ thực hiện bức tranh mẫu gần như một bức tranh hoàn chỉnh; lần thứ hai, nghệ nhân chép lại bức tranh với đầy đủ chi tiết, màu sắc… nhưng không phải bằng cọ với màu sơn, mà là bằng kềm và các mảnh gốm. Mỗi một mảnh gốm do nghệ nhân cắt ra, đặt vào tranh có thể xem như một nhát cọ của họa sĩ, nhưng được thực hiện bằng kềm bấm và màu sắc phải được chuẩn bị trước trong lò nung ở nhiệt độ 1.200oC! Tranh ghép thủ công Tìm đến với các nghệ nhân làm ra nó, chúng tôi thực sự ngạc nhiên, vì dòng tranh này xuất xứ từ Biên Hòa, và nhóm nghệ nhân làm ra nó, hầu hết là con dân xứ Đồng Nai! Ai cũng biết gốm Biên Hòa từng một thời vang bóng. Tại những cuộc đấu xảo trong thập niên 30 của thế kỷ trước ở châu Âu, màu men xanh đồng trổ bông cùng với kiểu dáng khác lạ, kỹ thuật sáng tạo của các nghệ nhân Đồng Nai đã làm ngỡ ngàng những nhà sưu tập sành điệu trên thế giới. Trải qua thời gian, với nhiều tác động của thị trường, gốm Biên Hòa cũng thăng trầm như những người tâm huyết đã làm ra nó. Những năm gần đây, trong sự giao lưu với các vùng gốm khác, cùng với sự mở rộng thị trường xuất khẩu, gốm Biên Hòa đang dần được hồi sinh… Nguồn: dongnai.vncgarden.com/lang-nghe/tranhghepgomvudieucuanhungsacmauCách lựa chọn phù điêu đẹp cho không gian sống (Phần 1)Phù điêu hiện nay vẫn còn là khái niệm nghệ thuật chưa được đông đảo người biết đến. Nó không phổ biến như tranh sơn dầu, tranh thêu hay như tranh sơn mài của Việt Nam, tuy vậy phù điêu lại chiếm phần lớn những ứng dụng nội ngoại thất trong đời sống con người từ xưa đến nay, đó là những hình khắc chạm nổi trên đồng, gỗ, đá, gốm sứ... hay ngày nay phù điêu còn được làm bằng Composite, thạch cao, xi măng... Phù điêu làm đẹp không gian sống, nhưng không phải vì thế mà cứ có không gian là bất kì loại phù điêu nào cũng treo. Treo phù điêu trong nhà cũng có quy tắc phong thủy cần lưu ý. Không gian nhà hàng quán bar, khách sạn, phòng karaoke Ở không gian này chúng ta cần lưu ý mô hình hoạt động kinh doanh để lựa chọn sao cho phù hợp. Với những quán ăn sang trọng nên đặt những bức phù điêu liên quan đến dân gian, thiên nhiên cây trái, muông thú vừa tạo cảm giác gần gũi và ngon miệng vừa tôn lên vẻ sang trọng của không gian. Tại những vách ngăn hay cột trụ nhà hàng cũng có thế trang trí bằng những họa tiết cách điệu, nhưng tuyệt đối không nên để những họa tiết quá phức tạp sẽ làm cho khách hàng cảm giác nhức mắt. Tại quán ăn cũng không nên treo những hình ảnh gợi dục kích thích quá mức. Với không gian quán bar, phòng karaoke thoải mái hơn trong cách sắp đặt tranh. Ở không gian này chủ nhân có thể treo những bức phù điêu mang tính hình tượng cách điệu cao hay phù điêu trừu tượng tạo cảm giác mạnh mẽ. Không như quán ăn phục vụ ăn uống, tại không gian này có thể đặt những bức phù điêu nude art, thiếu nữ bán khỏa thân hay nam thanh niên cởi trần trong những thần thoại hy lạp, ai cập cổ đại, điều này phần nào đó làm kích thích hưng phấn ở những địa điểm vui chơi giải trí. Tuy dễ dàng lựa chọn, nhưng ở không gian này cũng không nên treo những dòng phù điêu mang tính tôn nghiêm như tranh phật, tranh đức chúa... Không gian công sở, văn phòng, chính phủ, doanh nghiệp Công sở là nơi để làm việc tuy vậy đôi khi nơi làm việc cùng nên có chỗ dành cho nghệ thuật, điều này làm giảm sự căng thẳng, tăng khả năng làm việc. Những bức phù điêu đồng, phù điêu giả vàng, bạc là lựa chọn hợp lý cho những không gian này. Phù điêu không chỉ là nghệ thuật, phần nào đó nó còn thể hiện sự sang trọng cho không gian làm việc. Thể loại phù điêu nên chọn là thể loại lịch sự tôn nghiêm, cũng có thể mang xu hướng dân gian tìm về nguồn cội. Hình ảnh những linh vật như rồng, sư tử, phượng... dùng để trấn hưng, hay hình ảnh bát mã giúp doanh nghiệp làm ăn thành công. Một đơn vị doanh nghiệp cũng có thể làm biển treo banner cho mình dưới hình thức phù điêu. Đây là sáng tạo mới mẻ kết hợp giữa nghệ thuật và hình thức PR thương hiệu. Ở không văn phòng công sở tuyệt đối không được treo những bức phù điêu có tính kích thích cao hay quá cầu kì làm giảm khả năng làm việc.
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Aug 29, 2013 9:24:16 GMT 9
BỘ PHÙ ĐIÊU TUYỆT ĐẸP VỀ LỊCH SỬ ĐỨC PHẬTHiện nay phần lớn những ngôi chùa mới xây dựng, bên trong Chùa, thường có vẽ bộ tranh, hoặc đắp phù điêu về lịch sử Đức Phật thiết trí ở hai bên tường. Thiết nghĩ đây là một phần khá quan trọng. Bởi lẽ những bức tranh ở đây là một "bài pháp không lời", khách thập phương chỉ cần ngắm những bức tranh,(hay phù điêu) và đọc những câu chú thích ở bên dưới là có thể hiểu được khái quát phần nào về cuộc đời Đức Phật. Vì thế việc thể hiện những tác phẩm này đòi hỏi người thể hiện phải hiểu ít nhiều về Phật giáo, và căn bản là phải có tay nghề vững, nắm rõ về bố cục, hình thể và sắc màu, có như thế thì tác phẩm mới khả dĩ lột tả phần nào về các tướng hảo của Đức Thế Tôn. Người viết đã thấy một số chùa xây rất đẹp, hoa văn họa tiết trong chùa hết sức tinh tế hài hòa, nhưng tranh, phù điêu vẽ lịch sử Đức Phật thì... không đẹp, cho dù là họ chép lại tranh nhưng vẫn không chuẩn, hình thể mất cân đối, màu sắc "cải lương", lại đặt tranh ở vị trí quá cao làm cho người xem ngước cổ lên muốn...chóng mặt, như vậy vô tình phá đi nét đẹp kiến trúc tổng thể, và làm khó cho người xem. Tìm hiểu rõ mới biết, hầu hết những bức họa hay phù điêu không đạt chuẩn là một phần do vị trụ trì còn hạn chế về mặt thẩm mỹ, hoặc có khi vì muốn " tiện việc" và " ít tốn kém" nên đã đồng ý để những người thợ vẽ kiêm luôn việc của họa sĩ hay điêu khắc gia. Thật là đáng tiếc. Tuy nhiên chúng tôi thấy tín hiệu vui là ngày càng có nhiều quý vị trụ trì đã biết quan tâm về mặt mỹ thuật, biết tìm những họa sĩ, hay điêu khắc gia đến thực hiện, nên nhiều chùa có những tác phẩm về lịch sử Đức Phật cũng như các tác phẩm khác rất đặc sắc, làm vừa lòng khách thập phương cũng như các nghệ sĩ khó tính. Dưới đây là một trong những bộ phù điêu lịch sử Đức Phật tuyệt đẹp, được nhiếp ảnh gia Võ Văn Tường chụp tại chùa Xá Lợi, mặc dù bố cục giản đơn nhưng chặt chẽ, gam màu độc sắc nhưng đậm chất thền vị, hài hòa với không gian tổng thể trong ngôi chùa. Mời quý độc giả thưởng lãm. Hoàng hậu Ma-Gia nằm mộng thấy voi trắng 6 ngà Thái tử Tất- Đạt- Đa đản sanh tại khu vườn Lâ-Tỳ-Ni Đạo sĩ A-Tư-Đà đến thăm Thái Tử Thái tử đi dạo cửa Đông và Tây thành Ca- Tỳ- La -Vệ Thái tử đi đến cửa Nam và Bắc thành Ca-Tỳ-La-Vệ Thái tử từ giả vợ con, hoàng cung ra đi tìm đạo Thái Tử cắt tóc bên dòng sông A-Nô-Ma Ma Vương sai 3 cô công chúa đến khuyến dụ Đức Phật Ma vương dùng bạo lực đe dọa Đức Phật Đức Phật thành đạo Đức Phật chuyển pháp luân tại vườn Lộc Uyển Nàng Chia-A-Cha vu khống Phật, và Đức Phật giảng pháp cho nàng Ba-ka-bra nghe (bên phải) Các loài thú được Đức Phật cảm hóa Đức Phật cảm hóa và thu nhận chàng Vô-Não làm đệ tử Đức Phật nhập Niết-Bàn tại rừng Ta-La song thọ Nguồn: nghethuatphatgiao.com
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Aug 29, 2013 10:02:19 GMT 9
Vũ điệu gốm sứVốn dĩ là những sản phẩm thường được sử dụng trong đời sống sinh hoạt của con người hay để trưng bày, sắp đặt… gốm sứ cứng cáp nguyên sơ nhưng lại mềm mại trong từng đường nét, thậm chí mỏng manh dễ vỡ. Làm sao để gốm sứ thoát khỏi lớp vỏ bọc hóa [...] Vốn dĩ là những sản phẩm thường được sử dụng trong đời sống sinh hoạt của con người hay để trưng bày, sắp đặt… gốm sứ cứng cáp nguyên sơ nhưng lại mềm mại trong từng đường nét, thậm chí mỏng manh dễ vỡ. Làm sao để gốm sứ thoát khỏi lớp vỏ bọc hóa lý để hòa trong vũ điệu ngợi ca 1000 năm của đất mẹ, của cội nguồn gốm sứ tự thửa xưa? Đều được tạo thành từ những đường nét, màu sắc, những mảng ghép linh hoạt và đặc biệt không thể thiếu xúc cảm thẩm mỹ từ đôi bàn tay người nghệ nhân, nghệ sĩ…vậy giữa gốm sứ và thời trang có sự giao thoa, hòa điệu không? Để trả lời cho câu hỏi đó hay để phác họa cho sợi dây gắn kết giữa hai phạm trù, đêm ca nhạc thời trang “Vũ điệu gốm sứ” thử đem gốm sứ lên không gian nghệ thuật để cùng tỏa sáng với thời trang và người đẹp. 4 nhà thiết kế nam hàng đầu Việt Nam đã tụ hội để “tô màu, hòa sắc” cho vũ khúc “nghê thường” của gốm sứ: Sỹ Hoàng, Thuận Việt, Ngô Nhật Huy và Sơn Collection. Nằm trong khuôn khổ Festival Gốm sứ Việt Nam – Bình Dương 2010, chương trình ca múa nhạc “Vũ điệu gốm sứ” sẽ diễn ra vào lúc 20h00 ngày 5/9 tại sân vận động tỉnh Bình Dương. Những họa tiết, hoa văn đặc trưng của gốm sứ sẽ khoe sắc trong đêm ca nhạc thời trang hội tụ những tiếng hát được các bạn trẻ yêu mến như: Mỹ Tâm, Tuấn Hưng, Hà Anh Tuấn, Thanh Thúy… Hơi thở của gốm sứ được thổi hồn vào các bộ sưu tập thời trang Áo Dài – NTK Sỹ Hoàng, NTK Ngô Nhật Huy; Yếm – Thuận Việt, đầm dạ hội – Sơn Collection. Xuyên suốt chương trình là câu chuyện về gốm sứ, về lịch sử nghề gốm cùng với sự phát triển của xã hội và con người Việt Nam. 22 làng nghề gốm sứ nổi tiếng từ Bắc vào Nam, các sản phẩm làm từ gốm sứ, đại diện cho các miền gốm sứ sẽ được thể hiện một cách sinh động, gần gũi tạo thành khúc ngợi ca đất mẹ dày công tạo tác… Người xem sẽ được trải nghiệm “Hỏa biến” – Thăng hoa trong lửa cùng Sỹ Hoàng; Uy nghi và bí ẩn như “Huyền thoại rồng” – NTK Ngô Nhật Huy; táo bạo “Yếm hoa” cách điệu giữa truyền thống và hiện đại – NTK Thuận Việt và sang trọng, đài các với “Nắng và lửa” – NTK Sơn Collection. Trong phần trình diễn thời trang, vẻ đẹp của các mỹ nhân như Kim Cương, Diễm Châu, Ngọc Oanh (Siêu mẫu Châu Á 2009), Như Thảo, Ngọc Thạch, Triệu Trang (Hoa hậu Du lịch Quốc tế)…sẽ sánh đôi cùng muôn vẻ gốm sứ. Mộc mạc như gốm thô, như chiếc bình, chum nhỏ, ấm nước đất, heo đất, con tò he đất, lồng đèn đất nung…Trầm mặc, gân guốc và bí ẩn như gốm Chu Đậu, Bát Tràng, Phước Tích…Thanh thoát, mỹ miều như gốm sứ Phù Lãng, Hương Canh, Bình Dương… Đặc biệt là sự góp mặt của các thí sinh lọt vào vòng chung kết hoa hậu Việt Nam 2010 như Hà Linh Vân, Uyên Thảo, Lâm Thị Thúy, Ngọc Giàu… Thí sinh hoa hậu Thế giới người Việt 2010: Oanh Yến, Diệu Hân, Nguyễn Thị Mơ (top 5); Á khôi 1 Hoa khôi Trang sức Việt Nam 2009 Lê Huỳnh Thúy Ngân khoe nét duyên với trang sức gốm sứ cùng hòa vào điệu vũ sắc màu đêm hội. Chương trình do Sở VHTT &DL tỉnh Bình Dương phối hợp cùng Cty Sen Vàng tổ chức. Đạo diễn Lê Quý Dương: “Sân khấu đêm khai mạc festival gốm sứ Việt Nam – Bình Dương 2010 vào lúc 20h00 ngày 4/9 mang tên “Thăng Long gốm Việt” sẽ như một lò gốm khổng lồ, tái hiện sinh động cảnh làng gốm, thợ gốm…”. NTK Sỹ Hoàng: “Lấy ý tưởng từ tinh chất của đất, bàn tay tài hoa của người thợ gốm, qua lửa biến hóa thành một sản phẩm sử dụng hàng ngày cho con người. Màu sắc của bộ sưu tập dựa trên các dòng gốm sứ tiêu biểu của VN như gốm thời Lý, gốm Chu Đậu, gốm Bát Tràng, gốm Bình Dương… Mong sao Festival Gốm sứ Việt Nam Bình Dương 2010 trở thành thương hiệu không chỉ thành công về sản phẩm mỹ thuật ứng dụng, kinh doanh – mà còn là sự kiện du lịch mang đậm yếu tố văn hóa nghệ thuật”. NTK Ngô Nhật Huy: “BST lấy ý tưởng từ các họa tiết Rồng và Phụng qua các vương triều đưa vào chiếc Áo Dài tạo cho BST một nét hoài cổ nhưng vẫn mang dáng vóc của chiếc Áo Dài hiện đại qua các chất liệu đã được xử lý và chọn lọc khá kĩ. Màu sắc chủ đạo gồm 5 gam màu vàng, đỏ, đen, xanh và trắng. Đây là những tông màu tượng trưng cho ngũ hành trong vũ trụ; sự giao thoa giữa nắng và gió, đất và trời, lửa và nước. Những hoa văn họa tiết này tôi cũng lấy ra từ những bình gốm sứ cổ mà sử sách đã lưu truyền lại, bên cạnh đó tôi kết hợp với kỹ thuật phối màu làm sao để cho phần hoa văn và phần thiết kế cộng với chất liệu thật hài hòa tạo nên một nét mới cho BST dành cho lễ hội Gốm sứ lần này. Tôi chỉ mong sao sau này có thể kết hợp nhiều chương trình hơn nữa dành riêng cho hai loại thể hình này có thể vừa biểu diễn thời trang AD vừa giới thiệu về xuất xứ hay nguồn gốc của sản phẩm gốm sứ hay cảm hứng hoặc họa tiết AD trên gốm sứ chẳng hạn. Cách này rất hữu hiệu để giới thiệu đến bạn bè quốc tế giúp họ hiểu hơn về con người cũng như truyền thống của Việt Nam”. NTK Thuận Việt: “Lấy ý tưởng từ chiếc áo yếm mộc mạc, giản dị của người phụ nữ Việt Nam ngày xưa, bộ sưu tập sẽ là một điểm nhấn nhằm tôn vinh những sản phẩm gốm sứ hiện đại. Sắc màu rực rỡ của Yếm Hoa sẽ là nền tảng nhằm tôn lên vẻ đẹp tinh khôi của những sản phẩm gốm sứ. Bộ sưu tập là sự tôn vinh bàn tay khéo léo của những người thợ thủ công Việt Nam qua những đường nét thêu tay tinh xảo. Sự hòa quyện của những mẫu gốm sứ cùng những họa tiết từ bộ trang phục Yếm Hoa là một bức tranh tổng thể hài hòa . Hoa từ gốm sứ sẽ là những ý tứ tạo nên họa tiết trên trang phục cũng như ngược lại”. • Nhật Nam
