|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 4:53:36 GMT 9
"Nàng Thơm Chợ Đào" Trần Công Nhung 25/01/2009   Hôm nay tôi tìm Ðồn Rạch Cát (Cốc), một đồn lính Tây có từ trăm năm, đây cũng là một di tích lịch sử. Ðồn thuộc địa phận huyện Cần Ðước nhưng chính xác nơi nào thì không ai biết. Từ Long An theo quốc lộ 1 đi Tân Trụ, qua phà Nhật Tảo, về Cần Ðước, một người bà con nói với tôi như thế. Lộ trình nghe đơn giản mà đường đi thật cam go. Phà Nhật Tảo chỉ dành riêng cho xe máy và người đi bộ, rẽ trái ngay chợ Tân Trụ, con đường đất rải đá, lỗ chỗ ổ trâu, bụi tung mịt mù. Phải bịt mặt suốt 30km, cho đến lúc ra lộ nhựa lớn của thị trấn Cần Ðước. Cách trung tâm Cần Ðước không xa, có ngôi chợ tên Chợ Ðào. Tôi hỏi người qua đường: "Có phải Chợ Ðào nổi tiếng gạo thơm?". Ðúng là quê quán "Nàng Thơm Chợ Ðào". Chợ nằm bên con kênh đào ăn thông với kênh Xóm Bồ chảy qua xã Mỹ Lệ, huyện Cần Ðước. Hầu hết các chợ VN tại Cali đều quảng cáo gạo Nàng Thơm Chợ Ðào, loại gạo ngon mà người Việt quốc nội cũng như hải ngoại đều ưa thích. Nói về gạo, Việt Nam xưa nay vẫn nổi tiếng gạo ngon và nhiều chủng loại, sản lượng kể như nhất nhì về xuất cảng so với các nước trong khu vực. Một gia đình bán gạo ở phố Ðoàn Thị Ðiểm (Hà Nội) cho tôi biết, gạo ngon hiện nay rất đắt (April 2008), giá gạo lên hàng ngày do biến động thị trường. Vừa bán ra, chưa kịp mua vào, giá đã tăng, nhà buôn chạy muốn hụt hơi. "Mạnh vì gạo bạo vì tiền", đúng không sai. Ngày trước, miền Bắc ưa chuộng Gạo Tám Xoan Hải Hậu (Nam Ðịnh): thơm dẻo, ngọt gạo, bây giờ giống đã lai, ít ai ăn, người ta chuyển sang ăn gạo Thái, gạo Bắc Hương Hải Phòng. Gạo Thái Sài Gòn giá vừa phải, hiện cũng có gạo ngon là Dự Lùn mỗi năm chỉ một vụ, gạo mới thơm dẻo nhưng để lâu thì dở, gạo Nàng Thơm Chợ Ðào ngon hàng đầu nhưng hiếm. Một lần đến chơi tôi thấy chị chủ nhà cân gạo cho khách theo lối pha trộn nhiều thứ với nhau, hỏi tại sao, chị cho biết: "Gạo ngon giá cao quá, gạo rẻ khó ăn, khách yêu cầu trộn gạo nhiều giá khác nhau để có thứ ăn được mà vừa túi tiền". Ngày nay trên thị trường có quá nhiều loại gạo, đếm không xuể: Gạo Tám Thái, Lài Sữa, Huyết Rồng, Thơm Lài, Thơm Mỹ, Thơm Ðài Loan, gạo Sơ Ri, Lúa Miên, Chim Rơi...vv. Khó mà nói cho hết hương vị khác nhau của các loại gạo. Nhưng gạo Nàng Thơm Chợ Ðào vẫn là gạo nổi tiếng nhất đối với người Việt quốc nội cũng như hải ngoại. Theo sử liệu, Cần Ðước được khẩn hoang từ hơn 300 năm trước. Thời ấy, xã Mỹ Lệ chỉ mấy gia đình, rồi phát triển lên dần, ngày nay Mỹ Lệ của Chợ Ðào gồm có 3 đình làng: Vạn Phước, Long Mỹ, Mỹ Lệ. Mỹ Lệ là nơi sinh ra Nàng Thơm Chợ Ðào. Do mức độ phát triển vẫn không thoát khỏi tình trạng nông nghiệp sơ khai, việc cày cấy chỉ mới qua gia đoạn máy móc phần nào thôi, nên Nàng Thơm Chợ Ðào, chỉ nghe tiếng mà ít ai biết mặt. Tôi rẽ vào Chợ Ðào, tìm chỗ dựng xe rồi dạo quanh một vòng. Chợ không lớn, có một đình chợ, có khoảng đất rộng chung quanh, người mua kẻ bán thoải mái bày hàng, không phải trật tự thứ lớp. Nhiều mặt hàng trái ngược nhau được dọn sát bên nhau. Cá thịt rau dưa, vải vóc quần áo, chè cháo bánh trái...Có loại cá nhỏ bằng ngón tay, đen như than, chị bán cá cho biết đấy là cá bống dừa, kho khô ăn rất ngon. Tôi lấy máy ra chụp trong lúc chị bán cá nài nỉ: "Mua giùm đi chú, kho ngon lắm, cá bống dừa hiếm lắm. Mua giùm mở hàng cháu". Tôi không biết nói sao, phải chi chị thông cảm tình cảnh tôi như các bạn đọc thì đỡ biết mấy. Cá, dù cá bống dừa mà mang theo với máy móc thì ra cái gì. Tôi lí nhí cho qua chuyện để rút lui. Cá nhỏ tí lại đen như than, tôi liên tưởng đến gà ác, loại gà đen từ lông đến thịt, nhiều chất bổ dưỡng thường được hầm với thuốc Bắc. Trong khu phố cổ ở Hà Nội món "gà tần", "bồ câu tần" bán nhiều và rẻ, 18 nghìn một con (chỉ 1$ mấy cent). Bồ câu hay gà ác nhét vào lon nước ngọt với các vị thuốc Bắc rồi hấp như hấp bánh bao. Khách vào, chị bán hàng mở vung khói thơm bốc lên, con gà được lôi ra bát cho khách. Mọi việc trước mắt rất hấp dẫn, nhưng bên trong thực sự có những gì chẳng ai biết. Có hỏi thì cũng chỉ biết toàn thứ bổ dưỡng. Một đôi lần tôi hay tẩm bổ món này, sau nghiệm ra không thứ gì ở VN mà không chứa chất độc hại nên thôi. Cứ dùng những món thông thường mình kiểm soát được để giảm phần rủi ro. "Gạo Cần Ðước nước Ðồng Nai" là câu cửa miệng xưa nay để ca ngợi đặc sản vùng này. Nhưng ở đời có gì là tuyệt đối, có gì giữ mãi được giá trị chính thống! Văn minh khoa học làm thay đổi đời sống con người, tất nhiên suy nghĩ và tâm tính cũng biến theo, xấu đi hoặc tốt hơn tùy thuộc vào nền văn hóa giáo dục của từng xứ sở. Lịch sử nhân loại thế kỷ qua đã biến đổi như thế nào ai cũng biết. Có những điều một thời được tung hô, ca ngợi hết mình, nay không còn ai nhắc nhở đến nữa. "Ði tìm cái tôi đã mất" (1) là tâm trạng của một người cuối đời mới biết mình nhầm. Dù biết thực giả nhưng không phải ai cũng dễ dàng đổi cách suy nghĩ của mình, cho nên thị trường vẫn còn chuyện mua gian bán lận. Nàng Thơm Chợ Ðào giả đã làm nhiều người thất vọng, dù mua ngay tại Chợ Ðào. Một bài báo trong nước kể chuyện một bà cán bộ về tận Chợ Ðào mua gạo Nàng Thơm, khi nấu lên, cơm nhạt hơn gạo "nàng thường". Thấy tôi tra hỏi về gạo, có người tưởng tôi tìm gạo thơm, họ bảo muốn mua qua bên kia cầu có nhà máy gạo, nơi sản xuất Nàng Thơm Chợ Ðào. Một bà tỏ ra sành sỏi nói nhỏ với tôi: "Chú không phân biệt được gạo Nàng Thơm, rất dễ bị nhầm". Hỏi phân biệt thế nào, bà bảo khó lắm phải chuyên môn mới biết. "Hạt gạo Nàng thơm Chợ Ðào có điểm trắng đục pha hồng nằm ở giữa, người địa phương gọi là "hột lựu", và chỉ gạo vùng Mỹ Lệ mới có, Nàng Thơm nơi khác thì không". Sao có chuyện lạ đó, đến nay vẫn chưa ai trả lời được. Theo địa phương cho biết, toàn xã Mỹ Lệ có chừng 1.000 ha trồng lúa Nàng Thơm, nhưng diện tích để trồng đúng loại lúa khó tính này, cũng chỉ 400 ha. Nàng Thơm trở nên quí hiếm là điều dễ hiểu. Nhưng tại sao "nhà nước ta" không mở rộng diện tích trồng để tăng sản lượng? Có thể đầu tư "cày cấy" không lời bằng đầu tư "xây dựng" chăng! Dưới thời phong kiến, hễ nơi nào có hoa quả thơm ngon thì thường được dành để "tiến Vua". Hưng Yên ngày nay vẫn còn "cây nhãn tiến Vua", cây nhãn nổi tiếng quả lớn ngon ngọt đặc biệt. Lần đi tìm Phố Hiến, tôi đến dưới gốc nhãn này, tiếc không gặp mùa nên không biết nhãn ngon cỡ nào. Cây nhãn mấy trăm năm nay phải có trụ chống đỡ. Gạo Nàng Thơm Chợ Ðào dưới thời Vua Minh Mạng cũng được xếp vào loại "gạo tiến Vua". Người ta còn kể ở HongKong có tiệm cơm của người Tàu Chợ Lớn, đắt khách nhờ treo biển " Cơm Gạo Nàng Thơm Chợ Ðào". Nàng Thơm Chợ Ðào có giá như thế nên ngay cả nơi không làm ra gạo Chợ Ðào cũng đăng ký xin độc quyền thương hiệu gạo này. Theo báo Lao Ðộng (trong nước) vừa rồi Cục Sở Hữu Trí Tuệ VN cấp giấy chứng nhận cho Hợp Tác Xã Dịch Vụ Nông Nghiệp xã Mỹ Lệ được độc quyền nhãn hiệu "Gạo Nàng Thơm Chợ Ðào" thì phát hiện thương hiệu này đã được chính phủ Mỹ cấp cho công ty Cong Nguyen Inc. ở Oklahoma từ năm 2002. Sở Công nghệ tỉnh Long An định nhờ một văn phòng luật sư Mỹ kiện lấy lại thương hiệu. Nhưng phía luật sư cho biết lệ phí 50 nghìn đô mà không chắc thắng. Dư luận lại cho rằng gạo Chợ Ðào sản lượng mỗi năm chỉ 200 nghìn tấn chưa đủ dùng trong nước, vậy có thắng cũng chẳng làm gì. Ðã nghèo, trình độ kém nên thủ phận cho yên, mấy vụ rồi bày đặt ra tòa án quốc tế để thua lỗ dài dài. Luật VN khác với thế giới, họ làm sao hiểu. Nếu mọi vụ kiện mà xử tại VN thì "chiến thắng ắt về ta". Tôi tạm rời Chợ Ðào đi tìm Ðồn Rạch Cốc (Rạch Cát). Ngay chỗ đường lộ vào "Nhà Trăm Cột" (2), rẽ trái về Rạch Cát, con đường nửa đất nửa đá, tuy không khó đi như đoạn từ phà Nhật Tảo đi Cần Ðước, nhưng mỗi khi có xe ngược chiều là phải hít bụi đỏ bay mù. Thôn quê thỉnh thoảng có chút màu sắc thị thành cũng làm cho bà con chòm xóm vui lây, một đám cưới đang diễn ra trên đường làng. Họ nhà trai đơn giản mấy mâm quả, các cô các cậu áo quần mới mẻ màu sắc sáng rực, tươi cười bê mâm quả như đi dự hội làng, không có vẻ gì bệ vệ lễ nghi như các cụ ngày xưa. Khách đi đường dừng chân trầm trồ chỉ chỏ... Tôi cũng bấm một tấm hình trong khi chờ đám cưới đi qua. Con đường về đồn Rạch Cát xuyên qua một cánh đồng, nhà cửa hai bên không nhiều nhưng cũng có một vài quán "Cà phê vườn", nhìn vào biết là loại cà phê có "thư giãn", quán có nhiều chòi tranh nho nhỏ riêng để khách dễ tâm tình. Cuối con đường là đồn Tây ngày trước. Càng gần đồn, cảnh càng hiu quạnh, không thấy một ai qua lại, tôi hơi ớn, nhất là đã đến gần cửa đồn mà cảnh vẫn lạnh tanh. Chợt có anh bộ đội lùa một đàn dê đi qua, tôi chận hỏi ngay: - Anh ơi, tôi muốn vào thăm đồn Rạch Cát, làm sao anh? - Không vào được chú ơi, doanh trại quân đội không cho vào đâu. - Tôi thấy trong sách bảo đồn là di tích lịch sử nên mới lặn lội tìm. - Năm ngoái có cho năm nay cấm rồi. - Vậy thì tiếc quá. Anh chăn dê nhìn tôi nói nhỏ: "Ðồn lính có gì mà đi coi". Tôi tần ngần giây phút, từ xa chụp cảnh đồn thấp thoáng sau bóng cây, gọi là cho có chứ chẳng thấy gì là di tích, tôi lui nhanh kẻo nhỡ họ cho mình là "thằng địch" dọ thám thì rầy rà lắm, lúc ấy có bao nhiêu "di tích" cũng chẳng tích sự gì. Chuyện thật giả, phải trái đôi khi không có giá trị trong nhiều hoàn cảnh ở xứ mình. Mọi chuyện đều tùy thuộc sở thích và ý muốn của người đang có quyền mà thôi. Ngay cả những chuyện tày đình đưa ra tòa mà kết cục như trò đùa (3). Lúc quay ra gặp một bà già, tôi hỏi thêm cho chắc, bà xác nhận: "Năm rồi nó cho khách vô coi, năm nay nó cấm". Trên đường về ngang qua cánh đồng trên chợ Ðào, gặp cảnh cấy lúa khá hay, hàng hàng lớp lớp màu sắc hồn nhiên đan xen, tôi dừng lại ghé vào nhà bên đường mượn chiếc ghế để có tầm nhìn cao hơn. Chủ nhà cho biết lúa đang cấy chính là Nàng Thơm Chợ Ðào. Hỏi khác thế nào với lúa thường, anh nói, mạ Nàng Thơm mập cây và lớn cao hơn. Chụp ảnh xong thì trời kéo mây và bắt đầu mưa. Tôi chuẩn bị các thứ rồi chạy thẳng về Sài Gòn, mặc cho mưa càng lúc càng to. Một ngày biết được nhiều thứ, những thứ tuy thông thường nhưng có tìm hiểu mới thấy nhiều điều thú vị đậm nét quê hương. Hôm nay còn được tấm ảnh "mùa cấy", một tác phẩm ưng ý mới có lần đầu. Rong chơi đây đó mà như vậy cũng là vui rồi. Trần Công Nhung August 2008
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 29, 2009 4:55:17 GMT 9
Thánh địa Mỹ Sơn Trần Công Nhung 20/02/2007 Ngày xưa khi bà Huyện Thanh Quan đi qua nơi cung điện nhà Lê, thấy cảnh hoang phế bà đã động lòng làm bài thơ Thăng Long thành hoài cổ để bày tỏ nỗi luyến tiếc kinh thành một thời tráng lệ nay chỉ còn lại rêu phong. : Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo Nền cũ lâu đài bóng tịch dương. Ngày nay nếu đi tìm những hình ảnh tương tự của dân tộc Chămpa thì phần đất phía Nam từ Quảng Nam vào Bình Thuận chúng ta thấy có nhiều. Thánh địa Mỹ Sơn được công nhận là di sản thế giới, là di tích tiêu biểu đậm nét văn hóa quyền uy của người Chăm vào thời kỳ cuối cùng trước khi mất hẳn do công cuộc mở rộng bờ cõi của người Việt. Trước đây có một thời tôi làm việc ở Quang Nam, thường nghe nói đến Mỹ Sơn, quận Duy Xuyên, tuy không cách xa mấy nhưng lại thấy khó đi về. Thời chiến tranh, xôi đậu không rõ ràng, chẳng ai dại gì đi vào nơi rừng núi âm u, nguy hiểm tính mạng . Gần nhà mà xa cửa ngõ, là thế. Bây giờ cách một đại dương đi về lại dễ. Không gian và thời gian đổi thay theo cuộc sống và tình người. Tour du lịch đi Mỹ Sơn không đắt, chỉ mấy chục nghìn đồng, nhưng không được thong thả theo công việc của mình, lại mất thì giờ chờ đợi. Từ Hội An lên Mỹ Sơn khoảng 50km, tôi đi xe ôm. Sáng sớm, thành phố Hội An thật yên tĩnh, đường vắng tanh, gió mát như máy lạnh. Đi bộ, hít thở cái không khí trong lành đầu ngày, vừa thể dục vừa ghi nhận những hình ảnh, âm thanh, của phố cổ lúc còn say ngủ: Một hai chiếc xe đạp của dân lao động, một vài tốp học trò đến trường tập thể dục. Mấy chị công nhân môi trường với cây chổi tre dài, thong thả như đếm nhịp, tiếng xẹt xẹt nghe thật rõ. Cách quãng xa mới có một quán cà phê nhóm lò bên đường. Đây là giây phút phố phường thư giãn, hiền lành êm ả, tôi không thấy e ngại dù đi vào chỗ tối không vắng người. Ra đến đầu đường Nguyễn Thái Học, gặp một anh xe chịu giá đi Mỹ Sơn 55 nghìn. Không phải mặc cả, tôi ngồi lên xe vừa nói: Anh tranh thủ chạy nhưng chỗ nào tôi vỗ vai thì chậm lại. Nơi nào cần dừng thì dừng, chỉ vài phút thôi. Anh xe hứng chí phóng nhanh như đua, tôi run cầm cập, co người núp sau lưng xe, thỉnh thoảng hé mắt nhìn làng mạc trong sương mờ, tự nhiên được sống lại cái cảm giác ngày còn nhỏ, những ngày mà tuổi thơ không thấy giá rét, không thấy cực khổ thiếu thốn, chỉ thấy cuộc đời thật vui, lúc nào cũng mong chóng đến giỗ chạp, Tết nhất, hội hè. Trời mờ sáng xe chạy ngang làng đúc đồng Phước Kiều, đã thấy nhiều nhà mở cửa, nào tượng đồng, chiêng còng, lư hương chân đèn...mớ bày dưới đất, mớ treo trên vách, la liệt như hàng chợ trời. Muốn ghé vào xem nhưng sợ tục lệ mở hàng đầu ngày, chủ nhà đã mời mà từ chối là có chuyện. Thường ít ai hiểu cho sự bất tiện những món lôm côm lích kích, chẳng thể nào mang theo với máy móc! Tôi vỗ nhẹ cho xe chậm lại, ngoái người bấm máy. Hình ảnh tư liệu, không phải lo lắm. Vào đến ngã ba quốc lộ1 rẽ lên Duy Xuyên, trời sáng hẳn. Từng tốp học sinh trong đồng phục lũ lượt bên đường, hoặc hàng ba hàng bảy đạp xe, thong dong đến trường. Cảnh nữ sinh trong tà áo trắng tôi chụp đã nhiều ở trường Lý Tự Trọng (Võ Tánh) Nha Trang, Trưng Vương (Gia Long) Sài Gòn, Nguyễn Đình Chiểu (Mỹ Tho) thế mà mỗi khi nhìn thấy áo dài lại vẫn thích, không thể không chụp. Có lẽ khung cảnh khác nhau, ánh sáng không giống nhau, nên cảm xúc dễ khơi động. Huyện Duy Xuyên ngày nay có bộ mặt khác xa quận Duy Xuyên ngày trước, khu hành chính huyện nguy nga khang trang nằm ngay lộ, phố xá nhà tầng sáng sủa, buôn bán tấp nập. Với khách bàng quan, đây là dấu hiệu một đời sống sung túc, nhưng đấy là bộ mặt, lúc cởi áo, không biết mình mẩy ra sao! Phía trên huyện một đoạn có con sông, hai bờ tre soi bóng, tôi xuống xe, chụp ảnh dòng sông phải cần góc độ, cần tính toán, nhất là mặt trời đỏ ối đang lên từ từ. Rồi rỉ rả, đường lên Mỹ Sơn, nhiều cảnh cũng hay, nhà thờ Trà Kiệu, ngôi giáo đường từ thế kỷ nay, không thay đổi, không sơn phết sửa sang theo hiện đại; Gợi cho khách du cả một quãng dài lịch sử. Hầâu như giáo đường nào cũng màu đá xanh, màu xám mốc: nhà thờ Phát Diệm, nhà thờ Phú Cam, nhà thờ lớn Hà Nội Không hiểu sao Thánh Đường Sài Gòn lại màu chu đỏ. Đường vào Thánh Địa, qua một cổng chào, từ từ lên cao, và như đâm thẳng vào núi xanh. Đến đầu ngọn đồi cuối đường, một khu nhà tranh thấp thoáng sau tàng cây xanh lá: Nhà nghỉ, quán ăn, giải khát, kiểu du lịch sinh thái. Trái với hình ảnh đối diện, đang có công trình xây dựng khá lớn. Công trình theo mô hình nhà máy, một dãy dài, không có nét riêng của địa phương. Bên cạnh có trạm bưu điện nho nhỏ mang một tí văn hóa Chăm. Còn sớm, tôi mời anh xe uống cà phê vừa nghỉ mệt. Quán chỉ một người lo các thứ cho khách. Anh xe lợi dụng gọi thêm 4 điếu thuốc Con Mèo. - Cháu à, đang có công trình gì vậy? - Dạ, nhà vãng lai khách quốc tế, và nơi làm việc cho các đoàn nghiên cứu. - Hàng ngày khách đông không cháu? - Dạ cuối tuần đông hơn, nhưng đa số khách phương xa theo tour và khách Tây là nhiều. - Có phải mua vé không? - Dạ, vé 30 ngàn. Chú qua cầu mua vé rồi có xe Jeep đưa vô tháp. Chiếc cầu tre tương đối chắc, không lắt lẻo như cầu dây ở Buôn Đôn (1), nhưng chỉ dành cho người đi bộ và xe máy, không hiểu làm cách nào bên kia cầu lại có xe Jeep. Phòng vé và chỗ nhân viên làm việc, ăn ở, rất luộm thuộm. Mấy ông cười nói bô bô, thấy khách ngơ ngác cũng mặc, hỏi họ mới chỉ cho cô bán vé ngồi giấu mình trong một góc phòng. Đường dốc vào tháp có xe đưa, lúc ra, khách tự đi bộ. Mình tôi một chuyến xe, loại xe Jeep của quân đội miền Nam ngày trước. Dù đoạn đường chưa tới cây số, đi chân cũng hơi mệt. Xe thả khách xuống điểm trung tâm, nơi có nhà hàng, nhà bán quà lưu niệm, nhà biểu diễn văn nghệ. Từ đây theo con đường mòn, tương đối bằng, khoảng 500m là đến khu Thánh Địa. Vẫn còn sớm, tôi thăm qua sinh hoạt chung quanh, một nhà bán giải khát sách báo kỷ vật và tượng phục chế theo kích thước nhỏ. Đối diện có nhà văn nghệ, các cô đang ôn tập múa. Lát sau có đoàn du khách vào, tôi nhập bọn cùng đi. Chim rừng cất tiếng chào mời. Nhiều tiếng bồ chao, bìm bịp, chóp mào, chim sâu toàn chim dân dã. Không nghe tiếng họa mi, hoàng oanh, chích chòe. Sau chừng mươi lăm phút đi bộ thì mọi người đều dừng lại, trước mặt hiện ra một vùng đền đài, tháp cổ đã hư rã theo thời gian. Chu vi khu di tích ước chừng 100m mỗi bề. Lúc này thì không ai nói gì chỉ có tiếng chim và tiếng máy ảnh. Tôi phải chụp nhanh nhiều góc độ trước khi đoàn du khách tràn vào. Toàn bộ khu di tích gần như nguyên trạng, không tô đắp sửa chữa, dáng vẻ và màu sắc nói lên cả một chuỗi lịch sử dài hàng thế kỷ. Ánh sáng tươi mát ban mai, sau lưng khu tháp là mấy ngọn núi xanh lơ, điểm mây bạc, trời rất mùa thu..tuy rừng cây lá không vàng. Có lẽ đã đầy ắp cảm giác và hình ảnh về khu Thánh Địa nên ai nấy từ từ lần vào. Rải rác đó đây, có những tấm bảng chỉ dẫn: Khu A, khu B, khu C, F, có 8 khu nằm kề nhau. Mỗi khu là một phần đặc trưng của Thánh Địa. Thánh Địa Mỹ Sơn được dựng từ thế kỷ 4 giữa vùng núi thâm u, nay thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Theo các nhà khảo cổ căn cứ trên bia khắc thì đền được vua Bhadresvara xây để cúng vua thần Siva Bhadresvara. Thoạt tiên đền làm bằng gỗ, qua thế kỷ VI bị hỏa hoạn thiêu rụi. Đến thế kỷ VII vua Sambhuvarman xây lại ngôi đền bằng gạch, đá. Liên tiếp nhiều thế kỷ cho tới thế kỷ XIII hơn 70 đền tháp được xây dựng, và Mỹ Sơn trở thành Thánh Địa Ấn Giáo của vương quốc Chămpa. Tôi xem và chụp ảnh một vài khu chính: Khu A là khu đầu tiên, ngay lối vào. Chính giữa có một nền cao chừng 2m xếp bằng đá tảng có hoa văn. Khu này hai bên còn hai tháp, phía sau cùng có hai tháp. Bên ngoài các tháp phần lớn bị mưa gió xâm thực, nhiều góc cạnh sứt mẻ, bên trong có trưng bầy một số tượng không đầu, một vài mảnh hoa văn. Trước đền chính có một số đế đá tròn lớn, chạm trổ, trên có khoét lỗ vuông (để ráp mộng?), một số trụ lục giác, hai đầu cũng khoét lỗ như vậy. Hai ngôi đền phía sau có dạng khối chữ nhật, cửa thì khác nhau: Một bên đầu cửa nhọn theo hình tháp, một bên thẳng cạnh hình chữ nhật. Mái đền hỏng nặng nên có mái nhân tạo để che nắng mưa, trong có nhiều vật trưng bầy: Tượng thú vật, tượng người ngồi theo thế bán kiết già, hầu hết đều bị mất đầu. Giữa hai đền này có hai hàng tượng đá cũng không đầu. Đa số đền đài Việt Nam các tượng cổ thường không còn đầu, chẳng phải do thời gian làm hư hỏng mà chính do con người đánh cắp làm của riêng. Một trong hai đền có một vỏ đạn đại bác cao gần 1 mét, chẳng ăn nhập gì với những thứ trưng bày. Nếu muốn nói tội ác chiến tranh tôi tưởng nên để chỗ khác thích hợp hơn. Cũng có những tấm bảng kẽ chữ rất đẹp, tưởng chú thích về sự tích đền, hóa ra Cấm leo trèo viết bậy. Thảm thương cho 4000 năm văn hiến! Khắp nước nơi nào cũng đạt chuẩn văn hoá nhưng bảng cấm cắm đầy, từ công viên đến đình chùa miếu mạo. Có những cáo thị rất dung tục. Như vậy có nghĩa bao nhiều nhà trường bấy nhiêu nhà tù hay sao! Du khách đến thăm Thánh Địa Mỹ Sơn không ồ ạt xô bồ như kiểu đi xem hang động, hội hè, không trẻ con, không hàng rong nhảm nhí. Đến Mỹ Sơn cũng như vào bảo tàng di tích, ai nấy đều có phong thái trầm lắng suy tư. Một nhóm người Đông Âu, họ xem xét trao đổi, ghi chép và chụp ảnh rất kỹ, có người tách riêng ra một mình ngồi trước khu đền chỉ còn ngôi tháp nhỏ, anh đang nghiệm suy về thời gian về đời sống, về đổi thay của tạo hóa? Mọi người đi qua rất nhẹ, không ai quấy rầy anh. Một ông già tóc râu bạc trắng, có lẽ là trưởng đoàn. Tôi đến nhờ ông bấm cho tấm ảnh, ông vui vẻ và tỏ ra thông thạo, không cần phải chỉ dẫn gì cả. Theo bản đồ toàn bộ Thánh Địa có 8 khu, ngoại trừ khu A những khu khác di tích không còn lại bao nhiêu, có khu chỉ còn nền trống. Khu F đang có công trình tái tạo một tháp lớn, hiện chỉ thấy dàn giá chứ không chuyên viên hay nhân công làm. Nhiều nơi trùng tu, sửa chữa các công trình kiến trúc cổ, nhưng lại chắp vá tô vẽ theo kiểu thợ hồ, làm cho di tích mất hết ý nghĩa. Tháp Bà (Nha Trang) chẳng hạn, sân tế lễ với hai hàng trụ cao lớn uy nghi, trên mười thế kỷ nắng gió ăn mòn, nay được xây lại bóng láng, tưởng chừng mới có hôm qua. Nghe nói Tháp Chàm ở Phan Rang do đoàn chuyên viên Ba Lan tu sửa nên giữ được phần nào nét nguyên thủy. Ngôi nhà cổ ở làng Tây Giai tỉnh Thanh Hóa (2) được Unesco trùng tu, ngói, gỗ, nói chung vật liệu đều được thay thế y như trước. Lối đi đến các khu tháp không xa mấy, quanh co qua rừng cây rất thiên nhiên, nhưng thiếu bảng chỉ dẫn, du khách không biết lối nào đi tiếp, lối nào ra nhà trung tâm, cứ phải mất thì giờ lanh quanh lui tới. Thánh Địa Mỹ Sơn thể hiện rõ rệt nền văn hóa Ấn. Đến Mỹ Sơn tôi thấy khác xa khi thăm những đền đài khác, ở đây đầy vẻ u tịch, trong thinh không vắng lặng, con người dễ quay về với quá khứ, dễ hồi tưởng những gì đã qua, tưởng chừng như mình sống lùi lại lịch sử một thời. Du khách có thể ngồi một góc trước Nền Cũ mà trầm ngâm ngắm nhìn, dấu vết của công trình kiến trúc, hình ảnh một nền văn minh từ hàng bao thế kỷ nay đã nhòa nhạt. Đối diện với một di sản lịch sử như vầy chắc chắn không ai, kể cả người nước ngoài, có tâm phân biệt đây là công trình của phong kiến hay đế quốc, chân hay ngụy, mà chỉ có tiếc thương và hoài niệm. Nhưng giá ban quản lý bỏ công chăm sóc thêm, đừng cho cỏ cây hoang dại mọc phủ vết tích xưa, vốn không còn bao nhiêu, lại rất dễ bị hư hỏng nếu cây đâm rễ lâu ngày. Công việc này không mấy khó, cũng chẳng tốn kém bao nhiêu, một người chuyên làm sạch những cây dại ký sinh trên nền trên tháp, như thế giữ cho di tích được sạch sẽ rõ nét hơn. Tiền bán vé thay vì xây cất công trình phụ như nhà khách, phòng họp
nên dành một phần cho công tác này. Thăm khu thánh địa, du khách chẳng ai bị quấy rầy bởi sinh hoạt đời thường. Tôi nghĩ đây là điểm son của ngành du lịch Quảng Nam, ít nơi có. Khoảng 10 giờ, sau khi thăm tháp trở ra, khách được mời vào hội trường nghỉ ngơi xem văn nghệ. Văn nghệ là một phần trong chương trình phục vụ du khách. Tôi ra sớm, có ý làm quen với cô diễn viên trẻ đẹp, có vẻ như người hướng dẫn đội múa. Sau một vài lần chỉ dẫn cho các bạn về nhịp điệu trong màn vũ, cô gái xuống ghế ngồi theo dõi các bạn tập trên sân khấu. Tôi làm ngay cuộc phỏng vấn chớp nhoáng: - Chào cháu, cháu là trưởng đoàn văn nghệ? - Dạ, không. Mấy anh kia chú. - Thấy cháu có vẻ thành thạo hơn các bạn. - Dạ, cháu cũng diễn viên thôi. - Cháu làm trong đội văn nghệ lâu chưa? - Dạ, cháu ở Bình Thuận được cử ra giúp cho mấy chị múa. - A, vậy cháu cũng ở trong ngành văn hóa chứ? - Dạ, không, cháu đang đi học. Qua hè cháu về Sài Gòn học nghề và đi làm trong đó. - Trong đoàn có ai là người Chăm không cháu? Cô gái nhìn tôi cười: - Cháu và chị kia, chú không thấy cháu là người Chăm hả. Tôi lặng đi mấy giây. Người Chăm mà đẹp và duyên dáng đến thế thì làm sao ai biết. - Chú thâït không ngờ, chú cứ nghĩ cháu là người Kinh. Cháu tên gì? - Lâm Minh Mỵ, chú không phân biệt được người Chăm, người Kinh ? - Chú xin lỗi, xưa nay, hể cứ đen đủi và thô kệch là Chăm, có dè đâu cháu đẹp vậy. Mà Lâm là họ người Tàu chứ? - Dạ, không đâu, họ người Chăm theo hai dòng: Bà La Môn gồm có họ Chế, Dương, Hán, Đàn. Còn dòng Bà Ni có Lâm, Đạo, Nương..nhiều lắm chú ơi. - Hay thật, chú mới biết lần đầu. Người con gái cười cười, hàm răng đều tăm tắp và trắng muốt, đôi mắt to sáng long lanh, tôi không tài nào mô tả được vẻ đẹp của Mỵ, chỉ biết đẹp, đẹp núi rừng hoang dã, đẹp kiêu sa thị thành. Hởi những nhà thơ thiên tài: Nguyễn Du, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Nguyến Bính ...xin triệu thỉnh chư liệt anh linh về chiêm ngưỡng. - Lúc nãy cháu bảo phân biệt người Chăm như thế nào? - Dễ lắm, chú nhìn vào đôi mắt cháu, có gì khác không? Trời đất, nhìn vào đôi mắt có mà chết chứ phân giải nỗi gì? Nhưng đã được gợi ý thì tội gì không nhìn. Và, tôi nhìn thật kỹ, thật lâu, không chỉ nhìn vào đôi mắt, mà nhìn ngắm hết cả khuôn mặt người diễn viên trẻ. Tôi chẳng phân biệt được gì, chỉ thấy trong đôi mắt người con gái xứ Chăm có cái gì u ẩn xa vời vợi, như một thoáng hận nghìn đời phảng phất đâu đây. Phải chăng nhà thơ họ Chế đã nhìn ra điều này khi viết: Đây, chiến địa nơi đôi bên giao trận Muôn cô hồn tử sĩ hét gầm vang Máu Chàm cuộn tháng ngày mềm oán hận Xương Chàm luôn rào rạt nỗi căm hờn - Cháu có thể cho chú chụp một hai tấm ảnh? - Nãy giờ thấy chú chụp nhiều rồi mà. - Chú muốn chụp chân dung cháu và ảnh cháu đứng bên thềm Thánh Địa. - Vậy chú đợi cháu diễn xong đã. Khán giả hai nhóm, trong khu di tích ra và ngoài mới vào, nhập lại, ghế trong hội trường không còn, một số người phải đứng chung quanh. Những ai chụp ảnh thì chạy chứ không chiếm ghế làm gì. Tôi chắc trong số khán giả không ai vui như tôi, tôi theo sát các màn múa và chụp ảnh thật nhiều. Múa không lời ca tiếng nhạc, chỉ có tiếng trống bập bùng theo nhịp bước chân, đôi cánh tay nối dài hai giải lụa tung bay, uyển chuyển như cánh thiên nga, có lúc hai tay xòe hai cánh quạt như đàn hạc hạ cánh. Trang phục vũ công màu sáng và đơn giản, quần hay váy màu trắng, áo xanh hay vàng, không nặng nề hoa văn cầu kỳ, không lớp trong lớp ngoài như người Tây Nguyên, Tây bắc, tôi thấy họ rất gần với người Kinh. Đặc biệt, đàn ông lúc nào cũng quấn đầu khăn trắng, vũ nữ luôn có giải đỏ thắt lưng và choàng vai. Có những màn múa, đầu đội một cổ bồng trầu cao nghệu, người Chăm gọi là Thôn Ha La, những lúc ngả người theo điệu múa, cổ bồng vẫn y nguyên. Chương trình có 4 vũ khúc và màn thổi sáo Satanai của nghệ sĩ già người Chăm: Chú Tốn. Sáo Satanai là loại sáo đặc biệt của người Chăm, gồm ba phần nối lại.. Người nghệ sĩ lim dim mắt, chuyền tất cả hơi trong buồng phổi ra đầu miệng sáo. Bài nhạc sáo dài một hơi từ đầu tới cuối, âm điệu buồn ai oán như hơi thở của núi rừng thăm thẳm vọng về
Điều đặc biệt hiếm thấy là trong khi tiếng sáo không hề đứt đoạn thì ống sáo được tháo bỏ từ từ. Phần miệng sáo, phần thân sáo. Buổi biểu diễn kết thúc trong tiếng vỗ tay khen thưởng vang cả hội trường. Nhưng, không thấy ai, Tây lẫn ta, cho tiền (donation) hay thưởng một thứ gì. Tôi tìm Mỵ để chụp thêm ít ảnh. Ảnh như thế nào chưa biết, nhưng ở đây có cái phong vị đặc biệt, nó làm ray rứt trong lòng nếu không hoàn tất nhiệm vụ. May mắn, mọi chuyện tốt đẹp như mong chờ. Lúc ra về một ông khách chạy theo hỏi: Cô gái ông chụp Kinh hay Chăm mà đẹp vậy? Tôi cười không trả lời. Có người cùng chia sẻ với mình là được rồi. Không nên nói hết mọi chuyện. Phải có chút gì vướng víu mới hay. Chiến tranh và vô thức con người đã làm hư hại phần lớn khu Thánh Địa Mỹ Sơn, nay chỉ còn chừng 20 tháp, những tác phẩm điêu khắc trên sa thạch được Viện Viễn Đông Bác Cổ đưa về trưng bầy trong Museum Chămpa Đà Nẵng, rải rác ở khu A một số tượng đá không còn đầu. Mỹ Sơn, kinh thành của Chămpa có từ trước thế kỷ IV, nơi đã trải qua bao triều đại được coi như biểu tượng tâm linh và uy quyền của một dân tộc, nay chỉ còn lại âm vang buồn thảm xa vắng, ngày một chìm dần. Con người bây giờ, đầy tham vọng, khó mà dựng lại hào quang thần thánh của một dân tộc đã lụn tàn. Trần Công Nhung (Jan. - 2005) (Quê Hương Qua Ống Kính tập 6) (1) Buôn Đôn (QHQOK 5) (2) Quanh thành Nhà Hồ trong tập nầy.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 11, 2009 10:54:52 GMT 9
Rừng Mắm – Bình Nguyên Lộc
Trong một truyện ngắn mang tựa đề "Rừng Mắm", nhà văn Bình Nguyên Lộc đã giải thích lợi ích của cây Mắm qua mẩu đối thoại sau giữa hai ông cháu : - Cây Mắm? Sao con không nghe nói bao giờ? - Con không nghe nói vì cây Mắm không dùng để làm gì được hết, cho đến làm củi chụm lửa cũng không được nữa là. - Vậy trời sanh nó ra làm chi mà vô ích dữ vậy ông nội? Lại sanh hàng hà sa số như là cỏ vậy? - Bờ biển này mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hằng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lún và không bao giờ thành đất thịt để ta hưởng nếu không có rừng Mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một mai kia, cây Mắm sẽ ngã rạp, giống Tràm sẽ nối ngôi Mắm. Rồi sau mấy đời Tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được. Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó nói tiếp: - Ông với tía má con là cây Mắm, chân giam trong bùn. Đời con là Tràm, chân vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã thuần rồi. Con cháu của con sẽ là Xoài, Mít, Dừa, Cau... Đời cây Mắm tuy vô ích, nhưng không uổng đâu con. *** Lời bàn: Cuộc sống con người là một chuỗi liên tiếp, diễn ra qua nhiều người, nhiều thế hệ. Có thể ngày hôm nay, công việc của ta rất tầm thường, nhưng nó sẽ là tiền đề cho người khác phát triển thành những công trình lớn lao, vĩ đại. Mỗi người đều có một vị trí trong xã hội, và vị trí nào cũng quan trọng cả. --------------- cây Mắm: một loại cây sinh trưởng vùng ngập mặn, mọc nhiều ở rừng U Minh, Cà Mau, Cần Giờ của Việt Nam
Sưu Tầm
|
|
|
Post by Can Tho on May 19, 2010 5:03:12 GMT 9
CÂY KHẾ
Mẹ thương cây khế sau nhà Những đêm giá lạnh sương sa đầy vườn Góc vườn khế vẫn tươi non Tán xanh như khoảng trời tròn dưới trưa Tảo tần đứng nắng chịu mưa Đến mùa trái chín đung đưa từng chùm
Cá đồng canh khế, lươn um Càng thương trái khế vàng hươm trên cành "Con gà cục tác lá chanh Cá rô rạch ngược lên cành khế chua..." Lời ru làm dịu nắng trưa Ru cho cành khế gió đưa xạc xào
Mẹ ngồi bện chổi tàu cau Kể về câu chuyện sang giàu khế chua Kể rằng : " Ngày xửa ngày xưa... Ăn một trái khế chim đưa cục vàng..." Mẹ khuyên nết ở đàng hoàng Hãy xa lánh với lòng tham trên đời...
Khế chua khế ngọt lòng tôi Đi xa vẫn nhớ khoảng trời tuổi xanh. B.V.B
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:35:39 GMT 9
Tre trúc Việt Nam Nguyễn Dư
Tình cờ trong lúc đi tra nghĩa một thành ngữ, tôi được đọc :
Trong bài hịch kể tội Tuỳ Dượng Đế, Lý Mật có viết : Chặt hết trúc trên núi Nam Sơn, chẻ thành tre cũng chẳng đủ để ghi tội ác của Tuỳ Dượng Đế. (Điển cố văn học, Đinh Gia Khánh chủ biên, nxb Khoa Học Xã Hội, 1977, tr. 412).
Lời giải thích nghe hơi lạ.
" Chặt hết trúc, chẻ thành tre ", nghĩa là thân cây trúc to hơn thân cây tre à ?
Thế mà từ thuở bé đến giờ tôi cứ đinh ninh là tre to hơn trúc. Hình ảnh cái mành trúc, cái chõng tre của bà nội, cái xe điếu uốn cong của bố, cái cầu ao đầu làng... Hay là mình nhớ sai ?
May quá, Từ điển tiếng Việt của nhóm Hoàng Phê cho biết Trúc là tên gọi chung của nhiều loài tre nhỏ, gióng thẳng. Nghĩa là... trúc nhỏ hơn tre. Yên tâm chưa ? Dạ... chưa. Định nghĩa rõ như vậy mà còn chưa yên tâm à?
Định nghĩa thì rõ nhưng thí dụ đưa ra thì hơi mù mờ. Từ điển tiếng Việt giải thích thành ngữ " Trúc chẻ ngói tan " là ví thế quân mạnh như chẻ tre, đánh đến đâu, quân đối phương tan tới đó.
Trúc chẻ là... chẻ tre. Hoá ra trúc lại là tre ?
Rốt cuộc, trúc là tre hay khác tre ? Là... cả hai! Thế mới... điên cái đầu !
Đầu đuôi chỉ vì :
- Nếu trúc là chữ Hán thì tiếng Việt dịch là cây tre. Thí dụ : Trúc côn là cái gậy tre (Từ điển tiếng Việtcủa Văn Tân).
- Nếu trúc là tiếng Việt thì trúc... hơi khác tre.
Họ tre có nhiều cây, mỗi cây có một tên gọi khác nhau : trúc, bương, luồng, vầu, lồ ô, giang, mai, nứa, hóp v.v.. Trúc là một giống tre nhỏ. Trúc xinh trúc mọc đầu đình.
Tre to lớn hơn trúc. Tre mọc hoang thành rừng. Tre được trồng để bao bọc, bảo vệ xóm làng. Làng tôi xanh bóng tre.
Thân tre được để nguyên, dùng làm nhà, làm cầu ao...hoặc được chẻ nhỏ làm tăm, tước mỏng làm lạt...
Tre và trúc khác nhau như vậy. Nhưng đôi khi cũng bị lẫn lộn.
Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi có câu :
Quyết Đông Hải chi thuỷ, bất túc dĩ trạc kỳ ô ; Khánh Nam Sơn chi trúc, bất túc dĩ thư kỳ ác. Văn Tân dịch là : Tát cạn nước Đông hải, không đủ rửa vết nhơ Chặt hết trúc Nam sơn, chẳng đủ ghi tội ác Trúc Khê dịch là : Múc cạn nước Đông Hải dễ mà rửa sạch tanh nhơ Đẵn hết trúc Nam Sơn chẳng đủ biên ghi tội ác Bùi Kỷ dịch là : Độc ác thay ! trúc rừng không ghi hết tội Dơ bẩn thay ! nước bể không rửa sạch mùi Chữ trúc được cả ba người dịch dịch là... trúc. Đúng ra phải dịch là tre. Nguyễn Trãi muốn nói rằng Chặt hết tre Nam Sơn (chẻ thành thanh) cũng không đủ để ghi tội ác (của quân Minh).
Trong một bài biểu dâng lên vua Gia Long, Đặng Trần Thường cũng nói :
Xét tội ác (của bọn Ngô Thời Nhậm thì) chẻ hết tre cũng khó biên hết.(Đại Nam thực lục, tập 1, bản dịch của Nguyễn Ngọc Tỉnh, Giáo Dục, 2002, tr. 547).
Ngày xưa, khi chưa có giấy, người ta viết lên tre. Những thanh tre chép sử, có lớp vỏ màu xanh, được gọi là thanh sử. Thanh sử dịch sang tiếng Việt là sử xanh.
Nghìn thu gặp hội thăng bình Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời Lan đài dừng bút thảnh thơi Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh... (Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, Đại Nam quốc sử diễn ca) Ngày nay lịch sử được viết bằng giấy trắng mực đen, được gọi là trang sử. Chỉ có mấy ông hoài cổ, ưa màu mè, mới phóng bút viết những trang sử xanh (rờn). Thân trúc (tiếng Việt) vốn nhỏ, người Việt không chẻ trúc để làm gì cả.
Chỉ có văn học mới lôi trúc (chữ Hán) ra chẻ.
Bản dịch Bình Ngô đại cáo có câu :
Trận Bồ Đằng như sấm vang chớp giật, Trận Trà Lân như trúc chẻ tro bay. Thơ Nôm cũng có những câu tương tự : Nhân cơ phá trúc đuổi dài Bảo Hà mở luỹ, Hồng Mai trú đồn (Đại Nam quốc sử diễn ca) Thừa cơ trúc chẻ ngói tan Binh uy từ ấy sấm ran ra ngoài (Kiều) " Trúc chẻ " chữ Hán là " phá trúc ". " Phá trúc " dịch hết sang tiếng Việt là " chẻ tre ". " Trúc chẻ ngói tan " chỉ thế quân mạnh, đánh đâu được đấy. Dễ như chẻ tre, tháo ngói. Chẻ tre, chẻ được một mắt thì các mắt khác tự tách ra. Tháo ngói, tháo được một hòn thì cả mảng sụt theo (Đào Duy Anh, Từ điển truyện Kiều).
Đào Duy Anh gián tiếp đồng ý rằng " trúc chẻ " nghĩa là " chẻ tre ".
Tại sao trong thơ văn xưa của ta, chữ tre không được dùng, chữ trúc không được dịch ? Chỉ vì niêm luật, thanh điệu của thơ văn. Tre (thanh bằng) không thay thế cho trúc (thanh trắc) được. Rốt cuộc các tác giả, dịch giả đã chọn cái hay (nhưng tối nghĩa) thay cho cái đúng (nhưng nằm ngoài vòng luật lệ).
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao (Nguyễn Bỉnh Khiêm) Miệng ăn măng trúc, măng mai Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng (Trấn thủ lưu đồn, Ca dao)
Măng mai to bằng bắp chân ăn còn bữa đói bữa no, huống hồ măng trúc nhỏ như ngón tay. Nguyễn Bỉnh Khiêm có thể sai người ở đi tìm măng trúc về... nhắm rượu, nhưng anh lính thú " ngày thì canh điếm tối dồn việc quan " kia thì nhất định không mất thì giờ đi kiếm măng trúc về... nhâm nhi, ăn chơi. Oằn oại đôi vai quân tử trúc Long lay một cổ trượng phu tòng (Nguyễn Hữu Huân, Khi bị đóng gông) Gông mà làm bằng trúc thì chỉ có gông hàng mã cho trẻ con bẻ chơi. Luật bằng trắc đã loại chữ tre, dùng chữ trúc (Hán).
Tuy nhiên, đôi khi chữ trúc cũng được niêm luật cho phép dịch là tre.
Tú hoa dã trúc tam xuân hảo Tinh nguyệt minh song nhất thất hư (Tre hoang, hoa đẹp, ba xuân tốt, Cửa sáng, trăng trong, nhà trống trơ). (Nguyễn Bỉnh Khiêm, Xuân đán cảm tác, Đinh Gia Khánh dịch)
Mặc dù bị trúc Tàu lấn át, thỉnh thoảng cây tre của ta cũng được các cụ nhà Nho đề cao. Thế à? Hoá ra bụt chùa nhà cũng thiêng sao ? Đồ đựng tăm ngày xưa được khắc câu Mỗi phạn bất vong quân tử trúc (Mỗi bữa cơm không quên cây tre quân tử). Cây tre được ví với người quân tử vì tre có " tiết cứng, lòng không " :
Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết Đáo lăng vân sứ dã vô tâm (Chưa mọc lên khỏi mặt đất đã có tiết Lên đến mây cao thì không có tâm)
Có chắc là cây tre không ? Con ve kêu ỏng ảnh tiếng chầy Kìa quân tử trúc, dạ này bâng khuâng... Dân ca cũng tơ tưởng quân tử trúc kia mà ! Quân tử trúc là... quân tử Tàu. Quân tử tre là... quân tử ta.
Đôi khi dân ca còn vượt cả chữ nghĩa của thánh hiền :
Gió đưa bụi trúc ngã quỳ Ba năm trực tiết còn gì là xuân Tiết hạnh của nữ nhi và tiết tháo của quân tử, cái nào đáng quý hơn cái nào ? Trở lại chuyện cơm nước hàng ngày.
Mỗi bữa cơm không quên cây tre quân tử. Người ta có thể ba ngày, ba tháng không đọc sách, nhưng mấy ai có thể khoanh tay...chịu mắc răng nửa ngày ? Câu nói vừa có nghĩa đen là ăn cơm xong phải nhớ lấy tăm (tre) xỉa răng, vừa có ý nhắc nhở mọi người phải tu thân để trở thành người quân tử.
Dạ, dạ, quân tử dễ thương lắm.
Chả thế mà chị Xuân Hương đã nhiều lần thủ thỉ :
Quân tử có yêu thì đóng cọc Xin đừng mân mó nhựa ra tay (Quả mít) Quân tử có thương thì bóc yếm Xin đừng ngó ngoáy lỗ trôn tôi (Ốc nhồi)
Bọn em chỉ mơ được : Một đêm quân tử nằm kề Còn hơn thằng nhắng vỗ về quanh năm Oan cho nhà Nho đến thế là cùng. Nhà Nho khuyên mọi người sống như quân tử chứ không phải khuyến khích các em... chơi trèo với quân tử như vậy đâu. Người ta, kẻ thì mong được " một phút huy hoàng ", kẻ thì lỡ dại được " một giờ ", thế mà mấy em đòi những... " một đêm"! Quân tử như gió, tiểu nhân như cỏ... Mưa gió suốt đêm, coi chừng có ngày sập nhà, gãy giường đấy.
Nghĩ mà bực mình giùm cho thằng nhắng Việt Nam. Dớ da dớ dẩn, rờ rẫm ra sao để đến nỗi xôi hỏng bỏng không, bị chê sát ván như vậy ? Nó phải sống ở bên Tây thì mới đúng đất dụng võ. Tha hồ trổ tài vỗ về các bà. Huy chương vàng nịnh đầm (galant) đút túi là cái chắc !
Ta có thành ngữ Tre già măng mọc để nói thế hệ trẻ nối tiếp thế hệ cha ông. Ngày xưa còn có thành ngữ Tre còn măng mất (Nguyễn Đình Chiểu, Lục Vân Tiên), và Tre già khóc măng (Génibrel) để chỉ hoàn cảnh con cái chết trước cha mẹ.
Mới ngày nào...
Tre được dựng thành hàng rào dày đặc để phòng giữ các bản làng miền núi, để bảo vệ các ấp chiến lược xa xôi hẻo lánh. Tre được vót nhọn, cắm tua tủa dưới hầm chông.
Qua rồi, cái thời chinh chiến...
Mẹ nhìn lên cao trong vắt trăng sao Đầu làng tre xanh vui đón xôn xao Mẹ nhìn tay con không súng không dao Nụ cười trên môi Ôi trái tim người... (Phạm Thế Mỹ, Giấc mơ của mẹ) Bụi tre, khóm trúc lại trở thành chứng nhân của hò hẹn, yêu đương... Anh nhớ xót xa, dưới tre là ngà Gợn buồn nhìn anh, em nói mến anh Mây lướt thướt trôi, khi nắng vương đồi Nhớ em dịu hiền, nắng chiều ngừng trôi. (Lê Trọng Nguyễn, Nắng chiều) ... của nhớ thương, hờn trách Công anh đắp nấm trồng chanh Chẳng được ăn quả vin cành cho cam ... Chắc về đâu đã hẳn hơn đâu, Cầu tre vững dịp hơn cầu thượng gia Cầu thượng gia tức là cầu " thượng gia hạ trì " (trên là nhà, dưới là ao). Có nơi gọi là " cầu ngói " (Thanh Toàn), " cầu Nhật Bản " (Hội An). Chàng trai trách người yêu tham giàu phụ nghèo. Em ơi, cầu thượng gia kia nhìn bề ngoài thì sang trọng, to lớn nhưng chắc gì đã vững bền hơn chiếc cầu tre đơn sơ, mộc mạc này?
Thuở thanh bình, tre trúc reo vui... Vườn nhà chúng tôi tre mọc um tùm. Lúc mới dọn về, vườn chỉ có một khóm tre thưa. Vợ chồng hăm hở đánh vài gốc, cắm trồng mấy góc vườn. Hàng xóm đỡ dòm sang nhà mình . Không ngờ, mấy năm sau chỗ nào cũng đầy tre. Chặt rồi lại mọc. Tre mọc kín hàng rào. Tre chui dưới tường, đâm ra ngoài đường. Tre bò sang hàng xóm. Tre nâng cả gạch lát sân. Rễ tre sắp lan đến bếp, sắp đụng phòng khách. Người bạn Pháp ngạc nhiên :
- Ồ ! Tre biết lách, biết luồn tránh chướng ngại. Nhiều đốt cụt ngủn, hình thù xiên xẹo.
- Một vài cây bị biến tướng. Có lẽ tại thuỷ thổ.
- Bên Pháp không có tăm tre, người Việt xoay xở ra sao ?
- Không có tăm tre thì có tăm quẹt, tăm gỗ, tăm nhựa. Tăm nào chả được, miễn sao sạch sẽ, được việc.
Nguyễn Dư (Lyon, 6/2006)
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:37:41 GMT 9
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Qua vài nét văn hóa Miệt Vườn
Nguyễn Văn Trần
"Nhà Bè nước chảy chia hai Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về" I.- SƠ LƯỢC KHAI MỞ MIỀN ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG.-
1.- Người ta nói "Miền" Đồng Bằng Sông Cửu Long để tách bạch một địa phương, tuy rộng lớn, trên một phạm vi rộng lớn hơn, đó là "vùng", như "vùng" Nam Thái Bình Dương, "vùng" Đông Nam Á, mà Miền Đồng Bằng Sông Cửu Long chỉ là một "đơn vị" nằm trong vùng địa lý văn hóa Đông Nam Á .
Chúng ta ai cũng biết miền Nam Việt Nam chạy dài tận mũi Cà Mau thành hình theo bước Nam tiến của tiền nhơn .
Năm 1658, di thần nhà Minh , "Phản Thanh phục Minh", với 3000 quân tinh nhuệ, với chiến thuyền và võ trang hùng hậu, đến Thuận Hóa để xin được Chánh quyền Việt Nam giúp đỡ. Chúa Nguyễn, Hiền Vương, nghĩ nếu từ chối và đuổi đi, thiø đám tàn quân nầy vì cùn đường có thể đánh phá ta, nên tiếp đãi niềm nở, còn khoản đãi, phong chức và cho phép vào phía nam khẩn hoang, lập nghiệp ở Biên Hòa, Cù Lao Phố, và Định Tường với lời chỉ dẫn "đó là vùng đất mới của ta".
Trần Thắng Tài và Dương Ngạn Địch là hai tướng nhà Minh chỉ huy lực lượng hải thuyền di tản về phương nam với lòng mưu cầu phục Minh sau này .
Tướng Trần Thắng Tài vâng lệnh Chúa Nguyễn dẩn một đoàn quân với chiến thuyền đi về vùng Biên Hòa để khai phá và định cư lập nghiệp. Họ mở mang thương mãi và chỉ trong ít lâu biến Cù Lao Phố thành một trung tâm thương mãi trù phú . Đến khi Tây Sơn tiến đánh vào Nam, một phần dân cư ở đây di tản về Bến Nghé sanh sống . Họ chuyên thu mua và bán nông phẩm từ phía Định Tường chở tới . Bến Nghé sau này trở thành Chợ Lớn và hoạt động kinh tế vẫn còn nằm trong tay người Tàu .
Trong lúc đó, tướng Dương Ngạn Địch dẫn một đoàn quân kéo về Định Tường định cư lập nghiệp. Cánh nầy chuyên vê nông nghiệp . Họ lập ra chín nông trại, dần dần mở mang ra thành Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long ngày nay .
2.- Người Việt Nam theo chơn người Tàu tiếp tục bước Nam tiến và thành lập Chánh quyền ở những nơi dân cư ổn định đời sống . Nơi nào có Chánh quyền Việt Nam, nơi đó lập tức được hợp thức hóa trở thành lãnh thổ của Việt Nam . Tức nước Việt Nam định hiønh . Sự kiện lịch sử này hoàn toàn phù hợp với tinh thần công phàp ngày nay .
Người học sử có nhận xét đặc biệt về lịch sử lập quốc của Việt Nam, không giống lịch sử lập quốc của phần nhiều các quốc gia khác bởi "chính người Việt Nam từng bước lập thành nước Việt Nam". Chúng ta có thể mường tượng lịch sử lập quốc Việt Nam như một dòng nước từ trên vùng đất cao chảy loang ra vùng đất thấp . Nước chảy đến đâu thiø đất thắm nước là đất của dòng nước ấy. Mà Việt Nam cũng tắm mình trong dòng nước Nam Hải với các quốc gia khác trong Vùng Đông Nam Á .
Đất trong Nam là đất của Nhà Nguyễn, nên khi Gia Long tẩu quốc, chạy vào Định Tường, Ba Giồng, được dân chúng miền Nam khắp nơi niềm nở đón tiếp và phục vụ nhà vua tận tình . Cũng vào thời gian ấy, Mạc Cữu từ Thái Lan qua, đặt chơn ở Hà Tiên, lập ra thương cảng, một thời buôn bán phồn thịnh . Sau nhiều lần bị Thái Lan và Cao Miên uy hiếp, Mạc Cữu chấp nhận thuần phục Nhà Nguyễn và được chúa Nguyễn phong chức quan, cai quản phần đất Hà Tiên để về sau nầy nối liền với Rạch Giá . Và lãnh thổ Nhà Nguyễn từ đó chạy dài tận mũi Cà Mau .
II.- TỔ CHỨC ĐỊNH CƯ VÀ MIỀN ĐỊA LINH NHƠN KIỆT
1.- Chánh quyền địa phương được thiết lập xong liền bắt tay ngay vào việc lo tăng gia sản xuất lúa gạo, hoa màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm, đánh cá, ... để góp phần cải thiện đời sống dân chúng .
Cùng với hoạt động kinh tế, Chánh quyền còn quan tâm đến đời sống tinh thần của người dân, đứng ra lập đền chùa, miếu mạo, tổ chức quan hôn, tang, tế trong dân chúng . Đồng thời, trường học cũng xuất hiện để khai hóa dân trí con em trong làng xã . Những người có học chữ nho, y học, được Chánh quyền cho phép dạy học, chữa bịnh cho dân chúng .
Đến đây, chúng ta nhận thấy một sự kiện xã hội rõ nét ở địa phương mới khai khẩn này, đó là người Tàu và người Miên, vốn là chủ nhơn ở đây, chỉ chăm lo làm ăn, buôn bán, còn người Việt Nam đến sau, lại quan tâm tổ chức xã hội theo trật tự Nhà Nguyễn . Vì thế mà trong quá trình lập quốc, ít khi xảy ra những cuộc tranh chấp về chủ quyền đất đai gay gắt . Người Tàu và người Miên mặc nhiên nhìn nhận Chánh quyền Nhà Nguyễn và người Việt là chủ nhơn của phần đất này .
Cơ sở xã hội văn hóa được tổ chức như thế đã vững chắc cho đến khi thực dân Pháp đến xâm chiếm
2.- Có hai nơi được xem như Trung tâm văn hóa quan trọng của Miền Nam lúc bấy giờ, đó là Vĩnh Long và Định Tường . Hai nơi này đã đào tạo một Phan Thanh Giản thi đậu tiến sĩ . Ông bị lên án là ông quan nhu nhược, đầu hàng thực dân vì đã chấp hành hòa ước với Pháp năm 1862, nên sau đó ông đã chọn cái chết để tỏ tiết tháo sĩ phu . Dân miền Nam không quên những nhà Nho ái quốc và đầy tiết tháo khác, như Bùi Hữu Nghĩa thi đậu thủ khoa ; thủ khoa Huân chết sống với Mỹ Tho; Trương Công Định rạng danh chống Pháp ở đám lá Tối Trời, Gia Thuận, Gò Công; Thiên Hộ Dương, một điền chủ ái quốc chống Tây ở Đồng Tháp ; Nguyễn Trung Trực chống giữ vùng Nhật Tảo nêu cao tấm gương ái quốc và can trường mà ngày nay người Rạch Giá tôn thờ là vị thần linh :
"Lửa hồng Nhật Tảo oanh thiên địa Kiếm bạc Kiên Giang khấp quỷ thần".
Đó là 4 vị sĩ phu Nam Hà xuất thân từ trung tâm văn hóa Định Tường và Vĩnh Long, sống chết cho Đồng Bằng Sông Cửu Long .
Trong quá trình khai mở miền Nam, nhà Nguyễn chiêu mộ dân lập ấp đưa về miệt dưới như Ba Xuyên, Cà Mau, Rạch Giá . Trong chương trình lập ấp, tức tổ chức định cư về mặt xã hội, chánh quyền nhà Nguyễn kêu gọi những tù phạm nếu hưởng ứng chương trình này họ sẽ được khoan hồng
Nhà Nguyễn theo đuổi mục tiêu chiến lược là mở rộng bờ cõi về phía Nam, thiết lập và củng cố chánh quyền miền Nam, tổ chức phòng thủ chống ngoại xâm .
3.- Khi thực dân Pháp đến, nhận thấy tầm quan trọng chiến lược của miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, nên họ cho bố trí lực lượng quân sự kỹ lưỡng . Nhưng vẫn không thiếu những người dân thường, dưới sự lãnh đạo hoặc ảnh hưởng những tấm gương sáng ái quốc của các sĩ phu Nam Hà, đứng lên từng nhóm chống Tây . Họ bị bắt và bị đày biệt xứ, tức bị đày qua Rạch Giá, Bạc Liêu, Cà Mau, hoặc chính họ rời bỏ Hai Huyện mà chạy trốn qua những vùng đất mới này để lánh nạn :
"Cần Thơ là cảnh Cao Lãnh là quê Anh đi khỏi xứ Tào Khê Thoát vòng lao lý đâu dè gặp em".
Đồng thời, thực dân Pháp xoa dịu, tránh mọi phản ứng không cần thiết của dân chúng . Họ mở trường dạy học và mời các ông đồ ngày trước làm đốc học và thầy giáo . Học sinh không mấy người chịu đi học trường của Tây khai mở .
Khi thực dân Pháp tới thì Văn Miếu tiêu biểu nền Nho học vẫn còn . Lập tức, các giáo sĩ Vatican chiếm lấy ngay để biến làm nơi truyền giáo . Họ muốn vĩnh viễn tiêu diệt mọi mầm mống chống đối chính quyền thực dân vì Nho sĩ vẫn là "cái đầu" của xã thôn và đồng thời xóa tận gốc vết tích nền học vấn cũ ung đúc lòng yêu nước và tinh thần quật khởi trong dân chúng, thay thế vào đó là cái học mới theo nền văn minh Tây phương . Chính sự việc này còn là nguyên nhân sâu xa của tầng lớp sĩ phu chống đối thực dân Pháp và đợt sóng văn minh mới .
