|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 15:18:10 GMT 9
Cộng sản Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa và khống chế Quần đảo Trường Sa của Việt Nam
Trương Quang AI CÓ CHỦ QUYỀN CÁC QUẦN ĐẢO HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA? Việc tranh chấp giành chủ quyền trên 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Biển Đông Việt Nam ngày một quyết liệt và có nguy cơ bùng nổ. Đã có những trận đánh nhỏ như Phi Luật Tân cho không lực đánh trả sự chiếm đóng của Trung Cộng và tháng 3 năm 1995 cộng sản Việt Nam phải đối phó với ông đồng chí Trung Cộng và cả với Đài Loan. Hiện Đài Loan đang kiểm soát đảo Itu-Aba là đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa, đảo nầy có đủ cả phi trường và hải cảng. Các chú chệch không phân quốc- cộng, đã ra thông cáo chung để xác nhận Trung Quốc có đầy đủ chủ quyền tại các quần đảo nầy. Nước Việt Nam có nhiều sách sử và địa lý từ xưa đến nay đủ chứng minh chủ quyền 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa của Việt Nam. _ Dưới thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497) đã có bộ Hồng Đức bản đồ, đến thế kỷ 17 có người họ Đỗ bá tự là Đạo Phủ đã dựa theo Hồng Đức bản đồ để soạn bộ Thiên Nam Tứ Chí lộ đồ thư toàn tập. Tác giả Đạo Phủ có ghi khá rõ về quần đảo Trường Sa với tên nôm na là Bãi Cát Vàng trong Thiên Nam Tứ Chí lộ đồ thư: "Kim hộ xã địa phận, giang lưỡng biên hữu nhị sơn, sơn các hữu kim trưởng hữu tuần. Hải trung hữu nhất Trường Sa, danh Bãi Cát Vàng, ước trường tứ bách lý, khoát nhị thập lý, trác lập hải trung. Tự Đại chiêm hải môn chí Sa-vinh môn, mỗi tây nam phong, tắc chư quốc thương bạc nội hành phiêu bạc tại thử, Đông Bắc phong ngoại hành diệc phiêu bạc tại thử, tịnh giai cơ tử. Hoá vật cáo trí kỳ xứ, Nguyễn thị mỗi niên quí đông nguyệt trì thuyền thập bát chích, lai thử thủ hoá đa đắc kim ngân tiền tệ súng đạn đẳng vật. Tự đại chiêm môn việt hải chí thử nhất nhật bán, tự sa kỳ môn chí thử bán nhật. Kỳ trường sa xứ diệc hữu đại mội”. _ Dịch nghĩa: Ở địa phận xã Kim Hộ, 2 bên bờ sông có 2 núi, mỗi núi đều có mõ vàng, cơ sở tuần sát. Ở ngoài giữa biển có một dãi cát dài gọi là Bãi Cát Vàng, dài khoảng 400 dặm, rộng 20 dặm, đột khởi lên giữa biển khơi. Từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh, mỗi khi có gió Tây Nam, thuyền buôn các nước chạy ở biển trong thường trôi dạt lại đấy. Khi có gió Đông Bắc thì các thuyền buôn chạy ở biển ngoài cũng trôi vào đấy, tất cả đều bị chết đói. Hằng năm vào cuối Đông, chúa Nguyễn sai 18 thuyền ra đấy thu nhặt hàng hoá, thu được nhiều vàng bạc, tiền tệ và súng đạn. Thuyền từ cửa Đại Chiêm ra đến đấy mất một ngày rưỡi, thuyền từ cửa Sa Kỳ ra mất nữa ngày. Nơi bãi cát vàng nầy còn có cả đồi mồi. _ Trong bộ Phủ biên tạp lục của Lê Quí Đôn (1726-1784) có viết về đảo Hoàng Sa, có quân trú phòng, có nguồn lợi tại chỗ giống như ngày nay: "Tiền Nguyễn thị trí Hoàng Sa đội thất thập suất, dĩ An vĩnh nhân sung chí, luân phiên mỗi dĩ chính nguyệt thu thị hành sai tê lục nguyệt lương, giá tư tiểu điếu thuyền ngã chích xuất dương tam nhật tam dạ chí thử đảo cư trú, tứ tình thái thủ bổ ngư điểu vi thực. Sớ đắc tài vật mã kiếm, ngân hoa, ngân tiền, ngân hoàn, đồng khí, tích khối, ô duyên, súng khẩu, tượng nha, hoàng lạp, chiên cụ, từ khí giữ thái đại mội giáp, hải sâm, văn hoá phả đa. Dĩ bát nguyệt kỳ hồi nhập Yên môn tựu Phú xuân thành đầu nạp. Bình nghiệm định hạng vật thỉ hứa tư mại van hoa, hải ba, hải sâm, chư vật lĩnh bằng phản hồi. Kỳ sở đắc đa thiểu bất định, diệc hữu không hành giả". Dịch nghĩa: Ngày xưa Chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất, chọn người xã An Vĩnh sung vào. Hằng năm họ thay phiên nhau,cứ đến tháng giêng đều nhận lệnh sai đi, được phát lương đủ ăn trong 6 tháng. Họ dùng năm chiếc thuyền nhỏ, vượt biển mất 3 ngày đêm mới tới nơi. Ra đến ngoài hải đảo, họ tha hồ bắt chim ca mà ăn. Họ lấy được những vật như gươm và ngựa đúc bằng đồng, ngà voi, sáp ong, đồ chiên, đồ sứ...và lượm vỏ đồi mồi, hải sâm, ốc hoa vân rất nhiều. Đến kỳ tháng tám thì đội nầy trở về, vào lối cửa Eo đến thành Phú Xuân để nộp các hoá vật. Sau khi xét định và cân các hoá vật xong, mới cho phép bán làm của riêng những thứ ốc vân, hải ba, hải sâm rồi cấp giấy phép cho về nhà. Các hoá vật thu lượm được hoặc ít hoặc nhiều cũng không nhất định, có khi trở về người không”. _ Thế kỷ 18 có sách Hoàng Việt Địa Dư Chí do tác giả Phan Huy Chú (1782-1840) có một bản đồ nước Việt Nam dưới tên Đại Nam Nhất Thống bản đồ, có ghi quần đảo Trường Sa với tên đầy đủ là "Vạn Lý Trường Sa". _ Cuối thế kỷ 19, có bộ Đại Nam Nhất Thống Chí (do Quốc Sử Quán đời Tự Đức biên soạn được cao Xuân Dục hiệu đính), bộ Đại Nam thực lực chính biên và nhiều sách chữ nho khác đều có ghi Hoàng Sa đảo thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Trường Sa quần đảo thuộc tỉnh Phan Thiết. Các vua Gia Long và Minh Mạng đã sai quan ra cai quản, dựng miếu và dựng bia tại Hoàng Sa và Trường Sa, nay vẫn còn dấu vết bia và miếu ấy. _ Dưới thời Pháp thuộc nhà cầm quyền Pháp Việt kiểm soát và quản trị 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa: Năm 1920, Sở Thương Chánh Đông Dương đã phái tàu chiến đi tuần tiểu quanh vùng Hoàng Sa để bắt bọn buôn lậu và ngăn chặn hải tặc. Năm 1925, Hải Học Viện Nha Trang đã đưa một đoàn chuyên viên ra nghiên cứu hai hòn đảo nầy. Ngày 15-6-1932, Phủ Toàn Quyền Pháp ở Đông Dương đã ký nghị định thành lập tại Hoàng Sa một đại lý hành chánh (Délégation administratif des Paracels). Về phía Nam Triều, ngày 20-3-1933, vua Bảo Đại ban hành dụ số 10 qui định quần đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên. ( Theo tài liệu Phùng Ngọc Sa). Căn cứ vào tài liệu của Việt Nam thì đã nhiều, ngay đến sách báo cũ của ngoại quốc cũng nói rõ chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Việt Nam. _ Tạp chí Jouranl De Batavia của Hoà Lan ấn hành năm 1635 có ghi rõ 1 chiếc thương thuyền của công ty Đông Aán gặp bão đánh chìm gần đảo Paracels (Hoàng Sa), 2 chiếc kia thoát nạn đến được Đài Loan. Thuyền trưởng Huijich Jansen và một số thuỷ thủ sống sót dùng thuyền nhỏ bơi vào bờ thuộc xứ Đàng Trong, rồi hai năm sau người Hoà Lan đến Faifo (Hội An), lần ra Thuận Hoá yết kiến Thượng Vương Nguyễn Phúc Lan, từ đó bắt đầu có cuộc giao thương điếm tại nước Việt nam ở thế kỷ 17. _ Về phía người Pháp, tài liệu quá đầy đủ. Trong quyển Mémoire Sur La Cochinchine của Jean Baptiste Chaigneau (1769-1852) và bộ Univers, Histoire et description de tous les Peules in năm 1833 có đoạn ghi rõ quần đảo Paracels mà người ta gọi là "Cát Vàng" (Hoàng Sa) gồm nhiều đảo san hô chằng chịt, là thuộc quyền sở cai quản của xứ Đàng Trong Việt Nam, chính vua Gia Long đã thân chinh vượt biển để tiếp quản quần đảo nầy. + QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA: Được ghi tên Spratley archipelago trên bản đồ thế giới, người Trung Hoa gọi là Nam Sa, đương là nơi tranh giành chủ quyền của các nước quanh vùng như Phi Luật Tân, Indonesia, Đài Loan, nhất là Việt Nam và Trung Cộng. Trung Cộng chỉ lý luận mơ hồ rằng tổ tiên họ đã đến vùng biển có 33 hòn đảo nhỏ gọi là Nam Sa. Theo công ước quốc tế qui định: “Hải Đảo thuộc chủ quyền của các nước nào ở gần với hải đảo ấy nhất”. Vậy Trường Sa ở phía Đông tỉnh Phan Thiết (Việt Nam) 280 hải lý, cách hải đảo Hải Nam (đảo cực nam của Trung Quốc) 580 hải lý, cách Đài Loan 900 hải lý, cách Phi Luật Tân 310 hải lý. Chỉ xét riêng về vị trí thì Trường Sa hoàn toàn thuộc Việt Nam. Quần đảo Trường Sa chạy dài hơn 10 hải lý ở biển Đông Việt Nam, gồm chín hòn đảo lớn là: đảo Trường Sa (Spratley Island), đảo An Bang (Amboyna Cay), đảo Sinh Tồn (Sin Cowe), đảo Nam Ai (Nam Yit), đảo Thái Bình (Itu-Aba), đảo Loai Ta, đảo Thi Tứ, đảo Sông Tử Tây (South West Cay), và sông Tử Đông (North West Cay). Tất cả những hải lộ quan trọng về thương mại và chiến thuật từ Mã Lai, Singapore, Indonesia qua Nhật Bản, Hồng Kông, Hoa Nam, Việt Nam đều đi ngang Trường Sa. Dưới thời Pháp thuộc, người Pháp đã đưa ra Trường Sa những đoàn khảo sát địa chất và cắm cờ chủ quyền từ các năm 1927, 1930. Đến năm 1933, người Pháp phái ba chiếc tàu Alerte, Astrobale và De Lanessan đến xem xét đo đạc từng mỗi hòn đảo trong quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. ngày 21-7-1933, toàn quyền Đông Dương là Pierre Pasquier ban hành nghị định sáp nhập một quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa, Nam Việt. Văn kiện đầy đủ về chủ quyền Việt Nam trên lãnh hải và quần đảo Trường Sa đã đăng trên công báo Đông Dương ngày 25-9-1933 nơi trang 7784. Năm 1935, Nha Khí Tượng Đông Dương đã thiết lập một đài khí tượng tại đảo Itu-Aba để quan sát thời tiết vùng duyên hải biển Việt Nam. Trong hoà hội quốc tế họp tại San Francisco (USA), thủ tướng Trần Văn Hữu, trưởng phái đoàn Việt Nam long trọng tuyên bố bằng Pháp Ngữ: "Et comme il fant Franchement profiter de toutes occasions pour étouffer les germes de discorde, nous affirmousnos droits sur les iles Spratley et Paracels qui de tout temps out fait partie du Việt Nam" (= và cũng vì thành thật lợi dụng mọi cơ hội ngõ hầu dặp tắt những mầm móng tranh chấp về sau, chúng tôi tuyên bố chủ quyền của chúng tôi tại các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, những nơi nầy bất cứ ở thời nào cũng là lãnh thổ của Việt Nam). Sau đó một ngày, trong hoà hội quốc tế nầy, chính quyền Nhật Bản đã xác nhận: "Nhật Bản từ bỏ mọi chủ quyền về danh nghĩa lẫn yêu sách tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa". Năm 1956, sau khi quân đội Pháp đã triệt thoái về nước, chính phủ Việt Nam đã ra nhiều văn kiện xác nhận chủ quyền nước Việt Nam trên Trường Sa và Hoàng Sa. _ Ngày 22-10-1956, tổng thống VNCH ban hành sắc lệnh 143-NV thay đổi địa giới và danh xưng các tỉnh và đô thành Sài Gòn, theo đó Bà Rịa, Vũng Tàu và Trường Sa thuộc tỉnh mới là Phước Tuy, tỉnh lị là Phước Lễ. _ Ngày 13-7-1961, tổng thống Ngô Đình Diệm ban hành sắc lệnh 174-NV ấn định: “Quần đảo Hoàng Sa trước kia thuộc tỉnh Thừa Thiên, nay đặt thuộc tỉnh Quảng Nam. Một đơn vị hành chánh xã gồm trọn quần đảo lấy tên là Xã Định Hải, trực thuộc Hoà Vang. Xã Định Hải đặt dưới quyền một phái viên hành chính".