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Aug 29, 2013 10:34:25 GMT 9
Nhà điêu khắc Alexander Cadder, người "thổi hồn" vào sắtNgày 22/07/2011 các "đì-zai-nờ" của Google đã cho ra đời một tác phẩm cực kỳ ấn tượng và độc đáo nhất từ trước tới giờ. Chúng ta cùng tìm hiểu xem sản phẩm đó là gì nhé! Màu sắc sặc sỡ cùng những liên kết tinh tế, mỏng manh và đặc biệt là sự chuyển động đu đưa rất bắt mắt. Đó là điều chúng ta sẽ thấy đầu tiên về logo của Goole trong ngày hôm nay. Thoạt nhìn, trông chúng chẳng khác gì một khóm cây đang rung rẩy trong gió. Logo của Google ngày hôm nay. Thực ra đó là logo mô phỏng tác phẩm điêu khắc kinh điển của nhà điêu khắc Alexander Calder để kỷ niệm 113 năm ngày sinh của ông. Người đã thổi linh hồn vào những khối sắt. Không những vậy ông còn là người đã đem sự chuyển động vào trong các tác phẩm của mình, điều này thực sự là một bước ngoặt lớn trong giới hội họa, điêu khắc từ trước tới nay. Đôi nét về Alexander Calder Calder: sinh ngày 22/07/1898 và mất ngày 11/11/1976 Sinh ra tại: Philadelphia, Pennsylvania, Mỹ Bố mẹ ông từng là những nhà điêu khắc lâu đời và ông đã may mắn sinh ra trong gia đình có truyền thống nghệ thuật. Ông say mê máy móc, am hiểu về cơ khí nên đã thi vào học trường kỹ nghệ cơ khí và tốt nghiệp kỹ sư. Năm 24 tuổi, ông bỏ kỹ thuật quay sang học trong xưởng điêu khắc của Clinton Balmer. Calder bên tác phẩm điêu khắc khổng lồ ngoài trời của mình. Bắt đầu công việc điêu khắc và sáng tác đồ chơi, Calder cũng đã từng làm xiếc với những vật dụng do mình thiết kế tại Paris. Đặc biệt từ sau thế kỷ 20, sự phát triển của nền văn minh công nghiệp đã khiến ông rất tò mò. Cũng chính vì thế kim loại đã thay thế hoàn toàn các vật liệu truyền thống: đá, gỗ, thạch cao… trong các tác phẩm của ông. Hơn thế nữa, Alexander Calder đã tạo nên một chương mới trong giới điêu khắc. Ông đã mang chuyển động vào điêu khắc. Một tác phẩm ngoài trời khác của Calder. Tác phẩm La grande vitesse (1969) đặt tại Michigan (Mỹ). Calder đã đem sự say mê của ông vào công việc khổng lồ và gây ảnh hưởng lớn đến nền nghệ thuật thế giới, những tác phẩm của ông là các bức vẽ với những đường kẻ đơn giản cho tới những bức tượng bằng thép to lớn. Sự kết hợp giữa cơ khí, kỹ thuật và nghệ thuật điêu khắc đã giúp ông cho ra đời những “đứa con” hoàn hảo và cực kỳ độc đáo. Calder bắt đầu với những tác phẩm bằng dây thép đầy tính sáng tạo khiến cho người xem không khỏi bất ngờ, những sợi dây giống như những đường kẻ, các tác phẩm này vừa là tượng, nhưng lại vừa giống như một bức vẽ; cùng lúc, chúng tạo ra được chuyển động nhờ vào cơ cấu khéo léo của Calder. Tác phẩm Crinkly avec Disque rouge (1973) đặt tại Stuttgart – Đức. Man, tác phẩm điêu khắc của Calder trong hội chợ triển lãm 67 tại đảo Saint Helen Parc Jean – Drapeau. (Montreal - Canada). Những tác phẩm trừu tượng đầy màu sắc treo lơ lửng bằng một hệ thống dây treo cân bằng được thiết kế kỹ lưỡng, Calder làm được điều mà không một điêu khắc gia nào làm được trước đó: ông đã đưa thời gian vào trong một không gian chính xác, ổn định của nghệ thuật điêu khắc. Tác phẩm The Four Elements (1961). Chuyển động của những khối di động này là ngẫu nhiên nhờ những cơn gió thổi qua, và vẻ bên ngoài trừu tượng đầy màu sắc của chúng gợi đến hình dáng của loài cá hay những chiếc lá cây. Những bức tượng lơ lửng giữa không trung này đã tạo ra một ấn tượng sâu sắc về cuộc sống thiên nhiên xung quanh chúng ta. Dĩ nhiên rằng các tác phẩm của ông được cộng đồng ủng hộ và tán thưởng nhiệt tình. Một kiệt tác khác của Alexander Calder tại Lisbon – Bồ Đào Nha. Tác phẩm Bobine (1970) tại thư viện quốc gia Úc. Tác phẩm Red Mobile (1956) tại bảo tàng mỹ thuật Montreal - Canada. Không những thế, ông còn sáng tác các tác phẩm cho chính phủ Tây Ban Nha và tổ chức UNESCO. Năm 1976 ông qua đời ở NewYork và yên nghỉ tại Roxbury. Các bạn cùng xem thêm một số tác phẩm của nhà điêu khắc tài ba này nhé!
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2015 6:48:33 GMT 9
ĐIÊU KHẮC DÂN GIANwww.vietnamfineart.com.vn/Story/Tapchimythuat/mythuattruyenthong/2010/3/2413.htmlKiến trúc đình theo kiểu thức “Vì Kèo” với những hàng cột lim to khoẻ, vững chãi phân bố các gian của ngôi đình (thường là ba gian). Mái đình lợp ngói có độ dốc vừa phải. Bốn góc mái thường có bốn đầu đao uốn cong mềm mại vút lên như cánh chim bay. Bờ nóc của đình thường được trang trí một dải dài hoa văn chạy suốt là hoa chanh, hoặc hoa thị. Hoặc đắp một đôi “rồng chầu nguyệt” (hay chầu mặt trời?). Tường bao quanh xây bằng gạch trần nung già “da vải”, hoặc trát vữa, quét vôi trắng. Nhìn gần, công trình có độ thấp với mái ngói hơi nặng, nhưng nhìn xa lại có vẻ bề thế, thanh thoát bởi độ cao của khối kiến trúc chỉ chiếm một không gian vừa phải, gần với tầm kích con người Việt Nam, nên nó không tạo khoảng cách xa lạ, hoặc uy hiếp chủ nhân của chính nó như những giáo đường phương Tây xa lạ. Trước ngôi đình, thường có giếng nước hoặc hồ nước, theo thuyết âm dương phong thuỷ hoà hợp. Hồ thường được thả sen, hay súng; tới mùa hoa hương thơm toả ra mát dịu. Nằm trong khuôn viên kiến trúc, còn có tam quan - cổng đình có mái lợp ngói: hoặc là bốn trụ đứng lộ thiên. Góp phần vào vẻ đẹp, còn có những cây cao cổ thụ như đa, muỗm toả bóng mát xuống công trình. Màu trắng của tường vôi màu đỏ của ngói và gạch trần, màu xanh của lá, mặt phẳng thoáng của nước hồ như tấm gương soi phản chiếu cảnh vật, như nhân đôi chiều cao của công trình... Tất cả tạo thành hoà sắc bức tranh làng quê êm đềm, đầy chất trữ tình: Bên đình ngả nón trông đình/ đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu (Ca dao). “Ngày nay dù ở nơi xa/nhưng khi về đến cây đa đầu làng/thì bao nhiêu giấc mơ màng/hiện lên với bóng cổng làng trong tre” (Bàng Bá Lân). Niên đại sớm nhất về ngôi đình làng mà chúng ta được biết là vào thế kỷ 16, thời Mạc. Đó là ngôi đình Lỗ Hạnh, thuộc huyện Hiệp Hoà, tỉnh Bắc Giang, còn ghi rõ năm làm đình “Sùng Khang thứ 10” (1576, Mạc Mậu Hợp). Trước đó, qua nhiều năm nghiên cứu di tích, các nhà lịch sử mỹ thuật của Viện Mỹ thuật và Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam cũng chưa phát hiện được ngôi đình nào thuộc thời Mạc, hoặc sớm hơn nó, ngoài một số đồ gốm cổ Bát Tràng - Như bình thờ, đèn thờ, lư hương có ghi các niên hiệu Diên Thành, Hưng Trị, Đoan Thái, Hồng Ninh. . .thời Mạc Mậu Hợp. Từ đây, các hoạ tiết trang trí trên chất liệu gỗ và gốm được xem là những đặc điểm cơ bản, điểm tựa của mỹ thuật Mạc, làm tư liệu để so sánh, đối chiếu đặng tìm ra những phong cách điêu khắc trang trí kiến trúc tương đồng trên gỗ ở một số công trình kiến trúc khác. Một loạt những bộ phận điêu khắc trang trí kiến trúc ngôi đình (chùa) đã được liệt kê tìm ra dấu vết thời Mạc - như đình Tây Đằng, chùa Bối Khê (Hà Tây), chùa Cói (Vĩnh Phúc), chùa Bà Tấm (Gia Lâm, Hà Nội, cuối thế kỷ 17)... là những dẫn chứng cụ thể. Đặc biệt là đồ án trang trí con rồng, con phượng và một số loại hình hoa văn khác nữa. Theo lịch sử còn ghi lại, thế kỷ 16 là thời kỳ mở đầu sự khủng hoảng và suy vong của chế độ phong kiến Việt Nam. Để giành quyền thống trị, các dòng họ phong kiến cầm quyền không ngớt tàn sát lẫn nhau. Đến thế kỷ 18 thì những cuộc khởi nghĩa nông dân liên tiếp nổ ra, đỉnh cao là thắng lợi vang dội của phong trào nông dân Tây Sơn do người anh hùng áo Vải Nguyễn Huệ cầm đầu. Khi người nông dân được giải phóng, làm chủ vận mệnh của mình, thì nghệ thuật của họ cũng được giải phóng trong lao động sáng tạo. Cũng vẫn những con Rồng, con Phượng vốn được xem như những con vật thiêng đại diện cho quyền uy và sự kiêu sa của vua chúa, giờ đây dưới nhãn quan của người nghệ sĩ dân gian, nó đã được tái tạo ra khác hẳn. Nó không còn giữ vẻ trang nghiêm đến khô cứng, mà trở nên cầu kỳ, rối rắm. Với cái nhìn mới, con Rồng trở thành những con “Rồng ổ” - Rồng mẹ và Rồng con - quấn quít, chan hoà cùng nhau trong cuộc sống (xin xem những con Rồng ổ ở các đình như Thổ Tang, Thổ Hà, Chu Quyến, cuối thế kỷ 17)... Cũng như vậy những con Phượng vốn mang vẻ đẹp kiêu kỳ, tượng trưng cho sắc đẹp quyền quý của bà Hoàng, bỗng trở thành như một “mái gà” ấp ủ đàn con (xin xem “Phượng mẹ và đàn con”, tượng tròn, đình Chu Quyến, Sơn Tây, cuối thế kỷ 17). Cùng cách nhìn ấy, những con Lân, con Ly trong bộ “Tứ Linh”! cũng trở nên thân thuộc như mọi con vật trong đời sống tự nhiên của chúng; không còn vẻ trang nghiêm cách bức nữa: “...Bốn cửa anh chạm bốn dê/Bốn con dê đực chầu về tổ tông/Bốn cửa anh chạm bốn rồng/Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo/Bốn cửa anh chạm bốn mèo/Con thì bắt chuột, con leo xà nhà/Bốn cửa anh chạm bốn hoa/Trên là hoa sói, dưới là hoa sen... (Ca dao - Thợ mộc Thanh Hóa) . Cùng với những con Rồng, con Phượng, con Lân, con Rùa thay vào đó còn có cả một rừng đề tài nói về lao động, sinh hoạt nhà nông - như cày trâu, cày voi, đả hổ, đốn củi, cõng con... Đặc biệt là những trò vui trong lễ hội dân gian của làng như hát chèo, gẩy đàn, chèo thuyền, đấu vật, chọi trâu, đánh đu, chọi gà, đánh cờ, đá cầu chuốc rượu... Và không ít những đề tài nói về quan hệ tình yêu nam nữ - như “Thiếu nữ tắm ở đầm sen”, “Nam nữ chòng ghẹo nhau ở đầm sen” (Chàng trai giơ con rắn nước lên hù doạ người con gái); hoặc cảnh “tự tình” (Người con trai đưa tay bóp vú; người con gái mình trần, e lệ vội cầm lá sen che ngực)... Rất hồn nhiên, mộc mạc, bản năng, nhưng cũng không vì quá tự nhiên mà họ kém phần tế nhị, nữ tính. Bởi các “Tiên nữ tắm” (khoả thân) ấy, sau khi lên bờ các nàng đã vội vàng “yếm thắm lưng trần” nép vội vào nhau, sau luỹ tre đầy măng mọc. Một bản năng sinh tồn rất tự nhiên còn mang chút bóng dáng của đời sống nguyên thuỷ xa xưa vọng về sau luỹ tre làng. Nó đã thấm sâu vào máu của từng cư dân nông nghiệp nguyên thuỷ cho đến ngày nay, trong tiềm thức và vô thức của họ. Một kho “lưu trữ”, nói theo ngôn ngữ tâm sinh lý - phân tâm học nghệ thuật. Về cách nhìn nghệ thuật, sau khi người nghệ sĩ nông dân được giải phóng, đúng như nhận xét đầy hàm xúc của nhà nghiên cứu học giả, hoạ sĩ Nguyễn Đỗ Cung đã viết: “Khi mà hệ tư tưởng phong kiến thống trị, nghệ nhân ở thôn xã chỉ lắp lại những tác phẩm kinh điển và những mẫu dập khuôn của nền nghệ thuật cung đình: Rồng, Phượng, Lân, Rùa cứng nhắc trong tư thế oai nghiêm, giống hệt như những tượng thần, tiên, thể hiện theo những mẫu nước ngoài. Nhưng khi ảnh hưởng của phong kiến suy giảm, khi những phong trào nông dân ít nhiều lay chuyển xã hội truyền thống thì nghệ thuật dân gian lại nở rộ... Đời sống thâm nhập trong nghệ thuật lại giúp cho nghệ thuật thoát khỏi những mẫu mực ước lệ về nội dung cũng như về hình thức. Không một con vật nào, không một nhân vật nào, không một cảnh nào hoàn toàn giống nhau từ bức chạm này đến bức chạm khác, mặc dầu cùng thể hiện một đề tài. Tác phẩm tuy vô danh vẫn bộc lộ cá tính của tác giả, ảnh hưởng ngoại lai biến mất, nghệ thuật mang hoàn toàn tính chất nhân vật”.