Trước lòng dân oán hận, thực dân Pháp phải cho duy trì những tập tục cũ như lễ lạc, tín ngưỡng dân gian . Ông già Ba Tri, tức nhà Nho ái quốc Nguyễn Đình Chiểu than thở, lòng đầy uất hận vì bất lực :
"Thà đui mà giữ đạo nhà Còn hơn sáng mắt, ông cha không thờ ".
III- SƠ LƯỢC VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI
1.- Có nhiều người quan tâm phân biệt những vùng đất khác nhau, như, "Miệt Vườn" với Đồng Bằng Sông Cửu Long . Chữ "Miệt" chỉ một vùng đất ở xa theo vị trí địa lý đối với người nói chuyện, như "Miệt Trên" , "Miệt Dưới", "Miệt Cao Lãnh" , "Miệt Đồng Tháp", "Miệt Xà Toóng" , "Miệt Bảy Núi",...
"Miệt Vườn" chỉ những vùng đất cao, thấm nước ngọt, thuận lợi cho việc lập vườn tược cây trái . Nơi đây, cách sinh hoạt được tổ chức khác hơn so với những nơi người dân sanh sống bằng nghề làm ruộng . Từ đó, phong cách xã hội của người dân cũng khác . Họ có vẻ thanh tú hơn nông dân ở vùng ruộng nước . Khỏi phải nói, phụ nữ "Miệt Vườn" đẹp hơn phụ nữ "Miệt Ruộng" vô cùng .
"Đời phải đời thạnh trị Cuộc phải cuộc văn minh, Kìa là gió mát trăng thanh Biết đâu nhơn đạo bày tình cho vui". (Câu hát dân gian)
Người miệt vườn hay miệt ruộng tuy có khác nhau về phong thái xã hội nhưng phần lớn họ đều nặng lòng ái quốc như nhau . Đó là nét văn hóa dễ nhận ở người dân của vùng đất mới này . Về cách tổ chức đời sống, họ ăn mặc đơn giản, ngắn gọn nên chiếc áo bà ba rất thích hợp với mọi người và mọi lứa tuổi . Nhà cửa thường xây cất tập trung theo trục giao thông như đường cái, ven sông rạch và mở toang ra bên ngoài, khác với miền Bắc, nơi thời tiết lạnh lẽo . Từ đó, tánh tiønh người miền Nam, nhất là miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, tỏ ra thật thà, bộc trực, không thích suy nghĩ, nói năng quanh co, bợ đỡ, xảo trá,... Trong quan hệ giao tiếp, họ luôn luôn nhiệt tình với lối xóm, bạn bè : "Bà con xa không bằng láng giềng gần". Với bạn bè hay lối xóm, họ phải ăn ở với nhau cho "điệu nghệ", tức theo "đạo nghĩa" (nghĩa = công bằng, cho phải phải phân phân để không mất lòng nhau vì không ai bị thiệt) .
2.- Sau khi ổn định xong vùng đất mới với chế độ thuộc địa, người Pháp bắt đầu mở rộng sự xâm nhập văn hóa Tây phương. Họ mở trường dạy chữ quốc ngữ, chữ Tây chung với chữ Nho nhưng trọng chữ Tây hơn để sớm đào tạo một lớp quan chức mới, phục vụ cho bộ máy hành chánh thuộc địa . Lớp "sĩ phu" Tây học này được trả lương cao nên có đời sống vật chất dễ chịu và họ rời bỏ ruộng vườn ra sanh sống ở thành thị . Đây chính là lúc nhà Nho Tú Xương than thở :
" Cái học nhà Nho đã hỏng rồi Mười người đi học, chín người thôi..."
hoặc châm biếm cách thi cử theo chế độ mới :
"Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ Ậm oẹ quan trường miệng thét loa, Lộng cắm rợp trời quan sứ đến Váy lê quét đất mụ đầm ra."
hoặc
" Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt Dưới sân ông cử ngoảnh đầu rồng." Than thở cho số phận của một ông Nghè, ông Cống và giễu cả ông Phán:
"Nào có lạ gì cái chữ nho Ông Nghè ông Cống cũng nằm co, Sao bằng đi học làm ông Phán Tối rượu săm banh, sáng sửa bò."
Tuy nhiên, ở đây vẫn còn những Học Lạc, Thủ Khoa Huân, Đồ Chiểu, Sương Nguyệt Anh cố bám giữ cái học cũ . Họ làm thơ cổ bằng chữ nho . Nhưng những sáng tác của nho sĩ chỉ được một số ít người có học chữ nho đón nhận nồng nhiệt mà thôi . Trước trào lưu ồ ạt của văn minh tây phương, một số nhà nho đành chấp nhận "đầu hàng", quay ra dịch truyện tàu ra quốc ngữ, hoặc truyện bằng chữ nôm ra quốc ngữ . Từ cuối thế kỷ 19, bắt đầu có những sáng tác, báo chí bằng chữ quốc ngữ như "Thầy Lazaro Phiền" , "Gia Định báo", "Nông Cổ Mín Đàm",... Truyện văn vần như Phạm Công Cúc Hoa, Lâm Sanh Xuân Nương, Sáu Trọng, ... bằng quốc ngữ rất được rộng rãi giới bình dân ưa chuộng .
Những nho sĩ ái quốc cũng bắt đầu đón đọc những tác phẩm về tư tưởng tây phương, như của Montesquieu, J.J.Rousseau, qua Hán văn dịch từ tiếng Nhựt .
Một lần nữa, những nho sĩ ái quốc chịu ảnh hưởng tư tưởng chính trị tây phương, đứng lên làm cách mạng chống ngoại xâm, giành độc lập dân tộc mà không "Cần Vương" nữa .
Tiếp theo, một lớp người mới, học trường Tây, chữ Tây ngay từ nhỏ, lớn lên, học xong, đỗ đạt trường Tây, họ kêu gọi dân chúng tập hợp lại chống Tây . Những người này khác hẳn với một số người đương thời với họ, học Nga, học Tàu, trình độ học vấn kém hơn họ nhiều nhưng lại theo Nga, theo Tàu, đánh mất hoàn toàn con người Việt Nam ỏ họ .
Những người học Tây mà theo Việt Nam đó là Nguyễn An Ninh, Phan Văn Hùm, Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Hồ Văn Ngà, Nguyễn Văn Sâm, Trần Văn Ân, Võ Thành Cứ, . . .
3.- Trong sinh hoạt văn hóa, một bộ môn nổi bật và hấp dẫn quần chúng mạnh nhất là hát bộ, hát cải lương và đờn ca tài tử.
Vào đầu thế kỷ qua, nhà in Phát Toán ở đường Nguyễn Văn Thinh, Sài Gòn 1, in và xuất bản "Bản đờn tranh và bài ca".
Người bấy giờ chơi đờn ca theo quan niệm là đờn ca chỉ để "di dưỡng tánh tình, giao cảm với bạn tri âm", hoàn toàn không có ý làm tiền nên còn được dân chúng và giới mộ điệu gọi là "văn nghệ tài tử".
Ngày trước, đờn ca, hát múa chỉ dành riêng và thạnh hành trong Cung điønh, nay mở rộng ra phục vụ dân chúng, mà lại là dân chúng miền Đồng Bằng Sông Cửu Long .
Cải lương và nhiều bài hát còn lưu truyền cho tới ngày nay đều xuất phát từ miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, bởi vì miền này trù phú, người dân có đời sống sung túc nên có thời giờ và điều kiện nghĩ đến những môn giải trí tao nhã . Từ đó xuất hiện văn nghệ .
Tại Vĩnh Long, có ông Tống Hữu Định tổ chức ca hát tại tư gia của ông . Người ca hát đứng trên bộ ván và hát có bộ, tức có nhiều cử chỉ để diễn tả ý của bài hát .
Cũng ỏ Vĩnh Long, có ông Huờn, công chức tòa án, sáng tác bài ca cải cách, ông Phạm Đăng Đàng là một thầy đờn nổi tiếng, ông Trương Duy Toản là soạn giả tiền phong về cải lương . Ông Toản còn là ký giả và chủ bút báo Trung Lập . Về Từ Hải, ông ca ngợi tinh thần anh hùng, tranh đấu mà không vì "công hầu khanh tướng", lại phảng phất tinh thần yêu nước :
" ... Đường cung kiếm, cái chí nam nhi Núi sông là phận, từ đây quyết vẫy vùng cho sống dậy trần ai Rền một trời, đùng đùng xao động, Tài oanh liệt, mấy ngọn gươm vàng Rạch một sơn hà, mặc dầu ngang dọc..."
Đờn ca chẳng riêng biểu diễn cho công chúng Đồng Bằng Sông Cửu Long thưởng ngoạn mà còn được đem qua tận xứ Pháp, tham dự như phần văn nghệ tại cuộc triển lãm quốc tế vào lúc bấy giờ .
Miệt vườn một thời nổi tiếng "ca nhạc tài tử với bộ điệu" đã ảnh hưởng mạnh đến những vùng xa xôi khác, như Sài Gòn . Ở Hậu Giang, lúc bấy giờ có ông Hai Khị, người gốc Minh Hương, giỏi về nhạc ; ông Sáu Lầu sáng chế bản "Dạ cổ hoài lang", tức bản vọng cổ còn lưu truyền đến ngày nay .
Năm 1917, ông André Thậm lập gánh xiệc có pha ca hát có điệu bộ .
Qua đó, chúng ta thấy cải lương ra đời từ miệt vườn, thâu thái cái hay cũ, đổi mới theo nhu cầu, hoàn cảnh địa phương .
Người dân đến đây định cư lập nghiệp cũng vận dụng óc sáng tạo để thích nghi với từng hoàn cảnh, điều kiện đất đai, nước gió . Nơi họ giữ ruộng cày cấy, nơi họ xạ lúa và nơi thì họ trồng đủ các loại cây ăn trái,...
Mỗi chọn lựa đều nhằm thích nghi để phát huy khả năng sản xuất .
Văn nghệ tài tử và cách tổ chức đời sống của người Việt từ miền ngoài vào đây theo bước nam tiến là hai nét đặc trưng của văn hóa dân tộc :
" Chuồn chuồn bay thấp Mưa ngập ruộng vườn Nghe lời nói lại càng thương Thương em, anh muốn lập vườn cưới em ". (Câu Hò)
Người miệt vườn có tiếng là văn minh -"Văn minh miệt vườn". Thế mà khi tiếp xúc trực tiếp với nền văn minh tây phương, họ chẳng những ngỡ ngàng mà còn ú ớ nữa .
Năm 1917, máy hát dĩa chạy bằng dây thiều nhập vào Việt Nam . Nhà giàu miệt vườn là trong số những người mua sắm máy hát đầu tiên . Khi nghe máy hát, có nhiều người sợ hãi bảo nhau : "Trong đó, có hồn người ta bị bắt nhốt vào nên nó mới hát thành tiếng . Chứ máy bằng sắt thì làm gì nói ra tiếng người ta được". Còn thấy máy chụp hình thì họ càng sợ hãi hơn nữa, vì họ cho là máy chụp hình sẽ "hốt hồn vía" của họ mất đi .
4.- Khi phong trào cách mạng Duy Tân phát động năm 1919, Kỳ Ngoại Hầu Cường Để đến Mỹ Tho, Tân Châu, Cao Lãnh vận động quần chúng . Qua năm 1910, có thêm những nhà cách mạng, như ông Nguyễn Quyền, Dương Bá Trạc, Võ Hoanh từ Côn Đảo được đưa về và chỉ định an trí ở Bến Tre, Mỹ Tho, Sa Đéc . Những nhân sĩ Nam Kỳ theo phong trào Duy Tân, Đông Du như các ông Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư, Nguyễn Thần Hiến, Gilbert Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Quang Diêu, gốc Nho học nên chịu ảnh hưởng Tôn Dật Tiên "Tiết chế tư bổn, bình quân địa quyền".
Hưởng ứng cuộc vận động cách mạng dân tộc của các nhà ái quốc này, thanh niên Nam Kỳ dấn thân theo chương trình Đông Du đông đảo hơn những nơi khác, và dân Nam Kỳ đóng góp tiền bạc cũng nhiều hơn những nơi khác .
Sách báo bằng quốc ngữ, nhờ những điều kiện thuận lợi của địa phương nên xuất hiện ở xứ Nam Kỳ phải nói là rất sớm, vào cuối thế kỷ 19 .
Về truyện, có "Thầy Lazaro Phiền" của Nguyễn Trọng Quảng, mà ngày nay người đọc vẫn hiểu được như thường bỡi lời văn tuy có xưa nhưng vẫn không quá khác biệc với chữ nghĩa ngày nay .
Về báo, có Gia Định báo xuất bản vào cuối thế kỷ 19 và kéo dài làm nhiều chục năm, qua đến cuối thập niên đầu của thế kỷ 20 . Lục Tỉnh Tân Văn tiếp theo và tồn tại khá lâu . Nam Phong và Phong Hóa, Ngày Nay chỉ xuất hiện sau, vào cuối tiền bán thế kỷ 20 . Cũng như về tiểu thuyết, đến năm 1923 mới thấy Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, trong lúc ấy, tiểu thuyết quốc ngữ của Hồ Biểu Chánh đã ra mắt vào năm 1916 .
Thế mà văn học sử chỉ thấy ghi tiểu thuyết quốc ngữ chỉ có Tố Tâm, Tự Lực Văn Đoàn và báo, chỉ có Nam Phong, Phong Hóa, Ngày Nay . Điều đáng buồn là không được ghi nhận sự "có mặt" của sách báo Nam Kỳ, chứ không phải được ghi vào danh mục rồi bị phê bình là "dở quá", không xứng đáng là tác phẩm văn học !
5.- Một sự kiện văn hóa Đồng Bằng Sông Cửu Long nổi bật rực rỡ chỉ trong vòng không quá hai năm, thâu phục hơn 2 triệu người, đủ thành phần xã hội, nam nữ, tuổi tác và đưa số người này khuôn vào nếp sống hướng thượng, lành mạnh, đạo đức và đầy lòng ái quốc . Đó là sự ra đời của Phật Giáo Hòa Hảo vào năm 1939, tại Châu Đốc .
Các nhà ái quốc tiền bối đau lòng cho vận nước, không ngại gian khổ, bôn ba ra hải ngoại vận động cứu nước như phong trào Duy Tân, Đông Du . Nối tiếp công cuộc đó, Đức Thầy Huỳnh Phú Sổ, trước tiønh hình thế chiến bùng nổ, vận mạng Việt Nam còn trong vòng kiềm chế của thực dân, bèn đứng lên vận động quần chúng ngay nơi Ngài sinh trưởng, tức quần chúng nông dân miền Đồng Bằng Sông Cửu Long . Ngài ý thức sức mạnh đánh đuổi ngoại bang giành độc lập cho đất nước không tìm ở đâu khác hơn là ở ngay đồng ruộng miền Nam . Cũng như về tu Phật, Ngài dạy "Phật tại tâm chứ đâu mà tìm".
Trào lưu văn minh Tây phương đã làm đảo điên xã hội, Ngài cổ súy chấn hưng phong hóa nước nhà, đồng thời thức tỉnh lòng ái quốc ở người dân để thành lập phong trào nhơn dân tranh đấu cứu nước. Ngài lấy đạo dạy đời làm căn bản :
"Đời không đạo, đời vô liêm sỉ Đạo không đời, đạo biết dạy ai".
và sống đời sống của người Phật Giáo Hòa Hảo lấy Tứ Đại trọng Ân làm kim chỉ nam :
"Tu đền nợ nước cho rồi Thì sau mới được đứng ngồi tòa sen".
Trước đó, năm 1927, tại miền Đông xuất hiện Cao Đài Đại Đạo . Đây cũng là một tôn giáo ái quốc của xứ Nam Kỳ, vùng đất vừa mới được khai mở, thiếu cái gốc ngàn năm của đất Thăng Long hay đất Thần Kinh . Cao Đài xuất hiện ở miền Đông viø dân Hai Huyện văn minh hơn, có học Tây nhiều hơn, và số người làm việc cho bộ máy hành chánh của Tây cũng đông đảo hơn . Từ đó, cách tổ chức, hành đạo, truyền bá giáo lý của Cao Đài Đại Đạo đều mang tính khoa học tây phương . Người khai mở đạo là một vị Đốc Phủ Sứ . Những người cầm đầu mối đạo cũng là những người thuần tây học. Và Cao Đài mở rộng trong tầng lớp trung lưu, công tư chức Nam Kỳ .
lV.- GIỜ ĐÂY VÀ NƠI ĐÂY*
Hội Ái Hữu Đồng Bằng Sông Cửu Long là một tập hợp những người Việt hải ngoại, ngày nay đến đây lập nghiệp .Tất cả cùng có chung quê hương thuộc vùng sông nước ấy .
Trước kia, tiền nhân của họ đã một lần rời bỏ làng xóm, quê hương theo bước chân nam tiến đến vùng đất xa xôi, từng bước định cư, lập nghiệp và cùng nhau thành lập miền Đồng Bằng Sông Cửu Long .
Giờ đây, con cháu của họ lại một lần nữa rời quê hương của ông cha để lại, tản mạn ra hải ngoại ở khắp nơi . Rồi ở đây, họ cùng nhau dựng lại Đồng Bằng Sông Cửu Long với những con người "miệt vườn, miệt ruộng" thiệt, nhưng trên đất đai của xứ định cư .
Nhưng Đồng Bằng Sông Cửu Long ở đây mới chính là "cái còn" của chúng ta, vì chúng ta đã dựng lại nó với tất cả tâm tình chân thật, với nếp văn hóa của lớp con cháu của những người trước kia khai mở nó .
"Cái còn" này chúng ta phải trân quý, gìn giữ . Nếu để mất một lần nữa là chúng ta bị mất hết, mất trọn vẹn gia sản tiền nhân.
Cũng như người con gái miền Đồng Bằng Sông Cửu Long, trước làn sóng văn minh Tây Phương làm thay đổi nếp sống miệt vườn, cương quyết bảo vệ cho kỳ được cái nét đôn hậu ở người yêu :
"Áo bà ba, vạt ngắn vạt dài Em may cả đống đó, sao anh không bận, mà anh bận chi hoài cái áo bành- tô " ?
Quả thật, người con trai giật mình, thức tỉnh trước lời người con gái trách móc . Bổng tự nhiên anh cảm thấy những lời mộc mạc ấy có sức mạnh như một công án thiền . Không biết phải thốt lời gì khác hơn là tìm cách tự bào chữa cho mình . Lời ngụy biện nhưng rất có duyên chắc sẽ làm mát lòng người yêu :
"Áo bành- tô xấu mặt nhưng dễ nhìn Anh bận nó hoài... để có cái túi bự ... mà anh đựng cục tình của em... "
Nguyễn văn Trần, Nông dân " Miệt ruộng phèn " Cần Giuộc Ghi chú : *Ghi lại buổi nói chuyện hôm lễ giới thiệu Hội Ái Hữu ĐBSCL tại Vancouver, với vài sửa đổi nhỏ Áo Bành-tô là áo của Tây, như áo " Vết " ngày nay . Sơn Nam, Đồng Bằng Sông Cữu Long, Xuân Thu, TX, huê kỳ Sơn Nam, Tìm hiểu đất Hậu giang, Phù Sa, Saì gòn, 1959 Phan Khoang, Lich sử Đàng Trong, Sài gòn, ( sd ) Nguyễn văn Hầu, Thoại Ngọc Hầu, Những cuộc Khai phá Miền Hậu giang, Hương Sen, Sài gòn, 1972 Vài tài liệu của Văn Khố pháp, tài liệu Hội thảo về "Âu Á" ở Aix-en-Provence ( bảng chụp thiếu ngày )
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:40:06 GMT 9
Xuân Về Kể Chuyện Chuột Đồng Trần Công Tử
Trước mùa Xuân đang phơi phới về với chúng ta, trong tôi vẫn không quên những ngày tháng cũ khi nhâm nhi món chuột đồng BBQ sả ớt xỏ xâu hay chuột lá chanh với vài chung rượu nếp than thì tâm hồn thật phơi phới lâng lâng. Đường về miền Tây món chuột đồng khá phổ thông, nhất là các tỉnh miệt hậu giang. Ăn thịt chuột thoạt mới nghe qua tưởng chừng như một sự kiện ghê gớm hay quái gở. Ấy, bởi vì bạn chưa thử nó mà thôi. Thịt chuột ngon lắm, bạn ạ. Có ăn mới có ghiền. Một người bạn tù HO của tôi bảo khi bị đi tù mà túm được một chú hay thiếm chuột như trúng vé số superlotto rồi, vì thịt chuột bổ dưỡng lắm nhé, rằng là bao nhiêu chất đạm sẽ "bổ xung" cho cơ thể nhé, bao nhiêu protein này nhé, sinh tố B12 nhé, chất sắt nhé, quan trọng không kém là chất selenium, vì nó giúp cho con tim chúng ta sống dai nhách. Cơ thể thiếu selenium là dấu hiệu không ổn, bạn nhé. Selenium cũng ngăn ngừa ung thư nữa. Cơ thể của chuột gần giống như cơ thể con người, nên các ông nhà thuốc khi cần thí nghiệm thuối thì cứ vác chuột ra thử nghiệm. Bởi thế cái nghiệp của chuột là phục vụ nhân sinh. Bạn đừng lo chuyện sát sinh, vì câu tục ngữ lớp đồng ấu là "vật dưỡng nhơn", còn nhớ chứ? Không xơi chuột thì chuột sẽ gia tăng khủng khiếp như dân số Trung quốc mà thôi.
Nếu bạn là một bác nông gia, sáng ra thăm những cánh đồng lúa chín vàng bị quân chuột xâm lăng, phá hoại te tua, tả tơi ruộng lúa. Tôi hỏi bạn có buồn không chứ? Nếu buồn thì phe ta hè nhau đi săn chuột đồng về bán để trừ vào số thóc thất thoát vào dạ dày của mấy chú, thiếm chuột mập ú kia chứ ! Do đó khi săn chuột cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ mùa màng. Vì thế nên các nông gia cần tiêu diệt, hạn chế số lượng chuột đồng sinh sản hằng năm. Thịt chuột được bà con ta mang về chế biến thành nhiều món ăn ngon miệng, bổ dưỡng như người bạn tôi đã chứng minh ở trên, lại mang tính "đánh chén", lai rai ba sợi truyền thống của địa phương miệt vườn nữa chứ, ví dụ như chuột nướng sả ớt, chuột chiên ngũ vị hương, chuột rô-ti, chuột xào lăn củ kiệu, chuột luộc lá chanh, cháo chuột,... là những toa thuốc đại bổ cho nội tạng từ món thịt chuột.
Này bạn, có khi nào bạn ghé qua bắc Mỹ Thuận?
Phà Mỹ Thuận trên con sông Cửu Long ngày nào, kỷ niệm trong tôi quay về dĩ vãng có buổi ăn chiều tại một quán chuyên trị các món nhậu, các món đặc sản miệt vươn từ lươn, chim, gà, vịt, cua, cá, tôm càng, đuông, ếch, rùa, cua đinh, dê, heo, bò và không thể thiếu thịt "chuyện chú tí". Quán đầy ắp thực khách bốn phương ghé ngang. Mùi thơm chiên xào nướng của quán bay ra thơm lừng, ôi những khứu giác, vị giác bỗng xao xuyến cõi lòng sao đấy! Trên vỉ sắt đan lưới, những chú thiếm chuột đồng barbecued đang ưởn ngực ra, khoe mông, khoe đùi sexy trước mắt bạn. Chuột đồng bằng miền Tây là loại chuột ngon nhất xứ, vì đồng ruộng phì nhiêu, những hạt lúa mới còn thơm mùi sữa của tuổi dậy thì trinh nguyên đã nuôi chuột béo ngậy trong mắt ta, những cánh đồng lúa bất tận, bát ngát tha hồ cho chuột ăn nhiều chóng lớn để nuôi đồng bào ta. Đó là hình ảnh các chú thiếm chuột an vui hưởng thụ vụ mùa lúa chín tới, những nhánh cây đầy thóc vàng béo bổ cho chuột, chẳng khác chi cái hình ảnh "Chuột sa hũ nếp" mà dân gian thường nói đến.
Tôi nhớ lại kỷ niệm xa xưa, rồi mường tượng một dĩa chuột sả ớt nướng nóng hổi trên bàn, yummy lai rai với bia băm ba, sang hơn nũa thì nâng chung với những ngụm đế nếp than tràn đầy sinh tố B. Món cháo chuột ngọt nước như ngọt bờ môi em. Chuột luộc với lá chanh, lá sả, thịt của những thiếm chuột đồng trông những trắng phếu, những nõn nà như thôn nữ đồng trinh, những mịn màng, những mềm mại, này bạn, hãy chấm chuột vào nước mắm gừng cho ấm ngực chiều nay, hãy húp chén cháo chuột đồng trinh cho tâm hồn lưu luyến chia tay với phà Mỹ Thuận đêm nay khi hướng về Tây Đô hay Sài Gòn.
Đầu năm Mậu Tí lời chúc lành đến với mọi người được nhiều sức khoẻ, và với tinh thần vui tươi khi "Chuột sa hũ nếp" để mọi người được tấn phát, tấn tài và và thịnh vượng quanh năm.
Trần Công Tử Los Angeles
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:42:18 GMT 9
Tết Việt Nam kể chuyện mắm Hoàng Tiểu Ca
Mắm, món ăn khó quên Ngày còn nhỏ tôi đọc tác phẩm "Rừng Mắm" của nhà văn Bình Nguyên Lộc mà tôi cứ ngỡ ông muốn ít nhiều nói về những món mắm miền Nam ê hề. Nhưng thật sự không phải vậy. Truyện nói về cây mắm mọc lên hằng hà sa số. Nó tạo ra sự tích nối tiếp về sau qua câu chuyện trao đổi giữa hai ông cháu như sau:
"Bờ biển nầy mỗi năm được phù sa bồi thêm cho rộng ra hàng mấy ngàn thước. Phù sa là đất bùn mềm lủn và không bao giờ thành đất thịt được để ta hưởng nếu không có rừng mắm mọc trên đó cho chắc đất. Một khi kia cây mắm sẽ ngã rạp. Giống tràm lại nối ngôi mắm. Rồi sau mấy đời tràm, đất sẽ thuần, cây ăn trái mới mọc được.
Thấy thằng cháu nội ngơ ngác chưa hiểu, ông cụ vịn vai nó mà tiếp:
- Ông với lại tía của con là cây mắm, chơn giẫm trong bùn. Đời con là tràm, chơn vẫn còn lấm bùn chút ít, nhưng đất đã gần thuần rồi. Con cháu của con sẽ là xoài, mít, dừa, cau. Đời cây mắm tuy vô ích, nhưng không uổng, như là lính ngoài mặt trận vậy mà. Họ ngã gục cho kẻ khác là con cháu của họ hưởng...
Ông nội vui vẻ quá, vì ông bỗng sực nhớ lại những câu hò của thế hệ người tiên phuông đi khai thác đất hoang ở miền Nam, mà ngày nay thế hệ tràm không hát nữa. Ông cất giọng khàn khàn lên:
Hò... ơ... Rồng chầu ngoài Huế, Ngựa tế Đồng Nai Nước sông trong sao cứ chảy hoài, Thương người xa xứ lạc loài đến đây." (Bình Nguyên Lộc)
Tuy vậy, bài văn có nhắc đến món ba khía và bồn bồn. Bồn bồn ở miệt Cà Mau rất nhiều, người ta duuu`ng làm dưa, gọi là dưa bồn bồn. Còn ba khía và còng được làm mắm. Trong tinh thần văn chương ẩm thực về các món mắm, những đặc thù của vùng đất miền Nam, bài viết sẽ lạm bàn về mắm, và dỉ nhiên trong tầm hồn yêu mắm.
Theo nhà văn Sơn Nam thì ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có rất nhiều loại mắm: mắm cá lóc, cá rô đồng, cá trê vàng ở miệt rừng U Minh, Cà Mau, mắm Thái Châu Ðốc, tôm chua Gò Công... Ta có thể kê khai những thổ sản đặc sắc của miền Nam như Mắm còng, mắm tôm chà, ba khía,... Hãy nói về ba khía đi nhé.
Ba khía:
Ba khía là loại sinh vật sống ở bến bãi, sông rạch trong rừng ngập mặn, hình dạng giống con cua; lớn hơn con còng, trên cái yếm màu nâu sẫm của nó có ba cái khía, tức 3 gạch nên người ta cho nó cái tên cúng cơm là ba khía. Từ miệt Sóc Trăng về Bạc Liêu xuống tận mũi Cà Mau, men theo những cánh rừng mắm đen mọc giáp biển là những vùng có lắm ba khía. Từ tháng tám trở đi, lúc mùa màng đã xong, người quê lại rủ nhau chèo ghe đi bắt ba khía. Người bắt ba khía phải canh theo con nước, lúc nước lớn, ba khía bám đầy thân cây mắm, như Bình Nguyên Lộc đã đề cập ở trên. Vào khoảng tháng mười là mùa ba khía sinh sản nhiều vô số kể. Đi bắt ba khía rất vui vì phải đi ban đêm, bởi vào tối khuya ba khía di chuyển chậm chạp, mình thò tay là chộp dính ngay vài chú thiếm ba khía. Mỗi bận đi bắt như vậy ghe trở về với những khạp đầy ba khía. Người biết rành về còng và ba khía thì tháng năm hàng năm thì ba khía cái có trứng đeo đầy sau yếm, các thiếm ba khía mập mạp, đô con va chắc thịt. Ba khía mang về đem ngâm nước, rửa thật sạch đất bùn. Sau đó mới gỡ bỏ mai, bẻ đôi thân ba khía, cả càng, gọng cũng bẻ rời, đem trộn tất cả vào gia vị như tỏi, ớt, đường, chanh hoặc dùng khóm bằm nhuyễn, xong ngâm hổn hợp một buổi cho ba khía thật thấm. Khi vị ba khía được đầy đủ độ mặn, chua, ngọt thì ba khía sẽ ngon và dịu khi ta thưởng thức. Cách ăn ba khía là tách yếm làm đôi rồi bẻ nhỏ ngoe, càng ba khía ra để chiêm ngưỡng gạch son, rưới lên cơm phần nước đã có trong yếm trộn chung. Vắt thêm ít chanh tươi trước khi ăn, mà ăn ba khía phải ăn với cơm nguội mới đúng điệu đồng quê, và đừng quên nhai thêm vài trái ớt hiểm, vài tép tỏi, vài lát gừng sống vừa nhai cho âm ấm bụng - huhu... để mắt nhòa lệ vì nồng độ cay cay dâng tràn bờ mi quyện vào mùi thơm nhớ đời ba khía.
Mắm còng:
Bàn về món mắm còng, theo Giáo sư Trần Văn Chi viết trong bài "Hương vị Miền Nam: Mắm Còng", đất rẫy là đất vào mùa khô bị ngập mặn bởi nước biển tràn vào, chỉ làm ruộng hay trồng trọt được vào mùa mưa, như vùng ven biển Gò Công, Bến Tre. Con còng ở Gò Công kêu là “còng quều”, thuộc loại cua, rạm, ba khía, cua đồng... Còng nhỏ hơn cua biển, cỡ ngón tay cái người lớn, có màu tìm sậm... Còng ở Gò Công thì nhiều vô kể. Trời bắt đầu “mưa già” một chút thì còng không biết ở đâu xuất hiện ở ruộng rẫy nhiều vô số, thấy phát sợ... Nhiều người Gò Công nghe nói tới mắm còng là phải chảy nước miếng! Và cũng không ít dân Gò Công chưa ăn món mắm còng, hoặc chưa biết, chưa nghe tên món mắm còng, dầu đó là món ngon độc đáo, đã nổi tiếng là “món ngon tiến cung, với tên gọi gắn liền với địa danh Gò Công. Con còng lột đem làm mắm gọi là mắm còng, chỉ có ở Gò Công và Bến Tre và đã từ lâu món nầy được lưu truyền trong dân chúng, được liệt kê vào bản món ngon quý hiếm từ thời bà Từ Dũ. Cứ vào mùa Tết Ðoan Ngọ thì con còng bắt đầu bỏ lớp vỏ cứng, lột xác thành con còng lột. Mỗi năm chỉ có một lần, vào đúng ngày mùng 5 tháng 5 Âm Lịch, còng lột rộ, người địa phương gọi là ngày hội còng lột. Còng sau khi được rửa đi rửa lại bằng nước sạch; phải chích bỏ yếm, bỏ miệng và mắt, lấy cho hết “bọng cứt”... nghĩa là các chất dơ trong bụng còng, thì con mắm mới ngọt, nước mắm mới trong. Nhớ phải cho còng “uống rượu”, nghĩa là ngâm với rượu đế, khử mùi tanh. Vớt còng ra, để cho ráo rồi nhẹ tay, mẹ tôi sắp từng con còng vào hũ thật đầy và gài chặt bằng lớp lá vông và mấy que ổi.... Mắm cuối cùng được chan bằng nước mắm ngon nấu với đường, để nguội. Trời Tháng Năm nắng gắt, phơi độ trên mươi ngày là hũ mắm bắt đầu nghe mùi thơm, có thể ăn được rồi... Mở nắp hũ nghe mùi thơm độc đáo không thể tả, nhìn lớp bọt li ti nổi trên mặt, màu nước mắm trong veo, màu con mắm còng tím sậm... bạn sẽ biết được hũ mắm ngon cỡ nào. Trúc hũ mắm ra thau, trộn thêm phu gia như tỏi, ớt, đường và khóm bằm nhuyễn. Khóm là chất xúc tác giúp cho gia vị thấm vào con mắm và làm cho mắm còng mặn mà dịu và ngon như ý. Nhớ mắm trộn xong gia vị phải để “cách nhựt”, ngày hôm sau, mắm mới thấm, và ăn mới ngon.
Theo Giáo sư Xuân Tước kể về Đặc Sản Quê nhà, ông đề cập về món mắm còng như sau: Người ở vùng sông Cửu Long thường hát:
"Gió đưa gió đẩy, về rẫy ăn còng, Về sông ăn cá, về giồng ăn dưa."
Rẫy là một vùng đất miền nước mặn. Ở các vùng Gò Công, Bến Tre, Trà Vinh, người ta thường làm rẫy, trồng nhiều loại rau cải, thơm khóm, và cũng là vùng sinh sống lý tưởng cho các loại còng... Mắm Còng món ăn thượng hảo hạng của xứ Gò Công. Gò Công là một vùng đất nằm theo vùng biển và miệt sông Cửa Tiểu. Xứ Gò Công rất nổi danh vì đây là vùng quê cha của đại thần nhà Nguyễn là ông Phạm Đăng Hưng. Nhà họ Phạm gã con gái cho vua Thiệu Trị về sau này là Thái Hậu Từ Dũ, mẹ của vua Tự Đức. Vì ở gần biển nên các vùng đất Gò Công là nơi sinh sống của nhiều loại còng. Nhưng đáng giá nhất là còng đỏ. Loại còng này thân đỏ, chân và càng cũng màu đỏ ửng xanh. Chúng lớn bằng chừng chân cái của chúng ta và là nguồn sản xuất mắm còng, một loại mắm đặc sản của các vùng biển và rất hiếm có. Không phải nơi nào cũng có thể làm mắm còng. Hai nơi quan trọng là vùng biển Gò Công và Bến Tre, nhưng Gò Công có nhiều còng đỏ hơn Bến Tre. Không phải mùa nào cũng có thể làm mắm còng. Thấy còng nằm đỏ bãi sông, nhưng không ai bắt còng chắc mà làm mắm, chỉ bắt còng lột mà thôi. Và mỗi năm còng chỉ lột có một lần vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch. Đến ngày này, người dân Gò Công đi bắt còng lột. Mà là những trũng nước nhỏ để còng vùi mình xuống đó mà lột. Người ta quậy nước muối sẵn, rồi chống xuồng theo bờ sông, bờ lạch, nhìn chỗ nào có còng là ghé lại, bắt một con còng mềm nằm dưới. Còng lột được bỏ vào nước muối có pha đường để ngâm. Khi còng đã thấm mặn thì người ta đem phơi nắng. Thường có hai cách để làm mắm còng: -Còng lột được rửa sạch, đong 10 chén còng thêm 1 chén tỏi ớt. Cho vào cối quết cho dập, sau đó nhận vào hũ, trộn thêm rượu để cho hết mùi khai nồng. Đem phơi chừng 3 ngày cho được nắng, rồi lấy nước cốt còng đem phơi cho quánh lại thì dùng được. Lúc dọn ra ăn thì trộn còng với chanh, khóm, đường, tỏi, ớt. -Còng lột được rửa sạch để cho ráo nước, trụng với nước sôi nếu muốn khử trùng, đong hai chén còng, một củ tỏi, mười trái ớt. Tất cả trộn chung rồi cho vào hũ, đem phơi nắng cho thấm đều. Muốn ăn, nêm chanh, khóm, đường, tỏi ớt. Từ miền quê Gò Công, Bến Tre đến các vùng chợ, mắm còng được mọi người ái mộ. Ở đâu muốn ăn mắm còng cho ngon, cũng phải trộn với thịt ba rọi hay thịt nướng và ăn với nhiều rau sống, như: húng cây, húng lũi, tía tô, kinh giới, dấp cá, quế, gừng và ớt. Mắm còng mà ăn với bún thì ngon tuyệt. Ở vùng quê hay các vùng chợ thuộc miền Nam Việt Nam, mắm còng còn có hương vị đậm đà của quê hương. Màu bún trắng, mắm còng màu thâm, tía tô màu tím, rau húng màu xanh.. trộn với một chút mắm còng thơm phức, người ta thưởng thức được hương vị đậm đà của quê hương.
Mắm tôm chà:
Nghề làm mắm tôm chà xuất hiện từ đầu thế kỷ 19. Lúc sinh thời, bà hoàng Từ Dũ cùng gia đình đã chế biến và giới thiệu món này cho triều đình nhà Nguyễn. Bà Từ Dũ nhủ danh Phạm Thị Hằng - con gái của Quốc sử quán Tổng tài Phạm Đăng Hưng được tiến cung năm 1824 và sau đó đã trở thành đức Thái hậu Từ Dũ, vợ của vua Thiệu Trị, mẹ của vua Tự Đức. Do hương vị đặc trưng từ Gò Công của Hòang thái hậu mà được triều đình Huế thường dùng để tiếp đãi khách trong các buổi yến tiệc, những dịp lễ lạc. Món mắm tôm chà đã chào đời vào khoảng 200 năm. Mắm tôm chà khi biến chế người ta dùng tôm đất hay tôm bạc thẻ ở sông, hay có thể thế bằng tôm sú (tôm vùng biển) miễn còn tươi, nếu còn sống càng tốt, cho vào thau ngâm với rượu đế khử mùi tanh chừng 5, 7 phút. Sau đó vớt ra để ráo rồi bỏ vào máy xay thật nhuyễn, sau đó đem chà trên ray có lỗ thật nhỏ để chắc lấy nước, phần vỏ và thịt được bỏ đi. Nước tinh chất của tôm được đệm thêm vào đường, muối, ớt bột, tỏi rồi đem phơi ít nhất một tuần dưới ánh nắng để cho sản phẩm đặc kẹo lại mới dùng được. Thông thường thì cứ ba ký tôm mới làm ra được 1 ký mắm tôm chà mịn màng thơm dịu. Mắm tôm chà có thể dùng nguyên chất hoặc có thể pha thêm tỏi, ớt băm nhuyễn, đường, chanh tùy khẩu vị và được dùng với bún, thịt luộc, rau sống, khế, dưa leo, chuối chát, xoài sống thái lát. Khi ăn quệt thịt, soài lát vào hổn hợp mắm tôm cùng bún và rau. Trong Thú ăn chơi Tản Đà tiên sinh đã viết: "Tôi có qua chơi vùng nhà quê Long Xuyên, cùng ăn bữa cơm nhà một ông Chánh tổng, nhiều thứ mắm thiệt ngon". Do vậy, xin kể ra vài loại mắm đặc trưng nữa:
*Mắm cá linh:
Cá linh còn có thể làm mắm. Cá làm sạch, cho vào hũ ướp muối, ba ngày sau dùng vỉ tre gài chặt xuống. Một tháng sau, vớt ra trộn thính vào rồi cho vào hũ gài chặt như trước. Một tháng sau, lại vớt ra cho đường vào , rồi đổ vào hũ gài chặt lại. Thêm một tháng nữa là mắm có thể dùng được. Mắm cá linh có thể ăn vơi bún hoặc cơm, hay làm mắm kho với cá, tôm, thịt ba rọi thái mỏng và cà tím.
* Mắm cá trèn:
Mắm cá trèn được xem ngon hơn mắm cá linh. Mắm cá trèn ăn vơi bún, thịt ba rọi luộc và rau sống.
* Mắm thái:
Mắm thái được làm bởi cá lóc loại to, thịt nhiều được thái filet. Cá được ngâm muối. Mắm ngon thông thường là mắm có mùi thơm dịu, thịt ửng hồng không cứng quá cũng không mềm nhũng. Trung bình mất khoảng 6 tháng đến 1 năm. Sau đó mắm được chao đường, chọn đường thốt nốt thắng cho có chỉ rồi thêm gia vị là lúc màu sắc, hương vị được định độ ngon của con mắm. Dùng mắm lóc filet bỏ da, tách xương, thái thành sợi, màu thính phải tươi, hạt thính nhuyễn, đường thắng kẹo sệt có màu vàng đỏ. Đu đủ trộn với mắm phải là đu đủ mới, còn xanh, bỏ vỏ và hột, bào thành sợi mỏng, muối mặn để khoảng 10 ngày cho hết mùi, xả sạch. Tỷ lệ thịt và đu đủ 50/50, sao cho sợi mắm không bị nhão, có vị bùi của mắm, vị ngọt, dòn của đu đủ.
* Mắm ruột:
Mắm ruột là mắm được làm từ ruột cá lóc. Cá được chọn để chế biến món mắm phải là loại cá lóc to, ngon nhất là loại cá lóc có trứng mang sắc vàng ươm. Cá được làm sạch phần bao tử và ruột non của cá. Sau khi làm sạch ruột cá xong, ruột cá được rửa sạch, ngâm nước muối. Cách pha nước muối cũng là một kỹ thuật, vì sau khi pha độ 2 – 3 ngày, ruột cá phải thấm mặn đến tận bên trong để mắm mới không bị hư. Sau đó vớt ruột cá ra để cho thật ráo nước và đem trộn với thính, rồi cho vào hủ ém thật chặt. Kế đến chế nước mắm nhỉ lên trên mặt, phải là nước mắm nhỉ mới cho hương thơm đậm đà. Người ta thường ướp ruột cá và nước mắm trong vòng một tháng, sau đó đem chao với đường thốt nốt được thắng vàng, đến khi nguội thì hương vị của món mắm ruột tỏa ra rất thơm. Để có hủ mắm thật ngon, trung bình phải mất 4 tháng. Nguyên liệu dùng để ăn kèm là xà lách, húng cay, khế, chuối chát, ớt sừng trâu, đu đủ và củ riềng thái sợi nhỏ, thịt ba rọi luột thái mỏng, bánh tráng, bún và sau cùng là một chén nước mắm chua chua ngọt ngọt thật cay. Mắm ruột cũng như mắm lóc thái ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng tùy sở thích.
* Mắm xé:
Mắm xé ngon nhất là mắm cá sặt, mắm cá lóc... Ngày xưa khi tôi được dịp ghé thăm các tỉnh miền tây, bà conn hay ba`nn bè mời ăn món bình dân nhưng độc dáo này. Bên cạnh dĩa mắm xé có đĩa rau sống, dưa mleo, xoài bằm, dứa, mít non, khế, chuối lát cắt lát... đừng quên ớt hiểm thật cay vị giác. Khi ăn vào hổn hợp của vị chua, chát, ngọt, cay thấm vào làm dịu mắm cá. * Mắm kho: Mắm cá sặc hoặc mắm lóc được nấu tan trong nước dậy mùi sả băm, tỏi phi vàng. Nồi nước lèo được thêm vào thịt heo hay heo quay, cá bông lau hay cá catfish, tôm, mực, cà tím,... Vị cá mắm thấm ngấm vào cá, tôm, mực và thịt. Mắm kho ngon nhờ rau ghém như rau sống, rau đắng, bắp chuối, ngó sen, rau muống chẻ, giá, bông súng, bông so đũa, bông điên điển, soài sống,... Mắm kho ăn với cơm hoặc bún.
* Lẩu mắm:
lẩu mắm như món mắm kho nêu trên về cách làm. Nước lèo được đặt trên nồi lẩu để giữ độ sôi sục liên tục. Thịt, cá, tôm, mực là đồ để thực khách nhúng vào nước lèo. Lẩu mắm cần nhiều rau như các loại ở quê nhà: đọt nhút, rau dừa, bông so đũa, bông súng, bông điên điển, bắp chuối,... và đậu rồng, đậu bắp, chuối chát, khế, soài chua. Món này nên ăn với bún, hoặc cuốn bánh tráng
* Mắm ruốc:
Mắm ruốc là mắm làm từ con ruốc, một loại con tép riu, màu đỏ nâu, đặc mịn, thơm mùi mắm, mắm ruốc có nhiều ở miền trung hay Vũng Tàu. Tuy mắm ruốc trông giống mắm tôm, nhưng màu sắc và mùi vị không giống mắm tôm. Mắm ruốc không tanh bằng mắm tôm, có thể pha thêm nước, chanh, đường tỏi ớt khi làm nước chấm và có thể dùng làm gia vị xào hay nấu, như mắm ruốc xào thịt ba rọi với sả ớt.
oOo
Trong suốt bài này, mắm được trình bày như món ăn truyền thống đặc sắc của người miền Nam. Vì các loại mắm được trích dẫn hay bàn luận xuất phát từ miền đồng bằng sông Cửu Long. Thức ăn hay ẩm thực là một khía cạnh của văn hóa. Như vậy mắm là một di sản văn hóa dân tộc vậy, nó phản ảnh từ nơi xuất phát rồi lan đi khắp năm châu, cuốn theo làn sóng và cuộc sống lưu lạc của người Việt Nam ly hương ngày nay. Thật vậy, mắm là di sản quê hương.
Hoàng Tiểu Ca
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:44:26 GMT 9
Miệt vườn
Cát Hoàng
Miệt vườn. Tên gọi đã lạ lẫm rặt chất Nam bộ, mà người Nam bộ rặt cũng khó cắt nghĩa. Tình cờ chiều, quán bên sông mịt mờ mây mưa, bất chợt hồi quang nhuộm hồng cả quảng sông đầy, ai không tận mắt nói mấy chẳng tin.
Tình cờ trưa, leo lên cầu Rạch Miễu phóng mắt về hai phía Tiền Giang, Bến Tre thấy quê mình đẹp lạ đẹp lùng bởi ngút ngàn xanh cây trái nổi bật dáng dừa, bất chợt nẩy vần thơ: ...Dung nhan dừa xanh gội chín dòng trong...
Tình cờ sáng, cao hứng đưa các bạn văn cao nguyên lên tầng cao Thị xã để ngắm bạt ngàn xanh tít tấp Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long. Bạn thảng thốt: Ôi! Miệt vườn tuyệt đẹp.
Tình cờ, ngày lại ngày qua nhiều lần cùng bạn thơ qua lại đường vườn thảng thốt mê lộ. Bạn cùng ta than thở: Đi tới đi lui đi hoài chẳng tới, hoài thai mà chẳng sản sinh. Miệt vườn, viết rồi xóa, xoá rồi viết, chẳng "mô-tê-răng-rứa".
Duyên may một lần. Tắc tị héo bị, anh em văn nghệ rủ đại về quê mở trại sáng tác văn học thiếu nhi, nhờ ăn tạm ngủ nhờ sáng tác thật rồi đâm mê miệt vườn. Hỏi cụ thể mê gì hổng biết?
Hổng biết mới mê. Sau đận đó, cứ có khách phương xa đến lại rủ về "Làng mang tên sông" chơi. Địa danh hành chính của "Làng mang tên sông" chỉ là Ấp Hàm Luông, xã Tân Phú, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Nó chỉ là một ấp trong muôn ấp của làng quê Nam bộ, chỉ đặc biệt mỗi điều có gia đình anh Ba Lẹ "tự nguyện hoá" nhà mình thành Tụ điểm sinh hoạt văn hoá. Khách xa đến thăm thân phụ anh Ba cặm cụi cắm hai hàng cờ đuôi nheo xanh đỏ vàng chào đón khách, mấy chị láng giềng gom góp tấm lòng "có chi dùng chi" cộng sẵn "rượu dì út" tiếp đãi khách quên đường về. Đôi ba lần khách quen ngủ lại võng có anh Ba thổi sáo ru. Nói anh Ba cực khổ làm tụi em ngại quá. Anh Ba nói tỉnh khô: Sao chơi với mấy ông văn nghệ riết mắc ghiền.
"Làng mang tên sông" có "Bà già thất thập cổ lai hy" đặt vè cả ấp. Ngại bỏ mất vốn quý dân gian, hết chừng năn nỉ Dì Mười cho tụi con ghi lại. Bà nói tỉnh queo: Thôi con, giờ đã nhiều người quá vãng nhắc lại chi tội nghiệp người đã khuất. Nhớ có lần, mời rượu bà già bả cũng nói tỉnh queo: Đừng ép dì ăn, thủng thẳng để cho thơm rượu, khiến mấy "Thằng lưu linh" nghe sởn gai ốc.
Miệt vườn, có Cái Mơn nổi danh cây trái và hoa kiểng với "Sầu riêng Cái Mơn", "Cây giống Cái Mơn", "Kiểng Cái Mơn". Một đận Tết Nguyên đán gặp "Người Cái Mơn" lên Thị xã bán hoa kiểng, hỏi mua mấy chậu hoa, chừng trả tiền dư có mấy ngàn, bâng quơ nói vui: Chút đỉnh lì xì cho mấy cháu. Nàng cả quyết: Tui chẳng nợ đâu, thôi anh nhận thêm chậu trúc xí huề vậy. Ôi trời! xí huề sao được, tết sau "Nàng mịt mùng tăm cá" hoá ra mình nợ hết biết đường trả.
Miệt vườn, có làng hoa Sa Đéc, một lần mình sóng đôi thăm "Vườn hồng Tư Tôn" gặp "Lãn ông chân chân" chuyện vãn dăm câu. Cụ đãi tụi mình món trà cúc. Hỏi tụi con mới quen, chưa mua gì mà sao ông ưu ái vậy? Ông cụ nói tỉnh rụi: Mấy đứa văn nghệ khỉ. Giỏi thì trả ông mấy câu thơ là được. Tụi mình làm thinh. Đành nợ trà cúc.
Miệt vườn... Miệt vườn... Biết nói sao cho hết! Biết nói sao cho đủ, cho vừa. Ví như mới đây đưa người bạn gái cách nửa vòng trái đất về thăm Cồn Phụng (Cồn Đạo Dừa), lại mắc nợ câu vọng cổ "... Em, con gái miệt vườn nói thương thiệt là thương..." ./.
Cát Hoàng Bến Tre
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:47:14 GMT 9
Kể Chuyện Làng Quê
Hòa Đa
Kính tặng anh Nguyễn Nam Trân
Tôi sinh ra ở một xóm nhỏ ngay cạnh tỉnh lỵ Phan Rang nhưng đến năm ba tuổi gia đình chuyển về sinh sống ở một làng nhỏ phía bắc Bình Thuận, tôi lớn lên ở đó. Làng tôi nằm trên quốc lộ 1 xuyên Việt trên một giải đồng bằng hẹp. Tuổi thơ chỉ gồm những trưa hè gánh nước trên những con đường ngoằn nghèo quanh xóm đầy cát lún, hay cùng đám bạn đồng lứa nô đùa, la hét trong dòng sông. Con sông Lũy chảy song song với quốc lộ, cạn nước gần như sát đáy vào mùa khô và hung dữ tràn bờ cuốn phăng những gì nó gặp trên đường đi vào mùa nước đổ... Xa xa là những chỏm núi đá cuối cùng của dãy Trường Sơn, đứng cô độc giữa bình nguyên chật hẹp, không có vẻ gì là hùng vĩ của núi non. Khí hậu khắc nghiệt, chỉ gồm hai mùa mưa nắng. Quận lỵ nằm cạnh đó với tất cả những cơ ngơi của các văn phòng hánh chánh, bưu điện, nhà thương... Nhưng cái gì cũng mang vẻ nghèo nàn, xốc xếch. Dân làng, hầu hết sông bằng nghề ruộng rẫy, hay buôn bán nhỏ, căn bản dựa vào nông sản tại chỗ và hải sản từ một thị trấn cạnh bờ biển gần đó, Phan Rí Cửa. Người lớn ai cũng đầy vẻ khắc khổ vì phải tranh sống. Giải trí vui chơi, có họa chăng là các ngày lễ Tết, hay năm khi mười họa mới có một gánh cải lương lưu diễn tập tuồng, ghé lại thị trấn; rồi cũng không nhận được sự hưởng ứng nồng nhiệt của cư dân trong làng, vài hôm sau lại lẳng lặng dọn đi, trả lại cho dân làng cái quạnh quẻ cố hữu. Cũng thỉnh thoảng có vài nhóm bán dạo, kiểu sơn đông mãi võ, vừa bán hàng vừa phụ diễn văn nghệ hay ảo thuật, cái này thì hấp dẫn bọn con nít chúng tôi hơn người lớn, nên cũng chỉ được vài hôm... Dạng giải trí thường gặp nhất là những buổi chiếu phim ngoài trời do phòng thông tin quận tổ chức mà bao giờ cũng bắt đầu bằng lễ chào quốc kỳ và suy tôn Ngô tổng thống. Tôi không nhớ người lớn giải trí một cách đông đảo bằng cách nào, có lẽ cuộc vui thu hút được bà con nhiều nhất la cái máy hát quay tay. Những buổi tối có trăng, gần như cả xóm tụ tập ở sân sau nhà chú Ba, cách nhà tôi một căn, nghe say sưa mấy tuồng cải lương thu trên dĩa đá. Kim chạy dĩa là loại kim sắt, mỗi mặt dĩa thay một kim, kim cũ cũng được cất lại phòng hờ. Tuồng hát cũ mèm mà vẫn được chiếu cố, vở tuồng được yêu cầu cho nghe nhiều nhất mà tôi còn nhớ là tuồng San Hậu, Tô Ánh Nguyệt...
Cuộc sống quá cơ cực làm người lớn không có hứng thú gì trong việc giải trí. Có chăng là vào dịp Tết, họ quần năm tụm bảy sát phạt nhau. Người bình dân thì chơi bầu cua cá cọp, sóc dĩa, bài cào... các bà thì rủ nhau gầy sòng tứ sắc. Có "văn hóa" hơn một chút là các ông tụ nhau đổ tam hường, giựt trạng em, trạng anh. Theo lời người lớn kể lại thì cuộc chơi bình dân được quần chúng tham gia nhiệt tình trong các ngày Tết là các sòng bài chòi, ở đó có trống có mõ, có hò có ca... Bài chòi phát xuất từ vùng Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên. Các chòi chơi cất trên một bãi đất trống, thường được dựng khá chắc chắn để chơi trong ba ngày Tết. Người có tiền thì lên chòi ngồi chơi, người không tiền thì đứng vây quanh nghe hò bài chòi và bàn luận... chỉ tiếc là cách chơi phức tạp và chỉ hấp dẫn khi những người hò bài chòi có giọng tốt và sáng tạo, nên dần dần cũng mai một, không có sức sống như các điệu hát chèo, quan họ ở ngoài Bắc, hay điệu vọng cổ, các điệu ca trong cải lương ở miền Nam. Một cuộc chơi khác, tương đối cũng hấp dẫn giới bình dân là chơi lô-tô (giống như "bingo" ở Mỹ), trò chơi này cũng tùy thuộc vào người hô. Họ đọc có câu có kệ, nghe có vần có diệu. Người chơi trước thỏa máu đỏ đen, sau có vài phút giải trí dễ dãi:
Tôi xóc tôi móc, con cờ bằng cây, con gì nó ra đây? -Nước chảy bon bon, dắt mẹ bồng con, lên non hái trái, cảm thương nàng, phận gái mồ côi, số một (1) ôi, là con số một. -Chị bảy ăn trầu bô bô, cái miệng thì xỉa thuốc, việc làm trật vuột, làm biếng làm nhác, tối thì coi hát, sáng ngủ dậy cho trưa, đổ thừa cho con bú, cái mặt sù sụ, cái đầu chôm bôm, xuống bếp lục cơm, lên giàn bốc cá, chồng thấy chồng đánh, đâm đầu nhảy sải, con bảy mươi bảy (77) là con bảy mươi bảy, con gì nó tiếp theo?....
Người lớn ai cũng phải làm lụng vô cùng cực nhọc. Đất thiếu màu mỡ, nhiều cát, nên ruộng không có năng suất cao, hơn nữa vì gần biển nên nước sông bị nhiễm mặn gần như quanh năm, ruộng chỉ nhờ vào nguồn nước mưa. Năm nào mưa thuận thì còn đỡ, năm nào hạn hán hay mưa bão dầm dề thì trăm đường cơ cực. Hoa màu phụ cũng là một nguồn lợi tức quan trọng cho người sản xuất lẫn người bán lẻ. Những rẫy hoa màu nằm phần lớn bên kia sông, bên động cát, loại cát có pha đất thịt, nơi có nhiều mạch nước ngọt để tưới, người dân tận dụng từng vạt đất nhỏ để trồng, mùa nào thức đó. Hoa lợi thu được đem tiêu thụ ở chợ. Một nghề chính, nhưng chỉ sinh hoạt trong mùa nắng, là tráng bánh. Có cả nguyên một xóm chuyên nghề này được gọi là Xóm Bánh Tráng. Vào trong xóm vào mùa tráng bánh, ở đâu người ta cũng gặp những vĩ tre phơi bánh, không phải là loại bánh nhỏ, mà là những bánh lớn, có đường kính chừng 40 -50 cm, mỏng có, dày có; loại bánh dày rắc đầy mè, nướng trên than hồng, nở ra, cong vòng, vàng lườm và thơm phức, ăn với mắm ruốc giầm ớt cho thiệt cay là hết sẩy... Tất nhiên, bánh làm ra không thể tiêu thụ hết ở địa phương, họ bán cho những mối thu mua chở đi bán ở Phan Thiết hay Sài Gòn. Sự giao lưu về hàng hóa lúc bấy giờ dựa vào đường xe lửa xuyên Việt. Ga Sông Mao nằm về phía tây nam quận lỵ và cách đó chừng 10 km.
Vùng quê tôi không có những đồi cát hùng vĩ như Mũi Né, nơi đã có diễm phúc được ghi vào ống kính của các nhiếp ảnh gia tên tuổi, nhưng quê tôi cũng có những vùng toàn là cát, loại cát mủn, màu ngà ngà vì lẫn quá nhiều thứ rác bẩn. Người dân ai cũng biết gánh, đòn gánh không phải làm bằng tre như ở miền Nam mà làm bằng gỗ một loại cây rừng có tên là cây sò đo, có khắc mấu ở hai đầu. So với tre, đòn gánh sò đo dẻo và chịu được trọng lượng ở hai đầu rất lớn, lên đến 60 - 70 kg. Đòn gánh loại này thông dụng ở vùng Phan Rí, Phan Thiết, Bình Tuy. Có thể nói không ngoa là người dân vùng này lớn lên với cây đòn gánh trên vai. Từ Phan Rang trở ra, đòn gánh được làm bằng tre, giống như trong Nam, hoặc bằng cây săng có hai mấu sắt ở hai đầu. Ở Phan Rang có câu hát:
... Đòn gánh kia có gảy thì còn chờ mụt măng, Em có chồng, như cá vào đăng, Ra vô không có đặng, nói năng uổng lời. Tuy cuộc sống có vẻ cực khổ như vậy, trẻ con chúng tôi đứa nào cũng được đi học. Tôi không nhớ có đứa nào trong khoảng tuổi tôi mà không được cho đi học. Trải dài theo quốc lộ 1 non ba cây số, nhà cửa dân chúng phần lớn tập trung ở hai bên con lộ chính này, chia thành ba làng, sâu hơn vào phía trong là một làng của người Chàm, làng Hậu Quách, họ sống riêng biệt với gia súc của họ trong một ngôi làng có tre, me keo và xương rồng rào kín chung quanh, sống bằng nghề nông và chăn nuôi. Tuy vậy, họ không hoàn toàn cô lập với người Việt quanh đó, họ cũng đến chợ mua bán, giao dịch. Họ đi chợ bằng xe bò hay đi bộ với hàng hóa trong thúng đội trên đầu. Tuy văn hóa và tín ngưỡng khác nhau, nhưng người Chàm và người Việt sống với nhau rất hòa thuận, không có những mâu thuẫn đi đến xô xát với nhau như giữa người Việt và người Miên thỉnh thoảng vẫn xảy ra ở Nam Bộ. Quận lỵ Hòa Đa đóng trên địa bàn của làng giữa, làng Thoại Thủy và do đó trường tiểu học cũng nằm ở đó. Bây giờ tôi không còn nhớ rõ trường có bao nhiêu phòng học, nhưng là một cơ ngơi rộng rãi, vững chắc, xây gạch lợp ngói trên một nền cao ngang bụng, lót gạch tàu hay tráng xi măng. Năm tôi học lớp Nhất (lớp năm bây giờ) trường đã có hai lớp Nhất A và Nhất B, với sĩ số mỗi lớp chừng 30- 40 học sinh, mà số nữ sinh trong lớp không ít. Tính ra số học sinh học hết tiểu học lúc đó (1957) trong vùng không phải là nhỏ. Ngay cả người Chàm cũng gửi con em của họ đến trường học chung với trẻ em Việt Nam. Hiện tượng này cũng dễ giải thích: công việc không đủ cho người lớn, thì có đâu cho trẻ con. Để chúng lêu lổng ở nhà sao bằng cứ gửi chúng đến trường, chỉ tốn chút tiền sách vở, bút mực... may thì lớn lên có chút chữ nghĩa, kiếm được việc làm khá hơn, thoát khỏi cảnh khốn cùng, còn không thì ít ra cũng không lâm cảnh dốt nát. Uy tín của thầy giáo rất lớn, được phụ huynh kính nể và học sinh vâng lời. Dọa một đứa trẻ mà hăm mét với cha mẹ chúng, không có tác dụng bằng hăm mét với thầy giáo. Câu mắng "Thầy giáo mày không biết dạy ! " là một câu mắng rất nặng. Vào khoảng đó, trong làng có một ông Thầy, thường được gọi là thầy Năm De, mở một trường tư nhỏ (dạy tại nhà) đến lớp ba. Trò nào làm biếng không đến lớp, cha mẹ đánh đến cách mấy cũng không chịu đi, thầy cho học trò đến nhà cùng với một đoạn dây thừng và bảo : " Thầy kêu mày đi học kìa" thế là cậu líu ríu theo đến lớp, đủ biết uy của thầy giáo lớn đến mức nào! Thầy dạy theo phương pháp riêng, học chữ cái không theo thông lệ a, b, c mà thầy ghép chữ thành vần theo kiểu trong kháng chiến, dễ học, dễ nhớ : "i tờ (t) tờ i ti, i u mờ (m) mờ i mi... " Chì cần học với thầy chùng hai ba tuần là có thể nhận được đủ mặt chữ cái, ghép được vần xuôi. Cũng có đứa, vì hoàn cảnh gia đình, nghỉ học sớm, nhưng ít ra cũng đã biết đọc biết viết thành thạo, tỉ lệ thất học rất thấp. Ngay cả người lớn, số người hoàn toàn mù chữ chiếm một số rất nhỏ. Tôi biết chắc như thế, vì thỉnh thoảng chính quyền vẫn tổ chức những buổi "đón chợ, đố chữ" : học sinh chúng tôi được chia thành nhiều tốp, chăng dây chận hết các ngõ, ai muốn vào chợ phải đọc được một chữ do chúng tôi viết trên bảng đá... và tôi nhớ là không mấy người bị mời về vì không đọc được chữ. Trong làng, số người lớn có bằng "primaire" (bằng tiểu học thời Pháp) không phải là ít. Họ đọc và nói trôi chảy tiếng Pháp, tất nhiên chữ quốc ngữ họ cũng thành thạo. Họ là những người được dân trong làng kính nể, nhờ vả những khi cần làm đơn từ giao tiếp với chính quyền. Trong làng cũng có một ngôi chùa, tên chữ là gì tôi không biết, nhưng vẫn thường được gọi là chùa Phật Học. Chùa nằm trên một khoảng đất rất rộng, quay mặt ra đường lộ, sân sau chùa tiếp giáp với bờ sông, trong sân chùa còn nguyên cả những cây cổ thụ. Mấy vị sư trong chùa đọc được chữ Nho, coi được sách bằng chữ Hoa, viết về ngày tốt, tháng kỵ; tuổi khắc, tuổi hạp... là chỗ dựa cho dân làng vào những dịp ma chay, hiếu hỉ, động đất, cất nhà, khai trương, xuất hành... Cũng có hẳn một ngôi chùa của người Hoa, thờ bà Thiên Hậu, thường vẫn được gọi là chùa Bà, ở cách đó không xa. Ngày rằm, ngày vía thiện nam tín nữ, không phân biệt Việt, Hoa tấp nập viếng chùa, xin xâm, hương khói nghi ngút. Trong thị trấn cũng đã có một ngôi nhà thờ Thiên Chúa nhỏ và một nhà thờ Tin Lành. Sinh hoạt của các nhà thờ này tuy được chính quyền hổ trợ mạnh mẽ nhưng cũng chỉ giới hạn trong vòng giáo hữu còn rất khiêm nhường quanh đó, hầu hết là đồng bào di cư từ ngoài Bắc, hồi 54. Lúc nhỏ, tụi tôi sợ ông Cha ở nhà thờ, một phần vì chiếc áo chùng màu đen, phần khác vì tuổi nhỏ tụi tôi ưa phá phách, trửng giởn... ông Cha không thích. Đối với tụi tôi, Thầy ở Chùa có vẻ hiền hơn Cha ở Nhà Thờ.
