Post by Can Tho on Nov 10, 2008 13:02:51 GMT 9
Như Hạnh : Ðọc Một Cách Phê Phán “luận Ngữ Trích Lục Dẫn Giải” Của Phan Bội Châu
Thứ Tư, Ngày 24 tháng 9-2008
Phan Bội Châu (1867 - 1940)
Kết thúc chương ngắn viết về Nho Giáo Việt Nam trong cuốn sách về Nho Giáo, xuất bản năm 1943, Trần Trọng Kim viết:
Ðến nay người mình thấy Tây học rực rỡ mà cái học của ta khi xưa mập mờ không rõ, sách vở không có mấy, liền cho cái học của ta không có gì. Ðó là một điều mà các học giả trong nước nên chú ý mà xét cho kỹ, đừng để cái hình thức bề ngoài làm hại mất cái cốt yếu bề trong. Nho Giáo tuy không gây thành được cái văn minh vật chất như Tây học, nhưng vẫn có cái đặc tính đào tạo ra được cái nhân cách, có phẩm gía tôn quí. Hãy kể một phương diện ấy, thiết tưởng cũng đủ làm cho người mình không nên bỏ Nho Giáo vậy.[ 1]
Ðoạn văn ngắn ngủi nhưng nói lên được rất nhiều điều quan hệ. Thứ nhất ông gợi lên được cái suy tàn của “cái học nước ta” trước sự rực rỡ của Tây học. Việc ông ám chỉ Nho học là “cái học của ta” nói lên được vai trò của Nho Giáo trong văn hóa Việt Nam. Ông than phiền rằng cái học của ta “mập mờ không rõ, sách vở không có mấy” là một sự thật không thể chối cãi được và là một trở ngại muôn đời cho việc nghiên cứu văn hóa sử Việt Nam nói chung chứ không riêng gì Nho Giáo.
Trong khi biện minh cho vai trò của Nho Giáo, Trần Trọng Kim nói rằng “Nho Giáo tuy không gây thành được cái văn minh vật chất như Tây học, nhưng vẫn có cái đặc tính đào tạo ra được cái nhân cách, có phẩm gía tôn quí.” Với nhận định này Trần Trọng Kim nói lên quan điểm tiêu biểu nhưng cần phải được xét lại của đa số những người trí thức Á Châu và Việt Nam: Ưu điểm duy nhất của Nho Giáo là luân lý. Nếu như người Việt Nam không nên bỏ Nho Giáo thì cũng chỉ vì Nho Giáo có giá trị luân lý thôi.
Ðây một quan điểm tai hại nhất về Nho Giáo ôm giữ bởi những người theo cũng như chống Nho Giáo. Ðối với những người theo Nho Giáo thì tuy Nho Giáo không có gì để đóng góp cho cái học vật chất (tức là khoa học kỹ thuật) nhưng lại trổi vượt về mặt luân lý. Dưới mắt những người chống Nho Giáo thì Nho Giáo không những đã làm cản trở khoa học và tiến bộ mà luân lý Nho Giáo cũng chỉ là một thứ luân lý địa phương, hẹp hòi, hủ lậu, không còn đất đứng trong thời đại nữa.
Chủ đề chính của bài viết này là đọc một cách phê phán “Luận Ngữ Trích Lục Diễn Giải” tức là phần thượng thiên của bộ sách Khổng Học Ðăng của Phan Bội Châu (1867-1940).[ 2] Tôi đọc sách của Phan Bội Châu nhiều năm trước đây, bởi vì ông là một trong các học giú- Việt Nam hiếm hoi viết về Nho Giáo. Nhưng lúc đó tôi chỉ có toàn những ấn tượng tiêu cực. Sách và con người ông bị đẩy sâu vào một góc xó đen tối của tâm thức tôi. Gần đây tôi được gợi hứng để đọc kỹ lại Phan Bội Châu là nhờ hai nhà học giả Herbert Fingarette và Simon Leys, một triết gia và một chuyên viên về Trung Hoa học.