|
|
|
Post by Huu Le on Sept 19, 2007 15:18:31 GMT 9
_ Ngày 6-9-1973, Tổng Trưởng Nội Vụ VNCH ký nghị định “sát nhập quần đảo Trường Sa vào xã Phước Hải, quận Đất Đỏ, tỉnh Phước Tuy. _ Năm 1973, một đơn vị quân lực VNCH đã đến đồn trú phòng vệ quần đảo Trường Sa. + VỀ THỀM LỤC ĐỊA: Hội nghị quốc tế Stocklhom đã định nghĩa như sau: “Thềm lục địa là phần đất nằm dưới mặt nước biển, nối từ bờ biển quốc gia trãi dài cho tới lúc có độ sâu 200 fathom (1 fathom = 1mét 820)". Vậy, nhìn về địa chất học, 2 quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa đều nằm trong thềm lục địa Việt Nam, không nơi nào có độ sâu đến 200 fathom theo công pháp quốc tế qui định. VIỆT CỘNG NHƯỢNG HOÀNG SA VÀ LÃNH HẢI VIỆT NAM CHO TRUNG CỘNG: Trung Cộng đã gởi đến các nước trong vùng Đông Nam Á nằm quanh biển Đông Hải VN bản đồ chủ quyền lãnh hải của họ bao gồm cả biển Đông, sát đến bờ biển các quốc nằm quanh biển nầy. Ngày 4-9-1958, Trung Cộng ra tuyên bố chỉ đọc trên hệ thống truyền thanh Trung Cộng, đăng trên báo mà không có bản đồ dính kèm. Bởi không có bản đồ nên tuyên bố lãnh hải cách bờ 12 hải lý là bình thường, đúng với công pháp quốc tế nên thế giới không chú ý. Bản tuyên bố nầy đã gởi đến nhiều nước như Nhật Bản, Phi Luật Tân, Malaysia, Brunei, Đài Loan, Nam Bắc Hàn, Việt Nam Cộng Hoà và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà (tức Việt Cộng). Chỉ có hai nước là Bắc Hàn và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà công nhận. Trong văn thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng nước VNDCCH gởi cho tổng lý quốc vụ viện (tức thủ tướng) Chu Aân Lai nước cộng hoà nhân dân Trung Hoa ngày 14-9-1958 có đoạn như sau: “Chính phủ VNDCCH tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với CHNDTH trên mặt biển". Chính quyền Việt cộng khi nhận tuyên cáo về lãnh hải 12 hải lý có bản đồ đính kèm bao gồm các đảo Hoàng Sa (TC gọi là Tây Sa) và quần đảo Trường Sa (TC gọi là Nam Sa). Như vậy, nếu tính lãnh hải 12 hải lý tính từ các đảo nầy thì lãnh hải Trung Quốc ở biển Đông Hải VN sẽ là: _ Phía Tây sẽ sát tới bờ biển suốt cả Miền Trung và Bắc Việt Nam. _ Phía Đông sát tới lục địa Phi Luật Tân, Brunei. _ Phía Nam sát tới Indonesia, Mã Lai. Phạm văn Đồng công nhận tuyên cáo của Trung Cộng là đã ký nhường biển Việt Nam và các quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Cộng. Tội bán nước muôn đời không rửa sạch. TRUNG CỘNG ĐÁNH CHIẾM HOÀNG SA VÀ TRẬN HẢI CHIẾN BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA VNCH: Phải kể từ năm 1972, tổng thống Nixon sang thăm Hoa Lục, bắt tay Mao Xếng-Xáng, tiếp theo cuộc “ngoại giao bóng bàn" và Kissinger làm con thoi chính trị qua lại giữa Hoa Thịnh Đốn –Bắc Kinh – Paris – Sài Gòn để thực hiện Việt Nam hoá chiến tranh cho Hoa Kỳ phủi tay rút quân về. Món quà đầu tiên cho sự liên kết Trung Cộng- Hoa Kỳ là quần đảo Hoàng Sa, một vùng chiến lược quan trọng để Trung Cộng thay thế Hoa Kỳ trong việc kiểm soát cả vùng trời và vùng biển phía Đông VN loại trừ mọi sự tiếp trợ của Nga Sô cho Hà Nội. Bởi vậy, khi Trung Cộng đánh chiếm Hoàng Sa thì hạm đội 7 của Mỹ túc trực tại Biển Đông VN để giúp VNCH, đã ngoảnh mặt làm ngơ cho TC được tự do hành động. Đầu năm 1974, hạm đội Trung Cộng bao vây và khiêu khích lực lượng VNCH bảo vệ hải đảo Hoàng Sa. Bỗng chiến hạm Trung Cộng bắn hoả tiển trúng chiến hạm HQ 10 của ta. Khi soái hạm ta bị nạn nhưng vẫn quyết liệt dùng đại bác 155 ly tác xạ vào tàu địch gây thiệt hại cho 6 tàu chiến Trung Cộng như bầy chó sói ẩn núp từ các đảo xông ra. HQ 10 là chiến hạm cũ, xoay trở chậm vẫn quyết tử chiến với hạm đội Trung Cộng có trang bị hoả tiển loại nhỏ nhẹ, thuận lợi hơn khi giao tranh. Trên tháp tàu chỉ huy, hạm trưởng ngã xuống, hạm phó thay thế lại bị trọng thương, lần lượt các sĩ quan thay nhau làm nhiệm vụ chỉ huy chiến đấu. Hải quân VNCH đã đánh trả tới viên đạn cuối cùng, hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ lãnh hải của tổ quốc. HQ10 lâm nạn, nhiều chiến hạm liên tiếp cứu ứng, trung tá Phạm Văn Thà không chịu rời tàu, cùng chết theo tàu và những chiến sĩ hải quân đã được mai táng trong hầm tàu đóng kín. Những chiến sĩ bị thương được cứu vớt từ phao cấp cứu, sau mấy ngày lênh đênh trên biển, nhiều người bị từng tốp cá mập săn đuổi theo vết máu cắn nát thân người, kể cả thiếu tá hạm phó. Trước khi trận chiến Hoàng Sa kết thúc, HẢI KÍCH VNCH đã xâm nhập Hoàng Sa trong đêm tối, đánh đổi hai chiến sĩ hải kích để tiêu diệt trọn một trung đội quân Trung Cộng. Sau lần thả ngoạn mục nầy, Quân Lực VNCH chưa kịp có thì giờ tái chiếm Hoàng Sa thì cuộc chiến chấm dứt một cách tệ hại vào ngày 30-4-75. Việt cộng đã bán đứng Hoàng Sa cho Trung Cộng, họ đã rước đoàn bóng bàn Trung Cộng ngay sau khi trận Hoàng Sa kết thúc như một chào mừng chiến thắng. "Cõng rắn cắn gà nhà, rước voi dày mã tổ", Việt cộng không đường nào chối cãi trước lịch sử. TRANH CHẤP QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA, TRUNG CỘNG KHỐNG CHẾ LÃNH HẢI VIỆT NAM (bản đồ 2): Hiện nay, quần đảo Trường Sa có quân đội các nước Phi Luật Tân, Malaysia, Đài Loan, Trung Cộng và Việt Nam. Quân đội nhân dân của CHXHCNVN trú đóng trên nhiều hòn đảo nhất và thường xuyên bị hải quân Trung Cộng bắn phá, lý do là Phạm Văn Đồng đã ký giao vùng biển bao la nầy cho Trung Cộng do văn thư 14-9-1958. Chính vì lẽ ấy, nên Trung Cộng không chịu thương thuyết với Việt Nam về Trường Sa, họ chỉ chịu thương thảo song phương (bilateral discussion) với từng nước Phi Luật Tân, Malaysia riêng rẻ. Họ không chịu thương thuyết đa phương (multilateral discussion) vì muốn cướp trọn, bởi từng nước nhỏ yếu phải chịu lép vế, không cho người bị cướp đoàn kết để gây sức chống đối mạnh hơn. Tất cả văn kiện của tiền nhân ta, nhất là của VNCH đều xác định chủ quyền toàn vẹn lãnh hải và lãnh thổ ngoài khơi nầy. Có điều nghịch lý là chính quyền CHXHCNVN đã đặt văn kiện của VNCH ra ngoài vòng pháp lý thì chính họ lại căn cứ vào những văn kiện rất vững chắc của VNCH trong việc tranh chấp về Trường Sa hôm nay. Mặc dù hiện nay Hà Nội được thừa hưởng di sản của VNCH để lại là chiếm đóng được nhiều đảo với diện tích lớn rộng hơn tất cả các nước chiếm đóng tại Trường Sa cộng lại, nhưng 50% vùng dầu hoả và khí đốt dưới đáy biển lại nằm trong hải phận EEZ của Malaysia. Đối với Trung Cộng, Hà Nội lâm vào thế "mở miệng mắc quai", đó là cái hàm thiếc của dây cương ngựa do Phạm Văn Đồng đặt vào năm 1958, chấp nhận cái lưỡi rồng của Thiên Triều liếm trọn các quần đảo và lảnh hải giữa vùng Đông Nam Á. Trong bài "Việt Nam distances itself from Spratley islands report" của tờ Lateline News ngày 15-2-2001 thì Hà Nội đã tránh né trách nhiệm khi tờ Sài Gòn Giải Phóng (một đại nhật báo của CSVN, tương tự như tờ Nhân Dân Hà Nội) có đăng bài tiết lộ rằng "các viên chức cao cấp của Đảng và quân đội đã họp kín để thảo luận việc thành lập đơn vị quản trị hành chánh riêng và đặt kế hoạch bảo vệ chủ quyền VN trên quần đảo Trường Sa". Bài báo của tờ SGGP đã chạm phải phản ứng nhạy bén từ phía Trung Cộng: Phát ngôn viên Bộ Ngoại Giao Trung Cộng Dư Bằng Giao đã cảnh cáo: "Trung Quốc có chủ quyền toàn vẹn bất khả tranh chấp đối với quần đảo Nansha (tức Trường Sa) và toàn vùng lãnh hải liên hệ. Bất cứ quốc gia nào có hoạt động gì trên đảo nầy đều xâm phạm chủ quyền Trung Quốc, đều bất hợp pháp và vô giá trị”. Để đáp lại lời tuyên bố của Dư Bằng Giao, bà Phan Thuý Thanh (phát ngôn viên bộ ngoại giao CSVN) đã giải thích rất gượng gạo: "Đó chỉ là một tờ báo thành phố" (only a city newspaper) vì lo sợ mất lòng quan thầy vĩ đại! Bà Phan Thuý Thanh đã nhiều lần né tránh các câu hỏi của nhiều ký giả về việc nhà nước CHXHCNVN minh định như thế nào về chủ quyền trên quần đảo Trường Sa? Bà chỉ nói quanh co rằng: "Theo tài liệu của VNCH thời trước thì quần đảo nầy được xem là một phần của tỉnh Khánh Hoà". Xem thế đủ biết, quốc dân Việt Nam không còn hy vọng nào ở Đảng CSVN giữ gìn chủ quyền của tổ quốc trên quần đảo Trường Sa đã do Phạm Văn Đồng ký nhượng cho Chu Aân Lai ngày 14-9-1958. Ký giả David Jenkins đã nhận định rõ nét: "Lãnh hải Trung Hoa trông giống như cái lưỡi khổng lồ, chạy xa tới 1200 hải lý về phía Nam, bao lấy 2 quần đảo chiến lược là Hoàng Sa và Trường Sa...Đối với những quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam và Malaysia thì đây là cái lưỡi của con rồng Trung Hoa, một sự hăm doạ biểu lộ khuynh hướng bành trướng lãnh thổ của người Trung Hoa". Không một người Việt Nam nào, dù ở trong hay ngoài nước chẳng công phẩn với bọn đầu sỏ Việt cộng cam tâm cắt lìa lãnh thổ và lãnh hải nộp cống cho Trung Cộng nhiều lần trong 25 năm qua. Nếu giới lãnh đạo CSVN còn chút lương tâm thì họ nên từ chức vì những tội lỗi ấy, để người dân Việt còn có cơ hội đòi lại chủ quyền trên mặt biển và đất liền đã bị cắt nhượng. Bằng như cọc biên giới vẫn cứ cắm lại, Hoàng Sa vẫn bị chiếm. Lãnh hải Trường Sa vẫn bị khống chế thì ngày dân tộc Việt Nam vùng dậy lật nhào guồng máy cộng sản VN không còn xa. Connecticut, đầu năm 2002-02-04 Trương Quang