Trước tôi vài năm, khoảng trước 1956 sau khi xong tiểu học, học sinh phải đi xa, hoặc về tỉnh lỵ Phan Thiết; hoặc vào Sài Gòn để học tiếp trung học. Đây là một trở ngại lớn cho những gia đình nghèo khó, nên có thể nói hơn 90% ngừng lại ở Tiểu học. Đi Phan Thiết còn đỡ, đi học ở Sài Gòn chẳng khác gì sau này người ta du học bên Pháp, tuy thủ tục không có gì khó khăn nhưng chỉ những nhà có tiền hay có thế lực mới có khả năng cho con đi học ở Sài Gòn. Chúng tôi may mắn hơn, một năm trước khi tôi lên trung học, một nhân sĩ trong vùng xin mở được một trường Trung Học Đệ Nhất Cấp, nằm trên địa bàn xã Phan Rí Cửa (xã trù phú và đông dân nhất của Quận). Thế là trẻ con trong vùng với một khoảng cách từ 10 đến 15 cây số có chỗ để học tiếp. Trường nằm trên một đồi cát, cạnh miếu thờ Cá Ông. (Người vùng biển kính cẩn thờ cá voi, họ gọi là cá Ông, vì họ tin rằng cá Ông giúp ngư dân khi gặp nạn ngoài biển khơi,. Khi cá Ông chết, tấp vào bãi, họ gọi là Ông lụy (chết), người đầu tiên gặp Ông lụy phải để tang, và cả xóm biển phải làm tang lễ cho Ông.) Trường có tên là Trung Học Bán Công Phan Rí Cửa. Không biết tại sao lại gọi là bán công, nhưng học sinh phải đóng tiền như trường tư. Có điều, ngôi trường ấy là trường trung học duy nhất của Tỉnh Bình Thuận không nằm trên địa bàn tỉnh lỵ, cho nên nó là niềm hãnh diện chung của dân chúng trong vùng bắc Bình Thuận. Trường dạy cho đến lớp Đệ Tứ (lớp 9). Ngoài Thầy Trương Minh Huệ mà người địa phương gọi thân mật là thầy Sáu Huệ, làm Hiệu Trưởng, còn những thầy giáo được mời từ nơi khác về. :Thầy Nguyễn Xuân Nhiên (Văn, Hội Họa, Nhạc) Thầy Trịnh Thế Trụ (Toán, Lý-Hóa, Vạn Vật) Thầy Đinh Tôn (Pháp Văn) Thầy Nguyễn đình Tín (Anh Văn)... Học sinh đi học, ngoài thứ hai chào cờ phải mặc đồng phục : quần trắng, áo trắng; còn thì tự do, nhưng phổ biến là bộ bà ba, sang thì màu trắng, hèn thì màu đen, quần này áo kia cũng không sao, áo vá cũng được, có tiền thì mang dép, không thì mang guốc vông, không có nữa thì chân không. Trường học từ sáng 8 giờ đến 11 giờ,đến chiều 1:30 đến 3:30, nên bọn học sinh ở xa trường phải đem cơm trưa theo. Cơm được bỏ trong gào mên (cà mèn) loại hai hay ba ngăn: ngăn lớn đựng cơm, ngăn nhỏ đồ ăn. Buổi trưa, quanh trường. chỗ nào cũng có những bếp lửa nhỏ do học sinh gầy để hâm đồ ăn. Cũng có đứa không có khả năng mang theo cơm và đồ ăn, buổi ăn trưa chỉ có vỏn vẹn vài nắm cơm và muối mè, hay miếng cá khô nướng trước. Cũng có những học sinh từ những xã cách trường xa quá (Chợ Lầu, Lương Sơn, Long Hương) thi ở lại luôn ở trường cho đến cuối tuần hay cuối tháng, tối ghép hai bàn học lại làm chỗ ngủ, sáng dọn lại trả cho lớp. Họ cũng mang theo cả mùng mền chiếu gối, hai ba người chung nhau nồi nấu cơm. Mấy thằng bạn ngoài Duồng thì lại khác, đứa nào cũng rách rưới thê thảm, mắt đứa nào cũng bị bét (toét) vì cát bụi. Duồng là một làng đánh cá nhỏ nằm giữa Phan Rí Cửa và Long Hương, nhưng nghèo xơ, nghèo xác, cả làng chỉ có chừng vài chục nóc gia, nhà cửa xiêu vẹo, lụp xụp... Đám bạn học ở Phan Rí Cửa gần trường thì khá hơn, thị trấn này giàu có nhất so với mấy xã khác, sống nhờ vào biển: đánh cá và làm nước mắm, các ngành nghề khác cũng phát triển khá hơn. Vào thời đó (60 -61) mà Phan Rí Cửa đã có điện, cây xăng, nhà máy nước đá, rạp hát... Nhà thằng Dũng, thằng Thạnh, bạn cùng lớp là nhà hàm hộ (làm nước mắm), trong nhà có cả bàn Ping-pong. Tụi nó con nhà giàu, học giỏi, lại đẹp trai... nhưng vì chỉ quanh quẩn chỉ có tụi tôi là đồng lứa nên cũng hòa đồng với nhau mà chơi, mà học, mà nghịch phá... không thấy có những phân biệt như ở những chỗ khác.
Tôi không biết lúc đó tiêu chuẩn học hành của các trường ở Sài Gòn hay các trường Tỉnh ra sao, nhưng quả thật ở Trung Học Bán Công Phan Rí Cửa ấy, chúng tôi được dạy kỹ, dù về sau, tôi biết những Thầy của chúng tôi lúc đó chỉ có trình độ Tú Tài I là cao. Sĩ số đậu Trung Học Đệ Nhất Cấp hàng năm của trường rất cao. Ở trình độ đệ Tứ lúc bấy giờ mà chúng tôi phải dùng tiếng Pháp trong giờ Pháp Văn, tiếng Anh trong giờ Anh Văn dù là nói chậm và ngắn (lúc đó ở trường dạy cả hai sinh ngữ cùng một lúc, không phân biệt sinh ngữ chính hay sinh ngữ phụ như sau chương trình cải tổ 1961). Pháp Văn thì học bộ sách (từ đệ Thất đến đệ Tứ) của giáo sư Bùi Hữu Sủng, Anh Văn thì học bộ L'anglais Vivant, Edition bleue. Có điều là học sinh dù có anh đã 17, 18 tuổi, nhưng vẫn nghịch như quỉ, và sợ Thầy như sợ cọp. Một lần, một bọn học sinh trường kéo nhau sang vườn táo và đào gần đó phá phách, bị bắt được, mắng vốn; thầy phạt quì gối trước cửa lớp và chép phạt 200 câu"từ nay tôi không đi ăn trộm làm hại thanh danh nhà trường nữa", vậy mà không một ai oán hận. Một lần khác, trong giờ Pháp Văn, anh này ném cho anh kia một mẩu giấy vo tròn, bị thầy Tôn bắt được, mở ra thấy có hàng chữ : "nid bonze maison toi ", cả lớp, kể cả Thầy, không biết anh nói gì, hỏi mãi anh mới ấp úng nói: "thưa Thầy, con chưởi nó" - "chưởi cái gì?" - "thưa Thầy con chưởi tổ sư nhà mày". Cả lớp được một trận cười. Trường nằm cạnh một phụ lưu của sông cái. Đường quốc lộ khúc trên, chỗ làng tôi, chạy song song với sông. Mỗi sáng đi học, chúng tôi thường nhìn mực nước ở sông cái, để quyết định có nên đi đường tắt, lội ngang sông nhỏ để lên trường, nếu được chúng tôi có thể lợi được gần nửa giờ, so với phải đi đường vòng. Khổ một điều, vì khúc sông này quá gần cửa biển, nên đôi khi thủy triều lên, nước ở khúc này lớn, có khi khi lút đầu, bọn con gái thường quay trở lại đi đường vòng, bọn con trai chúng tôi, lột hết quần áo cuộn lại, một tay cầm sách vở, một tay cầm quần áo và cơm trưa, đưa lên khỏi đầu, cứ trần truồng lội đứng bằng hai chân sang sông; qua bờ bên kia, chui ngay vào lùm mặc quần áo vô. Làng tôi ở cách xa trường khoảng 3 cây số, học sinh thường tụ họp chừng năm ba đứa đi cho có bạn. Tôi có biệt tài kể chuyện nên tụi bạn thường tụ họp ở nhà tôi để cùng đi. Từ Tây Du, Phi Long diễn nghĩa... đến Ngũ Hổ Bình Tây, La Thông Tảo Bắc... kể theo chuyện cũng có mà bịa thêm cũng có. Tôi không hiểu sao, bài học thì nhét vào đâu một cách khó khăn, mà chuyện đọc thì sao cứ vô cùng dễ dàng. Những Triệu Khuôn Dẫn, Trịnh Ân, Đào Tam Nương, Hàng Tố Mai... La Thành, Đơn Hùng Tín, Tần Thúc Bảo... Tôn Ngộ Không, Bát Giái, Ngưu Ma Vương... chỉ đọc lướt qua mà sao tôi nhớ giỏi thế, còn mấy bài học, ngồi mài cả buổi mà khi trả bài cho thầy cứ quên đầu, quên đuôi. Vừa đi , vừa kể chuyện, đường không còn thấy xa. Lúc chấm dứt, bao giờ tôi cũng lựa một chỗ ly kỳ, hấp dẫn (nếu cần thì bịa ra, tụi bạn đâu có biết) rồi bắt chước cách nói trong chuyện Tàu lúc đó "Muốn biết khúc sau thế nào, xin chờ ngày mai sẽ rõ" khiến tụi bạn không thể rời tôi được . Một trong những trò quỉ quái của bọn học trò con trai chúng tôi là xích (đu) xe ngựa. Phương tiện di chuyển công cộng của người bình dân là xe ngựa, hình dáng cũng như xe thổ mộ ở Sài Gòn, nhưng bánh xe nhỏ hơn. Người đánh xe lựa chỗ ngồi trên càng xe để tạo cân bằng, thành ra khi có một thằng nhóc đu trên bàn đạp, sự cân bằng sẽ mất ngay, và thằng nhóc sẽ lãnh một roi quất ngược về phía sau, rủi mà trúng dám rướm máu lắm. Bị đòn đau như vậy, nhưng mười thằng là đã hết chín thằng thích đu xe. Có lần bác Tư Nhường đánh xe ngựa mắng vốn má tôi " Cái thằng con chị, tui đâu có làm hiểm với nó, nó muốn thì đón xe, tui cho quá giang; lần nào cũng xích theo xe, có ngày té chết."
Cứ thế cho đến ngày tôi thi đậu được bằng Trung Học Đệ Nhất Cấp, thì gia đinh tôi dời về Phan Thiết. Xa trường, xa đám bạn nghịch ngợm, xa cả làng quê nghèo khổ...
Làm sao quên được những kỷ niệm của thời thơ ấu? Những đêm sáng trăng , bắt chước mấy gánh hát rong, tụ nhau trên nhà lồng chợ giả làm đào làm kép, đứa nào cũng muốn đóng vai chánh. Hô một tiếng "tam quân" là lũ nhóc con dạ ran, lũ nhóc này cũng là đám khán giả nhiệt tình của đám đào kép nửa mùa đó. Nhớ những lúc chơi, nhảy dây, u mọi... nhất là rượt bắt, trẻ con mỗi xóm là một phe, cũng có phục kích, dụ địch, bắt và giải cứu tù binh. Mà không biết sao, ở đó tụi tôi chơi nhiều trò có nguồn gốc khác nhau, từ Bắc (rồng rắn lên mây) Trung (Đúc hột đúc hạt...vùng Qui Nhơn, Phú Yên) đến cả những trò chơi xuất phát từ tôn giáo (Thiên đàng Địa Ngục...) . Cũng có cả trò chơi du nhập từ nước ngoài: trò đánh banh (quả banh nhỏ băng cao su) mà sau này tôi biết là đã nhái theo gần như y hệt môn thể thao base ball của Mỹ...
Đất nghèo quá, chỉ có cát và bụi, thì lấy gì để tạo ra của cải để làm giàu? Người dân quê tôi nghèo quá, chân và vai to bè va chai cứng vì phải gánh nặng và lội bộ trên cát nóng, nhưng họ vẫn hy sinh làm việc để gửi con cái họ đến trường. Họ quê mùa, dốt nát, nhưng họ muốn con cháu họ phải có đời sống khá hơn, không rơi vào con đường đau khổ mà họ đã trải. Họ sống đời tối tăm nhưng họ muốn con cháu họ sống trong tươi sáng. Ước mơ của họ, như bao bậc cha mẹ của những miền quê nghèo khó của miền Trung là làm sao họ đổi được đời, con họ đổi được đời... Họ đổi được đời chưa thì không biết nhưng ước mơ của họ về tương lai của con cháu thì có thể đã đạt được. Mà sao trong lòng thấy như có gì cay đắng. Làng quê tôi, cát bụi, nghèo đói vẫn còn nguyên bụi cát đói nghèo, những người con thành đạt cũng tìm những nơi khác để cống hiến. Có chăng chỉ là những tình cảm không làm nên cơm gạo cho phần đất nghèo nàn, cơ cực ấy.
Con sông Lũy vẫn khô cạn và mặn chát trong mùa nắng và vẫn cuồn cuộn hung hăng tràn bờ trong mùa mưa lũ. Và làng quê tôi không có cây đa cao vút từng xanh, có con sông lơ lững vờn quanh... cũng không có bao mái tranh san sát kề nhau, bóng tre ru ôm mấy hàng cau... Có chăng là những mái tranh lụp sụp, úp trên những vách đất được trét bằng bùn và rơm, những con đường quanh co trong xóm đầy cát lầm, cái thứ cát màu xam xám vì lẫn quá nhiều thứ, trong đó có cả mồ hôi của người dân quê tôi.
Hòa Đa ( Tháng 3/2001)
|
|
|
Post by Can Tho on May 21, 2010 15:50:59 GMT 9
Nhắc chuyện quê hương: Rau Càng Cua Trần Mỹ Thanh, Palm Springs, California  Tôi sang Mỹ đã lâu mà sao tâm hồn lại còn để lại ở một góc nào đó ở quê hương. Mầy hôm nay Cali trời mưa, tôi nhớ quê nhà. Ở Việt Nam khi trời mưa cho không gian ẩm ướt, để cây cối xanh tươi. Một loài tôi còn nhớ là rau càng cua. Xin tặng bài đến các đồng hưong Kiên Giang của tôi. Rau Càng Cua là loại rau dân dã, bình dị, hầu như hiện diện khắp quê hương nước Việt, vùng địa phương nào cũng có. Rau càng cua mọc tự nhiên như rau sam và mọc nhiều vào mùa mưa khí hhậu ẩm ướt. Mùa nào người dân cũng có rau càng cua. Loại rau này mọc thấp, chỉ cần rảo quanh sân vườn, hàng hiên bên nhà là có thể hái được rau một cách dễ dàng. Người dân nông thôn hay thành thị đã ăn gỏi rau càng cua rồi thì hầu như nó sẽ được ưa thích. Đặc điểm của rau càng cua dễ mọc hoang dã ở Việt Nam, ở tỉnh nào, ở nơi nào có mưa và có đất thì sẽ có rau càng cua. Rau càng cua mọc tự nhiên ngoài vườn bưởi, vườn chuối, gần ao hè sau nhà hoặc ven bên những liếp dừa miền quê. Rau càng cua lên xanh um và mọc nhiều. Có lẽ do thích hợp với khí hậu vùng đất thấp, ẩm ướt nên cọng rau càng cua có thể mọc dài đến gần một gang tay. Do rau càng cua có được từ thiên nhiên ưu đãi, lại là món ăn được nhiều người ưa thích nên về sau tại quê nhà giá rau càng cua nghiểm nhiên cao hơn nhiều lần so với rau muống. Món ăn rau càng cua trộn dầu dấm như món salad thông dụng trong thực đơn của gia đìinh tại quê hương. Ngày nay tại hải ngoại như tại Mỹ chúng ta không thấy các chợ bán rau càng cua, nên bài viết này như một kỷ niệm hoài hương mà thôi. Nói đến rau càng cua, người ta nghĩ ngay đến món salad trộn dầu dấm. Có nhiều cách làm món này, nếu dùng thịt bê hay bò cũng là móon ăn phổ thông. Thịt bò ướp gia vị vừa ăn. Rau càng cua rửa sạch để ráo nước rồi sắp ra đĩa. Cho dầu vào chảo, phi hành thật thơm, sau đó bỏ thịt bò vào đảo nhanh và trút ra, san đều trên mặt đĩa rau. Giấm hòa với bột nêm, ít đường, tỏi bằm nhuyễn (có thể cho thêm chút tương ớt) sao cho có vị đủ chua, ngọt vừa ăn. Nước tiết ra từ thịt bò và dầu giấm sẽ làm cho rau thấm gia vị. Món này dùng ngay sau khi chế biến là ngon nhất. Cầu kỳ hơn, để giúp món dầu giấm có hình thức hấp dẫn, người ta đặt lên dĩa mấy lát cà chua và trứng vịt luộc được cắt ra làm sáu miếng. Dĩa rau càng cua sẽ trở thành một bức tranh đủ các màu xanh, đỏ, trắng, vàng, tập hợp nhiều chất bổ dưỡng, kích thích thị giác và vị giác. Chu đáo hơn nếu rắc thêm ít đậu phộng rang lên bề mặt và khi đó vị hơi chua, mát lạnh của càng cua được tô đậm thêm bởi cà chua và dấm, vị cay của tương ớt, vị đậm đà của thịt bò, vẻ thanh tao của trứng luộc và thơm thơm bùi của đậu phộng. Cách làm khá giản dị, dầu dấm và trứng vịt cũng tạo nên món càng cua ngon miệng, đủ chất dinh dưỡng. Nhưng nếu bạn ăn chạy, bạn có thể thay trứng vịt và thịt bằng đậu hủ chiên vàng cắt miếng nhỏ, làm thành dĩa salad chay thật hấp dẫn. Ngoài ra, salad rau càng cua có thể chế biến thịt ếch xào tỏi hay rô ti, hoặc bồ câu chiên giòn sẽ là món ăn ngon miệng cho thực đơn gia đình. Nước sốt cho salad có thể cho thêm ketchup, và một ít bột mì hay bột năng vào nước dấm để tạo thành nước sốt sánh. Có thể biến chế với các loại hải sản như cua, tôm, diệp (scallop), cá cho vào móon salad rau càng cua đều thích hợp, tùy khẩu vị của chúng ta. Nói về y học dân gian của rau càng cua thì tên gốc la tinh là herba peperomiae pellucidae, thuộc họ Hồ tiêu hay Piperaceae. Mô tả về loại rau này thì nó sống quanh năm ở nơi ẩm thấp, nhớt, nhẵn, phần nhánh cao chừng 20-40cm. Lá mọc so le, có cuống, phiến dạng màng, trong suốt, hình tam giác - trái xoan (ách bích), hình tim ở gốc, hơi tù và nhọn ở chóp, dài 15-20mm, rộng gần bằng đài. Hoa họp thành bông dạng sợi có cuống ở ngọn, dài gấp 2-3 lần lá. Quả mọng hình cầu, đường kính 0,5mm, có mũi nhọn cứng ngắn ở đỉnh. Được biết nguyên thủy rau càng cua xuất phát từ vùng Nam Mỹ, nay được trồng và phát tán rộng rãi trở thành loại cây mọc hoang. Nói về tính vị thì có vị chua, hơi nhẫn, và giải nhiệt. Vì đặc tính như vậy và mọng nước mà rau này có tác dụng dùng làm nước mát giải khát tuyệt vời lắm. Theo công dụng dân gian như ở Java, người ta nghiền lá ra dùng đắp để trị sốt rét, đau đầu. Dịch lá dùng uống trị đau bụng. Còn ở bên Tàu người ta dùng để trị phỏng da do lửa, phỏng nước sôi, rau càng cua được vò nát đắp lên da.  Tôi đọc bài viết vui vui của tác giả Nắng Thủy Tinh về Rau càng cua như sau: "Cái thứ rau quê mùa, dân dã ấy mọc đầy khắp hiên nhà, chỉ cần cắp cái rổ con đi một vòng là bữa cơm hôm ấy có ngay món rau càng cua trộn dầu giấm ngon tuyệt. Mà có phải là do "cái đứa muốn ăn" đi hái đâu chứ, nó chỉ ngồi khoanh tròn chân trên tấm phản gỗ ở chái nhà và nhìn thằng em đội cái nón lá của bà ngoại đi hái rau cho nó. Tội nghiệp thằng em hay bị con chị ăn hiếp, cứ chốc chốc lại mang cái rổ vào hỏi xem bao nhiêu đó đã đủ chưa và rồi khi con chị lúc lắc cái đầu thì nó lại phải tiu nghỉu xách rổ đi xa một chút nữa ra vườn. Đôi khi con chị cũng theo thằng em ra vườn đấy chứ, nhưng thường thì chỉ có một mình thằng em hái rau thôi, còn con chị thì chỉ phụ theo vu vơ vài cọng, chủ yếu là để ngắm nghía xem có trái quýt nào chín tới hay chưa. Mà nghĩ cũng lạ, sao thứ rau ấy lại có sức sống mãnh liệt đến thế nhỉ?! Chỉ cần một vài cơn mưa là gốc cây nào cũng xanh màu rau càng cua, những cái lá hình trái tim còn đọng một vài giọt mưa mát lạnh rung rinh như mời gọi. Rau hái xong rồi cứ thế mà chao qua vài lần nước cho hết bụi bám, những cái đọt non óng ả trông đến là ngon. Một chút dầu dấm, một chút ớt, một chút đường, và thêm một chút đậu phộng rang vừa tay, không chín quá. Cái vị hơi chua, hơi cay, hơi ngọt, thơm mà không bùi của đậu phộng, tất cả hòa quyện vào nhau đánh thức vị giác để chuẩn bị đón nhận cái thanh khiết như không của rau càng cua, chỉ là cái giòn tan, và chỉ là cái mát lịm..." Rồi tôi đọc một bài viết khác của tác giả Hai Quẹo, ở Central Coast, Úc châu. Quê quán tại Trà Vinh, anh viết bằng văn phong miệt vườn Nam phần: "Có lẽ ít có ai mà hổng biết rau càng cua, nhứt là những người sống ở vùng quê miền Nam. Nó chẳng phải là đặc sản của Trà-Vinh quê tui đâu. Ở miệt trên, vùng Gia Định đổ lên, đâu cũng có. Nhưng ở đó người ta kêu nó là Rau tiêu. Vùng đó là đất gò, như Hốc Môn, Trãng Bàng, Tây Ninh chẳng hạng, người ta trồng nhiều tiêu và trầu. Có lẽ vì cái vòi và lá coi giống giống trái tiêu lá tiêu nên nó bị kêu như vậy. Còn bà con tui thấy chùm bông cong cong giống cái ngoe cua rôi kêu nó là rau càng cua? Đúng là xứ của cá tép tôm cua! Rau càng cua sống được ở nhiều thế đất lắm, trên liếp dừa miệt vườn, trên giồng khoai miệt giồng, cạnh buội chuối, sát gốc bầu, đâu đâu cũng có. Ngoài ra nó còn mọc trong chậu kiểng, bên gốc cây và cả trên nóc đình, trên mái ngói âm dương hoặc trên vách tường nứt vân vân. Đất cát đất thịt nó hổng sợ, mà nó chỉ sợ chỗ ẩm ướt hay ngập nước. Tội nghiệp ghê! Nó cần cù và thiết tha với kiếp sống như vậy đó. Nhưng để ý một chút thì thấy cái chỗ lý tưởng cho nó chính là vùng đất giồng, khô ráo như Trà-Vinh vậy. Dưới gốc tre mát mát, lá tre khô rụng dày cả gang rồi mục ra thành đất mùn xốp xộp; mưa xuống, chỗ đó rau càng cua mọc tốt phải biết. Dày mịt, khít rịt, xanh um, như cái mền, có khi nó phủ kín hết gốc tre và ôm mất luôn mấy mục măng non. Cọng nào cọng nấy dài 5, 6 tấc, thẳng tưng, non èo, giòn rụm. Nó cần mưa, thích ẩm cho nên mỗi năm nó chỉ nhởn nhơ có một lần theo mưa. Rồi mùa nắng khô, hột nó rụng xuống và nằm ngủ 6 tháng liền trong cát trong lá mục để chờ mưa năm tới. Cái hột tròn vo nhỏ rức như hột cát đó nằm chung với cát thì đố có con mắt nào nhận ra. Gió thổi mạnh một cái là nó bay theo bụi theo cát lên trời, rồi đáp xuống ngọn cây, đậu trên nóc đình, khỏe re. Rồi khi nó mọc thành cây, cái lá mướt rượt của nó mới thiệt là mặn mà tình tứ làm sao. Hình trái tim! Có người biểu nó giống lá trầu lá tiêu tí hon? Dân cờ bạc thì nói nó giống nút Bích, ách Bích bài cào tây gì đó. Tui thì thích nói nó hình trái tim hơn. Mặt trên lá màu xanh mướt, mặt dưới xanh bạc, nham nhám. Thân nó xanh xanh, trong trong, như cẩm thạch, nhưng mà bở rệu giòn rụm như cọng bông súng lột rồi. Nếu bức một cọng bỏ vô miệng nhai thử thì chỉ thấy nó ngòn ngọt pha chút vị the the nồng nồng của trầu, mọng nước như bông súng, nghe nó là lạ mà hổng dám quả quyết là ngon cỡ nào. Vậy mà sao nó lại hấp dẫn quá chừng? Có phải vị nồng làm cho say và bắt ghiền như ghiền trầu? Cũng chưa chắc là tại hay nhờ cách chế biến nó mới ngon. Ở đây hổng nói tới việc dùng nó làm ghém chung với lá cát lồi, đọt sộp, đọt xoài, mã đề, đọt cơm nguội, rau thơm, v. v... để ăn bánh xèo, bánh giá (bánh cống), mà chỉ nhắc món độc chiêu của nó mà thôi. Rau càng cua bóp giấm. Làm gì thì cũng phải bóp cho nó xộp cái đã, như kiểu bóp rau cresson. Rồi tùy giàu nghèo mà có phủ thêm lên trên, hoặc là lớp thịt bò xào, hoặc mấy lát trứng luộc, hay ít tôm khô giã nhuyễn. Hà tiện hơn thì chỉ rắc lên chút đậu phộng rang đập giập, hoặc, hổng cần gì ráo, chỉ dùng rau tươi nguyên chất mà chấm nước tương, nước chao, nước cá kho hay mắm kho. Chỉ có vậy. Đơn sơ, đạm bạc. Đặc biệt ở miệt giồng quê tui, còn thêm món càng cua luộc, như tui nói hồi nảy. Dù ăn theo kiểu cách nào nó cũng đều hấp dẫn khó quên. "Cái đơn giản là cái đẹp nhứt". Mình làm bộ nhái theo, nói như vầy: "Ăn uống đơn giản là cái ăn ngon nhứt". Nhưng lý do mà tui mê loại rau này chắc hổng phải ở chỗ ngon dở mà còn nằm ở chỗ khác. Rồi bà con sẽ hiểu tại sao mà tui cứ rị mọ ráng trồng cho được nó ở cái xứ mà thời tiết tréo ngoe lạ quắc như vầy. Tui có anh bạn cố gầy cho được mấy cọng "rau-tiêu" để làm thuốc. Ảnh nói rằng rau tiêu trị mụn bọc công hiện thần kỳ. Đem giã với chút muối rồi đấp lên mụn bọc hay mụn bạc đầu, nó sẽ rút hết mủ và bữa sau mụn sẽ xẹp mất. Đó là môn thuốc bí truyền của dân Gò Dầu biên giới. Về cách phơi lấy hột làm giống. Đừng phơi ngoài nắng ngắt, nó sẽ chết khô, mà chỉ rắc nó vô thùng giấy, phơi trên giấy chớ hông phơi trên đồ sắt, chỉ cần để trong hàng ba vài bữa nó cũng khô mà hông hư. Xong bỏ vô ve đem cất. Đợi chừng nào có thời tiết ấm như Việt Nam thì đem ra trồng. Cái thời hạn gọi là quá "đát" của hột giống này chắc hổng quá 2 năm. Ở Úc trồng rất dễ. Nhưng ở Canada, Bắc Mỹ Ngũ Đại Hồ hay Na Uy lạnh cóng coi bộ khó." Tác giả Hai Quẹo viết kết luận như sau. Tôi xin đùng phần cuối này để chấm dứt bài viết này: "Ở đời có nhiều cái rất nhỏ nhặt tầm thường thì mình thấy nhàm, rồi quên lững nó đi. Chừng nào mất nó rồi mình mới biết quí biết nhớ. Sống tha phương, nhiều khi nhớ mấy cọng rau quê mùa bình dị thân thương đó hung lắm. Nhưng gẫm đi gẫm lại, nhớ là chuyện nhỏ, cái liên tưởng mới vĩ đại. Nỗi nhớ mới phát thì nhỏ xíu như mụn cám, rồi nó ăn lan ra, truyền nhiễm qua vùng chuyện khác, biến thành ra chuyện lớn. Nó bao phủ cả gia đình, làng mạc, ruộng đồng. Nó đưa mình về mái nhà lá đơn sơ, những bữa cơm gia đình đầm ấm, gợi nhớ lại cuộc sống yên bình, một quê hương xa mút tí tè. Nó dám ôm luôn cả vùng trời kỷ niệm!" Trần Mỹ Thanh, Palm Springs, California.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 10:12:19 GMT 9
Nguyễn Huệ Chi Thử tìm vài đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam bộ trong bước khởi đầu Văn xuôi tự sự quốc ngữ miền Nam đã ra đời trước văn xuôi tự sự quốc ngữ miền Bắc có đến ba thập kỷ nếu tính từ Truyện thầy Lazaro Phiền (1887) [1] , còn nếu tính từ Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất hợi (1876) [2] thì còn sớm hơn gần 10 năm. Đó là điều đến nay không ai có thể phủ nhận. Nhưng xu thế vận động và các bước tiến đích thực mà nền văn xuôi ấy đạt được cần nhìn nhận như thế nào cho thỏa đáng. Chỗ này hình như ý kiến vẫn chưa thật nhất trí với nhau. Nếu tính theo thống kê, số lượng tiểu thuyết gia và số lượng tác phẩm xuất hiện ở miền Nam trong 30 năm đầu thế kỷ XX đáng cho ta phải kính nể, trong khi so với miền Bắc thuở bấy giờ tác giả chỉ mới đếm trên đầu ngón tay và tác phẩm giỏi lắm cũng gấp đôi số ấy là cùng. Nhưng thành tựu của văn chương lại có quy luật riêng của nó mà sự định lượng chưa hẳn đã là tiêu chí hàng đầu. Bởi thế, việc thiết thực nhất có lẽ vẫn là chỉ ra cho được những đặc điểm có tính quy luật của nền văn chương ấy trong chặng đường phôi thai của văn học quốc ngữ Việt Nam mà không với tinh thần tranh thắng rằng đây là thành tựu của Nam hay của Bắc.
1. Đặc điểm trước nhất, tôi nghĩ, sự ra đời của văn xuôi tự sự quốc ngữ miền Nam có một “bệ đỡ” rất quan trọng, ấy là khu vực văn xuôi tự sự Nôm Công giáo vốn đã trưởng thành qua nhiều thế kỷ như một dòng văn chương mang dáng nét riêng. Các Linh mục nước ngoài đến Việt Nam sớm nhận ra lợi khí của chữ Nôm nên từ rất lâu đời đã biết cộng tác mật thiết với nhiều tín đồ người Việt trong việc viết văn Nôm để tạo nên kho “Truyện các Thánh 傳 各 聖” đồ sộ mà chứng tích xưa nhất hiện còn là bộ sách cùng tên do Jéronimo Maiorica (vị cha cố người Italia, 1591-1656) đứng tên tác giả, hoàn thành từ 1646, đến nay còn giữ được 4.200 trang, trong đó lời văn viết đã rất xuôi tai, không đệm nhiều hư từ “chưng”, “thửa” như trong văn diễn nôm Truyền kỳ mạn lục 傳 奇 漫 錄 có khả năng xuất hiện cùng một giai đoạn [3] , và gồm nhiều truyện kể ly kỳ về sự tích các ông Thánh cả Tây lẫn Đông. Xét về thủ pháp, huyền tích Thiên chúa giáo được sử dụng ở đây cũng như các môtip kỳ ảo trong thể loại tiểu thuyết truyền kỳ Đông Á, nhằm minh họa con đường “xả thân đắc đạo” của những người một lòng theo Chúa Giêsu, giống hệt loại truyện linh dị ký của văn học Phật giáo Nhật Bản thời cổ trung đại. Theo Linh mục Tiến sĩ Nguyễn Hưng thì “mỗi câu chuyện được coi như một đoản thiên tiểu thuyết... Nhiều truyện na ná như Tê-lê-mặc phiêu lưu ký. Nhiều truyện giống như truyện Đức Phật Thích Ca xuất hành ra bốn cửa thành. Không thiếu những truyện tương tự như truyện Phật bà Quan Âm Thị Kính” [4] . Điều đáng nói là kho “Truyện các Thánh” không phải sau Maiorica thì chấm dứt mà còn được nối tiếp cho đến hết thế kỷ XIX, chẳng hạn bộ Sách Thánh 冊 聖 của cha Dominique Martigia thu thập và công bố năm 1848 cũng phải trên dưới 2.000 trang, hay bộ Sách truyện các Thánh 冊 傳 各 聖 của cố Joseph Marie Bigollet Kính tổng hợp nhiều bộ sách trước đó và công bố năm 1905 cũng không dưới 1.500 trang... Còn phải nhấn mạnh thêm, dường như khác với văn xuôi Nôm nhà Nho chưa bao giờ có được một đời sống văn học cộng đồng, biểu hiện ở nhu cầu in ấn và truyền bản rộng rãi, văn xuôi Nôm Công giáo đã tạo cho mình đời sống cộng đồng ấy không chỉ giới hạn trong tầng lớp cha cố mà mở ra hầu khắp các vùng cư dân Thiên chúa giáo từ Nam đến Bắc, nhờ đó câu văn ít nhiều có được những chuẩn mực chung của ngôn ngữ cả nước chứ không bị cầm tù trong phương ngữ. Đó là điểm trội đáng kể mà trước nay giới nghiên cứu chưa đánh giá đúng trong khi nói về bức tranh sinh hoạt của mảng văn học Nôm. Thêm vào nữa, Lục tỉnh Nam Kỳ lại mất vào tay người Pháp sớm đến gần 50 năm trước Bắc và Trung Kỳ. Tầng lớp thông ngôn xuất hiện trong thời gian này chỉ có thể là trí thức Công giáo. Chắc chắn họ là những người từ trong nền văn xuôi Nôm Công giáo xuất thân nên không bỡ ngỡ khi chuyển sang viết văn xuôi quốc ngữ. Kiểu viết văn “như lời nói thường” của văn xuôi quốc ngữ buổi đầu hẳn cũng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với văn xuôi Nôm Công giáo, bởi lẽ hầu như những bộ sách “Truyện các Thánh” đã nói đều không hề dùng đến văn biền ngẫu, tỷ lệ từ Hán Việt không đáng kể, lời văn ngắn gọn, thanh thoát, ngữ Pháp tiếng Việt đã khá tinh thục, sử dụng hư từ, tính từ, từ láy, câu lấp lửng nhiều khi thật thần tình. Do yêu cầu phát triển đạo Gia-tô vào những thời kỳ lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam cấm đạo, hơn ai hết, các cha cố là những người biết giảng giải kinh sách làm sao cho lọt tai đại chúng, khác xa lối văn cao sang, có vần có đối của nhà Nho. Về mặt từ ngữ, điều thuận lợi là họ lại không hề thông qua trường ốc Nho giáo nên khả năng diễn đạt không bị trói buộc trong kho “chữ nghĩa thánh hiền”, thêm nữa, đang từ cách tư duy lôgich của phương Tây họ đến thẳng với cách nói năng giản dị của người dân Việt Nam ít học, vì thế câu văn họ dùng “tiếng An Nam ròng”, “trơn tuột như lời nói” mà lại khúc chiết, dễ hiểu là điều tưởng có vẻ lạ lùng, kỳ thực không có gì lạ. Ngay như ở miền Bắc, giữa Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh trong những năm 20, tuy cùng tốt nghiệp Trường Thông ngôn ra, nhưng do hoàn cảnh xuất thân của mỗi người, cũng đã có sự khác nhau rõ rệt trong phong cách viết. Học giả họ Phạm vốn thuộc dòng dõi Nho gia nên câu văn thường trau chuốt và nhiều chữ nghĩa. Còn học giả họ Nguyễn thì từ bình dân chính cống trở thành nhà văn và nhà thực nghiệp, nên rất ghét cái học từ chương điển cố, và ngay từ sớm đã viết văn một cách bình dị, như lời nói thường ngày. Tất nhiên ở đây ta không nên vội xét hai thành tố “chữ nghĩa” và “nôm na” cái nào thấp cái nào cao, vì trong xu thế phát triển của tiếng Việt văn học, đến một lúc nào đấy cả hai thành tố trên phải giao thoa mật thiết với nhau mới có thể tạo ra một sự chuyển biến từ lượng sang chất, tức là sinh thành nên một thế hệ nhà văn lớp mới. Điều đó phần sau sẽ đề cập. Nhưng xin trở lại với chủ đề chính, hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã cấp cho người viết văn xuôi Nam bộ hai điều kiện lý tưởng: chất liệu ngôn ngữ không theo hướng “chữ nghĩa” mà theo hướng “nôm na”, không theo hướng ưu tiên “phương ngữ” mà theo hướng điều hòa phương ngữ với từ vựng phổ thông. Thừa nhận sự thực ấy, tôi muốn nhắm tới một cái nhìn khái quát hơn, coi đây là đặc điểm có ý nghĩa xác định một phương diện trong quan niệm nghệ thuật của văn xuôi tự sự quốc ngữ buổi đầu. Một mặt, quyết tâm dùng tiếng Việt nôm na có sự thuận lợi rất lớn là tạo nên được một cuộc cách mạng chóng vánh trong việc chối bỏ các phép tắc từ chương học cổ truyền. Với Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản... văn xuôi tự sự quốc ngữ đánh dấu một bước đoạn tuyệt thật sự với thói quen tư duy ước lệ, biểu tượng, nhiều điển cố của văn pháp văn ngôn, mặc dù việc tu sức, tạo cảm hứng thẩm mỹ, biến nó thành tiếng nói của mỹ văn (belle lettre) hiện đại còn là việc lâu dài chật vật. Mặt khác, dùng tiếng Việt phổ thông cũng chứng tỏ một dòng văn học đi đúng quỹ đạo của ngôn ngữ. Ngôn ngữ văn chương không thể không thoát ly phương ngữ ở một mức nào đấy. Và cả hai mặt nôm na và phổ thông cộng lại, muốn hay không cũng sẽ góp phần đắc lực giúp văn xuôi tự sự gia nhập vào đời sống dân sự, hay đúng hơn gia nhập vào cái công cụ giao lưu trong sinh hoạt xã hội đang diễn ra hàng ngày. Tôi hết sức quan tâm đến cuốn văn xuôi Nôm Quan quang Nam Việt 觀 光 南 越 cũng là một loại truyện các thánh nhưng là truyện thánh tử vì đạo ở Việt Nam được viết rải rác khoảng cuối thế kỷ XVIII sang các đời Minh Mạng, Tự Đức và được cha Pierre Marie Gendreau Đông chỉnh lý và khắc in năm 1902, khoảng hơn 300 trang [5] . Có thể nói với tập I gồm 22 truyện và tập II gồm 11 truyện, Quan quang Nam Việt đã có tư cách hai tập truyện ngắn và truyện vừa thoát thai từ thể ký, ở đó, tính chất huyền thoại, linh dị của loại truyện các thánh trở về trước hoàn toàn bị tước bỏ, việc trình bày tiểu sử biên niên hầu như cũng bị tước bỏ, yêu cầu nắm bắt mọi chi tiết thông tục trong một đoạn đời giàu kịch tính và nhiều xung đột nhất của nhân vật đặt ra trực diện. Nhân vật hiện lên trước chúng ta tuy là những con người có đức tin vào Chúa, quyết lấy cái chết để biểu lộ niềm tin không lay chuyển, nhưng đồng thời lại cũng là những con người thế tục, không có phép lạ, chỉ có các hành vi thế tục ở giữa cuộc sống. Giọng người trần thuật là một giọng khách quan, không hề cố ý xướng ngôn về hai tuyến chính tà, thiện ác như kiểu truyện Nôm văn vần. Tính gián cách này của ngôn ngữ người kể chuyện chính là hàm lượng của một hình thức tiểu thuyết đúng nghĩa, nó buộc ta phải tiếp nhận câu chuyện như những chuyện gây tò mò, xẩy ra ngay sát bên ta, trong đó các nhân vật hành động và đối thoại không lên gân, không được tác giả phơi bày hết động cơ và “lèo lái” chúng ta mà tự ta phải tra vấn, tìm hiểu để thấu tỏ. Tôi xem đây là một bước đột khởi của truyện văn xuôi Nôm làm đà cho văn xuôi tự sự quốc ngữ. Ta sẽ thấy truyện của Trương Vĩnh Ký hay của Huỳnh Tịnh Của, dù có là “chuyện đời xưa” hoặc có là “chuyện giải buồn” góp nhặt và dịch từ bộ sách cổ Liêu trai chí dị 聊 齋 誌 異, nhưng thông qua lời trần thuật mộc mạc, đơn giản và ngữ khí của người kể, đều trở thành những câu chuyện đang hiện diện đâu đó trong cuộc sống, đang hướng tới người đọc như lớp người chứng nhân cho các câu chuyện ấy. Và đó chính là một đặc trưng khu biệt thi pháp tiểu thuyết với sử thi theo Bakhtine: điểm nhìn của tiểu thuyết luôn luôn hướng tới hiện tại chứ không quay lui về quá khứ. Thật thú vị khi ta tìm thấy cùng một ý tưởng hệt như Bakhtine trong lời tựa Truyện thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản: “Đã biết rằng xưa nay dân ta chẳng thiếu chi thơ, văn, phú, truyện nói về những đứng anh hùng hào kiệt tài cao chí cả; mà những đứng ấy thuộc về đời xưa, nay chẳng còn nữa. Bởi đó tôi mới dám bày đặt một truyện đời này là sự thường có trước mắt ta luôn” [6] . Cũng thật là thú vị khi giọng trần thuật trong Truyện thầy Lazarô Phiền cũng đạt được ngữ điệu khách quan, điềm tĩnh, toát lên ý hướng dân chủ, không tạo trước định kiến cho người đọc phán xét nhân vật mà Quan quang Nam Việt đã có, nói khác đi là người kể chuyện nấp trong nhân vật, để nhân vật hành động, nói năng, suy nghĩ, một đặc trưng nữa mà tiểu thuyết không thể thiếu được. Quả tình, với đặc điểm đầu tiên: ngôn ngữ “viết như lời nói”, giọng kể lẩn vào nhân vật, tăng cường chi tiết phàm tục và điểm nhìn trần thuật ở ngay trong hiện tại, văn xuôi tự sự quốc ngữ trong bước khởi đầu ở Nam bộ đã có cái bản lĩnh khai sinh một dòng tiểu thuyết đích thực cho văn học Việt Nam.
2. Lẽ tự nhiên, điều thuận lợi này trước sau thế nào cũng đi kèm với một vài nghịch lý, mà cái nghịch lý trước nhất là nền văn xuôi đó không được giới viết văn cao cấp thừa nhận dễ dàng. Đây không phải là một chuyện “trái khoáy” như ta tưởng mà là tâm lý tiếp nhận bình thường của công chúng thuộc mọi nền văn học. Bởi, đã nói văn học viết thì phải nói đến văn học của tầng lớp trên trong xã hội. Ngôn ngữ văn học của tầng lớp này bao giờ cũng đóng vai trò quy chiếu cho ngôn ngữ thẩm mỹ của thời đại. Có hiểu như thế ta mới tìm được một phương án khả dĩ để lý giải theo hướng nội tại cái nghi vấn vì sao văn xuôi tự sự miền Nam buổi đầu đã nhanh chóng bị quên lãng mà không phải viện đến một lý do bên ngoài, như chiến tranh, mất mát, thái độ kỳ thị của người đời sau, v.v... Mặt khác, ta cũng thông cảm mà không nặng lời với thế hệ các nhà phê bình nghiên cứu đi trước đã từng không đánh giá đúng mức vị trí của chặng đường văn học quốc ngữ sơ khai, như Trúc Hà trong báo Nam phong (1932), Dương Quảng Hàm trong Việt Nam văn học sử yếu (1942), Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1941-1942), Nghiêm Toản trong Việt Nam văn học sử trích yếu (1949), và cả Phạm Thế Ngũ trong Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (1965) gần chúng ta hơn nhiều [7] . Ngay chúng tôi chỉ mới cách đây chưa đầy 20 năm khi lựa chọn tác gia cho bộ Từ điển văn học (bộ cũ) [8] cũng chỉ chọn được 5 người thuộc khu vực văn học đang bàn. Tư liệu thất tán là một lý do nhưng lý do sâu hơn vẫn là cái động hình đã ăn sâu trong tư tưởng. Đó chính là sự trớ trêu của lịch sử khi mà xét cho thấu lẽ, người phủ nhận những giá trị sáng tạo rất mới mẻ của nền văn xuôi tự sự miền Nam trước hết vẫn là đông đảo tầng lớp văn nhân đương thời với văn xuôi quốc ngữ miền Nam. Vì sao có thể nói như trên? Tôi căn cứ vào hai hiện tượng sau:
Thứ nhất, cuốn tiểu thuyết đầu tiên viết theo lối mới là Truyện thầy Lazaro Phiền in năm 1887 nhưng sau đó ròng rã đến ngót 25 năm đã không được một người nào kế tục. Mãi đến 1910 mới có thế hệ tiểu thuyết thứ hai. Một sự cách quãng gần 25 năm chứng tỏ điều gì nếu không phải là: hình thức tiểu thuyết văn xuôi nôm na chưa thể nào nhanh chóng trở thành thị hiếu của công chúng như thói quen thưởng thức văn chương tao nhã. Có người nói do khả năng “xã hội hóa” của hình thức văn xuôi mới diễn ra quá chậm, song nguyên nhân cốt lõi của sự chậm chạp là ở đâu thì hẳn vẫn phải nghĩ đến cái “sức ì” của văn giới trên văn đàn thuở ấy: chính lực lượng cầm bút quan trọng nhất đương thời - những nhà nho uyên thâm có được học ít nhiều chữ Tây và chữ quốc ngữ - đã không tiếp nối, trái lại khinh rẻ văn chương nôm na của lớp nhà văn tiên phong mà ngay về xuất thân, họ chưa bao giờ coi là cùng đội ngũ với mình. Nói cho cùng, trên phương diện ý thức hệ, đó là sự tiếp tục hữu thức hay vô thức thái độ “chối bỏ” quyết liệt có tính chất truyền kiếp của Nho giáo đối với Thiên chúa giáo trong nhiều thế kỷ. Nó cũng cho thấy văn học quốc ngữ từ 1887 trở về trước bị thành kiến ở cả hai bình diện, cả nội dung chuyển tải bị coi như chỉ là những chuyện vặt vãnh, không ích gì cho “nhân tâm thế đạo”, và cả cái vỏ ngôn ngữ nghệ thuật chỉ mới là món hàng thứ cấp, là văn học hạng dưới, xoàng xĩnh, tầm thường.
Thứ hai, từ cấu trúc thể loại mà nhìn, điều đáng lạ là nếu Truyện thầy Lazaro Phiền tiếp thu mạnh bạo kết cấu tiểu thuyết phương Tây thì các cuốn tiểu thuyết xuất hiện 25 năm sau lại tiếp thu kết cấu chương hồi Trung Quốc. Và nhìn vào hình thức lời văn, thì những cuốn tiểu thuyết xuất hiện sau 25 năm so với Truyện thầy Lazaro Phiền, hầu hết đều đã từ bỏ lối viết suôn đuột mà trở lại văn chương có đối có vần. Nào Hoàng Tố Anh hàm oan, 1910 [9] , Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân, 1910 [10] , nào Hà Hương phong nguyệt, 1912-1915 [11] ... Cho đến tận tiểu thuyết của Nguyễn Chánh Sắt, Lê Hoằng Mưu, Tân Dân Tử... trong suốt thập kỷ 20 vẫn là lối văn biền ngẫu. Chứng tỏ, cái ám ảnh của văn chương cử nghiệp đeo đẳng từ xưa đã tạo nên một phản động lực mạnh mẽ đối với tiến trình phát triển của văn học trong giai đoạn. Song còn ghê gớm hơn là áp lực của tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc vẫn chi phối đầu óc người cầm bút sâu nặng đến nỗi dứt không ra. Cho nên lại cũng phải thừa nhận, văn học dịch tiểu thuyết Tàu xuất hiện trước tiên là ở miền Nam chứ không phải miền Bắc. Khi các thể loại văn chương quy phạm đến hồi rã đám, trong dòng văn học tiếng Việt cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX có sự phân hóa mạnh mẽ, chuyển sang khuynh hướng trào phúng với thơ Tú Xương, Nguyễn Khuyến và với thể phú hài hước pha tục của hàng loạt tác giả như Phú a phiến, Phú cờ bạc, Phú thầy đồ ngông, Phú lạc đệ tự trào, Phú xem cờ để mãnh, Phú đàm tục, Phú gào chồng..., khuynh hướng châm chích kiểu người u mê hủ lậu trong thơ song thất lục bát, thơ và phú Đường luật của Phan Châu Trinh, Nguyễn Thượng Hiền, khuynh hướng hành lạc có mặt tích cực của nó trong hát nói của Dương Khuê, Dương Lâm, Chu Mạnh Trinh... ở Bắc thì ở Nam, bên cạnh tiếng cười bốp chát trong thơ của Cử Trị, Học Lạc... hầu như chỉ còn mỗi giọng điệu nghiêm trang đề cao đạo lý “kiến nghĩa bất vi vô dũng dã” thông qua truyện Nôm và văn tế của Nguyễn Đình Chiểu, tuồng của Bùi Hữu Nghĩa, rồi tiếp đến là trào lưu dịch tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa rầm rộ, gồm khoảng 30 dịch giả, dịch trên 70 tác phẩm [12] , được các nhà in phát hành theo lối sách mỏng in từng kỳ cho đến vài ba thập niên đầu thế kỷ XX, trong đó ba tên tuổi sẽ được báo Phụ nữ tân văn coi là “những tay dịch thuật trứ danh ở Nam Kỳ” là Nguyễn An Khương, Nguyễn Chánh Sắt, Trần Phong Sắc, từng công bố trên dưới 50 bộ tiểu thuyết chương hồi hết sức quen thuộc như Tam quốc chí, Thủy hử, Tây du, Đông Châu liệt quốc, Chinh Đông chinh Tây, La Thông tảo Bắc, Chung Vô Diệm, Ngũ hổ bình Tây, Càn Long du Giang Nam, Anh hùng náo Tam Môn, Nhạc Phi truyện, Phong thần diễn nghĩa, Tiết Đinh San chinh Tây, Vạn Huê lầu... (cần nhớ ở miền Bắc, cùng một thời gian, truyện dịch Trung Quốc chỉ mới xuất hiện lác đác, nhất là những pho tiểu thuyết nổi tiếng, như Tam quốc diễn nghĩa do Phan Kế Bính dịch 1907 và phải đến hơn 25 năm sau mới xuất hiện bộ Đông Chu liệt quốc của dịch giả Nguyễn Đỗ Mục vào năm 1933...). Chiều hướng mê sách dịch Tàu đến mức bất kể sách gì cũng ăn khách, ít nhiều cũng có thể nói là một trong vài ba biểu hiện của sự “lại giống”, nghĩa là trở lại với thói quen truyền thuyết hóa lịch sử trong văn xuôi chữ Hán truyền thống, kiểu Nam triều công nghiệp diễn chí của Nguyễn Khoa Chiêm (1689), Việt lam xuân thu của Vũ Xuân Mai (?) (biên soạn cuối thế kỷ XIX, in 1908)... Đây là cơ hội cho các bộ Phan Yên ngoại sử tiết phụ gian truân (1910), Giọt máu chung tình (1925) [13] , Việt Nam anh kiệt (1927) [14] , Việt Nam Lê Thái Tổ [15] , Việt Nam Lý trung hưng (1929) [16] , Tam Yên di hận (1929) [17] , Gia Long tẩu quốc (1930) [18] , Hoàng tử Cảnh như Tây (1931) [19] , Lê triều Lý thị (1931) [20] ... có dịp nở rộ [21] . Tất nhiên xu thế này cũng phù hợp với yêu cầu truyền bá tư tưởng yêu nước sôi nổi buổi đầu thế kỷ nên đã được hỗ trợ bằng lý luận “văn dĩ tải đạo” của các nhà duy tân, yêu nước, ví dụ Nam Kiều, Nguyễn Háo Vĩnh đều đã công nhiên phê phán tiểu thuyết Hà Hương phong nguyệt trên báo chí, điều chỉnh văn chương trở lại với đường ray “phò chính trừ tà”. Dù sao, đứng về góc độ nghệ thuật thì mô phỏng thể loại chương hồi Minh Thanh để diễn ngôn lịch sử vẫn là một thiệt thòi cho nền văn học mới không nhỏ, nó nói lên rằng trong tư duy nghệ thuật, “cái yêu nước” và “cái bảo thủ” đôi khi vẫn dễ lẫn lộn với nhau, cũng giống như “vụ án Truyện Kiều” của Ngô Đức Kế ở miền Bắc vào khoảng giữa đầu thập kỷ 20.
Vậy, nói đến đặc điểm thứ hai của tiểu thuyết Nam bộ là nói đến bước đi dích dắc của nó, nói đến cái khởi đầu như một bước tiến đột xuất kèm theo cái kế cận như một bước lùi, là biểu hiện không có gì đáng lạ của sự phản ứng quyết liệt của dòng văn học chính phái trong xã hội bút mực muốn giành lại quyền phát ngôn trên văn đàn.
3. Nhưng giờ đây, nghĩ cho kỹ, chặng lùi này trước sau vẫn là tất yếu. Nếu chúng ta mô thức hóa con đường của văn xuôi quốc ngữ miền Nam thì có 4 giai đoạn mà nó phải trải qua như một chu trình của sự vận động: 1. Giai đoạn sưu tầm, phiên âm, ghi lại các tác phẩm văn học cổ hay là bước tiếp nối để chắt lọc cái hay của truyền thống và tiến tới đoạn tuyệt với truyền thống; 2. Giai đoạn dịch thuật hay là bước học tập cái mạnh của các nền văn học mà nó đã và đang cần giao tiếp, trong đó có văn học Tây phương và văn học cổ điển và cận đại Trung Hoa; 3. Giai đoạn mô phỏng hay là bước thể nghiệm đầu tiên của việc chuyển hóa từ cái của người thành cái của mình; và 4. Giai đoạn thật sự sáng tạo cũng tức là bước hoàn kết, ngôn ngữ dân tộc và đề tài dân tộc đã được thử thách, trở thành một nhu cầu thôi thúc cảm hứng nhà văn.
Bốn giai đoạn trên đây chẳng qua chỉ là sự phân cắt trừu tượng của chúng tôi để chúng ta dễ nhìn nhận chiều hướng khách quan của chặng đường mở đầu của văn xuôi quốc ngữ, chứ kỳ thực cả bốn giai đoạn thường vẫn xoắn bện và đan cài với nhau mà không hề tiếp nối đơn giản theo trình tự thời gian. Chỗ đáng lưu ý là do tính chất xoắn bện và đan cài, giai đoạn 4 mà ta ngỡ là phải nằm ở cuối cùng thì thực tế đã xuất hiện ngay từ sớm và như một kích thích tố làm cho cả tiến trình trở nên năng động. Vì thế, nhìn vào hiện tượng, dường như vẫn luôn luôn có những bước tiến và bước lùi xen kẽ, nó là sự phản ánh khác thường của quy luật diễn tiến bên trong, bao gồm bốn giai đoạn của sự sinh thành mà văn học buộc phải tuân theo. Chỉ có thể giải thích tính chất xen kẽ này như cái bức xúc dẫn đến thăng hoa của nhu cầu sáng tạo vốn bao giờ cũng ẩn náu thường trực trong tiềm thức của người cầm bút. Nó tạo cho văn học những cơ hội có thể đốt cháy giai đoạn để nhảy vọt từ thai nghén đến trưởng thành. Và từ đó, nói đến những bước đi đầu của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam bộ lại cũng là nói đến một quá trình chín sớm - sự chín sớm do ảnh hưởng đa chiều của hai nền văn hóa Đông và Tây trộn lẫn, và sự chín sớm biểu hiện ở những hiện tượng không có tiền lệ, hoặc những hiện tượng chỉ xuất hiện như một mình nó, không có bước kế tiếp theo sau. Về thể ký, Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất hợi là một hiện tượng mà ta chưa tìm thấy tiền lệ trước Trương Vĩnh Ký, cũng chưa tìm thấy những tác phẩm báo hiệu cho cách viết ký chững chạc kiểu này ở những người đồng thời với Trương Vĩnh Ký [22] . Còn về thể truyện thì Truyện thầy Lazaro Phiền không những không có tiền lệ mà còn là một hiện tượng có một không hai trong văn xuôi quốc ngữ cả Nam lẫn Bắc cho đến tận giữa những năm 20, bởi cái kết cấu rất hiện đại của tác phẩm và cái khả năng của một ngòi bút biết đi vào thế giới thầm kín bên trong của nhân vật, mà nói như R. Fernandez, có khám phá được cuộc sống bên trong thì mới bắt đầu có tiểu thuyết [23] . Ta có cảm tưởng việc áp dụng cách viết tiểu thuyết phương Tây của Nguyễn Trọng Quản, tuy là rất chủ động, cũng là việc xuất thần đối với cảm hứng sáng tạo của chính ông, giữa một hoàn cảnh chưa đủ các điều kiện chín mùi cho nó, nên ông chỉ làm việc đó được một lần, cũng như sau này ở miền Bắc nhà tiểu thuyết tâm lý Hoàng Ngọc Phách cũng chỉ viết được mỗi một cuốn tiểu thuyết Tố Tâm.
Ngoài những ví dụ vừa dẫn, sự “chín sớm” còn có thể nhìn thấy khá rõ trong các loại hình khác nhau của cùng một thể loại, tiêu biểu là bộ mặt đa dạng của tiểu thuyết đương thời. Chỉ trong vòng chưa đầy ba thập kỷ đầu thế kỷ XX, tiểu thuyết miền Nam đã hầu như dàn ra khá đủ, là một sự ảnh xạ có vẻ như “cơ giới” của cả tiểu thuyết phương Đông lẫn phương Tây: có tiểu thuyết “võ hiệp - kỳ tình”, có tiểu thuyết “ngoại sử - dã sử”, có tiểu thuyết đạo lý, có tiểu thuyết “tả chân xã hội”, có tiểu thuyết phong tục, lại có cả tiểu thuyết luận đề... Nhưng đi sâu thêm vào còn có lắm điều hay trong đó. Vào năm 1912 mà đã có một cuốn tiểu thuyết công nhiên phơi bày màu sắc sắc dục như Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu khiến chính quyền thuộc địa phải ra lệnh cấm, hẳn không phải là điều bình thường. Vào năm 1917 mà đã có một cuốn tiểu thuyết trinh thám như Kim thời dị sử của Biến Ngũ Nhy [24] cũng là chuyện đáng lạ. Và vào 1926 mà có một cuốn tiểu thuyết lịch sử - phản lịch sử [25] như Giọt máu chung tình của Tân Dân Tử càng buộc chúng ta phải suy nghĩ nhiều hơn.
Cái “chín sớm” chung quy có tạo ra được những truyền thống bền vững hay không, đó còn là chuyện phải trao đổi. Nhưng cái “chín sớm” đã từng đưa lại những sản phẩm “độc đắc”, thậm chí không bình thường trong thời đại của nó, đó cũng là một thành tựu đáng kể, là đặc điểm thứ ba của chặng đường hình thành và phát triển đầu tiên của văn xuôi tự sự quốc ngữ miền Nam. Tuy nhiên, có một hiện tượng chưa thể giải thích: trong vô số khuynh hướng của tiểu thuyết, không thấy có tiểu thuyết tình cảm kiểu Tố Tâm ở miền Nam. Cũng chưa thấy một cuốn tiểu thuyết tình cảm nào của Tây phương hay Trung Quốc kiểu Nỗi đau của chàng Vecte (Les Souffrances du jeune Werther - Goethe) hay Ngọc lê hồn 玉 梨 魂 (Từ Chẩm Á 徐 枕 亞) được dịch in ở miền Nam trong thời gian hơn hai thập kỷ. Trong khi cũng chính miền Nam là mảnh đất mầu mỡ của một thể loại sân khấu rất giàu đặc trưng lâm ly bi thiết là cải lương lại phát sinh và sống được lâu bền. Vì sao? Phải chăng ở đây cần đi tìm một lý do sâu hơn liên quan đến quan niệm sống và tâm lý thưởng thức nghệ thuật: nói đến con người miền Nam là nói đến con người trọng nghĩa khinh tài, con người chuộng những việc làm thực tế chứ ít khi đắm chìm trong miên man suy tưởng, trong sự dày vò giằng xé nội tâm một cách siêu hình, vô vọng. Tiểu thuyết miền Nam tuy phong phú màu sắc nhưng nhìn chung vẫn là tiểu thuyết hành động, không thể nào xuất hiện loại hình tiểu thuyết biểu cảm với sắc thái cảm xúc tinh tế, mơ hồ, trừu tượng, giãi bày các trường đoạn tâm can như loại tiểu thuyết tình cảm mà Hoàng Ngọc Phách là đại diện và cả dòng tiểu thuyết lãng mạn ít năm sau đó mà Tự lực văn đoàn là cái nôi sinh thành. Phải đến Bình Nguyên Lộc... nhiều năm về sau mới có được dòng tiểu thuyết lãng mạn này. Miền Nam đi trước về sau, quy luật ấy hoàn toàn đúng cho đến cả trong thi pháp tiểu thuyết, có phải thế chăng?