Kinh nghiệm của tôi về việc đọc bộ Khổng Học Ðăng tương tự với kinh nghiệm của Herbert Fingarette với sách Luận Ngữ. Fingarette nói rằng khi ông mới đọc Khổng Tử, ông thấy Khổng Tử là một ông thầy dạy đạo đức bình dân địa phương, những lời dạy của Khổng Tử trong Luận Ngữ thì xưa cũ chẳng có gì hợp thời cả. Sau đó nỗ lực đọc lại kỹ hơn, ông thấy Khổng Tử là một nhà tư tưởng có cái nhìn sâu xa và nhiều sáng tạo về con người không kém bất cứ ai. Ông còn tin rằng Khổng Tử có thể là một bậc thầy cho chúng ta ngày hôm nay. Khổng Tử có nhiều cái mới mẻ để dạy, ông có những tư tưởng đi trước thời đại chúng ta.[ 3]
Trong bản dịch Luận Ngữ xuất bản gần đây, Simon Leys cũng cảm kích cái hiện đại tính của tư tưởng Khổng Tử. Leys viết rằng trái với cái hình ảnh dễ ghét về Khổng Tử được vẽ ra bởi nhiều nhà trí thức hàng đầu của Trung Hoa vào đầu thế kỷ XX, ông nhận thấy điều kỳ diệu là cách đây hai mươi lăm thế kỷ mà đôi khi Khổng Tử dường như đối trị thẳng với những vấn đề của chính thời đại và xã hội chúng ta. Nhưng Leys nhận định thêm rằng, một cách nghịch lý, có lẽ các độc giả không phải là người Trung Hoa (hay chúng ta có thể nói Á Châu) lại ở trong một vị trí thuận lợi hơn để cảm kích cái hiện đại tính của Khổng Tử. Có lẽ vì họ có cái vô tư thuần phác mà các độc giả Á Châu không có.[ 4]
Xin trở lại với Phan Bội Châu. Lần đầu đọc Khổng Học Ðăng của Phan Bội Châu, điều đầu tiên tôi nhận thấy là ông viết bằng một thứ Việt ngữ cũ kỹ, vụng về pha trộn giữa Hán Việt và một thứ Việt ngữ bình dân. Nói tóm, Việt ngữ của Phan Bội Châu không phải là bất cứ một người Việt Nam hiện đại nào đọc cũng hiểu ngay được.[ 5] Sách lại viết một cách luộm thuộm, giống như thể viết xong in ngay, không đọc lại hay sửa chữa gì cả. Ngoài ra, ông lại có thái độ giáo điều, hẹp hòi, bộ phái. Tôi đặc biệt khó chịu với cái giọng điệu trịch thượng của ông. Tôi nghĩ đây là một bộ sách lỗi thời giống Nho Giáo. Nhưng sau khi đọc Fingarette và Leys, tôi trở lại đọc Khổng Học Ðăng kỹ hơn, với những thái độ khác hơn.
Trước hết, tôi nghĩ Phan Bội Châu có quyền giáo điều đến một mức độ nào đó, bởi vì ông tiếp cận Nho Giáo (mà ông gọi là Khổng Học) với tư cách của một nhà Nho chứ không phải của một học giả đứng ngoài. Nói cách khác, ông muốn người khác sống tư tưởng Khổng Học chứ không phải chỉ tìm hiểu Khổng Học trên mặt trí thức. Hơn nữa, cái thẩm quyền mà ông có là với tư cách của một học giả được kính trọng cũng như là một nhà lãnh đạo chính trị và một nhà cách mạng. Cho nên tuy rằng tiếng Việt của ông vẫn làm tôi nhức đầu và tôi vẫn khó chịu với giọng điệu trịch thượng của ông, tôi cũng nhận thấy sự tha thiết của ông. Cái ấn tượng trịch thượng mà người đọc có thể có về ông có lẽ là vì cách sử dụng Việt ngữ vụng về cộng với lòng nhiệt thành. Ðiều quan trọng nhất là, đằng sau mớ ngôn ngữ rối rắm kia, tôi nhận thấy–mặc dù tôi không nhất thiết luôn luôn đồng ý với ông– Phan Bội Châu có nhiều ý tưởng rất độc sáng.
Thứ nhất, trước cả Fingarette và Leys, Phan Bội Châu thấy được cái hiện đại tính của tư tưởng Khổng Tử cũng như tin nơi sự quan hệ của nó. Mặc dù sách của ông xuất bản trước sách của Trần Trọng Kim gần mười năm, Phan Bội Châu không hề kêu gọi người ta kính trọng Nho Giáo chỉ bởi vì vấn đề luân lý. Với tư cách là nhà Nho và học giả về Nho Giáo, ông thừa hiểu rằng luân lý là một phương diện nền tảng của Nho Giáo, nhưng ông cũng nhận thức được rằng Nho Giáo còn có nhiều cái để cung hiến chứ không phải chỉ luân lý nhất là thứ luân lý hẹp hòi bảo thủ.