|
|
|
Post by Huu Le on Oct 13, 2007 9:08:43 GMT 9
Hồi Ký - Yểm Trợ Trận Chiến Hoàng Sa Nguyễn Văn Sáng -------------------------------------------------------------------------------- Ngày 17 tháng 4 năm 1974, chiến hạm Vĩnh Long HQ-802 (LST) của chúng tôi bỗng sôi động hẳn lên với lệnh rời vùng trách nhiệm Trường Sa để tiến về quần đảo Hoàng Sa. Có tin đồn Trung Cộng sắp tấn công tấn chiếm quần đảo Hoàng Sa, và Hải Ðội III Ðặc Nhiệm trực thuộc Hạm Ðội chuẩn bị nghênh chiến. Chiến hạm chúng tôi được điều động đi yểm trợ tiếp vận vì đã được thực tập trong lực lượng đặc nhiệm Hải Ðội III năm 1973, vừa là 1 tàu với nhiều máy móc kỹ thuật. Phản ảnh sự sôi động của tình hình bây giờ, người ta còn nghe mọi thủy thủ trên tàu trong câu chuyện thường nhật lại nói chêm thêm dăm ba câu tiếng tàu vào các câu đùa cợt trong suốt hải trình ra vùng Hoàng Sa. Ðời quân đội là thế, thằm chút khôi hài trong cái cực nhọc để tìm chút vui tươi. Cá nhân tôi, vừa được đi du tập qua các quốc gia Á Châu trong vùng trách nhiệm của Ðệ Thất Hạm Ðội Hoa Kỳ về lại Hạm Ðội VN, nhận thấy quá rõ ràng thái độ mới của chính trường Hoa Kỳ và sự bấp bênh của chính quyền Nixon, lòng tôi âu lo về sự xuất hiện của loài cá mập này càng làm gia tăng gánh nặng cho HQVN. Như vậy, thật bất ngờ, trận hải chiến Hoàng Sa sắp thành sự thật. Nhiệm vụ của Hải Ðội đặc nhiệm được thành lập từ năm 1973 nhằm đối phó với vấn đề đặt quân trú phòng trên lãnh hải Hoàng Sa và Trường Sa, song song với việc thăm dò tài nguyên thiên nhiên dầu hỏa thuộc về chủ quyền VN. Hải Ðội đặc nhiệm được chỉ huy bởi HQ Ðại Tá Hà Văn Ngạc (Khóa 5), cũng là Chỉ Huy Trưởng Hải Ðội 3 (Hải Ðội Tuần Dương), thuộc BTL Hạm Ðội. Thành phần của Hải Ðội đặc nhiệm cùng thao dượt mùa hè 1973 gồm có: CXH HQ-802 (Hạm Trưởng HQ Trung Tá Vũ Quốc Công) là soái hạm, CXH HQ-801 (có chở theo các Sinh Viên Sĩ Quan thuộc Trung Tâm Huấn Luyện HQ Nha Trang), Khu Trục Hạm HQ-4 (DER) và 3 Tuần Dương Hạm (WHEC). Ngoài ra còn được tăng phái 1 số hạm trưởng thâm niên để thực tập các công tác tiếp vận quy mô ngoài khơi. Trước đó khoảng 3 tháng, bỗng dưng Bắc Kinh lên tiếng tuyên bố chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa. Ngoại trưởng VNCH ông Vũ Văn Bắc liền lên tiếng bác bỏ và cực lực lên án ý đồ xâm lăng này của Trung Cộng. Ngày 16-1-1974 Trung Cộng mang 2 chiến hạm số 402 và 407 cùng nhiều ngư thuyền vũ trang đổ bộ lên đảo Cam Tuyền, một đảo thuộc quần đảo Hoàng Sa. Ngày 17-1-1974, Khu Trục Hạm HQ-4 đến Hoàng Sa gây áp lực buộc lức lượng Trung Cộng rút khỏi 2 đảo Cam Tuyền và Vĩnh Lạc. Tuy nhiên, chiến hạm của Trung Cộng vẫn lảng vảng trong vùng. Chiều lại, tin báo cáo cho biết có thêm 2 chiến hạm săn tàu ngầm loại Kronstad của Trung Cộng được tăng cường. Nhận thấy tình hình nghiêm trọng, Bộ Tư Lệnh HQ Vùng 1 Duyên Hải ban hành lệnh hành quân Hoàng Sa 1 nhằm chiếm lại các đảo Cam Tuyền, Quang Hòa, Duy Mộng và Vĩnh Lạc. Ðồng thời, tăng cường thêm Tuần Duyên Hạm HQ-5 (Cruiser) và Hộ Tống Hạm HQ-10 (Escort) vào vùng chiến cùng với Khu Trục Hạm HQ-4 (Destroyer) và Tuần Duyên Hạm HQ-16 (Cruiser). Tăng cường thêm có Toán Hải Kích SEAL điều động bởi HQ Ðại Úy Nguyễn Minh Cảnh (Khóa 20), và toán Biệt Hải điều động bởi HQ Trung Úy Lê Văn Dũng (Khóa 20), 1 Trung Ðội Ðịa Phương Quân đang trú phòng tại đảo chính, đảo Hoàng Sa, và 1 phái đoàn công binh của Quân Ðoàn 1 (do Thiếu Tá Hồng chỉ huy) tăng viện để xây cất một phi đạo trên đảo Hoàng Sa. Lực lượng HQ Trung Cộng có 11 chiến hạm và ghe thuyền (gồm các tàu Khinh Tốc Ðỉnh Komar với hỏa tiễn hải-hải, Vớt Mìn, Trục Lôi Hạm và Hộ Tống Hạm), tổng số binh sĩ Trung Cộng hiện diện không rõ. Chiến hạm chúng tôi, HQ-802, hai máy tiến full vận chuyển với tốc độ nhanh đến vùng 1 Duyên Hải ngày 18-1-1974 để nhận lệnh. Trên đường đi Hạm Trưởng HQ Trung Tá Vũ Quốc Công ra lệnh hạm phó, Thiếu Tá Thái, chỉ huy bắn thử các trọng pháo để thao dượt tác xạ. Mỗi phát đại bác bắn đi, tàu chúng tôi rung chuyển khắp thân của khối sắt nỗi, hầu hết thủy thủ đoàn đều lên boong tàu lúc thao dượt tác xạ. Chúng tôi chỉ biết HQ-5 đã tiến ra Hoàng Sa với toán SEAL, HQ-4 mang theo toán Biệt Hải, và HQ-16 đang có mặt ngoài khơi Hoàng Sa. Dĩ nhiên là mọi thủy thủ đều quan tâm đến những diễn tiến đầy kinh ngạc này. Ðang bận đương đầu với chiến cuộc với CSVN mà HQVN tham dự bằng yểm trợ hỏa pháo từ mặt biển, nay nghe tin HQ Trung Cộng sử dụng chiến hạm với tốc độ nhanh trang bị hỏa tiễn vượt trội hơn hỏa lực HQVN, ai cũng lo ngại về sự bất cân bằng của trận hải chiến. Trước đó khoảng 1 năm, CXH Vĩnh Long HQ-802 được lệnh đi thao dượt tập đội tại ngoài khơi Trường Sa, theo các tin tức là 2 quần đảo Trường và Hoàng Sa có thể có các mỏ dầu quan trọng. Từ đó chúng tôi rời đất liền với những công tác dài hạn kéo dài vài ba tháng lênh đênh chỉ thấy những nước và sóng biển, thèm khát mặt đất, cây cối, nhà cửa và những tà áo dài. Hải đảo Trường Sa buổi chiều các hải âu bay về hòn đảo nhỏ với số lượng đông đảo làm đen cả bầu trời và tiếng kêu chíu chít nhộn nhịp của bầy chim có thể nói kinh khủng như phim “Birds” của vua kinh dị Hitchkok. Ai muốn bắt bao nhiêu chim và lấy bao nhiêu trứng chim hải âu này đều được cả. Chỉ cần lấy xoong, giỏ ra mà xúc bắt vì chúng nhiều vô số. Các sinh vật dưới biển nhiều con thật lạ lùng, các anh Ðịa Phương Quân ăn phải cá biển độc bị sưng phù và nhiễm bệnh nhiều đến nỗi chúng tôi phải chở thêm y sĩ ra trị bệnh. Có buổi chiều tàu bỏ neo, tôi đứng gần anh hạ sĩ Ðương đang thả mồi câu cá. Mồi nhấp nhấp rung dưới nước, hạ sĩ Ðương giật lên 1 con cá khá lớn. Anh vừa kéo cá lên khỏi mặt nước khoảng 1 mét, bỗng từ dưới nước nổi lên 1 con cá mập phóng ngang qua táp mất con cá của hạ sĩ Ðương, cắn đứt luôn cả dây câu, và biến vào lòng biển. Mọi người chúng tôi đều nhìn nhau kêu “Ồ” một tiếng. Từ hôm ấy, chúng tôi không rủ nhau nhảy xuống biển vùng ấy để bơi lội khi trời nóng bức, điều mà chúng tôi vẫn thường làm mấy hôm trước. Cả hai vùng biển Trường và Hoàng Sa đều nổi tiếng là có nhiều đá ngầm tức là các đỉnh núi của những núi chìm với chân núi sâu một hai ngàn thước, ví như các bãi chông dễ thọc lũng các tàu bè. Các tàu khi mắc đá ngầm bị bể nát cả thân, chỉ nỗi lềnh bềnh phần trên trở thành xác khô phơi thân cùng sương gió. Ngày còn phục vụ trên HQ-800 tàu chúng tôi cũng đã trợ giúp kéo tàu Trường Xuân của Vishipcoline khi tàu này bị mắc cạn ở Trường Sa. Có trải qua cái khổ tâm đó thì mới hiểu cái kinh dị của hai vùng biển này. Sáng sớm ngày 19-1-74, trong khi tàu chúng tôi được lệnh bỏ neo ngoài khơi, quá Ðà Nẵng ngang hòn Tri Tôn, Hạm trưởng Công ra lệnh 2 toán đặc biệt trang bị vũ khí và áo phao có cả 2 binh sĩ người nhái trực thuộc HQ-802 hạ xuồng chuẩn bị ứng chiến. Tuy nhiên, lệnh từ Bộ Tư Lệnh Vùng 1 vẫn giữ chúng tôi trong tình trạng chờ để yểm trợ. Cùng lúc ấy, tại quần đảo Hoàng Sa, toán Hải Kích SEAL (Người Nhái) của HQVN được lênh đổ quân lên đảo Quang Hòa do Trung Cộng chiếm cứ. Quân Trung Cộng nổ súng khiến cho 2 người nhái VN chết (Hạ Sĩ Long “sandwich”, và HQ Trung Úy Ðơn). Toán Hải Kích rút về chiến hạm HQ-5 lúc 9:30 sáng. Trận hải chiến ngay sau đó bắt đầu lúc 10:00 sáng. Tôi được biết chiến hạm 2 phía dàn hình đối mặt, HQ Việt Nam ở vòng ngoài tiến về hướng Ðông Nam vào, Trung Cộng vây quanh đảo Quang Hòa, hướng về phía Ðông Bắc nghênh chiến. Sĩ quan chỉ huy chiến thuật (HQ Ðại Tá Ngạc) ra lịnh khai hỏa, tác xạ trực tiếp vào tàu địch. HQ Trung Cộng phản công. Trận hải chiến diễn ra với tổn thất hai bên như sau: - VNCH: HQ-10 bị chìm tại trận. HQ-16 bị hư hại nặng, (phòng máy bị trúng đạn nhưng còn hải hành được). HQ-5 và HQ-4 bị hư hại nhẹ. Gần 50 binh sĩ bị tử thương, kể cả hạm trưởng HQ Thiếu Tá Ngụy Văn Thà của HQ-10 cùng chết theo tàu. - Trung Cộng: Chiếc Kronstad 271 (soái hạm ) bị chìm. Ba chiến hạm tham chiến còn lại bi hư hại nặng và trung bình. Con số tử vong và bị thương không rõ. Chúng tôi nóng lòng theo dõi các diễn tiến của trận hải chiến và rất đau lòng trước cái chết của một số đàn anh và các chiến hữu mà chúng tôi đã gặp từ Hải Ðội 3 Duyên Phòng (Vũng Tàu). . . Một lần nữa cái đau xót xưa lại trở về, kẻ thù Phương Bắc lại dày xéo mãnh giang sơn mà cha ông chúng ta đã lập nên. Sau trận Hoàng Sa, Trung Cộng lập tức huy động một lực lượng hùng hậu kết hợp Hải-Lục-Không Quân với gồm cả 42 chiến hạm và 2 tiềm thủy đĩnh tấn công đổ bộ bao vây tấn chiếm đảo chánh Hoàng Sa và các đảo kế