(1) Về mặt kỹ thuật và nghệ thuật “Người thợ chạm ở làng xã, từ thủa nhỏ đã quen đục chạm gỗ, nhưng vẫn là một nông dân vì anh ta tham gia mọi việc đồng áng. Nhát chạm dứt khoát, chắc tay, nhưng nguồn cảm hứng lại rất chân thật, không phải là chân thật một cách sơ khai không đạt tới nghệ thuật, mà là chân chất của nghệ sĩ lớn, tươi mát và sinh động, kết quả một quá trình hấp thụ, cố kết cao độ giữa những tình cảm sâu xa với những hình thức biểu hiện. Nghệ sĩ chạm gỗ như người ca sĩ hay nhà thơ ở làng xã khi hứng lên, diễn tả bằng ngôn ngữ hàng ngày những điều rất bình thường, nhưng rất xúc động lòng người. Những tác phẩm ấy phản ánh lên tất cả vẻ đẹp, chứa đựng mọi hương thơm của quê hương và Tổ quốc. Những nhà điêu khắc ấy không chạm chổ theo mẫu mà theo cuộc sống, những cảnh tượng diễn đi diễn lại xung quanh họ, ngày này qua ngày khác, mùa này qua mùa khác, năm này qua năm khác, in vào tâm khảm nghệ sĩ những nét không thể xóa, vì thế cuộc sống đi thẳng một cách hầu như tự nhiên vào tác phẩm nghệ thuật, giải phóng nghệ sĩ khỏi những quan niệm phong kiến thống trị”(2). Cả một rừng tác phẩm, tưởng như “phàm tục”, không chỉ trang trí ở những đình làng, mà còn cả ở chùa làng nữa. Rõ ràng nguồn cảm hứng tôn giáo không đủ sức dập tắt hơi thở mãnh liệt của cuộc sống bình dân thâm nhập vào nghệ thuật. Tiếc vì khí hậu nhiệt đới nước ta quá khắc nghiệt, cộng với sự tàn phá của chiến tranh liên miên, kho tàng quý báu này đã không bảo toàn được nhiều và nguyên vẹn. Đã thế, một thời gian dài không ít học giả, trí thức lại có khuynh hướng coi nhẹ nghệ thuật phẩm dân gian “Nôm na là cha mách qué”. Họ nhìn các đình làng bằng con mắt thờ ơ, cho rằng nền văn hoá - nghệ thuật dân gian của nó chỉ lặp lại các sinh hoạt cũng như các mô típ điêu khắc, kiến trúc giống nhau mà thôi. Cuộc triển lãm chuyên đề “Điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam thế kỷ 16, 17, 18 vào đầu năm 1972 của các nhà nghiên cứu Bảo Tàng Mỹ thuật Việt Nam và Viện Mỹ thuật tại Hà Nội là những đóng góp lớn lao, có tầm quan trọng qua việc phát hiện kho báu mỹ thuật cổ dân tộc mà bấy lâu hầu như chưa có những nhà nghiên cứu cổ học nghệ thuật biết đến. Ngót thế kỷ thực dân Pháp thống trị, không ít các học giả Phương Tây, dưới sự bảo trợ của trường Viễn Đông Bác Cổ Pháp (EFEO), đã đến Việt Nam nghiên cứu nghệ thuật Việt Nam, trong đó có những nhà khảo cổ học nghệ thuật, lịch sử, kiến trúc sư... nổi bật là hai nhà nghiên cứu Maurice Durand và Louis Bezacier. Ông M. Durand nghiên cứu tranh dân gian Việt Nam. Ông L. Bezacier nghiên cứu kiến trúc cổ, kiêm giảng viên lịch sử mỹ thuật Việt Nam tại trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, Hà Nội. Mỗi ông đã 2 lần tái bản công trình của mình: Tranh dân gian Việt Nam (M. Durand) và Nghệ thuật Việt Nam (L. Bezacier). Nhưng tiếc thay cả hai đều chưa phát hiện được cả một hệ thống kho báu điêu khắc gỗ dân gian đình - chùa làng Việt Nam 3 thế kỷ liền (16, 17, 18). Ngày nay, với tuyên bố long trọng và nghiêm cẩn của các nhà lãnh đạo đầu các quốc gia, rằng “Hãy bảo vệ sự tồn tại bền vững và khác biệt của nền văn hoá các dân tộc trên hành tinh của chúng ta” (Tuyên bố Johannesurg, Nam Phi, đầu thập niên thế kỷ 21 thì nền văn hoá - nghệ thuật truyền thống Việt Nam, trong đó có kho tàng điêu khắc gỗ dân gian, là một đóng góp quan trọng tự hào. Nó có sức nặng về chất lượng nghệ thuật đối với kho tàng tinh hoa điêu khắc thế giới. Nó góp tiếng nói chững chạc về nghệ thuật trong cộng đồng nhân loại ở thời đại giao lưu - hội nhập - phát triển đối với các châu lục trong phạm vi toàn cầu. Trần Thức (1), (2): Nguyễn Đỗ Cung. Việt Nam điêu khắc gỗ dân gian thế kỷ 16, 17, 18. NXB Ngoại Văn. Hà Nội, 1975.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2015 7:59:58 GMT 9
Điêu khắc đình lànglichsuvn.net/forum/forumdisplay.php?f=43Đình làng, nhất là đình làng ở miền Bắc, là kho tàng hết sức phong phú của điêu khắc Việt Nam trong lịch sử. Điêu khắc cũng tồn tại ở chùa, đền, các kiến trúc tôn giáo khác, nhưng không ở đâu nó được biểu hiện hết mình như ở Đình. Điêu khắc ở đình làng không những là nguồn tài liệu để nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật Việt Nam, mà còn là nguồn tài liệu để nghiên cứu đời sống ngày thường cũng như tâm hồn của người nông dân Việt Nam. Nói điêu khắc đình làng cũng là nói đến nghệ thuật trang trí đình làng. Điêu khắc ở đây là điêu khắc trang trí. Người thợ làm đình chẳng những thành thạo trong việc dựng đình mà còn biết tô điểm cho ngôi đình thêm đẹp. Điêu khắc ở đây do đó gắn liền với kiến trúc. Hầu như trên các thành phần của kiến trúc đình làng đều được các nghệ nhân xưa dùng bàn tay điêu luyện của mình chạm khắc thành những hình mẫu có giá trị nghệ thuật cao, thu hút sự chú ý của mọi người lúc ghé thăm đình. Ngay những ngôi đình từ thế kỷ XVI cho đến thế kỷ XVIII, điêu khắc trang trí đình làng mang đậm tính chất nghệ thuật dân gian. Những nhà điêu khắc vô danh xuất thân từ nông dân đã đưa vào đình làng những hình ảnh gần gũi với cuộc sống thực, hay là cả với giấc mơ của họ, với một phong cách hết sức độc đáo và một tâm hồn hết sức sôi nổi. Khác với những kiến trúc tôn giáo khác, ngay ở những vị trí tôn nghiêm của đình làng, ta cũng có thể gặp hình tượng những đôi trai gái đùa ghẹo nhau hay đang tình tự... Từ thế kỷ XIX, điêu khắc đình làng hầu như không còn những cảnh sinh hoạt dân gian. Từ đây chỉ còn những hình trang trí hoa lá và phổ biến là hình tứ linh (long, ly, quy, phượng). Trong các đình thế kỷ XIX, thường có những bức cửa võng trước điện thờ được chạm trổ khá công phu. Ở các ngôi đình miền Trung, điêu khắc trang trí không phong phú như các ngôi đình miền Bắc. Có người đã tổng kết về trang trí trên gỗ ở các ngôi đình vùng Thừa Thiên - Huế : "Trong kết cấu gỗ của nội thất tùy quan niệm thẩm mỹ mà dân làng có thể chạm trổ chi tiết đầu rồng, đuôi rồng ở đầu đuôi kèo, chạm hoa và đường chỉ xuyên tâm ở thanh xà và đòn tay. Việc chạm trổ nhiều, thích ứng với các đình có kết cấu vừa phải, thanh tú. Chạm trổ ít, thích ứng với các đình có kết cấu gỗ to lớn, đồ sộ...". Đây cũng là tính chất trang trí nói chung của ngôi đình miền Trung. Nhưng nếu điêu khắc trang trí tên gỗ có giảm sút thì ngược lại, ở các ngôi đình miền Trung lại phát triển hình thức trang trí bằng cách đắp nổi vôi vữa và gắn các mảnh sành sứ lên phần ngoài của kiến trúc. Thường thì ở nóc mái và các đường gờ mái, người ta trang trí hình tứ linh. Ơở hai đầu hồi thường được trang trí hình dơi xòe cánh bằng sành sứ để cầu phúc. Đây là cách trang trí phổ biến đời Nguyễn. Đình miền Nam cũng có lối trang trí đắp nổi mặt ngoài gần giống đình miền Trung, nhưng điêu khắc trang trí trên gỗ thì cũng có điểm khác biệt. Phần lớn chạm khắc gỗ này đã có từ giữa thế kỷ XIX. Bốn cột đình thường được trang trí hình rồng, nên gọi là "long trụ". Nhiều nơi, long trụ chạm rời bên ngoài ốp vào, nhưng cũng có nơi long trụ được trổ một khối nguyên... Ngoài những cột long trụ đình Nam Bộ thường có các bao lam trước điện thờ, như cửa võng trong các đình miền Bắc, được chạm trổ rất tinh vi, đề tài thường là tứ linh, cá hóa long, rồng, hổ... Như vậy, điêu khắc trang trí, cùng với kiến trúc đã làm cho đình có những nét riêng trên chiều dài của đất nước. (- Theo Bộ VHTT -) I/ Ở Hà Tây:1. Đình Tây Đằng Đình Tây Đằng ở Kẻ Đằng, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây cũ, nay là xã Tây Đằng, thị trấn Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Đình Tây Đằng được khởi dựng từ năm nào, đến nay chưa khẳng định được, dựa theo phong cách kiến trúc và điêu khắc, ngôi đình này gần như bảo tồn khá nguyên vẹn phong cách thế kỷ XVI. Trên một đầu khung cột có dòng chữ "Quý Mùi niên tạo" (làm năm Quý Mùi), nên nhiều người phỏng đoán là đình dựng năm 1583. Đình có một ngôi nhà lớn hình chữ nhật và hai nhà tả mạc, hữu mạc ở hai bên phía trước đình. Đình gồm ba gian chính, hai gian chái với 48 cột lớn nhỏ : 8 hàng ngang và 6 hàng dọc, có hàng hiên bao quanh, không có tường che. Đình lợp ngói ta, các đầu đao đều uốn cong và gắn long, ly, quy, phượng bằng đất nung già. Đình dựng kiểu chồng rường. Ơở đình Tây Đằng, hầu như không có mảng trống nào trên gỗ là không có chạm khắc trang trí. Rồng uốn khúc có sừng và tai giống thú bốn chân, có dáng dấp rồng thời Trần. Hình chim phượng múa, cánh xòe cả hai bên, đầu to cổ mập, mỏ ngắn, đuôi ngắn; hình voi lồng hình hoa lá, gồm hoa cúc, xen với hoa phù dung. Nổi bật là hình chạm trổ miêu tả cảnh lao động vui chơi của người xưa trên các bức cốn và các ván nong : cảnh chặt củi, mẹ gánh con, bơi thuyền và cảnh làm trò trồng cây chuối, trai gái chải tóc cho nhau, cảnh chuốc rượu..., thật sống động, tinh tế... Đáng tiếc là các tượng này hiện nay đã hư hỏng, mất mát nhiều... Đình thờ thần núi Tản Viên - Sơn Tinh. 2. Đình Hạ Hiệp Đình Hạ Hiệp, còn gọi là đình Liên Hiệp hoặc đình Kẻ Hiệp, ở thôn Hạ Hiệp, xã Liên Hiệp, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây. Theo quốc lộ 11A từ Hà Nội đi Sơn Tây, đến km số 25 rẽ trái vào Hiệp Thuận, đi 2km đến xã Liên Hiệp rồi vào thôn Hạ Hiệp. Đình có kiến trúc hình chữ "đinh", mặt quay về hướng tây nam. Phía trước là hồ bán nguyệt, tiếp đến là tam quan, tả vu, hữu vu, tiền tế, đại đình và hậu cung. Tam quan gồm hai trụ lớn hình vuông, đỉnh trụ có tượng chim phượng gắn mảnh sứ. Tiền tế kiến trúc kiểu chồng diêm hai mái, gồm ba gian, hai chái, bốn hàng cột vuông, hai hàng giữa bằng gỗ, hai hàng bên bằng đá. Đại đình gồm ba gian, hai chái, có sáu hàng cột. Chân cột có những lỗ mộng của rầm sàn, nay không còn, nền được lát gạch Bát Tràng. Hai góc bờ mái tiền tế gắn tượng nghê, một con bằng đất nung có niên đại cuối thế kỷ XVII và một con bằng vữa có gắn mảnh sứ. Bờ dải gắn gạch hộp hoa chanh, bốn phía cũng có tượng nghê. Trên xà nách của nhà tiền tế chạm trổ hoa lá, rồng, long mã. Ơở cốn nách trang trí long, ly, quy, phượng, văn cỏ cây, văn hình học. Tòa tiền tế có niên đại khoảng giữa thế kỷ XIX. Trên bờ nóc đại đình, hai đầu có hai con kìm bằng vữa ghép sứ. Đầu và thân bẩy, kẻ, cốn đều có chạm hình rồng. Cốn bẩy có chạm trổ cảnh đấu vật, cảnh những người đang nhảy múc, người uống rượu, người cưỡi ngựa, người dắt ngựa, người múa, người đánh trống, người bế con... Trên kẻ có hình người đi săn lợn và hổ, phần trên là hình rồng, cây cỏ, nghê chầu, cảnh đánh cờ, chọi trâu... Tiên nữ cưỡi rồng, đàn ông cưỡi nghê. Đình thờ thần thành hoàng là Hoàng Đạo, người đã có công giúp Hai Bà Trưng. Hội làng hằng năm vào ngày 12 tháng 3 âm lịch. 3. Đình Quang Húc Đình Quang Húc, còn gọi là Đình Bôm (vì làng Quang Húc có tên là Kẻ Bôm), ở xã Đông Quang, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Đình được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII. Cách thủ đô Hà Nội khoảng 50km về phía tây bắc. Đình nằm trên một khu đất rộng trong khu cư trú của làng, theo hướng đông bắc, trước đình có hệ thống tường bao. Cổng tam quan ở phía trước đại đình, gồm các cột biểu và tường lửng xây bằng gạch. Đỉnh cột gắn hình bốn con chim chụm đuôi vào nhau. Dưới hình phượng là bốn đầu rồng hướng ra các cột. Thân rồng uốn lượn qua các trụ biểu. Bốn ô lồng phía dưới đắp nổi hình tứ linh (long, ly, quy, phượng), thân các con vật đều được gắn mảnh gốm sứ trắng vẽ lam. Đỉnh hai cột ngoài gắn tượng lân. Qua sân rộng chừng 5m là tòa đại đình, dài 24m, rộng 18m, độ cao từ nền đến diềm mái là 1,8m. Mái lợp ngói mũi hài, mũi ngói có hình hổ cách điệu. Bốn đầu đao cong vút, trên bờ có gắn hình lân đắp nổi hướng về nóc mái. Mỗi vì kèo có sáu hàng cột có chu vi 2,5m, kết cấu theo kiểu chồng rường giá chiêng và kẻ hiên. Bốn vì kèo đã tạo nên tòa đại đình năm gian (ba gian chính và hai gian chái). Nền đình không lát gạch, vì trước đây có hệ thống sàn gỗ, dấu vết là hệ thống mộng rầm trên thân cột. Các khoảng trống trên vì kèo đều bưng ván có chạm khắc hoa văn. Hậu cung được bố trí ở nửa sau gian giữa đại đình bằng ván sàn cao 1,8m so với mặt nền. Hai mặt bên cung ghép ván, mặt trước mở ba cửa, cánh cửa bức bàn. Trên là tấm ván lớn hình chữ nhật, được chạm trổ hình rồng, hổ phù, phượng, hoa, lá, trong các ô hình chữ nhật. Phần trên các cánh cửa chạm đôi rồng chầu mặt trời lửa, dưới là các hoa dây chạm thủng, dưới cùng là hình hoa bốn cánh. Các mảng chạm trên vì kèo là hình cây lá, rồng, tứ linh, long mã chầu hoa cúc, rồng ổ, nghê, hươu, chuột, voi, hổ, khỉ... Đầu kèo xó phía bên phải mái trước chạm hai đầu rồng chồng nhau. Trong đình còn có long ngai, hương án được chạm trổ tinh vi, sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Đình thờ thành hoàng là Tản Viên Sơn thánh. 