Trong suốt bộ Khổng Học Ðăng, Phan Bội Châu ý thức được những cái thủ cựu lỗi thời trong truyền thống Nho Giáo. Ðó luôn luôn là mục tiêu để ông nặng nề đả kích. Theo ông đó chính là lỗi của ngụy Nho, những người hiểu sai và sử dụng sai tư tưởng của Khổng Tử. Trong khả năng và với cách diễn đạt của ông Phan Bội Châu cố trình bày cho độc giả đương đại của ông (và có lẽ cho cả chúng ta) thấy được rằng tư tưởng của Khổng Tử về con người, quốc gia và xã hội–nếu như chúng ta biết nhìn đúng quyền biến và thời tính–vẫn có thể được ứng dụng một cách hữu ích ở thời đại chúng ta. Trong cái nhìn của Phan Bội Châu thì Khổng Học không phải chỉ là một mớ luân lý địa phương bảo thủ hay một chương trình đào luyện công cụ cho một guồng máy cai trị. Khổng Học là một vũ trụ nhân sinh quan có giá trị hằng cửu. Nói tóm, bộ Khổng Học Ðăng không phải chỉ là một bộ sách tuyên truyền Nho Giáo, mà còn hàm chứa những quan điểm phê phán và đưa ra một cách nhìn mới mẻ.
“Luận Ngữ Trích Lục Diễn Giải”của Phan Bội Châu.
“Luận Ngữ Trích Lục Diễn Giải” thuộc thượng thiên của bộ sách Khổng Học Ðăng, bộ sách bao gồm hầu như tất cả các trước tác quan trọng của Phan Bội Châu về Nho Giáo.[ 6] Trung thiên gồm bản dịch và chú thích sách Ðại Học và Trung Dung . Hạ thiên dành trích giải Mạnh Tử và lược giải về tư tưởng của Tuân Tử cùng với một giải thích đại cương về Nho Giáo từ đời Hán cho đến đời Dân Quốc.
Dựa vào nội dung của bộ sách, chúng ta thấy được quan điểm đại cương về lịch sử tư tưởng Nho Giáo trong cách nhìn của Phan Bội Châu. Theo ông thì sách Luận Ngữ hàm chứa những tư tưởng căn bản, chính thống nhất của Khổng Học. Các sách Ðại Học và Trung Dung được xem là đích phái của Khổng Học. Mạnh Tử và Tuân Tử nằm trong vòng cận phái của Khổng Học, trong khi toàn thể các tư tưởng gia kể từ đời Hán cho đến Dân Quốc được xếp là viễn phái.
Cách đọc Luận Ngữ của Phan Bội Châu:
Ðiều đầu tiên đáng lưu ý là suốt cả bộ Khổng Học Ðăng, Phan Bội Châu dùng thành ngữ Khổng Học. Ông hầu như không bao giờ dùng danh xưng Nho Giáo cả. Theo những gì chúng ta hiểu được sau khi đọc sách này thì đây không phải giản dị chỉ là việc lựa chọn từ ngữ mà nó biểu lộ cả cách tiếp cận của ông đối với Nho Giáo cũng như dụng ý của ông. Thứ nhất, theo ông Luận Ngữ là sách hàm chứa tư tưởng chính thống của Khổng Tử và mục tiêu của ông là khôi phục lại tư tưởng chính thống này. Thứ hai, suốt trong phần “Luận Ngữ Trích Lục Diễn Giải” khái niệm mà Phan Bội Châu nhấn mạnh nhất chính là học.
Dụng ý của ông là gửi đến người đọc đương thời cái thông điệp rằng cái Nho Giáo bị xem là thủ cựu chịu trách nhiệm cho sự chậm tiến chỉ là cái học hủ lậu của nhà Nho sau này chứ không đại diện cho tư tưởng chính thống của Khổng Tử. Thứ đến, ông muốn người đọc nhận thức được rằng tư tưởng Khổng Tử là một thứ học thuật chứ không phải là giáo điều. Một học thuật bao gồm cả mục tiêu (nhân) lẫn con đường thực hiện mục tiêu (học). Trong hoàn cảnh chính trị xã hội đương thời, lại cũng vào lúc Nho Giáo đang bị cho là lỗi thời, dụng ý của Phan Bội Châu khi nhấn mạnh chữ học là cốt để cho người đọc thấy rằng cứu cánh của Khổng Học tuy thường hằng (nhân, thiên lý) nhưng con đường của Khổng Học (học, luân lý) thì đa diện và quyền biến chứ không thủ cựu như nhận thức thông thường.
Do đó, Phan Bội Châu đọc Luận Ngữ theo cách hiểu biết của chính mình, ông không dựa vào một học phái nào của Nho Giáo Trung Hoa. Lý do chính là vì ông không tin họ.[ 7] Ông cũng không diễn giải Luận Ngữ theo từng chương một giống như đa số các học giả trước ông ở Trung Hoa. Như chúng ta biết, Luận Ngữ là một bộ sách ghi lại một cách rời rạc những tư tưởng của Khổng Tử về một số vấn đề căn bản của Nho Giáo.