cận, bắt giữ tất cả binh sĩ VN trên các đảo giải về Trung Cộng. Sáng ngày 20-1-74, hai chiến hạm HQ-4 và HQ-5 về lại Ðà Nẵng cập bến an toàn gặp lại HQ-16 đã về đó trước, tất cả các chiến hạm đều bị trúng đạn. Chiến hạm chúng tôi sau đó được lệnh trở về Vũng Tàu. Sau này khi tàu về đến Vũng Tàu, tôi thấp thỏm mong tin về các bạn SQ cùng khóa tham dự trong trận đánh đó là HQ Ðại Úy Nguyễn Minh Cảnh (Người Nhái) và nhất là HQ Trung Úy Lê Văn Dũng (Biệt Hải) bị HQ Trung Cộng tiến chiếm đảo Hoàng Sa bắt mang về Trung Cộng, cùng với các Ðịa Phương Quân và toán Công Binh. Khi thoáng thấy HQ-471 do HQ Ð/Úy Hoàng Thế Dân (Khóa 20) làm Hạm Phó lù lù xuất hiện về lại cửa biển Vũng Tàu từ vùng chiến Hoàng Sa, chúng tôi đã lên máy truyền tin và vì quá mong đợi tin an nguy lẫn nhau đã liên lạc trực tiếp bằng bạch văn về tin tức của trận hải chiến, bất chấp các lệnh mã hóa truyền tin. Trong hải sử cận đại mà các cuộc hải chiến xảy ra rất hiếm hoi, biến cố Hoàng Sa là trận hải chiến đã hâm nóng lại mối thù sâu xa với kẻ thù Phương Bắc, mà liên tục qua nhiều thế kỷ đã tìm cách xâm chiếm và xâm phạm chủ quyền nước Việt Nam, như một anh láng giềng ngoan cố tệ hại nhất. Trận hải chiến Hoàng Sa đã để lại tâm khảm tôi một số ưu tư dằn vặt mà qua thời gian tôi vẫn không thể nào khuây. Chúng ta không thể nào quên được ý đồ xâm chiếm của kẻ thù Phương Bắc. Kém may mắn thay, đi kèm với hành động xâm lăng ấy là một thái độ trở cờ của chính trường HK, hậu quả của lỗi lầm về chánh trị của Tổng Thống Nixon trong vụ Watergate. Nước VN đã bị cô lập và bị từ khước các chọn lựa bằng giải pháp ngoại giao, để rồi phải chọn hình thức hi sinh, chiến đấu trong vô vọng, liều chết để bảo tồn danh dự trước kẻ thù mạnh hơn mình về quân sự. Tuy nhiên có lẽ niềm đau day dứt nhất vẫn là cái chết đáng thương của các chiến sĩ Hải Kích kiêu hùng mà quân chủng Hải Quân đã phải tốn bao nhiêu công sức để đào tạo. Họ được lệnh đổ bộ lên đảo trước các mũi súng địch đang gờm chờ sẵn trong hàng phòng thủ, mà không hề được hải pháo dọn bãi yểm trợ. Rồi nghĩ lại hoàn cảnh HQ-10 trong tình trạng bán khiển dụng (tàu có 2 máy chánh nhưng một đã bị hư), mà vẫn được lệnh tham chiến để rồi bị trúng đạn chìm vào lòng biển cả. Người lính VN đã phải trực diện với bao phi lý của thời cuộc như thế chỉ để nối tiếp các thế hệ đàn anh viết lên những trang sử đỏ thẳm bằng máu của chính họ. Xin đốt một nén hương lòng cho các anh hùng Hoàng Sa và mượn lời thơ của Nguyệt Trinh để ghi khắc công trạng ấy và cầu mong cái chết của họ không trở thành vô nghĩa: Sóng biển chiều nay cuồn cuộn quá Còn đây uy dũng pháo Hoàng Sa Vành khăn tang trắng đầu con trẻ Kinh buồn vĩnh biệt tiếng cười cha Nguyễn Văn Sáng
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 3, 2008 19:33:53 GMT 9
Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh: Lực Lượng Xung Kích Quân Ðoàn 3 Tác giả: Vương Hồng Anh Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh là đơn vị Thiết Giáp nồng cốt và là đơn vị khung của Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3. Lực Lượng này do Đại Tướng Đỗ Cao Trí thành lập giao cho tôi tổ chức huấn luyện và chỉ huy từ tháng 11 năm 1970 dể phục vụ chiến trường Cam Bốt. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 là một lực Lượng liên binh gồm nhiều binh chủng hợp đồng chiến dấu trên chiến trường. Lúc cao điểm, quân số và khả năng tác chiến của lực lượng này tương đương với một sư đoàn cơ giới. Đây là một lực lượng cơ động cao, hỏa lực mạnh, thuộc Quân Đoàn 3, khi thì can thiệp vàạ khu vực hành quân của Sư Đoàn 25 Bộ Binh, khi thì tác chiến trạng khu vực hành quân của Sư Đoàn 18 Bộ Binh. Trong Vùng 3 Chiến Thuật, chỗ nào "nặng" là có mặt Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3. Thời Đại Tướng Đỗ Cao Trí là tư lệnh Quân Ðoàn 3 kiêm tư lệnh Vùng 3 Chiến Thuật, đây là lực lượng chủ lực của Quân Đoàn, luôn luôn chủ động và thường xuyên hoạt dộng trên chiến trường ngoại biên Cam Bốt. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 đã từng quần thảo nhiều với các Công Trường 5, 7 và 9 của Cộng Sản Bắc Việt ở Peang Cheang, Chup, Chlong, Dambe, Krek, Snoul, Đức Huệ, An Điền, và Rạch Bắp. Lực lượng Xung Kích Quân Ðoàn 3 đã từng cứu Chiến Đoàn 5 Biệt Động Quân của Đại Tá Đương ở Chlong và Dambe hồi tháng 2 và 3 năm 1971 khi rút ra Quốc Lộ 7. Sau đó, lại tiếp cứu Chiến Đoàn 8 ở Snoul rút về Lộc Ninh vào tháng 6 năm 1971. Và rồi giải vây cho Tiểu Đoàn 30 Biệt Ðộng Quân của Thiếu Tá Võ Mộng Thùy ở căn cứ Alpha trên mặt trận Krek tháng 11 năm 71. Cuối năm 1971, tôi rời Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh. Trong hai năm từ 1972 đến 1973 tôi đi du học. Không bao lâu, Trung Tướng Nguyễn Văn Minh, Tư Lệnh Quân Đoàn 3 giải tán lữ đoàn này, đồng thời ông cũng giải tán Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3. Khi trận An Lộc ở tỉnh Bình Long bùng nổ dữ dội vào mùa Hè 1972, lực Lượng Thiết Giáp của Quân Ðoàn 3 hoàn toàn bị tê liệt. Khi tôi trở về nước, Trung Tướng Phạm Quốc Thuần thay Trung Tướng Nguyễn Văn Minh yêu cầu tôi trở về lại Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh. Ngày 7 tháng 11/1973 tôi tiếp nhận lữ đoàn và đề nghị với Tướng Thuần tổ chức lại Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 theo mô hình tổ chức của Tướng Đỗ Cao Trí. Tướng Thuần cho tôi toàn quyền hành dộng. Tôi gom Thiết Giáp lại. Bấy giờ mình đã có chiến xa M-48. Tôi thay đổi tổ chức, mỗi chi đội có 3 chiến xa M-48, vừa nhẹ nhàng, vừa linh hoạt và hữu hiệu hơn một chi đội 5 chiến xa. Mỗi chi đoàn 11 chiến xa M-48 thì bây giờ được tái tổ chức với 4 chi đoàn với 44 chiếc và 3 xe chỉ huy. Một thiết đoàn chiến xa M-48 thì được tổ chức theo quân đội Mỹ sẽ gồm 54 chiếc. Vì vậy tôi có dư ra 7 chiến xa M-48 làm dự trữ. Tôi cho cơ động hóa Tiểu Ðoàn 61 Pháo Binh với các khẩu đại bác 105 ly, thuộc Quân Đoàn 3 bằng cách dùng xe xích M-548 (xe chở đạn thiết giáp) cho quân cụ biến cải để chở đại bác 105 ly. Ðồng thời huấn luyện pháo thủ cách vận chuyển và hạ súng tác xạ. Được tăng phái Liên Đoàn 33 Biệt Ðộng Quân, Tiểu Đoàn 46 Pháo Binh với các đại bác 155 ly, Tiểu Đoàn 61 Pháo Binh (105 ly) và Tiểu Đoàn 302 Công Binh, tôi tái tổ chức Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 trở thành 3 chiến đoàn Thiết Giáp. Lực lượng ngày gồm có Chiến Đoàn 315, Chiến Đoàn 318 và Chiến Đoàn 322. Các Chiến Đoàn đều có tổ chức giống nhau. Sau khi kiện toàn tổ chức, huấn luyện chiến đấu hợp đồng binh chủng, học tập chính trị và giáo dục tư tưởng, tôi báo cáo lên Tư Lệnh Quân Đoàn 3 là chúng tôi đã sẵn sàng. Ngày 2 tháng 4/1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 lại xuất quân, bất thần tiến vào vùng liên ranh Củ Chi-Trảng Bàng, đánh giải tỏa áp lực dịch chung quanh đồn Bò Cạp ở phía Bắc Củ Chi và đồn Chà Rày thuộc Chi Khu Trảng Bàng. Chiến Đoàn 315 đập tan Tiểu Ðoàn Tây Sơn của Việt Cộng (họ thuộc Trung Đoàn 101 địa phương). Cuối tháng 4/1974, Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 đánh bại hoàn toàn Công Trường 5 Cộng Sản Bắc Việt, giải vây cứu Tiểu Ðoàn 83 Biệt Ðộng Quân Biên Phòng ở Căn Cứ Đức Huệ. Ngoài ra, lực lượng xung kích còn yểm trợ cho Sư Đoàn 5 Bộ Binh phản công chiếm lại An Điền, Căn Cứ 82 và Rạch Bắp tháng trong tháng 7 và 8 của năm 1974. Hình chụp một đơn vị bộ-chiến VNCH trở về sau chiến dịch hành quân tại Snuol, Cam Bốt, năm 1971. Quân Ðoàn 3 có một lực lượng liên-binh gồm các đơn vị từ nhiều binh chủng. Vào lúc cao điểm của cuộc chiến, lực lượng này có quân số tương đương với một sư đoàn cơ-giới. Nhiều lần lực lượng này đã từng giao tranh với các đại đơn vị Việt Cộng như Công Trường 5, 7, và 9 tại Peang Cheang, Chup, Dambe, Krek, Snoul, Ðức Huệ, An Ðiền, và Rạch Bắp. (HÌNH ẢNH: VNCTLS sưu tầm) Tại mặt trận phía Bắc tỉnh Bình Dương, lực lượng xung kích tiêu diệt Bộ Chỉ Huy Tiểu Ðoàn Phú Lợi vào tháng 2/1975. Rồi tham gia hành quân ở các chiến trận Gò Dầu Hạ, Dầu Tiếng, Khiêm Hạnh vào tháng 3 năm 1975 để yểm trợ cho Sư Ðoàn 25 Bộ Binh tấn công lên phía Bắc Tây Ninh. Và đặc biệt từ ngày 11 tháng 4/1975 đến ngày 25 tháng 4/1975, trong 14 ngày đêm, chính lực lượng xung kích này đã chận đứng mũi tấn công của 1 quân đoàn Cộng Sản Bắc Việt ở Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây và đánh giải vây tiếp cứu Chiến Đoàn 52 Bộ Binh. 5 NGÀY CUỐI CÙNG CỦA CUỘC CHIẾN Tình hình vào hạ tuần tháng 4/1975 biến chuyển dồn dập. Áp lực Cộng Sản ở mặt trận phía Đông ngày càng nặng. Tôi được Quân Đoàn tăng cường Trung Đoàn 8 của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh do Trung Tá Nguyễn Bá Mạnh Hùng chỉ huy. Lực Lượng địch và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 giằng co dữ dội trên tuyến Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây. Lúc