4. Đình So, còn gọi là đình Sơn Lộ, ở thôn Cộng Hòa, xã Cộng Hòa, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây. Theo Sơn Tây địa chí của Phạm Xuân Độ thì đình So được dựng năm Dương Đức thứ 2 (1673) đời Lê Gia Tông. Đình So đã qua bốn lần tu sửa (vào các năm 1743, 1924, 1928 và 1953). Đình có kiến trúc kiểu "nội công ngoại quốc". Tam quan hai tầng, bốn mái, ba gian, trên bờ nóc gắn tượng "lưỡng long triều nguyệt", đầu đao bốn góc uốn cong, bên bệ đá trước tam quan có hai con rồng đá hóa mây kiểu đầu rồng đuôi tôm. Hai bên nhà tam quan có hai cổng ra vào tả mạc, hữu mạc. Hai bên đình có mười ba gian tả mạc và hữu mạc; phía trong là nhà tảo mạc, bên phải nhà tảo mạc là một ngôi nhà sáu gian để làm cỗ bàn khi có hội. Đình có bảy gian, hai chái, bốn mái rộng lợp ngói, bờ nóc gắn bằng hai hàng gạch hộp rỗng hoa chanh, bốn đầu đao gắn tượng nghê bằng đất nung. Có 32 cột gỗ lim lớn và 16 cột nhỏ, xếp thành sáu hàng dọc và tám hàng ngang, hiên có bờ tường thấp. Bốn đầu đao có bốn cột gạch vuông đỡ. Xung quanh không có tường, mà là các cánh cửa bức bàn có chấn song con tiện; có sàn bằng gỗ lim. Các vì kèo làm theo kiểu kết cấu giá chiêng, các đầu kẻ, đấu, đầu dư, ván nong đều chạm trổ hoa văn rồng, mây, ly, nghê, hoa, lá rất sống động. Cửa võng được chạm trổ tinh tế, sơn son thiếp vàng lộng lẫy, trên có đề bốn chữ Hán lớn "Vạn cổ anh linh" cùng nhiều câu đối viết bằng chữ Hán. Bộ đồ thờ còn lưu giữ đầy đủ. Phía trước tam quan có sân cỏ rộng và hồ lớn 3 hécta. Đình thờ ba anh em ông Cao Hiển Hồ, theo truyền thuyết, ba ông là vị tướng thời Đinh Tiên Hoàng đã tham gia đánh quân Ngô và Thập nhị sứ quân. 5. Đình Chu Quyến, còn có tên là đình Chàng, ở làng Chu Quyến, xã Chu Minh, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây. Đình lớn nhất xứ Đoài, có ba gian chính và hai gian phụ, dài 30m, bố cục hình chữ nhật. Có tám hàng cột dọc và sáu hàng cột ngang. Bốn cột cái ở gian giữa có chu vi 2m, kê trên bốn viên đá tảng vuông mỗi cạnh 1m. Bốn cột bên có bốn bức tượng gỗ, một người cưỡi hổ, một người cưỡi voi, một người cưỡi ngựa và một người cưỡi con công. Các vì kèo có cấu trúc theo lối chồng rường, thượng thu hạ cách. Mái lợp ngói ta, bờ nóc có gắn hai hàng gạch, trong đó có một hàng gạch hộp có hoa, các đầu đao uốn cong tạo nên dáng thanh thoát, không nặng nề, trên bờ đầu đao có gắn tượng rồng và dây cuốn. Không có tường vách, trong đình có sàn gỗ chia thành ba tầng cao thấp để phân ngôi thứ trong làng thời xưa. Gian chính giữa là gian thờ, có cửa võng chạm trổ tinh vi hình hoa, lá, rồng, phượng, trên có ván lát trần. Điêu khắc đình Chu Quyến gồm nhiều tượng tròn và hoạt cảnh kéo dài, tuy không lớn. Các tượng chim, phượng, người cưỡi báo cao từ 0,6m đến 0,9m, gắn trên các giá đỡ ở cột là các tác phẩm độc lập và hoàn thiện. Trên các xà cốn, ván nong, cửa võng, bàn thờ và tám cánh cửa đều có chạm trổ hoa văn rồng phượng chầu mặt nguyệt, rồng vờn châu ngọc, rồng và người, rồng và hổ, hình chim phượng mẹ và đàn phượng con quấn quýt bên nhau. Cảnh sinh hoạt của con người gồm có cảnh người dắt voi đứng hầu, người uống rượu, cảnh nộp gà cho quan trên, cảnh gảy đàn, hát múa chọi gà, xen kẽ với hình hoa, lá, mây... Chung quanh đình, xây tường thấp bằng mặt sàn, có trổ các ô hình chữ nhật đứng, đỡ hàng lan can bằng gỗ. Đình thờ Nhã Lang, con trai đầu của Lý Phật Tử và bà thứ phi Lã Thị Ngọc Thanh, mẹ của Nhã Lang. Chưa rõ niên đại xây dựng, đã qua nhiều lần trùng tu. Theo các chữ ghi trên xà có các niên đại sau : "Lý triều Nhân Tông nguyên niên tạo" (Năm thứ nhất đời Nhân Tông triều Lý dựng), "Bảo Đại thập niên trùng tu" (Trùng tu năm Bảo Đại thứ 10). Trên bia đá trong đình cũng ghi : "Ngày 18 tháng 3 năm Âởt Hợi, niên hiệu Bảo Đại thứ 10 (1935) trùng tu". Theo phong cách điêu khắc của đình, có thể đoán rằng đình được dựng vào thế kỷ XVII. 6. Đình Yên Sở ở làng Yên Sở, xã Yên Sở, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Làng Yên Sở xưa gọi là làng Cổ Sở, còn có tên Nôm là làng Giá Lụa, vì vậy đình còn gọi là đình Giá. Người Yên Sở quen gọi là Quán Giá. Về niên đại xây dựng đình, Giáo sư Nguyễn Văn Huyên viết : "... Theo truyền thuyết, thì lần xây dựng đầu tiên vào thời gian Lý Thái Tổ nằm mộng (1010 - 1026), Trần Thái Tông (1225 - 1257) đã ra lệnh mở rộng ngôi đình. Những phần gia công khác được nêu trên tấm bia năm 1663. Ngoài ra, chúng tôi còn có thể biết một vài chỗ xây dựng lại gần đây hơn, trong một bản gia phả tìm được ở Yên Sở. Năm Cảnh Trị thứ 5 (1668), người ta xây những tòa nhà mới. Năm thứ 4 thời Dương Đức (1672 - 1673), xây hai hành lang và cổng tam quan. Năm Chính Hòa thứ 2 (1682), khắc những tấm bia mới, xây thêm cho đình các bậc đá và năm cửa của tam quan...". Năm 1947, di tích này đã bị quân Pháp đốt phá, chỉ còn hai tam quan, hai bức tường và hậu cung. Nhân dân địa phương đã tu tạo nhiều lần, lần cuối vào năm 1990 dựa theo các hình vẽ, ảnh... trong công trình nghiên cứu Góp phần nghiên cứu một vị thành hoàng Việt Nam : Lý Phục Man của Giáo sư Nguyễn Văn Huyên. Đình có ba cái sân với ba hàng cửa chính. Vách tường chia ranh giới các sân. Tường thứ hai ngăn sân thứ hai với sân chính được trang trí bằng những viên gạch đỏ chạm trổ. Tường phía đông có 23 viên gạch, gờ tường phía tây có 26 viên gạch. Tất cả các viên gạch đó đều dài 0,26m, bề rộng từ 0,23m đến 0,35m, trang trí phù điêu các hoa văn hình rồng, ngựa, voi, hươu, vượn, ly, quy, phượng, mặt trời... Đặc biệt có hoa văn miêu tả cảnh sinh hoạt của con người như người gánh củi, người chèo thuyền đánh cá, người chơi cờ, học trò ngồi nghe giảng bài, phụ nữ tắm ở ao sen... rất sinh động. Hai dãy hành lang dài gồm nhiều gian, với bốn hàng cột theo chiều dọc, kết cấu các vì kèo theo kiểu giá chiêng. Trên các đầu kèo, đấu, trụ, ở vì kèo giáp tường hồi có chạm khắc hình mây, chim phượng, hình hoa quả. Tại nhà bia, còn bảo tồn được năm tấm bia mang niên đại Vĩnh Tộ thứ 2 (1620), Cảnh Trị thứ 8 (1670), Bảo Thái thứ 9 (1728), Gia Long thứ 2 (1803) và Tự Đức thứ 8 (1855). Trong đình còn lưu giữ nhiều đồ tế tự. Gian chính trong đình có bức hoành phi đề "Vạn cổ thiên thành", có hai lọng, đồ bát bửu và hai con hạc đứng trên lưng rùa. Đình thờ Phạm Tu hay Lý Phục Man, người làng Cổ Sở, một tướng của Lý Nam Đế (541 - 548). Lễ hội hằng năm được tổ chức vào ngày mồng 10 tháng 3 âm lịch.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2015 8:01:20 GMT 9
Đình Ở Bắc Giang:
1. Đình Lỗ Hạnh ở thôn Lỗ, xã Đông Lỗ, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Đình được dựng vào thời Mạc, năm Sùng Khang thứ 11 (1576). Đình Lỗ Hạnh đã qua nhiều lần tu sửa vào các năm 1694, 1850, và năm 1910 xây thêm hậu cung bằng cách cắt mái giữa, tạo nên mặt bằng hình chữ "đinh" và hai dãy tả vu, hữu vu. Đây là ngôi đình có niên đại sớm nhất hiện biết. Đại đình có bố cục mặt bằng hình chữ nhật, gồm ba gian hai chái, dài 23,5m, rộng 12,5m. Vì kèo có bốn hàng cột chính và hai hàng cột hiên đỡ dưới các bẩy và kết cấu theo lối chồng rường. Cái vì nóc làm theo kiểu trụ đấu giá chiêng rất ngắn. Tấm bưng của rốn nhện vẫn còn nguyên. Trên câu đầu có xà gỗ áp sát như một rường chạy suốt. Trên các cột còn các lỗ mộng, vết tích để lắp rầm lát sàn gỗ.
Các thanh rường, xà, ván nong, cốn, đều có chạm trổ tinh vi hình rồng, phượng, hoa lá, mây, thú, cá hóa rồng.
Hình chim phượng chạm rất to, đuôi xòe và đứng lẫn trong các đám mây, hình hổ đang nằm, hình hươu đứng trong mây, hoặc cưỡi trên lưng là một tiên nữ đang đánh đàn. Ngoài ra còn có hoa văn mây lửa, hoa cúc, với nhiều bố cục sống động.
Đặc biệt có hai cốn thuộc gian chái bên trái có dòng chữ ghi niên đại xây dựng đình có thể đọ là : "Sùng Khang thập nhất niên lục nguyệt thất nhật tạo" (Ngày mồng bảy, tháng sáu, niên hiệu Sùng Khang thứ 1 tạo dựng) và gian chái bên phải ghi : "Tuế thứ Bính Tý mạnh xuân tạo" (Tháng giêng năm Bính Tý tạo).
Trong hậu cung có hai bức tranh sơn khổ 2,23m x 1m, vẽ bốn tố nữ đẹp đang đánh đàn.
Đình thờ thành hoàng là Cao Sơn Đại vương, người có công giúp vua Hùng đánh giặc. Đình còn thờ Phượng Duy Công chúa (Bà Chúa Tiên), người đã dạy dân địa phương trồng bầu.
2./ Đình Thổ Hà ở làng Thổ Hà, xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang. Làng Thổ Hà ở ven Sông Cầu, nổi tiếng cả nước với nghề làm đồ gốm. Khu vực đình ở giữa làng, trên khu đất diện tích khoảng 3.000m2, bên sông Cầu, trông ra bến Vạn.
Đình dựng vào năm Chính Hòa thứ 13, đời Lê Hy Tông (1692). Bia "Thủy tạo đình miếu bi" dựng năm 1698 đã ghi lại chi tiết quá trình xây dựng đình.
Trước nhà tiền tế có hai nhà tả vu và hữu vu. Nhà tiền tế gồm ba gian chính, hai gian phụ, kiến trúc đơn giản do mới được sửa chữa; phía sau là tòa bái đường bảy gian, ống muống và hậu cung ba gian, tạo nên kết cấu hình chữ "công" với diện tích 500m2.
Tòa bái đường có năm gian chính, hai gian phụ bề thế, bốn mái rộng, lợp ngói mũi hài, bờ nóc và bờ dải gắn chồng lên nhau bằng gạch hộp rỗng, có hình hoa chanh và rồng xen kẽ chạy suốt, đầu bờ nóc uốn cong, gắn "rồng phục cuốn nước" và tượng nghê bằng đất nung già. Đình có tám hàng cột dọc, sáu hàng cột ngang bằng gỗ lim kê trên 48 tảng đá xanh, cột cái giữa phủ sơn màu đỏ, dày, vẽ rồng mây; bốn mặt bái đường bưng chấn song gỗ gối lên tường gạch xây thấp có trổ ô thủng hình chữ "ngũ" ( ), nền bái đường cao 0,5m, có ba bậc bó bằng đá tảng xanh. Bái đường xây theo kiểu chồng rường, giữa ba hàng xà kép thượng, trung, hạ, có ván nong, các kẻ hình cung hạ thấp dần theo mái. Các con chồng, đầu kẻ, xà, đầu dư, ván nong, đầu bẩy, kẻ... đều được chạm trổ rồng, phượng, lân, ly, hươu, ngựa, hổ, báo trong các tư thế sống động. Về đề tài con người, có hình các vũ nữ nở nang, cân đối, uyển chuyển trong các tư thế múa hoặc cưỡi trên mình các con rồng, phượng; hình tượng nam giới cũng trong tư thế múa, nhưng không cân đối.
Bộ cửa võng được chạm trổ tinh vi, sơn son thiếp vàng lộng lẫy.
3. Đình Phù Lão ở làng Phù Lão, xã Đào Mỹ, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Đình được xây dựng vào thế kỷ XVII, hậu cung mới được xây dựng lại và được trùng tu nhiều lần. Đình quay mặt về làng. Trước cửa đình có một ao rộng hình nửa bầu dục, sân đình rộng, bằng phẳng.
Nhà tiền tế mới được xây dựng gồm ba gian nhỏ, phía sân sau tiền tế có một tấm bia bốn mặt, dựng năm Chính Hòa thứ 15 (1694), do tiến sĩ họ Hoàng soạn, nói về công lao đóng góp xây đình của bà Đào Thị Hiền.
Đình có bốn tàu mái cao, rộng, mái được lợp bằng ngói mũi bài.
Tòa đại đình gồm bảy gian, dài 23m, rộng 12m, với 8 vì kèo 6 hàng cột, 48 cột. Các vì kèo kết cấu theo lối chồng rường giá chiêng, kết hợp kẻ moi ở bốn góc. Bốn cột giữa có bốn bức cốn chạy dài gần cả gian tạo nên bốn mảng trang trí lớn.
Bốn mặt đình còn dấu vết lát ván và có cửa bức bàn bao quanh; các gian đều có sàn. Trừ cột, rui và hoành, các cấu kiện kiến trúc gỗ khác như đầu dư, cốn, ván nong, kẻ, đấu trụ... đều được chạm trổ nhiều hình phản ánh các mặt sinh hoạt làng xã.
Các bẩy đều trang trí hình rồng, nhưng bẩy ở gian giữa có chạm nhiều cảnh sinh hoạt dân gian, có những cảnh mà các nhà nghiên cứu chưa thể đoán ra được. Có cảnh múa hát của nam và nữ hoặc biểu diễn xiếc. Có hình người cưỡi rồng, hình người múa võ. Trên ván ở đầu bẩy, có chạm hình thiếu nữ không có xiêm y trên râu rồng, làn tóc dài uốn từ sau lên trước, cảnh trai gái tỏ tình, âu yếm, cảnh ổ rồng có rồng mẹ và các rồng con, thể hiện một cách chân thực sinh động.
Đình thờ thành hoàng Cao Sơn - Quý Minh và hai vợ chồng người có công dựng đình.
Lễ hội hằng năm vào ngày 14, 15 tháng 8 âm lịch.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2015 8:02:25 GMT 9
Ở Bắc Ninh:
1. Đình Phù Lưu nằm trong cụm di tích làng Phù Lưu, gồm đình, đền, chùa, trên trục đường chính của làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đình có diện tích 426,7m2, được xây dựng vào cuối thế kỷ XVI; đến cuối thế kỷ XVIII, đình được mở rộng và tu sửa lại.
Đình có cấu trúc kiểu chữ "đinh". Đại đình gồm bảy gian, hai chái, hai dĩ. Gian giữa rộng 4m, sáu gian bên mỗi gian rộng 3,65m, hai gian chái mỗi gian rộng 1,5m, hai dĩ mỗi dĩ rộng 1,1m.
Kết cấu gồm sáu vì gồm 70 cột lớn nhỏ.
Mái lợp ngói mũi hài, bờ dải gắn gạch hộp hoa chanh, bốn đầu đao uốn cong thanh thoát.