Ða số các kinh điển cổ xưa trong đó có cả Luận Ngữ thường chỉ là những ghi chép về các phát biểu trực tiếp, đột phát của các bậc thầy trong những hoàn cảnh không gian và thời gian khác nhau cho những môn đồ với những cá tính và trình độ khác nhau. Những phát biểu này không nhắm được tiêu chuẩn hóa để ứng dụng như các giáo điều. Ðúng hơn, chúng đòi hỏi sự chiêm nghiệm của chính các môn đồ cũng như nói lên sự hiểu thấu của người thầy về cá tính, tâm tư và trình độ của từng môn đồ. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là người đời sau không thể tham dự và rút tỉa ý nghĩa của các phát biểu này một cách mạch lạc hơn. Ðó chính là cách nhìn của Phan Bội Châu. Chính vì thế mà ông xắp xếp lại nội dung của Luận Ngữ thay vì là chú thích chương cú.
Phân tích nội dung “Luận Ngữ Trích Lục Diễn Giải”:
Theo cách nhìn của Phan Bội Châu thì 20 chương sách Luận Ngữ xoay quanh các đề tài mà ông bàn trong 17 chương.[ 8] So sánh với những bản dịch tiêu biểu chúng ta thấy trong đa số trường hợp cách dịch của ông chính xác. Phan Bội Châu tiếp cận Luận Ngữ với tư cách của một tín đồ thực hành Nho Giáo hơn là một nhà ngôn ngữ, nghĩa là ông không luôn luôn phân tích ngữ căn hay giải thích cách ông dịch và giải thích một số từ ngữ hay khái niệm nào đó trong các đoạn văn khó hiểu. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp, ông đặc biệt biện minh cho cách giải thích đặc thù của mình. Xin đưa ra vài ví dụ:
Khi giải thích tiết 9:1 “tử hãn ngôn lợi dữ mệnh dữ nhân”. Ðây là câu mà đa số các dịch giả hiện đại cho là khó hiểu. Phan Bội Châu phát biểu rằng tiết này các nhà chú thích hay giải sai mất nghĩa. Theo ông thì câu này có nghĩa là: “Khổng Tử không bao giờ nói chữ nhân mà lại nói cặp với chữ lợi và chữ mệnh”.[ 9]
Khi giải thích tiết 15.39: “hữu giáo vô loại”, khác với đa số các dịch giả thường hiểu là: “Ta giảng dạy không phân biệt loại người”. Phan Bội Châu giải thích rằng loài người khác nhau vì giáo hóa chứ không phải vì chủng tộc hay chủng loại và ông nối kết tiết này với tiết 17.2: “tính tương cận dã, tập tương viễn dã, duy thượng trí dữ hạ ngu bất di”.[ 10]
Một ví dụ nữa, tiết 7:20: “tử bất ngữ quái lực loạn thần”. Ða số các học giả hiểu là Khổng Tử không nói về quái, lực, loạn và thần. Phan Bội Châu cho cách giải thích này là sai. Theo ông trong câu nói này chỉ hai việc chứ không phải là bốn. Nghĩa là Khổng Tử không nói về quái lực và loạn thần.[ 11]
Tiết 7:7: “tự hành thúc tu dĩ thương, ngô vị thường vô hối yên”. Câu này thường được hiểu là “ngay cả những người chỉ mang đến cho ta một bó nem, ta cũng chưa bao giờ từ chối không chịu dạy họ”[12]. Phan Bội Châu chấp nhận rằng có bản cổ chú rằng “thúc tu” có nghĩa là bó nem,[13] nhưng theo ông xét cho kỹ thì hiểu như thế là sai lầm, vì “thánh nhân dạy người có bao giờ lại nghĩ tới bó nem đâu”.[ 14] Theo ông “thúc” có nghĩa là kiểm thúc, giữ lễ phép, “tu” có nghĩa là tu sức, tức là biết sửa chữa con người mình. Do đó, câu trên chỉ có nghĩa là một người cần có nỗ lực giữ lễ và tu sửa là có thể đáng được dạy dỗ.
Con đường và mục tiêu của Khổng Học:
Chúng ta có thể đúc kết con đường và mục tiêu của Khổng Học theo Phan Bội Châu như sau: Mục tiêu cứu cánh của Khổng Học là thành tựu cái nhân tính toàn vẹn đích thực của con người tức là nhân. Nhân có thể hiểu theo hai phương diện thể và dụng.[ 15] Người thành tựu được nhân được gọi là quân tử.[ 16] Tuy rằng nhân là chân tính của con người, nhân không tự nhiên hiển hiện mà phải được khôi phục bằng học. Do đó, nếu nhân là mục tiêu thì học là con đường. Mà muốn học thì phải lập chí.[ 17] Tuy nhiên, Khổng Học được sáng tạo ra và biểu hiện nơi Khổng Tử. Cho nên, trước khi phân tích con đường và mục tiêu của Khổng Học, chúng ta cần nhìn xem Phan Bội Châu hình dung Khổng Tử như thế nào.