4. Xin bàn đến một đặc điểm cuối cùng, cũng là điều từng gây nghi vấn, trăn trở cho không ít người: trong hơn nửa thế kỷ vận động của văn xuôi quốc ngữ Nam bộ, bước chuyển biến từ lượng sang chất đã có hay chưa có, và nếu có thì biểu hiện rõ nhất ở giai đoạn nào và ở những tác giả nào? Ở một phần trước, khi đánh giá cao ngôn ngữ nôm na trong tryện của Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Trọng Quản... không có nghĩa là tôi coi cách viết “như lời nói thường” của các tác giả trong chặng cuối thế kỷ XIX đã là hoàn chỉnh. Cách viết đó dẫu đầy triển vọng về mặt đổi mới cảm hứng nghệ thuật nhưng cũng chỉ mới là những thử nghiệm. Các nhà văn thời này đang phải mài giũa cái vỏ ngôn từ, đặt chúng vào những văn cảnh mới, cấp cho chúng những khái niệm mới và những sắc thái biểu đạt mới. Tiếng Việt chưa có được trình độ trừu tượng và cô đúc ngữ nghĩa tối ưu như chữ Hán. Vì thế, như đã nói, một cuộc giao thoa giữa cách viết thông tục và cách viết mượn nhiều Hán ngữ nhất thiết phải xẩy ra, để nâng cấp dần sức sống của tiếng Việt văn chương. Theo hồi ký của một số nhà văn thì cả Nam phong tạp chí và những tác phẩm dịch văn học phương Tây của Nguyễn Văn Vĩnh đều là trường học quan trọng để đào luyện nên một thế hệ nhà văn nhà thơ cho giai đoạn đỉnh cao của văn học 1932-1945. Giai đoạn văn học 30 năm đầu thế kỷ XX, ở miền Bắc chưa thể hội đủ những điều kiện cho một cuộc giao thoa tương tự. Nhưng ở miền Nam, dưới một dạng thức khác, một cuộc giao thoa gần như vậy đã xẩy ra. Và một Hồ Biểu Chánh, một Phú Đức, một Bửu Đình... trong văn xuôi tự sự Nam bộ, xét cho kỹ, ít nhiều đúng là kết quả tác hợp của hai thế hệ đầu. Ai cũng biết, trong sáng tác đầu tay của Hồ Biểu Chánh có dấu ấn của Nguyễn Trọng Quản - dấu ấn ở đề tài và cả ở thể loại. Đề tài truyện thơ U tình lục [26] của ông nói về một chàng trai bị một phụ nữ thầm yêu giả mạo lá thư để ly gián anh với người tình mà anh từng chung chăn gối, làm người đọc không thể không liên tưởng đến đề tài “cả ghen” của anh chồng chất phác do bị mắc lừa hai lá thư giả mạo của một phụ nữ trắc nết, đi đến phá hoại hạnh phúc gia đình, giết cả bạn và vợ trong Truyện thầy Lazaro Phiền. Cũng chính ấn tượng mạnh mẽ của Truyện thầy Lazaro Phiền làm cho Hồ Biểu Chánh dứt khoát chuyển từ truyện thơ sang viết truyện văn xuôi. Nhưng Hồ Biểu Chánh đã không dập lại nguyên xi cách viết văn xuôi của Nguyễn Trọng Quản, vì bên cạnh ảnh hưởng của Nguyễn Trọng Quản, ông lại vẫn còn nặng nợ với lối văn biền ngẫu và kết cấu chương hồi của thế hệ cầm bút ra đời sau Nguyễn Trọng Quản ngót 25 năm. Chắc chắn ông phải nhào đúc lại cả hai luồng ảnh hưởng đều rất quan trọng đó. Mà đã gọi là “nhào đúc” thì không phải chỉ một lúc là thành. Ta hãy nhớ đến truyện dài Ai làm được của Hồ Biểu Chánh sáng tác năm 1912 nhưng phải mười năm sau ông mới gọt giũa, tu chỉnh, có thể nói là viết lại và 3 năm sau nữa mới cho công bố [27] . Cái khoảng lặng 13 năm ấy là một khoảng vật lộn gian khổ để thật sự đổi thay trong bút pháp nhà văn Hồ Biểu Chánh. Kết quả, Hồ Biểu Chánh đã không kế tục Nguyễn Trọng Quản một cách đơn giản mà đạt tới một tầm vóc khác, có mặt không cách tân được như Nguyễn Trọng Quản nhưng lại có mặt cao hơn hẳn: ấy là trong tư cách một ngòi bút khắc họa diện mạo cuộc sống hiện thực bề bộn ở miền Nam trước Cách mạng tháng Tám, với vô số không gian nghệ thuật đặc thù sinh động, và với đủ các loại nhân vật phức tạp, đa dạng, có tính cách đặc biệt Nam bộ và có vận mệnh không chút giống nhau, trong vòng quay của chế độ thuộc địa Pháp trên đà khai thác và đô thị hóa ào ạt mảnh đất miền Nam hồi nửa đầu thế kỷ trước, và trong sự va xiết của đồng tiền. Cho nên, mặc dầu Hồ Biểu Chánh viết và dịch rất sớm, ông vẫn có đủ tiêu chí để được xếp vào thế hệ thứ ba, xuất hiện chính thức từ 1925 trở đi. Rồi sau này, tuy không còn đuổi kịp bước tiến vũ bão của thế hệ 1932-1945 nữa nhưng ông vẫn tạo được một vùng ảnh hưởng riêng lâu dài cho mình. Hai nhà văn Phú Đức và Bửu Đình cũng có những nét đồng dạng. Phú Đức và Bửu Đình còn tiến xa hơn Hồ Biểu Chánh ở chỗ câu văn hầu như đã rất ít dấu vết biền ngẫu, và chủ đề đạo lý, kết cấu chính - tà đã có một bước tha hóa khá rõ để trở thành cái kết cấu xoắn quyện, đôi khi có chuyển hóa, giữa phe chính phe tà trong các tiểu thuyết mang màu sắc trinh thám-võ hiệp của hai ông. Lại nữa, nếu Hồ Biểu Chánh có phóng tác Bá tước Monte Cristo của Dumas Bố thành truyện Chúa Tàu kim quy [28] thì tôi có cảm tưởng cả Phú Đức và Bửu Đình cũng từng dấn mình trong vườn văn của Dumas Bố để xây dựng nên hình thức tiểu thuyết liên hoàn dài hơi trong Châu về hiệp phố [29] , Mảnh trăng thu và Cậu Tám Lọ [30] mà đọc kỹ vẫn còn phảng phất chút vang bóng của tiểu thuyết chương hồi.
Chính vì những lý do nêu trên mà ta có quyền xếp ba tác giả này vào cùng một thế hệ mà không sợ khiên cưỡng - ba đại biểu của lớp nhà văn đã trưởng thành rõ nét trên tiến trình hiện đại hóa của văn xuôi tự sự quốc ngữ ở miền Nam. Cùng với Hoàng Ngọc Phách, họ đã vượt xa hơn thế hệ cầm bút thứ hai trên văn đàn từ Nam đến Bắc, mặc dù họ hiện diện cùng lúc, có khi còn hiện diện sớm hơn một số người trong thế hệ thứ hai. Họ để lại những cuốn sách còn “ăn khách” rất lâu ngay cả khi thế hệ của chính họ đã bị vượt qua rồi. Có những cuốn như Tiền bạc bạc tiền [31] của Hồ Biểu chánh có đủ phẩm chất của một cuốn tiểu thuyết nghiêm chỉnh của trào lưu hiện thực phê phán. Nhưng dầu sao, họ vẫn là những người đến sớm; cái đổi mới ở họ chỉ mới là nửa vời chứ không triệt để. Và tiểu thuyết của họ nói chung vẫn nằm lưng chừng giữa tả và kể, đường dây phát triển của tiểu thuyết vẫn chỉ là tuyến tính. Sự tu sức lời văn còn nhiều lủng củng. Về tư duy nghệ thuật, họ chưa hề biết đến một dòng trần thuật nào ngoài dòng trần thuật của người kể chuyện cũng như truyện của họ chưa cho phép người đọc thoát ra khỏi kết cấu cổ điển hội ngộ - lưu lạc - đoàn viên. Họ chính là một thế hệ gối đầu: với các nhà văn của những năm 20 họ hình như mới quá, nhưng với các nhà văn những năm 30 như Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Tuân, Nam Cao... họ lại với tay không kịp. Đó là cái vị trí rất vẻ vang mà cũng là chỗ hạn chế của họ.
Sản sinh ra được một thế hệ “gối đầu” giữa thế hệ trước năm 1932 và thế hệ những năm sau đó, một thế hệ vừa có mặt bứt lên khỏi mình để đi về phía trước, lại vừa có mặt không vượt được cái ngưỡng lịch sử, đặc điểm cuối cùng này của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam bộ cũng rất đáng được coi trọng, như một sự chuẩn bị “hoài thai” cho bước chuyển mình của lịch sử, trước khi văn xuôi tự sự cả nước đột ngột băng mình lên với một gia tốc chưa từng thấy, và những đỉnh cao của nó nghiễm nhiên vượt ra ngoài tầm của dòng văn học từng có những đóng góp không nhỏ trong chặng đường khởi đầu này [32] .
(Tổng hợp hai bản tham luận khoa học tại hai Hội thảo về tiểu thuyết Nam bộ tháng Tư 2003 và tháng Năm 2006)
24-4-2003 - 15-5-2006
2006 talawas
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 10:13:14 GMT 9
Chu Thich:
[1]Của Nguyễn Trọng Quản. J. Linage, Librairie - Editeur Rue Catinat, 1887. [2]Của Trương Vĩnh Ký. Bản in nhà hàng C. Guilland et Martinon, Sài Gòn, 1881. [3]Tư liệu hiện nay chỉ mới cho phép ta đoán định tác giả phần diễn nôm Truyền kỳ mạn lục là Nguyễn Thế Nghi, người được Mạc Đăng Dung (1483-1541) phong cho tước Đại hưng hầu. [4]Xem bài Sách Hán nôm Công giáo Việt Nam, tham luận tại buổi tọa đàm về văn hóa Công giáo Việt Nam tại Tòa giám mục Huế cuối tháng Mười 2000. Trước Nguyễn Hưng, Giáo sư Thanh Lãng là người đầu tiên quan tâm đến kho truyện Nôm này. [5]Chúng tôi được tiếp xúc với những tài liệu này qua sự giúp đỡ của Linh mục Nguyễn Hưng và học giả Vũ Văn Kính. Nhân đây, xin bày tỏ lời biết ơn chân thành. [6]Cao Xuân Mỹ. Truyện dài đầu tiên và tuyển tập các truyện ngắn Nam Bộ cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX. Nxb. Văn nghệ và Hội nghiên cứu và giảng dạy tp HCM, 1998; tr. 17. [7]Xem Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Tập II. Nxb. tp HCM, 1988; tr. 219-220. Sách này phê phán các nhà nghiên cứu đã dẫn là “bi quan”, “lớn lối”, hoặc “quá quắt”, vì họ đã bỏ quên hoặc đánh giá thấp mảng văn học quốc ngữ miền Nam buổi đầu. [8]Hai tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983-1984. [9]Của Trần Chánh Chiếu. Sách dày 32 trang. Nhà in Phát toán, Sài Gòn. Thật ra ở truyện này lời văn còn ít yếu tố biền ngẫu và cách viết còn khá gần gũi với nhóm nhà văn quốc ngữ cuối thế kỷ XIX. [10]Của Trương Duy Toản. F. Schneider Imprimeur-Éditeur, Sài Gòn. [11]Của Lê Hoằng Mưu. Sách được đăng tải lần đầu trên báo Nông cổ mín đàm số ra ngày 20-7-1912 với tên Truyện nàng Hà Hương. Đến 1915, Nxb. J. Nguyễn Văn Viết, Sài Gòn, in lại dưới tên Hà Hương phong nguyệt. [12]Theo Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh, Sđd; tr. 202. [13]Của Tân Dân Tử. Nguyên tên là Giọt máu chung tình-Tòng đình thảm kịch. Imprimerie J. Nguyễn Văn Viết, Sài Gòn, 1925, có “Lời phụ thuyết” của Nguyễn Đăng Cao và “Lời tự” của tác giả. [14]Của Phạm Minh Kiên. Nguyên tên Việt Nam anh kiệt vì nghĩa liều mình, viết 1926. Nhà in Xưa nay, Sài Gòn, 1927. [15]Của Nguyễn Chánh Sắt. Imprimerie Đức lưu phương, Sài Gòn, 1929. [16]Của Phạm Minh Kiên. Imprimerie Đức lưu phương, Sài Gòn, 1929. [17]Của Nguyễn Văn Vinh. Nhà in Vân võ văn, Bến Tre, 1929. [18]Của Tân Dân Tử. Imprimerie Bảo tồn, Sài Gòn, 1930. [19]Của Tân Dân Tử. Hai tập. Chưa rõ nơi in. [20]Của Phạm Minh Kiên. Nhà in J. Nguyễn Văn Viết, Sài Gòn, 1931. [21]Ở miền Bắc cũng có Nguyễn Tử Siêu và Đinh gia Thuyết viết tiểu thuyết lịch sử chương hồi nhằm gửi gắm tâm tình yêu nước cùng một thời với các tác giả miền Nam. [22]Thật ra, trước Trương Vĩnh Ký gần 55 năm, đã xuất hiện cuốn du ký Sách sổ sang chép các việc của Philipphê Bỉnh (1759-1832?), nhưng đây là một ngoại lệ, vì sách được viết ở Lisbonne (Bồ-đào-nha) năm 1822, không được truyền về nước, cũng không một ai kế tục, và theo Giáo sư N.I. Nikulin, ngay các học giả Pháp đến tận nửa đầu thế kỷ XX cũng không biết gì về nó “Không có bất kỳ một chứng cứ trực tiếp nào về việc các nhà nghiên cứu người Pháp thế kỷ XIX-nửa đầu thế kỷ XX biết đến Bỉnh và di cảo viết tay của ông” (Xem bài những sáng tác về các chuyến viễn du trong sách Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện Văn học xb, 1999; chú thích 1, tr. 92). [23]«Un homme nous raconte sa vie intérieure: il fait de l'autobiographie ; il imagine un personnage qui nous raconte sa vie intérieure: il fait du roman». Tạm dịch: Một người kể với ta về cuộc sống bên trong của anh ta: anh ta đang sáng tác tự truyện; khi anh ta tưởng tượng ra một một nhân vật kể với ta về cuộc sống bên trong của hắn: anh ta đang sáng tác tiểu thuyết. Theo Roman - Genèse du roman trong Encyclopædia Universalis, version 10, 2005. [24]Sách được đăng tải trên Công luận báo tháng Mười 1917. Năm 1921 Nxb. Moderne L. Hélousy et S. Montégout, Sài Gòn, in thành sách. [25]Khái niệm “tiểu thuyết lịch sử - phản lịch sử” chúng tôi dùng để chỉ cuốn sách này là có ý muốn nói, tác giả chỉ mượn lịch sử như một cái cớ để thực hiện chủ đề của câu chuyện, nên không những đã bịa đặt về chi tiết hoặc nhân vật không có trong chính sử mà ngay cái cốt chung của lịch sử cũng không quan tâm, chẳng hạn chuyện xẩy ra dưới triều nhà Nguyễn mà tác giả lại cho nhân vật Võ Đông Sơ lĩnh ấn Ngự tiền hộ giá đi đánh giặc Mãn Thanh ồ ạt kéo sang xâm lược ở ải Nam Quan, dưới quyền chỉ huy trực tiếp của một vị vua nhà Nguyễn đóng hành doanh ngay trên xứ Lạng. “Phản lịch sử” ở đây không hề mang hàm nghĩa phê phán. [26]Ký tên Hồ Văn Trung. Imprimerie F. H. Schneider, Sài Gòn, 1913. [27]Nhà in Xưa nay, Sài Gòn, 1926. [28]Sách viết xong năm 1922 tại Sài Gòn. Chưa rõ nơi in và năm in. [29]Sách được đăng tải lần đầu trên Trung lập báo năm 1926 với tên Hiệp phố châu huờn, sau chuyển sang in tiếp trên Công luận báo từ số 371 (7-7-1926) với tên Hoàn Ngọc Ẩn, đến số 374 lại trở lại tên cũ. Nhà in Xưa nay in thành hai tập, lấy tên chính thức Châu về Hiệp phố, Sài Gòn, 1926-1928. [30]Mảnh trăng thu được đăng tải trên Phụ nữ tân văn từ số 40 (20-2-1930) nhưng chưa trọn bộ thì Nhà in Xưa nay, Sài Gòn, đã cho in thành sách vào năm 1931. Vì thế, Phụ nữ tân văn lại cho in tiếp Cậu Tám Lọ vào năm 1931 là tập sách viết nối của Mảnh trăng thu. Những sách này đều được chuyển bí mật từ Côn Đảo về cho tòa soạn tờ báo, vì lúc đó Bửu Đình đang bị thực dân Pháp cầm cố ngoài đảo. [31]Sách viết 1925. Imprimerie de l’Union, Sài Gòn, 1926. [32]Trở lên là một cách nắm bắt đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam bộ trong chặng đường sơ khởi, xuất phát từ một góc nhìn giới hạn - góc nhìn cảm quan nghệ thuật - đối với nền văn học này. Người viết chưa có điều kiện mở rộng ra những góc nhìn khác, như: nội dung xã hội của văn học Nam Bộ trong hơn năm mươi năm mở đường cho văn xuôi quốc ngữ Việt Nam, hoặc quan hệ giữa văn xuôi tự sự Nam Bộ với những điều kiện chính trị, xã hội, lịch sử cụ thể sản sinh ra nó... Rất mong được đọc tiếp các công trình nghiên cứu của các đồng nghiệp về các phương diện ấy để có một cái nhìn hoàn chỉnh về văn học quốc ngữ ở Nam Bộ - một di sản đáng trân trọng của nền văn học quốc ngữ dân tộc mà trước đây, các công trình của Nguyễn Văn Xuân (Khi những người lưu dân trở lại. Sài Gòn, 1969), Bùi Đức Tịnh (Phần đóng góp của văn học miền Nam: Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới. Nxb. Lửa thiêng, Sài Gòn, tháng Giêng 1975), Nguyễn Khuê (Chân dung Hồ Biểu Chánh. Nxb. Lửa thiêng, Sài Gòn, 1974), Bằng Giang (Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930. Nxb. Trẻ, tp HCM, 1992)... nhất là người bạn quá cố của chúng tôi, Nguyễn Văn Y - một học giả miền Nam giữ được rất nhiều tư liệu quý hiếm tránh khỏi tai nạn “phần thư” những năm sau 1975 - trong Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh (Sđd) đã có những khám phá mới mẻ.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 10:25:22 GMT 9
Lại Nguyên Ân Liệu có thể xem Phan Khôi (1887-1959) như một tác gia văn học Quốc ngữ Nam Bộ? (Tham luận gửi tới hội thảo khoa học “Văn học Quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đến 1945” do Khoa Ngữ văn và Báo chí, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, 26/5/2006)
1. Điều nêu ra ở nhan đề bài này sở dĩ phải đặt như một nghi vấn hơn là một khẳng định bởi vì người viết những dòng này, cũng như các đồng nghiệp trong giới nghiên cứu, không thể không phải đương diện với một tập quán tuy không mấy "khoa học" nhưng khá thông dụng trong việc biên soạn các bộ địa chí văn hoá hiện nay ở các tỉnh thành trong hầu khắp nước ta (những bộ địa chí thường được xếp vào loại công trình cấp quốc gia, thường được cấp tiền tỉ từ ngân sách công), theo đó, căn cứ để tính một tác gia văn học vào trong số tác gia của địa phương mình thường là: a/ quê quán (thường tính theo quê cha, đôi khi xét thêm đến thuộc tính quê mẹ), và b/ trên thực tế có sống và hoạt động văn học tại địa phương. Tiêu chí đầu thường được vận dụng phổ biến trong các bộ địa chí cấp tỉnh, và vận dụng bất chấp tiêu chí sau, bởi vì những tỉnh không có thành phố lớn thường chỉ có rất ít tác gia "quê gốc" lại đồng thời hoạt động "tại chỗ" (các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ chẳng hạn, tài năng văn học thường tụ hết cả về lòng chảo Hà Thành!); và thế là mặc dù "ngài" tác giả hoạt động ở tận đẩu tận đâu, ít khi bước chân về quê, chỉ cần bố mẹ "ngài" quê gốc ở địa phương này thì địa phương này sẽ tôn vinh tên tuổi "ngài" làm vinh dự cho quê hương. Tiêu chí sau, có vẻ như được ưu tiên trang bị cho việc biên soạn địa chí của những địa phương có thành phố lớn, có trung tâm văn hoá lớn, những nơi từng có mặt hoặc đang có mặt số lượng lớn người hoạt động văn học; dữ kiện để chọn dồi dào thì người biên khảo sẽ khoác bộ mặt cau có của kẻ khó tính, sẽ chẳng những đòi hỏi quê gốc tác gia phải ở tỉnh thành này, mà còn đòi hỏi chính tác gia phải từng sống và hoạt động văn học tại đây nữa. Nhưng ở trung tâm lớn thời nào cũng thường quần tụ nhiều tác gia; trong khi đó, động cơ và mục đích đầu tư cho biên soạn các bộ địa chí là tôn vinh địa phương, là chứng tỏ đất này "địa linh nhân kiệt" hơn những đất khác, cho nên rốt cuộc nhà biên khảo vẫn sử dụng tra vấn "quê gốc" làm căn cứ để loại trừ bớt những tác gia tuy hiển nhiên hoạt động văn học tại đây nhưng chỉ là dân nhập cư từ những nơi khác! Tóm lại, tiêu chí quê quán hầu như vẫn là tiêu chí duy nhất để tập hợp tác gia theo vùng đất trong các công trình địa phương chí. Tiêu chí này, ngoài những công dụng hiển nhiên của việc biên khảo theo chủ đề, cũng chứa đựng nguy cơ làm đơn giản hoá, thậm chí làm méo mó (trong sự hình dung của người tiếp nhận tri thức văn học sử) diện mạo thực của đời sống văn học ở những đô thị lớn qua những giai đoạn khác nhau.
Sở dĩ phải dài lời như trên là vì thực sự tôi chưa rõ đề tài "Văn học Quốc ngữ Nam Bộ từ cuối thế kỷ XIX đến 1945" được dẫn dắt theo những quy tắc nào, nhất là về nghiên cứu tác gia, có vận dụng quy tắc "địa phương chí" hiện hành (như mô tả bên trên) hay không?
Sự việc cụ thể là tôi đưa ra tác gia Phan Khôi (1887-1959): quê gốc không ở Nam Bộ, nhưng có thời gian đáng kể sống và hoạt động báo chí, văn học ở thành phố Sài Gòn trên đất Nam Kỳ (nay gọi là Nam Bộ). Vậy có thể đề cập đến hoạt động của Phan Khôi trong đề tài nghiên cứu này không? Vả chăng, Phan Khôi cũng chỉ là một trong khá đông trường hợp các tác gia "nhập cư" vào báo chương Sài Gòn hiện bị quên lãng thậm chí tại "quê gốc" của mình, ví dụ Đào Trinh Nhất (quê Thái Bình), Bùi Thế Mỹ, Phan Thứ Khanh (quê Quảng Nam), và hẳn còn không ít các trường hợp khác.
Phần dưới đây sẽ nêu khái lược hoạt động báo chí và văn chương của Phan Khôi tại Sài Gòn, trong những đoạn thời gian ông sống và viết báo viết văn ở đây.
2. Theo một vài tác giả (ví dụ: Phan Thị Nga (1936), Phan Cừ và Phan An (1996) [1] , v.v.) và theo kết quả sưu tầm nghiên cứu của bản thân người đang viết những dòng này, thì Phan Khôi góp mặt với báo chí Sài Gòn từ năm 1919 và từ đó đến đầu thập niên 1940 (hoặc cuối thập niên 1930) đã liên tục gắn với đời sống văn chương báo chí Sài Gòn, dù suốt thời gian ấy không phải lúc nào cũng sống ở đây. Có thể nói chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã là nơi nuôi dưỡng cây bút Phan Khôi từ điểm định hình đến độ trưởng thành, là nơi cây bút viết báo viết văn của ông làm việc năng sản nhất, hiệu quả nhất. Chính môi trường báo chí văn chương Sài Gòn đã đề xuất Phan Khôi như một trong không nhiều những tên tuổi xuất chúng của mình trên trường dư luận toàn quốc đương thời.
Phan Khôi can dự văn chương không hiếm khi với tư cách người sáng tác (làm thơ, viết truyện ngắn, truyện dài) nhưng thường khi với tư cách người bình luận, người nghiên cứu, hoặc với tư cách dịch giả. Và ở Việt Nam, nếu đời sống văn học, trước hết là ở Nam Kỳ, từ nửa cuối thế kỷ XIX, bắt đầu dạng thức tồn tại trên hai loại hình (hoặc hai kênh) chính của truyền thông hiện đại là xuất bản và báo chí, thì hoạt động văn chương và học thuật của Phan Khôi được thực hiện chủ yếu trên kênh báo chí. Hoạt động của ngòi bút ông gắn với báo chí đến mức di sản của ngòi bút ông có cơ mất hút trong mắt các lớp hậu thế nếu họ chỉ tìm ông theo cái kênh dễ soi là sách xuất bản thời trước và do vậy chỉ thấy được một ít văn phẩm (Chương Dân thi thoại, Việt ngữ nghiên cứu,...) dường như chưa xứng tầm cỡ tác giả!
Tờ báo đầu tiên ở Sài Gòn mà Phan Khôi đăng bài có lẽ là tờ Lục tỉnh tân văn. Ông có bài đăng báo này hầu như ngay sau khi thôi cộng tác với tạp chí Nam phong ở Hà Nội. Bài cuối cùng ông đăng Nam phong ("Về việc cấm rượu ở các nước cùng việc rượu lậu ở nước ta". N.P. s. 23, tháng 5/1919) thì cũng ngay trong tháng ấy, ngày 7/5/1919 trên tờ Lục tỉnh tân văn ở Sài Gòn đã có bài của Phan Khôi. Ban đầu ông đăng sáng tác: hai bài ca "Đưa chồng" và "Nhớ chồng", thác lời người vợ có chồng là lính tùng chinh sang Pháp tham gia thế chiến thứ nhất, đều là bản dịch hai bài thơ chữ Hán đã đăng Nam phong. (Sau này vào năm 1958 ở miền Bắc, Phùng Bảo Thạch sẽ "hồi cố" nội dung hai bài này để tố cáo thái độ "ôm chân đế quốc" của Phan Khôi). Nhưng những loạt bài kéo dài thành mục báo đăng nhiều kỳ của Phan Khôi trên Lục tỉnh tân văn năm 1919 lại là về đề tài thường thức xã hội và về ngôn ngữ. Đó là mục "Làm dân phải biết" (với những nội dung bài từng kỳ báo lần lượt là: Nước mẹ đẻ; Địa dư nước An Nam; Chính trị nước An Nam; Phong tục nước An Nam; Dân phải nộp thuế;...) và mục "Ghi chép tiếng An Nam" (tôi tìm được 10 kỳ báo có bài của mục này, từ 12/5 đến 25/6/1919).
Thời gian Phan Khôi cộng tác với tờ Lục tỉnh tân văn rất ngắn, chỉ trong vòng vài tháng. Theo Phan Thị Nga (1936, tài liệu dẫn trên) thì "làm được ít lâu vì ông viết một bài kịch liệt quá người ta buộc ông thôi, ông lại ra Bắc...".
Bài báo "kịch liệt quá" ấy, nếu là bài đã đăng, thì, theo tìm hiểu của tôi, đó có thể là bài "Giải đại ý bài diễn thuyết của quan Toàn quyền Sarraut về cuộc Đông Dương tự trị" đăng hai kỳ báo (LTTV. 14/5 và LTTV. 21/5/1919). Theo thông tin trong bài báo ấy, trước đó ít lâu, tại một buổi tiệc trà của hội Khai trí Tiến đức ở Hà Nội, Toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut có bài diễn thuyết về chủ đề Đông Dương tự trị; Lục tỉnh tân văn đã đăng toàn văn bài diễn thuyết ấy; bài viết của tác giả Chương Dân chỉ đưa ra những lời giải thích; trong những điều ông giải thích có chỗ nói rằng: «chữ "Đông Dương tự trị" đó nghĩa là phủ Toàn quyền Đông Dương đối với Mẫu quốc mà được quyền tự trị, chớ không phải người Đông Dương đối với nước Lang Sa mà được quyền tự trị đâu», tức là Phan Khôi nói trắng ra rằng Toàn quyền Sarraut nói "Đông Dương tự trị" là nhằm đòi thêm quyền cho mình chứ không phải đòi quyền cho dân Đông Dương. Phải chăng chính ý này đã khiến Toà soạn Lục tỉnh tân văn cho là "kịch liệt quá" và buộc ông thôi cộng tác?
Dẫu sao thì sự hiện diện lần đầu trên báo chương Sài Gòn của Phan Khôi cũng tạm chấm dứt ở đấy. Ông trở ra Hà Nội cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu thanh, nhận lời cộng tác dịch Kinh Thánh Ki-tô giáo cho hội thánh Tin Lành.
Vài ba năm sau, Phan Khôi lại vào Nam, chưa rõ từ thời điểm cụ thể nào, cũng chưa rõ khi vào có viết ngay cho tờ báo nào hay không; chỉ có nguồn tư liệu (theo Phan Cừ và Phan An, 1996, tư liệu đã dẫn) cho rằng, sau khi vào Nam lần này, vì một lý do gì đó, Phan Khôi phải dạt xuống Cà Mau ẩn náu nơi nhà một người bạn là chủ đồn điền, dành thời gian tự học thêm tiếng Pháp qua thư từ với Djean de la Bâtie, một nhà báo tự do người Pháp ở Sài Gòn.
Theo tìm hiểu của tôi, thời kỳ thứ hai Phan Khôi góp mặt với báo chương Sài Gòn có thể tính từ đầu năm 1928. Thời kỳ này kéo dài đến năm 1933 hoặc 1934, gắn với các tờ Đông Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập. Thời kỳ này đánh dấu sự chuyển biến về chất của ngòi bút Phan Khôi. Lại xin dẫn lời nữ ký giả Phan Thị Nga (1936, Hà Nội báo): "Ông bắt đầu viết được lối văn sát sóng như lối văn ông hiện giờ, từ hồi ông làm cho Đông Pháp thời báo ở Nam" (ta nên lưu ý điều này: bà Phan Thị Nga khi đó đang làm cho báo Tràng An ở Huế; bài báo của bà là kết quả hỏi chuyện trực tiếp Phan Khôi, khi đó đang làm chủ nhiệm tờ Sông Hương cũng ở Huế, nên nhiều điều trong bài có lẽ là ghi lại lời bộc bạch của chính Phan Khôi).
Xin được nhắc lại một vài tình tiết thuộc "báo chí sử" Sài Gòn, khi Diệp Văn Kỳ trở về từ Pháp với tấm bằng cử nhân luật nhưng lại thích môi trường báo chí văn chương (nhân tiện xin nhắc rằng Diệp Văn Kỳ là tác giả khá nhiều tác phẩm sân khấu như Tứ đổ tường, Áo người quân tử, Bể ái đầy vơi,... lại cũng là tác giả một số tiểu thuyết, ví dụ Chưa dứt hương thề đăng trên Thần chung từ 4/7/1929; đây cũng là một trong những tác giả cần được xét xem có phải là "tác gia Nam Bộ" hay không). Cuối năm 1927 hai ông hội đồng Diệp Văn Kỳ và Nguyễn Văn Bá mua lại từ tay Nguyễn Kim Đính tờ Đông Pháp thời báo (cũng có tên tiếng Pháp Le Courrier Indochinois). Học giả Huỳnh Văn Tòng (2000) nhận xét rằng "hai ông này đã biến đổi hoàn toàn tờ báo", biến nó từ chỗ "có khuynh hướng thân chính phủ" trở nên "có khuynh hướng đối lập" và "là tờ báo có rất nhiều người đọc" [2] . Việc Đông Pháp thời báo mời được Tản Đà và Ngô Tất Tố từ Bắc vào tăng cường cho bộ biên tập và làm gia tăng rõ rệt thành phần văn chương văn hoá trong nội dung tờ báo, thì nhiều nhà nghiên cứu (Thanh Lãng, Phạm Thế Ngũ, Huỳnh Văn Tòng,...) đã ghi nhận. Nhưng việc Phan Khôi cũng góp mặt trên tờ báo này từ khi nó thuộc về hai chủ nhân mới, thì ít thấy nhà nghiên cứu nào ghi nhận, hoặc nếu có ghi nhận thì chỉ nói chung chung là Phan Khôi có lúc viết cho Đông Pháp thời báo chứ không ghi nhận cụ thể gì hơn. Lý do có lẽ cũng đơn giản do cách tái xuất hiện khá kín đáo lần này của chính Phan Khôi trên báo chí Sài Gòn: tất cả các bài đưa đăng Đông Pháp thời báo, từ những bài tranh luận với Trần Huy Liệu và Huỳnh Thúc Kháng về một đoạn sử quan hệ Pháp-Việt thế kỷ XVII - XVIII, kể cả Nam âm thi thoại mà tên sách và những bài đầu tiên của nó đã từng xuất hiện trên Nam phong những năm 1918-1919, kể cả bài thơ "Dân quạ đình công" làm từ sau "vụ án xin xâu" ở miền Trung hồi cuối thập niên đầu thế kỷ XX, v.v..., tất cả, Phan Khôi đều ký tắt hai chữ C.D. - hai chữ cái đầu tên hiệu Chương Dân mà ông đã dùng để ký dưới các bài báo của mình trên tạp chí Nam phong hồi trước.
Trong số những bài Phan Khôi đưa đăng trên Đông Pháp thời báo, chỉ có ít bài bình luận thời sự chính trị (ví dụ "Cái tình thế chánh trị xứ Trung kỳ và Nhân dân đại biểu viện xứ ấy", ĐPTB 28/8/1928; "Ít lời lạm bàn về chánh sách của ông Pasquier, quan Toàn quyền mới Đông Pháp", ĐPTB 30/8/1928), nhưng có khá nhiều bài thiên về khảo chứng hoặc bình luận sử học. Nổi bật là chùm bài tranh luận phản bác điều mà ông gọi là "cái thuyết nước Pháp giúp nước Nam về hồi cuối thế kỷ XVIII"; cạnh đó là những bài cũng phản bác "cái thuyết châu Âu sắp tan nát" của học giả Cô Hồng Minh (1856-1928), nhận diện tình hình học thuật tư tưởng ở Trung Hoa đương đại, so sánh đặc điểm tư tưởng phương Đông và phương Tây, khẳng định việc lớn trước mắt phải làm ở phương Đông, ở châu Á là phải "Âu hoá", phải học văn minh phương Tây để đưa xã hội mình lên trình độ của thế giới hiện đại ("Học thuyết cũ với vận mạng mới nước Tàu", ĐPTB 26/7/1928; "Mấy lời kết luận về Cô Hồng Minh và cái thuyết Âu châu sắp tan nát", ĐPTB 15/9/1928; "Tư tưởng của Tây phương và Đông phương", ĐPTB 27/9 và 2/10/1928; "Bác cái thuyết tân cựu điều hoà", ĐPTB 11/10/1928).
Thời Phan Khôi, Tản Đà, Ngô Tất Tố cùng cộng tác với Đông Pháp thời báo cũng có thể xem là thịnh thời của "văn hoá đọc", khi mà trên báo chí Sài Gòn, truyện đều kỳ (feuilleton) được in xen kẽ với quảng cáo như là phần thưởng toà soạn dành cho người đọc các trang quảng cáo. Vào dịp có một loạt khách văn sĩ thi nhân nổi tiếng trong Nam ngoài Bắc tụ hội ở báo mình, toà soạn Đông Pháp thời báo đã mở ra "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ bảy hằng tuần do Chủ bút Bùi Thế Mỹ chủ trì, bên cạnh "Phụ trương thể thao" và "Phụ trương phụ nữ và nhi đồng".
Phần văn học Phan Khôi góp với Đông Pháp thời báo khá đa dạng: sáng tác thơ ("Dân quạ đình công", ĐPTB 2/6/1928; "Cái chết của con nhà nghèo", ĐPTB 21/7/1928), bình luận văn học ("Cấm sách, sách cấm", ĐPTB 1/9/1928; "Thi văn với thời đại", ĐPTB 6/10/1928; "Văn chương và văn chương của nhà báo", ĐPTB 27/10/1928); khảo chứng ("Cái dốt cuả triều Huế", ĐPTB 8/5/1928; "Một bài vận văn rất có giá trị về lịch sử: ‘Hà Nội chánh khí ca’", ĐPTB 4/10/1928); giới thiệu văn sĩ và văn chương nước ngoài ("Cái thế lực của nhà văn hào", ĐPTB 5/6/1928 [nói về L. Tolstoy]; "Hồ Thích với Quốc dân đảng",/ ĐPTB 18/12/1928; "Ông Eroshenko, thi nhân mù nước Nga", ĐPTB 19/5/1928); dịch thuật văn chương (dịch bài "Quan về vườn", ĐPTB 5/5/1928 của nhà thơ Pháp H. de Racan [1589-1670]; dịch một số tác phẩm của Eroshenko; dịch phần đầu tiểu thuyết Bá tước Monté Cristo của A. Dumas-père và cho đăng đều kỳ như một cuốn "tiểu thuyết chánh trị") [3] . Chính trên tờ Đông Pháp thời báo, Phan Khôi đã bắt đầu thử việc trong một thể tài văn chương gắn liền với báo chí là thể tài hài đàm. Dưới bút danh Tân Việt trong tiểu mục "Câu chuyện hằng ngày" do chủ báo Diệp Văn Kỳ đặt ra, Phan Khôi trở thành tay bút chính tìm tòi thể nghiệm dạng sáng tác mới mẻ này, và nhân đây xây dựng một "mặt nạ tác giả" [4] hay là một kiểu tác giả đặc thù mà sự tồn tại của nó gắn liền với kiểu giao tiếp gián cách giữa tác giả với độc giả thông qua kênh truyền thông báo chí. Vai trò của Tân Việt trong "Câu chuyện hằng ngày" sẽ được Phan Khôi tiếp tục trên tờ Thần chung. Trong việc tìm tòi cách viết hài đàm, Phan Khôi chú trọng kinh nghiệm của hai nhà báo Pháp là Clément Vautel (1876-1954) và Charles de la Fouchardière (1874-1946) trên các tờ Le Journal và L' Oeuvre xuất bản ở Paris đương thời [5] .
Về điểm đứt nối giữa hai tờ Đông Pháp thời báo và Thần chung, nhân đây xin nêu đôi chi tiết thuộc "báo chí sử" Sài Gòn: theo khảo sát của tôi, tờ Đông Pháp thời báo ngừng xuất bản không phải vì bị chính quyền đương thời đóng cửa như một vài học giả mô tả, mà sự thể đơn giản là chủ nhân của nó tự chấm dứt tờ báo này để ra tờ báo khác. Nói rõ hơn, tuy Diệp Văn Kỳ đã mua lại tờ báo này của Nguyễn Kim Đính nhưng ông vẫn xin giấy phép ra một tờ báo khác nữa. Đến khi có được giấy phép ra tờ Thần chung rồi thì Diệp Văn Kỳ xử lý theo kiểu đổi tên : ông chấm dứt Đông Pháp thời báo từ ngày 22/12/1928 (số báo 809) để rồi hai tuần sau, vẫn tại toà soạn ấy ở góc đường Filippini và Espagne tại thành phố Sài Gòn, vẫn với nguyên vẹn ban biên tập ấy, từ ngày 7/1/1929, báo mới với nhan đề Thần chung (có tên bằng tiếng Pháp là La Cloche du Martin) ra mắt số 1. Nói gọn lại thì Đông Pháp thời báo đã được đổi tên thành Thần chung, nhưng giấy phép của Đông Pháp thời báo thì lại được trả lại cho Nguyễn Kim Đính; ông này sau đó có lúc đánh tiếng ở báo khác rằng sẽ tục bản tờ báo cũ này của mình, nhưng việc ấy rốt cuộc không xảy ra.
Chuyện bị chính quyền đóng cửa là chuyện thực đã xảy ra với tờ Thần chung sau 15 tháng nó hoạt động rất hiệu quả theo hướng báo chí đối lập. Lệnh đóng cửa tờ báo này ban ra từ phủ Toàn quyền ở ngoài Bắc (22/3/1930) buộc tờ báo này ở Sài Gòn phải lập tức thi hành, và toà soạn Thần chung đành phải dùng những tờ rơi dán lên tường nhà một vài đường phố Sài Gòn để báo tin và nhân thể tỏ ý cảm ơn và từ giã bạn đọc [6] .
Trong số bài vở Phan Khôi góp cho mặt báo Thần chung, dễ thấy nhất là việc duy trì mục "Câu chuyện hằng ngày" dưới bút danh Tân Việt. Tôi đếm thử được 337 kỳ báo có bài của mục này trên tổng số 346 kỳ báo Thần chung. Khi còn nằm trên Đông Pháp thời báo, vì báo chỉ ra 3 kỳ mỗi tuần, nên "Câu chuyện hằng ngay" vẫn ở tình trạng "cách nhật". Nay nhật báo Thần chung ra tất cả các ngày thường trong tuần, trừ chủ nhật, câu chuyện mà Tân Việt góp với người đọc báo mỗi ngày quả thực là "câu chuyện hằng ngày" với đủ loại nội dung có thể nói tới, từ các sự việc xảy ra hằng ngày tại đô thị Sài Gòn và các miền trong nước đến các sự việc ở nước ngoài. Nhờ mục này mà nay đọc lại chúng ta biết các chuyện bầu cử hội đồng quản hạt, chuyện thiếu nước, chuyện nghiện hút ở Sài Gòn, rồi chuyện thi hào Tagore đến thăm thành phố, chuyện phế đế Phổ Nghi, chuyện các quân phiệt bên Tàu, chuyện thi sắc đẹp bên Tây, v.v., và nổi bật lên là cái giọng riêng của tác giả khi cười cợt, khi nghiêm chỉnh.
Trên Thần chung, Phan Khôi xuất hiện với họ tên thật của mình từ 3/10/1929 trong loạt 21 kỳ của tiểu luận "Cái ảnh hưởng của Khổng giáo ở nước ta", sau đó trong những bài thảo luận về dịch sách Phật học với nhà sư Thiện Chiếu. Ông cũng vẫn ký Chương Dân hoặc ký tắt C.D. trong những bài về ngôn ngữ, về thi văn. Một bút danh khác ông dùng ở một vài bài đăng Thần chung là Khải Minh Tử, đây là bút danh ông đã dùng cho một số bài báo chữ Hán ông viết cho tờ Quần báo của Hoa kiều ở Chợ Lớn [7] .
Ngoài những bài ký tên hoặc bút danh rõ rệt, có lẽ Phan Khôi còn có nhiều bài ký tên toà soạn (Thần Chung, T.C.) hoặc không ký tên, ví dụ nói về bút chiến, về vùng đất Tây Nguyên, về luận lý học, về thời sự trong nước, thời cuộc Trung Hoa, v.v... Ta cũng có thể dự đoán rằng trong những loại công việc mà báo Thần chung tổ chức như cuộc thi quốc sử, chắc hẳn có vai trò của Phan Khôi. Nhìn vào 30 bản tóm tắt sự tích và công trạng 30 nhân vật trong sử Việt (mà Thần chung lần lượt đăng tải mỗi bản sự tích đến 2 lần cho độc giả đọc để biết mà tham gia trả lời các câu hỏi), ta có thể dự đoán là có bàn tay Phan Khôi tham gia soạn thảo.
Giữa năm 1929, Phan Khôi tham gia từ đầu vào một tờ tuần báo mà tên gọi của nó sẽ được nhắc nhở nhiều về sau như một thành công rất đáng kể của báo chí tiếng Việt những năm 1930 : tuần báo Phụ nữ tân văn. Đối với cơ quan tư nhân này, Phan Khôi là một trong những người gắn bó đến mức được gọi là "đứng mũi chịu sào" [8] cùng với Đào Trinh Nhất, nhưng nếu Đào Trinh Nhất thường đảm nhận vai trò chủ bút thì Phan Khôi trước sau chỉ giữ vai trò một cộng tác viên. Lượng bài viết của ông đăng trên tuần báo này là khá lớn: khoảng trên 100 bài lớn nhỏ (nhiều bài thực chất là những chuyên mục kéo dài hàng chục kỳ) trong tổng số 273 kỳ xuất bản tuần báo này từ 2/5/1929 đến 21/4/1935.
Trong sự đa dạng của các đề tài được đề cập thì nổi bật vẫn là xoay quanh đề tài về giới nữ với đủ cung bậc loại hình: nghị luận xã hội, khảo luận lịch sử, nghiên cứu văn học, sáng tác thơ văn. Việc Phan Khôi và các tác giả khác cùng thời ông đề cập vấn đề phụ nữ, theo nhận xét của tôi, không đơn giản là việc kiếm đề tài để viết cho hợp với nhãn một tờ báo mà thực sự là việc triển khai đường lối duy tân vào thực tế đời sống. Hoạt động báo chí đương thời cho thấy không phải chỉ một nhóm làm tờ Phụ nữ tân văn mà còn nhiều nhóm khác nhận ra đề tài phụ nữ như một lối vào thuận lợi để tác động đến xã hội, tạo ra những chuyển biến trong nếp sống. Trong các bài viết của Phan Khôi, chủ trương giải phóng phụ nữ, giải phóng thế hệ trẻ khỏi sự áp chế của cái khung đại gia đình trung cổ được tác giả kiên trì theo đuổi bằng những lý lẽ thuyết phục; có thể hình dung điều đó qua nhan đề các bài viết ("Việt Nam phụ nữ liệt truyện", PNTV 2/5/1929; 13/6; 4/7; 1/8; 8/8; 15/8; 12/9/1929; "Tơ hồng nguyệt lão với hôn nhân tự do", PNTV 12/9/1929; "Chữ trinh: cái tiết với cái nết", PNTV 19/9/1929; "Luận về phụ nữ tự sát", PNTV 26/9/1929; "Chuyện bà cố tôi (Một cái đơn kiện cái chế độ gia đình An Nam)", PNTV 17/10/1929; "Nữ công", PNTV 24/10/1929; "Hoàng đế với phụ nữ", PNTV 9/1/1930; "Lại hoàng đế với phụ nữ (Chuyện một bà hoàng hậu vì mắc oan mà bị tử hình)" PNTV 1/5/1930; "Đàn bà mới của một nước mới Thổ Nhĩ Kỳ", PNTV 8/5; 15/5/1930; "Thân oan cho Võ Hậu", PNTV 22/5/1930; "Gia đình ở xứ ta nay đã thành ra vấn đề rồi", PNTV 21/5/1931; "Cái chế độ gia đình nước ta đem gióng với luân lý Khổng Mạnh", PNTV 4/6/1931; "Sự lập thân của thanh niên nam nữ đời nay", PNTV 18/6/1931; "Lại nói về tam cang với ngũ luân", PNTV 2/7/1931; "Tống nho với phụ nữ", PNTV 13/8/1931; "Một cái hại của chế độ đại gia đình: bà gia với nàng dâu", PNTV 20/8/1931; "Vấn đề cải cách cho phụ nữ", PNTV 28/1/1932; "Vấn đề phụ nữ giải phóng với nhân sinh quan", PNTV 7/7; 21/7/1932; "Con có vợ rồi có nên ở chung với cha mẹ chăng?", PNTV 14/7/1932; "Thanh niên với tổ quốc", PNTV 13/10/1932; "Câu chuyện lấy vợ đầm", PNTV 6/12/1934 )... Ở khía cạnh văn học, Phan Khôi đã nhân chuyên đề về giới của tờ tuần báo này để thử nêu các khía cạnh: văn học của các tác gia phụ nữ ("Về văn học của phụ nữ Việt Nam", PNTV 2/5/1929; "Văn học của phụ nữ nước Tàu về thời kỳ toàn thịnh", PNTV 2/5/1929), và văn học về đề tài phụ nữ ("Văn học với nữ tánh", PNTV 9/5/1929; « Lại nói về vấn đề văn học với nữ tánh", PNTV 6/6/1929; "Cái tánh ghen cùng dật sự thi văn bởi nó mà ra", PNTV 23/5/1929; "Theo tục ngữ phong dao xét về sự sanh hoạt của phụ nữ nước ta", PNTV [11 kỳ] từ 30/5 đến 29/8/1929, v.v...).
Một loạt bài khác, Phan Khôi đã làm cho tờ Phụ nữ tân văn nổi tiếng, được cả những độc giả có học vấn cao tìm đọc, đó là loạt bài thảo luận về tư tưởng học thuật. Được khởi lên từ một vài bài ông đề nghị trao đổi hoặc chất vấn về nội dung học thuật và về học phong ("Đọc cuốn Nho giáo của ông Trần Trọng Kim", PNTV 29/5/1930; "Cảnh cáo các nhà học phiệt", PNTV 24/7/1930), Phan Khôi đã khiến những cây bút hàng đầu của học thuật đương thời như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh,... lên tiếng trên tuần báo Phụ nữ tân văn phúc đáp và thảo luận về những vấn đề ông nêu ra. Cuộc tranh biện giữa những đầu óc uyên thâm không dễ cho bất kỳ ai học vấn nông cạn có thể tham dự, nhưng nó vẫn được đông đảo người đọc chờ đợi có lẽ vì đấy là dịp khá hiếm hoi để lắng nghe những người hiểu biết nhất trong nước bàn luận về những điều không hề dễ hiểu như các khái niệm và phạm trù của Nho giáo, nhận định về hoạt động tư tưởng văn hoá ở Việt Nam, về học phong của giới học giả,...Không khí tranh biện nghiêm túc mà không hề nhiễm thói giả dối hàn lâm kinh viện của những thảo luận này khiến ta có thể nghĩ rằng đây là những thời khắc thăng hoa không dễ lặp lại trong hoạt động tư tưởng học thuật ở Việt Nam. Có thể chính không khí ấy cũng đã hỗ trợ nâng bước cho Phan Khôi, khiến ông minh mẫn khác thường; điều này không chỉ bộc lộ qua việc không về hùa với người anh rể là Lê Dư trong chuyện "nước ta có quốc học", mà còn thể hiện ở khả năng nhận định chính xác nhiều vấn đề lịch sử và lịch sử tư tưởng ở tầm xa: Trên lịch sử nước ta không có chế độ phong kiến (PNTV 29/11/1934), Thánh hiền ta đời xưa chưa hề có tư tưởng dân chủ (PNTV 13/12/1934).
Trên Phụ nữ tân văn, Phan Khôi, như một người chuyên nghiệp sống bằng ngòi bút, vẫn kiêm nhiệm nhiều vai trò: vai trò dịch giả (ví dụ trích dịch Tư Mã Thiên, Tư Mã Dung, Hàn Dũ, v.v...), vai trò nhà ngôn ngữ thực hành với nhiều loại việc, từ việc đề xuất "viết chữ quốc ngữ cho đúng, dùng danh từ cho trúng"(PNTV 12/6/1930), "đính chánh lại cách xưng tên của người Việt Nam" (PNTV 26/6/1930), cảnh tỉnh đồng bào đừng thổi phồng khác biệt phương ngữ mà vô tình chia rẽ dân tộc ("Tiếng hay văn Việt Nam cũng chỉ có một mà thôi", PNTV 11/6/1931), đến việc phản đối chủ trương dạy tiểu học bằng chữ nho (PNTV 24/3/1932),... Ông cũng đảm nhận vai trò người sửa văn, dọn vườn văn mà ông cao hứng tự phong là "vai ngự sử trên đàn văn". Cũng có thể thấy ông trong vai trò người giúp việc lấp các khoảng trống cho toà soạn bằng những mẩu "tạp trở" về đủ thứ chuyện cổ kim đông tây. Ông vừa thử vai hương sư dạy cách làm văn quốc ngữ (tập bài hướng dẫn Phép làm văn của ông đăng Phụ nữ tân văn [từ 23/10 đến 30/11/1930] đến hết bài thứ tư thì dừng lại), vừa lặp lại vai trò "thày đồ" dạy chữ nho (tập bài giảng nhan đề "Hán văn độc tu" [phụ đề tiếng Pháp là Chinois sans maitre] của ông được báo Đuốc nhà Nam in và phát hành như một phụ trương trước khi đăng trên Phụ nữ tân văn liền trong 20 kỳ, từ 18/8 đến 29/12/1932, sau nữa Phan Khôi cho đăng lại trên Sông Hương, 1936-37).
Ở phương diện thuần văn học, bên cạnh loạt bài chuyên về văn học của tác gia phụ nữ và văn học về đề tài phụ nữ như đã nêu trên, ở Phụ nữ tân văn, Phan Khôi còn có những bài mang tính khái quát lý thuyết về thể loại ("Giới thiệu lối văn phê bình nhân vật", PNTV 30/7/1931; "Một lối văn mà xứ ta chưa có: nhật ký", PNTV 23/6/1932; "Sự nghị luận sai lầm bởi dùng chủ quan", PNTV 15/9/1932; "Cái địa vị khôi hài trên đàn văn", PNTV 3/11/1932; "Sử với tiểu thuyết", PNTV 1/12/1932; "Lối văn học của bình dân", PNTV 15/12/1932), về văn chương và nghề văn nói chung ("Một ít nghiên cứu văn học về thần mùa xuân", PNTV 4/2/1932; "Sự dùng điển trong thơ văn và sự chú thích", PNTV 18/8/1932; "Cái bịnh ăn cắp của Tàu", PNTV 1/9/1932; "Văn học chữ Hán của nước ta", PNTV 22/9/1932; "Sách tiếu lâm đời xưa", PNTV 22/12/1932).
Tất nhiên trong số đó ta không thể quên bài báo "Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ" (PNTV 10/3/1932), bài báo được coi như lời phát động cho phong trào Thơ mới tiếng Việt (1932-45), mở ra một cuộc cách tân sẽ đưa tới thành tựu lớn nhất trong thơ Việt Nam thế kỷ XX. Xin nhắc lại một cảm tưởng trong hồi ức: ở miền Bắc, sau suốt ba bốn chục năm tên tuổi Phan Khôi bị coi là nguy hiểm nên bị quên lãng, khi kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ mới, tức là vào năm 1992, tên tuổi Phan Khôi chỉ được nhắc lại một cách dè dặt, như thể ông chỉ dính dáng một cách ngẫu nhiên tới phong trào cách tân văn học này. Thế nhưng, nếu tìm hiểu lại, ta sẽ thấy vai trò Phan Khôi gắn với phong trào này là không hề ngẫu nhiên. Hồi những năm 1970 ở Sài Gòn, nhà nghiên cứu Bùi Đức Tịnh [9] đã nêu những dấu hiệu cho thấy kiểm duyệt thực dân có vẻ như đã ngửi ra mùi "duy tân" ,"cải lương"trong những lời Phan Khôi kêu gọi đổi mới thi ca. Đọc lại một cách tương đối hệ thống loạt bài Phan Khôi đăng Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn những năm 1929-1932, chúng ta sẽ có thể thấy Phan Khôi như một trong những cây bút hàng đầu đã tạo cơ sở và chuẩn bị về nhiều mặt cho những thay đổi trong văn hoá, học thuật và văn chương của người Việt những năm 1930-40, trong đó có phong trào Thơ mới. Tôi tin rằng đã và sẽ có nhiều nhà nghiên cứu văn học sử và văn hoá sử Việt Nam thấy nhận định này là hữu lý.
Ngoài chuyện bài vở đăng báo, Phan Khôi còn tham dự một số hoạt động xã hội của báo này, ví dụ chấm thi để trao "học bổng phụ nữ" cho học sinh đi du học sang Pháp.
Tờ báo thứ tư ở Sài Gòn mà Phan Khôi tham gia là nhật báo Trung lập.
Về tờ báo này, học giả Huỳnh Văn Tòng (2000, sđd.) xếp nó vào loại báo thiên về thông tin thương mại, "tự nhận mình không làm chính trị, đứng trung lập, có sao nói vậy, không thiên vị dân chúng hoặc chính quyền, có chủ đích rõ rệt là thương mại nhưng ít nhiều vẫn theo khuôn khổ của chính quyền thuộc địa" (sđd., tr.398). Tờ nhật báo này vốn là bản tiếng Việt của tờ báo tiếng Pháp Impartial, cả hai được sáng lập bởi Henri de Lachevrotière, một người Pháp lai Việt, xuất thân cai thợ, sau tiến thân vào chính trường, lên đến chức chủ tịch Hội đồng quản hạt Nam Kỳ; khoảng 1925-26, cả hai tờ này được bán đứt cho tập đoàn tài phiệt của Octave Homberg (theo Huỳnh Văn Tòng, sđd., tr. 411). Có những thời kỳ, Trung lập báo bị các đồng nghiệp vận động tẩy chay, do việc báo này hoặc người chủ trì nó là Nguyễn Phú Khai tố giác phong trào cấp tiến, ngăn cản các hoạt động tưởng niệm Phan Chu Trinh, ngăn cản thanh niên Sài Gòn tổ chức đón rước Bùi Quang Chiêu du học Pháp trở về... Chính Phan Khôi dưới bút danh Tân Việt, Bùi Thế Mỹ dưới bút danh Phiêu Linh Tử trên Đông Pháp thời báo và Thần chung từng không ít lần châm chọc Trung lập.
Vậy mà tới giữa năm 1930, cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ lại đến với tờ Trung lập. Có điều gì xảy ra đây?
Trước tiên phải kể tai nạn đột ngột xảy ra với tờ Thần chung, việc tờ này bị đóng cửa dẫn đến sự chia lìa của nhóm nhà báo trẻ cấp tiến từng quần tụ nhau quanh tờ báo này. Chủ nhiệm Diệp Văn Kỳ vẫn còn là chủ nhà in Bảo Tồn, lại hành nghề luật sư; chủ bút Nguyễn Văn Bá thì sang làm chủ bút Công luận báo nhưng lúc làm lúc bỏ, vì khi nào ông này để cho ngòi bút ngả theo ông chủ tờ báo là Jules Haag thì liền bị các đồng nghiệp người Việt chế nhạo; rút cuộc đến 1932 thì hai ông chủ cũ của Thần chung trở thành hai ông chủ mới của tờ Công luận đã đổi chủ. Đào Trinh Nhất sang làm chủ bút Phụ nữ tân văn rồi làm chủ bút Đuốc nhà Nam, Ngô Tất Tố trở về Bắc với các tờ báo ở Hà Nội. Hai cây bút quê Quảng Nam là Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi thì bước sang Trung lập.
Khi khảo về quan hệ của các nhóm tài phiệt với báo chí Đông Dương đương thời thuộc Pháp, nhà nghiên cứu Huỳnh Văn Tòng có đưa ra ví dụ nhóm tài phiệt Octave Homberg mua các tờ Impartial và Trung lập rồi về sau bỏ rơi khi nhà tài phiệt này trở về Pháp kinh doanh và bước vào chính trường; sự "bỏ rơi" này được nhà nghiên cứu xem là nguyên nhân dẫn đến chỗ tờ Trung lập thua lỗ và phải đóng cửa vào năm 1933 (sđd, tr. 409-413). Từ sự tìm hiểu của mình, tôi cho rằng nếu sự "bỏ rơi" kia là sự thực thì vẫn cần tìm hiểu thêm về hoạt động của giới quản trị và kinh doanh báo chí người Việt đã tiếp thu và duy trì các tờ báo ấy, chính điều này tạo ra diện mạo cụ thể của những tờ báo đã đổi chủ; và đây là trường hợp của cả tờ Trung lập lẫn tờ Công luận ở Sài Gòn trong những năm 1930.
|
|
|
Post by Can Tho on Jan 13, 2012 10:26:13 GMT 9
Về trường hợp tờ Trung lập. Từ 13/8/1929, vai trò Tổng lý (directeur propriétaire) Trung lập báo chuyển từ Nguyễn Phú Khai sang Trần Thiện Quý tự Tôn Hiền. Những điều được toà soạn thông tin trên mặt báo và những biến chuyển thể hiện qua tin tức bài vở đăng ra cho thấy Trần Thiện Quý đã mua lại tờ báo này và đổi nó thành tờ báo khác, có khuynh hướng dân tộc rõ rệt so với tờ báo cũ tuy vẫn mang tên như cũ [10] . Chẵn một năm sau ngày 2/5/1929 (ngày khai sinh tuần báo Phụ nữ tân văn), báo giới Sài Gòn lại nhấn vào cái ngày đáng nhớ này bằng một việc mà họ cho là cũng sẽ đáng nhớ khác nữa, ấy là việc đúng ngày 2/5/1930 chính thức ra mắt tờ Trung lập đổi mới, tuy không ghi chú "bộ mới" hay "tục bản", không đánh số lại, chỉ khai trương một manchette mới (chữ "trung lập" màu đỏ với các nét cách điệu hình thân và cành lá thông) và một bộ biên tập mới, do Bùi Thế Mỹ làm chủ bút (rédacteur en chef). Phan Khôi vẫn giữ nguyên tắc riêng của ông là chỉ cộng tác viết bài chứ không ở trong toà soạn, tuy có lúc bài ông viết được đăng với tên ký Trung Lập tức là ký tên toà soạn.
Lượng bài Phan Khôi viết và đăng Trung lập có lẽ là lớn nhất so với lượng bài của ông đăng ở bất cứ tờ nào trong số ba tờ báo Sài Gòn đã nêu trên. Trước hết là mục hài đàm "Những điều nghe thấy" mà toà soạn dành riêng cho ông viết với bút danh Thông Reo (10 ngày đầu ký là Tha Sơn). Từ 2/5/1930 đến 30/5/1933, ngày Trung lập bị đóng cửa, Phan Khôi đã viết trên 600 bài cho mục "Những điều nghe thấy".
Ở trên nhân nói về chuyện Phan Khôi vào vai Tân Việt trong "Câu chuyện hằng ngày" ở Đông Pháp thời báo và Thần chung, tôi có dẫn khái niệm "mặt nạ tác giả", một khái niệm dầu sao cũng mang dấu tư duy Tây phương, trỏ một thứ "thi pháp" của cái "tôi" trong vai lệch ở tản văn; tiếp đây xin thuật thêm một sự việc thực mà hoá ra lại liên quan đến khái niệm ấy. Đó là từ giữa năm 1932, sau khi "Hội chợ Phụ nữ" ở Sài Gòn do báo Phụ nữ tân văn và hội Dục Anh Sài Gòn đồng tổ chức kết thúc, những lời phàn nàn về một vài xử sự không hay của Nguyễn Đức Nhuận (chủ báo Phụ nữ tân văn) đã từ bé xé ra to, lời qua tiếng lại đến mức đưa nhau ra toà. Một nửa báo giới Sài Gòn do Tổng lý Trung lập Trần Thiện Quý và Chủ nhiệm Sài thành Bút Trà dẫn đầu hăng hái lên án vợ chồng chủ báo Phụ nữ tân văn; còn vợ chồng chủ báo ấy thì đưa đơn ra toà kiện hai tờ Sài thành và Trung lập về tội phỉ báng. Tình thế ấy khiến Bùi Thế Mỹ, người lên tiếng bênh vực chủ báo Phụ nữ tân văn lúc sự việc mới phát lộ, phải từ chức chủ bút Trung lập ra đi. Phan Khôi được tiếng là người thân thiết với chủ báo Phụ nữ tân văn, cũng không còn ký tên mình đăng bài trên Trung lập nữa. Trên vài tờ báo khác lúc đó đã thấy đăng những ý kiến trách Trần Thiện Quý đã để cho cả Phan Khôi lẫn Bùi Thế Mỹ bỏ Trung lập ra đi. Thế nhưng Thông Reo với chuyên mục "Những điều nghe thấy" thì vẫn xuất hiện đều đặn trên chính tờ Trung lập cho đến tận số cuối cùng, trước khi báo này đột nhiên bị cấm; và đáng lưu ý là Thông Reo cũng có những bài đồng tình với phe nhà báo lên án chủ nhân Phụ nữ tân văn là "con buôn hám lợi". Vậy là chính nhờ "mặt nạ tác giả" đó, trang viết của Phan Khôi vẫn có thể xuất hiện ở những tờ báo mà tình thế và thời điểm khiến họ tên thật (vốn đi liền với nhân thân thật) của ông không thể hoặc không nên xuất hiện (Xin nói thêm: chuyện "mặt nạ tác giả" nói ở đây là chuyện nghề nghiệp hơn là chuyện đạo đức).
Về văn chính luận, một việc rất đáng kể là chỉ hơn một tháng từ ngày ra tờ Trung lập đổi mới, Phan Khôi đã khởi ra cuộc bút chiến giữa hai tờ Trung lập - Đuốc nhà Nam xoay quanh thái độ đối với các sự biến vừa xảy ra lúc đó ở Nam Kỳ (nông dân biểu tình bị đàn áp đổ máu, các nhân vật hàng đầu của đảng Lập hiến giấu mặt im lặng...). Các bài viết tuy ký Trung Lập nhưng, như Phan Khôi sau đó ít lâu sẽ nói rõ, tất cả đều do một tay bút ông viết ra. Ông đã đi từ việc bình luận về thái độ của những người được coi là làm chính trị (là nghị viên hội đồng quản hạt hoặc hội đồng thành phố, tham gia một đảng được gọi là đảng Lập hiến...) trước những sự biến liên quan đến vận mệnh dân chúng (bắt đầu từ bài "Ý kiến Trung lập: Phải nói minh bạch", TL 20/6/1930, qua một loạt bài: "Trung lập xin nói cho Đuốc nhà Nam nghe thế nào là cái nhã độ quân tử?", TL 21/6/1930; "Trung lập lại nói cho Đuốc nhà Nam nghe: Theo cái nhã độ quân tử, hễ có lỗi thì phải chịu", TL 23/6/1930; "Sự khởi hấn giữa Đuốc nhà Nam và Trung lập nếu trở thành cuộc bút chiến thì phải thế nào?", TL 24/6/1930; 4 bài nhỏ: "Ai nói dối?"; "Bây giờ chúng tôi mới biết cái văn và cái người của ông Nguyễn Phan Long"; "Trung lập giành lại cái nhân cách cho quốc dân dưới bàn chưn kẻ vô lễ"; "Kiến hiền tư tề yên" đều in trên Trung lập ngày 25/6/1930, v.v… đến loạt bài "Về các cuộc biểu tình ở Nam Kỳ vừa rồi" [kỳ I - IV] từ 26/6/1930 đến 30/6/1930), chuyển sang bình luận về các vấn đề của đảng Lập hiến Nam Kỳ ("Nói về đảng Lập hiến ở Nam Kỳ", từ kỳ I, 2/7/1930, đến kỳ XIII, 25/7/1930, với những tiểu mục từng kỳ như: Cái chủ nghĩa của đảng Lập hiến; Đảng Lập hiến có thế lực mà không biết dùng; Cái sai lầm của đảng ấy trong đường chánh trị; Đảng viên và cơ quan của đảng ấy; Đảng Lập hiến với thanh niên; Hiệp quần với phân đảng; Ý kiến chúng tôi về đảng Lập hiến nay sắp sau,...). Đó là những bình luận xã hội chính trị mà về nội dung thì những người nghiên cứu lịch sử hiện đại có lẽ có thẩm quyền đánh giá hơn những người nghiên cứu về văn học sử hiện đại. Chỉ xin lưu ý rằng năm 1929, chính Phan Khôi trên báo Thần chung đã có bài luận về bút chiến (không ký tên tác giả, nhưng tôi đoán là do Phan Khôi viết); có thể nghĩ rằng ông cũng mong có dịp thực hiện một cuộc bút chiến đúng như ông hình dung trong ý niệm. Đối thủ của ngòi bút ông lần này là chủ nhiệm Đuốc nhà Nam Nguyễn Phan Long. Những gì diễn ra có lẽ không thật giống với hình dung thuần ý niệm, tuy Phan Khôi giữ nguyên tắc của mình. Khi Nguyễn Phan Long trả đũa bằng thủ đoạn bôi nhọ cá nhân người viết bút chiến với báo mình (cho đăng trên báo Đuốc nhà Nam 12/7/1930 một bài bình thơ ký tên Đức Kỉnh, bàn về bài "Viếng mộ ông Lê Chất" của Phan Khôi rồi viết rằng "người mình có cái tật "vì người mà bỏ lời nói" nên chi bài thi nầy hay thật nhưng không mấy ai truyền tụng đến", tức là mượn một câu ở sách Luận ng» để thoá mạ nhân cách Phan Khôi), Phan Khôi đã thẳng thắn công khai nguồn dư luận mờ ám mang tính vu cáo vẫn lan truyền bằng rỉ tai trong giới về mình (theo đó người ta đồn ông là mật thám của khâm sứ Trung Kỳ), nhân đây, Phan Khôi buộc tội Nguyễn Phan Long khơi ra chuyện vô bằng cứ đó là "đã bôi lọ cái tên của ông trong làng báo", "làm xấu trong trường ngôn luận" ("Vài lời hỏi ông Nguyễn Phan Long, chủ nhiệm Đuốc nhà Nam", TL 19/7/1930; "Một sự buồn trong báo giới", TL 21/7; 24/7; 1/8/1930).