Hầu hết các đầu dư, cốn, ván nong, cửa võng... đều được chạm trổ. Đặc biệt, trên ván nong chạm nổi hình rồng chầu mặt nguyệt, trên lưng có hình tiên nữ cánh phượng, hình người đánh đàn, hình tiên nữ ngồi trên đầu nghê ở trụ cốn, hình đoàn người đang đua thuyền, cảnh đấu vật trong ngày hội. Các mảng chạm khắc đều có niên đại khoảng thế kỷ XVII.
Bức cửa võng chạm đôi rồng chầu mặt nguyệt, dưới có năm chữ Hán : "Thánh cung vạn vạn tuế". Hai riềm ở hai cột cũng là đôi rồng, đầu chúc xuống dưới. Phần dưới cũng là đôi rồng chầu mặt nguyệt, có xen hoa lá và chim muông.
Đình thờ Đức Thánh Tam Giang tức Trương Hống, Trương Hát. Đình còn thờ ông Lê Trần Cổ, người khởi dựng đình.
2. Đình Diềm, còn gọi là đình Viêm Xá, ở làng Viêm Xá, có tên Nôm là làng Diềm, xã Hòa Long, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh. Cách thị xã Bắc Ninh khoảng 4km. Đình Diềm nằm ngay ở đầu làng, mặt nhìn ra đường cái quan, được xây dựng vào năm Nhâm Thân, niên hiệu Chính Hòa thứ 2 đời Lê Hy Tông (1692). Đã được trùng tu nhiều lần.
Đình kiến trúc theo kiểu chữ công ( ), gồm tòa đại bái năm gian (trước vốn có bảy gian, vết tích là thềm đá bó hè dài 24,7m), ngang dọc mỗi chiều sáu hàng cột, dài 17,5m, rộng 14,9m, chuôi vồ và hậu cung dài 6,8m, rộng 9,4m.
Gian giữa lát đá xanh, các gian khác còn dấu vết sàn cao 0,7m là những lỗ mộng lắp rầm. Hậu cung còn sàn.
Tòa đại đình có mái lợp ngói ta. Bờ nóc đắp hai hàng gạch, trên có gắn hình đôi rồng uốn khúc chầu mặt trời lửa. Rồng có thân dài, uốn khúc thấp dần ra hai đầu nóc, bờ đầu đao có gắn tượng nghê quay về phía nóc đình.
Bốn cột cái cao có chu vi 2,24m. Bốn đầu dư đỡ hai câu đầu có chạm hình rồng, các kết cấu khung gỗ khác không trang trí.
Trong tòa đại đình, nổi bật nhất là tấm cửa võng lớn, thiết kế theo kiểu hình hộp lồng vào nhau, chạm trổ tỉ mỉ, sinh động với nhiều tầng, nhiều lớp hoa văn rồng, phượng, voi, ngựa, chim, thú, hoa, lá, mây... Đặc biệt trên tấm cửa võng chạm nổi khá nhiều hình thiếu nữ, có những thiếu nữ đang cưỡi rồng trong nhiều tư thế khác nhau với những khuôn mặt trái xoan, cổ cao, miệng cười tươi..., tay vén tóc, tay vin cành tre rất sinh động, tất cả đều được sơn son thiếp vàng rực rỡ.
Nhang án đặt trước cửa cấm cũng được chạm trổ hình thiếu nữ cưỡi rồng đang múa quạt.
Trong đình còn đôi phỗng gỗ (thường gọi là phỗng Chàm) mặc váy, cởi trần, bụng lồi, ngực lép, khuôn mặt dài...
Đình thờ Trương Hống, Trương Hát, là tướng đã có công đánh quân xâm lược Trần Bá Tiên nhà Lương.
Lễ hội hàng năm được tổ chức vào tháng giêng âm lịch.
3. Đình Đình Bảng ở làng Đình Bảng, xã Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đình do ông Nguyễn Thạc Lượng, trấn thủ Thanh Hóa, khi cáo quan về làng đứng ra tạo dựng, khởi công từ năm Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu đời vua Lê Yý Tông (1736), sau hàng chục năm mới hoàn thành (có tài liệu ghi là từ 1700 - 1736).
Đình hình chữ "công", khi người ta làm thêm gian nối hậu cung với tòa bái đường (đại đình).
Tòa bái đường dài 20m, rộng 14m, gồm bảy gian chính, hai gian phụ, trên nền cao có bậc thềm bó đá tảng xanh, từ nền lên tới bờ nóc cao 8m. Bốn mái đình lợp ngói mũi hài lớn, vươn ra trùm lên hè, che mưa gió. Mái rộng chiếm hai phần ba chiều cao, nhưng trông vẫn thanh thoát vì các đầu đao uốn cong. Đỡ bộ mái là sáu hàng cột ngang và mười hàng cột dọc, đường kính cột lớn 0,65m, cột nhỏ 0,55m, bằng gỗ lim kê trên các tảng đá xanh, và bộ khung bằng gỗ lim được chạm trổ tinh vi như rồng, phượng, tùng, mai, trúc, bầu rượu, thanh gươm. Rồng chiếm một số lượng lớn, khoảng hơn 500 hình.
Bốn mặt bái đường đều lắp khung lùa, cánh cửa bức bàn. Gian giữa bái đường lát gạch lá nem, các gian bên là sàn gỗ cao hơn nền gian giữa 0,70m.
Bức cửa võng và tấm trần che ở gian giữa chạm trổ tinh vi với các hình chữ triện, chữ công, hoa lá, tứ linh, tứ quý, bát bửu, nổi bật là bức chạm nổi "Bát mã quần phi" trên ván nong, phía dưới bao lơn của hàng cột cái và cột con, với các dáng điệu rất sống động như : ngựa phi, ngựa nô giỡn, cọ lưng, liếm chân, gặm cỏ, uống nước..., mây bay, sóng lượn nhấp nhô..., những hình chim phượng, nghê, hươu...
Đình thờ các vị thành hoàng : Cao Sơn Đại vương (thần Núi), Thủy Bá Đại vương (thần Nước) và Bách Lệ Đại vương (thần Đất) và thờ sáu vị có công lập lại làng vào thế kỷ XV.
Lễ hội mở vào ngày 12 tháng 2 âm lịch hằng năm. Trong ngày hội có hát quan họ trên hồ, đánh cờ, đánh vật, đu bay, chọi gà... trước cửa đình. Hidden Content Hãy làm việc hết mình, những điều tốt đẹp sẽ đến với bạn !Hidden Content Hidden Content Hidden Content Hidden Content Hidden Content Hidden Content Hidden Content Hidden Content Trả Lời Với Trích Dẫn Trả Lời Với Trích Dẫn The Following User Says Thank You to pt1506 For This Useful Post: HanBangCongChua (03-04-2009) 15-05-2008, 19:20 #5 pt1506 pt1506 vẫn chưa có mặt trong diễn đàn Tham Đốc Thần dân Đại Việt Tham gia ngày 25-02-2008 Nơi Cư Ngụ Hải Dương phố Bài gởi 3243 Thanks 190 Thanked 186 Times in 158 Posts Post IV/ Ở Vĩnh Phúc: IV/ Ở Vĩnh Phúc:
1. Đình Hương Canh ở xã Tam Canh, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, nằm trong cụm đình Tam Canh (Hương Canh, Ngọc Canh, Tiên Canh), được xây dựng vào thế kỷ XVII - XVIII và đã qua nhiều lần trùng tu. Đình nằm cách quốc lộ 2 khoảng 100m, cách Hà Nội khoảng 60km. Đình kiến trúc theo kiểu chữ "vương", hướng tây chếch nam. Gồm nhà tiền tế ba gian hai chái; đại đình ba gian hai chái; nhà hậu (hậu cung) ba gian hoặc năm gian; ống muống thứ nhất, hai gian dọc nối liền tiền tế với đại đình; ống muống thứ hai, hai gian dọc nối đại đình với nhà hậu, tạo nên hình chữ "vương".
Đại đình rộng 26m x 13,5m. Bộ khung có sáu hàng cột: 8 cột cái, 16 cột quân và 24 cột hiên. Cột cái cao 5,7m, chu vi 2,42m.
Các dấu vết trên cột chứng tỏ trước kia đình có sàn và xung quanh có ván bưng, nay nền đình được lát gạch và có tường gạch xây bao.
Nhà tiền tế có ba gian hai chái.
Nhà hậu khok6ng còn.
Bờ nóc xây gắn hàng gạch hoa chanh, đầu nóc có trang trí con kìm, miệng rồng ngậm đầu bờ nóc.
Ván nong, cốn nách được chạm trổ các mảng hoa văn với nhiều đề tài phong phú như rồng - mây, cảnh đi săn, đấu võ, đấu vật, cảnh đua thuyền, cảnh tiên cưỡi rồng, cảnh người đứng múa, cảnh múa lân, đặc biệt có cảnh 8 tiên nữ.
Cửa võng trang trí từ trên xuống dưới ngai thờ để lộ ba cửa tạo thành ba khám thờ, chạm trổ các hình hoa văn : hoa, lá, xen giữa hình rồng là hình người, hình tiên nữ, long mã, rồng cuốn, rồng chầu, trúc hóa long, nghê chầu...
Đình thờ Ngô Quyền, Ngô Xương Ngập, Ngô Xương Văn và ba vị thần khác, gọi chung là "Lục vị đại vương".
2. Đình Ngọc Canh ở làng Ngọc Canh, xã Tam Canh, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, nằm trong cụm đình Tam Canh (Hương Canh, Ngọc Canh, Tiên Canh), cách đường quốc lộ 2 khoảng 100m, cách Hà Nội khoảng 60km. Đình được xây cùng với nhóm đình Tam Canh vào thế kỷ XVII - XVIII, được trùng tu nhiều lần. Đình kiến trúc theo kiểu chữ "vương", hướng nam chếch tây. Gồm nhà tiền tế bốn gian hai chái; đại đình năm gian hai chái; nhà hậu năm gian; ống muống thứ nhất, hai gian dọc nối tiền tế với đại đình; ống muống thứ hai, ba gian dọc nối đại đình với nhà hậu.
Nhà tiền tế rộng 20,15m x 7,1m. Đại đình rộng 24m x 15,57m. Nhà hậu rộng 10m x 7,3m. Tòa đại đình có sáu hàng cột : 8 cột cái, 16 cột quân và 24 cột hiên.
Trên cột còn các dấu vết chứng tỏ trước đây đình có sàn và ván bưng xung quanh, nhưng nay đã thay bằng nền gạch và tường gạch.
Nhà tiền tế có kiến trúc khác với đình Hương Canh, mái trước nhà tiền tế có làm thêm một tầng phụ ở gian giữa.
Trong đình có nhiều mảng chạm khắc.
Cốn và cốn nách chạm trổ hình rồng, phượng, cá chép, rùa, long mã ngậm ngọc.
Cốn chạm phượng cặp túi thơ, rồng mẹ dạy rồng con vờn mây.
Về đề tài sinh hoạt của con người, ta gặp những bức chạm cảnh đấu vật và người đứng xem, người uống rượu, người khiêng dê (dê bị trói bốn chân), phía sau là con chó, người cưỡi ngựa có bốn người theo hầu, hai người cầm kiếm, một người cầm sách, cảnh người chơi cờ và người đứng xem, cảnh hát chèo, người bơi thuyền và người ôm giữ cột buồm.
Cửa võng chạm rồng mây, hoa lá, sơn son thiếp vàng lộng lẫy, có niên đại Nguyễn.
Cũng như đình Hương Canh, đình Ngọc Canh cũng thờ Lục vị đại vương, gồm Ngô Quyền, Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn và ba vị khác làm thành hoàng.
3. Đình Thổ Tang ở xã Thái Học, huyện Vĩnh Tường (nay là huyện Vĩnh Lạc), tỉnh Vĩnh Phúc. Được xây dựng vào thế kỷ XVII. Đình Thổ Tang có bố cục kiểu chữ "đinh". Cửa hướng tây nam, từ nền tới nóc cao 7m. Cột cái có đường kính 0,8m, cao 5m. Đình dài 25,8m, rộng 14,2m, nền đình được bó vỉa bằng đá xanh, có sáu hàng cột, gồm năm gian.
Đình có nhiều chạm khắc phong phú.
Trên các đầu bẩy, ta gặp cảnh một người cưỡi ngựa, hai người gánh đồ, một con phượng; bốn người ngồi uống rượu quanh một mâm ngũ quả; con kỳ đà châu đầu vào con rồng...
Trên các kẻ, có hình tám người có người cưỡi sư tử hoặc cầm con rắn, hình hai người khiêng một con cá chép, một người cưỡi rồng đang múa, cảnh dâng hoa quả gồm nhiều phụ nữ và một người đàn ông mặc áo thụng, đội mũ cánh chuồn, cảnh sinh hoạt mẹ cho con bú và nhiều người đùa giỡn, người nằm kẻ ngồi, người cưỡi ngựa, người nâng kiếm, v.v...
Đáng chú ý là mảng chạm miêu tả cảnh đá cầu và cảnh bắn hổ rất sống động.
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 19, 2015 8:02:57 GMT 9
Phú Thọ có:
Đình Lâu Thượng, còn gọi là Đình Sủ, Kẻ Sủ, ở làng Lâu Thượng, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đình nằm ở Xóm Mai, trung tâm làng, hướng tây nam, nhìn ra Ngã ba Hạc. Đình được dựng vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, đã qua nhiều lần trùng tu. Đình có bố cục kiểu chữ "đinh", bốn mái to và rộng, gồm năm gian hai chái, dài 28m, rộng 22m.
Cửa võng chạm trổ hình "long, ly, quy, phượng", với kỹ thuật chạm bong, chạm lộng nhiều tầng.
Có bức chạm hình một cụ già mặc áo dài ở giữa, hai tay đặt trên gối, chân xếp chữ ngũ, ngồi trên một bệ chạm hình đầu sư tử mắt to, mũi ngắn, râu hình đao lửa.
Trên các đầu dư, kẻ bẩy, cốn nách đều chạm các hình hoa, lá, và các con vật thần thoại.
Đình thờ thành hoàng làng là Hai Bà Trưng và Bà Triệu.
ở Ha noi
1.Đình Đông Ngạc, còn có tên nôm là đình Vẽ, ở sát bờ đê sông Hồng, rià làng Vẽ, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội, nằm ven đường 23 Hà Nội - Chèm. Đình Vẽ được dựng năm 1635, dưới triều vua Lê Thánh Tông, đã qua một số lần trùng tu.
Ngoài cùng là hai cột trụ biểu và hai bức bình phong, đến hồ nước rộng trồng sen và thả cá.
Nhà tam quan ngoại là một nếp nhà ga gian, có bốn hàng cột bằng gỗ, phiá trước bưng kín bằng gỗ, trên ván bưng ở hai bên khắc hai chữ "Thiện" và "Aỏc", giữa là cửa ra vào, nền lát gạch Bát Tràng, mái lợp ngói mũi hài, liền hai hồi tam quan xây hai cổng nhỏ, mái vòm, lợp ngói ống, nối tiếp với tường bao tạo nên một khu khép kín.
Nhà tam quan nội một gian, cửa giữa lớn, hai cửa bên thấp và nhỏ bằng gỗ, mái lợp ngói mũi hài, cốn chạm trổ văn hoa lá, tường bao quanh nối liền với nhà tả mạc và hữu mạc, tạo nên kiểu kiến trúc nội chữ "đinh" ngoại chữ "quốc"
Tả mạc và hữu mạc xây kiểu tường hồi bít đốc, mái lợp ngói mũi hài, hai đầu đốc mái gắn hình đuôi cá.
Đầu đao uốn cong, cột gạch vuông, vì kèo kiểu thượng rường hạ kẻ. Nhà bên tả có sáu tấm bia. Gian giữa có tấm bia lớn đặt trên lưng rùa; bia dựng năm Vĩnh Thịnh thứ 5 (1710).
Đại đình gồm hai tòa hình chữ "nhị", hai mái cùng chảy vào một máng nước.
Toà ngoại bảy gian hai dĩ, gồm tám hàng cột kê trên chân tảng đá xanh. Mái lợp ngói mũi hài, hai đầu đốc mái gắn hai tượng nghê, khoảng gấp khúc bờ dải có gắn hình đầu nghê, bốn đầu đao cong vút gắn hình đầu rồng, đầu hướng về nóc.
Toà nội có kết cấu kích thước: như toà ngoại.
Hậu cung là một toà nhà chạy dọc về phiá sau chia làm hai nếp, ngoài là trung cung, trong là hậu cung.