đó, Không Quân VNCH thả hai trái bom Daisy Cutter gây thiệt hại nặng cho quân Bắc Việt. Ở Saigạn có âm mưu lật đổ Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, tôi được móc nối đảo chánh nhưng cương quyết từ chối và tuyên bố chống lại. Phi trường Biên Hòa dóng cửa. Ngày 20 tháng 4/1975 Sư Ðoàn 18 Bộ Binh của Tướng Lê Minh Đảo rút bỏ Xuân Lộc về Long Bình. Ngày 21 tháng 4/1975, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức. Ngay ngày hôm sau, tại mặt trận, tôi viết thư cho Trung Tướng Charles Times, Phụ Tá Đại Sứ Martin ở Saigon, đại ý nói: "Thưa Trung Tướng, trong khi tôi đang ngăn chận các sư đoàn Cộng Sản ở đây thì cũng là lúc Quốc Hội Hoa Kỳ đang thảo luận có nên tiếp tục viện trợ thêm cho Quân Lực VNCH không. Tình hình gần như tuyệt vọng. Tôi nghĩ rằng cho dù ngay bây giờ Quốc Hội Hoa Kỳ có chấp thuận viện trợ cho quân đội chúng tôi đi nữa thì cũng đã quá muộn rồi. Tuy nhiên tôi và toàn thể quân nhân các cấp thuộc quyền tôi nguyện sẽ chiến đấu đến phút cuối cùng. Tôi chỉ xin trung tướng giúp cho gia đình tôi được di tản dến một nơi an toàn..." Sau khi Sư Ðoàn 18 Bộ Binh được nghỉ 5 ngày bổ sung quân số và dưỡng quân, ngày 25 tháng 4/1975, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 điều động đơn vị này lên mặt trận Trảng Bom-Hưng Lộc-Ngã Ba Dầu Giây để thay thế Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3, lúc ấy được lệnh rút về Biên Hòa dưỡng quân. Trung Đoàn 9 của Sư Ðoàn 5 Bộ Binh thì được hoàn trả về hậu cứ ở Lai Khê. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 trở thành lực Lượng trừ bị cho Quân Đoàn. Về tới Biên Hòa chưa kịp nghỉ ngơi, ngay chiều ngày 25 tháng 4/1975, có tin lực lượng địch đang tiến ra hướng Quốc Lộ 15. Có lệnh Quân Đoàn, tôi liền phái Chiến Đoàn 322 tăng cường một tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy tấn công theo hướng Ngã Ba Lạng Thành-Trường Thiết Giáp. Chiến đoàn vừa rời Quốc Lộ 15 tiến về hướng trường Thiết Giáp, thì chạm địch nặng và giao trang dữ dội với chúng đến khuya, bắn cháy 12 chiến xa T-54 và buộc chúng phải rút vào bên trong. Ngày 29 tháng 4/1975 có lệnh mới của Quân Đoàn. Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 được tăng phái thêm Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến, Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù và Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù. Yểm trợ hỏa lực trực tiếp gồm có Tiểu Đoàn 46 và Tiểu Ðoàn 61 Pháo Binh. Mười hai giờ trưa ngày 29 tháng 4/1975, Trung Tướng Toàn triệu tập một phiên họp khẩn cấp tại Long Bình. Chỉ có tướng Toàn, Đảo và tôi. Tướng Toàn chỉ tay lên bản đồ ra lệnh cho Sư Ðoàn 18 của tướng Đảo phòng thủ khu vực Long Bình và kiểm soát xa lộ Biên Hòa. Kế đó ông ra lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 của tôi phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa và đặt lực Lượng Ðịa Phương Quân và Nghĩa Quân của Tiểu Khu Biên Hòa dưới quyền kiểm soát của tôi. Sau này bị bắt vào trại cải tạo, tôi mới biết ngay lúc này phía bên khu vực Sư Ðoàn 25 Bộ Binh ở Củ Chi đã bị Việt Cộng chiếm. Sư Ðoàn 25 tan rã và Tướng Lý Tòng Bá bị địch bắt. Tướng Nguyễn Văn Toàn đã giấu tôi và Lê Minh Đảo tin xấu này. Ông chuẩn bị sắp xếp để bỏ trốn. Vừa nhận nhiệm vụ xong, tôi chợt thấy xuất Ðại Tá Hiếu (Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 43 thuộc Sư Ðoàn 18 Bộ Binh) với giọng rung rung xúc động. Hiếu báo cáo: "Quân địch đang tấn công Trảng Bom và Trung Đoàn 43 đang rút quân về hướng Long Bình." Mặt cau lại, Toàn nổi giận la Hiếu bắt Hiếu phải đem quân trở lại vị trí cũ. Hiếu làm như tuân lệnh, chào và lui ra. Trong thâm tâm tôi, tôi biết là mặt trận phía Đông Biên Hòa ở Trảng Bom của Sư Ðoàn 18 khó có thể cầm cự nổi vì họ đã bị kiệt sức sau trận đánh lớn ở Xuân Lộc và đã không được bổ sung. Sự sụp đổ chỉ là vấn đề thời gian. Giao nhiệm vụ cho tôi và Đảo xong, Toàn đứng dậy bắt tay hai chúng tôi và nói: "Hai anh cố gắng, tôi sẽ bay về Bộ Tổng Tham Mưu xin yểm trợ cho hai anh." Trở về Bộ Tư Lệnh Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3, tôi liền họp các vị sĩ quan lữ đoàn trưởng, liên đoàn trưởng, chiến đoàn trưởng và các đơn vị yểm trợ. Trước hết, tôi ban hành lệnh thiết quân luật ở Biên Hòa kể từ 15 giờ 00 ngày 29 tháng 4/1975, chỉ thị cho các đơn vị Địa Phương Quân và Nghĩa Quân chung quanh thị xa Biên Hòa bố trí tại chỗ, ở đâu thì đóng ở đó, không được rời vị trí, không được di chuyển. Cảnh sát Biên Hòa chịu trách nhiệm an ninh bên trong thành phố. Triệt để thi hành nguyên tắc nội bất xuất, ngoại bất nhập. Để phòng thủ bảo vệ thành phố Biên Hòa. Tôi phối trí Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 như sau: Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù bố trí trong phi trường Biên Hòa, giữ mặt Bắc Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3. Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến: Một tiểu đoàn bảo vệ Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3, một lữ đoàn bố trí phòng thủ mặt Nam của Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn. Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù: Tổ chức phân tán thành nhiều tiểu đội chiến đấu nhỏ, giữ Cầu Mới và Cầu Sắt Biên Hòa, đặt các nút chận trên đường xâm nhập vào thành phố. Chiến Đoàn 315: Bố trí án ngữ từ ngã tư Lò Than đến ngã tư Lò Than (gần trại Ngô Văn Sáng). Chiến Đoàn 322: Bố trí án ngữ từ Ngã Tư Lò Than đến cổng phi trường Biên Hòa. Chiến Đoàn 318: Bố trí án ngữ từ cổng phi trường Biên Hòa đến Cầu Mới Biên Hòa. Pháo Binh: Kế hoạch yểm trợ hỏa lực. Bộ Tư Lệnh Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh được đặt tại tư dinh Tư Lệnh Quân Đoàn 3. Vào khoảng 15 giờ 00 ngày 29 tháng 4/1975, tôi đang ăn cơm trưa với Bộ Tham Mưu trong tư dinh tư lệnh Quân Đoàn, thình lình chiếc trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn đáp xuống bãi đáp trong vườn hoa tư dinh bên cạnh chiếc trực thăng chỉ huy của tôi. Thiếu Tá Cơ, phi công, chào tôi và báo cáo cho tôi biết. Sau khi rời Long Bình, Cơ đưa Toàn và bộ hạ ra Vũng Tàu. Nơi đó anh thấy có các Tướng Lam và Hiệp chờ Tướng Toàn, rồi cả 3 người cùng đi bằng tàu dánh cá ra Hạm Đội Mỹ ở ngoài khơi. Tin Toàn bỏ trốn không làm tôi ngạc nhiên. Anh Cơ xin được ở lại làm việc với tôi. Tôi đồng ý vì đơn vị trực thăng của anh giờ này không còn ở Biên Hòa nữa. Lúc 17 giờ 00 ngày 29-4-75, tôi dùng xe Jeep có hộ tống đi một vòng quan sát tình hình trong và chung quanh thành phố Biên Hòa. Tình hình chung có vẻ yên tĩnh, dân chúng không ra đường, phố xá đóng cửa. Vào khoảng 18 giờ 00, quân cộng sản bắt dầu xâm nhập vào mặt Bắc và Đông Bắc thành phố từ hướng phi trường, đụng độ với lính Biệt Cách Dù và Thủy Quân Lục Chiến. Cuộc giao tranh bắt dầu, một cánh quân Biệt Động Quân của Chiến Đoàn 315 cũng chạm súng với địch ở gần trại Ngô Văn Sang. Địch bám sát vào tuyến phòng thủ mặt Bắc và Đông Bắc của quân ta. Hai bên bám sát trận địa nằm cách nhau từ 10 đến 15 mét. Cho dến giờ phút này, các binh sĩ Việt Nam Cộng Hòa vẫn chiến đấu vững vàng và tự tin. Không có tình trạng bỏ ngũ. Dưới sự yểm trợ mạnh mẽ của hỏa lực Thiết Giáp, quân ta đẩy lui địch ra xa tuyến phòng thủ. Lúc 20 giờ 00 tôi gọi trại Phù Đổng ở Saigon. Nơi đây là Bộ Chỉ Huy Thiết Giáp và là nơi Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3 vừa đặt bản doanh. Có trả lời nhưng không một ai có thẩm quyền để nhận báo cáo của tôi hoặc liên lạc với tôi. Tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, không liên lạc được. Tôi nóng lòng chờ lệnh của Saigon. Tôi tự hỏi Đại Tướng Dương Văn Minh, tân Tổng Thống, Tổng Tư Lệnh Quân Đội có giải pháp gì không? Có lệnh gì mới cho chúng tôi không? Đến 22 giờ 10 có chuông điện thoại reo. Trung Tướng Nguyễn Hữu Có gọi tôi ở đầu giây: "Tôi là Trung Tướng Có đây. Tôi dang ở bên cạnh Đại Tướng, anh cho chúng tôi biết tình hình ở Biên Hòa như thế nào?" "Thưa Trung Tướng, tôi giữ thị xa Biên Hòa, Đảo giữ Long Bình, Toàn đã bỏ chạy, phi trường Biên Hòa địch chiếm, áp lực địch rất nặng ở hướng Bắc và Đông Biên Hòa."
|
|
|
Post by Huu Le on Jan 3, 2008 19:34:17 GMT 9
Một, hai, rồi ba phút trôi qua, ở dầu giây, Tướng Có nói tiếp: "Đại Tướng hỏi anh có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai để Đại Tướng nói chuyện với bên kia được không?" Tôi trả lời không do dự, "Được, tôi có thể giữ vững Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng mai." Trong máy điện thoại, tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Tướng Có báo cáo lại với Đại Tướng Minh. Cuối cùng Tướng Có nói: "Lệnh của Đại Tướng cho anh: Chỉ huy phòng thủ bảo vệ Biên Hòa đến 08 giờ 00 sáng ngày 30 tháng 4/1975. Chúc anh thành công." Tôi lập tức nhận lệnh.