Xin kể thêm một bài bình luận cũng rất đáng kể nữa là bài báo đăng 4 kỳ nhan đề "Vấn đề cải cách" (TL 9/8; 12/8; 13/8; 18/8/1930), trong đó Phan Khôi nêu kinh nghiệm Nhật Bản và Trung Hoa để khẳng định ý kiến mình: "muốn duy tân cải cách thì phải bắt từ học thuật tư tưởng mà duy tân cải cách trước"; đó là một chủ kiến có không ít căn cứ.
Về phương diện văn học, một điều khá nổi bật là khi hai ông Bùi Thế Mỹ và Phan Khôi làm với Đông Pháp thời báo trong năm 1929 đã ra được "Phụ trương văn chương", thì đến khi hai ông này làm với Trung lập, cũng ra được "Phụ trương văn chương" vào mỗi thứ bảy hằng tuần (khởi đầu vào đúng ngày 2/5/1931, như lặp lại điểm thời gian đáng nhớ của giới làm báo ở Sài Gòn), cũng do Bùi Thế Mỹ là chủ bút; từ 2/5/1931 đến 29/5/1933 ra được cả thảy 104 kỳ. Ở mỗi kỳ, ngoài những mục như "Văn uyển" đăng sáng tác thơ, mục "Giấy thừa mực vụn" đăng tạp văn hoặc chuyện làng văn, còn có một lượng khá lớn bài vở trong đó bước đầu giới thiệu những khái quát văn học sử Việt Nam (ví dụ bài "Ngôn ngữ và văn chương Việt Nam" của Bùi Kỷ từ PTVC số 8: 20/6/1931, đến PTVC số 13: 25/7/1931), nêu các vấn đề mang tính lý luận văn nghệ, giới thiệu văn chương nước ngoài, bàn thảo để nhận diện những hiện tượng như "đạo văn" (Cao Minh Chiếm PTVC số 41: 13/2/1932, "tố giác cái án đạo văn" nhưng lầm lẫn một loạt trường hợp thuộc loại phóng tác của Hồ Biểu Chánh và nhiều tác giả khác; Mai Lan Quế PTVC số 47: 26/3/1932 nhận thấy họ Cao nghiệt ngã vô lý, đề nghị Phan Khôi giải giúp; Phan Khôi PTVC số 48: 2/4/1932 giải rõ những trường hợp ấy không phải là "đạo văn"), hiện tượng nhà văn bị cáo giác là có những sáng tác gây tổn thương phong hoá [11] , v.v... Chính ở "Phụ trương văn chương" số 2 (TL 9/5/1931) một tác giả ký T.S. đã nêu vấn đề lý thuyết về "nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh" (chứ không phải đợi đến Hải Triều với những cuộc tranh luận sau này vào năm 1936). Nhân nói về phụ trương này, phải kể đến sự đóng góp của một cây bút khác cũng đến từ xứ Quảng là Phan Thứ Khanh, người đã có khá nhiều bài giới thiệu các nội dung lý thuyết mới về văn nghệ như: văn học và quốc dân tính, văn học tiến hoá với sự biến thiên của xã hội, văn học với cách mạng, văn học bình dân, khái niệm "trào lưu", về chủ nghĩa tả chân của Zola và Flaubert, nguyên lai tiểu thuyết Tàu và tiểu thuyết thời Đường, xuất xứ các bộ Thuỷ hử, Tam quốc, Tây du, lược qua về bộ Kim Bình Mai, v.v... Đây cũng là một trong số những tác giả đang bị quên lãng cả ở Sài Gòn đây lẫn ở quê gốc của mình.
Phần văn học Phan Khôi góp mặt với Trung lập cũng gần với các bài loại này ông đăng Phụ nữ tân văn. Thường thì một bài của ông nếu không đăng trên tờ này thì sẽ đăng trên tờ kia và ngược lại, và cũng có trường hợp đăng đồng thời cả trên hai tờ đó (thậm chí nhiều tờ khác cũng đăng lại), chẳng hạn những bài ông thảo luận với Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Huỳnh Thúc Kháng, những bài ông tranh luận về "quốc học" với Lê Dư, v.v... Riêng ở Trung lập, Phan Khôi còn có những bài về ngôn ngữ, về thể loại văn chương; ông tham gia cuộc thảo luận về văn nghị luận của báo chí ngoài Bắc, bênh vực lối văn Hoàng Tích Chu (khác với Ngô Tất Tố là người chê bai lối văn này), nhận xét chỗ được và chưa được ở bộ Việt Nam tân tự điển của Hội Khai trí Tiến đức, v.v... Ông không chỉ thường xuyên có bài về thời sự nước Tàu mà còn có nhiều bài dịch thuật, giới thiệu văn hoá Trung Hoa, đáng kể nhất là bài giới thiệu Thương vụ ấn thư quán ở Thượng Hải (PTVC số 36: 31/12/1931; số 37: 9/1/1932). Phụ trương văn chương của báo Trung lập cũng đăng nhiều bài Phan Khôi trích dịch Sử ký của Tư Mã Thiên, Tùy Viên thi thoại của Viên Mai, v.v... Nhân đây cũng cần nhắc lại rằng hầu hết các bài trong mục "Những điều nghe thấy" chính là một dạng sáng tác của văn chương báo chí; không có báo chí thì không có đất sống cho loại tản văn này; ngoài ra, trong khá nhiều loại để tài mà các bài trong mục này đề cập cũng có nhiều bài về văn chương nghệ thuật, khá nhiều bài bàn đến văn chương Truyện Kiều, đến các sáng tác đương thời.
Ngoài 4 tờ báo tiếng Việt kể trên, Phan Khôi còn cộng tác với một hoặc một vài tờ báo chữ Hán của Hoa kiều ở Chợ Lớn. Một trường hợp đã biết rõ là tờ Quần báo hồi đầu năm 1929 đã đăng bài Phan Khôi chỉ ra chỗ sai của báo ấy khi đăng một bài thơ, nói là của tác gia Trung Hoa Ngô Bội Phu nhưng thực ra là thơ của tác gia Việt Nam là vua Thành Thái; sau đó báo đăng liền 2 kỳ bài "Chính trị gia khẩu đầu chi Khổng Tử" của ông; ở cả hai bài ông đều ký là Khải Minh Tử. Sau này, vào năm 1939, trên tờ Tao đàn ở Hà Nội, Phan Khôi viết rằng khoảng 1928 ông từng đăng bài với bút danh Khải Minh Tử trên Hoa kiều nhật báo nói về văn học chữ Hán của người Việt [12] . Riêng về thông tin này hiện vẫn chưa có kiểm chứng trên tư liệu.
Trên đây là sơ lược về hai thời kỳ Phan Khôi tham gia báo chí văn chương tại Sài Gòn. Giữa năm 1933, ông ra Bắc cộng tác với các tờ Thực nghiệp dân báo, Phụ nữ thời đàm. Giữa năm 1934, ông vào Huế cộng tác với tờ Tràng An, rồi sáng lập và điều hành tờ Sông Hương, tờ báo tư nhân đầu tiên mà ông là chủ trong đời mình. Năm 1937, sau khi nhượng tờ Sông Hương ở Huế này cho nhóm cộng sản của Phan Đăng Lưu, theo một nguồn tài liệu (Phan Cừ, Phan An, 1996, sđd.), Phan Khôi lại vào Sài Gòn, nhưng không biết ông có cộng tác với tờ báo nào tại đây hay không. Do đó cũng chưa rõ ông có một thời kỳ thứ ba làm việc với văn chương báo chí Sài Gòn nữa hay không? Tôi chưa tìm hiểu được kỹ điều này nhưng ngờ rằng không có.
3. Trở lại điều nêu ở phần đầu bài này. Rõ ràng là Phan Khôi có thời gian làm báo viết văn tại Sài Gòn, tức là tại Nam Kỳ (nay ta dùng từ "Nam Bộ"). Hoạt động văn chương báo chí ấy của ông (ở đây chưa kể đến hoạt động văn chương báo chí của ông tại các nơi khác) chẳng những để lại dấu ấn tại đây mà còn có tiếng vang và ảnh hưởng đến tiến trình chung của văn học Việt Nam trên quy mô cả nước. Vậy thì, từ góc độ văn học sử, khi tập trung vào một quy mô nhỏ, ở đây là quy mô vùng văn học Nam Bộ, các nhà nghiên cứu có nên tính đến hoạt động của những "cây bút nhập cư" như Phan Khôi (và không chỉ có Phan Khôi) hay không? Nếu loại bỏ không kể đến những "cây bút nhập cư" đã đến, sống và viết ở đây, thì đời sống văn học thực diễn ra ở đây có vì vậy mà trở nên nghèo nàn hơn thực tế đã có hay không?
Hà Nội, tháng Ba 2006
2006 talawas
[1]Phan Thị Nga: "Lối tự học của những bực đàn anh nước ta: [kỳ 1] Ông Phan Khôi học chữ Tây và làm quen với cô Luận Lý". Hà Nội báo, Hà Nội, s. 10 (11 Mars 1936); Phan Cừ & Phan An: "Phan Khôi niên biểu" [trong sách] Chương Dân thi thoại (tái bản), Đà Nẵng 1996; Nxb. Đà Nẵng, tr. 152-163. [2]Huỳnh Văn Tòng: Báo chí Việt Nam từ khởi thuỷ đến 1945, Tp HCM; Nxb TP HCM, 2000, tr. 185. [3]Chi tiết hơn xin xem trong Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1928, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, Đà Nẵng; Nxb. Đà Nẵng, 2003. [4]Khái niệm "mặt nạ tác giả" [maska avtorskaja] được một số học giả Nga định nghĩa như phương thức mà nhà văn dùng để che giấu nhân thân của mình nhằm tạo nên ở độc giả cái hình ảnh một tác giả khác hẳn (so với dạng thực có); đây là thủ pháp chính của mê hoặc (mistifikacija) trong văn chương (theo O.E. Osovsky, Maska Avtorskaja / Mặt nạ tác giả / trong sách: Literaturnaja Enciklopedija Terminov i ponjatij , A. N. Nikoljukin tổng chủ biên, Moskva: HPK "Intelvak", 2001, tr. 511-512). [5]Về hai nhà báo và nhà văn Pháp này, mới đây dịch giả Trần Thiện Đạo từ Paris đã tra cứu và thông tin về, cho biết: Georges [chứ không phải Charles] de la Fouchardière (1874-1946) năm 1916 đã cùng Gustave Téry sáng lập tờ L' oeuvre (Xây dựng), viết liên tục 15 năm những bài luận bàn thế sự với giọng hài hước hóm hỉnh, thu hút đủ loại độc giả; là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến 1939-45; Clément Vautel (1876-1954; tên thật Clément Vaulet; trong bút danh đảo let thành tel): viết cho các báo ngày ở Paris như Le Matin, La Liberté..., đặc biệt giữ mục "Mon film" (Dưới mắt tôi) hằng ngày bàn luận thế sự bằng cái nhìn rất "phải lẽ" của một "francais moyen" (thường dân), được độc giả đương thời hâm mộ; ngoài ra còn là tác giả một số tiểu thuyết; cũng là cây bút có ảnh hưởng đến tận thế chiến II. Xin chân thành cảm ơn dịch giả Trần Thiện Đạo về những thông tin trên. [6]Xem: Vương Lệ Thiên: "Thỏ chết động lòng chồn (Tại sao báo Thần chung bị cấm xuất bản?)", Trung lập, Sài Gòn, 27/3/1930; Phan Khôi: "Có lẽ là điều sai lầm của những người trí giả", Trung lập, Sài Gòn, 10/5/1930 [7]Chi tiết hơn xin xem trong: Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1929, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/, Đà Nẵng; Nxb. Đà Nẵng, 2004. [8]Tin: "Phụ nữ tân văn bị đóng cửa 5 tháng", Trung lập, 14/5/1931. [9]Bùi Đức Tịnh: Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và Thơ mới (1865-1932), [in lại có sửa so với bản in lần đầu 1975], Tp. HCM; Nxb. TP HCM, 1992, tr. 235 [10]Chi tiết hơn xin xem: Tiểu dẫn [trong sách] Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1930, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn/ Hà Nội; Nxb. Hội Nhà văn, 2005, tr. 8-14. [11]Xem thêm Lại Nguyên Ân: "Vài tư liệu về việc Vũ Trọng Phụng bị gọi ra toà năm 1932", Tiền phong, 5/11/2005; Thế giới mới, s. 660 (7/11/2005). [12]Phan Khôi: "Khái luận về văn học chữ Hán ở nước ta", Tao đàn, Hà Nội, s. 1, 1 Mars 1939, tr. 13-18; s. 2, 16 Mars 1939, tr. 107-114; dẫn theo Sưu tập trọn bộ TAO ĐÀN 1939, Nguyễn Ngọc Thiện và Lữ Huy Nguyên sưu tầm, Hà Nội; Nxb Văn học, 1998.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 2, 2012 17:15:12 GMT 9
Huyền Thoại Đại Cathay
 Ngày ấy, truoc 1975, danh tiếng của người đứng đầu “tứ đại giang hồ” là Đại Cathay được cả miền Nam đều biết tiếng, nhất là sau này qua cuốn tiểu thuyết của nhà văn Duyên Anh “điệu ru nước mắt”. Trận hỗn chiến giữa Đại Cathay với Huỳnh Tỳ, Ngô Văn Cái, Nguyễn Kế Thế đã đưa Đại lên đứng đầu nhóm này. Trận chiến kinh hồn với băng đảng người Hoa của Tín Mã Nàm đã cho Đại Cathay lập nên một đế chế mà khắp Sài Gòn chẳng có một băng nhóm nào dám đối đầu. Cả một bộ máy quân sự khổng lồ của miền Nam cũ phải sợ một tên du đãng Đại Cathay đến nỗi tướng râu kẽm Nguyễn Cao Kỳ phải “xuống nước” mời ra làm nhân viên công lực quốc gia hay tướng cảnh sát Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan mời làm đại úy cảnh sát. Hình ảnh của Đại Cathay với mái tóc bồng bềnh, quần Jean, giày cao cổ, trên môi không rời điều thuốc, Zippo, ... Những gì mà Đại Cathay đã tạo dựng chỗđứng của mình trong giới giang hồ thật khác biệt.Ởđó sự liều lĩnh không được đánh giá cao bằng lối sống "tình nghĩa" đáng để suy ngẫm... Ngay cả đám giang hồ cộm cán, đám đàn em tin cẩn cũng không ai biết hắn con ai, tên thật là gì. Chính Đại Cathay cũng… không biết tên thật của mình nốt. Hơn chục lần bị điệu về bót cảnh sát, Đại tự khai cho mình hơn chục lai lịch khác nhau. Theo đó, cha của hắn lúc là Lên Văn Cự, lúc lại là Trần Văn Trự… Mẹ của Đại Cathay cũng khá… nhiều tên, lúc là Hương, lúc là Duyên, sống hay chết thì “có trời mà biết”. Nói tóm lại, như Đại Cathay thường tự nhận, gã là một thằng… con trời có lẽ xuôi tai hơn cả. Kì thực, Đại tuổi Thìn, sinh năm 1940. Theo tìm hiểu của chúng tôi, mẹ của Đại tên gì không rõ, chỉ biết người xung quanh thường gọi là bà Sáu. Còn cha Đại thì chính tên là Lê Văn Cự, vốn cũng là một tay giang hồ hảo hớn ở khu vực chợ Cầu Muối. Sau năm 1945, Hai Cự tham gia kháng chiến, trở thành lính của “Mười ban tự vệ công tác thành”, sau đó bỏ vào chiến khu rừng Sác đầu quân vào bộ đội Bình Xuyên của thủ lĩnh Ba Dương (tức Dương Văn Dương). Đại sinh ra giống cha như đúc nhưng tuổi thơ rất ít được gần cha. Thuở nhỏ, gã sống với cha mẹ ở đường Đỗ Thành Nhân, Khánh Hội (nay la Đoàn Văn Bơ Quận 4). Cả cha lẫn mẹ của hắn đều nghèo, làm nghể chẻ củi thuê cho một vựa củi nằm bên kia Cầu Mống, cạnh chợ cũ, Quận 1. Đại thường xuyên trốn học chạy sang chơi vơi đám trẻ con bụi đời cạnh vựa củi. Hiền lành, ít nói, dù khuôn mặt rất ngầu, tính phóng khoáng, lại rất "lì đòn", những đức tính được "thừa kế" đầy đủ từ cha đã giúp Đại nhanh chóng được đám trẻ đồng cảnh mến mộ. Mới 10 tuổi, gã đã thường xuyên luồn lách vào các chợ, sạp hàng xung quanh, ăn trộm dưa, chuối về chia cho chúng bạn. Sau 1945 cha Đại tham gia kháng chiến và bị bắt vào cuối năm 1946, bị đày ra Côn Đảo và ít lâu sau thì chết. Cha mất, mẹ lấy chồng khác. Bố dượng là 1 tay máu me cờ bạc, lại nghiện thuốc phiện năng nên gia sản dần dần biến hết. Cáu bẳn vì sinh kế, ông dượng thường nọc đứa con riêng của vợ ra hành hạ để hả cơn bực tức. Không chịu nổi, Đại bỏ học hẳn, sang vườn hoa Cầu Mống đánh giày, bán báo tự nuôi thân. Khu vực làm ăn của Đại là xung quanh ngã tư Công Lý (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) – Nguyễn Công Trứ. Tại đó có 1 rạp chiếu bóng tên là Cathay. Không ngày nào trước cửa rạp hát không xảy ra những vụ đánh lộn giành khách giữa đám trẻ bụi đời. Lì lợm và liều lĩnh, Đại cứ lăn xả vào đối thủ liên tục tấn công, dù kẻ đó có cao hơn nửa cái đầu cũng mặc. Trăm lần như một, Đại luôn là kẻ chiến thắng, dù tay chân mặt mũi đầy vết rách bầm. Nghiễm nhiên, hắn trở thành thủ lĩnh của đám nhóc tì du thủ du thực trong khu vực. Cũng nghiễm nhiên, gã được quyền ráp thêm "tên đất" vào sau tên cúng cơm để trở thành Đại Cathay, "đại ca" đường Nguyễn Công Trứ. Đó là năm 1954 lúc Đại mới 14 tuồi. Trở thành "anh chị", Đại được quyền sống mà không mó tay vào bất cứ việc gì. Hắn vẫn đóng thùng đánh giày, nhưng là để giao cho đàn em "đi làm" mang tiền về nộp. Mỗi buổi sáng, hàng chục thiếu niên Ba Binh, Ba Tướng, Ba Gà (hỗn danh để gọi đám trẻ du đãng chưa có tên tuổi. Ba Binh là quân sư, Ba Tướng là những thằng trực tiếp đi đánh nhau còn Ba Gà là những tên thuyết khách) cả trai lẫn gái tụ tập quanh Đại Cathay nhận công việc và địa bàn do hắn cắt cử, sau đó túa đi, chiều lại đem tiền về cho Đại. Được cái, hắn rất hào phóng, Đại Cathay chia hết tiền cho đàn em, chỉ giữ lại cho mình 1 khoản nhỏ, đủ cà phê, thuốc lá cho ngày kế tiếp. Những đàn em không may bị ế báo, bị mưa ướt thuốc, kẹo phải đền tiền, Đại Cathay cũng không chửi bới, đánh đập như những tên "chăn chíp" tham lam khác mà còn lấy của đứa "trúng mánh" cho thêm. Vì vậy, đàn em rất khoái và chịu nghe lời "anh Đại". Tình trạng đánh lộn, tranh giành khách trong khu vực của Đại Cathay được dẹp yên. Nằm ngay cạnh khu vực của Đại Cathay là bót cảnh sát quận Nhì, thường được gọi là bót Dân Sinh, nổi tiếng dữ dằn. Rất nhiều lần, sau khi dẫn đàn em đi chinh phạt các khu vực khác hoặc đánh dằn mặt người của các băng nhóm đến giành lãnh địa, Đại Cathay đã bị các công cò bót quận Nhì xách tai lôi về bót. Hăm dọa, tát tai, đá đít đủ kiểu, thằng nhóc vẵn trơ trơ không chịu khai tên tuổi những đàn em tham gia ẩu đả, đám mã tà phú lít lại đành thả Đại về. Hết thuốc, các ông cò nảy ra đòn độc để trị Đại Cathay, bắt đàn em của đại đứng xem. Chúng bắt thằng nhóc quỳ giữa sàn nhà, hai ông cò hai bên xốc ngược tay Đại lên, cạy mồm, thả vào một con gián sống. Con vật lập tức chui tọt vào cổ họng lao thẳng xuống dạ dày. Ngứa ngáy, kinh tởm và nhột không chịu được, Đại Cathay ói ra mật xanh, mật vàng. Đám Ba Binh, Ba Tướng xung quanh lè mắt, có đứa hét lên ngất xỉu và đái ra quần. Đại Cathay, sau một hồi nôn thốc nôn tháo, bắt đầu trấn tĩnh, lại tiếp tục câm như hến, tuyệt đối không khai. Không còn cách nào khác, các thầy cảnh sát đành tống Đại Cathay vào trại tế bần hoặc Trại giáo hóa thiếu nhi phạm pháp ở Thủ Đức. Ở miền Nam trước giải phóng, có bốn nơi được coi là “lò đào tạo du đãng”. Nơi thứ nhất là Trại nuôi dạy trẻ mồ côi, cơ nhỡ nằm tại địa điểm nhà hát Hòa Bình hiện nay. Nơi thứ hai, Làng cô nhi Thủ Đức, điều kiện sống khá hơn nhưng vẫn rất lỏng lẻo, tha hồ cho đám tiểu yêu phá phách. Những tên nhóc bất trị nhất, hai trại trên đều không chứa nổi thường bị cảnh sát lùa vào Trại giáo hóa Thủ Đức. Thực chất, đây chỉ là nơi nuôi báo cô đám du thủ du thực, chờ chúng đủ tuổi là đẩy vào quân đội. Nơi thứ tư, Trại Tế Bần nằm bên kia cầu Trình Minh Thế (nay là cầu Tân Thuận), là một Trạm trung chuyển giam giữ những tên lưu manh sắp hết tuổi vị thành niên. Sau nửa tháng bị giam, nếu có người nhà bảo lãnh, đóng phạt, tên tiểu yêu sẽ được cho ra. Nếu không chúng sẽ bị nhốt lại, chờ đủ tuổi là tống vào đội quân “cưỡng bức phục vụ” tức lao công phục vụ chiến trường. Kẻ nào bị liệt vào hạng này coi như cầm chắc cái chết. Ngoài mặt trận, việc của họ là đi trước phát cây, mở đường, đào công sự, trong khi chân không giày dép, hai người chung một sợi dây xích chân, muốn chạy cũng không được, mặc kệ mưa đạn vãi cả trước mặt lẫn sau lưng. Biết trước số phận “bia thịt” của mình nên đám du đãng vào trại tế bần chưa ấm chỗ đã tìm cách trốn. Lọt ra khỏi vòng rào các trại, đám nhóc lại lần về với các băng nhóm du đãng, bụi đời. Hầu hết đám giang hồ Sài Gòn nổi tiếng sau này đều đã từng qua đủ các trại nói trên. Thuộc hang vào ra như cơm bữa, Đại Cathay được liệt vào loại “tù con rạ”, để phân biệt với đám “tù con so” mới nhập trại lần đầu. Ở các trại, Đại Cathay đã làm quen với những Của Gia Định, Lâm chín ngón, Hắc quảy quảy, Hòa áo thun… những chiến hữu đắc lực sau này trên chốn giang hồ. Mỗi lần vào trại rồi trốn ra, Đại Cathay càng liều lĩnh hơn, kinh nghiệm hơn, càng “tích cực” lao đầu vào những trận thư hùng - vốn là thứ năng khiếu nổi trội hơn cả ở hắn. Năm 1955, Đại Cathay chuyển sang sinh sống ở khu vực Hãng phân Khánh Hội cạnh Nhà máy thuốc lá Bastos. Đám trẻ con khu vực này đón tiếp Đại Cathay khá nồng nhiệt bằng những trận hỗn chiến. Một lần nữa, sự lì đòn của Đại lại giành phần thắng. Toàn bộ nhóc tì khu vực Khánh Hội, quanh cầu Ông Lãnh, gồm toàn dân bến tàu vựa cá, vựa rau cải – vốn có hạng trong nghề dao búa – đều bị Đại Cathay qui phục về dưới trướng. Khi Đại Cathay còn là một cậu bé đánh giày thì toàn bộ khu vực Cầu Mống - Dân Sinh - Cầu Ông Lãnh mà dân giang hồ gọi là khu Da Heo, đều do một tay giang hồ nổi tiếng là Tám Lâu cai quản. Ở trần, quần dài vắt vai, đi đứng nói năng khụng khiệng, nét mặt luôn đằng đằng sát khí, Tám Lâu bị bà con khu Da Heo coi như một hung thần. Nghề chính là đạp xích lô, nhưng thực chất Tám Lâu là kẻ nhận quyền bảo kê thu thuế toàn bộ khu Da Heo, dưới trướng có hàng chục đàn em. Dưới nệm xích lô, Tám Lâu luôn thủ sẵn "hàng mã", sẵn sàng vung ra bất cứ lúc nào với bất cứ ai. Nhiều lần chứng kiến thằng nhóc đánh giày dẫn quân đập lộn, Tám Lâu đâm "chịu" Đại. Thỉnh thoảng ngồi nhậu thấy Đại đi qua, Tám Lâu lại ngoắc vào kê ghế cho ngồi cạnh mần hơi cho ấm bụng. Qua những lần nhậu ké đó, Đại Cathay được Tám Lâu giới thiệu như một tay trẻ tuổi tài cao đầy hứa hẹn với đám giang hồ đàn anh: Ba Hội, Cảnh Tượng... Tám Lâu cũng thường đưa Đại đến các khu Lò Heo (cũ), Chánh Hưng, hẻm Hai mươi để làm quen với các tay anh chị khu vực khác. Nể tình Đại Cathay cũng hay ghé đến hẻm 110 Nguyễn Công Trứ để thăm hỏi Tám Lâu. Tuy hung tợn, dữ dằn nhưng Tám Lâu vẫn phải thúc thủ trước uy thế của anh em Bé Bún, một trùm giang hồ quận 4, khu vực cạnh Hãng phân nơi Đại Cathay trú ngụ. Cậy đông quân lắm mã, đám này thường kéo rốc qua Cầu Ông Lãnh, tràn vào "thu thuế" giật bà con thiểu thương chợ vựa Cầu Muối, Tám Lâu không cản nổi. Một ngày cuối năm 1957, tình cờ nghe đàn anh thở ngắn than dài, nộ khí xung thiên, Đại Cathay đề xuất: - Anh Tám để đó em lo. Phải cho Bé Bún nằm viện, đám này mới ngán! Tám lâu gạt phắt: - Con nít biết gì? Tao còn thua nó, mày là cái đinh gỉ! Tự ái Đại Cathay bỏ về. Lúc này đám Ba Binh, Ba Tướng của Đại cũng đã lớn, toàn thanh niên 17, 18 tuổi, lại lăn lộn lề đường nhiều nên cũng khá dày dạn. Nghe lời Đại Cathay, đám này vác dao qua Bến Vân Đồn "chém bậy" vài tay em của Bé Bún để khiêu khích. Điên tiết, Bé Bún hô toàn bộ em út tấn công sang khu Da Heo hỏi tội Tám Lâu. Quân Bé Bún quá đông, khiến Tám Lâu và đám đàn em hoảng hốt, định bỏ chạy. Nhưng vừa qua khỏi Cầu Ông Lãnh, băng Bé Bún đã ôm đầu máu chạy ngược trở lại, kêu la vang trời. Không nói trước với đàn anh nửa câu, Đại Cathay đã âm thầm cho đàn em của mình "trải đệm", bất ngờ "luộc" băng Bé Bún. Dưới sự chỉ huy của Đại Cathay, đám giang hồ tân binh tả xung hữu đột lăn xả vào chém quân Bé Bún, xộc thẳng sang cả bên kia cầu. Nói là làm, Đại Cathay đã xỉ cho Bé Bún mấy nhát sau đó phải nằm viện thật, không dám bén mảng sang giành mối ở khu Da Heo nữa. Sau trận hỗn chiến, Tám Lâu đâm ớn "tài ba" của Đại Cathay. Một mặt, Tám Lâu tuyên bố trong khu Da Heo, Đại Cathay có toàn quyền xử sự, mặt khác y lại lo ngay ngáy bị Đại Cathay lấy làm đối thủ. Biết ý, Đại tuyên bố không giành đất, khu Da Heo vẫn của Tám Lâu. Phần Đại, gã chỉ thu thuế các sòng bài, ổ đề, tiệm hút trong khu vực. Tiếp đó, Đại vươn tay bảo kê tất cả các ngành nghề kinh doanh lậu bao gồm xưởng nấu xà phòng, lò mổ heo, lò rượu...trong khu. Có tiền có quyền, Đại dần dần đã khiến các tay anh chị khác phải dạt ra. Đại Cathay tha hồ ăn chơi và làm mưa làm gió. Đầu những năm 1960, thuyết hiện sinh và phong trào hippie bắt đầu thâm nhập vào miền Nam. Các cậu ấm cô chiêu con nhà giàu tuy được ăn học đàng hoàng nhưng cũng học đòi nhau, thường xuyên có mặt ở các nhà hàng, vũ trường, tiệm hút với đủ kiểu quần áo tóc tai dị hợm. Đại Cathay tuy ít học nhưng cũng không hề kém cạnh các bậc trí... giả trong khoản ăn chơi. Nhẵn mặt ở các nơi đốt tiền nổi tiếng của quận 1, quận 3, Đại Cathay và đám đàn em bắt đầu quen biết với một đám sinh viên, kỹ sư, bác sĩ con nhà gia thế, trong đó có anh em Dzách Bửu, Dzí Bửu, Hùng Đầu bò, Hoàng Sayonara (tay này móc classic bản Sayonara rất "não nùng")... và nhiều văn sĩ nghệ sĩ khác. Đám nghệ sĩ trí thức cũng nể Đại Cathay chịu chơi và khoái vẻ ngang tàng, bụi bặm của gã- trông bụi đời, hippi hơn cả. Chính Hoàng Sayonara sau đó đã trở thành quân sư hoạch định chiến lược làm ăn và chinh phạt cho Đại. Nghe lời các quân sư, Đại Cathay đứng ra cùng với Bảy Si, bà Bảy Trà đá mở sòng bài lấy xâu ở khu vực Cầu Muối. Ban Đầu Đại Cathay không thích mở sòng bài vì dân giàu có đã có các sòng Đại Thế Giới, Kim Chung... Mở nữa e không cạnh tranh nổi, Hoàng Sayonara vẽ: - Không chỉ giàu mới máu me đen đỏ. Các sòng lớn như Kim Chung, Đại Thế Giới toàn dân quí tộc, chức sắc, dân giang hồ, người buôn bán ngại vô. Ta mở sòng vừa vừa kéo khách từ đám này. Đại Cathay đồng ý. Ở chợ Cầu Muối trước đó Bảy Si (anh vợ Năm Cam – ông trùm sòng bạc sau này) đã có sòng bài sẵn, nhưng khi nghe Đại Cathay đề nghị hùn hạp, Bảy Si cũng không thể chối từ. Thừa thắng, Đại mở rộng ra cả lĩnh vực làm huyện đề 40 con chung với Hỏi, trùm, khu Cây Da Xà. Hắn mua của Hùng đầu bò một chiếc Traction - 15, chiều chiều cho đàn em lái đi khắp các ngả đường vứt lên từng xấp "phơi" đề cùng với hàng cọc tiền chở về. Quyền lực được tiền bạc hậu thuẫn khiến Đại Cathay càng thêm uy thế. Đến năm 1962, 1963, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm khét tiếng. Gần như hầu hết nhà hàng khách sạn, động mại dâm, tiệm hút chích, sàn nhảy ở khu vực quận 1, quận 2 đều chịu sự bảo kê của Đại. Các vũ trường nổi tiếng như Olympic, Queen Bee, Barcara, Paramouth đều coi hắn như ông chủ đích thực, Đại Cathay và đàn em tha hồ ăn chơi nhảy múa mà không một nơi nào dám viết hóa đơn, thậm chí còn lấy làm vinh hạnh vì được đàn anh chiếu cố. Nhưng nguồn lợi lớn hơn cả mà Đại Cathay thu được lại không phải từ tiền thuế bảo kê. Chính giới doanh nghiệp làm ăn lớn là kẻ tình nguyện đóng góp đều đặn để Đại nuôi quân, đồng thời để nhờ vả Đại làm hậu thuẫn khi cần gây sức ép hay giành giật trên thương trường với kẻ khác. Cả anh em tỉ phú Hoàng Kim Qui (Vua kẽm gai), Xí Ngàn mặt rỗ (vua thuốc Bắc), La Thành Nghệ (vua thuốc đỏ) và hơn chục ông vua các ngành nghề khác của người Hoa là những người đều đặn chu cấp cho Đại. Cũng nhờ uy thế của các "vu", Đại Cathay cũng làm quen, "chơi chịu" được với khá đông nhân vật quyền thế và tên tuổi khác. Chỉ năm năm sau ngày khởi sự ở khu Da Heo, Đại Cathay đã trở thành một ông trùm không đối thủ, được toàn giới giang hồ kiêng dè, sợ hãi. Nhưng vẫn còn ba ông trùm "lừng lẫy" khác không ưa gì Đại Cathay, đó là Huỳnh Tỳ, ông trùm Lê Lại, Ngô Văn Cái và Ba Thế. Cho rằng Đại "chơi kèo trên", giành mối, giành đất, Huỳnh Tỳ và Ngô Văn Cái quyết định "hội đồng" diệt Đại. Hai tên giang hồ họp nhau tại vũ trường Aristo (sau này là khách sạn Lê Lai, cạnh khách sạn New World) cùng một giang hồ gộc là Thế Aristo - chủ vũ trường - có thêm Hùng phốc và Luân - 2 giang hồ cộm cán khác cùng hỗ trợ, mời Đại đến "bàn công việc". Không chút nghi ngờ, Đại Cathay đã bất ngờ bị Thế Aristo đá lộn cổ trở xuống. Bốn kẻ phục kích cũng nhất tề rút dao xông vào chém. Đại Cathay vừa đỡ đòn vừa tìm đường thoát thân, chạy được ra ngoài, mình mẩy đầy thương tích nhưng may không chết. Những vết thương chưa kịp kéo da non, Đại đã đơn thương độc mã giắt dao đi tìm từng tên một trị tội. Cả năm tên đều lần lượt bị Đại Cathay chém trọng thương. Cuối cùng Tám Lâu phải nhờ Cảnh Tượng, Ba Hội và một số tay đàn anh khác xin lỗi giúp cho năm tên, Đại Cathay mới nguôi giận, đồng ý "hòa giải". Danh xưng "Tứ Đại giang hồ" ĐẠI - TỲ - CÁI - THẾ bắt nguồn từ đó. Lẽ ra, với những thành tích bất hảo chồng chất lên nhau, Đại Cathay đã ngồi tù mọt gông từ những năm trước đó. Nhưng xã hội miền Nam đầy nhiễu nhương với bộ máy quan chức được mua bán bằng tiền đã tỏ ra bất lực không trị nổi Đại Cathay và đám du đãng, để mặc kệ cho chúng làm mưa làm gió. Vào thời đó, chức quận trưởng quận 1 trị giá 30 triệu đồng, trong khi lương lính chỉ hơn 300 đồng cho nên những kẻ đương chức chỉ tìm cách vơ vét, làm giàu để bù lại số tiền đã bỏ ra mua lon tước. Cò Ly, quận trưởng quận 1 còn cố tình dung túng cho Đại Cathay mở sòng bài, hoạt động bảo kê thu thuế. Bù lại, hằng tháng, Đại đều có những khoản riêng béo bở tuồn vào cửa sau cho vợ ông Cò. Mỗi chiều thứ bảy, cò Ly và Đại Cathay lại sánh vai nhau bước vào các vũ trường nhà hang sang trọng ăn chơi, đập phá thâu đêm. Đương nhiên, lương quận trượng một năm cũng không đủ chi cho một lần nhất dạ đế vương nên ông cò chẳng bao giờ phải nghĩ đến chuyện móc hầu bao. Có tiền, có quyền, có thế, Đại Cathay quyết định bành trướng xuống Chợ Lớn, lãnh địa của Tín Mã Nàm, ông trùm giới Hắc Đạo người Hoa, xưa nay vẫn được coi là bất khả xâm phạm. So với băng du đãng của Đại Cathay, giới Hắc Đạo của Tín Mã Nàm có tổ chức chặt chẽ và hùng hậu hơn nhiều. Dưới thời Diệm - Nhu, toàn bộ hoạt động kinh tài của các bang hội Hoa Kiều Chợ Lớn đều có cổ phần của giới Hắc Đạo. Toàn bộ nhà hàng, sòng bạc, tiệm hút... đều do giới này quản lý hoặc hùn hạp. Tuy nhiên, sau đảo chính tháng 11/1963, do tham lam, chính Tín Mã Nàm đã khiến giới Hắc Đạo suy yếu. Bắt tay với khá nhiều tướng lĩnh, chính khách thuộc phe đảo chính, "Con ngựa điên" đã bán đứng một số cơ sở kinh tài của các bang hội cho chính quyền mới, tố họ là "cơ sở kinh tài của Diệm - Nhu". Mặt khác, Tín Mã Nàm cũng tố cáo và giao nộp cho cảnh sát một loạt tay giang hồ Hoa kiều không ăn cánh với y như Hỏi Phòong Kin, Sú Hồng, Cọp Chảy, Quầy Thầu Hao, Hắc Quẩy Chảy... nhằm củng cố địa vị "Vua Hắc Đạo" của mình. Vì vậy, Tín Mã Nàm được trung tá Lê Ngọc Trụ - Trưởng ty cảnh sát quận 5 trọng dụng và ưu đãi, trong khi bị nhiều đàn em oán giận và tìm cách trả đũa. Trong những kẻ oán Tín Mã Nàm có tay tài pán tên Chó, người giúp việc cho Tín Mã Nàm quản lý ngành kinh doanh cờ bạc. Biết được sự chia rẽ đó, Đại Cathay đã sai đàn em dụ hàng tên này. Chó đã bán đứng Tín Mã Nàm, kéo một lượng lớn các con bạc nặng ký từ các sòng Đại Thế Giới, Hào Huê về Cầu Muối cho sòng của Đực Bà Tiều và Bảy Si thuộc quyền Đại Cathay, đồng thời bỏ luôn khu Chợ Lớn về theo Đại Cathay mở mang sòng bạc ở khu Sài Gòn. Biết chuyện, Tín Mã Nàm hạ lệnh cho giới Hắc Đạo: - Chém bất cứ tên đàn em nào của Đại Cathay bén mảng xuống Chợ Lớn. Chỉ chờ có thế, suốt 12 tháng trời, Đại Cathay đã liên tục đổ quân tập kích xuống các điểm làm ăn của Tín Mã Nàm ở vùng Chợ Lớn, chém phứa vào bất cứ ai rồi tức tốc bỏ chạy. Người bị chém thường là dân lành, khách chơi, chính vì vậy họ đâm sợ các điểm ăn chơi giải trí của Hắc Đạo, không dám lui tới nữa. Vắng khách, thu nhập thấp, đám cô hồn bảo kê của Tín Mã Nàm đành túa ra làm ăn lẻ để gỡ gạc, bất chấp kỷ luật của ông trùm. Nhưng cứ tên Hắc Đạo nào lọt xuống khu Sài Gòn là tên đó bị đàn em của Đại Cathay chặn đánh. Đầu năm 1964, biết phe Hắc Đạo đã hết phong độ, Đại Cathay quyết định đánh trận cuối, Đại dẫn theo 9 tên đàn em "chiến đấu" nhất, trong đó có Ba Thế và Lâm chín ngón đi trên 5 xe Goebel bất thình lình tấn công vào quán cà phê ngay trước rạp Hào Huê, đối diện với Đại Thế Giới. Đây là điểm tụ tập của các tay đàn em Tín Mã Nàm vào 2 buổi sáng chiều. Cuộc tập kích thất bại, hai bên đều thiệt hại nặng nề. Nhưng máu liều của Đại Cathay càng được giới giang hồ truyền tụng và vị nể. Tín Mã Nàm cũng lo lắng: nếu cứ để cho Đại Cathay tập kích mãi như vậy, giới Hắc Đạo chỉ còn nước dẹp hết sòng bài, tiệm hút vì không còn ai dám bén mảng. "Con ngựa điên" phải kìm cơn điên, cử người đến mời Đại Cathay lên nhà hàng Đồng Khánh điều đình. Đàn em cố khuyên Đại đừng vào hang cọp, e bị "trải điệm" nhưng Đại Cathay nổi máu yêng hùng, vẫn quyết định nhận lời. Để tài xế ngoài cửa, Đại một mình tay không lên nhà hàng hội kiến với Tín Mã Nàm. Cử chỉ ngang tàng này khiến Tín Mã Nàm thầm phục. Hắn nhượng bộ, đồng ý giao toàn bộ khu vực từ chợ Nancy về Sài Gòn cho Đại Cathay toàn quyền . Phần quận 5, Chợ Lớn, đàn em của Đại được phép hoạt động với điều kiện không lấn vào những khu vực đã có sẵn người của Hắc Đạo. Riêng các khu vực chợ Sắt, chợ Tân Thành, hẻm "dzách bạc hồ hãn" (hẻm 100), Đại Cathay và đàn em tuyệt đối không được xâm phạm, vì đó là giang sơn riêng của Tín Mã Nàm, nơi vợ bé của y sinh sống. Mỗi lần ra đường, Đại Cathay và băng du đãng lại một phen khiến người đi đường khiếp vía. Như một gã con trời thứ thiệt, Đại Cathay chễm chệ trên băng trước chiếc Mustang mui trần do Năm Công lái, có cả chục tên đàn em phóng xe máy theo sau hộ tống. Xe chạy xả ga, hú còi vô tội vạ khiến mọi người hốt hoảng chạy giạt sang hai bên đường, trong khi đám lưu manh tha hồ vỗ tay cười hô hố. Có lúc cao hứng, Đại Cathay còn thượng cả hai chân ra trước kính xe hoặc thò ra bên cửa hông gỏ thùng xe loạn xạ… Sự ngang ngược coi thường luật pháp của Đại Cathay khiến những kẻ tai to mặt lớn và cảnh sát hết sức tức tối, nhiều lần tống cổ Đại vào khám. Nhưng bắt cóc bỏ đĩa, chẳng lần nào cảnh sát đủ bằng chứng để giam giữ hắn lâu, đành phải thả. Dùng luật không xong nhiều quan chức chính phủ VNCH tìm cách mua chuộc hắn. Biết Đại Cathay đang tuổi quân dịch, viên tướng cao bồi Nguyễn Cao Kỳ - có lẽ do muốn chơi trội – bèn cho gọi tên du đãng đến. Kỳ phủ dụ: - Tôi biết anh là người có chí, nhưng luật là luật, anh không thể trốn mãi được đâu. Về làm vệ sĩ cho tôi, anh vừa khỏi đăng lính, lại vẫn có quyền hành, muốn đi đâu làm gì mặc sức mà khỏi bị ai thù oán. Anh cứ suy nghĩ cho kỹ, ba ngày nữa trả lời tôi cũng được. Tên du đãng ít học đời nào chịu suy nghĩ những ba ngày. Kỳ chưa dứt Đại Cathay đã trả lời luôn: - Dạ, cảm ơn thiếu tướng đã có thịnh tình chiếu cố. Phiền nỗi tôi đi đâu cũng có cả chục gạc-đờ-co hộ tống, giờ tôi lại làm gạc-đờ-co cho người khác, không lẽ để cho tụi nó thất nghiệp? Tướng râu kẽm bầm mặt nhưng vẫn ngọt nhạt: - Làm vệ sĩ của tôi, anh là nhân viên công lực của quốc gia, danh giá đâu kém cạnh gì ai? Là quí anh tôi mới bảo thế, chứ nếu cần vệ sĩ tôi đâu thiếu người giỏi. Đại Cathay vẫn ngổ ngáo: - Dạ, xin lỗi, tôi không hầu thiếu tướng được… Sau Nguyễn Cao Kỳ đến lượt tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan, giám đốc Nha cảnh sát Đô Thành. Tuyên bố “Đặt giang hồ ra ngoài vòng pháp luật”, tướng Sáu Lèo cho mở “Trung tâm bài trừ du đãng” đặt ở bên kia cầu Bình Triệu (quận 9) và lập “Biệt đội hình cảnh” nhằm tiêu diệt giang hồ do đại úy Trần Kim Chi làm đội trưởng. Theo lệnh Sáu Lèo, “Biệt đội hình cảnh” được bắn bỏ bất cứ tên giang hồ nào trên đường phố nếu chúng gây án và chống lại cảnh sát. Sau một thời gian hoạt động, “Biệt đội hình cảnh” vẫn chỉ tóm được một số tên du đãng “tép riu”, tướng Sáu Lèo bèn quay sang tìm cách mua chuộc Đại Cathay hòng “dĩ độc trị độc”. Đính thân Mã Sâm Nhơn, phụ tá của tướng Sáu Lèo đến gặp, đưa giấy mời của ngài chuẩn tướng Nguyễn Ngọc Loan cho Đại Cathay. Cùng một đàn em, Đại Cathay có mặt y hẹn. Nguyễn Ngọc Loan ra giá: - Tôi sẽ nhận anh vào chức vụ đại úy Phó ty cảnh sát quận 7. Anh được toàn quyền hành động, nhưng phải giúp tôi tiêu diệt hết đám lưu manh du đãng. Đại Cathay từ chối: - Tôi xuất thân du đãng, làm sao có thể quay lưng diệt du đãng được? Nếu tôi nhận lời, du đãng không chém, tôi cũng chết vì thân bại danh liệt. Nguyễn Ngọc Loan hạ giá: - Anh không muốn nhận, tôi không ép, nhưng anh phải giải tán băng nhóm, không được lộng hành. Đại Cathay đồng ý với điều kiện để cho y và đàn em toàn quyền làm ăn và cai quản khu cảng Sài Gòn, Khánh Hội, khu vực chợ vựa Cầu Muối, và hai bên bờ Kinh Tẻ. Thấy tên giang hồ cứng đầu, Nguyễn Ngọc Loan nổi đóa: - Tôi lệnh cho anh giải tán hết, nếu không giang hồ, du đãng sẽ không còn đất sống! Đại Cathay trả lời: - Giang hồ không có vua, tôi đâu có ra lệnh cho các băng khác được. Cuộc mặc cả kết thúc. Tiếng tăm Đại Cathay nổi như cồn trong giới giang hồ vì “dám vuốt râu kẽm” tướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối chức tước của Nguyễn Ngọc Loan ban cho. Đại Cathay càng vênh váo hơn. Nhưng chính bằng sự nổi tiếng ấy, Đại Cathay đã tự ký cho mình bản án tử hình. Quá ngạo mạn, đang đang là giai đoạn cực thịnh của băng Cathay, Đại vẫn tiếp tục lộng hành. Không chi ngổ ngáo với tướng Sáu Lèo trong công việc, Đại Cathay còn công khai qua mặt và thách thức viên tướng này trong cả khoản ăn chơi, chẳng thèm lưu tâm gì đến sức nặng của cái lon chuẩn tướng và trọng trách “Chief” ngành cảnh sát mà Nguyễn Ngọc Loan đang nắm giữ. Vào thời điểm đó, Sài Gòn ngập tràn trong không khí sống gấp và hưởng thụ, không cần biết đến tương lai. Một trong những mốt thời thường của các nhà buôn giàu có, các sĩ quan cộng hoà hào hoa, các công tử con nhà gia thế là công khai có nhân tình nhân ngãi hoặc cặp bồ với cave, nghệ sĩ trẻ đẹp. Đường đường là một vị tướng, Nguyễn Ngọc Loan đâu thèm để mắt tới các cô cave, ca sĩ phòng trà bình thường. Người ta thường thấy “ông tướng độc nhỡn” thường xuyên có mặt tại vũ trường Olympic trên đường Lê Lợi vào mỗi tối thứ 7. Tại đó, Nguyễn Ngọc Loan là chủ nhân của một vưu vật: ca sĩ Phương Dung nổi tiếng xinh đẹp và quý phái, người được mệnh danh là “con nhạn trắng Gò Công”, lấy vũ trường này làm đất biểu diễn. Mỗi lần đến thăm tình nhân, viên tướng xách theo cả chục tên vệ sĩ thuộc hàng thiện xạ, cũng nổi tiếng ngổ ngáo và chịu chơi, phóng xe Jeep bạt mạng với những đường cua cong lề bạt phố, đạp phanh cháy cả mặt đường. Olympic cũng là chốn mà băng Đại Cathay thường xuyên lui tới. Hơn thế nữa, Thủy Tàu – tài pán vũ trường Olympic còn là một “mối” rất khoái Đại Cathay. Khác với viên tướng và đám lâu la bụi bặm, Đại Cathay thường lướt trên một chiếc Chevrolet có gắn điều hoà không khí, choáng lộn và êm ru nhẹ nhàng bơi đến cửa vũ trường. Loại xe đó, cả Sài Gòn chỉ có dăm ba chiếc. So với đám vệ sĩ với lương lính còm cõi, Đại và băng Cathay luôn sẵn sàng “xài lớn”, rút tiền chẳng bao giờ đếm, người ngợm củng “kẻng” hơn, dĩ nhiên là được các em cave ở đây săn đón nồng nhiệt hơn nhiều. Bị “gác kèo”, đám vệ sĩ tức lắm, nhiều lần hậm hực, nhưng Đại Cathay và đám đàn em vẵn phớt ănglê, coi như “chuyện tép”. Một tối, Đại và khoảng chục đàn em, trong đó có Lâm Chín ngón và Lành Cầu Muối – một tay cảnh sát ăn “rơ” với giang hồ kéo đến Olympic từ khá sớm. Thấy các đàn anh, đám cave ríu rít túa ra vây lấy bá cổ níu tay, chí choé cả gian bar trên lầu 2. Cả đám “vui vẻ” mới chừng nửa tiếng, cánh cửa lại xịch mở. Đám vệ sĩ của Sáu Lèo – không có chủ tướng đi cùng – xộc vào, cũng cỡ chục tên. Ngồi chờ cả 15 phút, đám vệ sĩ vẫn không thấy cô cave nào đến săn sóc. Trong khi đó, ở mấy bàn bên vẵn liên tục vọng sang tiếng cấu véo giỡn hớt rúc rich của băng Cathay với đám cave như thể trêu ngươi. Nổi cáu, cả đám vệ sĩ đưa mắt nhìn nhau và đứng bật dậy. Thiếu úy Hải, một tay nổi tiếng thiện xạ tiến sang, đứng đối diện với Hải Súng của băng Cathay, hất hàm: - Vui vẻ quá hả? Sang bớt mấy em chứ, để bên này ngồi không, coi sao đặng?” Vẫn không buông vai cô “đào nhí”, Hải Súng hất mặt: - Đâu có được, đến trước có phần trước, trâu chậm phải uống nước đục, trách gì? Viên thiếu úy gườm gườm, đưa tay vào bụng đặt lên báng súng: - Đừng chơi quê tụi này chớ! - Thì đã sao? – Hải Súng hếch mặt lên. Lúc này băng Cathay và đám cave cũng đã ngưng đùa giỡn, ngẩng lên thủ thế. Được khích lệ, Hải Súng tiếp: - Thịt người tanh không ăn được, đừng doạ nhau, tụi này không thích! Bị khiêu khích, mắt thiếu úy Hải vằn lên. Hắn xấn xổ chụp lấy tay cô đào nhí kéo về phía mình, tuyên bố: - Không thích cũng bắt! Sợ hãi, cô cave thét lên. Không nói không rằng, Hải Súng vớ ngay chai Black and White trên bàn giáng thẳng xuống đầu đối thủ. Phản xạ nhanh, thiếu úy Hải vội buông cô cave nhảy vọt sang một bên và móc súng. Hai băng xông vào nhau. Bàn ghế ly tách bay tứ tán. Đột nhiên, Đại Cathay hét lên: - Tụi nó chơi súng, rút, tụi bây. Pằng! Pằng! Pằng! Ầm Đại chưa dứt câu, dàn đèn phe lê đã rơi ụp xuống sàn, vỡ tung toé, đồng thời một viên đạn cũng nhằm đầu gối Đại găm tới, xô y gục xuống. Hải Súng vội xô tới xốc Đại lên bỏ chạy. Trong băng chỉ có Hải và Lâm Chín ngón giắt súng theo. Cả hai cũng vội móc ra bắn loạn xạ. Lâm Chín ngón gào lên: - Anh em rút đi, để tôi lo! Lúc này, đám cave, bồi bàn đã hoảng hồn bỏ chạy hết. Thủy Tàu khá nhanh trí, vội chạy bổ vào trong sập cầu dao điện. Bóng tối chụp lấy vũ trường đã hỗ trợ cho băng Cathay bỏ chạy. Bị thương, Đại Cathay khó khăn lắm mới được Hải Súng và Ngân Pôcon dịu được xuống lầu và kéo thẳng ra đường. Lúc này, Lành Cầu Muối cũng vừa vặn trờ chiếc Mustang tới, hốt cả bọn lên xe chạy thẳng. Lâm Chín ngón chạy sau cùng. Sau khi nhả hết đạn, y cũng vội đu cửa số phóng xuống được Tạ Thu Thâu cắm đầu chạy luôn một mạch. Sau lưng, đám vệ sĩ Sáu Lèo vẫn nã đạn theo chíu chíu. Không thu phục được Đại Cathay, tướng Sáu Lèo đã ra lệnh cho “Biệt đội hình cảnh” bắt bỏ tù hàng loạt đàn em nhằm cô lập hắn. Núng thế, Đại Cathay đành tìm cách hoãn binh. Một buổi tối, hắn mua nguyên nhà hàng Paramouth mời đại úy Trần Kim Chi đến dự tiệc. Khi rượu đã chếnh choáng, Đại Cathay mới ngỏ ý: - Nếu đại úy chịu tha một số anh em của tôi vừa bị bắt, chúng tôi sẽ không quên ơn anh… Viên đội trưởng “Biệt đội hình cảnh” cũng thuộc loại ngang tàng không kém gì Đại Cathay, từ chối thẳng thừng: - Ăn nhậu là ăn nhậu, bắt là bắt. Nếu anh mời tôi đến đây là để mặc cả thì coi như tàn tiệc, tôi xin kiếu. Nếu là trước đó mười hôm, máu côn đồ của Đại Cathay sẽ nổi lên ngay. Nhưng đang yếu thế nên Đại vẫn nhũn nhặn: - Ồ không không. Nếu đại úy không ưng thuận thì thôi. Còn hôm nay mời đại úy đến là để anh em vui vẻ. Mời đại úy cứ tự nhiên, đêm nay toàn bộ nhà hàng này là chỉ để phục vụ chúng ta, đại úy đừng bận tâm làm gì. Viên đại úy không vui vẻ được lâu, cũng chẳng còn thời gian để bận tâm lâu hơn nơi cõi thế. Sau buổi tiệc chỉ nửa tháng, một chiếc xe “be” chở gỗ không rõ xuất xứ đã “bò” ngang qua chiếc xe hơi CV2 của Trần Kim Chi khi viên đại úy này đang đi công vụ trên xa lộ. Đại úy Chi và viên lái xe chết tại chỗ, chiếc xe gây tai nạn bỏ chạy mất tăm, “không nhận dạng được biển số”. Giới giang hồ đều cho rằng chính Đại Cathay đã sát hại Trần Kim Chi. Cái chết của Trần Kim Chi đã đánh dấu chấm than cuối cùng cho cuộc đời du đãng của Đại Cathay. Tháng 8/1966, với tội danh “Du đãng đặc biệt”, Đại Cathay lại bị tóm cổ. Cùng với một loạt du đãng khác, ngày 28/11/1966, Đại Cathay bị tống lên máy bay vận tải C47 đưa ra giam giữ tại đảo Phú Quốc. Gọi là “Trung tâm hướng nghiệp” nhưng chính xác, đây là nơi lưu đày những tên lưu manh ngoại hạng dày thành tích bất hảo nhưng không có chứng cớ để bắt quả tang, do chính Nguyễn Ngọc Loan đề nghị thành lập nhằm “bài trừ du đãng, chấn hưng đạo đức, thượng tôn luật pháp”. Trại là những dãy nhà dã chiến thấp lè tè nằm trong rào kẽm gai bịt bùng đặt cạnh sân bay Phú Quốc ngay tại thị trấn Dương Đông. Gọi là “hướng nghiệp” cho oai, kỳ thực đám tù suốt ngày chỉ ngồi ngáp vặt, đánh mạt chược mà không hẹn ngày về chứ chẳng có việc gì để làm. Một hôm, đang đánh mạt chược, Đại Cathay bảo: - Gọi “hướng nghiệp” nghe chán thấy mẹ, tụi mình đặt lại tên cho nó đi. Cả bọn đồng ý. Bác sĩ Nghiệp, một tên du đãng có học đề xuất: - Bốc đại một con mạt chược, trúng con gì, đặt tên đó. Đại Cathay quơ được con Cửu Sừng, vậy là “Trung tâm hướng nghiệp Phú Quốc” nghiễm nhiên trở thành “Trại Cửu Sừng”. Không giống như dự định của tướng Sáu Lèo, Trại “Cửu Sừng" chẳng những không “hướng” được chút “nghiệp” nào cho đám đầu trâu mặt ngựa mà ngược lại hoàn toàn. Toàn bộ đám du đãng bị bắt vào đây như Đại Cathay, Hải Súng, Hoà áo thun, Lâm Chín ngón, Bảy Si, Hỏi Phoòng Kin, Thanh tưa, Quẩy Thầu Hao... sau này đều là những tên giang hồ cộm cán nhất của Sài Gòn – Chợ Lớn, càng ngày càng hung hãn hơn. “Trại Cửu Sừng” như một con dấu chất lượng để đánh giá giang hồ. Tên nào từng ngồi ở “Trại Cửu Sừng” sau này đểu trở thành đàn anh, được quyền ăn trên ngồi trốc trên chốn giang hồ. Người vợ cuối cùng, cũng là cuộc tình sâu nặng nhất của Đại Cathay là cô Nhân, con gái chủ tiệm đồ gỗ Đồng Nhân nổi tiếng nằm trên đường Hồng Thập Tự (nay là Nguyễn Thị Minh Khai) đối diện với vũ trường Olympic. Khi Đại và cả đám đàn em bị tống ra đảo Phú Quốc, Nhân ở lại Sài Gòn, biết chắc rằng loại tù không án như chồng mình e khó có ngày về. Cô cùng anh trai vung tiền ra tìm cách cứu Đại Cathay.