Trung cung nối với đại đình bằng hai dãy nhà cầu ở hai bên gọi là hành lang. Hậu cung là nhà ba gian, có bốn hàng cột. Trần nhà lát bằng các tấm gỗ dài. Vì kèo gian giữa được chạm trổ dày đặc. Bức cốn nách chạm trổ tồng chầu. Bốn đầu dư chạm trổ đầu rồng ngậm ngọc. Toà hậu cung có cung cấm một gian hai dĩ, có sàn gỗ cao, trên đặt long ngai bài vị thành hoàng làng.
2. Đình Thanh Haõ ở số 10 Ngõ Gạch, phường Đồng Xuân, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, trước đây đình thuộc thôn Thanh Hà, tổng Đồng Xuân, huyện Thọ Xương, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Nội.
Đình quay mặt về hướng đông. Cổng tam quan được xây sát hè phố, có ba cửa ra vào rộng hẹp khác nhau. Qua sân hẹp vào đến tiền bái. Toà tiền bái được làm theo kểu tường hồi bít đốc, gồm ba gian. Bộ vì kèo kết cấu kiểu chồng rường, con rường thứ hai được thay bằng hai con rường nhỏ đỡ đầu rường trên, mang dáng dấp của giá chiêng không trốn cột.
Cửa bức bàn bao kín mặt cả ba gian. Hai gian bên, trước kia có sàn cao hơn mặt nền 0,50m, nay đã đổ đất cao để lát gạch hoa. Gian giữa thấp. Ba gian được ngăn cách bằng chấn song hình con tiện. Quá giang được chạm trổ hình rồng, hoa cúc, mây xoắn, tia chớp, lá cách điệu.
Nối liền toà tiền bái với hậu cung là một phương đình, được dựng bằng bốn cột cái, hai bộ vì kèo, bốn mái, trên các con đường có chạm nổi hoa lá, dưới rường lắp ván kín, chạm nổi hình phượng vũ hàm thư. Lồng giữa các xà đai hai bên là bốn con lân lớn chạm theo kiểu nửa hình tròn.
Toà hậu cung cũng làm theo kiểu bốn hàng chân. Bên trong hậu cung đặt khám thờ, có cửa võng được chạm trổ tinh xảo, sơn son thiếp vàng.
Đình Thanh Hà có hơn 50 viên gạch trang trí thời Mạc và 9 tấm bia đá thời Nguyễn, trong đó quan trọng hơn cả là bia "Thanh Hà ngọc phả bi kyỏ" khắc lại một bia thời Lê và bia "Trùng tu Thanh Hà đình bi ký", ghi lại sự tích và lịch sử xây dựng.
Đình thờ thần thành hoàng là Trần Lựu, tướng thời Trần.
Lễ hội hằng năm vào ngày 4 tháng 4 và ngày 15 tháng 9 âm lịch là ngày sinh và ngày hoá của thành hoàng.
3. Đình Kim Liên, còn gọi là đền Kim Liên hoặc đền Cao Sơn (Cao Sơn Đại vương thần từ), ở làng Kim Liên, phường Kim Liên, quận Đống Đa, thành phố Hà Nội.
Đình được xây dựng vào đầu thế kỷ XVI, trên một gò đất cao, cách La Thành khoảng 100m. Đình quay về hướng nam, gồm tam quan và đền thờ thần.
Tam quan là một nếp nhà ba gian, xây kiểu tường hồi bít đốc, bốn góc tường hồi xây bốn trụ cao bằng nóc mái. Bốn vì kèo kết cấu kiểu chồng rường giá chiên, cột trốn. Các con rường được chạm trổ hình mây cuốn, hai câu đầu và hai bẩy của hai vì kèo giữa được trang trí phượng ngậm sách, long mã, rồng theo kỹ thuật chạm bong kên và chạm lộng.
Đình có kết cấu hình chữ "đinh", gồm bái đường và hậu cung. Bái đường chỉ còn lại vết tích các hòn đá tảng kê chân cột to và dày. Hậu cung là một dãy nhà dọc ba gian xây gạch trần, mái lợp ngói ta, trong nhà xây vòm cuốn, gian ngoài cùng có bệ gạch cao, đặt hương án gỗ sơn son thiếp vàng. Hương án trang trí kín các đồ án hoa văn theo các ô hình chữ nhật bằng kỹ thuật chạm thủng, chạm nổi hình hổ phù, long mã tranh châu, tứ linh, tứ quý, bát bửu.
Hậu cung thờ Cao Sơn Đại vương và hai vị nữ thần phối hưởng. Trong ban thờ, long ngai thờ thành hoàng Cao Sơn Đại vương có kích thước lớn, chạm khắc tinh vi, sơn son thiếp vàng lộng lẫy, bệ ngai hình vuông, gồm nhiều lớp được làm theo kiểu chân quỳ dạ cá, các lớp trên được chạm thủng hoa dây.
Đình thờ Cao Sơn Đại vương, tương truyền Cao Sơn là một trong năm mươi người con của Lạc Long Quân và Âu Cơ đã theo cha lên núi, là vị thứ hai được thờ trong đền núi Tản Viên. Thần là người được coi là người đã ngầm giúp vua Lê Tương Dực dẹp loạn ở Đông Đô, nên năm 1509 được lập đền thờ ở Kim Liên gần Thăng Long, là một trong bốn trấn ở kinh đô Thăng Lon (bắc là Trấn Vũ, đông là Bạch Mã, tây là Linh Lang, nam là Cao Sơn).
4. Đình Triều Khúc, Còn gọi là đình Đại Cổ Miếu, ở thôn Triều Khúc, xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 10km về phiá tây nam.
Đình gồm tam quan, phương đình, hai dãy nhà giải vũ, đại đình và hậu cung.
Tam quan là một ngôi nhà gạch ba gian kiểu vì kèo.
Sau tam quan là phương đình hai tầng, tám mái, mười sáu cột (bốn cột cái lớn và mười hai cột quân), các kẻ chạy từ cột cái tới nóc. Các đầu kẻ có chạm rồng và lá, đầu dư chạm hình đầu rồng thời Nguyễn, góc mái uốn cong, bờ dải đắp nổi hình rồng, phượng hướng về nóc mái.
Qua sân là hai nhà giải vũ song song với phương đình.
Đại đình là kiến trúc chính gồm năm gian lợp ngói ta, với 24 cột, bốn hàng dọc, sáu hàng ngang, ba mặt xây tường gạch. Chính giữa bờ nóc là hình mặt trời lửa. Các cánh cửa chính sơn son thiếp vàng. Kiến trúc theo lối chồng rường giá chiêng, hai đầu hồi chạm nổi hình mặt hổ. Đầu dư của vì kèo gian giữa chạm nổi hình đầu rồng, miệng ngậm viên ngọc. Trên các đầu bẩy đều trang trí hình rồng lá, rồng mây, phượng, long mã.. Các bức cốn trên các bộ vì, được chạm lộng các hình rồng cuốn nước, long, ly, quy, phượng, rồng mẹ, rồng con.
Hệ thống y môn và cửa võng được chạm khắc tinh vi và sơn son thiếp vàng lộng lẫy.
Hậu cung là một ngôi nhà ba gian nối với gian giữa đại đình tạo nên kiến trúc hình chữ "đinh", đây là nơi đặt long ngai bài vị, đồ thờ tự và mười một đạo sắc phong, sớm nhất là năm Cảnh Hưng thứ 44 (1784), muộn nhất là năm Khải Định thứ 9 (1924).
Đình có niên đại khoảng cuối thời Lê đầu thời Nguyễn.
Đình thờ Bố Cái Đại vương Phùng Hưng.
5. Đình Cự Chính, còn gọi là đình Con Cóc (do trước kia trên hai trụ trước đình có gắn hai tượng cóc bằng sứ) ở thôn Cự Chính (tên Nôm là làng Mọc), xã Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Đình Cự Chính cách chùa Bồ Đề chừng vài chục mét.
Đình Cự Chính xây dựng vào thời Lê và đã được tu sửa nhiều lần.
Trước kia, tam quan đình lớn, nay sau khi tu sửa, đã thu hẹp lại.
Đại đình năm gian hai chái, nối với hậu cung ba gian, tạo thành hình chữ "đinh".
Đại đình lợp ngói ta, trên bờ nóc gắn tượng đôi rồng chầu mặt trời lửa. Hình rồng dài, độ uốn lượn lớn.
Đầu hồi bên phải có một trụ gạch vuông, trên đỉnh đắp một tượng nghê quỳ hai chân trước, xung quanh đắp nhiều chữ Hán và các con vật linh thiêng. Các vì kèo được kết cấu kiểu chồng rường. Giữa đại đình đặt một hương án sơn son thiếp vàng. Phía sau có ba cửa vào hậu cung. Các vì kèo hậu cung cũng theo kiểu chồng rường. Trên nóc chạm hình dơi bay. Cửa chính hậu cung là cửa bức bàn có bốn cánh bằng nhau, sơn đỏ. Phần trên cánh cửa chạm thủng những hình dơi đang bay.
Trong hậu cung có ba bệ thờ lớn, trên đặt ngai sơn son thiếp vàng.
Ngoài sân đình có một cái giếng đá giống như giếng đá chùa Bút Tháp ở tỉnh Bắc Ninh. Thành giếng cách mặt đất 0,45m, miệng giếng rộng 0,6m được tạo bằng một khối đá xanh nguyên khối, thắt đáy và thắt miệng, trên có chạm hai lớp cánh sen, bao quanh. Giữa lớp cánh sen có chạm hoa văn (hoa sen kiểu bệ tượng Phật thời Lê). Bờ giếng được lát bằng sáu khối đá xanh, giếng sâu 8m, thành giếng được xếp các viên gạch vỡ và các viên đá xanh vòng tròn. Nước chỉ để dùng tắm cho Thánh vào những ngày lễ. Đây có thể là một khẩu giếng thời Lê, còn lại duy nhất ở Hà Nội.
Đình thờ thành hoàng là Lã Đại Liêu, tướng của thần Tản Viên, có công giúp vua Hùng đánh giặc giữ nước.
Lễ hội chính hằng năm vào ngày 12 tháng giêng và 18 tháng 10 âm lịch, theo truyền thuyết là ngày sinh và ngày mất của vị thành hoàng.
Hội làng vào ngày 12 tháng 2 âm lịch.
6. Đình Quảng Bá ở làng Quảng Bá, xã Quảng An, huyện Từ Liêm, nay là Cụm I, phường Quảng An, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội.
Trước đây đình được xây dựng trên gò Con Xà, cách ngôi đình hiện tại khoảng 1km về phiá tây nam, cách đường Hà Nội đi Chèm khoảng 1km. Đình được dựng lại vào năm Bính Tý, niên hiệu Bảo Đại thứ 11 (1936).
Đình được dựng trên một khu đất cao trông ra Hồ Tây. Giếng đình được ngăn với Hồ Tây bằng một bờ gạch. Giếng hình vuông, bờ gạch xây ba cấp, hai bên có bậc gạch lên xuống.
Hai bên sân đình là hai nhà giải vũ, mỗi nhà sáu gian đơn giản, là nơi hội họp của hàng giáp.
Phần sân sát hiên đình được lát gạch Bát Tràng cỡ lớn. Trước hai gian phụ sát hiên đình có hai cột trụ gạch hình vuông, có hai đôi câu đối chữ Hán. Bẩy hiên chạm hình rồng cách điệu đơn giản.
Đại đình có kiến trúc kiểu chữ "nhị", mái lợp ngói ta, bờ nóc thẳng, chính giữa có đắp hình đầu hổ đội mặt trời. Hai đầu đắp nổi văn mây cuốn và hình cá hoá rồng. Bờ dải chạy thẳng theo kiểu tường hồi bít đốc, có trang trí văn mây và tứ linh.
Đại đình cao, rộng, thoáng gồm bảy gian, sáu hàng cột kê trên đá tảng. Sáu bộ vì kèo kết cấu kiểu giá chiêng, trang trí đơn giản văn mây, hoa lá cách điệu; các bức cốn được chạm trổ tinh vi với đề tài rồng, lân, phượng hàm thư, ruà..
Dưới hoành phi là bộ cửa võng chạm trổ cửu long tranh châu.
Hậu cung có ba gian chính, xây cao hơn đại đình, mái lợp ngói ta, giữa bờ nóc có bầu rượu và cá hoá rồng, hai gian phụ mới xây là nơi để đồ tế lễ. Vì kèo hậu cung đơn giản.
Bệ gạch giữa là nơi đặt ngai thờ bố Cái Đại vương. Hai gian bên, mỗi bên đặt ba ngai trong các khám, thờ sáu vị thần.
Đặc biệt có nhang án mang phong cách thế kỷ XVII-XVIII.
Đình thờ thành hoàng là Bố Cái Đại vương Phùng Hưng.
Lễ hội hằng năm được tổ chức vào ngày 12 tháng 2 và ngày 10 tháng 8 âm lịch.