Vào khoảng 23 giờ 45 khuya, địch bắt đầu pháo dữ dội vào thị xã Biên Hòa. Chúng tập trung một lực lượng hỗn hợp gồm bộ đội và chiến xa ở cấp trung đoàn. Lực lượng này từ Ngã Ba Hố Nai-Xa Lộ tấn công về hướng Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn 3. Chiến Đoàn 315 của Trung Tá Đỗ Đức Thảo xông ra chận địch. Hỏa lực chiến xa M-48 của ta áp đảo địch. Giao tranh quyết liệt. Một số chiến xa địch bị bắn cháy. Địch quân rút lui.
Lúc 02 giờ 00 sáng ngày 30 tháng 4/1975, Tướng Lê Minh Đảo gọi tôi ở dầu máy PRC-25: "Báo cho anh hay, tôi đã bị quân địch tràn ngập, Long Bình đã bị chúng chiếm." Tôi liền hỏi: "Anh hiện giờ ở đâu? Có cần gì ở tôi không?" Đảo đáp: "Tôi hiện ở gần Nghĩa Trang Quân Đội, đang rút về hướng Thủ Đức." Tôi cảm thấy đau buồn và tội nghiệp Đảo vô cùng. Những năm cuối cùng của cuộc chiến, tôi và Đảo rất vất vả. Hai chúng tôi có mặt ở khắp các mặt trận, với Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 của tôi là lực lượng cơ dộng số một, và Sư Ðoàn 18 Bộ Binh của Đảo là lực lượng cơ động số 2 của Quân Đoàn. Sau này ở trong tù, bọn cán bộ Cộng Sản rất để ý đến hai chúng tôi vì đã gây cho chúng rất nhiều tổn thất nghiêm trọng và chúng coi hai chúng tôi là hai tên chống Cộng điên cuồng nhất.
Vào khoảng 03 giờ 30 sáng, quân Bắc Việt lại pháo kích Biên Hòa. Lần này chúng pháo rất mạnh và chính xác. Tôi đoán chúng định tấn công dứt diểm Biên Hòa sau khi đã chiếm được Long Bình. Tôi chuẩn bị tung cả 3 chiến đoàn Thiết Giáp vào trận đánh quyết định. Nhưng thật bất ngờ, chúng vừa xuất hiện với một đoàn chiến xa dẫn đầu với bộ đội theo sau, thì liền bị Chiến Đoàn 315 đánh chận đầu và bọc sườn. Quân Bắc Việt bèn rút chạy ngược ra xa lộ. Kể từ dó, thị xã Biên Hòa trở nên yên tĩnh.
Đúng 08 giờ 00 sáng ngày 30 tháng 4/1975, tôi cố gắng gọi về Bộ Tổng Tham Mưu để liên lạc với Trung Tướng Nguyễn Hữu Có nhưng không được. Tôi liền họp các lữ đoàn trưởng, liên đoàn trưởng, chiến đoàn trưởng và các đơn vị trưởng yểm trợ. Chúng tôi trao đổi tin tức và thảo luận tình hình ở mặt trận, tình hình trạng thành phố Biên Hòa. Áp lực địch bên ngoài không còn nữa. Chung quanh bên ngạài thị xã, chỉ có hoạt động lẻ tẻ của du kích. Bên trong thành phố vắng vẻ. Đặc biệt đêm qua, tôi có cho tăng cường canh giữ nhà giam Biên Hòa. Không có tình trạng dân chúng xuống dường hô hào ủng hộ Cộng Sản. Tôi vui mừng khi thấy tinh thần của chiến sĩ trong quân đội rất tốt, không có tình trạng đào ngũ. Tuyệt nhiên cũng không có tình trạng hỗn loạn trong thành phố. Các sĩ quan thi hành quân lệnh nghiêm chỉnh.
Lúc 08 giờ 30 ngày 30 tháng 4/1975, tôi kết luận buổi họp: "Biên Hòa không còn là mục tiêu tấn công của địch nữa. Tôi nghĩ rằng giờ này các lực lượng chủ lực Cộng Sản Bắc Việt đang tập trung tấn công Saigon. Rõ ràng chúng bỏ Biên Hòa, dồn lực lượng đánh vào thủ đô. Chúng ta mất liên lạc với Bộ Tổng Tham Mưu. Bây giờ tôi quyết dịnh kéo toàn bộ Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 về tiếp cứu Saigon." Tất cả các đơn vị trưởng ủng hộ quyết định này của tôi.
Tôi liền ban hành lệnh hành quân và điều động Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 tiến về Saigon theo kế hoạch sau đây: Lấy dường xe lửa Biên Hòa-Saigon và xa lộ Đại Hàn làm hai trục tiến quân chính.
Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù và Lữ Đoàn 4 Nhảy Dù (-1 Tiểu Đoàn) do Đại Tá Phan Văn Huấn chỉ huy: Tiến bên phải đường sắt hướng Saigon. Đến ngạại ô phía Bắc Saigon, bố trí bên phải đường sắt, chờ lệnh.
Lữ Đoàn 2 Thủy Quân Lục Chiến do Trung Tá Liên chỉ huy: Tiến bên trái đường sắt hướng về Saigon. Đến ngoại ô phía Bắc Saigon, dừng lại, bố trí bên trái đường sắt, chờ lệnh.
Lữ Đoàn 3 Kỵ Binh cùng Liên Đoàn 33 Biệt Động Quân: Bố trí yểm trợ quân Biệt Cách Dù, Nhảy Dù, và Thủy Quân Lục Chiến khi họ rời vị trí phòng thủ, rút an toàn qua Câu Mới Biên Hòa trước. Sau đó, lấy xa lộ Đại Hàn làm trục chính, tiến về Saigon theo thứ tự như sau: Chiến Đoàn 315 do Trung Tá Đỗ Đức Thảo chỉ huy sẽ đi trước, đến ngoại ô Bắc Saigon, bố trí bên này cầu Bình Triệu, chờ lệnh. Chiến Đoàn 322 do Trung Tá Nguyễn Văn Liên chỉ huy sẽ đi sau. Chiến Ðoàn 315, đến ngoại ô Bắc Saigạn, bố trí phía sau Chiến Ðoàn 315, chờ lệnh.
Chiến Đoàn 318 do Trung Tá Nguyễn Đức Dương chỉ huy sẽ đi sau cùng, đến Saigon, bố trí sau Bộ Tư Lệnh và đơn vị yểm trợ để chờ lệnh. Trước khi lên trực thăng chỉ huy, tôi duyệt đoàn quân lần cuối. Quân ta từ từ rời thành phố Biên Hòa trong vòng trật tự, trang phục chỉnh tề, tác phong nghiêm chỉnh, không hề nao núng, giống y như những lần hành quân trước đây khi còn Đại Tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy xông trận trên chiến trường Cam Bốt. Lúc này là 09 giờ 00 ngày 30 tháng 4/1975. Tôi lên trực thăng chỉ huy của Tướng Toàn dạ Thiếu Tá Cơ lái. Chiếc trực thăng chỉ huy thứ hai bay theo sau. Tôi cho trực thăng bay lượn trên thành phố Biên Hòa, quan sát thấy tình hình bên dưới vẫn yên tĩnh. Các cánh quân ta vẫn tiến đều đặn về hướng Saigon. Những ổ kháng cự, những chốt của địch dọc trên trục tiến quân của ta bị đè bẹp hoặc bị nhổ nhanh chóng. Tôi dang suy nghĩ và lo lắng. Tôi lo vì không liên lạc được với Saigon, khi quân ta về đến nơi, sợ quân bạn ở Biệt Khu Thủ Đô bắn lầm. Tôi đang miên man suy nghĩ cách đối phó thì dột nhiên Thiếu Tá Cơ hỏi tôi: "Thiếu Tướng có muốn ra đi không? Tôi sẽ đưa Thiếu Tướng đi." Tôi liền hỏi lại: "Còn anh thì sao?" Thiếu Tá Cơ đáp, "Khi dưa Thiếu Tướng đi xong, tôi sẽ trở về, tôi sẽ ở lại với Biên Hòa." Tôi đáp, "Cám ơn anh, tôi cũng ở lại với anh em. Tôi đã quyết định việc này từ lâu rồi."
Chúng tôi bay về hướng Gò Vấp, tôi biểu Cơ lấy cao độ. Xa xa phía dưới, tôi thấy những đoàn quân xa chở đầy quân, những chiến xa, những pháo kéo của quân Cộng Sản Bắc Việt như những con rắn dài trên xa lộ Biên Hòa và trên Quốc Lộ 13 tiến vô Saigon. Hai trực thăng của chúng tôi đáp xuống trại Phủ Đổng. Tôi vội đi vào văn phòng tìm sĩ quan trực. Tôi thấy các nhân viên văn phòng chạy qua lại nhớn nhác. Tôi không gặp một ai có thẩm quyền, chỉ có một trung úy mang huy hiệu Quân Đoàn 3. Tôi nói tôi muốn sử dụng điện thoại để liên lạc với Bộ Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô báo cho họ biết gấp các cánh quân của tôi sắp về tới cửa ngõ Bắc Saigon để tránh bắn lầm nhau. Tôi gọi nhiều lần, gọi một cách tuyệt vọng, không có ai ở dầu máy trả lời. Rồi tôi gọi Trung Tâm Hành Quân Bộ Tổng Tham Mưu, cũng không liên lạc được. Lúc bấy giờ tôi nghe nhiều loạt dạn pháo binh địch nổ ở hướng sân bay Tân Sơn Nhất. Giờ này, các cánh quân Thiết Giáp của tôi cũng vừa đến Bình Triệu gần khu nhà thờ Fatima.
Trong khi tôi đang lúng túng với việc liên lạc cùng Biệt Khu Thủ Ðô và Bộ Tổng Tham Mưu, thì thình lình tôi nghe lời kêu gọi ngưng chiến đấu của Tổng Thống Dương Văn Minh phát ra từ một máy thu thanh đâu đấy. Tôi nhìn đồng hồ tay: 10 giờ 25 phút.