|
|
|
Post by Can Tho on Nov 2, 2012 17:16:16 GMT 9
Đầu tháng 1/1967, Nhân có mặt trong đoàn thân nhân ra thăm nuôi đám du đãng bị nhốt ở Trại Cửu Sừng. Gặp Đại Cathay cô báo cho chồng biết đã lo xong việc tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục. Đám lính gác sẽ làm ngơ cho Đại Cathay và một số đàn em trốn ra khỏi trại. Một xuồng máy chờ sẵn sẽ đưa đám tù ra khơi, có tàu hải quân do Nhân bố trí sẵn rước về đất liền. Để mua chuộc đám lính gác, Nhân đưa cho Đại một chiếc áo bluson và dặn dò kỹ lưỡng. Nhìn bề ngoài, nó chỉ là một chiếc áo lạnh rẻ tiền, sau lưng có một con rồng ấp quanh bản đồ Việt Nam thêu hai màu, nửa miền Bắc màu đỏ, nửa miền Nam màu vàng. Loại áo này bán nhan nhản dọc các tiệm đường Lê Thánh Tông, trong chợ Dân Sinh… chủ yếu để đám lính Mỹ sắp hồi hương mua về làm kỉ niệm. Khi chuyển áo cho Đại Cathay, tên lính canh của trại hướng nghiệp Phú Quốc thấy nó nặng hàng ký nên đâm nghi ngờ. Lần theo lưng áo hắn sờ thấy giữa hai lần vải có hàng chục miếng kim loại mỏng được khâu đầy trong đó. Đoán là vàng, tên lính canh định lôi ra khám xét. Lập tức cái liếc xéo mắt của tên sĩ quan đứng cạnh đã ngăn hắn lại. Tên lính đành trả lại áo cho Đại Cathay mang về phòng. Theo lời đồn đại của giới giang hồ thì khi về phòng, Đại Cathay đã xé chiếc áo lấy ra đúng 62 lá vàng loại 1 lượng khâu trong đó. Với số vàng này, Đại đã mua chuộc đám cai ngục để chúng bố trí cho lính gác làm ngơ khi Đại bỏ trốn. Đi theo Đại Cathay có khoảng một chục đàn em trong đó có Xì kíp, Lắm Mổ bụng, Hùng Mỏ chuột, Hải Súng và Lâm Chín ngón… Đến phút cuối, Đại Cathay theo lời Hải Súng tham mưu, quyết định để Lâm Chín ngón – gã đệ tử thân nhất - ở lại. Đại nói với cả đám: - Thằng Lâm lóc choc, dễ làm bể chuyện lắm. Vả lại, chuyến đi này lành ít dữ nhiều, nó còn trẻ, tội lắm. Chi bằng để nó lại, mình thoát rồi lo cho nó về sau an toàn hơn. Trước giờ khới sự, Đại Cathay gọi Lâm Chín ngón đến và bảo: - Mày phải bỏ xì ke đi, hại lắm. Tao chích cho mày một lần cuối cùng, sau đó là phải chừa hẳn, nếu không đừng trách. Đại đã tự tay chích cho Lâm một mũi gấp đôi đô bình thường do chính tay Hải Súng pha chế, có độn thêm một ít tân dược để tăng nồng độ. Phê thuốc, Lâm Chín ngón quay ra ngủ say như chết. 12 giờ đêm ngày 7/1/1967, Đại Cathay dẫn đàn em đào thoát ra ngoài. Theo sự phân công của Đại Cathay, đám tù trốn trại chia làm hai tốp. Tốp thứ nhất gồm năm tên đi trước để nghi binh. Tốp thứ hai, có Đại Cathay và Hải Súng chạy theo hướng bờ biển. Bất ngờ, khi cả hai tốp vừa vọt ra khỏi vòng rào thì phía trại báo động inh ỏi. Tốp thứ nhất, gồm Xì kíp, Hùng Mỏ chuột,.. bị tóm cổ lại ngay. Đại Cathay và Hải Súng vội đổi kế hoạch, chạy lên phía Bắc đảo, lần vào khu núi tượng, nơi có Quân giải phóng hoạt động. Đến đây, không ai còn tận mắt gặp lại Đại Cathay và Hải Súng. Và hàng loạt giai thoại giải thích sự mất tích của hai tên du đãng đầu sỏ bắt đầu xuất hiện. Theo hồ sơ về cái chết của hai tên du đãng mà chúng tôi có được: Biết không trị nổi Đại Cathay, lại nhiều lần bị tên đãng làm bẽ mặt, chuẩn tướng Sáu Lèo Nguyễn Ngọc Loan rất hận, tìm cách loại trừ vĩnh viễn Đại Cathay. Khi biết cô Nhân – vợ Đại – đang tìm cách lo lót tổ chức cho Đại Cathay vượt ngục… Nguyễn Ngọc Loan đã chỉ đạo cứ để cho Đại Cathay thực hiện kế hoạch. Đến giờ chót, theo lệnh Loan, toàn bộ toán lính gác của trại hướng nghiệp bất ngờ bị đổi. Toán lính gác mới ráo riết truy kích đám tép riu, còn Đại và Hải, chúng cố ý để cho đào thoát vào núi Tượng. Sau đó, Loan cho một tiểu đội biệt kích do thiếu úy Trần Tử Thanh chỉ huy, được trực thăng chở từ Sài Gòn ra truy kích Đại và Hải, bắn hạ chúng. Khi đi, toán biệt kích dù phải thay quần áo bà ba, đội mũ tai bèo, mang dép râu và sử dụng súng AK47, giả trang làm Việt Cộng để đổ vấy cho việc giết Đại Cathay và Hải Súng cho Việt Cộng. Diệt xong, toán biệt kích dù phải đắp mộ, đề bia tử tế để dễ bề nhận diện và gây dư luận. Chính thiếu úy Trần Tử Thanh sau này đã từng huênh hoang khoe với nhiều phóng viên của một số tờ báo ở Sài Gòn trước 1975 rằng chính tay y đã nổ súng hạ gục Đại Cathay. Khá nhiều người cũng biết rõ ngọn nguồn sự việc, song trước khi chính quyền Sài Gòn sụp đổ, không một tờ báo nào dám viết về âm mưu hại địch thủ của tướng Nguyễn Ngọc Loan. Vì vậy, lời đồn đại, đoán non đoán già vẫn cứ loang ra mãi, đắp thêm chất huyền thoại vào cuộc đời và cái chết của Đại Cathay – tên du đãng ngoại hạng. Huyền thọai về Đại Ca Thay đã đuợc thể hiện thành bài hát và phim "Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang ".Tôi chỉ biết nó được lấy ý tưởng từ 1 truyện của Duyên Anh (Vũ Mộng Long) do Phạm Duy viết lời, còn Ngọc Chánh phổ nhạc). Điệu ru nước mắt (Loan mắt nhung) Loan mắt nhung là một thanh niên lương thiện bị hoàn cảnh xã hội đưa đẩy trở thành du đãng nổi tiếng. Vì cuộc sống khốn khổ, Loan phải đương đầu để sinh tồn rồi trở thành một đàn anh trong giới dao búa. Khi còn lương thiện, Loan đã có mối tình rất đẹp với một cô gái tên Xuân . Vào với giang hồ, Loan gặp Dung. Loan đã thực hiện nhiều phi vụ lớn, ăn cướp, buôn lậu... nhưng anh vẫn mong có một ngày trở về cuộc sống lương thiện. Gặp lại Xuân trong tình cảnh éo le, khi Xuân bị bọn xấu hãm hại và giết chết. Quá đau khổ, Loan nổi loạn giết hết bọn du đãng, giang hồ rồi ra đầu thú chính quyền. Hoàng guitare (tên là Hoàng, đờn guitare rất giỏi nên có biệt danh là Hoàng guitare, Hoàng là một thành viên cộm cán của một băng du đãng thời bấy giờ, sau đó muốn hoàn lương, về mở lớp dạy đàn, nhưng đồng bọn cũ không muốn vậy, vẫn muốn lôi kéo anh vào những phi vụ bất chính. Và để rồi một hôm, đẻ giải quyết một vài khó khăn trong cuộc sống, Hoàng đã nhận lời làm một phi vụ cuối cùng và bị lộ, những phát đạn oan nghiệt cắm sâu vào lưng Hoàng như những vết thù đời không bao giờ xoá được và cũng chấm dứt kiếp ngựa hoang) Ngựa Chứng Trong Sân Trường Nếu ai sống ở Sài Gòn trước năm 75 thì hiểu rõ về những trùm du đảng vang danh một thời. Tuy nhiên đó là những "anh hùng mã thượng", bất mản chế độ Sài Gòn, họ chuyên sống về bảo kê các vũ trường, các em cave , và dưới tay lá các đệ tử trốn linh, đào ngủ, quân phạm,thương phế binh VNCH ...(đa số là lính Dù, TQLC, BĐQ)(Đây là quan điểm của HVP , nếu có sơ sót xin xí xóa) Các bạn nào có ý kiến gì xin góp thêm ) Với nhạc phẩm nổi tiếng một thời Vết thù trên lưng ngựa hoang, hoạt cảnh đưa người xem đến một tình cảnh éo le khác. Một đại ca giang hồ lừng lẫy, trong một lần gặp nạn đã được một người con gái đi bán trái cây dạo cứu giúp (diễn viên nổi tiếng Như Phúc đóng), sau đó hắn đem lòng yêu thương. Từ tiếng gọi của tình yêu chân thật đó, gã giang hồ muốn hoàn lương để quay về cuộc sống thiện. Oan nghiệt thay, là những kẻ từng một thời là đồng bọn của mình vì một lẽ gì đó không cho hắn quay lại cuộc sống lương thiện. Và hắn đã phải ngã gục trước những đòn thù bạo tàn của đồng bọn, để lại một trái tim nhung nhớ không nguôi. Chuyện tình nghe uỷ mị, nhưng đằng sau câu chuyện đó, Michael Hùng đã nhắn gửi một thông điệp hết sức chân thành: Sám hối, hoàn lương là điều tốt. Nhưng tốt hơn là hãy sống lương thiện từ ban đầu. Vì nhiều khi sự sám hối là quá trễ để có thể làm lại cuộc đời. Một triết lý sống hết sức đơn giản, nhưng không phải ai cũng làm được. Vì thế câu chuyện tưởng cũ mà không mòn, sến mà không sáo!  Trần Quang với diễn viên cải lương Thanh Nga trong phim Vết thù trên lưng ngựa hoang, SX 1971, đạo diễn Lê Hoàng Hoa. Giai thoại 1:Trước đây, bài hát Ngựa Hoang (Nhạc sĩ: Phạm Duy - Ngọc Chánh) được lên phim, do tài tử Việt Nam là Trần Quang đóng, em út của Trần Đại do hề râu Thanh Việt đóng vai phụ). Câu chuyện phỏng theo nhân vật Trần Đại - biệt danh là Đại Cathay, trùm du đãng Sài Gòn - có lần đụng độ vói Thiếu tá Long, cảnh sát trưởng Sài Gòn - Gia Định. Sau này bị bắt và đày đi Côn Đảo, rồi mất tích luôn (Muốn biết thêm về Đại Cathay, xin xem tài liệu về Trung Tá Long, đã tự sát trước tượng đài TQLC ngày 30/04/1975). Nhà văn Duyên Anh đã viết thành truyện Loan Mắt Nhung (Điệu ru nước mắt), ca tụng một nhân vật có tính anh hùng bất mãn thời thế... Có lẽ nhiều bạn biết câu chuyện này, tôi xin tóm lược (hiểu mang máng thôi) như sau: - Trần Đại gốc là học sinh con nhà giàu ở Sài Gòn nhưng bất mãn chế độ Sài Gòn (bắt lính) nên anh ta trốn lính, tụ tập đệ tử làm bảo kê các vũ trường ở Sài Gòn (Em út của Trần Đại toàn là lính Dù, TQLC, BĐQ, lính đào ngũ, thương phế binh bất mãn,...). Có rất nhiều bi kịch đồn đại về mối tình của Trần Đại (Đại Cathay) yêu ca sĩ phòng trà. Thiếu tá Long (Cành Sát Truởng) cũng mê cô ca sĩ này cho nên xảy ra thư hùng giữa 2 người. Ai là kẻ thua thì ắt hiểu rồi (Mảnh hổ địch nan quân hồ)... Có thể do câu chuyện trên mới có bài hát Vết thù hằn trên lưng ngựa hoang, và vì bài hát quá hay cho nên đựợc lên phim. Tôi có được xem phim và đọc truyện, thấy có thành viên lấy nick nguahoang và nhắc đến Ngựa Hoang nên gửi lời bài hát này cho các bạn tham khảo. Sẵn đây, xin gửi lại bài hát (Bài này do Elvis Phương ca lần đầu tiên, các ca sĩ về sau không ai hát qua tiếng hát Elvis Phương). Có thể bài hát Ngựa Hoang cũng được viết để đề cập đến tay anh chị trùm du đãng Mã Thầu Dậu ở Chợ Lớn (Vì họ Mã cũng là ngựa mà)? Ngày xưa, có rất nhiều tay anh chị như Dzũng ĐaKao, tướng cướp Bạch Hải Đường,... bắt chước anh hùng Lương Sơn Bạc, ảnh hưởng các tay súng cao bồi Mỹ (Dzango, Ringo), anh hùng cô thân độc mã, hào hoa giang hồ mã thượng... Họ lúc nào cũng ra tay nghĩa hiệp (Nên nhớ là không có trấn lột, cướp giựt, buôn lậu, xì ke - ma tuý, á phiện...), đa số là con nhà giàu, ghét đi lính, sống nhờ tiền bảo kê ở các nhà hàng, sòng bạc (Đại Thế Giới)... Ngày xưa, các phòng trà, hộp đêm, quán Snake Bar, Vũ trường... thường có những tay ma-cô bảo vệ vì sợ lính Dù, TQLC, BDQ... quậy phá. Chắc có lẽ nhiều anh chị em cũng xem qua các tư liệu về miền nam Việt Nam trước năm 75? Thời cuộc nhiễu nhương, loạc lạc, chiến tranh... Có câu RỪNG NàO CỌP NẤY là phát xuất từ thời đại lúc đó. Giai thoại 2: Chuyện kể rằng Bạch Hải Đường một lần đi hút thuốc phiện thì gặp một tay nhà thơ. Thấy tay nhà thơ này có máu nghệ sỹ nên Bạch Hải Đường rủ nằm cùng cho nó đúng bọt và hắn kể về cuộc đời hắn cho nhà thơ nghe. Tay nhà thơ này nghe xong chuyện của hắn nổi hứng làm luôn một bài thơ Ngựa Hoang, Bạch Hải Đường nghe xong thấy hay quá, cảm kích bèn đòi kết nghĩa anh em. Vì bài thơ đó hay và lạ cho nên các nhạc sỹ bèn phổ nhạc cho nó và lấy tên là Ngựa Hoang. Sau này tay nhà thơ còn gọi Bạch Hải Đường là ... (tiếng Pháp), Bạch Hải Đường chả biết nghĩa nó là cái mẹ gì cả nhưng nghĩ chắc là nó ca ngợi mình thôi nên hắn rất tâm đắc về cái từ đó "ba chấm" đó. Sau này có người dịch nghĩa cái từ đó ra là đàn bà (?), thế là Bạch Hải Đường nổi đoá lên cho là tay nhà thơ chơi xỏ mình nên thề túm được sẽ giết. Tay nhà thơ biết chuyện, sợ quá phải trốn lên Đà Lạt. Mãi đến khi nghe nói Bạch Hải Đường bị bắt (Hay sự kiện 30/4? lâu quá rồi nên cũng không nhớ) mới dám quay trở về lại Sài Gòn. HVP sưu tầm
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 6, 2015 12:23:02 GMT 9
Nhà văn Hồ Trường AnAdmin tổng hợp từ RFA (Mặc Lâm, Nov. 16, 2010), Cỏ Thơm và các nguồn khác - Tháng Giêng 2015 Báng Tóm Tắt "khiêm tốn" những "sáng tác của Hồ Trường An khó thể nói là khiêm nhường" -cách nói của Mặc Lâm-RFA Nov. 16, 2010- dưới đây do chính nhà văn gởi cho Thư Viện Phạm Văn Thành:  HỒ TRƯỜNG AN Tên thật Nguyễn Viết Quang. Sinh ngày 11/11/1938 tại Long Đức Đông, tỉnh Vĩnh Long. Tốt nghiệp Khóa 26 (1968) Trường Bộ Binh Sĩ Quan Thủ Đức. Trưởng ban Chiến Tranh Chính Trị tại hai Chi Khu Trị Tâm và Lái Thiêu (tỉnh Bình Dương) từ năm 1969 tới năm 1971. Sau đó tòng sự tại Ban Thông Tin Báo Chí Quân Đoàn III và Quân Khu 3 (tỉnh Biên Hòa) cho tới tháng 4/75. Hiện cư ngụ tại Troyes, Pháp. Trong nước, đã cộng tác với các báo: Bách Khoa, Tin Văn, Tranh Thủ, Tiền Phong, Tiền Tuyến, Tiểu Thuyết Tuần San, Bút Hoa, Minh Tinh... Ra hải ngoại, cộng tác với các báo: Quê Mẹ, Hồn Nước, Đất Mới, Văn, Phương Trời Cao Rộng, Văn Học Nghệ Thuật, Văn Học, Bút Lửa, Lạc Hồng, Viên Giác, Đẹp, Tự Do (Texas), Tự Do (Canada), Chiêu Dương, Xây Dựng, Lửa Việt, Làng Văn, Hợp Lưu, Thế Kỷ 21, Hải Ngoại Nhân Văn, Cỏ Thơm, Người Việt... Trong Ban Biên Tập của Cơ Sở Cỏ Thơm Các bút hiệu khác: Đào Huy Đán, Đinh Xuân Thu, Đông Phương Bảo Ngọc, Hồ Bảo Ngọc, Người Sông Tiền... TÁC PHẨM đã xuất bản CỦA HỒ TRƯỜNG AN Truyện dài: Phấn Bướm (1986), Hợp Lưu (1986), Lớp Sóng Phế Hưng (1988), Lúa Tiêu Ruộng Biền (1989), Ngát Hương Mật Ong (1989), Nửa Chợ Nửa Quê (1989), Còn Tuôn Mạch Đời (1990), Lối Bướm Đường Hương (1991), Tình Trong Nhung Lụa (1991), Ngát Thơm Hoa Bưởi Bông Trà (1992), Tình Đẹp Đất Long Hồ (1993), Trang Trại Thần Tiên (1993), Vùng Thôn Trang Diễm Ảo (1994) Thuở Sen Hồng Phượng Thắm (1995), Chân Trời Mộng Đẹp (1995), Bãi Gió Cồn Trăng (1995), Bóng Đèn Tà Nguyệt (1995), Tình Sen Ý Huệ (1999), Hiền Như Nắng Mới (2001), Chiếc Quạt Tôn Nữ (2002), Màn Nhung Đã Khép (2003), Đàn Trăng Quạt Bướm (2005), Trở Lại Bến Thùy Dương (2008).  Hồ Trường An thời trẻ Tập Truyện: Chuyện Quê Nam (1991), Tạp Chủng (1991), Hội Rẫy Vườn Sông Rạch (1992), Chuyện Miệt Vườn (1992), Đồng Không Mông Quạnh (1994), Gả Thiếp Về Vườn (1994), Đêm Xanh Huyền Hoặc (1994), Chuyện Ma Đất Tân Bồi (1998), Tập Truyện Ma (2001), Quà Ngon Đất Quê Nam (2003), Trăng Xanh Bên Trời Huế (2008), Truyền Kỳ Trên Đất Quê Nam (2008). Ký Sự, Bút Khảo, Bút Ký: Giai Thoại Hồng (1989), Thông Điệp Hồng (1990), Cõi Ký Ức Trăng Xanh (1991), Chân Trời Lam Ngọc I (1993), Chân Trời Lam Ngọc II (1995), Sàn Gỗ Màn Nhung (1996), Cảo Thơm (1998), Theo Chân Những Tiếng Hát (1998), Chân Dung Những Tiếng Hát I (2000), Tác Phẩm Đẹp Của Bạn (2000), Chân Dung Những Tiếng Hát II (2001), Lai Láng Dòng Phù Sa (2001), Thập Thúy Tầm Phương (2001), Chân Dung 10 Nhà Văn Nữ (2002), Tập Diễm Ngưng Huy (2003), Bảy Sắc Cầu Vồng (2005), Giai Thoại Văn Chương (2006), Chân Dung Những Tiếng Hát III (2007), Thắp Nắng Bên Trời (2007), Quê Nam Một Cõi (2007), Náo Nức Hội Trăng Rằm (2007), Giữa Đất Trời Giao Hưởng (2008), Non Cao Vực Thẳm (2011), Ảnh Trường Kịch Giới (2012), Trên Nẻo Đường Nắng Tới. Tập Thơ: - Thiên Đường Tìm Lại (2002), Vườn Cau Quê Ngoại (2003) [Hải Ngoại] - Cho Tôi Sống Lại Một Ngày (2015 by Thư Viện Phạm Văn Thành Group) [Quốc Nội] Bạn đọc có thể đọc online văn phẩm của Hồ Trường An ở trang VietMessenger hoặc Việt Nam Thư Quán  Hồ Trường An (phải) và Soạn Giả Nguyễn Phương Nhà văn Hồ Trường An by RFA (Mặc Lâm, Nov. 16, 2010) Ông tốt nghiệp Khóa 26 (1968) Trường Bộ Binh Sĩ Quan Thủ Đức. Trưởng ban Chiến Tranh Chính Trị tại hai Chi Khu Trị Tâm và Lái Thiêu tỉnh Bình Dương từ năm 1969 tới năm 1971. Sau đó phục vụ tại Ban Thông Tin Báo Chí Quân Đoàn III và Quân Khu 3 cho tới tháng 4/75. Hiện cư ngụ tại Troyes, Pháp. Ông viết truyện ngắn, thơ, điểm sách, viết tạp ghi. Và sau này ông viết các bài nhận định về kịch ảnh, tân nhạc. Hồ Trường An cộng tác với các tạp chí Bách Khoa, Tin Văn, Tiểu Thuyết Tuần San, Minh Tinh, Sinh Hoạt Nghệ Thuật, với các nhật báo Tranh Thủ, Tiền Tuyến... Sự nghiệp sáng tác của Hồ Trường An khó thể nói là khiêm nhường, với 22 truyện dài, 10 tập truyện, 16 bút khảo, ký sự, bút ký và 3 tập thơ được xuất bản, đó là chưa kể những bài viết rời ông cộng tác với các tạp chí trong nước và hải ngoại suốt gần 50 năm cầm bút. Lãng mạn miệt vườn Văn phong Hồ Trường An gần gũi với những cây bút miền nam nổi tiếng từ Hồ Biểu Chánh tới Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc và cả Lê Xuyên. Người đọc ông có thể tìm thấy cái hương vị miền Nam đậm đặc trong từng hơi thở của nhân vật nhưng người đọc cũng dễ dàng phát hiện ra cái sâu thẳm hơn trong Hồ Trường An bởi tính chất lãng mạn của một ngòi bút bật ra quá nhiều tỉ mẩn của một cô con gái dính liền với thôn dã. Là một người đồng tính, Hồ Trường An không hề có ý định che giấu giới tính của mình; văn chương của ông như sợi lụa mỏng manh nhưng dai dẳng cột chặt người đọc từ trang này sang trang khác qua những lời kể dông dài nhưng quyến rũ về các câu chuyện của một thời xa xưa, lúc đồng bằng sông Cửu trong giai đoạn hình thành. Hồ Trường An làm cho nhiều người đọc say sưa bởi tính chi li tỉ mẩn của ông qua từng trang sách. Tả về người đàn bà hay bất cứ điều gì có liên quan đến công dung ngôn hạnh là chừng như rồng gặp nước, ông không biết dừng và chính tính chất đặc biệt này đã giúp ông đứng riêng một cõi. “Cô Hai Phụng vóc mình dong dỏng, nước da ngăm đen nhưng tóc cô mềm và nhuyễn, dợn sóng trước trán, mắt cô ướt rượt, nụ cười cô có duyên phô hàm răng trắng muốt như hột dưa leo. Cô mặn mòi xinh đẹp lắm. Hễ cô liếc tên trai làng nào thì tên đó bủn rủn mới có một, nhưng khi cô cười thì hắn bàng hoàng tới mười. Ý là cô chỉ mới biết đọc biết viết, cô lại không biết đọc tiểu thuyết, không mấy khi được coi hát bội, hát cải lương, nhưng cách nói chuyện của cô vừa nhõng nhẽo vừa mơn trớn làm tự ái đờn ông được vuốt ve. Rốt cuộc hắn sướng rơn cả người, hồn phách tâm trí hắn bị cô hớp hết vô cái miệng xạo đía của cô.” Khi viết về đồng quê hay những kỷ niệm trong gia đình, văn phong Hồ Trường An lại rẽ qua một hướng khác, thâm trầm và sâu lắng hẳn. Hồ Trường An làm người đọc cảm nhận được hương vị quê hương một cách rõ rệt như đang nhấm nháp và sờ mó chúng. Có lẽ đây là thế mạnh của ông, biết dằn một chút muối trong nồi canh quê để người thưởng thức tự cảm nhận cái đậm đà mà họ đã đánh rơi trên suốt quãng đường gió bụi. “Ngoại tôi không nấu canh mồng tơi suông đâu. Bà cũng hái rất nhiều lá mồng tơi, rồi cùng với rau tập tàng, rau bồ ngót, rau cải trời, rau dịu để nấu canh tôm. Những con tôm he được ngắt đầu, bóc vỏ, bỏ đuôi, rút gân máu, đem quết nhuyễn và tra thêm tiêu, hành lá, nước mắm... rồi vo từng cục tròn tròn, dẹp dẹp thả vào nồi nước sôi, trước khi bỏ rau mồng tơi và rau khác vào. Canh rau do đó, thật ngọt, được múc vào những chiếc tô sành sản xuất từ Lái Thiêu, với một nét họa phóng bút bằng tay. Chúng tôi nghỉ học. Tìm được tập giấy trắng và ngòi viết lá tre cũ, tôi hái trái mồng tơi pha chế thành mực tím chép những bài hát nổi tiếng đương thời. Trên nền giấy ố vàng, những hàng chữ gò gẫm, sắc nét và lối trình bày sạch sẽ cũng làm cho tập giấy có vẻ ngoạn mục riêng. Rồi chúng tôi bỏ Ngã Ba Trung Lương, về Vĩnh Long sống nhờ ông nội chúng tôi. Chung quanh nhà, chúng tôi rào giậu mồng tơi, trồng bồ ngót, cao kỷ, bạc hà, cây lá giấm. Mâm cơm quê nội có bát dĩa sang trọng, nhưng thức ăn rất đạm bạc. Việt Minh đã sung công hết ruộng đất của ông nội tôi. Sản nghiệp của ông dần dần khánh kiệt. Với tài chế biến khéo léo, má tôi làm những món đạm bạc nhưng ngon lành và tinh khiết: canh rau nấu bột ngọt, cá cơm kho tương ăn với dưa leo và rau thơm, cá linh, cá rô kho sả ớt, con ruốc chấy tóp mỡ... Giậu mồng tơi quê nội đã giúp cho mẹ con tôi chịu đựng cái nghèo trong cuộc chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh suốt chín năm.” Viết phê bình, tiểu luận Hồ Trường An không những sáng tác truyện dài, truyện ngắn hay tiểu thuyết…mà ông còn phê bình, viết tiểu luận văn chương và tiểu sử của những ngòi bút nữ nhân mà ông mến mộ. Hãy đọc một đoạn ông viết về Hồ Biểu Chánh: “Cái ngôn ngữ dí dỏm, chót chét trong văn phong của Hồ Biểu Chánh thường làm cho chúng ta bật cười một cách thống khoái, dù cụ có cằn nhằn chì chiết nhân tình thế thái đi nữa. Chúng ta cảm nhận ngay sự thành khẩn của cụ. Chúng ta vụt cảm thấy tận đáy sâu của ngôn ngữ cụ, tận cái thiết tha của tình ý cụ có một hấp lực kỳ đặc, không dễ gì tìm gặp ở bút pháp kẻ khác….” Nói về Bình Nguyên Lộc Hồ Trường An thân tình hơn, do đó có phần âu yếm: “Văn chương Bình Nguyên lộc nồng nàn tình yêu quê cha đất mẹ. Đôi khi cái nồng nàn đó lên tới mức độ sôi nổi nên anh không làm chủ được ngòi bút của mình. Do đó văn chương ấy trở nên bộc tuệch, trống trải, cường điệu, bộc lộ cá tính Nam Kỳ. Cái bộc lộ ấy chưa chắc là cái khuyết điểm hay nhược điểm gì. Trái lại, nó làm cho sự diễn đạt tình ý của anh thêm minh bạch, thêm tươi rói và cực kỳ quyến rũ. Anh để mặc cho tâm sự mình phơi bày hở hang, trần truồng, không ngụy trang, không úp mở. Độc giả đa số không cần ở văn chương anh cái mánh khóe tiềm ẩn hay cái phong niêm tinh xảo để làm cho sự diễn tả được hàm súc và ý nhị. Họ chỉ cần tấm lòng tươi son bền sắt của anh đối với quê hương của anh.” Còn Sơn Nam thì sao, hãy nghe ông phê bình mà như một lời trần tình cho người bạn nối khố: “Quan niệm về nghệ thuật của Sơn Nam vẫn là quan niệm vừa sâu sắc vừa dí dỏm như quan niệm của Võ Phiến. Anh không phải là nhà văn tư tưởng. Nhưng văn chương anh rất cận nhân tình, gây lý thú bất ngờ cho người đọc qua những lời khề khà của một bợm nhậu hào sảng trong lúc rượu vào lời ra. Nhưng coi chừng đó, những lời theo hơi men tuôn ra từ cửa miệng anh thường làm chúng ta nghĩ ngợi.” Lê Xuyên thì Hồ Trường An tỏ ra dè sẻn hơn khi viết: “Lê Xuyên không viết văn dài dòng: không cần tả cảnh, tả người, tả vật, tả tâm trạng, tức là không tả những cái mà giới bình dân cho là lòng vòng không hợp với khiếu thưởng ngoạn của lớp độc giả với lòng dạ rổng rang, suông thẳng như ống nứa ống tre. Anh thích kể chuyện, ưa cho các nhân vật của mình chuyện trò vòng vo Tam Quốc, cằn nhằn dai dẳng, cà khịa rỉ rả, cãi lẫy tưng bừng, có khi chửi bới huyên náo. Anh không cần viết văn đâu.” Hồ Trường An nói về những cây viết này: “Anh Bình Nguyên Lộc thì ảnh ham đào sâu vào tâm trạng, tâm lý tâm linh của mình, tới khi đụng tới đồng tính luyến ái thì ảnh không biết. Ông Sơn Nam thì chỉ viết phong tục xã hội miệt vườn thì, ảnh không cần viết tâm lý của nhân vật ra sao. Lê Xuyên cũng vậy.” Mãn nguyện với giới tính Mặc dù được nhiều người công nhận ngòi viết Hồ Trường An tập trung vào đồng quê và những mẩu chuyện trữ tình lãng mạn của miệt vườn, nơi những chàng trai cô gái chân chất tỏ bày tình cảm của mình hồn nhiên như cọng lúa….thế nhưng phía sau cái mềm mại ấy là những bùng vỡ của tâm trạng, của giới tính, của khác biệt đôi khi khó thể phân bày. Mặc dù cuồn cuộn và hừng hực như nham thạch, nhưng tâm trạng ấy phải bị đè xuống, dấu đi chỉ còn lại chút dư âm của cuộc tình đồng tính. Hồ Trường An kể về tác phẩm “Hợp Lưu” của mình, tác phẩm hiếm hoi viết hẳn về đồng tính luyến ái của ông: “Người đầu tiên mà viết về đồng tính luyến ái là một người bạn của tôi tên là Đỗ Quế Lâm viết cuốn “Vết hằn rướm máu” nhưng cũng nói tới một chút thôi. Nguyễn Văn Trọng viết : “L’Enfer Rouge et mon amour”” tức là “Hỏa ngục đỏ và người tình của tôi” sáng tác bằng tiếng Pháp rồi tự dịch ra tiếng Việt nhưng mà nói cũng qua loa vậy thôi không tả những cuộc làm tình tỉ mỉ được. Anh Thảo trong lúc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút tờ báo Văn bị người ta chửi dữ lắm. Những cú điện thoại, thơ rơi… nhưng tôi chỉ viết những khía cạnh tổng quát của một cuộc làm tình chứ đâu tả cái sex ra làm sao… không có! Chỉ tả nàng và chàng khỏa thân với nhau tạo ra những cảnh đẹp gặp nhau giữa hoàng hôn, hay dưới ánh trăng thanh rồi chỉ nói sơ qua hai người trần truồng với nhau cùng với hình ảnh thơ mộng vô trong đó chứ không phải để trắng trợn tục tĩu đâu.” Nhà thơ Hồ Trường An còn có hai tập thơ, và khi làm thơ, Hồ Trường An chắt lọc từng chữ từng ý. Cũng mặn mòi và thấm đẫm chất quê nhưng trong thơ Hồ Trường An người đọc nhận ra một mảng cảm nhận khác. Trong bài thơ “Vườn cau quê ngoại” tác giả phải ky cóp kỷ niệm nhiều lắm, phải thương nhớ mảnh đất cố cựu một cách sâu nặng lắm mới cho chúng ta những cụm từ tuyệt đẹp mà chỉ người miệt vườn mới thấm, mới chia sẻ được nỗi thương nhớ quê nhà qua tàu cau bẹ chuối… Đêm qua vườn ngoại tàu cau rụng Vàng ố loang từng bẹ lá khô Mo xám quắt queo bao cữ nắng Hồn xanh phai lạt giữa mơ hồ.
Thềm vắng, xế nay ngồi vót chổi Ngoại đưa cần mẫn chiếc dao dâu Chừng nghe tiếng chổi khua sàn sạt Quét rụng niềm vui tự thuở đầu.
Sống lá từng tàu cau chuốt mỏng Dẻo mềm lạt buộc chổi tinh khôi Ngoại từ xanh tóc nay đầu bạc Vót chổi bao năm một chỗ ngồi.
Đêm qua bão rớt, bông cau rụng Mai mốt buồng cau thưa trái non Vững mạnh nọc trầu bên mé nước Dài giây, tủa rễ, lá xanh rờn.
Từ hình ảnh của cây cối thân yêu sau vườn, Hồ Trường An chừng như muốn bật khóc khi gió chiều se lạnh, cái lạnh quê nhà tràn tới trong khi tác giả tha hương đã làm hồn vía của ông trở thành lạc lỏng cô đơn biết chừng nào…
Nắng tắt, hiên ngoài se sắt lạnh Gió chiều quét sạch lớp mây giăng Ngoại đưa đẩy chổi trên sân vắng Quét lá, làm sao quét ánh trăng?
Làm sao quét nỗi buồn giăng mắc? Đèn lửa đêm dài chong hắt hiu Cau sấy ba canh, than cháy đỏ Làm sao hong ráo lệ bao chiều?
Vườn cau quê ngoại thời niên thiếu Ươm giữa hồn thơ nét đẹp buồn Ký ức tháng ngày rung bóng lá Thơm hương cau tỏa dưới trăng sương.
Vườn cau hòa tiếng tim châu thổ Dựng mộ bia sau mái miếu đường Có bóng ma người bao thuở trước Suốt đời bám riết đất quê hương.Hồ Trường An có thể chưa trở thành một cây viết ngang ngửa với Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, nhưng chắc chắn rằng ông đứng hẳn ra một cõi với văn phong và sự trăn trở dữ dội của một ngòi viết đồng tính gần như duy nhất của Việt Nam. Trong suốt 50 năm cầm bút, ông luôn hãnh diện nhận mình là một người đồng tính luyến ái, vừa hãnh diện vừa ngại ngùng và đôi khi rụt rè, nhưng bất cứ khi nào nói đến bốn chữ “đồng tính luyến ái” thì chừng như giọng của ông cất cao hơn, hoàn toàn mãn nguyện đối với những gì thượng đế ban cho mình. Đây cũng là một điểm đặc sắc nữa của Hồ Trường An, một người cầm bút hiếm hoi trong cộng đồng người đồng tính. Bài Liên Quan: Cho Tôi Sống Lại Một Ngày Thơ tranh đấu của Hồ Trường An - Tác Giả gởi qua Thư Viện Phạm Văn Thành để kính tặng các chiến sĩ đang đấu tranh cho Tự Do - Dân Chủ - Nhân Quyền ở quê nhà - Tháng Giêng 2015
|
|
|
Post by Vĩnh Long on Aug 8, 2015 15:31:56 GMT 9
30 Tháng Tư - Ðọc lại tập thơ ÐẤT KHÁCH của Thanh Nam
Nguyễn Ðình Toàn Trong tập thơ “Ðất Khách” của Thanh Nam, Thái Thủy cho mượn để đọc, còn có thêm một lá thư viết tay của Tử Vi Lang được chụp lại, một trang rời in ba bài thơ tứ tuyệt của Thanh Nam, một đề tặng Vũ Quang Ninh, một đề tặng Trần Cao Lĩnh, và một chỉ thấy ghi ở bên dưới Tháng Sáu 1984.
Bài thơ đề tặng Vũ Quang Ninh có tên là “Mười Năm”:
Chớp mắt mười năm gặp lại nhau Ngậm ngùi tóc bạc ngó lòng đau Nụ cười như muốn tan thành lê Trong mắt ân tình rộn biển dâu
Bài “gởi” Trần Cao Lĩnh là “Lời Xa”:
Rượu tiễn chưa trao lời giã biệt Tháng giêng theo tuyết bạn xa rồi Gió đưa khăn gói thành ly khách Có gặp hồn quê giữa xứ người?
Và bài “Phố Cũ” như sau:
Nhận thư bè bạn từ quê nhà Dò đọc tên đường thấy xót xa Ôi, đã nghìn thu vào tịch mịch Những anh hùng cũ, mỹ nhân xưa!
Những trang viết của Tử Vi Lang, không thấy ghi tên người nhận, nên không biết gửi cho ai, nhưng đọc tưởng chừng thấy thời gian ngừng lại:
Nhà văn Thanh Nam trút hơi thở cuối cùng tại Seatle, tiểu bang Washington, lúc 07 giờ tối ngày 02 Tháng Sáu năm 1985, thì qua hôm sau, tôi tiếp cú điện thoại của anh Vũ Ðức Vinh gọi xuống Los Angeles, báo tin buồn ấy, và hỏi rằng:
- Hội Văn Hóa Việt Nam tiểu bang Washington chúng tôi muốn đăng một ai-cáo lên các báo, để cho các văn nghệ sĩ, ký giả và bằng hữu tại hải ngoại cũng như ở nước nhà biết tin. Vậy, chữ ‘Cáo Phó’chỉ dành riêng cho gia đình anh Thanh Nam dùng, thì Hội Văn Hóa chúng tôi dùng chữ ‘Khấp Báo’ có được chăng?
Trong phút xúc động, tôi trả lời ngay:
- Ðược lắm chứ! Chữ ‘khấp’ không có nghĩa là khóc thành tiếng, mà ‘khấp’chỉ là ‘ứa lệ’ khóc thầm. Anh thử nghĩ xem: Tại sao trời đất lại sinh chúng ta vào cái thế kỷ mà quốc gia dân tộc phải chịu nhiều đau thương tang tóc nhất lịch sử này? Có thể nói: Ða số chúng ta, chỉ vì quốc nạn mà trở thành kẻ cầm bút viết báo, viết văn. Thế rồi cuộc bể dâu hồng thủy đã khiến chúng ta phiêu dạt khỏi quê hương yêu dấu! Và trong khi các anh đang họp mặt, nắm tay nhau ở Seatle, cảm thán hiện cảnh, thắc mắc tương lai... thì Thanh Nam nằm xuống, vĩnh viễn ra đi! Như thế, các anh - và cả tôi ở đây nữa - không ‘ứa lệ’ sao được?
Dứt cuộc điện đàm với anh Vũ Ðức Vinh, tôi cầm bút thảo ngay bài thơ cảm thán này để đăng báo, gọi là ghi chút tình đồng nghiệp với Thanh Nam...
VĂN THANH NAM THỆ THẾ
Vô đoan thiên địa ngẫu sinh ngô Dữ nhĩ đồng kham khứ-quốc-sầu Dị địa khả lân vô nhất kiến Hoa-bang hàn vũ tống cô chu
Tử Vi Lang tự dịch bài thơ của mình như sau:
Nghĩa gì, trời đất sinh ta? Chung sầu khứ quốc, chốc đà mười xuân Tha hương chẳng gặp một lần Bang Hoa mưa lạnh đưa hồn hoài hương
Tập thơ “Ðất Khách” của Thanh Nam đã được in ra cách đây đã hơn hai chục năm.
Thanh Nam đã qua đời chỉ hai năm sau khi “Ðất Khách” được xuất bản. Sách in khổ lớn, bìa và phụ bản bên trong là tranh và ảnh rất đẹp của Duy Thanh, Ngọc Dũng, Trần Cao Lĩnh. Thanh Nam sang Hoa Kỳ năm 1975, tổng cộng cho đến nay đã gần ba chục năm. Ba chục năm nơi đát khách dài hay ngắn? Rất nhiều chuyện đã rơi vào lãng quên.
Nhưng cũng có rất nhiều chuyện người ta không thể nào quên được trong khoảng thời gian ấy, chuyện kẻ ở người đi, kẻ còn người mất, tang thương biến đổi, xa nhau khi tóc còn xanh, gặp lại mái đầu đã trắng cả... Lại còn những người một lần chia tay cũng là vĩnh biệt, chẳng còn bao giờ nhìn lại thấy nhau nữa!
Ðối với một số bằng hữu, một số độc giả của ông, Thanh Nam ở trong trường hợp như vậy. Những người đến muộn trên miền đất Thanh Nam gọi là “tạm dung” này, cầm cuốn sách trong tay, chợt cảm nhận một nỗi buồn mênh mang.
Cuốn sách có thật. Những dòng chữ trên giấy trắng, mực đen là có thật. Nhưng cầm nó trong tay, người ta tưởng chừng chỉ đang cầm giữ một cái ảo. Ba mươi năm tóa tang, lụt lội nước mắt, hay dùng chữ của chính Thanh Nam “ phí bao nhiêu tóc xanh đợi chờ”, rút cục cũng chẵn biết đợi chờ cái gì, quên hay nhớ thì tất cả mọi chuyện cũng đã tan vào hư không rồi, không níu lại được gì nữa, không sửa chữa gì được nữa.
Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng Nghĩ đắt vô cùng giá tự do
Thanh Nam đã ghi lên trang đầu tập thơ của mình hai câu thơ ấy.
Lấy lòng của người ở lại để hiểu lấy nỗi đau của người đi được chăng? Hiểu được hay không hiểu được, rồi sao? “Ðất Khách” của Thanh Nam tràn ngập một nỗi ngậm ngùi của thân lữ thứ, nhớ nước, nhớ người.
Ơi hỡi quê hương bè bạn cũ Những ai còn mất giữa sa mù Mất nhau từ buổi tàn xuân đó Không một tin nhà, một cánh thư Biền biệt thời gian mòn mỏi đợi Rối bời tâm sự tuyết đăng tơ Một năm người có mười hai tháng Ta tròn năm dài Một Tháng Tư!
Trước 1954, ở Hà Nội, người ta đọc “Cuộc Ðời Một Thiếu Nữ” của Thanh Nam, “Nhìn Xuống“của Sao Mai, “Cánh Hoa Trước Gió” của Nguyễn Minh Lang, “Mẹ Tôi Sớm Biệt Một Chiều Thu“của Hoàng Công Khanh... Năm đó Thanh Nam còn rất trẻ, mới chỉ trên dưới hai mươi. Ông nổi tiếng rất sớm.
Thanh Nam bỏ Hà Nội vào Nam trước khi xảy ra hiệp định Geneve, nên ông có dịp làm quen và chơi thân với hầu hết các nhà văn, miền Nam, nhất là những người làm việc trực tiếp tại các tòa báo. Khi được tin Lê Xuyên mất mới đây, hầu hết những người quen biết Thanh Nam đều liên tưởng tới ông và những ngày Sài Gòn cũ là vì vậy.
Cuộc lưu vong 30 Tháng Tư 1975 Thanh Nam coi như là:
Chấp nhận hai đời trong một kiếp Ðành cho giông bão phũ phàng đưa Ðầu thai lần nữa trên trần thế Kéo nốt trăm năm kiếp sống nhờ Ðổi ngược họ tên cha mẹ đặt Tập làm con trẻ nói ngu ngơ
Có thể lấy cái buồn của người ở lại để hiểu nỗi khắc khoải của người ra đi và ngược lại chăng? Giả thử rằng được, giả thử rằng không, rồi sao? Mọi sự có gì khác với những gì đã xảy ra? Hai mươi chín năm rồi ba mươi năm. Những ai, còn ai mất?
“Ðất nước” người ta có trở về được cũng vẫn chỉ là những cuộc viếng thăm. Những người “cùng một lứa bên trời lận đận” còn lại bao nhiêu ngày à còn có thể làm được gì nữa đây?
Ngoài trên một chục cuốn tiểu thuyết, Thanh Nam còn viết kịch thơ, làm rất nhiều thơ, viết lời ca cho nhiều ca khúc của các nhạc sĩ bằng hữu, từng phụ trách biên tập nhiều tuần san văn nghệ, biên tập cho nhiều chương trình phát thanh.
Ông sống đôn hậu với tất cả bạn bè và được mọi người yêu mến.
Ở Hoa Kỳ mới vào Xuân. Tết Việt Nam qua đã khá lâu rồi, có còn cũng chỉ còn cái rét Tháng Ba. Liệu có đủ lạnh để ta cùng nghe lại “Thơ Xuân Ðất Khách” của Thanh Nam không nhỉ:
Canh bạc chưa chơi mà hết vốn Cờ còn đánh phải đàn thua Muốn rơi nước mắt khi tàn mộng Nghĩ đắt vô cùng giá Tự Do! Bằng hữu qua đây dăm bảy kẻ Ðứa nuôi thù hận, đứa phong ba Ðứa nằm yên phận vui êm ấm Ðứa nhục nhằn lê kiếp sống thừa Mây nước có phen còn hội ngô Thâm tình viễn xứ lại như xa Xuân này đón tuổi gần năm chục Ðối bóng mình ta say với ta
Ðọc thơ mới giật mình: Thanh Nam mất mới ở tuổi năm mươi. Còn quá trẻ! Thế nhưng, có biết bao người như ông, có thể coi như đời đã mất từ nhiều năm trước đó, đứt ngang trước đó.
Bao giờ Tháng Tư sẽ không còn là viết thương của lịch sử chúng ta nữa nhỉ?
Nguyễn Ðình Toàn Saturday, April 24, 2004
|
|
|
Post by Can Tho on Feb 7, 2016 16:54:44 GMT 9
Tên các Quốc gia, thành phố,nhơn vật Tây Âu mà người Sài Gòn hay gọi trước năm 1975 Dansaigon Ở Saigon trước 1975, người ta hay gọi các địa danh và tên riêng bằng cái tên phiên âm ra tiếng Việt (ảnh hưởng từ phiên âm của tiếng Hoa). Có nhiều cái tên khá lạ lẫm, nhưng vẫn có nhiều tên hiện nay gọi vẫn được sử dụng là Thượng Hải, Hà Lan, Luân Đôn, Bình Nhưỡng… Nữu Ước (New York) Hoa Thịnh Đốn (Washington) Mã Nhật Tân (Manhattan, khu trung tâm của New York) Cựu Kim Sơn (San Francisco – bang California, Mỹ) Phú Lang Sa (France) Úc Đại Lợi (Australia) Luân Đôn (London) Phi Luật Tân (Philippine) Tân Tây Lan (New Zealand) Điện Cẩm Linh (điện Kremly – nơi làm việc của tổng thống Nga) Hoa Lệ Ước (Hollywood) Mạc Tư Khoa (Moscow, thủ đô Nga) Cơ Phụ (Kiev – thủ đô Ukraine) sông Phục Nhĩ Gia (sông Volga) sông Đa Não Hà (sông Danuble) Ba Tây (Brazil) A Phú Hãn (Afganishtan) Gia Nã Đại (Canada) A Mỹ Lợi Gia (America) Á Căn Đình (Argentina) Áo Môn (Macau) Cao Ly (Korea) Hạ Uy Di (Hawaii) Hoành Quốc (Monaco, công quốc thuộc Pháp) Hoành Tân (Yokohama – Nhật Bản) Hưng Gia Lợi (Hungary) Hy Mã Lạp Sơn (Hymalaya – dãy núi) Hương Cách Lý Lạp (Shangri La) Mễ Tây Cơ (Mexico) Tân Đức Lợi (New Delhi – Ấn Độ) Hương Cảng (Hongkong) Thánh Hà Tây (San Jose – California, Mỹ) Tô Cách Lan (Scotland) Uy Nê Tư (Venice – Ý) Ái Nhĩ Lan (Ireland) Ba Lê (Paris) Bảo Gia Lợi (Bulgary) La Tỉnh (Los Angeles – California, Mỹ) Á Lan Đại (Atlanta) Á Tế Sá (Asia) Bá Linh (Berlin) Bạch Nga (Belarus) Bàn Môn Điếm (Panmomjum, khu phi quân sự chia đôi Nam – Bắc Triều Tiên) Bình Nhưỡng (Pyongyung) Băng Đảo (Iceland) Cao Miên (Campuchia) Chi Gia Kha (Chicago, bang Illinois, Mỹ) Đông Hồi (Banglades) Hán Thành (Seoul, thủ đô Hàn Quốc) Đông Kinh (Tokyo) Hồi Quốc (Oman) Lục Xâm Bảo (Luxembourg) Lỗ Mã Ni (Romania) Mạnh Mãi (Mumbay, còn có tên là Bombay, thành phố đông dân nhất Ấn Độ) Phú Sỹ (Fuji –ngọn núi ở Nhật) Tân Đức Lợi (New Delhi, thủ đô Ấn Độ) Tây Hồi (Pakistan) Tây Nhã Đồ (Seattle, bang Washington, Hoa Kỳ) Tích Lan (Sri Lanca) Vọng Cát (Bangkok – thủ đô Thái Lan) Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) Chú thích1. Mã Nhật Tân (Manhattan): là nơi xảy ra sự kiện 11/9, khu vực tòa tháp đôi giờ gọi là Ground Zero. 2. Cựu Kim Sơn: Ai xem phim Hongkong hay Trung Quốc, bối cảnh cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, thì hay thấy người ta nói đi Cựu Kim Sơn để ám chỉ đi Mỹ, vì thời điểm đó người Hoa di cư sang Mỹ khá đông và có nhiều người Hoa sống tại San Francisco. Người Hoa bắt đầu đến San Francisco trong giai đoạn người ta đổ xô đến California để tìm vàng (thế kỷ XIX). Nhà văn Mỹ Jack London cũng lấy bối cảnh này để viết nên tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dãnổi tiếng. 3. Hương Cách Lý Lạp: một vùng đất, trong huyền thoại, được xem là lạc cảnh thần tiên của Trung Quốc. Trong phim Xác Ướp 3, địa danh này là nơi cất thuốc trường sinh, Hongkong, Singapore đều có khách sạn nổi tiếng tên này 4. Washington: là tên của tổng thống đầu tiên của Mỹ George Washington, tên của một tiểu bang giáp biên giới Canada, còn là tên của thủ đô Hoa Kỳ. Khi mang tên của thủ đô Hoa Kỳ thì thường phải viết đầy đủ là Washington D.C, có khi người ta chỉ viết là DC để nói cho Washington DC. DC là viết tắt của cụm District of Columbia, tức có thể dịch là Đặc khu Columbia hay quận Columbia. Điểm đặc biệt của DC là không có đại diện trong quốc hội Hoa Kỳ. 5. Thượng Hải, Thụy Điển, Thụy Sỹ, Hà Lan…: cũng là từ đã được Việt Hóa 6. Những từ Việt hóa này không thống nhất lắm về cách dịch. Có những từ là được dịch, có những từ bắt nguồn từ cách lý giải riêng. Ví dụ: San Francisco lẽ ra phải dịch là Thánh Phan Xi Cô (giống như San Jose được dịch là Thánh Hà Tây), từ San và St có nghĩa là Thánh, bang Minessota của Hoa Kỳ có thành phố St Paul tức là thành phố Thánh Bôn. Nhưng trong trường hợp San Francisco thì có một chút khác biệt từ cách dịch của người Trung Quốc. Người Trung Quốc đến San Francisco để tìm vàng và vàng ở các dãy núi ở San Francisco khá nhiều. Chính vì thế, người TQ gọi là Cựu Kim Sơn (“cựu” là cũ, xưa; “Kim” là vàng) tức có nghĩa là “núi vàng xưa”. Cũng như Đông Kinh vốn dĩ không phải là bản dịch của từ Tokyo, mà chỉ là người Trung Quốc giải nghĩa nó là kinh đô ở phía đông. Ngày xưa, Trung Quốc vẫn hay dùng vị trí địa lý phía đông để nói về Nhật Bản, thời nhà Tống và nhà Minh (Trung Quốc) thì vẫn hay gọi Nhật Bản là Đông Doanh. Cũng như từ Hoa Kỳ là do nước này có lá cờ có nhiều ngôi sao như những bông hoa, Hoa Kỳ có nghĩa là Cờ Hoa (lá cờ hoa), còn chữ Mỹ thì lấy từ America (tức A Mỹ Lợi Gia). Chính vì vậy, cách Việt Hóa vẫn chưa hề thống nhất. NHÂN VẬTNã Phá Luân (Napoleon) A Lịch Sơn đại đế (Alexander đại đế) Bối Đa Phần (nhạc sỹ Beethoven) A Lịch Sơn Đắc Lộ (Alexandre De Rhodes) Đạt Lai Lạc Ma (Dalai Lama) Kha Luân Bố (Colombo) Lệ Ninh (Lenin) Kim Nhật Thành (Kim Il-sung, cố lãnh tụ Bắc Hàn) Kim Chính Nhất (Kim Jong-il, đương kiêm lãnh tụ Bắc Hàn, con trai Kim Nhật Thành) Lỗ Bình Sơn (Robinson) Mã Lý Lệ Mộng Cổ (Marilyn Monroe) Mã Khắc Tư (Karl Marx) Mạnh Khắc Lạc Khắc Tốn (Micheal jackson) Phi Cát (Picasso – họa sỹ). Theo blog Ngô Minh Trí ***************************** 260 TỪ NGỮ THÔNG DỤNG CỦA DÂN SAIGON & NGƯỜI MIỀN NAM NGỰA HOANG | 12 Tháng Mười Hai, 2015
Tổng hợp 260 từ ngữ thông dụng của dân Saigon xưa nói riêng & người miền Nam ngày nay nói chung !