|
|
|
Post by Can Tho on Jul 22, 2017 0:06:52 GMT 9
LÊ VĂN MẬU - tác giả những bức phù điêu ở chợ Bến thành
Lê Văn Mậu (1917 - 2003) là một nhà giáo nhân hậu và một điêu khắc gia tài hoa. Sinh năm 1917 tại Vĩnh Long. Năm 1930, lên Sài Gòn ở nhà người cậu là bác sĩ Truơng văn Quế để học trung học. Sau khi đậu Diplôme vào năm 1934, Lê Văn Mậu lên Biên Hòa học điêu khắc trong dịp hè với ông Balick, hiệu trưởng trường Mỹ nghệ. Ông bà Balick là thân chủ bác sĩ Quế nên rất quí thầy và sắp xếp cho thầy ở Cù Lao Phố. Khi ông Balick hứa sẽ xin cho thầy học bổng học trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương thì thầy quyết định bỏ học ban tú tài mà theo học trường Mỹ nghệ. Trong thời gian học ở đây, những mẫu sáng tác của thầy được Hợp tác xã Mỹ nghệ Biên Hòa chọn để đưa vào sản xuất. Sau những năm tháng học tập, thầy đậu hạng nhất kì thi tốt nghiệp khóa ngày 2.7.1937. Được ông Balick giới thiệu, cuối năm 1937, thầy đã vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương không phải qua thi tuyển. Năm 1940, báo Pháp La volonté indochinoise nhận xét phê bình: “Tác phẩm Đám rước của ông Mậu, do cách bố cục và sự tìm tòi trong cách thể hiện, đã báo hiệu một nghệ sĩ tài năng”. Sau nhiều trăn trở tính suy, mùa hè năm 1942, thầy quyết định thôi học một năm trước khi thi tốt nghiệp, ông hiệu trưởng E. Jonchère cho thầy một chứng chỉ với nhận xét rất tốt. Theo thư mời của ông Balick, Lê Văn Mậu trở thành giáo viên dạy môn điêu khắc và môn vẽ cho trường Mỹ nghệ Biên Hòa kể từ năm 1944, là người thế chân cho thầy Nhứt (Đặng Văn Quới) nghỉ hưu. Từ đó thầy gắn bó với trường Mỹ nghệ, với Biên Hòa tròn nửa thế kỷ. Cuộc đời nhà giáo của thầy phẳng lặng êm đềm. Năm 1963, thầy được cử làm hiệu trưởng trường Mỹ nghệ Biên Hòa, nhưng với tên mới là trường Kỹ thuật Biên Hòa. Năm 1973, trường Kỹ thuật Biên Hòa có sự xáo trộn, thầy xin thôi chức hiệu trưởng và thầy thuyên chuyển về trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn làm giảng viên môn điêu khắc. Sau 1975, thầy tiếp tục dạy tại trường cũ, nhưng có tên mới là ĐH Mỹ thuật Tp.HCM, cho đến khi nghỉ hưu. Ông Nguyễn Hoàng, hiệu trưởng nhận xét: “Ông là người thầy đã đóng góp nhiều công sức để đào tạo cho đội ngũ điêu khắc ở miền Nam trước và sau giải phóng”. Trong sự nghiệp sáng tác của mình thầy Lê Văn Mậu đã sáng tác hàng trăm tác phẩm lớn nhỏ. Hiện nay được lưu giữ trân trọng tại Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh, Bảo tàng Đồng Nai, sưu tập tư nhân trong và ngoài nước. Chỉ xin kể một số tác phẩm tiêu biểu của thầy: Đức mẹ Maria (1951, Nhà thờ Biên Hòa), Napoléon xem binh thư (1954, Pháp), Phật Thích Ca (1954, Chùa Xá Lợi), Bóng xế tà (1964, Bảo tàng Mỹ thuật Thành phố Hồ Chí Minh), Đại thần Phan Thanh Giản (1964, Vĩnh Long), Tượng trưng tài nguyên và kinh tế Biên Hòa (1967), Anh hùng Nguyễn Trung Trực (1968, đặt trước chợ Rạch Giá), Đài phun nước Cá hóa long (1968 - 1970, Công trường Sông Phố, Biên Hòa), Hùng Vương dựng nước (1989, Khách sạn Continental, Thành phố Hồ Chí Minh)… Thầy ba lần làm tượng VIP đáng nhớ: tượng Cựu hoàng Bảo Đại (1948), tượng Tổng thống Ngô Đình Diệm (1959) và tượng Bà Sáu Thiệu (1970-1973). Và thầy đã sáng tác rất nhiều mẫu mã phục vụ cho những sản phẩm gốm mỹ nghệ Biên Hòa. Bài và ảnh: Nguyễn Minh Anh (Cựu sinh viên trường Cao đẳng Mỹ thuật Trang trí Đồng Nai) Chú thích: Đoàn Trường Kỹ thuật Biên Hòa tham dự khóa hội thảo về giáo dục năm 1965 tại Sài Gòn (Lê văn Mậu đầu tiên, bên trái)
|
|
|
Post by Can Tho on Apr 21, 2018 16:02:25 GMT 9
Nghê - gã linh vật bên rìahọa sĩ Trần Hậu Yên Thế trelangkienviet.vn/chuyen-muc-album/anh-lich-su-vn-gia-tri--9997729.htmlNghê đích thực là gã linh vật chầu rìa độc đáo nhất trong nghệ thuật cổ truyền của người Việt. Dù chỉ là phác họa ban đầu, khuôn mặt nghê hiện ra lúc thì trầm lắng, trang nghiêm, lúc thì nghênh nghênh, hớ hênh phóng túng, miệng ngoác ra cười đến tận mang tai. Cung cách bông lơn, bộ dạng dung tục đến hồn nhiên vẻ như bất chấp mọi lễ giáo và khuôn phép của những gã nghê được đục đẽo, tô đắp một cách hả hê, làm náo nức các mảng chạm, bất kể đó là ở đình, ở chùa hay lăng tẩm, đền miếu. Hiếm có linh vật nào có thần thái sinh động như nghê, đủ cả hỷ nộ ái ố, lúc chau mày ứa lệ, lúc teo miệng cười. Cuốn sách Phác họa Nghê - gã linh vật bên rìa (Nhìn từ đền Vua Đinh, Vua Lê) của Nhà xuất bản Thế Giới phát hành được sự tài trợ kinh phí của Bảo tàng Gốm sứ Hà Nội. Nghê tỏ ra biết thân biết phận (làm phượng thì múa làm nghê thì chầu) nên im lặng ngồi chầu, mặc mưa nắng, kệ gió sương. Nghê cứ ngồi như thế, cung kính, an nhiên và an phận, lẫn vào cỏ cây, vào sương khói. Cũng không khác là bao: những con nghê đội tòa sen, trở thành vật đội ở chốn tam bảo đã mấy khi được ai chú ý. Nghê đã bị bỏ quên khỏi những cuốn sách về nghệ thuật cổ truyền của người Việt, thậm chí bị nhầm tên quên họ trong một số công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài. Song, dù thế nào chăng nữa, cũng như những vai hề chèo, diễn viên phụ xuất sắc, nghê đã chạm đến chốn sâu lắng nhất của tâm hồn người Việt. Gã linh vật bên lề - nghê đã góp phần làm nên một diện mạo tinh thần sống động, lạc quan, bình dân và thân thuộc cho nghệ thuật người Việt thời Trung đại. Cuốn sách Phác họa nghê - gã linh vật bên rìa (nhìn từ đền Vua Đinh, Vua Lê) của họa sĩ Trần Hậu Yên Thế bước đầu trình bày lai lịch, danh xưng, hình tướng và ý nghĩa biểu tượng của một linh vật rất thân quen trong văn hóa Việt. Ngoài hệ thống đồ án linh vật nghê ở đền Vua Đinh, Vua Lê, trong phần Phụ lục, tác giả còn tập hợp công phu các hình ảnh nghê trong mỹ thuật truyền thống, gắn với đời sống văn hóa và tâm linh của người Việt. Đây là cuốn sách có giá trị, có nội dung hữu ích đối với những người làm công tác quản lý, nghiên cứu, cũng như giáo dục và phát huy giá trị di sản văn hóa truyền thống Việt Nam trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Nghê đã gắn bó ân tình với người Việt hàng nghìn năm nay. Nhỏ nhắn và khiêm nhường, chất phác và thuần hậu, bởi không ham công không thích lớn nên nghê thể hiện chính xác nhất chiều kích văn hóa Việt. Nguyễn Huy Oánh là một danh nho thời Lê Trung Hưng. Ông từng đi sứ phương Bắc, qua những bản tấm bản đồ vẽ lại những nẻo đường ông đã đi qua từ ải Nam Quan đến Yên Kinh (tức Bắc Kinh ngày nay) cho biết ông là người đã quan sát tỉ mỉ những nẻo đường đi sứ. Chắc chắn, ông đã thấy rất nhiều tượng sư tử đá ở những cung vua phủ chúa, lăng tẩm đền đài Trung Hoa. Nhưng, đi nhiều là để thấy nhiều và hiểu về chính mình hơn hết, vậy nên ở từ đường tư gia dòng họ Nguyễn Huy, khoảng năm 1752, ông cho làm một đôi nghê đá ngồi chầu cạnh ang nước. Gia tộc Nguyễn Huy ở Can Lộc là một dòng họ khoa bảng, có nhiều người đỗ đạt, làm quan to thời Lê Trung Hưng và thời Nguyễn. Họ Nguyễn Huy nổi tiếng thế giới với bộ mộc bản Trường Lưu đồ sộ. Đôi nghê của một dòng họ danh giá bậc nhất xứ Nghệ này xem ra cũng thật đơn sơ và bình dị. Thêm một ví dụ nữa về ứng xử của người xưa với nghê, ở dinh thự của một vị đại quan thời Nguyễn – Tạ Ngọc Hoàng Thụy Chi. Cũng giống với Nguyễn Huy Oánh, cụ Tạ Ngọc là vị quan hay chữ, thích văn chương và lịch duyệt. Viện Hán Nôm còn lưu giữ bản ghi chép hành trình sang Paris của ông. Dinh thự ở số 14 phố Đường Thành là do KTS người Pháp thiết kế là một công trình kiến trúc mang phong vị Á-Âu khá nguy nga. Ở lối lên và xuống cầu thang phòng khách đều có một chú nghê nhỏ. Nghê ở lối vào thì hớn hở đón chào, ở lối ra thì rầu rĩ tiễn biệt. Nghê quan mà cũng chỉ tầm hai gang tay chiều cao. Viết đến đây, tôi chạnh lòng nhớ đến những đôi sư tử vùng Hoa Bắc (TQ) đồ sộ, đầy phô trương và hăm dọa ở cổng các tư dinh, công đường thời nay. Nghê đá trước Nghi môn ngoại đền Vua Đinh Nghê Việt đang dần mai một chăng, đang dần bị quên lãng chăng. Ai đã ngoảnh mặt lại với nghê, ai đã quên đi một linh vật tận tâm và tận tụy dầu sương dãi nắng nhất trong số các linh vật của người Việt. Ở cái thời buổi văn hóa trọc phú đầy nhầm lẫn và ngộ nhận này, nghê dường như không còn đất sống.
|
|
|
Post by Can Tho on Jun 14, 2020 18:01:51 GMT 9
Tượng "Nữ thần Tự do" ở Hà Nội.
...
Tượng Thần Tự Do được người Mỹ nói chung và người dân New York nói riêng coi là biểu tượng đáng tự hào của họ. Đó là pho tượng rỗng, bằng đồng, cốt thép lớn vào loại nhất thế giới. Tượng cao 46m, nặng 204 tấn được đặt đứng trên một bệ cao 45,7m tại một cù lao nhỏ nhìn ra cảng New York.
Ít ai biết, tượng Thần Tự Do là tác phẩm của các nhà kiến trúc, điêu khắc Pháp thế kỷ 19. Năm 1875, chính phủ Pháp đã đặt hàng kiến trúc sư Bartholdi một bức tượng để tặng cho chính phủ Mỹ nhân kỷ niệm 100 năm ngày quốc khánh Mỹ.
Bartholdi bắt tay vào công việc này từ năm 1875, một năm trước lễ kỷ niệm 100 năm Ngày Độc lập 4/7/1776 của nước Mỹ. Nhưng ông không thể hoàn thành ngay công việc của mình. Ông đã phải sang Mỹ vài lần để chọn chỗ đặt bức tượng. Chỗ đặt được chọn là cảng New York. Bức tượng có cánh tay phải cầm cây đuốc rực sáng coi như ngọn đèn pha của cảng. Như vậy pho tượng phải có độ cao như một ngọn đèn pha trên bệ. Riêng cánh tay giơ bó đuốc đã dài tới 12m, ngón trỏ dài 2,4m, cái đầu tính từ cằm tới vuơng miện cao 5m, riêng cái miệng rộng 1m.
Phải mất gần 10 năm, Bartholdi mới hoàn thành công trình tượng thần tự do khổng lồ với khối lượng 204 tấn này. Ngày 4/7/1884, tại Paris đã diễn ra lễ trao tặng bức tượng cho nước Mỹ. Gần một năm sau, tháng 5/1885, bức tượng được tháo rời, xếp vào 214 công-ten-nơ, đưa lên tàu chiến Pháp để sang Mỹ. Tháng 4/1886 bệ tượng ở New York được dựng xong và công việc ghép tượng bắt đầu.
Tháng 10/1886, trước sự chứng kiến của các quan chức cao cấp Pháp và Mỹ, tấm khăn phủ tượng Thần Tự Do được long trọng kéo xuống. Một trăm năm sau, năm 1986, người Mỹ cùng với tổng thống R.Reagan đã kỷ niệm trọng thể 100 năm tượng Thần Tự Do.
Bên cạnh tượng Thần Tự Do khổng lồ được trao tặng cho nước Mỹ, người Pháp có giữ lại cho mình một phiên bản nhỏ (cao 11 mét) cũng bằng đồng, đặt cạnh chiếc cầu bắc qua sông Seine. Đồng thời, cũng có một phiên bản khác nhỏ hơn nữa, (chiếm tỷ lệ 1/16 của pho tượng chính, tức khoảng 2,85m). Phiên bản này đưa sang triển lãm tại Hội chợ Đấu xảo Hà Nội (nay là Cung văn hóa Hữu Nghị Việt – Xô) năm 1887.
Sau đó, pho tượng được đặt ở vườn hoa trước cửa nhà Ngân hàng Đông Dương, tức vườn hoa Chí Linh, nơi đặt tượng Lý Thái Tổ bây giờ. Dịp quốc khánh nước Pháp 14/7/1890, Chính phủ Bảo hộ muốn đặt ở đây tượng Paul Bert (Người Việt gọi là Pôn Be) là thống sứ đầu tiên của Nhà nước bảo hộ, chết năm 1886 ở Hà Nội. Người Pháp lấy chỗ của tượng Thần Tự Do để làm chỗ cho tượng Paul Bert.
Có ý kiến đề xuất là đặt ở chỗ ga xe điện Bờ Hồ trước đây, nay là đài phun nước trước nhà Thủy Tạ và đầu phố Hàng Đào. Nhưng một kỹ sư Pháp là Daurelle đề nghị đặt ngay trên nóc Tháp Rùa.
Vị trí đặt pho tượng được báo chí Pháp thảo luận rất nhiều. Cuối cùng, tượng Thần Tự Do được đặt trên nóc Tháp Rùa, mặt quay về vườn hoa Paul Bert, tức quay về tượng Lý Thái Tổ bây giờ, lưng quay về phía Nhà Thờ Lớn. Tượng Thần Tự Do đã nằm trên nóc Tháp Rùa từ năm 1890 đến năm 1896, trước khi được chuyển về vườn hoa Cửa Nam và mang tên “Bà đầm xòe”.
Sau khi Nhật đảo chính lật đổ Pháp, bác sĩ Trần Văn Lai được bổ nhiệm làm thị trưởng TP Hà Nội (sau này ông tiếp tục được cử làm phó chủ tịch UBND TP. Hà Nội). Khi vừa lên làm thị trưởng, để bỏ tàn tích xâm lược của thực dân Pháp, ông Trần Văn Lai đã quyết định giật đổ tất cả các tượng mà Pháp đã dựng ở Hà Nội, gồm tượng Thống chế Foch, Jean Dupuis (người mở đầu xâm lược Hà Nội),… tượng Nữ thần tự do bị giật đổ vào 9h45 ngày 1/8/1945.
Những tượng đồng bị kéo đổ này được mang cất vào trong kho phế vật của sở Lục lộ thành phố Hà Nội từ năm 1945. Vào năm 1949, chùa Thần Quang thuộc làng Ngũ Xã khởi công dự án đúc tượng phật A Di Ðà. Tài liệu cho biết trong ba năm chuẩn bị đúc tượng (1949-1952), chùa đã kêu gọi khách thập phương đóng góp nhiều đồ đồng để đúc tượng nhưng vẫn không đủ số lượng nên đã đến xin chính quyền ban cho những tượng đồng trong kho của sở Lục lộ Thành phố, và ông thị trưởng thành phố đã chấp thuận cho chùa Thần Quang tất cả số tượng đồng trong kho, trong số đó có cả tượng Nữ thần và tượng Paul Bert. Ngày 26 tháng 10, 1952, số đồng thu thập đủ loại và từ nhiều tượng kể cả tượng Nữ thần và tượng Paul Bert được đun nóng chảy rồi đổ vào khuôn để đúc tượng A Di Đà cho chùa Thần Quang, làng Ngũ Xã.