Thứ Tư, Ngày 24 tháng 9-2008
Phan Bội Châu (1867 - 1940)
Kết thúc chương ngắn viết về Nho Giáo Việt Nam trong cuốn sách về Nho Giáo, xuất bản năm 1943, Trần Trọng Kim viết:
Ðến nay người mình thấy Tây học rực rỡ mà cái học của ta khi xưa mập mờ không rõ, sách vở không có mấy, liền cho cái học của ta không có gì. Ðó là một điều mà các học giả trong nước nên chú ý mà xét cho kỹ, đừng để cái hình thức bề ngoài làm hại mất cái cốt yếu bề trong. Nho Giáo tuy không gây thành được cái văn minh vật chất như Tây học, nhưng vẫn có cái đặc tính đào tạo ra được cái nhân cách, có phẩm gía tôn quí. Hãy kể một phương diện ấy, thiết tưởng cũng đủ làm cho người mình không nên bỏ Nho Giáo vậy.[ 1]
Ðoạn văn ngắn ngủi nhưng nói lên được rất nhiều điều quan hệ. Thứ nhất ông gợi lên được cái suy tàn của “cái học nước ta” trước sự rực rỡ của Tây học. Việc ông ám chỉ Nho học là “cái học của ta” nói lên được vai trò của Nho Giáo trong văn hóa Việt Nam. Ông than phiền rằng cái học của ta “mập mờ không rõ, sách vở không có mấy” là một sự thật không thể chối cãi được và là một trở ngại muôn đời cho việc nghiên cứu văn hóa sử Việt Nam nói chung chứ không riêng gì Nho Giáo.
Trong khi biện minh cho vai trò của Nho Giáo, Trần Trọng Kim nói rằng “Nho Giáo tuy không gây thành được cái văn minh vật chất như Tây học, nhưng vẫn có cái đặc tính đào tạo ra được cái nhân cách, có phẩm gía tôn quí.” Với nhận định này Trần Trọng Kim nói lên quan điểm tiêu biểu nhưng cần phải được xét lại của đa số những người trí thức Á Châu và Việt Nam: Ưu điểm duy nhất của Nho Giáo là luân lý. Nếu như người Việt Nam không nên bỏ Nho Giáo thì cũng chỉ vì Nho Giáo có giá trị luân lý thôi.
Ðây một quan điểm tai hại nhất về Nho Giáo ôm giữ bởi những người theo cũng như chống Nho Giáo. Ðối với những người theo Nho Giáo thì tuy Nho Giáo không có gì để đóng góp cho cái học vật chất (tức là khoa học kỹ thuật) nhưng lại trổi vượt về mặt luân lý. Dưới mắt những người chống Nho Giáo thì Nho Giáo không những đã làm cản trở khoa học và tiến bộ mà luân lý Nho Giáo cũng chỉ là một thứ luân lý địa phương, hẹp hòi, hủ lậu, không còn đất đứng trong thời đại nữa.
Chủ đề chính của bài viết này là đọc một cách phê phán “Luận Ngữ Trích Lục Diễn Giải” tức là phần thượng thiên của bộ sách Khổng Học Ðăng của Phan Bội Châu (1867-1940).[ 2] Tôi đọc sách của Phan Bội Châu nhiều năm trước đây, bởi vì ông là một trong các học giú- Việt Nam hiếm hoi viết về Nho Giáo. Nhưng lúc đó tôi chỉ có toàn những ấn tượng tiêu cực. Sách và con người ông bị đẩy sâu vào một góc xó đen tối của tâm thức tôi. Gần đây tôi được gợi hứng để đọc kỹ lại Phan Bội Châu là nhờ hai nhà học giả Herbert Fingarette và Simon Leys, một triết gia và một chuyên viên về Trung Hoa học.