1. À nha = thường đi cuối câu mệnh lệnh dặn dò, ngăn cấm (không chơi nữa à nha) 2. Áo thun ba lá = Áo May Ô 3. Ăn coi nồi, ngồi coi hướng = Ăn trông nồi, ngồi trông hướng 4. Âm binh = phá phách (mấy thằng âm binh = mấy đứa nhỏ phá phách) 5. Bà chằn lữa = người dữ dằn (dữ như bà chằn) 6. Ba ke, Ba xạo 7. Bá Láp Bá Xàm 8. Bá chấy bù chét 9. Bà tám = nhiều chuyện (thôi đi bà tám = đừng có nhiều chuyện nữa, đừng nói nữa) + Bà quại = bà ngoại 10. Bang ra đường = chạy ra ngoài đường lộ mà không coi xe cộ, hoặc chạy ra đường đột ngột, hoặc chạy nghênh ngang ra đường 11. Bạt mạng = bất cần, không nghĩ tới hậu quả (ăn chơi bạt mạng) 12. Bặc co tay đôi = đánh nhau tay đôi 13. Bặm trợn = trông dữ tợn, dữ dằn 14. Bất thình lình = đột ngột 15. Bẹo = chưng ra (gốc từ cây Bẹo gắn trên ghe để bán hàng ở chợ nổi ngày xưa) 16. Bẹo gan = chọc cho ai nổi điên 17. Bề hội đồng = hiếp dâm tập thể 18. Bển = bên đó, bên ấy (tụi nó đang chờ con bên bển đó!) 19. Biết đâu nà, biết đâu nè = biết đâu đấy 20. Biệt tung biệt tích = không thấy hiện diện 21. Biểu (ai biểu hổng chịu nghe tui mần chi! – lời trách nhẹ nhàng) = bảo 22. Bình thủy = phích nước 23. Bình-dân = bình thường 24. Bo bo xì = nghỉ chơi không quen nữa (động tác lấy tay đập đập vào miệng vừa nói của con nít) 25. Bỏ qua đi tám = cho qua mọi chuyện đừng quan tâm nữa (chỉ nói khi người đó nhỏ vai vế hơn mình) 26. Bỏ thí = bỏ 27. Bùng binh = vòng xoay 28. Bội phần = gấp nhiều lần 29. Buồn xo = rất buồn ( làm gì mà coi cái mặt buồn xo dậy? ) 30. Bữa = buổi/từ đó tới nay (ăn bữa cơm rồi về/bữa giờ đi đâu mà hổng thấy qua chơi?) 31. Cà chớn cà cháo = không ra gì 32. Cà chớn chống xâm lăng -Cù lần ra khói lửa. 33. Cà kê dê ngỗng = dài dòng. 34. Cà Na Xí Muội + Cà rá = chiếc nhẫn 35. Cà nhỗng = rãnh rỗi không việc gì để làm (đi cà nhỗng tối ngày) 36. Cà nghinh cà ngang = nghênh ngang 37. Cà rem = kem 38. Cà rịt cà tang = chậm chạp. 39. Cà tàng = bình thường, quê mùa,…. 40. Cái thằng trời đánh thánh đâm 41. Càm ràm = nói tùm lum không đâu vào đâu/nói nhây Coi được hông? 42. Cù lần, cù lần lữa = từ gốc từ con cù lần chậm chạp, lề mề, chỉ người quá chậm lụt trong ứng đối với chung quanh … (thằng này cù lần quá!) 43. Cụng = chạm 44. Cứng đầu cứng cổ 45. Chà bá , tổ chảng, chà bá lữa = to lớn, bự 46. Chàng hãng chê hê = banh chân ra ngồi ( Con gái con đứa gì mà ngồi chàng hãng chê hê hà, khép chưn lại cái coi! ) 47. Cha chả = gần như từ cảm thán “trời ơi! ” (Cha chả! hổm rày đi đâu biệt tích dzậy ông?) 48. Chả = không ( Nói chả hiểu gì hết trơn hết trọi á ! ) + Chả = thằng chả / thằng cha kia 49. Chậm lụt = chậm chạp, khờ 50. Chém vè (dè)= trốn 51. Chén = bát 52. Chèn đét ơi, mèn đét ơi, chèn ơi, Mèn ơi = ngạc nhiên 53. Chết cha mày chưa! có chiện gì dậy? = một cách hỏi thăm xem ai đó có bị chuyện gì làm rắc rối không 54. Chì = giỏi (anh ấy học “chì” lắm đó). 55. Chiên = rán 56. Chịu = thích, ưa, đồng ý ( Hổng chịu đâu nha, nè! chịu thằng đó không tao gả luôn) 57. Chỏ = xía, xen vào chuyện người khác 58. Chổ làm, Sở làm = hãng xưỡng, cơ quan công tác 59. Chơi chỏi = chơi trội, chơi qua mặt 60. Chùm hum = ngồi bó gối hoặc ngồi lâu một chổ không nhúc nhích, không quan tâm đến ai (có gì buồn hay sao mà ngồi chùm hum một chổ dậy? ) 61. Chưn = chân 62. Chưng ra = trưng bày 63. Có chi hông? = có chuyện gì không? 64. Dạ, Ừa (ừa/ừ chỉ dùng khi nói với người ngang hàng) = Vâng, Ạ Dạo này = thường/nhiều ngày trước đây đến nay (Dạo này hay đi trễ lắm nghen! /thường) 65. Dấm da dấm dẵng 66. Dây = không có dây dzô nó nghe chưa = không được dính dáng đến người đó 67. Dễ tào = dễ sợ 68. Dì ghẻ = mẹ kế 69. Dĩa = Đĩa 70. Diễn hành, Diễn Binh= diễu hành, diễu binh (chữ diễu bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng) 71. Diễu dỡ = làm trò 72. Dỏm (dởm), dỏm đời, dỏm thúi, đồ lô (sau 1975, khi hàng hóa bị làm giả nhiều, người mua hàng nhầm hàng giả thì gọi là hàng dởm, đồ “lô” từ chữ local=nội địa) 73. Dô diên (vô duyên) = không có duyên (Người đâu mà vô diên thúi vậy đó hà – chữ “thúi’ chỉ để tăng mức độ chứ không có nghĩa là hôi thúi) 74. Du ngoạn = tham quan 75. Dù = Ô 76. Dục (vụt) đi = vất bỏ đi (giọng miền nam đọc Vụt = Dục âm cờ ít đọc thành âm tờ, giống như chữ “buồn” giọng miền nam đọc thành “buồng”) 77. Dùng dằng = ương bướng 78. Dữ hôn và …dữ …hôn…= rất ( giỏi dữ hén cũng có nghĩa là khen tặng nhưng cũng có nghĩa là đang răn đe trách móc nhẹ nhàng tùy theo ngữ cảnh và cách diễn đạt của người nói ví dụ: “Dữ hôn! lâu quá mới chịu ghé qua nhà tui nhen”, nhưng “mày muốn làm dữ phải hôn” thì lại có ý răn đe nặng hơn ) 79. Dzìa, dề = về (thôi dzìa nghen- câu này cũng có thể là câu hỏi hoặc câu chào tùy ngữ điệu lên xuống người nói) 80. Dzừa dzừa (vừa) thôi nhen = đừng làm quá 81. Đá cá lăn dưa = lưu manh 82. Đa đi hia = đi chổ khác. 83. Đài phát thanh = đài tiếng nói 84. Đàng = đường 85. Đặng = được (Qua tính vậy em coi có đặng hông?) 86. Đen như chà dà (và) = đen thui, đen thùi lùi = rất là đen + Đền = bồi thường 87. Đêm nay ai đưa em dìa = hôm nay về làm sao, khi nào mới về (một cách hỏi) – từ bài hát Đêm nay ai đưa em về của NA9 88. Đi bang bang = đi nghênh ngang 89. Đi cầu = đi đại tiện, đi nhà xí 90. Đó = đấy , nó nói đó = nó nói đấy 91. Đồ già dịch = chê người mất nết 92. Đồ mắc dịch = xấu nết tuy nhiên, đối với câu Mắc dịch hông 93. nè! có khi lại là câu nguýt – khi bị ai đó chòng ghẹo 94. Đờn = đàn 95. Đùm xe = Mai-ơ 96. Được hem (hôn/hơm) ? = được không ? chữ hông đọc trại thành hôn, hem hoặc hơm 97. Ghẹo, chòng ghẹo = chọc quê 98. Ghê = rất – hay ghê há tùy theo ngữ cảnh và âm điệu thì nó mang ý nghĩa là khen hoặc chê 99. Gớm ghiết = nhìn thấy ghê, không thích 100. Giục giặc, hục hặc = đang gây gổ, không thèm nói chuyện với nhau (hai đứa nó đang hục hặc! ) 101. Hãng, Sở = công ty, xí nghiệp 102. Hay như = hoặc là 103. Hậu đậu = làm việc gì cũng không tới nơi tới chốn Hết = chưa, hoặc chỉ nâng cao mức độ nhấn mạnh (chưa làm gì hết) 104. Hết trơn hết trọi = chẳng, không – “Hết Trọi” thường đi kèm thêm cuối câu để diễn tả mức độ (Ở nhà mà hổng dọn dẹp phụ tui gì hết trơn (hết trọi) á! ) 105. Hồi nảo hồi nào = xưa ơi là xưa 106. Hổm rày, mấy rày = từ mấy ngày nay 107. Hổng có chi! = không sao đâu 108. Hổng chịu đâu 109. Hổng thích à nhen! 110. Hột = hạt (hột đậu đen, đỏ) miền nam ghép cả Trứng hột vịt thay vì chỉ nói Trứng vịt như người đàng ngoài 111. Hợp gu = cùng sở thích 112. Ì xèo = tùm lum, … 113. năn nỉ ỉ ôi 114. Kẻo = coi chừng 115. Kể cho nghe nè! = nói cho nghe 116. Kêu gì như kêu đò thủ thiêm = kêu lớn tiếng, kêu um trời,…. Lanh chanh 117. Làm (mần) cái con khỉ khô = không thèm làm 118. Làm (mần) dzậy coi được hông? 119. Làm dzậy coi có dễ ưa không? = một câu cảm thán tỏ ý không thích/thích tùy theo ngữ cảnh 120. Làm gì mà toành hoanh hết zậy 121. Làm nư = lì lợm 122. Làm um lên: làm lớn chuyện 123. Lặc lìa = muốn rớt ra, rời ra nhưng vẫn còn dính với nhau chút xíu 124. Lần = tìm kiếm (biết đâu mà lần = biết tìm từ chổ nào) 125. Lần mò = tìm kiếm, cũng có nghĩa là làm chậm chạm (thằng tám nó lần mò cái gì trong đó dậy bây?) 126. Lắm à nhen = nhiều, rất (thường nằm ở cuối câu vd: thương lắm à nhen) 127. Lẹt đẹt = ở phía sau, thua kém ai ( đi lẹt đẹt! Lảm gì (làm cái gì) mà cứ lẹt đẹt hoài vậy) 128. Lao-tổn (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa) 129. Lao-cần (cách dùng từ của Ông Nguyễn Văn Vĩnh có gạch nối ở giữa) 130. Lên hơi, lấy hơi lên = bực tức (Nghe ông nói tui muốn lên hơi (lấy hơi lên) rồi đó nha! 131. Liệu = tính toán 132. Liệu hồn = coi chừng 133. Lô = đồ giả, đồ dỡ, đồ xấu (gốc từ chữ local do một thời đồ trong nước sản xuất bị chê vì xài không tốt) 134. Lộn = nhầm (nói lộn nói lại) 135. Lộn xộn = làm rối 136. Lụi hụi = ? (Lụi hụi một hồi cũng tới rồi nè!) 137. Lùm xùm = rối rắm, 138. Lụt đục = không hòa thuận (gia đình nó lụt đục quài) 139. Má = Mẹ 140. Ma lanh, Ma le 141. Mã tà = cảnh sát 142. Mari phông tên = con gái thành phố quê mùa 143. Mari sến = sến cải lương 144. Mát trời ông địa = thoải mái 145. Máy lạnh = máy điều hòa nhiệt độ 146. Mắc cười = buồn cười 147. Mắc dịch = Mất nết, không đàng hoàng, lẳng lơ, xỏ lá, bởn cợt. 148. Mặt chù ụ một đống, mặt chầm dầm 149. Mần ăn = làm ăn 150. Mần chi = làm gì 151. Mậy = mày ( thôi nghen mậy = đừng làm nữa) 152. Mét = mách 153. Miệt, mai, báo, tứ, nóc… chò = 1, 2, 3, 4, 5…. 10. 154. Mình ên = một mình (đi có mình ên, làm mình ên) 155. Mò mẫm rờ rẫm sờ sẩm (hài) = mò 156. Mồ tổ! = câu cảm thán 157. Mả = Mồ 158. Muỗng = Thìa, Môi 159. Mút mùa lệ thủy = mất tiêu 160. Nam Tàu Bắc Đẩu 161. Nào giờ = từ trước tới nay 162. Niềng xe = vành xe 163. Ngang Tàng = bất cần đời 164. Nghen, hén, hen, nhen 165. Ngoại quốc = nước ngoài 166. Ngon bà cố = thiệt là ngon 167. Ngộ = đẹp, lạ (cái này coi ngộ hén) 168. Ngồi chồm hỗm = ngồi co chân ….chỉ động tác co gập hai chân lại theo tư thế ngồi … Nhưng không có ghế hay vật tựa cho mông và lưng … (Chợ chồm hổm – chợ không có sạp) 169. Ngủ nghê 170. Nhan nhãn = thấy cái gì nhiều đằng trước mặt 171. Nhắc chi chuyện cũ thêm đau lòng lắm người ơi! = đừng nhắc chuyện đó nữa, biết rồi đừng kể nữa – trích lời trong bài hát Ngày đó xa rồi 172. Nhậu = một cách gọi khi uống rượu, bia 173. Nhiều chiện = nhiều chuyện 174. Nhìn khó ưa quá (nha)= đôi khi là chê nhưng trong nhiều tình huống lại là khen đẹp nếu thêm chữ NHA phía sau 175. Nhóc, đầy nhóc : nhiều 176. Nhột = buồn 177. Nhựt = Nhật 178. Nón An toàn = Mũ Bảo hiểm 179. Ổng, Bả, Cổ, Chả = Ông, Bà, Cô, Cha ấy = ông đó ổng nói (ông ấy nói) 180. Phi cơ, máy bay = tàu bay 181. Quá cỡ thợ mộc…= làm quá, 182. Qua đây nói nghe nè! = kêu ai đó lại gần mình 183. Qua bên bển, vô trong trỏng, đi ra ngoải, 184. Quá xá = nhiều (dạo này kẹt chiện quá xá! ) 185. Quá xá quà xa = quá nhiều 186. Quê một cục 187. Quê xệ 188. Rành = thành thạo, thông thạo, biết (tui hồng rành đường 189. này nhen, tui hổng rành (biết) nhen) 190. Rạp = nhà hát(rạp hát), dựng một cái mái che ngoài đường lộ hay trong sân nhà để cho khách ngồi cho mát (dựng rạp làm đám cưới) 191. Rân trời = um sùm 192. Rốp rẽng (miền Tây) = làm nhanh chóng 193. Rốt ráo (miền Tây) = làm nhanh chóng và có hiệu quả 194. Ruột xe = xăm 195. Sai bét bèng beng = rất sai, sai quá trời sai! 196. Sai đứt đuôi con nòng nọc = như Sai bét bèng beng 197. Sạp = quầy hàng 198. Sến = cải lương 200. Sến hồi xưa là người làm giúp việc trong nhà. Mary sến cũng có nghỉa là lèn xèn như ng chị hai đầy tớ trong nhà. 201. Sên xe = xích 202. Sếp phơ = Tài xế 203. Sườn xe = khung xe 204. Tà tà, tàn tàn, cà rịch cà tang = từ từ 205. Tàn mạt = nghèo rớt mùng tơi 206. Tàng tàng = bình dân 207. Tào lao, tào lao mía lao, tào lao chi địa, tào lao chi thiên,… 208. chuyện tầm xàm bá láp = vớ vẫn 209. Tàu hủ = đậu phụ 210. Tầm xàm bá láp 211. Tầy quầy, tùm lum tà la = bừa bãi 212. Té (gốc từ miền Trung)= Ngã 213. Tèn ten tén ten = chọc ai khi làm cái gì đó bị hư 214. Tía, Ba = Cha 215. Tiền lính tính liền, tiền làng tàn liền …! 216. Tòn teng = đong đưa, đu đưa 217. Tổ cha, thằng chết bầm 218. Tới = đến (người miền Nam và SG ít khi dùng chữ đến mà dùng chữ tới khi nói chuyện, đến thường chỉ dùng trong văn bản) 219. Tới chỉ = cuối 220. Tới đâu hay tới đó = chuyện đến rồi mới tính 221. Tui ưa dzụ (vụ) này rồi à nhen = tui thích việc này rồi ( trong đó tui = tôi ) 222. Tui, qua = tôi 223. Tụm năm tụm ba = nhiều người họp lại bàn chuyện hay chơi trò gì đó 224. Tức cành hông = tức dữ lắm 225. Tháng mười mưa thúi đất 226. Thắng = phanh 227. Thằng cha mày, ông nội cha mày = một cách nói yêu với 228. người dưới tùy theo cách lên xuống và kéo dài âm, có thể ra nghĩa khác cũng có thể là một câu thóa mạ 228. Thấy ghét, nhìn ghét ghê = có thể là một câu khen tặng tùy 229. ngữ cảnh và âm điệu của người nói 230. Thấy gớm = thấy ghê, tởm (cách nói giọng miền Nam hơi kéo dài chữ thấy và luyến ở chữ Thấy, “Thấy mà gớm” âm mà bị câm) 231. Thèo lẽo = mách lẽo ( Con nhỏ đó chuyên thèo lẽo chuyện của mầy cho Cô nghe đó! ) 232. Thềm ba, hàng ba 233. Thí = cho không, miễn phí, bỏ ( thôi thí cho nó đi!) 234. Thí dụ = ví dụ 235. Thiệt hôn? = thật không? 236. Thọc cù lét, chọc cù lét = làm cho ai đó bị nhột 237. Thôi đi má, thôi đi mẹ! = bảo ai đừng làm điều gì đó 238. Thôi hén! 239. Thơm = dứa, khóm 230. Thúi = hôi thối, 231. Thưa rĩnh thưa rãng = lưa thưa lác đác 232. Trà = Chè 233. Trăm phần trăm = cạn chén- (có thể gốc từ bài hát Một trăm em ơi – uống bia cạn ly là 100%) 234. Trển = trên ấy (lên trên Saigon mua đi , ở trển có bán đồ nhiều lắm) 235. Trực thăng = máy bay lên thẳng 236. Um xùm 237. Ứa gan 238. Ứa gan = chướng mắt 239. Vè xe = chắn bùn xe 240. Vỏ xe = lốp 241. Xả láng, sáng về sớm, 242. Xà lỏn, quần cụt = quần đùi 243. Xài = dùng, sử dụng 244. Xảnh xẹ, Xí xọn = xảnh xẹ = làm điệu 245. Xe cam nhông = xe tải 246. Xe hơi = Ô tô con 247. Xe nhà binh = xe quân đội 248. Xe đò = xe chở khách, tương tự như xe buýt nhưng tuyến xe chạy xa hơn ngoài phạm vi nội đô (Xe đò lục tỉnh) 249. Xe Honda = xe gắn máy ( có một thời gian người miền Nam quen gọi đi xe Honda tức là đi xe gắn máy – Ê! mầy tính đi xe honda hay đi xe đạp dậy?) 250. Xẹp lép = lép xẹp, trống rổng ( Bụng xẹp lép – đói bụng chưa có ăn gì hết) 251. Xẹt qua = ghé ngang qua nơi nào một chút (tao xẹt qua nhà thằng Tám cái đã nghen – có thể gốc từ sét đánh chớp xẹt xẹt nhanh) 252. Xẹt ra – Xẹt vô = đi ra đi vào rất nhanh 253. Xí = hổng dám đâu/nguýt dài (cảm thán khi bị chọc ghẹo) 254. Xí xa xí xầm, xì xà xì xầm, xì xầm= nói to nhỏ 255. Xía = chen vô (Xí! cứ xía dô chiện tui hoài nghen! ) 256. Xiên lá cành xiên qua cành lá = câu châm chọc mang ý nghĩa ai đó đang xỏ xiên mình ? (gốc từ bài hát Tình anh lính chiến- Xuyên lá cành trăng lên lều vải) 257. Xiết = nổi ( chịu hết xiết = chịu hổng nổi = không chịu được) 258. Xỏ lá ba que = giống như chém dè (vè), tuy nhiên có ý khác là cảnh báo đừng có xen vào chuyện của ai đó trong câu: “đừng có xỏ lá ba que nhe mậy” 259. Xỏ xiên = đâm thọt, đâm bị thóc chọc bị gạo,… (ăn nói xỏ xiên) 260. Xưa rồi diễm = chuyện ai cũng biết rồi (gốc từ tựa bài hát Diễm xưa )
-Tony- Sài Gòn trước 1975 * Mọi người vui lòng để lại ý kiến bên dưới nếu cảm thấy sai hoặc thiếu xót *
|
|
|
Post by Can Tho on May 29, 2017 18:34:42 GMT 9
THEO CHÂN NGƯỜI ĐI MỞ CÕI Đây là một chương trong “Phiếm sử lược truyện” của Ngộ Không Phí Ngọc Hùng (Tủ sách T.Vấn & bạn hữu, 2016). Giọng văn tửng từng tưng trên trời dưới đất, lại bàn về những địa danh cổ đầy thú vị, nên xin trích ra đây. Tất nhiên, những thuyết về tên gọi những vùng đất được nêu trong bài đều không phải đã hoàn toàn chân xác, mà chỉ là để khơi gợi trong ta trí tò mò khám phá tìm về một thời mở cõi của tiền nhân. Riêng ở phần cuối của chương có trích 2 câu thơ nổi tiếng của Huỳnh Văn Nghệ, nhưng với tôi lại là 2 câu xàm xí mứng nên cắt đi, cho bõ ghét. Nhớ cái quần què, người thuở đó khốn cùng sát háng mới phải chịu đày thân xuống phương nam nước đọng phèn dày sốt rét thương hàn chầu chực, cá sấu cọp vằn rình rập. Lo sinh tồn thôi đã ná thở, quởn đâu nhớ tới chốn xưa đã đày ải mình. Trượng phu đã vỗ đít là đi đéo ngoái đầu, hơ hơ! _______ THEO CHÂN NGƯỜI ĐI MỞ CÕI (….) Rất ngay tình với bạn đọc: với tháng ngày đắp đổi, cho đến nay ngộ chữ tôi đang bí chữ, chưa biết viết bài mới nào cho ra hồn ra vía. Đang táo bón kinh niên về chữ nghĩa thì bắt gặp một bài viết với tựa đề: Chuyện đời người đi mở cõi. “Chuyện về dòng họ Thái vượt biển bằng thuyền thúng đi về phương nam, nơi dừng chân đầu tiên là Vũng Tàu, kế đến là Gò Công, sau cùng mới sang Ba Tri - Bến Tre lập làng sinh sống. Làng của dòng họ Thái lập có tên là Trại Già, nay là Ba Tri. Sở dĩ có tên làng như vậy là do xưa kia ở đây có rất nhiều cây già sinh sống…” * * * Cứ theo cụ Ngộ Không trong “Chữ nghĩa làng văn” thì: “Cây dừa, tiếng Bắc vào thời vua Lê chúa Trịnh gọi là cây da. Chữ Việt cổ, cây dừa theo chân người đi mở cõi vào đến miền Nam vẫn là cây dừa. Riêng người Vĩnh Long kêu cây da xưa cũ là cây đa. Nếu kêu cây dừa thì họ phát âm là cây gừa”. Chứ chả có cây già? Bèn đọc lại bài “Giấc mộng con” xem, ngộ chữ tôi theo chân cụ Nguyễn Trãi xuôi theo con đường thiên lý và con đường cái quan từ ải Nam quan tới tận Cà Mau, có ghé qua địa danh Ba Tri - Bến Tre có cây già như cây gừa chăng? Xem đến khúc thì bắt gặp ngộ chữ tôi vẫn còn ngồi ở cái quán nhậu ở ven phố Cà Mau từ khươm mươi niên trước. Trộm nghĩ đất Cà Mau nào có gì, không ngoài “Cà Mau hãy đến mà coi/ Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội lềnh như bánh canh” thì khỉ gió cắn răng gì đâu chả biết nữa, vừa lấy tay đập con muỗi đậu trên trán một cái chát. Hốt nhiên có một cụ ông, đầu quấn khăn chữ nhân, râu trắng, vai vắt miếng khăn rằn, móng tay dài, miệng móm xọm ngậm điếu thuốc rê đi vào. Gặp ngày quán đông, cụ ngó lơ như không thấy ai, và lụm cụm ngồi ngay bàn ngộ chữ tôi và thổi khói um lên. Ngộ chữ tôi cũng làm như cụ không có mặt trong cõi trần ai thế tục này, lậu bậu câu ca dao “Cà Mau hãy đến mà coi” để xem muỗi kêu như sáo thổi thế nào. In hịt, cụ vo ve: “Muỗi bằng gà mái, cọp tùa bằng trâu”. Đến nước này thôi thì cũng đành đáo giang tùy khúc, nhập gia tùy tục là học theo người Nam, ngộ chữ tôi ngay đơ với cụ là ngoài muỗi, chỉ biết “Cà Mâu” với đỉa lội lềnh như bánh canh thôi. Nghe vậy cụ hà rầm: Cà Mâu là tên cũ, tên mới là Cà Mau, là “Tưk Kha-mau”, tiếng Kh’mer có nghĩa là nước đen, là màu nước do lá tràm của rừng tràm U Minh rụng xuống làm đổi màu nước. Cà Mau là xứ đầm lầy ngập nước, có nhiều bụi lác. Chém chết ngộ chữ tôi không biết cây lác là gì, nhưng chợt nhớ ra cây già. Bèn hỏi Ba Tri ở đâu. Nhả khói mịt mùng như có gì suy nghĩ lung lắm, cụ vỗ vai ngộ chữ tôi và nói “dễ ợt”, rồi xô ghế dứng dậy, không quên kêu xị đế Gò Đen mang theo. Tưởng cụ đưa đi Ba Tri, thì cụ đưa ra ngã ba đường có chiếc xe ngựa đợi sẵn, xe cũ kỹ như món đồ cổ. Trộm nghĩ thế sự du du hề một thoáng bạch câu thì bao giờ mới tới Bến Tre đây. Vì vậy ngộ chữ cứ ngó chừng chiếc xe thổ tả, cụ ạch đụi: - Em ngó chi vậy? - Cái xe u mê! - Em nói chi? Đành thưa gửi với cụ là ông Vương Hồng Sển gọi cái xe này là “u mê” vì… ngồi ê mu. Cụ xuội lơ: - Thiệt tình! Và chộn rộn: - Qua nói em nghe. Bập bập điếu thuốc rê, và cụ lụi đụi: - Ông ấy nói giỡn chơi vậy thôi, vì trên báo nhựt trình, ổng viết vì ổng nghe câu người ta chửi thề: “Mả cha mày chạy chứ mả ai chạy”, nên ổng giải thích Thổ là đất, Mộ là nấm mộ, xe thổ mộ tức cái xe như nấm mộ lùm lùm chạy trên đường phố. Nhưng thổ mộ là cách đọc của người mình theo âm giọng Quảng Đông, từ “tủ mọ”, tức độc mã (một ngựa). Xe thổ mộ tức xe (một) ngựa kéo. * * * Ra khỏi Cà Mau, xe thổ mộ lóc cóc trên Quốc lộ 1. Cụ cề rề cề rề hỏi cái xe thổ tả có êm ru bà rù không. Nhân chuyện đường sá, ngộ chữ tôi quanh quéo: đây có phải là đường thiên lý của các cụ ta xưa chăng? Cứ theo cụ căn cứ vào vết tích của những đoạn đường cũ, kết hợp với ký ức của dân bản địa, thì con đường thiên lý xưa thật là xưa kia chỉ tới Hà Tiên thôi. Dân gian gọi là “đường triều chính” hay “đường quan”, vì đường làm cho các quan đi ngựa hoặc đi cáng nên gọi là đường cái quan. Lại “ngựa” nữa nằm tịt trong đầu ngộ chữ tôi ở đâu đó, nên mắt tròn dấu hỏi. Làm như đi guốc trong bụng ngộ chữ tôi, cụ rôm rả: Năm 1832, Minh Mạng thứ 12 dùng 6 chữ cuối trong một bài cổ thi 8 chữ để đặt tên cho 6 tỉnh miền Nam ngày nay: Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, và Hà Tiên. 6 chữ trong câu thơ là: Khoái mã GIA BIÊN VĨNH ĐỊNH AN HÀ, nghĩa là “phóng ngựa vung roi giữ yên bờ cõi”. Cụ chàng ràng thêm miền Nam với Nam kỳ Lục tỉnh bắt đầu từ Biên Hòa hướng về miền Nam, tận cùng với đảo Phú Quốc (thuộc Hà Tiên) gồm 6 tỉnh liên tiếp và sát nhau: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Năm 1858 thời Tự Đức thứ 11, Pháp và Tây Ban Nha đánh chiếm Đà Nẵng. Năm 1859 đánh chiếm Gia Định. Năm 1862, sứ thần Phan Thanh Giản ký hòa ước với Thiếu tướng Bonard, nhường 3 tỉnh miền đông Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cho Pháp. Năm 1867, Tự Đức thứ 20, Pháp định ngày lấy 3 tỉnh miền tây Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Cụ Phan Thanh Giản liệu không giữ nổi, bảo các quan nộp thành trì rồi uống thuốc độc tự tử. Từ đó (năm 1867) Nam kỳ thành thuộc địa của Pháp. Dòm thấy cụ vẫn còn kẹp xị đế giữa hai đùi, ngộ chữ tôi bồ bã văn chương quán nhậu với “Uống rượu như cụ Phan Thanh Giản uống thuốc độc”. Cụ ngó ra ngoài đồng ruộng và làm như tọa đàm với trâu bò, chứ chả phải nói chuyện với ngộ chữ tôi: “Thời Trịnh Nguyễn gọi Đàng Trong - Đàng Ngoài vì chiến tranh Nam Bắc. Thời Tây vì chia để trị, nó gọi Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ. Thiệt kỳ cục hết sức, người mình bây giờ lại học theo Tây với Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ. Bộ họ hết chữ rồi sao ta?” Cụ chỉ: chỗ kia là “đầm”, là chỗ trũng nước quanh năm. Cà Mau có Đầm Dơi, Đầm Cùn. Ngộ chữ tôi thầm nghĩ có đầm là có sông. Như có thần giao cách cảm, cụ lôm côm: - Qua nói em nghe: “Cái”, miền Bắc gọi là sông lớn, thì miền Nam kêu là sông nhỏ. Vì “Cái” tiếng Phù Nam là sông con. Những địa danh bắt đầu bằng chữ Cái đều nằm trên sông nhỏ chảy ra sông lớn như Cái Bè, Cái Nước, Cái Vồn, Cái Răng. Ngã ba sông là “Vàm”, như Vàm Cỏ, Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ Tây, Vàm Cống… Ngộ chữ tôi chưa kịp nghe cho thông, cụ đã càm ràm: - Em có biết ai đặt tên sông Cửu Long không? Để qua nói em nghe. Thế là nước chảy theo dòng về những bến sông… “Mặc dù các chúa Nguyễn có công mở rộng bờ cõi và hoàn thành cuộc Nam tiến năm 1757 để có sông Cửu Long. Nhưng chỉ có ông chúa cuối cùng đời thứ 9, chúa Nguyễn Phúc Thuần, mới là người có biết sông này qua thực địa, trước khi bị nhà Tây Sơn bắt giết ở Long Xuyên năm 1777. Nói như thế không có nghĩa Nguyễn Phúc Thuần là người biết sông chảy ra chín cửa mà đặt tên Cửu Long. Ông bị Tây Sơn đuổi đánh, truy sát rất ngặt và cuối cùng mạng vong, có thì giờ đâu mà nghĩ đến chuyện Cửu Long. Nguyễn Phúc Thuần mất, người kế nghiệp là Nguyễn Phúc Ánh, tức Gia Long sau này, có thể nói là người biết tận tường về sông nước Cửu Long hơn ai hết, nhờ những năm lặn lội khắp miền Nam trong thời kỳ trốn tránh nhà Tây Sơn, nhưng ông cũng không phải là người đặt tên Cửu Long giang, vì việc vua đặt tên cho một nơi nào đó là một việc quan trọng, phải được Quốc sử quán ghi vào chính sử. Thử lật Đại Nam Nhất Thống Chí, bộ địa-sử của triều Nguyễn xem. Vắng tanh. Đã thế, năm 1836, khi đúc chín cái đỉnh đồng lớn (Cửu đỉnh) đặt trước Thế miếu trong Đại nội Huế, Minh Mạng đã cho chạm hình Tiền giang và Hậu giang trên Huyền đỉnh. Lại lần giở đến các bộ chính sử Đại Nam Thực Lục (Tiền biên và Chánh biên) và Đại Nam Liệt Truyện (Tiền biên và Chánh biên) cũng sẽ thấy sự vắng vẻ của cái tên Cửu Long. Như vậy nhà Nguyễn không đặt tên Cửu Long. Cái tên Cửu Long do những người đi mở bờ cõi trên bước đường khai phá vùng châu thổ Cửu Long, lấy ý từ chín cửa sông đổ ra biển mà đặt ra. Cái tên Cửu Long giang có thể xuất hiện sau thế kỷ XVII, khoảng năm 1732, khi những người mở bờ cõi có mặt ở Vĩnh Long, An Giang”. * * * Chiếc xe thổ mộ vẫn cọc cạch trên đường các quan xưa kia vẫn đi ngựa, cáng võng. Cụ hết chỉ chỗ kia là “bưng”, là từ gốc Kh’mer “bâng”; chỉ chỗ đất trũng giữa cánh đồng, mùa nắng không có nước đọng, nhưng mùa mưa ngập khá sâu và có nhiều cá đồng. Có câu “Về bưng ăn cá, về giồng ăn dưa” là thế. Ở Ba Tri của ông già Ba Tri, tỉnh Bến Tre, có hai bưng là Bưng Trôm và Bưng Cốc. Ngồi gõ vào trí nhớ với một thời văn chương quán nhậu gọi Johnnie Walker là “Ông già chống gậy”, ngộ chữ tôi một mình về thăm ký ức, dường như “Ông già chống gậy” là “Ông già Ba Tri” thì phải? Cụ ngay tình không rành, mà chỉ hay biết: “Ông già Ba Tri tên thật là Thái Hữu Kiểm (hay Cả Kiểm) sống vào thời đầu của triều vua Minh Mạng, tức là khoảng những năm 1820. Ông Kiểm là cháu nội của ông Thái Hữu Xưa, một người quê ở Quảng Ngãi nhưng đã xuôi thuyền vào vùng đất Ba Tri này dựng làng lập nghiệp, xây chợ cho cư dân quanh vùng. Ngoài ra, lúc còn trẻ, ông Kiểm còn có công giúp Nguyễn Ánh trong những năm tháng loạn lạc chinh chiến với nhà Tây Sơn, nên được sắc phong chức Trùm Cả An Bình Đông của phủ Ba Tri ngày đó. Có lẽ chính nhờ tước hiệu của Gia Long ban cho mà sau này dân quanh vùng gọi ông là Cả Kiểm. Năm 1806, ông Kiểm dựng chợ Trong bên cạnh rạch Ba Tri, giúp cho dân cư ở khu này có nơi làm ăn sinh sống. Khi đó có ông xã Hạc ở chợ Ngoài chơi ép, đắp đập chặn không cho ghe thuyền từ sông vào chợ Trong. Ông Kiểm bất bình, kiện lên phủ huyện, phủ huyện xử chợ Trong thua với lập luận: “Mỗi làng đều có quyền đắp đập trong địa phận làng mình”. Cả Kiểm cùng dân buôn bán ở chợ Trong không chịu phán quyết trên. Ông cùng hai ông già nữa là Nguyễn Văn Tới và Lê Văn Lợi, khăn gói đi bộ từ Ba Tri ra Huế năm 1820, để đưa đơn lên nhờ vua phúc thẩm lại phán quyết bất công kia. Cuối cùng với lộ trình khoảng hơn 1.000 cây số, mất gần nửa năm, ba ông già cũng tới nơi. Lúc này Gia Long mới băng hà, Minh Mạng vừa lên ngôi. Vua thụ lý xử cho dẹp bỏ đập, với lý do rạch là rạch chung của cả chợ Ngoài lẫn chợ Trong. Từ đó, dân Bến Tre gọi ông Cả Kiểm là ông già Ba Tri”. Ngồi trên xe “u mê” lâu quá cũng u mê với chợ Ngoài chợ Trong, nên ngộ chữ tôi khong khảy với cụ: “Chợ búa” là cái búa gì. Cụ vuốt râu mà rằng: Chợ búa đều chỉ nơi họp chợ để mua bán, nhưng ngày xưa có phân biệt. Chợ là nơi có lều quán, họp theo phiên. Búa họp trên một đám đất rộng, không có lều quán, không có phiên. Từ chợ búa, cụ bắt qua khoai củ, khoai lang với thơm và khóm, có câu “Ai dzìa Giồng Dứa qua truông/ Gió rung bông sậy, bỏ buồn cho em”. Cụ cà rà “giồng” là chỗ đất cao hơn ruộng, trên đó cất nhà ở và trồng rau, khoai củ và cây ăn trái. Bởi vậy nên mới có câu: “Trên đất giồng mình trồng khoai lang”. Ở Bến Tre có Giồng Trôm, ở Mỹ Tho có Giồng Dứa, sở dĩ có tên như thế vì vùng này ở hai bên bờ sông có nhiều cây dứa. Dứa đây không phải dứa của Bắc kỳ ngộ chữ tôi có trái, mà Nam kỳ của cụ kêu là thơm, khóm. Đây là loại cây có lá gai như lá thơm, lá khóm. Lá này vắt ra một thứ nước màu xanh, có mùi thơm dùng để làm bánh da lợn. Thế là được thể, ngộ chữ tôi nói vãi thì lại nói vơ: - Tại sao Nam kỳ không kêu là bánh da heo mà lại kêu bánh da lợn? Cụ móc họng ngộ chữ tôi: - Tại sao Bắc kỳ không nói “nói toạc móng lợn” mà lại nói “nói toạc móng heo”? Vì bí ngô bí khoai nên ngộ chữ tôi thưa với cụ ăn mày chữ nghĩa theo cụ Ngộ Không qua “Chữ nghĩa làng văn”: Paulus Huỳnh Tịnh Của là học giả người miền Nam, trong Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, ông giải nghĩa Lợn là heo, vì người miền Nam phần lớn là những di dân từ miền Trung xuống, tiếng nói của họ nặng, khi phải bẩm trình với quan lớn, họ phát âm thành “quan lợn”. Quan cho là vô phép nên sai lính lấy hèo phạt, ai bẩm “quan lợn” là phải đòn 10 hèo. Nhiều người bị phạt hèo nên khi thấy con lợn, họ hình dung ngay ra những cây hèo vút vào mông họ, nên họ gọi mỉa con lợn là “con hèo”. Rồi để khỏi lầm lẫn con lợn với cây gậy quái ác ấy, họ bớt đi dấu huyền, còn lại là… con heo. Con lợn từ miền Bắc xuống miền Nam thành con heo là như thế. Tiếp đến, chuyện Trư Bát Giái được cụ kể lể như Tây du ký: Con lợn tiếng Việt cổ gọi là “con heo” (hay con cúi) bằng chứng với câu “nói toạc móng heo”. Di dân vào miền Nam thì con lợn được kêu lại với tiếng xưa là… con heo. Đột dưng cụ phe phẩy: - Qua hỏi em: chớ con lợn khác con heo ở chỗ nào? Đợi ngộ chữ tôi chớ phớ ra rồi, cụ mới tào lao: - Con heo ăn bắp, con lợn ăn ngô! Ngó thấy mặt ngộ chữ tôi… ngu như lợn, nên không biết bắp và ngô khác nhau ở cái khổ nào. Cụ bèn văn minh miệt vườn với cây cảnh: Với cây cảnh, tiếng Việt cổ gọi là bông, là trái. Nhưng vì ảnh hưởng từ “hoa quả” của tiếng Hán nên người Bắc gọi là hoa, là quả. Thành ngữ cổ có câu: “Tháng Tám nắng rám trái bưởi”. Di dân vào miền Nam, người Nam vẫn giữ tiếng Việt cổ là bông, trái. Từ chữ “vô” chui vào tai lọt ra miệng, ngộ chữ tôi định lơ mơ lỗ mỗ với cụ chữ “vô” ngừời miền Nam nói là “dô”, vì giao thoa với người Miên nên bị biến âm đi, thì cụ lại “Qua nói em nghe”. Và ngộ chữ tôi nghe thủng ra là: Từ thời nhà Nguyễn có cuộc di dân “vào” miền Nam. Tiếng “vào” của người miền Bắc cổ được kêu là “vô”. Vì tiếng “vô” là thổ ngữ của người Mường thượng du Bắc Việt. Người Việt cổ vay mượn chữ “vô” này một thời gian rồi trả lại cho người Mường. Nhưng người Việt khi vào Nam khai khẩn đất hoang, chữ “vô” theo chân người đi mở cõi vẫn giữ lại chữ “vô”. Từ bông là hoa, cụ “hoa thiên tửu địa”, nôm là trời hoa đất rượu, là… nhậu. Cù Lao là đảo nhỏ. Người Chàm cũng gọi tương tự như người Mã Lai: palao là “hòn đảo”. Cù Lao gốc Mã Lai là Pulaw, là “hòn đảo”. Trong tiếng Việt đã có sẵn từ “cù lao” có âm na ná pulaw, nên pulaw mang vỏ ngữ âm của cù lao. Khi nhà Thanh chiếm Tàu, người Tàu đi thuyền sang nước ta vào Đàng Trong. Trên thuyền họ nấu nướng tôm cá bằng bếp lò. Bếp lò tiếng Tàu là “lô”, người Quảng Đông gọi là “lẩu”. Vào đến miền Nam, họ trở thành người Minh Hương, sống rải rác trên cù lao như người Việt ta. Vì vậy dân nhậu kêu món lẩu với cái lò giữ nóng là “cù lao”. Nhân chuyện cá tôm, cụ bắt qua địa danh Cần Thơ, tên gọi rất Việt nhưng lại bắt nguồn từ tiếng Kh’mer “kìn”, là cá sặc rằn, nhưng người ở Bến Tre của ông già Ba Tri gọi là cá “lò tho”. Vì vậy ghép địa danh từ “kìn” của Kh’mer và “tho” của Bến Tre, ra Cần Thơ. Với Bến Tre, xưa kia người Kh’mer gọi nơi đó là Srok Treay. Srok là xứ, Treay là cá. Sau người Việt biến chữ Srok thành “Bến” nhưng chữ “Treay” không là cá, mà phát âm theo tiếng Khmer thành “tre”. Vì vậy mới có đất Bến Tre trồng… dừa Xiêm. Cầm xị đế, khi không cụ chộn rộn tới bến. Ngộ chữ tôi đần đù là nhậu tới bến hóa ra là tới… Bến Lức. Theo cụ cùn quằn đúng ra là “Bến Lứt”. Lứt là tên ban đầu, vì nơi đó có nhiều cây lứt, và phát âm sai là Bến Lức. Từ Bến Lứt vì đứt gánh nên cụ quang gánh về Cái Răng thuộc Cần Thơ với “k’ran” tiếng Kh’mer chả phải là cái răng, mà là cá rán. Xong, cụ mới xả láng với ngộ chữ tôi: đế Gò Đen mần ở Bến Lứt. * * * Tới Hóc Môn là quê tổ của xe thổ mộ, ngộ chữ tôi đắp chữ vá câu, chiếc xe một ngựa kéo này nhằm vào đầu thế kỷ XIX, người Hóc Môn học được từ xe ngựa chở cỏ cho ngựa ăn ở đồn Tây. Thời ấy Tây gọi xe thổ mộ ta là “tac a tac” hay xe “hộp quẹt”. Cụ càm ràm ngộ chữ tôi nói chi nói dữ thần về cái xe hộp quẹt. Rồi cụ chú ụ: - Qua nói em nghe, đất tổ của xe thổ mộ là Bình Dương. Hơ! Ngộ chữ tôi thấy cụ cũng ngộ, vì không có xe “tac a tac” thì làm sao đi lại con đường xưa cũ của các cụ ta xưa. Trong khi ấy, cụ xớ rớ tới chuyện bà này bà nọ… Chuyện là tới Hóc Môn, cụ biểu xà-ích bắt hai lít đế Bà Điểm. Ngộ chữ tôi ớ ra, gì mà dữ thần vậy? Cụ sành điệu củ kiệu là để làm “ít ly” với nem Thủ Đức sau này. Bèn ớ ra nữa. Cụ chàng ràng: “ít ly” là “y một lít”. Vì vậy ngộ chữ tôi chỉ đợi tới Thủ Đức để cụ “lỳ một lam”, ngộ chữ tôi “làm một ly” cho phải đạo nhậu. Lại ngẫm ngợi, nếu có Bà Quẹo ắt hẳn là nhậu… quẹo hàm luôn. Thì vào tới Chợ Lớn, chỉ cái bảng tên đường (1954) “Da Bà Bàu” cụ lôm côm là có người nói quán bà tên Bàu. Rồi cụ cười khình khịch, vì người khác lại cho là quán bà có bầu, ngồi dưới cây da (cây đa) nên chẳng biết đâu mà rờ. Cụ lắc đầu: nhưng bà tên Bàu hay bà có bầu thì cắc cớ gì mà đặt tên đường? Xe thổ mộ lốp cốp dọc theo kinh Tàu Hủ. Cụ liu diu: Có nhiều người cho rằng người Tàu ở miệt dưới kinh Tàu Hũ nên có thịt kho tàu. Nhưng với người Nam, “tàu” đây là… “lạt”. Vấn xong điếu thuốc rê, cụ rề rà: Tên Sài Gòn được Petrus Trương Vĩnh Ký đưa ra đầu tiên, và ông dựa theo “nghe nói”, như: “Sài là mượn chữ viết theo chữ Hán có nghĩa là củi gỗ, Gòn là chữ Nam chỉ bông gòn do người Cao Miên đã trồng chung quanh đồn đất xưa của họ”. Trương Vĩnh Ký viết tiếp: “Theo ý tôi, hình như tên đó là của người Cao Miên đặt cho xứ này, rồi sau đem làm tên gọi thành phố. Tôi chưa tìm ra được nguồn gốc đích thực của tên đó”. Sài Gòn từ “Thầy Ngòn” là thuyết được đưa ra bởi hai người Pháp là Aubaret và Francis Garnier. Thuyết này được Vương Hồng Sển, Thái Văn Kiểm, Sơn Nam, Nguyễn Ngọc Huy đồng ý, và chỉ khác nhau cách diễn tả. Nhưng tất cả đều dựa dẫm vào hai ông Tây trên và Trương Vĩnh Ký. Vì với phương diện ngữ âm, “Thầy Ngòn” rất giống “Sài Gòn”. Tuy nhiên theo lịch sử không phải vậy, vì lịch sử chứng minh rằng tên “Sài Gòn” có trước, mãi sau người Tàu mới đọc theo và đọc trại là Thầy Ngòn. Ngoài ra, về nghĩa lý thì cả hai chữ này hầu như vô nghĩa theo tiếng Hán. Vô lý hơn nữa, gần đây có thuyết Sài Gòn là từ “Sài Gòong”, mà Sài Gòong là tên của một vùng ở tỉnh Quảng Ðông. Người Tàu từ Ðề Ngạn (Chợ Lớn) ùa ra ở Sài Gòn (Gia Ðịnh kinh), gọi thành phố là Sài Gòong để tưởng nhớ quê hương bên Tàu của họ. Ngộ chữ tôi nghe vào tai chui ra miệng với cụ rằng: - Lịch sử nào chứng minh rằng tên Sài Gòn đã có từ trước? Nhả khói mịt mùng gió mây xong, cụ lúp xúp: - Năm 1767, Nguyễn Cư Trinh trình lên chúa Nguyễn Phúc Khoát một bài sớ: “… Từ xưa việc dùng binh là mở mang bờ cõi. Nay Nặc Nguyên đã hối lỗi nạp đất xin hàng. Từ Gia Định đến thành La Bích đường sá xa xôi không tiện mở mang đất đai, nên lấy hai phủ này để củng cố cho hai doanh trại. Năm xưa mở mang Gia Định, trước hết mở đất Hưng Phúc, sau mới mở đến Sài Gòn là kế tằm ăn dâu (tàm thực). Sài Gòn địa thế rộng rãi, dân số đến vạn người, đóng quân giữ thực sợ chưa đủ. Vậy xin cho Chân Lạp chuộc tội, lấy đất hai phủ ấy cho phiên đặt thành đóng quân, chia cắt ruộng đất cho lính và dân, vạch rõ biên giới, cho lộ vào châu Định Viễn để thu lấy toàn khu”. Thời vua Lê chúa Trịnh, theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết: “Năm 1674, Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên phá vỡ Lũy Sài Gòn”. Đây là lần đầu tiên chữ Sài Gòn xuất hiện trong sử liệu. Khi không cụ cười tít toét: - Qua nói em nghe: Hán-Việt viết là “Sài Côn”, Côn đọc theo Nôm là Gòn. Như vậy, từ năm 1674 đã có địa danh Sài Gòn, thì mắc mớ chi phải đợi đến 1778, khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị Tây Sơn tiêu diệt phải chạy đi và lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn, hay Xi Coón tức Tây Cống như Vương Hồng Sển viết sách. Em nghe có đặng không? Xe lóc cóc lọc cọc qua Lái Thiêu, Thủ Đức, cụ nói chuyện ai ai cũng biết, như giai thoại ông tên Lái uống rượu Hóc Môn say bí tỉ thiêu cái chợ, nên mới có tên Lái Thiêu. Hay “Thủ” chỉ đồn canh gác dọc theo đường sông, có vị thủ đồn ở nơi này tên là Đức, nên cư dân gọi là chợ Thủ Đức. Vì chuyện này ai cũng biết rồi nên cụ không nói nữa. Thế nhưng có điều cụ nghĩ không ra là nem chua Thủ Đức ăn với bún ở chợ Búng gần đấy. Chợ Bún nguyên thủy chỉ bán mặt hàng bún, cớ sự lại kêu là Búng. * * * Cách rách vì ông tên Lái uống rượu thiêu cả chợ nên “bún” thành “búng”, cụ quên tuốt chuyện mua nem uống với đế Bà Điểm. Xe lui cui hết bò lên đèo Ngoạn Mục (Phan Rang) đến xuống đèo Rù Rì (Nha Trang). “Con ngựa già của chúa Trịnh” thở như bò thở khi phải vượt qua đèo Cả (Khánh Hòa), vì đèo này quanh co trải dài tới 12 cây số. Đi dọc theo ven biển, ngộ chữ tôi lưỡi đá miệng thưa với cụ: - Người trong nước khi rày chơi bi-da nên gom bi: Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên: Long Châu Hà. Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên: Bình Trị Thiên. Hà Đông, Nam Định, Ninh Bình: Hà Nam Ninh. Bởi nhẽ đó con cháu các thế hệ sau này đọc văn học sử: cụ Nguyễn Khuyến ở “Hà Nam Ninh”, chả biết cơ ngơi thổ quán cụ Tam nguyên Yên Đỗ ở xó xỉnh nào. Ngước mắt lên dãy Trường Sơn xa xa, ngộ chữ tôi làm như ngứa miệng: - Còn Kontum, Pleiku, Daklak thì khi nào họ gọi là Kon Ku Lắc? Vậy mà cụ chả vén môi cười cho một tiếng. Nghĩ cụ cũng hay, vì nhớ lại chuyện bông là hoa, cụ “hoa thiên tửu địa”, nôm na là trời hoa đất rượu, là… “nhậu”. Thế nhưng nghĩa bóng của hoa thiên tửu địa là nhậu và chơi bời thì cụ có sậm sượt chi đâu! Mãi khi tới Bình Định, ắt hẳn là vì chuyện cụ Nguyễn Khuyến bỗng dưng không đâu mất cả dấu tích quê hương bản quán của mình, nên cụ mới ngược dòng lịch sử với tiền nhân mở mang bờ cõi với những địa danh nay đã trở thành phế tích: Bình Định vốn đất cũ của Chiêm Thành. Theo sách Đồ Bàn Ký triều Minh Mạng, thì sau khi bị Lê Đại Hành đánh lấy thành Địa Rí (982), vua Chiêm Thành chạy vào đây đóng đô mới, đặt tên kinh đô là Đồ Bàn. Vì Đồ Bàn (Chô Pan) là hiệu của vua. Thành Đồ Bàn cách thành phố Qui Nhơn (thuộc tỉnh Bình Định) 27 cây số. Lê Thánh tôn chiếm được Ðồ Bàn và đặt tên là phủ Hoài Nhơn, phủ lỵ đóng tại thành Ðồ Bàn cũ. Tiếp đến là chúa Nguyễn Hoàng, những tù binh của chúa Trịnh bị bắt đã bị đày tới đây. Hay những người đi mở cõi theo chân chúa Nguyễn lần lần vào đây mở mang bờ cõi. Phủ Hoài Nhơn được Nguyễn Hoàng đổi ra Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc chiếm Quy Nhơn của chúa Nguyễn năm 1778 và đổi tên là thành Hoàng Đế, và sau đó là kinh đô của Hoàng đế Nguyễn Nhạc. Nguyễn Ánh sau này chiếm lại được thành Quy Nhơn, rồi đổi tên Quy Nhơn ra Bình Định, mang ý nghĩa đã thắng nhà Tây Sơn và bình định được đất này. Chỉ khác là năm 1802, thủ phủ của vùng đất Bình Định vẫn nằm ở thành Hoàng Đế cũ. Năm 1814, Gia Long cho dời thủ phủ về hướng nam và gần thành phố Quy Nhơn ngày nay hơn, cách vị trí thành Hoàng Đế cũ khoảng 5 cây số. Nói chuyện láp dáp vậy mà tới Quảng Ngãi hồi nào không hay. Và làm như hồn ma bóng quế những di tích Bình Định vẫn còn theo cụ vào Quảng Ngãi như vào Thục địa qua vỉa tầng văn hóa trầm tích còn ẩn tích đây đó, nên giọng cụ u uất và bứt rứt: Tổ tiên của người Quảng Ngãi ngoài lớp di dân, một phần khác là tội “đồ” từ thời Lê Thánh tôn (1460-1497) bị đày vào vùng đất ngoại biên này khi dẹp loạn Chiêm Thành. Nhà Lê chia tội phạm thành năm loại: xuy, trượng, đồ, lưu, tử. Xuy là đánh roi. Trượng là đánh bằng gậy. Đồ là làm dịch đinh. Lưu là lưu đày. Tử là tử hình. Tội lưu có 3 hạng: lưu cận châu (châu gần), lưu viễn châu (châu xa), lưu ngoại châu (biên giới). Với tội đồ lưu ngoại châu, đàn bà bị thích dấu vào tay, đàn ông bị thích dấu vào trán. Nhóm tội “đồ”, trong đó có một số người chống đối triều đình, mang trong người dòng máu phản kháng, can cường. Dòng máu “phản kháng” đó, dòng máu “can cường” đó luôn luôn chảy trong huyết quản của người Quảng Ngãi. Làm như có gì bấn búi lắm, cụ rối rắm với ngộ không tôi: - Chiêm Thành lợi dụng ta chiến trận với nhà Minh, đem quân đánh phá. Lê Thánh tôn sắp đặt một trận quy mô để Chiêm Thành kiệt quệ và chiếm được Bình Định. Vì vậy, lưu ngoại châu phải là Bình Định. Sao vua Lê lại đưa tội đồ vào Quảng Ngãi? Ngộ không tôi nghĩ không ra, nhưng cũng búi bấn là cớ sự gì cụ “thao thiết” (chữ từ Võ Phiến, người Bình Định) với Quảng Ngãi quá vậy? Ngừng lại một chút, giọng cụ hùi hụi, nghe lạ, giọng “nhớ hung”: - Cũng là một gốc những người di dân khai hoang lập ấp từ Thanh, Nghệ, Tĩnh thời vua Lê chúa Nguyễn, người dân miền này đi đến xứ khác làm ăn sinh sống, đem theo cả phương ngữ của mình, dần dần người ở đó dùng quen miệng như “xí nữa” là chút nữa, “y nguy” là y nguyên. Những từ đó, ở nơi đó thành ra cư dân bản địa không thấy gì khác. Đó là sự giao thoa, pha trộn phương ngữ trong tiếng Việt. Hai chữ “xí nữa” chui vào đầu ngọ ngoạy, ngộ chữ tôi bật ra câu nằm chết dí trong tâm khảm hồi nào không hay. Nay “y nguy” nó lòi tói y chang ra khỏi miệng: - Núa chi lọa rứa? Thế là cụ đổ quạu, giọng kháp kháp như vịt xiêm đực: - Chửi choa khơng bèng phoa giạng. Thấy mặt ngộ chữ tôi đực ra, cụ dàng dênh là chưởi cha không bằng pha giọng. Rồi lại ngẫm ngợ xa gần: vì hồi nãy mình ăn nói tầm ruồng Kontum, Pleiku, Daklak gọi là Kon Ku Lắc với cụ chăng? Mà cụ cũng lạ rứa, có vậy mà cũng nổi hung. Bị mắng lại câm như thóc, chả nhẽ ngồi đồng hóa bụt. Tới Hội An, ngộ chữ tôi ăn đong ăn vay với cụ giai thoại về một cái tên: Dựa theo bản đồ của Alexandre de Rhodes ghi chú: Hai Phố (phố Tàu và phố Nhật). Người Tàu phát âm là “Hải Phố”. Cùng thời Alexandre de Rhodes, thêm giai thoại có ông Tây bập bẹ tiếng Việt tới phố Hội An hỏi: “Faifo?” Ý hỏi là có phải phố không? Từ đó, với các nhà biên khảo, trong văn học sử, Hội An có tên Faifo. Thế nhưng theo Voyage from France to Cochi-China của Captain Rey, người Pháp vào năm 1819 viết: “Vịnh Tourane đã được ghi lại trong chuyến hải trình đến Trung Hoa năm 1792 của Lord Macartney. Nay tôi vẽ lại chính xác hơn và thêm một bờ biển từ đến đảo Tiger gần Huế. Fai-Fo giống như một hải cảng ở Ấn Độ”. Bỗng dưng không đâu cụ cười khấm khứu: - Như vậy tên Fai-Fo đã có từ năm 1802 thời vua Gia Long. Còn tên Hội An từ đâu ra, em nói qua nghe? “Em” đành ngọng cho tới khi tới Quảng Nam. Tới đây cụ chỉ xuống con đường cái quan còn rơi rớt lại cả một khúc dài bên cạnh Quốc lộ 1, di tích của đường còn khá rõ, với gờ đường khá rộng khoảng 4m. Cụ bùi ngùi trong một cõi đi về: “Con đường cái quan này từ Nguyễn Hoàng mới có”. Rồi cụ lắng đọng trong cô lý cô liêu. Ngộ chữ tôi chả hiểu sao cụ nhắc đến Nguyễn Hoàng ở khúc đường này. Đợi cụ hoài cổ trong lắng đọng một hồi lâu, ngộ chữ tôi len chân vào chuyện với Ngũ Quảng thì chỉ đếm lòi mắt có 4 quảng: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Nam và Quảng Ngãi. Còn Quảng thứ 5 nằm nơi mô? Bèn mò vào Chữ Nghĩa Làng Văn, được cụ Ngộ Không dạy rằng: Nguyễn Hoàng 1558 đóng ở Ái Tử, Quảng Trị. Nguyễn Phúc Nguyên dời vào làng Phước Yên, Quảng Điền. Sau Gia Long lập dinh Quảng Đức và dời vào đây. Vì giống như Bến Lức với Bến Lứt, người Huế đọc Quảng Đức là “Quảng Đứt”; như vậy là nhà Nguyễn “đứt” gánh không truyền tử lưu tôn được. Vì vậy, qua thời Minh Mạng thì Quảng Đức đổi thành Thừa Thiên, là thừa mệnh trời. Nghe ngộ chữ tôi trần ai khoai củ đến đây, cụ chộn rộn chàng ràng rằng cụ Ngộ Không chỉ ngộ chữ, vì sau khi vua Chiêm là Chế Mân dâng cho vua Trần vùng đất Thuận Hóa, thì từ thời nhà Trần đã có Quảng Đức rồi, chứ không phải thời Gia Long. Từ Thuận Hóa, chăn trâu nhân thể dắt nghé, cụ dắt ngộ chữ tôi vào Quảng Nam. Năm 1558, Nguyễn Hoàng dẫn quân vào Thuận Hóa (Thuận Hóa vừa được nhà Lê lấy lại trong tay nhà Mạc). Qua Thanh Hóa, Nghệ An, Nguyễn Hoàng được Mạc Cảnh Huấn và Nguyễn Ư Dĩ (làm quan nhà Lê, chức Thái phó) đem quân lính và gia quyến theo vào Quảng Trị. Sau khi ổn định tình hình và an cư lạc nghiệp rồi, Nguyễn Hoàng cho di dân từ Quảng Trị, Huế vào Quảng Nam, Quảng Ngãi. Trong lớp di dân này có 4 hạng khác nhau: Đầu tiên là những người đào tẩu vì trốn chạy trả thù của các triều đại. Như nhà Trần xuống, nhà Lê lên, một số con cháu nhà Trần và nhà Mạc phải trốn chạy. Nhiều nhánh họ Mạc và họ Trần phải đổi họ và chạy vào Thanh Hóa, Nghệ An. Hạng di dân thứ hai là những lính thú đi mở cõi về phương Nam (như Nguyễn Ư Dĩ). Hạng thư ba là di dân nghèo khổ. Hạng thứ tư những người tù tội từ thời Lê Thái tổ. Và không ít thì nhiều, gốc gác họ là lính thú, tội đồ, mang cái tâm trạng của kẻ bị đi đày. Với di dân nghèo khổ, vì sinh tồn phải đối phó nghịch cảnh trở thành thói quen của người Quảng Nam, Quảng Ngãi hay cãi để thắng chứ không chịu thua. Thế nên dân gian mới có câu “Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co, Thừa Thiên ăn hết”. Đến Đà Nẵng, cụ dạy Đà Nẵng xưa kia mang tên Thạch Giản vì viết và đọc nhầm là Tu Gián. Vì hai chữ Thạc 碩 và Tu 須 viết gần giống nhau. Từ đó, qua sự vụng về của người biên chép và thông ngôn thời Tây mà địa danh viết nhầm là Tourane. * * * Con ngựa già của chúa Trịnh ì ạch kéo cái nấm mộ lắc cắc lụp cụp lên đèo Hải Vân có Hải Vân quan của Minh Mạng. Bên cạnh vẫn còn bia đá ghi hàng chữ “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” đánh dấu ranh giới Đại Việt và Chiêm Thành thời nhà Trần. Xe thổ mộ đổ xuống Huế. Ngồi trong nấm mộ xe, ngộ chữ tôi loay hoay vặn vẹo rộn cả người với chuyện vừa lụi đụi qua ba đèo Ngoạn Mục, đèo Rù Rì, đèo Cả (12 cây số) tới đèo Hải Vân hiểm trở nhất. Vì vậy, dân gian mới có câu “Đường bộ thì sợ Hải Vân/ Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi”. Ngộ chữ tôi ngó chừng Sài Gòn-Huế đường dài 1.000 cây số, ngựa đi tối đa 20 cây số một giờ mà gần hai tháng mới đến đây, vì ngựa còn phải ăn cỏ dọc đường nữa chứ. Chứ như ông già Ba Tri (khi ấy 70 tuổi) và hai ông bạn già với đế Gò Đen, nay ghé chỗ này mai ở chỗ kia, nên từ Bến Tre đi bộ tới Huế gần nửa năm trời cũng dễ hiểu thôi. Bèn thưa với cụ ngầu sự này, cụ ngó lơ… Ngồi không hóa rồ nên ngộ chữ tôi lại rối chuyện với các cụ ta xưa kia đi ứng thí với con đường thiên lý xa xưa cùng một thời bút nghiên: “Năm Kỷ Sửu (1889) tức năm Thành Thái nguyên niên, một khoa thi tiến sĩ được mở tại kinh đô Huế. Làng Hành Thiện có 20 cống sĩ đậu cử nhân các khoa trước dự thi. Trong đó có cụ Nguyễn Như Bổng, 62 tuổi, đậu cử nhân năm 1888. Cụ đã làm quan tới chức Tri huyện, nhưng vì làm Tri huyện không được phép thi hội thi đình, nên cụ xin cáo quan để dự thi khoa Kỷ Sửu. Việc đi đứng vô cùng cực nhọc ở dọc đường. Đường đi từ Hành Thiện vào Huế dài khoảng 600 cây số, cụ phải đi đường bộ mất hai tháng có hơn. Cụ khởi hành từ đầu tháng Hai âm lịch để kịp trình giấy tờ cho bộ Lễ 10 ngày trước khi thi. Cụ rất giàu, có ba đầy tớ theo cụ vào Huế, hai người khiêng võng cụ, một người gánh mùng màn quần áo, thuốc thang cùng tiền nong và ít đồ lặt vặt như điếu ống, ấm chén pha trà và một túi lớn đựng đầy sách; vì khi đi đường nằm trên võng cáng, cụ không lúc nào mắt rời quyển sách. Cụ còn thuê một trai tráng trong làng khỏe mạnh, chỉ mang dùi đục, búa, mã tấu, dao rựa, là những dụng cụ để chặt cây phạt cỏ chắn lối đi, đẽo thân cây to lấy chỗ đặt chân trèo lên cây mắc võng ngủ khi đi giữa rừng mà trời đã tối vì sợ ông ba mươi. Cụ đi đò dọc lên thành phố Nam Định rồi đi bộ theo đường thiên lý, tức là đường cái quan nối Hà Nội với Huế và nối Huế với Hà Tiên. Đối với sĩ tử, con đường thiên lý tùy theo từng khúc, từng đoạn, có tên chứ không có đường. Vì những khúc nào chạy qua khu dân cư đông đúc thì còn dấu. Những đoạn nào băng qua rừng, sau bốn năm ứng thí, sau bốn mùa mưa, cây cối cỏ dại mọc che mất dấu, vì vậy nhiều khi lạc đường cả đêm ở trong rừng. Đường đi phải leo đèo lội suối qua sông, nên vất vả nhọc nhằn không phải là ít. Nhằm lúc sông nằm ở vùng đìu hiu hút gió, không có đò, phà, phải đợi thuyền câu đi ngang qua vẫy gọi xin qua sông…” Ngó lơ một hồi, cụ thở ra và lóng ngóng cái tên có một chữ: “Huế” không thôi, mà nó lắt léo làm rối trí và tốn nhiều giấy mực cho các nhà sử học, biên khảo không phải là ít: Năm 1636, Nguyễn Phúc Lan chọn làng Kim Long làm nơi đặt phủ, khởi đầu cho sự hình thành Huế sau này. Năm 1687, Nguyễn Phúc Thái dời phủ đến làng Thụy Lôi, đổi tên là Phú Xuân. Phú Xuân trở thành kinh đô dưới triều đại Quang Trung (1788-1802) cho đến khi thống nhất, Gia Long đóng đô ở Phú Xuân, gọi là Kinh sư. Theo những nhà biên khảo cổ đại thâm căn cố đế, thì chữ Huế bắt nguồn từ chữ Hóa trong địa danh Thuận Hóa. Hóa biến thành Huế do kỵ húy tên ông Nguyễn Nạp Hóa, cháu 6 đời của Nguyễn Bặc là tổ của nhà Nguyễn. Những tài liệu sử học cũ, ngoại trừ Quốc Triều Chính Biên Toát Yếu, khi nói tới Huế, đều dùng cái tên Phú Xuân chứ không dùng tên Huế. Trong hồi ký của Pierre Poivre, một thương nhân Pháp đến Phú Xuân năm 1749, tên Huế xuất hiện nhiều lần là “Hué”. Bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim là bộ sử đầu tiên của ta viết bằng chữ quốc ngữ, tác giả đã sử dụng nguồn sử liệu của phương Tây, và tên “Huế” xuất hiện. Tất cả từ thư tịch Tây mà ra, từ Dictionnaire Căm-Vietnamien-Français (Từ điển Chăm-Việt-Pháp) của Gerard Moussay, xuất bản tại Phan Rang năm 1971, ghi là Hwe. Mà Hwe tiếng Chăm có nghĩa “hương thơm”. Thuyết khác cho rằng với dạng Hoé (họ dựa theo hồi ký của Pierre Poivre) tiền thân của địa danh Huế đã tồn tại trong dân tộc người Chăm. Vì năm 1307, lúc triều Trần chính thức nhận hai châu Ô và Lý, người Chăm gọi nơi mình trú ngụ với tên Hoé. Họ lại dựa vào Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi: Năm 1472, niên hiệu Hồng Đức thứ 3, dân lưu xứ Thuận Hóa bấy giờ vẫn gọi đất này là Hoé. Thế nhưng Huế đã có từ đời Lê, trong Thập Giáp Cô Hồn Quốc Ngữ Văn, Lê Thánh tôn có viết: “Hương kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an túc, bì hồ tiêu, than Lào, thóc Huế…”. Hốt nhiên cụ cười tít toét: - Qua hỏi em nè: nếu vua Lê Thánh tôn không viết chữ Nôm mà là chữ Nho thì chữ “Huế”[1] vua viết sao ta? Đến như Tây còn láo ngáo “Hoé” với “Hué” nữa là! * * * Xe lắc cắc lụp cụp đến thành cổ Quảng Trị, cụ biểu xà-ích đi tìm đế Kim Long. Trong khi chờ đợi, chả hiểu đường mưa ướt đất nào, cụ lại lúi húi với Nguyễn Hoàng: Đường từ Huế xuống Quảng Nam là con đường cái quan của Nguyễn Hoàng cho làm nên. Trên đường cái quan đặt nhiều dịch trạm để chuyển công văn, sắc lệnh. Những công văn thường được cuộn tròn đựng trong một ống tre nhỏ, ngoài được niêm phong, đóng dấu mộc. Tại dịch trạm đều có phu trạm chạy bộ chuyển công văn, cũng có dịch trạm được cấp ngựa và cầm đuốc chạy suốt đêm, nên được gọi là Hỏa đầu quân. Làm ngụm Kim Long, cụ xìu trông thấy và thở ra: - Những người di dân đi mở cõi khi đến vùng này bị “phá”. Vì vậy dân gian mới có câu “Yêu em anh cũng muốn vô/ Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang”. Phá là chỗ biển ăn sâu vào đất liền, hai bên là những đầm lầy. Như Đầm Chuồn, Đầm Sam, nếu không có tên gọi chung là “Đầm phá Tam Giang”. Người di dân gặp phá thì… Cụ không nói nữa. Nhìn mặt ngộ chữ tôi, cụ rầu rầu: - Nhìn mặt em cù lần hết biết. Nhấp ngụm đế, cụ lụ khụ: - Em có thấy câu “Yêu em anh cũng muốn vô/ Sợ truông nhà Hồ sợ phá Tam Giang” thì chữ “vô” người di dân mang từ Bắc vào Trung, rồi chữ “vô” Nam không? Là cù lần biển nên ngộ chữ tôi chỉ biết phá Tam Giang bây giờ xuôi từ biển Thuận An về Quảng Trị thôi. Thưa với cụ xong, cụ lôm côm với mấy ông Tây: - Khi Tây lập địa đồ vùng Quảng Trị, khí hậu quá nóng vì gió Lào. Tây hỏi người địa phương vùng đất này tên gì? Thấy người Tây mồ hôi nhễ nhại, ngở hỏi thời tiết nên trả lời là: “Gió Lào”. Người phu lục lộ ghi vào sổ tay là… Gio Linh. Lên phía bắc một chút nữa, gặp một con sông có bến thuyền bè qua. Tây hỏi tên gì, người địa phương trả lời là Bến Hói. Người phu lục lộ lại ghi vào sổ tay là… Bến Hải. * * * Vào Quảng Bình, qua Đồng Hới vùng đồng bằng, ngộ chữ tôi lõ mắt đi tìm lũy Đồng Hới và sông Gianh chia cắt Nam Bắc mà không ra. Làm như đi guốc vào bụng ngộ chữ tôi, cụ cho hay phân chia đất của Trịnh-Nguyễn là thung lũng sông Gianh, chứ không phải sông Gianh. Mà đúng ra người địa phương gọi là sông Ranh, là sông chia ranh giới. Nghe sông nước rì rào, gió thổi rát cả mặt, lẫn trong gió, ngộ chữ tôi nghe như tiếng rên xiết của hồn tử sĩ gió ù ù thổi trong cuộc phân tranh mấy trăm năm trước giữa hai dòng họ Trịnh-Nguyễn. Xe ngừng lại ở đỉnh Đèo Ngang ranh giới giữa Quảng Bình-Hà Tĩnh, chẳng thấy con cuốc của bà huyện Thanh Quan đâu, cụ nông nả là cuốc chỉ sống ở đầm lầy chứ không ở vùng sỏi đá núi non này, nên “quốc quốc gia gia” trong văn học sử là trật lất. Tới Nghệ An, đến Đô Lương cụ bảo xà-ích ngừng lại, xuống xe cụ nhìn trời mây nước. Thêm một lần cụ bứt rứt với ngộ chữ tôi qua những địa danh với phương ngữ của vùng đất chó ăn đá gà ăn muối này. Đô Lương, như “nậu” là làng do một nhóm thợ hay lái buôn lập ra, “tích” là làng của những người làm muối, “đội” là làng do một đội lính lập ra, “tộc” là làng chỉ do những người cùng một tộc lập ra. Vào với ra thì ngộ chữ tôi chả hiểu cụ muốn nói gì. Cụ bảo ấy là chuyện sau, cụ sẽ kể cho nghe. Nghe chưa xong đã tới Thanh Hóa, xe lụp cụp lắc cắc trên con đường đầy ổ gà và lỗ chân trâu nên “u mê” thật. Thấy lạ bèn hỏi. Cụ suông sả đây là con đường thiên lý của nhà Hồ. Nhà Hồ đem quân đánh Chiêm Thành, vua Chiêm phải dâng đất Quảng Nam để bãi binh. Như vậy theo dãy Hoành sơn (Đèo Ngang) vào đến Quảng Nam, người Việt đã mở rộng lãnh thổ của mình xuống 3/5 lãnh thổ Chiêm Thành. Chính sách di dân của người Việt ta chỉ thật sự bắt đầu với họ Hồ. Hồ Hán Thương cho làm con đường thiên lý từ Thanh Hóa đến Thuận Hóa để khai khẩn đất hoang, đào sông dẫn thủy nhập điền, như thế đủ thấy về sự khai khẩn quốc thổ của nhà Hồ. * * * Xe lọ mọ lụp cụp lắc cắc bò lên đèo Tam Điệp, ngộ chữ tôi hẻo chữ với cụ rằng cái xe “tủ mọ” của cụ chạy khi kêu lắc cắc lụp cụp, lúc thì lụp cụp lắc cắc thì khác nhau ở khổ nào. Cụ sớ rớ là ngộ chữ tôi lại cù lần nữa, ví nó khác nhau ở đường thiên lý hay đường cái quan. Xe “tủ mọ” đổ xuống Ngọc Hồi. Làm như được gãi ngứa với văn dĩ tải đạo, với Đạo là đường, cụ xa vắng là ngộ chữ tôi đang đi trên con đường của Quang Trung ngày nào. Để rồi cụ ngược dòng lịch sử: Năm 1789, Quang Trung mang quân từ Nghệ An tới đèo Tam Điệp để đánh Tàu. Vua cho quan quân ăn tết Kỷ Dậu sớm ở đây. Tối giao thừa cho xuất quân “thần tốc”, vua tính trước: vượt qua 105 cây số tiến về Thăng Long phải mất 4 ngày. Vậy mà chậm mất một ngày. Ngày mùng 5 Tết mới tới Hà Hồi. Đột nhiên cụ luôm nhuôm: - Qua hỏi em, chớ bà Hồ Xuân Hương có quởn lội bộ từ Thăng Long vô tới đây để làm bài Đèo Ba Dội, để “Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo” không, em nói qua nghe? Hơ! Từ bà vợ quan huyện đi qua đèo Ngang, bây giờ cụ rị mọ qua bà chúa thơ Nôm trèo lên đèo Ba Dội (Ba Dội là tên nôm của đèo Tam Điệp). Với thượng thiên hạ địa, hóa ra cụ cũng văn chương thiên cổ sự khiếp, nào khác gì cụ Ngộ Không. Cuối cùng xe thổ mộ cũng lui cui qua cầu Long Biên vào Hà Nội… Thôi thì đến cớ sự này, đất có thổ công sông có hà bá, ngộ chữ tôi cũng đành ăn đong ăn vay “Chữ Nghĩa Làng Văn” để xằn xò với cụ rằng Hà Nội của Ngộ Không cũng tiêu hao chữ nghĩa lắm, nào khác gì Sài Gòn của cụ. Tất cả bằng vào các địa danh như Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Hà Nam, Hà Bắc, Hoàng Sa, Trường Sa ở nước ta đã được dùng ở bên Tàu, và được dùng trước ta lâu đời, về sau ta bắt chước chăng? Vì Hà Nội là tên huyện thuộc tỉnh Hà Nam ở đâu đó bên Tàu. Ngộ chữ tôi vén môi nói chữ rằng năm 1802, Gia Long cử Nguyễn Văn Thành làm tổng trấn miền Bắc, và đổi kinh thành Thăng Long là Bắc Thành. Tuy nhiên theo một nguồn khác, trong văn thư Ngô Thì Nhậm tấu lên Quang Trung, Ngô Thì Nhậm gọi Thăng Long là “Bắc Thành”. Từ đó trong văn học sử gọi là Bắc Thành thành tên, chứ không phải Quang Trung đổi tên như nhiều sử gia đã viết. Bởi Quang Trung khi có mặt ở Bắc hà, có một ông tiến sĩ họ Đỗ, để lấy lòng vua mới, xin đổi Tây Hồ ra tên khác, ngài trả lời: “Tây Hồ là thắng cảnh của người Thăng Long, người Thăng Long vẫn yêu mến và lưu luyến với Tây Hồ, lẽ nào nay vì trẫm lại đổi tên hồ được. Khách Tây Sơn, cảnh Tây Hồ, cũng là duyên kỳ ngộ. Cảnh chẳng phụ người, làm sao người phụ cảnh”. Bởi trước đó hồ có tên là Dâm Đàm, vì khói sương mờ mịt tạo nên cảnh mù sương trời đất. Năm 1573, Lê Thế tôn vì tên húy của vua là Duy Đàm, nên đổi là Tây Hồ. Năm 1831, Minh Mạng thứ 12 đổi Tây Hồ là Hồ Tây. Các cụ ta xưa gọi địa danh theo đông nam tây bắc để có “Tứ trấn” bảo vệ Thăng Long: trấn Kinh Bắc (Bắc Ninh), trấn Sơn Nam (Nam Định), trấn Sơn Tây, trấn Hải Đông (Hải Dương). Nhà Nguyễn nói chung, Minh Mạng nói riêng lệ thuộc vào nhà Thanh, nên Minh Mạng thứ 12 (1831) ngồi ở Huế đổi tên Bắc Thành thành Hà Nội. Trong cơn đồng thiếp với chữ nghĩa, ngộ chữ tôi nho táo với cụ: Chuyện Hà Nội ở bên Tàu lấy từ câu sách Mạnh tử: “Hà Nội hung tắc di kỳ dân ư Hà Đông, chuyển kỳ túc ư Hà Nội”, tức Hà Nội bị tai họa thì đưa dân về Hà Đông, đưa thóc từ Hà Đông về Hà Nội. Vì vậy có thể Minh Mạng đặt tên Hà Nội và Hà Đông theo Mạnh tử, nhưng vì ngồi ở Huế, Minh Mạng không biết Hà Đông nằm ở… phía tây Hà Nội. Đến tao đoạn này cụ cười khấm khứu: - Qua nói em rồi: với Cửu Long giang, vì cũng ngồi ở Huế nên Minh Mạng láo ngáo không biết, cho khắc Tiền giang, Hậu giang trên Huyền đỉnh đấy thôi. Thiệt tình! Tiếp đến ngộ chữ tôi mọt sách ăn giấy: Hà Nam, năm 1890, Thành Thái năm thứ 2, lấy chữ “Hà” của Hà Nội và chữ “Nam” của Nam Định ghép lại thành Hà Nam. Với Hải Dương, ngộ chữ tôi chữ nghĩa ngập răng: Nhà Lý đổi thành lộ Hồng, sau đổi thành lộ Hải Đông. Trần Thuận tôn đổi làm trấn Hải Đông. Lê Thánh tôn đặt thừa tuyên Nam Sách. Nhà Mạc lấy Nghi Dương làm Dương Kinh. Trích phủ Thuận An ở Kinh Bắc, các phủ Khoái Châu, Kiến Xương, Thái Bình ở Sơn Nam cho lệ thuộc vào Dương Kinh. * * * Thấy ngộ chữ tôi chuyên chở chữ nghĩa trên đường thiên lý với Nam Sách, Hải Dương. Cụ bảo xà-ích đánh xe thổ mộ lọc cọc đi về phía đông. Vì đi về hướng này là Tiên Lãng, cứ tưởng cụ tới đây mua thuốc lào Tiên Lãng để quấn thuốc rê thì cụ rị mọ: - Mạc Đăng Dung là người huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Nhà nghèo làm nghề đánh cá. Có sức khỏe, dự thi đánh vật trúng Đô lực sĩ xuất thân, được sung vào túc vệ, sau thăng làm Đô chỉ huy sứ. Triều đình nhà Lê sai trấn thủ Sơn Nam, gia phong chức Phó tướng Tả đô đốc. Nhà Hậu Lê từ Lê Uy Mục (truyền thuyết dân gian gọi là Vua Lợn) đến Lê Cung hoàng suy tàn, triều chính thối nát dẫn đến việc Mạc Đăng Dung bắt các quan triều đình nhà Lê thảo bài chiếu truyền ngôi cho nhà Mạc vào năm 1527. Sau đó, Mạc Đăng Dung học theo nhà Trần, nhường ngôi cho con là Mạc Đăng Doanh, lui về làm Thái thượng hoàng. Do thời gian làm vua rất ngắn, không để lại nhiều dấu ấn gì ngoài một số việc như: đúc tiền Thông Bảo, xây cung điện ở Cổ Trai, lấy Hải Dương làm Dương kinh, tổ chức thi tuyển chọn người có tài thi Hội, sửa định binh chế, điền chế v.v… Nên người ta biết đến ông phần nhiều như là một người tiếm ngôi. Mạc Đăng Doanh mất, ông lập cháu nội là Mạc Phúc Hải lên ngôi. Ít lâu sau Mạc Phúc Hải bị bệnh mất, con là Mạc Phúc Nguyên lên nối ngôi. Mạc Phúc Nguyên cũng bị bệnh qua đời, Mạc Mậu Hợp lên ngôi. Năm 1600, Trịnh Tùng chiếm lại Thăng Long. Mạc Hậu Hợp trốn tránh ở Cao Bằng nhưng Trịnh Tùng đuổi theo tìm ra và bắt sống. Cụ thở sượt một cái, giọng yếu xìu: - Họ Mạc chấm dứt, dòng họ Mạc phải đổi họ bằng cách “khử túc bất khử thủ” là lấy ghi thêm “bộ thảo” trên đầu để đánh dấu nhận ra nhau, cho đến nay có 40 chi, phái, và tứ tán khắp nơi, từ Cao Bằng xuống miền Trung. Họ Mạc đổi họ qua họ khác như: Hoàng, Lê, Nguyễn, Phan, Đoàn, Hà, Vũ, Thái v.v… Đến đây ngộ chữ tôi ngờ ngợ vì bài viết với tựa đề: “Chuyện đời người đi mở cõi”. Chuyện về dòng họ Thái vượt biển bằng thuyền thúng đi về phương nam, nơi dừng chân đầu tiên là Vũng Tàu, kế đến là Gò Công, sau cùng mới sang Ba Tri - Bến Tre lập làng sinh sống. Làng của dòng họ Thái lập có tên là Trại Già, nay là Ba Tri… Lại nói chuyện láp dáp để vào tới Hải Dương hồi nào không hay, cụ đảo mắt ra ngoài để tìm tên con đường nào đấy. Cụ như con ốc mượn hồn, để hồn đi hoang về biển xa bãi vắng. Bèn hỏi. Cụ im ắng. Ngộ chữ tôi nghĩ quẩn: hết đường thiên lý đến đường cái quan, cụ còn tìm gì nữa? Bởi Hải Dương hay Hải Đông xưa với Dương kinh của Mạc Đăng Dung, là thành phố ven biển, không ngoài dăm con phố như Tuệ Tĩnh, Đông Kiều, Cầu Tràng v.v… Bỗng cụ mập mờ nhân ảnh mịt mùng gió mây với đường mưa ướt đất, cụ như người lạc đường với đường xưa lối cũ. Với cụ, chuyện là không hiểu sao người trong nước cấm viết về sử nhà Nguyễn từ năm 1956 đến 1958. Từ 1954, khoảng 10 năm đầu (1954-1964) Sở Văn hóa Hà Nội thành lập “Ban tên phố” giúp Sở đặt lại một số tên đường. Bỏ tên phố mang tên vua quan thời Nguyễn. Mắt vẫn đảo ra ngoài để tìm một cái tên, cụ trở lại chuyện cũ, giọng xuội lơ: - Chi Thái của Mạc Phúc Nguyên lưu lạc tới Đô Lương, Nghệ An rồi Quảng Ngãi. Trong cái đầu ngộ chữ tôi đang vất vưởng tới ông Thái Hữu Kiểm là cháu nội ông Thái Hữu Xưa, gốc ở Quảng Ngãi, sinh cơ lập nghiệp ở Ba Tri. Mắt ngộ chữ tôi tròn dấu hỏi, cụ lại cái mửng cũ “Qua nói em nghe” và sậm sòi: - Qua là ông già Ba Tri đây. * * * Từ giờ mẹo trèo qua giờ tý, tìm ra tên đường rồi, ông rì rầm muốn đi tìm ấn tích nào đó của người muôn năm cũ, một người phương Nam đi mở cõi. Người mà hơn 200 năm sau ông đã theo chân người đi mở cõi tới Quảng Ngãi, xuống tận Bến Tre. Và ông xuống xe… Bên kia con lộ, ông đang hóng mắt nhìn lên hai vách tường rêu phong ẩm ướt có hai bảng tên đường. Không phải đường phố mà là hai con ngõ kế cận nhau. Ngõ này là Hồ Hán Thương. Giữa là quán Cháo Lú. Ngõ kia tên Nguyễn Hoàng. Ngẫn ngẫn trong giây lát, ông lụi cụi đi vào một trong hai con ngõ dài ngoằng ngoẵng. Nhìn sau lưng, ông như cái dấu chấm than ngả nghiêng và mất hút đằng cuối con ngõ sâu hun hút. Từ chiếc máy lên giây thiều cổ lỗ sĩ trong quán Cháo Lú cũ kỹ cũng không kém, đâu đây văng vẳng trong hiu hắt âm vọng Nam ai Nam oán của người về từ trăm năm... _______ Phụ đính: Những địa danh Mỹ Tho, Trà Vinh, Bạc Liêu, gốc tích Mã Lai; hoặc Cao Miên như Mỹ Tho do chữ Me Sa có nghĩa là Bà Trăng. Trà Vinh do chữ Pratrapeang có nghĩa là hồ của Phật thánh. Sóc Trăng do chữ Strok Treang có nghĩa là xứ hay kho tàng. Bạc Liêu do chữ Po Loenh là cây ca cao. [1] Trong chữ Tàu, không có chữ nào là chữ Huế.