Phiên bản Tượng Nữ thần "Tự Do soi sáng Thế giới" được Pháp tặng cho Việt Nam vào năm 1887, qua nhiều thăng trầm di chuyển nhiều lần, rồi nằm trong bóng tối nhà kho hơn bảy năm trời, sau cùng tượng đã bị nấu chảy để lấy đồng đúc tượng A Di Đà vào năm 1952. Như vậy tổng cộng tượng Nữ thần Tự do đã hiện diện ở Hà Nội, Việt Nam được khoảng 65 năm (1887-1952)./
-Theo Hannah/KCLS
Ảnh tượng Nữ thần Tự do phiên bản nhỏ từng được đặt trên nóc Tháp Rùa, Hà Nội (những năm 1890-1896)
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 28, 2021 16:42:17 GMT 9
Câu chuyện xúc động về tác giả bức tượng Thương Tiếc
Miền Nam Việt Nam trước 1975 không ai không biết đến điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, tác giả bức tượng Thương Tiếc đặt tại nghĩa trang quân đội trên xa lộ Biên Hòa năm 1966. Chính đứa con mà ông yêu quý nhất này đã đưa ông lên đỉnh danh vọng để rồi đẩy ông xuống đáy địa ngục. Ký ức tháng Tư đen cùng câu chuyện 46 năm qua lời kể của thầy tôi – Nguyễn Thanh Thu – thật nặng nề và đầy xúc động. Ký ức về thầy Thầy Thu tuổi Quý Dậu (1934), dạy môn hội họa cho tôi, anh em tôi và những ai đã từng học tại Trung học Võ Trường Toản (VTT) từ năm 1958. Ông có dáng người chắc khỏe, tầm thước, đi dạy bằng xe Jeep cao màu xanh dương, mặc áo chemise trắng, đeo cravat đỏ luồn vào trong bụng dưới khuy áo thứ hai. Cá tính rất mạnh mẽ, nghiêm khắc, khó gần. Ông dạy học trò cầm bút chì theo kiểu cầm archer khi chơi violon. Ông dễ nổi nóng và đánh đòn học sinh nào cầm bút theo kiểu viết, dùng thước “vẽ” đường thẳng. Mỗi buổi học ông chọn ra hai-ba bài vẽ tệ nhất, dùng dây kẽm cột chổi để treo bài lên cổ người vẽ, bắt đứng trước lớp cho đến khi hết giờ. Nguyễn Minh Trí, bạn học của chúng tôi từ lớp 6-5 cũng là con trai của ông, thường xuyên bị đòn đau. Lớp tôi ai cũng thương nó vì nghĩ rằng nó chịu đòn thay cho cả lớp. Có lẽ nhờ sự nghiêm khắc của ông mà trình độ hội họa của chúng tôi lúc đó như “người khổng lồ” so với học sinh cấp II bây giờ? Do nổi tiếng từ bức tượng Trung Liệt đặt tại Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, ngày 22-8-1966, ông được Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia – Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu giao thực hiện bức tượng Thương Tiếc đặt tại Nghĩa Trang Quân Đội Biên Hòa. Tượng ngồi, bằng bê-tông cốt thép, màu đen, uy nghiêm, cao 4 m. Nếu tính cả mô đất dưới chân người lính và bệ tượng thì chiều cao tượng đài là 8 m. Về bức tượng Thương Tiếc, ông kể rằng ông được Tổng thống Thiệu chọn thực hiện, từ việc thể hiện ý tưởng đến việc xây dựng tượng đài tại Nghĩa trang Quân đội. Sau bảy ngày, ông được mời vào Dinh để trình bày năm phác thảo nhưng vào cuối buổi, ông nói phác thảo mà ông yêu thích nhất là phác thảo thứ sáu mới vẽ nháp trên bao thuốc lá Quân Tiếp Vụ trong khi chờ ngoài hành lang Dinh. Ý tưởng thứ sáu lấy từ hình ảnh của hạ sĩ Võ Văn Hai khóc bạn tại quán nước trước Nghĩa trang Quân đội cũ ở Gò Vấp mà ông nhìn thấy một tuần trước đó. Phác thảo thứ sáu được chọn và chỉ sau hai tháng rưỡi, bức tượng đồng Thương Tiếc cao 9 m hình thành, đưa ông lên đỉnh cao danh vọng ở tuổi 32 với sự kính trọng của giới chức và quân nhân thời đó. Tượng được khánh thành ngày Quốc Khánh VNCH 1-11-1966. Trên không gian rộng thoáng, từ mọi hướng, người ta có thể nhìn thấy bức tượng cao, nổi bật trên nền trời xanh. Đó là người lính từ chiến trường về thăm mộ đồng đội, quân phục, ba-lô lấm bụi, súng trường gác trên hai đùi, lưỡi lê ngang hông, dây quai nón sắt buông thỏng như sợi buồn rơi vào cõi vô định. Anh ngồi thẫn thờ, đôi mắt buồn nhìn xa xăm, thương tiếc cho người bạn vừa nằm xuống. Bức tượng trong bối cảnh đó trở nên có hồn hơn và nhiều chuyện linh thiêng của bức tượng đã không ngớt lưu truyền trong dân chúng lúc đó. Đỉnh danh vọng và đáy địa ngục Tiếng tăm của điêu khắc gia Thu và các tác phẩm của ông đã vang xa khỏi quê hương. Ngày 20-7-1967, đại tá H.G. Fuller, thuộc Bộ Chỉ huy Lục quân Hoa Kỳ ở Việt Nam (USARV), gửi thư cho đại tá William P. Jones – Chủ Tịch Ủy Ban Đài Tưởng niệm Chiến Tranh Hoa Kỳ, trong đó ông ca ngợi ông Thu và các bức tượng về đề tài chiến tranh. Ông William xem ông Thu là điêu khắc gia xuất sắc nhất Việt Nam lúc ấy và đánh giá bức tượng Thương Tiếc là một kiệt tác nghệ thuật. Ông William viết: “… xét về đề tài tượng đài chiến tranh, tôi trân trọng đặt tượng Thương Tiếc và các tác phẩm khác của ông ngang hàng với bức ảnh nổi tiếng Raising The Flag on Iwo Jima ở Arlington”. Ông cũng tiến cử ông Thu với Ủy ban để thực hiện việc dựng tượng ở Hoa Kỳ và các quốc gia đồng minh trong các dự án tương lai. Nói đến điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu, người ta chỉ nhớ đến ông với bức tượng Thương Tiếc. Thật ra ông còn một số tác phẩm khác, chẳng hạn tượng Quyết Thắng, tác phẩm được tạc sau cùng trong sự nghiệp sáng tác của ông. Tượng cao 4m, bằng bê-tông cốt thép mô tả hình ảnh người lính Thủy Quân Lục Chiến trong tư thế ném lựu đạn. Chân trái co thấp bước tới trước, chân phải thẳng tạo thế đứng vững chắc. Cánh tay và bàn tay trái duỗi thẳng hướng về đích đến, tay phải đưa về phía lưng, làm thân người lính vặn về phía sau, thế đứng này giúp người lính có thể ném lựu đạn đi xa nhất. Khẩu súng đặt vội giữa hai chân, nón sắt rơi xuống, phần áo phía trước phủ ra ngoài quần làm cho người xem cảm nhận được sức nóng của chiến trường. Trong khoảnh khắc sống còn, gương mặt người lính trở nên căng thẳng… Khi vừa hoàn thành, tượng Quyết Thắng được triển lãm tại công viên Đống Đa, trước Tòa Đô Chánh vào năm 1969. Cái thần của bức tượng cùng bảy bức tượng khác về đề tài quân đội của ông Thu tại cuộc triển lãm làm cho người xem cảm nhận không khí chiến tranh lan vào tận đô thành Sài Gòn. Trước đó vài năm, có một tác phẩm điêu khắc đồ sộ cùng chủ đề người lính Thủy Quân Lục Chiến được đặt trước Quốc Hội (Hạ Nghị Viện). Tượng do điêu khắc gia Huỳnh Huyền Đỏ tạc năm 1966. Ông Đỏ là thiếu tá Bộ Tổng Tham Mưu, là bạn học với ông Thu tại Cao Đẳng Mỹ Thuật. Ban đầu tượng được duyệt với phác thảo gồm ba người lính nhưng khi hoàn thiện thì tượng đài chỉ có hai người. Trong thời gian thực hiện, ông Đỏ rút lui không rõ lý do, công việc dang dở, vì vậy được giao cho thiếu úy Đinh Văn Thuộc (không phải điêu khắc gia), cùng làm với sự cố vấn của họa sĩ Lê Chánh và Lương Trường Thọ. Trong hoàn cảnh như vậy, tượng khi hoàn thành có nhiều khiếm khuyết mà tác giả của nó chắc không khỏi buồn lòng! Sóng gió của bức tượng này chưa dừng ở đó. Ngay khi tượng được dựng, dân biểu Hạ Nghị Viện phản đối kịch liệt, vì súng người lính hướng thẳng vào tòa nhà Quốc Hội. Họ cương quyết đòi di chuyển tượng sang địa điểm khác. Đầu năm 1968, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ thị điêu khắc gia Thu làm gấp một tượng khác để thay thế. Đó là lý do ra đời của tượng Quyết Thắng. Chỉ ba tháng sau khi có chỉ thị, ông Thu đã gấp rút hoàn thành Quyết Thắng với kinh phí tự bỏ 300.000 đồng. Tổng thống Thiệu muốn thay thế bức tượng trước trụ sở Quốc hội ngay và có ý đưa tượng Thủy Quân Lục Chiến về Ngã Tư Hàng Xanh. Tuy nhiên, không dễ gì thay thế biểu tượng một binh chủng oai hùng, khi ông Thiệu cùng lúc đương đầu với thiếu tướng Bùi Thế Lân (tư lệnh Thủy quân lục chiến) và đại tướng Cao Văn Viên (Bộ Tổng Tham Mưu). Bức tượng Thủy Quân Lục Chiến nhờ vậy tồn tại thêm vài năm cho đến ngày 30-4 rồi bị nhóm thanh niên “cách mạng 30-4” phá sập. Sau khi Sài Gòn thất thủ, “bên thắng cuộc” đã giật đổ bức tượng Thương Tiếc bằng đồng, rồi chuyển về Dĩ An. Đến nay không ai biết được số phận của nó. Chưa dừng lại, ít lâu sau đó, một nhóm vài chục bộ đội đã kéo tới tư gia điêu khắc gia Thu để truy tìm bức tượng Thương Tiếc bằng bê-tông cốt thép đã tạc và đặt tại Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa năm 1967. Đó là tượng dùng để đúc đồng (khuôn gốc) và hình thành nên bức tượng Thương Tiếc phiên bản bằng đồng năm 1970. Nhóm người hung hãn ra sức đập phá bức tượng Thương Tiếc một cách không… thương tiếc và chỉ dừng lại khi tượng chỉ còn lại phần bụng và chân. Hiện nay tượng bê-tông bị đập phá này vẫn còn nằm trong sân sau nhà của ông Thu, cạnh các ngôi mộ gia tiên, cây dại che phủ nên ít ai chú ý. Sau khi đập phá bức Thương Tiếc, nhóm người này tiếp tục đập phá bức tượng Lính Thủy quân Lục Chiến, cao 4m, chỉ để lại đầu tượng. Ngày trở về nhà từ trại tù Hàm Tân với thân hình tiều tụy, ông lê bước đến bên bức Thương Tiếc. Ông đã ngã quỵ dưới chân tượng và ngồi ở đó rất lâu cho đến lúc sụp tối. Ông nói sự trả thù này còn ác hơn những đòn thù mà ông phải gánh chịu trong tám năm dài ngục tối… Võ Văn Hai, giờ này ông ở đâu? Hạ sĩ Võ Văn Hai, Tiểu Đoàn II binh chủng Nhảy Dù bỗng trở nên nổi tiếng cùng với ông Thu và bức tượng Thương Tiếc lịch sử khi được chọn làm người mẫu. Giống như điêu khắc gia Thu, cuộc đời bí ẩn của hạ sĩ Hai cũng chìm nổi theo bức tượng. Không lâu sau tượng được dựng lên, người ta đồn ông Hai đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị. Nhiều bài thơ khóc ông đã ra đời. Thật ra ông Hai chưa chết! Trong thời gian ông Thu ở tù, ông Hai đã hai lần thăm gia đình ông Thu. Lần đầu, rất sớm sau năm 1975. Tim ông như vỡ vụn khi thấy tượng Thương Tiếc – như là phần xác của ông – giờ đây chỉ là đống đổ nát. Lần thứ hai, nhiều năm sau đó. Ông nghe gia đình ông Thu kể rằng ông Thu được cai ngục đưa về thăm nhà với đôi chân yếu không thể tự đi. Ông Hai hoảng loạn, lo sợ có ngày cộng sản tìm đến ông rồi cuộc đời mình cũng chìm xuống địa ngục như thiếu tá Thu. Ông nhanh chóng rời khỏi nhà và không ai có tin tức của hạ sĩ Hai từ ngày đó. Có lẽ ông Hai đã thay tên đổi họ, “mai danh ẩn tích”, trở về cuộc sống nông dân ở đâu đó trên đất Diên Khánh, ông Thu nghĩ vậy… Trong tù, tạc tượng ông Thiệu, thay vì Hồ Chí Minh! Tháng Tư đen đã đẩy gia đình ông xuống địa ngục. Tháng 12-1975, tại lớp 10C5 Trường Võ Trường Toản (VTT), Trí – cậu con trai của ông – được lệnh rời lớp, mang theo cặp lên văn phòng. Hiệu trưởng Nguyễn Quang Hồng, dân Nam tập kết, môi mỏng, đầu hói, lạnh lùng nói: “Ba em nợ máu với nhân dân, em không được học ở đây. Từ hôm nay”. Linh cảm chuyện không lành, tôi đợi Trí tại nhà xe, Trí lầm lũi, khóc nấc và nói: “Tao bị đuổi học”. Trí giấu mẹ vì sợ bà đau buồn, có thể sinh bệnh mà chết. Mỗi sáng nó vẫn ra khỏi nhà, chui “lỗ chó” vào Sở thú ngồi cho đến giờ về, nhìn buồn sang trường cũ nơi có tượng cụ Võ Trường Toản do chính Ba nó tạc năm 1972. Trại tập trung Hàm Tân, một buổi sáng cũng khoảng thời gian Trí bị đuổi, thiếu tá Thu bị gọi lên chất vấn về thành tích không khai trong lý lịch: là người đã tạc tượng Ngày về (giải thưởng văn hóa nghệ thuật Ngô Đình Diệm 1963) và tượng Thương tiếc. Sau ít phút lắng nghe ý nghĩa của các bức tượng, sáu tên cai ngục thay nhau đánh đập ông dã man trong ba ngày. Chúng dùng cánh tay hộ pháp vỗ mạnh vào mang tai khiến ông chảy máu và điếc luôn từ ngày đó. Ông bị biệt giam trong conex. Tám tháng không thấy Mặt trời. Ít lâu sau, chúng yêu cầu ông tạc tượng Hồ Chí Minh. Suy nghĩ hồi lâu, ông đồng ý với điều kiện: được về Gia Định để thăm mẹ già, vợ con và chuẩn bị vật liệu. Ngày trở về thăm mẹ tại cư xá Việt Nam Thương Tín (Hàng Xanh), khi người em gái ý tứ giữ chân bốn tên an ninh ở phòng khách, ông Thu nghe mẹ nghiêm khắc nói: “Mẹ đẻ ra con, mẹ hiểu con muốn gì. Nếu trái ý, mẹ sẽ tự tử ngay. Cố gắng ở thêm ít năm rồi về”. Biết tính mẹ, ông đành bỏ kế hoạch trốn sau khi thăm vợ con ở Gò Vấp. Ông trở lại địa ngục, miễn cưỡng tạc tượng kẻ thù với một mật kế mới. Hàng ngày, ông nuốt vào những lời sỉ vả của chiến hữu nhắm vào ông. Những ngày cuối tháng Tám, ông càng miệt mài thức khuya “tạc tượng”, chiến hữu càng ghẻ lạnh. Sáng ngày 1-9, cả trại tù náo loạn khi nhận ra: đây không phải tượng Hồ Chí Minh mà là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu! Những ngày sau đó ông sống ở đáy địa ngục. Ông chết đi sống lại nhiều lần trước những trận đòn thù hội đồng. Một ngày tháng 10, ông bị lôi ra khỏi conex lúc 4g sáng để đưa ra pháp trường. Mạng ông lớn, lệnh hành quyết được bãi bỏ ở những giây cuối cùng. Biệt giam, đòn thù, thiếu ăn…, tính mạng mong manh gần chết, cuối cùng, ông được tha năm 1983. Một giấc mơ cuối đời Sau bốn năm dưỡng thương, buồn cảnh gia đình tan nát, ông vượt biên bằng đường bộ mà trong túi không có một xu theo nghĩa đen. Hành trình gian khổ ly kỳ này (sẽ được hầu chuyện vào dịp khác) đưa ông đến Thái Lan, sau đó định cư ở Mỹ hơn 10 năm, rồi trở về Việt Nam cho đến nay. Tổng thống Thiệu, trong lần nói chuyện với đồng bào tại California, cảm kích về việc ông Thu dựng tượng mình trong trại tù Hàm Tân, đã xuống tận chỗ ngồi của ông Thu để thăm hỏi. Hơn 10 năm ở Mỹ, ông trông mong cộng đồng giúp phục dựng lại bức tượng Thương Tiếc nhưng niềm hy vọng đó cuối cùng chỉ là những “confetti vương vãi trên sàn”. Không sống được bằng nghề điêu khắc, ông không biết làm gì khác. Với thính lực gần bằng không, ông ngày càng bế tắc trong việc mưu sinh xứ người. Cô độc, cuối cùng ông miễn cưỡng trở về Việt Nam. Trở lại mái nhà xưa, gần gia đình, trong không gian sáng tác quen thuộc, ông tạc thêm một số tượng, dựa trên các ý tưởng hình thành từ trước như: Được Mùa, Cửu Long Được Mùa… Tuy nhiên, đó là những tượng tỷ lệ nhỏ, tạc chỉ để thỏa mãn đam mê nghệ thuật. Bây giờ, với những ngày tháng còn lại cuối cùng của cuộc đời, ông chỉ mong gặp lại ba người, trong đó có hạ sĩ Hai, người đã ghé thăm gia đình ông vài lần trong lúc ông ở tù; và hai người phụ nữ mà ông mang ơn cứu mạng: cô Lan (bán canteen trong trại Hàm Tân), người giao cơm khi ông bị biệt giam với miếng thịt giấu ở đáy chén; cô Oanh, người tình của trùm du đãng xóm chài Sa Tưng (Campuchia). Ở tuổi 87, ông ấp ủ một việc làm cuối cùng: dựng tượng chính mình ngay sau khi tôi thực hiện xong album chân dung của ông. Cầu chúc ông sớm đạt nguyện để lớp hậu sinh có dịp viếng ông, nghiêng mình trước một người lính VNCH can trường. Những tâm sự trong bối cảnh tháng Tư đen khiến chúng ta không khỏi ngậm ngùi. Cuộc đời sóng gió của điêu khắc gia Nguyễn Thanh Thu đã làm cho pho tượng Thương Tiếc đẹp hơn và trở nên bất tử. Những kẻ hậu sinh rồi sẽ còn nhắc về ông: “Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Ghi chép của NGUYỄN TUẤN KHOA
|
|