Kinh nghiệm của tôi về việc đọc bộ Khổng Học Ðăng tương tự với kinh nghiệm của Herbert Fingarette với sách Luận Ngữ. Fingarette nói rằng khi ông mới đọc Khổng Tử, ông thấy Khổng Tử là một ông thầy dạy đạo đức bình dân địa phương, những lời dạy của Khổng Tử trong Luận Ngữ thì xưa cũ chẳng có gì hợp thời cả. Sau đó nỗ lực đọc lại kỹ hơn, ông thấy Khổng Tử là một nhà tư tưởng có cái nhìn sâu xa và nhiều sáng tạo về con người không kém bất cứ ai. Ông còn tin rằng Khổng Tử có thể là một bậc thầy cho chúng ta ngày hôm nay. Khổng Tử có nhiều cái mới mẻ để dạy, ông có những tư tưởng đi trước thời đại chúng ta.[ 3]
Trong bản dịch Luận Ngữ xuất bản gần đây, Simon Leys cũng cảm kích cái hiện đại tính của tư tưởng Khổng Tử. Leys viết rằng trái với cái hình ảnh dễ ghét về Khổng Tử được vẽ ra bởi nhiều nhà trí thức hàng đầu của Trung Hoa vào đầu thế kỷ XX, ông nhận thấy điều kỳ diệu là cách đây hai mươi lăm thế kỷ mà đôi khi Khổng Tử dường như đối trị thẳng với những vấn đề của chính thời đại và xã hội chúng ta. Nhưng Leys nhận định thêm rằng, một cách nghịch lý, có lẽ các độc giả không phải là người Trung Hoa (hay chúng ta có thể nói Á Châu) lại ở trong một vị trí thuận lợi hơn để cảm kích cái hiện đại tính của Khổng Tử. Có lẽ vì họ có cái vô tư thuần phác mà các độc giả Á Châu không có.[ 4]
Xin trở lại với Phan Bội Châu. Lần đầu đọc Khổng Học Ðăng của Phan Bội Châu, điều đầu tiên tôi nhận thấy là ông viết bằng một thứ Việt ngữ cũ kỹ, vụng về pha trộn giữa Hán Việt và một thứ Việt ngữ bình dân. Nói tóm, Việt ngữ của Phan Bội Châu không phải là bất cứ một người Việt Nam hiện đại nào đọc cũng hiểu ngay được.[ 5] Sách lại viết một cách luộm thuộm, giống như thể viết xong in ngay, không đọc lại hay sửa chữa gì cả. Ngoài ra, ông lại có thái độ giáo điều, hẹp hòi, bộ phái. Tôi đặc biệt khó chịu với cái giọng điệu trịch thượng của ông. Tôi nghĩ đây là một bộ sách lỗi thời giống Nho Giáo. Nhưng sau khi đọc Fingarette và Leys, tôi trở lại đọc Khổng Học Ðăng kỹ hơn, với những thái độ khác hơn.
Trước hết, tôi nghĩ Phan Bội Châu có quyền giáo điều đến một mức độ nào đó, bởi vì ông tiếp cận Nho Giáo (mà ông gọi là Khổng Học) với tư cách của một nhà Nho chứ không phải của một học giả đứng ngoài. Nói cách khác, ông muốn người khác sống tư tưởng Khổng Học chứ không phải chỉ tìm hiểu Khổng Học trên mặt trí thức. Hơn nữa, cái thẩm quyền mà ông có là với tư cách của một học giả được kính trọng cũng như là một nhà lãnh đạo chính trị và một nhà cách mạng. Cho nên tuy rằng tiếng Việt của ông vẫn làm tôi nhức đầu và tôi vẫn khó chịu với giọng điệu trịch thượng của ông, tôi cũng nhận thấy sự tha thiết của ông. Cái ấn tượng trịch thượng mà người đọc có thể có về ông có lẽ là vì cách sử dụng Việt ngữ vụng về cộng với lòng nhiệt thành. Ðiều quan trọng nhất là, đằng sau mớ ngôn ngữ rối rắm kia, tôi nhận thấy–mặc dù tôi không nhất thiết luôn luôn đồng ý với ông– Phan Bội Châu có nhiều ý tưởng rất độc sáng.
Thứ nhất, trước cả Fingarette và Leys, Phan Bội Châu thấy được cái hiện đại tính của tư tưởng Khổng Tử cũng như tin nơi sự quan hệ của nó. Mặc dù sách của ông xuất bản trước sách của Trần Trọng Kim gần mười năm, Phan Bội Châu không hề kêu gọi người ta kính trọng Nho Giáo chỉ bởi vì vấn đề luân lý. Với tư cách là nhà Nho và học giả về Nho Giáo, ông thừa hiểu rằng luân lý là một phương diện nền tảng của Nho Giáo, nhưng ông cũng nhận thức được rằng Nho Giáo còn có nhiều cái để cung hiến chứ không phải chỉ luân lý nhất là thứ luân lý hẹp hòi bảo thủ.