|
|
|
Post by Can Tho on Aug 8, 2017 4:58:30 GMT 9
Sài Gòn trong thơ vănViên Linh/Người Việt June 21, 2017  Kinh rạch miền Tây. (Hình: Trần Cao Linh) Rất tự nhiên mà thôi thúc, mấy câu thơ lục bát xa xăm bỗng hiện lên trong tâm tưởng một buổi chiều có chút hơi nước thổi về, như tự một cơn mưa xa, như tự một luồng sóng gần, khiến tôi nhớ tới thành phố thân yêu một thuở: “Ngồi đây trong quán Sài Gòn Lòng không muốn ở, chân còn chưa đi. Giữa đời tôi kẻ phân ly Dửng dưng lúc được, ù lỳ hồi thua. Ngồi đây đối cảnh tiêu sơ Quỷ tôi về đỉnh nhà thơ đầu thai Kiếp tôi lướt thướt hình hài Da căng thập tự, xương mài mộ bia. Xa em, chuông gióng tin về Ầm vang biển nhớ lê thê phố sầu. Xa em, để tóc nuôi râu Làm chim xếp cánh trong lầu mộng hư… (Viên Linh, Ngồi Quán; Hóa Thân, 1964) Bài thơ này làm trong một lúc xa Sài Gòn, nhưng nhớ lúc ngồi quán ở Sài Gòn. Hay cũng có thể hiểu còn đang ngồi trong quán ở Sài Gòn mà đã nghĩ tới lúc xa Sài Gòn thì nó như thế! May thay bài thơ có ghi ở dưới: 1969-1970, thời gian ấy tôi vừa tình nguyện nhập ngũ, nhưng khi nhập ngũ đã biết mình chỉ phải xa Sài Gòn một thời gian ngắn, chỉ đủ để thụ huấn quân sự cho phải phép rồi về lại trở về Sài Gòn để tiếp tục phục vụ cho trọn vẹn ba năm nghĩa vụ quân sự của một thanh niên thời chiến. Nói thế thôi, thời gian ấy đã nhân lên gấp đôi, hơn gấp đôi, là bảy năm. Mỗi người yêu thủ đô một cách, tôi yêu Sài Gòn cách nào mà hôm sinh nhật ngoài 30, sau gần 20 năm ở Sài Gòn, tôi thấy mình già cỗi: “Hôm nay năm tận, Sài Gòn Tôi nghe khiếp hãi tâm hồn già nua. Giật mình con quỷ ban trưa Tiếc mùa hoan lạc còn chưa đủ hời” (Như thế là chưa yêu Sài Gòn hết cỡ, yêu còn thiếu, còn ít) “Hôm nay trời đất có tôi Trên ba mươi tuổi làm người lãng quên Xuân hồng, một góc thiếu niên Năm năm mê mải những miền hoài nghi. Trên ba mươi tuổi ù lỳ Đêm về kéo cửa ngày đi kiếm mình Cảnh đời một cõi u minh Cảnh tôi thấp thoáng bóng hình những ai?” Như thế là đang mất mình, hay sắp mất mình trong một Sài Gòn u minh, thấy niềm tin mình hao hụt và dường như cho rằng mình chưa yêu Sài Gòn cho thật xác đáng lẽ yêu và sự yêu: “U mê hết tháng năm dài Chân trong lối kiệt, hồn ngoài bến không Hôm nay năm tận, bàng hoàng Giục thêm tiệc rượu nhồm nhoàm đĩa vơi. Nhìn ra cảnh cỗi, riêng tôi Trong hiên viễn phố thấy đời buồn lây.” (Viên Linh, Sinh Nhật: Thủy Mộ Quan, 1982) Yêu Sài Gòn đến mấy đi nữa trong cuộc đời, thế nào cũng có lúc người ta phải xa Sài Gòn. Tôi đã xa thành phố ấy nhiều lân, có lần xa vài năm rồi được trở lại. Sự việc được tìm thấy trong đoạn thơ suôi sau đây: “Sài Gòn, Sài Gòn, mưa năm năm rào rào tiếng vọng, mưa âm thầm ngõ hẻm ngoài ô. Ôi Chí Hòa, Chí Hòa, ôi khu rừng cao su đã cháy, ôi ụ đất đã san, ôi tôi rời rã. Chí Hòa, Chí Hòa, mưa sân nhà em rì rào tiếng hát. Con ngựa nào qua, cỗ xe nào đỗ, âm thanh nào lẩn xuống bàn chân? Ôi em thân yêu ôi nước mắt ngọt ngào, ôi tình yêu đã lủi, ôi con dế mèn lớp cát nhà xưa. Giọt nước rơi mưa đổ rạt rào…” (Viên Linh, Tháng Năm ở Sài Gòn, Hóa Thân) Sài Gòn không phải của riêng ai, Sài Gòn của tất cả mọi người vì đó là thủ đô của một nước; ít nhất là thủ đô của một nửa đất nước, nhưng tôi vẫn tin tưởng, với đất đai sông rạch phì nhiêu, với bến cảng mở ra Thái Bình Dương bao la độ lượng cho cả triệu triệu con người, với tâm hồn bản địa và sông rạch hòa hài cỏ cây tươi mát bao dung, Sài Gòn dù thế nào vẫn là của tất cả Việt Nam, dù Việt Nam đi hay Việt Nam ở. Nói đến Sài Gòn là nói đến đất nước. Người Sài Gòn không nhất thiết phải sinh ra ở Sài Gòn, họ có thể là người Miên, người Hoa, người Bắc, người Trung, nhưng đương nhiên người Sài Gòn là người Bến Nghé Đồng Nai. Người Sài Gòn có thể chết giống như mọi loại chết của con người, nhưng không bao giờ chết đói, chết khát hay chết rét.
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2018 15:19:55 GMT 9
Cây BầnVietnamDaily.News in Thiện Tùng, Truyện ngắn Tin áp thấp nhiệt đới gần bờ, ông Nam cùng Hải con trai ông, ngưng câu mực, xếp gọn dụng cụ, nhanh chóng cho ghe vào đất liền. Thuận gió, buồm căng, một giờ sau ghe ghim mũi vào Khém Thuyền, nơi trú bão lý tưởng cho ghe tàu đánh cá trong vùng.  Sau khi đậu neo kỹ càng, ông Nam giao Hải giữ ghe và phơi số mực vừa câu được, còn ông đùm một số mực tươi cuốc bộ sang Vàm Rỗng thăm ông Phan mới cùng con hồi hương lập nghhiệp. Mãi miết lần theo lối mòn, ông Nam khựng người nhìn bãi đất trống hàng chục mẫu (ha) vừa mới khai hoang. Những cây tạp, đa số là bần, bị cưa sát gốc ngã dọc ngang, không còn nhận ra đâu là lối đi. Ngôi nhà lợp tole sừng sững, kiêu hãnh trước cảnh tiêu điều của khu đất vừa mới khai hoang. Vào cận nhà mà đôi mắt ông Nam cứ phải dẫn dắt đôi chân vượt chướng ngại. Đứng trong nhà, che tay nhìn ra, ông Phan bật thốt to : Ôi trời ! .. Chú Tư Nam … Vô, xách gì đó, đưa tôi cầm cho. Dân câu mực, chỉ có mực – ông Nam đáp gọn và hỏi: anh định làm gì mà phá liệt địa hết vậy ? Thằng kỹ sư Kha, con trai tôi đó đà. Nó bỏ ra hàng trăm triệu làm búa xua chưa đâu vào đâu . Nó thuê hàng chục người đang đào ao nuôi tôm cận mé rạch đó. Ông Phan gọi vợ Kha pha trà và làm nhanh ít mực tươi của ông Nam đem đến, xào củ hành cho hai ông lai rai. Anh em lâu gặp, một buổi chuyện trò chưa thỏa, ông Phan rủ, ông Nam nhận lời ở qua đêm… Tối hôm ấy, đám thanh niên nhậu say mèm, ngã ra ngủ như chết. Thằng Kha vốn mạnh rượu mà vẫn như gà bị cựa, đến ngồi cạnh hai ông già, giọng lè nhè chủ yếu nói với ông Nam : – Cháu xin thưa với chú Tư, kế hoạch làm ăn của cháu còn dài dài . Trước mắt cháu thuê người phụ đào ao, đào mương lên bờ, lên liếp, dưới nuôi tôm cá, trên trồng mía. Về lâu dài, cháu sẽ sát phạt đám bần ven bãi ghim đước. Bần là nghèo, là thứ không chơi được, phải tẩy chúng đi, để chiếm đất chớ chẳng ích lợi gì?! Nếu xếp hạng trong các loại củi, nó cũng hạng bét, nấu khói như ung, còn đước hả, hết sẩy, như những vệ sĩ ngăn sóng gió, lớn lên đốt lấy than còn phải nói … Kha độc diễn, hai ông già ngồi uống trà, lặng thinh. Mất hứng nó kiếu đi ngủ. Thấy ông Nam đăm chiêu, ông Phan hỏi : – Chú nghĩ gì trông có vẻ buồn ? – Về thằng Kha mạt sát cây bần. – Nó nói thế sai ở chỗ nào ? – Chẳng lẽ anh mà đi hỏi tôi chuyện ấy ? – Cái chú nầy, chưa rõ thì hỏi chớ ở đó mà anh hay em ! Ông Nam đặt vấn đề rồi lý giải : “Bần chiếm đất của người hay người chiếm đất của bần ? Bần là loại cây lập địa đấy. Người thọ ơn bần chớ bần không thọ ơn người. Chẳng ai trồng và vun bón gì cho bần cả. Bần xuất thân từ những manh nha, chịu gió đẩy, sóng đưa đến bãi biển, triền sông, đến những nơi sình lầy nước đọng. Cây bần luôn lấn biển, lấn sông, từ leo heo một vài cây nhỏ ngoi lên giữa chơi vơi trời nước, nó vừa sanh con đẻ cháu, vừa đương cự với sóng to gió lớn. Với bộ rễ chằng chịt, nó giữ mỗi ngày một ít đất tạo nên cồn. Ai còn lạ gì : Cồn Rừng, Cồn Lợi, Cồn Chim,Cồn Ớt, Cồn Tra, Cồn Mít (Bần Mít) .v.v… ở cuối Cù Lao Minh nầy chẳng phải thế sao ? Đó là chưa nói, bần còn đứng mũi chịu sào cản ngăn sóng gió, thò rễ ra giữ đất lấn biển, gắn kết những cồn riêng lẻ ấy thành vùng đất rộng lớn, bao gồm dưới chân ta và trước mắt ta. tại sao chúng ta cố tình không chịu thấy ?… Công bằng mà nói : Cây bần là “người sáng lập”, là “thổ dân”ở các cồn và bãi bồi. Các loại cây khác và con người đến ngụ ở những phần đất ấy chỉ là những “cư dân” – người đến sau. “Cư dân” mà mạt sát, nhục mạ “thổ dân” là chẳng biết điều, không phải đạo, ỹ mạnh hiếp yếu, “ăn trái không nhớ kẻ trồng cây”. Càng nghĩ càng thương cho số phận cây bần : không bao giờ nó được sống trên những mảnh đất thuộc do chính mình tạo ra, mà nó chỉ được tạm thời sống ở ven biển, triền sông khi con người còn cho phép”. Xem mòi ông Phan còn muốn nghe, ông Nam pha trò cho vui, chống mệt mõi: Bần là loại cây có dũng khí đấy, có lẽ vì quá ức với con người, khi bị đẩy ra ven biển, xuống triền sông, chúng xúm nhau vạch “cặc” đưa lên (xin lỗi, vì cho đến nay vẫn chưa có từ thanh nào thay cho từ “cặc bần”). Để trừng phạt sự hỗn xược ấy, người ta truy theo cắt những “cặc bần” ấy về: nhỏ thì làm đế cầu lông, làm nút chai rượu, chai nưới mắm…, lớn làm nút bình thủy để giữ hương vị, hơi ấm cho con người – thường gọi là nút cặc bần. Hiện nay nhiều chợ nông thôn Việt Nam còn bày bán loại nút ấy. Nghe qua, ông Phan cười xòa, gật gật đầu nói : Thâm, vui, thú vị. Còn chuyện gì vui và lý thú nữa không ? Vỗ vai ông Phan, ông Nam nói giọng trầm buồn : Bần là nghèo, nghèo khổ ít khi vui lắm. Chuyện vui về cây bần thì hết, chuyện buồn về nó không thiếu gì. Đã khuya rồi, tôi dẫn cho anh nghe một chuyện nữa rồi ta đi ngủ : “Đất nước ta nằm ven biển, nhiều sông rạch, đặc biệt là chín nhánh Cửu Long tuôn phù sa ra biển, là nơi cây bần lưu ngụ nhiều thế hệ, và cũng là nơi chúng truyền kiếp bị bứt tử. Đêm đêm. từng đàn đom đóm bay về tụ hội trên những cây bần. Hiện tượng đó, có người cho rằng : Đấy là những oan hồn bao đời của những cây bần bị bứt tử về thăm con cháu”. Một ngư dân, đêm đậu ghe dưới gốc cây bần, nhìn mây trời phản chiếu xuống nước như những dãy núi, nhìn đom đóm đậu trên những cây bần như những ngọn đè hoa. Tức cảnh, ông làm Vịnh về cây bần : Dưới sơn thủy ngàn năm ly biệt, Trên nửa lừng chong ngọn đèn hoa, Sang chi đó canh tuần nghiêm nhặt ? Rạng ngày ra mình một xơ rơ !” Ông Phan gật đầu khen thâm thúy rồi nhìn ông Nam đặt vấn đề : Theo ý chú, vì cái công “lập địa” của cây bần, ta nên để nó tại vị mãi chớ gì ? Nếu vậy, thì lấy chỗ đâu trồng những cây hữu ích hơn cho người ? Ông Nam phân trần : Ý tôi không phải thế ! Tôi đâu phản đối việc loại bỏ cây bần khi cần thiết, tôi chỉ buồn khi nghe bất cứ ai nhục mạ nó. Đó là tình cảm hoàn toàn riêng tư của tôi đối với cây bần../- Mỹ Tho, 01/01/2016 Thiện Tùng CÂY BẦN TRONG CA DAOTùng Phạm  Ca dao Nam bộ là một bộ phận có ý nghĩa quan trọng trong ca dao người Việt nói riêng và Văn học dân gian nói chung. Ca dao thấm nhuần trong tâm hồn con người bằng cái tình quê dung dị, hiền hòa. Với ngôn ngữ dân gian của xứ sở “muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh”, người dân Nam bộ đã góp nhặt những tiếng nói ân tình cho tâm hồn người Việt bằng những hình ảnh quen thuộc mang tính biểu trưng của vùng sông nước Cửu Long. Nổi bật ở vùng đồng bằng châu thổ Cửu Long là sự có mặt của hình ảnh cây bần, một loại cây rất gần gũi với bà con Nam bộ. Cây bần là loại cây đặc thù ở vùng đất bồi lắng phù sa này. Cây bần còn gọi là cây thủy liễu, thường mọc ven các kênh rạch hay xen lẫn trong những đám lá dừa nước. Là loại cây sống trong môi trường bùn nước, bần có rễ phụ mọc nhô lên khỏi mặt bùn. Cây bần có chức năng giữ đất rất tốt, gỗ chủ yếu dùng làm chất đốt. Hoa bần màu trắng pha chút hồng phấn, rất đẹp, cho trái. Trái bần có vị chua của phần thịt, chát của phần hạt rất thú vị. Đây cũng là món ăn “độc quyền” của bà con Nam bộ: Muốn ăn mắm sặc bần chua Chờ mùa nước nổi ăn cho đã thèm Bà con Nam bộ đã dành cho cây bần một tâm tình ưu ái. Trong các câu ca dao, họ mượn hình ảnh cây bần để thổ lộ tấm lòng của mình với nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau, từ đó tạo nên nhận thức thẩm mỹ khá mới lạ về loài cây này. Xuất phát từ cái tên nghe quá đói khổ- “bần” mà người Nam bộ đã đặt câu đố về nó: Giống chi toàn là giống đực Thiếu tứ bề cam cực chung thân ? Từ kiếp bình sinh “thiếu tứ bề” ấy mà tác giả bình dân đã mượn trái bần để nói lên số phận hẩm hiu của người phụ nữ: Thân em như trái bần trôi Sóng dập gió dồi biết tắp vào đâu? Hình ảnh “sóng dập gió dồi” thật hay vì cây bần cho trái chín vào mùa nước nổi. Vì vậy nước tràn ngập lung bàu làm cho trái bần trôi dạt theo dòng nước mà không biết sẽ về đâu. Là thế đấy, cây bần mang số kiếp thật hẩm hiu, bị phũ phàng: Cây bần kia hỡi cây bần Lá xanh bông trắng lại gần không thơm Nhiều lúc cây bần trở nên mạt hạn, tầm thường trong thể hiện của người bình dân: Cảm thương ô dước, bời lời Cha sao mẹ sến, dựa nơi gốc bần Cây bần còn là cái để người ta so sánh sự sang hèn: Không thương em hổng có cần Trầm hương khó kiếm chớ đước bần thiếu chi Tuy nhiên, người Nam bộ không chỉ nhìn cây bần dưới con mắt bi quan như thế. Bằng cái nhìn hào sảng và lối sống phóng khoáng, lạc quan, cây bần còn là điểm tựa cho tình yêu đôi lứa: Làm thơ anh dán đọt bần Dán cho hai họ Nguyễn Trần gặp nhau Hy vọng để rồi khi tình duyên bị ngăn trở, bần lại là nơi cha mẹ phạt vạ con cái: Phụ mẫu đánh anh quặt quà quặt quại, Đem anh treo tại nhánh bần. Rũi đứt dây mà rớt xuống, Anh cũng lần mò kiếm em. Cái tình của người dân Nam bộ là thế, yêu “xả láng”, đánh chết cũng thương. Cây bần còn là biểu vật của sự nhớ thương, là mật hiệu của tình yêu: Chiều chiều xuống bến ba lần Trông em không thấy thấy bần xơ rơ Hay Lẻ đôi em chịu lẻ đôi Hoa tàn em cũng đợi, bần trôi em cũng chờ Nhưng nhiều lúc những cô Hai, anh Sáu lại nghi ngại, đặt vấn đề về chuyện cưới xin: Neo ghe vô dựa gốc bần Em thương anh nói vậy chớ biết mình đặng gần hay không Hay khi đã không thành duyên nợ thì: Bần gie, bần liệt, diệc đau chờ mồi Anh với em duyên nợ hết rồi Đi tìm chỗ khác đừng ngồi kế em Không chỉ vu vơ trách móc thế thôi, với cách nói như tát nước, người Nam bộ cũng mắng nhiếc: Mồ cha thằng đốn cây bần Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm Nhưng đôi lúc cũng cảm thông: Bần gie đóm đậu sáng ngời Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên Dựa vào trường liên tưởng sự vật, người dân Nam bộ đã thổi vào cây bần một luồng sinh khí có sức sống đến kỳ lạ, nó hiển hiện dạt dào trong lòng người đọc tạo nên giá trị biểu đạt phong phú. Từ đó nó tạo nên cảm hứng thẩm mỹ cho người thưởng thức. Ngày nay, cây bần vẫn còn chiếm vị trí khá lớn bên dòng sông nước Nam bộ. Nó có một ý nghĩa lớn trong tâm hồn của người dân nơi đây. Trải bao thăng trầm của thiên nhiên, nhu cầu kinh tế, và cả tác động của con người, cây bần vẫn sừng sững trong tâm thức của người dân, gợi nhớ về một thời khai hoang vùng đất “vượn hú chim kêu” của ông cha – giúp chúng ta hiểu thêm về nền văn minh miệt vườn, nền văn hóa sông nước trù phú và ngọt ngào như lời ru từ lòng mẹ, để chúng ta sẽ thấy mình có trách nhiệm hơn với quê hương. Bướm đeo dưới dạ cây bần Làm sao kết nghĩa châu trần với nhau Bướm đeo dưới dạ cây bần (2) Muốn phân nhân ngãi, lại gần sẽ phân Bướm bay dưới dạ cây bần, Làm sao kết nghĩa Châu Trần với nhau. Bởi anh đành đoạn, Đốn ngọn cây bần Thương anh em phải sớm hôm Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm, Ba bốn nơi sang cả, phụ mẫu em đành gả Em chắp tay: khoan đã chưa tới căn phần Phụ mẫu em nói: em bất chấp tôn giáo hóa, Đem treo cây bần cho kiến nó tha Ba bốn nơi sang cả, phụ mẫu em muốn gả Em chấp tay: khoan đã, chưa tới duyên phần Phụ mẫu nói em bất tôn giáo hóa Em trèo lên cây bần cho kiến nó bu Cám thương ô đước bời lời, Cha sao mẹ sến, dựa nơi gốc bần. Cây bần kia hỡi cây bần, Lá xanh bông thắm lại gần không thơm Cây bần ơi hỡi cây bần Lá xanh bông trắng lại gần không thơm. Cây bần de đom đóm đậu sáng ngời Lỡ duyên tại bậu, oán trời sao nên. Cây bần soi bóng ghe nghèo Qua sông gặp gió, em chèo giùm anh Chặt cây dừa Chừa cây mận Cây bần thận Cây bí đao Cây nào cao Cây nào thấp Cây nào rập Cây nào rà Cây nào rách Cây nào rời Mồng tơi chín đỏ Con thỏ nhảy qua Bà già hứ hự Bùm xùm xoạ Rút ra tay này Chiều chiều ngó ngọn cây bần Thấy ba ông Địa ở trần nấu cơm Ông kia xách dĩa lại đơm Ông nọ ứ hự nồi cơm mới vần Mới vần mặc kệ mới vần Bây giờ đói bụng xúc lần ra ăn. Mồ cha đứa đốn cây bần, Không cho ghe cá đậu gần ghe tôm. Mồ cha ai (Trách ai nỡ) đốn cây bần Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm Trách ai nỡ đốn cây bần Chẳng cho ghe cá đậu gần ghe tôm! Trèo lên chót vót cây bần Vái anh đi cưới vợ, cho sóng thần nhận ghe. Trèo lên chót vót cây bần, Vái anh đi cưới vợ cho sóng thần nhận ghe.
|
|
|
Post by Can Tho on May 1, 2018 17:21:06 GMT 9
ĐỒNG DAO VỚI TRÒ CHƠI DÂN GIAN Ở NAM BỘTùng Phạm Là một bộ phận trong kho tàng văn hóa dân gian Việt Nam, đồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng của trẻ em Việt Nam. Đồng dao bao gồm những bài hát, câu hát trẻ em, lời hát trong các trò chơi, bài hát ru em…  Các bài đồng dao thường gắn liền với các trò chơi. Đa phần đồng dao ở các vùng miền đều khá giống nhau về cấu trúc nhóm từ và vần điệu. Đồng dao cũng có những dị bản do sắc thái riêng của từng địa phương, thể hiện dễ thấy nhất qua hình thức diễn đạt ngôn ngữ (phương ngữ) và nội dung đôi khi được cải biên cho thích nghi, phù hợp với sinh vật, cảnh quan của địa phương đó. Nhưng đồng dao bao giờ cũng nhất quán về bản chất (vui chơi) và đối tượng phục vụ (trẻ em). Đồng dao ở khu vực Nam bộ có xuất xứ từ đồng dao chung của cả nước, chỉ biến tấu chút ít như đã kể trên. Ví dụ bài đồng dao “Kéo cưa”: Ở miền Nam: Kéo cưa kéo kít Làm ít ăn nhiều Đụng đâu ngủ đó Nỡ lấy mất cưa Lấy gì mà kéo Ở miền Bắc: Kéo cưa lừa xẻ Ông thợ nào khỏe Thì ăn cơm vua Ông thợ nào thua Thì về bú mẹ. Trong đa phần trường hợp, đồng dao với trò chơi dân gian luôn gắn bó với nhau như tay với chân, như bóng với hình, thể hiện qua các trò chơi vận động (dung dăng dung dẻ, giật khăng, đánh đáo), trò chơi học tập (đánh chuyền, đánh ô), trò chơi mô phỏng (đi chợ, làm nhà), trò chơi sáng tạo (xếp thuyền, đánh trận, chơi diều). Đối với trẻ em, đồng dao dạy cho các em sự quan sát, phù hợp với lứa tuổi cùng sự phát triển tư duy ban đầu của các em. Các trò chơi của đồng dao cung cấp cho trẻ em kiến thức dễ nhớ, dễ phân biệt, kích động trí tuệ của người tham gia. Trong bài “Vè nói ngược” có rất nhiều hình ảnh tương phản, gợi sự tò mò, bao trùm lên nhiều sự việc, kích thích người nghe tuởng tượng với sự thích thú: “Nghe vẻ nghe ve/ Nghe vè nói ngược/ Ngựa đua dưới nước/ Tàu chạy trên bờ/ Lên núi đặt lờ/ Xuống sông bửa củi / Gà cồ hay ủi/ Heo nái hay bươi/ Nước kém ba mươi / Mùng mười nước dậy /Ghe không thì đẩy/ Ghe khẳm thì chèo/ Mấy chú nhà nghèo /Cho vay bạc nợ/ Mấy chú nhà giàu / Thiếu trước hụt sau/ Đòn sóc bửa cau/ Dao bầu gánh lúa / May áo bằng búa /Giả gạo bằng kim / Đêm rằm trời tối/ Mùng một sáng trăng…”. Một trong những bài đồng dao nổi tiếng vào thế kỷ trước vẫn còn in đậm trong ký ức của nhiều thế hệ, đó là bài “Tập tầm vông”. Hầu như, đa phần các thiếu nhi, thiếu niên ở các cùng nông thôn và cận thành thị trước và sau Cách mạng Tháng Tám 1945 đều biết: “ Tập tầm vông / Chị có chồng /Em ở giá/ Chị ăn cá/ Em húp xuơng/ Chị nằm giường / Em nằm đất /Chị húp mật/ Em nếm gai / Chị ăn mày/ Em xách bị…”. Thao tác của trò chơi nầy là hai người chơi ngồi đối mặt nhau, vừa hát vừa theo nhịp đập lòng bàn tay vào nhau, hoặc đập thẳng hoặc đập chéo, hoặc một cao một thấp, hoặc kết hợp nhiều cách khác nhau. Các em thiếu nhi thường hát chung đồng dao rất nhịp nhàng trong lúc tổ chức trò chơi. Nhiều khi những bài đồng dao được hát và các trò chơi luôn thay đổi chứ không theo một chủ đề nhất định. Có nghĩa “thích gì chơi nấy”, gặp đâu nói đó, chỉ cốt cho vần vè, có khi nội dung bài rời rạc, lẩn quẩn, câu nầy chỏi câu kia, chuyện kia bắt quàng sang chuyện nọ. Nhưng “vui là chủ yếu” Ví như : “Ông Nỉnh ông Ninh / Ông ra đầu đình/ Ông gặp ông Nang/ Ông Nảng ông Nang/ Ông ra đầu làng/ Ông gặp ông Ninh/ Ông Nỉnh ông…” (thường gặp ở phía Bắc) Hay: “ Kỳ nhông là ông kỳ đà/ Kỳ đà là cha cắc ké/ Cắc ké là mẹ kỳ nhông/ Kỳ nhông là…”(Thường gặp ở Nam bộ). Trong sinh hoạt dã ngoại, hội hè, trẻ em luôn thích thú với đồng dao và trò chơi dân gian vì nó phù hợp với tuổi của các em, không đòi hỏi các em tư duy như người lớn. Đồng dao và trò chơi dân gian tác động vào tâm lý, tình cảm của trẻ qua ấn tượng sâu sắc về không gian, hình thể, sự vật chứ không phải bằng lý luận và phép quy chiếu của phương pháp truyền đạt cổ điển, áp đặt. “Thả đỉa ba ba” là một trò chơi thường thấy của trẻ em ở những vùng đồng bằng sông nước. Trò chơi thể hiện việc qua sông, qua bưng, ruộng ngập nước. Ở dưới nước có đỉa. Cả nhóm làm sao xuống nước mà đỉa không bám được. Trước hết vẽ hai đường song song cách nhau độ 2m (hay qui định khoảng trống nào đó) ước lệ là sông nước. Đầu tiên một em ra giữa vòng vừa hát vừa lấy tay ra đập nhịp vào vai các bạn: Thả đỉa / ba ba Chớ bắt / đàn bà Tha tội / đàn ông Cơm trắng / gạo trắng Gạo thuyền như nước Đổ mắm / đổ muối Đổ chuối / hạt tiêu Đổ niêu / nước chè Đổ phải nhà nào Nhà ấy…. chịu Đến chữ “chịu” trúng em nào thì em ấy xuống sông làm “đỉa”. Bọn trẻ đứa chạy đầu này, đứa băng qua sông góc nọ. “Đỉa” rượt để bắt. Bọn trẻ lại hát bài hát ghẹo: Sang sông / về sông / trồng cây / ăn quả / nhả hạt. “Đỉa” rượt bên này thì bên kia xuống sông. “Đỉa” quay lại bên kia thì lũ bên nọ lại réo lên: “ăn quả / nhả hạt” rồi ào xuống. Ai lội qua sông không khéo, chẳng may bị “đỉa” bám phải thì trở thành “đỉa”. Cứ thế trò chơi cứ tiếp diễn đến khi nào mệt, xả hơi rồi chuyển sang trò chơi khác. Có rất nhiều trò chơi vui vẻ và thú vị như: Dung dăng dung dẻ, Rồng rắn lên mây, Chơi chuyền đũa, Nu na nu nống, Thìa la thìa lẩy, Bịt mắt bắt dê, Hỏi tuổi, đánh cù (con quay)… Các trò chơi thường lặp đi lặp lại. Các em chơi rất say mê, vui vẻ và ít khi bỏ cuộc, khác với người lớn thường hay chán. Qua các trò chơi, các em được dịp rèn luyện thân thể và các giác quan cũng như tăng thêm sự sảng khoái, hưng phấn về tinh thần. Có thể nói, đồng dao và các trò chơi dân gian là chất xúc tác, vun đắp tình bạn ngây thơ, trong sáng giữa các em thiếu nhi với nhau thành những ký ức, kỷ niệm đẹp thời thơ ấu mà sau nầy khó có thể quên được. Kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian của dân tộc ta rất phong phú và đa dạng. Đồng dao và trò chơi dân gian có tác dụng giáo dục thiếu nhi, nhi đồng một cách tự nhiên, có hiệu quả. Ngày nay, cuộc sống văn minh đã sản sinh ra rất nhiều trò chơi mới, hấp dẫn, hiện đại. Nhưng xét kỹ, cho cùng, có một số trò chơi không để lại dấu ấn gì cho người chơi, nhất là đối với trẻ em. Đáng ngại là có rất nhiều trò chơi mang tính kích động bạo lực, xa lạ với bản chất nhân văn, nhân hậu của người Việt phổ biến tràn lan. Đồng dao và những trò chơi dân gian của trẻ em cần được gìn giữ phát huy, cần được bảo tồn không chỉ trong giảng dạy ở nhà trường mà nên phổ biến, tổ chức cho các em được tiếp cận, vui chơi, ít nhất là trong các dịp lễ hội, bởi đấy là một phần của bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần giáo dục thiếu niên, nhi đồng là đối tượng rất nhạy cảm trong sự hình thành nhân cách ở buổi ban đầu.
|
|
|
Post by Can Tho on Mar 12, 2019 1:41:00 GMT 9
Dủ Học Dủ Ngu Nguyễn Đức Lập
Đọc bài nào của anh cũng học được nhiều điều!
"Có một gã trung niên lãng đãng, ba năm dài nằm ở trại tị nạn hiu hắt thê lương, trước mắt mọi người thì cười cười, nói nói, nhưng trong bụng thì tím ruột bầm gan. Trích đoạn trên đây được dùng làm tựa cho thi phẩm duy nhất của nhà văn Nguyễn Đức Lập,
Trong sinh hoạt văn học hải ngoại, Nguyễn Đức Lập là một nhà văn hiếm hoi viết thuần một giọng văn miền Nam, với phong cách miền Nam, dí dỏm, hài hòa, nhưng nhờ thuộc nhiều điển cố, nên truyện của anh rất sâu sắc, thấm và đậm, ở lại trong tâm trí người đọc. Thời niên thiếu Nguyễn Đức Lập học trung học lại trường Petrus Ký, lên đại học vào chuyên khoa Luật tại đại học Luật Khoa Sài Gòn, và trở thành luật sư Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn trước 1975 – như tiểu sử anh cho tôi để giới thiệu bài đầu tiên của anh cộng tác với tờ tạp chí Khởi Hành năm 2002. (2) Lúc còn trẻ ở Sài Gòn anh có cầm bút, song chỉ viết cho nội san của luật sư đoàn, mà chưa có ý theo nghề viết. Trong vài lần trò chuyện, anh nói tôi không nhận ra anh nhưng hơn 10 năm trước lúc ở Sài Gòn, còn nhỏ, anh từng đạp xe đạp mang bài của bà mẹ tới đưa cho tôi. Mẹ anh là một nhà văn tên tuổi của miền Nam: Bà Tùng Long. (Theo nv Viên Linh)
DỦ HỌC DỦ NGU
“Trách ai ăn giấy bỏ bìa, khi thương thương vội, khi lìa lìa xa”. Câu trách như: “Tưởng giếng sâu anh nối sợi dây dài. Ai ngờ giếng cạn, tiếc hoài sợi dây”. Thú thực, tôi học được ở GS Phạm Chung (GS Anh văn). Khi rỗi rảnh, học sinh nào thắc mắc điều gì đều được thầy giải đáp. Thuở lỏi tì (thời đệ lục, cách đây cũng khoảng 60 năm), tôi phục thầy và cũng là "cảm hứng" mà tôi thích tìm tòi, tò mò, hiếu kỳ và “khoái" học hỏi... Mời các bác chia sẻ...
Nghe cái câu "Dủ học dủ ngu", càng học càng ngu, dễ mấy ai tin được. Càng học thì phải càng khôn ra, cũng như gừng, quế, "dủ lão dủ tân", càng già càng cay, mới phải cho chớ.
Hồi nhỏ, tôi học chữ Nho với thân phụ. Cha thì dạy nghiêm túc, nhưng thằng con thì học lơ là, lại thêm cái tánh rắn mắt, cắc cớ đã quen. Nên nhiều khi nó cố tình cắt nghĩa những câu chữ Nho học được theo ý của nó để cười chơi.
Học tới câu "Dủ học dủ ngu", tôi đã dám ngồi xếp bằng chễm chệ, đã nói là cái tánh rắn mắt, cắc cớ đã quen mà, cắt nghĩa cho thằng em tôi như vầy:
-"Dủ học dủ ngu", là "càng học càng ngu", thành ra, trò học ít thì trò ngu ít, trò học nhiều thì trò ngu nhiều, mà trò không học thì trò không ngu.
Thằng em gật đầu khoái trá, ai dè được mà cha tôi đứng ở sau lưng. Tôi bị 5 roi quắn đít và học 1 bài học nhớ đời: “chữ nghĩa thánh hiền không thể đem ra mà đùa giỡn được".
Không biết ông Mai Thảo có học một bài học để đời như tôi vậy chăng, nhưng ông cũng nói y như vậy, chỉ có điều ông không dùng "chữ nghĩa thánh hiền", mà ông dùng 2 chữ "văn chương". Ông nói : "Đối với văn chương phải nghiêm túc, không đùa giỡn được". Ông có thể lơ ngơ thất thiểu ngoài đường phố, đi bộ mà cũng bị cảnh sát công lộ phạt về tội vi phạm luật lưu thông. Ông có thể lè nhè nơi tiệc rượu khiến cho con nít giỡn mặt. Nhưng, khi viết, ông viết rất nghiêm túc, không bao giờ đùa giỡn với văn chương.
Bị đòn, bị học 1 bài học để đời, nhưng với tuổi trẻ háo thắng, tôi không bao giờ tin rằng "càng học càng ngu". Tin làm sao được khi con đường học vấn cứ thẳng tắp, lấy hết văn bằng này tới văn bằng kia và ra trường với 1 nghề vững chắc, trong khi mặt còn non choẹt, còn búng ra sữa, phải xin phép cha để râu mép. Cho được già dặn thêm 1 chút phải xin phép để râu, vì cha tôi quan niệm rằng: "Cha chưa chết, con không được để râu".
Cho đến khi lăn lộn ngoài đời, tôi mới biết rằng có rất nhiều điều mà sách vở và học đường không hề dạỵ. Học đường học chợ, học trên báo chí, nghe lóm những bậc trưởng thượng, thấy rằng kiến thức của mình "thiên bất đáo, địa bất chí", càng học càng thấy ngu.
Chưa cần nói tới những chuyện trời cao, đất rộng, biển thẳm, núi cao, sông dài chi cho xa, chỉ những câu ca dao, những câu hát ru em huê tình, tai vẫn nghe hoài, miệng cũng có khi hát, tưởng rằng đã hiểu cháo chan, ai dè biết ra, không hiểu 1 cái gì hết.
Hồi nhỏ, chị tôi ru em, vẫn thường hát câu: “Chim quyên ăn trái ổi tàu. Xứng đôi mẹ gả, ham giầu mà chi”.
Tôi nghe câu này tới thuộc lòng mà không hề thắc mắc. Dễ quá mà, "ổi tàu" là giống ổi ở bên Tàu chứ còn cái gì nữa. Giống ổi ở bên Tàu, dĩ nhiên, phải lớn hơn, phải ngon hơn ổi bên mình, cũng như con ngựa to lớn thì gọi là ngựa Bắc Thảo, con gà, con vịt to con, được gọi là gà Tàu, vịt Tàu ...
Không hề thắc mắc như vậy, cho mãi tới hơn nửa đời người, đọc 1 bài của ông Võ Phiến, mới biết rằng "ổi tàu" ở trong câu hát không phải là giống ổi bên Tàu, mà là 1 loại cây hoa, mọc thành từng lùm từng bụi ở mấy vùng đất gò miền Trung. Cây này ở miền Bắc gọi là hoa cứt lợn, còn ở cái xứ "chó ăn đá, gà ăn muối" của tôi thì gọi là bông ngũ sắc. Tôi đã từng hái trái của nó, lớn chỉ bằng hột tiêu, để ăn, đã từng hái những cái bông của nó để hút chất mật ngọt ở cuống bông, mà đâu biết tên của nó là ổi Tàu. Mẹ tôi vẫn thường hái bông ổi tàu này, chưng với đường phèn cho anh em tôi uống mỗi khi bị ho.
Có 1 câu hát ru em nữa, mà tôi cũng nghe đi nghe lại hoài:
“Trách ai ăn giấy bỏ bìa Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa”.
Câu này thì tôi có thắc mắc, giấy thì làm sao mà ăn? Ăn giấy bỏ bìa" là làm sao ? Tại sao hạng người "ăn giấy bỏ bìa" khi thương lại thương vội, khi lìa lại 1 mạch lìa luôn theo kiểu "hạ thủ bất lưu tình" ?
Tôi đem những thắc mắc này hỏi nhiều người, kể cả những ông thầy dạy Việt Văn, nhưng không có ai trả lời nghe xuôi tai được.
Cho mãi tới sau khi đổi đời, "giả dại qua ải" (mà chút xíu nữa thành dại thiệt), về ở rẫy, tôi mới được nghe giải thích thỏa đáng câu hát này.
Người dạy tôi là bà Ba Thời. Bà này, cạo đầu, ăn chay trường, tu tại gia, không ăn trầu, nhưng hút thuốc phun khói còn hơn là đầu máy xe lửa. Bà có biệt tài chữa bệnh bằng phương pháp cắt lể rất mát tay. Nhiều người, trong đó có tôi, nhờ bà chữa trị mà lành bịnh được. Đặc biệt bà có 3 con dao để lể, 1 cái bằng vàng, 1 cái bằng bạc, 1 cái bằng đồng, cái nào cũng chỉ lớn bằng cây móc tai. Tuỳ theo con bịnh nặng nhẹ mà bà dùng con dao nào để lể. Bà, người nẩm thấp, hơi nới về chiều ngang, mấy ngón tay mũm mĩm no tròn như nải chuối cau, nhưng cắt lể cho bịnh nhơn, bà làm coi bộ gọn gàng nhặm lẹ khéo léo lắm. Tôi khoái nhất là cái màn được bà se se mấy sợi tóc, rồi giựt nghe cóc cóc.
Đọc tới đây xin độc giả đừng vội lên án tôi là tuyên truyền đề cao cho những phương pháp chữa bệnh thiếu khoa học. Chuyện thiếu khoa học hay đúng theo khoa học, biết làm sao mà nói cho cùng. Tôi viết ra đây là theo những điều chính tôi đã từng trải qua, theo kiểu "thấy mà tin", chớ không hề thuyết phục ai phải tin theo mình cả.
Hồi 77, 78 trong nước bị khủng hoảng kinh tế nặng, một trăm thứ bệnh đều chữa bằng xuyên tâm liên. Sống ở rẫy, nếu không có những người như bà Ba Thời, bà Tám Thông, có lẽ tôi đã ấm mồ xanh cỏ từ lâu. Bà Tám Thông cũng chuyên về giác lể như bà Ba Thời, nhưng hành nghề chính thức. Mỗi ngày, bà quẩy gánh, đem đồ nghề ra chợ Phú Mỹ (nằm trên quốc lộ 15, đường SG-Vũng Tàu), giác lể, ăn tiền. Bà Ba Thời chỉ cắt có 1 vết nhỏ, rồi nặn ra 1 chút máụ. Bà còn dùng bông gòn sạch, tẩm dầu tràm, chặm lên vết thương đàng hoàng. Còn bà Tám Thông sau khi cắt, dùng bầu thủy tinh giác hơi để hút máụ. Bà nào làm ăn cũng rất bầy hầỵ. Bà dùng 1 nùi giẻ rách bươm, lau máu lau vết thương cho bịnh nhơn. Không biết 1 năm bà giặt được mấy lần, nùi giẻ dơ hầy, hôi rình.
Bởi lối chữa bịnh của bà Tám Thông làm mất máu nhiều quá, trong thời buổi ăn khoai mì cầm hơi, 1 gịot máu còn quí hơn vàng và bởi cái lối làm ăn của bà thiếu vệ sinh quá, nên tôi chỉ nhờ bà ra tay có 1 lần. Độ ấy, cứ chiều chiều là tôi cảm thấy ớn lạnh, tay chân bải hoảị. Bịnh kéo dài cả tháng không hết. Một người hàng xóm, là thím Sáu Liệt, nói tôi bị trúng nước, nếu không chữa trị cho sớm, để lậm vô phổi, thì chỉ có "bà cứu nị". Và thím giới thiệu tôi tới bà Tám Thông. Vừa nằm dài, đưa lưng trần cho bà cắt, giác, mà tôi nhờm gớm cái gì đâụ Tôi nhủ thầm là tự hậu, không bao giờ tới bà lần thứ 2. Quả thiệt như vậy, tôi không tới gặp bà lần nào nữa, vì chỉ 1 lần chữa trị đó, bịnh hết hẳn. Mấy chuyện như vậy , biết sao mà nói cho cùng.
Cái chuyện cắt lễ khiến cho tôi nói sang đàng, xin trở về đề tài "ăn giấy bỏ bìa".
Bữa ấy, tôi ráng lội qua nhà bà Ba Thời để nhờ bà trị cho cho cái chứng Thiên Đầu Thống, đau đầu có 1 bên. Bà lấy cây kim vàng ra lể. Nói không phải để quảng cáo cho bà, bà chữa bịnh đâu có nhận tiền thù lao, chỉ cứu nhân độ thế mà thôi, vả chăng, bà mất đã 10 năm có lẻ, cát bụi trở về với cát bụi lâu rồi, đâu cần tôi phải quảng cáo. Bà cắt lể, giựt tóc nghe cóc cóc cho tôi 1 hồi, bịnh 10 phần nhẹ hết 8, 9. Bà chỉ vô cái võng treo tòng teng ở góc nhà, biểu tôi: "Thằng Tám mày nằm đó, đánh 1 giấc đi, ngủ 1 giấc, mày sẽ hết nhức đầu luôn."
Nằm trên võng, chưa ngủ được, tình cờ mà tôi học được thế nào là "ăn giấy bỏ bìa".
Ngồi trên bộ ván ngựa, bà Ba Thời trải rộng tờ giấy quyến, lớn bằng tờ nhật trình khổ lớn. Bà cẩn thận xếp đôi chiều dọc của tờ giấy, bà xếp đôi nữa, rồi lại xếp đôi nữạ. Bà dùng dao rọc theo những lằn xếp. Tờ giấy, như vậy, được rọc ra thành tám mảnh, chiều dài vẫn giữ y nguyên. Tự nhiên, bà nói :
- Rọc giấy như vậy kêu bằng ăn giấỵ. Miếng giấy, tao rọc làm 8 vun, kêu bằng ăn 8, nhiều người hà tiện, rọc thành 16 vun, kêu bằng ăn 16. Nhưng giấy ăn 16, điếu thuốc ngắn ngủn, kéo chưa đủ 3 hơi đã hết. Tao thà chịu tốn giấy, ăn 8, đặng vấn điếu nào đáng điếu nấy, hút mới đã.
Không chờ không đợi mà tôi còn mừng hơn là khi không bắt được vàng thoi bạc nén vì bỗng dưng, bà ngâm nga :
Trách ai ăn giấy bỏ bìa Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa.
Bà cắt nghĩa liền
- Thằng Tám mày thấy không? giấy quyến đâu có bìa, hổng có cái gì đáng mà phải bỏ hết. Vậy mà có những kẻ ăn giấy, bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hữụ. Những kẻ ăn giấy bỏ bìa này chánh thị là ba cái quân điệu bộ kiểu cách lỏng nhách, mà lại kiêu căng phí phạm bạc hẳn không ai bằng.
Bà ngậm ngùi ngang :
- Tao khổ gần 1 đời cũng vì ba cái quân "ăn giấy bỏ bìa" này đây... Bị hồi đó, tao nghèo quá ...
Té ra, giấy ở đây là giấy quyến để vấn thuốc, và ăn giấy là như vậy đó, chớ giấy không lẽ bỏ vô miệng mà ăn được. Và, có nghe bà Ba Thời giải thích như vậy, tôi mới hiểu được tại sao cái kẻ "ăn giấy bỏ bìa" lại "khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa".
Khi tôi cảm ơn vì đã học được, đã được giải thích tường tận những điều thắc mắc ôm ấp từ lâu, thì bà Ba Thời cười, khoe hàm răng ám khói vàng khè.
- Tao mà dạy cái gì? Chữ nghĩa của tao vừa đủ để ký tên. Đây là tay tao làm, miệng tao nói, cho vui vậy thôi ...
Có người sẽ trách rằng tại làm sao mà tôi lại chấp nhận lời giải thích của 1 người phụ nữ quê mùa ít học 1 cách dễ dàng như vậỵ. Trách tôi thì tôi chịu. Thú thật, tôi vẫn còn đem thắc mắc về cái câu "ăn giấy bỏ bìa" ra hỏi nhiều người lắm, có người là nhà ngữ học lừng danh nữa, nhưng không có ai giải nghĩa được hết.
Có 1 lần, đọc trên 1 tờ báo, nơi mục giải đáp thắc mắc, tôi thấy có người cũng thắc mắc về cái câu "ăn giấy bỏ bìa", hỏi rằng giấy làm sao mà ăn được, người giữ mục giải đáp đã trả lời rằng câu đó sai rồi, phải sửa lại là "trách ai được giấy bỏ bìa" mới đúng.
Đọc tới đó tôi bỗng ngậm ngùi, vì phải ai cũng có cơ duyên gặp được bà Ba Thời như tôi vậy đâụ. Bà bây giờ, đã ra người thiên cổ, 1 chữ cũng là thầy, huống hồ bà còn dạy cho tôi nhiều điều khác nữa.
Có lần, bà mời tôi hút thuốc, bà nói thuốc ngon lắm. Thuở đó, chuyện hút thuốc, tôi còn là trong mơ, cứ tưởng thuốc ngon là thuốc nhẹ lâng lâng, như kiểu thuốc vàng sợi ở Lạng Sơn. Nào dè, thuốc của bà, mới rít vô 1 hơi, tôi đã muốn bể phổi, ho sặc sụạ. Té ra, thuốc ngon là thuốc nặng, có biết như vậy rồi, mới hiểu được tường tận ý nghĩa câu "thuốc ngon nửa điếu". Trời ơi, thuốc ngon cỡ như thuốc của bà Ba Thời, mà chỉ còn có phân nửa, quến nhựa của nửa điếu thuốc trước thì... ngon kể gì.
Tôi có cơ duyên may mắn được gặp bà Ba Thời và có gặp được bà rồi mới biết mình còn ngu nhiều lắm.
Có nhiều câu thành ngữ, nghe người ta nói, hay đọc trong báo chí, sách vở, riết rồi quen, tôi cũng nói y theo như vậy, không cần biết trúng trật, không cần nghiệm coi nó có hợp lý hay không. Thí dụ như câu "Một kiểng hai quê". Câu này, người ta vẫn thường nói và tôi vẫn nói theo, để chỉ người đàn ông có 2 vợ..
Một dịp tình cờ, tôi nghe chị Mũ Đỏ Vũ Thị Vui nói khác, chị Vui là 1 phụ nữ, có 1 thời ngang dọc, là 1 sĩ quan nổi tiếng trong binh chủng nhảy dù. Chính chị làm quan, chứ không phải làm quan tắt. Chị bày tỏ ý kiến 1 cách nhẹ nhàng, không cần thuyết phục người nghe:
- Phải nói là "Một kiểng hai huê" mới đúng.
"Huê" là "hoa", vì kiêng tên bà Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng, nên chữ "hoa" phải đọc là "huê", ở miền Trung, có nơi còn đọc là "ba", miền Nam thì nói là "bông".
Bữa chị Vui nói đó, có mặt cả nhà thơ Lê Giang Trần. Nhà thơ này có nghĩ gì không, tôi không biết, riêng tôi, nghe xong, tôi giật mình. Té ra, bấy lâu nay mình quen miệng nói theo người ta, trật lất mà mình không biết. 1 chậu kiểng mà trồng 2 loại hoa khác nhau, để chỉ người đàn ông 2 vợ là phải quá rồi.
Từ cái câu "Một kiểng hai huê", mới hợp với câu ca dao :
"Một bồn một kiểng tuổi xanh Một chàng, hai thiếp khổ anh nhiều bề".
Tại sao mà khổ dữ vậy?
Tại vì :
"Một chàng, hai thiếp, anh xử hiếp tôi rồi, Tối, buồng ai nấy ngủ; gạo, hai nồi nấu riêng."
Đó, như đã nói, có nhiều câu nhiều chữ, nói riết thành quen, rồi hiểu cũng theo 1 thói quen, không cần tìm tới tận gốc cái nghĩa đích thực của nó.
Hồi nãy, tôi nói tới chữ "ổi tàu", bây giờ, xin nói tới "thịt kho tàu".
Hồi trước, chỉ có người miền Nam mới biết món thịt kho tàụ Ăn với dưa giá trong mấy ngày tết. Bây giờ, bất kỳ là Bắc, Trung, Nam, không mấy người là không biết món thịt kho tàụ. Kho làm sao, không ướp hành ướp tiều gì hết, mà vẫn thơm tho? Kho làm sao mà miếng thịt mềm rục nhưng không nát? Kho làm sao mà không bỏ nước màu, nước thịt vẫn tươi màu nâu đỏ, trong khe? Mấy điều này, xin hỏi mấy bà nội trợ lành nghề. Tôi chỉ biết về điều tôi học được về "thịt kho tàu".
Ăn món thịt kho này từ hồi mới mọc 3 cái răng cửa, tới hơn nửa đời người, tôi vẫn cứ đinh ninh món này là món của người Tàu.
Thịt kho tàu là món thịt kho của người Tàu, chắc nhiều người cũng nghĩ như tôi vậỵ.
Nghĩ riết như vậy rồi quen, không hề thắc mắc rằng trong các tiệm ăn do chính người Tàu làm chủ và làm đầu bếp chính, kể cả các tiệm ăn bình dân, không hề có món thịt kho tàu, ghi trong thực đơn. Mà thiệt, gẫm cho cùng, bên Tàu, xứ lạnh, làm gì có cây dừa, để có nước dừa tươi đổ vô nồi thịt kho.
Mãi cho đến khi đọc 1 bài của ô Bình Nguyên Lộc, viết cho các em thiếu nhi, mới hiểu rằng chữ "tàu", ở đây, theo nghĩa của người "miền dưới" là "lạt", như sông Cái Tàu Thượng, sông Cái Tàu Hạ là 2 con sông nước lợ.
Té ra, kho tàu là kho lạt lạt chứ không phải là kho theo kiểu người Tàu.
Cũng nói quen miệng mà không cần tìm hiểu là "cây lẻ bạn".
Lẻ bạn là loại cây giống như cây thơm, cây dứa, nhưng thấp hơn, nhỏ hơn, cao độ hai tấc, hai tấc rưỡi là cùng. Tàu lá lẻ bạn màu tím than, bông mục ra ở dưới gốc, giống như 2 cái vỏ sò khép lại. Khi bông nở, hai mảnh hé ra, nhụy là những hột trắng tươi.
Ở miền Nam, người ta thường trồng cây lẻ bạn ở những gò mả, ngụ ý 1 sự thương tiếc ngậm ngùi, người sống cũng lẻ bạn, người chết cũng lẻ bạn.
Đó là tất cả những gì mà tôi biết, tôi hiểu về cây lẻ bạn. Tôi chưa 1 lần trồng cây lẻ bạn bên mộ của ai, nhưng tôi thích cái ý nghĩa nàỵ.
Nào dè tôi biết, tôi hiểu trật lất.
Đọc sách cụ Vương Hồng Sển mới biết cây này tên của nó không phải là cây "lẻ bạn", mà là "lão Bạng", lấy từ câu "lão Bạng sanh châu" (con trai, con sò già, sanh ra ngọc). Sở dĩ cây gọi làm vậy là vì bông của nó giống như 2 vỏ sò úp lại và khi nở bày nhụy trắng tinh bên trong như những hạt minh châụ
Cụ Vương còn cho biết ở vùng núi Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, cây Lão Bạng mọc làng khang.
Biết thêm 1 điều gì, đỡ ngu thêm 1 chút, nhưng trường hợp của cây Lão Bạng này, tôi nghĩ thà là không biết còn hơn. Bấy lâu, tôi vẫn thấy bụi cây màu tím đó, mọc bên cạnh 1 ngôi mộ, là 1 hình ảnh nên thơ, nói lên 1 ý nghĩa thương tiếc ngậm ngùi. "Lẻ bạn" bỗng trở thành "Lão Bạng", hình ảnh nên thơ, chan chứa tình cảm đó, bỗng nhiên biến mất ...
Tôi, bây giờ, ai "đem tiêu muối vải lên đầu" rồi, mà muối đã nhiều hơn tiêu, ngồi mà tiếc lại thời gian đã qua, bỏ lỡ nhiều dịp may để mà học. Nhưng, tiếc là tiếc vậy thôi chứ làm sao níu kéo lại được thời gian.
Thế giới càng ngày càng văn minh tấn tới. Khoa học kỹ thuật tiến triển mau lẹ tới mức theo không kịp, tôi vẫn nuôi tham vọng muốn học nhiều, nhưng ngày giờ có chừng, sức người có hạn, học làm sao cho hết. Bà Ba Thời đã về với cát bụi, các ông BNL, VHS cũng không còn, nhưng các bạn trẻ tấn lên, cái kiến thức về KHKT của họ, học biết bao giờ rồi?
Đức Khổng Tử dạy rằng: "Vi nhơn nan"(làm người thì khó). Nội cái chuyện học làm sao để sống cho ra con người, xứng đáng là 1 con người, cũng đã hụt hơi.
Tôi lớn lên trong phong trào Hướng Đạo. Luật phong trào dạy: "trong sạch từ tư tưởng, lời nói tới việc làm". Cho tới ngày giờ này, điều luật vẫn làm tôi lao đao, chỉ biết cố giữ câu châm ngôn "gắng sức" của sói con, để cho ngựa đừng trở chứng đạp ràọ.
Đức Phật là người đi mà không đến. Cái học của tôi cũng vậy, học thầy, học bạn, học sách, học báo, học đường, học chợ, học chỉ để mà học. "Dủ học dủ ngu".
Ngày xưa, thầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng Tử khi nào thì chấm dứt sự học. Vị Vạn thế Sư Biểu đã trả lời rằng :
- Khi huyệt đã đào nhẵn nhụi rồi, đất đã đắp chắc chắn rồi, người đi đưa đã quay chưn lui gót rồi, lúc đó mới hết học.
Và, cái học khó nhứt vẫn là học làm sao để sống cho ra con người ...
(Tự Truyện Nguyễn Đức Lập)
Nhà văn Nguyễn Đức Lập (1945-2016)
|
|