Thế là hết. Kể từ giờ phút này, tôi tự chấm dứt quyền chỉ huy của mình và xem nhiệm vụ của Lữ Ðoàn 3 Kỵ Binh và Lực Lượng Xung Kích Quân Đoàn 3 đến đây là kết thúc. Tôi để cho các đơn vị tự dộng buông vũ khí theo lệnh Tổng Thống. Tôi không có gì để nói thêm, chỉ thầm cám ơn tất cả các chiến hữu đã cùng tôi chiến đấu đến phút cuối cùng của cuộc chiến, và đã cùng tôi giữ tròn khí tiết của người chiến sĩ đối với quân đội và tổ quốc.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 11, 2008 14:46:17 GMT 9
Những phi vụ Bắc phạt của KQVNCH Trần Đình Giao * Thân tặng: - Những anh em Kiểm Báo đã làm việc với tôi tại TRUNG TÂM KIỂM BÁO 41 PANAMA CONTROL trong những năm 1964-1965 và 1969 tại Đà Nẵng. * Đồng kính tặng: - Đại Tá Dương Thiệu Hùng, cựu Tư Lệnh KĐ 41, người đã hướng dẫn 6 phi tuần khu trục A1H oanh kích những vị trí quân cộng sản Bắc việt tại Đồng Hới ngày 28-2-1965, bị phòng không địch bắn trúng nhưng đã can đảm lái tầu về tới ngoài khơi vịnh Đà Nẵng, nhảy dù an toàn và được cứu cấp đưa về căn cứ. - Tưởng niệm anh hùng phi công, cố Trung Tá Phạm Phú Quốc, Tư Lệnh KĐ 23CT, đã anh dũng đền nợ nước trong phi vụ oanh tạc căn cứ quân cộng sản Bắc việt tại Hà Tĩnh ngày 19-4-1965. VÀI HÀNG VỀ TRUNG TÂM KIỂM BÁO PANAMA: TTKB Panama tọa lạc trên đỉnh núi Sơn Chà cao hơn 2,500 bộ trên bán đảo Tiên Sa trong vịnh Đà Nẵng. Phía Bắc là đèo Hải Vân, phía Tây là thành phố Đà Nẵng ngăn cách bởi con sông Hàn với một trục lộ giao thông duy nhất là cây cầu Trịnh Minh Thế, phía Đông là căn cứ Hải quân Tiên Sa và biển Nam Hải, phía Nam là làng Mỹ Khê với hai địa danh nổi tiếng là Ngũ hành sơn và bãi biển Mỹ Khê đã từng được Hollywood dùng làm bối cảnh cho một "show TV" rất nổi tiếng ăn khách trong cuộc chiến VN là "CHINA BEACH". Núi Sơn Chà còn có tên là "Núi khỉ" người Mỹ gọi là "Monkey mountain" vì có cả ngàn con khỉ sống trong khu rừng bao quanh núi, đặc biệt có loài khỉ được gọi là con "Giáo Hoàng" vì những chú khỉ này có bộ lông ngũ sắc trông giống như mầu áo đức Giáo Hoàng thường mặc khi hành lễ. Ngoài khỉ, còn có nhiều thú rừng khác như heo rừng, thỏ và loài nai nhỏ tý gọi là con "cheo" chỉ cao lối 25 đến 30 phân, thịt ăn rất thơm ngon. Từ chân núi lên tới đỉnh là một đường đèo vòng vèo dài hơn 7 cây số, có khúc dốc cao tới 25%, xe chạy lên núi chỉ có thể chạy số một hoặc số hai mới leo nổi. Đỉnh núi Sơn Chà luôn luôn có mây mù bao phủ và lạnh, anh em kiểm báo gọi là "đỉnh ngàn năm mây bay". Đài Panama do Không Quân Mỹ thiết lập năm 1961, được trang bị hai máy radar tối tân là FPS 20 (radar)có tầm dò tìm phi cơ ở xa tới 500 miles và máy FPS100 (height finder)có thể khám phá thấy phi cơ bay cao trên 100 ngàn bộ. PANAMA YỂM TRỢ HÀNH QUÂN VÀ NHỮNG PHI VỤ BẮC PHẠT: Tôi được bổ nhiệm làm Trưởng Phòng Hành quân Trung Tâm Kiểm Báo Đà Nẵng tháng 6 năm 1964. Chỉ huy trưởng đài lúc đó là Đại úy Đặng Văn Tiếp (1). Tôi ở trong cư xá sĩ quan độc thân bên Không đoàn 41. Không Đoàn trưởng là Thiếu Tá Nguyễn Kim Khánh, Không Đoàn Phó là Thiếu Tá Vũ Văn Ước. Tôi được cấp một xe Dodge 4 x 4 làm phương tiện đi làm. Hàng ngày tôi phải lái xe 20 cây số từ căn cứ Đà Nẵng sang Sơn Chà rồi leo đèo hơn nửa tiếng lên đài trên đỉnh núi làm việc cho tới 4 giờ 30 chiều mới xuống núi trở về cư xá bên Không đoàn. Phòng hành quân TTKB của tôi có 3 toán hành quân làm việc luân phiên 24/24 do 3 sĩ quan Weapons Controller trách nhiệm là các Thiếu úy Nguyễn Văn Phước, Nguyễn Văn Mai và Hoàng Bá Mỹ(2), Sĩ quan Phụ tá HQ của tôi là Thiếu-úy Nguyễn Anh, sĩ quan kỹ thuật là Thiếu úy Khiếu Thiện Kế (3). Công việc hàng ngày của Panama là phối hợp với Trung Tâm Hành Quân Không trợ I (ASOC 1) và Không Đoàn 41 theo dõi, yểm trợ những phi vụ hành quân oanh kích quân Việt cộng, tải thương, tiếp tế quân bạn, cấp cứu v.v... Ngoài ra, chúng tôi còn có nhiệm vụ kiểm soát vùng không phận trách nhiệm (air surveillance), theo dõi những phi vụ oanh tạc Bắc Việt của Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ và hoạt động của những phi cơ Mig của Trung Cộng trên đảo Hải Nam (cách Đà nẵng gần 500 dậm). Cuối năm 64, Thiếu Tá Khánh du học, Thiếu Tá Ước thuyên chuyển về Bộ Chỉ huy Không chiến (AOC: Air operation center) ở Sài Gòn, Thiếu Tá Dương Thiệu Hùng được bổ nhiệm làm Tư Lệnh Không Đoàn 41. Thiếu Tá Hùng là Giám Đốc Huấn luyện TTHLKQ Nha Trang những năm 60, 61 khi tôi là sĩ quan Phụ tá Trường Quân sự. Gặp lại tôi, anh rất vui mừng, bắt tôi đưa lên thăm cơ sở radar trên đỉnh núi và rất quan tâm đến nhiệm vụ của đài kiểm báo. Đầu năm 1965, tình hình quân sự trở nên sôi động. Cộng sản Bắc việt đưa nhiều sư đoàn chính qui xâm nhập Quân Khu 2 và Quân Khu 1. Ngày 1- 2- 65, chúng tấn công căn cứ Pleiku phá hủy một số trực thăng của Hoa Kỳ, và đặt chất nổ phá hoại CLB hạ sĩ quan Mỹ ở Qui Nhơn, đồng thời pháo kích doanh trại quân đội Hoa Kỳ và VNCH ở Phước Tường gần căn cứ KQ Đà Nẵng. Để trả đũa và cảnh cáo CS Bắc Việt, Hoa Kỳ cho nới rộng mục tiêu oanh tạc miền Bắc từ vĩ tuyến 17 cho đến vĩ tuyến 19. Từng đoàn khu trục F 100 và F 105 liên tục oanh tạc những vị trí địch từ Vĩnh Linh tới Đồng Hới, Hà Tĩnh. Không Quân VNCH cũng khởi sự tham gia những phi vụ Bắc phạt từ tháng 2-65. PHI VỤ BẮC PHẠT ĐẦU TIÊN Ngày 5-2-65, dưới sự chỉ huy dẫn đầu bởi Chuẩn-Tướng Tư Lệnh KQ Nguyễn Cao Kỳ diễn tiến như sau: Trở về đài, Đ/úy Tiếp triệu tập một cuộc họp ở phòng hành quân chỉ thị cho Thiếu Úy Kế phòng Kỹ Thuật phải check tất cả các máy radar dò phương hướng (search radar), đo cao độ (height finder), máy truyền tin, và radar scope trong tình trạng khả dụng 100%. Riêng phòng Hành quân, các sĩ quan Chỉ đạo trưởng và sĩ quan chỉ đạo phải đích thân điều khiển những HSQ radar operator giầu kinh nghiệm làm "flight following" phi vụ đặc biệt quan trọng này vì là phi vụ Bắc phạt đầu tiên của KQVN và do ông TLKQ hướng dẫn. Sáng hôm sau, tôi sang đài sớm từ 6 giờ sáng cùng Thiếu úy Mỹ check accuracy của từng radar scope và cắt đặt những operator expert ngồi làm việc trong dark room ở các vị trí plotter, AST, ASS v.v.. Mỹ cũng nhờ counterpart là Tr/úy Peoples lo giúp về Rescue khi cần và thường xuyên liên lạc với các đài của Hoa kỳ là đài YANKEE (airborne radar) ở ngoài khơi vịnh Bắc Việt và đài PRETTY GIRL ở Đông Hà để nhờ họ cùng làm Flight following. Riêng tôi lo liên lạc với TACC/North Sector(USAF) để xin yểm trợ khi có phi cơ địch lên nghênh cản. Đúng giờ G, khoảng 1 giờ trưa , Panama nghe danh hiệu "Tiger Crystal 1" gọi trên tần số UHF, phi vụ Bắc phạt bắt đầu khởi sự. Thiếu úy Mỹ , sĩ quan chỉ đạo trưởng toán C và Th/úy Bàn, sĩ quan phụ tá ngồi trước một radar scope dưới sự quan sát của Đ/úy Tiếp và tôi. Sau khi Tiger Crystal liên lạc với Panama, tất cả đều im lặng vô tuyến... Chúng tôi bắt đầu hồi hộp theo dõi trên màn ảnh radar và tần số trực HQ. Theo ước tính thì thời gian từ giờ G cho đến TOT (time over target) vào khoảng 45 phút. Chỉ 45 phút thôi mà sao thấy dài thế. Tôi đứng cạnh máy radar Trung sĩ I Thành trưởng toán chăm chú quan sát. Tôi coi đồng hồ rồi bảo Mỹ: "còn 5 phút nữa, khi họ lấy cao độ vào mục tiêu mình sẽ có radar contact". Tôi tiếp tục nhìn giờ và "count down" ngầm trong bụng... rồi ở những giây cuối cùng trên tần số... chúng tôi nghe rõ giọng (Đ/úy Tường mực): "2, 3, 4, 5, 6, 7, 8... 1 gọi: tất cả lấy cao độ, chuẩn bị vào mục tiêu". Tiếp theo là những tiếng micophone bấm "Bụp bụp", mấy phút sau trên màn ảnh radar bắt đầu thấy xuất hiện các chấm lân tinh di chuyển theo hướng mục tiêu đã kẻ sẵn. Rồi thình lình nghe trên tần số tiếng la " Một in... rồi Hai in... Ba in...cho đến Tám in...Các operator chăm chú theo dõi đếm đủ 8 chấm biểu hiệu 8 phi tuần trên scope đang di chuyển theo hướng ngược ra khơi lấy hướng Nam trở về căn cứ. 10 phút sau nghe Tiger Crystal 1 một gọi: "Panama, Tiger Crystal 1 gọi, over". Th/úy Mỹ trả lời: "Tiger Crystal1, Panama nghe bạn 5/5". Tiger Crystal1 báo cáo: "phi vụ hoàn tất, mọi người vô sự, chúng tôi trở về căn cứ, over". "Roger Tiger Crystal 1, congratulation , over". "Thank you Panama". Trên đường về, Tiger Crystal báo cáo có súng phòng không địch bắn lên lẻ tẻ nhưng chả ăn thua gì cả! Sau đó, Panama chuyển giao Tiger Crystal sang tần số đài GCA hướng dẫn về đáp phi trường Đà Nẵng. Đ/úy Tiếp và tôi cùng toàn thể anh em toán hành quân C thở phào nhẹ nhõm và vui mừng khi thấy phi vụ hành quân Bắc phạt thành công mỹ mãn không tổn thất. Chúng tôi nghe anh em bên Không Đoàn kể lại: sau khi đáp, bước xuống parking, Tướng Kỳ đã được Thiếu Tướng Thi, Tư Lệnh Quân Đoàn 1 đích thân tới dưới cánh phi cơ đón và hai ông tướng đã "hug" nhau trong khi mọi người vỗ tay chào mừng dưới ống kính quay phim của đài truyền hình và máy ảnh của các phóng viên. Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn 1 tuyên bố đặc biệt ân thưởng mỗi hoa tiêu tham dự phi vụ hành quân Bắc phạt Anh Dũng Bội tinh với nhành Dương liễu, các sĩ quan yểm trợ hành quân được tưởng thưởng ADBT với ngôi sao bạc, những quân nhân bảo trì phi cơ và vũ khí được tưởng thưởng ADBT với ngôi sao đồng. Thiếu Tướng TLQĐ còn ra lệnh cho trưng dụng nhà hàng Bạch Đằng ngoài bờ sông Hàn đêm nay hoàn toàn dành cho Không Quân mở tiệc liên hoan. Các phi vụ Bắc phạt của KQVN cứ tiếp diễn song song với những cuộc oanh kích hàng ngày của Không lực, TQLC và hải quân Mỹ theo nhịp độ mỗi tuần một lần cho đến khi các mục tiêu oanh tạc được nới ra tới vĩ tuyến 19. PHI VỤ BẮC PHẠT ngày 28-2-65 Lúc 2PM, Thiếu-Tá Dương Thiệu Hùng, TLKĐ 41 đích thân chỉ huy 6 phi tuần khu trục bay ra oanh kích những mục tiêu địch ngoài tỉnh Đồng Hới cách Đà nẵng khoảng 1 tiếng 15 phút bay. Đặc biệt phi vụ này có sự tham gia của phi cơ khu trục Không Đoàn 62 trên Pleiku do Trung Tá Tư Lệnh KĐ Trần Văn Minh (4) hưỡng dẫn ra Đà Nẵng tham dự cuộc hành quân Bắc phạt. Trước giờ khởi sự, tôi lái xe đưa Tr/Tá Minh lên đỉnh núi vào phòng hành quân quan sát các sĩ quan điều không theo dõi phi cơ bay hành quân. Lúc các phi tuần khu trục cất cánh, tôi mời Tr/Tá Minh ra ngoài sân đài, ngồi trên một tảng đá cao nhìn xuống vịnh Đà Nẵng đếm từng chiếc A1 rời căn cứ hướng về mục tiêu phía bắc. Tôi chỉ chiếc A1 bay giữa trong phi đội dẫn đầu là Th/Tá Hùng, TLKĐ 41, danh hiệu là Flying Tiger 1 (Phi Hổ 1). Vì giới hạn mục tiêu oanh tạc đã được Mỹ công bố trước (từ vĩ tuyến 17 đến vĩ tuyến 19) nên cộng sản Bắc Việt đã có đủ thời giờ di tản các đơn vị tiếp liệu, hậu cần, các kho dự trữ về những vùng ngoài vĩ tuyến 20, và chỉ để lại những đơn vị phòng không được bố trí và che dấu khéo léo nên đã gây thiệt hại cho phi cơ của Không quân Mỹ và KQVN không ít. Trong một phi vụ oanh tạc Vĩnh Linh, chiếc A1 do Thiếu úy Nguyễn Đình Quý (khóa 61) bị bắn rơi đã crashed ngay trên DMZ(5)bên bờ sông Bến Hải. Thiếu úy Nguyễn Quốc Đạt (khóa 63A) bị trúng đạn nhảy dù ra bị địch bắt sống làm tù binh. Phi vụ lần này gồm 3 phi tuần A1H của KĐ 62 Pleiku và 3 phi tuần A1H của Phi đoàn 516 (Phi Hổ) do Tr/ úy Ôn Văn Tài hướng dẫn, tổng cộng là 18 phi cơ, mục tiêu oanh tạc là Đồng Hới. Trên đường bay đi, máy bay của ta đã phát hiện nhiều PT boat của cộng sản ngoài duyên hải từ DMZ (5)trở ra và khi tới mục tiêu, các phi cơ của KQ ta đã gặp phải hỏa lực phòng không dầy đặc của địch, đủ loại đại liên, cao xạ 37 ly. Ngay đợt oanh tạc của phi tuần thứ nhất, Phi Hổ 1 đã bị trúng đạn đại liên 50 và động cơ bị chảy dầu. Sau khi thả hết bom, Flying Tiger1 hướng ra biển cố gắng lấy cao độ để có thể bay về đến bên này vĩ tuyến 17 để được cấp cứu. Wing man Flying Tiger2 là Th/úy Vũ Khắc Huề báo cáo Panama là Flying Tiger1 bị trúng đạn phòng không và xin rescue. Tôi và Tr/ Tá Minh đến bên scope của Th/úy Phước quan sát cuộc điều động cứu cấp. Tr/ Tá Minh hỏi tôi:"radar có bắt được tín hiệu của phi cơ Th/Tá Hùng lái không?". Tôi nói:"được, nếu phi cơ bay ở cao độ trên 3 ngàn bộ và "squawk emergency". Tôi bảo Th/úy Phước báo cho ASOC 1 và Phòng Hành Quân Chiến cuộc KĐ 41 biết tin Flying Tiger1 bị bắn và xin xe cứu hỏa, xe cứu thương túc trực chờ ngoài phi đạo, đồng thời xin 2 trực thăng H 34 của Phi đoàn 213 airborne sẵn sàng cấp cứu trong trường hợp Th/Tá Hùng phải bỏ phi cơ nhảy dù cho an toàn. Thiếu úy Phước cũng nhờ counterpart Mỹ (USAF) xin trợ giúp trong việc rescue Flying Tiger1 đang trên đường bay về căn cứ. Khoảng gần 4 PM, Panama có radar contact với Flying Tiger1 ở cao độ 5000 bộ phía nam của DMZ lối 30 miles. Capt Knight(USAF) cho biết có 1 trực thăng CH 54 của US NAVY đang bay theo Flying Tiger và sẵn sàng rescue. 20 phút sau, Flying Tiger1 kêu "May Day" báo cáo động cơ bốc khói dữ dội sắp phát hỏa và phi cơ bắt đầu mất cao độ ! Lúc 4 giờ 45, Thiếu Tá Hùng gọi:"Panama control, Phi Hổ 1 gọi, over". "Phi Hổ 1, Panama nghe bạn 5/5". "Panama, tôi còn cách Đà Nẵng khoảng 20 miles, cao độ 3500 bộ, tôi sẽ phải bỏ phi cơ nhảy dù vì động cơ đã bắt đầu cháy!" 10 phút sau, Đ/úy Knight cho tôi biết VNAF Flying Tiger1 crashed ở 25 miles off shore, pilot nhảy dù xuống biển đã được CH 54 của US Navy rescue và đang trên đường bay về Quân y viện Duy Tân Đà Nẵng. Trung Tá Minh yêu cầu tôi đưa ông trở về Không Đoàn 41 để đón các phi hành đoàn và thăm Thiếu Tá Hùng ở quân y viện. Hai H34 rescue được gọi về đáp. Sau phi vụ này, Thiếu Tá Hùng được nghỉ 15 ngày dưỡng sức rồi trở lại tiếp tục chỉ huy Không Đoàn 41 và điều hành những phi vụ Bắc phạt cho đến tháng 5-65. Trong khoảng thời gian này, anh còn có thêm nhiệm vụ yểm trợ các lực lượng Cảnh sát trung ương do Thiếu Tướng Nguyễn Ngọc Loan ra mở chiến dịch dẹp các tổ chức Phật giáo biểu tình, đem bàn thờ Phật xuống đường gây xáo trộn chính trị. PHI VỤ BẮC PHẠT 19-4-65, oanh tạc Hà Tĩnh. Phi vụ này được chỉ huy và hướng dẫn bởi Trung Tá Phạm Phú Quốc, Tư Lệnh Không Đoàn 23 CT Biên Hòa với 6 phi tuần A1H và A1G. Mục tiêu : kho đạn và kho tiếp liệu của quân Bắc Việt ở tỉnh Hà Tĩnh. Sĩ quan chỉ đạo trưởng đài Panama là Thiếu úy Hoàng Bá Mỹ, SQPT là Thiếu úy Phạm Quốc Tiến, toán C. Sĩ quan trực ASOC 1 là Trung úy Hoạt. Hai trực thăng H 34 (rescue team) trực ở Đông Hà danh hiệu là "butterfly 1 và Butterfly 2". Như thường lệ, trong nhiệm vụ "flight following" và rescue, hai toán radar hành quân Việt Mỹ (VNAF & USAF) đã làm việc side by side rất chặt chẽ. Các máy radar scope, truyền tin trong tình trạng toàn hảo. Hệ thống air surveillance và rescue giữa Panama control và các đài YANKEE (C 121 airborne radar) và PRETTY GIRL ở Đông Hà gần DMZ được phối hợp chặt chẽ thường trực. Th/úy Mỹ ngồi một scope đích thân theo dõi, scope kế bên là Tr/úy Peoples (USAF) để dễ bề phối hợp giúp đỡ nhau. Hôm ấy tôi thấy trên Plotting board vẽ đầy những tracks về hướng Bắc VN. Đó là những phi cơ F 100, F 105, A 18 của USAF và US NAVY đang oanh tạc Bắc Việt. Các phi tuần của KQVN (18 phi cơ) cất cánh lúc 1 PM, danh hiệu là "Tiger Red". Danh hiệu của Trung Tá Quốc là "Tiger Red 1". Panama đã hướng dẫn Tiger Red tới mục tiêu oanh tạc và trở về gần như an toàn mặc dù gặp phải hỏa lực phòng không địch bắn lên dữ dội. Khi các phi tuần bay trở về đến gần đảo HÒN CỌP (Tiger island), một hòn đảo nhỏ ở ngoài khơi phía bắc DMZ lối 5 miles, thì bỗng thấy Tiger Red1 báo cáo thấy có súng dưới đất bắn lên. Một lát sau, Panama nghe Tiger Red 2 báo cáo : "Tiger Red 1 bị bắn rớt rồi và đã crashed xuống đất gần bãi biển !"Tiger Red2 cho biết tiếp:"Red1 bị bắn, quay lại định thanh toán ổ phòng không thì bị hạ !"Tôi và Th/úy Mỹ cùng giật bắn người lên, Mỹ báo tin Tiger Red1 crashed cho Tr/úy Hoạt ASOC 1 biết. Tr/úy Hoạt cũng bấn lên và yêu cầu Panama nhờ Hoa Kỳ lo giúp rescue Tr/Tá Quốc. Cả phòng hành quân đầy nghẹt những gương mặt lo âu. Hai chiếc H 34 trực cấp cứu ở Đông Hà được lệnh cất cánh. Một lát sau Butterfly báo cáo là mưa gió kéo đến, trần mây rất thấp, không thể bay xa được nữa và xin quay lại Đông Hà. Th/úy Mỹ quay sang Tr/úy Peoples nói :"Có 1 chiếc A1H của VNAF bị hạ ở tọa độ... gần Tiger island, các anh có chiếc rescue nào gần đó không ?"Peoples nói:"chờ một chút, tụi tôi cũng có 1 F 100D bị bắn rơi đang làm rescue!" Khoảng 3 PM, Tr/úy Hoạt ASOC 1 gọi Panama cho biết:"lệnh của Ch/Tướng Tư Lệnh KQ là bằng mọi cách phải rescue Tr/Tá Quốc cho bằng được!" Thấy tình hình nghiêm trọng, tôi vội chạy lên 3rd floor gặp Colonel Champlin (TACC/North Sector) nhờ liên lạc Hạm Đội 7 (US Navy 7th Fleet) xin yểm trợ cấp cứu. Một lát sau, Ch/Tướng Kỳ đích thân điện thoại nói chuyện với Đ/úy Tiếp để tìm hiểu việc rescue Tr/Tá Quốc. Th/úy Mỹ giao scope cho Th/úy Tiến làm flight following rồi chạy sang scope của Tr/úy Peoples theo dõi việc rescue và báo cáo diễn tiến về ASOC 1 và BTLKQ. Peoples nói :"chúng tôi còn một CH 54, tôi đang dẫn vào vùng phi cơ crashed dưới sự air cover của 2 chiếc F 4C, anh xác định lại tọa độ đi ". Mỹ kêu Th/úy Tiến đo lại tọa độ rồi đưa cho Lt Peoples. Một lát sau, Lt Peoples cho biết 2 chiếc F 4C đã nhận ra tọa độ chiếc A1 của Tr/Tá Quốc nhưng thấy dưới đất có rất đông người (có lẽ là dân làng) đang chạy tới chỗ phi cơ lâm nạn.." Tiếp theo, chiếc CH 54 cũng báo cáo là trời mưa to gió lớn, lại thêm có mấy chiếc canoe (có thể là PT boat của VC) từ trong bờ chạy ra và có súng ở dưới bắn lên nên không thể bay vào rescue được! Các phi cơ rescue quần thảo trên vùng phi cơ rớt một lát nữa rồi bay về...Tôi, Th/úy Mỹ, Th/úy Tiến và Lt Peoples nhìn nhau lắc đầu thất vọng ! Col Champlin vỗ vai tôi nói : sorry vì cuộc rescue đã thất bại ! Lt Peoples cho biết trước đó hơn một tiếng USAF cũng có 2 chiếc F 100 bị bắn rơi nên việc giúp rescue Tr/Tá Quốc bị chậm... Tôi bảo Th/úy Tiến báo cáo ASOC 1 là cuộc rescue Tr/Tá Quốc đã không thực hiện được. Lúc đó là đúng 5 giờ chiều ngày 19 tháng 4 năm 1965. Đại-úyTiếp, tôi và Thiếu-úy Mỹ ngậm ngùi lên xe jeep lái xuống núi, lòng buồn rười rượi trước sự anh dũng đền nợ nước của một chiến hữu, một vị chỉ huy cao cấp của KQ lâm nạn mà không cấp cứu lấy được xác về... Tổng kết những phi vụ Bắc Phạt của Không Quân Việt Nam Cộng Hòa, chúng ta đã tổn thất: 7 phi cơ A1H và A1G bị bắn hạ và 7 anh hùng phi công đã anh dũng đền nợ nước: Trung Tá Phạm Phú Quốc. Trung Úy Vũ Khắc Huề Trung Úy Nguyễn Tấn Sĩ Trung Úy Nguyễn Hữu Chẩn Thiếu Úy Nguyễn Đình Quý Thiếu Úy Nguyễn Thế Tế Thiếu Úy Nguyễn Quốc Đạt (bị bắt làm tù binh sau khi nhảy dù) Tổ Quốc ghi ơn các anh. Hồi ký của KQ Trần Đình Giao De Couteau Với sự cộng tác của KQ Hoàng Bá Mỹ, KQ Nguyễn Kim Chung, KQ Phạm Quốc Tiến và KQ Nguyễn Văn Phước
|
|