Trong suốt bộ Khổng Học Ðăng, Phan Bội Châu ý thức được những cái thủ cựu lỗi thời trong truyền thống Nho Giáo. Ðó luôn luôn là mục tiêu để ông nặng nề đả kích. Theo ông đó chính là lỗi của ngụy Nho, những người hiểu sai và sử dụng sai tư tưởng của Khổng Tử. Trong khả năng và với cách diễn đạt của ông Phan Bội Châu cố trình bày cho độc giả đương đại của ông (và có lẽ cho cả chúng ta) thấy được rằng tư tưởng của Khổng Tử về con người, quốc gia và xã hội–nếu như chúng ta biết nhìn đúng quyền biến và thời tính–vẫn có thể được ứng dụng một cách hữu ích ở thời đại chúng ta. Trong cái nhìn của Phan Bội Châu thì Khổng Học không phải chỉ là một mớ luân lý địa phương bảo thủ hay một chương trình đào luyện công cụ cho một guồng máy cai trị. Khổng Học là một vũ trụ nhân sinh quan có giá trị hằng cửu. Nói tóm, bộ Khổng Học Ðăng không phải chỉ là một bộ sách tuyên truyền Nho Giáo, mà còn hàm chứa những quan điểm phê phán và đưa ra một cách nhìn mới mẻ.
“Luận Ngữ Trích Lục Diễn Giải”của Phan Bội Châu.
“Luận Ngữ Trích Lục Diễn Giải” thuộc thượng thiên của bộ sách Khổng Học Ðăng, bộ sách bao gồm hầu như tất cả các trước tác quan trọng của Phan Bội Châu về Nho Giáo.[ 6] Trung thiên gồm bản dịch và chú thích sách Ðại Học và Trung Dung . Hạ thiên dành trích giải Mạnh Tử và lược giải về tư tưởng của Tuân Tử cùng với một giải thích đại cương về Nho Giáo từ đời Hán cho đến đời Dân Quốc.
Dựa vào nội dung của bộ sách, chúng ta thấy được quan điểm đại cương về lịch sử tư tưởng Nho Giáo trong cách nhìn của Phan Bội Châu. Theo ông thì sách Luận Ngữ hàm chứa những tư tưởng căn bản, chính thống nhất của Khổng Học. Các sách Ðại Học và Trung Dung được xem là đích phái của Khổng Học. Mạnh Tử và Tuân Tử nằm trong vòng cận phái của Khổng Học, trong khi toàn thể các tư tưởng gia kể từ đời Hán cho đến Dân Quốc được xếp là viễn phái.
Cách đọc Luận Ngữ của Phan Bội Châu:
Ðiều đầu tiên đáng lưu ý là suốt cả bộ Khổng Học Ðăng, Phan Bội Châu dùng thành ngữ Khổng Học. Ông hầu như không bao giờ dùng danh xưng Nho Giáo cả. Theo những gì chúng ta hiểu được sau khi đọc sách này thì đây không phải giản dị chỉ là việc lựa chọn từ ngữ mà nó biểu lộ cả cách tiếp cận của ông đối với Nho Giáo cũng như dụng ý của ông. Thứ nhất, theo ông Luận Ngữ là sách hàm chứa tư tưởng chính thống của Khổng Tử và mục tiêu của ông là khôi phục lại tư tưởng chính thống này. Thứ hai, suốt trong phần “Luận Ngữ Trích Lục Diễn Giải” khái niệm mà Phan Bội Châu nhấn mạnh nhất chính là học.
Dụng ý của ông là gửi đến người đọc đương thời cái thông điệp rằng cái Nho Giáo bị xem là thủ cựu chịu trách nhiệm cho sự chậm tiến chỉ là cái học hủ lậu của nhà Nho sau này chứ không đại diện cho tư tưởng chính thống của Khổng Tử. Thứ đến, ông muốn người đọc nhận thức được rằng tư tưởng Khổng Tử là một thứ học thuật chứ không phải là giáo điều. Một học thuật bao gồm cả mục tiêu (nhân) lẫn con đường thực hiện mục tiêu (học). Trong hoàn cảnh chính trị xã hội đương thời, lại cũng vào lúc Nho Giáo đang bị cho là lỗi thời, dụng ý của Phan Bội Châu khi nhấn mạnh chữ học là cốt để cho người đọc thấy rằng cứu cánh của Khổng Học tuy thường hằng (nhân, thiên lý) nhưng con đường của Khổng Học (học, luân lý) thì đa diện và quyền biến chứ không thủ cựu như nhận thức thông thường.
Do đó, Phan Bội Châu đọc Luận Ngữ theo cách hiểu biết của chính mình, ông không dựa vào một học phái nào của Nho Giáo Trung Hoa. Lý do chính là vì ông không tin họ.[ 7] Ông cũng không diễn giải Luận Ngữ theo từng chương một giống như đa số các học giả trước ông ở Trung Hoa. Như chúng ta biết, Luận Ngữ là một bộ sách ghi lại một cách rời rạc những tư tưởng của Khổng Tử về một số vấn đề căn bản của Nho Giáo.
Ða số các kinh điển cổ xưa trong đó có cả Luận Ngữ thường chỉ là những ghi chép về các phát biểu trực tiếp, đột phát của các bậc thầy trong những hoàn cảnh không gian và thời gian khác nhau cho những môn đồ với những cá tính và trình độ khác nhau. Những phát biểu này không nhắm được tiêu chuẩn hóa để ứng dụng như các giáo điều. Ðúng hơn, chúng đòi hỏi sự chiêm nghiệm của chính các môn đồ cũng như nói lên sự hiểu thấu của người thầy về cá tính, tâm tư và trình độ của từng môn đồ. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là người đời sau không thể tham dự và rút tỉa ý nghĩa của các phát biểu này một cách mạch lạc hơn. Ðó chính là cách nhìn của Phan Bội Châu. Chính vì thế mà ông xắp xếp lại nội dung của Luận Ngữ thay vì là chú thích chương cú.
Phân tích nội dung “Luận Ngữ Trích Lục Diễn Giải”:
Theo cách nhìn của Phan Bội Châu thì 20 chương sách Luận Ngữ xoay quanh các đề tài mà ông bàn trong 17 chương.[ 8] So sánh với những bản dịch tiêu biểu chúng ta thấy trong đa số trường hợp cách dịch của ông chính xác. Phan Bội Châu tiếp cận Luận Ngữ với tư cách của một tín đồ thực hành Nho Giáo hơn là một nhà ngôn ngữ, nghĩa là ông không luôn luôn phân tích ngữ căn hay giải thích cách ông dịch và giải thích một số từ ngữ hay khái niệm nào đó trong các đoạn văn khó hiểu. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp, ông đặc biệt biện minh cho cách giải thích đặc thù của mình. Xin đưa ra vài ví dụ:
Khi giải thích tiết 9:1 “tử hãn ngôn lợi dữ mệnh dữ nhân”. Ðây là câu mà đa số các dịch giả hiện đại cho là khó hiểu. Phan Bội Châu phát biểu rằng tiết này các nhà chú thích hay giải sai mất nghĩa. Theo ông thì câu này có nghĩa là: “Khổng Tử không bao giờ nói chữ nhân mà lại nói cặp với chữ lợi và chữ mệnh”.[ 9]
Khi giải thích tiết 15.39: “hữu giáo vô loại”, khác với đa số các dịch giả thường hiểu là: “Ta giảng dạy không phân biệt loại người”. Phan Bội Châu giải thích rằng loài người khác nhau vì giáo hóa chứ không phải vì chủng tộc hay chủng loại và ông nối kết tiết này với tiết 17.2: “tính tương cận dã, tập tương viễn dã, duy thượng trí dữ hạ ngu bất di”.[ 10]
Một ví dụ nữa, tiết 7:20: “tử bất ngữ quái lực loạn thần”. Ða số các học giả hiểu là Khổng Tử không nói về quái, lực, loạn và thần. Phan Bội Châu cho cách giải thích này là sai. Theo ông trong câu nói này chỉ hai việc chứ không phải là bốn. Nghĩa là Khổng Tử không nói về quái lực và loạn thần.[ 11]
Tiết 7:7: “tự hành thúc tu dĩ thương, ngô vị thường vô hối yên”. Câu này thường được hiểu là “ngay cả những người chỉ mang đến cho ta một bó nem, ta cũng chưa bao giờ từ chối không chịu dạy họ”[12]. Phan Bội Châu chấp nhận rằng có bản cổ chú rằng “thúc tu” có nghĩa là bó nem,[13] nhưng theo ông xét cho kỹ thì hiểu như thế là sai lầm, vì “thánh nhân dạy người có bao giờ lại nghĩ tới bó nem đâu”.[ 14] Theo ông “thúc” có nghĩa là kiểm thúc, giữ lễ phép, “tu” có nghĩa là tu sức, tức là biết sửa chữa con người mình. Do đó, câu trên chỉ có nghĩa là một người cần có nỗ lực giữ lễ và tu sửa là có thể đáng được dạy dỗ.
Con đường và mục tiêu của Khổng Học:
Chúng ta có thể đúc kết con đường và mục tiêu của Khổng Học theo Phan Bội Châu như sau: Mục tiêu cứu cánh của Khổng Học là thành tựu cái nhân tính toàn vẹn đích thực của con người tức là nhân. Nhân có thể hiểu theo hai phương diện thể và dụng.[ 15] Người thành tựu được nhân được gọi là quân tử.[ 16] Tuy rằng nhân là chân tính của con người, nhân không tự nhiên hiển hiện mà phải được khôi phục bằng học. Do đó, nếu nhân là mục tiêu thì học là con đường. Mà muốn học thì phải lập chí.[ 17] Tuy nhiên, Khổng Học được sáng tạo ra và biểu hiện nơi Khổng Tử. Cho nên, trước khi phân tích con đường và mục tiêu của Khổng Học, chúng ta cần nhìn xem Phan Bội Châu hình dung Khổng Tử như thế nào.